"Dạo Chơi Tuổi Già: Ghi Chép PDF EPUB 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Dạo Chơi Tuổi Già: Ghi Chép PDF EPUB Ebooks Nhóm Zalo NHÀ XUẤT BẢN TRẺ GIỮ BẢN QUYỀN Copyright © 2003, 2009 Tre Publishing House Co.Ltd BIỂU GHI BIÊN MỤC TRƯỚC XUẤT BẢN DOTHƯ VIỆN KHTH TP. HỒ CHÍ MINH THỰC HIỆN General Sciences Library Cataloging-in-Publication Data Sơn Nam, 1926-2008 Dạo chơi ; Tuổi già : ghi chép / Sơn Nam. - Tái bản lần thứ 1. - T.P. Hồ Chí Minh : Trẻ, 2014. 374 tr. ; 20 cm. 1. Văn học Việt Nam -- Thế kỷ 20. 2. Tiểu thuyết tự truyện Việt Nam. I. Ts: Tuổi già. 1. Vietnamese literature -- 20th century. 2. Autobiographical fiction, Vietnamese. 895.92280334 -- ddc 23 S698-N17 ● Dạo chơi, Sơn Nam, in lần đầu NXB Trẻ, 1994 ● Tuổi già, Sơn Nam in lần đầu, NXB Văn học, 1997 ● Dạo chơi tuổi già, in lần đầu, NXB Trẻ, 2002 LỜI GIỚI THIỆU Giữa thập kỷ 90 của thế kỷ XX, ở vào tuổi trên dưới 70, cùng với sự phát triển kinh tế xã hội khả quan của đất nước, ông-già-đi-bộ Sơn Nam cũng có dịp đi đây đó nhiều hơn. Bàn chân ông không chỉ in dấu loanh quanh vùng đất đồng bằng sông Cửu Long và miền Đông Nam Bộ mà còn vươn rộng, vươn xa hơn. Ông đến Hà Nội dự Hội nghị nhà văn trẻ, đặt chân lên đền Hùng, đất Tổ, ra cố đô Huế rồi lại xuôi Nam trên con đường vạn dặm. Những chuyến đi ở tuổi già như là cuộc dạo chơi dài không ít thú vị mà cũng nhiều suy ngẫm. Những vùng đất ông đặt chân đến mới lạ mà thân quen, gần gũi biết bao. Đó là nơi chốn quê nhà trong hằng tưởng của người đi mở đất xa xưa. Với ông còn là sự kiểm nghiệm những điều được đọc, được nghe qua sách vở, qua giao tiếp mà ông đã dành gần cả cuộc đời nghiên cứu tìm tòi, học hỏi. Ông-già-đi-bộ-không-mệt-mỏi Sơn Nam đã ghi lại những suy nghĩ, cảm xúc của mình về đất và người nơi mình từng qua, từng biết, từng thấy, từng nghe trong hai tập sách mỏng: Dạo chơi (NXB Trẻ, 1994) và Tuổi già (NXB Văn học,1997). Thế kỷ XXI vừa bước qua những năm đầu, những suy ngẫm, phát hiện của ông-già-đi-bộ Sơn Nam về đất và người Việt Nam xưa và nay trong 2 tập sách trên và những tập sách khác vẫn còn nguyên giá trị của nó. Nó là tiếng lòng của nhà văn với cuộc đời ở độ tuổi bảy mươi. Hai tập sách mỏng không có sự ngăn cách về thời gian mà nó là một mạch những nghĩ suy của ông về cuộc đời, về con người, về nghề nghiệp. Nhà xuất bản Trẻ cho tái bản có sửa chữa bổ sung hai tập sách trên với tựa mới là Dạo chơi Tuổi già để mừng ông bước vào tuổi 80 với niềm mong ước ông còn tiếp tục dạo chơi để góp nhặt cho đời những hương hoa cuộc sống đang tiềm ẩn đâu đó quanh đây. NHÀ XUẤT BẢN TRẺ Dạo chơi GHI CHÉP Dạo chơi, quán cũng như nhà, Lều tranh có nghĩa hơn tòa ngói cao, Ca dao “Ba cho về thăm đình cũ”... Hàng chữ mở đầu cho “Cảm tưởng” ghi trong sổ lưu niệm của đình Thành hoàng xã Tân Phước Tây hẻo lánh khiến tôi lâng lâng, nửa đêm thức giấc lại nhớ. Diễn đạt ra chữ quốc ngữ, không vần điệu, là dạng làm văn xuôi, cái nghề mà tôi đeo đuổi từ mấy mươi năm qua, như là sinh kế, như là làm việc để thỏa mãn sở thích. “Ba cho về thăm đình cũ”. Vài người bạn già đã mời tham dự lễ cúng đình, với hy vọng tôi sẽ giúp vài ý kiến về nghi lễ. Tôi nhận lời, nói trước rằng mình chẳng có ý kiến gì để đóng góp, ngược lại, đi là để tìm hiểu những chi tiết đa dạng của việc tế lễ, tùy địa phương; điều quan trọng vẫn là quan sát sinh hoạt nông thôn thời mở cửa. Xã Tân Phước Tây thành hình từ đời Gia Long về trước, nhưng người ở Sài Gòn gần như chẳng ai nghe tên, mặc dầu đường đi không trắc trở, hơn 40km, hừng sáng đi, xế trưa về đến Sài Gòn vẫn còn quá sớm. Lễ Kỳ yên diễn ra vào tháng gần Tết, khô ráo, không mưa gió trở ngại. Qua cầu Bến Lức, có con lộ xe chạy dọc theo bờ Vàm Cỏ Đông về phía biển, nhưng cầu hư, đang sửa chữa, đành đi thẳng đến gần chợ Tân An, đổ xuống phía Nam, đến thị trấn Tân Trụ, quẹo trở lại. Dọc đường, gặp xã Bình Lãng, rạch Cai Tài, rạch Ông Hống, những tên đất xuất hiện thời xa xưa. Thêm lý do khiến tôi hăng hái đi Tân Phước Tây là xã này giáp với Nhựt Tảo, nơi Nguyễn Trung Trực, người dân chài ít học hành, năm hơn hai mươi tuổi đã dùng hỏa công chiến thắng tàu giặc trên sông Vàm Cỏ Đông, rồi lui xuống Hà Tiên, giải phóng tỉnh lỵ Rạch Giá, rửa hận cho sinh quán của tôi. Rạch Nhựt Tảo không rộng, Vàm Cỏ Đông êm đềm, bờ sông đầy lá dừa nước. Hỏi thử chuyện hơn trăm năm trước, vài em bé cười tươi, không trả lời. Gần Nhựt Tảo, có Bến Bạ, bên kia bờ thuộc địa bàn huyện Cần Đước. Nắng cháy, lúa gặt xong, nước mặn tràn vào rạch. Thiếu nước uống, mỗi năm làm một hoặc hai mùa ruộng. Nhà cửa nghèo nàn nhưng tươm tất; định cư từ bao thế hệ nên không thấy dấu ấn du canh du cư như phía Rạch Giá. Thiếu bóng mát, rất ít cây to, do cuộc chiến tranh vừa qua. Cây cảnh trồng thưa thớt, nước đâu mà tưới? Vài giàn mướp giàn bầu, cũng lý do thiếu nước ngọt. Mấy chiếc xe đạp qua lại, bụi bặm. Người lớn tuổi cho biết: Nếu chỉ biết làm ruộng mà thôi thì cũng là từ chết đến bị thương, dầu cho trúng mùa, nào tiền phân bón, thuốc trừ sâu. Phải có tiểu thủ công nghệ do người nào đó hoặc nhà nước mạnh dạn đầu tư. Nhiều người lên Chợ Lớn mượn tiền trước để nuôi vịt bầy, cho vịt “chạy đồng”, ăn mót lúa lưu động nhưng năm nay một kí lô vịt sống bán có bảy ngàn, lỗ vốn. Trồng dưa hấu, huề vốn, cạnh tranh không bằng ai. Nuôi tôm chăng? Vốn năm bảy cây vàng, tìm đâu ra. Vài người sắm ghe nhỏ, đi buôn phía Mỹ Tho, Cần Thơ. Xóm im lặng, không nghe tiếng ru con, không nghe tiếng cười. Mồ mả chăm sóc chu đáo, đất xưa, người chết nhiều hơn người sống. Rải rác vài cái ăng ten truyền hình. Mây không trôi trên trời xanh, đứng gió. Ai nấy như nhàn rỗi, nhưng không phải lười biếng. Đất phù sa, nhưng thứ phù sa mặn và phèn nầy không đáng ca ngợi. Xứ nghèo, như phía Hà Tiên, có thể vui lên nhờ du khách. Ở đây, chẳng thấy du khách. Thanh niên nào may ra được học lớp 12 chắc chắn là mơ ước bỏ làng mà đi nơi khác. Toàn là người cố cư từ mấy đời trước, bà con dòng họ quanh quẩn, cưới hỏi qua lại, những gia đình thông gia lắm khi cùng một ông cố, vợ chồng đồng huyết thống sanh con khó thông minh. Nghèo nhưng không bần cùng. Đất chết dần, chậm chạp, không là tự thiêu với xăng dầu nhưng là nướng trên lửa than. Đình làng được tu bổ, mỗi năm thấy khá hơn, năm nay thêm cái cổng tam quan. Nghèo nhưng người lớn tuổi cũng dắt con cái đến, cúng lạy. Tôi cũng cúng lạy như là bổn phận làm người, dạng công dân giáo dục, tỏ tình đoàn kết qua lại. “Ba cho về thăm đình cũ”. Những dòng lưu niệm ký tên Minh Bùi, hiểu là Bùi Văn Minh, đại khái, qua bên Mỹ, họ tên ngược ngạo. Cậu Minh nầy tản cư thời chống Mỹ, theo cha từ Tân Phước Tây lên Sài Gòn, vùng Gò Vấp, rồi năm 1975, nhanh chân di tản qua Mỹ, buôn bán nhỏ ở Houston (Texas) như đã ghi dưới mấy hàng lưu niệm. Mười bảy năm trời, làm ăn khá giả, tuổi đã non 40, về Sài Gòn thăm cha; người cha khuyên con về thăm đình cũ, nơi chôn nhau cắt rốn. Viết mấy hàng lưu niệm như viết thư cho cha, cho bà con chòm xóm, dĩ nhiên có dâng cúng cho đình một số tiền khiêm tốn để trùng tu. Không dụng ý làm văn chương, lúc viết không nghĩ đến người đọc. Viết cho mình được vui, viết để giải tỏa tâm hồn mình. Ai đọc cũng tốt, không ai đọc lại càng tốt hơn. Tặng con tim mình cho quê hương; quê hương lần hồi sẽ cảm nhận tấm lòng mình. Tôi nhớ trường hợp đôi ba người bạn nào đó, bạn đời, người chòm xóm hồi mươi năm trước, tình cờ gặp lại, người bạn chẳng bao giờ đọc sách nhưng xin tôi tặng cho một quyển mang nhan đề gì cũng được, để làm tin. Cái tình cảm, cái tình huống tặng sách quan trọng hơn là chất lượng hoặc giá trị kinh tế của quyển sách. Nguyên văn bài lưu niệm như thế này: 21.8.93 Ba cho về thăm đình cũ. Con rất cảm động, thương bà con anh em. Quê hương buồn quá. Con chúc tất cả bình yên. Minh Bùi (Houston...) Đối với tôi, những dòng chữ trên gây ấn tượng khó quên, sâu sắc với tình cảm chân thành. Người viết là Việt kiều, còn tương đối trẻ, tự xưng là con. Con của đồng ruộng nghèo nàn, rất khiêm tốn vì mình có lỗi tách rời cộng đồng thôn xóm mà đi xa, để làm việc, cải thiện đời sống cho cá nhân mình, riêng rẽ. Gần xã này, theo ven sông còn thắng cảnh gọi Miếu Ông Bần Quì, với sự tích ông Mai Bá Hương thời chúa Nguyễn vận chuyển lương thực cho quân đội, bị giặc bao vây, tự ý đục thuyền rồi tự vẫn, còn hơn để lương thực lọt vào tay giặc. Việc giữ nước thời ấy gay go, số lương thực chắc đôi ba tấn là nhiều. Cây bần quì dường như hãy còn, người địa phương bảo tuy gần nhà nhưng đôi ba năm chẳng gặp dịp đi qua mà xem lại. Ngôi miếu dựng ở nền đất gần đó, thời Gia Long có sắc phong nhưng sắc đã mất, việc cúng tế lần hồi sai lạc, trở thành kiểu đồng bóng, ít ai chú ý. Bên kia bờ Vàm Cỏ Đông là vùng Cần Đước, từng nổi danh gạo ngon với sản lượng cao. “Gạo Cần Đước, nước Đồng Nai”, cũng như vùng Chợ Gạo. Dân số quá đông. Hồi xưa, xã là đơn vị nhỏ, gồm mươi nhà, vì vậy ngày nay, một xã to hơn, gom nhiều xã cũ, qui tụ ba hoặc bốn ngôi đình của từng xã hồi xa xưa. Hôm cúng tế đình Tân Phước Tây nầy, gặp ban nhạc lễ của thầy Sáu chuyên đánh trống, còn trẻ, tay nghề cao, cùng với các bạn từ Cần Đước qua đây làm dịch vụ. Cần Đước là khu vực bảo lưu văn hóa truyền thống, với cổ nhạc. Ông Cao Văn Lầu, cha đẻ bản Vọng cổ từng giao du nơi đây. Thơ ca Sài Gòn từ hơn năm qua ra mắt quá nhiều, chưa chắc kẻ yêu thơ sưu tầm đủ. Đọc tình cờ, nói chung, nhiều ý tứ giống nhau nhưng diễn tả uốn éo, hơi khác. Đại khái: không thỏa mãn với tình yêu, chán đời, yêu đời nhưng chẳng biết làm gì, đòi hỏi và đòi hỏi, than thân trách phận, mình chán lấy mình! Một bài thơ nhan đề Tìm Chồng của Hoàng Đình Quang khiến tôi ngạc nhiên: - Con lớn để bên nội nuôi giùm Con bé nhờ bên ngoại giữ hộ Chị lặn lội một mình lên thành phố Tìm chồng. Năm triệu con người như kiến như ong Ở đâu thì ra đi hỡi con người phụ bạc Đôi chân cô đơn, tâm hồn ngơ ngác Nhiều ngày lang thang, nhiều đêm bơ vơ Chị cứ đi như ai đợi, ai chờ Theo hơi hướng của người chồng bùn đất Băng qua tiếng trẻ thơ ngằn ngặt Hỡi chàng chàng ơi, hỡi người người ơi Người đàn bà lang thang tôi gặp giữa cuộc đời Lam lũ, quê mùa, lành hiền, tần tảo Chỉ đôi mắt âm thầm như bảo: - Đừng bao giờ đem hóa đá tình yêu (1992) Lời lẽ dân gian, như hát xẩm (Hỡi chàng chàng ơi...) mà hiện đại. Thành phố năm triệu dân, chẳng ai biết ai. Vả lại cái khổ tâm vì bị chồng bỏ rơi là thường tình, chẳng có gì giựt gân cả... Bài thơ hồn nhiên, không cường điệu, bộc lộ bản chất hiền lành, ôn hòa của tác giả. Không chút mị dân. Phải chăng tác giả khuyên người đàn bà nên sáng suốt, linh động, đừng bao giờ hóa đá như nàng Tô Thị thời xưa. Lo sinh kế cho bản thân mình trước tiên rồi thì mọi việc đều êm ả. Thúy Kiều khóc mả Đạm Tiên, gẫm nực cười. Ai dư nước mắt khóc người đời xưa. Và ngày nay, ai dư thời giờ để nghe than thở, chia buồn với người đời nay. Người đàn bà nầy nếu đến ban công tác bạn đọc của tờ báo nào đó sẽ được đón tiếp với thái độ hờ hững! Trong nhân viên của tòa soạn, hoặc ban trị sự cũng có thể xảy ra trường hợp gởi con bên nội bên ngoại cũng chẳng xong. Chuyện bình thường. Phim ảnh, cải lương cũng đã khóc giùm cho mình rồi, cứ xem thoải mái, rồi đi ngủ. * * * Năm 1973-1974 bỗng dưng mà tôi hăng hái đi tìm tư liệu trong Văn Thư Lưu Trữ (Văn Khố). Ở đây, gặp nhiều chứng tích đáng tin cậy, làm chỉ dẫn khoa học, thay vì bấy lâu mình nghe lời đồn đãi. Anh em ở ngành nầy, bấy giờ đặt văn phòng nhìn ra đường Lê Thánh Tôn, sát Thư viện, tất cả đều thanh bạch, sống với đồng lương. Thấy tôi siêng năng, dám làm công việc “dã tràng xe cát”, ai nấy ủng hộ hết mình. Nhờ cặm cụi mà tôi lục được vài tư liệu dường như chưa ai công bố, đầy bụi bặm. Thí dụ như vụ án Mười tám thôn vườn trầu của Quản Hớn, ghi là vụ Oc-Mon (Affaire d’Oc-Mon); tôi đánh hơi, gặp ngay. Lại còn hồ sơ vụ NAM TEP, bèn đánh hơi là vụ khởi binh bất thành của ông Năm Thiếp thuộc Bửu Sơn Kỳ Hương (Tứ Ân Hiếu Nghĩa) ở Núi Tượng (Bảy Núi, An Giang). Tôi tự hào đã đóng góp vài tia sáng về tình hình chống Pháp ở Nam Bộ hồi cuối thế kỷ XIX. Điều gây ngạc nhiên là tư liệu ở Văn Khố về Núi Tượng và ông Năm Thiếp lại trùng hợp với bài thơ truyền khẩu “Chánh tăng Phật tích diễn ca”, còn gọi bài Văn Vườn Dầu của tín đồ về sau phần lớn bị Khơme đỏ thảm sát. Trùng hợp về ngày tháng xảy ra những biến cố chống Pháp. Lại gặp tư liệu vụ án Ninh Thạnh Lợi, sẵn đó, tôi qua Thư viện nhờ tìm vụ án Nọc Nạn. Gia Định báo liên quan đến lịch sử báo chí quốc ngữ ở Nam Bộ, ra đời rất sớm, vì Nam Bộ mất sớm so với Bắc và Trung Bộ. Nhiều người suy luận kiểu quan liêu, cho rằng tại Thư Viện Quốc Gia đã nạp bản tất cả, nếu thiếu sót thì qua Thư viện bên Pháp, hoặc bên Anh, bên Mỹ. Tình cờ trong Văn Thư Lưu Trữ gặp vài tờ Gia Định báo, như là tư liệu linh tinh, không liệt kê vào danh mục chính thức vì không nhằm vào chức năng của Văn Khố. Bấy giờ, chưa nghĩ đến việc sao lại theo kiểu photocopie, thấy quí thì chép nguyên văn để dành. Vừa được giao trách nhiệm điều hành Gia Định báo, - tờ công báo của chế độ thuộc địa vừa thành hình, ta thấy trong số 3 đề ngày 24-1-1870 một “tờ chạy” (thông cáo) nguyên văn như sau, chắc do Trương Vĩnh Ký. - “Quan Lại Bộ Thượng Thư gửi lời cùng thầy thông ngôn, thầy giáo tập đặng hay: Nay việc làm Gia Định Báo tại Sài Gòn ở một chỗ nên không có lẽ mà biết cho hết các việc mới lạ các nơi trong sáu tỉnh mà làm ra cho thiên hạ coi: nên xin các thầy cứ mỗi tuần hay là nửa tháng phải viết những chuyện mình biết tại chỗ, tại xứ mình ở như: Chuyện ăn cướp, ăn trộm Bệnh hoạn tai nạn Sự rủi ro, cọp bắt, sấu ăn Cháy chợ, cháy nhà Mùa màng thế nào Tại sở, nghề nào thạnh, vân vân... Nói tắt một lời là những chuyện mới lạ đáng đem vô nhựt trình cho người ta biết. Viết rồi thì phải đề mà gởi về cho Gia Định Báo Chánh tổng tài ở tại Chợ Quán. Gởi tờ làm vậy thì khỏi tốn tiền, miễn là đề ngoài bì như vầy thì thôi: Monsieur Le Directeur de l’Intérieur (Service du Gia Định Báo) Quyền Lại Bộ Thượng Thư ký, L. Langier” Tôi suy luận thông cáo nói trên do Chánh tổng tài (dạng Tổng biên tập) soạn ra; nhà riêng ông ở Chợ Quán. Bộ Thượng Thơ nắm quyền hạn rộng lớn về Nội chính, sau gọi Dinh Hiệp Lý (trụ sở đối diện Thư viện Viện Khoa học Xã hội Sài Gòn, cánh cửa sắt hãy còn hai chữ tắt D.I.), Nam Kỳ là một nước thuộc địa nên có chức vụ Thượng thơ! Vài số báo sau, số 5, ngày 16-2-1870, Trương Vĩnh Ký viết bài giải thích; như là cách đào tạo thông tín viên, chọn những người từng ở nhà trường, quen làm bài tác văn: - “... Từ nầy sắp tới, ta trông cậy sẽ có nhiều chuyện người ta coi: vì nhờ có tờ chạy cho các thầy giáo tập quốc ngữ và các thầy thông ngôn các nơi trong cả sáu tỉnh mỗi tuần hay là nửa tháng thì chạy tờ về mà học lại những chuyện các nơi các tỉnh để làm vô Gia Định Báo cho thiên hạ hay. “Những chuyện làm hay, nói xuôi, đủ, đều có ý chỉ nhằm cách, nhằm thức thì ta sẽ đề tên người làm ký, còn những cái nào khác hoặc nói không được xuôi lời nói, hay nói mà lặp đi lặp lại khó nghe thì sẽ đoản lại cho dễ nghe. Lại cũng có khi nhiều chuyện quá, nếu để y theo tờ các thầy gởi về thì ta sẽ gộp lại làm một chuyện dài nối đuôi cho dễ coi. (...) Xin các thầy chớ quên đề ngày đề chỗ cho hẳn hòi. Phép làm chuyện phải kể tại chỗ nào? Ngày nào? Tháng nào? Nhơn cớ làm sao? Ban đầu làm sao? Khúc giữa thế nào? Sau hết ra việc gì? Lợi hay là hại, may hay là rủi, vân vân. “Như thầy nào có ý gởi đem vô nhựt trình mà đề tên mình ký lấy thì xin nói trong tờ chạy về cho rõ: Vì chuyện nào có người ký tên vô thì là của người ấy, sau có điều gì hay dở, người ta bắt lý hay là sinh điều cãi lẫy, kiện cáo thì phải chịu lấy. “Nói rằng có chuyện nói chẳng được xuôi lời nói cho mấy, hay lặp đi lặp lại, chẳng phải là có ý chê các thầy không biết nói cho hay cho rõ, song vốn là bởi có nhiều khi viết lật bật, hoặc chẳng có thì giờ đủ mà coi đi coi lại mà sửa cho nên trong cả chuyện có chỗ, có tiếng bất ý khó nghe, cái trước để ra sau, còn cái sau lại đem ra trước hóa ra chẳng rõ mấy mà thôi.” * * * Xin trích nguyên văn một bản tin đăng Gia Định báo khoảng một tháng sau (ngày 24-3-1870), không đặt tít, có thể tạm gọi là chuyện Ma nhát ở Long Thành (Biên Hòa). - “Tại làng Bình Dương, có một người ngoại (hiểu là không theo đạo Thiên Chúa. S.N.) tên là Chánh, ngày 30 tháng Chạp rước ông bà, qua ngày mùng một tháng Giêng năm mới là năm Canh Ngọ nhắm đứng bóng mới dọn đồ lên bàn thờ mà cúng. (Người có đạo tin rằng hễ chết thì không còn ăn uống, mà ngoại thì tin ông bà hưởng hơi mà thôi chớ ăn uống như người sống thì ai cũng không thấy, cũng chẳng ai tin). Khi người ấy vái lạy xong xả rồi ngó lên thấy đồ ăn thì hết mà không thấy ai ăn, thì nội nhà lấy làm lạ lắm, rồi lại thấy có hai cái răng lại càng sững sờ và sợ quá, mới chạy kêu lối xóm đến coi, vậy có lẽ gọi răng ấy là ngọc rất quí đã đến nhà cho, có kẻ lại cho rằng ấy chẳng phải là ngọc quí song nó là ma quỉ đó. Khi ấy, thiên hạ nghe mà chạy đến coi rất đông, liền có đất, có đá cục vãi vào nhà như mưa mà không thấy ai quăng, bấy giờ ai ai đều tin là ma mà thôi! Ma ấy chỉ quăng người nhà mà thôi. Quăng trúng người con trai sưng cánh tay, rồi lại quăng trúng nhằm bàn tọa người dâu, không đi đâu đặng. Giáo tập Trần Văn Kim”. (Giáo tập là ngạch thầy giáo trường tổng) Gia Định báo số 7, ngày 1-3-1870 đăng tin, không tít, xin tạm đặt là Nhà nước Lang Sa bắt đàn bà con gái: - “Năm nay, đặng mùa lúa mà mắc khiến thiên hạ bày ra mà đồn rằng: nhà nước Lang Sa bắt đàn bà con gái, cho nên nội miệt ruộng không ai dám gặt lúa, mắc ở nhà giữ vợ con, còn tối lại đàn bà con gái cho tới bà già đều ẵm bồng nhau ra đồng bái, bờ bụi mà ngủ, không dám ngủ trong nhà, ai đi sợ cho đến đỗi thấy mã tà (lính mã tà. S.N.) hay là ai đội cái khăn trắng hoặc là cái nón trắng đi vọi xa xa thì nói chắc người Lang Sa đi bắt, lại nổi mõ la lên rồi đua nhau chạy trốn hết, bỏ nhà bỏ cửa, rồi một chập lâu thấy không có chi lại trở về, còn đương khi ngủ mơ màng thấy hoặc con chó trắng hay là con chi lớn đi thấp thoáng thì la lên nói người ta bắt, lại chạy lại nổi mõ lên, hỏi lại té ra là con chó”. Bài nầy không ghi tên tác giả, ta thấy tuy Pháp chiếm xong cả Nam Bộ nhưng lòng dân vẫn chưa yên. Bấy giờ, vì sợ nắng nóng vùng nhiệt đới, người Pháp thích dùng màu trắng. Câu văn thời xưa dài dòng; tòa soạn Gia Định báo dường như chẳng biên tập lại cho kỹ. Trong thông báo dạy cách viết bài, ta chẳng thấy đề cập đến nhuận bút. Lúc mới chào đời, báo chí Sài Gòn đã thích đăng chuyện “giựt gân”! Số 8 này 16-3-1870 Gia Định báo đăng một chuyện khó tin, tôi tạm đặt nhan đề là Một người đàn bà ở làng Bình Xuân sanh ra khỉ! “Năm ngoái đây là năm Kỉ Tị tại làng Bình Xuân có một người cưới vợ về đặng hơn chín tháng thì người vợ sanh thai đặng một đứa con gái, mà qua ngày sau nữa lại sổ lòng ra một đứa con trai nữa, song khốn thay, ra điều quái gở hết sức, thằng nhỏ có hình con khỉ, mặt mũi cùng hình tích chi chi thì là thú ấy, lông lá xồm xàm. Cách một ngày nữa thì thằng khỉ ấy chết, ông nội nó để một ngày cho qua hết mới đem bỏ vô ghè mà chôn. Khi bỏ rồi cùng đổ tro lên mà ém, thì thằng khỉ liền nhảy vọt ra mà la oải oải. Cùng một giây ấy, mẹ nó nằm trên giường cử lại la ối ối. Tôi chết, tôi chết. Và thật con mẻ đã chết theo thằng con khỉ (của) mình một lần, ông già mới bỏ nó vô ghè lại cùng lấy cái ơ mà đậy miệng ghè cùng ràng rịt chặt lắm, và đem đi chôn một nơi với mẹ nó. “Còn đứa con gái thì ông nội nó đem cho ông cha ở nhà thờ Lái Thiêu tên là ông Azémar, nên nó đã đặng chịu phép rửa tội và bây giờ còn nuôi nó tại nhà thờ ấy”. Thông ngôn tại tỉnh, Bình ký. Người soạn tin làm chức thông ngôn, tên Bình, sự việc chắc có thật phần lớn, nhưng cường điệu bảo là... như con khỉ thì quá đáng. Ông cha Azémar nầy làm việc năng nổ, đã đem giống cỏ Guinée về trồng ở Lái Thiêu, nhằm chăn nuôi gia súc, loại cỏ nầy chắc đã mang tên khác, ngày nay. Cũng ông Azémar đã có sáng kiến lập trường Câm Điếc ở Lái Thiêu, lần đầu tiên ở Đông Pháp. Xin chép thêm, cũng Gia Định báo năm 1870, ngày 21 tháng 2, số 6, để xác nhận năm ấy vẫn còn đánh đu, dịp Tết, như ở đồng bằng sông Hồng, nhưng tên gọi có thay đổi chút ít. Sang trọng nhất là đu tiên, các cụ đồ gọi là Vân xa, như kiểu guồng tự động quay tròn đưa nước vào ruộng, thịnh hành ở Quảng Ngãi. Cái bánh xe lớn, dựng đứng, xoay tròn, nhờ sức của những người xích ngồi trên miếng ván đong đưa, bố trí rải rác quanh vòng bánh xe, chừng 6 hoặc 8 người, dùng chân mà đạp lấy trớn, khi đụng đất. Đại Nam Nhất thống chí đã ghi chuyện ngày Tết ở Tân Kiểng (phía Chợ Quán, Sài Gòn) lúc vui vẻ xích đu bỗng nhiên lại náo động vì có cọp xuất hiện. Một ông sư ra tài đánh chết con ác thú rồi ông cũng chết, vì thương tích. Còn loại đu mà bà Hồ Xuân Hương mô tả “Gái uốn lưng ong ngửa ngửa lòng, Bốn mảnh quần hồng bay phấp phới, Hai hàng chân ngọc duỗi song song” thì trong Nam gọi đu bầu (xem Tự vị Huỳnh Tịnh Của). - “Tết An Nam năm nay, tại Thủ Đức có bày một cuộc chơi rất vui và người ta đua nhau tới chơi đông lắm, là có trồng một cây đu bầu, một cây đu tiên (gọi đu tiên, vì kẻ đánh phải ăn bận tử tế, đánh cho có cung cách thì coi mới được), vậy có hát bội mặc áo mãng lên (loại áo thêu rồng của hát bội. S.N.) và xích và hát cùng bắt bài Phiên (một bản hát của hát bội. S.N.) nghe rập ràng êm tai lắm, tối lại thì có nam thanh nữ tú, ăn mặc trọng thể cũng lên cây đu tiên mà đánh, mỗi người một cách (cách một khoảng. S.N.) có thấy hai cái lồng đèn, người Ngô (người Hoa. S.N.) cũng cầu vui, đem pháo đến đó mà đốt không biết bao nhiêu. Chơi cây đu này đã vui mà lại không thiệt hại gì. Còn cây đu bầu thì thiệt hại lắm. Tối mồng 4 rạng mồng 5 có một người Ngô say rượu nhảy lên cây ấy mà đánh hung lắm, không kể chết, rủi thì té xuống bất tỉnh nhơn sự, quan huyện hay, mới dạy mở dây lưng ra cho uống nước đái, cùng để nằm lối đó, cách hai giờ mới tỉnh lại mà về nhà. “Lại hôm mùng 8 có hai người hát bội lên đu bầu mà đánh, rủi một người té xuống, còn người kia thấy vậy hoảng kinh nhảy a xuống, bị thang đu đập nhằm trái vế sưng lên, còn người kia thì không hệ gì cho mấy. “Quan huyện thấy cây đu bầu đã ba bốn người té, nên giận, chẳng những là cấm chơi đu bầu, mà lại đu gì cũng không cho nữa. Người có trí khôn không ai thèm chơi thứ đu ấy, vì chẳng lần này thì lần khác cũng phải mang tai với nó. Hễ chơi dao thì có ngày đứt tay, sao cho khỏi?” (Không tên người viết) * * * Những ngày dứt mùa mưa, cuối năm âm lịch, năm sắp tàn, thêm một tuổi, lại buồn, vẩn vơ, khi quá 60 tuổi, như căn bịnh. Cuộc đời là vậy, không thể đưa thời gian đi thụt lùi. Thời gian vẫn chậm rãi mà chắc chắn làm hao mòn sức khỏe thể xác cũng như tâm thần. Mình là kẻ bất lực trong trời đất, đâu phải muốn sống dai cũng như muốn chết yểu là được. Ba mươi năm chiến tranh chồng chất, đậm nét. Nếu không có chiến tranh, chắc cũng buồn như vậy, nhưng ung dung hơn. - Sân Lai cách mấy nắng mưa, Có khi gốc tử đã vừa người ôm... - Bóng đâu đã xế ngang đầu, Biết đâu ấm lạnh, biết đâu ngọt bùi... Chẳng lẽ người mồ côi cha, hoặc mồ côi mẹ không buồn (mồ côi từ thuở bé)? Cũng có kiểu buồn khác của người khá giả, không con, không vợ, đã lớn tuổi. “Nước mắt chảy xuôi” lòng thương dành cho cha mẹ đổ dồn xuống cho con cháu. Nhưng buổi giao mùa nói trên, quả là nước mắt chảy ngược, âm thầm. Con hơn cha là nhà có phước. Gẫm lại, con nào mà không hơn cha. Trẻ con nghèo ngày nay biết đèn điện, xem truyền hình, dùng những từ ngữ phức tạp; thêm áo đầm, quần tây nội địa, cái kết, kiếng đen, đồ chơi bằng nhựa, hoặc cái lon bia, giấy bóng, điều mà ông cha ta ngày xưa không thấy. Con người ít thời giờ để nhớ tới chuyện hiếu thảo. Gởi tiền bạc về ngày giỗ, lắm khi có hiệu quả hơn về thăm mà không tiền, cha già nhìn con, con nhìn cha già than vắn thở dài. Từ mấy năm, mua sách chợ trời gặp quyển “La Crève-Cévenne” của J.P. Chabrol (1972), nói về một miền quê bên Pháp xuống cấp về mọi mặt, “từ chết đến bị thương” “thầy chạy”, đất khô cằn, nghề thủ công cổ truyền không còn. Nếp sống văn minh thực dụng thô thiển đã xói mòn nét đẹp tích lũy ngàn năm. Chuyện về bà lão nghèo, lấy lao động tay chân và sự nhẫn nhục làm sinh kế, đầy đủ nhân cách, (là đảng viên Đảng Cộng sản Pháp), học hành chẳng tới đâu cả, người trong xóm kính nể. Già nua, như ngọn đèn cạn dầu, leo lét. Gió không thổi nhưng đốm lửa không tài nào cháy mãi. Tự bản thân nó phải tắt. Bởi vậy, bà chuẩn bị cho mình một cái chết rất là “có văn hóa”. Mặc quần áo sạch sẽ, chuẩn bị quần áo cũ để tẩm liệm cho mình. Đêm nọ, bà đi ngủ, bình thường như mọi đêm rồi tắt thở cũng bình thường như là sau cơn giông tố lớn nhỏ, biển mặc nhiên trở lại yên lặng. Gẫm lại, người ở nông thôn thời xưa, thuộc nền văn hóa nào, cũng gần giống nhau. Tôi có người bác trai, mất năm hơn chín mươi tuổi, không biết chữ nghĩa, đã theo ông nội tôi đến ven rừng U Minh để khẩn hoang rồi sa lầy tại chỗ, sáng chiều bơi xuồng dạo xóm, nói chuyện khào với ông lão người Hoa đã đến xóm này buôn bán, từ hồi còn trai trẻ. “Ở đâu có khói thì có người Hoa đến”. Mấy người Hoa nầy là hậu cần cho dân nghèo đi khẩn hoang cá thể, vì khẩn hoang đâu phải với hai bàn tay trắng là đủ. Phải có vải bô, rượu, đường, đậu, cây đinh, nhang, thuốc cao đơn hoàn tán. Và người cung ứng nhu yếu phẩm phải đủ bản lãnh để bán kiểu ghi sổ: mua trước, trả sau! Hết chuyện nói thì đem chuyện rất cũ mà bàn bạc lại, như là mới, vì trí nhớ của các lão già đã xuống cấp rồi. Cả hai đều chết im lìm, không gây phiền hà cho con cái. Và con cái, bà con gần xa đến thăm, cũng mời một ông thầy thuốc Đông y đến, để báo hiếu, chứng tỏ con cháu đã làm hết sức mình. Mời thầy thuốc đến lần đầu trong cuộc đời, và cũng là lần cuối trong cuộc đời. Người viết văn, khi lớn tuổi, mặc nhiên muốn viết cái gọi là hồi ký. Thể loại nầy không nhất thiết là kể lại lý lịch chính trị của mình, với những sự đính chánh, thú nhận, kèm theo nước mắt thật (hoặc nước mắt cá sấu). Đó là kiểu tạo cho mình một nơi yên ổn, để nằm mà chết thanh thản. Nghe đâu bên châu Phi, những con voi già thường đến nơi cố định nào đó, gần như thiêng liêng, để nằm chết. Đi chơi vùng Tân Trụ, đến xóm Ông Đồ, vùng đất xưa như phía Gò Vấp, gặp nhiều mồ mả chăm sóc kỹ lưỡng, đủ kiểu thức. Mồ mả xưa còn sót lại phần lớn đều rộng và cao, xây với ô dước (mủ của cây ô dước), trộn thêm mật mía, đại khái. Thứ xi măng nầy cứng hơn đá. Mả nào hơi xưa, còn nhận ra của dòng họ, dường như con cháu chỉ biết mơ hồ, thiếu tình cảm gắn bó, không nhớ niên kỷ, tên họ. Vào xóm Ông Đồ, được thăm một cán bộ lão thành, thật ra ông bạn nầy ốm yếu, không già mấy, nhưng đám thanh niên nể nang vì ông đã tham gia Cách mạng mùa Thu. Ông nằm trên bộ ván; bên cạnh là cái quan tài kê lên cao, đã bị mọt ăn, có thể dùng tay mà bẻ vài miếng dăm. Hỏi thì được biết hồi năm 1946, giặc ruồng bố, ông lãnh phận sự bám trụ, lẩn quẩn ở xóm bên cạnh. Cha mẹ, vợ con thấy tình huống phức tạp, sống chết bất thường bèn dành dụm chút tiền, sắm cái quan tài không đắt giá, phòng khi... hậu sự. Nhưng gần nửa thế kỷ rồi, ông bạn đã già mà vẫn sống. Khi cải táng vài ngôi mộ xưa, ta gặp nhiều cái quan tài nguyên vẹn (bằng cây trai hoặc giáng hương) nhưng xác người lại tan rã. Trường hợp ông bạn già nầy như ngược lại: Người còn nguyên vẹn, sống cười tươi, nghe đài nước ngoài, tập thể dục lai rai ấy thế mà cái quan tài bên cạnh đã mục! Viết tự sự, hồi ký gần như là tự mình mua ván, đem về đóng lần hồi cái quan tài cho chính mình, về tinh thần. Như con chim lượm lặt từng cọng rơm, cọng rác từ nơi xa xôi đem về đan cái ổ, kín đáo, trên cành cây nào đó. Nhưng biết đâu nhờ viết tự sự, hồi ký mà con người lại sống dai hơn, như con rắn hoặc con trăn lột lớp da già, chờ lớp da non hiện ra, mềm mại. Nhưng da là cái lớp bên ngoài, trong khi xương cốt gan ruột cứ từ từ khô héo. Chết êm ái, không làm bận rộn người đang sống, được chôn cất nơi quê nhà, nằm bên mẹ cha, mươi năm sau được lãng quên, bên gốc cây cổ thụ, bên đám cỏ, làm bạn với con trâu già, với đứa mục đồng, hoặc luống rau, luống cải. Ước mơ tự nhiên chẳng gì là cầu kỳ, nhưng mấy ai thực hiện được? Đối với người làm văn chương, lắm khi thân xác còn đó, mạnh khỏe, nhưng cảm quan đã cằn cỗi, không lột da được. Kinh nghiệm bản thân của tôi là nên “tập dưỡng sinh” cho con tim, cho bộ thần kinh trong suốt thời gian quyết định: giữa 55 và 60 tuổi. Nên giao thiệp với giới trẻ, mặc dầu nhiều bạn trẻ xem ta như người khác phe phái về hưởng thụ. Thấy cho được cái mới, vì đời luôn luôn đổi mới, đồng thời thấy cho được cái cũ đang được sơn phết, tự nhận là cái mới! Tò mò, với nụ cười khoan hòa, không nên luyến tiếc những gì gọi là thơ mộng của thời Trung Cổ, đầy dẫy sự áp bức đối với người lao động để đem lại cái địa vị cho kẻ sĩ. Ngồi một chỗ, đánh cờ tướng, gặp bạn bè để cãi vã về chính trị, kinh tế, xoi mói đời tư của ông lớn này, bà lớn nọ quả là điên rồ, vô ích, vì chính những ông bà ấy cũng chẳng biết ta là ai. Tủn mủn, ganh tị vu vơ, vận dụng trí tuệ vào những chuyện đâu đâu, chẳng khác nào người chặt lóng tre, chẻ ra từng lát nhỏ, cứ chẻ nhỏ mãi, hy vọng chế tạo ra cây tăm xỉa răng độc đáo nhất thế giới, rồi tự hào mình đã hiểu thấu cây tre hơn ai hết. Cuộc sống là nhiều rừng tre bao la lộng gió, với tiếng reo của những ngọn tre bị uốn cong nhưng không gãy. Đọc sách nước mình, nước ngoài, xưa và nay. Riêng về văn chương cổ điển và dân gian thì không được bỏ sót. Nếu thiếu căn bản tối thiểu, có thể ngẫu hứng làm vài bài thơ hay, vài truyện ngắn xuất sắc, nhưng về lâu về dài, lần hồi đuối sức, đó là kinh nghiệm của tôi. Nhà tôi, sách khá nhiều, thêm sách về dân tộc học, mỹ thuật, lịch sử, tôn giáo, vân vân. Chồng chất đầy nhà, nhịn ăn mà mua. Để thấy người xưa và người đương thời đã làm những gì, làm tới đâu. Lắm khi, đọc thấy không ích lợi gì hết, đâu phải quyển nào cũng gợi âm vang ngay trong truyện mình đang viết hoặc sắp sửa viết. Nhưng cần thiết, để củng cố bản lĩnh, tỉnh táo hơn. Sự ích lợi rất gián tiếp. Đó là thứ phân hữu cơ cần thiết. Tôi nhớ đến trường hợp những bức sơn mài. Trông đẹp, óng ánh, vì đã vẽ trên cái nền chuẩn bị châu đáo. Ván phơi nắng kỹ lưỡng rồi bọc hom vải, phủ sơn lần lượt, chờ đợi nhiều ngày với năm bảy lớp khác nhau để làm nền. Và sau rốt, lớp chót được lộng lẫy nhờ cái nền bên dưới, chẳng ai thấy. Lại còn công phu rửa, đánh bóng. Đọc Thi Văn Việt Nam (từ đời Trần đến cuối đời Mạc) dùng cho các lớp Trung học, do Hoàng Xuân Hãn và Nghiêm Toản soạn, Nhà xuất bản Sông Nhị, Hà Nội, 1951 đã hơn 40 năm qua. Tôi thu hoạch, theo kiểu của tôi: - Bài ca dao: Canh một dọn cửa dọn nhà Canh hai dệt cửi, canh ba đi nằm. Canh tư bước sang canh năm, Trình anh dậy học, chớ nằm làm chi, Nữa mai chúa mở khoa thi, Bảng vàng sáng chói kia đề tên anh... Ngựa anh đi trước, võng nường đi sau... Rước vinh qui về nhà bái tổ, Ngả trâu bò làm cỗ tế thần Để cho bảy huyện nhân dân, No say được đội hoàng ân từ rày... Nghiêm Toản chú thích: “Nàng (người đàn bà Việt Nam thời xưa) lại khéo khích lệ chồng bằng cách mô tả một đám rước ông Nghè vinh quy cực kỳ linh hoạt tự nhiên, viễn ảnh này đã thôi miên chồng nàng và hết thẩy các anh đồ, chị khóa ngày xưa vất vả hy sinh hàng bao nhiêu năm trời để thực hiện giấc mộng tên đề kim bảng. Sau hết ta phải công nhận kẻ cầm quyền đã khéo dùng công danh làm giàn khóa thao túng được toàn thể sĩ phu.” - Đời Lê Thánh Tôn, một nho sĩ vô danh làm bài thơ Vịnh Cây Me trong thành cấm. - Cây me này ở ngoài cửa Đoan Môn, trước triều đường. Vũ Cán, đậu Hoàng giáp đời Cảnh Thống thứ 5, năm 1502, có nói đến cây me ấy trong một bài ký. Trong có những câu: “Rễ ràng rịt kết, cành ba xòe vươn. Um tùm như đám mây che thành lọng. Lá như lá hòe mà nhỏ. Hoa như hoa lan mà kém thơm. Quả hình cái sừng, trắng mà chua. Thân cao vượt quá các loài cây khác. Bóng mát phân ra tứ phương. Những sứ phương xa tới chầu, các viên triều thần vào chực đều được nhờ”. “Cội ngọc sinh thành lạ bởi đâu, Có duyên xưa chiếm được nơi mầu. Ngọn đương tươi tốt hơi đương đượm, Tán lục rườm rà bóng nắng thâu...” Phải chăng cây me khó thích hợp với nơi khí hậu bốn mùa nên trở thành quí giá? Nét thơ mộng của cành lá me, không thể chối cãi. Đường phố Sài Gòn, nơi nào có me là chỉ thị của con đường xưa, từ đầu thế kỷ XX về trước. Giới đô đốc thủy quân Pháp chuộng cây me; về sau, Hội đồng đô thành Sài Gòn phản đối, cho rằng lá me giữ nước mưa, tạo không khí ẩm ướt, mưa tạnh rồi mà còn nước rơi (ta gọi mưa lá me), lại quyến rũ loài muỗi gây sốt rét. Cây me được người xưa đặt tên Hợp hoan đậu hoặc Toan đậu. Hợp hoan, nghe khuấy động tính dục, phải chăng vì những hột me như liền nhau? Trong giới nho sĩ và bình dân Nam Bộ, cây me tượng trưng cho kẻ tiểu nhân. Thời xưa, chẳng ai trồng me làm cây cảnh, nếu có thì chưng bày ở góc sân, sau hè. Lê Quang Chiểu làm bài thơ Vịnh Cây Me, ám chỉ bọn tay sai thực dân: - Xưa mọc ngoài ranh với xó hè, Nay trồng giữa chợ, rạng danh me... ... Quan lộ cũng nhờ sức hắn che! - Một chi tiết quan trọng về thơ ca. Hàn Mạc Tử, trong Đây Thôn Vĩ Dạ: “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó. Có chở trăng về kịp tối nay.” Bay bổng, mượt mà, êm ái. Nhưng đọc quyển sách giáo khoa nói trên, lại thấy từ thế kỷ thứ XV, tức là 400 năm về trước, đời Thịnh Lê, nho sĩ vô danh nọ làm bài Vịnh núi Thần Phù (giữa Thanh Hóa và Ninh Bình): - Khói quán mây ngàn tuôn ngụt ngụt, Chợ quê sóng bể rực ù ù. Kìa ai rửa sạch cong (trong) niềm tục, Một chiếc thuyền câu chở nguyệt thu. Thuyền câu chở trăng mùa thu. Cũng vào thời điểm ấy, trong bài Vịnh cảnh Tiêu Tương, đề tài Giang thiên mộ tuyết: - Buồm chiếu phau phau thuyền chở nguyệt, Áo tơi khụ khụ khách ngồi câu. Cùng một hình tượng, nhưng triển khai khác nhau, chẳng ai điên rồ bảo rằng Hàn Mạc Tử “ăn cắp” văn chương của người đời trước. Tôi đoán nhà thơ tài hoa bất hạnh chẳng bao giờ thấy những câu thơ ấy. * * * Bát Quái, Kinh Dịch vì mang tính trừu tượng, khái quát mà được nhắc nhở. Người sang kẻ hèn, người thắng thế, kẻ thất thời đều vận dụng được, như thứ dầu trị bá bệnh. Tình cờ đọc Cao Bá Quát trong Cao Chu Thần thi tập trích dịch, do Sa Minh Tạ Thúc Khải dịch (Sài Gòn, 1971) thấy lập luận của nho sĩ đáng kính họ Cao: - “Chẳng từ khi có loài người đến nay, đầu tiên có gì xảo hơn được Hà Đồ không? Vua Hy Hoàng bắt chước theo để dạy đời có gì xảo hơn Lạc Thư không?... Những điều gì dù huyền bí như quỉ thần mà có thể làm lợi cho thiên hạ, trăm đấng Thánh nhân đều đã làm trước cả rồi. Thì người Tây có làm được không? Hay là không bằng?... Còn như các thứ cơ xảo kia của người Tây thì các nước phương Đông ta không làm đó thôi”. Nghĩa là vì tự tôn, ta không theo khoa học kỹ thuật Tây phương chỉ vì đã biết rồi mà ta không thèm làm! Đại khái, nói khôi hài mà nghe, cái lưỡi “lam” cạo râu là đồ bỏ, sáng chế quá dễ. Về cái máy ảnh, con tàu vũ trụ thì hồi xưa, trong thần thoại ta đã nghĩ đến chuyện người bay trên không trung, trẻ con đã biết thả con diều, lợi dụng sức gió, con diều nặng hơn không khí, vậy mà bay lên. Cao Bá Quát viết tiếp: - Huống nữa hễ sự vật có cơ xảo, ắt trong lòng cũng có cơ xảo. Hiếm thay, những vật công xảo của Tây, không tại nơi hàng hóa, mà chính tại nơi lòng vậy. Phải biết người Tây hằng lấy những của vô dụng mà đổi lấy Mã Cao làm của mình, mà đổi lấy Đài Loan làm của mình. Hễ của đến đâu thì người đến đó, há thấy thế mà không nao lòng sao?” Cao Bá Quát là của thế kỷ XIX, kẻ hậu sinh không dám xấc xược lên án ông. Năm 1843, đời Thiệu Trị, ông được theo chân Đào Trí Phú đi Singapore, thấy rằng “Văn chương chữ nghĩa khéo là trò chơi”. Rồi ông khởi nghĩa chống nhà Nguyễn, bị đàn áp. Đổi mới là khó, cần có sức mạnh tổng hợp. Cái không khí “bế quan tỏa cảng”, tự hào, tự tôn khó xóa tan, đột phá. Bởi vậy, tôi giữ thành kiến với những người sùng bái Kinh Dịch. Nói trắng, nói đen gì cũng được, học Kinh Dịch với “thiện chí mở rộng tư duy”, nhưng thiếu lượng thông tin thì hỏng, lắm khi trở thành cơ hội, “xìu xìu, ển ển”, chờ thời, theo đuôi thời cuộc. Cụ Phan Bội Châu nghiên cứu và chú giải Kinh Dịch, đã xác nhận: Cần gì đi La Mã để tìm ông Platon hoặc đến Ấn Độ để tìm đức Thích Ca? “Tiền nhân ta như Nguyễn Bỉnh Khiêm (Bạch Vân Am), Đào Duy Từ (Lộc Khê Bá) đã từng dùng (Kinh Dịch) đó.”... Đại khái, vận dụng Kinh Dịch nhuần nhuyễn, sát thực tế Việt Nam vào thời điểm mà hai vị đã sống. Nhưng cụ Phan không giải thích chi tiết. Là kẻ hậu sinh, xin lạm bàn, đoán thử cái ý mà cụ Phan muốn nói. Nguyễn Bỉnh Khiêm trong thời loạn lạc nhà Mạc đã chỉ đường cho Nguyễn Hoàng vào phía Nam dãy Hoành Sơn, vừa an toàn tánh mạng, vừa ích lợi vạn đời cho nhiều người. Đào Duy Từ đã vào Nam, tìm cơ hội gặp chúa Nguyễn, xây Lũy Thầy và nhiều lũy khác để tạo sự ổn định, tranh thủ thời gian để mở nước phía Nam, phải chăng cũng nhờ đó mà lãnh thổ của ta đến tận vùng đảo Phú Quốc, Côn Đảo, Trường Sa, Hoàng Sa. Con nhà hát bội, không được đi thi, vào Nam, theo chúa Nguyễn, đất mới luôn luôn là nơi ít câu nệ, lại phóng khoáng, thực dụng hơn. (Xem Liệt Truyện) ”Thu ăn măng trúc, đông ăn giá, Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao...” Bấy lâu, chẳng cần suy nghĩ, tôi ngỡ rằng “đông ăn giá” là mùa đông ta sống thanh đạm; ăn giá, theo nghĩa băng giá, tuyết giá. Đọc Thi văn Việt Nam, đời Trần đến cuối Mạc (đã dẫn) chợt thấy giá mà Nguyễn Bỉnh Khiêm nói đến là “mầm đậu xanh ngâm”, tức là giá sống mà người Nam Bộ ưa thích, không phải “ăn giá” là nhà nghèo uống nước lạnh, ăn băng giá để chứng tỏ mình trong sạch. “Xuân tắm hồ sen” vì sen lúc ấy chưa mọc lá non; mùa hạ, trong hồ lá sen đã mọc, nếu tắm thì bị vướng bận. Ta đành tắm ao. Ở xứ không có bốn mùa rõ rệt, dễ nhầm lẫn về chữ nghĩa. Đời nhà Mạc, tình thế xáo trộn, chánh nghĩa không rõ rệt, lý luận nào cũng hợp lý, trắng là đen, đen là trắng, thật khó sống cho yên ổn lương tri. Nguyễn Bỉnh Khiêm làm thơ ca ngợi nếp sống nhàn rỗi, thanh đạm nhưng kẻ hậu sinh đừng tưởng rằng ông lười biếng. Ông đọc sách nhiều và ông có nhiều nguồn thông tin chính xác về thời cuộc, nhưng không viết thô thiển ra trong văn thơ. Cũng như người nghệ sĩ khổ công trau dồi nghề nghiệp để đưa ra lời ca, câu văn nhẹ bổng, như tự nhiên, dễ dãi. Hơi ca, câu văn khỏe, bình dị là kết quả của sự khổ luyện âm thầm. * * * Đọc Văn thư Lưu trữ, tư liệu năm 1885. Lúc bấy giờ, Hội kín phát triển mạnh ở Nam Bộ, hưởng ứng phong trào Cần Vương nhằm ủng hộ vua Hàm Nghi. Bọn mật thám Sài Gòn rất cảnh giác về sự tụ tập của lớp nghèo thành thị ở Sài Gòn cũng như các từng lớp nông dân nơi đất định hình như Biên Hòa, vùng Tiền Giang. Hễ nghe đến Hội, chúng nghĩ đến mầm mống chống Pháp, gặp những giấy tờ chữ Hán hoặc chữ Nôm khi khám xét những người bị tình nghi, chúng gom về để nghiên cứu, phần việc nầy giao cho viên chức gọi “kinh lịch” chuyên dịch ra chữ Việt, rồi có người dịch ra chữ Pháp. Tôi gặp một tư liệu buồn cười, xin ghi lại đây: Đó là việc chơi hụi, với đầu thảo; gọi theo chữ Hán là Hội và Thủ Hội. Thảo là đầu, trùng nghĩa với nhau, đáng lý ra gọi là Thảo hụi (đầu hội). Qua tiếng Việt bình dân, có sự biến thể như vậy. Và đích danh của Hụi vào khoảng năm 1885 là Nghĩa Hội, ta gọi nôm na là Chơi Hụi. Bọn mật thám truy nã việc tụ tập có định kỳ của vài người địa phương. Nguyên văn chữ Hán và chữ Nôm xen kẽ, tạm dịch lại sát nghĩa. Ta thấy hồi xưa có văn bản nghiêm túc, ngày nay, “vô một chân hụi” mặc nhiên theo luật “bất thành văn”. - “Thường nghe Nghĩa Hội do Bàng Công bày ra, nguyên là để tương trợ nhau lúc cần tiền gây vốn làm ăn, với tiền lời vừa phải, ấy là con đường sanh tài của người quân tử. “Nay rất mong được quí thân hữu có lòng thương mà giúp cho một chân trong Hội, cứ đúng y phép tắc mà theo, điều cần là phải trước sau lo cho châu đáo, đây là việc giúp đỡ nhau mọi người đều được lợi, không phải chỉ riêng một người được hưởng, nên cũng không thể không cảm phục sáng kiến cao cả của Bàng Công. “Xin liệt kê các qui điều như sau: “Mời thân hữu mười vị cùng với bổn thân tôi là 11 phần, mỗi vị xin đóng trước số bạc 1 đồng, cộng thành 10 đồng, tất cả số bạc của thành viên giao cho Thủ Hội lãnh trước. “Hội kỳ mở trọn năm. Mỗi kỳ hội định mỗi tháng vào ngày mùng một. Đến kỳ khai hội, dù mưa gió cũng không thay đổi, Thủ Hội phải thông tư cho hội viên hay trước mấy ngày để tiện chuẩn bị tiền bạc. Đúng kỳ, mỗi hội viên phải mang theo đủ số tiền đến địa điểm khai hội, hễ đúng giờ thì phải mở thăm trước sự chứng kiến đông đủ hội viên có mặt, mở lá thăm xong, các hội viên nào chưa hốt được phải đóng tiền ngay, trừ ra số tiền của hội viên được hốt bỏ cao nhất, không được cấn nợ trừ riêng (...) “Khui (khai) thăm, cứ theo thăm nào bỏ lời cao nhất thì được hốt, nếu gặp trường hợp số tiền bỏ lời bằng nhau, thăm nào mở trước thì được hốt, sắp theo thứ tự ai đến trước thì được mở thăm trước. “Mỗi kỳ mở hội, xuất ra một đồng bày bàn tiệc thết đãi hội viên có mặt, không được trừ ra số tiền trong phần tiệc gởi cho hội viên vắng mặt. “Phương danh của quí bạn hội viên: Bảy Long, Tư Lý, Hai Trực, Tư Cương...” (không thấy nói cách xử lý khi bị giựt hụi). Ta đoán chắc vào buổi ấy, những người chơi Hụi nói trên không bị bắt, sau khi văn bản được dịch ra. Bàng Công, cha đẻ của việc chơi Hụi là ai? Tôi đoán là Bàng Đức Công mà sách Minh Tâm Bửu Giám đã trích dẫn: “Phàm nhân bá nghệ hảo tùy thân...” Ông là nhà luân lý, khuyên con cháu đừng ham mê cờ bạc. Chơi Hụi mà dẫn chứng về “quân tử Khổng-Mạnh” cũng lạ, chứng tỏ việc làm kinh tế vẫn được các nho sĩ chú ý. Qua bản nội qui, có thể là người Đầu thảo (Thủ hội) ăn tiền thù lao với một kỳ đầu, ăn trọn; xem như chơi một phần mà không đóng xu nào, ta gọi là quản lý phí? Số tiền hốt được, trao tất cho tay em. Buổi tiệc dịp khui hụi đánh dấu sự đoàn kết, đòi hỏi hội viên nên... sanh hoạt đều đặn, vì không ăn tiệc thì mất phần, không thể đòi khẩu phần bằng tiền mặt. Đóng hụi, phải cho đủ, không viện cớ người được hốt đã thiếu nợ riêng của mình. Ngày nay, phần lớn đầu thảo là phụ nữ, không cần tập hợp đông đủ, không tiệc tùng; khui hụi xong, đầu thảo đến tận nhà tay em mà báo tin, thâu tiền để nạp tiền cho người được hốt. Hụi là kiểu “tín dụng dân gian”, tay em có thu nhập thường xuyên mới tham gia được; đối với người không thu nhập bình thường, đành vay nợ trả góp, nặng lời hơn. Phải chăng trong những sông rạch miền Nam có tên nhiều Bà, hẳn vài bà đã là chủ hụi hoặc chủ nợ nổi danh, vì làm đầu thảo, cho vay bạc là một cái nghề, dường như bóc lột nhưng rất cần thiết để khẩn hoang trong kinh tế thị trường mà miền Nam, mặc nhiên đã trải qua, từ mấy thế kỷ trước. * * * Món ăn ở đồng bằng sông Cửu Long, vài huyền thoại. Vài người tỏ ra sành điệu, đã thưởng thức vài món mà chưa ai từng thưởng thức. Đã là món địa phương, ít ra nó cũng được phổ biến trong thời gian tương đối dài và lan rộng qua xóm làng lân cận. Bày ra món ăn lạ, lắm khi chỉ vì nghèo túng rồi vận dụng sự xoay trở, tháo vát nhỏ bé, tạm thời. Hoặc dư giả, chán cao lương mỹ vị, bèn thử tìm vài cảm giác lạ, trở lại đời sống hồn nhiên, dân dã. Hoặc bày kiểu ăn uống lập dị, vui chơi trong chốc lát. Dường như đã qua rồi, cái thú vui nướng con vịt với lửa rơm ngoài đồng, lấy đất sét bó trọn con con vịt còn lông lá, đốt lửa đến khi nứt ra, bao nhiêu lông vịt dính vào đất. Hoặc trước khi nướng cá lóc thì gói trọn trong lá sen, để lấy mùi thơm. Ngó sen dùng làm rau, trộn gỏi, gẫm lại chẳng có gì độc đáo nhưng người ăn như sung sướng: sen là món tinh khiết, “gần bùn mà chẳng hôi tanh mùa bùn”. Mùa nước lụt vùng đồng bằng, bông điên điển (cây điền thanh) nấu canh chua khá ngon, lại còn dưa chua bông điên điển. Ra khỏi đồng bằng, bông nầy dường như chẳng còn giá trị: mau héo, thêm vị đắng, vì vậy khó bán ra chợ, không phổ biến. Cá trê vàng nướng ăn với nước mắm gừng đã đành, nhưng kèm thêm đọt kèo nèo (cù nèo to lá, còn gọi tai tượng) thấy tươi mát, đậm đà. Cây môn nước mọc tràn đồng, ven bờ rạch lắm khi trở thành đặc sản, đậm đà hương vị. Hóc Môn, ngọn cùn của con rạch (hóc) đầy môn nước; Đồng Môn (vùng Long Thành) là cánh đồng hoang nhiều môn nước. Phía miền Tây Nam Bộ, lắm nơi gọi Lung Môn, Xẻo Môn, cắt về làm dưa chua, khá ngon, xào với thịt heo. Loài hoang dại, đụng đến mủ là gây ngứa ngáy khó chịu, gãi rách da. Tôi nghe nói thời chế độ cũ, vài thanh niên muốn gây thương tật để khỏi đi lính: làm đứt lóng tay bên mặt để không còn khả năng bóp cò súng, với thủ thuật lấy mủ môn nước thoa một vòng tròn quanh lóng tay. Lâu ngày, sưng vù lên, phải đến bệnh viện xin giải phẫu. Nghe nói chớ chưa từng thấy. Ăn phải có kỹ thuật: cắt cọng môn, không tước vỏ, nhờ vậy mau mềm khi nấu. Nhúng cọng môn tươi vào nước sôi rồi đem ra, mủ đã gom lại nơi chân cọng môn, ta cắt bỏ phần chót ấy. Nên cương quyết bỏ những đọt non tươi, ăn rất ngứa. Dùng môn chế biến như trên để nấu cháo lươn, rất hài hòa, ăn ngon, với điều kiện là nhớ nêm mặn với mắm kho. Cuối mùa nắng, đồng ruộng cạn khô, ít cá. Mưa đầu mùa vài đám, cá non xuất hiện. Khi cá còn nhỏ, ăn nhão, nhưng vẫn ngon nếu biết kỹ thuật. Cá trê, cá lia thia con nẩy nở trong lung vừa đầy nước, xúc đem về, kho lạt, thêm vài lát gừng để xóa tan mùi cỏ dại. Cá trê con còn gọi cá trê năn (loại cỏ cọng tròn ở đất phèn). Lại còn cá rô con, gọi cá cò cưỡng, kho mắm, ăn với đọt rau dừa chỉ, gọi chỉ vì cọng nhỏ so với rau dừa trâu, to hơn. Rau dừa có phao nhỏ, màu trắng, xem khá đẹp, sạch sẽ. Những món ngon như trên, kể còn nhiều, thí dụ như cua đồng xào với mái dầm (loại cỏ lá to, mỗi cọng một lá như cây dầm bơi xuồng), thường mọc nơi bãi bùn, gần bụi dừa nước. Ngon vì bấy giờ thiếu thức ăn; mùa mưa bắt đầu, buồn bã, chân trời rộng chưa phủ màu xanh; hoặc khi nước nổi bao la, vài cụm rừng tràm soi bóng, bông điên điển trổ vàng hực. Màu vàng của xứ nắng, ta nhớ đến những đóa hướng dương miền Nam nước Pháp trong tranh của Van Gogh. Không thể nào quên mùa cá linh trên sông Cửu Long hoặc sông Hậu: vớt cá, đem nướng trên vỉ, ăn với đọt cây xộp, hoặc nấu canh chua. Lại còn chuột đồng xào lá lốt, băm nhỏ, ăn với bánh tráng nướng hoặc xoài chua đầu mùa. Những món ăn gọi là đặc sản ấy lần hồi khó tìm, dành cho kẻ nhàn rỗi thích món lạ để nhớ thời thơ ấu. Vị trí những đặc sản nói trên như cây đàn t’rưng, đàn đá, những nhạc cụ toàn bằng tre vùng Cao Nguyên. Duyên dáng, độc đáo nhưng nghe mãi sanh nhàm, làm sao bằng đàn ghi-ta điện, đàn organ, dễ phổ biến, gây tác động nhanh qua những tiếng dạo đàn. “Thú quê thuần hức bén mùi” (Kiều) Gọi đặc sản, món ăn đặc biệt nhưng hỡi ôi, lắm khi người địa phương chưa ăn lần nào, ngày nay hỏi lại, chẳng ai biết. Về phong tục ở Nam Bộ, đời Gia Long Trịnh Hoài Đức đã ghi lại: “Đất Gia Định nhiều sông suối, cù lao nên 10 người đã có 9 người quen việc chèo thuyền, bơi lội dưới nước, ưa ăn mắm”. Đúng vậy, mắm là cá để dậy men, vị ngọt đậm đà hơn cá tươi, hoặc cá khô. Vì dậy men lâu ngày nên bốc mùi. Lại ghi thêm: “Có người trong một buổi ăn, ăn hết hai ống mắm, độ hơn 20 cân để làm trò vui trong khi đố cuộc nhau.” Ống mắm, có lẽ cái ghè nhỏ, nhưng 20 cân (mỗi cân 600 g) là con số quá to (12 kí-lô). Phải chăng là do hai người cùng ăn, cộng lại khi thách thức, dân gian gọi “ăn kình”. Ở Sài Gòn, đường Lê Lai mở quán đặc sản “Cá Lăng Vàng” với thực đơn về mắm: - Mắm kho cá lăng - Mắm kho cá bông lau - Mắm kho cá lóc - Mắm dỉ chí dục (khô) - Mắm cá trèn thịt ba chỉ (khô) - Mắm thái thịt luộc (khô) - Lẩu mắm bò lai chanh - Mắm chưng hột vịt - Ba khía dầm tỏi - Mắm tôm cà pháo * * * Khi mệt mỏi, không còn hứng thú về nghề nghiệp, lại thích xem những tập tranh của họa sĩ cổ điển Đông-Tây. Xem là thấy hứng thú. Họa sĩ không dùng nhiều trang giấy. Những cảm xúc, những bóng dáng đóng khung trong phạm vi nhỏ hẹp. Bức tranh có thể khơi lên nguồn cảm hứng mênh mang (như bài thơ, như bản nhạc) mà đậm đà, cụ thể, khó hiểu hơn. Nắm kỹ thuật cơ bản là điều tối cần trong nghệ thuật. Cái “tâm” chưa đủ. Thí dụ như người múa lân, muốn cho con lân cười, đâu phải người múa mỉm cười, nhưng phải nín thở, co tay, giật mạnh cho cái hàm bằng giấy của con lân mở ra, rồi quì xuống thật nhanh cho đôi mắt lân chuyển động. Trường hợp nghệ nhân này nhà nghèo, cần thường xuyên luyện tập, ăn uống tẩm bổ, đổ mồ hôi để múa vì yêu nghề! Danh vọng thuộc về tập thể của Hội Lân, với sự cạnh tranh, quảng cáo, tiếp thị cần thiết. Buồn bã nhất trong đời làm văn chương là gặp vài người, gọi là “có trình độ chung chung” phán xét một cách sơ sài, khó chấp nhận. Rằng “đời sống của anh đã ổn rồi, cứ sáng tác hăng hái lên.” Các vị này thật thà, xem làm văn học, là “lao động với mây gió”, cần chén rượu, con khô mực, vài mảnh giấy, cái bàn viết rộng chừng một mét vuông. Đó chỉ là kiểu làm văn nghệ “mì ăn liền”, ngắn hạn, nếu không nói là sao chép, pha chế chút gia vị vào những gì thiên hạ đã nói, đã viết rồi, để an thân với chút danh vọng, một dạng cán bộ thông tin mà ai cũng đủ khả năng làm được. Các vị quên rằng người làm văn học rất cần “thiết bị hạ tầng cơ sở” vững chắc, nào dụng cụ văn phòng, ánh sáng và những vật tư đắt giá như vài quyền tự điển, sách vở Đông Tây kim cổ. Làm văn nghệ mà không tủ sách và kệ sách thì là kiểu nghiệp dư, thù tạc vu vơ. Cả nước mà làm vậy, làm sao dân tộc có hy vọng thấy xuất hiện những tác phẩm cỡ trung bình? Ta còn cạnh tranh với vùng khác, với dân tộc khác. Mô tả trái chuối, không là ca ngợi vóc dáng với màu sắc. Cần biết lột vỏ chuối, làm sao cho toát hương vị của chuối! Tình là... biển khổ, nhưng khổ kiểu nào? Nhiều trường hợp khổ não đã được miêu tả từ hơn ngàn năm rồi. Ở đây, chưa nói đến trường hợp người viết loại nghiên cứu, biên khảo, tóm lược những kiến thức khái quát, thuộc khoa học xã hội, sử địa. Tốn kém thì giờ, tiền bạc. Giao lưu với bạn bè trong giới, ngoài giới. Lại còn du lịch để gợi hứng, thư giãn tinh thần, không thể thiếu được. Những đòi hỏi khiêm tốn về “hạ tầng cơ sở” ít ai thấy. Bấy lâu, ta nghe mô tả những nhà văn nổi danh hồi thế kỷ thứ XIX sống nghèo nàn nhưng ta quên rằng nhà của họ ngổn ngang những sách, lắm khi họ la cà ngoài quán; một kiểu đọc sách trực tiếp vào cuộc đời. Nhu cầu tham quan, để không là “ếch ngồi đáy giếng”, thêm tự tin, gạn lọc sự hiểu biết. * * * Đọc bài thơ, thay cho đọc kinh kệ lúc cầu Tiên (mượn cơ bút để nhờ chỉ dạy) là việc có từ lâu. Theo tư liệu về buổi Lê-mạt do Hoàng Xuân Hãn sưu tầm, thấy lúc Lê Chiêu Thống chạy sang Trung Hoa, tuyệt vọng, các di thần còn ở lại vẫn tìm sự an ủi vào lời Tiên dạy. Thuở nhỏ, từng được nghe bài kinh cầu Tiên, tưởng chẳng còn ghi chép được, tình cờ gặp lại. Vào khoảng 1928-1930, trình độ của người công chức thời Pháp, của giới điền chủ đã được phản ánh cụ thể qua bài kinh chân thành, thô sơ, kém bay bướm. Điều quan trọng vẫn là thế giới riêng tư, kín đáo của người tham dự, với ban hòa tấu nhạc cổ truyền và lời tụng nghiêm túc, rõ từng tiếng. Có tư liệu cho rằng bài nầy xuất hiện từ năm 1917, ở đàn Tiên Cái Khế (ngoại ô Cần Thơ), do chư Tiên ban cho: - Trời còn, sông biển đều còn, Khắp xem cõi dưới núi non đượm nhuần. Thanh Minh trong tiết vườn Xuân, Phụng chầu, hạc múa, gà rừng gáy reo. Đường đi trên núi dưới đèo, Lặng tìm cao thấp ải trèo chông gai. Phận làm con thảo há nài, Biết phương Tiên, Phật, Bồng Lai mà tìm. Xem qua xét lại cổ kim, Một bầu trời đất thanh liêm chín mười. Vàng trau ngọc chuốt càng tươi, Bền lòng theo Phật cho người xét suy. Thần, Tiên vốn chẳng xa chi, Có lòng chiêm ngưỡng nhứt thì giáng linh! Chú thích: Bốn câu sau do tín đồ đặt thêm bổ sung vào. Lặng, phải chăng là im lặng, hoặc là lặn (lặn lội)? Việc tu tiên một thời phổ biến mạnh, chiếm ưu thế gần như tuyệt đối trong ý thức người miền Nam, cuối thế kỷ XIX qua đầu XX. Bà Sương Nguyệt Anh lên Điện Bà (Tây Ninh). Trước đó, ông Cử Đa (Nguyễn Thành Đa) ở Vĩnh Kim (Mỹ Tho) có lẽ là người đầu tiên đến núi Tà Lơn, tu Tiên đắc đạo, nhưng thành tích kháng Pháp của ông còn mơ hồ, bấy giờ là phong trào Cần Vương, thời Hàm Nghi xuất bôn. Sau đó, phía Cần Thơ, ta nghe ông thầy Trung ở Cái Da, lại còn huyền thoại Thủ Khoa Huân cũng hóa Tiên. Đáng chú ý là các người khai sáng tôn giáo (như Ngô Minh Chiêu) đều đi núi Tà Lơn, để cảm thông với chư Tiên, kiểu thụ phong bí mật. Núi này gần ranh Hà Tiên, thuộc Cam Bốt, tỉnh Cần Giọt (Kampot); bản đồ ghi Núi Voi, dịch tên theo Pháp, người địa phương gọi Popot-Vil (núi có những áng mây xoáy tròn quanh đỉnh) sát chân núi là bãi tắm, đỉnh cao 900 mét gọi Boc Kor, nơi nghỉ mát lý tưởng của người Âu, như Đà Lạt, từ đỉnh trông xuống biển là dốc đứng thẳng. Năm 1885, cao điểm của phong trào Cần Vương vẫn rơi rớt ở gần Tà Lơn, xảy ra cuộc khởi nghĩa của Quản Hiếm (Khiếm), thuộc hội kín từng tham gia cuộc khởi nghĩa Nguyễn Trung Trực. * * * Vào mùa nắng, từng cụm khói đốt đồng chạy dài, bốc lên qua ngày đêm, người Đồng Tháp Mười, Mộc Hóa chẳng ai buồn hỏi chân trời rộng và cao đến mức nào. Mộc Hóa tương đối trù phú, gần gũi mà xa xôi, bám ven bờ sông Vàm Cỏ Tây, chứng kiến nhiều nỗi buồn vui từ thời mở nước. Phụ lưu là rạch Chanh, nơi chúa Nguyễn và Tây Sơn bao phen tranh chấp để nắm được đầu mối nối đồng bằng sông Đồng Nai đến đồng bằng sông Cửu Long. Đồng bằng này phì nhiêu, xưa gọi là Ba Giồng, ăn từ giồng Cai Yến của Long An (lăng Nguyễn Huỳnh Đức) đến tỉnh Tiền Giang, bờ sông Tiền. Đình làng bao lượt trùng tu, nhang khói âm thầm kể lại bao chuyện xưa tích cũ. Tiếng chuông tiếng mõ của ngôi chùa rêu phong dường như trầm mặc, không rao giảng rõ rệt điều gì về nhân sinh. Và nụ cười bao dung của đức Phật vẫn hiển hiện, ai hiểu như thế nào cũng đúng. Cây cổ thụ khó sống được ba thế kỷ, vài cây hơn thế kỷ thì đang thoi thóp, thân xác không trọn vẹn qua gió đạn mưa bom hoặc tự mình đã lão hóa, gãy rụng từng cành, lá vàng lá xanh ngày càng thưa thớt; gốc đã rỗng vẫn còn đủ chỗ để cất giấu rất nhiều bất công chẳng biết từ đâu đưa đến, cứ chồng chất rồi gần như hoàn toàn bị xóa mờ trong đêm tối của thời gian. Vàm Cỏ Tây thân thương là đây, xưa mang tên Vũng Gù (bến uống nước của vài bầy bò). Tương đối xa biển, nước không đủ độ mặn, cây dừa nước khó phát triển, sống èo uột. Cây bần gần như vô dụng mọc sát bãi như đứa con hoang vẫn làm việc kín đáo, không kể lể công lao, rễ bần đan dưới đất nhiều mạng lưới để đánh bắt và giam giữ tại chỗ mớ phù sa chua chát từ phía thượng nguồn xiêu dạt về. Con sông ít tàu bè qua lại, như người thiếu phụ vắng chồng, may ra gặp vài phút giây lãng mạn qua giọng hò cô đơn, thiếu người đối đáp của giới thương hồ về đêm. Long An là phần đất trong địa bàn hành chính tỉnh Gia Định từ đời Minh Mạng qua Tự Đức. Cần cù, lạc quan mà không ầm ĩ. Nghèo mà không quá nghèo; nhờ gần Sài Gòn - Chợ Lớn mà không quê mùa. Từ đầu thế kỷ, nhiều gia đình đã dọ dẫm, di tản về phía Trà Vinh, Rạch Giá cầu mong tìm sinh kế theo sức hút của bản Vọng cổ Hoài Lang do một người con của đất Long An cao hứng sáng tác cho riêng mình, xa quê mà lòng mãi hướng về quê. Gạo đặc sản Nàng Thơm không đủ khả năng nuôi dưỡng những xóm nhỏ đã định hình từ thời xưa, nay thì nhà nào nhà nấy quá đông con, đông cháu. Vịt bầy chạy thong dong trong đồng lúa vừa gặt xong, tô điểm chút màu sắc phù du. Trái khóm vàng tươi, chua và ngọt vẫn bày bán dọc theo đường, gần cầu Bến Lức. Dưới bóng cây bạch đàn, ta cứ nằm võng mà ăn tại chỗ, đầu đội trời chân đạp đất nghêu ngao vui thú yên hà. Chưa đến nửa khuya mà thị xã Tân An đã mỏi mòn trong yên lặng, đêm mưa dầm, đôi khi còn nghe được tiếng động cơ của ô-tô, của xe gắn máy đi ngược về xuôi, phía Quốc lộ, con đường thiên lý nối Lạng Sơn đến Cà Mau. Những tấm lòng hiếu khách, nhẹ phần thù oán, nặng về tình nghĩa, rủi như không có tình sâu thì cũng âm thầm giữ gìn chút nghĩa nặng, rất khiêm tốn trước số kiếp: - Bần gie, con đốm đậu sáng ngời. Lỡ duyên tại bậu, trách trời đang? * * * Ngày giỗ, ngày Tết, có lẽ từ Quảng Trị trở vào, thường bày mâm cơm nhỏ cúng trước sân, gọi mâm Đất đai. Đất đai, theo Huỳnh Tịnh Của là “một chỗ đất, một xứ nào (nói trỏng), thần đất đai”. Như vậy đã rõ nghĩa, đai là tiếng đệm cho êm tai. Nhưng lời khấn trước mâm cúng thần Đất này thường là: “Đất đai viên trạch, tiền hiền khai khẩn, hậu hiền khai cơ, ông bà đất nước”. Tôi hiểu đất đai là đất ruộng, viên là vườn (viên lang, vườn cau), trạch, hiểu là nền nhà (thổ trạch). Khấn với thần ngự trị đất ruộng, vườn, nền nhà. Người không cục đất cắm dùi, khổ thay, vẫn khấn vái như trên, ước vọng ngày nào đó sẽ có ruộng, vườn. Giấc mơ tiểu nông. Chính giấc mơ nầy là động lực thúc đẩy ông cha ta ngày xưa chịu cực đi mở nước. Nhưng vẫn còn thắc mắc. Vài nơi khấn hậu hiền khai canh, thay vì khai cơ. Tùy địa phương, chẳng nên cãi vã, mất lòng nhau. Quan sát nhiều ngôi đình ở Sài Gòn và phía đồng bằng, thấy ghi trên bàn thờ tiền hiền: - Tích nhật thi công, kim nhựt hưởng, Tiền niên xuất lực, hậu niên vinh. Đây là bàn thờ Tiền hiền, đình An Phước (Thạnh Lộc, Hóc Môn). Ông Tiền hiền thay mặt cho nhóm khẩn hoang đầu tiên, thi công, ra sức phá rừng, tự phát. Bàn thờ Hậu hiền ở đình nói trên ghi: - Sáng nghiệp hữu công, thiên thu đức, Khai cơ thành vạn ức thiên ân. Là khai cơ, không phải khai canh. Sáng nghiệp khai cơ, tôi hiểu là những vị đứng lên đệ đơn lên nhà nước, xin phép lập một làng mới, mong cấp trên xuống đo đạc, lập bộ sổ, để chọn lựa hương chức hội tề. Thờ người ra sức khẩn hoang (khai khẩn), thờ người đệ đơn xin hợp thức hóa, lập đơn vị hành chánh mới, gắn bó với nhà nước (khai cơ). Nếu khai khẩn rồi lại khai canh, e trùng lặp chức năng chăng? Ngôi đình An Phước với mặt bằng rộng, day ra sông Sài Gòn; bên kia bờ là vùng Lái Thiêu, cũng khẩn hoang sớm, từ thời Gia Long đã lập làng. Ban sơ, dân đinh rất ít, chừng mươi người đứng tên, còn dư là số dân lậu, khi làm ăn khá sẽ đăng ký sau. Gia Định Thành Thông Chí, đời Gia Long đã ghi làng An Lộc, An Lộc Đông, An Thạnh, sau nầy nhập lại. Ngày nay trong đơn vị hành chánh xã Thạnh Lộc, ta thấy có mặt 5 đình: An Phước, Giao Khẩu, Thạnh Phước, Quới Xuân, Quới An và một miễu bà Chúa Xứ. Đây cũng là trường hợp những làng xưa, đông dân phía Cần Đước. Nhiều đình thì khó bảo quản, thêm chi phí cúng tế, lắm khi là xã nghèo, chung quanh không có chợ, ruộng rẫy đôi khi mất mùa. Đối với đất mới phía Nam, mỗi đình, mỗi miễu xưa là một cột mốc của văn minh Việt, xác nhận xưa kia là rừng rậm, không là đất lành có sẵn. Từ đất hung dữ với môi trường sốt rét, sống trong chòi, không hàng tiêu dùng, nợ nần chồng chất, sanh đẻ theo cổ lệ không khoa học, dịch tả, đậu mùa... để có đất lành là quá trình gian nan. Và gìn giữ đất, chống ngoại xâm càng khó khăn hơn. Đình An Lộc nầy, tình cờ tôi được làm quen. Làng xưa ba thế kỷ nhưng gần Sài Gòn với kinh tế thị trường. Cũng vì gần Sài Gòn, các vị trong đình không câu nệ: Cái trống tuy nhỏ về hình thức nhưng phát ra những âm thanh độc đáo, vừa lan rộng vừa lắng sâu. Thân trống gồm nhiều mảnh ván ghép lại theo chiều dài, hỏi thì biết là cái thùng đựng rượu chát nhập từ bên Pháp. Ván cây sồi (chêne) ráp chặt chẽ, chất chát của rượu làm ván nở ra, rượu không chảy. Âm thanh phải chăng nhờ rượu nho thẩm thấu vào thớ cây sồi bên trời Âu mà trở nên trầm lắng, ngọt ngào tận ven sông Sài Gòn, giữa vườn cau, rẫy mía. Về nghi thức tế lễ, tuy thiếu tiền bạc nhưng lệ xưa “Ế mao huyết” được cử hành không thay đổi. Khi tế thần, cần chú trọng phần “huyết thực” mà thần được quyền hưởng. Tế phẩm phải có máu tươi (dê, heo, bò...). Khi cử hành lễ tỉnh sanh (tỉnh là “tinh khiết”, còn gọi là tịnh sanh), người đâm con heo phải khăn áo chỉnh tề, thắp nhang vái, cho uống chút rượu, đốt vàng bạc lắm khi còn tụng kinh Vãng Sanh cho con vật hy sinh. Tôi hiểu là dùng con heo thế cho mạng người; hy sinh theo lệ hồi còn ở hang động. Rồi con người tìm ra lửa, biết làm ruộng, chăn nuôi, không còn săn bắn lượm hái như trước. Heo là “hy sinh”, lấy máu tươi và chút lông ở gáy để trong cái tô. Huyết và lông này tượng trưng cho toàn thể con heo sống. Đậy tô lại với giấy vàng bạc thứ lớn. Đọc văn tế rồi đốt bài văn tế viết trên giấy mà rắc vào tô huyết và lông, thành kính đem đổ xuống sông Sài Gòn hoặc chôn quanh miễu Thần Nông. Cái trống làm với thùng rượu chát (rượu vang), lệ ế mao huyết, tôn trọng phần huyết thực mà thần được hưởng, đó là điều thú vị khi đến viếng ngôi đình An Phước. Bom đạn tàn phá, ngôi đình trùng tu chưa xong, nhưng nền là đất xưa. Truyền thống xuất phát từ lòng đất. * * * Một tư liệu, trích từ lá thư đáng tin cậy của người đương thời, đăng tập san Illustration số 14, ngày 14-3-1857, tức là lúc thành Gia Định chưa bị đánh phá (1859), ký tên tắt là Ch...Ge... (giấu tên) - “Vua Minh Mạng là nhân vật duy nhất đã biết và hiểu thấu đáo phong tục tập quán, nguyện vọng của thần dân. Nhà vua này đã cai trị bằng sự khủng bố và hành hình, tra tấn những ai không tuân lệnh. Mặt tích cực, tốt, nhưng nhỏ bé đã thực hiện được dưới trào của ông vua này trong thực tế là do vị Tacoun già (hiểu là Tả quân), xuất thân thái giám đã từng là công thần đời Gia Long. Tả quân là một nhà cai trị rành nghề, cũng là một viên tướng đầy mưu lược.” Tả quân, Thái giám nói trên chính là Lê Văn Duyệt. * * * Tình cờ gặp quyển sách nhan đề Frimaldjezar của nhà văn Albert Bensoussan (Calmann-Lévy) ấn hành năm 1976, sau ngày giải phóng Sài Gòn nên đối với tôi là quyển sách lạ, của tác giả gốc Bắc Phi, viết thẳng bằng chữ Pháp, kể lại kỷ niệm thời thơ ấu ở vùng ven Địa Trung Hải, với những phong tục chịu ảnh hưởng đạo Hồi và đạo Do Thái. Những kỷ niệm thời thơ ấu được tác giả kết thúc ở trang chót với ý muốn xóa mờ, xóa hẳn, không muốn nhớ, không muốn thưởng thức nữa vì là hình ảnh của một thế giới thơ mộng nhưng trong thực tế là lạc hậu, nghèo đói. Dẫu muốn hay không, xã hội ngày nay đã biến đổi, với sự lấn át cụ thể của khoa học kỹ thuật, trong xã hội ít nhiều công nghiệp hóa. Nhớ để làm gì? Tác giả cầu mong cho mình được giải thoát khỏi những hình bóng cũ đã làm cản bước tiến hóa xã hội, mặc dầu xã hội mới đòi hỏi nhiều nhọc nhằn để thích ứng, nhưng mọi người dầu muốn hay không cũng phải thích ứng sự tranh chấp giữa thời thơ ấu còn tồn đọng trong ký ức và nếp sống mới đang lôi cuốn. Xã hội cũ có phong tục quen thân, nhưng chứa nhiều bất ổn, áp bức. Nên “trở nghiêng gối mộng”. Riêng tôi, vẫn mãi mãi xúc động trước nét đẹp quê hương mà hồi thơ ấu nghe cha mẹ, bà con nói đến; lớn lên mới gặp được cụ thể, như biển Hà Tiên, Hòn Chông, khu vực Hòn Phụ Tử. Những tảng đá, hải đảo nhỏ mà khi nhìn vào bản đồ Đông Nam Châu Á, thấy như là vùng biển khép kín. Nhưng với người địa phương, và người phía Tây Nam thì rõ là bao la. Đỗ Phủ với Thu hứng mô tả nỗi buồn của trời đất, Phan Huy Vịnh dịch: Lưng trời sóng gợn lòng sông thẳm Mặt đất mây đùn cửa ải xa... Sóng gợn, từ con sông rộng, như tiếp giáp, liền lạc với chân trời. Và mặt đất có mây thấp gom lại phía xa gợi hình bóng của cửa ải. Ở Hà Tiên, biển rộng chớ không là Động Đình Hồ. Vào cuối tháng Giêng âm lịch, mặt trời đã lên cao nhưng không ai thấy mặt trời. Mờ hơi sương. Trong bờ, vài chiếc ghe lưới nhỏ, không động cơ, “nằm bệnh” chờ ngày không còn được sử dụng nữa. Và chủ ghe chẳng màng tu bổ. Dân không giàu không nghèo, là thắng cảnh nhưng người địa phương xem như cảnh bình thường. Đường xa xôi, nhiều ổ gà, du khách đến như đi hành hương. Hành hương để nhìn lại thắng cảnh chớ không mang tính tôn giáo. Trẻ con địa phương sống nhàn rỗi, học hành cầm chừng, cũng như tiềm năng hải và nông sản có giới hạn. Đồng bào tuy siêng năng nhưng làm ăn “cầm chừng”. Nhớ câu thơ của Mạc Thiên Tứ hồi giữa thế kỷ thứ XVIII“Đâu no thì đó là an lạc. Lọ phải chen chân chốn thị thành”. Tiếng cu gáy từ rặng tre thưa thớt bên sườn đồi. Theo con đường đầy cát trắng, gặp hàng xương rồng được trồng để làm ranh giới tạm giữa bãi cát và lộ xe. Vài con heo đi lang thang, tìm thức ăn tùy tiện; nhờ vận động, heo mau lớn, không làm ô uế cảnh vật, mặc dầu tự do phóng uế! Mờ hơi sương, từ gần đến xa. Biển không màu sắc rõ rệt như tiếp giáp với bầu trời cao mờ nhạt cũng không màu sắc. Không gợn mây, không mát hơi gió. Không sóng gợn, không mây đùn, không có thuồng luồng, không có rồng để khuấy rối bất ngờ từ đáy biển. Hình ảnh rõ nét duy nhất là cậu bé chèo chiếc xuồng nhỏ, phía ngoài xa, trông im lìm; chiếc xuồng và thân thể đứa bé tiếp giáp nhau, cùng một màu đen. Chiếc xuồng lơ lửng trên cao. Đứng trong bờ nhìn ra, ta ở nơi thấp, thế mà nước biển không tràn vào. Bề mặt quả địa cầu cong lên, vì địa cầu hình tròn. Ấy thế mà mấy ngàn năm qua, dường như người Á Đông chẳng chịu xác nhận một thực tế đơn giản, dễ thấy; cứ bảo quả đất và biển không là khối tròn, mà bằng phẳng vuông vức. Khung cảnh sẽ biến đổi nhanh. Năm sau, trở lại đây, nhà cửa, khách sạn sẽ mọc lên, với du khách từ phương xa, mang theo máy ảnh, lon bia, băng nhạc xập xình, để lại những đống rác phần lớn là hóa chất. Tôi nhìn cảnh vật, hồi hộp, như người du khách nào đó ra miền Trung đang cúi mình xuống, lượm một mảnh gạch vụn của Tháp Chàm, ngôi tháp nhỏ vô danh. Rồi gói ghém đem về bảo lưu như là một mảnh vụn của sự vĩnh hằng. Thằng bé chèo xuồng trên mặt biển cao, qua cái nhìn của du khách đứng nơi đất thấp. Sống và chết. Người và cảnh. Tất cả như chan hòa, không phân biệt trong phút giây siêu thoát. Hòn Phụ Tử nhỏ bé nhưng hoàn chỉnh, đẹp từ trong bờ nhìn ra; nếu từ ngoài khơi nhìn vào, ta sẽ thất vọng vì chẳng gợi hình thù gì cả. Mạc Thiên Tứ chọn 10 cảnh đẹp của Hà Tiên nhưng bỏ rơi thắng cảnh nầy, chẳng hiểu tại sao? Đại Nam Nhất Thống Chí biên soạn về sau (đời Tự Đức), gọi là đảo Con Thỏ. Trụ đá cao thứ nhì, với khối đá nhỏ sát phía trước gợi bóng dáng con thỏ đang quì gối. Ngày nay, Tây phương bày ra cái chữ “des parcelles d’éternité”, tạm dịch “những mảnh vụn của sự vĩnh hằng”. Cục đá của di tích, cánh sen của hồ Tĩnh Tâm lăng Tự Đức, phiến đá ong ở ngôi đình xưa phía Gò Vấp, viên đá cuội, mảnh san hô của Nha Trang, Trường Sa... Hấp dẫn nhất vẫn là những bức tranh của họa sĩ đã định hình theo trường phái nào đó. Với con người bình thường, bận rộn về sinh kế, có thể là bóng dáng gốc me cổ thụ bên đường phố quen thân, hoặc làn gió mát phía Long Hải, Bảy Núi. Riêng tôi tuy bị bạn bè, nhuận bút, sách vở bao vây mà cũng thử tỉnh táo mà nhớ bao nhiêu năm tháng đã trôi qua hòng đối phó với nhiều sự cố nhỏ mà phức tạp sắp xảy đến. Đi biển Hà Tiên, Hòn Chông, luôn luôn đem quyển sổ bỏ túi, với dự kiến ghi chép những gì mình thích, nhưng chẳng bao giờ ghi chép gì cả, trở về nhà với quyển sổ còn trắng và cây bút bi không chảy thêm nét mực nào. Ngồi trên chiếc ghe nhỏ nhờ một em bé ở trần đưa ra biển, dọc theo vách đá, với giá rẻ. Ghe đã gần nát, máy nổ to phình phịch, khó đi xa, em bé thử làm nghề hướng dẫn theo kiểu nghiệp dư. Mới hay kiến thức phổ thông về địa chất của mình còn non cạn. Bấy lâu tưởng rằng hễ là đá vôi thì có thể hầm ra vôi, hoặc chế biến xi măng; đá vôi mềm, đá hoa cương cứng, vân vân... Trong thực tế, nhiều khi đá vôi đã biến chất do tác động hóa học của mưa, nắng, gió từ nhiều năm. Đá trở nên cứng, gãy ra từng mảng nhỏ, bén như dao cạo, nằm ngổn ngang. Bước lên những đống đá vôi nầy, với đôi chân trần, nếu cựa quậy là đứt da, máu rướm lập tức vì vết thương khá sâu. Phải chăng là đá “kạt” (kartz); tra tự vị tôi mới vừa học thêm. Trên vách đá vôi đầy hang hốc gần Hòn Chông, gặp cái hang nhỏ, vài con chim bay ra. Hỏi: “Ở đây có ổ yến à? Nếu là yến thì nên dưỡng, ổ yến bán đắt giá”. Đứa bé cười: “Cháu nghe nói con yến biển Nha Trang, hoặc ở mấy hòn ngoài khơi xứ nầy, hồi xưa. Đây là bồ câu người ta nuôi trong bờ, lâu ngày chẳng ai săn sóc; bồ câu bay lạc ra ngoài nầy, sống yên thân hơn. Nó không ăn bọt nước hay là ăn cá con. Bởi vậy ban ngày bay tới lui vô đất liền kiếm lúa gạo”. Lại gặp những cây thiên tuế bám vào vách đá, loại có củ tròn, không giá trị đối với người chơi cây cảnh ở Sài Gòn. Vài bụi cây như thiết mộc lan nhưng lá to, như cây chổi, từ xa trông lên núi, như là bụi cỏ nhỏ bé. Sóng biển lăn tăn, trời xanh, vài đợt mây. Nước biển đổi màu, linh động, vì ánh nắng thay đổi, nước biển nặng phù sa, chứa khoáng chất loại gì đó. Mũi Ông Cọp, gần thắng cảnh Lư Khê. Lư (Lô) là cá vược, như loại cá chẻm to, ăn ngon, Mạc Thiên Tứ hồi thế kỷ XVIII từng xây ngôi nhà nhỏ nơi đây để câu, lúc rảnh rỗi việc quan. Con rạch Vược (khe nước, có thể gọi là suối) bị lấp từ mấy mươi năm qua, chẳng thấy dấu vết, nghe đâu còn khúc ngọn phía cánh đồng trong xa, cạn dần. Bãi cát chạy dài quanh co, suốt đôi chục cây số ngàn. Đủ ngư, tiều, canh, mục. Cày ruộng với trâu, trên mảnh đất nhỏ vài con trâu mập, vài con nghé. Thằng bé ở trần, đội cái mũ lưỡi trai kiểu Sài Gòn. Ngoài khơi, thuyền đánh cá với động cơ, gần bờ là thuyền buồm nhỏ, thuyền chèo. Cá tôm ít, đặt “rập” bắt con ghẹ. Đất núi có chủ, để cây mọc loạn xạ mà đốn là chất đốt. Không giàu, không nghèo, trẻ con mặc áo quần may sẵn. Phần lớn là gốc Hoa lai Khơme, lai Việt, ai nấy vui tươi, an phận; rời thôn xóm, đến quận hoặc tỉnh lỵ, khó bề làm ăn vì kém lanh lẹn, với chút ít tự ti. Là con cháu những người Hoa nghèo nàn, mới đến hơn trăm năm qua để làm công trong những vườn tiêu mà người Pháp mở ra đại trà, để xuất khẩu, lại thêm giới trồng tiêu chuyên nghiệp người Hoa từ nước Campuchia tràn đến (bên ấy, ở vài nơi, dây tiêu là giống nguyên sinh). Rồi giá tiêu xuất khẩu lần hồi giảm xuống. Tiêu trồng trên sườn đồi, nhờ nước mưa, đặc trưng của dây tiêu là cần nhiều nước, nhưng không được úng gốc. Vịnh Thái Lan, phía Việt Nam là nơi có lượng mưa cao nhất Nam Bộ, nhờ gió mùa Tây Nam - Đông Bắc thổi thẳng vào, như chui vào trong cái quặng (phễu). Bám đất, không mang ước vọng làm quan, từ bao đời. Không phải là hậu duệ của người Hoa thời Mạc Cửu, thế kỷ XVII, XVIII. Ở Hòn Chông, còn ngôi chùa (miếu) thờ ông Thao Công, hiểu là Bổn Đầu Công, dạng Thần Tài. Chùa nhỏ bé, với cái chuông nhỏ ten rỉ, thuở xưa là chuông mới nhưng qua thời gian, xuống cấp vì chất lượng kém, đời Quang Tự, năm Đinh Dậu (1897). Khoảng 1885, người Pháp lập nơi đây một cảng nhỏ, trạm dừng của tuyến đường Sài Gòn - Hòn Chông, Kampot (Campuchia) rồi Bangkok. Rốt cuộc, công ty hàng hải phá sản vì thiếu hàng để chở, họa chăng đem ích lợi cho vài tay thuyền trưởng đi buôn thuốc phiện lậu, lấy từ Bangkok về Sài Gòn. Người khởi xướng việc trồng tiêu để xuất khẩu ở Hòn Chông là Paul Blanchy, Đô trưởng Sài Gòn (nhờ công lao ấy mà được đặt tên đường, nay là Hai Bà Trưng). Viên đô trưởng này thích khai thác cây công nghiệp, bị phá sản luôn với kế hoạch tốn kém là thử trồng cây cà phê trên núi Châu Thới! * * * Trở lại Lư Khê, như đã nói, rạch đã lấp phía biển, nơi câu cá vược của nhà thơ họ Mạc đoán chừng xê xích khoảng một ngàn mét, cũng chưa dám ắt. Gần rạch này, thuộc xã Thuận Yên có mũi Ông Cọp nhô ra biển, lộ xe thiết kế trên sườn đồi, dốc đổ thẳng, con lộ chạy quanh mũi. Sát bên đồi, xưa kia rừng rậm, giả thiết cọp dữ ra vào cũng có cơ sở vậy. Ghé vào căn nhà nhỏ, ba mặt là biển, thấy hứng thú. Biển vắng người. Hà Tiên cá tôm ít, gần như không đáng kể so với phía Nam từ vịnh Rạch Giá dài đến mũi Cà Mau. Căn nhà tạm, theo qui hoạch, cấm xây với vật liệu nặng. Chủ nhà còn cơ ngơi khác, khang trang hơn với vài mươi cây dừa, chút ít ruộng bên kia lộ xe, sát chân đồi. Bà chủ nhà đang lo bếp núc, trước cửa là cái kệ nhỏ, chưng bày nước ngọt đưa từ Sài Gòn về, thêm mấy hũ kẹo Thái Lan, cũng có nước đá (nước đá khá nhiều ở đây, nhu cầu ướp tôm cá). Ngoài sân, hai chiếc đệm, phơi tiêu mới hái. Chiếc thứ nhất đầy tiêu đỏ ối, màu trái ớt chín, thấy mà thèm, loại thượng hạng cay và thơm lừng; chiếc thứ nhì phơi tiêu già, vỏ xanh đen qua vài con nắng. Tôi vào ngồi mà hút thuốc, chủ nhà, một phụ nữ khoảng 40 vẫn tiếp tục làm việc dưới bếp, không hỏi khách cần uống món gì. Lát sau, thấy ngồi mà không uống thì hóa ra thiếu lịch sự, tôi bèn gọi chai nước Coca. Một chiếc bàn, đôi ba ghế nhỏ. Gió thổi nhẹ, trời biển xanh, vài chiếc xe đạp, xe gắn máy chạy qua. Hỏi để mua thì bà chủ bảo: “Có thứ tiêu ngang, bình dân, giá 6 ngàn rưởi nửa kí, vẫn là ngon một tám một mười so với thứ tiêu chín đỏ. Tiêu chín, đem về phơi, nhẹ cân, không còn đủ nửa kí đâu”. Tôi bèn mua nửa kí tiêu chín. Chủ nhà cân, gói lại. Lát sau, từ giã. Chủ nhà chúc đi đường bình yên và cho biết đến chợ Hà Tiên thì không xa. - Dạo chơi, quán cũng như nhà. Lều tranh có nghĩa hơn tòa ngói cao. Câu hát thâm trầm, nhạc điệu du dương ấy bỗng dưng nổi lên trong tâm tư, nào phải vì tôi có năng khiếu “nhớ dai”. Mẹ đã nuôi tôi với sữa mẹ và chăm sóc tôi khi buồn ngủ với lời hát ấy. Nửa thế kỷ rồi, tưởng quên hẳn, ngờ đâu hôm nay “tình nầy cảnh ấy” lại thôi thúc tôi nhìn lại cái thân phận làm con, làm người của mình. Nước mắt lại tươm ra. Đất nước đã tâng tiu, chăm sóc tôi, cũng như ánh mặt trời đã chăm lo cho cây cỏ từ buổi rạng đông đến khi nắng lên cao. Tôi lau nước mắt ngẩng đầu lên. Bà chủ quán như ngạc nhiên, không dám hỏi lý do. “Quán cũng như nhà”; mua bán nghiệp dư không cần lời to; ế ẩm cũng không nao núng. Khách lạ được đối xử như người chòm xóm, mặc dầu đến lần đầu, chưa ắt trở lại lần thứ nhì. Và có thể đến chết chẳng còn gặp nhau, nếu gặp chưa ắt có dịp chào hỏi, nhắc kỷ niệm nhỏ. Quán cũng như nhà! Thời buổi nầy lần hồi khó tìm cơ hội sống lại với bầu không khí chất phác, trong sáng giữa người và người. Nay mai, quen với siêu thị hiện đại sạch sẽ, gắn máy lạnh, sáng choang đèn điện, không một hột bụi trên tà áo, trên mái tóc của người tiếp viên luôn luôn cười tươi theo kiểu xã giao công thức, ta sẽ luyến tiếc cái quán ở mũi Ông Cọp nầy. Tôi kể lể dài dòng về ven biển Hà Tiên vì những năm sinh kế khó khăn, ruộng nương thất bát cha tôi thường đến vùng nầy. Không đủ nghị lực để tu hành, cha tôi ham dạo chơi cầu mong sống được giây phút thoát tục, “thấy từng mảng của sự vĩnh hằng”. Hồi bé, tôi thấy bờ biển Rạch Giá, với bãi bùn, không đồi núi bên cạnh, bằng phẳng, chẳng phân biệt đâu là đất cứng với bãi bùn nối dài. Chợ Rạch Giá ở sát biển, nhưng đã đô thị hóa, bờ cẩn đá, chống xói mòn. Hà Tiên còn vẻ mộc mạc, nghĩa là còn nghèo nàn, chậm tiến. Muốn tiến nhanh, ta phải tàn nhẫn xóa bỏ cái mộc mạc mà ta sẽ luyến tiếc khi đứng tuổi. Người ta sẽ phục chế vài thắng cảnh, bảo tồn từng mảng. Như giam giữ con cá mòi trong hộp thiếc, bỏ túi được, tùy thị trường mà thay đổi bao bì, ghi thêm vài hàng chữ quảng cáo, hoặc đặt tên khác. Cá chết, rục xương thao thức trong mớ gia vị có màu tươi tắn, lắm khi là hóa chất nhưng mơn trớn và hấp dẫn. * * * Đại Nam Liệt Truyện do Quốc Sử Quán triều Nguyễn soạn được dịch và ấn hành là tư liệu quí giá để tham khảo. Trước kia, tôi thấy trích dẫn rồi trích dẫn lại, không yên tâm cho lắm. Đâu vào năm 1964, sau cuộc đảo chánh Ngô Đình Diệm, đề cập đến đạo Phật là “trọng tâm” mà các báo đòi hỏi đối với người viết chuyên nghiệp, để được ăn khách. Tôi thử vận dụng triết học Phật và Lão vào những tâm trạng thầm kín của người chơi hoa kiểng, hòn non bộ. Bài rất ăn khách, gom lại thành tập nhỏ, nhan đề “Gốc cây, cục đá và ngôi sao”. Vào thư viện Nghiên cứu Ấn - Hoa ở Nhà Bảo Tàng (Thảo Cầm Viên) tìm vài tư liệu độc đáo, gặp bài khảo cứu (mà về sau không ai bì kịp) của cố đạo Cadière về Lũy Đồng Hới soạn vào năm 1906 (tập san BEFEO). Tác giả rất giỏi về cách phát hiện vấn đề, lại dẫn chứng nhiều tư liệu trích từ Đại Nam Liệt Truyện. Tôi đã viết bài “Ông Hoàng Hiệp và trận giặc năm 1673” đăng lại trong Nói Về Miền Nam (Lá Bối, 1967), nay bổ sung vài đoạn. Trịnh - Nguyễn phân tranh diễn ra về quân sự trong suốt 45 năm từ 1627 đến cuối năm 1672. Trận đánh lần thứ 7, cũng là trận cuối cùng xảy ra ác liệt, Trịnh cũng như Nguyễn nỗ lực một cách tuyệt vọng, để rồi chấm dứt với sông Gianh làm ranh giới. Chúa Trịnh là Trịnh Tạc đã dẹp họ Mạc phía Cao Bằng. Trong Nam, chúa Hiền (Hiền Vương) đã lợi dụng thời gian hưu chiến 10 năm trước đó để mở mang canh tác, tích trữ lương thực, đánh thuế khá nặng, sẵn sàng ứng chiến. Việc gì phải đến lại đến. Trịnh và Nguyễn đánh nhau, với bài bản giống nhau. Trịnh Tạc là chúa, nhưng cho con là Trịnh Căn (40 tuổi) làm Nguyên soái ra chiến trận. Trong thực tế, Trịnh Tạc đi theo để hướng dẫn con. Hiền Vương là chúa nhưng cũng cho con là Hiệp (20 tuổi) làm Nguyên soái, trong thực tế, Hiền Vương bám sát tình hình. Về danh nghĩa, chúa Trịnh hơn chúa Nguyễn một điểm về tâm lý: tuy nắm quyền hành, Trịnh Tạc vẫn cho mình là của nhà Lê, đang phò Lê, hoàng đế Lê Gia Tông cũng được cho “ngự giá thân chinh”, mặc dầu mới có 12 tuổi! Các tướng trực tiếp chỉ huy mới quan trọng hơn. Phía chúa Trịnh, có Lê Thời Hiến am hiểu chiến trường. Phía chúa Nguyễn, có Trương Phúc Cang giữ lũy Trấn Ninh là mặt trận chính. Lão tướng tài ba hơn là Nguyễn Hữu Dật bị đưa vào mặt trận thứ yếu ở lũy Sa Phụ với lý do thầm kín là Nguyễn Hữu Dật bị hồ nghi, mất lòng tin cậy đối với Hiền Vương; chiến lược của Hữu Dật là thỉnh thoảng giả vờ làm nội ứng cho chúa Trịnh, mặc dầu có báo cáo cho chúa Nguyễn hiểu là lòng dạ mình trước sau như một. Hơn nữa, vì tài năng lỗi lạc, vài người thân cận của chúa Hiền, đến viên tướng tài danh là Nguyễn Hữu Tiến (Tấn) cũng ganh tị (trước khi xảy ra trận đánh này, Nguyễn Hữu Tấn đã mất vì bịnh), nhưng Hiền Vương dè dặt là phải; biết đâu, khi trận đánh đang hồi nghiêng ngửa, rủi như Nguyễn Hữu Dật làm nội ứng khéo léo cho chúa Trịnh thì sao? Vào tháng 9 và tháng 10 dương lịch 1672, Trịnh Căn kéo quân đến, các tướng Trịnh và Nguyễn gờm nhau, dùng chiến thuật nghi binh, tâm lý chiến, hơn 3 tháng ròng rã rồi mới đánh nhau thật sự. Trịnh Căn lên tiếng tố cáo chúa Nguyễn không phục tùng nhà Lê, xây thành đắp lũy, bày sưu cao thuế nặng. Quân Trịnh tấn công thẳng vào lũy Trấn Ninh, và cố xây một lũy đối diện, đưa nhiều chiến thuyền đến lũy sông Gianh, chở đầy quân, chờ đổ bộ. Nguyên soái Hiệp khiến đắp thêm nền trên lũy để bố trí súng thần công, đồng thời cấp báo với Hiền Vương. Hiền Vương tham khảo ý kiến, đồng ý làm theo. Trần Đình Ân bèn loan tin thất thiệt. Trong khi Trịnh đưa tin kéo đến 10 vạn quân thì phía Nam Hà loan rằng thực lực của mình đông hơn, có đến 16 vạn, và đang mộ thêm một vạn nữa! Đồng thời đề phòng chúa Trịnh cho đổ bộ từ Đồng Hới đến Huế. Sứ giả của chúa Trịnh và của chúa Nguyễn đều đến lũy để đấu khẩu, giành lấy chánh nghĩa về mình. Phe chúa Trịnh buộc tội chúa Nguyễn chống lại triều đình chính thống là nhà Lê; mà kẻ bảo vệ nhà Lê chính là chúa Trịnh. Sứ giả chúa Nguyễn phản bác, cho rằng chúa Trịnh cướp quyền vua Lê, vì vậy phải đánh chúa Trịnh. Nguyễn Hữu Dật đến gặp hoàng tử Hiệp là nguyên soái của mình để dự đoán: “Ta nên tỏ thái độ dứt khoát, phe Trịnh sắp tấn công đấy”. Tháng 1 dương lịch 1673, tướng Lê Thời Hiến của chúa Trịnh hạ trại đối diện lũy Trấn Ninh, mở cuộc tấn công đầu tiên nhưng đành chịu thất bại. Trịnh Tạc quở mắng, cho tăng cường thêm ba ngàn quân, mở cuộc tấn công thứ nhì. Họ dùng chất nổ đặt vào chân lũy, thêm chất đốt, chất dẫn hỏa treo vào những con diều giấy để thả lên tận chót lũy. Lại đào hầm khá sâu tránh cơn mưa đạn do quân sĩ chúa Nguyễn nã xuống từ chót lũy. Qua một ngày dài chiến đấu, lũy bị phá hỏng nhiều chỗ, vài điểm cao bị chiếm rồi tái chiếm ba bốn lượt. Liệu chừng không xong, Trương Phúc Cang toan bỏ lũy để qua bên kia sông mà bố trí chiến tuyến mới nhưng hoàng tử Hiệp không đồng ý, e tổn hại sĩ khí ba quân. Hoàng tử nghĩ đến biện pháp sau cùng: cho người qua lũy Sa Phụ, truyền cho lão tướng Nguyễn Hữu Dật phải qua gìn giữ mặt trận lũy Trấn Ninh, bằng mọi giá. Nhận được lịnh ấy, Nguyễn Hữu Dật lạnh lùng trả lời đại khái: “Phận sự của hạ thần chỉ là gìn giữ lũy Sa Phụ này, chớ đâu được giao phó gìn giữ lũy Trấn Ninh. Bởi vậy, không dám đi.” Nguyễn Hữu Dật đã viện cớ ấy để không phục tùng quân lệnh. Như đã nói, tâm trạng của lão tướng này khá phức tạp. Tuổi cao, 69 tuổi, được bố trí ở mặt trận thứ yếu vì thiếu sự tin cậy. Hai mươi bốn năm về trước, khi còn là Cai Cơ, lãnh chức ký lục ở Quảng Bình, ông đã bị tình nghi là “thông đồng với địch”, bị bắt giam nhưng Hiền Vương ra lệnh khoan hồng, cho làm viên chức hành chính bên cạnh Hiền Vương, hòng theo dõi thêm. Kẻ thù trực tiếp của Nguyễn Hữu Dật là Tôn Thất Tráng đã ám hại, dèm xiểm. Trong chiến trận ở Nghệ An, dạo trước Tôn Thất Tráng tố cáo ông về tội “bí mật phản nghịch” thông đồng với chúa Trịnh lần thứ nhì. Mà Tôn Thất Tráng lại chính là cha vợ của hoàng tử Hiệp, người đang làm nguyên soái mặt trận này. Nguyễn Hữu Dật bất bình, nghĩ mình đã từng phò chúa Nguyễn hơn 50 năm qua, bằng xương bằng máu, từ thời chúa Sãi, qua chúa Thượng rồi chúa Hiền bây giờ. Thế mà chúa Hiền chỉ tin cậy vào Nguyễn Hữu Tiến, nếu viên tướng này còn sống. Nhưng phút giây bất mãn ấy thoáng qua. Nguyễn Hữu Dật bình tĩnh trở lại thực tế, bèn lên trên lũy Sa Phụ để quan sát chiến trận. Bên kia bờ sông, súng thần công nổ liên hồi, khói bốc mù mịt, che phủ lũy Trấn Ninh, chứng tỏ rằng phe chúa Trịnh sẽ nắm chắc phần thắng ở mặt trận chính. Hữu Dật lại nghĩ (trích Liệt truyện): “Nếu ta không đi, Nguyên soái (hoàng tử Hiệp) ắt phải thân đến. Ta há nên trút giặc cho Nguyên soái hay sao?” Lập tức dẫn quân đi, Hữu Dật sai người đẽo thân cây đa ở bên đường, viết mấy chữ rằng: “Hữu Dật đi phó Trấn Ninh, thỉnh Nguyên soái di binh đại thủ Sa Bộ (Phụ) (Hữu Dật đã đi Trấn Ninh, xin Nguyên soái chuyển quân đến thay tôi giữ lũy Sa Bộ nầy”. Trước đó, vì thấy Hữu Dật không đem quân đi tiếp cứu, hoàng tử Hiệp đem quân đi, dọc đường thấy mấy chữ khắc trên thân cây, bèn đến lũy Sa Phụ. Trời tối như mực khi Hữu Dật đến Trấn Ninh, binh sĩ chúa Nguyễn lớp chết, lớp bị thương, người còn sống thì chiến đấu gần như tuyệt vọng. Hữu Dật ra lệnh gom nhánh cây, cỏ khô, đốt lên sáng rực. Biết có viện binh đến, quân chúa Trịnh hoảng hốt, không dám tiến lên nữa. Suốt đêm, Hữu Dật đốc suất quân sĩ tích cực sửa khoảng lũy khá dài, bị phá hư, khoảng 30 trượng (120 mét). Chưa chi trời đã rựng sáng, phía chúa Trịnh lại tấn công. Hai bên liều chết, đánh nhau, quân sĩ Đàng Trong đã vững tinh thần. Xung phong, phản xung phong, nhiều ngày, nhiều lần như thế. Bao nhiêu người đã nằm xuống! Hiền Vương đóng quân gần đó, đến ủy lạo. Hữu Dật cam kết dốc toàn lực, tin vào chiến thắng vì đang ở thế chủ động. Thời tiết thay đổi, mưa lê thê, Trịnh Tạc nãn lòng lo âu. Đã vắng mặt từ sáu bảy tháng qua, liệu ở Hà Nội xảy ra biến cố gì trong phủ Chúa chăng? Đành cho rút quân. Một trận đánh quyết định mà kẻ thắng người bại không rõ rệt. Lê Thời Hiến không dám ở lại chiến đấu khi các chiến thuyền của Trịnh Căn đã rời cửa Nhật Lệ. Tất cả tù binh được chúa Trịnh cho quần áo, phóng thích tại chỗ, ai muốn đi đâu thì đi. Họ bị bắt đi lính, người địa phương, không theo phía này thì theo phía kia, gần như ngoài ý muốn. Hoàng tử Hiệp đã hiểu như vậy, và làm một động tác hào hiệp, nhân bản không kém. Xin trích Liệt truyện: “Sau khi quân địch rút lui, phàm những quân lính Bắc Hà bị bắt, Thuần (hoàng tử Hiệp) đều sai cấp cho tiền, gạo, quần áo, tha cho về, không giết một người nào. Lại đặt một lễ đàn trong thành Trấn Ninh tế tướng sĩ trận vong, cũng đặt một đàn ở ngoài thành Trấn Ninh để tế quân Bắc Hà chết trận”. Người chết bên này và bên kia lũy Trấn Ninh đều là dân một nước Việt, hoàng tử Hiệp hiểu sâu sắc như vậy, tất cả đều xứng đáng được giải oan, tình thế lịch sử đau xót đến thế. Thêm một chi tiết về ông hoàng 20 tuổi nầy, trích Liệt truyện. Thuần là tên chính thức, Hiệp là tên riêng, con thứ tư chúa Hiền Vương: “Trước kia, Thuần vâng mệnh ra quân, dưới trướng thường dùng giáp sĩ hầu ở tả hữu. Có người Quảng Bình là Bật Nghĩa (không nhớ họ) có một đứa con gái tuyệt đẹp, bèn đem tiến lên. Thuần nói: “Sắc đẹp thì đức kém, dùng gì của vưu vật ấy”. Khước từ không nhận, nhưng lại thương tình nhà nghèo, ban cho 10 quan tiền. Ai nghe chuyện này cũng phục là người có đức lượng. Đến lúc dẹp giặc xong, Thuần về nhà, bỏ gái hầu, làm chùa nhỏ, thờ Phật, bàn đạo huyền vi để tự lấy làm vui. Năm Ất Mão (1675) mùa hạ, phải bệnh đậu mùa chết, mới 23 tuổi”. Trận giặc lần thứ bảy giữa Trịnh - Nguyễn kết thúc như thế, với tấm gương của lão tướng Nguyễn Hữu Dật đặt việc nước trên những thắc mắc chính đáng cá nhân. Với bóng dáng đậm nét của một hoàng tử mới 20 tuổi, ra trận, chứng kiến bao cảnh thảm khốc giữa người cùng một dân tộc. Thắng trận mà đi tu, như kiểu sám hối, không cho riêng mình, nhưng là cho cả thế hệ. Ta thấy ngoài mặt trận mà dân nghèo đem con gái đẹp đến dâng cho, chắc là để nuôi gia đình, còn hơn nàng Kiều bán mình thuở xưa. Sông Gianh là ranh giới sau trận chiến nói trên, cả đất nước hưởng 100 năm thanh bình, nhờ đó, chúa Nguyễn rảnh rang dồn công sức và trí tuệ vào việc mở nước, đón nhận những di thần bài Mãn phục Minh người Hoa để khẩn hoang phía đồng bằng sông Cửu Long, đến tận Hà Tiên. Và cũng 100 năm sau trận nói trên, anh em Tây Sơn phất cờ khởi nghĩa, quân chúa Trịnh tràn vào Huế, lần đầu tiên; nhà bác học Lê Quí Đôn may mắn được theo, nhờ đó sưu tầm tư liệu về việc mở nước, lưu lại pho sách vô giá: Phủ Biên Tạp Lục. Thành phố Hồ Chí Minh nay còn giữ tên đường Tôn Thất Hiệp, nhưng đó là Hiệp của đời Tự Đức, góp công giữ chùa Kiểng Phước ở Chợ Lớn và đồn Phú Thọ. Hoàng tử Hiệp đi tu, hồi Nam Bắc phân tranh nói trên là trùng tên. * * * Marguerite Duras là một nữ sĩ tài danh của nước Pháp đang tạo được uy thế lớn về nghề nghiệp với số sách bán chạy, đứng đắn, dịch ra nhiều thứ tiếng khắp thế giới (ở Sài Gòn, có quyển Gã nhân tình, dịch từ Pháp ngữ), lại có phim Người tình được chuyển thể. Sanh năm 1914, năm nay tròn 80 tuổi, quả thật bà có bề dày về vốn sống, đáng chú ý nhất là bà chào đời tại Gia Định! Cha mẹ bà là người Pháp nghèo, đã nghe theo tiếng gọi của thực dân đến đồng bằng sông Cửu Long khẩn hoang, lập nông trại. Đây là vùng ven của khu vực mà nay ta gọi khu Tứ Giác, - đất phèn và mặn - mà đến nay chính quyền ta đang chật vật khai thác, đầu tư từng bước. Nhờ kỷ niệm ấu thơ ấy, bà vẫn giữ mãi nhiều cảm tình đối với người Việt, người Khơme bần hàn, hồi sau Đệ nhất thế chiến (1914-1918). Quyển tiểu thuyết Bờ đê chặn sóng gió Thái Bình Dương ra mắt năm 1950 đã đưa tên tuổi bà lên địa vị cao trong văn học Pháp. Đáng lý ra, nên dịch nhan đề này là Bẻ nạng chống trời. Chuyện gia đình người Pháp qua thuộc địa để khẩn hoang, nghèo nàn, không đủ tiền lo hối lộ cho bọn quan lại thuộc địa nên chỉ dành được phần đất xấu, phèn mặn. Muốn cải tạo, cha mẹ bà Duras gom vốn đắp một con đê bằng đất, nhưng hỡi ôi, đúng là “dã tràng xe cát”. Bờ đê bé bỏng này bị cua, còng, ba khía đục lỗ, đục hang, nước thẩm thấu, gặp giông to, bờ đê sạt lở. Bà đã thông cảm sâu sắc với người nông dân nghèo ở Hà Tiên, vùng đất này giáp qua Campuchia. Bà đã mô tả nhiều nét sống động khiến tôi (S.N.) là người từng sống nhiều năm ở vùng này phải ngạc nhiên. Mình sống ở quê hương nghèo, thời trước 1945, thấy quen mắt, cho là bình thường. Nhưng là người Âu quen với nếp mức sống bên quê xứ, bà đã so sánh và làm nổi bật nhiều nét. Thí dụ: - Trẻ con vùng đất phèn mặn Hà Tiên không được chăm sóc chu đáo, suốt ngày chúng tụ tập rong chơi trong xóm, ngoài những trò chơi trên đất liền, chúng còn bày những trò chơi đặc biệt khi lặn hụp dưới sông rạch. Trẻ con đói rách, thiếu dinh dưỡng suốt ngày sống bên rừng bụi, theo sau là bầy chó đói, ốm nhom. - Mùa nắng hạn, trẻ con chết nhiều, vì thiếu thực phẩm, chúng đành “ăn độn” với xoài chua. Vùng ven biển, sát đồi núi, mọc nhiều cây xoài rừng. Ăn xoài chua, uống nước phèn, dễ gây bệnh thổ tả. Trẻ con chết, như là chuyện bình thường, cha mẹ thương con, chỉ biết đào cái huyệt nhỏ bên cạnh nhà mà chôn. Rồi thì mẹ lại mang thai, đẻ năm một, sinh ra đứa khác. Cha mẹ của bà vẫn kiên trì khẩn hoang, phát thuốc ký ninh cho đám tá điền, nhưng làm sao cải tạo được phèn và mặn. Như ta biết, ngày nay, ta đầu tư lớn, đào nhiều kinh thủy lợi còn chưa kham, huống gì người Pháp chưa kinh nghiệm, bấy lâu chỉ quen với việc trồng lúa mì, dùng ngựa mà cày xới trên đất khô. Bà Duras không tiếc lời thóa mạ bọn công chức Pháp tham nhũng, đã cấp phát cho cha mẹ bà phần đất xấu, bấy giờ muốn được cấp đất tốt, phải đút lót. Mâu thuẫn giữa thực dân giàu, nhiều quyền lực và thực dân nghèo. Sự bất công này lại tiếp tục bao phủ lấy gia đình của bà. Mẹ nghèo, xin được chân giáo viên ở Sa Đéc, sau khi khẩn hoang thất bại, cha của bà mất. Ở tỉnh lẻ, bọn quan lại thuộc địa cấp cao vẫn khinh bỉ viên chức Pháp có đồng lương khiêm tốn. Sa Đéc, bến phà Mỹ Thuận mãi ám ảnh bà như là kỷ niệm tuổi thơ. Giới tư sản mại bản ở thuộc địa đã có mức sống cao, nhờ bám vào thực dân trong khi người chân chất (người Pháp) vẫn bị lợi dụng, khinh rẻ qua truyện Người tình. Thêm một điểm son khác khiến ta thấy bà rất gần gũi với người yêu nước Việt Nam thời chống Pháp, chống Mỹ. Bấy giờ, Đức chiếm Pháp, hồi đầu trận Đệ nhị thế chiến. Bà đứng về phía dân tộc Pháp, liên lạc với những cơ sở bí mật nội thành, nói theo ngôn từ của ta, bà là “cơ sở cách mạng, nằm vùng”. Bà bao che cán bộ, bị bọn mật thám Đức theo dõi để xuyên qua bà, chúng hy vọng sẽ phăng ra nhiều đầu mối khác. Một người yêu của bà đã bị Đức bắt, giam trong ngục, tưởng là chết vì tra tấn, bệnh tật, nhưng rốt cuộc vẫn sống sót, thân tàn ma dại. Ngành văn xuôi ở khắp thế giới gặp cơn khủng hoảng, mất dần độc giả vì cao trào của phương tiện “nghe nhìn”. Bà thử “dấn thân” viết những kịch bản phim ngắn, khá thành công, không có giá trị thương mãi nhưng bà muốn nói lên quan điểm của mình. Bà thử nghiệm khả năng của mình, sáng tạo ra một kiểu văn xuôi mới lạ, rất khó đọc, mỗi câu dài dằng dặc, tinh tế, không đối thoại, hiện tại và dĩ vãng đan quyện vào nhau; đọc từng đoạn thì thấm thía nhưng dễ bị “nhức đầu” vì đa số độc giả bận rộn sinh kế, thích những phim ảnh, tiểu thuyết dễ dãi, đọc và xem để giải trí suông. Chưa hết! Tuổi gần tám mươi, bà thử tìm lại sự định nghĩa của con người. Con người là sự pha trộn của những tình cảm cao siêu, hướng thiện nhưng bị dày xéo vì bản năng, như dục tính, đồng tính luyến ái. Bà bắt đầu đi sâu vào thế giới Đông Phương mà không hay! Con người là nạn nhân của “thất tình lục dục, với tham, sân, si”. Làm sao tiêu diệt được để “nhập Niết bàn”? Văn minh công nghiệp ngày nay, với hàng tiêu dùng đa dạng, hấp dẫn đã làm biến dạng con người, nào dục tính, tiền bạc, bạo lực mà nhiều người đã đề cao như là thứ “đạo đức mới”. Một nữ sĩ thật thà, bám vào cuộc sống. Văn chương của bà rất táo bạo, lắm khi mô tả chuyện thô tục nhưng không dơ dáy, như những họa sĩ vẽ tranh khỏa thân mà hoàn chỉnh. Để giới thiệu về trường hợp của bà, cần một công trình nghiên cứu có tầm nhìn rộng rãi. Nhắc đến bà, tôi chỉ ước vọng bày tỏ sự tri ân của một người Việt Nam đối với lòng vị tha, nhân bản của bà. Chống cường hào ác bá, tham nhũng, đứng về phía người bị áp bức thời thuộc địa đã xa, trong lịch sử của dân tộc ta. * * * Sống mãnh liệt với nội tâm, thi hào Victor Hugo tưởng tượng, hoặc liên tưởng đến hình ảnh đẹp: Ông lão già nua nhìn vào mặt trời đang lặn. Và mặt trời lặn cũng lạnh lùng nhìn vào ông lão nọ đang từ từ đi vào cõi chết. Như người nhập Thiền: không còn phân biệt ồn ào và im lặng. Biển, trời, đất đã nhập làm một với con người. Gần Hòn Chông, đảo Kiến Vàng không xa bờ, có ghi bản đồ. Nhỏ, xinh xắn, nhìn từ xa. Không nước uống, không đất để trồng tỉa, vì vậy chẳng ai tranh giành mặt bằng. Ngày nay, chẳng thấy kiến vàng, thử lên đảo, gặp toàn gai góc, cây còi... Vạch nhánh cây tìm lối đi thì nhánh quật vào mặt; chân không bám chắc thì trợt té, vách đá nghiêng theo dốc đứng. Hai nấm mộ xây gạch đơn sơ, của vợ chồng điền chủ nhỏ trong địa phương, đặt vào đây chắc là để chiếm phong thủy tốt, làm chủ một cõi giang san, từ khoảng sau năm 1920. Hỏi thì con cháu sau nầy ra tỉnh lỵ làm ăn, vài người trong dòng họ nghe đâu cũng đã khá giả. Gốc người Hoa. Từ đảo vào bờ, lúc nước ròng, sâu không hơn một mét, vì vậy, nếu dò được lòng biển, đứa trẻ có thể cởi áo mà lội ra vào, đi bộ với nụ cười bình yên. Trong vịnh Hà Tiên, nghe đâu còn nhiều đảo nhỏ như thế, không định cư được vì thiếu nước ngọt, trong khi nhiều đảo qui tụ mươi căn nhà, trồng dừa, trồng mảng cầu ta (na), làm bến tạm bợ cho ghe đánh cá ghé vào; con cháu trong đất liền, thỉnh thoảng ra vào tiếp tế những mặt hàng thiết yếu. Mức sống người ngoài ấy khá cao, nhưng buồn, ngại nhất là bị đau yếu, đêm giông tố. Vào đất liền đã tốn thời giờ, rồi còn đến thị trấn nào đó mới mong gặp y sĩ đáng tin cậy và mua được thuốc. Sống không bon chen. Chẳng nghe có ai ngoài đó làm văn chương, vì văn chương là sự giao lưu nóng hổi giữa người và người. Chưa nghệ sĩ nào ra đó để... đi thực tế, dầu là họa sĩ. * * * Chặt củi, bỏ từng đống, chờ đem vào bếp không là nghệ thuật. Nhưng chọn trong ấy một nhánh nào đó thấy gợi cảm, giống như đầu con nai, vóc dáng con rắn, trau chuốt lại, tạm chưng bày ở góc sân thì đã là bước đầu của nghệ thuật, sự mật thiết giữa người và thứ vật tư vô tri vô giác. Lắm khi công việc tìm cái đẹp lại ngưng đọng, nhằm thỏa mãn cho riêng cá nhân mình: trường hợp ông lão tìm cục đá, gọt đẽo để xây cái non bộ, nhằm gợi thế đứng cheo leo của ngọn núi (như người đã sống năm sáu mươi tuổi cũng đã gặp vài cảnh ngộ cheo leo, sắp sụp đổ), nhưng về mặt khách quan, chỉ là hài lòng với riêng ông ta. Viết tự sự, hồi ký là chấp nhận viết cho mình và số ít bạn bè. Người đọc thấy lời văn chưa chín, chưa tới nhưng người viết đã thỏa mãn là đủ. Sáng tạo là cứu cánh của nghệ thuật. Nhiều người siêng năng, cần cù nhưng thiếu bẩm sinh sáng tạo. Ta há chẳng thấy vài nhà nghiên cứu bỗng dưng cao hứng làm thơ, viết tùy bút, lắm khi đạt mức trung bình, lời văn ngớ ngẩn, lắm khi kém tươi mát hơn cô cậu học sinh lớp 12 làm bài tác văn. Vốn sống, hoàn cảnh thuận lợi là một việc nhưng sáng tạo là việc hơi khác. Nhà khoa học vật lý lắm khi sáng tạo bất ngờ, trong phút giây nhiệm mầu. Ta nhớ chiến trận quân sự: tương quan lực lượng như vậy, thiên thời, địa lợi, nhân hòa như vậy, nhưng thiếu sáng tạo thì chiến trận có thể gay go hơn, “trậm trầy trậm trật”. Như thi đấu bóng đá, lắm khi đội mạnh lại bỗng dưng thua một đội tương đối yếu hơn. May và rủi là một thứ qui luật. * * * Làm văn nghệ là “khóc mướn thương vay”, “ưu thời mẫn thế”, bất chấp hoàn cảnh giàu nghèo, vui buồn của cá nhân ta. Đi qua bệnh viện, không thể ghé được, nhưng ta đoán chắc bất cứ giờ phút nào cũng có người vui vì sắp xuất viện, người buồn vì thân nhân mình đang hấp hối, có người hấp hối mà chẳng thân nhân nào bên cạnh. Lại còn người mất nhưng chẳng ai đến lãnh xác. Nuôi thân nhân nhưng chẳng đủ tiền ăn cơm, cứ ngóng người dưới tỉnh sắp đem tiền lên: một vài trăm ngàn chẳng thấm vào đâu nhưng khó kiếm, khó vay. Thêm vài kẻ gian manh, giả vờ đi thăm bệnh nhân để rình rập ăn cắp từ cái bình nước sôi, hoặc đồ chơi của trẻ con. Vui với thiên hạ, nhưng không quên lo cái lo của thiên hạ. Đêm khuya, về sáng, ngoài đường thấy nhiều người không ngủ, chạy xe gắn máy, ngồi xích lô. Dư tiền về thăm quê hương. Mua bán khá giả, về nhà. Hoặc lên thành thị làm ăn thất bại, mang đứa con về xứ. Lạnh lẽo làm sao, khi mưa lớn, mưa nhỏ. Lần đó, gặp bà lão dắt đứa bé, hỏi thì biết dắt đứa cháu về quê. Bà cháu mang hai ba cái xách, chắc là đựng quần áo cũ. Ra bến xe, chờ đi xe đò cho rẻ hơn xe tốc hành. Bà con, là người chị ruột đã mất từ hơn mươi ngày, mới hay tin. Không về thì hối hận, nhưng về mà không tiền, tuy hối hận, nhưng lương tâm ổn hơn. Tiếc gì vài giọt nước mắt trễ tràng, bà con dòng họ sẽ thông cảm. Đường đi xa cảng còn xa. Đứa bé đi chân đất, có dép cầm trong tay nhưng đi dép đau chân hơn đi chân đất. Đâu vào khoảng 3 giờ sáng. Khoảng một giờ đêm, còn nghe rao chè, bánh chưng, bánh dày, bánh ú. Người bán lấy đêm làm ngày, mỗi đêm đi hàng chục cây số, theo con đường quen thuộc. Giờ nào bán ở đâu, tụ điểm này có xe xích lô chờ khách; ngã tư kia, đường hẻm nọ có nhiều người trẻ ham thức đêm để uống rượu. Thường là đúng phương án, nhất định bán hết, rồi ngáp dài, rảo bước về với niềm tự hào làm trọn phận sự với gia đình. Kiếp thị dân, khi gà trong xóm ngoại ô gáy sáng. Bên lề chợ Bến Thành, chợ Bình Tây, nhiều người mua thúng bán bưng, thỉnh thoảng bị đuổi. Từ ba đời rồi, cha mẹ vẫn ngồi lề chợ. Từ lề chợ vào bên trong chợ tìm được chỗ ngồi ổn định, xa cách có hai mét, ấy thế mà chờ hơn nửa thế kỷ cũng không xong! * * * Tây Ninh đi dễ khó về, Con đi tàu sắt, con về tàu cây. Trên mui có thắp đèn cầy, Con về thăm mẹ chuyến nầy mà thôi! Một dạng văn chương truyền khẩu, cười ra nước mắt, phổ biến hồi chế độ cũ: tàu sắt là ô tô nhà binh, tàu cây là cái quan tài. Ra đi, xem như sẽ chết. Nghe đau xót, vì lời lẽ hồn nhiên, không cường điệu, chế giễu số phận người thường dân bị bắt quân dịch. Nhưng đối với ai có thân nhân chết phía Tây Ninh, chắc khó cười. Đã đành rằng nói đùa nhưng quá ác độc. Người đặt bài nầy đáng bị mắng là “miệng ăn mắm ăn muối”, nói bậy, “đi chơi chỗ khác”. * * * Đọc văn, đọc thơ của người lịch lãm, có kiến thức vẫn thấy thân mật, ngọt ngào. Như ăn mía, ăn dưa hấu chấm muối ớt, hoặc ăn chè đậu, trong nước đường có “dằn chút muối”. Ngày nay, khách sành ăn ngày càng ít. Người Âu cũng giữ quan niệm “muối của đất” để khen những gì đậm đà, sống động tiềm tàng. Phải chăng đó là tính dân tộc, về nguồn? Nhưng muối nhiều quá, chẳng còn là món ăn ngon. Mất hương vị, kém vui tươi, một kiểu hành hạ khẩu vị. * * * Thử giải thích cái kiến trúc khoa trương của đình miếu Nam Bộ mà nay ta còn thấy. Trước khi Pháp đến, đình làng thờ Thành hoàng, đồng thời làm trụ sở hành chánh, hai cơ quan nhập một, hữu cơ. Hương chức hội tề cai trị dân nhưng có thêm Hương lễ, Hương văn lo việc tế tự; chi phí cúng tế do ngân sách xã đài thọ. Thực dân Pháp đến, cho rằng Hành chính và Tế tự khác nhau, phải tách ra, vì cúng tế mang nội dung chính trị là tôn thờ vua nhà Nguyễn mà người Pháp phủ nhận hoàn toàn vai trò ở Nam Kỳ thuộc địa. Vì vậy, hương chức hội tề làm việc ở cơ ngơi gọi là Nhà Việc, nhà Vuông; đình làng là cơ ngơi khác, có thể lập ra ban Hương chức đình với nhiệm vụ là lo cúng tế, tu tạo cơ ngơi mà thôi. Nhớ buổi Độc lập thời phong kiến, dân làng cố góp tiền, xây dựng đình làng mô phỏng theo kiến trúc của Thế Miếu ngoài Huế, kiểu tứ trụ. Sắc thần phải viết chữ Hán, đóng ấn vua (hình vuông), trong khi người Pháp với quan thống đốc dùng chữ La-tinh, dấu tròn. Vả lại, người Pháp thiên về đạo Thiên Chúa, xa lạ với việc tế lễ Thần Thánh, Trời Đất. Khi trình diễn lễ Đại Bội, lời hát, điệu múa vẫn ca ngợi, hoài vọng nhà Nguyễn và nhà Lê. Một sự thách thức đối với thực dân. Lúc ban đầu, thực dân lo ngại, sợ rằng đình là trụ sở của Hội kín, chống Pháp. Người Việt ở Nam Bộ hãnh diện khi thấy đình làng mãi giữ phong cách cổ truyền, được canh tân, gợi hoài cảm, so với cái gọi là Công sở, là Nhà Việc của hương chức Hội tề. Thời Pháp, cơ quan hành chính xã phần lớn xây cất theo kiểu dân sự, đơn sơ hơn. Cột chạm rồng là sự cường điệu mà thời phong kiến đình làng không được phép trang trí. Liễn đối toàn chữ Hán; trong khi người Pháp về pháp lý chỉ nhìn nhận chữ Quốc ngữ. Những ngôi đình đồ sộ, chạm trổ công phu mà nay ta còn gặp ở đồng bằng sông Cửu Long phần lớn xây cất khoảng 1914-1918 trở về sau, khi kinh tế phát triển, là dư âm của phong trào Duy Tân đã thất bại. Từ thời Minh Mạng, vài vũ khúc trước kia dành riêng cho vua chúa nhà Nguyễn thưởng ngoạn đã được tổng trấn Lê Văn Duyệt đưa vào Nam, trình diễn tại đình làng cho người thường dân xem, nào Tứ Thiên Vương, Phước Lộc Thọ. Điệu múa quạt do Đào Duy Từ sáng tác lồng trong tiết mục Ngũ Hành, với Cái, Con. Tham khảo “Những Đại lễ và Vũ khúc...” của Đỗ Bằng Đoàn và Đỗ Trọng Huề, in ở Sài Gòn trước 1975 (nay có tái bản), ta gặp thêm nhiều chi tiết thú vị về cách đi đứng của lễ sanh... * * * Từ chợ Long Xuyên, lên phía Châu Đốc khoảng 10 cây số, hoặc hơn, còn địa danh Xép Bà Lý. Xép là rạch nhỏ, trời sanh (cũng có thể gọi là Tắc) chảy vòng quanh, từ sông Cái, vào đất liền, theo hình vòng cung rồi trở ra sông Cái. Đâu vào cuối thế kỷ XIX, gia đình nọ đến lập nghiệp, đất đã chật, phần màu mỡ đã có chủ. Sau một thời gian, người cha bèn nhượng đất lại cho đám con cái khá đông, đoán chừng nay mai mỗi người chia không được bao nhiêu diện tích. Thà rằng mình không hưởng phần của mình. Bấy giờ, phía thượng nguồn sông Hậu, giáp Campuchia, nghe đồn đãi còn đất hoang, ít ai trưng khẩn vì nước lên khá sâu vào mùa lụt, người cha ra đi. Tuy rằng sông sâu nước chảy, không thác không gành nhưng bấy giờ cách nhau vài mươi cây số là đường đã quá xa, lại tin rằng khi làm ăn khá giả, hoặc thất bại thì trở về quê cũ. Con cháu thế hệ sau làm ăn khá, siêng năng học hành, nhớ đến tổ phụ, bèn đi tìm hài cốt. Hỏi thì người địa phương khoảng 70 tuổi chẳng ai còn nhớ, phần lớn là dân mới đến từ mươi năm qua mà thôi. Đành trở về. Bởi vậy, người miền Tây khoảng 70 tuổi ngày nay chẳng mấy ai biết rõ ông bà cha mẹ mình quê ở đâu, tên gì, bao nhiêu anh em. Thèm khát lập gia phả, dựa vào lời đồn đãi mơ hồ. Thường thay tên đổi họ, làm sao nhận ra. Thôi thì đành cúng giỗ, với chút ít ngậm ngùi mông lung. Ngày Rằm tháng Bảy, tục lệ cúng người vô gia cư, người mất tích (thập loại chúng sinh) khó bỏ được. Tình cảm dòng họ ngày càng phôi pha vì kinh tế thời... xe gắn máy, đèn huỳnh quang. Về già, lại ngẫm nghĩ, với nỗi buồn khó tả, khi thấy con cháu lắm khi vì còn trẻ, mâu thuẫn quyền lợi, không biết thương nhau, nhưng tin rằng, chúng nó sẽ thương nhau, muộn màng, khi về già. Thái độ đó nhiều người trẻ cho là... lẩm cẩm, vì phi kinh tế. Cần có thời gian, để sau nầy con người mới trở lại với chính mình. * * * Lòng trắc ẩn, là thương xót mà kính trọng, không là trịch thượng ban bố từ trên xuống dưới. Trường hợp nàng Mỵ Ê, giáo sư Nghiêm Toản tóm tắt sự kiện: Là vợ vua Chiêm Thành (Sạ Đẩu). Năm 1044, vua Lý Thái Tông đi đánh Chiêm Thành, giết Sạ Đẩu, vào kinh đô Chiêm là Phật Thệ (gần thành Bình Định) bắt được Chiêm phi Mỵ Ê đem về. Đến sông Lý Nhân (thuộc Nam Định), Thái Tông cho đòi Mỵ Ê sang chầu bên thuyền ngự. Mỵ Ê giữ tiết, không chịu, quấn chiên, lăn xuống sông mà tự tử. Nay ở phủ Lý Nhân còn có đền thờ. Một nho sĩ non 400 năm sau, đời nhà Lê làm thơ ca ngợi: Giòng bạc thề cùng thu có nguyệt Sử xanh chép để bút còn hương... Trường hợp bà Phan Thị Thuấn, Dương Quảng Hàm chú giải: - Bà là vợ lẽ ông Ngô Cảnh Hoàn đời Hậu Lê, ông đi đánh quân Tây Sơn, tử trận ở sông Thúy Ái (nay thuộc huyện Thanh Trì, tỉnh Hà Đông) người nhà được tin thương khóc, bà vẫn cười nói như thường, có người hỏi, bà đáp “Chết vì việc nước còn gì hơn nữa mà phải thương tiếc”. Ma chay xong, bà mặc đồ đào đỏ đến chỗ chồng chết trận, đâm đầu xuống sông chết. Dương Bá Trạc đã vịnh: Chàng đi theo nước, thiếp theo chồng, Thiếp chết trinh mà chàng chết trung, Đến thế, ân tình đôi trọn vẹn, Việc chi cười nói chẳng thung dung... Dương Bá Trạc không quên bà Nguyễn Thị Kim, cũng theo Dương Quảng Hàm (Quốc văn trích diễm): Bà là hoàng phi vua Lê Chiêu Thống, hồi vua Lê thua quân Tây Sơn phải chạy sang Tàu, bà không theo kịp phải về ẩn náu chốn thôn quê, giữ tiết trong mười mấy năm trời. Đến khi bà nghe tin hài cốt vua Lê đã đem về nước, bà ra lạy linh cữu cố quân, rồi uống thuốc độc chết. Bồng mao tạm lúc nương thân liễu, Kinh khuyết may sao thấy mặt rồng. Thác nghĩa đã ghi cùng sắt đá, Sống thừa còn hẹn với non sông... Lại vịnh ông Nguyễn Văn Quyên, đầy tớ giữ ngựa của Lê Chiêu Thống, chạy sang Tàu cầu viện khi Tây Sơn thắng thế. Vua nhà Thanh bắt vua Lê an trí, lại cô lập, đưa bầy tôi vua Lê mỗi người một nơi. Vua Lê tức giận, thừa lúc vua nhà Thanh dạo chơi, bèn cưỡi ngựa đến gặp để than phiền, nhưng bọn cận vệ chận đường không cho gặp mặt. Ông Nguyễn Văn Quyên giữ ngựa cho vua liều chết đánh mắng bọn cận vệ. Đây cũng là trường hợp Phan Thanh Giản uống thuốc độc. Với thời gian, lòng trắc ẩn của con người còn đó, cái chết của Phan Thanh Giản khá bi đát, thơ mộng. Đây là con người đánh giá con người. Lịch sử khắc nghiệt đã chia ra giai đoạn với chân lý riêng của giai đoạn. Lòng trắc ẩn là cái mà nay ta gọi cầu kỳ là nhân bản, nhân văn... Ông cha ta đã dạy về lòng trắc ẩn, tôi nhớ hồi nhỏ được học bài thuộc lòng ở nhà trường: “Có lòng trắc ẩn mới ra con người”. * * * Tập san “Khoa học, Công nghệ và Đời sống”, số 1, tháng 4 năm 1994, mục Cười Lai Rai: PHỎNG VẤN CỤ PHAN THANH GIẢN - Thưa cụ, vì sao cụ không chuộc được 3 tỉnh miền Tây Nam Kỳ? * Vì Tây nó đã quy hoạch làm đất thuộc địa, cấm mua chuộc, sang nhượng. - Nếu đất quy hoạch, cụ phải buộc Tây đền bù hoa lợi cho nông dân chứ? * Đền bù hoa lợi là thuật ngữ bán rẻ đất của nông dân, tước nồi cơm của họ, với giá rẻ như bèo... hoa dâu! Ta không làm chuyện đó! - Sao cụ không xin đổi cơ sở hạ tầng lấy đất, cũng là một cách chuộc? * Triều đình bấy giờ làm gì có vốn và kỹ thuật làm cầu vượt, đường cao tốc, có chăng chỉ đủ sức tráng vài vỉa hè, đắp vài con đường làng. Ta có dụ bằng phương án này, nhưng Tây khôn hơn ta, nó không chịu! - Hay là đưa quyền sử dụng đất 3 tỉnh này làm vốn liên doanh với Tây? * Trời đất, giang sơn này do tổ tiên đổ máu xương khai phá. Nay cháu con không giữ được bờ cõi, đành đem châu báu chuộc, không được thì thôi, chớ ai lại liên doanh với kẻ xâm lăng? - Xin cho biết cách cụ chuộc như thế nào? * Triều đình cử ta đi thuyền sang Tây, đàm phán trực tiếp với chính phủ họ. - Trời! Không nhờ tay trung gian nào cả à? * Ta là sứ thần chính thức, còn trung gian nào nữa? - Dạ “cò đất”! * Nghĩa là sao? - Nếu cụ muốn xuất nhập cảng dễ dàng thì nhờ “cò quota”, muốn mua bán xe nhanh phải có “cò xe”, muốn chuộc đất phải có vai “cò đất”. * Vị ấy làm quan gì trong triều? - Không, nó không làm quan, nhưng đôi khi nó có quyền hơn má vợ của quan. * Vậy mà ta không biết! - Có tin đồn, cụ tham tiền, muốn hưởng phần trăm tiền cò, khi chuộc không được, triều đình đòi lại, trắng tay nên tự tử? * Đừng vô lễ! Ta là sĩ khí đấng trượng phu, sứ mạng không thành, ta tự xử. - Tây không cho chuộc, vì thấy tập thể triều đình hèn yếu, lỗi đâu do mình cụ? * Ta cũng biết, một con én không làm nên mùa xuân! - Nhưng có thể làm được dĩa mồi cụ ạ! * Nhưng nhục này biết rửa mấy sông? - Chỉ cần rửa mấy thùng... Tai-gơ. * Thôi, ta chịu thua đám hậu sinh! TÚ GIŨA Trích nguyên văn, tôi “Góp ý xây dựng” như sau: ❖ Bạn Tú Giũa có lẽ quên rằng cụ Phan đi chuộc ba tỉnh miền Đông Nam Bộ, vì khi Pháp chiếm ba tỉnh miền Tây thì cụ tự tử là hết chuyện, đâu còn sống để nghe phỏng vấn. ❖ Châm biếm là cường điệu có cơ sở thực tế, có tính thuyết phục. Quả thật vài cán bộ ở địa phương nhỏ đã vô tình hoặc cố ý sang nhượng đất đai cho người nước ngoài với giá rẻ mạt nhưng các cán bộ nầy là bạn của ta, đâu phải kẻ thù mà Tú Giũa lại phóng tay “đâm mấy thằng gian bút chẳng tà”. Ta uốn nắn họ lại, dễ dàng thôi! * * * Từ mấy năm qua, sách ra quá nhiều, thấy quyển nào thích, “ngứa tay” thì mua, trong số đó “Tiếu Lâm Trung Quốc” do Lê Văn Đình tuyển dịch đã đem lại niềm vui nhỏ. Á Đông ta giống nhau về hài hước, người Trung Hoa cũng như người Việt đều thích chơi chữ, dùng chi tiết nhỏ để đánh giá chuyện lớn. Cười lúc khá giả, cười lúc thiếu ăn. Thiếu ăn thì cười, xem như món ăn tinh thần quí giá và bổ dưỡng hơn món ăn vật chất! Ta nghèo mà thông minh, quả là sang trọng hơn kẻ giàu. Ta thi rớt nhưng ta không kém kẻ thi đậu. Cười để quên, để đề cao cái thân phận mình. Cười “vẫy vùng” trong thế giới chữ nghĩa bao la. Bị áp bức, nhưng ta cười để chứng tỏ rằng nếu hoàn cảnh đảo ngược, ta sẽ thông minh hơn kẻ áp bức. Xin trích truyện Đá Lòng Son. - “Thời Vũ Hậu, từ quan tới dân thi nhau dâng điềm lành. Dân ở Lạc Tần có một khối đá lớn, đập ra, ở bên trong đỏ. Bèn đem dâng lên nhà vua, tâu rằng: “Hòn đá này có lòng son”. Lý Chiêu Đức nói: “Chỉ có viên đá nầy là có lòng son, còn những viên đá khác thì... có âm mưu phản loạn cả hay sao?” Bài Khai Khoa, với lời người tuyển dịch chú thích: Nhà Thanh là chính quyền ngoại tộc, nên những năm đầu quốc sơ, sĩ phu người Hán còn giữ khí tiết, không chịu cộng tác, nhưng sau đó thì... - “Thuở quốc sơ, bắt đầu mở khoa thi để kén sĩ tử. Đám học trò đều làm ra vẻ cao đạo tránh xa. Từ năm Bính Tuất về sau, lại thêm các khoa thi hương, các thầy nho lâu nay vẫn cáo đau, cáo tật, giờ lũ lượt kéo ra. Có người làm thơ châm biếm (dịch): - Trời bắt đầu mở lối cho văn chương để lấy kẻ hiền tài. Một loạt bậc Di, Tề xuống núi Thú Dương. Các nhà đều yên ổn một lớp chim sẻ mới, Ai nấy đều xem lại cái bụng văn chương của mình. Ngày xưa, người đời đều hổ thẹn vì ăn lúa nhà Chu, Ngày nay thì trở dậy mà ăn lương thực của nhà nước. Nếu như cả triều đình đều giữ không chịu cải tiết Thì rau vi, rau quyết, ở núi Thú Dương đã sạch quang rồi! * * * Mấy năm rồi, không dịp đến thăm bà Mộng Tuyết. Đã tám mươi tuổi, bà hãy còn khỏe, ở mức tương đối, giọng nói nhỏ nhẹ hơn. Mấy anh em quay phim tư liệu đến, bà vui vẻ nhận lời, làm việc nghiêm túc, sắc mặt phảng phất vẻ chất phác của người nông dân thuần hậu phía miền Tây, không khoe tài, khiêm tốn, mặc dầu thành đạt, làm tròn chức năng đối với quê xứ Hà Tiên nghèo nàn nhưng thơ mộng. Bà họ Thái, dòng họ cố cựu ở Hà Tiên, không gần thì xa vẫn dính dấp với người Hoa. Cha mẹ bà ở xóm Rẫy, ngoại ô, được học chữ Hán với thầy đồ từ miền Trung vào. Hồi nhỏ, (nhà bà gần lăng họ Mạc) bà thuật lại rằng thiên hạ đồn đãi mấy ngôi mộ họ Mạc linh thiêng, ai tò mò đến xem thì bị quở phạt, gặp xui xẻo, bệnh tật. Về sau, cũng theo lời bà, dân số đông đúc hơn, chợ Hà Tiên mở mang, tiếng đồn ấy gần như không còn. Phải chăng người địa phương tung tin ra, đề phòng kẻ quật mồ tìm vàng bạc chôn cất? Qua vài tư liệu, thấy ghi ông Nguyễn Thần Hiến là người Vĩnh Long, dòng họ quan lại thời Tự Đức, đến Hà Tiên lập nghiệp, được cử làm hội đồng thời Pháp thuộc. Bà nói rõ: Nguyễn Thần Hiến từ Vĩnh Long đến Hà Tiên, tạm cư ngụ, cưới vợ ở Lư Khê rồi qua Cần Thơ, ở luôn bên ấy. Năm xưa, tôi mô tả, trong buổi mạn đàm thân mật rằng Đông Hồ là cái “phá” to rộng sát chợ Hà Tiên ăn ra biển tuy rộng mà cạn, nước ròng, cò đậu giữa hồ mà không ngập chân. Bà đính chánh cho rõ hơn: xưa kia Đông Hồ khá sâu, lúc sau này phù sa từ rạch Giang Thành đổ vào hồ, thêm phù sa từ con kinh đào (1930 khánh thành) nối Rạch Giá qua Hà Tiên; cát và bùn gom đến theo dòng nước, vì vậy cồn phù sa đùn lên. Hồi trước 1945, từng đi Hà Tiên xin việc làm ở mấy công ty khai thác lò vôi, tôi không rảnh mà tham quan. Tỉnh lỵ buồn bã vô cùng, kém những chợ quận phía đồng bằng. Khoảng 8 giờ đêm, chẳng còn quán nào mở cửa, chẳng biết uống cà phê ở đâu. Dân số trong chợ quanh đi quẩn lại có chừng hơn trăm hộ, quen biết với nhau, gồm tiểu thương, công chức. Muốn tìm nhà ai, khách từ xa đến sẽ được chỉ dẫn cụ thể, chủ nhà sẵn sàng cho đứa con đưa đến địa chỉ mà mình tìm. Ngoài chợ, bán theo giá nhất định, không nói thách. Nhờ khai thác vôi, có người Hoa là Thái Sầm (làm bang trưởng) xây cất ngôi nhà khoảng bốn tầng, như là kỳ quan; dường như mấy chục năm rồi, chẳng ai xây ngôi nhà nào cao hơn. Loại vôi bột dùng quét vách cho sạch sẽ, gọi vôi Càng Long, nay người lớn tuổi vẫn gọi như thế. Từ trước, vôi ăn trầu được nung từ vỏ sò, vỏ ốc; Pháp đến, nảy ra nhu cầu xây cất. Khoảng 1870, cả Nam Bộ dùng nhiều vôi bột, pha vào cát, chút ít xi măng là quí rồi. Xi măng bấy giờ được nhập từ Úc, đựng trong thùng cây, dài như thùng đựng rượu chát nhưng bụng nhỏ hơn. Buổi đầu, vài người Pháp nghĩ ra việc nung vôi, với khối lượng lớn. Đá vôi ở Nam Bộ rất khó tìm, phải đến Hà Tiên, bấy giờ tuy khám phá vùng đá vôi núi Còm (khu vực nhà máy xi măng Hà Tiên ở Kiên Lương) nhưng giới kinh doanh muốn chọn nơi có đường biển đưa vôi về Sài Gòn hoặc các tỉnh. Họ chọn núi tên là Kong Long, ở bên đất thuộc Campuchia, bấy giờ Campuchia nằm trong vòng thao túng của Pháp. Kong Long (tạm âm lại như thế) theo tiếng Khơme là con rầy (loại bồ hung nhỏ con, đại khái), lấy tên núi, người Việt đặt cho loại vôi bột. Tỉnh Trà Vinh, giáp Vĩnh Long, nay có huyện Càng Long, viết Càng, tùy tiện, chẳng qua vùng nầy xưa kia nhiều con rầy, loại rầy to, cánh cứng, không phải con rầy ăn lúa ngày nay. Trở lại Hà Tiên với Đông Hồ, rộng hơn Hồ Tây của Hà Nội, hoang vắng vì đất thấp, phèn, chịu ảnh hưởng nước mặn từ biển kề bên tràn vào. Trăng lên, thơ mộng lắm, chim đi ăn đêm kêu rời rạc, tiếng chuông chùa từ sườn núi Tô Châu ven bờ. Thi sĩ Đông Hồ (sinh năm 1906), sinh trưởng nơi tỉnh lẻ mà đã chịu khó tự trau dồi tiếng Việt. Bấy giờ, báo Nam Phong của Phạm Quỳnh nổi bật lên, như tờ báo tập trung trí tuệ, nhất nước. Mới hơn 20 tuổi, Đông Hồ đã gây ngạc nhiên, thơ của ông được đăng báo Nam Phong. Ta nhớ chủ bút báo nầy là nhà “học phiệt” rất kỳ thị với kẻ chưa ai biết danh. Đông Hồ còn trẻ mà đạt tầm cỡ “quốc gia”! Thiên khảo cứu về dòng dõi họ Mạc ở Hà Tiên gây ngạc nhiên cho cả nước, từ trước, về dòng họ nầy, ít có tư liệu cụ thể. Ngoài công trình nói trên, Đông Hồ còn là người hưởng ứng phong trào “thơ mới” từ buổi đầu. Ông có lẽ là người Việt đầu tiên đã dạy nghệ thuật viết văn khi dám ra mở trường tư “Trí Đức Học Xá” ở Hà Tiên. Lại là người đầu tiên dịch thơ của thi hào Ấn Độ Tagore; thi hào nầy chủ trương dùng tiếng nói của dân tộc như là lợi khí để tự cường, chống thực dân. Đông Hồ là người đầu tiên dịch ca dao Khơme sang tiếng Việt; giới thiệu đảo Phú Quốc về nhân văn, sinh hoạt. * * * Trước thế kỷ XX và những năm đầu thế kỷ, người miền Nam Trung Quốc di tản xuống Đông Nam Châu Á, với động cơ là tìm sinh kế, phần lớn nghèo nàn và đặc biệt là không mang theo đàn bà. Vì vậy, ít ai rành Tứ thư, Ngũ kinh hoặc Lý Bạch, Đỗ Phủ. Vì không đàn bà, họ cưới người địa phương, sanh ra con lai mà chánh quốc Trung Hoa ít thừa nhận. Cưới người địa phương trong đôi ba thế hệ, con cháu trở thành Việt Nam, quên tiếng Triều Châu, Hải Nam; họ trở thành Việt Nam, dấu ấn còn lại là việc thờ cúng ở chùa Ông Bổn Đầu Công, chùa Quan Đế, rõ nét nhất là pha chế thức ăn hàng ngày, dùng cá thịt, rau cải địa phương, nói chuyện xen tiếng Trung Hoa... Nghĩ rằng người Hoa ở Chợ Lớn, ở Biên Hòa, Mỹ Tho, Hà Tiên (nhiều nhất ở vùng Hòn Chông) là hậu duệ của người Hoa bài Mãn phục Minh hồi thế kỷ thứ XVII là sai. Những người ấy không còn bà con gần xa, đã trải qua nhiều đời rồi. Mới đây, nghe tin tìm được phần mộ của Trần Thượng Xuyên (còn tên Thắng Tài) ở xã Mỹ Lộc, huyện Tân Uyên (nay Sông Bé). Gặp dịp, tôi đến nơi quan sát. Ngôi mộ quá xưa, cơ ngơi nhỏ bé, không còn bia. Người địa phương bảo là ngôi mộ vô danh (cùng vài ngôi mộ xưa khác, bên cạnh), từ lâu chẳng thấy ai viếng thăm, gọi “Mã Chệt”. Trần Thượng Xuyên, người đem quân đến Huế, rồi được hướng dẫn đến Cù lao Phố đã một thời oanh liệt, tiếp tục việc binh nhung trong quân đội chúa Nguyễn. Đại Nam liệt truyện chỉ chép ông “mất vì bệnh, người ở Trấn Biên nhớ công, lập đền thờ”. Thế thôi. Chẳng thấy ghi lúc mất ông được phong tước gì tượng trưng! Người Hoa rất coi trọng nghi thức, bổng lộc, chức tước, người Việt Nam cũng vậy. Phải chăng vì bấy giờ chúa Nguyễn còn nghèo, chưa nghĩ đến việc cấp cho vài tấm lụa, vài mươi quan tiền? Vấn đề mả huyệt đáng lưu ý, chẳng phải tùy tiện muốn chôn đâu thì chôn, vì còn lựa phong thủy nữa. Nấm mộ khiêm tốn gần kề bờ sông Đồng Nai, phía ngọn; khung cảnh hữu tình, mấy trăm năm trước, chắc hoang vắng, vài mươi ngôi nhà khẩn hoang, còn cọp, voi. Sông đã có sẵn, gần đấy, còn mỏm đá nhỏ, tạm gọi là núi. Trần Đại Định là con, lúc cha mất, đang giúp chúa Nguyễn, với chức vụ bực trung. Nói chung, mồ mả thời chúa Nguyễn vẫn là khiêm tốn, dưới cái nhìn ngày nay. Mộ Võ Tánh, mộ Trương Tấn Bửu vẫn nhỏ bé, huống gì Trần Thắng Tài? Thậm chí mộ Thoại Ngọc Hầu ở Châu Đốc, khuôn viên đời sau nầy mở rộng, nhưng nấm mộ quá nhỏ. Tôi suy luận: Thoại Ngọc Hầu về già bị thất sủng, vì con gái (con nuôi, may phước), gả cho tên giặc quan trọng tham dự cuộc khởi nghĩa Lê Văn Khôi; sắc thần Thành Hoàng ban lúc sau nầy; phần lớn văn kiện gọi “sắc” chỉ là bằng khen, bằng tưởng lệ mà thôi. Phải chăng Trần Thắng Tài bị chúa Nguyễn nghi hoặc về vấn đề gì mà sử không chép rõ. Phần mộ tình nghi là của Trần Thắng Tài ở Tân Uyên tạm thời đáng lưu ý, vì đến nay chưa ai đặt giả thuyết có phần mộ khác ở chỗ nào khác hơn. * * * Đọc sách của bà M. Duras, nhan đề “Écrire”, tạm dịch là Viết, là Chữ nghĩa. Đáng chú ý đối với Tây Phương, nhưng nhìn lại Đông Phương, ta thấy chưa nói điều gì lạ. Bà là người trực tính, dám chấp nhận sự hư vô của chữ nghĩa, bà nói với riêng bà, thành thật. Lứa trẻ không nên nghe lời bà. Cái hư vô của cuộc sống cá nhân. Đúng vậy, nhưng hậu thế cần những di sản cụ thể của người đi trước. Nhà giàu, khi hấp hối, khóc cho rằng mình vui vẻ mà chết với hai bàn tay trắng. Kẻ trụy lạc về tình yêu xác thịt bảo “tình là bể khổ”. Người quá no say rượu thịt dạy rằng rượu thịt là chất độc tố. Cũng như về già, sực nhớ “mối tình đầu”, nhớ thật thà, biết đâu nếu cưới được người yêu đầu tiên thì chàng trai (hoặc cô gái) sẽ thất vọng, đòi ly dị. Để rồi lại luyến tiếc. * * * CHUYỆN CỌP BẦU LÒNG, VÕ TÒNG TÂN KHÁNH (đăng báo Phổ Thông số 79, ngày 1-5-1962 Sài Gòn), của Lưu Linh Tử. - “Bầu Lòng là một làng nhỏ ở về hướng Bắc Sài Gòn lối 80 cây số, trước kia thuộc tỉnh THỦ DẦU MỘT (Bình Dương), rồi thuộc tỉnh Bình Long (nay Sông Bé, S.N.) Từ Sài Gòn lên Bầu Lòng phải theo Quốc lộ 13, qua Lái Thiêu, Bình Dương, Bến Cát, Lai Khê, Bến Đồng Sổ, Bầu Bàng rồi Bầu Lòng đến Chơn Thành, Hớn Quản v.v... Bắt đầu từ Bến Cát trở lên ta thấy rất nhiều cao su mà trước kia người Pháp mộ dân phá rừng để trồng lấy gốc cao su thay cây rừng thì chúng ta cũng tưởng tượng rừng Bầu Lòng ngày xưa trông lớn bực nào? Từ năm 1889 người Pháp bắt đầu áp đặt chế độ cai trị đến miền rừng thiêng nước độc nầy và cũng gấm ghé phá rừng. Thuở ấy dân cư còn thưa thớt, mỗi làng không nhiều hơn 30 nóc gia nhưng họ cũng thành lập Ban Hội Tề như những làng khác. Việc phá rừng lập nghiệp của người dân quê thật là thiên nan vạn nan. Họ rủ nhau đi khẩn hoang, họ đem cả gia đình tài sản đến một vùng nào đó. Khởi sự họ đốn cây cất nhà gần nhau rồi phá rừng, đốt rẫy và khởi sự tỉa lúa trồng khoai. Sau vài mùa, coi bộ yên nơi yên chỗ, họ mới công cử vài người lớn tuổi có uy tín về Tỉnh xin lập làng, lập ấp và họ được thỏa mãn ngay. Những gia đình khẩn hoang nầy phần đông đều giống nhau. Họ có ít lắm cũng một đôi trâu hay bò, một cái xe bò và một vài gia súc khác để nuôi gây giống. Người gia trưởng đen đúa, nhưng bậm trợn, sức vóc mạnh mẽ, một bà vợ mộc mạc quê mùa nhưng chí thú làm ăn, vài đứa con ngây ngô ốm đói... Họ sống đơn giản, tận lực khai phá, để sống ấm no, bất chấp cả rừng thiêng nước độc. Sau vài ba mùa, đời sống của họ tạm đủ với gạo đỏ, củ khoai, ngoài việc lập làng lập ấp, họ cũng không quên tín ngưỡng riêng, lập một ngôi đình và một cảnh chùa như bao nhiêu làng khác. Lần lần xuất đinh trong làng tăng thêm, đôi khi nhiều người xứ khác đến xin với Ban Hội Tề để nhập dịch. Ngoài việc đồng áng, thú vui của người dân là rủ nhau đi săn chồn đuổi thỏ với bầy chó cỏ, con nào con ấy chỉ bằng bắp chơn, nhưng đánh hơi rất tài, chạy theo con thịt rất bền và dai như đỉa đói. Trẻ nhỏ thì cùng nhau rấp rào đánh lưới thỏ hay gài bẫy bắt chim, đuổi cút. Những đêm trăng họ tề tựu lại sân đình, nhà việc hay nhà Ông Hương Cả, Hương Chủ để bày với những trò giải trí lành mạnh, không kém phần hào hứng. Người lớn thì đẩy cây, kéo tay, bẻ chơn, giã gạo thi hay thực tế hơn là học võ để giữ mình. Trẻ nhỏ thì chơi những trò nhộn hơn như: U-U bắt Mọi, Nhảy Chan-Chán-Chậu, tập Chuồng-Chuồng hay Bịt mù khỏ lon, những trò giải trí mà người lớn trẻ con đều ưa thích. Ngày Kỳ Yên, Kỳ Bông hay những rằm lớn còn vui hơn nữa, người người đều nô nức dự lễ với niềm tin tưởng nhiệt thành. Làng Bầu-Lòng với tương lai đầy hứa hẹn... Ngày mai sung mãn phì nhiêu. CỌP VỀ LÀNG Suốt một tháng qua, dân làng Bầu Lòng bị một cơn đe dọa trầm trọng. Nguyên do là có cọp về làng quấy nhiễu. Không phải là cọp mới về làng lần nầy là lần đầu tiên đâu, nhưng mấy lần trước, cọp về bắt chó, bò, heo rồi đi mất, hoặc bị dân làng xua đuổi bằng tên tẩm thuốc, chó săn, mõ tre, thùng thiếc, khiến cho mấy Ông Ba mươi nhận thấy dân làng tiếp rước không được thân mật, hoặc hoảng sợ mà bỏ đi. Lần nầy, cọp về làng phá nhiều hơn trước. Mỗi đêm mỗi bắt bò, chó, heo hoặc trâu nghé mang đi, mặc cho mõ tre thùng thiếc khua chát óc, cọp cũng không bỏ mồi. Mấy ông thợ săn rình rập suốt đêm nầy qua đêm khác, để rồi khi gặp không dám bắn mũi tên nào vì Ông Ba mươi to sầm sầm vừa thấy là kinh khủng rồi. Còn mấy chú chó săn tối đến là chui xuống gầm giường không sủa được một tiếng cho ra hồn, có chăng thì chỉ rên ư ử... Lần lần cọp khủng bố dân làng cả ban ngày chớ không chờ đến ban đêm nữa. Muốn ra đồng làm lụng, họ chờ mặt trời lên cao hơn một sào rồi hú nhau ra hiệu để gom lại mà đi chung, mỗi người ngoài dụng cụ của mình cũng không quên đem theo khí giới hộ thân như lao, mác thông, lưỡi đồng hay roi trường, còn đàn bà thì cả mõ tre, thùng thiếc. Lần nọ, cọp toan bắt trâu ở Gò Đậu cách làng không xa quá 200 thước nhưng nhờ con trâu phát cổ của Ông Hương Sư chống cự kịch liệt thêm mấy con trâu cái có con đến vây chém tiếp làm cho Chúa Sơn Lâm rống lên vài tiếng thật to rồi chạy dài không dám bắt trâu nữa. Từ đó người ta xem con trâu Pháo của ông Hương Sư như con vật quí, bao nhiêu trâu bò gom lại một nơi để cho con trâu Pháo cầm bầy. Khổ nhứt là toán người đi kéo củi thì không làm ăn gì được. Bò mà nghe hơi cọp thì mang xe chạy trối chết, bất kể hầm hố chông gai, xe gãy tan tành, bò chạy mất, còn chủ thì không bưu đầu sứt trán cũng gãy tay. Suốt tháng trường không biết làm cách nào tránh nạn cọp hoành hành mấy ông Hương chức mới bàn nhau xuống Ông Cai Tổng xin lãnh súng về bắn cọp. Ý kiến của Ông Hương Quản vừa đưa ra được mọi người tán thành ngay và sáng hôm sau Hương Cả và Hương Quản cùng về Tổng, xin thầy Cai cấp súng. Đường về Tổng cũng toàn là rừng rú không chắc là đi yên lành. Họ bèn dùng phương pháp đâm tỏi thoa mũi bò, đồng thời mượn con trâu Pháo của Ông Hương Sư đem theo phòng khi gặp cọp cho nó nghinh chiến và trên xe còn có ba bốn anh lực điền gan dạ cùng mình đem theo khí giới để hộ vệ hai ông Hương Chức. LÃNH SÚNG Hai ngày sau, Ông Hương Cả và Hương Quản lãnh súng về làng. Theo thủ tục thì không được lãnh mau lẹ như thế đâu nhưng nhờ Ông Cai Tổng thông cảm nỗi khổ của dân làng mà bảo lãnh giùm, cho nên Chánh Chủ tỉnh mới cấp cho cây súng “ca-lip đuôi” (nòng 12) với 10 viên đạn, mỗi viên tròn, nhồi thuốc súng để bắn ra 9 viên đạn khá nhỏ (chevrotines) để đem về bắn cọp. Dân làng nghe nói lãnh được súng, mừng rỡ vô cùng. Từ đó, ông Hương Quản đi đâu cũng ôm kè kè cây súng một bên, dẫn theo chú Phó Hương Quản và chú Cai Tuần, mỗi người cầm một cây roi trường bóng láng. Dân làng bắt đầu tin tưởng, yên chí làm ăn vì mỗi ngày Ông Hương Quản và hai người hộ vệ đi từ đầu làng đến cuối làng rồi trở lên để canh chừng động tịnh. Ban ngày, họ ra đồng làm lụng, tối đến đóng kín cửa nẻo, nằm yên, nhưng cọp chỉ ngưng hoạt động độ chừng mươi ngày rồi bắt đầu làm dữ trở lại. Dường như có linh tính, hễ Ông Hương Quản xách súng đi đầu làng thì cọp xuất hiện ở cuối làng để bắt heo, bắt chó. Ban đêm, khi Ông Hương Quản đi rông (ronde) về, treo súng lên vách thì tiếng cọp “Cà-um” rền trời. Có một đêm, cọp lại về nhà Ông Hương Quản bắt một con heo, Ông Hương Quản xách súng lên cò, bước ra sân nhìn thấy Ông “Ba Mươi” thì hốt hoảng, thối lui, không dám bắn một tiếng lấy oai, dù là bắn chỉ thiên... đành để cho cọp bắt heo đi mất. Sáng hôm sau, ông tìm Hương Cả, mà báo cáo miệng: - Bẩm Cả, đêm rồi cọp về bắt heo tại... nhà tui. - Sao? Thằng Hương mầy có bắn nó phát nào không? Tao không nghe súng nổ. - Dạ... Dạ... - Không có bắn sao? Bậy quá, sao không bắn nó? - Dạ, nó lớn quá trời quá đất. Tui sợ bắn nó không trúng, nó không chết thì... tui cũng chết. Sau một hồi thảo luận, cả hai đồng ý, cho đánh mõ mời toàn ban hội tề nhóm lại, rồi sau đó Hương chức đồng ý về tỉnh xin Lính Tập về giết cọp. Hôm sau, họ cụ bị lên đường, cũng đâm tỏi thoa mũi bò, cũng trâu Pháo, cũng mác thông và súng... để xin binh tiếp viện. Lần nầy Ông Cai Tổng không còn sốt sắng trong công việc xin lính tập nữa. Sau khi nghe hết những lời thỉnh cầu, ông chỉ cười rồi bảo: - Ối, chuyện dễ ợt hè mà Cả lo quá! Cả và Hương Quản nên về rước thầy nghề võ đánh cho một lần thì cọp tởn tới già chớ có gì đâu mà phải xin lính tập cho rộn chuyện. Làm vậy không sợ Tây nó chê dân mình bất tài sao? Biết không thể lay chuyển ông Cai Tổng được vì ông là người ăn một đọi nói một lời, hai ông Hương chức Bầu Lòng đành trở về và suy gẫm lời ông Cai Tổng bèn rước thầy nghề võ về đánh cọp; vậy là hữu lý. ÔNG THẦY GIA BẸ Sau khi dọ hỏi mấy ngày Ông Hương Cả cho người đem lễ vật qua Gia Bẹ (thuộc tỉnh Gia Định) rước thầy nghề võ về Bầu Lòng trừ cọp. Thật vậy, làng Gia Bẹ có ông thầy nghề võ tục gọi Ông Tám rất có tên tuổi. Thuở thiếu thời, ông từng đụng độ với nhiều tay danh sư và luôn luôn ông thủ thắng. Cọp beo ông cũng từng chiến đấu, phần nhiều chúng chịu được vài chục roi là cúp đuôi chạy mất hoặc trúng nhằm chỗ nhược, chết tại chiến trường. Quanh vùng Ông Tám ở, luôn cả làng Gia Bẹ, trộm cướp đều kiêng oai, không hề dám về phá quấy. Mặc dầu tuổi đã ngũ tuần, nhưng ông còn tráng kiện, tay chân gân guốc, đi đứng gọn gàng, sức ăn còn bằng một thanh niên trai tráng. Mỗi ngày ông đều tập dượt và học trò của ông học võ, dù dạy lén, cũng đến mươi người. Khi đoàn sứ giả Bầu Lòng qua tới, Ông Tám tiếp đón rất nồng hậu và không đợi phải “Tam Cố Thảo Lư” như Lưu Bị cầu Gia Cát, ông Tám lật đật cắp roi trường đi liền. Hai ngày sau, dân làng Bầu Lòng lại sống trong rạo rực và tin tưởng ở ông thầy Gia Bẹ. Ông Cả lãnh phần tiếp khách quí. Mọi người đều đến nhìn ngắm ông thầy võ với cặp mắt tò mò và thán phục. Ông Hương Cả và Ban Hội Tề thay nhau chuyện trò với Ông Thầy thật là thân mật. Ông Cả sai con lo cơm nước, bắt gà làm gỏi, mua rượu ngon. Buổi cơm chiều hôm ấy ăn sớm hơn thường lệ và hầu hết Hương chức đều có mặt tại nhà Ông Cả để dự bữa cơm chiều giống như bữa đám giỗ nho nhỏ. Mọi người vui vẻ chuyện trò, nhưng cơm rượu vừa được nửa bữa thì có tiếng la thất thanh đâu đấy. Mọi người buông đũa, nhìn ra sân vừa đúng lúc cọp nhảy vào sân, nhìn vào nhà, mặt to chần vần, vóc cao như con ngựa, thật là khủng khiếp! Mọi người dường như nín thở, im lặng hoàn toàn, tiếng một con ruồi bay qua nghe cũng rõ. Cọp cũng im lặng đứng nhìn hồi lâu rồi ngồi xuống chống tó, quít đuôi, nhìn vào nhà như khiêu khích, như đợi chờ... Và lúc ấy người ta yên lặng và cũng đợi chờ. Họ chờ gì...? Họ chờ đợi việc mới lạ mà họ vừa quên đi trong chốc lát. Đó là chờ ông thầy Gia Bẹ trổ tài. Nhưng chờ mãi hồi lâu không thấy gì lạ, họ nhìn lại thì thấy ông thầy Gia Bẹ ngồi chết trân, mặt xanh như tàu lá, cắt không còn hột máu... trán rịn mồ hôi. Họ hiểu ra và biết rằng ông thầy đã... sợ cọp rồi. Vậy không lẽ để yên chờ cho cọp chụp, nên họ tự động cùng nhau la hét, đánh thùng thiếc mõ tre, những phương tiện tự vệ tiêu cực mà lúc nào cũng có sẵn để đuổi cọp như bao lần khác. Cọp biết mình bị xua đuổi, uể oải đứng lên, vươn vai, rồi chầm chậm bước khoan thai, từng bước từng bước một, còn cà um mấy tiếng như dọa nạt rồi biến vào rừng. Bây giờ mọi người mới hoàn hồn, kể cả ông thầy. Ông thú thiệt: - Trời đất quỉ thần ơi! Cọp nầy lớn quá trời quá đất.. Tôi mới thấy lần thứ nhứt. Vừa nói, ông vừa lắc đầu coi bộ buồn xo làm cho mọi người cũng buồn lây. Càng lo sợ, họ càng thương ông thầy võ hơn. Hôm sau, người ta thấy ông Hương Cả cho người đâm tỏi thoa mũi bò, ông Hương Quản vai đeo súng đứng chờ lịnh. - Hương Quản mầy đưa ông thầy về, rồi sẵn trớn mầy xuống luôn dưới Thủ, bẩm lại với ông Cai Tổng coi ổng tính làm sao chớ cứ như vầy hoài... đây rồi dân làng bỏ hết công ăn chuyện mần thì có phương chết đói cả lũ. Ông Hương Quản chán nản, cúi đầu vâng lịnh ra đi. ÔNG ẤT, ÔNG GIÁ Sau khi đưa Ông Thầy về Gia Bẹ, Hương Quản bèn đánh xe bò về Tỉnh rồi thẳng đường về luôn miệt Tân Long Tân Khánh để giáp mặt ông Thầy Cai. Gặp lúc ông Thầy Cai đang nói chuyện với hương chức Hội Tề tại nhà việc Tân Khánh. Ông Hương Quản Bầu Lòng mang súng bước vào lột khăn cúi đầu chào. Ông Thầy Cai bèn hỏi: - Sao? Vụ Cọp Hùm trên đó ra sao em Hương? Hương Quản lật đật kể lại tự sự cho Thầy Cai và Ban Hội Tề Tân Khánh nghe. Nghe xong ông Thầy Cai phì cười mà rằng: - Thầy bà gì mà nhát như thỏ đế vậy a... Hương Quản? - Dạ! Bẩm Thầy. Ông cọp lớn quá chừng, ai mà không sợ... - Lớn thì lớn chớ. Bộ làm thầy nghề võ hễ gặp cọp nhỏ thì đánh còn cọp lớn thì chừa hay sao? Đoạn ông kêu thường xuyên lại bảo: - Mầy chạy đi kêu ông Ất ông Giá lại tao mượn chút coi. Người chức việc chạy đi ngay, ông Thầy Cai (Cai Tổng) bảo với Hương Quản Bầu Lòng: - Thằng Hương mầy ở chơi chờ một chút, ông Ất ông Giá lại đây, qua mượn lên Bầu Lòng đánh cọp giùm cho. Ông Hương Quản vâng lời, đến bộ ván bên hông nhà việc mà ngồi chờ nhưng trong lòng không tin tưởng chi cho lắm. Một giờ sau, ông Ất ông Giá đến chào ông Cai Tổng và Hương chức rồi đứng chờ lịnh. - À, hai đứa bây đến đó hả? Sao tụi bây? Có rảnh không? Có rảnh thì làm ơn giùm tao lên trên Bầu Lòng với Hương Quản đây, coi con cọp nào đó về làng phá dữ quá, họ sợ làm ăn gì cũng không được. - Dạ bẩm Thầy tôi rảnh chớ không có việc gì. - Dạ thưa tui cũng rảnh. - Ừa, rảnh thì đi giùm. Nghe nói mấy bữa rày có rước ông thầy nào đó mới thấy cọp thì thiếu điều muốn té... mà đánh đập nỗi gì. - Dạ. Bẩm Thầy để tôi về lấy roi và dặn bầy trẻ cái đã... - Dạ. Bẩm Thầy cho tui về thay đồ rồi đi luôn thể. - Ừa, lẹ lẹ đi hai em. Nhớ ở lại trên đó giúp giùm cho xong việc rồi về, chớ bỏ nửa chừng đa. Có đánh thì đánh cho nó tởn tới già, còn có đánh chết được thì chở về đây qua thưởng cho. Nửa giờ sau, ông Ất và ông Giá theo Hương Quản về Bầu Lòng. Riêng Hương Quản thì rất ngao ngán và nực cười thầm cho ông Thầy Cai Tổng, chưa chi mà mong chở xác cọp về... Viết đến đây tưởng cũng nên phác họa vài nét đơn sơ về ông Ất ông Giá. Ông Ất tuổi độ trên ba mươi, người cao lớn, nước da bánh ếch, cổ tay no tròn như ống tre. Người ta đồn rằng bắp tay ông chỉ có một cái xương mà thôi, nhưng chỉ là giả thuyết chớ chưa ai dám quả quyết. Lông tay và lông chơn của ông xồm xàm đen trại. Ông chuyên sử dụng roi trường bằng cây Mật Cật to bằng cái chén đen mun. Ông Giá thì trái lại, trắng trẻo, mảnh khảnh hơn ông Ất độ một bảy một mười. Tay chơn ông cũng liền lạc, nhặm lẹ, cũng chuyên sử dụng roi trường. Tài ông Ất ông Giá thì hầu hết mọi người biết võ đều kiêng nể. Tuy không phải anh em ruột nhưng thương nhau còn hơn ruột thịt và đi đâu cũng có nhau. CHIẾN ĐẤU Xe bò đi suốt ngày đêm mới về tới Bầu Lòng. Ông Hương Cả lo tiếp đãi như lần trước. Ông sai người lo cơm rượu nhưng cả hai đều từ chối bảo có gì ăn nấy, không uống rượu để tỉnh táo mà đánh cọp vì cọp xuất hiện bất ngờ. Tuy vui vẻ tiếp đãi, nhưng trong thâm tâm ông Hương Cả và toàn ban hương chức Hội Tề cũng đồng tâm sự với Hương Quản trên suốt con đường rừng dài thăm thẳm... Bữa cơm trưa vừa xong, ông Ất bảo ông Giá: - Cọp đâu không thấy; hễ đánh thì đánh phứt đi cho rồi chớ nếu ở đây hoài bỏ hết công chuyện nhà chịu gì nổi... Ông Ất vừa dứt lời, thì nghe một tiếng “hự” thật to ở ngoài sân, tiếp theo những tiếng la thất thanh của lũ trẻ và tiếng chó ăng ẳng. Dường như có linh tánh, nên cọp khi biết có thầy nghề võ đến là về làng thử sức ngay. Mọi người còn đang khiếp sợ tìm chỗ núp rình xem ông cọp khổng lồ thì ông Giá nhanh nhẹn cắp roi trường, nhảy ra sân thủ thế, còn ông Ất tay chống roi đứng cạnh cửa mạch, tay kia còn cầm tăm xỉa răng như người vô sự đứng coi... Ở ngoài sân, cọp thấy có người nhảy ra thủ thế, bèn mọp xuống, rồi bất kể lợi hại nhảy đến chụp đùa. Ông Giá nhẹ nhàng nhảy qua một bên tránh khỏi, rồi thuận tay ông chĩa một ngọn roi đâm trúng hông cọp khá mạnh. Cọp rống lên một tiếng như tức giận lắm, nhảy trở lại chụp liền. Ông Giá loang roi vun vút, lúc đập lúc quơ, cọp nhảy tới nhảy lui miệng luôn gầm thét... Bụi bay mù mịt, ở ngoài người ta coi mê mệt, hết sợ phần nào, họ lần ra khỏi chỗ núp rồi lần ra sân, xem mê mẩn thích thú. Lúc ấy ông Ất cũng đứng tại cửa mạch mà coi như mọi người, không thèm tiếp tay với ông Giá. Độ hút tàn điếu thuốc, cọp hộc lên một tiếng, nhảy ra ngoài vòng chiến đấu, nằm ngửa thủ thế đưa bốn chân lên trời. Theo mấy thầy nghề võ nói lại thì đó là miếng “trâu vằng” miếng tổ của cọp. Ai sơ xuất nhảy vào thì chết. Roi đánh vào thì bị cọp bắt roi, tiện dịp cho cọp đoạt roi, móc họng địch thủ. Ông Giá thấy cọp thủ thế trâu vằng. Ông cũng không thèm đánh nữa, đứng chống roi nghỉ cho khỏe. Một hồi lâu, cọp không thấy ông Giá phá miếng nghề của mình và cọp cũng nghỉ mệt xong, hộc lên một tiếng rồi nhảy trở vô vòng chiến đấu. Ông Giá vung roi đánh tiếp. Một lần nữa, dân Bầu Lòng được dịp xem say sưa, xem mê man, cát bụi tung mịt mù không còn phân biệt được người và thú. Lúc sau, cọp lại mệt bèn dùng miếng cũ, nằm ngửa thủ thế trâu vằng. Ông Giá chống roi đứng chờ tái chiến. Theo lời người xưa kể lại, cọp rất giỏi võ. Mỗi lần giao đấu với ai, người hoặc thú khác, cọp ta đều chú ý học hỏi những miếng hay, vì thế, nghe có thầy nghề võ ở đâu là tìm đến đấy để thử sức. Càng thử sức nhiều thì cọp chiến đấu càng giỏi, biết nhiều miếng võ bí hiểm và lẫn tránh các đòn rất tài tình. Hễ hơn thì hạ địch thủ, liệu thua thì bỏ xứ đi mất, nhưng cũng nhớ rất dai mối thù thất bại chua cay, có dịp là tái đấu đặng rửa hờn. Lần nầy, chờ cũng không thấy ông Giá phá miếng trâu vằng, cọp lại trở mình phóng vào vòng chiến đấu. Phen nầy ông Giá đánh rất kịch liệt, roi loang nghe vo vo, lúc đánh trật, roi lún xuống đất, bụi cát tung bay, và không bao lâu người ta nghe tiếng cọp rống thật to và vọt một cái ra ngoài vòng chiến toan chạy về rừng. Nhưng, người ta nghe cọp rống thêm một tiếng nữa to hơn và dài hơn, nhìn lại thấy ông Ất đang đứng bên xác cọp, cọp còn vặn mình sắp chết. Tất cả mọi người đều không thấy ông Ất đánh cọp. Nhưng ông Ất đã độ được đường rút lui của cọp, nên lúc cọp phóng vào rừng, hướng ông Ất đang đứng, ông bèn chống roi phóng mình ra chận đầu đánh một roi là cọp hết đường tránh né và chịu chết dưới ngọn roi ngàn cân của ông. Chờ cọp chết hẳn, người ta mới dám mon men lại coi. Ông Ất lấy cỏ tranh thui ngay bộ râu mép cọp rồi mượn người khiêng chất lên xe bò. Ông Giá vấn một điếu thuốc hút say sưa... rồi ra giếng xách nước tắm cho sạch bụi chiến trường. Riêng ông Hương Quản hớn hở ra mặt, lấy thước đo ngang đo dọc coi con cọp được bao lớn đặng làm “phúc bẩm” (làm tờ báo cáo lên cấp trên. S.N.). Ông Ất toan xin tỏi đặng thoa mũi bò thì ông Hương Cả cản lại mà rằng: - Đâu được em. Mấy em phải ở lại dùng với qua một chén rượu lạt mới phải chớ... Ông Ất còn đang lưỡng lự thì ông Giá bước vào, nghe thế bèn bảo: - Ờ phải đa, tụi mình ở lại ăn ba hột cơm rồi về. Tôi đói quá đi không nổi đâu. Cả ba người cùng cười xòa đồng thời toàn thể dân chúng vui mừng hoan hô reo hò ầm ĩ.” * * * Một năm trước Giải phóng (khoảng 1974), tình cờ lục lạo trong ngăn tủ của anh bạn phụ trách trang trong (hiểu là mục Văn Nghệ ở trang 2, hoặc mục Kịch trường...) của tờ Tia Sáng, gặp truyện Cọp Bầu Lòng nói trên, liệt kê vào loại giấy tờ sắp hủy bỏ. Bút hiệu Lưu Linh Tử, tôi đã nghe nhiều lần; đọc bài nầy, khâm phục kỹ thuật kể chuyện, vượt hơn tôi quá nhiều. Không đăng được, vì đã đăng rồi trên tờ Nguyệt san khác, mặc dầu cách đó hơn 10 năm. Tôi đoán chừng: năm nay tác giả ắt trên 80 tuổi. Trong bài có vài chữ mà tôi xin mạn phép cắt bớt (thí dụ như chữ một, chữ mà cho gọn), ngoài ra, vẫn để nguyên văn, cùng cách chấm câu. Quê tôi rừng U Minh, hồi xưa cọp khá nhiều, nhưng là cọp đầm lầy, ăn nai, heo rừng, đói quá thì xuống bãi bùn mé rạch để bắt cua, bắt cá thòi lòi ăn đỡ lòng. Ở miền Đông, từng nghe cọp Bầu Lòng và lò võ nghệ Bà Trà Tân Khánh của Thủ Dầu Một. Rừng miền Đông cao ráo, cọp hung dữ kiểu khác, không như cọp U Minh, dầm mình dưới nước phải rụng lông, sinh ghẻ, sút móng, vì thường lội qua sông. Thế “trâu vằng” mà Lưu Linh Tử mô tả, tra Đại Nam Quấc Âm Tự Vị của P. Của, ghi rõ: - Trâu Vằng: Trâu lắc đầu, đánh sừng qua lại. Tôi hiểu là cọp nằm đưa bốn chân lên trời. Nhảy tới, đánh vào, thì cọp chụp cây roi, kềm giữ, nếu võ sĩ cứ nắm cây roi thì chân cọp và mặt của võ sĩ gần nhau vì tầm dài cây roi có giới hạn. Cọp sẽ buông nhanh cây roi, quơ chân, chụp ngay võ sĩ, giết lập tức. Nếu võ sĩ buông roi mà chạy thì chậm trễ, cọp rượt theo, nhanh hơn, trong khi võ sĩ đã mất tinh thần. Võ sĩ đứng nhìn lúc cọp nằm giữ thế “trâu vằng” là thái độ chủ động, chớ không bị động. Trong cơ chế làng xã thời xưa, ngoài hương chức lớn, hơn 10 vị, còn hương chức nhỏ, phần lớn là phó (phó xã, phó hương quản...) lại còn nhơn viên sai vặt, trong đó có người “thường xuyên”, nói trại “tuần xuyên”. Đọc sách về cơ chế hương chức làng, thấy ghi chức vụ “tuần giả”, tuần nói ra thường; có nơi ghi là “tùng giả”. Tôi không dám khẳng định. Truyện Cọp nói trên quả là lưu loát, rất đạt, nhờ cốt truyện, thêm tài dẫn dắt với nhiều chi tiết nhỏ dễ thuyết phục. Kể chuyện theo nguyên tắc soạn kịch, mở đầu, gút lại, không dứt đoạn, không thể nào không đọc tiếp, mặc dầu có thể tiên đoán hồi kết cuộc. Người viết dĩ nhiên là hư cấu, góp phần sáng tạo nhưng tôn trọng sự kiện, tôn trọng người đọc; lời lẽ đối thoại (việc xảy ra hồi thế kỷ XIX) tăng thêm duyên dáng. Tóm lại chức năng giải trí, giáo dục (sự can đảm của người khẩn hoang), màu sắc địa phương (rừng miền Đông) đã hài hòa, mặc nhiên tạo ra cái Đẹp. Bàu là vũng nước to, như Bàu Cát, Bàu Bàng (Bàu Tròn trở thành cơ sở cho hồ Kỳ Hòa, Quận 10). Lồng hay Lòng? Đâu hồi năm 1990, được dịp đi Lộc Ninh, tìm xóm Bầu Lòng nầy, ghé nhanh, thấy đâu đó yên vui, hỏi về cọp năm xưa, mấy bạn cán bộ trẻ mỉm cười, mời tôi “nhậu” sơ sơ, như là câu trả lời. Ông Lưu Linh Tử đã viết lai rai nhiều bài, kiểu nghiệp dư. Nhưng với một bài nói trên, ông là tay già dặn, vốn sống dư dả để ăn thua với đời. Viết như nói, nhiều người bảo văn viết khác với văn nói. Và văn viết là cao hơn! Nhưng “viết như nói” kiểu chuyện Cọp Bầu Lòng đâu dễ; lại còn cao hơn kiểu viết để mà viết, dùng lời lẽ chải chuốt, quanh co hòng che giấu nội dung sáo mòn. * * * Phóng viên Truyền hình và Truyền thanh làm việc không giống nhau. Đối với Truyền hình, hình ảnh linh động nói nhiều hơn lời nói và chữ viết, nếu cần. Truyền thanh dùng âm thanh, không hình ảnh. Hình ảnh màu, dầu sao đi nữa, vẫn hấp dẫn hơn hình ảnh đen trắng. Hình ảnh dễ “tiêu thụ” hơn lời nói. Dòng rạch ô nhiễm, ngã tư đường kẹt xe, tai nạn khủng khiếp, cơn lũ lụt, với vài ảnh lập tức “đập vào mắt”, không tốn thời giờ cho người “tiêu thụ” suy nghĩ lâu lắc. Nhưng hình ảnh là phù du. Máy thâu thanh rất cần và có chức năng riêng, về lượng thông tin. Ở miền quê, máy thâu thanh còn là người bạn thân thiết. Nghe vọng cổ, cải lương, qua giọng ca, tiếng nhạc, rồi thử hình dung động tác của người ca: Một kiểu, một phong cách thể hiện khác hơn khi ca sĩ ca hát với mặt mày, bối cảnh, áo quần, trên màn ảnh nhỏ. Hồi đầu thế kỷ, vài đoàn nhạc kịch từ Pháp qua Sài Gòn diễn tại Nhà hát lớn. Người thật, giọng ca sống. Một ký giả Pháp đã phê bình rằng ca sĩ đẹp nọ đã... hát rất hay, hát với động tác của cặp đùi. Văn, thơ thuộc vào loại trầm lặng, toàn là chữ, hai mươi mấy chữ cái, với dấu hỏi, ngã, nặng, huyền, trang sách nào cũng gần giống như trang sách nấy. Vài nhà văn Pháp đã bỗng dưng viết kiểu văn khó hiểu, ngoài qui ước diễn tả thường lệ, bảo là “kiểu viết mới”, để đánh vào tiềm thức hầu gợi lên những hình ảnh, cảm xúc mà điện ảnh, âm nhạc không gợi được (hoặc gợi kiểu khác). Họ bảo đó là kiểu gợi những điều ngoài chữ viết, nói những điều mà nhân vật không bao giờ nói. * * * Vào khoảng giữa năm Mậu Thân, buồn bực, ít đi ra đường, hậu quả của thời cuộc. Sau vụ Tổng Công Kích, giới cầm quyền Sài Gòn bắt đầu nhận diện thái độ của từng người dân, lúc phong trào sôi nổi những ngày đầu năm... Đọc sách là hay nhất, bấy giờ sách bán quá rẻ. Đọc Henry David Thoreau, nhà văn Mỹ (1817-1862). Ông nầy yêu đời, yêu thiên nhiên, muốn sống tự túc, lập nông trại nhỏ nơi hẻo lánh, ghi chép tỉ mỉ những khoản thu chi. Ông viết có đoạn: - Nhà thơ là kẻ xây dựng nông trang cho mình bằng vần điệu của ngôn ngữ. Gom thiên nhiên lại; bài thơ đẹp hoàn chỉnh giống như một nông trại khép kín với cái hàng rào. Nhà thơ đã tịch thâu những gì tươi đẹp, bổ dưỡng nhất của nông trại, nào sữa tươi, nào chất kem của sữa. Người chủ nông trại không có tâm hồn thơ thi chỉ giữ cho mình thứ sữa cặn, không bổ khỏe mà không biết, nếu ông ta chỉ nhìn vào lợi lộc vật chất. Bấy giờ, tôi thử viết Nhật ký, ghi chép vài cảm nghĩ, e rằng sau nầy sẽ bị quên mất. Nhưng viết sượng sùng. Vài bạn khuyên tôi viết, để đó, mươi năm sau dùng làm chứng cứ thời đại, sẽ in. Tôi mỉm cười. Nghĩ rằng văn chương và ý nghĩ của mình mươi năm sau mà còn giá trị, hoặc tăng giá trị là kiểu tự ru ngủ với ảo tưởng. Người thời buổi sau nầy sẽ quên nhanh quá khứ. Hơn nữa, còn vấn đề an ninh. Bản quyền tính bằng tiền thì mười năm sau mình mới hy vọng nhận được, nhưng trước mắt, rủi ai khai báo oan ức chuyện gì, nhà cửa bị lục soát thì mớ chữ nghĩa ấy sẽ bị... chẻ làm tư, gây tai họa, làm trò cười. Chữ nghĩa luôn luôn mơ màng, hiểu trắng hiểu đen đều được. Đọc Thoreau, lại nghĩ ngợi. Thi sĩ nói riêng (nghệ sĩ nói chung) đến vùng nào, sống thời buổi nào thì cũng muốn hút nhụy ngọt, tóm thâu tinh túy thời buổi ấy. Như Hoàng Hạc Lâu đã vào tay Thôi Hiệu rồi thì chỉ còn là cái xác trơ. Như tiếng chuông chùa Hàn San bị Trương Kế tóm bắt. Khẩn hoang ở bên Mỹ, hồi xưa như thế nào? Họ có dụng cụ, có súng đạn, tín dụng, báo chí, đất đai cao ráo, không có sốt rét, đâu như người phía Cà Mau, Rạch Giá dẫm chân trong rừng tràm với muối, nước phèn mặn. * * * Phía đồng bằng, ít ra cũng có 3 nơi gọi Rạch Chanh, nếu phỏng định Chanh là trái chanh, cây chanh e cường điệu. Nơi phèn mặn, gần Mộc Hóa, từ Tân An lên phía Bắc, tiếp giáp rừng tràm úng lụt, làm sao trồng chanh đến mức gọi Rạch Chanh, chẳng lẽ tay phú hào nào đó thử trồng một cây để làm cảnh? Thời Nguyễn Ánh bị Tây Sơn rượt, đã nghe Rạch Chanh. Có người bảo là Tranh, cỏ Tranh, nói trại ra; tôi thấy vô lý vì người Nam Bộ phát âm phân biệt Tr và Ch, dầu là thất học. Đọc “Thực vật ở đảo Phú Quốc” do giáo sư Phạm Hoàng Hộ biên soạn (Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 1985) thấy nói về trảng tràm và chanh lương, ở đồng Cửa Cạn, nơi “địa hình gần như bằng phẳng, rải rác chỉ có vài gò đất cao không hơn 50 cm. Hai loại đặc sắc nhất ở sinh cảnh nầy là Tràm, mọc thưa, bề kính không hơn 30 cm, ở khoảng trống giữa các cây tràm không có một tầng cây thấp, hay cây bụi gì cả mà chỉ có cỏ”. Cỏ nầy, theo giáo sư họ Phạm, gọi Chanh Lương, tức là loại cỏ cao cỡ 50-60 cm bao phủ như một thảm cỏ đều đặn. Tác giả cho biết thêm bấy giờ khu vực quanh sân bay Dương Đông thuộc vào loại sinh cảnh nầy, lại vẽ hình cỏ Chanh Lương bên cạnh những cây tạp, nhỏ, như cây mua, cây bắt ruồi. Như vậy, Chanh Lương là loại cỏ thấp, vô dụng, ở vùng đất thấp, xen với tràm chồi. Nhưng tại sao tên loại cỏ nầy chẳng còn nghe nói, phải chăng là tiếng từ miền Trung đưa vào? Xem Tự vị Huỳnh Tịnh Của không gặp, chẳng hiểu giáo sư nghe tiếng cỏ Chanh Lương nầy ở đâu? Ở Phú Quốc chăng? * * * Trong tập ghi chú hồi năm 1968, tôi viết như sau: - “Giai cấp mới, gọi là tư sản đã chi phối về văn hóa (ở Sài Gòn), thí dụ như bày kiểu thức quần áo, cải biến quan hôn tang tế, điều chỉnh cảm quan về tiểu thuyết, tuồng cải lương...”. Bấy giờ, bày ra kiểu áo dài mà ngắn vạt, chừa hai lõm bên hông như hình tam giác, mặc quần ny lông trắng mỏng, để lộ rõ cái quần lót (mặc đứng đắn cũng vậy), lại còn kiểu đám cưới cải tiến, với “áo cưới cô dâu”. Hai họ và người làm mai đưa cô dâu chú rể đến từng bàn để chào, khách có thể trao bao thư, gom lại. Ngày nay, bên Mỹ, trong giới Việt kiều nghe đâu vẫn còn theo lệ nầy, dịp đám cưới. Một phần tư thế kỷ sau, năm nay, đọc lại tôi thấy mình nóng vội, dựa vào cái “lập trường” cứng ngắt. Đây là đổi mới phong tục trong buổi tiến lên công nghiệp, tất yếu như vậy, và kiểu cải cách nầy đáng cho các người trẻ tiếp nối để tiết kiệm thời giờ. Tục lệ tặng quà, đi tiền bạc dịp cưới hỏi, lắm khi bỏ không được vì đã “có qua có lại” giữa bạn bè từ trước, biết đâu nó mang tính dân tộc? Bạn đã thọ ơn của ta, nếu ta không nhận sự đền đáp thì chừng nào bạn trả được ơn, dù là tượng trưng, khiêm tốn. * * * Viết báo và viết văn khác nhau, nhưng báo được xem là nghề thực tiễn, đem lại lợi tức (nhuận bút) và danh vọng nhanh chóng. Nhiều đoạn văn đẹp, hấp dẫn nhưng chỉ là phóng sự, là ký, được trau chuốt để cầu mong mang tính văn học. Bài báo, bài ký, muốn đạt yêu cầu, cần nơi người viết sự phản xạ nhạy bén, lắm khi là chi tiết nổi bật, tương phản. Nhưng làm văn học đòi hỏi sự cảm thụ bình tĩnh của người từng trải. Nghĩa là phải lùi lại một bước trước sự kiện để có khoảng cách, cảm thụ không hấp tấp. Có sự việc hấp dẫn hôm nay nhưng ngày mai thì khác. Về văn học, ít ra tác phẩm cũng còn đứng vững vài năm, chưa nói là vài mươi năm. Cần gạn lọc lúc cảm thụ. Người chuyên làm báo, khi bỏ nghề hoặc nhắm mắt chỉ còn cái bút hiệu, không có tác phẩm. * * * “Ở Đông Phương biết bằng không tên, không lời, bởi vì có tên, có lời là hết biết”. Giáo sư Hồ Đắc Thăng viết như vậy ở đặc san Đồng Nai văn tập, số 19, vào năm 1968. Đó là tiếng nói của người thấm nhuần đạo Phật. Việc ham chơi hoa kiểng, ngắm cây kiểng mà mình ưa thích cũng tương tự. Làm sao diễn tả được niềm vui lâng lâng? Nhựa cây và máu của chủ nhân là một, chảy theo nhịp điệu vũ trụ. Nhiều người chưa đạt tới trình độ ấy, khi ngắm gốc kiểng, thấy vô duyên, chẳng thông cảm gì cả. Người uống rượu rất sung sướng vì rượu dường như nhập vào máu mình, như là cùng một vật thể tuần hoàn. Mỉm cười, không nói, mắt lim dim, “hồn bướm mơ tiên”. * * * Ngày 2-12-1968, đi An Hóa (Mỹ Tho) lần đầu tiên. Đi chơi mà ngán, nhưng không đi thì đợi biết bao giờ mới đến Cửa Đại của sông Cửu Long hùng vĩ? Thời điểm nóng bỏng, cuối năm Mậu Thân. Chủ nhiệm báo Tia Sáng, người An Hóa, khi thành công về kinh doanh bèn tặng cho trường học ở quê nah một số bàn ghế đáng giá. Địa phương làm lễ đón nhận long trọng, lại có sự chứng kiến của viên quận trưởng trẻ tuổi, dường như vừa mới ra trường “Quốc Gia Hành Chánh”. Đi tàu thủy, đi riêng thì sẵn phương tiện, nhưng sợ bị quân Giải phóng phục kích, sách lược hay nhất là xuống tàu đò, trà trộn với hành khách, hộ tống quận trưởng còn số lính cận vệ mang súng, thêm cây trung liên. Tạm yên tâm, chẳng lẽ quân Giải phóng lại vô tình giết anh em nhà báo! Dòng sông uốn khúc, lúc nào ngồi dưới tàu cũng thấy như mình đang ngao du trong cái hồ nhỏ, đóng khung mơ hồ với những rặng dừa nước ở khúc voi khúc vịnh. Dọc đường, chỉ gặp có một chiếc tàu đò, đi ngược chiều. Sự im lặng đáng sợ. Viên quận trưởng trẻ tuổi như mặc cảm, không cười nói, phải chăng muốn đính chánh rằng mình là thanh niên trí thức tham gia chánh quyền là để “trốn lính”. Bầu trời trong vắt, tháng Mười một ta, chẳng thấy con chim con cò. Hành khách im lặng, vài cụ già nói: Trông cho tới nơi mà lên bờ cho khỏe thân! An Hóa là chợ quận, bên bờ Cửa Đại, cũng gần biển. Đọc sách, thấy ghi đâu hồi những năm trước thế kỷ XIX người Nhật đã đến Cửa Đại, thử lập một cảng nhỏ cho tàu buôn đậu tạm trên đường đi lên Nông Pênh tìm thị trường. Kế hoạch không được như ý, hãy còn dấu ấn Cồn Tàu, Cồn Nhật Bổn. Chợ sung túc, xứ dừa. Bị ám ảnh về tham vọng tìm hiểu vùng đồng bằng, bèn hỏi mấy người lớn tuổi. Quả thật như vài tư liệu ghi lại, vườn dừa trồng từng mảng to là sáng kiến của Bùi Quang Chiêu, viên kỹ sư canh nông có lẽ đầu tiên do Pháp đào tạo. Thời xưa, cây dừa chẳng có ích lợi kinh tế như cây cau (cau khô bán qua Campuchia để ăn trầu); thuế vườn mãi đến thời Pháp thuộc, vẫn còn gọi thuế viên lang, với nghĩa vườn trồng cau, mặc dầu có trồng dừa và cam quít. Bên Phi Luật Tân, dừa trồng trên sườn đồi, loạn xạ, cũng như ở Sri Lanka. Đào mương lên liếp trồng ngay hàng thẳng lối là sáng kiến của họ Bùi. Đọc Nông Cổ Mín Đàm, Lục Tỉnh Tân Văn vào thập niên đầu thế kỷ, ta thấy rất nhiều bài khuyến khích trồng dừa, ích lợi vô cùng từ rễ, trái, vỏ, lá... Với uy thế sẵn có thời Pháp, họ Bùi và các con trưng khẩn nhiều mảng đất tận phía Rạch Giá (làng Lương Tâm, Vĩnh Hòa Hưng) cho trồng dừa, nay hãy còn dấu ấn. Họ Bùi có người em gả cho tổng đốc Hà Đông, ngoài Bắc, viên tổng đốc nầy gốc Bà Rịa; con cái học hành đỗ đạt, dường như kết tình thông gia với văn hào Nguyễn Văn Vĩnh, thời Đông Dương tạp chí. Một người con của Nguyễn Văn Vĩnh du học Pháp về mang bịnh lao phổi, đến đồn điền Vĩnh Hòa Hưng xứ Rạch Giá dưỡng bịnh, mất tại đó, là bác sĩ Nguyễn Hải (anh em với nhà thơ Nguyễn Giang và Nguyễn Nhược Pháp). Trở lại buổi lễ trao tặng bàn ghế cho nhà trường An Hóa. Đông đảo thân hào nhân sĩ địa phương, phụ huynh học sinh; học sinh quần áo chỉnh tề. Mục giới thiệu, diễn văn, cảm tưởng, lời tri ân. Tôi lẻn ra ngoài, lúc buổi lễ chưa dứt. Một anh bạn người địa phương gọi tới, gọi khẽ, với cái tên riêng hồi thời kháng Pháp. Tôi không sợ sệt vì mình đang ở tư thế người theo “Quốc gia” với chút ít tên tuổi. Anh bạn nầy bắt tay tôi; lúc bắt tay, anh ta dùng ngón trỏ mà khều lòng bàn tay tôi, như sự đồng cảm. Chắc thời kháng Pháp, anh đã xuống chiến khu IX miền Tây Nam Bộ. Đưa tôi vào quán, anh ca ngợi tôi đã đeo đuổi việc văn chương khá dai dẳng. Uống cà phê, tôi không hỏi danh tánh anh làm gì. Hồi lâu, anh nói: - Dân ở đây, ai cũng đứng hai chân. Theo ngôn ngữ bấy giờ, hai chân là vừa dính líu với “Quốc gia”, vừa liên lạc với bên Giải phóng. Tôi hỏi về nhà máy ép dầu và chế biến dây luộc (với vỏ dừa), từng được biết qua sách vở. Đến thăm cơ ngơi, tôi thán phục họ Nguyễn Thành, từ trước năm 1930 đã là người tư sản biết kinh doanh. Nhà máy ngưng hoạt động từ lâu. Về quán, uống chai bia, vào tiệc với quan khách, lại trở ra quán. Đột nhiên, nổ ầm ba tiếng chát chúa. Đạn bích kích pháo, của quân Giải phóng, từ bên kia bờ sông bắn qua, bốc khói. Chỉ có ba tiếng. Vài cháu học sinh gái, mặc áo dài, vừa chạy vừa kêu rú, trên tay còn cầm miếng dưa hấu (dịp gần Tết). Rồi thì yên tịnh. Đồng bào bảo ở đây chuyện như vậy là thường tình. Rồi thì học sinh ăn cà rem, uống nước đá. Viên xã trưởng (dưới chánh quyền cũ, xã trưởng là chủ tịch, nhiều quyền hạn) chạy xuống mé sông với vài lính dân vệ, trở lên, báo cáo với quận trưởng rằng chuyện thường lệ; phát giác một chiếc xuống nhỏ, kiểu xuồng câu tôm bơi ngang sông, thế thôi. Một anh bạn đến làm quen, rủ tôi ở lại vài ngày, anh sẽ dắt bầy chó đi săn chồn trong vườn dừa bao la. Tôi từ chối. Bỗng đâu ba bốn chú lính xuất hiện, thấy mà sợ. Mặt mày đỏ khé, mặc quân phục vằn vện, trên ngực mang phù hiệu hình con dơi đen, với chữ P.R.U. Hỏi thì biết là biệt kích yểm trợ chiến dịch Phụng Hoàng. Bọn họ đánh giặc cảm tử, ban đêm bơi xuồng mang theo dao găm; đột nhập mật khu Giải phóng, dọc đường dùng mật hiệu nhại tiếng chim kêu rất tài tình. Bọn này vác đến giữa sân chợ một cây đại liên, với băng đạn vàng lườm. Họ chửi nhau, vì tự ái gì đó, hăm dọa sẽ bắn nhau. Bà con ở chợ cứ nhìn, không hoảng sợ. Chừng nào chúng bắn thì hãy chạy. Hai ba lít rượu đế, một con gà luộc đem đến. Cả bọn nhậu thản nhiên, nhìn viên quận trưởng đi ngang qua, chẳng chào hỏi gì. Xuống tàu trở về, đã xế chiều. Đến Sài Gòn, chủ nhiệm nhắc anh em ký giả viết bài tường thuật về buổi lễ trao tặng bàn ghế ấy. Chẳng ai từ chối, cũng chẳng ai viết. Làm sao tường thuật, hỡi trời! Tường thuật theo giọng điệu nào? Không khéo mất lòng cả hai bên. Cầu xin hai chữ bình an. Bấy giờ (1968) đã phổ biến từ “Chịu chơi”. Một ông lão tham dự buổi lễ nói bình thản: “Bữa nay Việt Cộng chịu chơi”. Ai nấy mỉm cười, ông lão đã ca ngợi công khai quân Giải phóng. * * * Thú vui khi thấy khoảng cách, trong tưởng tượng, khi ngắm món đồ cổ. Giữa ta và cái tô, cái chén hiển hiện nầy là đôi ba thế kỷ. Nâng niu cái rìu bằng đá trong tay, ngỡ đang đối thoại với người thời tiền sử nào đó, lãng mạn mà có cơ sở khoa học. * * * Anh bạn Bầu Q... từng quản lý vài đoàn hát Cải lương nhưng đoàn nào cũng không bền. Sau ngày Giải phóng, hễ gặp tôi là làm thơ, mời bia hơi, ép tôi uống để nghe: Mười năm, thời tiết ai lường được Kể cả ân tình cũng nắng mưa... - Hỡi ngọn cỏ, ta đạp người chốc lát, Người ấp ủ ta trọn đời. Tài làm thơ của anh bạn có thể đáng nghi ngờ, nhưng sở trường anh bạn là làm “bồi bàn” cho khách sạn người Âu, ở Sài Gòn, với quá nhiều tuổi nghề. Từ chỗ không biết tiếng Pháp, anh nghe được những giọng nói ngọng nghịu và biết tiếng lóng của giới giang hồ. Từng là “maître d’hôtel” cho nhiều cửa hàng nổi danh, anh kể lại vài nguyên tắc cơ bản của nghề làm bồi bàn, hồi trước 1975: - Nhà hàng đứng đắn, buổi ấy, không dùng nữ chiêu đãi viên, vì giới nữ khó giữ được nghiêm túc khi có người chọc ghẹo. Lại nữa, ông chồng già mà dắt theo bà vợ già thì khó xử. Ông chồng già cứ liếc trộm cô nữ chiêu đãi trẻ hơn vợ mình, gây không khí kém vui cho bà vợ. - Buổi xưa, lúc khiêu vũ, chợt người mặc quần ngắn vào thì lập tức anh bồi làm dấu hiệu cho nhạc trưởng ngưng chơi, ngụ ý đuổi người ăn mặc kém tao nhã. - Thấy người đang say rượu vào nhà hàng, cương quyết đuổi ra ngoài, bằng không, các thân chủ khác sẽ bực mình khi bị quậy phá. - Người bồi bàn phải tinh mắt, thấy thân chủ bỗng dưng đứng dậy, lập tức làm dấu hiệu nơi bố trí phòng vệ sinh. - Phải đoán khá chính xác đôi trai gái vào ngồi ăn là ai, vợ chồng hay tình nhân, bạn gái. Đứng hơi xa, không tò mò. - Nếu thân chủ vô ý làm rớt muỗng, nĩa, phải lượm kín đáo, đặt trên dĩa mà đem vào phía sau. - Khi thân chủ hỏi hóa đơn, nên đem lại kín đáo. Khi thối tiền, nên đặt số tiền còn lại trên dĩa có cái khăn trắng che khuất và trình cái dĩa ấy phía dưới mặt bàn. Để cho người bạn gái của khách chẳng đoán được buổi tiệc tốn bao nhiêu. - Nếu là vợ chồng, nên để tiền dưới cái khăn, nâng cái dĩa lên mặt bàn, bình thường, hoặc để tiền trên cái khăn cũng được. - Lắm khi thân chủ dường như mất cảm tình với gương mặt anh bồi, ngay từ lúc đầu đã bị dị ứng, thì người quản lý phải cho người khác đến thay thế. * * * Sự “suy thoái trong vàng son” của thời oanh liệt không bao giờ trở lại. Cố bám víu quá khứ, tâm trạng con người bệ rạc, lỗi thời, qua hình tượng của thành phố Venise bên Ý, từng là trung tâm thương mãi lớn Châu Âu. Đại khái: - Con người từng là công tử hào hoa, ăn sung mặc sướng, đứng trên đầu thiên hạ, nay trú ẩn trong cái biệt thự xưa còn đứng vững đó để tìm chút tiện nghi và an ủi. - Thành phố, hải cảng mất sinh khí, tượng trưng cho nền văn minh đã bị thời gian chôn vùi nhưng vẫn tưởng mình là mẫu mực về văn hóa. - Một kiểu tư bản phá sản còn nuôi nấng ảo tưởng phục thù. Chưa chết hẳn, nhưng đã tê liệt, bán thân bất toại. Tiếng hát bi ai của người chèo thuyền phục vụ du khách; muốn ra vẻ yêu đời, nhưng là bài điếu văn cho bản thân mình. Mấy ý trên, ghi vội qua tư liệu về thành phố Venise, trong bài hướng dẫn du lịch, tình cờ gặp ở hiệu sách cũ. * * * Ngày nay, hàng hiệu dùng thừa thãi, có tiền là tha hồ mua sắm, đầy đủ tiện nghi, lắm khi vượt mức thâu nhập bình quân của người khá giả. Nhớ lại những năm vừa Giải phóng, kinh tế yếu kém, đành tận dụng nguyên liệu phế thải, với thời trang lãng mạn. Nhớ đâu ghi đó: - Bia hơi đựng trong cái ấm bằng nhôm, sang nhất là sắp hàng chờ mua loại... bia đối chứng. Mãi đến nay, tôi chưa hiểu đối chứng là gì, phải chăng là tiêu chuẩn kiểm soát chất lượng? Cái tên nghe rất... khoa học và kỹ thuật. - Thuốc lá Capstan càng khan hiếm, lại nhập lậu thuốc Samit từ Thái Lan, Samit bấy giờ là “cao cấp” cỡ thuốc Ba số năm ngày nay. - Nghe đâu ở căn cứ Long Bình cũ, có người đã tổ chức khai quật những bao ny lông (được xem là rác rến) bán được tiền, làm giàu, trong khi mấy người mua “ve chai” tìm những bao ny lông đã tái sinh, đen đúa để tái sinh lần nữa! - Dép nhựa đã tái sinh, bị đứt, có người chuyên vá lại với cái mỏ hàn, được đốt nóng với than đá. Mỏ hàn làm chảy nhựa dẻo, cho dễ gắn lại. - Mua gọng kiếng cũ có mạ vàng để “phân kim”, thâu hồi vàng. Mua răng vàng với giá cao, mua nắp viết Parker mạ vàng. - Mua “phim phổi” đem về tẩy sạch, tráng thêm hóa chất để làm phim mới. - Chế tạo loại công cụ đặc biệt để bơm mực bút bi, với cái ống chích thuốc. Mực bút bi chảy ướt túi áo. - Dây kẽm gai thời chiến chặt khúc làm đinh (đóng tới đâu, cong quẹo tới đó). Dùng sắt thùng “phuy” cũ, cuốn tròn, chế ra sườn xe đạp! - Dùng bao đựng cát của Mỹ tái sinh lại, để kéo ra loại dây buộc hàng hóa, màu đen, khá chắc. - Lon bia khó kiếm, tổ chức thâu mua, cắt ra, làm đèn Trung Thu cho trẻ con, hoặc làm cái lon nước uống cho trẻ con mang vào lớp, có nắp đậy và quai xách. - Cà phê “bắp rang”, “cơm cháy”. Thuốc lá có thể là lá đu đủ pha vào thuốc Lạng Sơn, Vĩnh Hảo. Làm đầu lọc, chế biến thuốc có cán nội địa, với phương tiện thủ công. - Rượu cất với mật mía, đầy chất độc. Rượu nếp than (rượu cẩm) thực chất là rượu mật mía, pha thêm đậu đỏ luộc, xay nát qua máy xay “sinh tố”. - Quần “din” cũ được mua giá cao, giặt giũ lại, để may kiểu mũ lưỡi trai bán giá cao vì là hàng cao cấp, hàng ngoại! - Mang cái túi may với vải ny lông dày của nhà binh Mỹ. - Gạo thì ôi thôi, cân thiếu, nào bông cỏ, nào cát sạn, ẩm nát. Ăn độn “bo bo” sáng tạo kiểu máy thủ công xay bo bo chế biến ra mì sợi, mì ống macaroni. Kể ra bao nhiêu đây cũng đủ để thấy kinh tế thị trường là cần thiết. Chuyện mới xảy ra không lâu, nghe như huyền thoại. Bảng liệt kê có thể kéo dài... chưa kể việc mua nhu yếu phẩm, cá, thịt, tiêu chuẩn từng nhúm bột ngọt, thuốc lá Mai, trứng vịt, giấy cuốn thuốc lá, giấy vệ sinh. Thật là thiếu sót nếu quên cây sống đời và thần dược xuyên tâm liên. Thời bao cấp, cấm chợ ngăn sông, xin chào mi! Hoan hô Mở Cửa, Đổi Mới. Cái thuở “rút thăm” mua xe đạp, mua vỏ ruột. Nghe đâu buổi ấy vài cán bộ hàng tháng được mua “bình ga”, đem bán cho mấy tay bơm ga hộp quẹt, lại còn thuốc lá thơm, lạp xưởng. Tôi đã thấy người nọ đi xe Mercédès, ngồi băng sau, bên cạnh có cái thúng nhu yếu phẩm nào trứng vịt, thịt heo. Xem hãnh diện! * * * Đi Long Hưng, vùng lịch sử Rạch Gầm, Ông Hổ, sinh quán Tả quân Lê Văn Duyệt, nơi xảy ra trận đánh quân phong kiến Xiêm do Nguyễn Huệ chỉ huy. Paulus Của ghi là Gằm, không phải gầm thét; Trương Vĩnh Ký cho là tiếng Khơme Khla Trăm, cọp nằm vũng. Nhưng đã quen viết Gầm rồi. Một người bạn địa phương bảo rằng cách đó không xa còn rạch Bà Thét, Gầm chọi với Thét, tính hài hước của người khẩn hoang. Làng Long Hưng, theo Trịnh Hoài Đức, Long là rồng, gọi nơi trung hưng của Nguyễn Ánh ở đất Ba Giồng (đất không ngập úng của Định Tường xưa). Từ lâu đời, thôn xóm định hình, ta nhớ hồi Nam Kỳ Khởi Nghĩa, cờ đỏ sao vàng được treo cao ở đây (1940), tại đình làng. Khu vực đình chịu ảnh hưởng nặng chiến tranh, thời chống Mỹ, đồng bào làm ăn chưa khá, ngôi đình vừa trùng tu sơ sài, vài bô lão bảo rằng không sắc thần. Chẳng lẽ làng xưa mà không sắc Thành hoàng Bổn cảnh. Sắc phong, bị thất lạc từ lâu. Theo Nguyễn Liên Phong, từ thập niên đầu thế kỷ nầy vẫn còn giai thoại đáng tin là nội tổ của Tả quân họ Lê từ Quảng Ngãi lưu lạc vào đồng bằng nầy, bị bịnh dịch mà mất. Chiếc thuyền chở cái quan tài nghèo nàn bỗng dưng bị “đứt néo” lúc đi ngang qua vàm Trà Lọt (xã Hòa Khánh, trên đường đến phà Mỹ Thuận). Bèn đưa vào bờ mà chôn, định cư, làm ăn không khá; đến đời cha của Tả quân thì dời đến rạch Ông Hổ, làng Long Hưng nầy. Lúc còn trẻ họ Lê thích đá gà, không ham học chữ nghĩa; nếu ham, chắc học hành chẳng tới đâu, hơn 200 năm trước, làm gì tìm được thầy đồ có trình độ. Chưa bao giờ ra chốn thị thành, ấy thế mà vì “hăng chí trai”, một thanh niên quê mùa, thất học như họ Lê đi theo Nguyễn Ánh, lần hồi lập công lao lớn. Tả quân Lê Văn Duyệt sáng lập cảng Sài Gòn, bấy giờ gọi chợ Bến Thành, tàu buôn nước ngoài tấp nập, giao thương với cả nước, với nước Campuchia. Bài phú Cổ Gia Định mô tả tàu Tây Dương đến Bến Thành; trai nghinh ngang chân hán chân hài, thêm gái điếm. Rõ ràng là kinh tế thị trường. Qua vụ Lê Văn Khôi, Sài Gòn bị phá hủy, kinh tế suy thoái, phải chờ khi người Pháp đến mới nổi danh lần nữa. Nhìn phần mộ song thân Tả quân, cũng như nấm mộ của vợ chồng Tả quân (ở Bà Chiểu), tôi thấy dân ta thời xưa rất nghèo, ngoài tưởng tượng. Sau khi mất, Tả quân vẫn lãnh bản án vì vụ Lê Văn Khôi, phần mộ song thân ở Long Hưng cũng bị phá hủy, kiểu tru di tam tộc. Lúc phục hồi danh dự thì kinh tế cả nước suy thoái, rồi Pháp đến, cuối thế kỷ thứ XIX. Phần mộ các công thần như Nguyễn Huỳnh Đức, Võ Tánh, Trương Tấn Bửu vẫn khiêm tốn, mặc dầu theo cơ chế là được hưởng qui mô rộng lớn hơn mồ mả của giới điền chủ. Tôi được đến làng Long Hưng (trùng tên, ở Sa Đéc), gọi nôm na để phân biệt là “Long Hưng Nước Xoáy”. Nước lớn từ sông Tiền và từ sông Hậu chảy vào ruộng, gặp nhau tại Long Hưng nầy, dội lại, xoáy tròn (sử gọi Hồi Oa). Nay vì đào nhiều kinh, vì phù sa, nước chẳng còn xoáy nữa, cứ lơ lửng. Có “Cây da bến Ngự” hãy còn sống, tương truyền Nguyễn Ánh đã lui quân về đây, chờ thời cơ, quân sĩ được một phú ông nuôi dưỡng, riêng Nguyễn Ánh đã nhận phú ông là cha nuôi, sau nầy gọi ông Bõ Hậu (tên thật là Mậu). Dân số buổi xưa chắc thưa thớt, lau sậy mịt mùng, với nai, cọp, làm ruộng phải cày trâu, Ông Bõ Hậu rất giàu trong tình hình hai thế kỷ trước, nhưng xem phần mộ của ông mà sau nầy Gia Long nhớ ơn, có ban thưởng để xây dựng, ta sẽ thất vọng vì đơn sơ. Cái nền nhà còn sót lại của vị cha nuôi nầy cũng nhỏ bé. Dân ta nghèo quá chừng, ngay cả những người được gọi là giàu. Gần khu vực Nước Xoáy nầy, làng Long Thắng, còn di chỉ Bảo Tiền, Bảo Hậu tức là hai căn cứ quân sự của Nguyễn Ánh, xây thấp, bằng đất, thêm mớ đá lấp dòng rạch. Nhưng Tây Sơn chẳng bao giờ đánh vào đây cả. Ngậm ngùi mà hồi tưởng thời xưa. Những người lính Tây Sơn và Nguyễn Ánh ăn mặc ra sao? Với mức sản xuất vải bô, làm sao mỗi người được hai cái áo, quần thì hẳn là quần cụt. Ăn cơm với chén? Chén sản xuất từ đâu? Lò gốm Bình Định chắc không sản xuất được nhiều chén. Chẳng lẽ ăn với miểng vùa (gáo dừa khô) họa chăng có vài cái tô để uống rượu. Họ ẩn núp giữa lau sậy, nơi vùng đất vắng tanh, hệ thống sông ngòi chưa phát triển. Nơi Bảo Tiền, Bảo Hậu nầy gặp mùa nắng, nước kiệt, phải đẩy xuồng ghe trên bùn. Quân sĩ đôi bên đều ăn trầu, hút thuốc. Trầu ở đâu mà ăn cho tạm đủ? Bệnh hoạn thì thuốc men ở đâu, chưa nói khi bị thương tích. Gươm giáo, chắc hai bên cướp qua cướp lại. Ngày nay, nếu may ra tìm được, làm sao phân biệt ngọn giáo nào của bên nào. * * * Đông Hồ và Mộng Tuyết của xứ Hà Tiên đã vươn lên khỏi phạm vi tỉnh lẻ. Đông Hồ tả Đông Hồ, hoặc cơn mưa nhẹ, cành trúc nghiêng nghiêng. “Quân tử nghiêng mình xuống. Đi qua, ta cúi đầu”. “Mặt nước hòn non nổi. Đáy hồ mảnh nguyệt trôi. Chiếc thuyền thong thả dạo. Tiếng hát động chân trời”. Óc khôi hài dễ thương của Đông Hồ: Tên là Lâm Tấn Phát, nhưng hộ tịch lỡ ghi Phác, đành giải thích “hòn ngọc còn nằm giữa đá”, cũng may là chữ Hán có sẵn. Còn bà Mộng Tuyết, là cô Út nhưng hộ tịch ghi Úc, tra chữ Hán, cũng may mắn gặp được, bèn giải thích Úc là ấm áp. Làm công việc chú giải, biện hộ cho thầy “chánh lục bộ” thời Pháp, chắc Đông Hồ mỉm cười, cũng là vui, cho qua buổi, chẳng gạt gẫm ai, bằng lòng với sự việc. Thời Pháp, tên đã viết trong khai sinh gần như chẳng bao giờ điều chỉnh được, về pháp lý. Chánh tả sai, cứ để vậy, sửa tới sửa lui, có thể gây hậu quả nghiêm trọng: trường hợp người can án, bị tập nã, tranh chấp gia tài từ những đời trước. Vấn đề lý lịch. Về sau nhà nước lại qui định có thể điều chỉnh, trong trường hợp đặc biệt mà thôi. Tên quá xấu, quá tục, được điều chỉnh lại nhưng vẫn phải gìn giữ dấu ấn tên gốc. Thí dụ như Cát, Lon là tên gọi nghe như kém văn hóa dễ xuyên tạc. Thời trước, ưa đặt tên xấu xí cho con, lúc lọt lòng, để ma quỉ không bắt. Nhớ trường hợp ca sĩ nổi danh nọ tên Nên (thí dụ như vậy) nhưng ra tòa xin đổi là Thanh Ngọc bị bác đơn, vì cái tên Nên nghe chẳng có gì là hại thuần phong mỹ tục. Hà Tiên đẹp, thơ mộng, dạo chơi vài ngày thì được, nhưng ở mãi để kinh doanh, làm văn nghệ thì khó khăn vô cùng. Với chút ít tiền dư, về Hà Tiên dưỡng già thì sướng, nhưng khi đau nặng, phải đi Rạch Giá, Sài Gòn, rủi chết dọc đường thì uổng mạng. Hà Tiên là giò lan rừng, u hương u cốc, mùi hương kín đáo tỏa ra trong khoảng không gian kín đáo. Nhưng các loại lan cũng cần được giới thiệu, để rồi lai tạp. Hà Tiên thời Mạc Cửu như là đất xa xôi với quân đội riêng, được đúc tiền riêng. Như kinh đô nhỏ, tầm cỡ bé bỏng, mong manh. Vài ngôi chùa; vách thành còn vài mảng. Thế hệ ngày nay như ngơ ngác. Hỏi: “Phải đây là Chiêu Anh Các chăng?” người địa phương mỉm cười, hiền lành. “Chiêu Anh Các gần đây, nghe đồn rằng”... Đỗ Phủ (trong Vịnh Hoài Cổ Tích) ngồi thuyền đi ngang qua núi Vu Sơn, nơi mà theo bài phú của Tống Ngọc thì Sở Tương Vương từng gặp thần nữ, bày chuyện “mây mưa”, xây cung điện để thỉnh thoảng gặp người yêu. Qua vùng đất thơ mộng, thử hỏi thì người chèo thuyền trả lời đại khái. Trong bài thơ nói trên, Đỗ Phủ tỏ ra ngán ngẫm trước sự lãng quên của những người đời sau. “Tin gì chú lái vung tay chỉ. Cung Sở không còn dấu cỏ hoa!” (Nhượng Tống dịch). * * * “Anh hùng thấm mệt”, kiểu nói ngày nay, cũng là nhan đề một phim thú vị. Con người khó làm anh hùng mãn đời, trọn kiếp. Nhà thơ Học Lạc đã thành thật thú nhận khi Pháp chiếm trọn Nam Kỳ, đặt hệ thống cai trị vững chắc, lôi cuốn mọi người vào guồng máy kinh tế kiểu mới thì nhà nho, nhân sĩ cũng đành tự lo sinh kế; tuổi tác chồng chất, lòng yêu nước như khô cạn dần. Đến Thuộc Nhiêu, ông làm nghề hốt thuốc. Bèn tỏ bày tâm sự riêng: Đất linh bồi đắp cuộc Ba Giồng, Cảnh Thuộc Nhiêu nhiều khách ngợp trông. Đường thẳng, ngựa biêu chân ngán bước, Rạch cùn, cá lội mến quên sông. Trướng văn giỏi kẻ thêu rồng cọp, Miễu võ thò tay trí bá tòng. Cứng cáp thú quê vui tục cũ, Thềm dâu ruộng lúa dễ cho không! Nguyễn Liên Phong, nho sĩ bất đắc chí từ miền Trung vào sống với nghề dạy chữ Hán, dạy đàn (góp công lớn vào nhạc tài tử), quen biết với Học Lạc, cũng là “anh hùng thấm mệt”, đã họa vận: Le the một cụm Thuộc Nhiêu giồng, Chân bước ra đi, mắt lại trông. Chỉ nhện lăng nhăng, cò vướng cánh, Bãi lau lẫn bẫn, cá quên sông. Tấm lòng qua lại cầu Bà Bếp, """