"
Đảo Ngục Môn - Yokomizo Seishi full mobi pdf epub azw3 [Trinh Thám]
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Đảo Ngục Môn - Yokomizo Seishi full mobi pdf epub azw3 [Trinh Thám]
Ebooks
Nhóm Zalo
ĐẢO NGỤC MÔN
YOKOMIZO SEISHI
Mở đầu
Đáp thuyền ra đảo
Từ Kasaoka (Bitchu) đi về phía Nam chừng bảy dặm1, ở vùng biển nội địa Seto, tại nơi giáp ranh giữa ba tỉnh Okayama, Hiroshima và Kagawa, có một hòn đảo nhỏ chu vi chừng hai dặm2, gọi là đảo Ngục Môn3.
Đảo Ngục Môn.
Các sử gia địa phương trước đây đã đưa ra nhiều cách giải thích về cái tên rùng rợn này. Trong đó có một giả thiết đáng tin cậy nhất, cho rằng đảo này vốn tên là Bắc Môn, bắt nguồn từ những tư liệu khảo cứu như bên dưới.
Từ thời Fujiwara Sumitomo4, vùng biển Seto đã khét tiếng về nạn cướp biển. trước đây thuyền buôn từ lục địa đi qua cửa biển Akama để vào trung tâm Nhật Bản, thường bị đám cướp biển hung hãn trên biển Seto quấy nhiễu. Thế lực của chúng dĩ nhiên cũng có khi mạnh khi yếu, song từ thời Nara xa xưa (710 - 784) tới tận đầu thời Edo (1600 - 1876), chúng vẫn giữ vững truyền thống. Nhất là dưới thời Nam Bắc triều5 (1336 - 1392), thế lực của chúng bành trướng lớn mạnh nhất. Ai nấy đều biết cướp biển Seto đã giữ vai trò quan trọng nhường nào trong suốt sáu mươi năm phân tranh Nam Bắc triều.
1. Khoảng 27,5 km.
2. Khoảng 7,8 km.
3. Cửa địa ngục.
4. Fujiwara Sumitomo (? - 941), vốn là quan đánh dẹp cướp biển, về sau lại trở thành thủ lĩnh cướp biển.
5. Trong thời đại này, tồn tại Bắc triều do Ashikaga Takauji thiết lâp ở Kyoto, và Nam triều của thiên hoàng Go-Daigo ở Yoshino. Hai triều đ*chiến trong vòng năm mươi năm, kết thúc bằng việc thiên hoàng Nam triều thoái vị năm 1392.
Đám cướp biển được gọi là “cướp biển Iyo”, bởi sào huyệt của chúng trải dài từ bờ biển Iyo đến các đảo nhỏ ở Hiuchi, Bingo. Đảo Ngục Môn
hiện giờ là một trong những sào huyệt hồi ấy, vì nằm ở vị trí quan trọng phía Bắc nên được đặt tên là đảo Bắc Môn, đến một lúc nào đó bỗng đổi tên thành đảo Ngục Môn.
Ngoài ra cũng còn vài thuyết khác, nhưng thiếu căn cứ lịch sử chính xác. Nghe nói đầu thời Edo, trên đảo có một người vạm vỡ thân cao sáu thước bảy tấc1 nên nổi tiếng khắp nước, tên là Ngũ Hữu Vệ Môn. Từ đó đảo này được gọi là đảo Ngũ Hữu Vệ Môn, đến một lúc nào đó bỗng đổi thành đảo Ngục Môn.
1. Khoảng 2,3m.
Tôi cũng không rõ gọi là Bắc Môn hay Ngũ Hữu Vệ Môn thì chính xác hơn. Nhưng kết quả cuối cùng vẫn là đổi sang cái tên xui xẻo Ngục Môn. Tại sao lại thế? Về điểm này, giả thuyết của các sử gia lại giống nhau.
Họ đều cho rằng, vào thời Mạc phủ, hòn đảo này từng là lãnh địa của một lãnh chúa nào đó ở vùng Chugoku1. Trên đảo trồng đầy thông đỏ, là đảo đá hoa cương biệt lập. Trên đảo ít ngư dân, chỉ biết đánh bắt cá kiếm ăn bằng phương pháp nguyên sơ nhất, nghe nói đều là con cháu của bọn cướp biển khi xưa. Về sau vị lãnh chúa kia muốn khai phá đảo, bèn biến nơi đây thành nơi lưu đày tội phạm. Từ đó, những kẻ mắc tội tử hình trong lãnh địa của ông ta, nếu được xá tội chết, sẽ bị đày tới đây. Chính vì vậy, chẳng biết từ lúc nào, đảo đổi sang cái tên rùng rợn là đảo Ngục Môn.
Suốt ba trăm năm dưới thời Edo, hẳn cũng có những người được tha cho về quê cũ, nhưng chắc chắn vẫn còn không ít kẻ chết già ở đảo. Phần lớn kết hôn với ngư dân bản địa ( vốn là hậu duệ cướp biển) và sinh con đẻ cái, ngoài ra trong các tội phạm được đặc xá về quê cũng có kẻ lúc trước đã thành đôi với phụ nữ ở đảo rồi để lại con cháu.
1. Phần Tây Nam đảo Honshu của Nhật Bản, gồm năm tỉnh Okayama, Hiroshima, Yamaguchi, Tottori và Shimane.
Đến thời Meiji, chế độ lưu đày bị bãi bỏ, nhưng dân đảo ghét người ngoài, lại thêm hạn chế về hoàn cảnh nên khó kết thông gia với dân đảo khác. Bởi vậy có thể nói, hơn ba trăm hộ dân với hơn một nghìn nhân khẩu ở đảo đều là hậu duệ của cướp biển và tội phạm lưu đày.
Nếu trên đảo xảy ra vụ án, việc điều tra hẳn sẽ tương đối khó khăn. Về điểm này, ông K, nhiều năm làm giáo viên tiểu học tại một hòn đảo
trong vùng biển Seto có lần đã kể, “Đảo tôi sống chỉ tầm hơn ngàn người, nhưng giữa họ lại có quan hệ thân thích chồng chéo hai ba tầng, thậm chí năm sáu tầng. Nói cách khác cả đảo giống như một gia tộc lớn vậy. Thế nên, cảnh sát từ nơi khác đến chẳng làm được gì, hễ xảy ra chuyện là cả đảo sẽ đoàn kết lại, cảnh sát đành bó tay.
“Nếu giữa dân đảo có hục hặc tranh chấp, ví như mất đồ hoặc trộm tiền, cảnh sát sẽ tới hỗ trợ điều tra, nhưng cứ sắp bắt được thủ phạm thì họ lại tự hòa giải riêng với nhau, còn nói không phải trộm cắp gì cả, hóa ra tôi cất vào tủ quần áo rồi quên khuấy đi mất. Cứ như thế, nói bình yên thì cũng bình yên đó, nhưng nếu có chuyện thì lại khó xử lý vô cùng.
Ở các đảo bình thường còn thế, nói gì hòn đảo đặc biệt như Ngục Môn. Hậu duệ cướp biển! Con cháu tội phạm! Bị các đảo xung quanh hắt hủi, dân chúng dĩ nhiên sẽ ghét người ngoài gấp bội. Một khi có chuyện lôi thôi, khỏi nói cũng biết cảnh sát sẽ gặp khó khăn nhường nào.
Thế mà nơi ấy lại xảy ra án mạng. Còn là kiểu án mạng cực kì kinh khủng! Giết người hàng loạt một cách cônh phu, quái đản và tà ác khó tả, chỉ nghe kể cũng sởn tóc gáy, thậm chí không tin nổi, hoàn toàn phù hợp với cái tẻn hòn đảo.
Nhưng quý vị độc giả đừng vội đưa ra kết luận, xin các vị nhớ cho, đảo Ngục Môn không phải hòn đảo tách biệt nằm tít ngoài khơi xa, mà ở ngay giữa biển nội địa Seto, bởi vậy hẻo lánh đến đâu cũng có mức độ thôi. Trên đảo có điện, có bưu điện, ngày ngày đều có thuyền từ đất liền ra đảo rồi trở vè, xuất phát từ Kasaoka ( Bitchu).
Chuyện xảy ra vào cuối tháng Chín năm 1946, sau chiến tranh tầm một năm.
Bạch Long là một tàu tuần tiêu trọng tải chừng 35 tấn, xuất phát từ cảng Kasaoka. Cabin chen chúc đủ loại hành khách, ồn ào nhốn nháo, trong đó quá nửa là dân thường gần đây rủng rỉnh nên đi từ đảo Konoshima đến đảo Shiraishi ăn hải sản còn lại là vợ chồng ngư dân từ các đảo nhỏ vào đất liền mua đồ. Vùng biển Seto dồi dào tôm cá nhưng lại thiếu gạo, nên cư dân ở đây thường đem tôm cá đổi lấy gạo ăn.
Tấm chiếu tatami cũ nát bẩn thỉu trong khoang lèn chặt khách và hành lý, chẳng còn chỗ đặt chân. Mùi mồ hôi, mùi cá, mùi sơn, mùi xăng, mùi khói xả… mùi nào cũng khó ngửi, giờ lại hòa trộn vào nhau lan khắp khoang thuyền. Ai hơi yếu dạ mà ngửi phải là nôn nao muốn mửa. Nhưng
mọi người ở đây đều khỏe vẫn thản nhiên cười nói bằng giọng địa phương oang oang, không khí thành ra ồn ào kinh khủng.
Tách hẳn khỏi sự hỗn tạp ấy, là một người đàn ông ngồi trong góc khoang. Ânh ta đội nón dạ mềm, mình mặc haori1 và hakama2 kẻ ca rô.
1. Áo khoác tay rộng thường mặc ngoài kimono.
2. Quần rộng nhiều nếp gấp, hai ống hoặc một ống, dài tới mắc cá chân, cố định ở eo bằng một nút thắt hình nơ, xưa chỉ dành cho nam giới, ngày nay cả hai giới đều mặc được.
Ngày nay người ta thường mặc đồ Âu hoặc na ná đồ Âu, ở nhà còn có lúc thế này thế khác chứ đã ra ngoài thì đến mèo và trẻ con cũng mặc đồ Âu luôn. Trên thuyền chỉ mình anh ta mặc đồ Nhật ( thật ra vẫn có một người nữa, nhưng người ta là nhà sư, không tính).
Thời buổi này mà còn khăng khăng mặc đồ Nhật chứng tỏ tâm tính cũng khá bảo thủ. Mặt mũi anh ta vô cùng bình thường, dáng người thấp bé, phong thái không lấy gì làm nổi bật, da ngăm ngăm như người phương Nam song cảm giác không mấy rắn rỏi khỏe khoắn, tuổi chừng ba tư ba lăm.
Anh ta ngồi tựa cửa sổ mắt nhìn xa xăm, mặc cho gió lùa lồng lộng và khoang thuyền ồn ào nói cười. Nước biển trong xanh, rải rác đó đây là những đảo nhỏ đẹp như tranh. Nhưng anh ta chẳng hề xao xuyến trước cảnh sắc ấy, trái lại còn lờ đờ buồn ngủ.
Giữa đường thuyền cập vào đảo Shiraishi và Kitagi, nhiều người xuống nhưng hầu như không có ai lên. Đã ba tiếng trôi qua kể từ khi tàu xuất bến Kasaoka, khi thuyền chuẩn bị rời đảo Manabe thì trong khoang vừa ầm ĩ là thế giờ chỉ còn ba hành khách.
“Ôi chao, đây chẳng phải sư thầy chùa Senko sao? Ban nãy tôi không để ý. Thầy đi đâu vậy ạ?”
Nghe giọng ồm ồm bắt chuyện, người bên cửa sổ giật mình bừng tỉnh, quay mặt vào nhìn. Kẻ vừa lên tiếng chừng bốn lăm bốn sáu tuổi, thoạt trông đã biết là ngư dân, mặc bộ đồ kaki rộng thùng thình, hình như mua lại từ quân đội. Nhưng anh ta không chú ý tới kẻ này, mà chỉ nhìn người được gọi là sư thầy chùa Senko.
Nhà sư nọ tầm sáu mươi, mà không, có lẽ phải gần bảy mươi tuổi rồi. Song thân hình cao lớn vạm vỡ như tráng niên, mắt to, mũi lớn, miệng rộng, đem lại cho người ta cảm giác đáng tin cậy. Mắt ông ta trong trẻo ôn
hòa nhưng vẫn ánh lên sắc lạnh. Vận bộ đồ đi đường bên ngoài bên ngoài kimono trắng, đầu trọc đội nón không vành thêu kim tuyến. Nhà sư cười hiền, nếp nhăn hiện nơi khóe mắt, “Ồ, Takezo đấy à? Tôi cũng không biết anh ở đây.” Giọng điệu khá dễ chịu.
“Tôi có phải nhân vật quan trọng gì đâu. Thầy đi đâu vậy ạ?” Takezo hỏi lại.
“Tôi đến Kure lấy chuông về.”
“Chuông ư? Cái chuông bị trưng dụng trong chiến tranh ấy à? Nó vẫn còn ạ?”
“Vâng, chưa bị nấu chảy, vẫn được giữ ở đó.”
“Thầy đi lấy nó về à? Giờ nó ở đâu rồi?”
“Ha ha, tôi khỏe chừng nào cũng không vác nổi, chỉ tới làm thủ tục thôi, sau đó phải phiền mấy cậu thanh niên trên đảo đưa về hộ.” “Cũng phải, để tôi giúp một tay nhé? Chuông vẫn còn lành lặn, đáng mừng quá!”
“Đúng rồi. Chuông cũng xuất ngũ về làng.”
Nhà sư đang cười, Takezo thình lình nói, “À quên, nói tới xuất ngủ về làng, tôi mới nhớ ra. Nghe đâu cậu Hitoshi cùa chi thứ cũng mới phục viên đấy.”
“Hitoshi của chi thứ?” Nhà sư bỗng nhìn chằm chằm vào người kia, “Sao anh biết? Bên quân đội báo về à?”
“Không phải bên quân đội, hôm kia, à nhầm, hôm kia, một đồng đội của cậu ấy đột nhiên đến đảo chuyển lời rằng cậu vẫn khỏe mạnh bình an, mọi người đừng lo, không phải chuyến sau thì là chuyến sau nữa sẽ về. Hay tin, cô Sanae vô cùng phấn khởi, vội mời người đó ăn cơm, còn quà cáp cảm ơn.”
“Hừm, người đồng đội đó về rồi à?”
“Vâng, về mất rồi. Chỉ nghỉ lại một đêm thôi, nghe nói được biếu nhiều quà lắm. Nếu cậu Chima cùa chi chính còn sống thì hay quá.” “Hừm, nếu cậu Chima còn sống thì hay.” Nhà sư nhắm mắt, lẩm bẩm cảm khái.
Người đàn ông ngồi bên cửa sổ đột ngột bước đến, “Xin hỏi, thầy cò phải là thầy Ryozen ở đảo Ngục Môn?”
Nhà sư mở mắt, cặp mắt sáng rực nhìn xoáy vào anh ta, “Vâng, tôi là Ryozen, cậu đây là?”
Người đàn ông mở cặp lấy một phong bì, bóc phong bì, rút ra tờ giấy được gấp cẩn thận, đưa cho nhà sư. Dường như là giấy xé từ một cuốn sổ tay, nhà sư nghi hoặc nhận lấy.
“Nhờ anh Kindaichi Kosuke chuyển giúp,” nhà sư đọc lên, rồi kinh ngạc nhìn người đàn ông mặc đồ caro, “Chữ cậu Chima đây mà!” Người đàn ông lẳng lặng gật đầu.
“Cậu là Kindaichi Kosuke?”
Người đàn ông, giờ là Kindaichi, lại gật đầu.
“Trên thư ghi gửi ba người là tôi, trưởng làng và bác sĩ Murase, tôi xem luôn bây giờ được không?”
“Mời thầy.”
Nhà sư mở tờ giấy gấp kĩ ra, đọc lướt những hàng chữ viết tháo nhàn nhạt bằng bút máy. Đọc xong, ông gấp thư lại như cũ, “Phiền cậu cho tôi xin cả phong bì, tôi sẽ tạm giữ bức thư.”
Sau khi cất thư vào phong bì, nhà sư lấy một túi giấy lớn trong ngực áo, kẹp phong thư vào. Đoạn chậm rãi quay lại nhìn Kindaichi. “Có nghĩa là cậu muốn tìm một nơi yên tĩnh nghỉ ngơi ít lâu, mà đảo Ngục Môn là một địa điểm lí tưởng, vì vậy cậu Chima mới giới thiệu cậu tới tìm tôi, trưởng làng và bác sĩ Murase?”
Kindaichi gật đầu, “Có được không ạ? Có phiền các vị lắm không? Tôi đã chuẩn bị ít gạo…”
“Không, không hề gì. Nếu đã được chi chính giới thiệu, trên đảo có thiếu thốn đến đâu đi nữa cũng không để cậu đói, mọi người sẽ chăm sóc cho cậu. Cậu muốn ở bao lâu thì ở. Có điều, cậu Kindaichi này…” “Dạ?”
“Rốt cuộc chi chính xảy ra chuyện gì vậy? À không, tại sao Kito Chima không về?”
“China, cậu ấy…” Kindaichi ngập ngừng, vẻ khó nói.
“Chết trận rồi ư?” Takezo run rẩy, rụt rè hỏi xen vào.
“Không, không phải chết trận, sau khi chiến tranh kết thúc, đến tháng Tám năm nay cậu ấy vẫn còn sống. Nhưng trên tàu hồi hương…” “Cậu ta qua đời rồi ư?”
Người đàn ông mặc đồ Nhật gật đầu, “Ít lâu nữa sẽ có thông báo. Tôi được Chima nhờ tới đây đưa tin.”
“Ôi, đúng là bất hạnh!” Takezo đau đớn kêu lên rồi giơ hai tay lên ôm đầu.
Ba người lặng thinh, rầu rầu phóng mắt nhìn ra xa. Cuối cùng nhà sư cảm thán thốt lên, “Người chi chính chết, chi thứ lại được cứu, đúng là sự đời khó lường.”
Tàu Bạch Long kéo theo bọt nước trắng xóa, phát ra tiếng u u đơn điệu, tiếp tục lướt đi trên biển. Nước biển Seto xanh biếc trong veo, nhưng sóng mạnh dập dềnh như điềm báo mưa to gió dữ sắp ập xuống. Thỉnh thoảng lại nghe đằng xa ầm ầm như tiếng nổ.
1
Ba chị em Gorgon1
1.Ba chị em yêu quái tóc rắn trong thần thoại Hy Lạp, hễ nhìn người khac sẽ khiến họ hóa đá. Hai người chị bất tử, còn em út Medusa thì không, sau này đã bị Perseus giết chết.
Kindaichi Kosuke. Quý vị độc giả nếu đã đọc qua Cung đàn báo oán, hẳn đều biết anh ta.
Năm 1937, một vụ án ly kì xảy ra tại một vùng nông thôn tỉnh Okayama. Người phá án là Kindaichi, năm đó chỉ là một thanh niên hăm lăm hăm sáu tuổi. Sau đó anh ta làm gì? Cũng như những thanh niên Nhật Bản khác, khi chiến tranh nổ ra, theo lời tổ quốc kêu gọi, anh ta nhập ngũ và cống hiến cho quân đội những năm tháng quý giá nhất đời.
Hai năm đầu anh ta ở Trung Quốc, sau đó được phái tới quần đảo Indonesia, cứ thế điều qua chuyển lại giữa các đảo.
Khi chiến tranh kết thúc, anh ta đang ở Wewak, New Guinea. Trong trận chiến này, đơn vị của họ bị tiêu diệt gần như toàn bộ, số còn lại rút lui, rồi sát nhập với đơn vị khác. Kito Chima được phân về cùng đội với Kindaichi. Kito ít hơn Kindaichi bốn tuổi, năm 1936 vừa ra trường đã bị đẩy đến Trung Quốc, rồi điều chuyển lòng vòng tương tự Kindaichi, cuối cùng được đưa tới New Guinea.
Kindaichi là người vùng Đông Bắc, Chima đến từ vùng biển Seto, không hiểu sao lại tâm đầu ý hợp đến lạ.
Họ luôn sát cánh bên nhau. Chima từng măc sốt rét, không ngờ đến đây lại tái phát. Kindaichi đã kề cận bên cạnh chăm sóc không rời nửa bước.
Năm 1943, Wewak đã dứt khói lửa chiến tranh, đám tàn quân ở đây không bị coi là mối nguy nên được phe Đồng minh bỏ qua, nhưng họ cũng
không thể liên lạc với cấp trên hay các cánh quân khác, viện trợ gián đoạn, đành sống trong ảm đạm vô vọng, ngày ngày cầm hơi bằng rau rừng cỏ dại. Binh lính lần lượt ngã xuống vì sốt cao hoặc suy dinh dưỡng. Quân số càng lúc càng ít, tâm trạng càng lúc càng suy sụp. Quần áo, giày dép đều tả tơi, ai nấy trông như quỷ đói.
Đúng lúc ấy, chiến tranh kết thúc. Đến giờ Kindaichi vẫn thắc mắc trước phản ứng mừng rỡ như điên của Chima. Cậu ta cuống cuồng hú hét, “Cuối cùng cũng sống sót trở về rồi!” Như vừa trút được gánh nặng ngàn cân, hay như vừa được thả ra khỏi nhà lao tăm tối, quả là quá cực đoan, quá quái dị. Dĩ nhiên ai cũng phấn khởi vì đạn bom chấm dứt, chẳng ai muốn mình chết đi như dòi bọ, nhưng cũng không ai sợ hãi cái chết một cách thấm thía sâu săc đến ám ảnh như Chima. Những cơn sốt rét trở đi trở lại khiến cậu ta thành ra khiếp đảm bóng đen tử vong, hệt như trẻ con sợ bóng tối. Cậu thanh niên vóc dáng cao to, tính tình bướng bỉnh, can đảm hơn người lại mừng rỡ như vậy kể cũng lạ. Lòng ham sống của cậu ta quá mạnh, quá lộ liễu, đến nỗi thành cực đoan. Thế mà cậu ta vẫn chết. Hơn nửa lại chết khi chỉ còn năm sáu ngày là về đến tổ quốc. Để báo tin dữ cho người nhà cậu ta, Kindaichi Kosuke mới đáp tàu ra đảo Ngục Môn.
Trước khi ra đảo, Kindaichi có tiện đường ghé qua thăm Kubo Ginzo2.
1. Nhân vật trong Cung đàn báo oán, đã giúp Kindaichi Kosuke mở văn phòng thám tử.
Vốn đi guốc trong bụng Kindaichi, Ginzo lo lắng quan sát anh, rồi hỏi, “Kindaichi, anh đến đảo Ngục Môn đưa tin báo tử hộ đồng đội còn đỡ, nhưng nếu có mục đích hay ý đồ gì khác thì tôi khuyên anh đừng đi. Đó là một hòn đảo kinh khủng, rất đáng sợ! Rốt cuộc anh muốn đến đó làm gì thế hả?”
“Cỏ hè mơn man, còn lưu dấu chân khải hoàn 2. Phải không?”
2. Bài haiku của Matsuo Basho (1644-1694), nhà thơ haiku trứ danh thời Edo, người đưa nghệ thuật thơ haiku lên đỉnh cao.
“Gì cơ? Thầy nói gì vậy?” Kindaichi đang thẩn thờ hồi tưởng chợt sực tỉnh vì câu nói của nhà sư, vội hỏi.
Nhà sư tựa vào cửa sổ nhìn ra mặt biển xanh biếc phẳng lặng đáp, “Không có gì, là âm thanh đó thôi.”
“Âm thanh nào?” Kindaichi lắng tai nghe, có tiếng nổ “ầm ầm” từ xa truyền đến.
“Ồ, là tiếng mìn cá, phải không?”
“Đằng xa là mìn cá, còn ở gần, cậu xem, chính trên hòn đảo thấp thoáng kia kìa, họ đang phá các căn cứ quân sự. Đều là dấu chân khải hoàn. Giá mà Basho thấy cảnh này.”
Giữa bầu không khí lạ lùng đột nhiên lại đọc thơ Basho, Kindaichi ngạc nhiên nhìn nhà sư. Nhà sư cũng quay lại đối diện với anh, “Ở đây còn đỡ, nếu đi thêm một quãng về phía Tây, sẽ thấy các đảo gần Kure lỗ chỗ như tổ ong, nghe nói trên hòn đảo nào đó còn bí mật chế tạo khí độc, hiện giờ chính phủ đang đau đầu không biết xử lý ra sao. Trên đảo chúng tôi cũng đặt trạm giám sát phòng không và trận địa cao xạ pháo, còn có năm mươi quân đồn trú. Bọn họ đảo rỗng cả núi ra, sau chiến tranh lại chẳng buồn dọn dẹp, cứ thế rút quân, để lại một đống ngổn ngang. Người xưa nói nước mất núi sông còn, nhưng thế này chẳng phải là nước mất núi sông đổi à? Nhìn kìa, đó là đảo Ngục Môn!”
Rất lâu về sau, Kindaichi cũng không sao quên được khung cảnh đảo Ngục Môn nhìn từ cửa sổ tàu Bạch Long khi ấy. Biển Seto bên nắng gắt, bên âm u, nhìn về phía Tây là trời thu vòi vọi trong veo dưới ánh tà dương, nhưng nhìn về phía Đông chỉ thấy mây đen nặng như chì chực ập đổ xuống. Đảo Ngục Môn sừng sững nổi lên giữa vùng trời biển ấy, phản chiếu bóng chiều rực rỡ. Xét tổng thể, trước khi vùng Seto sập xuống thành biển nội địa, có lẽ nơi đây từng là đỉnh núi chót vót, vì vậy trên các đảo rất hiếm đất bằng, nhiều nơi ngay từ đường bờ biển đã bắt đầu dựng đứng như vách đá, đặc biệt là đảo Ngục Môn. Thật ra thì không có núi cao, nhưng bản thân hòn đảo đã như vút lên từ đáy biển, vách đá mấy chục trượng bao bọc xung quanh. Trên vách gồ lên những ngọn đồi lè tè như bát úp, phủ đầy thông đỏ. Sườn đồi thấp thoáng những ngôi nhà trắng nho nhỏ, nhuôm đẫm tà dương sáng lấp lánh dưới nền trời u ám chỉ chực đổ sập xuống. Chẳng hiểu sao, Kindaichi bất giác rùng mình, cảm thấy cảnh tượng ấy như ám chỉ vận mệnh hòn đảo.
“Cậu xem, cao cao đằng kia là ngôi chùa tôi trụ trì. Phía dưới có tòa dinh thự tường trắng đúng không? Đó là dinh thự cho chính Kito mà cậu đang muốn tìm đấy.”
Nhà sư chỉ qua cửa sổ giới thiệu với anh, nhưng con tàu đang vòng qua một vách đá cao ngất, nên chỉ trong thoáng chốc, ngôi chùa và ngôi nhà đã khuất tầm mắt. Sau khi vòng qua vách đá, một bến tàu thiên nhiên khá bằng phẳng hiện ra, giữa dải đất mấp mô, những ngôi nhà tranh của ngư dân nằm rải rác khắp nơi, một chiếc xuồng từ trạm chuyển sâu trong bến chầm chậm tiến ra. Như đã nói ở trên, nơi đây ít chỗ bằng phẳng, tàu thủy hơi nước cỡ nhỏ ba mươi lăm tấn muốn cập bờ cũng khó. Vì vậy trên mỗi đảo đều có trạm chuyển xuồng, cho xuồng ra chỗ nước cạn gần bờ đón khách vào.
Chiếc xuồng nhanh chóng lại gần con tàu đang đậu ở vũng nước cạn. “Sư thầy về rồi đấy ạ! Ồ, Takezo, anh cũng về cùng à? Ông Yoshimoto, phiền ông đưa kiện hàng này tới chỗ ông Shimura ở đảo Shiraishi, tiện thể hỏi thăm Miyoko dùm tôi được không? Ha ha!” Ba người vừa lên xuồng, con tàu hơi nước đã chuyển hướng, vừa phụt ra từng cuộn khói vừa vững vàng rẽ sóng lướt đi. Chiếc xuồng chòng chành vì sóng từ tàu lớn đánh sang, song vẫn thong dong trở về.
“Anh khách quý đây đến chỗ thầy ư?”
“Cậu này à? Đây là khách của nhà chính Kito, cậu ấy sẽ ở lại đảo ít lâu, đừng bận tâm.”
“Thế ạ? À phải, thưa thầy, việc cái chuông sao rồi?”
“Chuông đã được hoàn trả cho chúng ta. Khoảng hai ba ngày nữa tôi sẽ nhờ mấy cậu trẻ khỏe tới lấy về. Nó nặng quá, đành phiền mọi người vậy.”
“Đáng gì đâu, thầy đừng lo. Có điều đã thế thì ngay từ đầu đừng đòi chúng ta giao ra mới phải!”
“Không thể nói như vậy được, khi thua trận, tình hình sẽ thay đổi mà.”
“Cũng đúng nhỉ. A, đến rồi.”
Xuồng vừa đến cầu tàu thì cả hòn đảo đã bị mây đen bao phủ, ngay sau đó, vài hạt mưa to bằng hạt đậu lộp độp rơi xuống.
“Thầy may thật đấy, vừa kịp nhé! Chậm chút nữa là thành chuột lột rồi.”
“Đúng thế, xem ra sắp mưa to.”
Rời khỏi cầu tàu, họ đặt chân lên một con dốc.
“Anh Takezo!”
“Dạ?”
“Phiền anh ghé chi chính báo một tiếng, nói rằng sư thầy sắp đưa khách tới nhà họ được không?”
“Vâng, không vấn đề gì.”
“Sau đó phiền anh tới nhà trưởng làng và bác sĩ Murase, mời họ tới chỗ chi chính, nói là sư thầy gửi lời mời.”
“Vâng, vâng, tôi hiểu.”
Takezo đi rồi, hai người cũng rảo bước thật nhanh. Bất kể ngoài bờ biển hay dọc đường đi, hễ thấy nhà sư là mọi người cung kính cúi đầu chào, rồi ngạc nhiên nhìn theo Kindaichi mãi.
Nếu quý vị độc giả đến đảo, biết được thế lực tăng lữ ở đây lớn mạnh chừng nào, e rằng sẽ phát hoảng. Với những ngư dân sống bấp bênh trên bờ địa ngục, tín ngưỡng là nhu cầu thiết yếu, câc tăng lữ chi phối tín ngưỡng có thể nói là nắm quyền sinh quyền sát, mặc sức hoành hành. Trưởng làng gặp trụ trì còn phải cúi đầu, thậm chí việc bổ nhiệm và bãi nhiệm giáo viên tiểu học cũng do nhà sư thao túng.
Rời làng chài, đường bắt đầu gập ghềnh khó đi. Leo lên con dốc ruột dê khúc khuỷu, sẽ thấy một dinh thự lớn, từ dưới nhìn lên trông như một tòa thành nhỏ, từ sườn dốc đến thung lũng rải đầy đá hoa cương, nối liền với tường nhà trắng xóa. Sừng sững bên trong tường là mấy mái nhà dài lợp ngói lộn xộn, đây chính là dinh thự của chủ tàu nắm quyền trên đảo Ngục Môn, chi chính Kito.
Khi nhà sư và Kindaichi đến cổng, một người đàn ông vội vã ra đón, ông ta đội một chiếc nón cao đã ngã màu, tay áo khoác bay phấp phới như cánh dơi, đôi chân xỏ bao tất trắng1 hối hả chạy tới như muốn đá văng sỏi đá dọc đường.
1. Bao tất thường mang khi mặc kimono và đi guốc gỗ, ngón cái tách riêng khỏi các ngón còn lại.
“A, chào thầy. Vừa nãy nghe Takezo báo tôi mới tới!”
“Bác sĩ Murase, ta vào trong rồi nói nhé.”
Người nọ đeo kính gọng vàng, bộ râu dê vểnh lên, xem chừng vừa vội vã thay đồ, chiếc quần lễ phục kiểu Nhật in gia huy lộ ra dưới vạt áo khoác tuổi chừng năm lăm năm sáu. Nghe nhà sư chào, Kindaichi đoán đây là Murase Koan, bác sĩ Đông y trên đảo.
Bước vào nhà, đi qua hành lang dài như đường hầm, được một lúc thì thấy phía trước sáng bừng, ra là một tiểu sảnh rộng rãi để khách khứa nghỉ
chân. Ba người cùng bước lên. Nghe tiếng họ, một cô gái vội vã bước ra, quỳ trước tấm bình phong cao ngất làm lễ lạy chào.
Kindaichi tròn mắt ngạc nhiên, không ngờ trên hòn đảo mang cái tên quái gở, giữa ngôi nhà cũ kĩ của chủ tàu lại xuất hiện người con gái xinh đẹp nhường này.
Cô gái chừng hăm hai hăm ba tuổi, mái tóc dày uốn xoăn thả xõa trên vai, vận bộ đồ thùng thình màu cà phê, món trang sức duy nhất là chiếc nơ bướm hồng xinh xinh cài trên cổ áo trắng.
“Chào các ông.”
“Chào cô Sanae, tôi dẫn khách đến rồi đây. Các cô ấy ở nhà cả chứ?” “Thưa vâng, họ ở cả bên trong.”
“Vậy chúng tôi vào đây. Cậu Kindaichi, xin mời. Bác sĩ Murase, trưởng làng chắc cũng sắp đến thôi, chúng ta vào trước đợi nhé.” Nhà sư tự nhiên như ở nhà, đứng dậy bước vào phòng khách. Cô gái tò mò nhìn Kindaichi, nhưng mắt vừa chạm mắt, cô đã đỏ bừng mặt, bối rối tiếp bước nhà sư, dẫn đường cho khách.
“Thầy có việc gì gấp mà phải gọi tôi tới nhà chính ngay thế? Làm tôi hớt hải chạy ngay đến. Cậu này là khách quý từ đâu tới vậy?” “Bác sĩ Murase, anh chưa hỏi Takezo à?”
“Không, tôi chẳng hỏi gì cả, tại vội quá…”
“Được rồi, vào trong hẵng nói. À quên, cô Sanae, lúc trước tôi nghe Takezo kể cậu Hitoshi vẫn bình yên vô sự phải không?”
“Vâng, nhờ phúc của thầy.”
“Tốt quá rồi, ít ra sau này… A! Hình như ông trưởng làng đến rồi.” Trưởng làng Araki Makihei cũng cao ngang Murase Koan, nhưng không gầy gò như ông bác sĩ, mà cũng không hẳn là béo, chỉ có cảm giác thân hình bè bè to ngang. Ông ta vận bộ vest đen bạc màu, xem ra cũng vừa vội vã thay đồ để chạy sang đây.
“Nghe nói có chuyện quan trọng gì phải không thầy?” Ông hỏi. “Vâng, chúng tôi đang đợi ông đây. Đi nào, ta vào trong rồi nói.” Trưởng làng vừa cởi giày bươc vào thì cơn mưa xối xả ập xuống, nước hắt rào rào vào tiền sảnh.
“Ồ, mưa to thật đấy.” Bác sĩ Murase vân vê mấy cọng râu lưa thưa lẩm bẩm.
Mảnh sân thênh thang nháy mắt đã trắng xóa như có muôn vàn trụ băng rải rac khắp nơi. Những người khách vội vã bước vào gian phòng
mười chiếu1 bên trong.
“Cô Sanae, chúng tôi chuyện trò ở đây được rồi. Phiền cô vào mời các cô ấy ra. Mỗi trang điểm mà cũng tốn bao nhiêu thời gian. Ha ha ha, mời các vị ngồi. Tối quá đi mất, bác sĩ Murase, anh bật đèn lên dùm với.”
Đèn bật sáng, Kindaichi lập tức chú ý đến hai bức ảnh đặt trong góc toko2, chụp hai thanh niên mặc quân phục, một người là Kito Chima đã từ trần trên tàu hồi hương, còn kia hẳn là người thuộc chi thứ Kito mà người ta vừa gọi là Hitoshi, mặt mũi trông giống Sanae, có lẽ là anh em gì đó.
1. Khoảng 16,5 m2
2. Không gian lùi sâu vào so với tường phòng trong nhà Nhật, nơi để bày thư pháp, thư họa, thưởng trà hoặc đặt đồ trang trí.
Đợi mọi người ngồi xuống cả, nhà sư nhìn trưởng làng và bác sĩ, “Giới thiệu với hai anh, cậu Kindaichi đây là đồng đội của cậu Chima.” Râu dê “ồ” lên, săm soi Kindaichi bằng ánh mắt sắc lẹm, còn trưởng làng chỉ lặng thing, môi dẩu ra.
“Cậu Chima nhờ tôi đưa phong thư này đến.”
Trưởng làng và bác sĩ thay nhau xem qua thư giới thiệu rồi hỏi, “Vậy cậu ấy đâu?”
“Cậu ấy chết rồi, chết trên tàu hồi hương…”
Đột nhiên, hai vai bác sĩ rũ xuống, bộ râu dê cũng run rẩy. Trưởng làng hừ khẽ, cặp môi mím chặt càng trễ hơn. Phải rất lâu sau Kindaichi mới quên được bầu không khí chết lặng giữa ba người khi ấy, nó lởn vởn một nỗi đe dọa và kinh hoàng như khoan vào xương tủy.
Mưa vẫn đổ xuống rào rào ngoài hành lang, đúng lúc ấy… “Sanae, khách ở đây à?”
Một giọng õng ẹo từ xa vọng lại, sau đó là tiếng mở cửa.
“Ôi chao, không phải bên này à?”
“Bên kia cơ. Chắc là trong gian phòng mười chiếu kia kìa.” “Yukie à, khách là ai thế?”
“Không phải anh Ukai ư?”
“Ngốc ạ, anh Ukai đời nào lại đi từ tiền sảnh vào. Anh ấy chẳng phải đều luồn vào cửa sau vào tìm người à?”
“Tìm ai?”
“Tìm ai hả? Còn phải hỏi nữa à? Dĩ nhiên là tìm em rồi.”
“Ạ em rồi đồ ngốc, rõ ràng là tìm chị mà.”
“Đợi đã! Chị xem obi em thắt được chưa?”
“Được rồi! Thắt nút bươm bướm thế này đẹp.”
“Em cứ thấy kì kì làm sao ấy. Tsukiyo, thắt lại cho em đi.” “Hanae, em còn nũng nịu nữa à! Rề rà là khách về mất đấy. Ôi chao, Yukie, em ranh vừa thôi, đi nhanh thế à.”
Tiếng guốc gõ lộc cộc và tiếng cười đùa ầm ĩ càng lúc càng gần, cuối cùng dừng lại bên kia cửa giấy. Loáng thoáng vọng vào mấy câu xì xầm, “Không thấy người ấy đâu”, “Xem ra chămgr phải hạng tử tế gì”, còn cả tiếng cười hinh hích cố nén khiến Kindaichi phải đỏ mặt.
Nhà sư gượng cười, “Nào các cô còn thì thào gì ngoài ấy thế. Mau vào chào khách đi.”
“Thôi chết, lộ rồi.”
Bên kia cửa giấy vang lên tràng cười khanh khách, ngay sau đó, họ lần lượt nén cười bước vào. Đó là ba cô gái mặc kimono tay rộng như áo múa, thắt obi. Họ rón rén ngồi xuống mép chiếu cúi đầu chào hỏ, mấy cây trâm hoa cài trên tóc cũng lấp lánh như mộng ảo.
Kindaichi nín thở trợn tròn mắt.
“Cậu Kindaichi, đây là ba em gái của Chima, Tsukiyo, Yukie, Hanae1. Cô lớn nhất mới mười tám, giữa các cô chênh nhau một tuổi.”
1. Ý nghĩa lần lượt là: Trăng, Tuyết, Hoa. Tên cô chị họ nghĩa là “Mạ”.
Cả ba kiều diễm khác thường, như ba đóa hoa nở trái mùa, khiến Kindaichi không nén nổi rùng mình. Bởi giờ anh đã biết, sứ mệnh của mình ở đây rất khó khăn.
Trên con tàu về quê ngột ngạt oi bức, Chima đã chết như một con cá ươn.
Trong lúc giãy giụa cố níu chút hơi tàn, cậu thoi thóp lặp đi lặp lại, “Tôil không muốn chết! Tôi… Tôi…Tôi không muốn chết! Nếu tôi không về, các em tôi sẽ bị giết mất… nhưng… nhưng… tôi không xong rôi. Kindaichi… phiền anh… đến đảo Ngục Môn một chuyến giúp tôi. Thư giới thiệu lần trước tôi viết cho anh… Kindaichi… tuy trước giờ không hề nhắc tới, nhưng tôi biết anh là ai từ lâu rồi… tôi đọc báo… án mạng ở
Okayama… Nhờ anh… đến đảo Ngục Môn… một chuyến… ba đứa em tôi… ôi… em họ tôi… em họ…”
Nói đến đó, Kito Chima tắt hơi.
Lìa trần giữa hơi nóng hầm hập trên con tàu ngột ngạt hôi thối. “Vậy giờ cậu ở chùa Senko à? Trong chùa thong dong nhàn nhã, nhưng chắc cũng hơi gò bó nhỉ?”
“Không đến nổi, tôi quen rồi, giờ cũng chưa muốn đi đâu cả.” “Ha ha! Cũng phải. Dạo trước tôi từng đến Osaka, thành phố lớn đúng là phiền hà. Giờ tôi vẫn nghĩ, nói gì thì nói, quyết không ở thành phố lớn.”
“Quê bác ở đâu? Nghe nói bác không phải dân bản địa?”
“Tôi ư? Tôi là người nơi khác đến. Tôi đã đi khắp Nhật Bản, ở lại Yokohama lâu nhất, nên hễ gặp người Kanto lại chạnh lòng hoài niệm. Cậu cũng là người Kanto à?”
“Tôi ấy à? Tôi cũng giống bác đều là người ngoài đến. Tôi từng đến tận New Guinea cơ đấy.”
“Không đùa đấy chứ? Ha ha ha! Nhưng đó cũng là chuyện bất đắc dĩ, do chiến tranh cả thôi. Tóm lại cậu là người Tokyo đúng không nhỉ?” “Vâng, trước khi nhập ngủ tôi sống ở Tokyo, nhưng trở về mới biết tất cả đã bị đốt trụi, nên định tạm thời đi thăm thú các đảo một lượt.” “Đời cậu nghe đặc biệt nhỉ, cậu thấy trong người khỏe không? Trông bề ngoài vẫn bình thường mà.”
“Cũng chẳng phải bệnh gì nặng, chẳng qua là quá chán nản thôi.” “Vậy cứ sống cho phè phởn thoải mái vào. Ăn sạt chùa Senko đi! Gì cơ? Cậu không dám á? Cậu là khách của nhà chủ tàu hàng đầu đảo chúng tôi đấy. Muốn rẽ ngôi không?”
“Thôi thôi, được rồi. Bên kia cắt ngắn giùm tôi chút đi?”
“Khách mỗi người một ý, nhưng tóc tai cậu đúng là lược cũng phải chào thua! Thật đáng sợ.”
“Đừng nói thế mà. Tôi mất bao công mới nuôi dài được như thế đấy. Lúc nhập ngủ phải cạo trọc khổ lắm. Cứ như cừu cạo lông, xấu chết đi được!” “Ha ha! Để thế này được rồi! Khỏi sợ gió thốc cảm mạo.” Bác Oshichi là chủ hiệu cắt tóc duy nhất trên đảo Ngục Môn, từng sống ở Yokohama một thời gian dài nên lấy làm tự hào về giọng Edo của mình, nhưng giọng bác ta cũng như giọng Tokyo của Kindaichi, đều hơi lơ lớ vì pha tiếng địa phương. Có điều… Kindaichi ngắm tấm gương lốm đốm
bong tróc thủy ngân, bụng bảo dạ, hôm nay mình đến để dò hỏi bác ta về tình hình trên đảo cơ mà. Anh đến đảo đã hơn mười ngày, cảm giác vô cùng kì lạ. Nhờ lá thứ giới thiệu nên đi đến đâu cũng được chào đón, nhưng chỉ là ngoài mặt mà thôi, đằng sau vẻ lịch sự vồn vã của họ hình như đều có bộ giáp bảo hộ kiên cố. Dĩ nhiên người từ nơi khác đến đảo đều sẽ có cảm giác lạc lõng, nhưng Kindaichi cảm thấy dưới bộ giáp kia hình như còn có gì đó vượt qua cả sự cảnh giác với người ngoài.
Tin Kito Chima qua đời như dòng điện lan ra toàn đảo, khiến ai nấy kinh sợ.
Lạ một điều là, họ đều thấp thỏm ra mặt. Giống như ngư dân lão luyện nhìn thấy mây đen đùn lên đường chân trời là đã ngửi thấy bão táp sắp ập xuống, họ chỉ biết run rẩy bó tay trước bóng đen định mệnh.
Nhưng tại sao nhỉ? Sao cái chết của Chima lại khơi gợi nỗi kinh hoàng tột độ như vậy? Họ đang nơm nớp điều gì? Kindaichi thử lắp ghép những lời trăng trối của Chima. Tôi không muốn chết! Nếu tôi không về, các em tôi sẽ bị giết mất… Nhờ anh… đến đảo Ngục Môn… một chuyến… ba đứa em tôi… ôi… em họ tôi… em họ…
Cắt tóc xong, chuyển sang cạo râu. Ngón tay bác Oshichi bôi xà phòng lên cằm khiến Kindaichi khó chịu nhăn mặt. Dù vậy, anh vẫn mau miệng hỏi, “nhà Kito giàu nứt đố đổ vách ấy nhỉ?”
“Họ là chủ tàu lớn nhất trên đảo. Không, không chỉ riêng đảo này, nghe nói các đảo quanh đây cũng không ai có nhiều tàu hơn đâu.” “Thu nhập của chủ tàu chắc là khá lắm?”
“Dĩ nhiên là nhiều khủng khiếp rồi.”
Theo lời bác Oshichi, ngu dân cũng chia làm ba loại. Mạt hạng nhất là thuyền chẳng có lưới cũng không, khố rách áo ôm, hai bàn tay trắng, giống như tá điền ở nông thôn. Khỏi nói cũng biết hạng này là đông nhất. Trên một bậc là có thuyền có lưới, nhưng cũng chỉ là loại thuyền câu chở được hai ba người, còn bé hơn cả thuyền đánh cá. Hạng này tương đương với tiểu nông. Cao nhất là chủ tàu, ngang với địa chủ, nhưng họ còn quyền hành hơn cả địa chủ.
“Trước kia tôi từng sống ở nông thôn, địa chủ đều ngồi không hưởng lợi. Địa chủ và tá điền mỗi nơi lại ăn chia mỗi kiểu. Đại khái lấy sản lượng gạo chia ra, địa chủ chỉ cần chống nạnh ngậm tẩu thuốc đã được chia bốn phần, còn tá điền lấy sáu phần cùng chỗ thóc lúa tự trồng cấy lấy đắp điếm thêm vào. Nhưng quan hệ ăn chia giữa chủ tàu và ngư dân lại khác.”
Chủ có thuyền, có lưới, có quyền nuôi trồng và đánh bắt thủy hải sản, họ chẳng phải làm gì cũng được hưởng tất cả tôm cá đánh bắt, còn ngư dân chỉ được lĩnh tiền công nhật.
“Ra vậy, cũng giống quan hệ giữa ông chủ và người làm thuê ở thành phố nhỉ.”
“Na ná thế. Chỉ khác khi sản lượng cao, chủ tàu sẽ bày tiệc đãi khách, phát thưởng, còn sản lượng thấp cũng vẫn phải trả lương đầy đủ. Nhưng tất cả sản lượng đánh bắt đều đổ vào túi, ắt là nhiều kinh khủng. Ngư dân dù có ấm ức cũng không làm gì hơn được, vì muốn ra biển đánh cá phải nhờ vào thuyền vào lưới của chủ tàu. Lưới có nhiều loại lắm nhé. Lưới cá mui, lưới cá mòi… Lưới cá mòi ở đây không giống loại người Kanto chuyên dùng bắt cá mòi đâu, mà dùng để bắt hải sâm. Tóm lại trong tay chủ tàu có cả loại lưới quy mô lớn đến thế kia đấy. Ngoài ra còn sở hữu hai ba con tàu lớn. Hừm, suy cho cùng cũng phải bỏ vốn nhiều.”
Ngư dân quan niệm “dưới ván thuyền là địa ngục”, chỉ biết hưởng lạc thú trước mắt, ăn nhậu gái gú cờ bạc, dần dà thành thói ứng lương, cứ thế quan hệ giữa chủ tàu và ngư dân ở làng chài còn khắc nghiệt hơn cả tá điền và địa chủ ở thôn quê.
“Bản thân chủ tàu cũng phải nỗ lực buôn bán, bởi nói gì thì nói, đối tượng không phải dân thường mà là ngư dân lỗ mãng, phải chăm sóc họ nhưng không được nuông chìu hư, nghĩa là nhất định phải có quyền uy. Thật ra cụ Kaemon, gia chủ nhà Kito đời trước mới gọi là giỏi.”
Câu chuyện rốt cuộc đã dẫn tới nhà Kito, nên Kindaichi hơi căng thẳng. Nhưng anh vẫn cố giữ vẻ bình thản, “Cụ Kaemon là cha Chima ư?” “Không, là ông nội. Cụ mới qua đời năm ngoái, hưởng thọ bảy mươi tám tuổi, sinh thời cụ khỏe mạnh lắm đấy. Tuy vóc dáng thấp bé nhưng cụ có kiến thức và can đảm hơn người, là một gia chủ cực giỏi giang. Dân đảo đều xưng tụng cụ là ngài Taiko, theo tước hiệu của Toyotomi Hideyoshi1. Xưa nay cụ vẫn khỏe khoắn không bệnh tật gì, có lẽ buồn bã Nhật Bản thua trận nên mới qua đời.”
1. Samurai, lãnh chúa thời Sengoku (Chiến quốc, người đã thống nhất Nhật Bản).
“Sau chiến tranh cụ mới qua đời ư? Thế cha mẹ Chima đâu?” Đây là điểm khiến Kindaichi thấy khó hiểu nhất. Hôm trước, khi anh tới báo tin dữ của Chima, chỉ có ba chị em Tsukiyo, Yukie, Hanae và cô Sanae ra tiếp, đến
giờ cơm thì có thêm một bà bác xấu xí tuổi ngoại ngũ tuần. Ngoài ra, cả gian nhà rộng thênh thang hoàn toàn không có bóng đàn ông, thật là kì lạ. Sư thầy chùa Senko cũng nói, “Vốn định để cậu nghỉ lại đây, hiềm nhà toàn đàn bà con gái, nên…” rồi dẫn anh về chùa.
“Mẹ ruột Chima qua đời ít lâu sau khi sinh cậu ta, về sau cha cậu ta tục huyền, nhưng bà vợ kế cũng qua đời nhiều năm rồi.”
“Vậy ba cô tiểu thư kia là em gái cùng cha khác mẹ với Chima à?” “Phải.”
“Cha cậu ta thì sao?”
“Ông Yosamatsu ấy à? Ầy, ông vẫn còn sống, nhưng mắc bệnh nặng, chẳng ló mặt ra bao giờ.”
“Bệnh à? Bệnh gì thế?”
“Chuyện đó à… ừm… be bé cái miệng nhé, chính là… bị điên ấy.” Kindaichi trợn tròn mắt, “Điên ư? Vậy ông ta ở bệnh viện à?” “Không, không ở viện, ông ở nhà. Nghe nói họ sửa phòng ở thành
một phòng giam, nhốt ông ta vào. Ừm, cũng lâu lắm rồi, phải mười năm nay tôi không thấy mặt nữa. E rằng chẳng nhận ra nổi ông ta đâu.” Nghe vậy, Kindaichi mới nhớ ra một chuyện. Lần trước ngồi trong phòng khách nhà Kito, anh nghe thấy một tiếng gào kì lạ, hệt như tiếng gầm của dã thú, vừa điên cuồng vừa tàn bạo.
“Ô? Vậy là ông ta hay đập phá làm loạn à?”
“Không, nghe nói hằng ngày ông ta khá yên lặng, chỉ thỉnh thoảng mới lên cơn. Lạ một nỗi, cô Sanae cháu ông ấy chỉ cần nói mấy câu là ông ta sẽ bình tĩnh lại, nhưng đổi thành một trong ba cô con gái, ông ta sẽ càng điên dại hơn.”
“Đúng là kì quặc.”
“Chưa hết đâu, ba chị em nhà kia mới quái lạ. Họ thả sức hành hạ cha mình để tiêu khiển, như hành hạ động vật trong sở thú vậy. Lúc ông ta ngủ thì họ ở ngoài song sắt dùng thước chọc, lấy giấy vụn ném rồi cười khanh khách. Mọi người nghe kể đều lấy làm kinh sợ, ba cô gái đó đúng là chập mạch!”
Kindaichi cũng đã để ý đến thái độ quái dị của ba chị em kia, đối với họ, dường như cái chết của anh trai còn chẳng quan trọng bằng mái tóc hay nút thắt obi của họ. Lúc nhà sư nói chuyện nghiêm túc, họ cứ cúi đầu cười rúc rích, giũ áo, lấy khuỷu tay huých nhau. Cả ba đều đẹp, nên trông càng bất thường và bệnh hoạn.
Đúng là những cô gái quái gở! Kindaichi không khỏi liên tưởng tới ba chị em Gorgon, Gorgon là quái vật trong thần thoại Hi Lạp, vốn là thiếu nữ xinh đẹp, nhưng lại huênh hoang tự cho mình đẹp hơn cả nữ thần Athena, nên cả ba đều bị trừng phạt, biến thành quái vật có cánh đại bàng, tóc rắn và móng vuốt đồng thau. Ba chị em nhà Kito cũng toát lên vẻ ma mị tượng tự.
“Vậy ra cô Sanae là em họ cậu Chima?”
“Đúng thế, cô ấy còn có một người anh tên Hitoshi, nghe nói đã đến Myanmar, may mà bình yên vô sự, ít lâu nữa sẽ về.”
“À, nghe nói là đồng đội cậu ta tới báo tin. Cha mẹ họ đâu?” “Cha mẹ cô Sanae ấy à?” Bác Oshichi tỏ vẻ khinh khỉnh, “Qua đời lâu rồi. Mười hai mười ba năm trước, khi tôi đến đảo, anh em họ đã được đón về nhà chính. Nghe nói cha cô ấy mất ngoài biển.”
“Ồ? Vậy nhà đó giờ còn những ai? Một ông chủ điên, ba cô con gái chập mạch, cô em họ Sanae, và một bà bác ngoại ngũ tuần. Bà ta là ai thế?” “Hả? Bà Katsu ấy à? Đó là bạn trà của cụ Kaemon quá cố, nói trắng ra là vợ bé. Đừng thấy bà ta xấu xí mà lầm, lúc tôi mới tới, bà ta khoảng ba lăm ba sáu, vẫn còn tao nhã xinh đẹp lắm.”
“Ra thế, vậy là nhà đó hiện có một ông chú điên, ba cô con gái chập mạch, cô em họ Sanae và bà Katsu. À, bà Katsu chăm sóc cho cả nhà ư?” “Ừ, bà ta thì chăm sóc được ai. Bà ta được cái tốt tính thôi, chứ vô dụng lắm. Năm xưa cụ Kaemon ưng bà ta cũng còn vì thế, vợ bé tháo vát sắc sảo quá là trong nhà sẽ xào xáo không yên. Chi tiết nhỏ nhặt mà cụ Kaemon vẫn suy xét đến, thật là chu đáo.”
“Vậy nhà đó do ai cai quản?”
“Cô Sanae chứ ai.”
“Sanae ư? Nhưng cô ấy…”
“Mọi người đều phục cô sát đất. Cô Sanae cừ lắm. Mới hăm hai hăm ba mà cứng cỏi tháo vát, chẳng coi mấy gã thô lỗ kia vào đâu. Chỉ hiềm vẫn cần Takezo làm nhà triều.”
“Takezo? Tôi có biết sơ sơ, vì đi cùng một chuyến tàu với anh ta hôm lên đảo. Nhà triều là gì vậy?”
“Nhà triều là người phụ trách quan sát thủy triều lên xuống, chức vụ ngang với đại đội trưởng trong quân đội.” Bác Oshichi nói, “Tàu thuyền chỉ hoạt động theo cờ của nhà triều, nếu vẫy cờ không đúng sẽ khó giăng lưới, bởi vậy đây là việc khó, cũng là nghề bí truyền. Nghe nói giá của chủ tàu cao hay thấp chủ yếu là do thuê được nhà triều ưu tú hay không, bởi vậy
chủ tàu coi trọng nhà triều. Takezo là nhà triều thượng hạng trong vùng, ai cũng phải công nhận, nhưng từ đời cha cậu ta đã chỉ làm ăn với chi chính nhà Kito, điểm này thì chi thứ thua đứt.”
“Hóa ra còn có chi thứ nhà Kito nữa à?”
“Phải rồi, chi chính Kito và chi thứ Kito. Hiện giờ trên đảo chỉ có hai chủ tàu, trước đây còn có một nhà nữa gọi là Tomoeya, nhưng sạt nghiệp phải bốn năm năm rồi. Kito chi chính và chi thứ tiếng là họ hàng nhưng cũng xích mích mấy đời nay. Nghe nói cũng vì thế mà cụ Kaemon chết không nhắm mắt.”
“Ra vậy.”
“Bởi con trai cưng của cụ loạn óc, hai đứa cháu trai tòng quân, sống chết không rõ. Nghe đâu đến lúc xuôi tay Ngài Taiko vẫn canh cánh chuyện ấy.”
“Ha ha ha! Bác nắm rõ quá nhỉ? Nói vậy là hiện giờ gia chủ chi thứ Kito là ông Ieyasu1 à?
“Phải, phải. Tiếc rằng bên cạnh ông Ieyasu này còn có một Yodo Gimi2 ghê gớm nữa, phu nhân Shiho ghê gớm gấp mấy lần ông chồng Gihee kia.”
1. Tokugawa Ieyasu (1543-1616), người sáng lập và là shogun đầu tiên của Mạc phủ Tokugawa. Ở đây dẫn tên để ngụ ý người đàn ông có quyền thế.
2. Vợ lẽ của Toyotomi Hideyoshi. Ở đây ám chỉ người phụ nữ lộng quyền.
“Ồ, phu nhân Shiho?”
“Cậu biết cô ta?”
“Buổi sáng hôm tôi đến đảo, cô ấy có tới chùa Senko dâng hương.” “Hạng người như cô ta đâu phải thiện nam tín nữ đến chùa bái Phật. Nhất định là nghe ngóng được cậu Chima qua đời, nên mới định lân la tới chỗ cậu dò hỏi.”
“Bác nói vậy tôi mới nhớ ra, quả thật cô ấy hỏi han kĩ càng về tình hình Chima lúc lâm chung.”
“Bởi mới nói cô ta là Yodo Gimi. Cô ả là con gái chủ tàu Tomoeya mà tôi kể hồi nãy, phải lòng cậu Chima, chỉ muốn lấy cậu ấy. Cũng có người nói cô ta yêu cậu Hitoshi. Nhưng ai cũng thế thôi, cụ Kaemon đời nào chịu cho con gái một gia đình phá sản bước vào nhà? Cô ả nham hiểm kia thấy không co hi vọng, bèn lấy ngay chi thứ, kẻ thù không đội trời
chung với chi chính. Gia chủ chi thứ, ông Gihee năm nay ngoài sáu mươi rồi, Shiho mới hăm bảy hăm tám, mà đã làm vợ kế ông ta. Ông Gihee vốn không có con nên đã nhận nuôi một đứa cháu đằng ngoại của bà vợ quá cố. Nhưng năm ngoái Shiho sinh được đứa con trai, bèn đuổi thẳng cổ đứa cháu kia đi. Đúng là miệng nam mô bụng bồ dao găm! Ông Gihee trông có đến nỗi nào mà lại bị đàn bà dắt mũi. Còn nữa…”
“Được rồi, được rồi, mạnh quá, phiền bác nhẹ chút được không? Cạo thế này đau chết được.”
“Ây, đau à? Mới thế mà đã…”
“Đau thật mà. Bác cho thêm ít xà phòng đi. À phải, Ukai là ai vậy bác?”
“Ukai à?” Bác Oshichi khựng lại, liếc xuống Kindaichi, “Cậu biết nhiều nhỉ.”
“Đâu, đâu có.” Kindaichi thầm cuống, nhưng bác Oshichi có vẻ không nghi ngờ gì cả.
“Gã Ukai cũng chẳng ra gì. A! Xin chào quý khách.”
Giọng bác ta bỗng cao hẳn lên, Kindaichi hé mắt nhìn, thấy có người đứng cạnh cửa ra vào.
“Xong ngay đây, không còn khách nào chờ nữa đâu. Nào! Mời vào đây hút điếu thuốc đã.” Đoạn bác Oshichi gượng gạo tiếp, “Lâu lắm không gặp, cậu Ukai không được khỏe hay sao thế? Mặt mày sa sầm vậy? Có phải bị bà chủ chi thứ Kito nựng yêu không? Ha ha ha! Cái cậu này, tôi đùa thôi!”
Kindaichi kinh ngạc nhỏm dậy, hình lình bắt gặp ánh mắt của một thanh niên trong gương.
Ukai Shozo… Như Kindaichi về sau được biết, quả là một cậu chàng đẹp trai hiếm có, hệt như từng tả trong tiểu thuyết của Izumi Kyoka1.
1. (1873-1939), là một trong những cây bút tiêu biểu của chủ nghĩa lãng mạn vào giai đoạn chót của văn học thời Meiji. Ông viết trên 300 tác phẩm dài có ngắn có, gồm đủ thể loại từ tiểu thuyết, truyện ngắn đến kịch. Đặc biệt trên phân nữa số đó liên quan tới những hiện tượng siêu nhiên.
Từng bước trèo lên sườn dốc, mặt biển dần trải ra trước mắt. Đã sang tháng Mười, ngay Kindaichi cũng phát hiện ra nước biển đã đổi màu. Năm nay không có bão, lượng mưa lại ít, nên nước biển Seto trng xanh lạ thường, tựa như pha lẫn sắc lam trong tranh Hiroshige Ando, có lẽ nhờ thủy triều lên xuống, nên những gợn sóng lăn tăn cứ đan vào nhau như hoa văn
trên thân rắn, sắp hàng ở giữa là quần đảo Shiwaku. Thời đi học, Kindaichi đã đọc Người ứng khẩu thành thơ của Mori Ogai2 vầ mê mệt cảnh biển tại Ý, giờ lại được ở bên bờ biển Seto, anh không khỏi cho rằng cảnh sắc nơi đây còn đẹp hơn cả áng văn như châu ngọc của Mori Ogai. Tiếc rằng chẳng có cô gái nào như Annunziata, cũng chẳng có bà ăn mày đáng thương nào như Maria, ngay trai đẹp như Antonio cũng…
2. Mori Ogai (1862-1922) là một bác sĩ, một dịch giả, nhag viết tiểu thuyết và là một nhà thơ Nhật Bản. Người ứng khẩu thành thơ được ông dịch từ tiểu thuyết Improvisatoren của văn hào Đan Mạch H.C. Andersen. Antonio là nhân vật chính trong truyện, cậu yêu Annunziata, một ca sĩ.
Kindaichi sực nhớ tới cậu chàng Ukai vừa gặp khi nãy. Gương mặt đẹp ma mị in trong tấm gương loang lỗ thủy ngân chợt hiện lên trong tâm trí anh.
Cậu ta cắt tóc ngắn, mí tóc đẹp đẽ bóng mượt như đứa bé thoa phấn trong tranh, làn da trắng trẻo sáng lên như tơ lụa thượng hạng, cặp mắt đen láy trrong trẻo, nhưng đáy mắt luôn thấp thoáng vẻ yếu đuối, tựa hồ tần ngần muốn nói lại thôi. Chạm phải tia nhìn của anh trong gương, theo phản xạ, cậu ta định nhìn lảng đi, nhưng ánh mắt lại thoáng vẻ dao động. Chính là ánh mắt ấy! Chính ánh mắt ấy đã khơi dậy bản năng bao bọc của người phụ nữ.
Kindaichi không nén nổi tiếng thở dài, rồi như muốn cảm nhận thật kĩ, anh lạch bạch trèo từng bước lên dốc núi, vừa đi vừa nghĩ tới thiếu niên mới gặp.
Cậu ta mặc áo kép và áo khoác ngắn kẻ đối xứng, dây lưng màu tía kiểu nam thắt lỏng, trông từa tựa diễn viên kịch Kabuki, nhưng không lơi lả như đám con hát, có lẽ bởi cậu ta cũng thấy ngại ngùng về cách ăn mặc ấy chăng?
Kindaichi đã chầm chậm nhìn Ukai, song anh không có ác ý, cũng không phải khinh miệt cậu ta, vậy mà cậu ta lại đỏ bừng mặt, đầy vẻ ngại ngùng. Kindaichi thầm nghĩ, có lẽ cậu ta cũng không thích ăn mặc theo lối ấy. Nếu không phải ý muốn của cậu ta, thì… Chợt nhớ tới câu cuối cùng của bác thợ cạo, Kindaichi lại thở dài.
Từ khi đến đảo hình như mình luôn sống trong bất ngờ thì phải, Kindaichi tự nhủ. Thoạt tiên là cô Sanae, anh gập ngón tay nhẩm tính; rồi ba chị em Gorgon, anh gập thêm một ngón tay nữa; sau đó là phu nhân
Shiho với nhan sắc thanh tao quyến rũ đến chùa dâng hương, Kindaichi gập ngón tay thứ ba; tiếp đến là cậu chàng đẹp trai hôm nay… gập đến ngón tay thứ tư, anh thầm nghĩ, chẳng biết sự việc thứ năm còn choáng váng nhường nào? Chợt nhớ tới lời trăn trối của Chima, cơn rùng mình lại theo sống lưng anh chạy dọc lên đầu.
Nhờ anh… đến đảo Ngục Môn… một chuyến… ba đứa em tôi… ôi… em họ tôi… em họ…
Trong khoang tàu ngột ngạt hôi thối nồng nặc, Chima gầy như que củi đang thoi thóp vẫn cố giẫy giụa, lẩm bẩm ước nguyện đáng sợ cuối cùng… Kindaichi lảo đảo như sắp rơi vào ác mộng, rồi lo lắng ngước lên. Phạch… phạch… phạch… Lại có tàu vào bến dưới chân anh, chính là tàu Bạch Long lần trước đưa anh đến. Bên bờ có ba bốn chiếc xuồng nhỏ lướt ra, chẳng mấy chốc đã cập vào mạn tàu Bạch Long, loáng thoáng nghe tiếng đôi bên đối đáp. Nhìn dòng người lũ lượt trên tàu trèo xuống, Kindaichi bất giác trố mắt.
Bởi anh đã thấy quả chuông.
“A, chuông về rồi!”
Kindaichi nhìn quanh bến tàu nhưng không thấy nhà sư đâu cả. Anh tiếp tục leo dốc.
Nếu muốn về thẳng chùa thì sau khi rời hiệu cắt tóc, anh phải rẽ trái. Song anh lại rẽ phải, bởi chi thứ Kito ở bên này. Dinh thự chi chính và chi thứ nằm ở hai bên thung lũng, đối diện nhau. Nếu coi chùa Senko là quân mã trong cờ tướng Nhật Bản thì dinh thự của chi thứ và chi chính nằm ở hai góc của quân xe. Hai ngã đường dẫn tới hai nhà, sau mấy khúc quanh thì hợp làm một ở sâu trong thung lũng, từ đó leo qua sườn dốc khúc khuỷa sẽ tới thềm đá vừa cao vừa dốc của chùa Senko.
Phu nhân Shiho có nhà không nhỉ? Đến gần cổng dinh thự chi thứ, Kindaichi cố ý bước chậm lại, song chẳng ai để ý đến anh. Nhờ vậy anh lại có cơ hội quan sát kĩ ngôi nhà.
Vách núi đá hoa cương cao chót vót, tường nhà trắng xóa xây dựa vào núi và cửa nhà dài, không khác gì dinh thự chi chính, nhưng kém bề thế hơn hẳn. Mái nhà dốc cao ngất phía trong tường không được nguy nga bằng chi chính, nhà kho xem chừng cũng nhỏ hơn.
Qua khỏi dinh thự chi thứ, con đường đột nhiên quẹo về bên trái. Ở chỗ ngoặt có một sân trời nhỏ, đứng trên đó có thể nhìn bao quát cả mặt biển bên dưới, dân bản địa gọi là “Mũi Tengo”. Một cảnh sát đang đứng
trên sân trời, chĩa kính viễn vọng ngắm xuống biền. Nghe tiếng chân Kindaichi, anh ta thu kính lại, quay sang mỉm cười nhìn anh. Trên đảo không có đồn cảnh sát, chỉ có văn phòng quản lý hộ khẩu, cảnh sát cũng chỉ có một người, phải kiêm nhiệm cả cảnh sát biênt lẫn cảnh sát đảo, có một chiếc cano, công việc là giám sát khu vực đánh bắt cá, chú ý vụ cá, kiểm tra giấy tờ của ngư dân… đa phần là công việc của cảnh sát biển.
Viên cảnh sát trên đảo Ngục Môn là một người tử tế, họ Shimizu, chừng bốn lăm bốn sáu tuổi, râu ria xồm xoàm, khá thân thiện với Kindaichi.
“Trên biển có động tĩnh gì không?”
“Bọn cướp biển lại xuất hiện rồi. Cấp trên điện xuống, bảo tôi phải tăng cường cảnh giác.” Shimizu mỉm cười, hàm răng trắng bóng lộ ra sâu hàm râu quai nón bờm xờm trên má.
“Cướp biển ấy à!” Kindaichi trợn tròn mắt, nhưng ngay sau đó lại phì cười. Lúc còn ở chỗ Kubo Ginzo, Kindaichi đã thấy báo chí đưa tin cướp biển hoành hành trên vùng biển Seto.
“Thời gian như đang từ từ quay ngược ấy nhỉ.”
“Lịch sử tái diễn à? Ha ha ha! Nhưng lần này hình như quy mô khá lớn đấy. Nghe nói chúng có mười mấy người, tên nào cũng mang súng. Đều là lính giải ngũ…”
“Ầy, động chạm rồi đấy. Ở đây cũng có một quân nhân giải ngũ này.” “Ôi chao, tôi thật là… Thế nào? Làm một điếu không?.”
Xem chừng chẳng coi đám hải tặc vào đâu, Shimizu ngồi bệt ngay xuống, móc trong túi một điếu thuốc cuốn đưa cho Kindaichi. “Thôi khỏi, tôi cũng có đây… Thế à? Vậy tôi không khách sáo nữa nhé.” Kindaichi ngồi xuống bên cạnh Shimizu.
“Cậu vừa đi dạo à? Ủa, đi cắt tóc ư? Đằng đó có đông không? Nếu không đông tôi cũng định chạy đến đó cắt.”
“Anh đi đi. Giờ cậu Ukai đang cắt, nhưnv chắc sắp xong rồi.” “Cậu Ukai ư?” Shimizu kinh ngạc nhìn Kindaichi, “Cậu quen à?” “Không, tôi mới gặp lần đầu. Thấy bác thợ cạo gọi như vậy, nên tôi gọi theo thôi.”
Shimizu im lặng rít thuốc rồi nhăn mặt, có lẽ không phải vì khói thuốc.
“Cậu ta đẹp thật, y như ‘đóa hoa mới hé’ vậy.” Mặt Shimizu càng lúc càng sa sầm.
“Cậu ta là người vùng này à?”
Shimizu làm thinh, hút hết điếu thuốc còn cẩn thận dùng mũi chân dí tắt đót rồi mới quay sang bảo Kindaichi, “Nói ra chăc cậu sẽ cười, nhưng tôi linh cảm sắp xảy ra bất trắc! Một bất trắc khủng khiếp ở đảo Ngục Môn. Quay lại Ukai đã, cậu chàng quả thật điển trai. Cậu ta đã hăm ba hăm tư, dĩ nhiên không phải dân ở đây, nghe đâu quê gốc vốn ở Tajima, cha là giáo viên tiểu học, nhưng chẳng ai kiểm chứng được, cậu ta cũng vì chiến tranh nên mới dạt tới đây.”
Đoạn Shimizu quay người trỏ ngọn núi sừng sững phía sau chùa Seto, “Cậu đã leo lên ngọn núi kia bao giờ chưa? Nếu chưa, cậu thử leo lên mà xem. Nghe nói trước đây đỉnh núi là sào huyệt của cướp biển, có cả đài quan sát, giờ vẫn còn di tích. Vào thời chiến, người ta lại dựng sào huyệt và đài quan sát ở đó lần nữa, nhưng gọi là trạm giám sát phòng không và trận địa pháo cao xạ. Đỉnh núi lỗ chỗ sứt mẻ, đều do quân lính đào xới cả, Ukai Shozo là một trong số đó.”
Kindaichi mê mải nghe, chăm chú nhìn Shimizu như nuốt từng lời. Shimizu hắng giọng kể tiếp, “Phải, cậu ta cũng là lính. Trẻ măng, nhưng yếu đuối nên không bị điều ra tiền tuyến. Tuy mặc quân phục kaki song bộ dáng mong manh. À, lính ở trạm giám sát hoặc trận địa pháo cao xạ thường xuống núi vào làng để trưng mua nhu yếu phẩm, dân làng nể họ là lính nên cố sức cung cắp, yêu cầu khó khăn đến đâu cũng gắng đáp ứng, quân đội thời giam đầu đưpcj hoan nghênh. Nhưng đến cuối cuộc chiến, lính lác ngày càng trơ tráo, cũng một phần do chiến sự bất lợi. Tiếng là trưng mua, thật ra là cướp, dân làng cũng chẳng mặn mà với họ nữa, vài ngư dân nóng tính còn hậm hực tức tối. Tin ấy truyền lên núi, họ đành thay đổi sách lược, mỗi khi trưng mua đều cử Ukai Shozo ra mặt.”
“Ra vậy.” Kindaichi gãi đầu sồn sột. Mái tóc bác Oshichi tỉ mẫn chải cho anh chẳng mấy chốc đã lại xù lên như tổ quạ, “Nói thẳng ra là định dùng mỹ nam kế lấy lòng các bà các chị chứ gì?”
“Đúng rồi. Chưa kể đối tượng trưng mua của quân đội thế nào chẳng có chi chính và chi thứ Kito, nên cậu ta lui tới hai nhà này nhiều nhất. Bấy giờ cụ Kaemon chi chính vẫn còn tại thế, nhưng tính tình cứng rắn nên nếu quân đội đưa ra yêu cầu bất hợp lý, cụ đều cương quyết khước từ. Ai ngờ ba cô cháu gái lại lén lút giúp người ngoài.”
“Ra thế, sách lược của quân đội đúng là đánh trúng tâm lý họ.” “Trúng phóc ấy chứ! Có lần chờ mãi chưa thấy Ukai đến, họ còn tự dẫn xác lên tận núi tìm! Dân làng đồn đại nhiều lắm, nói rằng cả ba cô đều bị… ừm, bị… Ukai xơi tái rồi! Dĩ nhiên, trong quân đội cũng có kẻ tuân thủ kỉ luật kiên quyết phản đối, cho rằng không nên quan hệ bừa bãi như vậy. Nhưng đó là lệnh của đội trưởng! Ukai vâng lệnh đội trưởng nên mới làm vậy với ba chị em họ… Dù sao, cũng là việc chẳng ra gì! Lúc chiến tranh sắp kết thúc, ba chị em mang lên núi không chỉ nhu yếu phẩm, mà còn vô vàn tiền bạc. Đội trưởng đứng giữa kiếm lợi, vơ đầy túi riêng rồi đột ngột giải ngũ về quê… Đều là tin đồn, nhưng không có lửa làm sao có khói.” “Nghĩa là cậu Ukai luôn bị lợi dụng à? Sao cậu ta không về quê?” “Dĩ nhiên là có chứ, cậu ta về Tajima, cụ Kaemon nhẹ cả người. Nào ngờ chưa đầy một tháng cậu ta đã quay lại, kể lể mẹ kế ở quê nghiệt ngã, không sống nổi, và xin nương nhờ chi thứ Kito. Không lâu sau, cụ Kaemon tai biến mạch máu não, ngã bệnh rồi qua đời.”
Câu chuyện của Shimizu ngừng ở đây. Kindaichi im lặng nhìn xuống mặt biển bên dưới, cảm thấy lồng ngực nặng trĩu như có tảng đá nghìn cân đè nặng, đến mở miệng cũng khó khăn. Lát sau, Shimizu kể tiếp.
“Cụ Kaemon quá cố được dân đảo tôn xưng là Ngài Taiko, không ai dám trái lời. Chỉ trừ phu nhân Shiho. Ukai nói cậu ta bị mẹ kế ngược đãi, có lẽ là thật. Nhưng kể cả thế, cậu ta cũng không nên ăn nhờ ở đậu, không nên mặt dày đến vậy. Nhất định là trước khi cậu ta về quê, phu nhân Shiho đã hứa hẹn điều gì, hoặc sau này lại viết thư gọi cậu ta đến, tóm lại mọi chuyện đều do cô ta bày ra. Hiện giờ cậu ta bị bắt mặc trang phục như diễn viên kịch Kabuki, cả ngày lang thang lêu lổng, thoạt trông đã biết là ý của cô ta. Bởi cô ta muốn dùng mánh cũ của đội trưởng, xúi giục cậu ta thao túng ba chị em nhà Kito. Hẳn cô ta muốn xới tung cả nhà chính lên đấy. Cụ Kaemon cũng biết, nhưng chẳng thể tới tìm người ta vặn hỏi được. Có là Ngài Taiko thực sự cũng không thể can thiệp vào việc người ta quan tâm tới nhau, chưa kể cụ ấy có ra mặt ngăn cản, phu nhân Shiho cũng chẳng nghe nào. Ngài Taiko Toyotomi Hideyoshi kiêu ngạo tự phụ đến đại chiến Hàn Nhật mới biết trên đời có cuộc chiến mình không thắng được, cụ Kaemon cũng phải gặp phu nhân Shiho mới biết ngoài nước sông Kamo, điểm xúc xắc và tăng binh ra1, trên đời còn nhiều việc không thể theo ý mình. Đây
chính là nguyên nhân khiến cụ ngã bệnh, đủ thấy trong lòng đau đớn nhường nào.”
1. Một câu tục ngữ Nhật Bản, thể hiện thái độ bất lực. Bắt nguồn từ lời cảm thán của hiên hoàng Shirakawa thời Heian, “Chỉ có nước sông Kamo, điểm xúc xắc và tăng binh trên núi Hiei là trẫm không làm gì được.”
Biển cả mênh mông bắt đầu nhuốm màu chiều, gió cũng se sắt hẳn. Shimizu và Kindaichi bỗng rùng mình, nhưng có lẽ không phải vì lạnh. Kindaichi dần dần trông rõ quầng mây đen quái dị đang trùm lên cả hòn đảo. Tai anh ong ong vang vọng tiếng chân đến gần, khiến người ta sởn tóc gáy, hệt như tiếng sóng vỗ bờ đá dốc, lại như tiếng sấm ì ùng đằng xa. Kindaichi từ biệt Shimizu rồi về chùa. Trong phòng trụ trì, sư thầy, trưởng làng và bác sĩ đang ngồi trò chuyện, không khí có vẻ nặng nề.
“A, cậu Kindaichi.” Nghe tiếng chân, sư thầy ló ra gọi, “Hôm nay giấy báo tử gửi về rồi.” Đoạn hất hàm về phía trưởng làng. Trưởng làng vội thanh minh, “Không phải chúng tôi nghi ngờ cậu, chỉ là ngày nào còn chưa nhận giấy báo tử thì vẫn còn ôm hi vọng mong manh.”
“Giờ mọi chuyện đã sáng tỏ, bề trên nghiêm cấm tổ chức lễ truy điệu nhưng tang lễ thì phải cử hành cho sớm.”
Bác sĩ sầm mặt, chòm râu dê rung rung. Kindaichi chợt nghe tiếng chân rờn rợn ong onb bên tạ lần trước lan đến gần.
Chùa Senko nằm ở lưng chừng núi. Mà chính xác hơn là gần về phía đỉnh núi. Ngọn núi bao quanh đột nhiên cao vót lên từ phía sau chùa, rồi chạy dài về phía Đông nối thành một dải với dãy Suribachi. Nói cách khác, chùa Senko nằm ở phía Tây đảo, đứng trong sân chùa sẽ bao quát được cả thôn làng, cũng có nghĩa là tất cả nhà dân trên đảo đều tập trung ở phía Tây.
Từ xưa đến nay, những hòn đảo nhỏ hẻo lánh luôn bị cướp biển quấy nhiễu nên thôn làng cứ túm tụm lại một chỗ, như thể chỉ hô một tiếng là cả làng sẽ kéo đến ngay, đảo Ngục Môn cũng không ngoại lệ.
Đứng trên thềm chùa Senko nhìn xuống, đập vào mắt là dinh thự chi chính Kito ở bên phải. Nhìn từ phía trên, ngôi nhà hệt như mê cung, mái ngói san sát khiến người ta không khỏi nghĩ đến kết cấu phức tạp bên trong, tuy vậy vẻ nguy nga lộng lẫy lại làm người ta phải trầm trồ ngưỡng mộ.
“Cụ Kaemon quá cố là người thích xây nhà cất cửa, xây hết phòng này đến phòng khác, cuối cùng mới thành ra nhiều phòng như vậy.” Sư thầy có lần kể, rồi lại trỏ xuống dưới giới thiệu, “Kia là nhà chính. Kia là nhà ngang, kia là kho đồ, kia là kho thóc, kia là kho cá, kia là kho lưới, kia là…”
Mấy gian nhà nọ xếp thành vài tầng chạy dọc theo triền dốc sau nhà, trùng trùng điệp điệp, lớp lớp lang lang.
“Ngôi nhà mái gỗ cao nhất nằm ở rìa trái là gì thế ạ?”
“Chỗ đó ấy hả, phòng cầu nguyện.”
“Phòng cầu nguyện ư? Phòng cầu nguyện là gì?”
“Phòng cầu nguyện là phòng cầu nguyện thôi, hôm khác tôi sẽ nói rõ hơn nhé.”
Kindaichi quay sang nhìn nhà sư, ngạc nhiên vì giọng điệu chua chát cùa ông.
Phòng cầu nguyện nọ nằm ở góc cao nhất của dinh thự, cách xa các phòng khác, khuất sau một cây tùng khổng lồ. Ván gỗ lợp mái đã đen sì vì mưa gió, nhìn có vẻ cũ kĩ. Kindaichi thầm nghĩ, chắc là một ngôi đền nhỏ tại gia.
Cách một thung lũng, nằm về bên trái, đối diện với chi chính là dinh thự của chi thứ, cũng dựa lưng vào sườn núi. Nhìn từ trên xuống, dinh thự này thua xa chi chính, cả về ngoại cảnh hùng vĩ lẫn mức độ bề thế nguy nga. Hai tòa nhà cách nhau một thung lũng, đấu lưng vào nhau, nhìn từ trên xuống cảm thấy như có ám hiệu gì đó.
“Cứ như được đấu lưng với cụ Minamoto ấy nhỉ1.”
1. Minamoto Yoshinaka là võ tướng anh dũng cuối thời Heian. Basho vô cùng ngưỡng mộ ông, mong sau khi chết được chôn cạnh ônb. Hiện nay mộ của hai người nằm cạnh nhau tại một ngôi chùa ở thành phố Otsu, tỉnh Shiga.
Có lần sư thầy đã trỏ hai nhà mà nói vậy. Sư Ryozen có tật xuất khẩu thành thơ, động một tí là đọc haiku1.
1. Một thể thơ ngắn, ba câu, 17 âm tiết (5-7-5), trong bài luôn có từ tả thiên nhiên và đặc trưng mùa.
Như lúc trước đã nói, hai con đường dẫn tới dinh thự chi chính và chi thứ Kito cuối cùng sẽ hợp làm một ở đáy thung lũng, sau đó lại tiếp tục uốn lượn lên, ngoặt thêm vài khúc sẽ thấy một ngôi miếu nhỏ nằm ở chỗ rẽ.
Nhìn qua cửa sổ, có thể thấy sàn gỗ bên trong rộng chừng hai chiếu2. Trên bàn thờ bằng gỗ trắng đặt một pho tượng thờ không rõ tên, ăn mặc theo lối thời Đường, xem bảng treo trên cửa sẽ biết đây là miếu thờ Thổ địa.
2. Khoảng 3,3m2.
Ngoài ngư dân, trên đảo cũng có nông dân, không trồng lúa mà trồng vài loại khoai và rau cải. Tuy các ngư dân không hề biết cày cuốc, nhưng các bà vợ lại có người biết, nên việc thờ phụng thần Thổ địa cũng là tất yếu. Đi qua gian miếu, ngoặt thêm vài chỗ, con đường mòn ruột dê sẽ dốc đứng lên, sừng sững trước mắt là hàng thềm đá dài của chùa Senko núi Iozen. Dưới thềm theo thông lệ dựng một tấm bia đá viết mấy chữ “Say rượu cấm vào chùa”. Thềm đá có khoảng năm mươi bậc, chùa Senko xây dựa vào triền núi tọa lạc phía trên. Bước qua cửa chùa treo tấm bảng Iozen, sẽ thấy nhà cửa sân vườn còn rộng hơn tưởng tượng, nhìn từ bên phải, đầu tiên là phòng trụ trì, trước hiên treo vân bản1 để khách đến thăm gõ, mé trái chùa, đối diện cửa vào là chính điện, bên trái chính điện là một hàng dài các trai phòng. Chùa Senko thuộc phái Tào Động2, trước đây thường có những nhà tu hành vân du ngang qua ghé vào tịnh tọa, gần đây có lẽ cuộc sống khốn khó nên không thấy họ tới nữa, trai phòng cũng bỏ trống.
Trước hành lang nối liền trai phòng với chính điện có một cội mai già tuyệt đẹp, là niềm tự hào của chùa. Cội mai cao quá mái hiên che hành lang, cành lá vươn về phía Nam buông rũ xuống, dài đến năm gian3, gốc to hai vòng ôm. Xung quanh có rào chắn, cạnh gốc dựng một tấm bảng chép lại biển cố gì đó, nhưng nhiều năm dãi nắng dầm mưa, mực đã nhòe nhoẹt cả, Kindaichi không nhận ra nổi chữ nào nữa.
1. Tấm bảng mỏng bằng kim loại, thường được gõ mỗi khi có việc cần thông báo hoặc triệu tập tăng nhân trong chùa, vì hình dạng giống mây nên gọi là “vân bản (bảng mây)”
2. Một tông phái Thiền quan trọng bắt nguồn từ Trung Quốc, được thiền sư Dogen Kigen đưa vào Nhật Bản vào thế kỉ 13 và trở thành môn phái Thiền quan trọng đến tận ngày nay. 3. Khoảng 10m.
Trong chùa có ba người đàn ông, trừ Kindaichi, hai người còn lại là sư Ryozen, và chú tiểu Ryotaku lo việc bếp núc nhà tắm và tiếp đãi khách khứa.
Chú tiểu Ryotaku chừng hăm tư hăm lăm tuổi, gầy gò đen đúa, kiệm lời. Gương mặt ngăm ngăm và đôi mắt sắc lẻm khiến Kindaichi thấy gò bó ngay từ lần đầu giáp mặt, cứ băn khoăn mãi chẳng biết có phải chú ta ghét cay ghét đắng kẻ trên trời rơi xuống như mình hay không. Lâu ngày sống chung, anh mới dần dần nhận ra chú tiểu vô cùng thân thiện, còn hết sức tỉ mỉ chu đáo, chẳng qua vốn tính chất phác nên không khéo giao tiếp. Ryotaku hầu hạ trụ trì ân cần cẩn thận như hầu hạ cha mùnh vậy.
Sư Ryozen định để Ryotaku kế nghiệp mình, hiện đang xin phép tổng trụ trì Tsurumi, nghe nói đợi chùa chính gửi giấy chứng nhận xuống là sẽ cử hành nghi thức ngay. Phái Tào Động chủ trương truyền chức trực tiếp, sư phụ còn tại thế đã phải bàn giao lại cho đệ tử. Nhưng gần đây chú tiểu lại than thở, “Tôi tu hành nông cạn, đâu đủ tư cách làm trụ trì. Thầy vẫn còn khỏe mạnh, sao lại nghĩ đến việc này cơ chứ?”
“Anh Kindaichi! Anh Kindaichi!” Ryotaku trong phòng trụ trì gọi với ra.
“Chuẩn bị xong cả chưa?” Kindaichi hỏi rồi thong thả đứng dậy rời phòng đọc sách.
Đến phòng trụ trì, anh thấy chú tiểu đã chuẩn bị xong xuôi, cà sa đen vàng đan xen khoác ngoài bộ đồ đỏ thắm. Sư thầy vẫn mặc áo trắng, vừa thắt một cái móc to bằng cẳng chân vừa nói, “Xin lỗi, phiền cậu đi hộ tôi một chuyến được không?”
“Vâng, tôi sẵn lòng. Thầy muốn nhờ tôi đi đâu?”
“Suy đến cùng vẫn phải báo cho chi thứ một tiếng, kẻo họ giận thì phiền. Cậu đi chuyển lời dùm tôi, mời họ tối nay tới dự lễ canh linh cữu được không? Nghe nói ông Gihee phát bệnh thống phong đang nghỉ ngơi, mời phu nhân Shiho thôi cũng được.”
“Tôi biết rồi, cứ để tôi.”
“Xong xuôi phiền cậu tới dinh thự chi chính. Tôi và Ryotaku cũng phải đi đây, Ryotaku, đưa đèn lồng cho anh Kindaichi.”
“Không cần đâu, chưa đến 6 giờ rưỡi mà, bên ngoài còn sáng chán.” “Đừng chủ quan, cậu từ chỗ chi thứ trở về thì trời sập tối mất rồi, đi đường núi nguy hiểm lắm.”
“Cũng phải, phiền thầy cho mượn một ngọn đèn vậy.”
Đã nhiều năm không soi đèn lồng đi đường, Kindaichi thấy hơi buồn cười, nhưng nhà sư đã có lòng, anh cũng không tiện từ chối. Xách cây đèn của chú tiểu và rời khỏi chùa, quả nhiên trời đã sập tối.
Hôm nay là mồng 5 tháng Mười, đã ba ngày sau khi xảy ra những chuyện trên đây. Chi chính nhận được thông báo Chima ốm chết trong chiến tranh, vội tiến hành tang ma, tối nay là lễ canh linh cữu. Mọi sự vụ rườm rà rắc rối đều do sư thầy chùa Senko, trưởng làng và bác sĩ bàn bạc rồi quyết định. Giờ Kindaichi mới biết vì sao Chima lại gửi thư giới thiệu cho ba người này. Họ chính là ba vị nguyên lão của đảo Ngục Môn, cũng là ba kẻ nắm quyền sinh sát ở chi chính. Sau khi cụ Kaemon qua đời, việc lớn trong nhà đều do họ bàn bạc và quyết định.
Xuống khỏi thềm đá, đi được chừng nửa con đường mòn ruột dê, Kindaichi thình lình gặp một người từ dưới núi đi lên.
“A, anh là khách trong chùa phải không? Sư thầy đâu rồi?” Đó là một người đàn ông chừng bốn lăm bốn sáu tuổi, tuy thấp bé nhưng khỏe khoắn. Y mặc bộ lễ phục kiểu Nhật có in gia huy, nhưng không đi kèm quần đồng bộ, thấy quen quen mà Kindaichi không nhớ nổi là ai. Nhìn lối ăn mặc, có lẽ là người nhà Kito phái đến đón nhà sư.
“Anh đến đón sư thầy đấy ư? Vất vả quá, thầy đang chuẩn bị, chắc sắp xong rồi.”
“Vậy còn anh?”
“Tôi phải tới đằng chi thứ.”
“Chi thứ Kito ư?” Người nọ ngạc nhiên nhíu mày, “Có việc gì à?” “Sư thầy nhờ tôi nhắn họ tối nay đến dự lễ canh linh cửu.” “Sư thầy nhờ anh đi à?” Người nọ càng nhíu chặt mày vẻ kinh ngạc,
nhưng rồi lại như nghĩ ra chuyện gì đó, bèn nói, “Vậy vất vả cho anh rồi. Lát nữa gặp sau nhé.”
Dứt lời, y tiếp tục đi lên. Kindaichi nhìn theo, sực nhớ đó là người mình đã gặp trên tàu hôm ra đảo. Theo lời bác thợ cạo Oshichi thì Takezo là nhà triều giỏi nhất ở đây.
Giá nhận ra sớm thì đã hỏi han thăm dò nhiều hơn. Chỉ tại y đổi hẳn cách ăn mặc nên anh không nhớ.
Đi hết con đường ruột dê, Kindaichi rẽ trái. Anh hơi bồn chồn, đến đảo đã hai tuần, anh thường xuyên ra vào dinh thự chi chính, đây là lần đầu
đến chi thứ. Hôm qua, cảnh sát Shimizu đã nhắc anh, “Lúc trò chuyện với ngư dân trên đảo phải hết sức chú ý. Làng chài nào cũng vậy, nếu có hai nhà chủ tàu, ắt sẽ chia thành hai phe, có ba nhà thì chia thành ba phe đối địch nhau. Quan hệ giữa các nhà chủ tàu trên đảo rất xấu, ngư dân hai phe cũng như nước với lửa. Thiên vị nhà nào cũng có thể vạ lây, nên tôi luôn giữ thế trung lập. Trưởng làng và bác sĩ Murase đều than thở về việc cậu Chima chi chính Kito bất hạnh qua đời. Nếu cậu Hitoshi gặp bất trắc nữa thì cả hòn đảo sẽ thuộc về chi thứ, hai người bọn họ cũng đừng hòng sống yên ổn. Nhắc lại nhớ, họ thân với cụ Kaemon lắm đấy! Nghe nói hiện giờ ông Gihee đang âm thầm mua chuộc cấp dưới của trưởng làng, lăm le đuổi ông ta đi, còn định mời một bác sĩ tốt nghiệp trường huyện đến. Ở thành phố lớn, bác sĩ giỏi mới về nước hoặc về quê đông như kiến ấy mà.”
Kindaichi lại hỏi, “Còn sư thầy thì sao?”
Shimizu đáp “Chẳng sao cả”, và nhấn mạnh lần nữa, “Sư thầy không có vấn đề gì đâu, địa vị của ông ta trên cả chủ tàu, dù có bao nhiêu nhà chủ tàu hay họ xích mích với nhau ra sao thì sư thầy nắm giữ tín ngưỡng toàn đảo vẫn chễm chệ ngồi trên. Sở dĩ trưởng làng và bác sĩ còn vững chỗ chắc chắn cũng là nhờ được lòng ong ta. Sư thầy là vị thần toàn trí toàn năng trên đảo, nhưng những người khác mà không ngoan ngoan nghe lời ông Gihee và phu nhân Shiho, e rằng khó sống.”
Thế nên, Kindaichi đến chi thứ Kito mà như vào trại giặc vậy. Trại giặc ấy à? Không, nào phải thế, anh đâu có quan hệ gì đặc biệt với cả hai nhà này. Có điều, Kindaichi chợt chạnh lòng nhớ tới tình cảnh lúc Chima lâm chung. Đột nhiên, lời trăn trối rùng rợn ấy lại vang vọng bên tai anh như thủy triều, như sấm xa, như gió lùa rặng thông trên núi.
“Chà… ông lớn đã về phòng nghỉ ngơi rồi. Xin hỏi ông là ai vậy?” “Tôi họ Kindaichi, tới chuyển lời giúp sư thầy chùa Senko.” “Phiền ông đợi một chút, tôi vào báo với bà lớn.”
Lạ thật. Nhớ lại hôm mới đến đảo Ngục Môn, vừa đặt chân lên hiên nhà chi chính, trông thấy Sanae tao nhã hành lễ với khách khứa, Kindaichi đã hết sức ngạc nhiên. Tuy vậy, phong thái ứng xử của Sanae trôi chảy tự nhiên, không có cảm giác phải gồng mình như thiếu nữ trước mặt, giọng còn nặng tiếng địa phương. Gọi phu nhân Shiho là “bà lớn” nghe cũng hơi nực cười, gọi bà chủ không phải là được rồi ư?
“Ôi chao, chào anh!”
Thình lình nghe tiếng chào, Kindaichi giật nảy mình. Người đâu mà đi lại nhẹ như mèo, không hề phát ra tiếng động. Anh ngoái lại nhìn, thấy phu nhân Shiho đang tao nhã đứng sau bức bình phong, đẹp lộng lẫy, khiến người ta bất giác say mê. Không chỉ gương mặt đẹp, dáng dấp của cô ta cũng quyến rũ vô cùng. Thân hình mềm mại thướt tha, yểu điệu mà lunh hoạt. Kindaichi thấy rõ cô ta không phải người phương Nam, mà mang vẻ đẹp điển hình của người phương Bắc, có lẽ là xứ Akita hoặc Echigo gì đó. Lần đầu tiên gặp cô ta ở chùa Senko, anh đã tròn mắt kinh ngạc, giờ thấy cô ta tao nhã đứng cạnh tấm bình pbonb trước tiền sảnh cũ kĩ tối tăm, lòng anh lại không khỏi thấp thỏm.
Shiho chải một kiểu tóc Kindaichi không rõ tên, không búi thành búi, cũng không buông xõa hai bên thái dương. Kimono và obi đều là loại anh chưa thấy bao giờ, nhưng có vẻ cầu kì. Trông cô như người mẫu trang bìa tạp chí kimono thịnh hành sau Thế chiến vậy.
“Mừng anh tới chơi.” Phu nhân Shiho lại cúi chào, rồi tha thướt bước từ sau bức bình phong ra, tay vuốt nhẹ mái tóc, khéo léo uốn tấm lưng ong uyển chuyển ngồi xuống lặp lại lần nữa, “Mừng anh tới chơi.”
Cô ả hơi nghiêng đầu, cười bằng mắt, “Nghe nói anh tới chuyển lời của trụ trì Ryozen?” Phu nhân Shiho hình như hơi ngà ngà say. Kindaichi căng thẳng nuốt nước bọt, rồi lăpx bắp nhắc lại lời sư thầy. Càng nói lắp anh càng căng thẳng hơn, bất giác lại giơ tay gãi đầu sồn sột. Xem ra chiến tranh cũng không sửa nổi cái tật này của anh. “Ồ?” Phu nhân Shiho mở to mắt, cười noia, “Hôm qua chi chính đã báo cho chúng tôi rồi. Nhưng chồng tôi thấy hơi khó ở, đang nhỉ ngơi, tôi không thể để mặc ông ấy một mình được.”
Ấy thế mà cô ả vẫn uống say.
“Hôm qua đã nói rồi, để ngày khác chồng tôi đỡ hơn sẽ sang thăm hỏi. Lẽ nào trụ trì chưa biết tin sao?”
“Thế… thế ư” Vậy chắc là trụ trì quên mất. Xin… xin thứ lỗi.” “Đâu có, là lỗi của chúng tôi mà. Nhưng trụ trì cũng hơi quá đáng đấy.”
“Dạ?”
“Còn bắt anh đi chuyển lời nữa.”
“Không, tại tôi rảnh nên nhận đi ấy mà.”
“Anh Kindaichi.”
“Dạ?”
“Bây giờ anh sang chi chính ư?”
“Vâng. Nếu cô có việc gì cần…”
“Ây, không có. Vậy tôi không dám làm phiền nữa, hôm khác mời anh lại tới chơi. Anh hay tới chi chính lắm ư?”
“À vâng, cũng thường xuyên. Cậu Chima có nhiều sách nên tôi hay tới mượn đọc.”
“Chỗ tôi không có sách vở gì, nhưng sẽ có người bầu bạn với anh, thỉnh thoảng anh ghé qua chơi nhé. Chi thứ Kito cũng không có yêu ma quỷ quái gì đâu.”
“Hả? Tôi… Tôi đâu dám nghĩ thế. Thôi, xin phép cô.”
“Anh đi luôn à? Nhờ anh cho tôi gửi lời hỏi thăm trụ trì nhé.” Kindaichi thấy nách mình đầm đìa mồ hôi. Đúng lúc ra cửa, chợt nghe bên trong vang lên tiếng cười của đàn ông, anh chợt nóng bừng mặt, lòng đầy tự ái. Chắc chỉ là trùng hợp thôi, không phải họ cười cợt anh. Nhưng Kindaichi vẫn không thể gạt bỏ ác cảm. Đó là tiếng cười khi đã ngà ngà say, thế nên bất kể ông Gihee có bị khó ở hay không, ít nhất ông ta vẫn có thể ngồi cùng Shiho uống rượu. Nói không chừng chính ông ta cũng đang uống.
Trên đường về, Kindaichi tình cờ chạm mặt ba người từ trên núi đi xuống. Dẫn đầu là chú tiểu Ryotaku cầm đèn lồng soi đường, theo sau là sư Ryozen và Takezo vừa đi vừa tán gẫu.
“A, cậu Kindaichi, xin lỗi nhé, nghe nói chi chính đã báo cho chi thứ rồi.”
“À vâng, họ nói rằng ông chủ đang ốm, không đi được.”
“Chà, thôi, không sao.”
Đến cổng dinh thự chi chính, họ gặp vợ bé của cụ Kaemon quá cố, bà Katsu, đang quanh quẩn trước cửa.
“Chào bà Katsu. Sao bà cứ đi đi lại lại ở đây thế?”
“Ôi, chào cậu Takezo, cậu có thấy Hanae không?”
“Hanae à? Vừa rồi cô ấy còn ở gần đây mà.”
“Thoắt cá đã không thấy nó đâu nữa. Ồ xin chào trụ triv, mừng thầy lại chơi. Mời vào, mời vào.”
“Chào bà Katsu, không thấy cô Hanae đâu ư?”
“Không, thưa trụ trì, vừa rồi nó còn quanh quẩn gần đây mà. Mời thầy vào.”
Ba người bước vào tiền sảnh, để lại bà Katsu và Takezo bên ngoài. Trong phòng vang lên tiếng radio, Sanae đang nghe bản tin Giải ngũ, ngóng anh trai trở về.
2
Như rắn hoa
Gần đây dù ở quê cũng ít người canh linh cữu thâu đêm, phần lớn chỉ đến 9, 10 giờ, muộn lắm là 11 giờ kết húc. Lễ canh linh cữu tại dinh thự chi chính Kito cũng kết thúc lúc 10 giờ, nhưng đến tận lúc ấy vẫn không thấy tăm hơu Hanae, mọi người càng lúc càng lo lắng.
“Bà Katsu, bà giúp ba cô ấy thay quần áo à? Lúc ấy Hanae vẫn ở nhà đúng không?” Trưởng làng lo âu ra mặt.
“Dĩ nhiên rồi, Hanae thay đồ trước tiên, sau đó tôi mới giúp Tsukiyo và Yukie thay. Đúng không nào?”
Tsukiyo và Yukie gật đầu. Hai người không ngồi yên được lấy một giây, khi phất tay áo lên, lúc sửa trâm cài, còn liên tục huých nhau rúc rích, nghe bà Katsu hỏi, họ ngẩng lên gật gật đầu rồi lại cúi xuống cười khúc khích.
“Cô Tsukiyo, cô Yukie, hai cô có biết sau đó cô Hanae đi đâu khônv?” Sư thầy nhíu mày khó chịu.
“Tôi á, làm sao biết được. Con bé ấy cứ chạy lăng xăng khắp nơi, rõ ghét!”
“Đúng đấy, nó phiền chết đi được.”
“Bà Katsu, bấy giờ là lúc nào thế?”
“Ừm, khoảng chập tối.” Bà Katsu thận trọng nghiêng đầu nghĩ ngợi, “Phải rồi, lúc tôi giúp Hanae thay đồ, Sanae đang ở phòng bên bật đài. Vì vẫn đang phát hời sự, nên hình như Sanae tắt ngay đi.”
“Tức là khoảng 6 giờ 15 nhỉ?” Kindaichi xen vào.
“Lúc đó Hanae vẫn đang ở cạnh các vị chứ?” Trưởng làng càng thêm sốt ruột.
“Ừm… hình như thế.” Bà Katsu ngập ngừng.
“Cô Sanae, cô có nhớ không?”
“Tôi ư?” Sanae vận váy đen, áo nhạt màu, trái hẳn với Tsukiyo và Yukie. Cặp mắt to tròn của cô mở lớn, gương mặt bầu bĩnh hơi nghiêng, khi ngước lên, hàng mi dài đến kinh người, mái tóc xoăn tự nhiên buông xõa
xuống bờ vai phơ phất, khả ái khôn siết. “Tôi cũng không nhớ rõ lắm, hình như bà giúp họ thay đồ trong phòng kia kìa, Hanae cũng có mặt, sau đó tôu muốn nghe đài, bèn đến phòng ăn bật đài lên, thấy mới đến bản tin Lao động nên tôi lại tắt đi. Lúc quay lại… Đúng rồi, lúc tôi quay lại thì không thấy Hanae đâu nữa.”
Tức là Hanae biến mất vào khoảng 6 giờ 15 phút. Giờ đã 10 giờ rưỡi, chẳng trách mọi người lo lắng.
“Tóm lại cứ ngồi đây bàn bạc cũng vô ích, sao không thử tìm xem có manh mối gì chăng?”
Takezo đề xuất. Bấy giờ Kindaichi mới để ý, từ lúc mọi người bawts đầu nháo nhác, dường như y cũng lo lắng không yên.
“Anh Takezo có manh mối gì ư?”
“Không, tôi không có ý đó. Nói không chừng chi thứ đằng kia…” Tất cả bàng hoàng nhìn nhau. Bác sĩ Murase nãy giờ vẫn gật gù thình lình la lên bằng giọng khàn khàn khiến người ta giật thót, “Lúc chập tối, gã trai lơ chi thứ có đến chùa.”
“Hả? Ối chao, thật ư bác sĩ Murase? Này, bác sĩ Murase, bác sĩ Murase! Tỉnh dậy đi! Gã đó tới chùa thật à?”
Dù say khướt, bác sĩ Murase cũng chưa đến nỗi không biết trời trăng gì. Takezo vừa lay đầu gối, ông ta mở mắt đáp ngay, “Dĩ nhiên rồi, trên đường đến chùa tôi đã trông thấy. Tiếc rằng trời chập choạng tối, nhìn không rõ lắm.”
Bác sĩ Murase vừa quẹt nước miếng dính trên chòm râu dê vừa lắc lư thân mình, trông vô cùng lôi thôi lếch thếch. Ông ta “ợ” một tiếng, phả ra toàn hơi rượu nồng nặc, hệt như cá voi phun nước rồi nằm phịch xuống ngủ khò, mặc cho áo khoác và quần nhăn nhúm cả lại.
“Chậc, sao lại say đến nỗi này?.”
“Ông ấy có cái tật đó, chẳng biết làm thế nào. Nhưng việc của Hanae không thể bỏ qua được, thưa ông trưởng làng.”
“Bà Katsu, hôm nay cô Hanae có hẹn với gã Ukai kia không?” Trưởng làng cau mày, sầm mặt hỏi.
“Ừm, việc đó tôi… Tsukiyo, Yukie, có biết không?”
“Con không biết! Anh Ukai với Hanae á? Vớ vẩn! Làm gì có chuyện đó! Phải không Yukie?” Tsukiyo khinh khỉnh đáp, vẻ như muốn nói, hỏi gì mà ngu thế.
“Em cũng không biết. Hanae lúc nào chả nói dối, có khi giờ nó đang trốn vào xó nào ngủ lăn lóc cũng nên.” Yukie bĩu môi vẻ chán ghét. “Bà Katsu, tìm kĩ trong nhà lần nữa xem.”
Bà Katsu, tên chính xác là Katsuno, nhưng mọi người chẳng ai buồn gọi như vậy. Nhìn kĩ có thể đoán đuọc năm xưa bà ta xinh đẹp vô cùng, tiếc rằng giờ đã trở nên phờ phạc, mắt lúc nào cũng toét nhoèn, chớp lia chớp lịa, hệt như con chuột cống. E rằng sống chung với cụ Kaemon dẻo dai cường tráng suốt mười mấy năm, tất cả nhựa sống sinh lý và tâm lý của bà ta đã bị vắt kiệt. Thấy bà đứng dậy, Sanae liền nói, “Con cũng đi tìm.” Đoạn đứng dậy theo bà ra ngoài.
“Nếu không thấy ở nhà, chúng ta đành tới chỗ chi thứ tìm vậy. Anh Takezo, phiền anh đến đằng ấy một chuyến đuộc không?” “Ừm… đi thì được, nhưng tôi hơi…”
“Anh thấy khó chịu trong người à?”
“Không, hiềm nỗi bà chủ bên ấy ghê gớm lắm.”
“Vậy phiền chú Ryotaku đi cùng anh ấy được không? Anh Takezo có chú Ryotaku cùng đi, anh hết ngại rồi chứ?”
“Vâng, nếu có chú tiểu đi cùng…”
“Tôi vào làng tìm xem.” Trưởng làng nói, “Giá bác sĩ Murase tỉnh táo thì tốt quá, say khướt thế này chẳng nhờ cậy gì được cả.”
Đúng lúc ấy, có tiếng Sanae thét lên ở sân sau, mọi người nhấp nhỏm đứng dậy, nhưng liền đó nghe tiếng chân giẫm thùnh thịch xuống sàn gỗ cùng tiếng dã thú gầm rú, tất cả lại ngồi xuống.
“Hôm nay người bệnh lên cơn dữ quá.” Sư thầy lẩm bẩm. “Đúng thế, từ sáng ông ta đã bực bội cáu kỉnh rồi.”
“Chúng tôi vừa đến gần, ông ta liền nhe răng gầm gừ như khỉ, đúng là đồ điên!”
Bấy giờ Kindaichi mới hiểu đó là tiếng gào thét khi phát bệnh của ông Yosamatsu đã bị nhốt nhiều năm vì điên loạn, như bác Oshichi từng kể. Nghe tiếng tru như sói cùng tiếng lắc song cửa lạch cạch liên hồi, Kindaichi không khỏi sởn tóc gáy. Đồng thời anh cũng cảm nhận được bóng đen đè nặng lên gia đình này. Chẳng bao lâu sau, bà Katsu quay lại, thêm ít phút nữa Sanae cũng trở về. Mặt cô tái nhợt, cặp mắt tròn to mở trừng trừng, vẻ khiếp đảm.
“Cô Sanae, hình như người bệnh không được khỏe thì phải ?” “Dạ? Vâng, gần đâg bác ấy hay cáu gắt. Bà Katsu, Hanae đâu rồi?”
Giọng Sanae nhẹ như tơ, gương mặt tái nhợt và cặp mắt thất thần trông bất thường. Tìm khắp nơi không thấy Hanae, mọi người càng lúc càng xôn xao lo lắng.
“Vậy phiền ông trưởng làng vào lànb tìm vậy. Anh Takezo và Ryotaku đến chỗ chi thứ tìm anh chàng Ukai kia hỏi xem có thấy cô Hanae không. Tôi sẽ về chùa xem thử, nhưng tôi cảm thấy cô ấy không ở chùa đâu.”
“Thưa trụ trì, tôi có giúp được gì không?” Kindaichi chen vào. “Cậu đi cùng tôi nhé. À, thôi…” Ánh mắt sư thầy dừng ở bác sĩ Murase, “Xin lỗi, phiền cậu đưa bác sĩ Murase về nhà. Ông ấy say mèm, đi một mình nguy hiểm lắm.”
“Tôi hiểu.”
Phân công xong xuôi, mọi người lũ lượt đứng lên thì đã 11 giờ. Bên ngoài gió thổi lồng lộng, trời vần vũ mây đen. Ra khỏi cửa, trưởng làng chào mọi người rồi một mình xuống núi, còn năm người kia đi lên, nhưng vừa lên dốc, Kindaichi lại phải tách ra, vì nhà bác sĩ rẽ về bên trái.
“Phiền anh vậy, thật ngại quá, anh cũng là khách thế mà…” Takezo nãy giờ vẫn dìu bác sĩ Murase, giờ giao ông ta cho Kindaichi, “Cẩn thận kẻo ngã đấy.”
“Không sao đâu mà.”
Nhà bác sĩ còn cách chừng hai ngã rẽ nữa, ông ta đã say khướt, nhưng vẫn chưa đến nỗi không biết trời trăng gì. Tuy loạng choạng, song ông vẫn cố tự đi, nên Kindaichi không phải cõng. Ban đêm đường sá tối mịt, anh cứ nơm nớp sợ lỡ sẩy tay làm rơi đèn lồng, sẽ ngã xuống vực. Tay phải anh xách đèn, tay trái dìu người, thỉnh thoảng lại bị gió to táp vào mặt, chật vật đi ngược chiều gió mãi, cuối cùng cũng đến nhà ông bác sĩ.
“Ô, là ông chủ nhà tôi… Ai chà!”
Sau khi vợ qua đời, bác sĩ Murase không tục huyền, chỉ sống cùng bà quản gia. Thái độ khoa trương của bà ta khiến Kindaichi giật bắn mình, vội nói vài câu khách sáo qua loa rồi cáo từ. Gió càng lúc càng mạnh, một mình anh đi giữa đường, bên tai chỉ nghe tiếng ù ù không ngớt, bầu trời tối đen như vẩy mực, cuối cùng anh đành chạy châmg chậm, như bị gió đuổi sau lưng.
Liệu có xảy ra chuyện gì không nhỉ? Không, nhất định đã xảy ra chuyện gì rồi. Ngoài trời tối mịt, gió lồng lộng, đêm lại khuya, một cô gái
nhỏ như Hanae sao còn có thể lang thang bên ngoài cơ chứ. Nhất định đã xảy ra chuyện gì đó, không, nhất định đã xảy ra chuyện rồi. Kindaichi thấy bất an khôn xiết. Chẳng bao lâu sau, anh đến giao lộ khi nãy từ biệt mọi người rồi đi tiếp về phía Đông, thấy bên đường có ánh đèn lồng leo lét, dường như Takezo và chú tiểu đang đi vè hướng này. Lát sau Kindaichi đi đến chỗ rẽ vào con đường ruột dê ngoằn ngoèo, đợi người từ đằng kia đi lại, quả nhiên là Takezo và chú tiểu. “Thế nào? Có tin gì không?”
“Không, họ bảo là không biết.”
“Ukai có ở đó không?”
“Hừm, họ bảo gã đi ngủ rồi. Tôi vốn định nhờ họ gọi gã đến hỏi chuyện, nhưng họ gắt gỏng quá…”
“Bà chủ có ra mặt không?”
“Không, chỉ có cô hầu… Nhà đó đúng là khó dây.” Takezo cười gượng.
Shiho từng ra sức lôi kéo nhà triều giỏi nhất là Takezo về làm cho mình, song nghe bác thợ cạo kể, để giữ trọn nghĩa với chi chính,Takezo đã thẳng thừng từ chối, chẳng buồn nể mặt vợ chồng ông Gihee. “Anh Takezo, tiếp theo nên làm gì đây?”
“Ừm… đã đến nước này tôi cũng không thể khoanh tay đứng nhìn được. Chi chính giờ chỉ toàn đàn bà con gái… Đáng thương nhất là cô Sanae.” Takezo than thở, rồi lại run lên vì lo lắng.
“Ây, sư thầy ở bên kia cũng sắp quay lại rồi.”
Chú tiểu nãy giờ vẫn im lặng cầm đèn nghe hai người trò chuyện đột ngột lên tiếng. Quả nhiên trên con đường khúc khuỷu tối mịt, một ngọn đèn lồng lập lòe lơ lửng giữa không trung đang lững lờ trôi đến. Takezo ngước nhìn, rồi bỗng quả quyết nói, “Ta tìm trụ trì bàn lại thử xem. Tôi thực không biết nên làm sao mới phải nữa.”
“Được, ta cùng đi thôi.”
Ba người sánh vai bước lên con đường ruột dê, người cầm đèn đằng trước dường như cũng để ý thấy họ, bèn giơ đèn lên vẫy vẫy, Kindaichi cũng giơ đèn vẫy lại, nào ngờ người kia thong thả đi thẳng. Chẳng biết ai khơi mào, ba người bắt đầu guồng chân đuổi theo. Gió lồng lộng từ biển thổi vào, lay rặng thông xào xạc, lúc chạy về phía Tây, gió rát mặt đến nỗi gần như không ngẩng nổi đầu lên.
Một ngã rẽ, hai ngã rẽ, ba ngã rẽ. Ngọn đèn phía trước cứ thoắt ẩn thoắt hiện. Lúc ba người chạy ngang qua miếu Thổ địa, ngọn đèn đằng trước đã hướng lên thềm đá. Trụ trì Ryozen đã có tuổi, leo thang chắc là mệt lắm. Ngọn đèn chập chờn theo nhịp bước chân, khi ba người chạy đến dưới thềm đá, nó bỗng dưng tắt ngấm, nhưng họ vừa bước lên thềm, nó lại xuất hiện ở bậc đá trên cùng.
“Ryotaku! Ryotaku!” Là giọng sư thầy, có vẻ hoảng hốt.
“Dạ!” Ryotaku bên dưới vội thưa, song sư thầy chẳng nói chẳng rằng, quay người đi thẳng vào chùa.
“Sao thế nhỉ? Hình như ông ấy đang hốt hoảng.”
Kindaichi bỗng thấy vô cùng lo lắng, lẳng lặng chạy vượt lên trên. Hai người kia cũng im lặng chạy theo. Sư thầy lại ló ra trên bậc thềm trên cùng, vừa vẩy đèn lồng, vừa gọi, “Ryotaku! Ryotaku!” Giọng ông còn hoảng hơn trước, không chỉ the thé mà còn run run.
“Dạ! Con đây! Thầy có việc gì thế?”
“Cậu Kindaichi có đó không?”
“Có ạ! Anh Kindaichi và anh Takezo đều đang ở đây!”
“Hả? Anh Takezo à? Anh Takezo mau lên! Không hay rồi!” Sư thầy hớt hải chạy vào cổng chùa. Ba người bên dưới nhìn nhau rồi hối hả chạy lên, Kindaichi xộc vào chùa đầu tiên, thấy ngọn đèn lồng cứ quanh quẩn trước trai phòng.
“Bạch thầy, có việc gì thế?”
“Cậu Kindaichi, xem này!” Sư thầy run run nói, giơ cao ngọn đèn lên. Ryotaku và Takezo ập đến, vừa chứng kiến cảnh tượng nọ liền thét lớn, người run bần bật, Kindaichi tuy không la lên nhưng cũng kinh hoàng
không kém họ, đứng đờ ra như thấy sét đánh giữa trời quang. Trước hành lang nối liền chính điện với trai phòng có một cội mai già là niềm tự hào của chùa. Đương giữa mùa thu, dĩ nhiên cội mai chưa trổ hoa, thậm chí lá cũng úa tàn. Nhưng trên cành cây vươn về phía Nam lủng lẳng một thứ vô cùng đáng sợ.
Đó là Hanae. Hai đầu gối bị trói nghiến lại bằng obi, phần thừa của obi thì vắt lên cành mai như một con rắn hoa tuyệt đẹp, thắt lại thành nút. Nói cách khác, trông Hanae như con rắn hoa xảo quyệt treo ngược trên cành mai. Cặp mắt cô mở trừng trừng, lấp loáng phản chiếu ánh đèn, hắt ra vẻ quái dị nhìn chằm chằm vào mọi người, như cười cợt vẻ kinh hoàng của họ.
Cơn gió lạnh từ biển thình lình thổi vào, xao xác lùa qua cánh rừng bao bọc quanh chùa Senko. Đâu đó chợt ré lên một tiếng chim kêu như xé toạt nỗi kinh hoàng của đêm đen. Thi thể treo ngược của Hanae lắc lư trong gió, lọn tóc xỏa tung như rắn đen trườn trên mặt đất. Sư thầy lập cập móc tràng hạt trong ngực áo ra lần.
“Nam mô a di đà Phật, nam mô a di đà Phật…”
Vừa xuýt xoa sợ hãi, ông ta còn vừa lầm bầm điều gì chẳng rõ. Cảnh tượng ấy đã khắc sâu trong lòng Kindaichi rất lâu về sau. Anh nghe rõ mồn một câu, “Tuy là người điên, nhưng cũng chẳng biết làm sao được…”
“Tuy là người điên, nhưng cũng chẳng biết làm sao được…” Câu này có ý gì? Lẽ nào sư thầy đã biết hung thủ là ai? Kindaichi choáng váng quan sát nét mặt nhà sư, nhưng ông ta chỉ lặng lẽ lần tràng hạt. Takezo và Ryotaku khiếp đảm nhìn chằm chằm vào con rắn hoa treo ngược rùng rợn nọ. Gió dường như mạnh thêm, rít gào lùa qua rừng thông đỏ quanh chùa. Mái tóc xỏa dài của Hanae lại sột soạt cuộn lên dưới đất như rắn. Kindaichi dần dần định thần, đồng thời ý thức nghề nghiệp - không, có lẽ gọi là bản năng sục sạo bẩm sinh thì chính xác hơn - cũng thức dậy. Kindaichi treo cây đèn lồng lên, lần lượt kiểm tra kĩ vị trí thi thể, cách buộc obi lên cành mai, sau đó quay sang hỏi Takezo.
“Xin lỗi, anh có thể đi gọi bác sĩ Murase tới đây dùm tôi không? Chắc ông ấy cũng tỉnh rượu rồi đấy.”
“Hả?” Takezo dụi dụi mắt như vừa sực tỉnh, quay qua gọi sư thầy, “Thưa thầy!”
Song thái độ sư Ryozen vô cùng kì lạ, tuy đứng đối diện với trai phòng, nhưng dường nhưu không hề nghe thấy tiếng gọi, ánh mắt cứ đờ ra. “Thưa thầy! Thầy ơi!” Takezo gọi mấy tiếng, chợt nghe “keng”, sư Ryozen đã tuột tay đánh rơi pháp khí bằng sắt xuống đất.
“Có… có chuyện gì thế? Takezo…” Nhà sư hốt hoảng nhặt pháp khí lên, giọng vẫn hơi run rẩy.
“Anh Kindaichi vừa bảo tôi đi mời bác sĩ Murase.”
“Ờ, ừm, thế à, phiền anh quá. Đành nhờ anh đi một chuyến vậy.” Nhà sư căng thẳng nuốt nước bọt, rồi lại lầm bầm niệm, nam mô a di đà Phật, nam mô a di đà Phật…
“Vậy…” Takezo vừa đưa mắt dò ý nhà sư, vừa hỏi, “Đằng chi chính phải tính sao đây? Có nên báo cho họ hay không ạ?”
“Chi chính à… Ừ nhỉ, vậy phiền anh tiện đường ghé qua chi chính, báo với họ là đã tìm thấy Hanae rồi. Đừng nói là Hanae bị giết vội. Cậu Kindaichi?”
“Dạ?” Kindaichi cũng nhìn nhà sư vẻ thăm dò.
“Hanae bị giết ư?”
“Chắc vậy. Tôi thấy không giống tự sát.” Kindaichi bất giác buồn cười, nhưng vội nén lại không lộ ra mặt. Để chữa ngượng, anh đành gãi đàu sồn sột.
“À, ừm, vậy anh Takezo khoan kể với chi chính, nhà toàn đàn bà con gái, chắc sẽ sợ chết khiếp mất.”
“Thầy nói phải lắm, tôi đi trước đây.”
“Ấy, chờ đã. Tiện thể anh báo luôn với trưởng làng, mời ông ấy đến đây. Phải rồi, cậu Kindaichi, có nên báo cho cảnh sát không?” “Nhưng anh Shimizu đang đi vắng.”
“Đi vắng rồi à?”
“Vâng, cảnh sát Kasaoka gửi thông báo triệu tập, hồi chiều anh ta đáp cano đi rồi. Mà anh Takezo này…”
“Dạ?”
“Để cho cẩn thận, phiền anh tới văn phòng cảnh sát xem, nếu anh Simizu đã về thì mời anh ấy tới đây.”
“Vâng, tôi hiểu. Tôi đi đây.”
Gió càng lúc càng lớn, rừng thông đỏ trong núi xào xạc nghe rợn cả người. Takezo dang hai tay guồng chân chạy thẳng như Yajirobe1 chạy trốn suốt đêm, tay áo in gia huy bay phần phật. Chẳng bao lâu sau, những hạt mưa to như hạt đậu thình lình trút xuống, hẳn là gió đưa mưa tới.
“Chết tiệt!” Kindaichi ngước nhìn bầu không tăm tối, giận dữ buột miệng.
“Sao thế, cậu Kindaichi?”
“Trận mưa này…”
“Mưa hả? À, ừ, mưa to quá. Trời đổ mưa rồi… tính sao đây?” “Mong rằng không mưa đến sáng, bằng không dấu giày sẽ bị xóa hết mất.”
“Dấu giày ư?” Nhà sư sực nhớ ra điều gì, vội nói, “Tôi quên khuấy đi mất! Cậu Kindaichi, mời cậu lại đây xem.”
“Ô? Gì đấy ạ?”
“Có thứ này mời cậu xem qua, Ryotaku, con cũng qua đây đi.” “Bạch thầy, thi thể… cứ để mặc thế này sao?” Ryotaku nãy giờ vẫn im lìm như đá rụt rè lên tiếng.
“À, đúng nhỉ, cậu Kindaichi, phải làm thế nào đây? Gỡ xuống được không?”
“Ừm… cứ giữ nguyên trạng thêm một lát đi. Biết đâu anh Shimizu về rồi đấy.”
“Chậc, cũng phải nhỉ. Ryotaku, cứ để nguyên đó đi. Con cũng qua đây xem xem.”
Ba người rời khỏi cội mai rùng rợn nọ đi đến tiền sảnh, mưa càng nặng hạt hơn, như hàng vạn mũi tên rào rạt bắn ra.
“Chết tiệt!” Kindaichi hậm hực nhìn trời.
“Ừm, hừm, trận mưa vô duyên quá,” sư Ryozen rảo bước đi đến tiền sảnh. “Khi nãy tôi về chùa trước mọi người, đang định vào đây thì thấy cửa đã khóa trái… Sau đó… Mời cậu qua bên này, nhớ cẩn thận dưới chân.”
Men theo mái hiên vòng ra bên cạnh, sẽ thấy cửa hậu nhà bếp ở gần mặt sau tiền sảnh đang mở hé, bên trong tối om.
“Cửa tiền sảnh bị khóa, nên tôi vòng ra bên này, kết quả… cậu xem!” Nhà sư giơ đèn lồng lên soi.
“Có gì bất thường ư?”
“Khóa bị bẻ gãy kìa.”
Kindaichi và Ryotaku hít mạnh, chiếc khóa gãy vẫn móc vào khoen. “Ryotaku, cửa này là con khóa đấy à? Lẽ nào lúc ấy đã…” “Bạch thầy, không phải đâu. Rõ ràng con đã khép cửa cẩn thận, còn bấm khóa rồi mà.”
“Vậy ai đã mở cửa, thưa thầy?”
“Tôi đấy. Tôi đương định mở khóa, nào ngờ vừa móc chìa ra đã thấy ổ khóa bị bẻ gãy, giật thót mình, vội mở cửa xem thử, kết quả là… Cậu nhìn này!”
Trụ trì ghé ngọn đèn lồng vào khe cửa mở hé, Kindaichi tức thì trông thấy nền đất cạnh cửa chi chít dấu giày lấm bùn to tướng.
“Bạch thầy, trộm, trộm ư?” Ryotaku lại hít sâu một hơi.
“Chắc thế. Con xem, dấu giày còn mới tinh. Ta vừa thấy đã giật bắn mình…”
“Thế nên thầy chạy đi gọi chúng tôi ngay.”
“Vâng, tôi chạy đi gọi ngay, nhưng cứ thấy có gì đó quai quái. Bèn giơ đèn soi về đăng kia. Nào ngờ lại thấy…” Sư thầy phải lấy hơi mới nói tiếp được, “Thi thể cô Hanae!”
“Thầy đã vào trong chưa?”
“Dĩ nhiên tôi chưa kịp vào.”
“Vậy giờ chúng ta vào xem sao.”
“Vâng, Ryotaku con vào trước thắp đèn đi.”
“Bạch thầy…”
“Hả? Sao thế? Ryotaku? Ha ha, con run đấy à? Đúng là chết nhát!” “Bạch thầy, chưa chừng kẻ trộm còn ở bên trong đấy.”
“Yên tâm đi, con xem đi, dấu chân đi vào rồi lại trở ra đây này. Thôi được để ta vào trước cho.”
“Thôi ạ, để con vào.” Ryotaku bước vào thắp đèn, thình lình la lên thất thanh.
“Sao thế, Ryotaku?”
“Bạch thầy, kẻ trộm không cởi giày đã trèo lên rồi. Thầy xem, dấu giày chi chít khắp nơi kìa.”
“Hừ, thật chẳng ra sao, con xem có mất mát gì không?”
“Con đang kiểm tra ạ.”
“Thầy cho tôi mượn đèn lồng một lát.”
Cây đèn lồng Kidaichi cầm đã bị Takezo lấy đi, anh đón lấy ngọn đèn từ tay sư Ryozen, ra kiểm tra cửa hậu nhà bếp. Nơi đó gần như tiếp giáp với vách đá nên cả ngày không có ánh mặt trời, nền đất vừa nhão vừa ướt. Trên nền đất ẩm ướt nhão nhoét in đầy dấu giày to tướng. Dựa vào kinh nghiệm, Kindaichi đoán đây là giày lính, đi từ ngoài vào rồi lại trở ra, nhưng đến nền đất cứng ngoài sân thì đã be bét nhiều lớp khó mà nhận rõ, lại thêm trận mưa xốu xả…
“Chết tiệt!” Kindaichi trừng trừng nhìn cơn mưa như trút nước bên ngoài, hậm hực rủa. Khi vòng lại cửa hậu nhà bếp, anh không thấy thầy trò nhà sư đâu cả, vội gọi to, “Thầy ơi! Chú tiều ơi!”
“Chúng tôi ở đây!”
Tiếng Ryotaku vang lên từ phía phòng trụ trì. Kindaichi xách đèn chạy đến, thấy Ryotaku đang mở tủ âm tường kiểm tra.
“Có mất mát gì không?”
“Đến giờ thì chưa thấy gì.”
“Sư thầy đâu rồi chú?”
“Thầy đang kiểm tra bên chính điện.”
Sư Ryozen gọi vọng từ chính điện sang, “Ryotaku, con lại đây soi đèn giúp ta với.” May sao Kidaichi chưa thổi tắt đèn lồng, vội cầm đèn chạy đến. Ở đây bật đèn điện sáng choang, cửa che mưa phía Nam mở toang, sư thầy đang gập người trên lan can nhìn xuống bậc thềm bên dưới.
“Bạch thầy, có gì bất thường ư?”
“Vâng, phiền cậu cho tôi mượn đèn soi với.” Sư Ryozen đón lấy đèn giơ lên soi, thấy cạnh hòm tiền công đức vương vãi hai ba đầu thuốc và năm sáu que diêm đã quẹt.
“Ryotaku, con đã quét chỗ này chưa?”
“Sáng nào con cũng quét mà, với cả khách dâng hương không hút thuốc ở đây đâu.”
“Vậy là tên trộm rồi, trước khi lẻn xuống bếp hắn đã ngồi trên cầu thang hút thuốc.”
May mà mái hiên khá rộng, đầu thuốc và diêm chưa bị mưa tạt ướt. Kindaichi lấy giấy xi măng ra gói đầu thuốc và diêm lại, rồi hào hứng quay sang nhà sư, “Thầy xem mấy đầu thuốc này là manh mối quan trọng đấy. Đây là thuốc sợi vấn tay, hơn nữa còn vấn bằng giấy tự điển.”
“Ừm, là tự điển tiếng Anh phải không?”
“Đúng rồi, từ điển Anh-Nhật bỏ túi, rất hợp vấn thuốc hút. Thưa thầy, trên đảo có ai có từ điển tiếng Anh không?”
“Chắc chỉ có người của chi chính thôi. Cậu Chima và Hitoshi bên ấy đều đi học, hănd phải có từ điển tiếng Anh.”
“Nhưng chi chính có ai hút thuốc không?”
Không ngờ sư thầy hít sâu một hơi, mở to mắt, nắm chặt lấy lan can, bàn tay thô ráp run bần bật.
“Thầy, thầy làm, làm sao thế?” Thấy nhà sư đột ngột thở dốc, Kindaichi sợ đến líu cả lưỡi.
“À, ừm, tôi không sao đâu, chỉ là đột, đột nhiên… lại nảy ra một ý nghĩ ngu, ngu ngốc…”
“Thầy, thầy làm sao thế? Bên chi chính có, có ai hút thuốc ư?” “Ừm, có lần tôi từng bắt gặp cô Sanae đang vấn thuốc. Giờ nghĩ lại quả thật cô ấy dùng loại giấy có chữ như thế này, lúc ấy tôi đã hỏi cô ấy vấn cho ai hút, cô ấy trả lời…”
“Cô ấy trả lời thế nào?”
“Sanae nói là cho bác…”
Kindaichi ngạt thở, bàn tay cầm giấy xi măng cũng run bắn, “Bạch, bạch thầy, người bác mà cô Sanae nói có phải kẻ đang bị giam…” “Đúng thế, là ông ta, tôi nhớ mình còn dặn Sanae rằng, cho người thần kinh không bình thường hút thuốc cũng không sao, nhưng đừng đưa diêm cho ông ấy. Cô ấy vâng dạ, nói là sẽ cẩn thận…”
Kể tới đây, bỗng nghe thấy tiếng chuột chạy sột soạt trên trần nhà, thầy trò nhà sư và Kindaichi giật nảy mình. Gió mỗi lúc một lớn, mưa tạt vào xối xả làm ướt sũng thi thể Hanae, nước mưa đổ xuống như thác từ đầu ngọn tóc đen buông xõa dưới đất, nặng trịch vì thấm nước. Chú tiểu run lẩy bẩy, hai hàm răng đánh vào nhau cồm cộp, lẩm bẩm niệm, “Nam mô…”
“Ý thầy là kẻ tối nay tới đây chính là gia chủ chi chính đang bị nhốt ư?”
“H… hâm à! Tôi đâu có nói vậy! Tại cậu hỏi đến thuốc lá nên mới…” Kindaichi nghiêm trang nhìn thẳng vào mắt nhà sư, “Nhưng vừa rồi quả thật thầy có nói một câu lạ.”
“Tôi ư…? Lúc nào cơ?”
“Lúc mới phát hiện thi thể Hanae ấy.”
“Lúc mới phát hiện thi thể Hanae ư? Tôi đã nói gì?”
“Tuy không rõ lắm, nhưng đại loại thế này, ‘Tuy là người điên, nhưng cũng chẳng biết làm sao được…’”
“Tôi nói thế à?”
“Vâng, rõ ràng là thầy đã nói thế mà, bấy giờ tôi còn lấy làm lạ, bụng bảo dạ, người điên tức là gia chủ chi chính Kito à? Ông ta đã làm gì thế nhỉ? Lẽ nào thầy cho rằng việc này có liên quan đến gia chủ chi chính.”
“Tuy là người điên, nhưng cũng chẳng biết làm sao được? Tôi đã nói câu đó à? Tuy là người điên, nhưng cũng chẳng biết làm sao được… Tuy là người điên, nhưng cũng chẳng biết làm sao được…”
Bỗng nhiên sư Ryozen trợn trừng mắt nhìn chằm chằm Kindaichi, bờ vai và khóe miệng giần giật liên hồi. Rồi thình lình ông giơ đôi tay to bè lên ôm mặt, loạng choạng lùi liền mấy bước.
“Thưa thầy!” Kindaichi cuống lên, “Có phải… có phải thầy đã nghĩ ra chuyện gì không?”
Nhà sư vẫn bưng mặt lặng thinh, chỉ thấy đôi vai run bần bật. Lát sau ông buông tay ra, né tránh ánh mắt Kindaichi, tựa như cái nhìn của anh làm ông chói mắt, khẽ gọi, “Cậu Kindaichi…”
“Dạ?”
“Cậu lầm rồi, có lẽ tôi nói vậy thật, nhưng không liên quan gì đến gia chủ chi chính đâu.”
“Nhưng… Nhưng mà… bạch thầy, nếu không thì câu đó có ý gì? Người điên chỉ ai vậy?”
“Cậu Kindaichi, chuyện đó tôi không thể tiết lộ được. Nó.. quá kinh khủng.” Nói đoạn, sư Ryozen lại run lẩy bẩy. Không lâu sau, ông thở hắt ra, thốt lên một câu thều thào như vừa bị rút hết sức lực, “Cậu Kindaichi à, trên đời có những việc đáng sợ đến mức cậu không tưởng tuọng nổi đâu. Thật đấy, vượt ngoài sức tuỏng tượng của con người. Kẻ điên… Không sai, là hành vi của kẻ điên, có điều tôi chưa thể tiết lộ được, có lẽ về sau sẽ có cơ hội nói rõ, nhưng giờ thì chưa. Cậu đừng hỏi gì tôi cả được không? Có hỏi cũng vô dụng… ôi!”
Sư Ryozen vươn người ra ngoài lan can, “Hình như bác sĩ Murase đến rồi, tôi thấy ánh đèn lồng đi về phía này. Đi thôi, còn chút thời gian, tới trai phòng kiểm tra xem.”
Như lúc trước đã nói, nối giữa trai phòng và chính điện là một hành lang. Trai phòng rộng chừng ba gian, dài sáu gian1, là một gian phòng dài hẹp. Mở cửa sổ gỗ cuối hành lang, có thể thấy giữa phòng có một lối đi chạy dọc, hai bên trải hai hàng chiếu tatami. Nghe nọ lúc tĩnh tọa, mỗi người sẽ ngồi trên một chiếu. Mỗi bên mười chiếu, nhưng có một lối đi chạy ngang qua hàng chiếu thứ năm. Tại chỗ giao cắt giữa hai lối đi ngang dọc, tức là chính giữa trai phòng, đặt một pho tượng Phật. Từ tên núi Iozen2 có thể đoán được pho tượng chính là Dược Sư Như Lai. Mé trái lối đi chạy ngang là cửa ra vào. Bên ngoài là sân, nơi có cội mai già đáng sợ, hai bên cửa ra có một hàng cửa sổ vuông chạy dài.
1. Rộng khoảng 5 mét, dài khoảng 11 mét.
2. (Hán-Nhật) Y vương. Dược Sư Như Lai còn có tên là Y Vương Thiện Thệ. Sư Ryozen soi đèn lồng kiểm tra kĩ trai phòng, tiện thể kiểm tra cả cửa ra vào, thấy vẫn đóng cửa cài then chắc chắn.
“Hừm, hình như không có gì lạ cả. Ryotaku, bên phòng trụ trì có mất gì không con?”
“Bạch thầy, con chưa kiểm tra kĩ. Nhưng nhìn qua không có gì khác cả.”
“Hừ, tên trộm này lạ thật. Hay là chùa nghèo quá nên chẳng có gì để trộm. Đi thôi, bác sĩ Murase chắc đã đến nơi rồi, sang bên kia đợi ông ấy
vậy.”
Kindaichi lặng thinh ngẫm nghĩ, lòng cứ thấp thỏm không yên về câu “chẳng biết làm sao” cùa nhà sư.
Tuy sư Ryozen đã giải thích, nhưng rõ ràng là lấp liếm. Kẻ điên nhất định chỉ gia chủ chi chính Yosamatsu. Có điều, dù là Yosamatsu hay ai, hung thủ cũng là một kẻ điên, nên mới gây ra những việc kì quái như thế. Nhưng nếu vậy thì câu nói lỡ miệng của sư thầy phải là “Vì là kẻ điên, nên cũng chẳng biết làm sao…”, song theo Kidaichi nghe được là “Tuy là người điên, nhưng cũng chẳng biết làm sao được…”
Tại sao? Tại sao nhỉ?
Bác sĩ Murase và trưởng làng Araki đội mưa chạy đến. Takezo hình như đã về nhà thay áo, mặc đồ thường ngày in gia huy chạy tới. Ba người ướt như chuột lột, chòm râu dê của bác sĩ Murase rũ xuống, vừa đến cổng chùa, nhác thấy trụ trì, họ liền gọi, “Bạch thầy!”
Cơ mặt bác sĩ giần giật liên hồi, yết hầu lục cục trồi lên thụt xuống song mãi chẳng nói nên lời. Trưởng làng mím môi, im lặng nhìn nhà sư. Sự câm nín rùng rợn lảng vảng giữa ba người. Lát sau, sư thầy xoay mình nhường đường, “Hai vị vất vả rồi, mời qua bên này xem cô Hanae.”
Xem ra hai người đã được Takezo kể sơ qua tình hình, nên nhà sư vừa nhường đường, họ lập tức chạy đến gốc mai. Bác sĩ hơi loạng choạng, song bước chân trưởng làng lại vững vàng. Sư Ryozen đang định theo sau thì Takezo gọi giật lại, “Bạch thầy!”
“A, Takezo, vất vả cho anh quá! Bên chi chính thế nào rồi?” “Hai cô Tsukiyo và Yukie đã đi nghỉ, nhưng cô Sanae vẫn bồn chồn lo lắng…”
“Cô bé ấy thông minh nhanh nhẹn, chắc đã đoán ra.”
“Có lẽ thế. Tôi kiên quyết không cho cô ấy tới, đã dặn bà Katsu chăm sóc rồi.”
“Anh Takezo này, cảnh sát Shimizu đâu?” Kindaichi hỏi chen vào. “Ầy, anh Shimizu vẫn chưa về.”
“Vậy sao, vất vả cho cậu quá.”
Bác sĩ và trưởng làng đứng đờ ra dưới gốc mai. Dù là bác sĩ nhưng Murase vẫn run bần bật, trong khi trưởng làng thản nhiên nhìn chằm chằm thi thể. Khi sư thầy đi đến, trưởng làng lập tức quay ra hỏi, “Bạch thầy, chắc
không thể để thi thể treo lủng lẳng ở đây mãi được? Hay là hạ cô ấy xuống đi.”
“Cậu Kindaichi nói phải giữ nguyên hiện trường chờ cảnh sát tới, nên tôi mới đợi tới giờ. Nhưng chắc khó mà để như vậy đến sáng được, trưởng làng và bác sĩ chứng kiến cũng đủ rồi. Giờ ta hạ thi thể xuống nhé, cậu Kindaichi?”
“Chắc là được rồi ạ. Để tôi giúp một tay.”
“Không, Takezo, anh hạ xuống đi.”
“Vâng, tôi biết rồi. Ta chuyển thi thể đến đâu đây, thưa thầy?” “Hừm.. phiền anh đưa tới chính điện trước đã. Ryotaku, con vào chính điện trải sẵn chiếu cỏ ra đi.”
Takezo và Kindaichi nhanh nhẹn hạ thi thể xuống, khiêng vào chính điện.
“Sau đây là đến nhiệm vụ của bác sĩ Murase. Phiền ông kiểm tra kĩ cho.”
Quả là bác sĩ, khi thi thể được hạ từ cội mai xuống, đặt nằm trên chiếu cỏ giữa chính điện, Murase đã thôi run rẩy, nhanh nhẹn bắt tay vào khám nghiệm.
“Bác sĩ Murase, nguyên nhân chết là gì vậy?” Kindaichi hỏi. “Bị thắt cổ chết. Cậu xem, cổ họng có vết vải dài siết chặt. Nhưng…” Ông bác sĩ hơi nâng thi thể lên quan sát rồi tiếp, “Trước khi bị siết chết, đầu cô ấy từng bị vật cứng đập vào, sau ót có vết rách lớn, tuy chảy ít máu, nhưng đủ làm nạn nhân bất tỉnh.”
“Vậy là sau khi bị đánh ngất mới bị siết cổ chết phải không?” Kindaichi cẩn thận xác nhận lại lần nữa.
“Đúng thế, hung thủ,” ông ta lại dùng cách nói cũ, “sau khi đánh ngất cô ấy vẫn chưa yên tâm, bèn siết cổ chết luôn. Hung khí thắt cổ nạn nhân là một chiếc khăn dài, tôi nghĩ là khăn mặt1 truyền thống.
1. Khăn mặt ở đây là khăn mặt kiểu Nhật, hình chữ nhật dài, vải mịn chứ không phải là sợi bông xù lên như khăn mặt ở ta.
“Thời gian tử vong thì sao?”
“Hừm, tình hình cụ thể phải kiểm tra kĩ mới biết được, nhưng đại khái đã chết khoảng năm sáu tiếng rồi. Giờ là mấy giờ?”
Kindaichi nhìn đồng hồ tay, đúng 12 giờ rưỡi.
“Ừm… vậy là hôm nay… Không, là tối qua. Khoảng 6 giờ rưỡi đến 7 giờ rưỡi tối.”
Hoàn toàn trùng khớp với suy luận của Kindaichi. Anh không khỏi thay đổi cách nhìn về ông bác sĩ râu dê. Kindaichi không phải bác sĩ, nhưng cũng có kiến thức y học.
Nhờ Kubo Ginzo tài trợ học phí, anh đã sang Mỹ học tập một thời gian, có dạo còn công tác ở bệnh viện, đảm nhận công việc như y tá thực tập. Phần vì muốn báo đáp Kubo Ginzo, phần cũng dự định sẽ theo đuổi nghề thám tử, anh đã dốc sức học tập và làm việc, những mong thu lượm được chút kiến thức y học.
Ngoài những kinh nghiệm ấy, lại thêm nhiều năm vật lộn ngoài tiền tuyến, Kindaichi đã chứng kiến vô vàn cái chết, có người nổ banh xác mà chết, có kẻ bệnh nặng mà chết. Kẻ luôn chăm chú quan sát thi thể như anh đã hình thành trực giác vô cùng nhạy bén với trạng thái cương cứng của tử thi. Quan sát cái xác Hanae bị giết vào tối 15 tháng Mười, trong khoảng thời gian 6 rưỡi đến 7 rưỡi tối. Nhưng cô đến chùa từ lúc nào?
Kindaichi nhớ lại tình hình tối qua. Lần cuối cùng có người nhìn thấy Hanae còn sống là khi bản tin Lao động bắt đầu, vào khoảng sau 6 giờ 15 phút, Hanae đã đi khỏi nhà đến chùa Senko ngay lúc đó ư? Kindaichi rời chùa đúng 6 giờ 25 phút, sư thầy nài anh cầm đèn theo, Kindaichi còn xem đồng hồ nên vẫn nhớ mồn một. Sau đó anh xuống núi, giữa đường gặp Takezo đi lên, bấy giờ có lẽ là tầm 6 giờ 28 phút. Chia tay Takezo, anh đến dinh thự chi thứ, nấn ná ở đó một lúc rồi cáo từ, vòng về điểm đầu con đường mòn thì chạm mặt thầy trò nhà sư và Takezo từ phía trên đi xuống. Bốn người cùng đi đến chi chính, bấy giờ Sanae đang nghe bản tin Giải ngũ trên radio, hình như đúng lúc họ tới thì kết thúc.
Trong thời gian đó, lịch phát sóng chương trình radio như sau, 6:15 Bản tin Lao động
6:30 Bản tin Thời tiết, thông báo lịch phát sóng các chương trình tối nay
6:35 Bản tin Giải ngũ
6:45 Uncle Come Come1
1.Một tiết mục truyền thanh dài mười lăm phút bằng tiếng Anh của đài NHK, tồn tại trong mười năm (1946-1955)
Kindaichi hết sức hài lòng nhận ra các hành động của mình vô tình lại trùng khớp với lịch phát sóng các chương trình.
Kiểm tra kĩ theo thời gian biểu, có thể biết được tình hình đại khái như sau:
Từ 6 giờ 25 phút khi Kindaichi rời chùa tới 6 giờ 45 phút khi mọi người tới dinh thự chi chính, luôn có người đi lại trên con đường mòn từ chùa Senko tới chi chính. Nhưng có một sơ hở, không nắm được thời gian rời chùa chính xác của sư thầy, chú tiểu và Takezo. Có lẽ là sau khi Kindaichi rẽ vào con đường dẫn tới chi thứ, nếu vậy, chỉ có khoảng thời gian này là hoàn toàn không có ai đi lại trên con đường từ chùa tới chi chính. Nhưng như thế cũng chẳng có ý nghĩa gì. Bởi dù Hanae đặt chân lên con đường đó vào đúng lúc Kindaichi đi đến chi thứ (mà sự thật không phải vậy), thì với tốc độ của một cô gái, cũng phải mất một lúc lâu mới tới được chùa. Trong thời gian đó, sư thầy, chú tiểu và Takezo nhất định đã rời chùa, bằng không họ không thể chạm mặt Kindaichi ở cuối đường mòn dưới núi được. Nếu họ rời chùa trong thời gian đó, ắt sẽ gặp Hanae giữa đường, song họ không hề gặp cô, chứng tỏ Hanae đã không lên núi lúc ấy.
Vậy cô tới chùa khi nào nhỉ? Dẫu rời nhà lúc 6 giờ 15, thì vẫn còn cách thời điểm Kindaichi rời chùa mười phút. Cứ cho là cô đến được chùa trong khoảng thời gian đó (dù là phụ nữ, song nếu dốc toàn lực đi thật nhanh cũng không phải không có khả năng), thì người trong chùa nhất định sẽ phát hiện ra.
Phòng Kindaichi ở nằm hẳn trong chùa nên không thấy được, nhưng phòng trụ trì của sư thầy trông thẳng ra cổng chùa, nhìn xuống được cả cuối đường mòn dưới núi. Bấy giờ cửa giấy phòng trụ trì mở toang, nên nếu Hanae đi từ cổng chùa vào, sư thầy hoặc chú tiểu hẳn sẽ nhận ra. Xem chừng lúc 6 giờ 15, sau khi rời nhà, Hanae không đến chùa Senko ngay. Có thể cô đã tạt qua đâu đó, đợi mọi người đi hết mới vào chùa. Nhưng suy luận như vậy lại nảy ra vấn đề, một là giữa đường Hanae đã đi đâu? Hai, không, phải nói rằng quan trọng hơn là, vì sao cô lại đến chùa? Vấn đề thứ hai được giải đáp ngay.
Muốn kiểm tra xem thi thể còn vết thương nào khác không, bác sĩ Murase bèn mở vạt trước kimono cùa Hanae ra, nào ngờ từ ngực áo cô lại rơi ra một vật. Đó là một phong thư, vì nhét sâu bên trong nên dầm mưa nãy giờ vẫn không ướt.
“Thư kìa!” Trưởng lànb đứng phía sau trông thấy, bất giác thở gấp.
“Đâu, đâu?” Sư thầy cầm lên, nhận xét, “Sao lại dùng bao thư lòe loẹt thế nhỉ?”
Ông ta soi dưới ngọn đèn điện rồi bảo Kindaichi, “Mắt tôi mờ quá, cậu đọc hộ với.”
Kindaichi đón lấy xem, thấy bao thư là loại nhỏ nhắn in hoa mà các cô gái trẻ ưa chuộng, mặt trước viết tên người nhận là cô Tsukiyo, mặt sau viết tên người gửi là “Tự biết”.
“Gì cơ, cô Tsukiyo à? Vậy là thư gửi cho chị gái cô ta rồi.” “Lạ thật đấy, sao thư gửi cô Tsukiyo lại ở trong tay cô Hanae?” “Hừm, bất kể ra sao, cứ đọc xem đã. Người gửi Tự biết, hẳn là người nhận thư đã biết trước ai gửi rồi.”
“Thật chẳng ra sao! Có khi lại là trò quỷ của bà chủ chi thứ, trông giống lắm.”
Nội dung bức thư như sau:
Gửi: Em Tsukiyo
7 giờ tối nay đợi ở sân chùa Senko, trong chùa không có ai cả. Mong được thổ lộ tâm tình cùng em…
Tự biết
Đọc xong, Kindaichi thấy da gà da vịt nổi hết cả lên, chẳng biết là ghê tởm hag tức cười. Rõ là giọng văn truyện sến ba xu thời Edo. “Là Ukai à?”
“Chắc vậy. Nhưng chắc là Shiho gà bài. Trừ cô ả ra, chẳng ai viết được mấy câu buồn nôn thế cả.”
“Có ai biết nét chữ Ukai thế nào không?”
Không ai cả.
“Dù không ai biết cũng có thể khẳng định bức thư này do gã viết không chệch đi đâu được, bởi Hanae đã đến chùa theo lời mời.” “Nhưng đây là thư viết cho Tsukiyo kia mà.”
“Có gì lạ đâu, phong thư gửi cho Tsukiyo chẳng hiểu vì sao lại rơi vào tay Hanae, cô ta bèn thay chị gái lẻn đến chỗ hẹn. À quên, bác sĩ Murase, tối qua ông có nói là trông thấy gã đó đi về phía chùa ư? Lúc ấy là mấy giờ?”
“Hừm… mấy giờ à… tôi không xem đồng hồ, nhưng trên đường đến chỗ chi chính, tới một khúc ngoặc, tôi tình cờ nhìn về phía này, nhác thấy bóng gã đó đi trên đường mòn.”
Bác sĩ tới chậm hơn Kindaichi một chút, có lẽ vào khoảng 6 giờ 50 phút, vậy là Kindaichi vừa rời khỏi chi thứ, Ukai đã theo ra ngay. “Lẽ nào gã ta gọi Hanae ra, sau đó, sau đó giết cô ấy tại đây?” Takezo hỏi.
“Ukai… gọi Hanae…” Bác sĩ lẩm bẩm, rồi quay sang sư thầy và trưởng làng, sáu mắt
nhau.
Việc Ukai gọi Hanae ra không còn nghi ngờ gì nữa, nhưng dường như chẳng ai dám quả quyết gã đã giết cô. Kindaichi không biết gì về Ukai, có điều theo ấn tượng từ lần gặp gỡ duy nhất, anh thấy gã không giống kẻ ra tay tàn độc nhường ấy. Nhưng tục ngữ đã dạy, biết người biết mặt biết lòng làm sao…
“Thưa thầy, Ukai có hút thuốc không?”
“Thuốc ư,” sư thầy nhíu mày, “Chưa… tôi chưa trông thấy anh ta hút thuốc bao giờ. Liên quan gì đến thuốc lá vậy?”
“Tôi đang nghĩ, mấy đầu thuốc chúng ta phát hiện khi nãy có khi nào là do Ukai vứt ra không… Bởi có khả năng gã đã xin cô Tsukiyo, Yukie hoặc Hanae loại thuốc đó.”
“Không, gã không hút thuốc.” Takezo chen vào. “Nhớ có lần tôi mời thuốc, gã đã khéo léo từ chối, nói là không hút. Nhưng…” Takezo nhích người tới trước, buồn rầu nện nắm tay xuống chiếu, “Bất cứ kẻ nào giết Hanae cũng không nên treo thi thể ở đó. Lại còn treo ngược… Bạch thầy, tại sao hung thủ giết Hanae lại hành động tàn nhẫn như vậy?”
A, phải rồi! Nãy giờ Kindaichi cũng nghĩ mãi. Lẽ nào là tung hòa mù? Giống như những tình tiết giật gân mà các nhà văn hay sáng tạo ra vậy, tên hung thủ hứng lên bèn sắp đặt tình cảnh thảm khốc rùng rợn? Không phải. Không phải không phải. Anh không nghĩ vậy. Hành động treo ngược thi thể Hanae lên cây nhất định có hàm ý sâu xa.
Thắc mắc của Takezo đã đánh thức mọi người khỏi trạng thái mụ mẫm vì ác mộng, tất cả đờ ra, run rẩy vì sợ.
Thình lình, phía nhà bếp vang lên tiếng thét, “Thầy ơi! Thầy ơi!” Là chú tiểu!
“Thầy ơi, con tìm ra rồi. Kẻ trộm đã đánh cắp, kẻ trộm đã đánh cắp…” Chú tiểu thét lên kinh hoàng, lao vào chính điện, tay xách một thùng cơm trống không.
“Bạch thầy, lẽ ra còn đến nữa thùng cơm, vậy mà vừa rồi con sờ đến thì đã hết nhẵn.”
Không ngờ kẻ trộm lại khoắng sạch thùng cơm.
3
Bình phong haiku
Sau đêm thảm án là một buổi sánv mù sương. Trước bình minh, mưa đã tạnh hẳn nhưng hơi nước quá nhiều tạo thành sương mù dày đặc bao trùm cả đảo Ngục Môn. Chùa Senko trên núi Iozen chìm sâu trong màn sương xám xịt tựa như đôi mắt còn mơ màng luyến tiếc giấc mộng chưa tàn, trắng nhờ đờ đẫn.
Trời vừa tang tảng sáng, Kindaichi đang nửa tỉnh nửa mê thì nghe thấy tiếng tụng kinh sớm từ chính điện vẳng lại, liền mở bừng mắt. Phòng anh nghỉ vốn là phòng đọc sách, lúc này cửa đóng im ỉm tối om, nhưng nắng mai vẫn len vào qua khe cửa sổ, nhảy nhót trong góc phòng. Anh nằm sấp, cầm đồng hồ đeo tay bên gối lên xem, thấy đã hơn 8 giờ, xem ra sáng nay cả trụ trì cũng ngủ nướng.
Kindaichi lại tiếp tục nằm bò ra, vơ điếu thuốc cạnh gối châm lửa, chống má vừa hút vừa bồn chồn nghe tiếng tụng kinh, cảm giác tiếng mỏ sáng nay thê lương hơn hẳn, như thấm vào làn áo vậy. Anh mơ màng ngẫm lại việc tối qua, hi vọng lần ra chút chân tướng đằng sau thủ pháp giết người tàn độc nọ. Tiếc rằng dường như tại thiếu ngủ nên anh không sao tập trung được, tâm trí cứ lộn xộn ngổn ngang như kẻ bị bịt mắt trong trò chơi ú tim, mò mẫm lòng vòng tìm kiếm.
Kindaichi quyết định tạm thời gác suy tư sang một bên để bò dậy, song cứ nấn ná mãi không rời được ổ chăn ấm áp, lại thêm tiếng mõ đều đều như thôi miên, như rủ rỉ khuyên nhủ “thả lỏng, thả lỏng ra”, dụ dỗ tâm trạng đang thả lỏng tiếp tục thả lỏng thêm nữa. Kindaichi đành tạm để cho thân thể tiếp nhận lời mời gọi ấy, châm thêm một điếu thuốc, lờ đờ chống má, cặp mắt mơ màng liếc về phía tấm bình phong ba cánh.
Hai hôm trước, sư thầy nói về đêm trời sẽ lạnh hơn nên đã ân cần đem tấm bình phong này tới. Tinh xảo đẹp đẽ như bình phong bày sau dàn búp bê trong Lễ hội Búp bê, bề mặt dán một bức tranh chữ in từ bản khắc gỗ, nét chữ rồng bay phượng múa, chép một bài renga1, tức là thơ nối câu, viết
tháo vô cùng, Kindaichi chỉ đọc được lõm bõm vài chữ. Mặt sau dán ba bức tranh chân dung theo lối “một nét2” trên giấy dày, phải hai bức, trái một bức. Hai bức bên phải đều vẽ một người quấn khăn ống, mình vận áo chéo vạt của tăng lữ, trán có ba nếp nhăn, rõ ràng đã cao tuổi, mỗi tranh một dáng vẻ khác nhau. Bên trái lại họa một kẻ rất lôi thôi lếch thếch, đầu trần trọc lốc, cũng mặt áo chéo vạt nhưng lại phanh ngực áo phơi bụng ra, nghênh ngang ngồi khoanh chân, để lộ cẳng chân lông lá. Phía trên hình vẽ các nhân vật đều viết mấy bài haiku, nhưng nét chữ cũng tháo chẳng kém, còn khó hiểu hơn cả bài thơ ở mặt trước. Đã khó đọc như thế thì cũng chẳng cần cố làm gì, nhưng Kidaichi trong lúc mơ màng lại thấy nóng ruột lạ thường, bèn quyết định căng mắt ra đọc.
1. Liên ca. Thể thơ dài do nhiều người cùng sáng tác, ba câu đầu của một bài renga gọi là hokku (phát cú), về sau phát triển thành một thể thơ riêng gọi là haiku (bài cú).
2. Ippitsugaki. Kĩ thuật thư họa một nét của Nhật Bản, vẽ cả bức tranh bằng một nét bút, không nhấc bút lên trong khi vẽ.
Trước tiên là bài haiku phía trên bức tranh bên phải. Bảy chữ giữa, năm chữ đầu và năm chữ cuối dường như đều viết bằng chữ Hiragana1, song cũng khó mà nhận ra là chữ gì. Kindaichi luân phiên nhìn chòng chọc vào các chữ ở đoạn trước và đoạn sau, nhưng nét chữ của nhà thơ haiku này chẳng khác gì vết giun bò ngoằn ngoèo trên mặt bùn nhão sau cơn mưa tháng Năm, không sao nhìn ra được, anh đành bỏ qua, lại liếc nhìn sang tên tác giả. Lạ lùng là, dường như bài thơ có hai tác giả. Kindaichi ngạc nhiên nhìn kĩ, thấy dưới một cái tên có ghi chữ “chép” mới vỡ lẽ, hóa ra các bài haiku trên giấy dày không phải thủ bút của nhà thơ, mà là chép lại tác phầm của một vị sư nào đó. Đọc kĩ lần nữa, anh nhận ra tên người này cũng xuất hiện trên hai bức tranh kia, bên dưới đều ghi “chép”. Có nghĩa là. Có nghĩa là, ba bức giấy dày đều do một người chép lại. Tiếp đó Kindaichi căng mắt nhìn những chữ có phần dễ nhận hơn, cuối cùng cũng đọc được hai chữ “Cực Môn”.
1.Bộ chữ mềm của Nhật, dễ đọc nhất. Ngoài ra còn bộ chữ Hán (Kanji) và bộ chữ cứng (Katakana). “Ra thế.”
Anh hài lòng thở hắt ra. Cái tên “Cực Môn” rõ ràng được đặt dựa theo tên đảo Ngục Môn, xem ra tác giả ba bức giấy dày cũng ở trên đảo. Suy luận từ nãy đến giờ còn đơn giản, nhưng nếu chỉ đến đây thì chẳng có nghĩa gì cả, bởi vậy Kindaichi lại phải căng mắt ra đọc tên tác giả bài thơ. Cái tên này được ghép từ ba chữ Hiragana, nhìn kĩ lại mới thấy trên hai bức tranh màu bên phải cũng là những chữ tương tự. Nhân vật khoác áo thầy thuốc, đầu quấn khăn ống trong hai bức họa hẳn là một người, vậy tên ông ta là… Vắt óc nghĩ mãi, Kindaichi rốt cuộc cũng nhận ra.
“Gì cơ, hóa ra là Basho à.”
Giọng điệu anh hơi xẫc xược, có phần không phải với cụ Basho dưới suối vàng. Anh ngán ngẩm không phải vì xem thường vị thiền sư vẫn được các nhà thơ haiku coi như thần thánh ấy, mà bởi sau khi vắt hết óc căng mắt ra nhận mặt chữ, anh lại nhận được một cái tên quen thuộc.
Nếu những bài thơ này là trước tác của Basho, may ra có thể lần mò đọc tiếp. Kindaichi một lần nữa mò mẫm từ năm chữ Hiragana ở đoạn trên và năm chữ Hiragana đoạn dưới, tập trung tinh thần vừa nhìn vừa đoán một hồi, rốt cuộc cũng đọc ra được.
Bi thương làm sao
Dưới chiếc mũ trụ
Xạc xào ý thu.
Anh thở phào, như trút được tảng đá đè nặng trong lòng. Lần mò đọc được một bức, đến bức sau lại đơn giản không ngờ.
Quán đêm sâu
Các du nữ1 ngủ
Trăng và bông lau
Hai bài này đều nằm trong tập Lối lên miền Oku2 của Basho, Kindaichi từng học trong sách giáo khoa trung học. Nếu đã đọc ra được bài thơ trong hai bức bên phải, vậy bức còn lại thì sao? Nhân vật trong bức tranh này thoạt nhìn đã biết không phải Basho, bởi bộ dạng không nhếch nhác như vậy. Tên tác giả cũng không có vẻ là Basho. Song nếu bên phải đã là thơ Basho thì bên trái cũng phải là một tên tuổi ngang tầm. Chẳng ai lại đi lấy bài thơ ba xu của một nhà thơ tép riu đặt ngang hàng với thiền sư Basho lừng danh cả. Kindaichi bèn lần lượt lấy tên các nhà thơ bậc thầy mà mình nhớ được lắp vào thử. Cuối cùng anh cũng nhận ra hai chữ “Kikaku3”
1. Những cô gái biểu diễn ca múa để kiếm sống, về sau thường dùng từ này để chỉ gái điếm 2. Được coi là kiệt tác trong văn học Nhật Bản, tập sách này là những bài haiku xen lẫn tản văn, được viết trên đường Basho du hành lên phương Bắc.
3. Takarai Kikaku (1661-1707), nhà thơ haiku lừng danh thời Edo, đứng đầu trong mười môn đệ của Basho. Mê rượu, phóng túng, phong cách thơ hoa lệ.
“Ái chà, hóa ra là Kikaku. Lạ thật, sao phải viết thể chữ rối rắm khó đọc thế nhỉ.”
Kindaichi bực bội than thở, sở dĩ anh biết Kikaku là vì nhớ chuyện ông ta từng bị một phen bẽ mặt khi luận thiền cùng Otaka Gengo, song anh không biết nhiều về trước tác của ông, nên không chắc có đọc được bài thơ bên trên hay không.
“Hừm, năm xưa ông ta đã viết bài haiku thế nào nhỉ? À phải, là Năm tận tuổi tàn, đời như nước, miên man chảy siết? Hình như không giống.” Kindaichi gắng lục trí nhớ, cuối cùng cũng nhớ được lõm bõm hai ba bài haiku của Kikaku.
Trăng vằng vặc, xa xa xào xạc, bóng thông. Đồng hoang lạnh lẽo, sao sa, lạnh buốt lòng ta… Hừm, không đúng không đúng, đều không phải câu trên bình phong. Rốt cuộc là gì đây nhỉ?
Cố gắng lắm anh mới nhìn ra mấy trợ từ và than từ bằng chữ Hiragana, còn lại thì có phải Kanji hay không cũng chẳng biết. Đoạn trên bài haiku này có thể là một chữ Kanji bốn âm tiết đi kèm một Hiragana, thế nên chữ Kanji nọ có lẽ là…
Còn đang ngẫm nghĩ thì…
“Cậu Kindaichi! Cậu Kindaichi!”
Tiếng gọi từ phòng chú tiểu vọng lại, cắt đứt mạch suy tư của anh “Cậu Kindaichi! Cậu Kindaichi! Chưa dậy à?”
Cảnh sát Shimizu. Kindaichi tức thì bật dậy, vừa nghĩ tới Shimizu, đầu óc anh lập tức bị kéo về hiện thực.
“Đợi nhé, tôi ra ngay.”
Vừa định thần, anh cũng nhận ra tiếng kinh sớm vẫn đều đều, nhưng đã gần kết thúc, tiếng khánh ngân nga vẳng đến từng hồi, chấn động cả bầu không lạnh lẽo. Kindaichi hối hả thay áo, nhét chăn màn vào tủ âm tường, mở cửa sổ chắn mưa ra, thấy sương mù dày đặc, anh kinh ngạc hắt hơi liền ba cái.
Anh đi chân trần xuống nhà bếp lạnh ngắt, Shimizu cười với anh, để lộ hàm răng trắng bóng sau bô râu rậm rì. Nhưng theo sau nụ cười là một tiếng tằng hắng khô khốc, Shimizu lấy lại vẻ mặt nghiêm nghị. “Thật ngại quá, đêm qua tôi ngủ muộn.”
“Có gì đâu, cậu vất vả quá, đêm qua đúng là mệt chết đi được.” Hai mắt Shimizu thâm quầng, hình như cũng thiếu ngủ.
“Đúng thế, trời mưa chẳng đúng lúc chút nào… Anh vừa về à?” “Vâng, vừa về tới nơi. Các vị ở đây xảy ra chuyện, bên kia tôi cũng gặp rắc rối to. Cứ như phim vậy!”
“Xảy ra chuyện gì thế?”
“Chuyện gì à? Đuổi bắt cướp biển chứ gì nữa! Pằng! Pằng! Pằng! Còn đọ súng cơ đấy! Ở đây không nghe thấy à?”
“Không hề, đấu súng ở vùng biển gần đây à?”
“Ừm, ở đảo Manabe, gây cấn lắm, kẻ địch hình như có bảy, tám tên, rặt một bọn liều mạng, bị dồn vào chân tường bèn nổ súng, chúng tôi cũng chẳng chịu lép, đôi bên đọ súng dữ dội. Quy mô còn lớn hơn cả trận Yashima và Dan no Ura trong cuộc chiến Genpei1 ấy chứ!” Shimizu huênh hoang kể.
1. Trận đánh kết thúc Loạn Jisho-Juei (hay Chiến tranh Genpei, tên đặt bằng cách ghép hai họ đối thủ), kéo dài từ 1180 đến 1185. Đây là cuôc chiến tranh đỉnh cao và có tính quyết định cho xung đột kéo dài nhiều thập kỉ nhằm giành quyền áp đảo triều chính và thống trị nước Nhât giữa hai gia tộc Genji và Heike.
Kindaichi phì cười, “Vất vả quá nhỉ! Các anh bắt được chúng không?”
“Chúng chuồn mất rồi! Đám đó bắn hỏng thiết bị phát xạ của chúng tôi rồi thừa cơ chạy thẳng. Tàu của chúng có mười lăm tấn mà chạy nhanh lắm.”
“Đúng là xui xẻo. Phe ta chỉ có mỗi anh thôi à?”
“Dĩ nhiên không rồi. Sở cảnh sát điều hẳn tàu lớn, cử nhiều người đi lắm. Nghe tin báo chúng cho nổ nhà kho trên đảo, đánh cắp hàng dệt và tạp hóa nên chúng tôi mới giăng mẻ lưới to để dụ. À phải, tôi gặp cả người quen cậu đấy.”
“Người quen của tôi à?” Kindaichi ngạc nhiên hỏi lại. Nghe giọng điệu Shimizu cứ như trong đám cướp biển có người quen của anh vậy.
Shimizu đanh mặt lại, nhìn xoáy vào Kindaichi bằng ánh mắt nghi ngờ rồi hắng giọng, đổi chủ đề, “Cậu với tôi hợp tính nhau, quý lắm mới khuyên cậu câu này, nếu đã làm chuyện gì trái với lương tâm thì tốt nhất hãy chuồn cho mau!”
“Anh, anh, anh nói gì vậy?” Thái độ ân cần đột ngột của Shimizu làm Kindaichi sợ đến líu cả lưỡi. “Tôi làm chuyện, chuyện trái với lương tâm hả? Ai, ai nói vậy?”
“Một người quen của cậu. Ông ta hỏi tôi đảo Ngục Môn có việc gì bất thường không? Tôi đáp, có lẽ xảy ra chuyện, rồi lại kể rằng có một kẻ không rõ lai lịch tìm đến, tên Kindaichi. Không, à, là vì…”
“Không sao, anh có gọi tôi là kẻ không rõ lại lịch cũng không sao. Người kia bảo thế nào?”
“Ông ta giật bắn hỏi, ‘Gì cơ? Kindaichi ra đảo à?’ Đoạn hỏi, ‘Kẻ đó trông thế này thế này phải không?’Ông ta miêu tả cậu không sai mảy may. Tôi bèn đáp, ‘Đúng thế.’ Người nọ càng kinh hãi hơn, ‘Vậy là gay rồi, tên đó không đời nào mò đến hòn đảo chó ăn đá gà ăn sỏi như thế vì mấy chuyện vặt vãnh, nhất định phải có án mạng ra trò. Cậu cẩn thận đấy, theo dõi hắn sát sao vào! Để tôi xem, nếu rảnh rỗi tôi cũng sẽ ra một chuyến…”
Kindaichi càng nghe càng kinh ngạc, ngơ ngác nhìn chằm chằm vào Shimizu, “Người, người đó rốt cuộc là ai vậy?”
Shimizu nghiêm mặt, hắng giọng, nhìn như đóng đinh vào Kindaichi, “Là một chỉ huy có thâm niên điều tra phá án ở Okayama, họ Isokawa, vừa giỏi giang vừa giàu kinh nghiệm.”
Kindaichi gãi đầu sồn sột, vẻ vô cùng hào hứng. Gãi mải miết, gãi hăng say, đến nỗi gàu bay lả tả, khiến Shimizu phải lúng túng lùi lại mậy bước, “Cậu quen chỉ huy Isokawa ư?”
“Đương nhiên vẫn khỏe. Có nhiều cảnh sát bị cách chức, nhưng ông ta còn hên chán.”
“Vậy, vậy, vậy ông ta có thể sẽ tới đây à?”
“Kindaichi,” Shimizu càng thêm nghi ngờ, nheo mắt hỏi. “Sao thế, cậu khóc đấy à?”
“Đâu có, ha ha ha!” Kindaichi vội giơ tay dụi dụi mắt. Quý vị độc giả nếu đã đọc Cung đàn báo oán, hẳn sẽ hiểu và đồng cảm với anh. Lúc anh mới ra nghề, gặp phải một vụ giết người trong phòng kín quái dị ở vùng nông thôn tỉnh Okayama, cùng phá án với anh chính là chỉ huy Isokawa. Không, nếu chỉ có thế, Kindaichi cũng chẳng cần phải khóc. Vấn đề ở chỗ từ đó đến nay
đã cách cả một trận thế chiến, bao nhiêu đàn ông con trai bị gọi nhập ngũ và điều đến những nơi rừng thiên nước độc, số trở về được lại nhận ra nhà mình bị đốt trụi, gia đình ly tán không rõ sống chết. Tạm dừng chân ở hòn đảo nhỏ hẻo lánh này, Kindaichi cũng đã dần quen với nhịp sống nơi đây, nhưng vẫn buồn rầu khó khuây khỏa, thình lình nhận được tin về người quen cũ, anh không khỏi xúc động đến phát khóc.
Shimizu săm soi nét mặt Kindaichi, thăm dò, “Cậu có thể bỏ trốn mà!” “Khỏi, khỏi cần, lưới trời lồng lộng, thưa mà khó lọt, trốn đâu cho thoát, ha ha ha!” Kindaichi phá lên cười ha hả.
Shimizu nghi hoặc thở dài, “Sáng nay nghe Takezo thuật lại đầu đuôi câu chuyện đêm qua, tôi đã nghĩ ngay đến việc bắt trói cậu lại. Bởi theo lời chỉ huy Isokawa, có lẽ cậu đã từng ăn cơm ở đồn, hơn nữa nghe giọng điệu thì… nhất định là hạng tội phạm cộm cán…”
Kindaichi nín cười đáp, “Phải, phải, anh nói đúng cả. như anh vẫn chưa bắt trói tôi, đủ thấy anh đã đổi ý rồi.”
“Phải, tôi nghĩ đi nghĩ lại vẫn còn mắc mớ một chuyện, nếu tình thế đảo ngược, tôi sẽ bắt trói cậu ngay lập tức.”
“Ồ? Tình thế đảo ngược là sao?” Kindaichi ngạc nhiên, viên cảnh sát ôn hòa này đang toan tính gì vậy.
Shimizu chớp mắt khó xử, “Cậu là đồng đội của cậu Chima, nhận lời ủy thác của cậu ấy nên mới đến đây phải không?”
“Đúng thế.”
“Tôi nghĩ mãi không hiểu được điểm này đấy. Nếu tình thế đảo ngược, cậu là đồng đội của cậu Hitoshi, nhận lời ủy thác của cậu ấy mà tìm đến đây thì hoàn toàn phù hợp với suy luận của tôi, tôi sẽ bắt trói cậu ngay.”
Kindaichi kinh ngạc nhìn chằm chằm như muốn xuyên thấu Shimizu, “Tại sao vậy? Tại sao nếu tôi là đồng đội của Hitoshi thì anh lại bắt trói tôi? “Cậu không hiểu à? Cậu Chima chi chính đã chết, giấy báo tử cũng đã gửi đến, nên không thể sai được. Song chi chính vẫn chưa thể về tay cậu
Hitoshi vì còn ba cô tiểu thư kia, nếu không lần lượt giết từng cô…” Kindaichi chợt thấy lạnh toát sống lưng, nhìn trừng trừng vào gương mặt râu ria của Shimizu như muốn lao đến cấu xé. Một lúc sau, anh nói bằng giọng khàn khàn, xem chừng phải cố gắng lắm mới nén nổi cơn giận, “Tôi hiểu rồi, ý anh là nếu tôi là đồng đội của Hitoshi, nhận lời ủy thác của cậu ta mà đến đây, thì đáng nghi, bởi có khả năng cậu ta thuê tôi tới giết họ, phải không?”
“Đúng, đúng, giả thiết của tôi chính là như vậy. Có điều cậu lại là…” “Không, đợi đã, giả thiết của anh có hai điều tôi chưa hiểu. Một là Hitoshi ở Myanmar không thể biết tin Chima ở New Guinea đã chết được, hai là kẻ thuê sát thủ cũng là đồng phạm, nên vẫn nguy hiểm chẳng kém, chi bằng cậu ta trở về rồi tự mình ra tay có phải an toàn hơn không?” “Tôi không nghĩ vậy, trái lại, tôi cho rằng thuê sát thủ an toàn hơn. Nghĩ mà xem, nếu Hitoshi trở về rồi lần lượt giết ba cô tiểu thư, nhất định sẽ trở thành kẻ bị tình nghi hàng đầu. Nhưng nếu cậu ta vẫn còn ở Myanmar thì sao? Chẳng ai nghi ngờ cậu ta cả, hơn nữa, giả sử cậu là sát thủ được cậu ta thuê, thì cũng chẳng ai nghi ngờ cậu cả, vì cậu không có quan hệ máu mủ gì với nhà Kito…”
“Nhưng, nhưng như tôi vừa nói đấy, Hitoshi ở Myanmar không thể hay tin báo tử của Chima ở New Guinea được…”
“Bởi thế cậu ta mới chơi liều một phen. Cậu ta biết Chima đã bị gọi nhập ngũ, bèn nghĩ rằng, trận chiến này quy mô lớn như vậy, không chừng Chima đã tử trận ở đâu đó rồi. Bèn nhờ một đồng đội về quê trước, nếu Chima còn sống thì thôi, nhưng nếu đã qua đời, tên đồng đội ấy sẽ giết cả ba cô tiểu thư trước khi cậu ta về tới…không, nói không chừng còn nhờ sát thủ giết luôn cả cậu Chima nếu cậu ấy sống sót trở về ấy chứ…”
Những suy đoán đáng sợ ùn ùn tuôn ra từ miệng một người tử tế như Shimizu, nghe mà sởn cả tóc gáy. Kindaichi nghiến răng hít một hơi thật sâu, thẫn thờ hồi lâu mới đưa mắt nhìn Shimizu, “Tiếc rằng gỉả thiết của anh vẫn không đúng. Suy cho cùng tôi không phải bạn Hitoshi mà là bạn Chima, điều này anh công nhận chứ hả?”
Shimizu thở hắt ra, nhún vai đáp, “Ừ, thật ra tôi vừa tiện đường ghé qua chỗ chi chính hỏi thăm cô Sanae. Bởi tôi nghi ngờ không biết thư giới thiệu cậu đưa tới có thực sự là bút tích của cậu Chima hay không. Cô Sanae và bà Katsu đều đoan chắc như đinh đóng cột, nên tôi mới không bắt trói cậu đấy.”
“Cám ơn anh quá. Mà sao anh lại nghĩ ra giả thiết kinh khủng thế? Lẽ nào cậu Hitoshi có thể sắp đặt mưu đồ đáng sợ đến thế sao?” “Tôi không biết được, tôi cũng chẳng hiểu sao mình lại nảy ra giả thiết ghê gớm ấy nữa? Chắc là tại hòn đảo Ngục Môn khiến người ta rợn cả gáy này đấy. Như tôi đã kể, dân đảo ai ai cũng thâm sâu khó dò, bên trong lớp giáp cứng như vỏ ốc là lối suy nghĩ kì quái, khác hẳn những người Nhật trên đất liền.Thêm vào đó, sau chiến tranh, tinh thần mọi người ít nhiều đều
có phần sa sút, bằng không tôi cũng không nghĩ ra được giả thiết khủng khiếp nhường ấy đâu.”
Nói đoạn, Shimizu rầu rầu vuốt tóc, rồi lắc đầu quầy quậy. Giả thiết của Shimizu rõ ràng không đúng. Bởi kẻ bị tình nghi là Kindaichi còn chưa biết mặt mũi Hitoshi thế nào, đây là chứng cứ quan trọng nhất. Nhưng nói đi cũng phải nói lại, không thể coi giả thiết của Shimizu là suy đoán vớ vẩn vô căn cứ mà bỏ qua được, không chừng đó lại chính là sự thật khủng khiếp thì sao!
Bên tai Kindaichi lại văng vẳng lời trăn trối vừa ầm ầm như thủy triều lại vừa ì ùng như sấm xa, từng tiếng từng tiếng đập vào màng nhĩ khiến người ta rợn gáy, “Nhờ anh… đến đảo Ngục Môn… một chuyến… ba đứa em tôi… ôi… em họ tôi… em họ…”
“Ái chà, anh Shimizu vất vả quá.”
Kindaichi giật mình quay lại, thấy thầy trò nhà sư tụng xong khóa kinh sớm đang từ chính điện đi về phía này. Mắt cả hai đều thâm quầng, hẳn là vì thiếu ngủ.
“Ryotaku, con mau đi chuẩn bị bữa sáng đi. Cậu Kindaichi đói chưa?”
Nói đoạn, sư thầy lại quay sang Shimizu, “Không may xảy ra chuyện thế này, mọi việc đành trông cậy vào anh. Thi thể đang đặt ở chính điện, anh có muốn đi xem ngay không? Thế ư? Vậy chúng tôi sẽ cố ăn thật nhanh, xin anh đợi cho một lát nhé…”
Rồi sư thầy quay qua Kindaichi, “Cậu nói sáng ra phải đi kiểm tra dấu giày ư? Cậu kiểm tra rồi à” Ồ, ngủ nướng đến giờ mới dậy sao? Ha, ha! Cũng phải, ai gặp cảnh ấy đều thao thức khó ngủ cả đêm thôi, náo loạn như vậy, lại còn mưa to…Trong núi sâu, suốt đêm thâu, nghe mưa rầu rầu… cảnh này thật hợp với bài haiku Sora1 viết khi nghỉ lại một ngôi chùa trên đường hành khất! Sora không phải nhà thơ ưu tú cho lắm, nhưng bài thơ này lại diễn tả rất tinh tế tâm tình.”
1.(1649-1710), nhà thơ haiku trứ danh thời Edo, một trong mười môn đồ của Basho, được Basho coi trọng.
Sư thầy trích dẫn haiku theo thói quen, dứt lời lại điểm điệu cười khà khà bằng giọng khàn đặc vì thiếu ngủ.
Như đã kể, dân đảo ai nấy đều thành tín. Kindaichi đến chùa hôm trước, hôm sau đã bị khua dậy vì tiếng chân thiện nam tín nữ đến dâng hương từ sáng tinh mơ, tiếng rì rầm cầu khấn và tiếng kéo chuông miệng cá sấu2 boong boong. Anh còn ngỡ ngàng tưởng là lễ tết gì đó, về sau quan sát mới biết ngày nào cũng vậy. Trước đây ra biển đánh cá hoặc làm việc, nếu không ghé qua chùa bái Phật, dân đảo sẽ bồn chồn cả ngày. Đây không còn là tín ngưỡng nữa, mà đã trở thành thông lệ mỗi ngày như đánh rang rửa mặt vậy.
2. Chuông kim loại treo trong chùa hoặc miếu, thường có dạng như miệng cá sấu.
Nhưng xem ra sáng nay Shimizu đã dàn xếp đâu vào đấy, bởi không thấy ai đi vào cổng chùa cả, ngoài mảnh sân mù mịt sương cũng vắng bóng người, thế nên Kidaichi mới vô tình dậy muộn, may mà tình trạng hiện trường vẫn chưa bị phá hỏng.
“Ta dùng bữa sáng đã nhỉ, cậu Kindaichi? Tối qua thức khuya như thế, chắc cậu cũng đói lắm rồi?”
“Vâng, cảm ơn thầy.”
Bữa sáng trong chùa đơn giản, chỉ có cơm với canh miso, thêm vài miếng củ cải muối. Shimizu ngại cởi giày, chỉ ngồi trong bếp uống trà chú tiểu pha, chợt sực nhớ ra chuyện gì, bèn nói, “À quên, hồi nãy nghe Takezo kể, kẻ trộm đêm qua đã ăn sạch cơm trong thùng ạ?”
“Đúng thế, ăn sạch không còn một hạt.”
“Ban đầu còn bao nhiêu cơm?
“Còn đủ cho ba người ăn. Tại tối qua tôi quên bẵng việc chi chính mời khách, sơ ý đong gạo bằng mọi ngày.”
“Hả? Ăn hết cả chỗ ấy à? Đúng là ăn như rồng cuốn! Giết người xong hóa ra lại đói cồn cào thế ư?”
Nghe câu hỏi ngây ngô của Shimizu, Kindaichi phì cười, suýt nữa thì sặc nước trà, vội đặt ngay chén xuống. “Tôi no rồi, đi quan sát dấu giày tên trộm tham ăn kia đã.” Nói đoạn hăm hở đi thẳng.
Như đã kể lúc trước, cửa hậu nhà bếp mở ra vách núi cao ngất, bình thường nền đất ẩm ướt, nhưng nhờ hiên rộng nên dù mưa xối xả như đêm qua, dấu giày vẫn còn nguyên vẹn.
“Ồ, là dấu giày lính này à? Biết vậy lúc ra vào tôi đã cẩn thận hơn. Hóa ra đi vào xong lại đi
rồi.” Tối qua, Kindaichi và hai thầy trò nhà sư đi ra đi vào đã giẫm mờ cả dấu giày ban đầu, sáng nay lại lẫn thêm dấu chân Shimizu, không nhìn rõ nữa, chỉ còn đường nét lờ mờ.
“Anh Shimizu, trên đảo có ai đi giày lính không?”
“Có, nhiều lắm. Gần đây nhiều người hồi hương, chưa kể dạo trước giày lính còn bán phân phối. Ấy, đợi đã nào, cậu Kindaichi!” Shimizu đang khom người quan sát dấu giày đột nhiên gọi giật, “Cậu xem, trên dấu giày này có vết mờ như hình con dơi, là nền đất có sẵn hay đế giày in xuống nhỉ?”
“Ừm, đây là dấu giày chân phải đúng không? Đợi đã... Kindaichi cũng cúi xuống dò tìm giữa những vết chân lộn xộn. “Anh xem, hoa văn
dưới đế giày đấy, đằng này cũng có, đằng kia cũng có...”
Quả nhiên, những chỗ Kindaichi chỉ đều là dấu chân phải, tuy nông sâu khác nhau nhưng mũi chân nào cũng có vết như hình con dơi. “Hừm, vậy là đế chiếc giày hung thủ đi bên chân phải vốn có vết này. Không, nói đúng hơn, kẻ đi loại giày này chính là hung thủ! Đây là chứng cứ thuyết phục nhất.”
Shimizu đắc ý ra mặt vì phát hiện của mình, nhưng chỉ tích tắc sau, Kindaichi đột nhiên bật dậy như lò xo, đến nỗi viên cảnh sát phải giật mình nhìn anh chằm chằm, “Sao thế?”
Kindaichi cứ trợn trừng nhìn vào một điểm giữa khoảng không, như không nghe thấy câu hỏi. Shimizu bán tính bán nghi, lại gọi, “Cậu Kindaichi! Cậu Kindaichi! Cậu sao vậy? Lẽ nào cậu biết gã đàn ông đi loại giày này sao?”
“Tôi ư?”
Kindaichi ngỡ ngàng ngoái lại, chạm phải ánh mắt nghi ngờ của Shimizu, vội lắc đầu, “Không, không phải thế. Làm, làm gì có chuyện đó!” “Nhưng vừa rồi thoạt trông thấy dấu giầy kia, hình như cậu giật thót mình.”
“Đâu có, tôi giật mình là bởi… thôi, để sau sẽ kể với anh. Chúng ta ra ngoài xem xét trước đã nhé?”
Shimizu càng bán tính bán nghi. Kindaichi thì chột dạ rảo bước ra ngoài, như muốn trốn tránh. Có nằm mơ Kindaichi cũng không tưởng tượng nổi hậu quả nghiêm trọng khi để mặc Shimizu ôm đầy một bụng nghi ngờ, nếu biết trước, nhất định anh đã kể nga với Shimizu sự thật mình vừa phát hiện.
Vừa rồi, khi xem xét dấu chân phải, Kindaichi nhận thấy dấu giày đi vào nhiều hơn hẳn dấu giày đi ra, thậm chí có những dấu giày đi vào giẫm đè lên cả dấu giày đi ra. Điều này có nghĩa gì?
Dấu giày từ ngoài vào rồi từ trong ra, nếu chỉ như vậy còn đỡ, nhưng vết tích cho thấy kẻ đột nhập còn quay lại lần nữa. Sau khi quay lại, kẻ đó đi đâu? Không có dấu giầy quay ra lần thứ hai, tức là hắn đã lẻn vào bếp. Vậy thì… Nghĩ tới đây, Kindaichi thốt nhiên nhớ ra phản ứng kì quái của sư thầy bên cội mai đêm qua. Ông ta quay mặt về phía trai phòng, thình lình đánh rơi pháp khí xuống đất, như vừa giật nảy mình. Lúc cúi xuống nhặt, đầu ngón tay cũng run bần bật. Lẽ nào bấy giờ ông ta đã phát hiện trong trai phòng có người, tức là hung thủ?
Càng suy xét kĩ, Kindaichi lại càng nghi ngờ loạt hành động tiếp theo của sư thầy. Bởi ngay sau đó, ông ta đã hối hả giục anh và chú tiểu cùng đi ra sau nhà bếp. Đó là góc chết với trai phòng, chẳng phải là để cho kẻ đang nấp bên trong thừa cơ hội trốn thoát hay sao? Thậm chí… Khi Kindaichi xem xét xong dấu chân trên nền đất và quay lại chính điện, tuy chỉ thấy mình sư thầy, nhưng ai biết được trước đó ông ta có chạy tới trai phòng cài lại cánh cửa hung thủ vừa mở để chuồn ra hay không. Sắp xếp đâu vào đấy xong, ông ta dẫn Kindaichi và chú tiểu tới xem xét để chứng tỏ trai phòng không có gì bất thường cả. Lẽ nào lại thế?
Phải rồi, sư thầy đã tính toán trước, ông ta biết ai là hung thủ. Từ những lời lẩm bẩm về kẻ điên cho đến những suy đoán trên đây, tất cả có thể khẳng định nhà sư biết hung thủ là ai. Không, không chỉ biết, ông ta còn cố ý giúp hung thủ chạy thoát…
Cân nhắc một hồi, Kindaichi lại vọng về sân trước xem xét kĩ. Nhưng đúng như anh dự liệu, dấu giày đã bị quét sạch. Chùa Senko xây trên núi đá hoa cương, ban ngày nắng chiếu, sân đất cứng đanh lại như đá mài, đến đêm mưa đổ thì nhão nhoét ra. Kindaichi chú ý xem xét quanh trai phòng, nhưng không tìm được dấu giày nào cả, dù là mờ mờ. Cũng hợp lí thôi, chính điện và trai phòng không có dấu giày dính bùn, ắt hẳn hung thủ đã cởi giày rồi mới bước lên, nên khi chạy từ trai phòng ra, hắn đang đi chân trần. Vậy thì dù trời chẳng đổ mưa cũng không để lại dấu giày. Có điều bên cạnh hòm công đức ở chính điện, nơi phát hiện ra mấy đầu thuốc vương vãi tối qua, còn có năm sáu dấu giày dính bùn đã khô, dấu giày chân phải đều có vết hình con dơi.
“Anh nhìn kìa, hung thủ đã nghỉ ở đây một lát. Còn nữa, chỗ này nhìn ra cổng chùa đúng không nào? Tuy không thấy được thềm đá, nhưng có thể thấy được con đường mòn dưới thềm, ngồi trên cầu thang ở đây sẽ thấy được người từ dưới đi lên. Hẳn hung thủ đã ngồi đây vừa nhìn xuống dưới vừa hút thuốc.”
“Thuốc ư? Sao cậu biết hắn hút thuốc?”
“Hắn vứt đầu thuốc ở đây còn gì. A phải, anh chưa biết việc này.” “Vứt đầu thuốc à…? Đầu thuốc đâu?”
“Tôi nhặt cất đi rồi. Là trụ trì phát hiện ra đấy.”
“Cậu Kindaichi…” Shimizu ngẩng đầu ưỡn ngực, đầy vẻ nghiêm nghị. Dường như không quết định được phải biểu lộ tâm trạng ra sao, cuối cùng Shimizu đành đanh mặt nói, “Suy đến cùng các người coi tôi là gì
đây? Dù thế nào tôi cũng là cảnh sát phụ trách an ninh trên đảo! Vậy mà làm như tôi không tồn tại, tự ý hạ thi thể xuống, còn nhặt đầu thuốc cất đi, là sao? Xảy ra vụ án, còn là án mạng, quan trọng nhất là giữ nguyên hiện trường chẳng nhẽ kiến thức thông thường ấy cậu cũng không có ư? Hay cậu cố ý cản trở công tác điều tra của tôi?”
“Anh Shimizu đừng nói thế.”
“Cái gì mà đừng nói thế. Vậy giờ cậu đưa chỗ đầu thuốc ra đây. Không, cậu xếp lại nó vào đúng chỗ cũ đi!”
“Làm sao xếp được!” “Có gì không được! Đầu thuốc rơi ở đâu, rơi thế nào, biết đâu đều có ý nghĩa quan trọng. Nếu cậu không đặt lại chỗ cũ, tôi sẽ bắt cậu vì tội hủy hoại chứng cứ!”
“Sao, sao lại thế được? Tự dưng anh lại nói ra những lời lạnh lùng vô tình thế? Anh đừng cứng nhắc như vậy được không, trước giờ chúng ta vẫn thân thiết với nhau mà?”
“Thân thiết ở đâu? Tôi bạn bè gì với cậu hả? Đừng thấy người sang bắt quàng làm họ. Cậu lai lịch bất minh, trong khi tôi đường đường là cánh sát đảo, lại chẳng quen biết gì cậu!” Shimizu bừng bừng tức giận.
Kindaichi luống cuống đáp, “Vâng, vâng, anh nói phải… A, xin chào! Cô đến đúng lúc quá, đang định sang bên ấ thăm hỏi đây. Không, không phải tôi, anh Shimizu nói vậy mà. Đúng không, anh Shimizu?”
Phu nhân Shiho chi thứ đang đi từ cổng chùa vào, còn có Ukai theo sau. Kindaichi chẳng hiểu vì sao Shimizu đột nhiên quay ngoắt như vậy, nhưng để thoát khỏi sự dồn ép hùng hổ của Shimizu, anh bèn niềm nở chào hỏi phu nhân Shiho, ngờ đâu lại càng khiến Shimizu nghi ngờ.
“Hai anh đang tranh cãi à?” Hôm nay phu nhân Shiho trang điểm cầu kì. Cô ta thong thả vén sương sớm đi đến, đẹp như một đóa triêu nhan trắng muốt. Thêm vào dáng đi vô cùng tao nhã, toàn thân cô ta toát ra sức quyến rũ ma mi, tưởng chừng sắp phấp phới ba lên.
“Không không, đâu có. Chúng tôi có, có tranh cãi gì đâu.” Kindaichi lại bắt đầu lắp bắp, anh luống cuống gãi gãi đầu, như thể làm thế sẽ đỡ nói lắp vậy.
“Ồ, thế ư? Vậy thì tốt quá, anh Shimizu nhỉ.” Phu nhân Shiho liếc Kindaichi đầy quyến rũ rồi quay sang Shimizu, “Tôi nghe thấ vài tin đồn quái lạ nên tới đâ xem thử.”
“Tin đồn, đồn quái lạ gì, gì thế?”
Đứng trước phu nhân Shiho, Shimizu bỗng trở nên lúng túng, khác hẳn thái độ hùng hổ khi nãy, lắp bắp gằng nói cho hết câu rồi căng thẳng nuốt nước bọt.
“Tin đồn quái lạ là tin đồn quái lạ thôi. Tôi muốn hỏi mọi người cho rõ ràng nên dẫn cả anh Ukai theo. Anh Kindaichi, sư Ryozen đâu rồi?” “Tôi đâ.” Sư thầy từ phòng trụ trì vòng qua hành lang bên ngoài chính điện, chậm rãi đi đến. “Chào phu nhân Shiho. Ông Gihee thế nào? Bệnh thống phong đã đỡ chút nào chưa? Mời phu nhân sang đây ngồi. Ryotaku, con mau chuẩn bị đệm ngồi cho khách. Cậu này tên là gì nhỉ? A, phải phải, cậu Ukai. Cậu cũng qua đây ngồi đi, đừng ngại. Cậu tuấn tú thế này, mọi người yêu mến còn chưa xong, ai nỡ ăn thịt đâu mà. Ha ha ha! À, quên, phu nhân Shiho…”
Phu nhân Shiho bỗng như cấm khẩu, cứ tròn mắt ngạc nhiên nhìn chằm chằm vào nhà sư đang khoanh chân ngồi xuống. Nhà sư tiếp, “Vừa rồi tôi ở bên kia nghe thấy, hóa ra phu nhân đến hỏi tội à? Chẳng phải phu nhân nói muốn hỏi mọi người cho rõ ràng đấy ư? Ha ha ha! Không phải đến hỏi cho rõ ràng à? Hay phu nhân định tới nói gì với tôi? Có gì muốn nói phu nhân mau nói đi, à phải. Hanae bên kia cũng đang nghe đấy.”
Đoạn ông ta giơ ngón ta thô ráp trỏ vào chính điện. Ukai nghe vậy nhíu mày, rụt lại sau lưng phu nhân Shiho. Shiho hơi hoảng, nhưng mau chóng khôi phục vẻ bình thản, mặt lúc đỏ lúc tái, mắt sáng rực lên như đốt lửa bên trong. Cô ta cố kiềm chế cơn giận, bởi mất bình tĩnh lúc này là thua trắng, cô ta không cho phép bản thân cởi giáp đầu hàng trước bất cứ kẻ nào.
“Hì hì, thầy quá đáng thế.” Phu nhân Shiho ngồi lên tấm đệm chú tiểu kê, khẽ khàng cười bằng giọng ngọt lịm pha lẫn âm mũi, rõ ràng đã kiểm soát được cơn nóng nảy, “Thầy nói như thể tôi toàn đến kiếm chuyện ấy. Tôi là con gái nhà quê, không giỏi ăn nói, gặp chuyện bất ngờ lại càng không kiềm chế được, thầy đừng ức hiếp kẻ yếu chứ?”
“Phu nhân mà là kẻ yếu à? Phụ nữ cũng có…”
Người thiếu phụ đỏ mặt. Nhà sư lại tiếp, “Thôi, bỏ qua. Vừa rồi cô bào có lời đồn kì quái, là gì vậy?”
“À, là thế này. Đêm qua Hanae bị giết ở đây đúng không? Dân làng đồn ầm cả lên, nói tôi xui anh Ukai dụ cô ấ ra rồi cùng hợp sức giết chết. Làm gì có chuyện đó!”
“Lời đồn khó nghe thật. Nhưng người ta vẫn nói không có lửa làm sao có khói. Phải chăng phu nhân đã lầm lỡ chuyện gì rồi?”
“Ối chao ôi! Đến thầy còn nói thế, thật khiến tôi thất vọng quá.” “Không, không, tôi không bảo phu nhân giết Hanae, có điều thứ dẫn dụ Hanae ra là lá thư của ãcậu Ukai.”
“Thư của Ukai ư? Ukai, anh viết thư hẹn Hanae ra à?
“Tôi viết thư cho cô Hanae? Không, làm gì có chuyện đó.” Đôi mày thanh tú của Ukai nhíu lại. Đây là lần đầu tiên Kindaichi nghe thấy giọng gã, quả là người nào giọng nấy, thanh thoát đẹp đẽ, hơi run rẩy, gợi cảm giác mơ màng lãng đãng như nằm mộng.
“Anh Ukai bảo là không phải, nhất định các vị nhầm lẫn ở đâu rồi.” “Vâng, tôi có nhầm ở một điểm. Cậu Ukai không viết thư cho Hanae, mà cho Tsukiyo, chị cô ấy. Song chẳng hiểu vì sao bức thư lại rơi vào tay Hanae, cô ấy cũng không đưa cho chị mà chạy đến chùa đợi. Ryotaku, con đem bức thư tối qua ra đây. Cậu Ukai có nhớ thứ này không?” Phu nhân Shiho và Ukai nhìn nhau, rồi người thiếu phụ ưỡn ngực, “Hóa ra trên người Hanae mang phong thư này, thế thì tôi vẫn nhớ. Anh Ukai, không giấu được nữa đâu, phải nói ra thôi. Thư là tôi đọc cho anh ấy viết. Anh Ukai và cô Tsukiyo đã khăng khít như vợ chồng, song chẳng hiểu sao mọi người đều muốn chia rẽ họ, tôi thấy không đành lòng, mới giúp một tay. Ai nói gì cũng mặc, tôi định tác thành cho hai người họ đấy.” “Chuyện này tôi không có ý kiến, tùy phu nhân muốn làm sao thì làm. Nhưng tối qua cậu Ukai đã tới chùa phải không? Có người bắt gặp cậu đi trên đường mòn.”
Ukai thoáng do dự, nhưng thấy tia nhìn khích lệ của phu nhân Shiho, gã hơi nhích lại gần sư thầy, rồi vừa lấm lét tránh ánh mắt mọi người như sợ ánh sáng, vừa ấp úng đáp, “Vâng, đúng là tôi đã đến chùa. Thực tình tôi cũng sợ bị hiểu lầm nên hôm nay mới tới giải thích. Phong thư kia đúng là tôi viết, nghĩ rằng cô Tsukiyo sẽ tới chỗ hẹn nên mới ở đó đợi. Nhưng nửa tiếng rồi cả tiếng trôi qua, vẫn chưa thấy cô ấy tới, tôi đành thất vọng quay về.”
“A, ra thế. Vậy trong thời gian đó cậu có thấy Hanae không?” “Không hề, tôi nằm mơ cũng không ngờ Hanae lại tới đây.” “Cậu đến đây lúc mấy giờ?”
“Mấy giờ à? Thời gian chính xác tôi không nhớ lắm, song lúc tôi ra cửa…” Ukai quay sang Kindaichi, “Anh đây vừa rời khỏi chi thứ Kito. Sau đó anh gặp thầy trò trụ trì và anh Takezo từ chùa đi xuống ở cuối đường mòn dưới núi, tất cả cùng đi đến chi chính. Tôi đợi mọi người đi xa mới lên
chùa, cũng không rõ là đợi bao lâu, chỉ biết về tới nhà không lâu thì đồng hồ điểm chuông 8 giờ, nên có lẽ tôi đã đợi đến chừng 7 rưỡi.” “Hừm, nếu trong thời gian đó cậu ta không gặp Hanae, thì rốt cuộc cô ấy ở đâu?” Sư thầy xoa cằm nhìn mọi người.
Tất cả đều im lặng. Một lần nữa, phu nhân Shiho lại đỡ lời thay, “Dù thế nào, Ukai cũng không liên quan, anh ấy không có động cơ, càng không có gan giết Hanae.”
Nãy giờ Kindaichi vẫn thích thú đứng xem trụ trì và Shiho đấu khẩu, giờ mới cất lời, “Tôi muốn hỏi cậu Ukai một việc, trong lúc đợi cô Tsukiyo, cậu có hút thuốc không?”
“Thuốc ư? Không, tôi không biết hút.”
“Tối qua cậu mặc đồ Nhật hay đồ Tây?”
“Đồ Nhật. Tôi không có bộ đồ Tây nào ra hồn cả.”
“Nhưng vẫn có phải không nào? Giày cậu đi là giày lính à?” “Vâng, là giày lính.”
“Anh Shimizu này, để cho chắc chắn, lát nữa nên mời cậu Ukai đây cởi giày ra xem thì hơn, tuy nhiên tôi nghĩ có lẽ là không phải… Đúng rồi, còn một vấn đề nữa, bình thường gửi thư cho cô Tsukiyo cậu kí tên thế nào? Tại sao phong thư kia lại rơi vào ta cô Hanae?”
“Tại vì…” Ukai ngập ngừng, thấy ánh mắt khích lệ của phu nhân Shiho mới đỏ mặt đáp, “Chúng tôi, tôi và cô Tsukiyo, mỗi lúc gửi thư cho nhau đều nhét vào hốc câ Hoa trong bão.”
“Hoa trong bão ư?”
Mọi người không khỏi tròn mắt, Kindaichi vừa thích thú gãi đầu vừa trầm trồ, “Lãng mạn quá, nhưng có loài cây ấy thật sao?”
Ukai đỏ mặt, “Tôi cũng không rõ lắm, nghe nói cây đó là lăng tiêu, nhưng Tsukiyo cứ gọi là Hoa trong bão. Nó nằm trong khu rừng ở thung lũng bên dưới con đường mòn, hằng năm tới tháng Bảy lại nở hoa đỏ hồng rất đẹp. Tsukiyo nói nếu đính ước dưới gốc câ, nhất định sẽ được hạnh phúc.”
Khi cuốn tiểu thuyết Hoa trong bão của Kawaguchi Matsutaro1 được chuyển thể thành phim, khan giả nữ trên toàn nước Nhật đều khóc sưng cả mắt. Ca khúc “Hoa trong bão đợi lâu ắt đến” trở nên phổ biến toàn quốc, có rạp chiếu bóng, nhưng nghe nói lúc phim công chiếu ở Kasaoka còn sắp xếp cả ca nô phục vụ đi lại nên các cô gái trên đảo đều kéo nhau đi xem, ba chị
em nhà Kito là những người hâm mộ cuồng nhiệt nhất. Trong thời gian công chiếu, họ ở lì tại nhà bạn ở Kasaoka, ngày nào cũng xem, khóc lóc sướt mướt.
1 .(1899-1985), nhà văn, kịch tác gia nổi tiếng Nhật Bản, từng giành được giải Naoki. Tiểu thuyết Hoa trong bão (Aizen Katsura) của ông viết về mối tình lãng mạn giữa một bác sĩ và một y tá góa chồng đã có con.
“Ra thế,” Shimizu xúc động hỏi, “là vì đợi lâu ắt đến, đúng không nào? Nhưng tối qua Hoa trong bão mất linh nên anh đợi mãi không thấy cô Tsukiyo đâu. Dĩ nhiên cô ấy không đến, bởi thư đã bị cô Hanae lấy mất. Hanae biết bí mật giữa hai người phải không?”
“Đúng rồi, rõ ràng là thế. Trong ba chị em chi chính, Hanae ghê gớm nhất mà.” Phu nhân Shiho nói, “Vậy là đủ hiểu tại sao lá thư rơi vào tay Hanae rồi! A, trưởng làng kìa.”
Trưởng làng Araki từ cổng chùa đi vào, khóe miệng trễ xuống, có Takezo theo sau.
“Nhức đầu quá anh cảnh sát ơi! Điện thoại vẫn chưa thông.” Trưởng làng nhìn lướt qua mọi người rồi quay sang Shimizu.về ch “Điện thoại ư? Liên quan gì đến điện thoại?” Sư thầy hỏi. “Sáng nay nghe nói có án mạng, tôi nghĩ phải báo cáo ngay cho sở cảnh sát, nhưng đường dây trục trặc, nên phải nhờ trưởng làng Araki. Không gọi điện được phiền lắm, lại phải phái người đi báo hoặc nhờ tàu chuyển lời. Cả hai cách đều phiền phức. Ông trưởng làng, đường dây vẫn chưa sửa được à?”
“Nghe nói là trục trặc ở đoạn cáp dưới đáy biển, chưa sửa ngay được đâu. Nhưng thi thể để đây mãi không tiện.Tôi nghĩ hay là đưa về chi chính trước, nên đem cả ván cửa tới đây rồi. Thầy thấy sao?”
“Hiện trường tối qua mọi người đều mục kích rồi đấy, không sợ không có nhân chứng. Dĩ nhiên phải hỏi ý anh Shimizu, nhưng tôi cũng nghĩ đưa về chi chính thì hơn.”
Shimizu tuy khó xử, nhưng sau khi bàn bạc vẫn quyết định trả thi thể về cho gia đình.
Vậy là kẻ bị hại đầu tiên trên đảo Ngục Môn được đặt lên ván cửa khiêng xuống núi.
Tối hôm đó, nạn nhân thứ hai mất tích.
Bác thợ cạo Oshichi từng nói, “Tuy dân đảo là hậu duệ do con cháu cướp biển và tội phạm lưu đày sinh ra, nhưng tôi cảm thấy vẫn còn lác đác vài người mang huyết thống nhà Heike, ví dụ điển hình là phu nhân Shiho. Nhìn thế nào cũng thấy cô ta không giống người ở đây, nhất định là dòng máu hoàng tộc của nhà Heike sau mấy trăm năm đã anh hoa phát tiết trên mình cô ta. Cô Sanae cũng vậy, tuy giống dân đảo hơn phu nhân Shiho, nhưng phong thái chính chắn trước tuổi cùng tính tình cứng cỏi lại khác hẳn người thường.”
Quả vậy, khi thi thể Hanae được đưa về chi chính, thái độ của Sanae thật khiến người ta bội phục. Dĩ nhiên cô cũng tái mặt, đáy mắt ánh lên vẻ kinh hãi, nhưng chẳng hề luống cuống, trái lại vừa trách bà Katsu tuổi lớn mà tính chưa lớn, vẫn lập cập bàng hoàng, vừa vỗ về an ủi hai chị em Tsukiyo và Yukie chỉ biết khóc lóc, đồng thời chỉ huy Takezo lo liệu công việc. Trước tình cảnh ấy, Kindaichi không khỏi cảm thấy nhận xét của bác Oshichi không sai một chữ. Sanae giống hệt một chiến binh xem thường cái chết, việc đã đến nước này, cô đành dùng đôi tay mảnh khảnh của mình chèo chống tòa thành trơ trọi giữa hoàng hôn ấy mà thôi.
“Vậy…?”
Sau khi đưa thi thể vào gian thờ Phật, mọi người ngồi quây lại trong phòng khách. Sanae nhìn xoáy vào sư thầy gặng hỏi, ánh mắt rực lửa căm hờn. Sư Ryozen gượng gạo tằng hắng một tiếng, “Ừm… xảy ra chuyện bất trắc thế này, tôi cũng chẳng biết nói sao nữa.” Đoạn ông giơ bàn tay to bè lên xoa mặt.
Trưởng làng Araki nặng nề tiếp lời, “Xem ra lễ tang của cậu Chima phải hoãn lại rồi.”
Sanae quay ngay sang, nhìn chằm chằm vào trưởng làng, “Tang ma tạm hoãn cũng được, mấu chốt là kẻ nào gây ra hành động tàn nhẫn này? Kẻ nào? Rốt cuộc kẻ nào đã hãm hại Hanae?”
Cả phòng khách im phăng phắc, không ai trả lời nổi câu hỏi của cô. Kindaichi có cảm giác ai nấy đều ấp ủ âm mưu trong lòng. Cuối cùng bác sĩ Murase cất tiếng, chòm râu dê rung rung, “Nếu biết là ai thì đã tốt…” Đoạn ủ ê rũ đôi bờ vai gầy gò xuống.
“Hở, sao lại không biết được?” Sanae lập tức chuyển hướng sang ông bác sĩ, “Chúng ta ở đây chỉ có một nhúm người, đâu đông đúc như Tokyo
hay Osaka, hơn nữa bốn bề đều là nước, không người ngoài nào đến gây án được. Vì vậy hung thủ giết Hanae nhất định là dân đảom. Không…” Nói tới đây, Sanae bỗng nghẹn lời, liếc Kindaichi rồi tiếp, “Nhất định là dân đảo hoặc hiện đang có mặt tại đảo. Sao lại không biết hung thủ là ai! Thưa thầy!”
“Hả? Chuyện gì thế?”
“Nghe nói trên người Hanae có bức thư của… ừm, Ukai phải không?” “Cô hỏi cái này ấy à? Hanae lén lút rời nhà chạy đến chùa quả thật là vì nó, song tôi không cho rằng gã đó đủ sức gây ra chuyện đáng sợ đến thế. Trước hết, gã ta không có động cơ giết Hanae.”
“Đúng là Ukai không có động cơ, nhưng kẻ đứng đằng sau giật dây gã thì sao? Ví như ông Gihee hay phu nhân Shiho? Bọn họ… Bọn họ…” “Sanae!”
Sư thầy quát lớn. Sanae nem nép nhìn ông rồi cúi gằm mặt xuống. Nhà sư dịu giọng, “Không được nói bừa. Cô kích động cũng là lẽ thường, hiện giờ cô đang đau buồn, dễ nghi ngờ người khác, nhưng không được ăn ốc nói mò. Dẫu sao người ta cũng có địa vị, chẳng may nghe được, gây sự với mình thì mệt lắm. Nếu quả thật là tội của họ, phía cảnh sát sẽ xử lý công bằng mà. Anh Shimizu nói có phải không?”
“Không… Phải, phải. thầy dạy phải lắm. Chỉ cần chứng cứ xác đáng, dù đối phương có là ông chủ hay bà chủ tàu, tôi cũng không bỏ qua, nhất định sẽ bắt họ trả lại công bằng cho cô. Xin cô cứ yên tâm.” Shimizu xoa hàm râu xồm xàm, cố nói bằng giọng uy quyền. Nhưng Sanae có vẻ không tin, chỉ cắn môi cúi đầu nín lặng. Một giọt nước mắt rơi xuống đầu gối.
Đúng lúc ấ, Kindaichi lên tiếng, “Quên mất, chúng ta phải dốc sức thu thập chứng cứ thôi. Tôi có thứ này muốn cho cô Sanae xem.” Đoạn anh lấy trong ngực áo ra mấy đầu thuốc nhặt được tối qua, Shimizu thoáng thấy đã hậm hực hừ một tiếng.
Sư thầy và bác sĩ nhìn nhau, trưởng làng vẫn nghiêm mặt, hai mép trễ xuống. Sanae cau mày ngạc nhiên, “Mấy đầu thuốc này là…” “Tôi muốn hỏi cô một việc liên quan đến đầu thuốc. Đây là thuốc cô cuốn cho ô… ừm, bệnh nhân ở trong kia phải không?”
Sanae gật đầu.
“Nhưng những đầu thuốc này lại rơi trong sân chùa Senko, cạnh thi thể Hanae.”
Sanae mở to mắt kinh ngạc, sau đó trân trối nhìn Kindaichi, hổn hển đáp, “Nhưng… Nhưng… sao lại kì quái như thế được… Mà từ điển này không phải loại quý hiếm gì, biết đâu nhà khác cũng có. Chắc chắn là đầu thuốc của nhà khác.”
“Phải, phải, nên tôi mới muốn xác, xác nhận lại. Lần gần nhất cô cuốn thuốc cho bác là khi nào?”
“Tối qua… vâng, chập tối qua.”
“Bao nhiêu?”
“Hai mươi điếu.
“Vậy phiền cô vào trong… không…” Như nhớ ra gì đó, Kindaichi bỗng gãi đầu, “Yêu, yêu cầu này bất lịch sự, nhưng phiền cô dẫn tôi vào trong được không? Không phải tôi nghi ngờ cô, song, song, song chuyện này quan trọng.” Anh lắp ba lắp bắp nói hết câu rồi căng thẳng nuốt nước bọt.
Trụ trì Ryozen, trưởng làng Araki và bác sĩ Murase kinh ngạc nhìn anh, Shimizu lại hừ một tiếng vẻ bất mãn.
Sanae cũng hết sức ngạc nhiên, chăm chú nhìn anh giây lát vẻ thăm dò, đoạn khẽ khàng đáp,“Mời anh.” Dứt lời bèn đứng dậy. “Làm vậy liệu có sao không, cô Sanae? Liệu có quấy rầy người bệnh không?” Trưởng làng lo lắng.
“Không làm ồn thì không sao đâu, bác đang ngủ say mà.” “Được, vậy tôi cũng đi.” Sư thầy đứng dậy.
“Anh Shimizu đi luôn chứ?” Kindaichi mời.
Cuối cùng chỉ còn trưởng làng Araki và bác sĩ Murase ngồi lại phòng khách, những người khác đều đi vào. Kindaichi đã đến phòng khách hai lần, nhưng chưa từng vào trong. Từ trên cao nhìn xuống sẽ thấy dinh thự này như mê cung, hành lang dài miên man bất tận, quanh co khúc khuỷu, khiến người ta không khỏi tưởng tượng tới cảnh xa hoa hồi cụ Kaemon còn khỏe mạnh. Nếu giữa chừng lạc đường, e rằng chẳng quay lại được phòng khách nữa.
Ra đến hành lang bên ngoài thì thấy một dãy hành lang nối sang tòa nhà khác. Sanae quay lại bảo mọi người, “Các ông đợi cho một lát, tôi vào xem tình hình bác ấy đã.”
Nói đoạn cô rro bước qua dãy hành lang nọ. Kindaichi tì người vào lan can, tò mò nhìn ra ngoài. Quá mù sa mưa, mưa bụi làm ẩm cả khoảnh sân. Bên kia sân, một gian nhà mái tranh hiện lên ở khúc quanh xa nhất.
Lần trước trụ trì Ryozen đứng trên núi đã chỉ cho anh, nói là phòng cầu nguyện. Kindaichi đưa mắt nhìn lướt từ phòng cầu nguyện qua sân đến bên dưới hành lang nối thông. Đột nhiên anh nhoài người ra, chẳng biết đã phát hiện được gì. Đúng lúc đó, Sanae quay lại.
“Mời qua bên này. Phiền các ông khẽ khàng cho, bác tôi đang ngủ say.”
“Chúng tôi hiểu rồi.” Sư thầy vội đi theo Sanae, Shimizu toan dợm bước thì Kindaichi cầm tay kéo lại, ghé tai thì thầm một hồi. Shimizu trợn tròn mắt kinh ngạc, căng thẳng nhìn xuống bên dưới hành lang nối thông.
“Nhờ cả vào anh đấy.” Kindaichi để Shimizu lại rồi một mình băng qua hành lang. Cuối hành lang là một ngã rẽ hình thước thợ, ngoặt qua là đến phòng nhốt Yosamatsu. Nghe tới phòng giam, Kindaichi ngỡ sẽ phải chứng kiến cảnh tượng vô cùng nhếch nhác và thê thảm, nhưng sự thật khác hẳn. Dĩ nhiên, cửa giả đều phải gắn chấn song, nhưng vẫn sạch sẽ hơn anh tưởng, thoáng gió và sáng sủa. Không gian bên trong khá rộng, chừng mười chiếu1, còn có góc toko, chiếc tủ nhỏ kê cạnh đó cũng tinh xảo. Nếu gỡ hết chấn song ra thì chẳng khác nào một căn phòng bình thường… không, thậm chí xa hoa. Kéo cửa ra là thấy nhà vệ sinh và phòng tắm, e rằng chẳng tìm đâu ra một phòng giam tiện nghi như thế nữa.
1. Khoảng 16,5 m2
Yosamatsu nằm giữa phòng, ngủ say sưa sau tấm bình phong nhỏ. Râu hơi dài, nhưng tóc tai được cắt gọn gàng, cũng không có gàu. Nhìn ông ta ngủ yên thế này, chẳng ai nhận ra được đây là một bệnh nhân tâm thần. Gương mặt trông nghiêng và sóng mũi cao thẳng giống hệt Chima quá cố.
Sanae lấy cây gậy trúc dài treo ngoài song xuống. Đầu gậy gắn móc câu kim loại để tiện khều đồ vật. Sanae thò gậy qua song cửa, khều chiếc chậu cạnh gối Yosamatsu. Trong chậu có gạt tàn và hộp thuốc. Cô từ từ thu gậy lại, kéo chậu đến gần. Nếu việc phải làm không cần mở cửa, có lẽ Sanae đều làm thế này. Cô kéo chậu đến bên chấn song rồi lặng lẽ lấy hộp thuốc đưa cho Kindaichi. Bên trong có sáu điếu thuốc.
“Lấy cho tôi cả gạt tàn đi.” Kindaichi thì thào.
Sanae lập tức lấy gạt tàn đưa cho anh. Kindaichi đổ hết đầu thuốc ra giấy xi măng rồi hỏi, “Cô đổ gạt tàn lúc nào.”
“Tối qua, lúc cuốn xong thuốc đưa vào.”
“Cô đưa hai mươi điếu vào đúng không?”
Sanae gật đầu.
Kindaichi vui vẻ gãi đầu nói, “Xin lỗi, nhưng trong này có sáu điếu thuốc, sáu đầu thuốc, cộng lại chỉ mới mười hai điếu, lại thêm…” Anh nói đến đấy thì Yosamatsu thình lình ngồi dậy, như thể bị tiếng thì thào đánh thức.
“Ôi, bác dậy rồi đấy ạ?”
“Chào ông Yosamatsu, ông khỏe không?” Sư thầy dùng thân hình to cao che cho Kindaichi.
Yosamatsu chỉ ngồi đó ngơ ngác hết nhìn nhà sư lại nhìn Sanae. Căn cứ theo tuổi Chima, ông ta hẳn đã hơn năm mươi, nhưng nhìn như mới ngoài tứ tuần vậy. Có lẽ vì ít vận động nên ông ta trông hơi phì nộn, bờ vai dưới lần áo ngủ flannel căng tròn, đôi chân khoanh lại cũng sưng to như bị phù nề, thêm vào làn da bệch bạc thiếu sức sống và cặp mắt lờ đờ thất thần, thoạt trông đã biết là một kẻ loạn trí. Kindaichi thoáng thất vọng, đúng lúc này, chợt nghe tiếng cười sằng sặc kèm tiếng chân Tsukiyo và Yukie lan đến gần.
“Thôi chết! Gay rồi!” Sanae thốt lên, “Phiền thầy mau dẫn anh ấy sang bên kia…” Kindaichi hiểu ngay vấn đề, bởi vừa nghe tiếng Tsukiyo và Yukie, Yosamatsu thoắt thay đổi hẳn. Cặp mắt vốn thất thần lóe lên sát khí như dã thú, đầu tóc dựng đứng, đôi má nhẽo nhẹt giần giật, trông cực kì đáng sợ.
“Cậu sang bên kia đi!” Nhà sư kéo tay Kindaichi ra hành lang nối thông. Ngay sau đó vang lên tiếng lắc chấn song lạch cạch và tiếng gào thét như dã thú, xen lẫn tiếng Sanae nức nở.
“Sao thế? Ồn quá…” Shimizu đang tản bộ dưới hành lang ngạc nhiên hỏi sư thầy rồi gật đầu đầy thâm ý với Kindaichi.
“Bệnh nhân lại lên cơn rồi, chỉ mình cô Sanae giải quyết được thôi. Lạ thật, cô bé này thế mà lại giỏi trị người điên.”
Cả ba trở về phòng khách, thấy trưởng làng Araki và bác sĩ Murase đang ngồi lặng nhìn nhau.
“Bệnh nhân lại lên cơn ư, thưa thầy?” Ánh mắt bác sĩ đầy sợ hãi, trong khi trưởng làng Araki vẫn thản nhiên.
Tiếng Tsukiyo và Yukie cười khanh khách chẳng biết từ đâu vọng lại. Sư thầy cau mày vẻ không vui, lẩm bẩm cảm khái, “Hai cô ấy đúng là khiến người ta đau đầu, nhưng người điên kia cũng rắc rối chẳng kém, hễ
nghe tiếng họ là nổi khùng, ôi chao, rõ ràng là cha con mà, chẳng lẽ nhân quả kiếp trước hay sao?”
“Cậu Kindaichi, đầu thuốc kia điều tra đến đâu rồi?” Shimizu hỏi. “Hừm…” Kindaichi lấy đầu thuốc và thuốc cuốn ra. “Giống hệt đám đầu thuốc rơi ở hiện trường. Mời các vị xem, thuốc này cuốn bằng trang chữ D trong từ điển, có những từ dum’dum, dummy, dump, trên đầu thuốc phát hiện trong chùa cũng in những từ dumping, dumpish, dumpling, nên không cần biết đầu thuốc nhặt được là do kẻ nào hút, đều lấy từ số hao mươi điếu thuốc hôm qua Sanae cuốn. Ờ mà… anh Shimizu, anh điều tra dấu giày thế nào rồi?”
Gương mặt râu ria nhăn nhó vì nghi hoặc, Shimizu đáp, “Chậc… Chậc… Lạ lùng lắm, đúng là dấu giày ấy không chệch đi đâu được, nên… ừm, quả thyật giống hệt dấu giày trong chùa.”
“Dấu giày ư?” Sư thầy cau mày vẻ khó hiểu.
“Phải rồi, thầy biết tôi và anh Shimizu từng điều tra dấu giày trong chùa đúng không? Vừa rồi tôi phát hiện dưới hành lang cũng có một dấu giày, nên mới nhờ anh Shimizu kiểm tra giúp…”
Nghe Shimizu nói, nhà sư, bác sĩ, thậm chí cả ông trưởng làng thường ngày điềm tĩnh đều mở to mắt kinh ngạc.
“Vậy… vậy dấu giày ấy trùng khớp với dấu giày trong chùa sao?” Shimizu gật đầu khoái chí.
Ba người kia ngỡ ngàng nhìn nhau, hồi lâu nhà sư mới lên tiếng, “Nhưng điều này có ý nghĩa gì mới được chứ? Lẽ nào người điên kia…” Kindaichi nhìn ông ta dò xét, “Tôi không rõ, nhưng dù là ai, tối qua người ấy cũng đã xuất phát từ đây để đi sang chùa.”
Ba người kia lại ngơ ngác nhìn nhau.
“Tôi muốn mời cậu tới văn phòng, có vài việc cần bàn bạc, giờ có tiện không…”
Sau khi từ biệt ba người kia, ra đến cửa, Shimizu hỏi Kindaichi. Mưa bụi đã ngừng, nhưng mây đen vẫn giăng đầy trời, xem chừng có thể đổ mưa bất cứ lúc nào.
“Được, tôi đi với anh. Điện thoại vẫn chưa thông à?”
Phòng cảnh sát nằm ven làng, dưới triền núi, là nơi nhộn nhịp nhất trên đảo, hiệu cắt tóc của bác Oshichi cũng ở đây. Vào tới nơi, hai người mới nhận ra đèn điện đã bật sáng.
“Ôi, muộn thế cơ à.”
“À, thời tiết xấu nên trời tối nhanh đấy thôi. Otane! Otane! Có khách!”
Vợ Shimizu tên Otane, là một người nhỏ nhắn xinh xẻo, giỏi lựa ý, cũng tốt tính như chồng. Hình như chị đi vắng, bởi không nghe tiếng đáp. “Lạ thật đấy? Ra ngoài rồi à? Đi đâu mới được chứ?” Shimizu vừa lẩm bẩm vừa len qua lối đi hẹp vào trong. Lát sau, nghe tiếng Shimizu kinh ngạc la lên, “Kindaichi! Cậu Kindaichi! Lại mà xem!”
“Sao thế?”
Lối đi tối om như đường hầm. Kindaichi mò mẫm đi hết thì thấy một khoảnh sân rộng chừng tám chiếu1, đầu kia là một gian phòng nhỏ mà kiên cố, chính là phòng tạm giam.
“Anh ở đâu rồi, anh Shimizu?”
“Ở đây!”
Giọng Shimizu vọng ra từ phòng tạm giam, Kindaichi không hề nghi ngờ xộc vào, ai dè bị đẩy một cú, loạng choạng mấy bước, đúng lúc này cánh cửa sau lưng sập lại đánh “rầm”, còn nghe thấy một tràng cười đắc ý. “Anh, anh Shimizu, anh làm gì thế?”
“Ha ha, xin lỗi nhé, trước khi người của sở cảnh sát tới, cậu đành chịu khổ một chút vậy!”
“Anh, anh Shimizu, anh điên rồi à? Sao lại nhốt, nhốt tôi…” “Ha ha! Cậu tự hỏi mình ấy! Hành tung khả nghi, lai lịch bất minh, còn vờ vịt làm thám tử, cái gì mà đầu thuốc à, dấu giày à, lại định làm mấy việc lạ lùng nữa chứ. Đừng lo, tôi không giam cậu lâu đâu, sáng mai đường dây điện thoại thông, sở cảnh sát sẽ phái người tới ngay, cậu tạm ở lại đây hôm nay vậy! Thế này là châm trước lắm rồi đấy nhé! Tôi còn lấy thêm chăn ấm cho cậu đấy! Lát nữa sẽ đưa cơm cho cậu! Yên tâm, không để cậu chết đói đâu. Cậu cứ coi như ngồi tàu một hôm đi!”
Shimizu cười khanh khách, như trút được gánh nặng ngàn cân, quay người đi thẳng mặc cho Kindaichi la lối.
“Đồ ngốc! Đồ ngốc! Shimizu đúng là đồ ngốc! Phạm sai lầm lớn thế này! Tôi không phải người xấu! Tôi là… Tôi là…”
Nhưng giờ nói gì cũng vô dụng, bởi Shimizu đã coi anh là kẻ khả nghi, mà anh ta cũng chẳng còn ở đó nên không thể giải thích được. Đúng là kêu trời trời không thấu, gọi đất đất chẳng thưa. Thoạt đầu Kindaichi còn
giậm chân kêu gào, nhưng lát sau, chính anh lại thấy nực cười. Sự hiểu lầm lạ lùng của Shimizu cũng trở nên nực cười. Kindaichi cười mãi cười mãi, cuối cùng ngã lăn ra giường.
Không lâu sau, cơm tối được đưa đến, Kindaichi vẫn cười lăn lộn, khiến Otane cũng phát sợ. Ăn xong cơm, anh trùm chăn ấm Shimizu chuẩn bị sẵn cho rồi ngủ thiếp đi. Có lẽ đêm qua ngủ chưa đủ nên vừa nhắm mắt anh đã ngủ say như chết, chẳng biết trời trăng gì nữa.
Tiếng chuông điện thoại réo vang đánh thức anh.
“A, cuối cùng đường dây cũng thông rồi.” Kindaichi ngẩng lên, thấy ánh mặt trời chói gắt chiếu qua cửa sổ. Trời đã sáng, hơn nữa còn nắng đẹp. Kindaichi thong dong vươn vạ, ngáp một cái thật to, tức thì tỉnh như sáo. Anh căng tai lắng nghe nhưng Shimizu nói rất nhanh, không sao nghe rõ được. Sau khi điện thoại cúp, anh nghe thấy tiếng chân đến gần, rồi gương mặt Shimizu xuất hiện trên ô cửa.
“Ha ha, anh giở trò đánh lén đê tiện như thế, thật là quá đáng!” Mặt nhăn như bị, Shimizu nhìn chằm chằm vào Kindaichi với vẻ thăm dò, cuối cùng thở hắt ra, “Tối qua cậu không chuồn ra ngoài đấy chứ?”
“Tôi ư? Ha ha ha, đừng đùa, chẳng phải anh tự tay móc khóa à? Tôi có phải ninja đâu…” Nói đến đây, Kindaichi chợt ngưng bặt, trừng trừng nhìn Shimizu. Trông anh ta bơ phờ hẳn, hàm râu xồm xoàm sẵn có thì thôi, nhưng cặp mắt hằn tia máu nhất định là vì thâu đêm không ngủ.
“Xảy, xảy ra chuyện gì rồi?”
Gương mặt như sắp khóc của Shimizu méo xẹo, ngay sau đó là tiếng mở khóa lách cách.
“Có lẽ tôi trách lầm cậu thật rồi, có lẽ tôi đã đoán sai…”
“Khôg sao, không sao. Quan trọng là, rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì? Xảy ra chuyện, chuyện gì nghiêm trọng rồi ư?”
“Phiền cậu theo tôi, đến là biết ngay.”
Hai người vội vã đến chi thứ Kito. Nhìn sắc mặt người đi đường, Kindaichi biết chắc đã xảy ra tai họa vô cùng lớn. Con dốc dẫn tới dinh thự chi thứ đối diện ngay với sân trời Mũi Tengo, lần trước Shimizu từng đứng đó giơ kính viễn vọng nhìn ra biển. Lúc này một đám đông đang tụ tập trên mỏm đá.
"""