"Đảo Plum - Nelson DeMille & Đỗ Thúy (dịch) mượn full mobi pdf epub azw3 [Trinh Thám] 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Đảo Plum - Nelson DeMille & Đỗ Thúy (dịch) mượn full mobi pdf epub azw3 [Trinh Thám] Ebooks Nhóm Zalo NELSON DEMILLE Đỗ Thúy dịch —★— ĐẢO PLUM • PLUM ISLAND • (John Corey, #1) NXB VĂN HÓA THÔNG TIN ebook©vctvegroup | 03-07-2021 TÁC GIẢ Nelson DeMille sinh năm 1943 tại thành phố New York. Ông lớn lên lại Long Island và tốt nghiệp trường đại học Hofstra về Khoa học và Lịch sử Chính trị. Sau khi làm sĩ quan bộ binh tại Việt Nam, DeMille vừa làm phóng viên vừa là nhà văn chuyên viết truyện ngắn. Ông đã viết cuốn tiểu thuyết lớn đầu tiên của mình là Bên dòng sông ở Babylon ( By the Rivers of Babylon) với tổng số bản bán ra là hơn 55 triệu bản và được dịch ra 24 thứ tiếng, và sau đó ông tiếp tục viết 11 cuốn tiểu thuyết khác đều bán chạy trên khắp thế giới. Ông sống tại Long Island. “Một cuốn tiểu thuyết kinh dị thật tài tình. Bạn sẽ thấy được cảm giác vui vẻ với những nút thắt là những đỉnh điểm của cuốn truyện”. - Timeout “Ớn lạnh... Cảm giác xuyên suốt cả cuốn tiểu thuyết hồi hộp này và sẽ khiến bạn luôn luôn trong suy nghĩ ngay cả khi bạn cười thật to”. - New day “Sức lôi cuốn... Nhờ sự kết hợp hoàn hảo từ y học, huyền bí, các thủ tục trong ngành cảnh sát, và khám phá đại dương... Cuốn sách đã đạt được thành công lớn trong việc chuyển hướng tới một kết thúc hoàn toàn bất ngờ... Một cái kết nhẹ nhàng đối với một nhà văn già đầy kinh nghiệm”. - Tuần báo Publishers “Ly kỳ, thú vị”. - Kirkus Reviews “Một cuốn tiểu thuyết đầy thú vị”. - Tạp chí Associated “Một cuốn sách thành công trong việc tạo tiếng cười giải trí... Kết hợp thông minh giữa thảm hoạ về sinh học và những truyền thuyết kỳ lạ về hải tặc”. - Tạp chí Associated CHƯƠNG 1 Tôi nhìn qua ống nhòm. Một chiếc tàu dài hơn chục mét đậu cách bờ biển chừng vài trăm thước. Trên boong, hai cặp nam nữ độ ba mươi tuổi đang cười đùa, tắm nắng, uống bia hay thứ gì đó. Hai người phụ nữ mặc quần lót bé xíu, ngực để trần. Một trong hai gã đang ở mũi tàu trút bỏ bộ đồ tắm, đứng đó một lát, khom người rồi nhảy tùm xuống nước và bơi quanh con tàu. Đất nước này vĩ đại thật. Tôi bỏ ống nhòm và nhấp một ngụm Budweiser. Đó là cuối mùa nghỉ hè, không phải là cuối tháng Tám, mà là tháng Chín, trước Thu phân. Đã qua ngày nghỉ lễ Lao động, sắp sang nửa kia của mùa thu. Tôi là John Corey, nghề nghiệp cảnh sát đang dưỡng thương, khi đó đang ngồi dưới mái hiên sau nhà của ông cậu ruột, ngả mình trên chiếc ghế bằng liễu gai, đầu óc miên man với những ý nghĩ hời hợt thoáng qua trong đầu. Với tôi, vấn đề của sự nhàn rỗi là không biết đến khi nào cuộc đời mình kết thúc. Hiên nhà được làm theo kiểu cũ, bao bọc ba bề của ngôi nhà trong trang trại xây từ những năm 1890, thời Victoria. Tất cả đều làm vách gỗ, có trang trí, chóp nhọn, đầu hồi, đủ mọi thứ. Từ chỗ tôi ngồi có thể nhìn về phía nam tới Vịnh Great Peconic qua một bãi cỏ xanh dốc. Mặt trời đã xuống thấp ở chân trời phía tây, vị trí lúc 6 giờ 45 chiều. Tôi sống ở thành phố, nhưng lại thực sự thích những gì ở nông thôn, bầu trời và mọi thứ ở đó. Cuối cùng, cách đây vài tuần, tôi đã thấy được chòm Đại hùng tinh. Tôi mặc chiếc áo phông đơn màu và quần jean ngắn mà trước đây khi chưa sút cân còn vừa vặn. Hai chân tôi gác lên lan can, khoảng giữa hai ngón chân cái phía đằng xa chính là con tàu khi nãy. Thời gian này trong ngày là lúc ta bắt đầu nghe thấy tiếng dế, tiếng côn trùng. Nhưng tôi không hâm mộ gì những tiếng ồn ã đó của tự nhiên nên đã để một chiếc đài quay băng xách tay trên chiếc bàn con bên cạnh và nghe nhạc của nhóm The Big Chill, chai Budweiser đặt bên trái, chiếc ống nhòm để trên bụng. Trên sàn gần tay phải tôi là khẩu Smith & Wesson .38 với nòng dài năm phân, vừa khít với chiếc ví của tôi. Chỉ để đùa thôi. Trong cái khoảng hai giây chuyển từ bài When a Man Loves a Woman sang bài Dancing in the Street, tôi nghe, hay linh cảm thấy, tiếng bước chân ai đó trên ván sàn đi quanh hiên. Vì sống một mình và cũng không mong chờ ai đó đến thăm, tôi với khẩu súng bên tay phải đặt vào bọc. Các bạn đừng cho rằng tôi mắc bệnh hoang tưởng, vì tôi đang điều trị, không phải bệnh tật mà là ba vết thương do đạn bắn, hai viên loại 9 li và một viên Magnum nòng 44. Kích cỡ của lỗ đạn không thành vấn đề. Cũng như trong mua bán nhà đất, quan trọng là vị trí, vị trí và vị trí. Rõ ràng mấy vết thương này ở những chỗ không đáng ngại, vì tôi đang phục hồi, chứ không rữa ra. Tôi nhìn sang phía phải nơi góc hiên quanh qua mặt phía tây của ngôi nhà. Một người đàn ông xuất hiện và dừng lại cách tôi dăm mét, đôi mắt dõi theo những bóng dài của mặt trời sắp lặn. Kỳ thực, bóng anh ta phủ cả lên người tôi nên có vẻ như không nhìn thấy tôi. Với mặt trời phía sau lưng người đàn ông, tôi rất khó mà nhìn ra khuôn mặt hay phán đoán ý định của người đó. Tôi nói, “Có thể giúp gì được anh không?” Người đàn ông quay lại phía tôi. “Ô, John, tôi không nhìn thấy cậu ở đó”. “Mời sếp ngồi”. Tôi nhét khẩu súng vào cạp quần dưới áo và vặn nhỏ tiếng của bài Dancing in the Street. Đó là Sylvester Maxwell, gọi tắt là Max, cảnh sát trưởng của thị trấn này. Max bước đến phía tôi và tựa vào lan can, đối diện với tôi. Anh mặc chiếc áo khoác màu xanh da trời mang phù hiệu, sơ mi trắng cài khuy thấp, quần màu nâu, đi giày không tất, kiểu của dân đi tàu. Không thể biết anh đang làm nhiệm vụ hay không. Tôi nói, “Có nước ngọt trong thùng lạnh đấy.” “Cám ơn”. Anh cúi xuống lấy một chai Budweiser ra khỏi thùng đá. Max thích gọi bia là nước ngọt. Anh nhấp một chút, đôi mắt đăm chiêu nhìn vào khoảng không trước mặt. Tôi hướng lại ra phía vịnh và nghe bài Too Many Fish in the Sea của nhóm Marvelettes. Vì là ngày thứ hai nên khách đi nghỉ cuối tuần đã về hết, ơn Chúa. Nhu tôi đã nói, sau ngày lễ Lao động, hầu hết những người thuê nhà nghỉ đã đi khỏi và bạn có thể cảm nhận sự yên tĩnh trở lại. Max là người bản xứ mà lại không đi thẳng vào chuyện, nên tôi chỉ còn cách là chờ đợi. Cuối cùng, anh hỏi tôi: “Cậu là chủ nhà ở đây à?”. “Là của cậu tôi. Ông ấy đang muốn tôi mua chỗ này.” “Đừng mua bất cứ thứ gì. Phương châm của tôi là, nếu nay đây mai đó thì chỉ thuê thôi.” “Cám ơn anh.” “Cậu sẽ ở đây một thời gian chứ?” “Tới khi nào không có gió thổi qua ngực tôi nữa.” Anh mỉm cười, nhưng rôi đăm chiêu trở lại. Max có khổ người to lớn, trạc tuôi tôi, khoảng trên dưới bốn mươi lăm, tóc vàng hoe hơi gợn sóng, nước da đỏ khỏe mạnh và đôi mắt màu xanh. Dường như trong mắt phụ nữ, anh là người điển trai. Điều này rất có lợi cho một cảnh sát trưởng Maxwell độc thân lại không mắc bệnh đồng tính. Max nói, “Cậu cảm thấy thế nào rồi ?” “Không tệ lắm.” “Cậu có thấy giống như bài tập cho tinh thần không?” Tôi không đáp. Tôi đã quen biết Max mười năm nay, nhưng vì không sống ở đây nên tôi chỉ thi thoảng mới gặp anh. Cũng phải nói thêm, tôi là điều tra viên ở thành phố New York chuyên về các vụ án giết người, trước đây làm ở Bắc Manhattan cho tới khi tôi bị thương. Đó là vào ngày 12 tháng Tư. Trong khoảng hai chục năm chưa có điều tra viên nào bị bắn ở New York nên vụ của tôi gây chú ý lớn. Phòng Thông tin Công chúng của Sở Cảnh sát New York tiếp tục đưa tin vì vẫn đang trong thời gian hợp đồng. Với bề ngoài khá được của tôi, hay đại loại như vậy, họ cũng có chút lợi, với sự hợp tác của báo chí, và chúng tôi cứ tiếp tục như vậy. Trong lúc đó, hai tên thủ phạm đã bắn tôi thì vẫn nhởn nhơ bên ngoài. Vì thế, tôi mất một tháng ở Trung tâm y tế Columbia Presbyterian, sau đó nghỉ vài tuần trong căn hộ của tôi ở Manhattan trước khi cậu Harry gợi ý căn nhà nghỉ mùa hè của ông là nơi thích hợp với một người hùng. Sao lại không nhỉ? Tôi đến đây vào cuối tháng Năm, ngay sau ngày Tưởng niệm Liệt sỹ*. Max nói, “Chắc cậu biết Tom và Judy Gordon.” Tôi nhìn anh. Ánh mắt hai người gặp nhau. Tôi hiểu. Tôi hỏi, “Cả hai người à?” Anh gật đầu. “Cả hai.” Sau một thoáng yên lặng kính cẩn, anh nói, “Tôi muốn cậu đến xem hiện trường.” “Tại sao lại là tôi?” “Tại sao lại không? Coi như giúp tôi. Trước khi có người khác lần ra được điều gì đó. Tôi đang thiếu điều tra viên án giết người.” Kỳ thực, cảnh sát thị trấn Southold không có lấy một điều tra viên án giết người nào và điều này cũng chẳng sao vì rất ít khi có ai đó bị giết. Mà nếu có thì cảnh sát quận Suffolk sẽ nhảy vào cuộc, còn Max đứng ngoài. Max không thích điều này. Cần nói thêm một chút về nơi này. Đây là vùng North Fork của đảo Long Island, bang New York. Theo một tấm bảng trên đường cao tốc, thị trấn Southold được một số người từ New Haven, bang Connecticut dựng lên vào những năm 1640. Theo tất cả những gì được biết, những người này đang trên đường chạy trốn khỏi sự truy đuổi của nhà vua. Vùng South Fork của đảo Long Island nằm ở phía bên kia của vịnh Peconic là một Hamptons đầy sành điệu: các nhà văn, nghệ sĩ, diễn viên, các hạng người được công chúng biết đến và đủ thứ hỗn tạp khác. Còn ở North Folk này, dân cư hầu hết là nông dân, ngư dân hay đại loại như vậy. Và có lẽ có một kẻ sát nhân. Ngôi nhà của cậu Harry nằm ngay trong thôn Mattituck, khoảng một trăm dặm đường bộ từ Đường 102 Tây, nơi hai quý ông trông như dân Latinh xả mười bốn, mười lăm phát đạn chào tạm biệt, ba phát trúng vào mục tiêu di động cách chừng dăm sáu mét. Không phải là một màn trình diễn ấn tượng, nhưng tôi không chê bai hay phàn nàn gì. Thị trấn Southold chiếm phần lớn vùng North Fork, bao gồm tám thôn và một ngôi làng, có tên là Greenport. Lực lượng cảnh sát gồm khoảng bốn mươi sỹ quan có tuyên thệ và Sylvester là cảnh sát trưởng. Max nói, “Trông cậu không có vẻ đau đớn.” “Có chứ. Điều gì sẽ xảy ra nếu tôi có trát đòi ra làm chứng ngoài này vào một thời điểm không mấy dễ chịu? Tôi không được trả tiền để làm điều này.” “Tôi đã gọi cho giám viên của thị trấn và được chấp nhận cho thuê cậu về làm chính thức với tư cách cố vấn. Một trăm đô la mỗi ngày.” “Chà. Nghe như thứ công việc mà tôi phải tiết kiệm để có được.” Max tự cho mình nở nụ cười. “Này, nhưng bao cả tiền gas và điện thoại của cậu. Với lại hiện giờ cậu cũng không làm gì.” “Tôi đang cố chữa lành vết thương ở phổi bên phải.” “Công việc này cũng không nặng nhọc gì lắm.” “Làm sao anh biết.” “Đây là cơ hội để cậu trở thành công dân tốt của thị trấn Southold đấy.” “Tôi là người New York. Không ai bắt tôi phải làm công dân tốt.” “Này, cậu có biết rõ nhà Gordon không? Họ là bạn của cậu à?” “Đại loại thế.” “Vậy còn gì nữa? Đó là động cơ cho cậu. Thôi nào, John. Đứng dậy. Chúng ta đi. Tôi sẽ nợ cậu chuyện này. Đặt một vé nhé.” Quả thật, tôi đã chán ngán, nhưng vợ chồng nhà Gordon là những người tốt... Tôi đứng dậy và đặt chai bia xuống. “Tôi sẽ nhận công việc với mức lương một đô la mỗi tuần để làm chính thức.” “Tốt. Cậu sẽ không tiếc đâu.” “Đương nhiên là sẽ tiếc.” Tôi tắt nhạc bài Jeremiah Was a Bullfrog và hỏi Max, “Có nhiều máu không.” “Ít thôi, vết thương ở đầu.” “Anh nghĩ tôi có cần xỏ dép không?” “Ồ... một ít óc và xương sọ vỡ phía sau...” “Được.” Tôi xỏ dép rồi cùng Max đi vòng theo hiên ra đường xe phía trước. Tôi ngồi vào chiếc xe cảnh sát không phù hiệu của Max, chiếc Jeep Cherokee màu trắng có lắp điện đài cảnh sát với thứ âm thanh loạc xoạc. Chúng tôi đi dọc theo con đường dài từ nhà ra. Con đường được phủ bằng vỏ sò và hến cá từ trăm năm nay do cậu Harry và những người trước đó trải chúng lên đường cùng với tro và xỉ than của lò sưởi để tránh bùn và bụi. Dù sao đi nữa, chỗ này trước đây đã từng được gọi là trang trại của vịnh, giờ vẫn nằm phía trước vịnh, nhưng hầu hết diện tích của trang trại đã bị bán hết. Cây cối ở đây hơi quá lứa, chủ yếu là những thứ không còn dùng đến, như cây đầu xuân, liễu tơ và những hàng rào thủy lạp. Ngôi nhà sơn màu kem với những đường trang trí màu xanh, mái nhà cũng màu xanh. Tất cả đều rất đẹp, thực sự đẹp. Có lẽ tôi sẽ mua nó nếu mấy tay bác sĩ của cảnh sát nói tôi phải nghỉ hẳn. Tôi phải tập ho ra máu mất thôi. Về chuyện vết thương, tôi được trả lương hưu miễn thuế suốt đời vì tỉ lệ thương tật ba phần tư. Chuyện này ở Sở Cảnh sát New York chẳng khác gì đến thành phố Atlantic, sà vào sòng bạc Trump’s Castle, chúi đầu vào một chiếc máy đánh bạc trước sự chứng kiến của một luật sư chuyên về nợ. Độc đắc rồi! “Cậu nghe thấy tôi nói không?” “Gì cơ?” “Tôi nói, một người láng giềng phát hiện ra họ lúc 5 giờ 45 chiều.” “Tôi được tính lương ngay lúc này đấy à?” “Chắc chắn rồi. Mỗi người bị bắn một phát vào đầu. Người láng giềng phát hiện ra họ nằm ở hiên sau nhà.” “Max, tôi sẽ xem xét toàn bộ hiện trường. Còn người láng giềng kia thì sao?” “Đó là Edgar Murphy, một ông già. Ông ta nghe tiếng tàu của vợ chồng Gordon về lúc 5 giờ 30. Khoảng mười lăm phút sau ông ta đi qua thì thấy họ đã bị giết. Không nghe thấy tiếng súng nào.” “Ông ta dùng máy trợ thính à?” “Không. Tôi đã hỏi ông ta. Edgar nói bà vợ ông ta cũng vẫn thính tai. Vì thế, có thể là súng giảm thanh. Cũng có thể tai họ không được tốt như họ nghĩ.” “Nhưng họ đã nghe thấy tiếng con tàu. Edgar chắc chắn về thời gian à?” “Rất chắc chắn. Ông ta gọi cho chúng tôi lúc 5 giờ 51 chiều, tức là gần thời điểm đó.” “Đúng.” Tôi nhìn đồng hồ. Lúc này là 7 giờ 10 phút. Chắc hẳn ngay sau khi đến hiện trường, Max đã có ý tưởng sáng suốt là tìm tôi. Tôi đoán các nhân viên điều tra án mạng của quận Suffolk hiện đang ở đó. Có lẽ họ đến từ một thị trấn nhỏ có tên là Yaphank, nơi đặt trụ sở của cảnh sát quận và cách chỗ vợ chồng Gordon sống khoảng một giờ lái xe. Max nói đủ thứ dài dòng, còn tôi cố tập trung suy nghĩ. Nhưng đã năm tháng nay tôi chưa phải nghĩ đến những điều như thế này. Tôi định ngắt lời, “Chỉ các sự kiện chính thôi, Max!”, nhưng tôi lại để anh tiếp tục lải nhải. Cùng lúc đó, âm điệu của bài hát Jeremiah Was a Bullfrog vẫn luẩn quẩn trong đầu tôi. Các bạn biết đấy, thật sự rất khó chịu khi không thể dứt hẳn một điệu nhạc ra khỏi đầu. Nhất lại là thứ này. Tôi nhìn ra ngoài qua cửa xe. Chúng tôi chạy dọc theo con đường chính theo hướng đông-tây có cái tên nghe dễ chịu là đường Main Road, tới một nơi gọi là Nassau Point, nơi vợ chồng Gordon sống - hoặc đã từng sống. North Folk gần giống như Cape Cod, vùng đất gió lộng nhô ra biển, ba bề là nước, một nơi có nhiều sự kiện lịch sử. Dân cư bản địa không nhiều, chỉ khoảng hai mươi nghìn, nhưng lượng người đi nghỉ hè và nghỉ cuối tuần đến đây rất đông. Những xưởng sản xuất rượu vang cũng thu hút khách đến rồi đi trong ngày. Cứ thử mở một xưởng rượu, bạn sẽ có cả chục nghìn tay ăn chơi từ thành thị gần nhất đến nhâm nhi. Đố bao giờ sai. Chúng tôi rẽ theo hướng nam tới Nassau Point. Nơi đây là một dải đất dài hai dặm giống như một lưỡi dao cắt vào vịnh Great Peconic. Từ cầu tàu ở nhà tôi tới nhà Gordon khoảng bốn dặm. Nassau Point trở thành một điểm nghỉ hè từ khoảng những năm 1920. Nhà cửa ở đây từ những căn nhà gỗ đơn giản đến những tòa nhà hoành tráng. Albert Einstein cũng đã từng đến đây nghỉ hè, và chính từ đây, vào khoảng những năm 1930, ông đã biết “Bức thư Nassau Point” nổi tiếng gửi Roosevelt thúc giục ngài tổng thống tiến hành việc nghiên cứu chế tạo bom nguyên tử. Phần còn lại, như người ta nói, là cả lịch sử. Một điều thú vị là Nassau Point vẫn là nơi ở của một số nhà khoa học. Một số người làm việc tại Phòng Thí nghiệm Quốc gia Brookhaven, cơ quan nghiên cứu hạt nhân bí mật hay gì đó cách đây khoảng ba mươi lăm dặm. Một số nhà khoa học làm việc trên Đảo Plum, khu vực tuyệt mật nghiên cứu sinh học đáng sợ tới mức phải đặt nó trên một hòn đảo. Đảo Plum cách khoảng hai dặm từ mũi Orient Point, điểm cuối cùng trên đất liền ở North Folk - điểm dừng tiếp theo là châu Âu. Không phải ngẫu nhiên, Tom và Judy Gordon là hai nhà nghiên cứu sinh học làm việc trên Đảo Plum. Bạn có thể đánh cược là cả Sylvester Maxwell và John Corey đều đang nghĩ đến điều đó. Tôi hỏi Max. “Anh đã gọi cho cơ quan liên bang chưa?” Anh lắc đầu. “Sao lại không?” “Giết người không phải là tội phạm cấp liên bang.” “Anh biết tôi đang nói gì mà, Max.” Maxwell không đáp. CHƯƠNG 2 Chúng tôi đến ngôi nhà của Gordon nằm bên một con đường nhỏ trên bờ phía tây của mũi đất. Ngôi nhà là kiểu mẫu trang trại điển hình của những năm 1960, sau đó được tu sửa lại cho hợp với mốt đương đại của những năm 1990. Vợ chồng nhà Gordon gốc gác từ một nơi nào đó ở miền Trung Tây và tôi cũng không rõ lắm về con đường sự nghiệp của họ. Hai người thuê căn nhà này và có ý định mua nó, như đã có lần họ nói với tôi. Nếu tôi mà làm việc với những người đồng nghiệp như của họ, tôi sẽ chẳng có kế hoạch lâu dài nào hết. Tôi thậm chí còn không mua cả chuối xanh. Tôi chợt để ý đến quang cảnh bên ngoài xe. Trên con đường dễ chịu đầy bóng râm, một nhóm người hàng xóm và trẻ con trên xe đạp đang đứng xung quanh dưới những bóng cây dài màu tía. Họ nói chuyện và nhìn về phía ngôi nhà của Gordon. Ba chiếc xe cảnh sát của thị trấn Southold đỗ phía trước ngôi nhà cùng với hai chiếc khác không mang phù hiệu. Một chiếc xe tải nhỏ phục vụ cho khám nghiệm hiện trường đỗ giữa đường xe ra vào ngôi nhà. Một điều cần làm là không lái xe hoặc đỗ xe tại khu vực hiện trường để tránh làm mất chứng cứ. Tôi cũng phấn khởi khi thấy lực lượng cảnh sát nhà quê của Max đến lúc này cũng đã vào cuộc. Trên đường còn có hai chiếc xe của truyền hình, một của hãng tin địa phương tại đảo Long Island, một của hãng NBC News. Tôi còn thấy một đám phóng viên đang nói chuyện với những người láng giềng, chĩa micrô vào bất cứ ai mở miệng, vẫn chưa đến màn xiếc của báo chí, khi phần còn lại của những tay chuyên nặn tin nảy mò đến Long Island. Dây băng màu vàng bảo vệ hiện trường được chăng vào cây cối xung quanh, cách ly ngôi nhà và nền. Max đỗ sau chiếc xe khám nghiệm và chúng tôi đi ra. Mấy chiếc máy ảnh nháy sáng, sau đó là một loạt ánh sáng từ những chiếc máy quay lớn. Chúng tôi đang được ghi hình cho bản tin lúc 11 giờ đêm. Tôi mong sao hội đồng giám định thương tật không xem bản tin này, chưa kể mấy tên đã cho tôi ăn đạn dạo trước, chúng sẽ biết tôi đang ở đâu. Một sỹ quan mặc đồng phục đứng trên đường xe vào nhà với một cặp giấy trên tay, đó là người ghi biên bản hiện trường. Max báo cho anh ta tên, vị trí và thông tin về tôi. Vậy là tôi đã chính thức vào cuộc. Bây giờ là có thể phải chịu trát đòi của ủy viên công tố quận và các luật sư bào chữa. Đây là điều tôi thực sự không muốn chút nào, nhưng tôi đã trở lại khi số phận bắt phải thế. Chúng tôi đi theo con đường trải sỏi qua một chiếc cổng vòm ra sân sau. Sân lát bằng gỗ tuyết tùng, nhiều bậc và thấp dần ra phía vịnh, nơi có bãi đậu và con tàu của vợ chồng Gordon. Một buổi tối thật đẹp. Giá như Tom và Judy vẫn còn sống để nhìn thấy cảnh đó. Tôi quan sát đội khám nghiệm hiện trường làm việc, cộng thêm với ba viên cảnh sát của thị trấn Southold mặc đồng phục và một người phụ nữ mặc áo vét và váy đồng bộ, áo cánh màu trắng đi giày loại bền tốt. Đầu tiên tôi tưởng đó là người nhà được mời đến để nhận diện thi thể, nhưng sau thấy cô ta cầm một cuốn sổ và cây bút, trông có vẻ là người của chính quyền. Tom và Judy nằm cạnh nhau trên nền sàn gỗ tuyết tùng màu xám bạc, lưng quay vào nhau, chân hướng về ngôi nhà, đầu quay ra phía vịnh. Chân tay họ ở tư thế xiên như thể hai người đang nặn thiên thần tuyết. Một viên sỹ quan cảnh sát đang chụp ảnh thi thể. Ánh đèn flash chớp sáng chiếu lên sàn gỗ tạo ra một thứ ma quái trên những xác chết, khiến họ trông ghê sợ trong một phần nghìn giây, giống như trong phim Đêm của người chết đang sống. Tôi nhìn trân trân vào những thi thể. Tom và Judy Gordon đang ở độ tuổi trên dưới ba mươi lăm, rất đẹp, ngay cả lúc đã chết, đến mức họ đôi khi bị nhầm với những người nổi tiếng khi đi ăn tối tại những nơi sành điệu hơn. Cả hai đều mặc quần bò màu xanh, đi giày chạy bộ, áo phông có cổ. Chiếc áo của Tom màu đen với biểu trưng thủy quân lục chiến phía trước. Áo của Judy màu xanh sành điệu hơn với hình chiếc thuyền buồn màu vàng in trên ngực trái. Tôi đoán Max không nhìn thấy nhiều người bị giết trong một năm, nhưng có lẽ đã thấy đủ kiểu người chết: tự nhiên, tự tử, đâm xe để không đến nỗi tái xanh mặt. Trông anh nghiêm nghị, lo lắng, trầm tư và rất chuyên nghiệp, nhưng anh nhìn vào những thi thể kia như thể không tin rằng lại có người bị giết đang nằm đó ngay trên chiếc sàn gỗ đẹp. Còn tôi, chẳng giấu gì các bạn, làm việc ở một thành phố có khoảng 1.500 vụ giết người mỗi năm, chẳng còn xa lạ gì với cái chết, như người ta vẫn nói. Tôi không thấy cả 1.500 người bị giết, nhưng cũng đủ để không còn ngạc nhiên, ghê tởm, sốc hay buồn. Nhưng khi đó là người mà ta thân quen và yêu mến, mọi chuyện lại khác. Tôi bước ngang qua sàn gỗ đến gần Tom Gordon. Tom bị một lỗ đạn ở giữa sống mũi. Judy có một lỗ ở thái dương bên trái. Nếu xác định thủ phạm là một tên duy nhất thì Tom, một người lực lưỡng, có lẽ bị bắn trước, chỉ một phát vào đầu. Sau đó Judy sững sờ quay sang phía chồng và lãnh viên đạn thứ hai vào thái dương. Cả hai viên đạn có lẽ đã xuyên qua xương sọ của họ và rơi ra phía vịnh. Rủi thay cho khoa đạn đạo học. Tôi chưa bao giờ đến hiện trường một vụ giết người không bốc mùi - kinh khủng đến không thể tin được, nếu nạn nhân đã chết được một thời gian. Nếu ở đó có máu, tôi luôn ngửi thấy được mùi của nó. Còn nếu ổ bụng của thi thể đã bị làm thủng thì luôn có mùi đặc trưng của ruột. Đó là thứ mùi mà tôi không muốn thấy lại. Lần gần nhất tôi ngửi thấy mùi máu là của chính tôi. Dù sao đi nữa, vụ này xảy ra ở ngoài trời cũng đỡ hơn. Tôi nhìn quanh và không thấy một chỗ nào gần đó mà hung thủ có thể nấp. Chiếc cửa kéo bằng kính của ngôi nhà còn mở và có thể kẻ giết người đã ở bên trong, nhưng cũng cách vị trí của thi thể sáu mét, trong khi không mấy người có thể bắn chính xác vào đầu như vậy từ khoảng cách đó bằng một khẩu súng ngắn. Tôi là bằng chứng sống của điều này. Ở khoảng cách sáu mét, trước hết phải bắn vào người, sau đó tiến đến gần và kết thúc bằng một phát vào đầu. Vì vậy có hai khả năng: kẻ giết người sử dụng súng dài chứ không phải súng ngắn, hoặc đã tiến đến gần hai người mà không làm họ cảnh giác. Một người trông bình thường, không có vẻ gì là đe dọa, thậm chí có thể là người quen của họ. Vợ chồng Gordon đã bước ra khỏi tàu, đi lên sân và nhìn thấy người này ở một điểm nào đó và tiếp tục tiến đến. Người kia giơ súng lên từ khoảng cách không quá mét rưỡi và bắn chết cả hai vợ chồng. Tôi quan sát xung quanh hai thi thể và thấy những lá cờ nhỏ có màu được gắn nhiều chỗ trên sàn gỗ tuyết tùng. “Màu đỏ là chỉ máu à?” Max gật đầu. “Màu trắng là xương sọ, màu xám là...” “Hiểu rồi.” May mà tôi đã đi dép. Max thông báo cho tôi, “Lỗ đạn ra rất to, gần mất cả phần nửa sau của đầu. Và như anh thấy, lỗ đạn vào cũng to. Tôi đoán là loại nòng 45. Hiện vẫn chưa tìm thấy hai đầu đạn, có lẽ chúng đã bay ra và rơi xuống vịnh.” Tôi không đáp. Max đi tới phía chiếc của trượt bằng kính. Anh thông báo, “Cửa trượt bị phá, ngôi nhà bị lục tung. Đồ đạc lớn không bị mất - tivi, máy tính, đầu đĩa, tất cả mọi thứ vẫn còn. Nhưng có thể đồ trang sức và các vật dụng nhỏ bị mất.” Tôi suy nghĩ về điểm này trong giây lát. Cũng giống như những người trí thức khác làm việc cho cơ quan của chính phủ, vợ chồng Gordon không có nhiều đồ trang sức, tác phẩm nghệ thuật hay bất cứ thứ gì giống như vậy. Một gã nghiện thì sẽ khuân các thứ đồ điện tử đắt tiền hay na ná như thế rồi chuồn. Max nói, “Tôi đoán thế này - một hoặc nhiều tên trộm đang lục lọi trong nhà, chúng nhìn thấy vợ chồng Gordon đang tiến đến gần qua cửa kính, chúng bước ra sân và nổ súng rồi tẩu thoát.” Anh nhìn tôi hỏi, “Đúng không?” “Nếu anh nói như vậy.” “Đúng thế.” “Tôi hiểu.” Như thế nghe tốt đẹp hơn là căn nhà của các nhà khoa học nghiên cứu chiến tranh vi trùng tuyệt mật bị lục soát và các nhà khoa học bị sát hại. Max tiến gần đến tôi và nói nhỏ, “Cậu nghĩ gì, John?” “Một trăm đô la mỗi giờ đấy à?” “Thôi nào, anh bạn. Đừng chọc tôi nữa. Có thể đây là vụ án mạng đôi tầm cỡ thế giới đấy.” Tôi đáp, “Nhưng chẳng phải anh nói đây có thể đơn giản như chuyện chủ nhà đến hiện trường và chết sao.” “Đúng nhưng hóa ra chủ nhà lại là... là cái gì cũng được.” Anh nhìn tôi rồi nói, “Dựng lại nhé.” “Được. Anh hiểu rằng hung thủ không bắn từ chỗ cửa kính. Hắn đứng ngay trước mặt họ. Cái cửa mà anh thấy đang mở khi đó được đóng lại để vợ chồng Gordon không phát hiện ra điều gì bất thường lúc tiến gần đến ngôi nhà. Hung thủ có thể đang ngồi đây trên một trong những chiếc ghế này. Có thể gã đi đến bằng thuyền vì không muốn đỗ xe ở trước nhà để cho cả thiên hạ nhìn thấy. Hoặc cũng có thể đồng bọn đưa hắn đến đây. Trong cả hai trường hợp, vợ chồng Gordon hoặc đã biết gã hoặc không thấy phiền quá mức với sự xuất hiện của người này ở sân sau nhà mình. Và có thể đây là phụ nữ, một người xinh đẹp và hấp dẫn, vợ chồng Gordon tiến đến gần ả và ả tiến về phía họ. Hai bên có thể trao đổi một vài lời và ngay lập tức sau đó, hung thủ rút súng bắn chết họ.” Cảnh sát trưởng Maxwell gật đầu. “Nếu hung thủ đang tìm kiếm gì đó ở bên trong, có thể là đồ trang sức, tiền mặt hoặc giấy tờ tài liệu. Anh biết rồi, những thứ liên quan đến vi trùng. Gã giết vợ chồng Gordon không phải vì bất ngờ đụng với họ mà vì muốn họ chết. Gã đã chờ họ về. Anh biết tất cả những điều này mà.” Anh gật đầu. Tôi nói tiếp, “Một lần nữa, Max, tôi đã thấy nhiều vụ trộm vụng về và không thành công, trong đó chủ nhà bị giết, còn tên trộm thì chẳng lấy được gì. Nếu là trường hợp của một tên nghiện ma túy thì mọi việc chẳng có nghĩa gì cả.” Cảnh sát trưởng Maxwell xoa cằm suy nghĩ về cái khác nhau giữa một gã nghiện với khẩu súng trong tay và một kẻ ám sát lạnh lùng, hay một hạng nào đó giữa hai thứ ấy. Trong khi anh đang suy nghĩ, tôi quỳ bên cạnh hai thi thể, sát chỗ Judy. Đôi mắt cô mở rất to, trông còn nét thảng thốt. Mắt của Tom cũng mở, nhưng trông anh bình thản hơn người vợ. Đám ruồi đã đánh hơi thấy mùi máu xung quanh các vết thương. Tôi định xua chúng đi, nhưng điều đó không quan trọng. Tôi xem xét hai thi thể kỹ càng nhưng không để chạm vào bất cứ thứ gì mà đội khám nghiệm hiện trường sẽ làm việc. Tôi quan sát tóc, móng tay, da, quần áo, giày và mọi thứ. Tôi vỗ nhẹ vào má Judy và đứng dậy. Maxwell hỏi tôi, “Cậu quen biết họ bao lâu rồi?” “Từ khoảng tháng Sáu.” “Trước đây cậu đã đến ngôi nhà này lần nào chưa?” “Rồi. Anh phải hỏi tôi thêm một câu.” “Ồ... Tôi phải hỏi... Cậu ở đâu lúc 5 giờ 30 chiều?” “Cùng bạn gái anh.” Anh mỉm cười, nhưng không có ý vui vẻ. Tôi hỏi Max, “Anh biết rõ về họ không?” Ngập ngừng một lát, anh trả lời, “Chỉ xã giao thôi. Cô bạn gái kéo tôi đến các cuộc thi nếm rượu vang và những sự kiện đại loại như thế.” “Cô ấy ư? Và tại sao anh lại biết tôi quen họ?” “Họ có nói là đã gặp một cảnh sát New York đang dưỡng thương. Tôi nói là tôi biết cậu.” “Thế giới nhỏ bé thật,” tôi nói. Anh không đáp. Tôi nhìn quanh sân. Phía đông của sân là ngôi nhà. Phía nam là một dãy hàng rào cao dày, bên kia hàng rào là nhà của Edgar Murphy, người láng giềng đã phát hiện ra các thi thể. Phía bắc là một khu đầm mở chạy dài vài trăm thước đến ngôi nhà tiếp theo vừa đủ tầm mắt nhìn. Phía tây, sân chia thành ba bậc thấp dần ra phía vịnh nơi bãi đỗ tàu chạy ra khoảng ba chục mét tới vùng nước sâu hơn. Ở cuối bãi đỗ là con tàu của nhà Gordon. Đó là loại tàu cao tốc làm bằng sợi thủy tinh, màu trắng bóng lộn, kiểu Formula 3 gì đó, dài độ chín mét. Con tàu được đặt tên là Spirochete, như chúng ta biết từ Phòng Thí nghiệm Sinh học 101 là tên loại vi trùng khủng khiếp gây ra bệnh giang mai. Vợ chồng Gordon thật có khiếu hài hước. Max nói, “Edgar Murphy cho biết rằng vợ chồng Gordon thỉnh thoảng dùng tàu riêng để đi lại tới Đảo Plum. Họ đi bằng phà của chính phủ khi thời tiết xấu hoặc vào mùa đông.” Tôi gật đầu. Tôi biết điều này. Anh nói tiếp, “Tôi sẽ gọi cho Đảo Plum xem người ta có biết thời gian họ rời đảo hay không. Biển lặng, thủy triều đang lên, gió thổi từ phía đông, nên họ có thể mất thời gian nhiều nhất để đi từ đảo về đây.” “Tôi không phải là thủy thủ.” “Tôi thì biết nghề này. Có thể họ chỉ mất một giờ để đi từ Đảo Plum về đây, nhưng thường là một giờ rưỡi, tối đa là hai giờ. Ông bà Murphy nghe tiếng tàu của Gordon về khoảng lúc 5 giờ 30. Ta phải xem có thể biết được thời gian họ rời Đảo Plum hay không, sau đó sẽ có thể chắc chắn hơn một chút tiếng tàu mà ông bà Murphy nghe thấy lúc 5 giờ 30 có phải là của nhà Gordon hay không.” “Đúng.” Tôi nhìn quanh sân. Một hiên nhà và những đồ đạc bình thường - bàn, ghế, quầy bar ngoài trời, ô che nắng, và những thứ khác. Những bụi cây và cây nhỏ mọc qua các khe gỗ trên sàn, nhưng cơ bản là không có chỗ nào để một người có thể nấp và phục kích hai người đang ở ngoài sân. “Cậu đang nghĩ gì thế ?” Max hỏi. “Tôi đang nghĩ đến chiếc sàn gỗ tuyệt vời kiểu Mỹ. Gỗ to, không cần tu sửa, nhiều bậc, có trang trí. Không giống như cái hiên hẹp lỗi mốt của tôi lúc nào cũng cần tô vẽ. Nếu tôi mua căn nhà của ông chú, tôi có thể làm một chiếc sân gỗ thấp dần ra phía vịnh giống như cái này. Nhưng sau đó tôi sẽ không còn nhiều vạt cỏ nữa.” Max để một vài giây trôi qua rồi hỏi, “Đó là điều cậu nghĩ sao?” “Đúng. Còn anh đang nghĩ gì?” “Tôi đang nghĩ về một vụ giết hai mạng người.” “Tốt. Vậy cho tôi biết những điều khác anh phát hiện được ở đây đi.” “Được.” Anh chỉ ngón tay cái về phía con tàu “Khi vừa đến tôi sờ vào động cơ và thấy vẫn còn nóng, cũng như hai thi thể.” Tôi gật đầu. Mặt trời bắt đầu lặn xuống vịnh, trời tối dần và trở nên mát hơn. Tôi bắt đầu thấy lạnh với chiếc áo phông và quần soóc, lại không mặc quần lót. Tháng Chín thực sự là thời gian vàng ở vùng bờ biển Đại Tây Dương, từ Outer Banks tới Newfoundland. Ban ngày trời dịu, ban đêm dễ ngủ. Đó là mùa hè mà không nóng, không ẩm, mùa thu không có những cơn mưa lạnh. Những đàn chim mùa hè vẫn chưa rời đi, những con chim di cư đầu tiên từ phương bắc đang nghỉ lại trên đường xuống phương nam. Nếu tôi rời Manhattan và sống ở đây, tôi sẽ hòa vào thiên nhiên này, sẽ đi thuyền, câu cá và làm mọi thứ như thế. Max nói tiếp, “Và một điều nữa - sợi dây được quấn quanh cái cọc.” “Ồ, có một điểm đột phá trong vụ này rồi. Sợi dây nào?” “Là sợi dây buộc tàu. Dây không buộc chặt vào mấu cọc trên bãi mà chỉ quấn tạm vào những chiếc cột lớn nhô khỏi mặt nước. Tôi đoán là họ định đi tiếp ra ngoài bằng tàu ngay sau đó.” “Nhận xét tốt đấy.” “Cậu có ý tưởng nào không?” “Không.” “Bất cứ nhận định nào của riêng cậu?” “Tôi nghĩ anh đã có trước tôi rồi, thưa Cảnh sát trưởng.” “Giả thuyết, ý nghĩ, linh cảm. Có thứ gì không?” “Không.” Maxwell dường như muốn nói điều gì khác, kiểu như “Cậu bị sa thải”, nhưng thay vào đó lại bảo “Tôi phải đi gọi điện.” Anh đi khuất vào trong ngôi nhà. Tôi nhìn lại những thi thể. Người phụ nữ với bộ đồ nâu nhạt đang dùng phấn vẽ xuống sàn xung quanh Judy. Ở thành phố New York, người làm việc này là phải là nhân viên điều tra, và tôi đoán ở đây cũng thế. Mục đích là để cho người điều tra viên theo đuôi vụ án tới khi kết thúc và làm việc với ủy viên công tố quận phải biết và làm việc trong toàn bộ vụ án ở phạm vi có thể. Vì thế, tôi kết luận, người phụ nữ trong bộ đồ nâu nhạt là một điều tra viên và được phân công điều tra vụ án này. Tôi kết luận thêm rằng tôi sẽ đi đến chỗ phải đối phó với cô nàng nếu quyết định giúp Max trong vụ này. Hiện trường của một vụ giết người là một trong những nơi thú vị nhất trên thế giới nếu bạn biết mình đang tìm kiếm gì và đang quan sát cái gì. Hãy xem những người như Tom và Judy, họ quan sát những con vi trùng dưới kính hiển vi và có thể nói tên của lũ vi trùng, hiện chúng đang làm gì, chúng có khả năng tác động như thế nào đối với người đang quan sát chúng, v.v... Nhưng nếu tôi mà nhìn vào đám vi trùng thì cái mà tôi thấy chỉ là những đường vạch ngoằn ngoèo nhỏ. Tôi không có cái đầu hay đôi mắt được đào tạo để nghiên cứu vi trùng. Tuy nhiên, khi nhìn vào xác chết và hiện trường xung quanh cái xác đó, tôi thấy được những điều mà đa số mọi người không nhìn thấy. Max chạm vào động cơ của con tàu và những thi thể rồi nhận ra rằng cả hai còn ấm. Anh thấy con tàu được buộc như thế nào và cả chục chi tiết nhỏ khác mà một người bình thường không nhận ra được. Nhưng Max chưa phải một điều tra viên thực thụ, anh vẫn thuộc loại hạng hai, trong khi giải quyết một vụ án mạng như thế này cần phải có tầm cao hơn nhiều. Anh biết vậy, và đó là lí do tại sao anh gọi tôi. Ngẫu nhiên tôi lại có quen biết với nạn nhân. Đối với một điều tra viên thì đây là một lợi thế lớn. Ví dụ, tôi biết rằng vợ chồng Gordon thường mặc quần soóc, áo phông cộc tay, đi giầy da mềm ở trên tàu tới Đảo Plum. Khi làm việc, họ mặc quần áo của phòng thí nghiệm hoặc bộ đồ chống nguy hiểm sinh học hay thứ gì đó. Còn nữa, Tom trông không giống Tom trong chiếc áo phông màu đen, còn Judy như tôi nhớ là người ưa màu lạt hơn. Tôi đoán rằng họ ăn mặc như vậy là để ngụy trang, còn giầy thể thao là để chạy cho nhanh. Nhưng cũng phải nói lại, có thể chính tôi đang dựng ra manh mối. Phải rất cẩn thận mới tránh được việc này. Nhưng trên dây giầy của họ còn có vết đất đỏ. Vậy là từ đâu ra? Không phải là từ phòng thí nghiệm, có lẽ cũng không phải là ở đường đi bộ ra bãi đỗ tàu phà của Đảo Plum, không phải trên tàu của họ, cũng không phải ở bãi đỗ và sàn sân nhà này. Có vẻ như họ đã ở đâu đó ngày hôm nay, cách họ ăn mặc cũng khác, và đương nhiên, ngày hôm nay cũng kết thúc theo cách khác. Còn có điều gì khác đang diễn ra ở đây. Tôi không biết là cái gì, nhưng rõ ràng là có một điều khác. Tuy nhiên, vẫn còn khả năng họ tình cờ đụng phải một vụ trộm, nghĩa là vụ này không liên quan gì đến công việc của họ. Vấn đề là Max lo ngại về điều đó và nhạy cảm với nó, và nó đã lây sang tôi, xin lỗi các bạn về cách chơi chữ này. Và trước nửa đêm, Cục Điều tra Liên bang FBI, Tình báo Quân đội và cả CIA sẽ viếng thăm nơi này. Trừ khi Max tóm được một tên trộm nghiện ngập trước lúc đó. “Xin lỗi.” Tôi quay về phía phát ra giọng nói. Đó là người phụ nữ mặc đồ nâu nhạt. Tôi nói, “Không có gì.” “Xin lỗi, anh có nhiệm vụ ở đây à?” “Tôi ở đây với đội.” “Anh là sỹ quan cảnh sát?” Rõ ràng chiếc áo phông và quần soóc của tôi không hợp với hình ảnh của một nhân viên thực thi pháp luật. Tôi đáp, “Tôi đi cùng Cảnh sát trưởng Maxwell.” “Tôi thấy rồi. Anh đã ghi tên vào hiện trường chưa?” “Sao cô không đi kiểm tra?” Tôi quay người và bước xuống tầng sân gỗ phía dưới, tránh đụng vào những lá cờ nhỏ in màu. Tôi hướng ra phía bãi đỗ tàu. Cô nàng đi theo tôi. “Tôi là điều tra viên Penrose từ đội điều tra án mạng quận Suffolk. Tôi phụ trách điều tra vụ này.” “Xin chúc mừng.” “Và trừ khi anh có trách nhiệm ở đây...” “Cô phải nói với cảnh sát trưởng.” Tôi bước xuống bãi đỗ tàu ra tới chỗ buộc con tàu của vợ chồng Gordon. Gió thổi lộng và mặt trời đã khuất hẳn. Lúc này tôi không còn thấy chiếc thuyền nào ngoài vịnh, trừ một vài con tàu gắn động cơ chạy qua với đèn pha bật sáng. Một vầng trăng khuyết đã mọc lên từ phía đông nam, tỏa ánh sáng lung linh trên mặt nước. Thủy triều đã lên cao và con tàu dài mười mét ở gần ngang với cầu tàu. Tôi nhảy lên boong. “Anh làm cái gì đấy? Anh không được làm thế.” Nàng rất đẹp, tất nhiên rồi, nếu xấu thì tôi đã tử tế hơn nhiều. Cách ăn mặc của nàng, như tôi thấy, khá đơn giản, nhưng cơ thể dưới lớp quần áo nghiêm chỉnh kia là một bản giao hưởng của những đường cong, một giai điệu của da thịt đang cố thoát tác. Quả thực, trông nàng như một kẻ buôn lậu giấu trong mình những trái bóng căng phồng. Điều thứ hai tôi nhận ra là trên tay nàng không có nhẫn cưới. Điền vào phần còn lại trong mẫu: tuổi hơn ba mươi một chút; tóc dài trung bình, màu nâu đồng; mắt xanh pha giữa màu da trời và màu lá cây; da trắng, không nhiều ánh nắng cho mùa này trong năm; trang điểm nhẹ; môi khêu gợi; không tì vết hoặc sẹo nhìn thấy được; không khuyên tai; không đánh móng tay; nét tức giận thể hiện trên mặt. “Anh có nghe tôi nói không?” Nàng còn có giọng nói ngọt ngào ngay cả với âm điệu như lúc này. Tôi đoán có lẽ vì gương mặt xinh đẹp, cơ thể tuyệt vời và giọng nói mềm mại nên điều tra viên Penrose khó mà làm người khác suy nghĩ nghiêm túc, và vì thế mà nàng cố bù lấp bằng thứ quần áo trông như của đàn ông. Có lẽ nàng còn có một cuốn sách tựa đề là Ăn mặc để làm nổ bóng. “Anh có nghe tôi nói không?” “Tôi đang nghe. Cô có nghe tôi nói không? Tôi bảo cô đi nói chuyện với ông cảnh sát trưởng.” “Tôi phụ trách ở đây. Trong các vụ giết người, cảnh sát quận...” “Thôi được, chúng ta sẽ cùng đi gặp cảnh sát trưởng. Chỉ một phút thôi.” Tôi quan sát nhanh xung quanh con tàu, nhưng trời đã tối nên tôi không thấy gì nhiều. Tôi cố tìm một chiếc đèn pin. Tôi nói với Penrose, “Cô nên cử một nhân viên ở đây suốt đêm.” “Cám ơn vì đã chia sẻ ý nghĩ của anh. Xin hãy ra khỏi chiếc tàu.” “Cô có mang theo đèn pin không?” “Ra khỏi tàu! Ngay lập tức.” “Được.” Tôi bước lên thành tàu. Điều ngạc nhiên với tôi là nàng lại đưa tay cho tôi nắm. Da nàng mát rượi. Nàng kéo tôi lên cầu tàu và cùng một lúc, nhanh như một con mèo, tay phải nàng thò vào dưới áo tôi chộp ngay khẩu súng bên hông. Ái chà. Nàng lùi lại, tay cầm khẩu súng của tôi. “Đứng nguyên tại chỗ.” “Vâng, thưa cô.” “Anh là ai?” “Điều tra viên John Corey, Sở Cảnh sát New York, chuyên điều tra án mạng, thưa quí cô.” “Anh làm gì ở đây.” “Giống như cô thôi.” “Không. Vụ này tôi làm. Không phải anh.” “Có đấy, thưa cô.” “Anh có tư cách chính thức gì ở đây không?” “Có, thưa cô. Tôi được thuê làm cố vấn.” “Cố vấn? Trong một vụ án mạng? Tôi chưa bao giờ nghe thấy cái này.” “Tôi cũng vậy.” “Ai thuê anh.” “Thị trấn này.” “Vớ vẩn.” “Đúng.” Nàng dường như không biết phải làm gì tiếp theo, nên để tỏ sự sẵn lòng giúp đỡ, tôi nói, “Cô có muốn khám người tôi không?” Tôi nghĩ là mình nhìn thấy dưới ánh trăng một nụ cười thoáng qua trên đôi môi nàng. Trái tim tôi đang oằn lên vì nàng, hay có thể là cái lỗ thủng trong phổi tôi đang kiếm chuyện. Nàng hỏi tôi, “Vừa nãy anh nói tên anh là gì?” “John Corey.” Nàng tìm kiếm trong trí nhớ mình. “Ồ... anh là anh chàng...” “Chính là tôi. May cho tôi.” Nàng dường như dịu lại, quay khẩu súng một vòng rồi đưa cho tôi, báng súng chìa ra trước. Nàng quay người bước đi. Tôi đi theo nàng dọc theo cầu tàu qua ba bậc sân lên nhà. Những ánh đèn bên ngoài chiếu sáng cả khu vực xung quanh các cửa kính. Những con bướm đêm vây quanh các bóng đèn. Max đang nói chuyện với một người trong đội kỹ thuật hình sự. Anh quay sang tôi và Penrose rồi hỏi, “Hai bạn đã gặp nhau chưa?” Penrose bật lại, “Sao lại có anh ta tham gia vụ này?” Max đáp, “Vì tôi muốn cậu ấy tham gia.” “Đó không phải là quyết định của anh, thưa cảnh sát trưởng.” “Và cũng không phải của cô.” Hai người cứ lời qua tiếng lại, còn tôi thì phát ngán. Tôi nói, “Cô ấy đúng, thưa cảnh sát trưởng. Tôi ra khỏi chỗ này. Cho tôi đi nhờ xe về nhà.” Tôi quay người bước ra phía chiếc cổng vòm, rồi với một chút đóng kịch có chuẩn bị trước, tôi quay đầu lại phía Maxwell và Penrose nói, “Tiện thể, xin hỏi có ai lấy chiếc thùng nhôm ở đằng sau con tàu không.” Max hỏi, “Thùng nhôm nào?” “Vợ chồng Gordon có một chiếc thùng nhôm lớn họ dùng để chứa những thứ lặt vặt, có khi dùng làm thùng đá để bia và mồi câu.” “Nó ở đâu?” “Đấy là điều tôi muốn hỏi anh.” “Tôi sẽ tìm.” “Ý tưởng hay đấy.” Tôi quay người bước qua cổng ra bãi cỏ phía trước, xa hẳn những chiếc xe cảnh sát. Những người láng giềng đã tụ tập bởi sự hiếu kỳ một cách bệnh hoạn khi tin tức về vụ giết hai mạng người lan đi trong cộng đồng nhỏ bé này. Một vài chiếc máy quay hướng về phía tôi, sau đó ánh đèn chiếu bật lên, soi sáng cả tôi và phần trước của ngôi nhà. Máy quay bắt đầu chạy, các phóng viên hướng về phía tôi. Giống y như dạo trước. Tôi đưa tay lên miệng giả vờ ho, nhỡ đâu có người trong hội đồng giám định thương tật đang ngồi xem truyền hình, chưa kể đến cô vợ cũ của tôi. Một viên cảnh sát mặc đồng phục từ sân sau tiến ra phía tôi. Chúng tôi lên một chiếc xe mang hiệu của cảnh sát thị trấn Southold và đi ra. Anh chàng cảnh sát tên là Bob Johnson. Anh ta hỏi tôi, “Anh nghĩ thế nào, điều tra viên?” “Họ bị giết.” “Ồ, không đùa đâu.” Anh chàng ngập ngừng rồi hỏi, “Này, anh có nghĩ chuyện này có liên quan đến Đảo Plum không?” “Không.” “Nói anh biết nhé - Tôi đã chứng kiến nhiều vụ trộm, còn đây không phải trộm. Mọi thứ trông có vẻ giống như một vụ trộm, nhưng đó là lục lọi - anh hiểu không? Bọn chúng tìm kiếm thứ gì đó.” “Tôi không nhìn vào bên trong.” “Vi trùng.” Anh ta liếc sang tôi. “Vi trùng. Vi trùng trong chiến tranh vi trùng. Tôi nghĩ vậy. Có đúng không?” Tôi không đáp. Johnson nói tiếp, “Đó là điều xảy ra với chiếc thùng đá. Tôi nghe thấy anh nói thế.” Tôi vẫn không đáp. “Có nhiều lọ thủy tinh nhỏ hay thứ gì đó ở trong chiếc thùng. Đúng không? Ý tôi là, lạy Chúa, có thể có đủ thứ đó để quét sạch cả đảo Long Island... cả thành phố New York.” Có lẽ là cả hành tinh này, Bob, tùy thuộc đó là loại vi trùng nào và khả năng phát triển của chúng từ số lượng ban đầu. Tôi nghiêng người về phía sỹ quan Johnson, nắm lấy cánh tay để khiến anh ta chú ý hơn. Tôi nói, “Đừng có hé một tiếng thối tha nào về chuyện này. Anh hiểu không?” Anh ta gật đầu. Chúng tôi lái xe trong im lặng trở về nơi ở của tôi. CHƯƠNG 3 Ai cũng cần có một chỗ để lui tới thường xuyên, ít nhất là với cánh mày râu. Khi ở thành phố, tôi thường đến câu lậc bộ Nghệ thuật Quốc gia và nhấm nháp rượu se-ri cùng những người có văn hóa và tao nhã. Cô vợ cũ của tôi cũng không thể nào tin được điều đó. Còn ở đây, tôi thường tới một nhà hàng có tên là Olde Towne Taverne*, dù tôi thường tránh những nơi có nhiều chữ “e” câm ở cuối như vậy. Tôi nghĩ chính phủ phải phân phối một nghìn chữ “e” câm cho cả New England và Long Island, và khi đã sử dụng hết thì không ai được dùng thêm nữa. Dù sao đi nữa, Olde Towne Taverne cũng nằm trong khu thương mại Mattituck dài chừng một con phố và thực sự rất đẹp. Quán OTT này khá tốt, làm theo kiểu phục vụ khách đi tàu sớm, mặc dù đó là một quán rượu và cách biển đến một dặm. Quán làm bằng gỗ màu rất sẫm, sàn lát ván gỗ sồi. Thứ mà tôi thích là những chiếc đèn lồng kính màu hổ phách tỏa thứ ánh sáng dịu dàng khắp xung quanh làm thay đổi tâm trạng con người. Vì thế tối nay tôi cũng đang ở quán OTT, lúc đó đã gần 10 giờ. Đám đông tối thứ hai đang xem chương trình Trận đấu - đội Dallas gặp New York trên sân Medowlands. Đầu óc tôi nhảy nhót qua mọi thứ, trận đấu, vụ án mạng, đồ ăn, và cả cô hầu bàn có cái mông như để quảng cáo cho máy tập NordicTrack. Tôi ăn vận lịch sự hơn hồi chiều, mặc đồ buổi tối với quần bò Levi’s, áo phông có cổ của hãng Ralph, giày Sperry xịn, đồ lót Hanes một trăm phần trăm cốt tông. Trông tôi giống như đi quảng cáo cho một hãng thời trang nào đó. Tôi ngồi bên một chiếc bàn cao tới ngực ở gần quầy bar. Chỗ ngồi xem ti vi rất tốt và món ăn tôi thích ở trước mặt - thịt băm có lẫn phó mát, khoai tây chiên, cánh gà rán và một chai bia Budweiser, một sự hài hòa giữa những thứ màu nâu và màu vàng. Điều tra viên Penrose của cảnh sát quận cứ như chui lên từ đằng sau tôi, và điều tiếp theo tôi biết là cô nàng đang ngồi trên chiếc ghế đối diện tôi, tay cầm cốc bia, đầu chắn cả màn hình tivi. Nàng nhìn chăm chú bữa tối của tôi, đôi lông mày nàng cong lên. Nàng nhìn tôi rồi nói, “Max nghĩ tôi có thể tìm anh ở đây.” “Cô có muốn một ít khoai tây chiên không?” “Không, cám ơn.” Nàng do dự, rồi nói, “Tôi nghĩ chúng ta đã làm quen với nhau theo cách không được hay lắm.” “Nói sai rồi. Tôi không để tâm chuyện bị người khác cầm súng của mình chĩa vào người đâu.” “Này, tôi đã nói chuyện với Max, và tôi nghĩ rằng ... nếu cảnh sát thị trấn muốn anh làm cố vấn, điều đó không có vấn đề gì với tôi. Và nếu anh muốn chuyển cho tôi thứ gì đó mà anh nghĩ là có ích, xin cứ gọi cho tôi.” Nàng đưa cho tôi danh thiếp. Tôi đọc, “Điều tra viên Elizabeth Penrose.” Bên dưới là dòng chữ “Đội Điều tra án mạng”, sau đó là địa chỉ văn phòng, số fax, điện thoại, v.v... Ở bên trái là con dấu của quận Suffolk với dòng chữ “Tự do và Độc lập” quanh một con bò trông gớm ghiếc. Tôi bình luận, “chân dung cô không được giống cho lắm.” Nàng chìn chằm chằm vào tôi, quai hàm nàng như nghiến lại, hai lỗ mũi mở to khi nàng hít một hơi dài. Nàng giữ được bình tĩnh, một điều đáng khâm phục. Có thể tôi là người khó chịu. Tôi nhoài người qua bàn cho tới khi mũi hai người cách nhau bằng một trái bóng đá. Mùi của nàng dễ chịu, giống mùi xà bông và sạch sẽ. Tôi nói, “Nghe đây, Elizabeth, bỏ mấy chuyện tào lao đi. Cô biết rằng tôi quen vợ chồng Gordon, trước đây tôi đã tới nhà họ, đã đi ra ngoài trên con tàu của họ, có thể tôi đã gặp bạn bè, đồng nghiệp của họ, có thế họ đã tiết lộ cho tôi đôi chút về công việc của họ vì tôi là cảnh sát, có thể tôi biết nhiều hơn cô và Max cộng lại, và có thể cô đúng về điều đó. Vì thế, cô nhận ra là đã làm phật ý tôi, còn Max khó chịu với cô, rồi cô tới đây để xin lỗi, và cô cho phép tôi được gọi cho cô, nói với cô những điều tôi biết. Chà, một cơ hội tuyệt vời cho tôi đây. Tuy nhiên, nếu tôi không gọi cho cô trong một hai ngày tới, cô sẽ gọi tôi tới văn phòng của cô để thẩm vấn. Vậy khỏi cần giả đò để tôi làm cố vấn, là cộng sự của cô, là bạn cô, hay một người cung cấp tin tự nguyện. Xin cho biết địa điểm và thời gian cô cần lấy lời khai của tôi.” Tôi ngồi trở lại và để ý đến món khoai tây. Penrose yên lặng một lúc, rồi nói, “Ngày mai, tại văn phòng của tôi.” Nàng vỗ nhẹ vào tấm danh thiếp, “Chín giờ sáng. Đừng đến muộn.” Nàng đứng dậy, đặt cốc bia xuống và rời khỏi quán. Đội New York có bóng ở vị trí số ba và số sáu, nhưng cái gã tiền vệ ngu ngốc kia lại ném trái bóng lên năm chục thước. Gặp ngọn gió chết tiệt, trái bóng cứ lơ lửng ở đó như một quả khí cầu Chúc mừng năm mới, ba cầu thủ nhận bóng và ba tay bên đội Dallas đứng phía dưới giơ tay lên nhảy múa như thể họ đang cầu mưa hay thứ gì đó. “Xin lỗi.” “Ngồi xuống đi.” Nàng ngồi, nhưng đã quá muộn, tôi đã bỏ mất pha đánh chặn. Đám đông trên sân vận động và trong quán OTT đang sắp phát điên, mấy tay ở quầy bar hô lên, “Chạy qua hàng rào!” mặc dù không có lá cờ vàng nào ở đó nhưng anh chàng của đội Dallas vẫn chạy về phía vòng năm mươi. Tôi xem lại pha quay chậm. Không chạy qua hàng rào. Đôi khi tôi ao ước có thể quay chậm lại những quãng đời mình giống thế này. Như cuộc hôn nhân của tôi, đó là một chuỗi những quyết định sai lầm. Nàng nói, “Tôi sẽ trở lại hiện trường ngay bây giờ. Có người từ bộ Nông nghiệp tới gặp tôi lúc mười một giờ. Ông ta đến từ Manhattan. Anh có muốn đến đó không?” “Cô không có một cộng sự nào để gây khó chịu à?” “Anh ta đang đi nghỉ. Thôi nào, điều tra viên, bắt đầu lại từ đầu nhé.” Nàng đưa tay ra. Tôi nhắc nàng, “Lần trước cầm tay cô, tôi bị mất súng và cả sỹ diện đàn ông.” Nàng cười, “Thôi nào, bắt tay.” Tôi bắt tay nàng. Da nàng ấm. Trái tim tôi như bén lửa. Hay món khoai tây rán đang chạy ngược lên trên. Khó mà nói khi đã ngoài bốn mươi tuổi. Tôi nắm tay nàng một lát rồi nhìn vào khuôn mặt tuyệt vời của nàng. Bốn mắt nhìn nhau, một ý nghĩ không đàng hoàng cùng chạy qua trong đầu hai chúng tôi. Nàng thôi nhìn trước. Đó là điều phải làm, nếu không sẽ thành dở hơi. Cô hầu bàn xinh xắn bước tới, tôi gọi hai bia. Cô hỏi tôi, “Ông có cần bát ớt đã gọi nữa hay thôi ạ?” “Cần hơn bao giờ hết.” Cô dọn một số bát đĩa rồi đi lấy bia và ớt. Tôi yêu đất nước này. Điều tra viên Penrose bình luận, “Anh chắc phải có dạ dày bằng thép.” “Nói thật là toàn bộ dạ dày tôi đã bị lấy ra sau khi tôi bị bắn. Thực quản được nối trực tiếp với ruột.” “Ý anh là miệng anh được nối thẳng tới hậu môn?” Tôi nhướng mày. Nàng nói, “Tôi xin lỗi vì sự thô lỗ. Chúng ta sẽ bắt đầu lại chứ.” “Chẳng ích gì. Quay người lại mà xem trận đấu.” Nàng quay người lại, chúng tôi xem trận đấu và uống bia. Đến giờ nghỉ giữa hiệp với tỉ số hòa 7-7, nàng nhìn đồng hồ rồi nói, “Tôi phải đi gặp người của bộ Nông nghiệp.” Nếu các bạn đang băn khoăn về cái thứ bộ Nông nghiệp này, tôi xin nói thêm, Đảo Plum về danh nghĩa là một cơ sở của bộ Nông nghiệp, nghiên cứu về bệnh động vật, bệnh than và tất cả những thứ đó. Nhưng có tin đồn rằng nơi này không chỉ có vậy. Tôi nói, “Đừng để người của bộ Nông nghiệp phải chờ.” “Anh có muốn đi cùng không?” Tôi suy nghĩ về lời mời này. Nếu đi cùng, tôi sẽ tham gia sâu hơn vào vụ án, dù nó là cái gì đi nữa. Một mặt, tôi thích khám phá các vụ giết người, và tôi quý vợ chồng Gordon. Trong vòng mười năm trong nghề điều tra án mạng, tôi đã tống cổ hai mươi sáu kẻ giết người vào tù, trong đó hai gã mới nhất đủ tiêu chuẩn để được ưu tiên theo luật tử hình mới, những quy định đã đưa đến một góc độ khác cho các vụ án mạng hiện nay. Nhưng đây lại là một vụ rất khác, và tôi thì ở xa đất của mình. Còn nữa, người của bộ Nông nghiệp, giống như hầu hết các công chức chính phủ, không bị tóm đi làm việc ban đêm, thế nên cái gã kia có lẽ là CIA hoặc FBI, Tình báo Bộ Quốc phòng hay cơ quan nào đó kiểu như vậy. Điều này không quan trọng gì. Sẽ có thêm những người như thế đến trong đêm nay hoặc ngày mai. Không, tôi không cần vụ này với một đô la mỗi tuần hay một nghìn đô la mỗi ngày, hay bất cứ cái giá nào. “Này? Xin chào?” Tôi nhìn nàng. Làm sao có thể nói không với một người phụ nữ đáng điểm 10? Tôi nói, “Tôi sẽ gặp cô ở đó.” “Tốt. Tôi nợ anh thế nào vì chỗ bia nhỉ?” “Để tôi trả.” “Cám ơn. Gặp anh sau nhé.” Nàng bước ra phía cửa. Với trận đấu đang nghỉ giữa hiệp, năm chục gã đàn ông trong cái quán OTT này cuối cùng cũng nhận ra có một cô nàng xinh đẹp không thể tin được ở đây. Một vài tiếng huýt sáo và lời mời mọc nàng ở lại. Tôi ngó qua một chút chương trình giữa hai hiệp đấu. Tôi ước gì họ đã cắt béng cái dạ dày tôi đi vì lúc này nó đang bơm axit vào những vết viêm loét. Món ớt được mang đến, nhưng tôi khó mà ăn hết bát. Tôi uống hai viên Zantac, rồi một viên Maalox, mặc dù bác sỹ chuyên khoa dạ dày nói không nên uống chung. Thực sự là sức khỏe một thời tráng kiện của tôi đã xuống dốc rõ kể từ vụ hôm 12 tháng Tư. Thói quen ăn uống, ngủ của tôi chưa bao giờ tốt. Chuyện ly hôn và công việc cũng tác động không nhỏ. Tôi đã bắt đầu cảm thấy mình ở tuổi tứ tuần, bắt đầu cảm thấy sự kết thúc của mình. Đôi khi trong giấc ngủ, tôi nhớ lại mình nằm trong rãnh nước, người đầy máu và nghĩ, “Mình đang xoay tròn quanh chiếc cống, mình đang tụt xuống cống.” Rồi dần dần, tôi bắt đầu cảm thấy những thứ như cô hầu bàn với bộ mông NordicTrack, và khi Elizabeth Penrose bước vào quầy bar, thằng nhỏ của tôi ngóc dậy và căng lên. Đúng là tôi đang hồi phục, và chắc chắn là tôi còn ở hình dạng tốt hơn vợ chồng Gordon. Tôi thoáng nghĩ về Tom và Judy. Tom là anh chàng tiến sỹ không ngại giết tế bào thần kinh của mình bằng bia và rượu vang, và tôi nhớ khi anh nướng thịt bò trên lò. Anh là người thực tế, đến từ bang Indiana hay Illinois hay một nơi nào đó nói nhiều giọng mũi. Anh ít nói về công việc của mình và thường pha trò với mối nguy hiểm, như tuần trước khi một cơn bão nhiệt đới đang hướng đến khu vực này, anh bảo, “Nếu nó vào Đảo Plum, anh có thể gọi nó là cơn bão Bệnh Than, và chúng ta có thể hôn mông mình tạm biệt.” Ha, ha, ha! Giống như chồng, Judy cũng là một tiến sỹ. Cô người vùng Trung Tây, không kiêu căng, bản chất tốt, mạnh mẽ, hài hước và đẹp. John Corey hay bất cứ người đàn ông nào gặp cô cũng đều có cảm tình. Judy và Tom dường như đã gắn bó với cái tỉnh gần biển này trong hai năm kể từ khi họ đến đây. Họ có vẻ cũng thích đi tàu và tham gia vào hội Lịch sử Peconic. Ngoài ra, họ còn bị mê hoặc bởi những xưởng sản xuất rượu vang và trở thành những người sành sỏi về loại rượu này của Long Island. Họ đã trở thành bạn với một số nhà sản xuất rượu vang, trong đó có Fredric Tobin, người đã tổ chức các buổi dạ tiệc hậu hĩ tại lâu đài của mình. Tôi đã tham dự một buổi như vậy với tư cách là khách của vợ chồng Gordon. Là một cặp vợ chồng, Tom và Judy có vẻ hạnh phúc, đằm thắm, chu đáo, biết sẻ chia và hội tụ của tất cả những gì tốt đẹp của thập kỷ 1990. Tôi thực sự chưa bao giờ nhận ra điều gì không phù hợp giữa hai người. Nhưng điều đó không có nghĩa họ là những con người hoàn hảo, một cặp vợ chồng hoàn hảo. Tôi lục lọi trong trí nhớ xem có thứ gì đó như một sai sót chết người, những thứ đôi khi khiến người ta bị giết. Ma túy? Có lẽ không. Không chung thủy? Cũng có thể, nhưng ít khả năng. Tiền? Họ không có nhiều để bị lấy cắp. Vì thế chỉ còn lại một là thứ công việc kia. Tôi nghĩ về điều đó. Nhìn bề ngoài, có vẻ như vợ chồng Gordon đang bán những con siêu vi trùng và có điều gì đó xảy ra không như ý muốn, và họ bị khử. Theo dòng suy nghĩ đó, tôi nhớ lại có lần Tom tâm sự với tôi rằng nỗi lo sợ lớn nhất của anh, ngoài việc bị nhiễm bệnh, là một ngày nào đó anh và Judy bị bắt cóc khỏi tàu, một chiếc tàu ngầm của Iran hay nước nào đó xuất hiện và mang họ đi, và sẽ không còn ai nhìn thấy hay nghe thấy họ một lần nào nữa. Điều này có vẻ hơi cường điệu đối với tôi, nhưng tôi nhớ đã từng nghĩ rằng vợ chồng Gordon phải có nhiều thứ trong đầu mà một số người muốn có. Vì vậy có thể vụ giết người ban đầu là một vụ bắt cóc nhưng không thành. Tôi suy nghĩ về điều này. Nếu vụ giết người liên quan đến nghề nghiệp, phải chăng vợ chồng Gordon là những nạn nhân vô tội, hay họ là những kẻ phản bội dám bán sự chết chóc vì hám của? Họ bị giết bởi một thế lực nước ngoài hay do một ai đó gần nhà giết? Tôi nghiền ngẫm về điều này bằng khả năng tốt nhất có thể trong cái quán OTT ồn ào với những câu chuyện tào lao trong giờ nghỉ giữa hiệp, với men bia trong đầu, với axit trong dạ dày. Tôi gọi thêm một cốc bia và uống thêm một viên Maalox. Bác sỹ dạ dày chưa bao giờ nói tại sao tôi lại không được uống lẫn. Tôi cố gắng nghĩ về những điều không thể tưởng tượng được, về anh chàng Tom điển trai, hạnh phúc và Judy xinh đẹp, hoạt bát đang bán thứ bệnh tật kinh khủng cho những kẻ điên rồ. Tôi nghĩ về những hồ chứa nước mang đầy mầm bệnh tật, hay có thể là những chiếc bình phun trên máy bay reo rắc cho khắp New York hoặc Washington, nghĩ về hàng triệu người ốm, thoi thóp và chết... Tôi không thể tưởng tượng vợ chồng Gordon lại có thể làm điều đó. Mặt khác, mỗi người đều có một cái giá. Trước đây tôi tự hỏi làm sao họ có đủ tiền để thuê căn nhà sát biển và mua con tàu đắt tiền đó. Giờ có thể tôi đã biết, và cả lý do tại sao họ lại cần một con tàu cao tốc và một căn nhà với cầu tàu riêng. Tất cả đều có lý do, và bản năng mách bảo tôi không được tin vào những gì rõ ràng. Tôi boa hậu hĩnh cho cô nàng NordicTrack và quay trở lại hiện trường vụ án. CHƯƠNG 4 Hơn mười một giờ đêm, tôi lái xe dọc theo con đường nhỏ dẫn đến ngôi nhà của vợ chồng Gordon, vầng trăng khuyết soi sáng bầu trời đêm. Một làn gió nhẹ dễ chịu mang theo hơi biển lùa qua cửa chiếc xe Jeep Grand Cherokee Limited màu xanh rêu của tôi. Nó là niềm đam mê trị giá 40.000 đô la mà John Corey suýt chết hụt nghĩ là gã mang nợ chính mình. Tôi dừng lại cách ngôi nhà năm chục thước, cho xe “đỗ” và lắng nghe thêm một vài phút tường thuật trận đấu Giants-Dallas rồi mới tắt máy. Một giọng nói cất lên, “Đèn trước của bạn vẫn còn bật.” “Câm mồm.” Tôi đáp lại, “Câm.” Tôi tắt đèn trước. Có rất nhiều lựa chọn trong cuộc sống, nhưng có một thứ mà bạn không bao giờ được chọn, đó là “Chức năng Cảnh báo và Nhắc nhở bằng Âm thanh.”* Tôi mở cửa. “Chìa khóa xe của bạn vẫn để trên ổ. Bạn chưa kéo phanh tay.” Đó là giọng phụ nữ, và tôi thề có Chúa là nghe giống hệt giọng cô vợ cũ của tôi. “Cám ơn, cưng.” Tôi rút chìa khóa, bước xuống và đóng mạnh cửa xe. Những chiếc xe và đám đông trên con phố nhỏ đã thưa bớt, và tôi đoán rằng hai thi thể đã được mang đi. Một sự thật của cuộc sống là sự xuất hiện của chiếc xe chở xác thường làm thỏa mãn hầu hết khán giả và báo hiệu kết thúc màn một. Còn nữa, tất cả bọn họ đều muốn được thấy mình trên bản tin lúc mười một giờ. So với lần trước tôi đến đã có thêm người của cảnh sát: một chiếc xe lưu động của cảnh sát quận Suffolk đỗ trước ngôi nhà gần chiếc xe kỹ thuật hình sự. Chiếc xe mới này là một đài chỉ huy có thể mang theo nhân viên điều tra, điện đài, máy fax, điện thoại, thiết bị ghi hình và các thứ đồ công nghệ cao khác tạo thành kho vũ khí trong cuộc chiến chống tội phạm không bao giờ kết thúc. Tôi nhận ra một chiếc trực thăng trên đầu, và dưới ánh trăng, tôi biết đó là của cảnh sát. Mặc dù không nghe thấy giọng của người phóng viên, tôi đoán có lẽ họ đang nói gì đó đại loại như. “Bi kịch đã xảy ra đối với cộng đồng trên đảo Long Island đặc biệt này vào đầu giờ tối nay.” Sau đó là một đoạn phim về Đảo Plum, vân vân và vân vân. Tôi đi qua đám những người đến muộn nhất, cố tránh bất cứ ai trông giống phóng viên. Tôi bước qua dải băng vàng và ngay lập tức làm một viên cảnh sát của Southold chú ý. Tôi ra hiệu cho anh chàng và được chào lại. Người ghi biên bản hiện trường mặc đồng phục đến gần tôi với một chiếc cặp giấy và tờ ghi mốc thời gian. Một lần nữa tôi cho anh ta tên, nghề nghiệp, cùng những thứ được yêu cầu. Đây là thủ tục bắt buộc và được thực hiện trong suốt quá trình điều tra tội phạm, bắt đầu từ khi nhân viên đầu tiên đến hiện trường và tiếp tục cho đến khi nhân viên cuối cùng rời đi và hiện trường được trả lại cho người chủ sở hữu. Dù thế nào đi nữa, họ đã ghi tên tôi hai lần và tôi càng dính sâu hơn vào vụ này. Tôi hỏi người nhân viên mặc đồng phục, “Anh đã ghi tên một người của bộ Nông nghiệp chưa?” Anh ta đáp lại mà không cần nhìn vào biên bản, “Chưa.” “Nhưng có một người của bộ Nông nghiệp ở đây. Đúng không?” “Anh phải hỏi cảnh sát trưởng Maxwell.” “Tôi đang hỏi tại sao anh vẫn chưa ghi tên người này vào.” “Anh phải hỏi cảnh sát trưởng Maxwell.” “Tôi sẽ hỏi.” Thực ra, tôi đã biết câu trả lời. Họ không gọi những gã ma mãnh đó đến mà chẳng để làm gì cả. Tôi đi quanh tới sân sau, trên chiếc sàn gỗ. Ở vị trí vợ chồng Gordon nằm lúc trước là hai hình vẽ bằng phấn, trông rất ma quái dưới ánh trăng. Một tấm nhựa trong mềm phủ lên chiếc đĩa lớn ở phía sau hai hình vẽ nơi sự sống ra đi. Về điều này, như tôi đã nói, may là vụ này xảy ra ở ngoài nhà và không có mùi tử khí còn vương lại. Tôi ghét thứ mùi này mỗi khi tôi trở lại hiện trường của một vụ giết người xảy ra trong nhà và vẫn còn mùi ở đó. Tại sao tôi không thể gạt thứ mùi đó ra khỏi đầu óc tôi? Ra khỏi khứu giác tôi? Ra khỏi cổ họng tôi? Tại sao lại thế? Hai viên cảnh sát Southold mặc đồng phục ngồi bên chiếc bàn tròn dưới hiên, uống những ly cà phê Styrofoam đang bốc khói. Tôi nhận ra một trong hai người là Johnson, người có lòng tốt chở tôi về nhà và tôi đã đáp lại hơi sỗ với anh ta. Thế giới quả là nghiệt ngã, và tôi là một trong những người làm cho nó như thế. Johnson nhìn tôi hơi khó chịu. Bước xuống phía cầu tàu, tôi nhận ra bóng một nhân viên mặc đồng phục khác. Tôi mừng vì có ai đó nghe lời khuyên của tôi cử người đứng gác cạnh chiếc tàu. Không còn ai khác xung quanh, tôi đi vào ngôi nhà qua chiếc cửa trượt, bên trong cửa là một phòng khách lớn và phòng ăn ghép chung. Tôi đã đến đây, tất nhiên, và nhớ lại Judy nói rằng hầu hết đồ đạc đều có sẵn cùng ngôi nhà thuê mà cô tả là theo kiểu Scandinavi xuất xứ từ Đài Loan. Một vài người trong nhóm khám nghiệm vẫn quanh quẩn ở đó. Tôi hỏi một trong số họ, một quý cô trông gợi cảm chuyên về vân tay đang âm thầm làm việc, “Cảnh sát trưởng Maxwell?” Cô nàng chỉ ngón tay cái qua vai nói, “Bếp. Đừng chạm vào bất cứ thứ gì từ đây tới đó.” “Vâng, thưa quý cô.” Tôi bước nhẹ qua tấm thảm Berber vào trong bếp, nơi dường như đang diễn ra một cuộc thảo luận. Có mặt trong đó gồm Max, đại diện cho thị trấn Southold có chủ quyền, Elizabeth Penrose, đại diện cho quận Suffolk tự do và độc lập, một người đàn ông trong bộ đồ tối màu không cần phù hiệu FBI, một người đàn ông khác ăn mặc giản dị hơn với áo khoác vải bông chéo và quần bò, áo sơ mi đỏ tươi, giày ống đi bộ, cố bắt chước cho giống một viên chức của bộ Nông nghiệp đã từng rời nhiệm sở và phải đi thăm một trang trại. Tất cả mọi người đều đứng, như thể họ đang tạo ra ấn tượng theo nghĩa đen là nghĩ trên đôi chân của mình. Có một chiếc hộp bằng bìa các tông cứng đựng các cốc cà phê Styrofoam, và mỗi người cầm một cốc trên tay. Tôi nghĩ một điều đáng chú ý và rất quan trọng là những người này không nhóm họp trên chiếc xe chỉ huy lưu động mà lại đứng khuất trong bếp. Điều bất ngờ là Max lại cố đỏm dáng trước các nhân viên của cơ quan liên bang hoặc cả báo chí bằng một chiếc cà vạt ngớ ngẩn có in hình cờ hàng hải. Elizabeth vẫn mặc bộ đồ sẫm, nhưng đã bỏ chiếc áo khoác ngoài, để lộ một khẩu 38 và hai khẩu 36 D để trong bao da. Một chiếc tivi đen trắng nhỏ đặt trên giá, đang bật một trong các kênh thời sự, tiếng để nhỏ. Bản tin đang phát về chuyến thăm của tổng thống tới một nơi kỳ lạ gồm toàn người lùn. Max nói với hai gã kia, “Đây là điều tra viên John Corey, án giết người...” rồi để lửng như thế mà không nhắc đến chuyện địa bàn thuộc thẩm quyền của tôi bắt đầu và kết thúc cách đây khoảng một trăm dặm về phía tây. Max chỉ vào gã mặc đồ tối và nói, “John, đây là Goerge Foster, FBI...” Anh nhìn vào gã mặc quần bò xanh nói, “... còn đây là Ted Nash, bộ Nông nghiệp.” Chúng tôi bắt tay một vòng. Tôi thông báo cho Penrose, “Những gã Khổng lồ ghi bàn trong phút đầu tiên của hiệp ba.” Nàng không đáp. Max chỉ về phía chiếc hộp đụng ly cà phê và hỏi, “Cà phê?” “Không, cám ơn.” Penrose là người đứng gần tivi nhất và nghe thấy gì đó trên bản tin thời sự, nàng mở to thêm tiếng. Tất cả chúng tôi đều chú ý lên màn hình. Một nữ phóng viên đang đứng trước ngôi nhà của Gordon. Chúng tôi bỏ mất đoạn mào đầu và nghe thấy, “Hai nạn nhân trong vụ giết người đã được xác định là các nhà khoa học làm việc lại phòng thí nghiệm bệnh động vật tuyệt mật của chính phủ trên Dảo Plum cách đây vài dặm.” Một cảnh quay từ trên không ghi hình Đảo Plum ở khoảng cách sáu trăm mét. Hình ảnh quay vào ban ngày, nên chắc chắn là lấy trong kho tư liệu. Từ trên không, hòn đảo trông giống hệt như một miếng sườn lợn, và tôi đoán nếu bạn muốn có ý mỉa mai về bệnh sốt ở lợn ... Ngoài ra, Đảo Plum lớn khoảng ba dặm ở đoạn dài nhất và khoảng một dặm ở đoạn rộng nhất. Người phóng viên bằng giọng thuyết minh nói, “Đây là Đảo Plum vào mùa hè vừa qua khi đài chúng tôi làm một phóng sự về những tin đồn liên tục rằng hòn đảo này là nơi nghiên cứu chiến tranh vi trùng.” Ngoài những cụm từ đã nhàm chán, cô ta nói đúng về những tin đồn. Tôi nhớ một bức tranh biếm họa mà tôi từng xem trên tờ Nhật báo Phố Wall, trong đó cố vấn giáo dục ở trường học nói với bố mẹ của một học sinh rằng, “Con trai ông bà là đứa bất lương, đầu óc bần tiện, không trung thực và thích phao tin đồn. Tôi khuyên nên theo nghề báo chí.” Đúng. Và tin đồn có thể dẫn đến sự hoảng loạn. Tôi chợt nghĩ vụ này phải được nhanh chóng bịt kín. Người phóng viên đã trở lại và xuất hiện phía trước ngôi nhà của Gordon và thông báo, “Chưa có ai khẳng định vụ giết vợ chồng Gordon có liên quan đến công việc của họ trên Đảo Plum, nhưng hiện cảnh sát đang điều tra.” Trở lại phòng thu hình. Penrose tắt tiếng và hỏi Foster, “FBI có muốn công khai can dự vào vụ này không?” “Không phải lúc này.” Foster nói thêm, “Điều đó làm mọi người nghĩ là có chuyện thực sự.” Nash nói, “Bộ Nông nghiệp không quan tâm chính thức tới vụ này vì không có sự liên quan giữa công việc của vợ chồng Gordon và cái chết của họ. Bộ sẽ không ra công bố công khai, trừ việc thể hiện sự đau buồn trước việc hai nhân viên được yêu mến và tận tụy bị giết hại.” Amen. Tôi nói với Nash, “À này, anh quên ký vào đây.” Gã nhìn tôi, hơi ngạc nhiên và rất khó chịu, đáp lại, “Tôi sẽ ... cám ơn anh vì nhắc tôi.” “Bất cứ lúc nào. Trong mọi lần.” Sau một phút tán gẫu kiểu quan hệ công chúng, Max nói với hai quý ông Foster và Nash, “Điều tra viên Corey có quen biết với hai người chết.” Quý ông FBI tỏ ra quan tâm và hỏi tôi, “Anh quen biết họ như thế nào?” Bắt đầu trả lời các câu hỏi không phải là một ý hay - nó tạo cho người ta ý nghĩ rằng bạn là một người cộng tác, mà tôi thì không phải. Tôi không đáp. Max trả lời hộ tôi, “Corey biết vợ chồng Gordon vì quan hệ xã hội, chỉ khoảng ba tháng. Tôi đã quen John khoảng mười năm.” Foster gật đầu. Rõ ràng gã có thêm các câu hỏi khác và trong lúc đang do dự hỏi tiếp, Penrose nói, “Điều tra viên Corey đang biết một báo cáo đầy đủ những điều mình biết về vợ chồng Gordon. Tôi sẽ trao đổi báo cáo đó với tất cả các cơ quan hữu quan.” Tin mới đối với tôi. Nash đang đứng dựa vào một thành bếp nhìn tôi. Chúng tôi, hai gã đàn ông nổi nhất trong căn phòng, nhìn nhau chằm chằm. Chúng tôi kết luận rằng hai bên không ưa gì nhau, và một trong hai người phải đi. Ý tôi là không khí đặc chất hoóc môn đàn ông đến mức giấy dán tường cũng đang ướt dần. Tôi quay sang Max và Penrose hỏi, “Chúng ta đã xác định được đây không đơn giản là một vụ giết người chưa. Tôi đã bỏ lỡ một cuộc họp hay gì đó.” Ngài Ted Nash cuối cùng cũng đáp lạnh lùng, “Chúng ta đang nghi vấn, thưa điều tra viên. Chúng ta không có bằng chứng cụ thể nào chứng minh vụ giết người này có liên quan đến vấn đề ... thôi, nói thẳng ra, vấn đề an ninh quốc gia.” Tôi nhận xét, “Tôi chưa bao giờ biết là bộ Nông nghiệp lại tham gia vào chuyện an ninh quốc gia. Các anh có bò mật vụ không?” Nash tặng tôi một nụ cười kiểu “đ. mẹ mày” và nói, “Chúng tôi có những con sói trong bộ lốt của cừu.” “Trúng rồi.” Ngu như lợn! Foster xen vào trước khi câu chuyện đi đến chỗ không mấy hay ho và nói, “Chúng tôi đến đây như một biện pháp phòng ngừa, thưa điều tra viên. Sẽ rất là tắc trách nếu chúng tôi không kiểm tra chuyện này. Tất cả chúng tôi đều hy vọng đây chỉ là một vụ giết người không liên quan đến Đảo Plum.” Tôi nhìn qua George Foster. Gã chừng ba mươi tuổi, mắt sáng, tóc cắt gọn, điển hình của một nhân viên FBI. Gã mặc bộ đồ FBI màu tối, sơ mi trắng, cà vạt sẫm màu, đi giày đen cứng. Tôi quay sang gã Ted Nash mặc quần bò. Gã gần với tuổi tôi hơn, da rám nắng, tóc quăn muối tiêu, mắt pha màu xanh và xám, dáng khá ấn tượng, tất cả kết hợp trong một thứ mà các quý cô gọi là anh chàng lực lưỡng. Đó là lí do tôi không thích gã, tôi đoán thế. Ý tôi là nên có bao nhiêu anh chàng lực lưỡng trong một căn phòng. Đáng ra tôi đã có thể dễ chịu hơn với gã nếu gã không nhìn chằm chặp vào Elizabeth Penrose, mà nàng lại đang nhận những ánh mắt đó và đưa đẩy trở lại. Tôi không có ý nói là họ đang đưa tình và ngây dại nhìn nhau. Chỉ là mắt chạm mắt trong khoảnh khắc và thể hiện vừa phải, nhưng mà chỉ có mù thì mới không đoán được cái gì đang diễn ra trong những cái đầu đen tối của họ. Hừm, cả cái hành tinh khốn nạn này sắp nhiễm bệnh than và chết hết, vậy mà hai kẻ kia lại như chó động đực, làm tình bằng mắt với nhau khi đang có một việc quan trọng phải giải quyết. Thật là khó chịu. Max cắt ngang luồng suy nghĩ của tôi và nói, “John, chúng ta vẫn chưa tìm ra hai đầu đạn bắn vào đầu họ, nhưng có thể giả định rằng chúng bay ra ngoài vịnh. Sáng sớm mai chúng ta sẽ dùng lưới vét và cử người lặn xuống tìm.” Anh ta nói thêm, “Cũng không tìm thấy vỏ đạn.” Tôi gật đầu. Súng lục tự động sẽ đẩy vỏ đạn ra, còn súng ổ quay thì không. Nếu vũ khí sử dụng là loại tự động thì hung thủ đã đủ bình tĩnh để cúi xuống nhặt hai vỏ đạn. Cho đến lúc này, chúng tôi cơ bản vẫn chưa có được dấu vết gì. Hai phát bắn vào đầu, không đầu đạn, không vỏ đạn, hàng xóm không nghe tiếng nổ. Tôi lại nhìn về phía Nash. Gã có vẻ của một người đang lo lắng, và tôi mừng là giữa những ý nghĩ nhảy nhót về Penrose, gã vẫn còn nghĩ đến chuyện cứu hành tinh này. Thực ra, mọi người trong bếp dường như đều đang nghĩ đến những điều gì đó, có lẽ là những con vi trùng, và có lẽ họ đang tự hỏi không biết lúc thức dậy họ có những nốt chấm đỏ hay gì đó trên người hay không. Ted Nash đến chỗ chiếc hộp các tông và hỏi Penrose, “Một cốc nữa nhé, Beth?” Beth? Cái tên chết tiệt gì...? Nàng mỉm cười, “Không, cám ơn anh.” Dạ dày của tôi đã dịu xuống. Tôi đến chỗ tủ lạnh kiếm một chai bia. Giá để đồ trong tủ gần như trống trơn. Tôi hỏi, “Max, anh lấy hết đồ trong này đi rồi à.” “Phòng thí nghiệm đã lấy mọi thứ không có nhãn mác của nhà sản xuất.” “Mọi người muốn uống bia không?” Không ai trả lời. Tôi lấy một chai Coors Light, bật nắp và tợp một ngụm. Tôi nhận ra tám con mắt nhìn vào mình, như thể họ đang chờ đợi điều gì xảy ra. Mọi người trở nên kỳ quặc khi họ nghĩ mình đang ở trong một môi trường bị nhiễm độc. Tôi có một ý muốn điên rồ là ôm lấy cổ mình, ngã xuống sàn rồi co giật liên hồi. Nhưng không phải tôi đang ở cùng đám bạn bè ở Bắc Manhattan, những người sẽ cười chảy nước mắt vì sợ bệnh tật. Vì vậy tôi bỏ qua cơ hội để pha chút khôi hài vào câu chuyện nghiêm túc này. Tôi nói với Max, “Cứ nói tiếp đi.” Max nói, “Chúng tôi đã tìm kiếm toàn bộ ngôi nhà và không phát hiện thấy bất cứ thứ gì không bình thường hoặc quan trọng, ngoại trừ một nửa số ngăn kéo vẫn còn nguyên vẹn, một số thậm chí trông còn không giống là đã bị lục soát, sách ở trên giá không bị kéo ra. Việc làm giả cho giống vụ trộm khá nghiệp dư.” Tôi nói, “Cũng có thể là một tên nghiện đang lên cơn và không thực sự tập trung. Hoặc có thể thủ phạm bị phá ngang, hoặc thủ phạm muốn tìm kiếm gì đó và đã tìm được.” “Có thể.” Max nói. Mọi người trông đều trầm ngâm, cái vẻ bề ngoài hợp lý cho việc chưa tìm ra manh mối. Điều đáng chú ý trong vụ án mạng đôi này vẫn là chuyện bắn người ở ngoài nhà, pằng, pằng, ngay trên sàn sân mà không có khúc mở đầu dài. Kẻ giết người không cần hoặc muốn thứ gì khác từ vợ chồng Gordon, ngoại trừ cái chết của họ. Vì thế, đúng, hoặc là hắn đã lấy được thứ mình cần ở trong nhà, hoặc vợ chồng Gordon đang mang theo cái hắn muốn, nhìn thấy ngay được, tức là chiếc thùng đá lạnh. Vậy lại trở lại với chiếc thùng đá bị mất. Và kẻ giết người quen biết vợ chồng Gordon, và họ cũng biết hắn. Tôi tin là vậy. Chào Tom, Chào Judy. Pằng, pằng. Họ ngã xuống, chiếc thùng rơi xuống... không, trong đó có những lọ nhỏ đựng các loại virut chết người. Chào Tom, chào Judy. Để cái thùng xuống. Pằng, pằng. Họ gục xuống. Hai viên đạn xuyên qua đầu họ bay ra vịnh. Còn nữa, hắn phải dùng ống giảm thanh. Không có gã chuyên nghiệp nào lại bắn hai phát súng nổ to đùng ở ngoài trời. Súng có lẽ là loại tự động, vì súng ổ quay không khớp lắm với ống giảm thanh. Tôi hỏi Max, “Nhà Murphy có nuôi chó không.” “Không.” “Được... Anh có tìm thấy tiền, ví, hay bất cứ thứ gì trên người nạn nhân không?” “Có. Họ mang ví kiểu thể thao. Mỗi người có một thẻ nhân viên của Đảo Plum, giấy phép lái xe, thẻ tín dụng và các thứ khác. Tom có ba mươi bảy đô la tiền mặt, Judy có mười bốn đô la.” Rồi anh nói thêm. “Mỗi người có một tấm ảnh của người kia.” Đôi khi, chính những thứ nhỏ nhặt lại trở nên quan trọng, làm cho nó trở thành cái riêng của từng người. Nên bạn phải nhớ nguyên tắc thứ nhất: không được để tình cảm xen vào - điều đó không thành vấn đề, Correy, nếu đó là một đứa bé bị giết, hay một bà già tốt bụng, hay một Judy xinh đẹp đã từng nháy mắt với bạn, và một anh chàng Tom muốn bạn yêu các loại rượu vang mà anh thích và đã nướng thịt bò cho bạn. Trong một vụ giết người, điều quan trọng không phải nạn nhân là ai mà là kẻ giết người là ai. Max nói, “Tôi đoán cậu đã biết chúng tôi chưa tìm được cái thùng đá đó. Cậu có chắc về chiếc thùng không?” Tôi gật đầu. Foster cho tôi nghe quan điểm thận trọng của gã. “Chúng tôi nghĩ vợ chồng Gordon mang theo chiếc thùng và kẻ giết người muốn có thứ ở bên trong, mà thứ bên trong là cái anh biết.” Gã nói thêm, “Tôi nghĩ vợ chồng Gordon đang bán những thứ đó và hợp đồng đổ bể.” Tôi nhìn quanh cuộc họp trong phòng bếp. Thật khó mà đọc được gì trên khuôn mặt của những người chuyên đọc ý nghĩ của người khác trên mặt. Tuy nhiên, tôi vẫn có cảm giác rằng lời nói của George Foster là điều mọi người đều đồng ý. Vì vậy, nếu mọi người suy nghĩ đúng, sẽ có hai giả định - thứ nhất, vợ chồng Gordon thực sự ngu ngốc, không bao giờ nghĩ đến chuyện có người muốn có đủ virut và vi khuẩn để giết chết hàng tỉ người lại có thể giết họ không chút do dự; thứ hai là giả định rằng vợ chồng Gordon hoàn toàn không quan tâm đến hậu quả của việc họ bán thứ hàng chết người lấy tiền. Điều tôi biết chắc chắn là Tom và Judy không hề ngu ngốc, cũng không phải người nhẫn tâm. Tôi cũng giả định rằng kẻ giết người không hề ngu ngốc, và tôi tự hỏi liệu hắn có biết hoặc có thể khẳng định thứ chứa trong thùng là đồ thật hay không. Làm sao hắn có thể biết được? Chào Tom, Chào Judy. Có mang virut đấy không? Tốt. Pằng, pằng. Có? Không? Tôi tưởng tượng các tình huống có và không có chiếc thùng, có và không có người mà vợ chồng Gordon chắc phải biết, v.v... Ngoài ra, gã hoặc những gã giết người kia đi đến nhà Gordon bằng phương tiện gì? Tàu? Xe hơi? Tôi hỏi Max, “Có phương tiện gì lạ không?” Max đáp, “Trong số những người chúng tôi hỏi không có ai nhìn thấy bất cứ phương tiện lạ nào. Hai chiếc xe của vợ chồng Gordon vẫn ở trong gara.” Anh nói thêm, “Ngày mai đội kỹ thuật hình sự sẽ mang hai chiếc xe cùng con tàu về phòng giám định.” Penrose lần đầu tiên nói trực tiếp với tôi, “Có khả năng kẻ giết người đến bằng tàu. Đó là giả thuyết của tôi.” Tôi nói với nàng, “Cũng có khả năng, Elizabeth, kẻ giết người đến bằng một trong những chiếc xe của Gordon mà hắn hoặc bọn chúng đã mượn. Tôi thật sự nghĩ là hai bên biết nhau.” Nàng nhìn chằm chặp vào tôi rồi nói hơi cộc lốc, “Tôi nghĩ đó là tàu, thưa điều tra viên Corey.” “Có thể tên giết người đi bộ tới đây, hoặc đi xe đạp, hoặc xe máy. Cũng có thể hắn bơi đến đây, hoặc được chở tới. Cũng có thể lướt ván hoặc nhảy dù. Có thể kẻ giết người là Edgar Murphy và vợ ông ta.” Nàng nhìn tôi chòng chọc, tôi chắc là nàng nổi cáu. Tôi biết ánh mắt đó. Tôi đã lấy vợ rồi mà. Max xen vào, “Còn có điều này đáng chú ý, John, theo nhân viên an ninh của Đảo Plum, vợ chồng Gordon ra ngoài vào buổi trưa, lên tàu và rời đảo. Bạn có thể nghe thấy tiếng chiếc tủ lạnh trong sự im lặng. Foster nói, “Có khả năng vợ chồng Gordon đã giấu thứ gì đó mà họ định bán ở trong một cái vịnh hay lạch nhỏ trên Đảo Plum, họ đi tàu tới đó để lấy lại. Hoặc có thể họ ra khỏi phòng thí nghiệm với chiếc thùng đá trong tay, mang nó lên tàu và rời đảo. Sau đó họ gặp bên mua ở ngoài vịnh và giao chiếc thùng đựng các lọ thủy tinh nhỏ trên biển, vì vậy khi họ trở lại đây đã không mang theo chiếc thùng, nhưng họ lại có tiền. Họ đụng tên giết người ở đây, hắn bắn chết hai người và lấy tiền mang đi.” Tất cả chúng tôi đều cân nhắc tình huống đó. Tất nhiên sẽ phải đặt câu hỏi, nếu đã giao hàng trên biển thì tại sao chúng lại không giết họ ngay trên biển? Khi những người điều tra án mạng nói về một vụ giết người hoàn hảo, thường đó là một vụ giết người trên biển ngoài khơi xa - không có hoặc có rất ít dấu vết chứng cứ, thường không ai nghe tiếng nổ, không nhân chứng, trong hầu hết các trường hợp không có thi thể. Và nếu được thực hiện một cách hoàn hảo, nó còn giống một vụ tai nạn. Điều hiển nhiên đối với mọi người là những kẻ sát thủ chuyên nghiệp khi vừa mới có được trong tay một thứ vi trùng giết người sẽ không gây sự chú ý bằng việc giết hai người của Đảo Plum trên sân sau nhà họ. Mọi việc vẫn có vẻ giống như thể vợ chồng Gordon tình cờ bắt gặp một vụ trộm. Nhưng bất cứ ai dựng ra nó đều không thực sự thuyết phục. Tất cả đều có vẻ hơi nghiệp dư, hoặc có thể được thực hiện bởi những người nước ngoài ít khi xem các chương trình của cảnh sát Mỹ trên tivi. Hay còn điều gì khác? Vậỵ còn thời gian năm tiếng rưỡi từ khi vợ chồng họ rời Đảo Plum vào buổi trưa cho đến khi ông Murphy nghe thấy tiếng tàu của vợ chồng Gordon lúc 5 giờ 30 thì sao? Họ đã ở đâu? Max nói, “Đó là tất cả những gì chúng ta có cho đến lúc này, John. Chúng ta sẽ có báo cáo của phòng giám định vào ngày mai, và có những người ta sẽ phải nói chuyện trong ngày mai. Cậu có nghĩ ra ai chúng ta nên gặp không? Bạn bè của vợ chồng Gordon?” “Tôi không biết ai là bạn của nhà Gordon, và theo hiểu biết tốt nhất của tôi, họ không có kẻ thù.” Tôi nói với Nash, “Trong khi đó, tôi muốn nói chuyện với người trên Đảo Plum.” Nash đáp, “Anh có thể nói chuyện với một số người làm việc trên Đảo Plum.” Gã nói thêm, “Nhưng vì lợi ích an ninh quốc gia, tôi phải có mặt trong tất cả các cuộc phỏng vấn.” Tôi đáp bằng cái giọng New York nanh nọc nhất của mình, “Đây là một vụ điều tra giết người, nhớ chưa? Đừng có giở cái giọng đó với tôi.” Không khí trong bếp hơi căng thẳng. Tôi thỉnh thoảng có làm việc với các nhân viên FBI và cơ quan Phòng chống ma túy, họ khá dễ chịu - vì họ là cớm. Còn những kẻ ma cà rồng như gã Nash này thực sự như cái gai ở mông. Gã thậm chí không nói mình là người của CIA, Tình báo bộ Quốc phòng, Tình báo Quân đội hay một cơ quan huyền bí nào đó. Điều tôi biết chắc chắn là gã không phải người của bộ Nông nghiệp. Max cảm thấy mình là chủ nhà trong cuộc họp của những con người khác biệt này, có lẽ vậy, nên anh lên tiếng, “Tôi không thấy có vấn đề gì với chuyện Ted Nash có mặt trong các cuộc phỏng vấn hoặc thẩm vấn.” Anh nhìn sang Penrose. Cô nàng thân mến Beth liếc tôi một cái rồi nói với Nash, cái gã làm tình bằng mắt, “Tôi cũng thấy không có vấn đề gì.” George Foster nói, “Bất cứ cuộc gặp, phỏng vấn, thẩm vấn hay buổi làm việc nào Ted có mặt, FBI cũng sẽ có mặt.” Tôi thực sự lộn ruột, tự hỏi không biết Max có định bơm thêm hay không. Gã Foster có lý tiếp tục, “Lĩnh vực quan tâm của tôi là khủng bố trong nội địa. Ted Nash quan tâm đến hoạt động gián điệp nước ngoài.” Gã nhìn tôi, Max và Penrose rồi nói, “Các bạn đang điều tra một vụ giết người theo luật của bang New York. Nếu tất cả chúng ta đều không cản đường của nhau thì sẽ không có chuyện gì. Tôi sẽ không làm điều tra viên án giết người nếu các bạn không làm những người bảo vệ của thế giới tự do. Công bằng? Hợp lý? Khả thi? Hoàn toàn như vậy.” Tôi nhìn Nash và hỏi thẳng, “Anh làm việc cho ai?” “Tôi không được phép nói vào lúc này.” Gã thêm, “Không phải bộ Nông nghiệp.” “Lừa tôi.” Tôi mỉa mai. “Các anh ghê thật.” Penrose đề nghị, “Điều tra viên Corey, chúng ta có thể ra ngoài nói chuyện?” Tôi lờ không để ý đến nàng và tiếp tục dồn Nash. Tôi cần có bảy điểm cần tìm hiểu, và tôi biết làm cách nào để có được. Tôi nói với Nash, “Chúng tôi muốn đến Đảo Plum đêm nay.” Gã tỏ vẻ ngạc nhiên. “Đêm nay? Không còn chuyến phà nào hoạt động...” “Tôi không cần phà của nhà nước. Chúng tôi sẽ đi bằng tàu cảnh sát của Max.” “Chuyện này không được.” Nash nói. “Tại sao?” “Hòn đảo là nơi cấm người ngoài.” Gã nói. “Đây là một cuộc điều tra án mạng,” tôi nhắc gã. “Chẳng phải chúng ta vừa đồng ý rằng cảnh sát trưởng Maxwell, điều tra viên Penrose và tôi đang điều tra một vụ án mạng hay sao?” “Nhưng không phải trên Đảo Plum.” “Có chứ.” Tôi thích cái trò này. Thực sự thích. Tôi hy vọng là Penrose đang nhận ra gã này ngu cỡ nào. Nash nói, “Giờ này không có ai trên Đảo Plum.” Tôi đáp, “Có nhân viên an ninh trên đảo, và tôi muốn nói chuyện với họ. Ngay bây giờ.” “Sáng mai và không phải trên đảo.” “Bây giờ và ở trên đảo, hoặc là tôi sẽ đánh thức một ông thẩm phán dậy và lấy lệnh khám.” Nash nhìn chằm chằm vào tôi và nói, “Khó có chuyện một thẩm phán địa phương lại ra lệnh khám xét một cơ sở của chính phủ Mỹ. Anh cũng cần có một trợ lý công tố viên và một thẩm phán liên bang. Có lẽ anh biết mình là một điều tra viên về các vụ án mạng, và anh biết rằng không có luật sư hay thẩm phán liên bang nào hào hứng với chuyện ký một lệnh khám như vậy nếu liên quan đến an ninh quốc gia. Vì vậy, không phải dọa nhau.” “Nếu tôi dọa thì sao?” Cuối cùng, Max cũng hiểu đủ về Nash khi cái lốt cừu của gã đang bị lột ra. Max nói với Nash, “Đảo Plum có thể là của chính phủ, nhưng nó là một phần của thị trấn Southold, quận Suffolk, bang New York. Tôi muốn anh lấy giấy phép cho chúng tôi lên đảo vào ngày mai, hoặc là chúng tôi sẽ xin lệnh của tòa án.” Nash lần này cố lấy giọng dễ chịu. “Thực sự là không cần phải tới đảo mà, ông cảnh sát trưởng.” Điều tra viên Penrose tự thấy nàng đứng về phía tôi, tất nhiên rồi, và nói với người bạn mới của nàng, “Chúng tôi phải giữ quyết định đó, Ted.” Ted? Chà, tôi đã bỏ lỡ một đoạn trong thời gian tồi tệ tôi đến muộn. Ted và Beth nhìn nhau, những tâm hồn bị tra tấn, giằng xé giữa sự đối nghịch và chuyện tục tĩu kia. Cuối cùng, Ted Nash, người của cơ quan An ninh Sinh học hay gì đó, nói, “Thôi được .... tôi sẽ gọi điện về chuyện này.” “Ngày mai, buổi sáng.” Tôi nói. “Không muộn hơn.” Foster không bỏ lỡ cơ hội để vặn thêm Nash, “Tôi nghĩ là chúng đã đồng ý với nhau rằng sẽ tới đó vào sáng ngày mai, Ted.” Nash gật đầu. Lúc này gã đã thôi nháy mắt với Beth Penrose và đang tập trung những cảm xúc của hắn về phía tôi. Gã nhìn tôi, nói, “Đến một lúc nào đó, điều tra viên Corey, nếu chúng tôi xác định rằng đã có một vụ phạm tội cấp liên bang, có lẽ chúng tôi sẽ không cần thêm sự phục vụ của anh.” Tôi đã khiến gã Ted ngu ngốc này bộc lộ tính nhỏ nhen, và tôi biết khi nào thì rời sàn đấu trong chiến thắng. Tôi đã phản công bằng một loạt đòn mồm miệng, hạ gục gã Ted bóng mượt và giành lại tình yêu của Penrose. Tôi tuyệt thật. Tôi thực sự cảm thấy khá lên, cảm thấy giống như cái tính không mấy dễ chịu ngày trước một lần nữa. Tuy nhiên, những tính cách này cũng cần phải châm lửa vào mông. Đối đầu là chuyện tốt. Cạnh tranh mới là Mỹ. Điều gì sẽ xảy ra nếu các cầu thủ của hai đội Dallas và New York là bạn thân của nhau? Bốn nhân vật kia giờ đang nói chuyện phiếm, khua khoắng chiếc hộp các tông và uống cà phê, cố gắng lấy lại sự thân thiện và cân bằng mà họ có trước khi Corey này đến. Tôi lấy thêm một chai bia trong tủ lạnh, sau đó nói với Nash bằng một giọng rất chuyên nghiệp. Tôi hỏi gã, “Thứ vi trùng mà họ nghiên cứu ở Đảo Plum là loại gì vậy? Ý tôi là, tại sao có ai đó, một thế lực nước ngoài nào đó, lại muốn có loại vi trùng gây bệnh lở mồm long móng hoặc bệnh bò điên? Cho tôi biết tôi phải lo lắng điều gì để nếu tối nay tôi không ngủ được, tôi có một cái tên cho nó.” Nash im lặng hồi lâu, sau gã hắng giọng nói, “Tôi nghĩ anh biết mức độ nghiêm trọng ở đây như thế nào...” Gã nhìn tôi, Max và Penrose rồi nói, “Bất kể mọi người ở đây đủ hay không đủ tiêu chuẩn về an ninh thì cũng đều là sỹ quan cảnh sát có tuyên thệ, nên...” Tôi nhã nhặn, “Những thứ anh nói sẽ không lọt khỏi phòng này.” Trừ khi nó thích hợp cho tôi ba hoa với ai đó. Nash và Foster nhìn nhau và Foster gật đầu. Nash nói với chúng tôi, “Tất cả các bạn đều biết, hoặc đều đã đọc đâu đó rằng nước Mỹ không còn nghiên cứu hoặc phát triển chiến tranh vi trùng. Chúng ta đã ký một hiệp ước có hiệu lực về điều này.” “Đó là lí do tôi yêu đất nước này, Nash. Ở đây không có bom vi trùng.” “Đúng. Tuy nhiên... có một số loại bệnh nhất định nằm giữa phạm vi nghiên cứu sinh học hợp pháp và vũ khí sinh học tiềm tàng. Bệnh Than là một trong số đó. Như các bạn biết” - gã nhìn Max, Penrose và tôi - “luôn có những tin đồn rằng Đảo Plum không chỉ là một cơ sở nghiên cứu bệnh động vật, mà là một thứ khác.” Không ai có phản ứng gì. Gã nói tiếp, “Thực ra, đó không phải là một trung tâm nghiên cứu chiến tranh vi trùng. Ở Mỹ không có trung tâm nào như vậy. Tuy nhiên, sẽ là không trung thực nếu tôi không nói rằng các chuyên gia chiến tranh vi trùng thi thoảng đến thăm đảo này để nghe trình bày và đọc các báo cáo về một số thí nghiệm. Nói cách khác, có một khoảng chung giữa bệnh động vật và bệnh ở người, giữa chiến tranh vi trùng để tấn công và chiến tranh vi trùng phục vụ phòng thủ.” Những khoảng chung thật tiện lợi, tôi nghĩ. Nash nhấp một ngụm cà phê, cân nhắc, rồi nói tiếp, “Chẳng hạn, bệnh sốt lợn châu Phi đã được chứng minh có liên quan đến virut HIV. Chúng tôi nghiên cứu bệnh này trên Đảo Plum và báo chí thêu dệt chuyện này thành... bất cứ thứ gì. Tương tự là bệnh sốt Rift Valley, virut Hanta và các loại retrovirus*, cùng các loại virut hình sợi như Ebola Zaire và Ebola Marburg...” Căn phòng bếp thực sự yên tĩnh, như thể mọi người đều biết đây là chủ đề đáng sợ nhất trong vũ trụ. Với vũ khí hạt nhân, người ta tin vào định mệnh hoặc không bao giờ tin nó sẽ xảy ra. Với vũ khí sinh học hoặc khủng bố sinh học, nó là không thể tưởng tượng được. Nếu loại bệnh thích hợp được giải phóng, nó reo rắc cho cả thế giới, không phải trong một tiếng chớp lóe sáng, mà từ từ, khi nó lây từ người bệnh sang người khỏe mạnh, và người chết thối rữa ngay chỗ họ gục xuống, một cuốn phim hạng B sẽ sớm diễn ra ngay trên khu nhà của bạn. Nash tiếp tục với cái giọng nửa như miễn cưỡng, nửa như này, xem tôi biết chuyện các người chẳng biết tí gì nhé. Gã nói, “... các loại bệnh này có thể nhiễm sang động vật, nên việc nghiên cứu hợp pháp chúng thuộc thẩm quyền của bộ Nông nghiệp. Bộ đang cố gắng tìm ra phương thuốc cho các loại bệnh này, để bảo vệ đàn gia súc của nước Mỹ và rộng hơn là bảo vệ công chúng Mỹ, vì mặc dù thường có sự ngăn cách về loài liên quan đến các loại bệnh động vật lây sang người, chúng tôi phát hiện ra rằng một số bệnh này có thể chuyển từ loài này sang loài khác ... ví dụ với bệnh bò điên gần đây ở Anh, có một số bằng chứng rằng con người cũng bị nhiễm loại bệnh này.” Có lẽ cô vợ cũ của tôi nói đúng về thịt. Tôi cố tưởng tượng một cuộc sống với bánh ham-bơ-gơ bằng đậu nành, bánh không có nhân thịt, món xúc xích làm từ rong biển. Tôi thà chết còn hơn. Tự dưng tôi thấy có cảm tình với bộ Nông nghiệp. Tôi cũng nhận ra điều mà Nash nói ra là thứ tào lao chính thức - chuyện về các loại bệnh động vật vượt qua ranh giới loài và những thứ như thế. Thực ra, nếu tin đồn là có thật, Đảo Plum cũng còn là nơi mà các loại bệnh truyền nhiễm ở người được nghiên cứu cụ thể và có mục đích như một phần trong chương trình chiến tranh vi trùng không còn chính thức tồn tại. Mặt khác, có thể đó là tin đồn, và cũng có thể cái mà người ta đang làm là để phòng thủ chứ không phải đi gây chiến. Tôi tin rằng chỉ có một ranh giới rất mong manh giữa tất cả những thứ này. Vi trùng là vi trùng. Chúng đâu biết phân biệt giữa bò với lợn hay với người. Chúng đâu biết nghiên cứu phòng thủ với nghiên cứu để gây chiến khác nhau thế nào. Chúng đâu phân biệt được những liều vác xin phòng bệnh với những trái bom nổ trên không. Chết tiệt, chúng thậm chí còn không biết mình tốt hay xấu. Nếu tôi mà nghe Nash nói đủ dài, khéo tôi còn tin rằng Đảo Plum đang nuôi cấy loại vi khuẩn làm sữa chua mới thú vị. Nash nhìn chằm chằm vào cốc cà phê Styrofoam của mình như thể nhận ra cà phê và nước có thể đã bị nhiễm bệnh bò điên. Nash tiếp tục, “Tất nhiên, vấn đề là các mẫu vi khuẩn và virut này có thể... Ý tôi là, nếu ai đó có được các vi sinh vật này và có kiến thức để phát triển số lượng của chúng từ những mẫu ban đầu, sau đó, sẽ có được một số lượng lớn sinh sản, và bằng cách nào đó để chúng lây vào người dân... sẽ gây ra một vấn đề lớn về sức khỏe cộng đồng.” Tôi hỏi, “Anh nói giống như một loại bệnh nào đó ở tận cùng của thế giới khiến người chết chất đống trên đường phố?” “Đúng, dạng vấn đề sức khỏe cộng đồng như vậy.” Im lặng. “Vì vậy,” Nash nói giọng nghiêm trọng, “trong khi tất cả đều lo tìm ra danh tính của thủ phạm giết ông bà Gordon, chúng ta còn lo hơn việc tìm hiểu liệu vợ chồng Gordon đã mang thứ gì đó ra khỏi đảo và chuyển nó cho những người không được phép hay không.” Không ai nói gì một lúc lâu, sau đó Beth hỏi, “Anh có thể... có ai đó trên đảo có thể xác định có thứ gì bị mất khỏi các phòng thí nghiệm hay không?” Ted Nash nhìn Beth Penrose với ánh mắt của một vị giáo sư nhìn một học trò cưng vừa mới hỏi một câu rất thông minh. Thực ra, đó không phải một câu hỏi hay - nhưng để cởi quần áo nàng thì việc gì cũng được, đúng không, Ted? Anh ta điềm tĩnh đáp lại người mới được mình che chở, “Như cô có thể nghi ngờ, Beth, có thể không xác định được có thứ gì đó bị mất hay không. Điều rắc rối là các vi sinh vật có thể được nhân lên bí mật tại một bộ phận nào đó trong phòng thí nghiệm của Đảo Plum hoặc ở nơi khác trên đảo, sau đó được mang ra khỏi đảo mà không ai biết. Nó không giống như các chất hóa học hay phóng xạ được tính từng gam. Vi khuẩn và virut thích sinh sản.” Thật đáng sợ, nếu bạn nghĩ về nó... những con vi khuẩn nhỏ bé thuộc hàng công nghệ thấp so với sự phân hạch hạt nhân hoặc khí nhân tạo gây độc hệ thần kinh. Đây là thứ trong phòng thí nghiệm, chi phí sản xuất rẻ, tự sinh sản trong - chúng ta dùng cái gì trong phòng thí nghiệm sinh học nhỉ? Canh thịt bò? Không còn bánh ham-bơ-gơ pho mát cho tôi rồi. Nàng Penrose tự hào với câu hỏi của mình hỏi người Cái gì cũng biết, “Liệu chúng ta có thể giả định rằng những vi sinh vật nghiên cứu ở Đảo Plum là đặc biệt nguy hiểm hay không? Ý tôi là, họ có xử lý gen các vi sinh vật đó để chúng trở nên nguy hiểm hơn trạng thái tự nhiên của mình hay không?” Nash không thích câu hỏi đó và đáp, “Không.” Sau đó nói thêm, “Phòng thí nghiệm ở Đảo Plum có khả năng tác động gen, nhưng việc họ làm là lấy các virut và thay đổi gen để chúng không thể gây bệnh, nhưng có thể kích thích hệ thống miễn dịch sinh ra kháng thể trong trường hợp bị virut thật lây nhiễm. Đây là một dạng vác xin, được sản xuất không phải bằng cách làm yếu các thể lây nhiễm và tiêm vào cơ thể, điều có thể gây nguy hiểm, mà bằng cách thay đổi gen của vi sinh vật. Trả lời câu hỏi của cô một cách ngắn gọn, bất cứ công việc tác động gen nào được thực hiện trên Đảo Plum đều là để làm yếu một loại virut hoặc vi khuẩn, không phải để tăng khả năng gây bệnh của chúng.” Tôi nói, “Tất nhiên là không. Nhưng điều đó cũng có thể làm được với việc tác động gen.” “Có thể. Nhưng không phải trên Đảo Plum.” Tôi có ý nghĩ rằng Nash đang làm biến đổi gen của thông tin - lấy vi khuẩn của sự thật, làm yếu nó đi để chúng ta có một liều nhẹ của tin xấu. Gã khôn thật. Tôi mệt mỏi với thứ lập luận khoa học rác tai đó nên quay sang hỏi câu tiếp theo với Foster. “Các anh có làm gì để chặn đường chưa? Sân bay, đường cao tốc, tất cả mọi nơi?” Foster đáp, “Chúng tôi cho người ngoài đó tìm kiếm... bất cứ thứ gì. Tất cả mọi sân bay, bến cảng, bến tàu đều có người của chúng tôi, cảnh sát địa phương và hải quan theo dõi, lực lượng bảo vệ bờ biển chặn và kiểm tra mọi tàu thuyền, chúng tôi thậm chí yêu cầu cơ quan Chống ma túy sử dụng tàu và máy bay của họ. Rắc rối là thủ phạm đã có ba giờ đi trước, vì xin nói thẳng là chúng tôi đã không được thông báo kịp thời...” Foster nhìn cảnh sát trưởng Maxwell, khi đó tay để bắt chéo, mặt làm điệu bộ. Xin được nói thêm về Sylvester Maxwell. Anh là một cảnh sát trung thực, không phải người thông minh nhất trong phòng, nhưng cũng không phải gã ngu nhất. Anh có lúc bướng bỉnh, dường như đó là một đặc tính của người vùng North Folk chứ không phải của riêng cảnh sát trưởng. Phụ trách một lực lượng cảnh sát nhỏ ở nông thôn mà phải làm việc với lực lượng cảnh sát quận lớn hơn nhiều và đôi khi với cả cảnh sát bang, anh biết khi nào phải bảo vệ lãnh địa của mình, khi nào nên rút lui. Một điểm nữa: điều kiện địa lý ở vùng biển tại khu vục có đường vận chuyển ma túy đã đặt Max ở vị trí gần kề với cơ quan Chống ma túy (DEA) và lực lượng bảo vệ bờ biển. DEA luôn cho rằng cảnh sát địa phương có thể tham gia việc buôn bán ma túy; những người địa phương như Max thì lại cho rằng DEA làm chuyện đó. Lực lượng bảo vệ bờ biển và FBI được coi là không dính đến, nhưng họ nghi ngờ DEA và cảnh sát địa phương. Hải quan thì hầu như trong sạch, nhưng chắc chắn phải có một số gã tồi nhận tiền để quay mặt đi. Tóm lại, ma túy là chuyện tồi tệ nhất xảy ra với các cơ quan thực thi pháp luật Mỹ từ sau thời cấm nấu và bán rượu.* Điều này đưa suy nghĩ của tôi từ Max đến ma túy, đến con tàu Formula dài chín mét của vợ chồng Gordon với động cơ lớn và khỏe. Vì những căn cứ có vẻ không phù hợp với việc vợ chồng Gordon bán vi trùng gây bệnh lấy tiền, có thể lại phù hợp với việc vận chuyển ma túy. Có thể tôi đang lần ra điều gì. Có thể tôi sẽ chia sẻ điều này với mọi người ngay khi tôi nghĩ tới trong đầu. Cũng có thể là không. Foster choảng thêm một vài câu trách móc tới Maxwell vì việc anh thông báo chậm cho FBI, cốt để mọi người ghi nhận điều gã nói. Kiểu như, “Ồ, Max, giá như anh gọi cho tôi sớm hơn. Giờ mọi thứ đã vuột mất, đó là lỗi của anh.” Max nói với Foster, “Tôi gọi cho đội điều tra án mạng của cảnh sát quận trong vòng mười phút sau khi biết có vụ giết người. Đến lúc đó tôi hết trách nhiệm”. Penrose cảm thấy như cả tám con mắt đang nhìn vào mông nàng. Nàng nói, “Tôi không biết nạn nhân là người của Đảo Plum.” Max nói, nhẹ nhàng nhưng chắc nịch, “Tôi báo cáo điều đó với người trả lời điện thoại, Beth. Trung sĩ... gì đó. Kiểm tra băng ghi âm thì biết.” “Tôi sẽ kiểm tra.” Điều tra viên Penrose đáp. Nàng nói thêm, “Anh có thể đúng, Max, nhưng đừng bàn đến việc này.” Nàng nói với Foster, “Hãy cùng giải quyết vụ án.” Foster đáp, “Một lời khuyên hợp lý.” Gã nhìn xung quanh căn phòng rồi nói, “Một khả năng nữa là kẻ lấy được thứ đó sẽ không mang nó ra khỏi nước Mỹ. Chúng lập một phòng thí nghiệm ngay trong nước, hành động kín đáo để tránh bị chú ý và không đòi hỏi phải có những thứ nguyên liệu hoặc chất hóa học không bình thường có thể bị lần theo. Tình huống xấu nhất là các vi sinh vật đó, dù là loại nào, được nuôi cấy và nhân lên, sau đó đưa ra cho tiếp xúc với người dân bằng nhiều con đường khác nhau. Một số loại vi sinh vật này rất dễ phát tán theo nguồn nước, một số theo đường từ trên không, một số truyền qua người và động vật. Tôi không phải chuyên gia, nhưng tôi đã gọi cho một số người ở Washington lúc trước và được biết rằng khả năng truyền nhiễm qua tiếp xúc là rất cao.” Gã nói thêm, “Một bộ phim tài liệu trên tivi đã có lần nói rằng một chiếc thùng cà phê chứa đầy vi khuẩn bệnh than được phát tán vào không khí chỉ bởi một tên khủng bố đi quanh Manhattan trên một con tàu có thể giết chết ít nhất hai trăm nghìn người.” Căn phòng im lặng trở lại. Dường như đang tận hưởng sự chú ý của mọi người, Foster tiếp tục, “Nó có thể còn tồi tệ hơn. Khó mà đánh giá được. Bệnh than do vi khuẩn gây ra. Virut còn có thể kinh khủng hơn.” Tôi hỏi, “Phải chăng chúng ta đang nói về một vụ trộm chỉ lấy một loại vi khuẩn hoặc virut?” George Foster đáp, “Nếu anh lấy cắp vi khuẩn bệnh than, , anh có thể lấy cả Ebola và bất cứ thứ gì khác mà anh có thể lấy được. Điều này sẽ gây ra một mối đe dọa nhiều mặt, kiểu nguy cơ không bao giờ thấy trong tự nhiên, và sẽ không thể ngăn chặn hoặc kiểm soát.” Chiếc đồng hồ trên lò sưởi trong phòng khách điểm mười hai tiếng. Với cảm giác muốn gây xúc động và ấn tượng cho chúng tôi với học vấn của gã, rõ ràng là từ một trường nổi tiếng ở miền Đông, Ted Nash mượn cả Shakespeare, thành “Giờ đã là lúc canh khuya huyền hoặc, khi những nghĩa địa mở ra và từ địa ngục phun lên căn bệnh lây nhiễm cho thế giới này.” Vào lúc cao trào đó, tôi nói, “Tôi ra ngoài hít thở không khí một chút.” CHƯƠNG 5 Tôi không đi thẳng ra ngoài để hít thở không khí mà vòng qua phía tây của ngôi nhà nơi Tom và Judy đặt phòng làm việc tại vị trí trước đây từng là phòng ngủ. Một chuyên gia máy tính đang ngồi trước chiếc máy tính cá nhân, chỗ mà tôi định ngồi. Tôi tự giới thiệu trước, người kia tự giới thiệu lại là điều tra viên Mike Resnick, chuyên gia tội phạm tin học thuộc cảnh sát quận. Máy in chạy o o và hàng chồng giấy nằm la liệt trên mặt bàn. Tôi hỏi Mike, “Anh đã tìm thấy kẻ giết người chưa?” . “Rồi, tôi đang chơi trò Jeopardy.” Mike quả là người khôi hài. Tôi hỏi, “Chúng ta đã có được gì đến lúc này?” “Ồ... hầu hết là... khoan đã, cái gì đây? Không có gì... chúng ta... cái gì nhỉ?” “Tìm được gì rồi.” Tôi thích nói chuyện với tay nghiện máy tính. "Tìm được gì rồi. ” “Ồ... chủ yếu là thư từ... thư từ cá nhân cho bạn bè và người thân, một số thư công việc... một số... cái gì đây? Không có gì...” “Có thứ gì nói đến Đảo Plum không?” “Không.” “Có điều gì đáng chú ý hay đáng nghi không?” “Không.” “Tài liệu khoa học - ?” “Không. Tôi sẽ dừng lại và báo cho bộ phận điều tra án mạng biết ngay khi tôi nghĩ là tìm được điều gì đó.” Giọng Mike nghe hơi gắt, như thể anh ta đã làm việc này một vài giờ và lúc này đã quá giờ đi ngủ. Tôi hỏi, “Những thứ về tài chính thì sao? Đầu tư, sổ séc, ngân quỹ gia đình ?” Mike rời mắt khỏi màn hình nhìn lên. “Có. Đó là thứ đầu tiên tôi tải xuống. Họ viết séc trên máy tính. Đây là bản in tất cả các hoạt động trên sổ séc của họ trong hai mươi lăm tháng qua, từ khi họ mở tài khoản.” Anh chỉ vào một xấp giấy tờ gần chiếc máy in. Tôi cầm xấp giấy và nói, “Anh có phiền nếu tôi xem qua thứ này?” “Không, nhưng đừng mang đi đâu xa. Tôi phải kẹp cùng báo cáo của tôi.” “Tôi chỉ mang ra phòng khách thôi, ở đó đèn sáng hơn.” “Được...” Mike quay lại với chiếc máy tính, thứ anh ta thấy thú vị hơn tôi. Tôi đi ra. Ngoài phòng khách, cô chuyên gia vân tay ít lời vẫn đang phủi bụi và lấy vân tay. Cô nhìn tôi hỏi, “Anh không chạm vào đâu đấy chứ?” “Không, thưa cô.” Tôi bước đến mấy kệ sách để hai bên lò sưởi. Ở bên trái là tiểu thuyết hư cấu, chủ yếu là sách bìa mềm, một sự pha trộn hài hòa giữa những thứ bỏ đi và báu vật. Ở bên phải, tôi nhìn qua tiêu đề thì từ sách về kỹ thuật sinh học đến các loại linh tinh về sức khỏe và tập luyện thân thể. Ngoài ra còn có một ngăn gồm toàn sách địa phương xuất bản về đảo Long Island, động thực vật, lịch sử, v.v... Trên chiếc giá dưới cùng là một hàng sách về đi biển và hải đồ. Như tôi đã nói, đối với những người vùng Trung Tây xung quanh chỉ là đất liền, vợ chồng Gordon thực sự đã thích đi tàu biển. Mặt khác, tôi đã từng ra biển với họ một vài lần, thậm chí còn biết họ không phải là những thủy thủ giỏi. Họ không câu cá, bắt sò, bắt cua, thậm chí còn không bơi. Họ chỉ thích thỉnh thoảng tăng tốc. Điều này đưa tôi trở lại với ý nghĩ rằng vụ này có thể dính đến ma túy. Với ý nghĩ đó trong đầu, tôi đặt tập giấy vừa in ra xuống và dùng khăn tay lót lấy một cuốn hải đồ to quá khổ từ trên giá và để dựa lên trên lò sưởi. Tôi lật qua các trang, ngón tay lót dưới chiếc khăn. Tôi cố tìm các tần số điện đài, số điện thoại di động hay bất cứ thứ gì khác mà một kẻ vận chuyển ma túy có thể ghi trong sách hải đồ của mình. Mỗi trang của cuốn hải đồ thể hiện một khu vục rộng chừng bốn nhân bốn dặm. Đất liền vẽ trên hải đồ không có gì nổi bật, ngoại trừ các điểm mốc có thể thấy được từ dưới nước. Tuy nhiên, biển lại được đánh dấu với các vỉa đá ngầm, đá nổi, độ sâu, các ngọn hải đăng, xác tàu đắm, phao, tất cả mọi thứ hỗ trợ và báo nguy cho người đi biển. Tôi lật qua từng trang để tìm những dấu “X”, điểm hẹn, các tọa độ theo ô kẻ, hoặc những cái tên như Juan và Pedro hay bất cứ thứ gì, nhưng các hải đồ dường như sạch nguyên ngoại trừ một đường vẽ bằng bút đánh dấu màu vàng nối từ bãi đỗ của nhà Gordon đến bãi đỗ của Đảo Plum. Đây là chu trình họ theo để đi làm, vượt qua giữa bờ phía nam của North Folk và Đảo Trú ẩn, giữ đường đi trong vùng nước sâu và an toàn của eo biển. Đây chưa phải manh mối để tìm ra điều gì đó. Tôi nhận ra trên hình vẽ Đảo Plum được in màu đỏ là dòng chữ, “Khu vục cấm - Cơ quan Chính phủ - Không cho phép người ngoài.” Khi tôi sắp gấp cuốn sách lớn lại thì nhìn thấy cái gì đó suýt bị chiếc khăn tay che mất - ở gần cuối của trang sách, ở vùng biển phía nam của Đảo Plum, viết bằng bút chì “44106818”. Theo sau là một dấu chấm hỏi, tương tự như dấu hỏi vừa xuất hiện trong đầu - 44106818? Hãy đặt hai dấu hỏi chấm và một dấu chấm than. Vậy phải chăng đây là một tọa độ theo tiêu chuẩn gồm tám chữ số? Hay tần số radio? Một trò đùa để ngụy trang? Ma túy? Vi trùng? Là cái gì? Có một điều quan trọng trong điều tra các vụ án mạng khi ta bắt đầu ghép nhiều manh mối hơn số mà ta biết phải xử lý như thế nào. Manh mối giống như các thành phần trong một công thức nấu ăn mà không có hướng dẫn. Nếu ta kết hợp chúng với nhau đúng cách, ta sẽ có bữa tối. Còn nếu không biết phải làm gì với chúng, ta sẽ còn ở lâu trong bếp, lúng túng và đói bụng. Tôi cầm cuốn hải đồ với chiếc khăn tay để lót và mang đến chỗ cô chuyên gia vân tay. Tôi hỏi, “Cô có thể xem xét thật tỉ mỉ cuốn sách này cho tôi được không?” Tôi cười hiền. Cô nhìn tôi hơi khó chịu rồi cầm cuốn sách với bàn tay đi găng và kiểm tra. “Giấy bản đồ này khó làm đấy... nhưng cái bìa bóng lại giữ dấu vân tay tốt... tôi sẽ làm những gì có thể.” Cô nói thêm, “Bạc nitơrát hoặc ninhydrin. Cái này phải làm trong phòng thí nghiệm.” “Cám ơn cô, người phụ nữ đầy năng lực chuyên môn.” Cô nàng nở một nụ cười và hỏi, “Ai có nhiều dấu vân tay nhất? FBI, CIA hay MEP?” “MEP là cái gì? Ý cô là Cơ quan bảo vệ môi trường?” “Không. Là Mông Elizabeth Penrose.” Cô cười to. “Cả cơ quan đều biết. Anh chưa nghe thấy bao giờ à?” “Tôi nghĩ là chưa.” Cô chìa tay ra. “Tôi là Sally Hines.” “Tôi là John Corey.” Tôi bắt tay cô nàng và nhận xét, “Tôi thích cảm giác của cao su chạm vào da. Còn cô?” “Không bình luận.” Cô dừng lại, rồi hỏi, “Anh có phải là người của Sở Cảnh sát New York làm việc với đội điều tra án mạng của quận trong vụ này không?” “Đúng.” “Vậy quên chuyện đùa về Penrose đi nhé.” “Chắc chắn rồi.” Tôi hỏi, “Đã thấy được gì chưa, Sally?” “Ngôi nhà mới được quét dọn nên bề mặt mọi thứ còn sạch. Tôi không nghiên cứu sâu các dấu vết, nhưng tôi thấy hầu hết là của hai nhóm, có lẽ là của Ông và Bà. Có một vài nhóm khác, và nếu anh muốn biết nhận xét của tôi, thưa điều tra viên, hung thủ dùng găng tay. Đây không phải là một tên nghiện để nguyên cả năm đầu ngón tay lên tủ rượu. Tôi gật đầu rồi nói, “Cố gắng làm điều tốt nhất có thể với cuốn sách này.” “Tôi làm việc chỉ có hoàn hảo thôi. Còn anh?” Cô lấy một chiếc túi nhựa trong bộ đồ nghề và nhét cuốn sách vào trong. Cô nói, “Tôi cần bộ mẫu vân tay của anh.” “Lấy trên mông Elizabeth Penrose sau.” Cô nàng cười, nói, “Đặt tay anh lên chiếc bàn uống cà phê bằng kính này cho tôi.” Tôi làm theo cô yêu cầu và hỏi, “Cô đã lấy vân tay của hai gã đi cùng với Maxwell chưa?” “Tôi được bảo là việc đó sẽ tính sau.” “Này, Sally, nhiều người giống như mấy gã trong bếp kia sẽ chìa những tấm thẻ hạng nhất cho cô xem. Cô chỉ nên báo cáo với đội điều tra án mạng của quận, tốt nhất là với riêng Penrose.” “Tôi nghe anh.” Cô nhìn quanh rồi hỏi tôi, “Này, vậy chuyện vi trùng thì sao?” “Vụ này chẳng liên quan gì đến vi trùng. Ngẫu nhiên nạn nhân lại làm việc trên Đảo Plum, nhưng đó chỉ là sự trùng hợp.” “Ừ, đúng.” Tôi lấy lại xấp giấy in từ máy tính và bước về phía chiếc cửa trượt bằng kính. Sally nói với theo, “Tôi không thích cách xử lý hiện trường vụ này.” Tôi không đáp. Tôi bước ra phía vịnh, nơi có chiếc ghế dài xinh xắn đặt quay ra biển. Tôi quẳng đống giấy vừa xoáy được lên ghế và nhìn ra vịnh. Gió thổi mát đủ để lũ muỗi bạt đi không quấy rầy tôi. Những con sóng nhỏ cưỡi trên mặt vịnh xô vào chiếc tàu của nhà Gordon dưới bãi đậu. Những đám mây trắng trôi bồng bềnh qua mặt trăng to và sáng. Không khí mang mùi của đất liền hơn là mùi của biển khi làn gió nhẹ chuyển hướng thổi đến từ phương bắc. Ở nơi nào đó, bằng cách nào đó, có lẽ là ngấm dần, tôi đã bắt đầu cảm nhận được sức mạnh mãnh liệt của đất và biển xung quanh mình. Tôi cho rằng nếu bạn trải qua tất cả các kỳ nghỉ hè hai tuần ở đây khi tôi còn nhỏ và những ngày nghỉ cuối tuần của mùa thu, bạn sẽ không ngạc nhiên nếu thấy có điều gì đó đã ngấm vào bộ óc thành thị của tôi. Cũng có những lúc tôi muốn rời xa thành phổ, và tôi nghĩ đến một nơi như ở đây. Tôi nghĩ mình nên ra ngoài này vào mùa đông và ở một vài tháng trong căn nhà lớn lộng gió của cậu Harry để xem tôi có thành người nghiện rượu hoặc ẩn sĩ hay không. Chết tiệt, nếu vẫn có người bị bòm ở quanh đây, rồi Hội đồng Thị trấn Southold nhận tôi làm cố vấn điều tra án mạng với mức lương một trăm đô la mỗi ngày và tất cả những con sò mà tôi có thể ăn. Tôi vẫn phân vân về việc trở lại với nghề. Tôi đã sẵn sàng để thử nghiệm một thứ gì mới mẻ, nhưng tôi muốn đó là quyết định của chính tôi chứ không phải của bác sỹ. Nhưng nếu mấy gã lang băm đó nói tôi không làm việc được nữa thì tôi không thể tìm được hai gã đã bắn tôi. Đó là một công việc nghiêm túc còn dang dở. Tôi không mang trong mình dòng máu Italia, nhưng anh chàng cộng sự của tôi, Dominic Fanelli, là người đảo Sicil đã dạy tôi toàn bộ lịch sử và nghi thức của sự trả thù. Anh bắt tôi xem phim Bố Già ba lần. Tôi nghĩ là tôi đã hiểu. Hai gã Latinh đó phải chết. Dominic đang cố tìm ra chúng và sẽ gọi cho tôi khi tìm được. Nhắc đến chuyện thương tật, tôi cảm thấy hơi mệt mỏi và ngồi xuống ghế. Tôi không còn giống siêu nhân như trước khi bị bắn. Tôi ngả người ra sau và nhìn bầu trời đêm hồi lâu. Trên vạt cỏ nhỏ ở bên trái cầu tàu của nhà Gordon là một cột cờ cao màu trắng với một thanh gỗ buộc chéo, gọi là thanh chống, từ đó căng hai sợi dây, gọi là dây néo. Xem tôi học lỏm từ của ngành hàng hải nhanh chưa. Vợ chồng Gordon đã tìm được một bộ cờ hiệu và cờ đuôi nheo trong một chiếc tủ có khóa ở gara, thỉnh thoảng họ treo cờ hiệu trên dây néo cho vui - chẳng hạn như cờ báo “Chuẩn bị lên tàu” hoặc “Thuyền trưởng đang lên bờ”. Tôi đã nhận ra từ lúc trước ở trên đỉnh của chiếc cột, vợ chồng Gordon đã treo chiếc cờ Nguy hiểm, và tôi nghĩ thật mỉa mai khi lá cờ cuối cùng họ treo là cờ đầu lâu xương chéo. Tôi cũng nhận ra trên mỗi sợi dây néo có một lá cờ hiệu. Tôi chỉ có thể thấy mờ mờ trong đêm tối, nhưng điều đó không quan trọng vì tôi không hiểu gì về các tín hiệu hàng hải. Penrose ngồi xuống cuối ghế bên trái. Nàng đã mặc lại chiếc áo khoác, một điều đáng thất vọng. Tay nàng ôm quanh người như thể đang lạnh. Phụ nữ lúc nào chẳng lạnh. Nàng không nói gì mà đã bỏ giầy, cọ bàn chân xuống nền cỏ và ngọ nguậy hai ngón chân cái. Đôi giầy nàng đi cũng không mấy thoải mái gì với chúng. Sau mấy phút yên lặng làm thân - hay có thể là đứng yên trong giá lạnh - tôi phá băng và nói, “Có thể cô nói đúng. Thủ phạm tới bằng tàu.” “Anh có mang súng không.” “Không.” “Tốt. Tôi sắp cho cái thứ óc chết tiệt của anh bay khỏi đầu.” “Này, Beth - ” “Gọi tôi là điều tra viên Penrose.” “Đừng căng thẳng thế.” “Sao anh lại khó chịu với Ted Nash như thế?” “ Anh ta là ai chứ?” “Anh thừa biết đó là ai. Anh có vấn đề gì?” “Vấn đề của đàn ông.” “Anh tự biến mình thành gã ngốc, mọi người đều nghĩ anh là một kẻ ngu ngốc hợm hĩnh và hoàn toàn vô dụng. Và anh đã đánh mất sự tôn trọng của tôi.” “Vậy tôi cho rằng tình dục không được bàn đến.” “Tình dục? Tôi còn không muốn thở chung không khí với anh.” “Nó làm đau đấy, Beth.” “Đừng gọi tôi là Beth.” “Ted Nash gọi cô - ” “Này Corey, tôi được giao vụ này vì đã quỳ xuống và cầu xin đội trưởng đội điều tra án mạng cho làm. Đây là vụ giết người thực sự đầu tiên mà tôi điều tra. Trước đây tất cả những việc tôi làm đều là vớ vẩn - những gã nghiện làm thịt nhau, những ông bố và bà mẹ giải quyết mâu thuẫn gia đình bằng dao kéo, những thứ vớ vẩn như thế. Và cũng không có nhiều. Tỉ lệ án giết người ở quận này thấp.” “Tôi rất tiếc khi biết chuyện này.” “Vâng. Anh làm chuyện này thường xuyên nên anh phát ngán, anh giễu cợt và tinh tướng.” “Ồ, tôi không - ” “Nếu anh đến đây để làm tôi xấu hổ thì xin anh đi cho.” Nàng đứng lên. Tôi cũng đứng dậy. “Thôi nào. Tôi đến đây để giúp.” “Vậy hãy giúp đi.” “OK. Nghe đây. Mấy lời khuyên của tôi. Đừng nói quá nhiều với Foster và anh bạn thân Ted của cô.” “Tôi biết điều đó. Xin bỏ chữ “bạn thân Ted” vớ vẩn đó đi.” “Này... tôi có thể gọi cô là Beth không?” “Không.” “Nghe này, điều tra viên Penrose, tôi biết cô nghĩ là tôi bị cô hấp dẫn và có lẽ cô nghĩ tôi đang đến với cô... và cô nghĩ điều đó có thể khó xử...” Nàng quay mặt đi và nhìn ra phía vịnh. Tôi tiếp tục, “... điều này thật sự rất khó nói, nhưng ... cô không phải lo về điều đó... về tôi...” Nàng quay lại và nhìn tôi. Tôi gần như che mặt bằng bàn tay phải và xoa lên trán. Tôi tiếp tục với khả năng tốt nhất có thể. “Cô biết đấy... một trong những viên đạn bắn vào tôi... Chúa ơi, nói thế nào nhỉ...? Nó làm tôi bị thương ở chỗ đáng buồn cười, được chưa? Giờ cô biết rồi nhé. Vì thế chúng ta có thể như... những người bạn, cộng sự... anh trai với em gái... ý tôi là như chị em gái với nhau...” Tôi liếc sang và thấy nàng lại nhìn chăm chú ra biển. Cuối cùng, nàng nói. “Tôi nghĩ anh đã nói rằng anh bị bắn vào dạ dày.” “Đúng, cả chỗ đó nữa.” “Max nói anh bị một vết thương nghiêm trọng ở phổi.” “Cũng đúng.” “Có tổn thương não không?” “Có thể.” “Và anh muốn tôi tin rằng anh đã bị mất khả năng đàn ông bởi một viên đạn khác.” “Đó là điều không gã đàn ông nào nói dối bao giờ.” “Nếu cái lò đã tắt, sao vẫn còn lửa trong mắt?” “Chỉ là hồi ức, Beth - Tôi gọi cô là Beth được không? Hồi ức sống về cái thời tôi có thể nhảy qua chiếc xe của mình.” Nàng đặt tay lên mặt, tôi không biết nàng đang cười hay khóc. Tôi nói, “Xin đừng nói với ai.” Cuối cùng, nàng điềm tĩnh trở lại và đáp, “Tôi sẽ cố không để nó trên giấy tờ.” “Cám ơn.” Tôi để một vài giây trôi qua, rồi hỏi nàng, “Cô có sống gần đây không?” “Không. Tôi sống ở phía tây Suffolk.” “Đi xa đấy. Cô sẽ lái xe về nhà hay ở lại gần đây?” “Tất cả chúng tôi đều ở nhà nghỉ Soundview ngoài Greenport.” “ “Chúng tôi” là ai?” “Tôi, George, Ted, một số người của DEA, một số người đã có mặt ở đây từ trước... người của bộ Nông nghiệp. Tất cả chúng tôi đều phải làm việc cả ngày lẫn đêm, hai mươi bốn giờ trong ngày, bảy ngày mỗi tuần. Trông phải đàng hoàng trước báo chí và công chúng... phòng trường hợp có tin đồn xấu làm chấn động người xem. Anh biết đấy, trường hợp người ta lo lắng về bệnh dịch.” “Ý cô là sự hỗn loạn khắp nơi về một thứ bệnh nguy hiểm.” “Bất cứ điều gì.” “Này, tôi có một nơi rất tốt ở gần đây và cô cứ việc đến đó ở.” “Dù sao cũng cám ơn.” “Đó là một biệt thự ấn tượng kiểu thời Victoria nằm sát biển.” “Không tác dụng gì.” “Cô sẽ được thoải mái hơn. Tôi đã nói với cô, tôi an toàn mà. Chết tiệt, nhân viên sở cảnh sát New York còn nói tôi được phép vào phòng vệ sinh nữ trong trụ sở cơ quan.” “Thôi đi.” “Nói nghiêm túc, Beth, tôi có một tập giấy tờ in từ máy tính theo dõi vấn đề tài chính của họ trong vòng hai năm. Chúng ta có thể nghiên cứu tối nay.” “Ai cho phép anh lấy nó?” “Cô cho phép. Đúng không?” Nàng ngập ngừng rồi gật đầu nói, “Tôi muốn lấy lại vào sáng mai.” “Được. Tôi sẽ thức cả đêm với cái này. Giúp tôi nhé.” Nàng dường như cân nhắc rồi nói, “Cho tôi số điện thoại và địa chỉ của anh.” Tôi lục khắp các túi tìm giấy bút, nhưng nàng đã lấy cuốn sổ nhỏ ra và nói, “Đọc đi.” Tôi cho nàng thông tin, còn chỉ cả đường. Nàng nói, “Nếu đến, tôi sẽ gọi trước.” “Được.” Tôi ngồi trở lại xuống ghế, nàng ngồi ở đầu kia, xấp giấy tờ ở giữa. Chúng tôi im lặng, kiểu như đang lấy lại tinh thần, có lẽ thế. Cuối cùng, Beth lên tiếng, “Tôi hy vọng anh thông minh hơn vẻ bề ngoài và cách ăn nói của anh.” “Để tôi giải thích thế này - điều khôn ngoan nhất mà cảnh sát trưởng Maxwell đã làm trong sự nghiệp là đến kéo tôi vào vụ này.” “Và khiêm tốn.” “Không có lý do gì phải khiêm tốn. Tôi là một trong những người giỏi nhất. Nói thật, kênh truyền hình CBS đang làm một chương trình có tên là Hồ sơ Corey.” “Anh không đùa chứ?” “Tôi có thể để cô cùng tham gia.” “Cám ơn. Nếu tôi có thể đáp lại lòng tốt của anh, xin cứ cho tôi biết.” “Được thấy cô trong chương trình Hồ sơ Corey đã là đủ rồi.” “Chắc chắn rồi. Nghe này... Tôi có thể gọi anh là John?” “Xin cứ gọi như thế.” “John, điều gì đang xảy ra ở đây? Ý tôi là với vụ này. Anh biết điều gì đó mà không nói ra.” “Tình trạng hiện nay của cô là gì?” “Xin lỗi?” “Đã đính hôn, ly hôn, ly thân hay có quan hệ với ai đó?” “Ly hôn. Anh biết hoặc nghi ngờ điều gì về vụ này mà anh chưa đề cập tới?” “Không bạn trai?” “Không bạn trai, không con cái, mười một người ngưỡng mộ, năm đã có gia đình, ba người gia trưởng, hai người có khả năng đi xa thêm, và một gã đần độn.” “Tôi quá tọc mạch à?” “Đúng.” “Nếu tôi có một cộng sự là nam và tôi hỏi anh ta những câu hỏi này thì sẽ là hoàn toàn bình thường.” “Nhưng... chúng ta không phải cộng sự.” “Cô muốn theo cả hai cách. Rất điển hình.” “Này... nói về anh đi. Ngắn gọn thôi.” “Được. Ly hôn, không có con, hàng tá người ngưỡng mộ, nhưng không có ai đặc biệt.” Tôi nói thêm, “Không mắc bệnh hoa liễu.” “Và không có bộ phận bị hoa liễu.” “Đúng.” “Được rồi, John, vụ này thế nào?” Tôi ngồi lại lên ghế và đáp, “Beth... điều đang xảy ra đối với vụ này là những thứ rõ ràng lại đang dẫn đến những điều khó có khả năng xảy ra, và mọi người đang cố làm cho điều khó xảy ra khớp với những thứ rõ ràng. Nhưng nó không phải như vậy, thưa cộng sự.” Nàng gật đầu rồi nói, “Ý anh là vụ này không liên quan gì đến cái mà chúng ta nghĩ là phải có liên quan.” “Tôi bắt đầu nghĩ có điều gì đó khác đang diễn ra ở đây.” “Tại sao anh lại nghĩ như vậy.” “Ờ... một số chứng cứ có vẻ không phù hợp.” “Có thể sẽ phù hợp trong một vài ngày nữa, khi có tất cả các báo cáo từ phòng thí nghiệm và đã lấy lời khai từ tất cả mọi người. Chúng ta vẫn còn chưa nói chuyện với người của Đảo Plum.” Tôi đứng dậy nói, “Chúng ta xuống cầu tàu nhé.” Nàng xỏ giầy và chúng tôi đi về phía bãi đỗ tàu. Tôi nói, “Cách đây vài trăm thước dọc xuống theo bờ biển, Albert Einstein đã đấu tranh với vấn đề đạo đức của bom nguyên tử và quyết định đó là sự thử nghiệm. Người tốt thì không có sự lựa chọn nào vì những kẻ xấu đã quyết định rằng đó là thử nghiệm không cần phải băn khoăn với những vấn đề đạo đức.” Tôi nói thêm, “Tôi biết vợ chồng Gordon.” Nàng thoáng suy nghĩ rồi nói, “Ý anh là anh không nghĩ vợ chồng Gordon có khả năng - khả năng về đạo đức - bán những thứ vi sinh vật chết người.” “Đúng, tôi không nghĩ như vậy. Giống như các nhà khoa học về hạt nhân, họ đánh giá cao sức mạnh của vị thần trong chiếc bình. Tôi không biết chính xác họ làm gì ở Đảo Plum, và có thể chúng ta sẽ không bao giờ biết, nhưng tôi nghĩ tôi hiểu đủ về họ để nói rằng họ không bán vị thần ở trong bình.” Nàng không đáp. Tôi nói tiếp, “Tôi nhớ Tom có một lần nói với tôi rằng Judy đang có một ngày tồi tệ vì con bê mà cô ấy gắn bó đã bị cho nhiễm bệnh có chủ ý và sắp chết. Đó không phải là hạng người muốn nhìn thấy trẻ em chết vì bệnh tật. Khi cô hỏi các nhân viên trên Đảo Plum, cô sẽ tự nhận ra điều này.” “Đôi khi người ta còn có mặt trái.” “Tôi chưa bao giờ thấy một biểu hiện nào trong nhân cách của vợ chồng Gordon có thể gợi lên chuyện họ sẽ bán một thứ gây bệnh chết người.” “Đôi khi người ta hợp lý hóa hành vi của mình. Những người Mỹ đã bán bí mật bom nguyên tử cho người Nga thì sao? Họ là những người nói rằng mình làm vậy là vì niềm tin, rằng để không bên nào có được tất cả sức mạnh.” Tôi liếc nhìn nàng và nàng cũng nhìn tôi khi hai người đang bước đi. Tôi mừng vì phát hiện ra Beth Penrose có khả năng suy nghĩ sâu hơn, và tôi biết nàng cũng nhẹ nhõm khi thấy tôi không phải là kẻ đần độn như nàng từng nghi ngờ. Tôi nói, “Nói về các nhà khoa học hạt nhân, đó lại là một thời điểm khác và một bí mật khác. Ý tôi là, nếu không có gì khác, tại sao vợ chồng Gordon có thể bán thứ vi khuẩn và virut có thể giết chết họ và gia đình mình ở Indiana hay chỗ nào đó, và giết hết tất cả mọi người trên đường đi.” Beth Penrose trầm ngâm suy nghĩ điều đó một lát rồi đáp, “Có thể họ được trả mười triệu đô la, tiền gửi trong ngân hàng Thụy Sỹ, và họ có một lâu đài trên một ngọn núi chứa đầy sâm panh và đồ hộp, và họ mời bạn bè, người thân tới thăm. Tôi không biết, John ạ. Tại sao người ta làm những """