🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Đất bên ngoài Tổ quốc
Ebooks
Nhóm Zalo
Nguồn text: https://leminhquoc.vn/tho/tap-tho/643-dat-ben-ngoai-to quoc.html
Lời thưa
Tập thơ này được ra đời khi tôi ra Hà Nội gặp lại đồng đội cũ của một thời chiến tranh. Góp nhặt lại những gì đã viết còn rơi rớt trong sổ tay. Tập thơ in xong và nộp lưu chiểu vào tháng 12.1997.
Toàn bộ tiền thưởng của tôi trong cuộc thi thơ về hình tượng con cọp do báo Văn nghệ TP.HCM tổ chức, chuyển ra Hà Nội để Đoàn Tuấn lo in ấn. Bìa là tượng điêu khắc của Điềm Phùng Thị. Sau này tập thơ được NXB Trẻ tái bản.
Đọc lại và còn thương lấy thời tuổi trẻ của mình. Một vết sẹo đã hằn qua năm tháng…
Nay tôi post lại bài trả lời phóng vấn của báo Phụ Nữ TP.HCM ngày 22.12.1999 như lời tự sự về năm tháng đó:
Lê Minh Quốc: Thời gian ở chiến trường là những ngày đẹp nhất
Năm mười tám tuổi, tôi đi bộ đội. Khoảng thời gian 6 năm ở chiến trường với tôi là những tháng ngày đẹp nhất không còn trở lại nữa của tuổi thanh xuân. Đến bây giờ tôi vẫn còn nhớ rõ về kỷ niệm rất gian khổ. Lúc đó, chúng tôi đã làm thơ để chuyền tay nhau đọc. Tôi còn nhớ những bài thơ của Đoàn Minh Tuấn (giải A cuộc thi thơ của tạp chí Văn Nghệ Quân đội năm 1986) cũng bắt đầu từ năm tháng đó. Có điều là một người từng cầm súng chiến đấu ở đất nước Ăng-ko - nhưng tôi nhận thấy: Chúng ta vẫn chưa có những tác phẩm thơ xứng đáng với tầm vóc của người chiến sĩ quân tình nguyện. Chắc chắn không phải vì tài năng của người cầm bút - mà vì một điều gì đó tôi không lý giải được. Những năm tháng ở Campuchia, Lào, ở biên giới Thái Lan - với tôi vẫn còn đậm tình đồng đội và sự hy sinh rất lớn… Chẳng bao giờ tôi quên được những buổi chiều vàng vọt ở các nghĩa trang Đức Cơ (đường 19B), An Lung Veng, Kulen… nơi an nghỉ của những đồng đội. Chẳng quên được những cánh rừng trong mùa khô, mùa mưa mà
mìn KP2, K63, 65.2A, 45.2A,… rải đầy như lá. Đối đầu với biết bao sự gian khổ rất khắc nghiệt, chúng tôi sống và làm thơ. Những bài thơ của tôi sau này được in trên báo chí, trong những tập thơ - đã được ra đời như vậy. Bây giờ lùi vào quá khứ để nhìn lại cuộc chiến tranh, tôi thấy mình đã ít nhiều thi vị hóa, thậm chí đã tránh né khi viết về sự hy sinh mất mát. Liệu có nên như vậy không? Bây giờ đã rời đội ngũ, vật lộn với cơm áo đời thường làm tôi thấm thía những tháng năm tuổi trẻ cầm súng lúc đó, không ai đòi hỏi chúng tôi về chuyện… hộ khẩu bao giờ! Bây giờ trở về, trường đại học, rồi đi viết báo kiếm sống, với tôi hộ khẩu lại vẫn là chuyện canh cánh bên lòng. Có phải đây là một đòi hỏi quá lớn đối với một người lính trở về? Những đời thường như vậy thơ ca của tôi đành bất lực. Dù sao, xin ghi nhớ sự cưu mang của đơn vị C7, D8, F29 (307) đã nuôi dưỡng thơ tôi và tôi trưởng thành.
VI.2012
LÊ MINH QUỐC
Thơ ĐOÀN TUẤN
Tuấn ơi! Tuổi trẻ của chúng mình… (Lê Minh Quốc giới thiệu)
I
Những tháng ngày này, 7.1997, tình hình chiến sự ở Campuchia đã kích động tôi dữ dội. Kỷ niệm cũ tưởng đã quên, nay bỗng sực nhớ, nó như đốm lửa cháy bập bùng trong ý thức lãng quên. Những bài thơ của một thời trên quê hương Chùa Tháp trong sổ tay nhem nhuốc, được viết dưới ánh sáng của dầu khộp khi nằm trong hầm thùng Anlungveng, được viết sau những giây phút hiếm hoi nghỉ giải lao trên chặng đường truy kích, được viết bâng quơ đâu đó… nay bỗng vọng về như một lời thầm nhắc về tuổi trẻ của mình. Tuổi trẻ đã đi qua. Những sợi tóc đã bạc. Những kinh nghiệm của cuộc đời đã cày từng nếp nhăn trên gương mặt. Tôi sực nhớ đến những liệt sĩ có nụ cười tinh khôi như nắng mới. Môi hồng hào như chưa một lần sốt rét. Thịt da thơm tho như chưa bao giờ hứng trọn quả B.40 giữa lồng ngực. Tôi gọi đó là những liệt sĩ trinh tiết. Những linh hồn ấy dường như còn bay vất vưởng, lượn lờ đâu đó trên mỗi bước chân tôi đi trong dòng đời xuôi ngược. Những linh hồn ấy còn nằm trong sổ tay: “Huỳnh Lộc 15-6-1980, Đỗ Nhờ 16-7- 1980, Nguyễn Tiếp 21-7-1980, Nguyễn Luôn 13-8-1980, Lý Văn Nga 18-8-1980, Mai Công Ngói 15-6-1980, Lê Văn Lâm 21- 6-1980, Phạm Hữu Phước 17-6-1980, Trần Thanh Biện 25-11- 1980, Lưu Thanh Sơn 25-11-1980, Hoàng An 28-12-1980, Huỳnh Hoan 13-12-1980, Trần Lợi 13-12-1980…” Ấn tượng dữ dội nhất của tôi trong nỗi nhớ về Campuchia vẫn là nghĩa trang Anlungveng - nằm trên khu Đông Bắc - nơi ấy, cỏ lau ngút ngàn, những ngày mưa lội bì bõm đi chôn đồng đội của mình. Giọt nước mắt không còn để ứa ra. Những nụ cười tắt ngúm. Những căm thù bủa vây. Và từ bên kia ngọn Đănrek
những loạt pháo gầm thét ngày đêm. Trời rực lửa. Chúng tôi đã sống dưới lòng chiến hào. Đôi lúc ngước mắt nhìn sao trời xa xăm trên đỉnh trời lạnh lẽo.
II
Lại nhớ đến những lần luồn rừng để tìm rau rừng. Hãy đọc lại một đoạn trong tiểu thuyết Thời của mỗi người (Lê Minh Quốc -NXB Trẻ - 1991) mà tôi đã viết: “Bước luồn qua những bụi gai nhọn hoắt, bóng tối nhập nhoạng. Như một linh tính đã báo trước, tao chợt cúi rập người xuống để né cành cây ngang tầm mắt thì đó cũng là lúc một tiếng nổ dữ dội gầm lên. Tiếng gầm khủng khiếp. Cái chết đã đến. Trung đội trưởng ngã vật người ra phía sau với tiếng thét rợn người. Một quả mìn KP.2 đã cắt ngang nửa người anh ấy. Trái mìn không chôn dưới đất mà nó được nối vào dây kim hỏa - sợi dây ấy như màng nhện giăng là đà dưới mặt đất. Trung đội trưởng đã vướng dây mìn. Kim hỏa bị kéo tụt ra và phóng chính xác vào hạt nổ. Cả đất trời tối sầm lại.” Vậy đó, làm sao quên? Lật lại quyển sổ tay, thấy còn ghi: “Sáng: 7 ký bột, trưa: 8 ký gạo; chiều: 5 ký bột cộng 4 ký gạo”. Đố Tuấn nhớ được là lúc ấy, năm 1979, quân số của đại đội mình là bao nhiêu người? Xin trả lời; chỉ còn vỏn vẹn 35 người. Khẩu phần buổi tối nhiều hơn, vì còn phải vắt thêm những cục cơm cho những thằng đi phục kích đến mười giờ sáng mai mới về lại hậu cứ. Thời gian ấy chúng ta trú quân trên ngọn đồi. Suốt ngày chỉ ăn măng tươi. Ăn đến phát nôn. Còn nhớ mình với Nguyễn Đình Huần nửa khuya thèm thuốc, lội vào rẫy. Hai thằng đã phát hiện được một rẫy thuốc lá còn xanh mơn mởn. Hai thằng vặt sạch lá. Đem về. Dùng dao cắt nhỏ. Bỏ vào soong rang khô để hút dần. Lại nhớ, có lần cả đơn vị nhốn nháo cả lên. Thằng nào cũng vật vờ vật vưởng. Hút lầm lá… cần sa. Bố khỉ! Lại nhớ Hồ Bi, thiện xạ vác B.41, nói tiếng Miên thật tuyệt:
Me ơi me miên ây đô
Ao ni xà át kho này thơ mây
Me sơi me xốc xờ bay
Oi con xum tít ớt cay, bụi hành
Tuấn còn nhớ là bọn mình đã “dân vận” như thế nào đó không? Còn nữa, đây là ngôn ngữ của Hà móm, của Dân lác, của Trần Tuấn Bảo và của tất cả chúng ta:
Me ơi sờ lanh côn tê?
Oi con xì cọ mang về me ơi!
Me ơi vào nói với âu
Con mượn cái liềm cắt cỏ cho bò hốp bai
Me ơi con tốp lò o
Thơ man con hốp sơ nganh chờ rờn
Những kỷ niệm còn tươi rói trong trí nhờ. Nhớ những ngày đem quân phục vào phum đổi chó? Chúng mình leo lên nhà sàn, ngồi uống rượu. Ném những cục cơm xuống dưới đất để nhử chó, những con chó háu ăn vừa lao tới thì lập tức một loạt đạn vang lên… Bởi khi ấy nòng súng A.K đã chĩa xuống. Bắn chính xác. Cột bốn chân của xác con chó lại. Xuyên qua một thanh tre. Chúng ta đã hào hứng khiêng chó về hậu cứ. Đó là những ngày hội tươi đẹp của một thời tuổi trẻ. Lại nhớ một kỷ niệm cùng Dũng B.40. Đêm. Trăng sáng. Trên đường từ phum Choangs’re, có một chiếc xe bò chở theo một con bò đã chết lọc cọc đi vào rừng. Quốc và Dũng bí mật bám theo. Trong rừng, những nông dân Campuchia đã đào một cái hố lớn để chôn con vật xấu số. Sau khi họ bỏ đi, hai đứa vội vã đào lên, rồi dùng liềm cắt những miếng thịt tươi roi rói đem về, trong bụng khấp khởi mừng vì đêm nay sẽ có một bửa liên hoan ra trò. Khi về hậu cứ không dám đi vào đường chính, vì sợ đại đội phát hiện, hai đứa phải cắt rừng, không ngờ lại lọt vào ngay hướng của
đơn vị! Tưởng bọn mình là địch mò vào căn cứ, thế là một loạt đạn đinh tai nhức óc, cả hai thằng kêu toáng lên. May mà không “tiêu” đời một cách lãng xẹt như thế.
Hình như Huần rời khỏi chúng ta vào ngày 27.8.1980? Quốc lật trang nhật ký thì trong ngày hôm đó có ghi bài thơ tặng Nguyễn Đình Huần:
Im nghe từng giọt mưa đêm
Như từng giọt máu rơi trên hình hài
Tình yêu bầm tím hai vai
Phố xưa hoang vắng trong ngày Prech-vihear
Im nghe trăm mảnh trăng khuya
Tan trong dĩ vãng đầm đìa thương yêu
Sao nghe từng nỗi quạnh hiu
Sầu ngông vật vã tim yêu ngỡ ngàng
Nhớ về ngày cũ miên man
Từ Liêm (Hà Nội) bàng hoàng mộng du…
Lại nhớ về Lê Văn Lâm (Lâm lùn - Hải Phòng) ngày mà anh Lâm trung đội trưởng vĩnh viễn từ bỏ trần gian này, trong nhật ký còn ghi ngày 1.6.1980:
Thèm miếng thịt hộp
Sáu mươi người ăn chung một lon
Ngày đi phục tối gác sáng đêm
Cối 60 địch bắn dập dồn
III
Trên cung đường 19B. Trung đoàn 29 vào thay cho E.95. Tôi đang nằm đung đưa trên võng trong căn hầm thùng. Bỗng có tiếng nói: “-Báo cáo hạ sĩ…” Tôi ngước mắt lên nhìn. Một chân dung trắng trẻo, môi đỏ, giọng nói Hà Nội. Quân phục còn mới.
Thoạt nhìn hắn, tôi có cảm tình ngay. Hắn là một trong những tân binh được bổ sung khi chuẩn bị mở màn chiến dịch. Lúc ấy, tháng 12.1978. Trời thường mưa. Mỗi sáng được ăn những cục mì đen đúa và cứng như đá. Hắn cùng tôi, sau đó, trở nên như hình với bóng. Hai thằng đã đi hết một chặng đường chiến binh. Hắn có một quyển sổ nhỏ. Thường giấu ở túi áo, mỗi lần tìm được một câu thơ hay, hắn ghi vào đó. Tính tình của hắn hiền lành, nói năng nhỏ nhẹ như con gái. Hắn chơi thân với Trần Đào Hiền Nhân, Hoàng An, Nguyễn Đình Huần, Hạm, Tuấn quản, Hà móm, Dân lác, Trung đen… một phần vì đồng hương Hà Nội với nhau. Tôi thân với Trần Tuấn Bảo, Nguyễn Đăng Lâm, Võ Đình Chiến, Mai đù, Huỳnh Lộc… một phần vì đồng hương Đà Nẵng. Rồi bạn bè tụ, tán. Tôi ở lại với bộ binh. Hắn làm lính thông tin. Rồi gặp nhau. Đọc thơ cho nhau nghe. Những bài thơ trong sổ tay. Rồi những giải thưởng thơ trao cho hắn. Hắn chỉ cười. Rồi hắn sang Mạc Tư Khoa học nghề đạo diễn biên kịch gì đó. Bây giờ, đọc lại những bài thơ của hắn viết thời gian ở Campuchia, tôi vẫn còn xúc động, rất xúc động. Quái lạ! Sau này, khi rời bỏ quê hương Chùa Tháp thì hắn không còn giữ được mạch cảm xúc tuyệt vời ấy nữa. Tại sao? Tôi chưa bao giờ và có lẽ không bao giờ đặt câu hỏi đó với hắn cả.
Ngày tôi rời mặt trận
Vừa đặt chân về đến Hà Nội
Dốc hết tiền
Mua một chiếc đồng hồ đeo tay…
(Ngày tôi rời mặt trận - Đoàn Tuấn)
IV
Kỷ niệm tròn 20 năm, ngày đặt chân vào quân ngũ. Một tập thơ ra đời. Hai thằng từng đứng chung một chiến hào nay lại
đứng chung trong một tập thơ. Đời sống có gì vui? Những bài thơ này hầu hết được viết trước năm 1982, nay tìm lại được trong nhật ký, trong trí nhớ hoặc trong sổ tay của bạn bè cũ. Bên cạnh đó cũng có những bài thơ được viết sau này, nhưng thật ra nó cũng nằm trong mạch cảm xúc binh nhất, binh nhì của thời trai trẻ hoa niên còn quá nhiều mơ mộng:
Mặt chúng tôi gầy như gương mặt núi
hào phóng như trời xanh
tính thẳng như nòng súng
ăn cơm cục
uống nước đục
hồn như sông in mây trắng vô tư
(Ankung năm 81 - Đoàn Tuấn)
Một tập thơ ra đời, không dám mong sẽ được nhiều công chúng đón nhận khi nó bày bán trên kệ sách. Chỉ mong đồng đội cũ đọc và nhớ đến những ngày tươi đẹp đã qua mau. Không dễ ai lại đem đổi bán những kỷ niệm và niềm tin của chính mình. Tuấn ạ! Thời ấy chúng ta còn trẻ quá. Mắt còn biếc. Môi còn tươi. Dòng máu trong tim còn sôi nóng. Chính vì thế, đôi lúc, tôi thương tuổi trẻ của chúng tôi quá! Bao giờ quay lui lại dĩ vãng, tôi cũng thấy một gương mặt tân binh non choẹt:
Vẫn nói cười, vẫn thổi mắt cho nhau,
ôm súng xông lên và những loạt Đ.K dập xuống
Bạn bè tôi hóa trăm mảnh sao trời
(Tìm bạn - Đoàn Tuấn)
Một tập thơ ra đời để tặng cho đồng đội Hòm thư 5A 2106 Pleiku (Đoàn 330 chuyển), tặng những liệt sĩ - như trong nhật ký ngày 29-12-1980, tôi viết cho Huỳnh Lộc và Lý Văn Nga: Về đâu khi tóc còn xanh?
Ai chờ ta giữa nội thành mùa xuân
Ngủ quên trong một mùa trăng
Sao mắt không nhắm? Còn bâng khuâng gì?
Cười lên đi! Khóc lên đi!
và:
Còn lại bao nấm mồ, hài cốt
Đồng đội tôi giá lạnh giữa rừng hoang
(Kính gửi Sư đoàn 307 - Đoàn Tuấn)
Câu hỏi ấy mãi còn vang vọng trong nỗi khắc khoải. Đời sống có gì vui? Tôi sực nhớ đến phum Choams're của những năm 1979. Đêm trăng sáng. Tôi cùng một cô bạn người Khmer gốc Chàm đi dưới lòng suối cạn. Mười tám tuổi, môi tôi run rẩy chạm vào môi nàng. Khẩu súng A.K chếch lên vai. Gục đầu trên vai tôi, tóc nàng khét nắng, nàng nhỏ nhẹ: “-Contốp ơi! Boong ơi! Oi on sum tích xàbu, giúp ní cà xọ”. Nàng xin tôi một ít xà phòng để tối nay gội đầu. Sau khi chia tay, khuya ấy, tôi đã lẻn vào hầm của chính trị viên Trần Thanh Chương (quê ở Nam Đàn, Nghệ An) ăn cắp một ít xà phòng để sáng mai tặng nàng. Hỡi ôi! Rạng sáng hôm sau đã có lệnh bí mật hành quân. Từ đó, chẳng bao giờ, tôi còn gặp nàng nữa. Hỡi Maní Chàm, bây giờ em ở đâu? Đời sống có quá nhiều xáo trộn. Mới đó, ngoảnh lại đã 20 năm. Có người đã kết thúc cuộc đời. Có người đang loạng choạng đi về phía hoàng hôn. Tuấn ạ! Tập thơ Đất bên ngoài Tổ quốc hôm nay đến tay bạn đọc. Ai còn nhớ? Ai sẽ quên? Duy nhất một điều mà chúng ta thầm mong: Những linh hồn vất vưởng đâu đó sẽ đọc được trong mịt mù âm dương cát bụi. Trong nhật ký ngày 30.12.1980, tôi viết:
Ta viết từ nghĩa trang
Bằng máu người đã chết
Ta chưa hề biết khóc
Sao thấy lạnh môi cười
Ngồi buồn ôm rách nát
Bia mộ tuổi hai mươi
Ngày từng ngày xanh rêu
Tiếng chim rơi buồn bã
Giữa hoang vu đất lạ
Máu thịt tặng cho đời
Bạn ngàn năm yên ngủ
Linh hồn vật vờ bay
Bạn không còn chân tay
Sao về nơi yêu dấu?
Ta tặng người giọt máu
Ướt đẫm sỏi Angkor
Một mùa khô nóng bỏng
Đầu môi cười ngây thơ?
Ngày từng ngày súng nổ
Quên lãng mộ bia hoang
Bạn nằm cùng cây cỏ
Chiến trường xa điêu tàn
Ta đốt lên điếu thuốc
Nằm ngủ ngoài nghĩa trang
Lửa bập bùng cháy sáng
Thấy bạn về mênh mang…
Điều ấy đã được bạn bè của sư đoàn 307 cùng tâm niệm như thế chăng? Bây giờ, tháng 7.1997. Lật lại tấm bản đồ và nhìn lại những địa danh quen thuộc nơi tuổi trẻ của chúng ta đã đi qua, bỗng dưng lòng như muốn khóc. Tuấn ơi! đời sống có gì vui?
Sài Gòn 14.7.1997
LÊ MINH QUỐC
Tuổi 18
(Tặng Lê Minh Quốc)
Nếu con gái có thuở vầng trăng khuyết
Tuổi mười lăm kín đáo ở góc trời
Thì con trai cũng một thời tuyệt đẹp
Vầng mặt trời mười tám tuổi đỏ tươi
Tuổi 18
đẹp như buổi sáng
cơn bão
nằm trong cánh tay
ước mơ
như gương mặt người yêu
ngắm hoài không chán
bỗng trổ trên tay
ngày nhập ngũ của mình
trổ trên bả vai
cánh buồm giữa biển
quân hàm một sao
hồn nhiên sáng nụ cười
Tuổi 18
gương mặt
ấm áp
như mặt trời
đùi ếch
ngực dơi
tay cử tạ
để ngỏ
trái tim
dạt dào
như bọt tan trong cốc rượu Tuổi 18
có thể
chưa có người yêu
nhưng giàu vì bạn
làm quen
chỉ cần
điếu thuốc
gặp nhau
bắt tay
rất chặt
chia tay
cho nhau ngay
địa chỉ
Tuổi 18
nốt nhạc
nằm ngoài khuông nhạc bài hát
không nằm trong giai điệu tỉ phú
thời gian
khao khát
không gian
đôi cánh
Tuổi 18
rời mái trường
trở thành
người lính
mang lên rừng
chuông xe điện vang ngân
mang lên rừng
tiếng chim cu gáy
để lại cho người tình
bé nhỏ
môi hôn
Tuổi 18
cười
nụ cười hết cỡ
đánh “tiến lên”
hò reo
vang dậy một góc rừng
những đêm
đế dép đốt sáng trưng
gõ thùng
hát đồng ca:
“Ở đây chúng tôi ăn lương khô và xúc xích!” Tuổi 18
bị thương
không khóc
nhưng lại rơi nước mắt
khi bạn bè bị thương
Tuổi 18
để đầu trần
trong cơn khát ngửa cổ
dốc bi đông
tu một nụ hôn dài Tuổi 18
nói
một lời yêu
cũng vội
yêu
một tình yêu
không nhiều lần hò hẹn
Tuổi 18
như rượu
của đời
xin mời
nâng lên
hạ xuống
Tuổi 18
lên núi
núi vọng
xuống sông
sông rền
Tuổi 18
trắng trong
nhưbạntôi
An“bột”
chết
trong tiếng nổ
ngàyhôm sau
mãi mãi
lặng im
CònnhớAnlongviêng,nhớ
Hoàng Ankhông Quốc?
Ngàyấychúng talặng im
Bây giờ mới nói được.
Đoàn Tuấn
Mẹ và hòm thư con
(Tưởng nhớ Nhật Minh)
Với một chiếc ba lô
Chúng con có ngôi nhà
Hòm thư là biển số
Sáng hai mùa nắng mưa
Chùm chữ số đơn sơ
Như mắt con nhìn mẹ
Con ở xa là thế
Đôi mắt nhìn bình yên
Giọng con trầm như đêm
Dù giữa nơi mặt trận
Tên hòm thư mẹ khắc
Tên cột mốc biên cương
Gập ghềnh bao núi non
Bóng con đi nhỏ bé
Con nhìn nét chữ mẹ
Bao giờ được thảnh thơi
Con biết dáng mẹ ngồi
Mong lá thư biên giới
Con biết mắt mẹ mỏi
Ngóng từng cánh chim qua
Dòng chữ số rất xa
Bé như là con kiến
Bò từng mi-li-mét
Trên đường về quê hương
Mẹnhìntheodáng con
Innhững dòng chữnhỏ
Cònnhững dòng chữđó
Cònxa mẹ, mẹơi…
Lúcnàyconđang ngồi
Nghĩ láthư gửi mẹ
Giấybútconkhông có
Hìnhdung trong nỗi nhớ
Không có gương mặtnào
Đầychịuđựng khổđau
Nhưlà gương mặt mẹ
Không cóđịachỉ nào
Làm mẹluônlolắng
Địachỉ hòm thưcon
Đoàn Tuấn
Tôllê Sáp đêm 5 tháng Một năm 1979
Dòng sông đen loang loang nhòa trong đêm
Chúng tôi vội hít căng lồng ngực
Bên kia sông mịt mù phòng tuyến giặc
Mười phút vượt sông hai đại đội tăng cường
Lính bộ binh dùng chèo bơi xuồng máy
Con sóng lao xao, ý nghĩ chập chờn
Đêm không lời những người câm không nói
Ra giữa dòng hơi thở gấp hơn
Bỗng tất cả cùng lấy khăn nhúng nước
Tất cả cùng rửa mặt giữa dòng sông
Dù thời gian chỉ còn bốn phút
Dăm mét nữa thôi trận đánh bắt đầu
Tôi cảm thấy gương mặt mình nhẹ nhõm
Gió thấm vào từng hạt nước li ti
Bước lên bờ lòng tôi thanh thản
Trận đánh này có thể sẽ ra đi…
Đoàn Tuấn
Đất bên ngoài tổ quốc Hồn tôi mang là tâm hồn Tổ quốc
Sự dịu dàng người phụ nữ tôi yêu
Gương mặt bạn, gương mặt tôi - Đất Nước Người đàn ông ra trận mới trở về
Tôi luôn nhớ đồng đội tôi hóa Đất
Đất bên ngoài Tổ quốc… phía xa kia… Lòng tôi mãi thuộc địa hình nơi đó
Ngầm Sa-em, đền Prếch Vi-hia
Sườn Đăng-rếch, những con đường xe đổ… Đồng đội tôi tình nguyện nằm xuống đó Để Đất mang gương mặt Con Người
Đất mang tên Nhật Minh
Mang tên Hoàng An, mang tên Dương Công Hạm Campuchia ơi, đồng đội tôi ngã xuống Chẳng mộ bia ghi lại tuổi tên
Để tên Người cũng ấm áp thiêng liêng Như Trường Sơn, Cà Mau, Đồng Tháp
Đi giúp bạn cũng vì đất nước
Một tấm bằng Tổ quốc ghi công
Dù mùa mưa hay mùa khô
Chỗ đất ấy đào lên đều tóe lửa
Mỗi lần đặt đồng đội tôi xuống đó
Chiếc quan tài đặt trĩu trái tim tôi
Tôi nhói lòng chịu mũi kim đau buốt
Tiếng viên đất đầu tiên rơi xuống nắp quan tài.
Ngày tiểu đoàn rút đi, nghĩa trang nằm lại Số phận nấm mồ kia? - Bọn địch sẽ giật mìn Chúng tôi đi chặt cành cây phủ xuống Người sống và người chết không yên Ở trong đất lặng im bao mơ ước
Vọng mãi về ngôi nhà thuở ra đi
Và đêm đêm mỗi ngôi nhà bên Nước Kỷ niệm thương nhớ Đất thầm thì. Lâu ngày sống trong rừng sâu đất bạn Đồng đội nhớ nhau, ngỡ như đất quê nhà Chiều chôn bạn trong nghĩa trang quen thuộc Đêm về hầm còn lại mỗi mình tôi
Tôi mới thấy xót xa thương bạn
Nằm bên ngoài Tổ quốc dưới mưa rơi Tôi không thể sống thiếu người đã mất Tôi sống bằng cái chết của bạn tôi
Tổ quốc nặng sâu hơn bởi tình yêu mảnh đất Đất bên ngoài Tổ quốc, Việt Nam ơi! Có phải một mảnh đời tôi ở đó
Một mảnh đời ý nghĩa nhất của tôi? Tổ quốc - nơi tôi sinh ra và lớn lên cùng bạn Đất của đời tôi lại chính đất bên ngoài Dẫu nghĩa trang đã chuyển về Tổ quốc Đất muôn năm vẫn ở lại nơi này
Ở lại nơi lần đầu tiên nằm xuống
Hơi thở cuối cùng lẫn xứ lạ cỏ cây
Tôi chỉ có một cuộc đời ngắn ngủi
Một mảnh đất con con như số phận của mình
Có nhiều lúc tự nhiên tôi không hiểu
Mình đang ở đây hay đã trở về
Đồng đội ơi lúc nào tôi cũng nhớ
Đất bên ngoài Tổ quốc, cả trong mơ
Làm thế nào cho nguôi nỗi thương người đã mất? Đất nơi nào nặng hơn đất nghĩa trang?
Trong trái tim hôm nay tôi đang sống
Còn luân hồi một trái đất của tôi…
Đoàn Tuấn
(Giải thưởng thơ Văn nghệ Quân đội năm 1990-1991)
Lính tráng
(Tặng Lê Quỳnh Lang)
Đã là lính còn phải là tráng nữa
Văng tục một câu cho nó nhẹ người
Bị thương rồi chẳng còn mơ mộng nữa
Nghĩ ngày về mình sống thế nào thôi!
Đoàn Tuấn
Lá mục
(Gửi Huỳnh Đức Thuận)
Đêm ấy trong rừng Miên tao nhớ
Mày nhặt ánh lân tinh ép trong vở học trò
Sáng mở ra: một manh lá mục
Mày vứt đi… Tao tiếc mãi đến giờ!
Đoàn Tuấn
Hoàng hôn Đức Lập
Xe đang chạy. Bỗng sững người dừng lại
Ngắm nghĩa trang xa tít tận chân trời
Cả thân hình chợt nóng bừng tê dại
Hóa khối trầm nghi ngút mãi khôn nguôi…
Đoàn Tuấn
Đường lính
Không cần vé vẫn lên tàu đi B
Sang K, C cũng chẳng cần hộ chiếu
Những con đường chiến tranh đơn điệu
Lính chỉ mong: một lối trở về!
Đoàn Tuấn
Sau màu xanh lá
(Tưởng nhớ Hạm thân yêu)
Cứ độ này nhớ bạn lắm bạn ơi
Trời xanh như câu thơ thu hoài cổ
Nghe đâu đây bài lá xanh lá đỏ
Biển trên trời mà lòng nặng quá thôi
Ôi có phải màu xanh của lá
Bay lên… bay lên dệt sắc trời…
Nhớ mùa hè từ giã, mái trường ơi
Màu hoa phượng cháy đỏ niềm khao khát
Chúng mình đi dưới khung trời tình bạn
Xanh thơm màu quân phục tân binh
Như gọi về những mùa khô Choăm-san
Rừng khộp cháy cong trời rừng rực
Dưới bóng râm núi lửa
Đơn vị mình truy quét dọc biên cương
Mùa sốt An-lung hai đứa một giường
Đồng đội về phum xin lá chanh lá sả
Ôi lòng mẹ lặng thầm hương thơm lá
Bạn đi rồi… gửi hương lại cho ai?
Những đêm mưa chúng mình ước nghe đài
Sóng lân tinh vỗ dập dờn cánh võng
Mưa thánh thót đọc trên trang lá trắng
Truyện cổ về cô gái thảo thơm
Đêm hành quân mưa rừng lạnh thấu xương
Ta cài ánh lân tinh trên ba lô nhỏ bé
Chúng mình là những ngôi sao chiến sĩ
Đi băng lên lội qua dải Ngân hà
Mang tuổi xuân trái tim đẹp như hoa
Cứu cánh rừng thốt nốt đang cụt ngọn
Trong bão lửa chiếc lá xanh rơi xuống
Hóa sao trời về xứ sở quê hương
Trước lúc hy sinh cháy ngọn lửa bình thường
Sau ngọn lửa là phù sa của đất
Cho mùa xuân Campuchia dâng mật
Như vẫn còn xanh mãi một ước mơ
Mùa khô này mình xin viếng bài thơ
Làm bóng mát bên nấm mồ của bạn
Tổ quốc mình đang đón xuân Nguyên đán
Đất bạn đây thơm dịu mát hoa xoài
Bạn thân yêu nghĩ đến một ngày mai
Cầm tay người yêu đi trong vườn bách thảo
Gió Hồ Tây hương thơm đầy vạt áo
Tay chúng mình đan nhau như cặp lá
Bạn như là chiếc búp mãi xanh non…
1982
Đoàn Tuấn
Vận ơi!
(Tưởng nhớ Hoàng An thân yêu)
Chúng mình chôn Vận xuống
Tử thi còn thiếu một chân
Máu thấm ống quần héo như tàu chuối rụng
Máu tuổi hăm hai gửi cho cỏ cho trời
Đại liên ghìm yểm hộ
Đạn bay như đàn rết bám trên đầu
Lựu đạn địch quăng
Bất ngờ đêm trái rụng
Phải cõng thêm hai đứa quay về
Ơi gió rừng biết chân Vận đâu không…
Hy sinh thiếu một chân
Vẫn trọn đời chiến sĩ
Ôi máu thịt muôn đời là máu thịt
Chúng mình tìm cho chúng mình
Những người đang sống
Những người đang cầm súng
Nếu hy sinh được chôn cất đủ đầy
Một trăm đứa thương
Thương Vận đến cháy lòng
Nhưng không đứa nào hình dung được nỗi đau của mẹ Nếu mẹ biết trong gia tài nhỏ bé
Còn ít tiền thương mẹ thiếu áo bông
Ước gì Vận vẫn nằm đội điều trị tiền phương
Như dạo nọ
Chúng mình chạy về thăm
Được cởi trần tung tăng trên trảng cỏ
Tuổi thơ nào mây trắng trời xanh
Hay như bạn bè mang khuyết tật chiến tranh
Chống nạng bước vào trường đại học
Dấu chân in những vạt rừng mưa nắng
Dấu nạng in dấu chấm lửng trên đường
An-lung-viêng mùa khô biên cương
Rừng khộp cháy bùng lên ngọn đuốc
Như ngọn tháp ngang trời ngùn ngụt
Vận chết rồi vẫn không được đến thăm
(Mà dấu chân năm tháng hành quân
Gấp mấy lần đường đến ngôi đền cổ)
Hai phòng tuyến căng ra bàn chân Vận nằm giữa Và khói mìn như đang cuộn bốc lên
Lòng chúng mình cháy cồn cào ngọn lửa
Đứng bồn chồn mong đêm xuống Vận ơi!
Đoàn Tuấn
An-lung năm 1981
Những dãy núi con đường và vị trí các C Như đồ vật trong nhà, tôi nhớ
Bao đồng đội thành cây rừng ở đó
Mỗi gương mặt bạn bè một địa chỉ không quên Dũng đi phục mùa mưa xé túi quần hun muỗi Cởi áo ra mình đắp chóng sáng hơn Mạc Văn Tướng trèo cây bắn B41
Mười hai giờ đêm ăn cháo khỉ xì xòm Lính 71 đào hầm, lính 80 nạp đạn
Có điều gì tin cậy chở che nhau
Bên cửa hầm dáng bạn ngồi đan rổ
Lá lồ ô vàng thơm sắc rơm phơi
Mùa khô ấy áo bạc theo suối cạn
Ai nhắc mình vò áo nhẹ tay thôi
Mặt chúng tôi gầy như gương mặt núi Hào phóng như trời xanh
Tính thẳng như nòng súng
Ăn cơm cục
Uống nước đục
Hồn như sông in mây trắng vô tư
Chúng tôi ngủ
Như chim nằm trên lá
Chúng tôi đi
Sông suối ngẩn ngơ nhìn
Tên chúng tôi chỉ cỏ cây nhớ nhất
Mỗi tuổi quân sống gấp mấy tuổi đời
Ôi mảnh đất An-lung không một người dân ở Đôi dép này nguyện in tiếp hoa văn… Những trận đánh chim không còn chỗ ở Chúng tôi mấy ai bị đạn thẳng bao giờ Nhưng vết thương giữa địa hình nhức nhối Đồng đội tôi ngã xuống chỉ vấp mìn
Địch buộc vào thân cây dây mảnh tơ ngang ngực Lưng ống chân lá cỏ xùm xòa
Trái mìn vấp nẩy ngang người mới nổ Hoa sâm cỏ bên đường gục xuống hạt máu khô Nai bị thương càng giãy mìn càng nổ Bạn tôi bị nhiễm trùng nhựa hóa học, cao su… Nắng bóc da như thân cây bóc vỏ
Chân dầm mưa sáu tháng tổ ong tàng Chúng tôi giữ con đường thở cuồn lên bụi đỏ Ai nghĩ chiếc cần câu để phát hiện dây mìn Đoàn xe phóng gió vít cong cành lá
Hai ngón tay đưa lên miệng vội vàng Thương bạn bè mà không dám đỗ
Giữa mịt mùng ném xuống nắm thuốc rê Hoàng hôn kéo con đường dài hun hút Nằm mơ màng khói thuốc thảnh thơi bay Gió mơn man những dấu chân tin cậy Một dòng sông đâu đó hát trong lòng Ơi con suối Anh-cheng
Giống ngõ nhà mình quá
Những đêm mưa Đồi Đá
Mơ một chỗ nằm thôi
Có buổi hoàng hôn úp mặt vào trảng cỏ Không dám nhìn đường uốn ngọn khói phum Đêm gài màn cứ ngoảnh qua ngoảnh lại Ngỡ mẹ ngồi đập muỗi đâu đây
Chiều qua phum hỏi đùa xin đứa trẻ Đèo ba lô lên núi sống với mình
Thằng bạn cùng trường
Nhận được tin nó vừa cưới vợ
Bao cuộc đời bình thường trên điểm tựa Chưa mảnh tình vắt vai
Chị xóm giềng khát khao làm mẹ
Em đứng đó một mình mùa xuân đến Ai dám bảo em xinh hơn trúc bên đình Càng yêu em
Con đường càng ngắn
Ba lô bớt nặng
Đêm dài như sông
Sự đợi chờ ân nghĩa
Sự đợi chờ máu xương
Anh nguyện sống vẹn nguyên lòng chung thủy Dẫu bắt đầu hạnh phúc tuổi ba mươi Em gái văn công lên điểm tựa
Như con chim khách
Bay tìm lòng người
Trái thị vàng rơi
Bàn tay mong đợi
Nếu thương mến hóa thành bông hoa đẹp
Cả sư đoàn dành em hái đầu tiên
Đỉnh 600 tháo dép cùng ngồi
Quên băng đạn cắm vào sườn đau nhói
Chúng tôi nghe em hát đêm nay
Dải Ngân hà tràn sao lăn trên má
Ngôi nhà không cửa giả
Trưa mẹ về thoáng qua
Em đạp xe đến trường
Nét mặt người đứng tuổi
Con đường bến sông cơn mưa buổi dạ hội
Nhàn nhạt lung linh nắng thu
Mỗi đứa chúng tôi nhận một trăm phong thư
Đất nước mượt mà giọng hát người con gái
Chiếc nón trắng như cánh buồm gửi lại
Thả neo hoài trong mắt đêm thâu…
Năm 79 phum Giềng hái bông gòn nấu cháo
Các cô gái đánh răng bằng cát
Ruột bí đao vắt lấy bọt giặt quần
Giữa lúc ấy Tỉnh ủy Prếch-vihia gửi chúng tôi phong bì giấy trắng
Người khóc lúc viết thư
Người để nguyên kỷ niệm
Điếu thuốc rê nắm ớt
Em Thíp dúi vào tay
Tấm mụn vá ở vai
Ấm như bàn tay mẹ
Những con suối tan tành trên đá Về đồng bằng hiền hậu nuôi ta
Người lính bạn hy sinh
Một địa chỉ báo tin không còn nữa Cả sư đoàn đưa tin về Tổ quốc
Hàng nghìn lá thư theo gió tỏa khắp trời Suốt đêm múa phum Bê toàn phụ nữ Cả phum ngủ không màn đất nước mình ơi! Địa chỉ hòm thư con
Đôi mắt bồ câu trắng
Chùm Tua rua trong sân
Riêng điểm tựa An-lung
Không thể hình dung nổi
Mẹ buông rèm chong mắt trông con Mẹ như cánh buồm
Con thuyền đất nước
Chúng con sống bằng giờ bằng phút Càng khát khao hạnh phúc lúc trở về Làm người Khơme lúc đi lúc đứng Lúc ta nằm về thăm mẹ phút giây Máu chúng con đổ bên ngoài Tổ quốc Cho mai sau sông núi thở dịu dàng Ôi đất nước võng giăng thành biên giới Con trai nằm gấp khúc dáng đường biên Ôi những tâm hồn như đáy giếng trong veo Tổ quốc in vào vầng trăng tình nguyện
Có bóng đa như cuộc đời của mẹ
Gửi sang đây những ngọn gió mát lành…
Đoàn Tuấn
Điếu thuốc
Mỗi lần cầm điếu thuốc
Lòng tao lại ngượng thầm
Làn khói xanh lãng đãng
Gợi lại thời An-lung
Bây giờ mày ở đâu?
Có về quê Bình Định
Châu ơi, mày biết chuyện
Tha lỗi lầm cho tao!
Chiều ấy trong chiến hào
Mày hỏi tao: còn thuốc?
Còn một điếu duy nhất
Tao nói dối: hết rồi
Chừng sau đó nửa giờ
Mày bị thương đi viện
Tao cầm điếu thuốc bẹp
Trắng lạnh lòng bàn tay
Đang thanh thản hàng ngày
Tao bỗng thành im lặng
Như người vừa ốm dậy
Nghe hơi thuốc đắng lòng
Tao xé vứt ra rừng
Vẫn lộn về giấc ngủ
Chiến trường - nơi máu đổ
Nhận lỗi đâu dễ dàng…
Đôi khi bạn bè mời
Taonhưngười tậphút
Lặng im nhìnkhói thuốc
Rítvài hơi,dụi tàn
Châuơi,dù mai sau
Lòng taocònânhận
Tao một mìnhxấuhổ
Suốtbaonăm một mình
Châuơi, giờởđâu?
Màycóvềquêcũ?
Châuơi, màythathứ
Bao giờtaogặp mày?
Đoàn Tuấn
Cơn khát và tiếng gà rừng Chúng tôi đi dưới nắng mắt đổ sao
Chói trên đầu mầu trời xanh khao khát
Môi cong như cánh hoa khộp khô ráp
Nước mắt tràn và bên tai ong ong
Tảng ba lô nằm nặng ỳ trên lưng
Khẩu tiểu liên trên mình luôn đổi chỗ
Treo vào cây chiếc áo trấn thủ
Riêng quyển Kiều rách nát vẫn nâng niu Vết thú rừng đi kiếm nước lần theo
Hồ nứt nẻ suối khô cằn sỏi đá
Bên ụ mối đồng đội nằm mệt lả
Bi đông va vào nhau khô khốc tiếng mõ trâu Tiếng mõ trâu gợi chiều phum phía sau
Có giếng nước xanh tròn vòm thốt-nốt
Có cô gái gánh đôi cờ-ru nước
Múc cho chúng tôi từng bát ngọt lành
Chiều mắc võng nghỉ bên bờ suối cạn
Cát rào rào rơi trên lá khô
Ai cũng dễ nổi cáu trong cơn khát
Cái bẳn tính cồn lên ráng đỏ phía chân trời Tiếng rừng cháy càng bứt rứt trong người Khói đùn lên luồng mây dông vần vụ
Chim dáo dát bay lẫn trong tàn lửa
Không gian rung lên gió nóng quấn quanh mình Mảnh trăng treo đầu cành
Úa vàng khô chiếc lá
Trăng lên giữa trời không ai buồn ngủ Miệng khô tròn quầng trăng
Sắc trời xanh chợt thấm dịu trong lòng Ơi sắc trời đang mênh mang Chùa Tháp Bốn triệu người vừa trải qua cơn khát Cơn khát nào bằng cơn khát Tự do? Chúng tôi mơ đang bơi giữa dòng sông Tắm cho nhau bọt trắng tung ghềnh đá Đồng đội tung tăng như đàn cá
Tiếng cười như sóng vỗ âm vang
Chợt thức giấc thảng thốt bàng hoàng Giơ cánh tay choàng giấc mơ chới với Sương mỏng tang mềm mại
Như bàn tay xoa cơn khát dịu dàng Đêm dài nỗi mong chờ thời gian
Võng lửng lơ giữa trời khao khát
Đau đáu nhìn một ngôi sao dần nhạt Nghĩ đường ngày mai lên cơn sốt rưng rưng Đột ngột tiếng gà gáy xa rung
Vút lên
uốn xuống
tắt giữa chừng
Xanh một viên pháo hiệu!
Mắt chợt sáng nhìn nhau sửng sốt Bật dậy reo lên tay chỉ phía tiếng gà Lại một tiếng gà gáy nữa ngân xa
Như tiếng vọng từ ngôi nhà cổ tích
Mà cầm được trong tay có dáng hình kích thước Tiếng gà bay vào lòng xua cơn khát tan đi
Chúng tôi hăm hở cuốn võng sâu kèn
Hành quân về phía tiếng gà phơi phới
Ơi tiếng gáy từ xa xăm vời vợi
Trong lòng ai cũng sáng một âm thanh
Sao Mai cười trong mắt long lanh
Tiếng gà rừng tượng hình một con suối
Chảy rì rào xanh mát giữa bình minh…
Đoàn Tuấn
Đêm ấy chúng tôi nghe lời ru bỗng sợ
Chúng tôi hành quân đến đồi 104
Cây đã buông lá xuống mệt rồi
Dưới chân đồi có con suối lượn
Phun Tờ-nà-coong ngủ sớm dưới mưa rơi
Đêm đã khuya chúng tôi nằm trên võng
Như mọi đêm chờ giấc nhọc nhằn
Bỗng nghe từ dưới phum văng vẳng
Tiếng ru con vọng đến não nề
Ôi tiếng ru như vọng từ âm phủ
Người hay ma? Sao ai oán, rã rời
Tôi co mình, cảm thấy người ớn lạnh
Mở mắt nhìn. Đêm thăm thẳm quanh tôi…
Bỗng Hồ Bi, người Nghĩa Bình cao lớn
Chạy đến Nhân Hải Phòng, giọng hớt hải, run run Nhân gọi Bùi Văn Rét người Mường, lì lợm
Rét cũng đang thao thức bồn chồn
Cả trung đội lính mới và lính cũ
Ngoài Bắc trong Nam bò lại quây quần
Muốn đốt lửa, sợ kẻ thù bắn lén
Ngồi bên nhau hồi hộp sợ âm thầm
Tiếng ru người Khơ-me không thành lời hát
Cứ ư… a… giai điệu kéo dài
Mưa vẫn rơi, dưới phum đen thẫm
Bó gối ngồi chẳng ai dám hỏi ai
Tiếng ru mảnh như tơ chùng bên suối
Mang gương mặt âm hồn của đất nước khổ đau? Sao lại sợ tiếng ru?
Chúng tôi không hiểu nổi?
Đêm 27.5.1979
Đoàn Tuấn
Mưa
Những hạt mưa bao vây và chia cắt chúng tôi Mỗi người lính khoanh vùng nằm một võng Mưa ru ngủ trên mái tăng nhịp trống
Mỗi chiếc võng im lìm trĩu nặng những tâm tư Những ngả đường vội vã đi qua
Có bao điều quên đi, rơi vãi
Mưa như người nhặt nhạnh gom góp lại Đến trả ân cần rồi lặng lẽ ra đi
Một kỷ niệm xưa chẳng có ý nghĩa gì
Một cơ hội vô tình tiếc mãi
Một lỗi lầm không bao giờ chuộc lại
Một ấn tượng lạ kỳ có thật đến không tin… Trong cơn mưa tất cả hiện lên
Tất cả hiện lên trong chiếc sàng tinh khiết Hồn tôi rung như lá rừng xanh biếc
Mưa của trời lọc sạch bụi hồn tôi
Tôi lắng nghe mình trong lắng tiếng mưa rơi Trong tiếng mưa rơi có điều gì vọng lại Trong tiếng mưa rơi có hàng nghìn câu hỏi Tôi không muốn lặng im cũng chẳng muốn trả lời Cậu bé nào đi trong tiếng mưa rơi
Cậu bé ấy là tôi - hai mươi năm về trước Hai đứa tôi giờ vẫn chung mơ ước
Hai giọt ước mơ còn đọng lại một nỗi niềm Không thể nghĩ về tương lai trong tiếng mưa rơi
Hiện tại bỗng quên đi gợi nhớ về kỷ niệm
Khi biết lắng nghe mưa, tôi đã già, tôi hiểu
Trong mưa lắng nghe mình, tôi như nắng sau mưa… Đoàn Tuấn
Đêm ở rừng nghe thơ Đêm ở rừng Choăm Kh’san nghe thơ
Tiếng vọng quê hương qua đường biên giới Những người lính ban ngày sôi nổi
Đêm trở về trầm lắng đợi tiếng thơ
Tóc khét nắng thấm sương khuya mềm tơ Áo dày bụi mùi mồ hôi mặn ấm
Ngồi dựa cây rừng, hai người nằm chung võng Nhìn sao trời đang chở tiếng thơ qua
Đêm ở rừng cứ thăm thẳm đậm đà
Nên tiếng thơ đi một mình cao vút
Vòm lá xanh lọc tiếng thơ trong suốt
Tiếng tơ vàng bện ổ ngọt hồn ta
Tán lá rừng bỗng đầm ấm mái nhà
Bóng đồng đội im lặng nguyên bên lửa Cái đống lửa như hiển nhiên phải có
Than rực hồng mà không thấy, mà quên Tiếng thơ mượt mà uyển chuyển trong đêm Như những nét hoa văn bay lên từ mặt trống Khi nghe thơ hồn là sân cỏ rộng
Tiếng xuân về chim hót giữa đồng hoa Đất chiến trường - đất nảy mầm thi ca Người lính đến hái dạt dào thơ mộng Nhặt nắng trời, phù sa cho cuộc sống Đất nước là tình, người lính là thơ
Đêm chiến trường có nhiều phút riêng tư
Ngồi nghe thơ như ngồi bên Tổ quốc
Tiếng sóng thơ đẩy thuyền trăng bát ngát
Nằm nghiêng nhìn trăng chở tiếng thơ đi
3.11.1981
Đoàn Tuấn
Một nét làng
Ở nơi ấy có một làng quê cổ
Cứ chiều chiều lững thững khói bay lên
Ở nơi ấy có một dòng sông nhỏ
Giữa đôi bờ thoai thoải êm êm
Tôi đã thấy em ra sông gánh nước
Bắp chân trần hắt lửa sáng dòng sông
Từng bậc cao dáng em nghiêng nghiêng bước
Vai nghiêng cùng đòn gánh cong cong
Đơn vị tôi qua đây dừng chân lại
Chỉ một đêm mắc võng trước sân nhà
Tôi đã yêu được người con gái
Uống hương đồng gió nội đẫm trong da
Thành kỷ niệm suốt những năm phiêu bạt
Nghĩ thương làng! Thương lắm gái thơ ơi!
Cỏ vẫn ướt đầm đìa trăng sáng
Lửa thời trai còn xấu hổ đến giờ…
Đoàn Tuấn
Tiếng ngày mới bình yên Trên cây rơm có chú gà trống đỏ
Đôi cánh đập rạn trời vươn cổ gáy o… o… Con gà mái hoa mơ lim dim ngủ
Dưới bóng vườn - ai cũng có bức tranh
Ở nơi người lính thức tàn canh
Ba trăm sáu nhăm ngày đều đặn
Mặt trời ngủ đẫy mắt
Sáng dậy với tiếng gà
Chiếc cầu vồng âm thanh ngân xa
Bắc qua năm nhịp đêm nối vào đầu bờ nắng Mỗi ban mai kéo lá cờ ánh sáng
Kẻ thù nghe tức tối dập pháo bầy
Có lẽ nào tiếng đầu tiên trong ngày
Lại phải nhốt trong chiếc lồng chật hẹp? Chúng tôi xa quê hương
Yêu quý lắm tiếng sinh sôi trên chốt
Ngày mới đến sẽ âm thầm tẻ nhạt
Nếu bình minh hôm ấy thiếu tiếng gà
Chỉ một khoảng lặng im giữa hai tiếng nổ Đất căng ra trống trải chẳng dám nhìn
Buổi giao ban bàn giữ gìn che chở
Tín hiệu ngày - cột mốc của thời gian
Ngày qua ngày tiếng gáy vẫn âm vang
Bay vút lên dệt thành con sóng đỏ
Mặt trời ơi! Tiếng gọi người bừng lên rực rỡ
Không phải ở trên cây, từ chính những căn hầm Lòng đất thâm trầm vùi ngọn lửa thân yêu
Như tiếng gọi đò ơi, như tiếng trống giục chèo Từ những dây cung xanh chúng tôi bật ra thành hoa trên mặt đất
Để mắt ngay vào hướng tuần, hướng phục
Trong sân nhà gà bới đất bình yên…
Đoàn Tuấn
Tối thứ bảy
Tối hôm nay là thứ Bảy rồi!…
Suốt ngày hầu như ai cũng nhắc
Trung đội trưởng cả ngày lo cắt gác
Gà lên chuồng
Lính ngồi vấn thuốc rê
Suốt cả tuần ngủ võng ướt sương khuya
Suốt cả tuần ăn muối hầm cơm vắt
Suốt cả tuần bàn chân bỏng rát
Tối thứ Bảy hôm nay đoàn du mục hạ lều
Chiếc đài như phong thư của người yêu
Cõng khối pin cồng kềnh chảy nước
Lính tráng ngồi quây quần trong căn hầm đại trưởng Chuyện tiếu lâm hóp má rít thuốc lào
Đồng đội ơi đáng nhớ biết bao
Giữa những năm 80 mà chúng mình thèm nghe đài đến thế Mai trở về quê hương, kẻ lên rừng xuống bể
Sẽ chẳng được cùng nhau chụm lại nghe đài!
Đoàn Tuấn
Chiếc khăn rằn Khơ-me Bàn tay anh nâng trước ngực dải khăn Anh đi bên bức phù điêu vũ nữ
Có phải mẹ Khơ-me nghèo khổ
Sinh Đê-vê-ta trên tấm thảm khăn rằn? Mẹ bồng em trong chiếc nôi xanh
Chiếc nôi xanh ôm hình hài đất nước
Em lớn lên như mầm xanh thốt nốt
Võng khăn rằn ru giấc ngủ tuổi thơ
Em dệt vào khăn lộng lẫy tháp Ăng-ko Hương rùm-đuôn và bóng xoài xanh mát Dải khăn rằn trải tâm hồn đất nước
Như Biển Hồ đựng hành lý đời em
Em đi cấy mưa ướt dải khăn duyên
Bông hoa rừng đội trên đầu hé nở
Dải khăn rằn em vắt trên vai nhỏ
Như vầng mây trôi giữa mảnh trăng liềm Dải khăn rằn nâng đôi cánh tay em
Như ngọn gió em quàng trong hội múa Đêm răm-vông sẫm dần trên đồng lúa Dải khăn rằn gieo chi chít sao đêm
Em đến tắm dòng sông soi bóng em
Soi điệu răm-vông soi bóng cây thốt-nốt Em lấp lánh như dòng sông đầy nắng
Dải khăn rằn gợn sóng tấm thân em
Là khoảng trời xanh nỗi nhớ trái tim
Mái tóc mầu đêm dệt niềm chung thủy
Là bàn tay băng vết thương chiến sĩ
Là mùa màng gieo xanh lại quê hương
Khăn phập phồng mái tăng ở biên cương
Làn khói lam suy tư nơi đầu võng
Khăn mẹ đội cứ mỗi ngày thêm rộng
Hương tóc em thơm ngát dải khăn rằn
Cô gái nào cũng quàng dải sông Ngân
Bức chân dung trên quê hương Chùa Tháp
Trong mưa rét khăn gợi niềm ấm áp
Là tâm tình cô gái Khơ-me
Đoàn Tuấn
Khúc dân ca trên điểm tựa
(Tặng vũ nữ Fôn-keo Khám-khiên,
người biểu diễn khúc dân ca Khơ-me “Hoa đu đủ”)
Anh trồng trên điểm tựa khúc dân ca
Của quê em, ơi quê hương tình nguyện
Điểm tựa như chùm đảo xa nước hiếm
Khúc dân ca như con suối đầu nguồn
Thật lạ lùng sau đêm múa răm-thôn
Khúc dân ca như một người con gái
Hồn nhiên đến rồi dịu dàng ở lại
Thành quả chuông thánh thót giữa lòng người Câu hát dắt anh về phum sóc em ơi
“Pờca-lơhông”(1) nở ngay đầu lối mát
Có em về rung rinh trong câu hát
Vòm lá xanh chao tiếng hát dập dìu
Anh cắt rừng đi từ sáng đến chiều
Lấy lục bình về phủ xung quanh gốc
Hoa đu đủ nở dịu hiền ánh mắt
Con bướm vàng thơ thẩn nỗi bâng quơ
Nắng nơi nào như rừng khộp mùa khô
Con ve sầu bỏ sang rừng xanh hát
Trái đu đủ đeo suốt mùa cơn khát
Chụm mái đầu uống dòng sữa dân ca
Pháo giặc băm loang lổ góc vườn nhà
Tổ dế mèn đất vẫn hồng mỗi sáng
Câu hát vẫn xòe ô xanh vươn thẳng
Đón mặt trời gần lại mỗi bình minh
Câu hát hình tròn em đi vòng quanh
Câu xanh biếc lăn tăn trong ánh mắt
Đồng đội anh buộc võng vào câu hát
Nên thân cây in dấu nghĩa dấu tình
Em đi rồi bóng mát tỏa lòng anh
Đêm tán lá thầm thì tay em múa
Nghe vọng lại như nỗi niềm ngọn lửa
Mà chim từ quy khắc khoải hai đầu
Đồng đội anh tìm thấy phép nhiệm màu
Trong bình dị khúc dân ca tình nguyện
Cứ nhìn vào cây đu đủ mà viết
Có bao điều xanh thắm lá thư xanh…
1982
Đoàn Tuấn
Miếng trầu phum Choămsre Chiều mắc võng vào cây vỏ chay
Con chợt nhớ miếng trầu của mẹ
Mẹ ơi, Choămsre đẹp thế
Mà miếng trầu day dứt lòng con
Dây trầu không vườn mẹ xanh rờn
Bóng cau lẫn bóng hàng thốt-nốt
Khúc vỏ chay quánh khô mẹ gọt
Bàn tay gầy run run
Cả phum không một mẩu vôi non
Mẹ cặm cụi mò trai dưới suối
Lửa mẹ đốt vỏ trai hồng đêm tối
Để sáng mai có vôi trắng ăn trầu…
Ôi ước chi có được phép nhiệm màu
Con sẽ mời mẹ ăn miếng trầu cô Tấm
Con sẽ hóa thành hòn đá trắng
Mọc bên suối trong cho trầu mẹ đầm nồng
Cây vỏ chay đứng trầm ngâm trong rừng
Giấu dưới đất ngọn lửa hồng âm ỉ
Và tán lá ken dày ý nghĩ
Đêm trăng này mẹ đốt vỏ trai không?
Con mới đi chưa hết một cánh rừng
Mới giúp mẹ trồng được mùa lúa chín
Những đỉnh núi mây mù con sẽ đến
Để mẹ ăn trầu với hoa trắng quê hương(2)
Đoàn Tuấn
Hết nước cấm nhìn
Thùng phuy nước ở chốt ngã ba
Ai đã viết dòng chữ than to tướng
HẾT NƯỚC CẤM NHÌN
Bởi ngày đêm
Ai qua đây cũng ghé tìm ngụm nước Tranh thủ lấy chiếc khăn nhúng ướt Thậm chí còn đóng đầy bi-đông
Mà quanh đây chẳng tìm đâu ra suối ra sông Khiến lắm phen nước nấu cơm không có Nhiều khi bắn được con thú
Không có nước mà làm
Được đi tắm là một nỗi hân hoan
Dù phải hành quân cắt rừng mười cây số Và áo quần phải giặt giùm chục bộ
Mỗi lần được cấp nước
Í ới gọi nhau vui không giấu được
Đựng đầy xoong đầy bát đầy ca
HẾT NƯỚC CẤM NHÌN - dòng chữ đọc qua Khách cứ nghĩ cậu nào đùa tinh nghịch Khoác cả ba lô xăm xăm bước đến
Chỉ thấy nóng ran tiếng gió xát đáy thùng Đứng lặng một mình
Bỗng từ trong hầm bật ra chuỗi cười trêu tức Khách cũng bật cười
Cơn khát bỗng nguôi quên
HẾTNƯỚCCẤM NHÌN
Dòng chữvẫnynguyên
Đoàn Tuấn
Dải đồng bằng thương nhớ Những cái huyệt tôi đào trong rừng sâu
Giờ hóa thành dòng sông yên ả
Những nấm mộ đắp đêm mưa tầm tã
Thành triền núi cao không lên được bao giờ
Nơi đồng đội căng tăng và mắc võng
Thành những làng quê xa phủ sương mờ
Ơi chiến trường xưa
Đã trở thành miền quê thiêng thanh khiết
Trời và đất
Núi và sông
Xanh mênh mang bất diệt
Bao nặng nhọc máu xương để xanh thẳm dịu dàng Tôi sẽ về, sẽ về lại mùa xuân
Dải đồng bằng suốt đời tôi thương nhớ
Đoàn Tuấn
Giấc ngủ
Chỉ còn ba mươi cây số nữa thôi
Về đến phum Giềng tha hồ mà ngủ Mười lăm ngày truy quét
Mắt thâm quầng như vũng suối mùa khô Chúng tôi ngồi trên bờ hút lá hà thủ ô Vừa kể chuyện vừa mơ về giấc ngủ Những năm tháng cầm tinh con ngựa Không cần ngủ lâu
Chỉ cần ngủ sâu
Mình tặng cho mình
Ta tặng cho nhau
Giấc ngủ
Cốc rượu thơm cao quý trong ngày Không đủ ngón tay
Để mà đếm bao nhiêu kiểu ngủ
Sốt rét nằm co
Ngủ hầm lưng đau nhức
Có giấc ngủ lưng chừng đỉnh dốc Chân quặp vào hòn đá khỏi lăn
Ngủ cho quần áo khô
Ngủ cho qua cơn đói
Giấc ngủ chông chênh đứt rồi lại nối Mắt suối mắt đèo trũng xuống đêm đêm… Nhìn đồng đội nằm thêm yêu thêm thương
Người còn đeo ba lô, người còn mang dây lưng có bi đông, lựu đạn
Sau bao ngày căng thẳng
Lúc đi nằm dáng ngủ cũng cong queo
Ăn cơm khô
Đi đường tắt
Tắm tranh thủ
Ngủ khẩn trương
Hình như trong giấc ngủ chập chờn
Đồng đội tôi có điều gì thảng thốt
Bạn vào gọi tôi ra thay phiên gác
Chân nhẹ như sương thấm xuống lá rừng
Tôi khoác súng vin cành lần bước
Giữa vòm trời xanh ngát ngọn sao Mai…
1981
Đoàn Tuấn
Bài thơ không viết nháp Bạn ơi có nghe chăng
Bài ca biển xanh hát
Lời ca như ánh sáng
Người lính là bài thơ
Nếu chúng tôi là thơ
Bài thơ không viết nháp
Câu chữ còn thô ráp
Hồn nhiên bước vào đời
Một ngôi sao sáng tươi
Bao niềm thương mến gọi
Một địa chỉ xa xôi
Gợi lên đầy rắn rỏi
Câu thơ từ lửa khói
Không đăng báo bao giờ
Lính viết và lính đọc
Chói ngời qua nắng mưa
Chỉ có thiếu và thừa
Không bao giờ lính đủ
Chiếc ba lô càng cũ
Càng chẳng có gì riêng
Yêu thương nào hồn nhiên
Bằng lá thư tọa độ
Cơn mưa nào cồn lên
Thoảng nhanh bằng nỗi nhớ
Một chiếc khăn mặt nhỏ
Nấuđượcnồi cơm ngon
Mộtcondaongọnlửa
Đi khắpcùng núi non
Bữaănquâyvòng tròn
Quanh mâm xanhthảm cỏ
Lácànhlàm bátđũa
Khúckhíchcười khenngon
Vụng vềtrướclànhương
Thíchđượcchiềuđượctrách
Tỏtìnhđếndễthương
Toàn giọng connhàlính
Đêm cánh rừng trầm tĩnh
Nhớdòng sông bìnhyên
Đêm bạn mìnhngãxuống
Đêm gọi mặttrời lên
Giặctrước mặtchúng tôi
Saulưng làhạnhphúc
Sống chếttừng khoảnhkhắc
Mắt mẹnhìnthiêng liêng
Quavùng rừng mưađêm
Quangànngàynắng gió
Nâng bướcchânánhlửa
Đi vềphíaNgày Mai
Đoàn Tuấn
Tìm bạn
Chiến dịch kết thúc rồi tôi quay về biên giới
Tìm xác bạn bè trên chốt cũ yêu thương
Hơn hai mươi con người, một trung đội tăng cường, hơn hai mươi tay súng
Sống lại cùng tôi những bạn đường
Không thể tìm ra đầy đủ một bộ xương
Đất cháy đen xỉ than
Xương cánh tay lẫn cành khô rơi vãi
Tấm bản đồ không mang lại một điều gì mới
Vệt máu động rỉ ra nhức nhối mắt nhìn
Từng khoảng thời gian, từng trận đánh, từng người một, cứ nhớ thế mà tìm
Đồi 328, chốt X.B… chỗ nào cũng gặp bạn bè đang sống Vẫn nói cười, vẫn thổi mắt cho nhau, ôm súng xông lên và những loạt Đ.K dập xuống
Bạn bè tôi hóa trăm mảnh sao trời…
Lòng tôi đau một nỗi khổ không nguôi
Đâu cũng gặp mà tìm không thấy
Đêm ngủ trong những căn hầm còn lại
Nham nhở những mảnh trăng hình phễu hứng sương trời… Hơn hai mươi chiếc túi mang theo dồn một túi không đầy Chiếc gùi nhẹ trên vai bao cuộc đời sông núi
Đồng đội tôi nằm đây chưa thể nào ngủ nổi
Những mảnh pháo mảnh mìn đau cấn lắm dưới lưng Cây cháy vẫn đen thui, chim chưa trở lại rừng Đi tìm suốt mấy ngày bỗng sáng nay gặp một bông hoa dại
Ánh mặt trời đọng sáng những hạt sương
Những người nằm xuống rồi đều có chung một gương mặt tươi sáng lạ thường
Tôi bỗng dốc bi đông tưới cho bông hoa nhỏ
Bông hoa nhìn theo mỗi bước tôi đi…
1979-1985
Đoàn Tuấn
Ngày tôi rời mặt trận
Tôi nhập ngũ ngày Hăm mốt tháng Tám
Nhưng không bao giờ quên ngày từ giã chiến trường Ngày tôi rời mặt trận
Tôi - thượng sĩ Đoàn Tuấn
Cao một mét sáu mươi nặng bốn mươi lăm ký Trong người mang vi trùng sốt rét
Mấy vết thương không cần giám định
Ngày tôi rời mặt trận
Bạn bè đứng tiễn rất đông
Nhưng tôi không dám nói lời từ biệt
Trên đường về nước
Có thể hy sinh như đứa bạn gần nhà
Ngày tôi rời mặt trận
Mang theo hình ảnh anh Nguyễn Mạnh Hùng (Người thẩm tra lý lịch tôi vào Đảng)
Anh hy sinh. Bị bọn địch chặt đầu
Trong trí nhớ tôi vệt lưỡi mai còn cắm
Đọng máu đầy khô đen
Ngày tôi rời mặt trận
Mang theo hình ảnh Lê Thanh Vinh, đứa bạn cùng trường Hôm ấy tôi được phân công đi đầu dẫn tiểu đoàn gùi gạo Trên con đường mìn nhiều. Chắc chắn sẽ hy sinh! Và đêm. Vinh khoác súng sang hầm tôi, lặng im rồi nói: “Để mai tao đi đầu. Tao chết đỡ phí hơn vì mày có người yêu ở nhà đang đợi!”
Ngày tôi rời mặt trận
Bâng khuâng đi qua Kầm-prạ, phum Giềng Choăm Ka-an, Ku-len, An-lung-viêng, Đăng-rếch… Những địa danh không còn nghe trúc trắc
Bao thân thương máu thịt một thời
Ngày tôi rời mặt trận
Đưa thi hài đồng đội trở về
Chiếc GMC phóng như bay qua rừng cây báng súng Đến biên giới trời vừa tối
Không nghỉ lại dù đói
Chúng tôi lao ngay về Đức Lập
Đêm cao nguyên mưa xối
Người gác nghĩa trang hẹn mai sáng sẽ làm Cả đêm ấy chúng tôi không thấy mệt
Khiêng quan tài xếp ngoài cổng nghĩa trang Ngày tôi rời mặt trận
Về Diêu Trì truy lĩnh 5 năm phụ cấp
Một tạ gạo ăn trong sáu tháng kiếm việc làm Bán luôn cho thủ kho lấy tiền tiêu vặt
Biếu mẹ làm quà hai mét vải phin!
Ngày tôi rời mặt trận
Không dám một mình đến nhà những người bạn hy sinh Cảm thấy mình như người có lỗi
Tôi sợ nhìn nước mắt mẹ bạn tôi
Ngày tôi rời mặt trận
Gian khổ tạc cho tôi gương mặt người lính
Những trận đánh rèn cho tôi đôi mắt mở to, cái nhìn điềm tĩnh
Và thời gian tặng cho tôi bản lĩnh…
Ngày tôi rời mặt trận
Vừa đặt chân về đến Hà Nội
Dốc hết tiền
Mua một chiếc đồng hồ đeo tay…
1984
Đoàn Tuấn
Kính gửi Sư đoàn 307
Sư đoàn tôi đã trở về Tổ quốc
Giữa Matxcơva tôi xúc động nhìn
Trên màn hình đồng đội tôi đang bước
Tôi trở về ngược lại cánh rừng Miên
Sư đoàn tôi đã trở về Tổ quốc!
Nhưng không đủ đâu, không đủ cả Sư đoàn!
Còn lại bao nấm mồ, hài cốt
Đồng đội tôi giá lạnh giữa rừng hoang?
Ôi tôi nhớ mùa mưa năm 81
Dân “lùn” dặn tôi duy nhất một điều:
“Nếu mình chết, đồng hương nhớ chôn mình đầu quay về Tổ quốc!”
Tôi cũng thầm dặn lại bấy nhiêu
Tôi đã chôn bao nhiêu đồng đội
Đã bốc mồ tận nghĩa địa An-lung
Quần nát rừng tìm xác trên biên giới
Nhìn Sư đoàn về nước rưng rưng
Tôi đã về hậu phương báo tử
Bao bà mẹ hỏi tôi: Xác con mẹ nơi nào?
Tôi trao mẹ vài di vật cũ
Còn sống trở về tôi có lỗi biết bao!
Sư đoàn tôi đã trở về Tổ quốc!
Đồng đội tôi không có việc gì làm
Đi tay trắng trở về hoàn tay trắng
Huân chương nào trao được trước xe lam?
Sư đoàn tôi đã trở về Tổ quốc!
Nhưng muôn năm vẫn đóng ở núi rừng
Tôi như thả hồn mình về nước
Cùng sư đoàn bình yên một giấc chung
Đoàn Tuấn
Trời sao
Những ngôi sao chi chít giữa bầu trời
Tôi căng mắt nhìn. Làm sao đếm hết?
Như trong tôi dày đặc bao kỷ niệm
Nhũng chuyện vui buồn năm tháng chiến tranh Trong ngàn vạn người lính sư đoàn
Mấy ai trở về sống bằng nghề viết?
Chỉ chuyện mình thôi, làm sao kể xiết
Còn nói chi đến tiểu đội, trung đoàn?
Sáu năm lính của tôi - khoảng rất nhỏ thời gian Nếu so với bao người trong đơn vị
Sao so với dân tộc tôi bền bỉ
Suốt thế kỷ qua kháng chiến trường kỳ
Cả dảy Ngân hà lộng lẫy trên kia
Có sáng đẹp bằng sử thi đất nước?
Có nhiều bằng những điều chưa kể được
Của những người đã sống, đã hy sinh?
Và trời sao mãi mãi lung linh
Vẻ đẹp ấy có thể nào nắm bắt
Ta tuyệt vọng nhìn sao hay khao khát
Trước từng trang giấy trắng đợi hằng ngày?
Đoàn Tuấn
Kỷ niệm ngày nhập ngũ
Đồng đội ơi! Kỷ niệm ngày nhập ngủ
Gặp nhau sau bao năm tháng thăng trầm
Xin ôm chặt cựu binh chiến hữu
Từ núi rừng phi xuống, đất biển lên…
Giờ tất cả đầu đã hai thứ tóc
Mà tưởng như ngày ấy tuổi thanh xuân
Đói khát, ốm đau, pháo, mìn, chết chóc
Lũ chúng ta thành kỷ niệm tuyệt trần
Nào uống cạn! Trong lung linh ánh mắt
Giữa chúng ta hiển hiện những bóng hình
Những cánh rừng, những mùa khô, phum sóc Cả mối tình tuyệt vọng dọc trường chinh
Nào uống cạn! Giữa chuỗi cười hạnh phúc
Mắt bỗng cay bao đồng đội không về
Những bàn chân, những cánh tay bị mất
Trọn đời ta còn giữ mãi lời thề
Nào uống cạn! Uống thay ngày xuất ngủ
Mừng chúng ta còn nguyên vẹn thân hình
Sau ta, sau ta mong đừng ai nữa
Biết thế nào là một cuộc chiến tranh
Đoàn Tuấn
Thơ LÊ MINH QUỐC
Trên những nẻo đường chiến tranh
(Đoàn Tuấn giới thiệu)
Tôi nhớ mãi một buổi chiều trung tuần tháng 12 năm 1978. Tôi đang nằm trong một căn hầm giữa rừng lồ ô trên biên giới Việt Nam - Campuchia thì nghe ngoài cửa hầm có tiếng nói chuyện giữa Lê Quỳnh Lang, trung đội trưởng thông tin của tôi với một người nữa. Người này có giọng to và sảng, dứt khoát. Anh đòi mượn tập thơ Việt Nam mà tôi mang vào chiến trường. Lang dùng dằng, nói là của người khác. Nhưng anh ta cứ đòi, cứ giằng lấy. Cuối cùng, Lang phải gọi tôi ra. Tôi chui lên. Trước mặt tôi là một chàng thanh niên không có vẻ gì là lính nhưng mặc quần áo lính rất xịn, vai vắt chiếc khăn mặt xanh. Anh để tóc dài. Gương mặt vuông vắn, trắng trẻo, đẹp trai. Tôi chưa kịp nói gì, anh ta đã bắn liên thanh phủ đầu:
- Ông cho tôi mượn tập sách này nghe. Tôi hứa là sẽ giữ cho ông thiệt cẩn thận. Thôi, tôi về nghe!
Tôi chưa kịp nói gì, đành nở nụ cười nhũn nhặn. Tôi đang mệt mỏi, vừa trải qua trận sốt rét kinh người. Cứ đúng 5 giờ chiều lại gây gây lên cơn. Được thôi. Tập thơ ấy, tôi đã đọc. Và ở chiến trường có một người cướp thơ như thế, còn gì quý hơn. Tôi nhìn theo dáng đi kềnh càng như giữa chốn không người của anh ta. Anh đi băng băng về đơn vị như con hổ vừa vồ được chú thỏ non. Tôi hỏi Lang:
- Ai đấy?
- À, đó là Quốc. Lê Minh Quốc, quản lý đại đội 7.
Dạo đó đơn vị tôi, tiểu đoàn 8, trung đoàn 29, sư đoàn 307 đang phải đánh nhau với Pôl Pốt dọc biên giới Việt Nam - Campuchia thuộc địa phận tỉnh Gia Lai - Công Tum. Các đại đội vào chốt thay nhau, lại phải rải quân dài mấy chục kilômét nên lính tráng, tuy cùng đơn vị, nhưng ít gặp nhau. Trong mắt tôi, người quản lý đại đội là người cân đo đong đếm từng hạt gạo
hạt muối cho 50 người mỗi ngày - mà yêu thơ thì quả là lạ. Nhưng về sau, tôi nghe Trần Đào Hiền Nhân, đồng hương tôi ở đại đội 7 khoe rằng, ở đó, lính ăn khá nhất vì Quốc cho ăn thả cửa! Thảo nào sau này, khoảng năm 1981, Quốc mất chức quản lý, trở thành lính chiến đấu trực tiếp.
Ít lâu sau, tôi tình cờ gặp lại Quốc trên đường chiến dịch, ở tỉnh Công Pông Thom. Quốc nhìn tôi, cười nhận lỗi: - Tập sách của ông, tôi cố gắng giữ nhưng nhiều thằng đòi đọc
quá. Mỗi thằng xé trộm một bài. Giờ nằm rải rác khắp nơi. Tôi rất cố gắng nhưng vẫn không thể nào lượm lại được. Giọng Quảng Nam của Quốc cùng cách nói phân bua bằng tay một cách trung thực khiến tôi tin ngay. Tôi mỉm cười. Thậm chí thấy vui vì nghĩ đến hình ảnh tập thơ được xé lẻ, mỗi người giữ một vài bài. Chi tiết này có thể viết được một câu chuyện hay.
Tôi là lính thông tin tiểu đoàn. Được trực ở Tiểu đoàn bộ trong chiến dịch giải phóng Campuchia. Nhẽ ra, cả tiểu đoàn tôi đã hy sinh khi đánh đồi 328, điểm cao X.B, vào ngày 23.12.1978 rồi. Bởi sau này, tôi được một thằng bạn ở Sư đoàn tiết lộ rằng, Sư đoàn quyết định “tung” tiểu đoàn tôi để đột phá cửa mở chiến dịch, nếu gặp địch kháng cự mạnh! Nhưng sáng sớm ngày 23.12, mới bắn pháo và đại bác lên đồi 328 và X.B, chừng hơn 1.000 quả, địch đã rút. Đơn vị tôi chiếm được quả đồi khi trời còn chưa tan sương. Nếu không may, tôi và Quốc cùng hàng ngàn đồng đội đã thành đất ở đó ngay từ những ngày mới quen nhau. Nghĩ lại, vừa mỉm cười, vừa rùng mình.
Sau đó tôi được cử đi phối thuộc với các đơn vị khác. Đến tháng 5.1979, tôi mới được phân công đi theo C7, tức đơn vị Quốc. Dạo đó, đơn vị Quốc nhận nhiệm vụ đón 5 vạn dân tị nạn từ Thái Lan trở về. Đại đội có chừng 40 người nhưng phải rải ra trên quãng đường dài 60 kilômét. Tôi đặt máy thông tin Silic 71 của Trung Quốc trong trường học cũ, dưới mái nhà tôn. Đối
diện bên kia, qua sân rộng, là nhà của y tá Nguyễn Quốc Vương, mấy anh nuôi và quản lý Quốc. Được gần nhau, chúng tôi toàn nói chuyện văn chương. Lúc ấy coi như hai đứa từ hai nền văn hóa, hai nền giáo dục khác nhau, kẻ Bắc người Nam, giờ cùng là lính, chuyện trò thật hấp dẫn. Tôi kinh ngạc vì Quốc đọc nhiều, thuộc nhiều và làm rất nhiều thơ.
Dạo đón dân tị nạn, tôi và Quốc cũng như nhiều anh em C7 được dân tị nạn, hầu như là người Hoa tất, cho rất nhiều vàng, bạc, kim cương nhưng hầu như không ai dám lấy. Buổi chiều mùa mưa, tôi chỉ căng giúp một người phụ nữ có con nhỏ tấm vải mưa thành cái lều thôi, chị ta cũng cho tôi cả một cái hộp có 12 hạt xoàn, nhưng tôi vội từ chối ngay. Chị lại mời uống cà phê với lạc, tôi cũng không dám. Nhớ một buổi trưa, tôi ngồi chỗ Quốc, có cả y tá Vương, người Tam Kỳ, nói chuyện tào lao. Bỗng ngoài cửa, xuất hiện ông già Khơme trong đoàn tị nạn. Ông vừa thấy chúng tôi, vội quỳ ngay xuống đất ướt, vái lấy vái để “xin bộ đội Việt Nam đôi giày”. Tôi nhìn bàn chân phồng rộp, rướm máu của ông mà lạnh người. Thật khó cho chúng tôi vì chúng tôi cũng rất thiếu thốn. Ăn cơm độn ngô, đi giày thủng. Quốc mò vào chỗ để gạo, tìm được đôi giày rách nhưng khô ráo, mang cho ông già. Quá cảm động, ông già lấy từ trong túi ra một nắm những thỏi vàng cho chúng tôi. Nhưng chúng tôi vừa xua tay vừa nói bằng tiếng Khơme: “Không lấy đâu”. Ông lại hỏi chúng tôi bằng tiếng Việt, xin ít muối. Quốc xúc cho ông một muôi. Sợ chúng tôi nghĩ lấy vàng là độc, ông già lại cho chúng tôi nắm bạc. Nhưng chúng tôi kiên quyết không lấy một thứ gì. Chúng tôi thừa hiểu giá trị của vàng bạc nhưng không lấy. Tôi chỉ nghĩ đơn giản một điều: lúc đi lính, mình không có vàng. Nhớ mình lấy, đêm chết, đơn vị kiểm tra di vật tử sĩ, thấy có vàng trong ba lô, không những mình không ra cái gì mà gia đình mình ở phía sau cũng không được anh em tôn trọng. Những ngày đó, tôi và Quốc cùng Nhân “mù” và An “bột” thường lội qua suối, sang phum bên, đến chơi nhà “bà má Hậu
Giang” - một bà má Việt kiều, nhờ vá áo và mò vào các vườn nhà dân bỏ trống, hái trộm xoài ăn. Vậy thôi. Còn rất nhiều chuyện không tham vàng của Quốc mà tôi không biết. Chỉ biết sau này Quốc được đơn vị đề nghị Trung đoàn thưởng Giấy khen vì thành tích “không tham của lạ, giữ vững danh hiệu Anh bộ đội Cụ Hồ”.
Đầu năm 1980, tôi phải chia tay đơn vị Quốc. Tôi được cử đi với đại đội 5, lên đóng quân ở phum Kầmprạ, một phum heo hút nhất của tỉnh Prếch-vihia nằm tít tận biên giới Campuchia - Thái Lan. Ở đó tôi đã sống những ngày rất vui nhưng cũng đầy đạn, đầy mìn, đầy thương vong, hy sinh của anh em trong đơn vị.
Đến đầu mùa mưa năm 1981, khoảng tháng 6, cả Tiểu đoàn tôi được lệnh chuyển lên khu vực An-lung-viêng để chặn đường vận chuyển lương thực, đạn dược từ Thái Lan về của địch. Thời gian này Quốc thôi chức quản lý, phải làm lính trơn. Vì nghe đâu, được giao chức tiểu đội trưởng, Quốc không nhận. Những ngày đó thật ác liệt. Ngày nào cũng đánh nhau. Hết bị địch phục lại bị địch tập kích. Đi gùi gạo, gùi đạn thì vấp mìn. Ngày nào cũng có người bị thương hoặc hy sinh, không của đơn vị tôi thì của đơn vị khác chuyển đến. Tôi nhớ mấy cái sạp làm tạm ở bìa rừng dành cho thương binh, tử sĩ, lúc nào cũng đầy máu. Vừa khiêng người này đi, chưa kịp lau máu đọng trên sạp thì đã phải đặt người khác vào. Tranh thủ lúc rỗi, chiều nào tôi cũng bẻ mấy cành tre xuống xua ruồi, đuổi muỗi cho anh em bị thương nằm la liệt không cử động được. Chính dạo ác liệt đó, tôi được chuyển từ thông tin lên thay anh Nguyễn Văn Cúc, người Nghĩa Bình, làm trợ lý chính trị Tiểu đoàn. Anh Cúc về làm phó Đại đội trưởng C6. Quân số hy sinh quá nhiều. Lúc đầu còn có máy bay lên thẳng HU-IA đến chở đi hoặc chuyển lên Sư đoàn bằng cách khiêng bộ. Sau máy bay không có nữa. Khiêng bộ thì tốn kém. Hai trung đội dải đường dài 16 kilômét từ đơn vị đến phum Camtuất, cộng một tiểu đội dẫn đường, lại thêm
mấy người thay nhau khiêng một ca. Mà vẫn bị phục, vẫn bị mìn clâymo quạt. Thêm bao nhiêu người hy sinh. Người chết rồi bị chết thêm lần nữa. Cuối cùng Sư đoàn quyết định làm một nghĩa trang ở ngay giữa Tiểu đoàn tôi. Cử thêm một trung đội vận tải xuống chuyên cưa cây, xẻ gỗ, đóng quan tài. Nghĩa trang được làm nằm giữa Tiểu đoàn bộ và đơn vị Quốc. Tôi biết Quốc phải đi tuần, đi phục liên tục. Rất dễ hy sinh. Mà tôi được tiểu đoàn giao nhiệm vụ giữ di vật tử sĩ và tổ chức chôn liệt sĩ cho chu đáo. Chính trị viên Nguyên Văn Vẳng giao nhiệm vụ cụ thể cho tôi: “Chôn vì người sống chứ không chỉ vì người chết. Làm sao để anh em đang sống, nhìn vào, biết được rằng, khi họ hy sinh, cũng được đối đãi tử tế như thế!”
Tôi hiểu. Và làm hết sức mình. Đun nước. Nhặt thịt xương. Rửa ráy. Chắp lại. Xếp cho đủ các bộ phận cơ thể. Mặc quần áo. Quấn vải liệm. Gác đêm, canh thú rừng khỏi mò đến ăn xác. Đào huyệt. Tổ chức đội vệ binh đứng bên bờ huyệt. Đọc lời điếu và bắn súng tiễn biệt đàng hoàng. Sau đó mới chôn. Hết sức “oách” theo kiểu nhà binh.
Tôi cũng chôn cất nhiều người của đơn vị Quốc. Một buổi chiều, đi gùi đạn, về qua đơn vị Quốc, tôi thấy một căn hầm lạnh tanh, mốc, trống trơn. Tôi thoáng rùng mình. Anh em trong hầm đã hy sinh cả. Tôi không thể nghĩ đến số phận Quốc thế nào. Thỉnh thoảng, anh Lâm Xuân Liễm, trợ lý tác chiến tiểu đoàn, lại rủ tôi sang chỗ Quốc uống rượu. Đi uống rượu nào có an toàn. Khoác AK, đội mũ cối, mặc trời mưa, phải bò qua hai vọng gác, bò qua nghĩa trang. Khi qua đó, tôi thấy anh Liễm lại lầm rầm khấn anh em phù hộ cho mình được sống. Tôi cũng thầm khấn theo.
Chính những ngày ác liệt đó, tôi biết Quốc làm thơ, ghi nhật ký nhiều. Tôi nhớ một lần Quốc vừa cười vừa khoe đơn vị Quốc chuẩn bị làm báo tường và Quốc đóng góp một bài thơ có tên là “Tường Vi”. Những bài thơ của Quốc ở An-lung-viêng rất lãng mạn, mơ về cuộc sống thanh bình, có những buổi chiều vàng,