"
Dạo Bước Phố Đêm - Tomihiko Morimi & Đỗ Phan Thu Hà (dịch) full mobi pdf epub azw3 [Huyền Ảo]
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Dạo Bước Phố Đêm - Tomihiko Morimi & Đỗ Phan Thu Hà (dịch) full mobi pdf epub azw3 [Huyền Ảo]
Ebooks
Nhóm Zalo
ebook©hotaru-am
Tomihiko Morimi
Dạo bước phố đêm ~ 夜は短し歩けよ⼄⼥ ~
Người dịch: Đỗ Phan Thu Hà
Phát hành: IPM
Nhà xuất bản Hồng Đức 2019
1
Dạo bước phố đêm
C
âu chuyện dưới đây không phải của tôi, mà của cô ấy.
Để giành giật vai chính trên cõi đời đông đảo diễn viên này, người ta chẳng ngần ngại giở đủ mọi chiêu trò, trong khi cô ấy thì, không mất chút hơi sức nào cũng chiếm hết ánh đèn sân khấu của đêm đó. Bản
thân cô chẳng hề nhận ra điều ấy, thậm chí đến tận bây giờ cũng không. Đây là thiên du kí về một đêm ngẩng đầu sải chân bước đi trong hơi men của cô, đồng thời là ghi chép về nỗi chua chát của tôi khi chẳng thể giành được vai chính, đành cam chịu với thân phận hòn đá ven đường. Thưa các bạn độc giả, hãy đọc kĩ và thưởng thức vẻ đáng yêu của cô ấy cũng như sự ngu ngốc của tôi, nhấm nháp hương vị quyến rũ hấp dẫn không thua gì thạch hạnh nhân của cuộc sống, cho đến khi chúng ngấm sâu vào tim nhé.
Xin hãy cổ vũ cho cô ấy.
Các bạn có biết “Nắm đấm thân thiện” là gì không?
Ví dụ, khi có chuyện gì đó xảy ra mà phải đấm vào má người khác, người ta sẽ siết chặt nắm tay. Quan sát thật kĩ bàn tay ấy nhé. Có thể nói ngón cái bọc bên ngoài hệt như một phụ kiện kim loại giúp bốn ngón còn lại khít vào nhau. Chính nhờ ngón cái mà nắm tay đó mới trở thành một nắm đấm thực sự, hoàn toàn đập nát khuôn mặt cũng như lòng tự trọng của đối phương. Lịch sử đã chỉ ra một lẽ tất nhiên là bạo lực sẽ chỉ sinh ra bạo lực mà thôi. Sự thù ghét sinh ra dựa trên ngón tay cái sẽ lan rộng khắp thế giới như lửa cháy trên đồng cỏ. Trong hỗn loạn và đau thương kéo tới ngay sau đó, tất cả những điều tốt đẹp mà ta cần bảo vệ đều sẽ trôi đi theo dòng nước.
Nhưng, hãy nới lỏng nắm đấm và chỉnh cho bốn ngón tay còn lại bọc lấy ngón cái mà xem. Khi ấy, nắm đấm vốn trông hung hãn, gồ ghề sẽ trở nên có vẻ rụt rè hơn, đáng yêu hệt như nắm tay của chú mèo mời khách. Chẳng ai có thể dồn hết nỗi căm hận vào một nắm tay nhìn hài hước như vậy cả. Từ đó, chuỗi bạo lực sẽ bị ngăn chặn, mang lại sự yên bình cho thế giới và gìn giữ những điều tốt đẹp ít ỏi còn sót lại.
“Nếu nhét ngón cái vào trong thì dù có muốn cũng không siết chặt nắm tay được. Ngón cái bị giấu đi đó chính là tình yêu đấy anh.” Cô nói với tôi như thế.
Ngày cô còn bé, chị cô đã dạy cho cô cách tạo “Nắm đấm thân thiện” và dặn, “Em nghe này, là con gái thì không được đụng đâu đấm đó. Song, trên thế giới rộng lớn này, người có đạo đức chuẩn mực và học thức cao lại chẳng được mấy ai, còn đâu chỉ toàn một lũ không ngu xuẩn cũng thối nát, hoặc vừa ngu xuẩn vừa thối nát, thế nên sẽ có những lúc dù em không muốn thì vẫn phải dùng đến nắm đấm, lúc ấy cứ dùng ‘Nắm đấm thân thiện’ chị đã dạy. Một nắm đấm bình thường không có tình yêu, nhưng ‘Nắm đấm thân thiện’ thì có. Sử dụng ‘Nắm đấm thân thiện’ tràn ngập tình yêu và cư xử dịu dàng với tất cả mọi người, em sẽ mở ra một cuộc sống tươi đẹp và hài hòa.”
Một cuộc sống tươi đẹp và hài hòa. Những lời ấy đã khiến trái tim cô rung động.
Vì thế, cô có một sở trường gọi là “Nắm đấm thân thiện”.
Hôm đó là một ngày cuối tháng Năm, sắc xanh căng tràn của cây lá đã phần nào nhạt bớt.
Một cựu thành viên câu lạc bộ hồi đại học của tôi là anh Akagawa quyết định tổ chức đám cưới. Nghe đâu tiệc chỉ mời những người thân quen. Tuy hầu như chưa nói chuyện với anh lần nào, tôi vẫn đến dự cưới coi như tỏ lòng kính trọng người thuộc hàng sư phụ mình. Ngoài tôi ra còn vài thành viên khác của câu lạc bộ, trong đó có cả cô ấy. Anh Akagawa hình như cũng là sư phụ của cô ở một môi trường khác.
Trên con đường tăm tối từ ngã tư Shijo-Kiyamachi đi xuống dọc bờ sông Takase, có một nhà hàng ba tầng bằng gỗ mang phong cách cổ điển phương Tây đang hắt ánh sáng ấm áp lên hàng cây ven sông.
Ánh đèn đã ấm áp, bên trong còn ấm áp hơn. Hoặc nên nói là nóng. Cô dâu chú rể trông rất xứng đôi. Họ thề ước sẽ bên nhau trọn đời, rồi chú rể bế cô dâu lên hôn để chụp ảnh. Sự nhiệt tình ấy lập tức đốt thành than tất cả những người có mặt ở đây, nóng bỏng đến mức ngay cả Chúa vốn điềm nhiên cũng phải e sợ. Nghe nói chú rể làm việc cho chi nhánh của một ngân hàng ở Karasuma Oike, cô dâu là nhân viên nghiên cứu của công ty chế biến rượu ở Fushimi, cả cô dâu lẫn chú rể đều là mẫu người không bận tâm ý kiến của cha mẹ nên đến tận bây giờ hai nhà vẫn chưa gặp nhau lần nào; nghe nói tình yêu của họ chớm nở từ những ngày đầu của năm nhất đại học, trải qua bao gian truân thăng trầm, vượt qua bao đồi núi mới đến được với nhau, vân vân. Các thiên tình sử thường tẻ ngắt, lại thêm chẳng hề quen biết cô dâu chú rể nên tôi càng thấy nhàm chán, đành giết thời gian bằng cách tập trung ăn uống và quan sát cô gái ngồi ở góc bàn. Cô đang nhìn chòng chọc vào một cái vỏ ốc sên cạnh chiếc đĩa lớn, ra chiều thích thú lắm. Dù không hiểu cái vỏ ốc ấy có gì hấp dẫn, việc ngắm cô vẫn làm tôi thấy vui. Cô ấy là đàn em của tôi trong câu lạc bộ. Có thể nói tôi đã yêu cô ngay từ cái nhìn đầu tiên, nhưng vẫn chưa có dịp nào nói chuyện thân thiết. Mặc dù đã nghĩ đêm nay chính là cơ hội trời cho, song, bởi thất bại trong việc tìm cách ngồi cạnh cô ấy nên bao nhiêu kế hoạch của tôi đều ngâm nước nóng cả.
Bỗng nhiên người chủ trì đứng dậy, “Tiếp theo đây là bài phát biểu của chú rể Akagawa Yasuo và cô dâu Todo Naoko. Xin mời hai bạn.” Thì ra tên cô dâu là Todo Naoko à? Giờ tôi mới biết.
Tiệc cưới ở nhà hàng kết thúc, khách khứa từ từ tràn ra đường. Trong dòng người đang vui vẻ chuẩn bị kéo nhau đi tăng hai, tôi đảo mắt như chim ưng săn mồi, tìm xem liệu sợi chỉ đỏ nối giữa tôi và cô ấy có rơi đâu đó trên đường hay không. Tiếc thay tôi phải thất vọng tràn trề khi thấy cô cúi đầu chào những người khác và rời đi một mình. Hình như cô đang định về nhà. Đã vậy thì tôi chẳng việc gì phải đi tiếp tăng hai cả. Thế là tôi rời khỏi đám người, đuổi theo cô. Tôi không nói nổi thành lời mấy câu như “Em ơi đừng về vội, ở lại uống với anh một ly đã nào”, nhưng cứ phải bám theo cô trước đã.
Bên hông nhà ga Hankyu Kawaramachi gần Shijo-Kiyamachi, có một cậu thanh niên đang chơi guitar và khán giả say sưa lắng nghe, những gã đàn ông mặc Âu phục đen đi vòng quanh tán tỉnh các cô gái trên đường, già trẻ gái trai tấp nập tới lui với khuôn mặt đỏ bừng, mong muốn tìm được chỗ nghỉ chân tiếp theo.
Tôi đã nghĩ cô sẽ rẽ về hướng cầu Shijo, không ngờ cô trầm ngâm một chút xong vẫn tiếp tục đi theo hướng Bắc. Đằng sau hàng cây xanh um tươi tốt rợp bóng bên bờ sông Takase hắt ra ánh sáng màu cam của một tiệm cà phê lâu đời tên Muse. Trước cửa tiệm, cô làm động tác giậm chân như một con robot, có vẻ đang thầm củng cố quyết tâm làm một điều gì đó. Rồi, cô ưỡn ngực và rẽ vào một hẻm nhỏ.
Tôi mất dấu cô ở đấy. Trước mắt tôi là một con hẻm bé tẹo đáng ngờ với các cửa hiệu đèn mờ bị những tòa nhà cao tầng đa dịch vụ bao quanh. Chẳng thấy bóng dáng cô đâu nữa. Cứ bị làm phiền bởi lời mời mọc của những gã đàn ông ở các cửa hiệu hai bên đường, tôi đành phải ra khỏi con hẻm. Chỉ trong chớp mắt, tôi đã để vuột mất cơ hội bắt chuyện với cô ấy.
Thế nên, bây giờ tôi sẽ rời khỏi sân khấu, để cô bắt đầu chuyến dạo chơi trong đêm của mình.
Và từ đây, cô ấy sẽ là người kể chuyện.
☆
Đây là câu chuyện xảy ra trong đêm đầu tiên tôi đi từ Kiyamachi đến khu Ponto-cho.
Mọi việc bắt nguồn từ cái vỏ ốc sên ở góc đĩa ăn trong buổi tiệc cưới tại nhà hàng kiểu Tây ở Kiyamachi. Trong lúc nhìn chòng chọc vào những đường xoắn ốc trên vỏ, tôi đã tha thiết nghĩ, “Muốn uống rượu quá!” Đáng tiếc là đến giờ tôi vẫn không hiểu được khao khát ấy và vỏ ốc sên có dính dáng gì đến nhau. Lúc đó, xung quanh toàn đàn anh đàn chị nên tôi không thể muốn uống bao nhiêu thì uống. Lỡ vụng về rồi phạm sai lầm trong lễ cưới và bôi tro trát trấu lên mặt sư phụ thì tôi sẽ chẳng biết phải xin lỗi thế nào. Do vậy, tôi đã cố nhịn để không chạm vào rượu suốt bữa tiệc. Nhưng rốt cuộc quá sức chịu đựng, tôi từ chối đi tăng hai với mọi người, định bụng một mình bước vào thế giới đầy huyễn hoặc của người lớn. Nói trắng
ẳ
ra là tôi muốn được thỏa sức uống thật nhiều rượu mà chẳng cần phải giữ ý tứ trước mặt ai.
Băng qua Shijo-Kiyamachi sẽ đến một khu phố tấp nập nam thanh nữ tú đang đắm mình trong những cuộc vui về đêm. Cảm giác trưởng thành đầy mê hoặc! Chắc chắn rượu trong khu này và thế giới người lớn rực rỡ kia đang chờ đợi tôi! Chắc chắn thế! Tim đập thình thịch vì hồi hộp, từ cửa tiệm Muse, tôi ưỡn ngực, thẳng lưng và sải bước vào thế giới mà tôi hằng mong đợi.
Tôi chọn quán bar tên Moon Walk ở Kiyamachi mà người quen giới thiệu, bởi nó chính là nơi Chúa ban ân cho những người có tài chính eo hẹp như tôi. Nghe nói, các loại cocktail ở đây đều đồng giá 300 yên.
Tôi rất thích rượu rum, thích đến mức ước gì cả Thái Bình Dương đều biến thành rum hết. Nếu có thể, tôi còn muốn chống nạnh, uống một hơi hết cả chai rum như uống sữa buổi sáng nữa. Tuy nhiên, cất giấc mơ nhỏ nhoi ấy vào một chiếc rương báu rồi giấu nó vào trong lòng thì gọi là “thận trọng”, và tôi cho rằng mình sẽ không thể có một cuộc sống tươi đẹp hài hòa nếu thiếu đi sự thận trọng ấy. Vậy nên tôi quyết định thưởng thức cocktail thay cho rum. Việc uống một ly cocktail chẳng khác nào chọn được một viên đá quý tinh xảo, có cảm giác vô cùng xa hoa. Nào là Acapulco, Cuba Libre, rồi cả Pina Colada. Dĩ nhiên tôi cũng rất thích các loại cocktail không rum, thậm chí tôi và chúng còn ước hẹn với nhau để uống và được uống nữa cơ. Nói tóm lại, không chỉ với cocktail mà cứ thứ gì gọi là rượu, tôi đều hăng hái muốn tiếp xúc thường xuyên.
Tôi đang ngồi ở Moon Walk, nhấm nháp hết ly này đến ly khác, thì một ông chú trung niên lạ mặt ở góc quầy bỗng sán tới bắt chuyện, “Này cô bé, đang có chuyện gì khiến cháu lo lắng phải không?”
Tôi không biết phải đáp lại thế nào. Vì tôi có lo lắng gì đâu cơ chứ. Thấy tôi im lặng, chú tiếp tục, “Nếu lo lắng thì cứ nói cho me nghe đi.” Cách nói chuyện thật khéo léo và dí dỏm. chú ấy tên là Todo, tướng chú
gầy gầy, dong dỏng cao, khuôn mặt dài lún phún râu trông như đuôi quả dưa leo rắc mạt sắt. Lúc chú lại gần, một mùi hương nam tính xộc lên, gồm mùi cơ thể quyện với nước hoa nồng nặc, cảm giác sâu thẳm như ác mộng. Tôi thầm nghĩ, phải chăng cái mùi nhiều tầng này chính là “mùi hương của
đàn ông”, còn chú chính là một “người đàn ông thành thục quyến rũ” mà người ta thường nói.
Chú Todo nở nụ cười, da mặt nhăn nhúm như một cục giấy bị vo tròn, “Để chú mời cháu một ly.”
“Ấy, dạ thôi ạ.”
“Cháu đừng khách sáo.”
Tôi khước từ thêm vài lần, nhưng cứ từ chối tấm lòng của chú ấy có khi lại thành ra vô lễ, hơn nữa, trong xã hội tư bản chủ nghĩa này, chẳng gì rẻ hơn của cho cả.
Chú Todo nhìn tôi nhận ly rượu, ra chiều vui thích lắm. Vui thích gì nhỉ, thà chú nhìn nồi cơm điện còn hơn, vì tôi tẻ nhạt hơn cả cái nồi cơm điện ấy. Hay do mặt tôi dính gì nhỉ? Tôi len lén đưa tay lên mặt chùi chùi. “Cháu đi một mình à? Bạn đâu?”
“Cháu đi một mình ạ.”
Chú Todo kể chú làm nghề nuôi và buôn bán cá chép.
“Trong thời kì kinh tế bong bóng, chúng chẳng khác nào xấp tiền đang bơi trong nước.” Nói xong, ánh mắt chú bỗng trở nên xa xăm, “Giờ nghĩ lại, chú mới thấy mình thật ngu ngốc.”
Chú nhìn chăm chăm qua khe hở giữa những chai rượu màu sắc sống động sang phía bên kia quầy, nhâm nhi từng ngụm whisky nhỏ. Có lẽ chú đang hồi tưởng lại tháng ngày hoàng kim khi những con cá chép lộng lẫy trong hồ tung mình hóa thành cả núi tiền chăng?
Từ Chushojima, đi tàu điện Keihan theo tuyến Uji sẽ đến Rokujizo, đó là nơi chú đã dốc cả gia tài gầy dựng nên Trung tâm Cá chép Todo. Sau khi tấm màn tốt đẹp giả dối của nền kinh tế bong bóng được vén lên một cách ngoạn mục, chú Todo đã sánh vai bên đàn cá của mình, tay bám chặt vây cá, quả cảm vượt lên những đợt sóng kinh tế bấp bênh đập vào bờ; thế nhưng, năm nay vận rủi lại tìm đến chú không chỉ một lần. Từ chuyến viếng thăm của tập đoàn trộm cắp cá quy mô lớn cho đến kinh phí tu sửa thiết bị mất cắp, đã vậy, đàn cá chú dốc tâm dốc sức nuôi nấng lại mắc bệnh truyền nhiễm không rõ nguyên nhân khiến thân chúng sưng lên, trông cứ như người ngoài hành tinh đang phồng mang trợn má.
“Đủ mọi vấn đề! Bao nhiêu xui xẻo lại rủ nhau tới cùng lúc như thế…” “Vậy mà chưa hết đâu. Chú cứ nghĩ không còn gì tệ hơn thế nữa chứ, nào ngờ nó lại ập đến. Nhờ phúc nó mà kinh doanh khựng lại hết, nhưng hễ nghĩ đến nó, chú cũng chỉ còn có cười.”
Chú đang nói về cơn lốc xoáy xuất hiện ở thành phố Uji vào buổi tối mấy hôm trước.
Xuất phát từ khu vực thành Fushimi rồi di chuyển về Rokujizo, cường độ của lốc xoáy không hề giảm bớt, mà đáng sợ chính là, nó tiến thẳng về Trung tâm Cá chép Todo.
Nhận được tin dữ, chú Todo hớt hơ hớt hải chạy từ Ngân hàng Tín dụng Kyoto về thì cây cột đen đang chọc thủng bầu trời kia đã đạp đổ hàng rào, tiến vào bên trong trung tâm rồi. Gạt cậu nhân viên đang cố ngăn mình lại qua một bên, chú tiến về phía cơn lốc.
Nhà kho đã bị thổi bay, nước trong bể chứa cuộn sóng ùng ục. Đúng lúc ấy, từ phía Tây, ráng chiều đổ xuống, bao lấy đàn cá chú Todo nhất mực thương yêu đang bị gió lốc cuốn tung lên trời, khiến đám vảy cứ loáng lên trong ánh nắng rực rỡ như thể đang nói rồi chúng sẽ hóa rồng và trở về.
Gió quần quật quất vào người, chú đứng giang hai chân, hét vang tên từng con cá một “Trả Yuko cho ta!”, “Trả Jirokichi cho ta!”, nhưng cơn lốc xoáy không hề đếm xỉa đến tiếng hét bị thương ấy, vẫn cuốn bay đàn cá đáng yêu của chú đi.
Vì tai ương đó mà chú Todo cũng mất luôn hi vọng trả được khoản nợ. Từ đấy về sau, mỗi khi đêm đến, chú lại lang thang nơi hang cùng ngõ hẻm, mò mẫm trong bóng tối tìm bước đi tiếp theo cho cuộc đời mình.
“Trả Yuko cho ta… Trả Jirokichi cho ta…” Chú bần thần lặp lại bằng giọng đau đớn, heo hút như tiếng gió mùa đông. Nỗi bi ai ấy khiến tôi cũng thấy não cả lòng.
Chú nhìn thẳng vào tôi và nói, “Cháu là một đứa trẻ ngoan. Chú sống cũng lâu rồi nên đã gặp đủ loại người. Có thể cháu nghĩ chú chỉ là một lão già tẻ nhạt và yếu đuối, nhưng chú nhìn người giỏi lắm. Có một đứa con như cháu, chú nghĩ cha mẹ cháu hẳn là rất hạnh phúc. Chú nói thật đấy.”
“Chú làm cháu ngại quá.”
Sau đó chúng tôi cụng ly.
“Cháu uống cũng khá nhỉ. Mà, cứ uống thế này có sao không?” “Uống chậm quá thì lại tỉnh mất ạ.”
“Thế cơ à? Vậy để chú chỉ cho cháu một quán khác rượu ngon hơn nhé.” Chú đứng dậy, “Chúng ta đổi quán đi.”
Hai chúng tôi đi dọc sông Takase về phía Bắc. Chú Todo ôm trong tay một cái bọc màu xanh đọt chuối, dường như thứ trong ấy quan trọng lắm. Vừa ngắm nhìn đường phố đang trở nên náo nhiệt vì sinh viên, người tan sở và cả những con ma men, chú vừa kể về một loại rượu bí mật mang tên “Denki Bran Giả”. Tên gì mà lạ quá.
“Denki Bran là tên một loại cocktail có lịch sử từ thời Taisho, chuyên được nấu ở một lò rượu lâu đời tại Asakusa, Tokyo. Một số quán rượu quanh khu Shinkyogoku này cũng có bán đấy.”
“Vậy Denki Bran Giả có gì khác với Denki Bran hở chú?” “Công thức chưng cất Denki Bran vốn dĩ không được truyền ra ngoài, nhưng các nhân viên Cục Điện thoại Trung ương Kyoto đã cố gắng bắt chước để chế ra loại rượu đó. Thử đi thử lại mãi, tưởng chừng đã đi vào ngõ cụt thì như một phép màu, họ phát hiện ra một loại rượu mới và đặt tên là Denki Bran Giả. Do tình cờ nấu được nên hương vị của nó hoàn toàn khác với rượu Denki Bran.”
“Họ dùng điện để nấu ra rượu này hả chú?”
“Có lẽ thế thật. Tên rượu là Denki Bran[1] cơ mà.” Nói rồi chú cười khùng khục, “Hiện giờ vẫn có nơi lén nấu loại rượu này và tuồn vào phố đêm đấy.”
Trong đầu tôi hiện lên khung cảnh một lò gạch nhỏ từ thời Meiji. Bên trong, dây điện nằm la liệt, những tia lửa màu vàng kim bắn lên tung tóe. Nơi đây giống một phòng thí nghiệm hóa học lai tạp với trạm biến áp hơn là lò nấu rượu. Nhân viên thì mặt ai nấy đều khó đăm đăm, cẩn trọng điều chỉnh điện áp theo công thức bí truyền. Chỉ cần sai lệch một chút thôi là hương vị Denki Bran Giả thay đổi ngay nên họ nghiêm túc cũng là lẽ đương nhiên. Cuối cùng, dung dịch tỏa hương thơm thần bí ấy sẽ được trút vào chai thủy tinh trong suốt. Dùng điện để nấu rượu, không biết ai sáng chế ra mà hay thế!
Lòng đầy hiếu kì, đứng trên đường Kiyamachi, tôi gần như nhảy dựng lên, “A a, cháu muốn uống thử quá!”
Chú Todo biết đến rượu Denki Bran Giả qua một ông lão tên là Rihaku[2]. Hai người quen nhau lúc chú đi vay tiền nhằm duy trì trung tâm cá chép.
Ông Rihaku vốn là một nhân vật có tiếng ở khu vực Kiyamachi và Ponto-cho, một đại gia lắm tiền có xe đưa đón và uống rượu như hũ chìm. Ông hay đem rượu Denki Bran Giả ra chiêu đãi và là một tay ăn chơi có hạng.
Người ta nói đường phố về đêm là một thế giới kì dị quả không sai.
Chú Todo dẫn tôi đến tầng cao nhất của một tòa nhà nằm sừng sững ở phía Đông đường Kiyamachi. Tòa nhà chất đầy những thứ bỏ đi khiến tôi tưởng mình vừa bước chân vào một ngôi nhà hoang.
Khi chú mở cánh cửa dày nặng, một luồng ánh sáng dìu dịu len lỏi ra ngoài, còn nghe được tiếng người lầm rầm trò chuyện. Quầy bar bẩn thỉu, ghế và sofa lem luốc như nhặt từ đâu đó về, tường dán menu viết tay, trên kệ sách dựng sát vách tường chất đầy những cuốn tạp chí cũ đã ngả màu. Mỗi người khách đều tự giành lấy một chỗ trên ghế hoặc sofa, rôm rả chuyện trò.
Chú Todo gợi ý rằng tôi nên uống shochu[3].
“Vì niềm hạnh phúc của cháu. Cạn ly.”
Chú vừa nhấm nháp rượu vừa kể cho tôi nghe về con gái của chú. Con gái chú hơn tôi vài tuổi, nhưng kể từ khi chú ly hôn với vợ vào năm năm trước, chú rất ít khi gặp chị ấy. Có vẻ chị cũng không muốn gặp cha mình lắm thì phải. Nghe thật xót xa. Chú cứ thế trút hết bầu tâm sự, thậm chí còn có một lần đưa tay lên lau khóe mắt.
“Cha mẹ chỉ mong sao con cái mình hạnh phúc thôi cháu à. Cha mẹ cháu chắc chắn cũng nghĩ thế đấy. Chú làm cha nên chú hiểu mà.” “Nhưng chú ơi, bản thân việc sống sao cho hạnh phúc cũng đã rất khó rồi.”
“Đúng thế thật. Cả cha mẹ cũng không giúp con mình việc đó được. Tự con cái phải tìm ra niềm hạnh phúc cho bản thân. Nhưng nếu có thể giúp
con gái chú tìm thấy hạnh phúc, chú sẽ làm bất cứ điều gì.” Tôi chân thành nghĩ chú ấy thật vĩ đại. Quả là một người có trái tim trong sáng.
Chú tuyên bố, “Thanh niên phải biết tự hỏi rằng, đối với bản thân mình thì hạnh phúc là gì, đó mới là lo lắng đúng cách cho tương lai. Thậm chí đến sau này vẫn không quên tiếp tục tự hỏi mình câu ấy thì cuộc sống mới trở nên có ý nghĩa.”
“Vậy với chú thì hạnh phúc là gì ạ?”
Chú nắm lấy tay tôi mà nói, “Là giống thế này, gặp gỡ những người trên đường và trải qua khoảng thời gian vui vẻ cùng họ. Có lẽ đó chính là hạnh phúc của chú.”
Sau đó, chú lấy một bức tượng điêu khắc bằng gỗ be bé sơn màu đỏ từ trong bọc vải ra, đặt vào lòng bàn tay tôi, “Tặng cháu lấy may.” Cái thứ kì quặc trông như một khẩu đại bác đang giương nòng này là netsuke[4] à? Xoay nó trong lòng bàn tay và nhìn kĩ hơn, tôi lại thấy nó giông giống một sinh vật biển trơn láng. Có vẻ là hình hí họa của một con cá chép.
“Giữ cẩn thận nhé.”
“Người ta nói cá chép vượt thác sẽ hóa rồng, là biểu trưng của công thành danh toại. Cờ cá chép cũng là một ví dụ. Từ xa xưa nó đã là giống cá mang điềm lành. Trong hoạt động diễu hành Yamaboko của lễ hội Gion, có cả kiệu Koiyama trang trí hình một con cá chép rất lớn đang vượt thác Long Môn nữa. Chắc cháu cũng biết câu ‘Cá chép vượt Long Môn’ nhỉ. Cái đó…”
Vừa nói những chuyện ấy, chốc chốc chú lại vừa nhìn tay tôi, thốt lên đầy cảm khái, “Tay cháu đẹp quá”, “Tay cháu đáng yêu quá”. Tay tôi thì có gì hay ho đâu cơ chứ. Mấy cái bánh lá phong chắc chắn còn đáng yêu hơn nhiều.
“Chà, chú say mất rồi. Cháu uống cũng khá nhỉ.”
“Chú có sao không? Coi chừng mai mệt đấy ạ.”
“Có gì đâu. Uống mà vui là được rồi. Giờ chú đang hứng khởi lắm.”
Nói xong, chú vòng tay ôm chầm lấy tôi, lắc lắc người tôi và nói, “Vui lên nào!”
“Dạ, cháu đang vui đây.”
Tôi chợt nhận ra tay chú đang mò vào ngực tôi. Trong khi lắc tôi, chú còn sờ ngực tôi nữa. Có điều, chú ấy là người tốt, không lý nào lại làm chuyện vô liêm sỉ như thế giữa chốn đông người được, chắc chú đã say đến mức chẳng biết gì nữa rồi. Nhột quá, tôi đành phải kêu lên, “Chú Todo, tay chú.”
“Hả? Tay chú sao?”
“Tay chú chạm phải ngực cháu rồi.”
“A, chết thật. Xin lỗi cháu.”
Nói rồi chú rút tay lại, nhưng chẳng bao lâu sau, tay chú lại mò mẫm lên ngực tôi. Bị nhột, tôi đẩy chú ra. Trong lúc xô đẩy, hay nói đúng hơn là trong lúc tôi bị chú ấy sờ mó, bỗng có tiếng một người phụ nữ vang lên từ đằng sau.
“Ê! Todo!”
Quay đầu lại, tôi trông thấy một chị gái cao ráo có dáng vẻ oai phong lẫm liệt với hàng mi dày.
“Đồ dê già, đúng là ngựa quen đường cũ.”
“Ối! Là cô?” Chú Todo chợt run như cầy sấy, sắc mặt tái xanh. Chị ta ưỡn ngực, áp sát vào người chú, “Thích sờ ngực con gái thế thì sờ của tôi này. Đấy, sờ đi.”
“Dung tục như cô, có cho tôi cũng cóc thèm.”
“Lão già mất nết! Biến ngay!”
Chú Todo hớt hơ hớt hải vớ lấy cái bọc vải. Không may, cái bọc bị bung ra khiến đồ vật ở bên trong rơi hết xuống sàn. Là một đống tranh cổ. Trong tranh là các đôi trai gái đang quấn chặt lấy nhau, “thứ ấy” của đàn ông lấp ló trên từng mặt gỗ. Tôi giúp chú nhặt chúng lên và hỏi, “Đây là gì thế ạ?”
Chú Todo giật phắt chúng ra khỏi tay tôi, trả lời cộc lốc, “Tranh Shunga[5] đấy. Chú định đem chúng đi bán.”
Thấy chú có vẻ cô đơn, tôi bất giác gọi chú lại, song chú vẫn chẳng nói chẳng rằng, bọc đống tranh Shunga ấy lại rồi quay lưng đi thẳng.
Tôi lấy cái netsuke ban nãy chú ấy cho ra, quan sát thật kĩ rồi thở dài. Giờ thì tôi đã có thể chắc chắn rằng hình của cái netsuke này không phải là súng, cũng chẳng phải cá chép, mà được mô phỏng theo một thứ trong đống tranh lúc nãy. Nói cho dễ hiểu và lịch sự thì nó là cái mà bất kì người đàn ông nào cũng có.
Chị gái vừa đuổi chú Todo đi ngồi xuống cạnh tôi, dịu dàng hỏi, “Em ổn chứ?”
Tôi quay sang nhìn chị chăm chú. Quả thật lông mày của chị vừa dài vừa rậm, điều ấy khiến chị trông có nét gì đó khá nam tính. Thấy tôi ngẩn người không trả lời, chị cũng chẳng để ý. Sau khi gọi bia với chất giọng hào sảng, chị ngoảnh về phía sau, nói với một anh trai đang mặc một chiếc yukata bạc màu, “Higuchi, cậu qua đây!”
Anh ta từ từ đứng dậy, tiến đến quầy bar với nụ cười thân thiện, “Rất vui được gặp em. Em nhất định phải cảnh giác với người lạ lúc ở phố đêm đấy nhé. Tất nhiên là với cả những người như bọn anh nữa.” Và như thế, tôi làm quen với chị Hanuki và anh Higuchi.
Chị Hanuki uống bia như uống nước.
Có câu “uống như hũ chìm”, ý là trong bụng người đẹp có một cái hũ to. Ngắm chị nốc bia ừng ực mà tôi có cảm tưởng như đang ngắm một màn biểu diễn võ thuật vô cùng điệu nghệ. Trong khi đó, bạn nhậu của chị là anh Higuchi, uống rượu thì không uống giống thế được nên anh vừa cẩn thận lắc nhẹ cái ly trên tay vừa nhìn chị Hanuki uống bia, ra chiều thích thú lắm.
Nghe nói chị Hanuki là chuyên viên vệ sinh nha khoa, còn anh Higuchi làm gì thì tôi không rõ.
“Anh làm Tengu[6].” Anh ấy đã nói một điều kì quặc như thế đấy. “Ờ, cũng gần đúng nhỉ…”
Chị Hanuki cũng không buồn phủ nhận.
“May cho em là lúc đó có bọn chị ấy nhé. Lão Todo đúng là chẳng ra gì.”
Trông chị có vẻ còn bực mình hơn cả tôi.
Thế nhưng, tôi lại thấy chú Todo rất đáng thương. Chú ấy là người đã dạy cho tôi những kiến thức thú vị và những triết lý nhân sinh sâu sắc. Trên
hết, chú ấy lại còn mời tôi uống rượu nữa chứ. Vả lại, đối với chú, đây cũng chỉ là một đêm mò mẫm trong bóng tối để tìm cách đối diện với nguy cơ phá sản của Trung tâm Cá chép mà chú đã đặt cược cả đời mình vào đấy. Đứng ở lập trường của chú, tôi cùng lắm bị sờ vào ngực có một, hai, à, ngực thì đúng là chỉ có hai bên thôi, nhưng dù vậy, tôi cũng chẳng có lý do gì để rộng lượng đến mức cho rằng nó chỉ là một chuyện cỏn con.
“Chắc chú ấy buồn lắm. Em cư xử tệ quá mà.”
“Thế mới đúng! Em cứ cư xử tệ vào!”
“Có điều, chú Todo đã giúp em nhiều lắm ạ.”
“Chị tưởng hai người mới quen nhau thôi chứ?”
“Nhưng chú ấy đã dạy cho em triết lý nhân sinh vô cùng thú vị. Em nghĩ chú ấy tuyệt đối không phải người xấu đâu.”
“Rồi rồi, xuống đi nàng ơi. Uống đi nào, chị mời.” Chị Hanuki gọi bia cho tôi, nói, “Mấy thứ như triết lý nhân sinh ấy, ông nào già đời một tí mà chẳng chém gió được. Cỡ đó thì Higuchi cũng nói được, nhỉ?”
“Cũng chưa chắc. Dù sao em cũng sẽ không nói đâu.” Anh khéo léo nói lảng đi.
Lúc tôi kể lại chuyện Trung tâm Cá chép của chú bị phá sản, chị Hanuki khẽ nhăn mặt, “Thế thì cũng tội nghiệp thật.”
“Giờ có khi lão đang trầm mình dưới sông Kamo rồi cũng nên.” Anh Higuchi lên tiếng.
“Vớ vẩn. Lão ấy mà yếu đuối vậy á?”
“Nhưng đây là mất cả cơ nghiệp chứ có phải chuyện gì cỏn con đâu. Dù trông vẫn có vẻ yêu đời phơi phới như ngày thường đi nữa thì cũng có khả năng lão định huy hoàng hết đêm nay xong tắt ngúm luôn rồi cũng nên.”
“Higuchi này, sao cậu cứ phải gở mồm thế nhỉ.” Chị Hanuki nốc sạch bia, “Trời ơi khó ở quá. Tôi muốn đi chỗ khác, cậu còn tiền không?” “Em không có tiền từ mấy năm nay rồi.”
“Có chỗ nào uống chui được không nhỉ…”
“Như chị mong muốn. Chúng ta đi chỗ khác nào.”
“Giờ bọn này đổi quán, em đi chung không?” Chị Hanuki chăm chăm nhìn tôi và nói, “Đi chung an toàn hơn mà.”
“Dạ, vậy chị cho em đi chung với ạ.”
“Đừng tin tưởng bọn anh như thế chứ. Bọn anh là người lạ đấy nhé.” Anh Higuchi nghiêm nghị cảnh báo tôi.
“Đừng có gộp chị chung với cậu.” Nói xong, chị hất tóc và đứng lên. Bước qua cánh cửa sắt nhỏ, đi ra lối cầu thang thoát hiểm phía sau tòa nhà, tôi có thể nhìn thấy khung cảnh lộn xộn và lạ lẫm ở bên dưới. Ánh sáng phát ra từ đèn neon và đèn đường xen lẫn giữa những cái bóng nhấp nhô của các tòa nhà đa dịch vụ thấp bé trải dài từ Nam đến Bắc. Lấp lánh trên nóc một tòa nhà là đèn trang trí to tướng của tiệm thịt nướng. Dây điện chằng chịt bao trùm cả dãy nhà như tấm lưới. Thoạt đầu tôi cứ ngỡ con phố này phải náo nhiệt lắm, nhưng không, nơi đây yên ắng hệt như một khu căn cứ bí mật. Chỉ lác đác vài ngôi nhà ở đây là có giá phơi quần áo, khiến tôi có cảm giác chúng chẳng khác gì những hòn đảo nhỏ biệt lập. Sắc đèn mờ trải dọc ở phía xa kia là Ponto-cho chạy từ Nam đến Bắc. Khu phố nhỏ trước mắt tôi y như một mê cung nằm giữa Kiya-cho và Ponto-cho.
Chúng tôi đi xuống cầu thang. Bên cạnh là khu đậu xe bé tẹo xếp đầy phế liệu của xe đạp.
“Ủa, cái gì đây?”
Anh Higuchi ngồi xổm xuống cạnh một chiếc xe đạp, giơ lên một thứ nhìn như một con quái vật tảo bèo nhèo rồi đung đưa trong bóng tối cho chúng tôi xem.
“Phải quần dài không?”
“Sao lại có quần ở đây nhỉ?”
“Chắc có ai cởi ra rồi vứt đấy thôi. Có lẽ người ta gặp chuyện gì đó nên vứt. Kệ nó đi!”
Chị Hanuki chất cho xe đạp cũ chồng lên nhau rồi bắt đầu leo. Anh Higuchi lướt qua ngay bên cạnh tôi, ung dung leo theo chị Hanuki. Tôi cứ nghĩ sẽ phải thấy cảnh tượng thô bỉ khi vạt áo yukata của anh ấy tốc lên trong lúc leo, nhưng rồi tôi đã thở phào nhẹ nhõm khi nhận ra, không biết từ lúc nào mà anh ấy đã mặc cái quần chẳng biết của ai kia lên người.
“Chúng ta đi đâu vậy ạ?”
“Suỵt.” Chị Hanuki đưa ngón tay lên môi ra hiệu, “Trèo qua bức tường này đã.”
Sau bức tường là một nơi có chiếc đèn lồng xinh xắn đang chiếu ánh sáng ấm áp vào bụi cây và bầu không khí tĩnh lặng. Hình như chúng tôi đang ở trong khu vườn của một nhà hàng truyền thống. Giữa khu phố bị bao bọc bởi những tòa nhà bê tông cứng ngắc mà lại có một chỗ thanh tĩnh như thế này cũng thật là đáng quý.
“Chị tính trộm rượu ạ?”
“Vô duyên! Đừng đánh đồng chị với Higuchi chứ.”
“Em chỉ nhặt được của rơi thôi mà.” Anh Higuchi bình thản phản bác, “Mang đến đồn công an quá mất công nên em mặc vào luôn cho tiện.” “Eo ơi, cậu đang mặc cái quần vừa nãy hả? Thôi cậu im đi cho tôi nhờ!”
☆
Chào các bạn độc giả. Xin lỗi vì tới giờ tôi mới quay trở lại. Tôi đột ngột chen ngang vào lúc này là bởi, tôi nghĩ không chừng mọi người đã quên béng mất tên con trai đang bơ vơ đứng ở Kiya-cho này rồi. Xin hãy ban cho kẻ hèn này chút lòng thương!
Không cần nói tôi cũng biết, lẽ ra khi cô ấy bị lão dê già Todo sàm sỡ thì tôi nên dũng cảm đứng ra cứu giúp mới đúng. Khổ nỗi, lúc đó, trong bóng tối của con hẻm nối từ Kiya-cho đến Ponto-cho, tôi đang run lên bần bật vì lạnh và giận. Lý do là từ phần thắt lưng trở xuống của tôi không có mảnh vải nào. Dẫu có thể hiểu được tại sao có bạn độc giả lại chửi rủa bảo tôi là đồ biến thái, song, các bạn phê phán tôi như thế là hơi vội vã.
Lúc bắt gặp cô ấy và lão Todo đi bộ cùng nhau dọc theo sông Takase, sau đó bước vào một tòa nhà trông ra Kiya-cho, tôi đã định đợi một chút rồi mới nối gót theo để hỏi han tình hình. Bởi vì, tuy không biết hai người họ có quan hệ thế nào, nhưng thấy cô ấy bị một lão lạ hoắc bắt chuyện và làm phiền thì tất nhiên tôi phải ra tay giúp đỡ chứ. Tôi thật sự có ý tốt mà.
Vậy mà bất thình lình, tôi lại bị một tên côn đồ lạ mặt tấn công, kéo lê vào trong hẻm và trấn lột cả quần trong lẫn quần ngoài. Phố đêm quả là một nơi đầy nguy hiểm. Tôi không biết mặt mũi tên cướp quần kia ra sao
bởi trong bóng tối, mọi chuyện diễn ra cực kì chóng vánh, chỉ ngửi thấy một mùi hương ngọt ngào của một loài hoa kì lạ nào đó thoang thoảng đâu đây. Tuy nhiên, chuyện một thanh niên bị tên côn đồ thơm ngát hương hoa lột quần nghe thật sự quá ư quái dị. Chắc cũng chẳng ai tin lời tôi kể đâu nhỉ.
Chống cự cũng vô ích, tôi đã bị đẩy vào tình thế bắt buộc phải trần truồng trước bàn dân thiên hạ. Không, dĩ nhiên nếu có thể thì tôi chẳng hề muốn làm vậy, cho nên tôi đã rúc vào một góc trong hẻm nhỏ và vớ đại thùng bia đặt gần đó để che chắn. Đêm nay, tôi đã chuẩn bị sẵn sàng để nắm lấy ưu thế trong tay rồi tiến tới có một buổi hẹn hò lãng mạn với cô ấy, song, chẳng thể ngờ được rằng cuối cùng tôi lại rơi vào hoàn cảnh phải phó thác vận mệnh của mình cho cái thùng bia trong một con hẻm tối thui như hiện giờ. Đừng nói đến việc trở thành diễn viên chính của đêm nay, nếu bị cảnh sát bắt gặp trong tình trạng thế này thì khỏi cần phải nói, thể nào tôi cũng sẽ bị dán nhãn biến thái lên người; và rồi những ước mơ với hoài bão mà tôi hằng ấp ủ sẽ bốc hơi theo các hạt sương trên đường phố của Kiya cho.
Thôi thì mọi sự cũng đã rồi. Tôi đưa mắt về phía xa, dõi theo bóng hình cô đang trải qua một đêm đầy vui vẻ, nghĩ rằng vậy là vận mệnh làm hòn đá ven đường của tôi đã được quyết định.
☆
Các thanh niên nam nữ ngồi rải rác trong căn phòng trải tatami rộng rãi, bữa tiệc đang lên đến đỉnh điểm.
Bọn họ đều là thành viên trong Câu lạc bộ Ngụy biện của một trường đại học. Nghe nói đây là tiệc chia tay một cựu thành viên đang chuẩn bị lên đường sang Anh du học. Mọi người chuyền tay nhau champagne tượng trưng cho lời chúc công thành danh toại.
“Champagne ngon thế này thì dễ quá chén lắm. Mà, em chắc không có gì phải lo đâu nhỉ.” Anh Higuchi lên tiếng, “Nào, tuy không biết thanh niên ấy là ai nhưng mình cùng nâng ly vì tương lai xán lạn của cậu ấy đi thôi!”
Thế là chúng tôi được một bữa rượu chùa thỏa thích. Chị Hanuki hòa mình vào đám đông như thể đã là bạn tri kỉ của người ta cả trăm năm, làm náo loạn hết cả lên. Người nào đang định né ra chỗ khác đều bị chị chộp
lại, đè ra và liếm lên mặt, bất kể trai hay gái. Lúc say xỉn, chị ấy có cái tật như vậy à.
“Có sao đâu mà, lại gần đây nào!”
“Á á, thôi đi! Gớm quá!”
“Em này làm cao quá!”
“Í í, đừng liếm tai tôi!”
Tôi ngồi nhìn chị Hanuki khuấy động không khí mà phục lăn. Chỉ có thể nói bà chị xinh đẹp uống rượu như hũ chìm dạo chơi quanh Kiya-cho, rỗng túi thì không ngại ngần trà trộn vào bàn tiệc nhà người lạ, tự nhiên uống rượu chùa, thậm chí còn tỉnh bơ liếm mặt người khác này là một người phóng khoáng không ai sánh bằng.
Ban nãy, chị Hanuki giả vờ mình đã say mèm, đứng chực sẵn trong hành lang để chộp lấy một sinh viên đang ngà ngà say vừa đi từ phòng vệ sinh ra, ôm vai bá cổ, lớn giọng nói chuyện như thể thân thiết lắm, sau đó cứ thế theo người ta vào bàn tiệc. Những lúc thế này mà ngại ngùng là hỏng bét. Dự tiệc chui là một trận chiến được ăn cả ngã về không, lưỡng lự dẫu chỉ trong khoảnh khắc thôi là sẽ nhận lấy vết thương chí mạng ngay lập tức. Một khi đã trà trộn vào bàn thành công, phải nhanh chóng khuấy động không khí để đập tan mối nghi ngờ “Tại sao cái người này lại ở đây nhỉ?”.
Hai chúng tôi chỉ việc đi theo con đường mà chị Hanuki đã anh dũng khai thông.
Uống champagne đến đỏ cả mặt, anh Higuchi rúc rích cười, trông có vẻ rất vui, “Mỗi lần lang thang trong phố đêm kiểu này, anh lại nhớ đến một ông già kì lạ tên là Rihaku. Dạo gần đây không gặp chứ hồi xưa anh hay bám càng ông ấy đi ăn uống lắm. À, Rihaku chỉ là biệt danh thôi. Ông đó lập dị thấy sợ, ban ngày thì keo tới mức vắt cổ chày ra nước, đêm đến thì lại vô cùng hào phóng. Nhờ vậy mà anh cũng được ăn ké mấy bữa. Ông Rihaku có hai niềm đam mê lớn. Một, mua vui cho thiên hạ giống anh, cứ gặp thằng nào đi đêm là tấn công rồi trấn lột quần trong của người ta. Hai, uống và bình luận về rượu Denki Bran Giả.”
“A, Denki Bran Giả. Rượu này nổi danh thật đấy. Em muốn uống thử quá.”
“Hơi khó đấy. Nó không phải cocktail bình thường nên mấy quán quanh đây không bán đâu. Anh không rõ lắm, song, hình như Denki Bran Giả là rượu bất hợp pháp thì phải. Ông Rihaku có nhiều tiền và nhiều rượu đấy lắm.” Nói rồi, anh Higuchi lấy một điếu xì gà từ trong vạt áo yukata ra rồi châm lửa hút.
“Sao ông Rihaku giàu thế ạ?”
“Cho vay nặng lãi.” Anh phà ra một làn khói dày, “Anh cũng nợ một ít nên gần đây anh cứ phải tránh mặt ông ta suốt.”
☆
Một anh sinh viên lồm cồm bò ra khỏi vòng kiềm tỏa của chị Hanuki và hỏi chúng tôi, “Mấy người là ai vậy?”
“Tôi cũng chẳng biết anh là ai cả.” Anh Higuchi đáp.
Hai người nhìn nhau chòng chọc.
Một hồi sau, anh kia mới ra vẻ rộng lượng bảo, “Thôi là ai cũng được.” Tuy nhiên, tôi thấy dường như là do anh ta say khướt rồi thì đúng hơn. Anh ta lè nhè bắt chuyện với chúng tôi, “Này, này,” xong bỗng nhiên nói một điều rất kì cục, “Giữa cưới người đàn ông mình yêu với cưới người đàn ông mình không yêu thì nên cưới người mình không yêu chứ nhỉ?”
“Cách nói này mới nè.”
“Khi yêu, người ta sẽ mất hết lý trí, không thể đưa ra phán đoán chính xác được nên thay vì người mình yêu thì lựa chọn người mình không yêu sẽ hợp lý hơn. Để bên nhau lâu dài thì phải cực kì thận trọng khi đưa ra quyết định kết hôn mới đúng, mà tình yêu vốn không thể giải thích bằng lý lẽ nên sẽ không phù hợp để đi đến hôn nhân. Mặt khác, trong trường hợp cưới người mình yêu thì sẽ phải nếm trải nỗi đau khổ khi con tim ngày càng nguội lạnh, nhưng cưới người mình không yêu thì không, do ngay từ đầu đã chẳng có tình cảm gì cả. Ngoài ra, còn có một ưu điểm khác nữa là nếu người chồng mà mình không yêu có đi ngoại tình thì cũng không cần đau lòng, bởi vì chẳng hề ghen tuông. Như vậy thì người phụ nữ sẽ có thể tự giải thoát mình ra khỏi nỗi muộn phiền vô ích. Ấy thế mà tại sao phụ nữ lại cứ muốn kết hôn với người mình yêu, trong khi nếu suy nghĩ một cách lý trí thì chắc chắn ai cũng hiểu được rằng kết hôn với một người đàn ông
họ không yêu sẽ tốt hơn rất nhiều. Sao tất cả đều không nhận ra sự thật hiển nhiên đó cơ chứ!”
Anh sinh viên nọ nói xong thì nước dãi đã chảy ướt cả cằm nên tôi bèn lấy khăn giấy lau hộ. Sau đấy, anh ta cứ luôn miệng nhắc đến một cô gái có tên Naoko.
“Đáng ra tôi không nên tham gia cái tiệc chia tay này mới phải. Naoko đang tổ chức đám cưới, cái đó mới quan trọng.”
“Vậy anh mau chóng đến đám cưới chị ấy đi.”
“Không được. Đây là tiệc chia tay tôi cơ mà.”
“Hả? Thế ra người sắp đi du học Anh là anh sao?”
“Vả lại, gặp Naoko rồi thì tôi nói gì bây giờ? Với một người cứng đầu cứng cổ đi cưới người mình yêu như cô ấy, tôi có nói gì đi nữa cũng chỉ như muối bỏ biển thôi.”
Rồi, anh ta bắt đầu túm lấy anh Higuchi không buông. Sau khi bị anh Higuchi hất lăn vào trong góc phòng, anh ta rên “Hự” một tiếng rồi nằm bất động. Bóng lưng như con hải cẩu đang nằm ườn ra trông mới đáng thương làm sao. Người tỏ tình theo kiểu ngụy biện giống anh ta thật đúng là hiếm thấy.
“Tiếp theo đây, để cổ vũ tinh thần anh Kosaka, chúng ta sẽ cùng nhảy điệu nhảy ngụy biện!” Một cô gái có vẻ là người tổ chức bữa tiệc đứng lên nói.
“Anh Kosaka đâu rồi?”
“Đang nằm lăn lóc ở đằng kia kìa. Tính để mình bọn này nhảy đấy à?” “Đồ dở hơi nào nghĩ ra điệu nhảy này thế không biết. Đúng là nhục không biết để đâu cho hết.”
“Gọi anh ấy dậy đi.”
“Úi trời, sao anh ấy chảy dãi như con trâu vậy?”
Anh Kosaka nằm im nãy giờ đột nhiên để nước dãi chảy tràn lan, phát ra tiếng gầm gừ như một con sư tử, “Ôi ôi, Naoko ơi.”
Những thành viên trong câu lạc bộ đang bao quanh bỗng khựng lại. “Chị Naoko không có ở đây đâu. Giờ chị ấy là vợ người ta rồi.” “Thôi giờ mình cùng nhảy điệu nhảy ngụy biện cho anh vui vẻ mà đi nước ngoài nào!”
Cứ thế, anh Kosaka, dưới sự an ủi và giúp đỡ của mọi người, lảo đảo đứng dậy. Đám đàn em trong câu lạc bộ vây xung quanh anh, trông như đang xô đẩy anh ta hơn là cổ vũ tinh thần.
“Ráng lên anh!”
“Cảm ơn mọi người. Được các em tiễn thế này anh vui lắm!” “Chúc anh thành công! Thành công rồi thì đừng quay lại nhé!” “Không có anh, bọn em vẫn sống tốt nên anh đừng lo!”
“Không còn gặp anh nữa, em thấy vui lắm. Chào thân ái và quyết thắng!”
Trong tiếng chúc tụng vui vẻ, anh Kosaka bước lên trong sự xô đẩy của đám đàn em. Lát sau, tất cả bắt đầu đưa hai tay lên cao, vừa vỗ tay lắc hông vừa đi vòng quanh căn phòng. Đó chính là điệu nhảy ngụy biện.
Thấy náo nhiệt quá nên tôi và anh Higuchi vui vẻ gia nhập hàng ngũ. Đang lắc hông nhảy nhót điên cuồng, thành tâm cầu chúc cho tương lai xán lạn của anh Kosaka thì chị Hanuki xuất hiện và kéo hai đứa chúng tôi ra hành lang.
Lợi dụng lúc hỗn loạn trước khi tàn tiệc để rút lui, chiêu uống rượu chùa của chị ấy đến đây là kết thúc.
Chúng tôi rời khỏi nhà hàng, ra Ponto-cho rồi đi dọc con đường lát đá về phía Bắc.
Ngước mắt nhìn lên sẽ thấy dây điện giăng chằng chịt, rồi đến bầu trời đêm có vẻ chật hẹp do bị các mái hiên san sát nhau ở hai bên đường che khuất. Ánh sáng của bữa tiệc chia tay len lỏi ra ngoài đường cái theo những khe hở trên tấm mành đang rủ xuống từ tầng hai nhà hàng.
Ánh sáng từ đèn lồng đỏ, bảng hiệu, đèn hiên nhà, máy bán hàng tự động và tủ trưng bày chiếu dọc hai bên con đường nhỏ khiến nơi đây chẳng khác gì một khu chợ đêm. Trên đường, từng nhóm người tám năm tụm ba đi tới đi lui trông rất vui vẻ.
Tôi còn nhìn thấy cả một đám mày râu dáng vẻ đường hoàng, ung dung bước vào một cửa tiệm, nơi chỉ có những kẻ mặt dày cỡ Vạn Lý Trường Thành may ra mới dám tới. Có lẽ nên nói đây chính là phong cách của Ponto-cho. Băng qua cánh cổng cuối con hẻm lát đá, những trò vui chỉ dành
cho người lớn với sự hào nhoáng vượt quá trí tưởng tượng của một cô bé như tôi sẽ mở ra ngay trước mắt. Đúng vậy. Nó là một thế giới thú vị như thế đấy.
“Chà, giờ làm gì đây nhỉ.” Chị Hanuki lẩm bẩm.
“Ý tưởng cạn kiệt rồi hả?”
“Cũng không hẳn. Hay là quay về Kiya-cho nhỉ?”
Một con mèo chạy lướt qua chân chúng tôi. Ngoảnh đầu nhìn theo dáng đi thoăn thoắt của nó, tôi trông thấy một Maiko[7] ở đầu con hẻm lát đá. Cô xẻ ngang luồng sáng le lói từ đèn lồng, nhẹ nhàng tiến vào một con ngõ hướng về phía Tây.
Đến lúc quay lại, nhìn về phía trước thì tôi đã chẳng còn thấy bóng dáng của chị Hanuki và anh Higuchi đâu nữa.
Nghĩ chắc họ đã rẽ vào hẻm, tôi ngó vào xem thử nhưng cũng chẳng thấy ai. Nếu lạc mất hai người ấy thì tôi sẽ chẳng còn ai để dựa vào tại Ponto-cho này, và cũng không biết phải làm sao để có thể tiếp tục dạo chơi phố đêm. Thật là rắc rối.
“Em gái đi một mình à?” Một gã say rượu bắt chuyện với tôi. Song, nhớ tới lời cảnh báo của anh Higuchi, rằng “nhất định phải cảnh giác với người lạ lúc ở phố đêm”, tôi cúi đầu bước tiếp.
Đột nhiên, có một quả táo to tướng rớt xuống, lăn lông lốc trên con đường lát đá trước mặt tôi.
Bất giác, tôi nhìn quanh quất để tìm cây táo, nhưng ở Ponto-cho mà có cây táo thì đúng là chuyện lạ. Tôi nhìn thứ đó chằm chằm. Nó không phải táo, mà là một con lật đật daruma[8] mặt mày ủ ê.
☆
Chào mọi người. Lâu rồi không gặp. Là tôi, cái thằng đang run như cầy sấy với nửa người dưới không mảnh vải, nấp trong con hẻm tranh tối tranh sáng này đây. Xin lỗi vì lại chen ngang nhé.
Người đã cứu tôi thoát khỏi tình huống suýt bị bắt vì tội vi phạm quy định về nếp sống văn minh đêm chính là lão Todo vừa bị đá đít ra khỏi quán rượu lúc nãy.
Lão ta lảo đảo đi vào hẻm nhỏ, thấy tôi đang cần giúp đỡ bèn nói với lại, “Đợi chút,” lát sau mang đến cho tôi một cái quần đã sờn. Lão mượn nó từ chủ tiệm sách cũ mà lão quen, sống ngay khu phố nằm giữa Ponto cho và đường Kiyamachi.
Mặt mày lão sa sầm, cứ như thể chuẩn bị đi treo cổ tới nơi. Lão nói, “Thôi thế nào cũng được, gặp nhau đây cũng đã là cái duyên rồi. Để chú mời mày một ly, đi nào.” Trông lão có vẻ cực kì tuyệt vọng nên tôi cảm thấy hơi sợ. Cuối cùng, tôi vẫn không thể khiến lão đổi ý. Sau đấy, tôi đã ngồi chung bàn, uống chung mâm với lão dê già đáng ghét vừa sờ soạng ngực của người mà tôi thầm thương trộm nhớ, có điều, tất nhiên là khi đó tôi vẫn chưa biết gì về chuyện ấy cả.
Ra khỏi hẻm, tôi được lão dẫn đến một quán bar trông như cái hang với vỏn vẹn một quầy bar đặt trên tầng hai của một tòa nhà nhỏ xíu ở Ponto cho nằm đối diện sông Kamo. Không hiểu tại sao mà nơi đây lại la liệt đầy những mèo và daruma. Trước mặt chai rượu cùng tôi, lão Todo bật khóc, than thở “Khốn kiếp, đời gì mà chán quá, chán quá,” sau đó lầm bầm “Trời ơi, biết làm sao đây?” rồi lại lập tức tự mình trả lời, “Làm gì cũng vô ích cả.”
Và như thế, Todo nước mắt ngắn dài lặp lại câu chuyện mà lão cũng đã kể với cô ấy cho tôi nghe. Có lẽ do không kìm chế được cơn giận, lão không ngớt lời thóa mạ ông nào đó tên Rihaku. Lão bảo đang bị ông này xiết nợ. “Lão già ngu xuẩn.” Vừa chửi xong, lão đã quay ngay ra sau xem có ai nghe thấy hay không.
Bị mắc kẹt với một lão già lạ hoắc thế này thì ước mơ được gặp cô ấy cũng chỉ còn là ước mơ mà thôi. Vừa nghĩ vậy, tôi đã cảm thấy buồn muốn rơi nước mắt. Thế rồi tôi và lão đều khóc ướt cả áo vì những lý do của riêng mình, vẽ ra thảm cảnh của hai tên đàn ông sụt sùi bên chai rượu. Lão Todo đã say và trở nên phóng túng, liên tục bảo tôi, “Ngại làm gì”, “Uống đi”. Kết quả là tôi uống đến mức say mèm.
Trong mắt tôi, cả quán rượu chao đảo như thể đang trôi nổi trên sông Kamo.
Lát sau, ông chủ tiệm sách cũ, người quen của lão Todo, xuất hiện. Số ông chú lạ hoắc đã tăng lên thành hai.
“Xin lỗi vì đã tới muộn nhé. Cái bồn tắm ở nhà giở chứng nên tôi phải chạy sang Sakura-yu tắm rồi mới đến đây được.” Ông này nốc một hơi cạn cốc bia rồi rướn người về phía trước, “Thế, anh định bán thật đúng không?”
Lão Todo gục gặc đầu rồi mở cái bọc của mình, bày đống tranh Shunga ra, bảo đã quyết tâm đêm nay sẽ bán đấu giá hết đống tranh lão nâng như nâng trứng ấy cho Đội Điều tra Khuê phòng. Lão đã lâm vào đường cùng, và đây là cách duy nhất có thể giúp lão kiếm ra tiền để thoát khỏi ông Rihaku.
“Đội Điều tra Khuê phòng là cái gì ạ?” Tôi buột miệng hỏi. “Đó là một câu lạc bộ bao gồm những người thích sưu tập các thứ liên quan tới chuyện chăn gối. Ví dụ như đồ chơi tình dục cả thời nay lẫn thời xưa, phim người lớn, hay đống tranh Shunga mà lão này tích trữ chẳng hạn.” Ông chủ tiệm sách cũ giải thích.
“Vậy mà là đội điều tra gì… Một đám dê già thì có.” Tôi lẩm bẩm. “Cái thằng này, nói vớ vẩn gì thế! Đó còn là di sản văn hóa nữa đấy!” “Lẽ sống của đời chú nữa nhé.” Lão Todo lên tiếng.
Thôi, sao cũng được.
Tôi định mở cánh cửa sổ nhìn ra đường cái để gió lùa vào cho tỉnh rượu. Loạng choạng đứng dậy, mở cửa, tôi nhìn xuống con đường lát đá của Ponto-cho.
Đang tì cằm lên khung cửa sổ mát lạnh và hít thở không khí, tôi nhìn thấy một cô gái nhỏ nhắn trông quen quen đang lê bước trên con đường lát đá. Nhận ra đó là cô ấy, tôi định gọi nhưng cổ họng nghẹn lại, chẳng phát ra nổi bất kì một âm thanh nào. Thế là tôi vội vàng chộp lấy một con daruma đặt ở góc quầy bar, bất chấp chủ tiệm hô hoán “Làm gì đó hả?”, nhoài người ra cửa sổ và ném nó xuống đường.
Cô ấy đứng lại, nhặt con daruma vừa rớt xuống trước mặt lên và nhìn một hồi lâu.
Tôi xoay người, dợm chạy đến bên cô ấy, song do quá say nên chân tôi bủn rủn hết cả. Đi cùng với ảo giác sàn nhà đang chao đảo nhấp nhô, ngực tôi quặn thắt lại như thể đang rơi từ trên cao xuống.
“Mà thằng oắt này là ai?” Ông chủ tiệm sách cũ chỉ vào tôi và hỏi.
Chỉ là say thôi mà! Cô ấy đang đứng ngay dưới đường kìa, tôi phải xuống đấy bằng mọi giá! Tôi vừa nghĩ vừa rên rỉ, nhưng rồi sau đó, tôi đổ ập xuống sàn nhà bẩn thỉu, dọa cho lũ mèo bỏ chạy tứ tán. Và thế là tôi lại phải rời khỏi sân khấu một lần nữa.
☆
Đang chậm chạp lê bước trên đường với con daruma trong lòng, tôi bỗng trông thấy anh Higuchi đi từ một con hẻm ra đường Kiyamachi. “Em, bên này, bên này!” Anh vẫy tay gọi.
Như bắt được vàng, tôi liền chạy lại chỗ anh, “Trời ơi, mừng quá. Em cứ tưởng lạc mất mọi người rồi chứ.”
“Con daruma kia ở đâu ra vậy?”
“Em nhặt được đấy.”
“Nhìn đẹp phết.”
Tôi đi theo anh vào hẻm nhỏ, chốc chốc lại thấy có những ngọn đèn trông giống lồng đèn giấy tỏa sáng lấp lánh đặt bên chân. Chúng tôi bước đến trước một hàng rào gỗ. Nơi đó có đặt một chậu cây phong rất lớn, ẩn nấp dưới bóng cây là hai chú mèo đang cuộn tròn. Ánh sáng của tiệm tràn ra ngoài từ cánh cửa kính hình tròn như cửa sổ tàu ngầm gắn trên bức tường ốp gạch đỏ trang trí. Anh Higuchi mở cửa. Rượu xếp thành hàng bên cạnh quầy bar phát ra ánh sáng lung linh như những bộ đèn chùm xa hoa lộng lẫy. Quán tràn ngập ánh đèn màu hổ phách như màu của rượu whisky.
Ngay khi tôi bước vào trong, bao trai tài gái sắc đang ngồi dọc quầy bar dài đồng loạt quay sang nhìn.
Vừa sợ vừa ngượng, tôi lách qua quầy bar, đi theo anh Higuchi tới một chỗ tối mờ khuất trong góc quầy. Chị Hanuki lúc này đang tán gẫu với một nhóm gồm bốn ông bác trông rất thành đạt và lịch lãm.
Bốn người họ đang ngồi trên sofa bọc vải màu đỏ tươi, ai cũng mang cà vạt đỏ. Thậm chí chẳng cần rót rượu cho nhau để làm quen, chị Hanuki đã nhanh chóng hòa mình, trò chuyện vui vẻ với cả bốn.
“Con trai chú vừa kết hôn ạ? Chúc mừng chú!” Họ cạn ly với nhau. “Mừng cái con khỉ!”
“Thôi mà, thôi mà.” Lại cạn ly.
“Tôi là người nuôi nó khôn lớn, thế mà nó cứ vênh mặt lên như thể nó tự nuôi bản thân mình ấy.”
“Thì dù không có cha mẹ, con cái vẫn có thể tự lớn được mà.” “Tức là có tôi hay không cũng được đúng không?”
“Ôi ông giám đốc ơi, sao mà có chuyện đó được.” Tiếp tục cạn ly. Tôi thì thầm hỏi anh Higuchi, “Tại sao bốn người họ, ai cũng mang cà vạt đỏ thế anh?”
“Hình như vì đêm nay là tiệc mừng sáu mươi tuổi thì phải.” Có vẻ họ là bạn của nhau từ thời đại học và đã cố gắng sắp xếp lịch để tụ tập ăn mừng ở Kyoto vào hôm nay.
Bác Uchida, nghe nói là một bác sĩ ở quận Kamigyo, bảo, “Rượu không thiếu nên mấy đứa cứ uống thoải mái nhé!” Rồi rót rượu vang Akadama Port cho chúng tôi.
“Cảm ơn bác. Cháu thích vang Akadama Port lắm ạ.”
“Mừng sinh nhật sáu mươi nên người ta chuẩn bị Akadama cho bọn bác đấy. Có điều, nhiều thế này thì mang về cũng không hết ấy chứ.”
“Nhưng đời người ngắn ngủi lắm.”
“Thôi ngừng, ngừng. Nói nghe mất hứng quá.”
“Ông này từ xưa đã khoái bàn chuyện triết lý hơn chuyện chính trị rồi.” “Giờ đi nói ba cái chuyện như thời còn trẻ để làm gì? Cải lão hoàn đồng đấy à?”
“Thì cũng tại đã sáu mươi cả rồi mà.”
“Thế ra lên sáu mươi là vậy à?”
“Nói cách khác là giờ chúng mình đang trở về thời trai trẻ.” “Triết lý ‘Vĩnh cửu luân hồi’[9] đấy.”
“Chứ không có tuổi trẻ mà chỉ toàn phiền não thì có khác gì sống trong địa ngục đâu.”
“Ban đêm mới thế.”
“Đêm thì sao?”
“Thì đêm đến ông mới nghĩ tới mấy chuyện đó chứ.”
“Ban ngày tôi vẫn nghĩ ông ạ.”
“Thế thôi chết rồi. Điềm báo nguy hiểm đấy.”
“Con cái ông cũng trưởng thành hết rồi mà? Coi như cũng là vạn sự như ý đi.”
“Đời chúng nó thì chúng nó lo, liên quan gì tới tôi!”
“Cha mẹ mà thế hả?”
“Có gì mà phải nhảy dựng lên thế?”
“Sáu mươi rồi mà tôi vẫn chưa thông. Rốt cuộc đời người là cái gì cơ chứ?”
“Với cả sống để làm gì nữa.”
“Để sinh với đẻ đấy.”
“Nghe ngu quá.”
“Giờ bàn mấy cái này có ích gì không? Bàn còn chưa ra kết luận nói không chừng đã xuống mồ mất rồi.”
“Chết thì sợ thật đấy.”
“Cứ tưởng càng lớn tuổi thì càng không sợ chết, không ngờ tôi lại càng ngày càng sợ ông ạ.”
“Thế à? Tôi thì không.”
“Ông từ xưa đã vậy rồi.”
“Ông nghĩ xem có lạ không? Trước khi sinh ra thì chúng ta cũng chỉ là cát bụi. Chết đi lại trở về với cát bụi. Làm cát bụi còn lâu hơn làm người, thế nên chết là bình thường, sống mới là ngoại lệ hiếm có chứ. Đã vậy thì chết có gì đáng sợ đâu?”
Góc quán rượu nơi chúng tôi đang tụ tập đột nhiên trở nên im lặng, cảm giác như một chiếc du thuyền xa hoa đang chìm dần xuống đáy biển. “Thôi, cứ uống đi nào.” Bác Uchida lên tiếng. Rồi, bọn họ vừa đăm chiêu suy nghĩ vừa nhấm nháp rượu vang Akadama Port. Chị Hanuki uể oải mở mắt, phá vỡ sự trầm mặc, “Gì đây? Sao toàn nói mấy chuyện nghe buồn thảm quá vậy? Đúng rồi, Higuchi! Lên làm một phát cho sinh động đi em!”
Anh Higuchi đứng dậy khỏi sofa trong tư thế giang hai chân, rút một điếu xì gà từ trong yukata ra, khẽ chau mày rồi bắt đầu nhả khói dày đặc. Từ góc chúng tôi đang ngồi, làn khói màu tím sẫm phảng phất như lớp sương mù trên dòng sông Thames bỗng tản ra đến tận quầy bar chìm trong ánh sáng màu hổ phách. Một vài vị khách đang yên lặng uống rượu ở quầy quay phắt lại nhìn chúng tôi với vẻ kinh ngạc.
“Hỡi các vị khách quý đang có mặt ở đây ngày hôm nay, ai không có việc gì bận rộn thì xin hãy bớt chút thời gian theo dõi. Trong góc phòng trước mặt quý khách, tôi tuy chỉ mới là dân học việc nhưng cũng xin đem đến một màn trình diễn miễn phí cho cả quán. Nói là nói vậy, song, nếu vị nào cảm thấy thích thú với màn trình diễn này và muốn mời chúng tôi vài ly rượu thì chúng tôi cũng sẽ không có lý do gì mà từ chối đâu. Sau đây, màn trình diễn xin phép được bắt đầu!”
Lát sau, trong làn khói thuốc cuộn thành từng vòng dày đặc, anh Higuchi làm động tác như dùng hai tay đè lên một cái ống bơm vô hình, cứ như thể đang bơm một quả bóng bay ngay dưới chân mình vậy. Bốn ông bác nọ đột ngột đứng bật dậy.
Người anh Higuchi bồng bềnh bay lên cao rồi cứ thế lơ lửng ở vị trí cách mặt đất tầm ba mươi centimet. Nhìn từ hướng nào cũng thấy quả thật là anh đang nổi giữa không trung.
Một lúc sau, trong khi chúng tôi vẫn còn đang ngơ ngác nhìn thì anh Higuchi đã vung chân đá vào tường rồi bay lên trần nhà. Tôi ném daruma về phía anh Higuchi, anh nhanh tay chụp được rồi cuộn người lại, xoay mấy vòng bên cạnh bóng đèn lớn treo trên trần nhà cho chúng tôi xem, làm khói thuốc phà lên cả bóng đèn.
Anh Higuchi thả người nằm xuống, làm tư thế giống một bức tượng Phật nằm, sau đó lững lờ trôi về phía quầy bar. Một vài vị khách đang lẳng lặng uống rượu cũng bị anh làm cho bất ngờ, ngước lên nhìn theo cậu thanh niên mặc yukata đang trôi nổi ngay trên đầu họ.
Chị Hanuki bắt đầu vỗ tay, chúng tôi cũng vỗ tay theo. Chẳng bao lâu sau, tiếng vỗ tay cổ vũ đã ồn ào như chợ vỡ.
Hệt như một tuyển thủ bơi lội, anh Higuchi điêu luyện chuyển hướng ở góc tường bên kia và quay lại chỗ chúng tôi, đáp xuống đất rồi cúi chào vô cùng lịch thiệp.
“Cậu này khá ghê!” Bác Akagawa - giám đốc công ty nhuộm có anh con trai vừa kết hôn - thốt lên, “Đây là lần đầu tiên tôi được xem một tiết mục thế này đấy. Rốt cuộc cậu làm nghề gì? Nhà ảo thuật à?” “Cháu làm Tengu ạ.”
“Hả? Tengu à? Giỏi quá nhỉ!” Bác giám đốc phá lên cười, “Lần sau cậu phải đến biểu diễn ở tiệc công ty tôi nhé!”
“Nào, uống thêm một ly đi.”
Bác Uchida cầm chai vang Akadama Port lên, tuy nhiên, trong chai không còn giọt nào. Bác với tay lấy cái chai bên cạnh, thế nhưng nó cũng trống không. Tôi cảm nhận được má mình đang nóng bừng lên, chẳng qua không phải do say, mà là do ngượng chín mặt. Thật xấu hổ quá.
“Cháu uống hết chỗ này rồi đấy à?” Bác há hốc mồm, “Cháu vẫn ổn chứ?”
“Ái chà, bên đây cũng có một Tengu nữa này!”
Và như thế, không khí lại trở nên sinh động như cũ. Một lúc sau, với cảm giác phấn khởi, lâng lâng, bác giám đốc và bác Uchida đưa hai tay lên cao, vừa vỗ tay vừa lắc lư nhảy múa. Không lẫn vào đâu được, đó chính là điệu nhảy ngụy biện.
Thì ra hồi trước bọn họ cũng là thành viên của Câu lạc bộ Ngụy biện. Họ cũng chính là người đã sáng tạo ra điệu nhảy này.
Những tháng ngày tuổi trẻ đầy hoài niệm khi họ ngụy biện lươn lẹo, khiến người khác bối rối không biết đường nào mà lần, và trong những câu sỉ vả mà họ nhận lại, câu chửi “Lũ con lươn!” làm họ thích đến mức đi khắp nơi rêu rao, “Chúng tôi quyết ngụy biện lắt léo như lươn!” Mỗi lần tiệc tùng, họ lại bắt chước dáng điệu con lươn nhảy múa, rồi đưa điệu nhảy ấy vào thông lệ của câu lạc bộ. Thành viên khóa dưới dù muốn dù không vẫn bị ép làm cho bằng được. Mới đó mà đã hơn ba mươi năm trôi qua, điệu nhảy ngụy biện vẫn được gìn giữ cho tới ngày hôm nay, để rồi những thành viên hiện tại lại kháo nhau, “Đồ dở hơi nào nghĩ ra điệu nhảy này thế không biết.”
Nghe đâu hồi xưa, câu lạc bộ cũng đã từng ra sân bay và đưa tiễn một thành viên đi du học bằng điệu nhảy ngụy biện này.
“Đáng tiếc, cậu ta đã mất trong lúc đang du học.”
Bác giám đốc nói, “Nhớ thời đó thật đấy!”
Vô cùng tâm đầu ý hợp, chúng tôi vừa nhảy điệu nhảy ngụy biện vừa bỏ quán rượu lại sau lưng, dạo chơi khắp nơi trên đường phố Ponto-cho như đang tổ chức một cuộc tập kích trong đêm.
Bác giám đốc quen biết rất nhiều người, đi tới đâu cũng có thể gặp người quen của bác ấy cả. Lúc gặp nhau, họ sẽ cùng cười ha hả và chạm cốc khiến bọt bia văng tung tóe. Giờ đây, khi trời đã về khuya, Ponto-cho cũng trở nên tĩnh lặng hơn rất nhiều, chỉ có mỗi nhóm chúng tôi len lỏi giữa màn đêm yên tĩnh ấy một cách ồn ào, náo nhiệt.
Vì tôi đã bày tỏ tâm sự rằng muốn được uống thử rượu Denki Bran Giả nên đến quán rượu nào bác giám đốc cũng bắt chước câu nói của con quỷ Namahage[10], hỏi đi hỏi lại “Hú hú, có Rihaku ở đây không?” để tìm ông Rihaku.
Có quán bar đầy mèo và daruma, quán cà phê do hai anh em sinh đôi làm chủ, quán bar với những bài nhạc jazz quyến rũ, quán rượu trông như một hầm ngục… Rượu nối tiếp rượu, cửa nối tiếp cửa, rồi lại rượu nối tiếp rượu.
Đi đến chóng cả mặt, có điều, được nhấm nháp nhiều rượu ngon thế này thì dẫu có phải lên rừng xuống bể tôi cũng rất vui lòng. “Cháu uống được quá nhỉ. Chắc đúng là bụng không đáy rồi.” Bác giám đốc hỏi, “Này, rốt cuộc là cháu uống được bao nhiêu?” Tôi ưỡn ngực, “Tất cả rượu có ở đây ạ.”
“Ghê đây ghê đây. Cháu nên đi uống rượu thi với ông Rihaku, lúc ấy cháu cũng có thể thoải mái uống rượu Denki Bran Giả đấy. Bác sẽ cược cho cháu.”
Đi đến đâu, bác giám đốc cũng hỏi thăm tung tích của ông Rihaku, ngặt nỗi đêm nay chưa ai nhìn thấy ông ấy cả. Đa số mọi người chỉ đoán già đoán non rằng ông ấy đang rúc trong xe mình mà đọc mấy cuốn sách cổ, hoặc đang rong ruổi cướp quần của những tên say xỉn trên đường làm vui.
“Uống thi á? Ông còn chưa rút kinh nghiệm nữa hả? Ông làm gì có cửa thắng được ông Rihaku.”
“Không phải tôi mà là cô nhóc này cơ. Nhìn là biết nhân tài trăm năm có một đấy.”
“Bớt đặt điều đi ông ơi.”
“Đừng có trông mặt mà bắt hình dong chứ.”
Tuy không tìm được ông Rihaku nhưng lại tình cờ gặp được các thành viên của Câu lạc bộ Ngụy biện hiện tại nên tôi vẫn cảm thấy rất vui vẻ. Họ đang nhảy điệu nhảy ngụy biện kì quặc trong góc quán rượu xây giống hầm ngục nên chắc chắn không thể nhầm được. Ba mươi năm trôi qua, thế hệ đi trước và thế hệ đi sau hội ngộ. Ai ai cũng bồi hồi xúc động, rồi nhanh chóng trở nên cực kì tâm đầu ý hợp sau khi hăng say nhảy điệu nhảy ngụy biện cùng với nhau. Vai kề vai, họ bắt đầu nghêu ngao bài hát ngụy biện mà họ tự biên tự diễn ra.
Anh Kosaka, người sắp sửa đi Anh du học được hội các bác đeo cà vạt đỏ liên tiếp lên tiếng khích lệ như “Phải giữ khí phách của nam nhi Nhật Bản đấy!”, “Gắng mà học!”, “Lo mà cày vào!”, “Đừng chết nhé!”. Mắt tròn mắt dẹt, anh đáp, “Dạ, cháu sẽ cố gắng.” Và, có vẻ anh vẫn còn chưa bỏ cuộc, vì cứ hở ra là tôi lại nghe thấy anh lầm bầm, “Naoko ơi, Naoko à.”
Chúng tôi, kể cả các thành viên Câu lạc bộ Ngụy biện hiện tại, lại lục tục kéo nhau ra đường.
Chị Hanuki lúc này đã say tới mức không biết trời trăng gì nữa, im thin thít, được anh Higuchi cõng trên lưng và bị mọi người đặt cho biệt danh “Sư tử say ngủ”. Đột nhiên, chị ấy choàng tỉnh, giật lấy bia của người khác và bảo, “Đồ của anh cũng là của tôi” rồi thản nhiên nốc cạn, xong lại hét toáng lên “Ponto-cho là tuyệt nhất!” Sau đó, chị còn liếm cả má tôi. Sư tử tỉnh giấc quả là khó đối phó.
Còn anh Higuchi, đi đến đâu anh cũng được hoan nghênh nhiệt liệt khi trình diễn những tuyệt kĩ đậm chất Tengu như nhả cờ cá chép từ trong miệng ra, bay qua cửa sổ vào màn đêm hay lấy mấy con mèo mời khách màu vàng xấu xí ra từ tai.
Cờ cá chép cứ thế lơ lửng bay dọc theo các con đường của Ponto-cho, dân đi chơi đêm mà thấy cảnh này ắt sẽ kinh ngạc lắm. Mặt khác, từ một con mèo mời khách màu vàng, hàng loạt con mèo nhỏ lần lượt sinh ra như búp bê Nga. Mèo lớn mèo nhỏ lấp đầy cả quán rượu khiến chủ quán giận điên lên. Thấy thế, anh Higuchi bèn bay lên cao, trốn vào một góc trên trần nhà - nơi mà chẳng ai với tay tới, rồi cười ha hả.
Thay vì làm Tengu, nói anh Higuchi là một Tengu thực thụ thì đúng hơn.
Tôi nhâm nhi ly rượu trong góc bữa tiệc rộn ràng, thầm mong ước được tạo ngộ với ông Rihaku và rượu Denki Bran Giả.
Đem sự náo nhiệt từ quán này đến quán khác, chúng tôi như một đoàn xiếc kì lạ rong ruổi giữa phố đêm, hoặc là, một đám người đang tự tổ chức lễ hội Gion[11] thu nhỏ.
Chúng tôi dần đi đến đầu cùng phía Bắc của Ponto-cho, nơi có thể nhìn thấy Nhà hát Kaburenjo. Ở đấy, chúng tôi đụng mặt với một nhóm khác đang lục tục bước ra từ một quán cà phê vừa đóng cửa.
Đó là những người tham dự đám cưới hồi tối chung với tôi. Có vẻ bọn họ cũng đã đi hết tăng này đến tăng khác cho tới tận giờ. Không lẫn đi đâu được, đằng kia chính là đôi vợ chồng mới cưới đang thân thiết bám dính lấy nhau không chút ngại ngùng ban nãy. Thấy nhóm chúng tôi rộn ràng đi tới, họ lập tức ra vẻ đề phòng vì tưởng có chuyện gì.
“Naoko!” Anh Kosaka đứng khựng lại, những thành viên khác trong Câu lạc bộ Ngụy biện hiện tại bèn reo hò kích động.
“Yasuo?” Bác giám đốc khịt mũi, các cựu binh của câu lạc bộ cũng xôn xao hết cả lên.
Một cuộc gặp gỡ tình cờ trên phố đêm giữa chàng sinh viên sắp khăn gói đi du học và cô gái anh yêu nay đã là vợ người ta, giữa người cha mới tham gia bữa tiệc qua tuổi sáu mươi của mình với cậu con trai vừa kết hôn. Bầu không khí căng như dây đàn bao trùm. Trong lúc ai cũng đang cố nặn bộ óc đẫm hơi men của mình hòng tìm ra một cách gì đó để phá vỡ nó thì bỗng nhiên có rất nhiều mảnh giấy cũ kĩ rơi lả tả xuống chỗ họ.
Chị Hanuki nhặt xem rồi ré lên, “Úi chà!” Những người khác cũng đi lượm lặt và thích thú ngắm nhìn chúng. Tôi cầm một tờ xem thử và nhận ra đây là một mảnh của bức tranh Shunga mà tôi đã thấy lúc trước. Đi kèm với tranh Shunga là tiếng kêu gào đầy đau thương vọng xuống từ trên cao, “Hết cả rồi!”
Chúng tôi ngẩng đầu nhìn lên.
Phía Tây là một quán cà phê, còn phía Đông là một nhà hàng truyền thống tráng lệ.
Trên tầng ba của nhà hàng, chú Todo đang gác chân lên thành lan can, nhoài người xuống đường như thể đang diễn Kabuki. Vào vai Ishikawa Goemon[12] đến đoạn cao trào, chú ngạo nghễ nhìn xuống Ponto-cho đang chìm trong màn đêm sâu thẳm với khuôn mặt đầy phẫn nộ, xé đống tranh Shunga mà mình yêu quý ra thành từng mảnh rồi vung tay ném mạnh chúng vào không trung như thể đang tung đậu trừ tà.
Mỗi lần vung tay, chú lại đau đớn hét lên, “Khốn nạn!”
Vô số những mẩu tranh Shunga tung bay trên bầu trời đêm chật hẹp vì bị mái hiên xung quanh che khuất xong lần lượt đáp xuống con đường lát đá, theo gió nhảy múa trong con hẻm nhỏ để rồi cuối cùng bị thổi bay đi tứ tán khắp nơi.
Trong mắt tôi, hành động đó của chú chẳng khác nào đang cắt linh hồn ra hàng nghìn mảnh rồi thả cho trôi theo gió.
“Đẹp quá.” Anh Higuchi thẫn thờ lẩm bẩm.
Trên tầng ba của nhà hàng hình như cũng có khá nhiều người. Tôi nghe thấy có người đang cố làm dịu bớt sự kích động của chú Todo, ấy vậy mà chú lại hét toáng lên, “Lại gần là tôi lao đầu xuống!”, “Tôi chết cho mấy người xem!”
Chú ấy đang khóc.
Tôi vừa hét váng, “Chú Todo!” thì ngay sau đó, cô dâu cũng khẽ kêu lên, “Cha!”
☆
Xin chào các bạn độc giả.
Đêm hôm khuya khoắt, tôi ngồi trong góc căn phòng trải chiếu tatami rộng rinh của nhà hàng chuyên món Kyoto tên Chitose, mặt mày sưng sỉa như chiếc bánh mochi nướng quá tay. Tôi vẫn chưa có cơ hội gặp được cô ấy. Ông chủ tiệm sách cũ do lão Todo gọi đến nọ bỗng dưng đổi tính đổi nết sau khi rượu vào. Tôi đành phải chấp nhận sự thật éo le là bây giờ ông ta nhất quyết không cho tôi bỏ đi. Cuối cùng, tôi đành phó thác vận mệnh của mình cho hai người họ.
Xuyên qua mấy bữa tiệc đang nhậu nhẹt tưng bừng, chúng tôi đến với buổi đấu giá tạm thời của Đội Điều tra Khuê phòng. Đã hơn nửa đêm nhưng anh chủ nhà hàng, vốn là một thành viên của Đội Điều tra, vẫn chấp nhận yêu cầu quá đáng của lão Todo và tổ chức buổi đấu giá. Đúng là những tay đam mê sưu tập đến điên cuồng.
Lão Todo đau đáu nhìn đống tranh Shunga đang bày ra trước mắt, miệng méo xệch.
Trong căn phòng trải chiếu tatami rộng thênh thang, vắng tanh với cánh cửa trượt đang mở toang hoác bày đầy bình trà, bộ ấm chén cùng với những tấm đệm trông như bánh bao tím. Từ cửa sổ kính đối diện sông Kamo nhìn ra sẽ thấy con sông tối thui và ánh đèn quanh khu vực nhà ga Sanjo.
Chẳng bao lâu sau, các thành viên khác của Đội Điều tra lục tục bước vào với khuôn mặt ngái ngủ, đủ loại người, cả nam lẫn nữ, người thì là chủ tiệm tạp hóa, người thì là nhân viên ngân hàng, lại có cả ông chủ tiệm cắt tóc từ khu đại học Kyoto cưỡi xe đạp xuống tận đây. Bọn họ túm năm tụm ba ngồi trên đệm, người hút thuốc, người nhâm nhi trà, ai nấy đều rất kiệm lời.
Ngay khi ông chủ tiệm sách cũ vừa tuyên bố mở hội đấu giá của Đội Điều tra Khuê phòng xong, vào thời điểm mà bộ sưu tập của lão Todo gần như rơi vào túi đám dân sưu tập đang thèm thuồng đến nhỏ dãi kia thì chuông điện thoại di động của những người trong phòng bỗng reo lên. Sau đó, họ bắt đầu kích động truyền tai nhau một tin đồn.
“Này, ông Rihaku đang uống thi với ai thì phải!” Ông chủ tiệm cắt tóc lớn tiếng.
Người ta đồn đang có một quái nhân đi loanh quanh trong khu này tìm ông Rihaku để khiêu chiến và làm nên một trận lịch sử. Họ kháo nhau rằng ấy là một kẻ có thân hình khổng lồ cao tới 2 mét, thân là một nhà sư phá giới với biệt danh “Sư tử say ngủ”, khoác trên mình bộ yukata đã cũ, còn là một quái kiệt có thể phun ra vô số cờ cá chép từ miệng. Nghe nói quái nhân đó đã lặn lội từ Oshu đến tận Kyoto chỉ để đánh bại ông Rihaku. Theo lời kể thì có vẻ kẻ ấy giống yêu quái đúng hơn là quái kiệt nhỉ?
Mọi người bắt đầu rôm rả thảo luận.
“Lâu lắm rồi mới thấy có người uống thi với ông Rihaku đấy!” ẳ
“Nhưng đêm nay tôi chẳng thấy ông ta đâu cả.”
“Không biết họ thi ở chỗ nào?”
“Muốn đi xem quá.”
Lúc này, cả phòng đã lờ tịt bộ sưu tập của lão Todo, nhao nhao ầm ĩ. Bầu không khí căng thẳng trong phòng giãn ra, lão Todo nãy giờ chỉ ngồi im thin thít với vẻ mặt đau buồn như đang muốn nói, “A a! Không được! Ta không đành lòng trao cho đám người này những bức tranh yêu quý của ta” cũng theo đó mà cắt luôn sợi dây nhẫn nhịn của mình. Sống xa cách vợ con, số tiền lão nợ ông Rihaku, đàn cá chép không thấy tăm hơi, và bây giờ là bộ sưu tập tan đàn xẻ nghé; cảm xúc mà những việc ấy mang lại kéo tới dồn dập, đè nặng lên người lão. Ắt hẳn lão đã mệt mỏi vì lúc nào cũng phải tìm cách ứng phó lắm rồi. Lão không quan tâm gì nữa hết. Có lẽ lão đã quyết tâm thà tự tay phá hủy tất cả rồi quyên sinh còn hơn phải nếm mùi nhục nhã khi bộ tranh lão nâng niu vô cùng bị ép giá nên đã ôm đống tranh Shunga chạy về phía cửa sổ hướng ra đường, trèo lên lan can rồi nhoài người ra ngoài.
“Tôi không bán cho ai hết!” Lão hét lên rồi bắt đầu xé tranh. Cả phòng há hốc mồm nhìn lão.
Đêm hôm mà hét toáng lên thế để người ta bu lại, lão già ngớ ngẩn ấy định làm gì vậy không biết?
Các thành viên Đội Điều tra Khuê phòng đứng phắt dậy như muốn kéo lão Todo lại, nhưng lão luôn mồm nói “Lại gần là tôi lao đầu xuống chết cho mà xem!” nên chẳng ai dám nhúc nhích. Không người nào có thể ngăn cản những di sản văn hóa quý giá ấy trở thành một đống giấy vụn.
Đang nằm lăn ra đất, nhấm nháp trà và theo dõi màn náo động đang diễn ra trước mắt, bỗng tôi nghe thấy giọng cô ấy vọng lên từ dưới đường Ponto-cho, nơi những mảnh tranh đang rớt xuống. Tôi lập tức bật người dậy.
“Chú Todo!” Cô ấy kêu to.
☆
“Chú Todo, không phải chú đang tìm bước đi tiếp theo cho đời mình sao?!” Tôi ngước nhìn lan can, hét lớn, “Chú đừng bỏ cuộc!”
“Cháu có nghĩ thế thật không mà nói!” Chú Todo lừ mắt nhìn xuống, “Chú chỉ là một gã vứt tranh Shunga tứ tung và sờ soạng ngực cháu thôi!” “Nhưng chú cũng đã nói cho cháu nghe về những triết lý nhân sinh sâu sắc mà!”
“Mấy cái đó chỉ để giết thời gian thôi!” Chú Todo nghiến răng, gom đống tranh Shunga lại rồi xé một lần, “Bàn luận nhân sinh cho lắm vào rồi có thoát khỏi ngõ cụt của đời người không?”
“Chú ơi, con gái chú đang ở đây này!” Tôi đẩy cô dâu đang hồn xiêu phách lạc ra trước, “Không phải chú bảo có thể làm tất cả mọi thứ vì hạnh phúc của con gái sao?”
“Cha ơi, cha bình tĩnh lại đi!”
“Hả? Con làm gì ở đây thế?”
Cuối cùng, chú cũng nhận ra sự hiện diện của con gái mình, có điều thay vì bình tĩnh lại, chú càng kích động hơn, chửi “Mẹ kiếp! Mẹ kiếp!” rồi tiếp tục xé tranh Shunga, “Sao tôi lại làm trò nhục nhã này trước mặt con cơ chứ!”
“Cha à, con không để ý đâu! Dù cha có là lão dê già hay là cái gì khác thì cha vẫn là cha con!”
“Không! Cha chán lắm rồi!”
Khi tình hình vẫn đang còn giằng co như thế thì anh Higuchi nãy giờ vẫn khoanh tay đứng nhìn bỗng xoay người lại và nói, “Chà, ông Rihaku tới rồi.”
Hướng mắt về phía Nam, tôi hít một hơi.
Từ phía Nam của Ponto-cho vừa chật vừa tối, dường như có một chiếc xe điện thật to đang rọi đèn chói lòa và chạy về phía này. Nó là một chiếc xe quái gở có ba tầng nhìn như xe tàu điện Eizan xếp chồng lên nhau với vườn trúc rậm rì trên nóc. Các góc xe gắn đầy đèn, chiếu cho thân xe sơn màu đỏ đậm sáng lấp lánh. Hai bên hông gắn nào là cờ gió sặc sỡ, cờ cá chép cỡ nhỏ và những tấm rèm to thường phủ trước cửa nhà tắm công cộng, hệt như đang có hàng vạn lá quốc kì tung bay trong gió.
Nhìn qua các cửa sổ vào bên trong có thể thấy ngập tràn thứ ánh sáng của một căn phòng khách ấm cúng với bộ đèn chùm tuy nhỏ nhưng không kém phần sang trọng đang khẽ lắc lư theo từng chuyển động của xe. Ở tầng
một là kệ xếp đầy sách và một bức tranh Ukiyo-e[13] thả xuống từ phía trên trần.
Trong thoáng chốc, tôi quên bẵng chuyện của chú Todo mà đắm đuối ngắm nhìn chiếc hộp ma thuật càng lúc càng gần như thể đang xé toạc cả màn đêm ấy.
Ponto-cho tuy đã tối và vãn người, nhưng riêng góc phố chỗ chiếc xe đang chạy thì sáng trưng như có lễ hội. Chẳng qua, lễ hội này lại yên tĩnh đến mức đáng sợ mà thôi.
Chiếc xe lặng lẽ chạy tới gần, và bây giờ tôi đã có thể nhìn thấy chữ trên tấm biển tráng men đang va lộp cộp vào đầu xe. Trên tấm biển đó là chữ “Rihaku” to tướng viết bằng phông Yose[14].
Khi những người tụ tập trên đường bắt đầu kháo nhau “Ông Rihaku kìa!”, “Ông Rihaku tới rồi!” thì chú Todo, lúc này đang nhoài người qua lan can quán Chitose, cũng hét toáng lên, “Cái gì? Lão Rihaku sao!” xong thò đầu ra xem. Tranh thủ lúc ấy, đám người trên tầng ba nhà hàng bất ngờ đồng loạt lao lên và khống chế chú.
Chú vừa lồng lộn tìm cách thoát khỏi mọi người vừa vung tay ném nốt đống tranh Shunga còn sót lại.
“Tôi chẳng còn tiền trả lão đâu! Tàn đời rồi! Lão lột da xẻ thịt tôi mất thôi!” Chú la hét ầm ĩ, “Để tôi chết ngay bây giờ đi cho xong!” Tôi chụp lấy những niềm hạnh phúc của chú Todo đang rơi lả tả xuống từ lan can. Đèn pha của chiếc xe ba tầng rọi ánh sáng cam lên người cô gái xinh đẹp và quyến rũ với mái tóc mang đầy trang sức trong tranh. Gặp nhau đêm nay cũng đã là một cái duyên rồi. Nhìn chòng chọc chiếc xe trang hoàng lộng lẫy đang êm ru tiến lại gần, tôi ưỡn ngực như muốn chặn đứng xe lại.
Rồi, tôi quay ngoắt lên nhìn chú Todo, hét, “Chú Todo, lát nữa cháu sẽ uống thi với ông Rihaku, cược bằng với số tiền nợ của chú! Cháu nhất định sẽ thắng!”
Chúng tôi kéo nhau lên tầng ba của nhà hàng Chitose.
Trong căn phòng trải chiếu rộng rãi, chú Todo vẫn đang giãy giụa hòng thoát khỏi đám người đang dùng mọi cách để đè chú lại. Lúc này, chiếc xe
ba tầng của ông Rihaku đã chạy đến đậu trước cửa nhà hàng. Ánh đèn chói lóa của cây đèn đường cắm trên nóc xe ùa vào từ ngoài lan can sáng trưng. Gian phòng yên tĩnh không một tiếng động. Cứ như không ai muốn bước lên xe của ông Rihaku cả.
Song, tôi phải gặp ông Rihaku cho bằng được. Tôi vụt đứng dậy, trèo qua lan can rồi bước vào trong xe của ông Rihaku. Bấy giờ, những người khác mới lẳng lặng nối gót theo tôi.
Trên nóc xe có một bãi cỏ xanh đang phất phơ trong gió, một cái hồ đầy nước lềnh bềnh tảo với rừng trúc um tùm bên bờ.
“A, đom đóm!” Một người kêu lên và chỉ về phía ấy. Nhìn theo, quả thật có một đàn đom đóm nhỏ rất đáng yêu đang lập lòe trong bóng trúc đổ xuống mặt hồ.
Ngọn đèn lồng trong rừng trúc đung đưa như mời gọi. Đi sâu vào rừng trúc sẽ thấy một ống khói làm bằng gạch đã ám bụi đứng sừng sững, bên cạnh ống khói là một cầu thang xoắn ốc chạy xuống phía dưới.
Đi hết cầu thang, chúng tôi đến một căn phòng chật hẹp có sàn bằng xi măng.
Vừa kéo mở cánh cửa trượt làm bằng kính mờ thì làn hơi nước đã xộc ra. Sau cánh cửa có một cái bục hình trụ, cánh tủ gỗ sát tường cắm chìa khóa bằng đồng thau, trên lớp vỉ lót sàn có chiếc rổ đựng quần áo được đặt sẵn.
“Trong đấy là nhà tắm.” Anh Higuchi chỉ cho tôi, “Tầng dưới là phòng tổ chức tiệc.”
Chúng tôi lại rồng rắn nối đuôi nhau trèo xuống cầu thang xoắn ốc và đến một căn phòng rất dài trải thảm đỏ mềm như nhung. Bàn tròn màu đen bóng loáng và ghế sofa đặt rải rác khắp phòng. Trên tất cả các bàn đều có sẵn rượu và đồ nhắm rất đầy đủ.
Đầu kia của căn phòng, ngay bên cạnh cái đồng hồ treo tường rất to với quả lắc màu bạc đang đung đưa là một chiếc máy hát phát ra tiếng nhạc rè rè.
Cạnh cửa sổ đặt một bình sứ tráng men màu ngọc bích lớn tới mức cả tôi chui cũng lọt, một bức tượng con lửng ôm bình rượu hồ lô và một quả địa cầu to đến nỗi có thể dùng làm bóng trong đại hội thể thao. Trên vách tường bằng gỗ chen chúc cơ man mặt nạ Hannya[15], mặt nạ chồn, mặt nạ
yêu quái mặt người mỏ quạ, tranh khắc gỗ với màu sắc sặc sỡ hình cá chép vượt thác và bức tranh sơn dầu vẽ con tôm nhìn rờn rợn.
Ngay phía dưới chiếc đèn chùm đang chiếu sáng bộ sưu tập kì dị ấy, có một ông cụ với khuôn mặt phúc hậu đang ngồi lọt thỏm trong chiếc ghế bành trông êm ái như kẹo dẻo. Ông vừa mỉm cười vừa rít điếu cày, âm thanh lục bục vang lên.
“Chào các vị.” Ông Rihaku rời miệng khỏi ống điếu, vui vẻ cất tiếng, “Người muốn thách đấu với ta chính là cô bé này sao?”
Vậy là bữa tiệc bao gồm cả tiệc cưới, tiệc rượu miễn phí, tiệc tiễn đưa và tiệc mừng qua tuổi sáu mươi bắt đầu. Tôi và ông Rihaku ngồi đối diện với nhau qua ly rượu.
Hai bình rượu lớn màu bạc và cặp ly cùng màu được đặt lên bàn tròn. Luật thi đấu hết sức đơn giản. Ông cháu tôi sẽ uống từng ly với nhau, xong thì dốc ngược ly xuống để chứng minh với đối phương rằng mình đã uống cạn, sau đó rót ly tiếp theo. Trận đấu sẽ chấm dứt khi xảy ra một trong các trường hợp sau: Có người tuyên bố không thể uống thêm được nữa hay say đến mức không cầm nổi ly rượu, hoặc là bác sĩ Uchida cảnh báo nếu uống tiếp thì sẽ có nguy cơ ngộ độc rượu.
Rượu Denki Bran Giả sóng sánh trong ly trong suốt như nước, lại tựa như có pha chút sắc cam. Tôi ngửi thử mùi hương của ly rượu trong tay, và ngay trong khoảnh khắc ấy, tôi có ảo giác là trước mắt tôi vừa xuất hiện một vòng hoa khổng lồ.
Bác giám đốc, chú Todo và anh Higuchi ngồi xuống cạnh tôi. “Tiền cược cho trận đấu này bằng với số tiền nợ của cả ba người đúng không? Tức là nếu cô bé này thua thì số nợ sẽ tăng gấp đôi. Ta sẽ không nương tay đâu đấy.”
Ba người nặng nề gật đầu trước lời nói của ông Rihaku.
Cùng lúc đó, đồng hồ treo tường trong phòng tiệc điểm 3 giờ sáng. “Bắt đầu.” Bác Uchida, người đã đồng ý làm trọng tài cho trận đấu rượu này, lên tiếng.
Tôi không biết nên diễn tả sự cảm động của mình khi được nếm rượu Denki Bran Giả lần đầu như thế nào nữa. Nó không ngọt cũng chẳng đắng, nơi đầu lưỡi cũng không cảm nhận được luồng điện nào chạy qua như tôi đã tưởng tượng. Có thể nói đây chỉ đơn giản là một loại đồ uống có mùi ẳ
rất thơm nhưng lại chẳng có vị gì. Trước giờ tôi luôn nghĩ rằng mùi và vị của một món sẽ giống hệt nhau, song loại rượu này là một ngoại lệ. Mỗi lần nhấm nháp, tôi đều có ảo giác một bông hoa nở rộ trong khoang miệng, sau đó, bông hoa ấy sẽ trôi thẳng xuống bụng mà không để lại bất cứ vị gì và chuyển hóa thành hơi ấm. Cảm giác này cực kì tuyệt vời, cứ như thể đang có cả một vườn hoa tươi thắm trong bụng tôi. Khi uống rượu, tôi cảm nhận được một niềm hạnh phúc dâng lên từ tận đáy lòng. Cũng vì vậy nên dẫu đang thi đấu, cả tôi lẫn ông Rihaku đều vừa uống vừa cười rất vui vẻ.
Ôi, thích quá, thích quá. Phải chi cứ được uống mãi thế này. Cứ như vậy, tôi sung sướng thưởng thức rượu Denki Bran Giả. Một lát sau, trong tôi bắt đầu trỗi dậy một loại cảm giác kì lạ. Dường như sự ồn ào náo động đến từ đám đông xung quanh đã trôi về nơi xa, giờ đây chỉ còn tôi và ông Rihaku đang ngồi trong căn phòng yên tĩnh này uống rượu với nhau. Tôi xin lỗi nếu có hơi khoa trương, có điều quả thật hương vị của rượu Denki Bran Giả đã sưởi ấm và cứu vớt cả cuộc đời tôi. Một ly, một ly, lại một ly.
Tôi say sưa uống quên cả thời gian. Tuy hai chúng tôi chẳng nói với nhau câu nào, nhưng không hiểu sao tôi vẫn thấy an tâm như thể ông Rihaku là người ông ruột thịt của tôi vậy. Vả lại, chẳng cần phải nói ra miệng tôi cũng cảm giác được rằng ông Rihaku đang trò chuyện với tôi.
“Chỉ cần còn sống thôi là đủ lắm rồi. Được nhấm nháp rượu ngon thế này là đủ lắm rồi. Một ly, một ly rồi lại một ly.” Hình như ông Rihaku đã nói vậy.
“Ông hạnh phúc chứ ạ?”
“Tất nhiên.”
“Thế thì tốt quá rồi.”
Ông Rihaku khẽ mỉm cười rồi thầm thì. “Đêm ngắn lắm nên hãy tranh thủ dạo chơi đi cháu gái à.”
Vừa cho rượu Denki Bran Giả vào bụng, tôi vừa cảm nhận niềm vui sướng đang đong đầy. Rượu quá ngon. Bao nhiêu tôi cũng uống được. Tuy từng ao ước rằng phải chi cuộc tranh tài này không bao giờ kết thúc, nhưng tôi cũng nhận ra ông Rihaku đã ngừng uống.
“Ông không uống được nữa rồi.” Ông thả lỏng bàn tay nhăn nheo đang bao quanh ly rượu trên bàn và nói, “Cháu à, hôm nay đến đây thôi nhé.”
Bất chợt những náo động của hiện thực lại quay về quanh tôi. Mọi người tụ tập thành một vòng tròn nhỏ vây lấy tôi và ông Rihaku. Bác giám đốc vỗ vai tôi trong khi anh Higuchi chỉ cười, còn nhân vật chính là chú Todo thì ngã ngồi xuống thảm với khuôn mặt rúm ró như tờ giấy nháp vo tròn.
Sau khi trận đấu rượu kết thúc, bữa tiệc kì lạ nọ vẫn tiếp tục. Rượu Denki Bran Giả được mọi người chuyền tay nhau, ai cũng tỏa ra hương thơm ngào ngạt. Tuy còn hơi ngượng nghịu nhưng bởi tất cả đều rất vui vẻ nên bầu không khí trên bàn tiệc khá dễ chịu.
Chú Todo và bác giám đốc ngồi trên sofa phì phèo điếu cày, những người khác trong nhóm thắt cà vạt đỏ thì cùng anh Kosaka đi chúc phúc cho đôi vợ chồng mới cưới.
Một nhóm khác đang đứng trước bức tường treo đầy tranh và các món đồ quái dị, bàn luận về giá cả của chúng. Có người thậm chí còn leo lên tầng trên để tắm.
Chị Hanuki thả mình xuống sofa, cùng ông Rihaku nhâm nhi cà phê. Anh Higuchi xoay cho quả địa cầu khổng lồ quay vòng vòng, hễ thấy ai đi ngang là anh sẽ tóm người ta lại rồi cao giọng diễn thuyết.
“Mà nhắc mới nhớ, sao đêm nay chúng ta lại tụ tập ở đây thế nhỉ?” Tôi nghe thấy có người hỏi.
Lần đầu tiên trong đời được trải nghiệm cảm giác uống đến nhũn cả chân thật thú vị, tôi bắt đầu dạo quanh mọi ngóc ngách của phòng tiệc bằng kiểu giậm chân bắt chước robot hình người quen thuộc. Rồi, tôi nghĩ bản thân mình khi say có vẻ hơi buồn cười và muốn trèo lên nóc xe thử xem. Thấy tôi lảo đảo trèo lên cầu thang xoắn ốc trông nguy hiểm quá nên chú Todo chạy lại bảo sẽ đi cùng tôi.
Chú còn hỏi, “Cháu định lên săn đom đóm đấy à?”
Trèo lên cầu thang, chúng tôi bước đến bên bờ hồ trên nóc xe rồi dạo quanh rừng trúc để tìm đom đóm. Bỗng, một làn gió mát rượi thổi qua khiến mặt hồ gợn sóng lăn tăn và mang đi cơn say chếnh choáng của rượu Denki Bran Giả đã bao lấy đầu óc tôi từ nãy tới giờ.
“Hôm nay là lần đầu tiên chú trải qua một đêm kì diệu như vậy đấy!” Chú Todo nói.
“Đúng là không tài nào đoán được chuyện gì sẽ xảy ra tiếp theo, chú nhỉ.”
“Phải, tiếp theo là đàn cá chép trở về với chú thì hay, mà như thế có phải được voi đòi tiên quá không đây?”
Rồi, chú cất tiếng gọi tên đàn cá yêu quý, từng con từng con một. “Yuko ơi! Jirokichi ơi! Tejiro ơi!”
Đúng lúc ấy, như để đáp lại lời kêu gọi của chú, nước hồ bỗng bắn lên dữ dội.
Hình như vừa có gì đó rớt xuống hồ. Hai chúng tôi lùi về phía sau. “Thiên thạch à?” Chú Todo hỏi.
Mặc kệ chúng tôi đang há hốc mồm vì kinh ngạc, những vật kì lạ như thiên thạch rơi xuống từ bầu trời đêm ấy vẫn thi nhau khuấy động mặt hồ. Trong khoảnh khắc trước lúc bị cột nước bắn lên tung tóe che khuất, chúng đã kịp tắm mình dưới ánh đèn bên bờ và phát ra ánh sáng màu đỏ nhạt, màu đen hoặc vàng trông rất đẹp.
Tôi và chú Todo từ từ ngước lên, nhìn vào không trung.
Trên nền trời màu xanh thẫm trôi nổi những đám mây mỏng tang như bông bị xé nhỏ. Rải rác giữa các vụn mây là những nhúm ly ti màu vàng lấp lánh. Ban đầu tôi cứ ngỡ ấy là đàn chim đang bay vào thinh không, nào ngờ chỉ sau một cái chớp mắt, chúng đã tiến đến gần chỗ chúng tôi đang đứng.
Đó là một đàn cá chép.
Chúng đang quẫy mình trong không trung, thân thể phản chiếu ánh vàng lấp lánh của đèn đường. Tôi thậm chí có cảm giác nhìn được từng cánh vây miếng vảy của chúng một cách rõ ràng.
Trong lúc chú Todo che chắn cho tôi khỏi bị thương, đàn cá đã nhất loạt rơi thẳng xuống hồ. Rừng trúc bao quanh không ngừng phát ra âm thanh xào xạc như thể vừa có một cơn gió mạnh thổi qua. Nước bắn lên dữ dội khiến cả mặt hồ nổi bọt trắng xóa. Chiếc xe ba tầng của ông Rihaku lắc lư và kêu lên kình kịch cứ như đang chạy trên đường ray.
Khi mặt hồ yên ả trở lại, chú Todo ghé mắt nhìn xuống.
“Trời ơi! Có thật không đây? Không thể nào!” Chú vung tay loạn xạ lên trời như đang tức giận. “Đừng có đùa với ông!”
“Sao thế ạ?”
“Đàn cá chép của chú! Cá của chú rớt xuống đây này!”
Nói rồi chú ôm chầm lấy tôi, lại còn định giở trò hôn hít. Người lớn mà chẳng đứng đắn gì cả!
Tôi nghĩ, đây chính là lúc mình nên nghe theo lời dạy bảo của người chị kính mến.
Thế là tôi bèn vung nắm đấm thân thiện tràn ngập yêu thương của mình lên, hất chú Todo ngã xuống hồ.
☆
Lại là tôi, cái thằng vẫn còn lưu luyến sân khấu mãi đây ạ. Tuy đã theo chân cô ấy vào trong xe của ông Rihaku, tôi vẫn không có cơ hội nào để tiếp cận cô - người đang bận rộn với cuộc chiến một chọi một đầy căng thẳng cùng ông Rihaku. Đã vậy, ông chủ tiệm sách cũ say xỉn còn chơi xấu, ép tôi uống tiếp cho bằng được. Trong tình trạng chẳng mấy vui vẻ khi lại bị chuốc say túy lúy, tôi biết được gã lưu manh đã cướp quần của mình là ông Rihaku, còn kẻ đang tỉnh bơ mặc nó là một anh thanh niên tên Higuchi. Song, tôi đã chẳng còn sức để đi chất vấn họ và đòi lại quần nữa.
Sau khi nhìn thấy cô ấy giành chiến thắng, tôi cũng định tới bắt chuyện với cô, nhưng vì đã uống nhiều đến mức buồn nôn nên tôi đành trốn lên nóc xe. Nấp trong một bụi trúc, tôi ngắm đàn đom đóm bay quanh hồ mà lại thấy tức ngực, ruột gan cồn cào như sắp ói hết cả ra. Đúng lúc đó, cô ấy cùng lão Todo cũng leo lên nóc, bắt đầu tìm đom đóm ở bờ đối diện.
Lão Todo thao thao bất tuyệt về tình yêu dành cho đám cá chép. Song, ai tin nổi chuyện một đàn cá cưỡi gió bay về cơ chứ? Chỉ có cô ấy mới rưng rưng nước mắt và lắng nghe lão ta thôi. Tốt nhất là lão đừng có mà được nước lấn tới.
Cô ấy đang ở ngay trước mắt. Lúc này nếu tôi vẫn không lên tiếng thì chắc chẳng còn cơ hội khác nữa rồi. Tôi lấy nước hồ súc miệng, dợm bước lại gần người con gái tôi thầm thương trộm nhớ.
Lảo đảo bước ra khỏi rừng trúc, tôi hít một hơi thật sâu và ngước nhìn bầu trời đêm.
Ngay khi tôi vừa nhận thức được rằng hình như có cái gì đó là lạ sắp rơi xuống chỗ mình thì tất cả đều đã quá muộn. Mới cảm thán chúng rất đẹp với màu như màu vàng kim lấp lánh dưới ánh đèn đường xong, tôi đã lập tức lãnh một cú trời giáng vào đầu và ngã lăn quay.
Tuy cảm thấy trời đất quay cuồng, tôi vẫn cố gắng bò về phía rừng trúc và lầm bầm, “Hàng dễ vỡ đấy nhé!” Tôi cũng đáng được ngợi khen cho sự kiên cường của mình lắm chứ.
Lát sau, đàn cá chép lấp lánh nọ rớt xuống. Nước hồ bắn tung tóe làm tôi ướt như chuột lột. Song, tôi cũng không vì thế mà bỏ cuộc. Lúc nhìn thấy lão Todo hét lên “Cá của chú rớt xuống đây này!” rồi ôm chầm lấy cô ấy, tôi cảm thấy cơn giận bốc lên đỉnh đầu rồi bùng phát, cả người tôi run lên khi nhận ra sứ mệnh của mình.
Sau cuộc hành trình dài tưởng chừng vô vọng, cuối cùng ông trời cũng đã mỉm cười với tôi. Nếu bây giờ tôi cứu cô ấy thoát khỏi bàn tay ma quỷ của lão ta và chứng tỏ được bản lĩnh của mình, tôi có thể trò chuyện thân thiết hơn với cô ấy. Đây quả là cơ hội ngàn năm có một. Công sức làm bao việc tốt hằng ngày mà đến cả bản thân tôi cũng chẳng nhớ rốt cuộc đã được đền đáp.
Tôi siết chặt nắm tay, nhưng cú đấm thép của tôi không có đất dụng võ. Bởi cô ấy đã lạnh lùng tung cú đấm của mình trước cả tôi, khiến lão Todo ngã nhào xuống hồ.
Và giờ tôi đã nhận ra ông trời đang muốn cho tôi thấy mình bất lực đến thế nào. Ngồi bên hồ và ngẩng mặt nhìn vào không trung, tôi vừa định nhổ toẹt bãi nước bọt vào mặt ông ta thì cô ấy bỗng quay sang nhìn tôi chằm chằm. Mái tóc đen tuyền cắt gọn gàng ươn ướt, lóng lánh dưới ánh đèn. Đôi mắt xinh đẹp của cô đang dán chặt vào tôi, có lẽ do tác dụng của rượu Denki Bran Giả nên long lanh đến lạ.
“Anh có sao không?” Cô hỏi.
Tôi rên hừ hừ.
“Bên dưới có bác sĩ, để em chạy đi gọi! Anh đừng cố quá!” Rồi, tôi chợt chú ý tới nắm đấm kì lạ của cô ấy.
Tôi bắt chước và cho cô ấy xem thì cô ấy phì cười. Đó là một nụ cười bao hàm cả ba yếu tố chân-thiện-mỹ, một nụ cười do thần cai trị đêm khuya và rượu Denki Bran Giả ban cho.
“Nắm đấm thân thiện đấy anh ạ!”
Cô ấy khoe với tôi cú đấm trông như bánh daifuku[16] nhân đậu, và rồi cơn say đã hạ gục tôi ngay sau đó.
Kí ức đau thương của tôi khi không thể trở thành nam chính, đành phải ngậm ngùi chấp nhận làm hòn đá bên đường đến đây là kết thúc. Nói mà muốn rơi nước mắt. Thôi, tạm biệt các bạn nhé.
☆
Cái anh bị đàn cá chép của chú Todo rớt thẳng vào đầu và ngất xỉu được đưa vào thư phòng của ông Rihaku, sau đó được bác Uchida khám cho.
Tuy trong cùng một câu lạc bộ nhưng tôi lại không nhớ nổi tên anh là gì, thật áy náy quá. Dù đêm nay không có cơ hội nào để trò chuyện với anh ấy, song lần sau gặp mặt, tôi nhất định sẽ nhớ tên và cùng anh ôn lại những kỉ niệm của buổi tối náo nhiệt này.
Thấy anh không sao, tôi lặng lẽ xuống xe, đứng trên con đường lát đá lành lạnh của Ponto-cho. Trời vẫn còn tối nhưng cũng đã có vài dấu hiệu cho thấy bình minh đang lên. Một cô nàng đoan trang phải về phòng ngủ trước khi trời sáng.
Xe điện ba tầng của ông Rihaku chắn ngang Ponto-cho tối thui, tỏa sáng như một chiếc hộp ma thuật.
Có lẽ những người khác đang vui vẻ tận hưởng những phút giây cuối cùng của bữa tiệc. Còn chú Todo đang cười thật tươi ngắm nghía đàn cá yêu dấu của mình bơi lội trong cái hồ trên nóc xe.
Tôi bỗng nhận thấy ông Rihaku đang nhìn mình từ cửa sổ tầng hai của chiếc xe. Khi tôi cúi chào, ông đưa chiếc ly bạc lên cao như đang nói, “Cạn ly.”
Như lấy đó làm hiệu lệnh, chiếc xe ba tầng lăn đi không một tiếng động.
Tôi dõi theo chiếc xe mang sự sáng sủa và nhộn nhịp ấy cho tới khi nó biến mất ở phía Nam.
Xung quanh lập tức tối sầm, chỉ còn lại mình tôi đứng đó.
Tôi bước đi trên con đường lát đá tối om om của Ponto-cho. Rốt cuộc thì đến tận lúc ấy, tôi vẫn không biết tại sao ban đầu mình lại quyết định du ngoạn phố đêm như thế này nữa. Bởi đó là một đêm quá mức thú vị và dạy cho tôi vô số bài học bổ ích chăng? Hoặc cũng có thể đấy là tôi tự cho rằng bản thân đã học được gì đó thôi. Mà nó cũng không quan trọng lắm, dù sao thì con bé lóc chóc là tôi đây vẫn sẽ đi tiếp, tiến về phía trước và hướng đến một cuộc sống tươi đẹp hài hòa. Lòng đầy kiêu hãnh, tôi ngẩng nhìn bầu trời trong vắt không một gợn mây, nhớ lại lời ông Rihaku đã nói trong lúc chúng tôi tỉ thí. Tôi bỗng cảm thấy cực kì vui vẻ và muốn nói lên câu ấy như thể đó là bùa hộ mệnh của mình.
Thế là tôi bèn thì thầm, “Đêm ngắn lắm nên hãy tranh thủ dạo chơi đi cháu gái à.”
2
Cá dưới biển sâu
T
ôi rất kỵ hội sách cũ.
Nếu lòng vòng trong hội sách lâu thì thể nào tôi cũng sẽ thấy đau nửa đầu, trở nên trầm cảm và muốn tự hành hạ mình, thở dốc, trống ngực đập dồn, cuối cùng dẫn đến triệu chứng như bị trúng độc. Sau đó, khi quay về phòng trọ, tôi sẽ mơ thấy mình bị một cô gái xinh đẹp rạng ngời trói trên bàn mổ, rồi cô ta sẽ cắt nhỏ cuốn Bách khoa Toàn thư Thế giới do Heibonsha phát hành và bắt tôi ăn cho bằng hết.
Thế nên, cứ đến mùa tổ chức hội sách cũ hằng năm là tôi lại ủ ê như vừa mất sổ gạo. Do vậy, năm nay tôi đã quyết chí không đi là không đi. Song, đến phút chót, tôi lại bị dồn vào tình thế không đi không được. Lý do là vì cô ấy nói cô ấy sẽ đi.
“Cô ấy” ở đây chính là cô “đàn em” chung câu lạc bộ trường đại học mà tôi thầm thương trộm nhớ lâu nay.
Trước ngày diễn ra hội sách, từ một nguồn đáng tin cậy, tôi được biết cô gái có mái tóc đen ấy đã nói, “Mai em sẽ đi hội sách.” Ngay sau khi nghe tin, tôi đã lên một kế hoạch có thể nói là vĩ đại.
Trong lúc tha thẩn ở hội sách, cô tìm thấy một cuốn sách mình cần. Cô kích động vươn tay về phía đó, nhưng có một bàn tay khác cũng đang vươn tới cuốn sách nọ. Tiếp theo, cô ấy ngẩng mặt lên và nhìn thấy tôi. Tôi lịch lãm nhường cuốn sách cho cô. Thể nào cô cũng sẽ lịch sự nói lời cảm ơn, và rồi tôi đáp lại bằng một nụ cười nhã nhặn, ngỏ lời mời, “Em có muốn đến quán cà phê kia và cùng anh uống một ly soda chanh lạnh không?”
Vừa nghe tiếng ve râm ran vừa nhấm nháp soda chanh, chúng tôi sẽ tán gẫu về những gì đã thu hoạch được ở hội sách và tôi sẽ khiến cô ấy cảm thấy mình đáng tin cậy. Với tài năng trời phú của tôi thì đó là việc quá dễ dàng. Mọi chuyện nhất định sẽ diễn ra theo đúng kế hoạch mà tôi đã vạch sẵn trong đầu, và kết cục sẽ là chúng tôi cùng nhau trải qua quãng đời sinh viên tràn ngập màu sắc của tình yêu.
Đúng là một kế hoạch hoàn mỹ, cả quá trình diễn ra tự nhiên như nước chảy mây trôi. Đợi đến ngày chúng tôi thành đôi, nhất định tôi và cô ấy sẽ thủ thỉ với nhau rằng, “Cũng nhờ ngày ấy mình cùng với lấy cuốn sách đó nhỉ.”
Không gì có thể kìm hãm cỗ máy tình yêu trong tôi được nữa. Nó hoạt động quá đà khiến tôi xấu hổ tới mức chảy cả máu mũi.
Biết ngượng đi! Rồi chết đi cho rảnh nợ!
Nhưng, tôi đã chẳng buồn nghe phẩm giá của mình càm ràm từ lâu rồi. Bởi vì, trong cái môi trường đại học lạc hậu đến cùng cực hiện nay, biết xấu hổ rồi cứ giữ vẻ đứng đắn, lễ độ cũng chẳng được tích sự gì.
Đường lên đền Shimogamo, Kyoto.
Con đường rộng thênh thang xuyên qua rừng cổ thụ Tadasu - nơi cây long não và cây cơm nguội mọc thành từng hàng. Tình cờ đúng dịp lễ Bon nên tiếng ve râm ran khắp nơi.
Phía Tây là trường đua ngựa Yabusame, đang bị bao phủ bởi bầu không khí dị thường. Dù có rất nhiều người tụ tập, nhưng không hề ồn ào, nhộn nhịp; chỉ có những tiếng xì xào nho nhỏ như đang dè chừng, cảm giác chẳng khác gì một cuộc tụ họp của yêu quái. Băng qua dòng suối nhỏ chảy từ hồ Mitarashi sẽ nhìn thấy trường đua ngựa theo chiều Bắc-Nam với mấy dãy lều trắng. Người người chen chúc qua lại như mắc cửi giữa những gian lều. Tuy đang ở trong rừng, không khí vẫn nóng ẩm bức bối nên cũng có người vừa đi vừa dùng khăn lau mồ hôi. Bọn họ đi từ gian này đến gian kia, mắt sáng rỡ trông có vẻ đáng sợ, lục lọi không biết chán những cuốn sách cũ và bẩn xếp trong hộp gỗ.
Trên tấm băng rôn xanh đậm bay phấp phới là dòng chữ “Hội sách cũ mùa hè Shimogamo”.
Lúc tôi đến rừng Tadasu thì đã quá trưa.
Mới loanh quanh trong hội sách cũ có một chốc thôi mà tôi đã mệt bã cả ra. Tới lui chỉ toàn sách là sách, trong khi người cần tìm thì chẳng thấy bóng dáng đâu. Hơn nữa, bây giờ đang là giữa hè nên trời chiều nóng như đổ lửa. Quá buồn chán bởi không có việc gì làm, tôi bèn luyện đi luyện lại bài tập đưa tay với lấy cuốn sách mà cô ấy sẽ chọn. Song, vừa nghĩ đến khả năng sẽ chẳng hề có cơ hội nào để áp dụng kĩ năng thuần thục đó, tôi liền cảm thấy cơn giận sôi lên sùng sục.
Bao quanh thằng tôi đang sưng sỉa mặt mày như lật đật daruma là biển sách trải dài đến vô tận. Chúng đang nói, “Đại ca à, đọc bọn tôi xong là thông minh ngay tắp lự đấy!” Nhưng, tôi chán nản với việc gửi gắm hi vọng vào sách vở lắm rồi. Không thể đọc được vạn cuốn sách, cũng không thể vứt hết sách sang một bên mà ra đường chơi… Sau một thời gian dài dù không thích vẫn cứ phải nhìn chằm chằm vào sách, những trò chơi tình ái trong miệng người ta đã cách xa tôi như khoảng cách giữa trời và đất, linh hồn sáng sủa ngày nào giờ đây đã bám đầy bụi bẩn, tuổi trẻ vốn nên dùng để ăn chơi phung phí lại đã phung phí hết vào lối mòn.
Thần Hội sách cũ ơi, xin ngài hãy ban cho con chút sắc màu của cuộc sống trước rồi hẵng đến kiến thức khô khan!
Chính giữa trường đua ngựa có mấy chiếc ghế dài trải thảm bên trên để nghỉ ngơi. Tôi ngồi xuống đó lau mồ hôi. Ngẩng lên vì muốn tìm chút không khí không có mùi sách cũ, tôi nhìn thấy bầu trời mùa hè trong xanh bên trên những ngọn cây.
Tôi lơ đãng nhìn ngó đám người đang qua lại giữa các gian hàng trên khoảnh sân rộng, nào là những ông bác ông chú ăn mặc lôi thôi, những người mặt mày nghiêm túc ra dáng sinh viên đại học, những cô gái nhìn đậm chất sinh viên mỹ thuật và một vài ông cụ râu tóc bạc trắng như thần tiên. Trong đó, còn có cả bóng dáng của các đôi trai gái đang nắm lấy bàn tay nhớp nháp đầy mồ hôi của nhau cùng đi xem sách, trông đến là nóng nực và khổ sở.
Bỗng nhiên tôi kêu lên vì kinh ngạc.
Cô gái nhỏ nhắn đang cầm một cuốn sách bỏ túi say sưa đọc trước một hiệu sách cũ kia trông giống cô ấy quá. Cả mái tóc cắt ngắn cho hợp với mùa hè óng ả dưới nắng nữa. Kể từ khi cô ấy tham gia vào câu lạc bộ đến
giờ, tôi đã luôn lẽo đẽo theo đuổi cô như một kẻ hầu. Với bao tháng ngày ngắm nhìn từ phía sau, có thể nói bây giờ tôi đã là một người đàn ông có quyền lên tiếng nhất về những điều liên quan đến bóng lưng cô ấy. Bởi vậy, tôi mà nói thì cấm có sai!
Tôi hùng hồn đứng dậy.
Nhưng, vừa lao ra thì tôi đã tông vào một cậu nhóc đang đi tới. Thằng bé loạng choạng rồi ngã lăn ra đất. Tôi vừa lảo đảo vừa tặc lưỡi, sau đấy quay qua lườm nguýt thằng oắt con cản trở đường tình duyên của người khác. Trông thằng bé như còn đang học tiểu học. Nó không mở miệng kêu ca gì, song đôi mắt vừa to vừa đẹp đến lạ của nó ầng ậng nước, nhìn chằm chằm vào ngực tôi. Cúi xuống, tôi phát hiện tàn tích của cây kem thằng bé liếm nãy giờ đang nhoe nhoét trên áo mình. “Hừ. Giờ tính sao đây nhóc?” Tôi cằn nhằn, “Dính hết lên áo rồi.” “Trước khi phàn nàn thì anh nên xin lỗi em mới đúng chứ?” Thằng bé vừa phủi cát vừa nói một lèo bằng cái giọng khàn khàn như của người lớn, “Đạp đổ niềm vui của người khác mà anh không thấy áy náy gì à?” Nói rồi, nó vênh váo chỉ tay vào chỗ kem đang dính bê bết trên áo tôi, “Đền đi.”
Bị dồn vào tình cảnh không còn gì để nói, tôi đành phải câm nín trước thái độ của thằng bé.
Thế là nó chụp lấy tay áo tôi, kéo sang tiệm kem.
“Này, này! Nhóc bao nhiêu tuổi vậy?”
“Năm nay em vừa tròn mười tuổi. Sao?”
“Rồi, rồi. Anh xin lỗi.” Tôi nói, “Anh sẽ đền nên đừng có kéo nữa.” Xem ra tương lai màu hồng phủ xuống hội sách cũ cùng bóng hình cô ấy còn cách xa tôi lắm.
Lúc này cô ấy vẫn đang chúi mũi vào cuốn sách trên tay. Nhìn cách cô đọc quyến rũ động lòng người thế kia thì chắc hẳn cô thích nó ghê lắm. Người ta bảo con gái khi yêu là đẹp nhất mà. Có điều, rốt cuộc thì cuốn sách cũ rích bẩn thỉu đó lừa gạt tình cảm của cô ấy để làm gì cơ chứ? Nó chỉ là giấy cũ thôi mà, tôi căm tức nghĩ.
Phóng tia nhìn nóng rực như thể muốn thiêu cháy cả gáy cô, tôi thầm gào thét trong lòng, “Nếu có thời gian thì em đọc anh đi còn hơn! Viết
nhiều thứ hay ho lắm đấy!”
☆
Tôi xin trân trọng được giải thích cho mọi người, cuốn sách mà tôi đọc say mê lúc ấy là Chim, Thú và Họ hàng của Gerald Durrell. Ấy là một ngày rất đáng được kỉ niệm - ngày tôi đi hội sách cũ lần đầu tiên.
Tôi sẽ không bao giờ quên được nỗi xúc động khi bước vào khu rừng của đền Shimogamo, tắm trong tiếng ve râm ran gọi hè và nhìn thấy hằng hà sa số sách cũ trải dài như vô tận. Vừa nghĩ tới những cuốn sách tuyệt vời mà mình có thể tìm thấy trong đại dương sách cũ này, tôi không khỏi run lên vì phấn khích và muốn ưỡn ngực thật căng. Vậy là, ngay trước cổng hội sách, tôi lại giậm hai chân theo kiểu robot để biểu hiện niềm hăng hái và hạnh phúc của mình.
Hai bên trường đua ngựa trải dài từ Bắc đến Nam đầy những tiệm sách cũ khiến tôi hoa cả mắt. Tiệm bên phải mời “Bên này có sách hay lắm đó!” thì tiệm bên trái lại dụ dỗ, “Bên này hay hơn!” Tôi bối rối như con đom đóm đang bị nước hồ Biwa trong vắt, ngọt lành mời gọi. Không thể làm gì khác hơn, tôi quyết tâm phải xem cho bằng hết.
Rồi, tôi tình cờ bắt gặp cuốn Chim, Thú và Họ hàng được xếp trên kệ đồng giá 100 yên, thậm chí có cảm giác cứ như nó đang tự nhảy ra khỏi kệ và gọi tôi lại. “Ôi!” Tôi thở hắt ra đầy mãn nguyện. Không cần phải nói gì thêm, tôi chụp lấy cuốn sách, say sưa đọc đến quên cả thời gian. Hồi còn học cấp hai, nhờ đọc câu chuyện Động vật và Gia đình thú vị mà tôi biết đến Gerald Durrell. Đã qua mấy năm kể từ khi nghe nói phần tiếp theo đã xuất bản, vậy mà ngay trong lần đầu tiên đặt chân đến hội sách cũ, tôi đã tìm được nó. Chỉ có thể nói đúng là vận may bất ngờ.
Đã thế, cuốn sách mà tôi đã ao ước từ thời cấp hai này chỉ tốn vỏn vẹn có 100 yên! Quả là một chuyện đáng để cảm tạ trời phật đối với những con người luôn cháy túi như tôi. Yeah! Đây gọi là “Cờ bạc đãi tay mới” nhỉ. Hoặc biết đâu là do tôi có tài dạo hội sách cũ cũng nên. Nghĩ thế, tôi lại càng phấn khích hơn.
Làm thế nào cũng không thể giữ được vẻ mặt tự nhiên như thường nên tôi cứ thế cười toét đến tận mang tai trông như đứa dở hơi đi trên đường.
Bỗng, một anh thanh niên mặc áo yukata đang ngồi ở khu nghỉ ngơi ngay giữa trường đua gọi tôi í ới. Anh đặt chồng sách thu hoạch được trên thảm rồi dùng khăn tay lau mồ hôi quanh cổ. Trông bộ dạng anh bây giờ cứ như đang trong men say chiến thắng. Bên cạnh anh là một chị gái mặc wafuku[17] khoảng ba mươi lăm tuổi đang che dù. Chị ấy ngồi một mình, đang lẳng lặng đọc một tập lẻ trong bộ Oda Sakunosuke toàn tập.
“Anh Higuchi, lâu rồi mới gặp anh!” Tôi cúi đầu chào.
Anh Higuchi cười thật tươi.
“Từ đêm hôm nọ đến giờ ấy nhỉ. Em khỏe không? Vẫn uống chứ hả?” “Dạ, em vẫn khỏe ạ. Nhưng dạo này em không có nhiều cơ hội uống rượu cho lắm.”
“Vậy hẹn hôm nào chúng ta cùng đi uống đi. Chị Hanuki cũng muốn gặp em lắm đó.”
“Chị Hanuki hôm nay có tới không ạ?”
“Chị ấy ghét sách cũ lắm em. Còn bảo chỉ có lũ khùng mới rỗi hơi đi mua mấy thứ vừa cũ vừa bẩn thế.”
Tôi quen anh Higuchi vào cái đêm tôi đi dạo ở Kiyamachi. Đêm hôm ấy, được anh và chị Hanuki hướng dẫn, tôi đã trải qua một đêm vô cùng thú vị và kì diệu. Có thể nói hai người họ đã dạy cho tôi vô số điều để có thể tận hưởng trọn vẹn sự kì lạ của phố đêm. Nhưng, dẫu đã cùng nhau uống rất nhiều rượu hay nói biết bao nhiêu chuyện, tôi vẫn không biết gì về lai lịch của anh, cũng không rõ vì cớ gì mà anh cứ mặc yukata suốt.
“Anh mời em một phần yakisoba[18] nhé!” Nói rồi anh Higuchi đứng lên.
“Dạ thôi! Anh không cần mời em đâu ạ…”
“Thì đúng là thế. Anh chắc phải cả hai chục năm mới khao được người khác một lần, có điều hôm nay thu hoạch cũng khá lắm nên anh sẽ mời em.”
Xong, anh hoan hỉ khoe với tôi bốn cuốn sách có bọc ngoài giống hệt nhau.
Chúng đều đã ngả sang màu xưa cũ, bất giác khiến tôi liên tưởng đến màu trong phòng khách của bà ngoại. Bên trên là những cái tên nhìn có vẻ
rất khó hiểu như “Justine” và “Balthazar”. Là bộ tiểu thuyết Tứ tấu cùng Alexandria của tác giả Lawrence Durrell. Ôi chà, một tập sách đầy mùi văn học. Tôi chưa bao giờ có duyên với mấy thứ như thế nên càng thêm ngưỡng mộ anh Higuchi. Nhìn giống một kẻ cực kì vô dụng thế thôi chứ nhất định anh ấy giấu tài, mà có thể che giấu hoàn hảo đến vậy thì chứng tỏ anh ấy có một nền tảng giáo dục vững chắc. Tôi vô cùng chắc chắn về điều đó.
Ấy thế mà anh Higuchi lại nói thẳng thừng rằng anh chẳng thích thú hay quan tâm gì đến nội dung của bộ tiểu thuyết đó cả.
“Đứa bạn anh săn cuốn này lâu rồi. Anh sẽ báo giá cắt cổ và bán cho nó. Vả lại, hôm nay anh vừa vớ được một vố hời khác nữa nên em cứ an tâm ăn mì của anh.”
Bọc đống sách vào túi xong, anh đứng lên và đi trước dẫn đường. “Em này, chúng chỉ là một xấp giấy dính đầy mực thôi mà có người lại sẵn sàng bỏ cả núi tiền ra mua.” Anh nói với vẻ xúc động, “Sách đúng thật là có ích quá nhỉ.”
Đang trên đường đi đến các quầy hàng nằm ở phía Nam trường đua thì tôi lại gặp cái anh cùng câu lạc bộ hôm nọ. Anh ấy đang ỉu xìu đi ở bên kia đường, hướng về phía Bắc. Bên cạnh là một cậu bé trông như con gái đang vừa đi vừa liếm kem, giữ rịt gấu áo anh.
Nhìn theo anh, tôi thầm nghĩ, “Chắc đó là em trai của anh ấy.” Sau đó, tôi quay lưng bước thẳng đến tiệm yakisoba.
☆
Cũng chẳng phải vì thích thú gì mà tôi dắt thằng oắt con dễ ghét này đi vòng vòng trong hội sách đâu.
“Anh mua kem đền rồi đấy, hài lòng chưa? Hài lòng rồi thì mau đi đi.” “Không thích.”
“Ê! Không được kéo áo.”
“Đừng nói nghe lạnh lùng vậy chứ.”
“Gì vậy? Sao tự dưng lại nói cái kiểu ông cụ non thế.”
“Tuổi tâm lý của em cao mà. Lớn hơn cả anh đấy.”
“Lễ phép với người lớn chút đi. Thế này thì đừng bảo sao anh mày ghét trẻ con.”
“Ai đời lại đi ghét đồng bào như vậy.”
Tôi đứng lại, quay sang liếc nó bằng ánh mắt sắc như dao cạo, song mặt nó vẫn cứ tỉnh bơ.
Thằng bé nhỏ gầy đứng một mình giữa trường đua, một tay thọc vào túi quần lửng, tay kia cầm cây kem. Nó lè lưỡi làm mặt xấu rồi liếm kem, ngước nhìn tôi đăm đăm. Mái tóc màu hạt dẻ mềm mại bay phấp phới trong gió mạnh, hàng lông mi dài đến mức mỗi lần nó chớp đôi mắt to tròn, tôi lại có cảm giác gió vừa nổi lên. Ngoại trừ cách nói chuyện như ông cụ non ra, nhìn nó chẳng khác gì một đứa bé gái.
“Thôi sao cũng được, mà nhóc đừng bám theo anh nữa. Anh bận lắm.” Tôi tiếp tục đi.
“Người càng nói bận rộn thì càng rảnh. Họ thấy tội lỗi vì quá rảnh rang nên mới luôn oang oang là mình bận thì có. Vả lại, người thật sự bận thì làm gì có thời gian mà lang thang trong hội sách cơ chứ.”
“Đây mới là tuổi trẻ, nhóc ạ!” Tôi cười phá lên. “Trong bận có rảnh, trong rảnh có bận. Có thể với nhóc đó chỉ là lang thang, nhưng đây mới là lúc trí óc của anh hoạt động hết công suất. Cái mà nhóc thấy chỉ là vẻ ngoài mà thôi.”
“Vớ vẩn. Anh mới bịa ra mấy câu đó chứ gì?”
“Thôi im đi. Anh đang phải căng mắt quan sát xung quanh, đến cả cây kim rơi xuống đất cũng không được bỏ sót đấy. Không tập trung tinh thần thì không thể tìm được báu vật nằm giữa hội chợ sách lộn xộn này đâu. Anh đang đau đớn vì có cảm giác như mình đang chơi trò chơi trẻ con đây này.”
“Thứ anh tìm hẳn không phải là sách đâu nhỉ.” Thằng bé cười nhăn nhở, “Tìm con nào chứ gì.”
“Đừng có nói bậy nói bạ nhé!” Tôi mắng. “Với cả trẻ con trẻ mỏ, con cái gì mà con. Phải gọi là chị, biết chưa?”
“Anh tìm một chị trông nhỏ con có mái tóc ngắn màu đen phải không? Da trắng bóc nữa.”
Tôi xoay người, túm lấy vai thằng bé. Cơ thể mảnh khảnh của nó bị tôi lắc qua lắc lại như một con búp bê. Song, ánh mắt của nó vẫn bình tĩnh, tự
nhiên như thường. Thằng bé này ghê thật.
Tôi hạ giọng thật thấp, “Này, sao nhóc biết?”
“Lúc tông phải tôi, anh đang nhìn như muốn ăn tươi nuốt sống cái chị tóc ngắn đứng đọc sách trước cửa tiệm đấy thôi. Vậy mà còn không đoán ra nữa thì tôi khác gì đồ ngu.”
Tôi buông tay khỏi vai thằng bé rồi chỉnh lại mấy nếp nhăn trên áo. “Thông minh ghê nhỉ.” Tôi nói. “Anh đang khen nhóc đấy, nên biết ơn đi.”
“Cái đó có gì mà phải biết ơn!” Nói xong, thằng bé nhai vỏ kem rôm rốp.
Bóng một con chim sải cánh thật rộng vụt qua trường đua theo hướng từ Bắc xuống Nam.
Đột nhiên, bóng đen to lớn lướt qua trên đỉnh đầu tôi. Chắc đó là một chú chim.
Cùng anh Higuchi ăn yakisoba, tôi ngẫm nghĩ về những chuyện ngẫu nhiên xảy ra với sách.
Ví dụ tình cờ gặp được cuốn sách tìm kiếm bấy lâu hoặc đang vừa đi vừa nghĩ về cuốn sách ấy thì bỗng dưng nó hiện ra ngay trước mắt; hoặc mua về một đống sách có nội dung chẳng liên quan gì tới nhau, sau lại phát hiện rằng chúng có cùng cách miêu tả sự kiện hay nhân vật chẳng hạn. Thậm chí có cả trường hợp là cuốn sách của mình ngày xưa, sau khi qua tay bao tiệm sách cũ lại trở về với mình.
Có vô số sách được mua đi bán lại và chu du khắp thế gian nên rất có thể những ngẫu nhiên ấy đều là lẽ tất nhiên. Cũng có lẽ chúng ta vẫn luôn chọn cách gặp gỡ sách trong vô thức, hoặc luôn bị một sợi dây nhân quả vô hình dẫn dắt mà cứ nghĩ rằng đây chỉ là ngẫu nhiên. Dù biết thế nhưng mỗi lần tình cờ gặp được một cuốn sách mình yêu thích, tôi vẫn cảm thấy đó là định mệnh. Tôi chính là kiểu người muốn tin vào những điều như vậy.
Ăn yakisoba đến no căng cả bụng xong, tôi mân mê cuốn Chim, Thú và Họ hàng rồi tâm sự với anh Higuchi về các suy nghĩ ấy.
“Tất cả những chuyện lạ lùng đó đều do thần quản lý hết đấy em ạ.” Anh Higuchi tỉnh bơ nói, “Em biết thần Hội sách cũ không?”
“Dạ không, em mới nghe lần đầu.”
“Thần Hội sách cũ cai quản tất tần tật những chuyện kì lạ xảy ra trong hội sách cũ. Ngài giúp người ta có được niềm vui hội ngộ với cuốn sách họ mong muốn, xe duyên cho các cặp đôi thông qua sách cũ hoặc sắp xếp một vụ mua bán lớn để giúp đỡ các tiệm sách cũ. Những nhà sưu tập lão làng đều thờ thần này, hôm nào cũng khấn cầu đầy đủ. Vào lễ cầu nguyện đầu tháng, họ sẽ cúng sách cũ cho thần, đến đêm thì mở tiệc ăn uống linh đình và đọc những cuốn sách cũ nổi tiếng trước mặt thần. Dân sưu tập dù bận trăm công nghìn việc cũng không bao giờ bỏ qua sự kiện này, không chỉ bởi thần Hội sách cũ có thể dàn xếp cho họ gặp gỡ cuốn sách mình mong muốn, mà còn vì những hình phạt của thần rất đáng sợ.”
“Rốt cuộc là hình phạt gì mà…” Tôi run lên.
“Nhà sưu tập nào bất kính với thần thì tất cả sách trong kho của họ sẽ đột ngột biến mất. Chính thần Hội sách cũ đã lấy chúng đi đấy!” “Thật đáng sợ!”
Anh Higuchi mãn nguyện cười ranh mãnh.
“Tương truyền rằng thần Hội sách cũ có thể xuất hiện dưới nhiều hình dạng khác nhau nên không ai biết thực tế thần trông như thế nào. Có lúc thần là một người đàn ông đeo kính với khuôn mặt góc cạnh, cũng có lúc thần trở thành một nhà học giả già hoặc một thiếu nữ xinh đẹp, đoan trang, mặc trang phục truyền thống; thỉnh thoảng thần sẽ đội lốt một cậu bé xinh xắn mặt mũi hồng hào hay một tên không rõ tuổi mặc yukata bạc màu; mà rất có thể thần sẽ xuất hiện với hình dáng của một cô gái nhỏ nhắn với mái tóc đen… Vị thần ấy sẽ giáng lâm xuống hội sách, hòa vào dòng người yêu sách cũ, dạo quanh các cửa tiệm, lén đặt những cuốn sách cũ quý giá lên kệ rồi bỏ đi. Do là thần làm nên ngay cả chủ tiệm sách cũng không nhận thấy sách đã tăng thêm đâu. Và rồi, những cuốn sách đó sẽ được các nhà sưu tập điên cuồng lao tới cướp đoạt.”
Tôi chợt nhớ đến đống sách mình tích trữ ở nhà. Trước giờ tôi chưa khấn cầu gì với thần Hội sách cũ cả. Hốt hoảng, tôi chắp hai tay khấn, “Nam mô nam mô!” Tuy đây chỉ là lời khấn mà tự tôi mở rộng để ứng dụng cho mọi trường hợp nhưng từ những ngày bé xíu còn đọc sách tranh, tôi đã thích nói câu ấy rồi.
“Đúng rồi. Khấn thành tâm vào! Nam mô nam mô!”
“Nam mô nam mô!”
“Sau khi xuất bản, sách sẽ được người ta mua về rồi bán lại. Khi có chủ nhân kế tiếp thì cuốn sách ấy xem như được tái sinh. Cứ thế, sách sẽ đầu thai vô số lần và kết nối duyên phận giữa người với người. Chính vì vậy nên thần mới đang tâm thả những cuốn sách cũ quý giá vào thế gian. Bọn sưu tập bất lương phải coi chừng thần đấy!”
Anh Higuchi cười ha hả dưới bầu trời mùa hạ, như thể anh là thần Hội sách vừa giáng trần.
Rồi, anh ngước nhìn không trung và nói, “Mây đen kéo đến kìa.”
Trời mới nãy còn trong vắt mà giờ đã âm u như sắp mưa. Mây đen giống hệt những cục bông xám lấp ló sau những ngọn cây, không khí đã oi giờ lại càng oi hơn. Cứ nghĩ đến chuyện trời sắp mưa, tôi lại cảm thấy sốt ruột. Mãi mà chẳng tìm được cô ấy thế này thì chắc lát nữa mặt tôi sẽ đẫm cả nước mưa lẫn nước mắt.
Dù tự phong mình là người có quyền lên tiếng nhất trong thế giới sau lưng cô ấy, tôi cũng không thể phát huy bản lĩnh đó để tìm được cô. Đều tại cái thằng oắt con đang bám dính sau lưng tôi. Rõ ràng nó đang xâm phạm đến quyền lợi cơ bản của một con người là tôi - quyền lợi được theo đuổi cô gái tóc đen nhỏ nhắn đáng yêu kia.
Trong lúc tôi đang cố gắng hết sức để tìm ra cô ấy, thằng bé cứ chõ mõm vào với giọng trịch thượng, ví dụ như, “Úi chà, tìm ý trung nhân đấy phỏng?” Một mặt tôi cảm thấy tức muốn lộn ruột với kiểu nói của nó, mặt khác lại có cảm giác mát lòng mát dạ khi nghe từ “ý trung nhân”.
“Nếu không phải ý trung nhân…” Nó vừa kéo áo tôi vừa hỏi, “Thì cho hỏi anh đang tìm sách gì thế?”
“Nhóc lắm mồm quá đấy. Anh đang tìm một cuốn sách siêu khó nhằn. Miệng còn hôi sữa như nhóc thì có nói nhóc cũng không biết đâu.” “Mấy cuốn khô khan như Nghiên cứu Lịch sử Tư tưởng Chính trị Nhật Bản, Zarathuytra đã nói như thế hay Luận cương Triết-Logic ấy à?” “Hay nhỉ, nói cái từ zara-thun-tra đó mà không bị trẹo lưỡi…” Tôi há hốc, “Mà sao nhóc cũng biết mấy cuốn đấy?”
“Vì tôi biết tất cả mọi thứ chứ sao.”
Cứ tưởng thằng oắt này chỉ được mỗi bề ngoài dễ thương, không ngờ đến cả kiến thức về sách vở của nó cũng ăn đứt tôi. Lòng tự tôn của tôi bị đập tan nát dưới bầu trời mùa hạ khi chẳng có cuốn sách nào tôi cầm lên mà nó không biết.
Trong trường đua ngựa trải dài từ Bắc đến Nam, mỗi tiệm sách đều có một không gian riêng biệt được bao quanh bởi các kệ sách nằm san sát trông hệt như một pháo đài bằng sách cũ. Có rất nhiều tiệm liền kề nhau, tiệm này nối tiếp tiệm kia như Akao-shobundo, hiệu sách Tenjo, hiệu sách Rinsen, hiệu sách Sanmitsudo, hiệu sách Kikuo, hiệu sách Ryoku-udo, nhà sách Hagi, thư viện Shiyo, nhà sách Yunan,… Trên trường đua, đâu đâu cũng thấy toàn kệ là kệ, hơn nữa, bởi không thể phân rõ kệ nào của tiệm nào nên sẽ có cảm giác là nơi này quá lộn xộn. Trong không gian do kệ sách tạo ra, ở chỗ mấy bộ bàn ghế nhỏ được đặt dưới bóng cây hoặc lều trại, chủ tiệm sách cùng nhân viên - có vẻ là học sinh làm thêm - đang ngồi liếm môi và chờ khách tới.
Nhìn đống bìa sách lên đến hàng chục nghìn cuốn kia, tôi lại vật lộn với nỗi ám ảnh quen thuộc: có một cuốn sách trời ban đang nằm lẫn trong số ấy, và nó có thể giúp cuộc đời tôi bước sang trang mới đầy huy hoàng. Bọn sách ấy cứ hét lên với tôi, “Chú mày không đọc anh hả? Thật đáng xấu hổ! Đồ vô dụng!”, “Đọc mấy cuốn sách chuẩn mực để tự trui rèn bản thân đi! Như anh đây chẳng hạn!”, “Đọc anh đi rồi chú mày muốn gì sẽ được nấy! Kiến thức, tài năng, can đảm, khí phách, phẩm cách, sức lôi cuốn, thể lực, sức khỏe, làn da trơn bóng! Muốn tiệc rượu linh đình cũng có luôn! Gì? Không cần rượu à? Thôi sao cũng được, chú cứ đọc anh đi đã rồi tính!”, vân vân.
“Cố quá kẻo quá cố đấy anh trai.” Thằng bé tựa người lên một kệ đựng sách bỏ túi và nói, “Không đọc mấy cuốn sách đó cũng có chết ai đâu. Đừng cố làm gì, cứ để mọi thứ thuận theo tự nhiên đi.”
“Ai cần nhóc an ủi!”
“Thiếu gì sách hay để đọc cơ chứ? Dễ mà đến già cũng chưa đọc hết đâu anh ạ.”
“Nhóc không có tư cách nói câu ấy đâu nhé.”
Thằng bé nhếch mép cười, “Là tôi nên mới nói thế được đấy.” ☆
“Anh từng thấy có người viết là muốn lần lượt xếp hết tất cả những cuốn sách mình đã đọc trước giờ lên kệ. Em đã bao giờ có loại cảm giác ấy chưa?” Anh Higuchi vừa đi vừa nói, “Anh ít đọc nên dù có xếp thì cũng chẳng được bao nhiêu…”
Tôi chợt nghĩ về những cuốn sách mình đã đọc. Gần đây thì là Chân dung Dorian Gray của Oscar Wilde viết, rồi Cuốn theo chiều gió của Margaret Mitchell, hay Mong manh hoa tuyết của Tanizaki Junichiro, Truyện về Namamiko của Enchi Fumiko, Ghi chép về những chuẩn mực đạo đức của phụ nữ trong tiểu thuyết Nhật Bản của Yamamoto Shugoro. Đương nhiên cũng không thể bỏ qua Hagio Moto, Oshima Yumiko, Kawahara Izumi[19]. Quay ngược về thời tiểu học, đủ mọi đầu sách thiếu nhi lần lượt hiện lên trong tâm trí tôi. Nào Matilda của Roald Dahl, Emil và các nhà thám tử với Lớp học bay của Erich Kästner, Biên niên sử Narnia của C. S. Lewis, Alice ở xứ sở diệu kỳ và thế giới trong gương của Lewis Carroll. Nếu quay ngược thêm nữa…
Và, tôi nhớ tới từ “Ra Ta Ta Tam”!
Đúng rồi, Ra Ta Ta Tam!
Tôi đã gặp cuốn sách tranh đẹp như viên ngọc ấy khi tôi còn bé như hạt đậu, chưa phân biệt được đúng sai, suốt ngày chỉ biết nghịch ngợm, còn lén dán những con tem một yên lên các ngăn kéo trong nhà. Tóm lại, lúc nhỏ, tôi là một đứa bé hư hỏng.
Ra Ta Ta Tam - Câu chuyện kì diệu của Đầu Máy Nhỏ kể về cuộc phiêu lưu kì lạ của chiếc đầu máy màu trắng nhỏ khi đuổi theo Mathias, người đã chế tạo ra nó, hiện đang đi du ngoạn. Ngày còn thơ bé, tôi vừa nhìn ngắm những bức tranh đẹp như mơ ấy vừa thầm mong một ngày nào đó mình sẽ được đến thăm những nơi có phong cảnh tuyệt vời tương tự vậy. Từ các hình vẽ diệu kì trên trang sách, trí tưởng tượng của tôi không ngừng mở rộng. Dù đã đọc đi đọc lại bao nhiêu lần, tôi vẫn không thấy chán.
Vừa kể cho anh Higuchi nghe, lòng tôi vừa quặn thắt khi nhớ về cuốn sách năm nào nay đã không còn nữa.
“Sao nó lại mất cơ chứ!” Tôi rền rĩ.
Dẫu yêu cuốn sách đó là thế, tôi vẫn bị mờ mắt trước những cuốn sách mới mình gặp trong đời mà quên bẵng đi cuốn sách đã bao năm gắn bó.
Lúc ấy, tôi thậm chí còn viết cả tên mình vào sách cơ mà! Đúng là đồ có mới nới cũ! Không biết xấu hổ!
Theo như anh Higuchi đề xuất, chúng tôi đi về phía quầy sách tranh ở phía Bắc trường đua.
“Nhân viên của tiệm sách X”, “Nhân viên của tiệm sách X, mời về lại quầy!” Tiếng gọi từ loa vọng xuống khuấy động không khí uể oải của hội sách cũ.
☆
Lúc nghe thấy tiếng loa phát thanh thì tôi đang lững thững dạo quanh những quầy sách cũ ở phía Tây trường đua ngựa. Bỗng nhiên, một ông lão béo mập lao tới và hất tôi văng sang một bên. Cáu tiết, tôi bèn đuổi theo và thấy ông ta chạy vào một tiệm sách cũ không có biển hiệu rất đáng ngờ. Bao quanh lều là những kệ sách khổng lồ khiến không gian bên trong có vẻ âm u, đáng sợ. Tiệm vắng như chùa Bà Đanh.
Tôi đang đứng ở lối vào chật hẹp, tò mò nhìn quanh thì chợt nghe thằng bé nói, “Tôi không thích chỗ này. Anh trai à, không vào thì tốt hơn đấy. Xem này, bên trong còn có mùi gì hôi hôi nữa.”
“Thế nhóc ra chỗ khác chơi đi. Anh sẽ vào một mình.”
“Quỷ tha ma bắt anh đi! Cái đồ xấu tính xấu nết!”
Quả nhiên, thằng bé có vẻ sẽ không theo tôi vào đó thật. Nó lừng khừng trước tiệm dưới ánh nắng chói chang một hồi rồi quay lưng đi với vẻ bực bội.
Tiệm này có hai lối dẫn sâu vào trong do kệ sách tạo thành. Men theo lối ấy sẽ thấy một quầy thu ngân. Ở đó, ông chủ tiệm đeo kính đen và một ông lão có mái tóc bạc rối bù đang cao giọng nói chuyện với nhau.
“Ông đợi thêm chút nữa đi.” Ông chủ tiệm chống cằm, lạnh lùng nói. “Anh cho tôi xem hiện vật trước không được à?” Ông lão tỏ vẻ gay gắt. Chủ tiệm lắc đầu. Ông lão trông như sắp đập chủ tiệm bằng cuốn sổ tay
màu đen mình đang cầm đến nơi. “Ông làm thế cũng vô ích mà.” Chủ tiệm bình tĩnh nói.
Tuy không biết họ đang nói về cái gì nhưng tôi cảm thấy đó là một chuyện rất nghiêm trọng. Bỗng, có lẽ đã phát hiện tôi đang nhìn lén, ông
lão nọ quay sang lườm tôi như bảo, “Nhìn gì mà nhìn!”
“Được rồi. Tôi đợi thêm một chút vậy.”
Nói xong, ông lão rời khỏi tiệm sách nhanh như gió bằng lối đi nằm bên phải quầy thu ngân. Vậy mà tôi cứ tưởng chỉ có hai lối đi phía trước thôi chứ.
Phần lớn những tiệm sách cũ khác chỉ xếp các kệ sách xung quanh lều, riêng tiệm này thì lại sắp kệ cứ như đang xây nhà ấy. Lối đi từ chỗ tính tiền dẫn tiếp vào tận trong cùng nằm giữa hai kệ sách cao, bên trên có bắc một tấm ván gỗ như để làm trần nhà. Ánh sáng từ bóng đèn dây tóc treo dưới tấm ván khiến lối đi đầy sách này giống hệt lối vào của một mê cung thần bí. Được một đoạn thì lối đi bẻ sang trái, không biết bên ấy có gì nhỉ? Có khi nào là thế giới của sách người lớn, thứ không thể bày ra trắng trợn trước mắt người khác không?
Tôi lau mồ hôi rịn trên trán.
“Cậu kia. Bên đó nóng lắm, không vào thì hơn đấy.” Ông chủ tiệm đeo kính đen có vẻ là lạ khi vẫn nhìn ra ngoài cửa lều, chẳng buồn quay sang ngó tôi và nói, “Chắc cậu không muốn chết vì say nắng đầu nhỉ.” Rồi, ông ta cười hềnh hệch.
☆
Khoảng 3 giờ chiều. Trời hơi âm u, không khí oi bức.
Ở quầy bán sách tranh, tuy tìm được rất nhiều cuốn sách ngày xưa từng đọc, nhưng tôi tuyệt nhiên không thấy bóng dáng của Ra Ta Ta Tam đâu. Chắc chẳng ai đem bán cuốn sách tranh đẹp như thế cho tiệm sách cũ cả. Vừa nghĩ thế, tôi lập tức cảm thấy tội lỗi vì đã đánh mất nó. Cái con ngốc này! Tôi thầm sỉ vả mình.
Hình như trông tôi và anh Higuchi căng mắt nhìn từng cái gáy sách một buồn cười lắm hay sao mà một cậu bé rất đáng yêu chạy lại bắt chuyện, “Chị ơi, chị tìm gì thế?”
Nhìn kĩ, tôi nhận ra đó chính là cậu nhóc lúc nãy lẵng nhẵng đi theo cái anh ở cùng câu lạc bộ với tôi kia. Ở cự ly gần, cậu bé trông càng dễ thương hơn, khiến tôi nhìn mà ngẩn ngơ. Không thấy bóng dáng anh khóa trên đâu nên chắc tôi đã nhầm khi cho rằng cậu bé là em trai của anh ấy.
“Chị đang tìm cuốn sách tranh nói về cái đầu máy xe lửa tên Ratatatam ấy.”
“Em biết cuốn đó.” Cậu nói, “Cuốn có Mathias bé nhỏ phải không ạ?” Tôi mừng rơn, hét toáng, “Là nó, nó đấy! Em thấy nó ở đâu không?” “Hồi xưa nhà em cũng có, mà nó bị kẻ xấu lấy đi mất rồi. Song, có lẽ ở đây lại có cũng nên. Để em tìm giúp chị nhé?”
“Vậy cảm ơn em nhiều lắm.”
Thế là hai chúng tôi cùng nhau tìm cuốn Ra Ta Ta Tam, có điều tìm mãi vẫn không ra. Thấy tôi ỉu xìu, anh Higuchi bèn bảo, “Vẫn còn một cách. Chúng ta có thể nhờ các tiệm sách cũ tìm giúp. Thử đến hỏi chủ tiệm sách Gabi xem sao.”
“Có được không ạ?”
“Chắc chắn là được. Em cứ chờ mà xem!” Anh ưỡn ngực nói, “Bác chủ tiệm sách Gabi cực thiên vị con gái tóc đen. Bác ta làm cái gì cũng dở, chỉ được cái rất có ích trong những lúc thế này.”
Tôi định cảm ơn cậu bé vừa tìm sách với tôi lúc nãy, song chẳng thấy nhóc ấy đâu nữa. Không hiểu sao tôi lại nghĩ cậu ta giống hệt một bóng ma.
☆
Không phải tôi làm theo lời thằng bé kia đâu, mà là tôi đã quyết định từ bỏ kế hoạch tìm kiếm cuốn sách mang đến vinh quang đang trốn đâu đó trong hội sách này nên bây giờ tôi chỉ đi dạo xung quanh và ngắm nhìn những cuốn sách vô cùng quen thuộc thôi.
Đang rảo bước giữa những kệ sách với tâm trạng thoải mái hơn hẳn thì thằng bé lại lù lù xuất hiện.
“Em vừa làm ra vẻ trẻ con để đi xem quầy bán sách tranh. Anh mà đi cùng có phải tốt không, lúc nãy ý trung nhân của anh cũng ở đó đấy.” “Gì???”
“Chị ấy đang tìm một cuốn sách tên là Ra Ta Ta Tam.”
“Hừ, đừng hòng lừa anh mày.” Tôi nói, “Làm gì có cuốn sách nào được đặt tên kì quái như vậy chứ?”
“Có thật mà.”
“Thôi coi như anh xin nhóc, nhóc đi chỗ khác chơi giùm anh. Sao cứ phải bám theo anh mãi thế?”
“Chỉ tình cờ là nơi hai chúng ta muốn đến giống nhau thôi. Đừng để ý.”
Thế là tôi mặc kệ thằng bé và bắt đầu đi “săn” sách.
Mới đầu, tôi tìm thấy Tuyển tập Sherlock Holmes kèm lời bình chi tiết của Baring-Gould, sau đó là Mathias Sandorf của Jules Verne. Tiếp theo, tôi ngắm nhìn Bá tước Monte Cristo của Alexandre Dumas, thầm reo lên khi thấy cả phiên bản Ông vua trong hang của Kuroiwa Ruiko xuất bản thời Taisho được bọc bìa bóng loáng, xong lại lật lật Nhật kí về chợ đen trong chiến tranh của Yamada Futaro, xem cuốn Trong kho có ma trơi của Yokomizo Seshi và nghĩ, “Công nhận bìa nhìn sợ thật.” rồi bất ngờ khi thấy Hậu duệ của loài lưỡng tính của Watanabe On do Nhà xuất bản Hoa Hồng Thập Tự xuất bản được đem ra thờ một cách kính cẩn. Ở góc “Ba cuốn 500 yên”, tôi tìm được một cuốn trong bộ Tanizaki Junichiro toàn tập phiên bản shinsho[20] và một cuốn trong Akutagawa Ryunosuke toàn tập phiên bản shinsho nên đã đứng lại đọc cọp. Lát sau, khi nhìn thấy bộ Uchida Hyakken toàn tập (Tái bản có bổ sung) ở hiệu sách Fukutake, tôi chợt dừng chân lại nhưng cuối cùng vẫn không mua. Tiếp đó, tôi đứng xem Bàn luận về các tác gia của Mishima Yukio. Cuối cùng, khi đang đọc Chuyện kể dân gian của Dazai Osamu thì tôi chợt nhớ đến chuyện mình đã từng mua mấy tờ giấy màu kỉ niệm có ghi ‘Chẳng lẽ yêu là sai?’ tại bảo tàng Shayo hồi đi du lịch Tohoku. Rồi, tôi nhớ tới mối tình đầu vô cùng mất mặt hồi cấp ba mà tôi không bao giờ muốn hồi tưởng lại lần nữa, cũng nhớ ra căn nguyên tại sao mình lại chịu bỏ bao nhiêu mồ hôi và công sức để lòng vòng trong hội sách cả chiều. Cứ nhớ, nhớ nữa, nhớ mãi thế này thì dẫu có kiên cường vì đã quen bị đả kích thế nào, cuối cùng rồi tôi cũng phải gục ngã thôi.
Tôi bèn quay lại dãy ghế ở giữa trường đua để đôi chân và con tim mình được nghỉ ngơi.
Thằng bé nọ ngồi xuống bên cạnh tôi và nghịch đống giấy vụn trên tay. Trên mỗi miếng giấy đều có ghi giá cả và tên tiệm sách nên chắc đây là nhãn giá cho sách cũ.
“Làm gì vậy nhóc? Mấy ông chủ tiệm sách đập cho bây giờ.”
“Anh đừng để ý. Về sau đống giấy này có ích lắm đó.”
Thằng bé phân loại xấp giấy trong tay tỉ mỉ hệt như đang chơi bài. Tôi thở dài thườn thượt, tranh thủ lúc nó đang mải nghịch giấy bèn đưa mắt tìm người con gái tôi yêu.
Chẳng thấy cô ấy đâu, đập vào mắt tôi chỉ có một đám người quái dị. Đầu tiên là bà chị xinh đẹp mặc wafuku ngồi trên dãy ghế bên cạnh. Trang phục nổi bật là một chuyện, nhưng điều bất thường ở đây là chị ta đang vừa che dù vừa say sưa đọc Oda Sakunosuke toàn tập. Chẳng biết chị ta có ý thức được là mình đang ở đâu hay không nữa.
Ngồi gần chị mặc wafuku đó là một ông lão gầy như cây sậy với mái tóc bạc trắng rối bù. Ông đang gí sát mũi vào một cuốn sổ màu đen, nhìn cuốn sổ lom lom như thể sẵn sàng nhét nó vào miệng và nhai rau rát bất cứ lúc nào. Hay đây là con quỷ ăn sách cũ nổi tiếng mà người ta vẫn thường nhắc tới nhỉ?
Bên cạnh dãy ghế đó, có một cậu sinh viên lùn tịt đang đứng. Cậu ta đeo kính gọng vuông màu xanh đen, khuôn mặt chữ điền, đến cả cái va li hợp kim có vẻ nặng dưới chân cũng hình vuông nốt. Cậu này chắc cuồng góc cạnh lắm đây. Một điều kì lạ nữa là cậu ta đang vô cùng chăm chú đọc bảng lịch tàu chạy.
Tôi thơ thẩn, mặc cho trí tưởng tượng của mình bay xa.
Hội sách cũ mùa hè chậm chạp trôi qua trong yên bình. Nhưng, dưới cái vẻ yên bình ấy, có một nhóm trộm sách cũ quy mô lớn đang chuẩn bị thực hiện kế hoạch của mình. Cô gái đang ngồi đọc Oda Sakunosuke toàn tập là kẻ cầm đầu, ông lão đang nhìn lom lom cuốn sổ đen ghi đầy những ám hiệu để kiểm tra lại kế hoạch lần cuối xem có thiếu sót gì không là tham mưu của bọn cướp, còn cậu sinh viên tôn thờ hình vuông đã chuẩn bị bảy loại vũ khí trong chiếc va li hợp kim là nhân viên kĩ thuật với các kĩ năng đặc biệt như làm giả sách cũ hoặc bẻ khóa (kiêm cuồng đường sắt). Bọn chúng hoạt động theo tôn chỉ mọi người vì một người, một người vì mọi người.
Và, mục đích của chúng chỉ có một…
☆
“… Đó là giải phóng sách cũ khỏi tay lũ sưu tập sách ác độc.” Anh Higuchi vừa nói thế xong, ông chủ tiệm sách Gabi đã phì cười, bảo, “Thế cơ à?”
Ông chủ tiệm sách này chắc cũng đã hơn 60 tuổi, tóc rụng gần hết phơi ra phần da đầu láng bóng, vắt trên vai là một chiếc khăn tắm màu trắng. Thỉnh thoảng ông lại dùng cái khăn đó để lau đầu, song lau mãi, lau mãi mà mồ hôi vẫn đổ ra như tắm trên cái đầu giống y chang ấm nước của ông. Thật là một cảnh tượng lạ lùng.
Đột nhiên, ông quay sang nhìn tôi. Đang thưởng lãm quả đầu bóng lưỡng của ông, tôi vội vàng đánh mắt sang chỗ khác.
“Cháu gái, đừng nghe thằng này nói bậy nhé.” Ông nói, “Ta chưa nghe thấy chuyện có thần Hội sách cũ tồn tại bao giờ cả.”
Tôi hỏi lại, “Thế không phải cứ đầu tháng là các nhà sưu tập sẽ cúng sách cũ và mở tiệc linh đình ạ?”
“Được vậy thật thì vui rồi.” Ông cười chua chát, “Này Higuchi, đùa cũng phải có giới hạn chứ. Chọc ghẹo người ta thế mà coi được à?” “Cháu không hề chọc ghẹo gì em ấy nhé. Cháu thề với trời đó là thật.” “Từ miệng chú mày ra thì cái gì cũng điêu.”
Chúng tôi vẫn đang trong khu vực bày quầy của tiệm sách Gabi nằm ở đầu cùng phía Bắc trường đua.
Cho đến tận lúc nãy, ông chủ tiệm cùng vợ vẫn đang bấm máy tính tiền giữa vòng vây của kệ sách. Vừa nhìn thấy tôi và anh Higuchi, hai người họ liền giao hết mọi việc còn lại cho cậu sinh viên làm thêm, chạy lại tiếp đón rồi dẫn chúng tôi ra lùm cây phía sau tiệm, nơi có một “căn phòng bí mật trong rừng” cực kì thích hợp để mở tiệc trà chiều với bộ bàn ghế nhỏ và làn khói của nhang đuổi muỗi lượn lờ trong không trung.
Khi tôi nhờ ông chủ tìm giúp tôi cuốn Ra Ta Ta Tam, ông đã vui vẻ nhận lời.
Sau đó, tôi, anh Higuchi và ông chủ tiệm vừa nhâm nhi trà vừa tán gẫu với nhau. Rồi, anh Higuchi kể về thần Hội sách cũ và dẫn đến đoạn đối thoại kia.
Ông chủ tủm tỉm cười, rót trà từ bình giữ nhiệt ra rồi uống ừng ực.
“Giải phóng sách cũ khỏi tay lũ sưu tập sách ác độc à, chậc, vậy thì dân sưu tập sẽ phải đau đầu lắm đây. Được cái là lúc đó họ sẽ phải đi mua lại những cuốn đã mất nên chủ tiệm sách cũ như ta sẽ được lợi… Với lại, nếu vị thần ấy tham gia vào buổi bán đấu giá hôm nay thì đúng một chuyện đáng kỉ niệm.”
“Phải mà được làm ông thần ấy, thể nào cháu cũng sẽ trừng phạt ông già Rihaku cho xem.”
“Đừng có nói bậy bạ.” Ông trừng mắt với anh Higuchi.
Theo lời ông chủ tiệm sách Gabi thì hôm nay có một buổi đấu giá cá nhân được tổ chức ở đâu đó trong Hội sách cũ. Người chủ trì buổi đấu giá là ông Rihaku. Tôi đã từng đấu rượu với ông ấy một lần. Nhìn bề ngoài thì ông Rihaku là một ông cụ rất hiền lành, nhưng tôi nghe nói ông ấy là một đại gia giàu nứt đố đổ vách, chuyên cho vay nặng lãi và vô cùng máu lạnh.
Các món hàng được đem ra bán đấu giá, đối với ông Rihaku, chỉ là những món đồ thế chấp mà ông thu về từ những con nợ, còn đối với người khác, đấy là cả một bộ sưu tập có giá trị. Buổi đấu giá ấy không dùng tiền để giao dịch, mà nên nói là phải lấy cả tính mạng ra trao đổi trong một trận huyết chiến thì đúng hơn. Nếu không phải kiểu người đặc biệt ngoan cố thì đừng hòng lấy được cuốn sách mình mong muốn. Đổi lại, ông Rihaku sẽ đứng ra đảm bảo về chất lượng nên nghe đâu chỉ toàn hàng tuyển.
Ông chủ hạ giọng thì thầm.
“Nói thật, ta không rành về sách cổ cho lắm, nhưng nghe đồn hàng hôm nay có mấy món rất xịn thuộc mảng ấy. Còn bên sách cận đại, có cuốn nhật kí của Kishida Ryusei mà ông ấy đã làm mất hồi còn sống ở Okazaki. Nếu không phải chính miệng ông Rihaku nói thì còn lâu ta mới tin.”
“Chỉ cần giúp bác lấy cuốn nhật kí đó là được đúng không ạ?” “Nhờ chú mày cả đấy. Là chú mày thì họa may mới có đường thắng.” Các chủ tiệm sách cũ không được phép tham gia vào buổi đấu giá bí
mật ấy. Bởi vậy, anh Higuchi đã nhận “mật lệnh” của ông chủ tiệm Gabi là tham gia vào buổi đấu giá thay cho ông. Thì ra “vố hời” mà anh Higuchi nói là đây.
“Họ sẽ làm những gì ở buổi đấu giá bí mật ấy ạ?”
Ông nở một nụ cười méo xệch. Trời âm u như đã sắp chiều tà. Khuôn mặt tươi cười của ông chủ tiệm dưới bóng râm toát lên một vẻ gì đấy rất đáng sợ.
“Không ai biết trước sẽ có gì diễn ra trong buổi đấu giá cả. Chỉ những kẻ vượt qua thử thách của ông Rihaku mới có quyền nhận được một cuốn sách. Thử thách không dễ xơi chút nào đâu. Những người tham gia, trước các thử thách nằm ngoài tưởng tượng đó, sẽ phải rũ bỏ tất cả, kể cả lòng tự trọng để nằm rạp xuống đất quỳ lạy. Ông Rihaku sẽ xem cảnh tượng ấy như mồi nhắm rượu…”
Đúng lúc ấy, lá cây trên đầu tôi phát ra tiếng xào xạc dữ dội. Ngay sau đó, mưa đột ngột rơi như trút khiến cả trường đua bị bọc trong màn khói trắng.
“Á, mưa rồi!”
Ông chủ tiệm vụt dậy khỏi ghế, chạy đi bảo vệ hàng hoá trong quầy. May thay, chúng tôi đang ngồi dưới một tán cây long não rất lớn nên không bị ướt mưa. Thế là tôi với anh Higuchi tiếp tục thong thả ngồi uống trà.
Anh Higuchi châm một điếu thuốc.
Cảm giác nóng bức ngập tràn cả không gian đã giảm đi đáng kể, thay vào đó là mùi ẩm ướt ngòn ngọt của mưa khiến tôi có chút bồi hồi. Tôi chợt nhớ về thời thơ bé, cứ vào những ngày mưa như thế này là tôi lại nằm ườn ra đọc sách tranh ở hiên nhà.
☆
Tôi vừa ngửi mùi ngòn ngọt của mưa vừa đứng trú dưới mái lều một tiệm sách. Đứng cạnh tôi vẫn là thằng bé kia. Cơn mưa ập đến bất ngờ khiến mọi người nháo nhào hết cả lên, nhưng giờ thì tất cả xáo động như đã lắng lại. Mây đen trên bầu trời phía Tây trường đua đã tan bớt nên có lẽ mưa sẽ sớm tạnh thôi.
Nhìn bao quát ra xung quanh, tôi trông thấy rất nhiều người vẫn đi tìm và chọn sách, bất chấp gió mưa. Đáng ngạc nhiên hơn cả là tốp ba người lúc nãy tôi nhìn thấy và tự tiện gán cho họ cái mác thành viên của băng cướp sách cũ, vẫn ở nguyên tại chỗ với chiếc dù trong tay. Trong khi
những người ngồi ở giữa trường đua nghỉ ngơi khác đã chạy đi trú mưa khiến khu vực đó trở nên vắng tanh vắng ngắt.
“Anh này.” Thằng bé nọ đột nhiên thì thầm với tôi, cánh tay thanh mảnh đưa lên cao và làm động tác như thể đang chơi yoyo vô hình, “Hồi xưa cha em có nói, nếu nâng một cuốn sách lên như thế này, cả hội chợ sách cũ sẽ bay lên theo, hệt như một tòa thành khổng lồ trôi nổi giữa không trung. Bởi vì, tất cả các cuốn sách đều nối với nhau đấy anh ạ.”
“Là sao?”
“Mấy cuốn sách ban nãy anh thấy cũng vậy. Hay để em nối chúng lại cho anh xem nhé?”
“Làm đi xem nào.”
“Đầu tiên là Tuyển tập Sherlock Holmes. Tác giả của nó là Conan Doyle đã viết cuốn Miền đất thất lạc thuộc thể loại khoa học viễn tưởng do chịu ảnh hưởng của nhà văn Pháp Jules Verne. Jules Verne viết Mathias Sandorf do kính trọng Alexandre Dumas, tác giả của Bá tước Monte Cristo. Người phỏng dịch tác phẩm ấy ra tiếng Nhật là Kuroiwa Ruiko, chủ biên của tờ Yorozuchoho. Kuroiwa đã xuất hiện với tư cách là một nhân vật trong tiểu thuyết Tháp Babel Meiji của Yamada Futaro. Trong Nhật kí về chợ đen trong chiến tranh, Yamada Futaro đã dùng từ “ngu tác”[21], từ này được Yokomizo Seshi sử dụng trong cuốn tiểu thuyết mà ông đã vò nát và vứt đi - chính là cuốn có tên Trong kho có ma trơi. Ông này vào thời trẻ là tổng biên tập tạp chí Tân thanh niên, người chung lưng đấu cật với ông năm đó trong vai trò biên tập chính là Watanabe On, tác giả của Hậu duệ của loài lưỡng tính. Trong một lần đi công tác ở Kobe, chiếc xe khách chở Watanabe đã lao thẳng vào đầu tàu điện khiến ông mất mạng. Tanizaki Junichiro, người được Watanabe tin tưởng giao cho bản thảo, đã viết một bài văn tế mang tên Xuân lạnh để truy điệu Watanabe. Akutagawa Ryunosuke thì phê bình Tanizaki Junichiro trên tạp chí, khơi mào cho một cuộc tranh luận văn học. Sau đó vài tháng, Akutagawa đã tự kết liễu đời mình. Uchida Hyakken dựa trên những chuyện trước và sau sự kiện tự sát này mà viết nên Mũ quả dưa, rồi người tấm tắc khen nó chính là Mishima Yukio. Năm Mishima 22 tuổi, ông đã bị Dazai Osamu nói thẳng vào mặt là ông ta rất ghét ông. Một năm trước khi Dazai tự sát, ông ta đã viết một bài điếu văn cho Oda Sakunosuke, khi ấy đã mất vì bệnh lao, trong đó có ghi,
‘Anh làm tốt lắm!’ Kìa, bên kia có người đang đọc một cuốn trong Oda Sakunosuke toàn tập đấy!”
Thằng bé chỉ về phía chị gái mặc wafuku đang che dù và ngồi trên băng ghế giữa sân. Đúng là chị ta đang đọc một cuốn trong Oda Sakunosuke toàn tập.
“Nhóc là yêu quái đúng không?” Tôi trợn mắt há mồm, hỏi. “Cái gì em cũng biết hết đấy.” Nó bảo, “Lúc nào có hội sách cha em cũng dẫn em đến. Cha dạy em rằng các cuốn sách luôn có mối liên kết với nhau. Khi đứng đây, em có thể cảm nhận được mối quan hệ tự do và bình đẳng giữa chúng. Đại dương được tạo bởi mối liên kết giữa những cuốn sách đó, bản thân nó cũng là một cuốn sách khổng lồ. Vì vậy mà cha em muốn trả sách của mình lại cho đại dương sau khi ông mất.” “Ông ấy mất rồi à?”
“Vâng. Thế nên hôm nay em mới đến đây. Em có sứ mệnh trả sách của cha em cho đại dương này.” Rồi, thằng bé chỉ tay lên bầu trời, lúc này đã gần tạnh mưa, “Em sẽ giải phóng sách cũ khỏi tay lũ sưu tập sách bất lương. Em là thần Hội sách cũ đây.”
Thấy trời đã ngớt mưa, tôi bắt đầu rảo bước dạo quanh hội sách cũ. Tưởng tượng cảnh cô ấy đang trú mưa ở đâu đó, tôi lập tức cảm thấy tim mình đập thình thịch trước vẻ quyến rũ của cô.
“Cứ một mình đắm chìm trong hoang tưởng như thế thì không tốt cho đầu óc với cơ thể đâu.” Thằng bé lại vừa nghịch mớ giấy niêm yết vừa lầm bầm.
“A! Sao nhóc lại nghịch ngợm nữa rồi!”
“Kệ em.”
“Kệ cái gì mà kệ! Lì quá!”
Chúng tôi đang cãi nhau chí chóe thì một ông chủ tiệm sách cũ để ria mép bỗng la lên.
“Ối trời ơi, cháu đang làm trò gì đó!”
Ông nhìn đống giấy thằng bé nắm trong tay mà mặt mày hầm hầm. Tôi giả vờ như không biết gì cả. Thằng bé thì im re, chẳng nói năng gì. “Đưa cho bác thứ cháu đang cầm mau.”
Lúc ông ta tiến lại gần thì nó bỗng khóc ré lên, “Cái anh này bảo nếu cháu không làm thế thì anh ấy sẽ bắt cháu làm chuyện kia. Mà cháu sợ chuyện kia lắm.”
Thằng bé từ nãy tới giờ vẫn lôi cái giọng điệu người lớn ra chọc ghẹo tôi, nay lại đột nhiên giở trò khóc lóc, thút thít bằng giọng nói mang vẻ ngây thơ đến khó tin. Tôi vừa chửi thầm “Thằng ranh con!” trong bụng thì ông chủ tiệm đã chĩa mũi dùi sang tôi.
“Thế là sao? Cậu đã làm gì với cậu bé này?”
“Dạ? Cháu có làm gì đâu.”
“Vậy sao nó lại nói cậu bắt nó làm?” Ông chủ tiệm chụp lấy tay tôi, “Cậu mà không nói rõ ràng là tôi gọi cảnh sát đấy nhé.”
“Nhưng cháu có biết gì đâu! Đừng có đùa chứ!”
“Tôi không có đùa với cậu.”
Cứ thế, chúng tôi cãi nhau om sòm.
Một người vô cùng thành thật, thành thật đến mức nó cứ như một nồi nước dùng đang tràn cả ra ngoài, dẫu muốn cũng không cách nào che giấu được như tôi mà lại bị ông chủ tiệm này đối xử như một hóa thân của thế lực hắc ám đang đứng sau lưng giật dây một cậu bé đáng thương. Chắc ông ta tưởng cứ trẻ con là trong sáng, mà trẻ con xinh xắn thì còn trong sáng gấp bội hay sao ấy nhỉ. Tất cả mọi người hình như đều phớt lờ cái chân lý: Những đứa sinh viên đang trong tuổi thanh xuân đầy lem luốc mới thật sự là các sinh vật trong sáng nhất thế giới.
Lúc sau, một người đàn ông nhỏ thó, mập mạp tầm ba mươi tuổi bước ra từ trong đám đông đang tụ tập xem chúng tôi tranh cãi. “Đây là người quen của tôi…” Anh ta nói.
“A, chủ nhà hàng Chitose đấy à. Chào cậu!” Ông chủ tiệm gật đầu chào.
“Cậu này không phải loại người bắt ép trẻ con đâu. Là cậu bé kia nói bậy thôi. Khi nãy tôi cũng nhìn thấy nó gây ra chuyện tương tự ở một chỗ khác.”
Chúng tôi quay sang tìm thằng bé nhưng nó đã lợi dụng lúc rối ren mà biến mất dạng.
Người vừa cứu tôi ra khỏi tình thế ngàn cân treo sợi tóc chính là anh chủ nhà hàng Chitose chuyên bán món Kyoto ở Ponto-cho. Vào cái lần mà tôi lang thang từ Kiyamachi đến Ponto-cho, không biết số trời đưa đẩy thế nào mà tôi có dịp đặt chân vào nhà hàng Chitose để anh nhớ mặt.
“Không phải anh bắt cậu trả ơn trả nghĩa gì đâu, nhưng anh có chuyện này muốn nhờ.” Anh chủ nhà hàng Chitose cầm lấy tay tôi và nói, “Một vụ làm ăn lớn đấy. Hai ta gặp nhau ở đây coi như cũng là có duyên.”
Anh chủ nhà hàng Chitose vừa đi vừa giải thích cho tôi.
Chẳng là hôm nay ông Rihaku có tổ chức một buổi đấu giá sách ở đâu đó trong hội sách này và cuốn sách khiêu dâm đề tài kì ảo của Katsushika Hokusai sẽ được mang ra để bán đấu giá. Với tư cách là người đại diện của Đội Điều tra Khuê phòng - một tập thể luôn cố gắng hết mình để gìn giữ những di sản văn hóa liên quan tới chuyện chăn gối, anh muốn có nó cho bằng được. Song, nghe đồn rằng người tham gia đấu giá phải trải qua những thử thách vô cùng khốc liệt. Bởi vì không ai biết nội dung thử thách sẽ là gì, đi một mình thì quả thật không yên tâm nên…
“Nên anh muốn cậu cũng tham gia để phân tán rủi ro.”
“Nhưng mà em mắc chút việc riêng rồi anh ơi.”
“Dù sao ban nãy anh cũng giúp cậu thoát khỏi tình thế tiến thoái lưỡng nan kia rồi, cậu tỏ lòng biết ơn của mình một chút cho anh xem không được à?” Anh chủ nhà hàng nói, “Với lại, anh có bắt cậu giết người cướp của gì đâu. Hơn nữa, lấy được tác phẩm của Hokusai rồi, anh sẽ hậu tạ cậu đàng hoàng. 100.000 yên, thế nào?”
“Đi nào anh!” Tôi lập tức nhận lời.
Anh chủ nhà hàng dẫn tôi đi trong hội sách cũ. Vừa đi, tôi vừa tìm kiếm bóng hình cô.
Nhìn tình hình thế này thì chắc hôm nay tôi chỉ còn cách từ bỏ kế hoạch lãng mạn của mình thôi. Tuy nhiên, bỗng dưng có 100.000 yên từ trên trời rơi xuống thì dại gì mà không lấy. Có số tiền này làm vốn thì tôi sẽ có thể thoải mái đi nước cờ tiếp theo mà không cần phải lo ngay ngáy về chuyện tiền nong.
Hai chúng tôi đi đến chỗ nghỉ chân giữa trường đua. Nhóm nổi bật giữa đám đông - gồm chị gái mặc wafuku đọc Oda Sakunosuke toàn tập, ông lão gầy guộc tóc bạc trắng, cậu sinh viên cuồng hình vuông với chiếc va li bằng hợp kim - vẫn đang ngồi đó. Chị gái vẫn đang cắm cúi đọc sách, nhưng ông lão và cậu sinh viên thì lại trừng mắt nhìn chúng tôi.
Tôi với anh chủ nhà hàng đứng đợi trong bầu không khí quái dị được vài phút thì một ông chủ tiệm sách cũ đeo kính gọng đen kì cục xuất hiện, cười nhăn nhở, “Mọi người đi chung với nhau à?”
“Nàyyy!” Bỗng, một giọng ngân nga kéo dài vang lên. Một người đàn ông không rõ bao nhiêu tuổi mặc yukata lấm lem đất cát chạy lại. Người đó chính là Higuchi, quái nhân trong bộ yukata tự xưng là Tengu mà tôi có dịp gặp gỡ ở Kiyamachi trong đêm nọ.
Tôi bắt đầu thấy hoa mắt, chóng mặt.
Chẳng lẽ lát nữa sẽ có một bữa tiệc cho yêu quái hả trời?
☆
Nối đuôi nhau đi theo ông chủ tiệm mang kính đen, binh đoàn yêu quái (trừ tôi ra) lũ lượt băng ngang qua hội chợ sách cũ.
Mưa đã tạnh. Nắng hạ màu vàng cam lóng lánh đột ngột phủ xuống nhân gian. Trong sáng chiều rạng rỡ, đám người đông đúc lố nhố bao quanh tôi trở nên càng chân thật và rõ nét.
Cơ mà, cảnh tượng hỗn loạn như cái chuồng heo trước mắt này là sao đây!
Xếp đầy trên các kệ sách là hằng hà sa số sách bỏ túi và truyện tranh; những cuốn lẻ thuộc nhiều bộ tuyển tập khác nhau chất cẩu thả ở một góc khác; rồi nào là chồng sách quý được trang trí lòe loẹt; nào là sách văn học, tuyển tập thơ ca, các loại từ điển, sách khoa học, sách phục chế, sách truyện, sách giới thiệu các cuộc triển lãm về tuyển tập tranh khổ lớn, hàng chồng tạp chí cũ, đống băng video phim hạng B; có cả những cuốn sách tiếng Hán và sách cổ mà tôi không thể đọc được nhan đề, vô số sách nước ngoài đã vượt muôn trùng khơi để đến Kyoto, thậm chí còn có hai cuốn Bách khoa toàn thư đảo Anh và Đại từ điển Bách khoa thế giới nhìn có vẻ quá khô khan nên chẳng ai buồn ngó đến, những bức tranh màu bằng đồng bị vứt trong hộp có dán giá 1.000 yên một bức, tranh Ukiyo-e màu sắc rực ẳ
rỡ đang đung đưa do mắc vào khung lều, bản đồ cổ mà tôi nhìn vào chẳng biết ấy là xứ nào, những cuốn sách tranh bị bọn trẻ con vứt đi, bưu thiếp ảnh Kyoto sản xuất vào đầu thời Showa, vài tập sách quảng cáo trông rất đáng ngờ, bảng lịch tàu chạy, sách tự phát hành đến cả những cuốn sách không rõ nguồn gốc… Tất cả những kí ức được in lên giấy nay đều đã trở thành sách cũ.
Chúng tôi kéo nhau vào tiệm sách cũ kì dị không chút sinh khí đó. Không gian bên trong mờ mờ tối, xung quanh im lặng như tờ. Đi sâu vào trong, đến chỗ quầy thu ngân, vừa định rẽ sang một lối nhỏ trông có vẻ bí hiểm thì chị gái mặc wafuku đột ngột khựng lại.
“Xin lỗi mọi người. Bỗng dưng tôi chẳng còn chút tự tin nào cả.” “Ồ, vậy hả?”
Ông chủ tiệm sách đeo kính đen nói, “Mà, phụ nữ như cô đúng là nên rút lui đi thì hơn.”
“Thật ngại khi phải làm phiền mọi người, nhưng nhờ mọi người giao thứ này cho ông Rihaku giúp tôi.”
Nói rồi, chị ấy lấy ra một cuốn sách có gáy buộc chỉ kiểu truyền thống đã cũ, tựa đề là báu vật gì gì đó. Người đàn ông đeo kính đen gật đầu cái rụp và nhận lấy.
Bỏ lại chị gái đọc Oda Sakunosuke toàn tập đằng sau, chúng tôi bước tiếp trong im lặng. Từ lối nhỏ được bóng đèn dây tóc soi sáng nằm giữa hai hàng kệ sách rẽ sang bên trái, chúng tôi vào tới một lối đi ngoằn ngoèo vừa hẹp vừa dài. Không còn nghe thấy tiếng ồn ào phát ra từ hội chợ sách cũ nữa. Mùi sách cũ xộc lên nồng nặc. Càng đi, sách xếp trên hai hàng kệ hai bên lại càng cũ, thậm chí có cuốn chỉ còn lại một xấp giấy đã ố vàng. Dọc đường, có thể nhìn thấy cả ánh nắng xuyên qua kẽ lá, lọt vào trong tiệm qua lớp thủy tinh bám đầy bụi của những cái giếng trời nhỏ cỡ bánh gạo nằm rải rác trên trần. Không biết từ lúc nào mà sàn bằng đất đá dưới chân chúng tôi đã chuyển sang sàn lát đá kiểu châu Âu.
Chẳng bao lâu sau, chúng tôi đã đi đến cuối đường. Một chiếc cầu thang dẫn lên trên, cao khoảng hai tầng lầu hiện ra ngay trước mặt. Leo hết cầu thang sẽ nhìn thấy một cách cửa bằng sắt rất to và dày. Ánh sáng lẻ loi phát ra từ ngọn đèn nằm bên hông cửa khiến người ta liên tưởng tới một
góc trong con hẻm u buồn. Cạnh cửa gắn một tấm biển gỗ, trên đó có chữ “Rihaku” được viết bằng phông Yose.
Ông chủ tiệm sách mang kính đen bấm cái chuông nằm ngay mép cửa. Cửa vừa mở thì từ bên trong phả ra một luồng gió, một vật nhìn như cờ đuôi nheo nhỏ bảy màu bay vụt qua chỗ chúng tôi rồi mất hút trong hành lang của tiệm sách cũ. Tôi run rẩy vì có dự cảm không lành. Cơn gió thổi đến từ bên kia cửa chẳng khác gì hơi nóng bốc lên từ vạc dầu sôi dưới địa ngục.
Sau khi bước vào căn phòng dùng để tổ chức buổi đấu giá, ai nấy cũng đều phát ra tiếng rền rĩ như thể vừa bị một con dao cùn đập vào đầu. Đây là một căn phòng dài và hẹp, rộng tầm một toa xe điện. Sàn nhà trải thảm màu đỏ thẫm, trên bức tường nằm đối diện cửa là một chiếc đồng hồ có quả lắc đang đung đưa. Những câu thần chú không rõ nghĩa lặp đi lặp lại truyền ra từ cái máy hát đặt ngay bên cạnh làm bầu không khí trong phòng càng thêm rùng rợn.
Đặt dọc theo các bức tường là các chậu than đủ màu đủ sắc, những cây nến to như cái chày và những chiếc đèn lồng giấy đang tỏa ra ánh sáng ấm áp. Trên vách có treo mấy cái mặt nạ quỷ đỏ trông dữ tợn với một bức tranh khổng lồ vẽ cảnh địa ngục. Hình ảnh người người bị lửa gí theo trong tranh dọa chúng tôi sợ chết khiếp. Những món đồ cổ này e rằng chính là những thứ đang làm cho nhiệt độ trong phòng tăng cao, dù là xét trên phương diện vật lý hay văn hóa. Thay vì bộ đèn chùm lộng lẫy, đồ cổ ở đây lại được soi sáng bằng bàn sưởi treo lủng lẳng trên trần.
Trên chiếc bàn sưởi nằm ở giữa phòng, có một nồi xúp kì quái - nước bên trong bị phân thành hai nửa trắng đỏ - đang sôi lục bục. Quanh bàn xếp đầy những tấm đệm ngồi màu đỏ rất dày, trên đệm để sẵn áo bông giữ ấm và bình nước nóng dành riêng cho từng người.
Ông Rihaku đang mặc yukata, từ tốn ngồi xuống chiếc ghế bành ngay trước cái đồng hồ quả lắc.
Rồi, ông mỉm cười, kéo vạt áo lên để lộ đôi chân đầy lông bạc phơ của mình, sau đó nhúng nó vào cái chậu xâm xấp nước đặt ở bên dưới tạo ra âm thanh bì bõm.
“Chào mừng mọi người đến với buổi đấu giá!” Vừa phe phẩy quạt, ông Rihaku vừa nói.
Ông chủ tiệm sách đeo kính đen đưa cuốn sách lúc này đã nhận từ tay chị gái đọc Oda Sakunosuke toàn tập cho ông Rihaku và bước đến thì thầm gì đó vào tai đối phương. Đón lấy cuốn sách, đặt nó lên một cái kệ nhỏ sơn màu đen bên cạnh, chung với nhiều cuốn sách lớn nhỏ khác nhau xong, ông Rihaku gõ cốc cốc lên kệ.
“Tôi đã lấy được cái này từ một cậu làm bên ngành chế biến rượu vào mấy hôm trước. Đa số toàn sách tạp nham thôi nhưng cũng có mấy cuốn hay ho lắm. Nào, các vị ngồi vào bàn sưởi cho ấm. Người trụ được đến cuối cùng sẽ có quyền đem một cuốn sách về. Đặc biệt là, một bộ sách gồm nhiều cuốn vẫn sẽ được tính như một cuốn.”
Khuôn mặt của ông Rihaku dưới ánh nến trông có vẻ cực kì khủng khiếp. Trong khoảnh khắc ấy, tôi đã nhìn thấy ông Rihaku liếm môi. “Vậy, các vị quyết định được mục tiêu của mình chưa nào?”
☆
Có tổng cộng năm người tham gia vào trận đấu tàn khốc phải đánh cược bằng cả tính mạng ấy.
Một là Higuchi, người đàn ông mặc yukata bí ẩn, nhắm đến cuốn nhật kí của Sashida Ryusei. Hai là cậu sinh viên ôm va li hợp kim của Hội Nghiên cứu Đường sắt Kefuku, nhắm đến cuốn tập tổng hợp bảng giờ tàu chạy trong một năm của thời Meiji mang tên Hướng dẫn đi du lịch bằng tàu, thuyền chạy bằng hơi nước của nhà xuất bản Koinshinshisha. Ba là ông lão gầy muốn lấy Tuyển tập ca khúc truyền thống xưa và nay do một ca sĩ tên Fujiwara gì đó từ thời Heian chép lại bằng tay. Bốn là anh chủ nhà hàng Chitose, đại diện của Đội Điều tra Khuê phòng. Mục tiêu của anh ấy là cuốn sách khiêu dâm mà Katsushika Hokusai vẽ và viết thoại. Cuối cùng là tôi, tham chiến với tư cách trợ thủ của anh chủ nhà hàng.
Chúng tôi mặc áo bông vào và quây quần bên bàn sưởi.
Chính giữa cái nồi cũ đang kêu lục bục trước mắt chúng tôi, một đường cong hình chữ S chia nước xúp thành hai phần đỏ và trắng. Mùi từ đó bốc ra rất nồng, xộc thẳng lên tận não. Nhìn số nấm và rau củ mà mình không
biết tên đang chìm trong nước, tôi cảm thấy cái nồi này giống hệt vạc dầu sôi ở dưới địa ngục.
“Đây gọi là lẩu cay.” Ông Rihaku ngồi trên ghế bành, vừa cười vừa nói, “Mọi người hãy dùng chung với dầu mè và ăn mạnh vào nhé. Ngon lắm đấy.”
Anh Higuchi nhấc cái ấm to cỡ quả dưa hấu, rót trà đại mạch nóng hôi hổi vào cốc của từng người. Năm chúng tôi đồng loạt uống một ngụm lớn. Theo mệnh lệnh của ông Rihaku, tất cả gắp thứ thịt bí ẩn từ trong nước lẩu màu đỏ ra rồi cho vào miệng. Vừa cắn xuống thì tôi có cảm tưởng như cả thế giới lập tức chuyển thành màu tím và rung lắc dữ dội. “Ối trời ơi!” Ai nấy đều kêu la ỏm tỏi, “Gì thế này!”
Mùi vị đang lan dần nơi đầu lưỡi, mà không, nên nói đây là cảm giác như vừa bị ai đó dùng gậy chỉ mới được gia công thô đánh thì đúng hơn là mùi vị, cay đến mức tưởng chừng như nó đã quy tụ tất cả vị cay tồn tại trong bán kính hai kilomet quanh đền thờ Shimogamo để thảy vào nồi rồi đun lên. Đã sống dở chết dở thế rồi mà chúng tôi lại còn uống trà đại mạch nóng rẫy, chẳng khác gì đổ đầu vào lửa nên sau khi uống xong, ai ai cũng đã gần như hấp hối. Thưởng lãm cả bọn lăn lộn như đỉa phải vôi, ông Rihaku rúc rích cười.
Chúng tôi phân chia thứ tự rồi luân phiên múc nước lẩu. Cứ tưởng nước màu trắng sẽ ít cay hơn màu đỏ, nào ngờ hai bên cũng tám lạng nửa cân. Đã cay đến quá sức chịu đựng thế này rồi thì người bình thường như chúng tôi làm gì còn phân biệt được sự chênh lệch chút xíu giữa hai độ cay ấy nữa. Cho nên, ngoại trừ ý nghĩa về mặt văn hóa là “có hỉ sự” ra thì chuyện chia nước thành hai bên đỏ trắng như vậy chẳng có nghĩa lý gì với tôi hết.
Chẳng mấy chốc, những giọt mồ hôi to bằng hạt đậu đã ứa ra trên trán tôi.
Tôi thầm nhủ, “Cứ kiểu này chắc chết sớm quá. Phải đầu hàng ngay thôi.”
Cơ bản là tôi vốn không hề có ý định giúp đỡ anh chủ nhà hàng Chitose hết mình. Ngay từ lúc mặc áo bông và ngồi vào bàn sưởi, không cần phải nói, sợi dây đại diện cho sức chịu đựng thấp đến đáng thương của tôi đã
đứt làm đôi rồi. Nếu anh Higuchi không nhắc tới cuốn sách tranh kia thì tôi chắc đã phất cờ trắng đầu hàng từ lâu.
Ông Rihaku lần lượt cho lũ đang thở phì phò quanh nồi chúng tôi xem những cuốn sách xếp trên kệ. Thấy cuốn sách mình mơ ước xuất hiện trước mắt, hơi thở của những người khác lập tức trở nên dồn dập hơn. Đến tác phẩm của Hokusai, anh chủ nhà hàng Chitose bèn quay sang nháy mắt với tôi liên tục. Tôi vừa dồn hết tinh lực vào việc chịu đựng vị cay của nồi lẩu vừa nghĩ, Hokusai gì gì đấy, quăng béng vào nồi đun luôn cho rồi.
Trong đống sách cũ tạp nham đó có cả một cuốn sách tranh. Ngay khi ông Rihaku vừa giơ cuốn sách nọ lên, anh Higuchi đã reo, “Ơ kìa! Đấy là cuốn sách mà cô bé kia đang tìm phải không nhỉ?” Nói đoạn, anh ấy đỡ lấy cuốn sách từ tay ông Rihaku và lật soàn soạt. “Này, Higuchi. Cẩn thận kẻo mồ hôi vào sách đấy nhé.” Ông nhắc. “Ủa? Ở đây có ghi tên này!”
Nhìn vào sách, tôi thấy trên đó là cái tên của cô gái nhỏ tóc đen mình đang theo đuổi, được viết bằng nét chữ ngây ngô.
Các bạn hãy đoán xem khi ấy tôi đã kinh ngạc đến mức nào. Tôi chộp lấy cuốn sách, nhìn nó như thể đang muốn ăn tươi nuốt sống. Vào khoảnh khắc nghe anh Higuchi bảo cô ấy đã lòng vòng trong hội sách cũ để tìm cuốn sách tranh này, tôi bỗng cảm giác được rằng, “Đây chính là cơ hội ngàn năm có một!” Ngay lúc này, chính tại đây, được ban cho hi vọng chuyển bại thành thắng, cuối cùng thì cỗ máy tình yêu trong tôi cũng khởi động trở lại.
Giờ đây, tôi bỗng cảm thấy cái kế hoạch với tay ra lấy cùng cuốn sách với cô ấy mới lố bịch làm sao. Mấy dự án cưa gái lòng vòng theo kiểu hiệu ứng bươm bướm đấy thì có lẽ nên nhường cho đám trẻ con cấp hai đang chim chuột nhau quanh đây. Thân là một đấng nam nhi, tôi phải quyết thắng thua bằng cú ném bóng thẳng mới đúng!
Hình ảnh cô ấy, với khuôn mặt vẫn còn nét trẻ con đang ngây thơ đặt bút viết tên mình vào cuốn sách tranh trong những ngày còn bé, hiện ra trước mắt tôi. Cuốn sách tranh thân thuộc khiến cô ấy phải mất ăn mất ngủ này chính là báu vật của báu vật, và cũng có lẽ là cuốn sách trời ban để mở ra một tương lai mới cho tôi. Lấy được cuốn sách này đồng nghĩa với việc tôi sẽ có được trái tim của cô ấy. Có được trái tim của cô ấy rồi thì tôi sẽ
có một cuộc đời sinh viên màu hoa hồng và một tương lai hứa hẹn đầy vinh quang mà người người ghen tị.
Các bạn độc giả có dị nghị gì với điều đó không? Dù có, tôi cũng mặc kệ.
Tôi hét vang, lên đường tìm kiếm thắng lợi.
☆
Sau khi mưa tạnh, nắng bắt đầu lên và rọi ánh vàng rực rỡ xuống trường đua ngựa ướt đẫm.
Có vẻ mưa đã ngừng hẳn. Nghĩ đã làm thì phải làm cho trót, tôi cố nán lại thêm một chút, bước tiếp trên con đường tìm kiếm những cuộc hội ngộ với sách.
Anh Higuchi đã bừng bừng khí thế đi tham gia buổi đấu giá. Nếu là anh ấy thì có lẽ dù gặp phải khó khăn như thế nào, anh ấy cũng sẽ an bình vượt qua thôi nhỉ. Dẫu sao anh ấy cũng đã tự xưng là Tengu chân không chạm đất cơ mà. Tôi không tưởng tượng ra nổi kiểu thử thách gì có thể làm khó anh ấy nữa.
Đi được một lúc, cậu bé xinh xắn cùng tôi tìm sách lúc này lại xuất hiện và tiến đến gần tôi.
“Chà, mình lại gặp nhau rồi.” Tôi chào cậu bé.
“Chị tìm được cuốn Ra Ta Ta Tam chưa ạ?”
“Vẫn chưa, nhưng chị đang nhờ chủ một tiệm sách cũ tìm giúp rồi…” Cậu bé nhìn tôi thật lâu rồi toét miệng cười.
“Chị có định ở đây tới khi hội sách hôm nay kết thúc không?” “Có.”
“Vậy thì sẽ ổn cả thôi. Chắc chắn chị sẽ tìm được nó.” Nói rồi, cậu bé huýt sáo.
“Làm sao em biết?”
“Vì em là thần Hội sách cũ mà.”
Nói thế xong, cậu bé giơ cao cánh tay trắng như sứ, chĩa ngón trỏ lên trời. Quả thật, dáng vẻ này của em ấy giống hệt một vị thần vừa giáng xuống trường đua đầy bùn đất từ bầu trời mùa hạ vừa được gột rửa bởi
"""