"Danh Nhân Triết Học - Nguyên Trường full mobi pdf epub azw3 [Tiểu Sử] 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Danh Nhân Triết Học - Nguyên Trường full mobi pdf epub azw3 [Tiểu Sử] Ebooks Nhóm Zalo DANH NHÂN TRIẾT HỌC ---❊ ❖ ❊--- Biên soạn: Nguyễn Trường Thể loại: Nhân vật Phát hành: Triducbooks Nhà xuất bản: Hồng Đức Đóng gói: @nguyenthanh-cuibap A Peter Abelard belard (1079 - 1142), tên ban đầu là Pierre le Pallet. Ông sinh ra trong một gia đình quý tộc nhỏ Bretagne tại một làng nhỏ thuộc Le Palet, cách Nantes, Britany khoảng 10 dặm về phía Đông. Ngay từ khi còn nhỏ, ông đã tỏ ra là một người thông minh. Được cha khuyến khích, ông đã nghiên cứu khoa học xã hội và rất xuất sắc ở khoa biện chứng (một môn trong triết học). Môn học này tại thời điểm đó, bao gồm chủ yếu là môn logic của Aristotles được viết bằng tiếng Latin. Thay vì tham gia vào quân đội như cha mình, Abelard đã trở thành một học giả. Thời gian đầu, Abelard lang thang khắp nước Pháp, tham gia các buổi tranh luận và học tập, trở thành một “giáo viên lưu động” theo cách nói của ông. Nhà triết học Rocelnius là thầy giáo của ông trong thời kỳ này. Những chuyến đi của Abelard đã đưa ông đến Paris. Tại đây, sau một thời gian ở thánh đường lớn của nhà thờ Đức Bà Paris, ông đã bị Wiliam, một môn đệ của Anslem vùng Laon, người đề xướng thuyết duy thực thuyết phục. Thời gian này ông đã thay đổi họ Abelard của mình, đôi khi viết là “Abailard” hoặc “Abaelardus”. Bằng tài năng của mình ông sớm có khả năng luận chiến và giành thắng lợi trước các học giả bậc thầy, nhưng sau những cuộc tranh luận lâu dài, thuyết duy thực đã sụp đổ. Sau đó vào đầu thời kỳ Trung cổ, thuyết này được Abelard, người theo thuyết khái niệm, hoặc thuyết duy danh, học thuyết đối lập chủ yếu với thuyết duy thực thay thế. Năm 22 tuổi, Abelard thành lập một trường học của riêng ông tại Melun, sau đó, ông chuyển tới dạy ở Coocbei, gần Paris. Ông đã thành công trong việc thuyết giảng mặc dù ông bỏ việc làm này một thời gian do căng thẳng quá lớn. Sau năm 1108, ông trở về và gặp Wiliam đang thuyết giảng tại Xanh Victo. Tại đây, một lần nữa họ lại trở thành đối thủ. Và lần này, Abelard lại là người chiến thắng tuyệt đối. Wiliam chỉ tạm thời có thể ngăn ông thuyết giảng tại Paris. Từ Melun, nơi ông mở trường để thuyết giảng, Abelard đã tới thủ đô và dựng nên một ngôi trường mới trên ngọn đồi ở Montagne St Genevive, gần nhà thờ Đức Bà Paris. Từ thành công trong phép biện chứng, ông đã chuyển sang lĩnh vực thần học, tham dự các bài giảng của Anslem tại Laon. Ông có thể thuyết giảng mà không qua đào tạo hoặc nghiên cứu đặc biệt, điều này cho thấy ông là một trong những học giả tài năng. Lúc này, khi đã ở đỉnh cao của sự thành công Abelard trở nên nổi tiếng và ông đã giành được một chân thuyết giảng tại Notre Dame, ông trở thành giáo sĩ khoảng năm 1115. Do thuyết giảng khác biệt về hình thức và cách biểu hiện, Abelard đã có hàng ngàn học trò theo học, đến từ rất nhiều quốc gia khác nhau. Số học trò theo ông học ngày càng đông, tiếng tăm của ông được biết đến như một nhà triết học duy nhất bất khả chiến bại trên thế giới. Về cuộc đời ông, có một người phụ nữ luôn được nhắc đến, đó là Heloise, một cô gái sống trong khu vực có tường bao quanh ở nhà thờ Đức Bà Paris, dưới sự giám quản của cha cô, giáo sĩ Fulbert. Heloise là một cô gái có những hiểu biết rất sâu sắc về thư tịch cổ do cô biết tiếng Latinh, tiếng Hy Lạp và tiếng Do Thái. Abelard vừa gặp Heloise đã rung động, ông liền nghĩ cách để tiếp cận với giáo sĩ Fulbert, trở thành thầy giáo của Heloise, sau đó tìm cách chinh phục cô. Việc này đã tạo ra rào cản ngăn trở sự thăng tiến trong sự nghiệp của ông, nhưng Abelard rất tự hào về điều này. Một lần Fulbert phát hiện ra mối quan hệ của hai người và tìm cách tách Heloise ra khỏi Abelart. Tuy nhiên đôi trai gái vẫn bí mật gặp nhau. Khi Heloise mang thai, Abelard gửi cô đến Anh, nơi đây cô đã sinh một bé trai, đặt tên là Astrolabe. Nhằm xoa dịu Fulbert, Abelard đề nghị Heloise bí mật kết hôn, vì làm như vậy, triển vọng thăng tiến trong sự nghiệp của ông mới được đảm bảo. Ban đầu Heloise phản đối, nhưng sau đó đã đồng ý. Biết chuyện, Fulbert cố phơi bày sự thật về cuộc hôn nhân bí mật này. Để bảo vệ Abelard, Heloise đã tới nhà tu kín Argenteuil, nơi Abelard thuyết phục cô đến. Kết cục, Heloise bị buộc phải trở thành một nữ tu. Thời gian này, Heloise đã viết rất nhiều thư cho Abelard, luôn day dứt với câu hỏi tại sao cô phải chấp nhận một cuộc sống tôn giáo mà cô không bao giờ muốn. Theo sử gia Mews Constant, cuốn sách “Những bức thư tình của Heloise và Abelard” là một bộ sưu tập g Thời gian sống trong tu viện St Denis, lúc này Abelard đã 40 tuổi, đã tìm cách chôn mình như một tu sĩ với những nỗi thống khổ vô biên. Không thể tìm được một nơi giải thoát trong tu viện, ông đã dần quay về với việc nghiên cứu. Ông mở cửa trở lại trường học của ông tại một tu viện hẻo lánh. Các bài thuyết giảng của ông bấy giờ đóng khung trong một tinh thần mộ đạo và một lần nữa, ông lại có rất đông học trò theo học, ông lại trở nên nổi tiếng dù vẫn còn rất nhiều kẻ thù. Không lâu sau, ông đã cho xuất bản các bài giảng thần học nhiều hơn so với đối thủ trong việc giải thích duy lý về đức tin và về thuyết ba ngôi. Sau đó, năm 1121, trong một hội nghị tôn giáo được tổ chức tại Soisons, ông bị buộc tội là theo tà giáo. Các giáo sĩ của hội nghị này đã thông qua một điều luật không chính thức lên án việc giảng dạy của ông, buộc ông phải đốt cuốn sách của mình trước khi đóng cửa tu viện Thánh Médard ở Soisons. Đây là trải nghiệm cay đắng nhất đối với ông. Cuộc sống trong tu viện đã trở nên không thể chịu được đối với Abelard. Cuối cùng, ông được phép rời khỏi tu viện, và đến một nơi hoang vắng gần Nogent sur Seine, ông dựng một túp lều lau sậy, và sống cuộc đời một ẩn sĩ. Song việc rời khỏi tu viện lại khiến ông trở nên nổi tiếng, học trò của ông từ Paris kéo đến và dựng vô số túp lều xung quanh vùng hoang dã nơi ông ở. Khi bắt đầu thuyết giảng lại, ông cảm thấy đã tìm được sự an ủi và lòng biết ơn vì ông đã thể hiện tài hùng biện của một triết gia. Lo sợ một sự truy đuổi mới, Abelard ngừng thuyết giảng, tìm một nơi ẩn náu và quyết định chấp nhận lời mời của giáo chủ tới chủ trì tu viện St Gil dasderuy ở vùng bờ biển hẻo lánh Hạ Britany. Đây là một vùng không mấy thân thiện, lãnh địa của việc săn bắn bất hợp pháp với những người dân man rợ và hỗn loạn. Tuy vậy, gần 10 năm sống ở đây, ông vẫn tiếp tục đấu tranh chống lại số phận nghiệt ngã của mình. Nỗi thống khổ cuộc đời ông đã được giảm bớt bởi sự đổ nát của tu viện mà Heloise ở tại Argenteil, đưa cô lên như người đứng đầu một ngôi nhà tôn giáo mới tại vùng hoang dã Paraclete, và do cương vị lãnh đạo, ông thường được mời tới thăm lại tu viện, điều này khiến Heloise ngày càng thân thiết gắn bó với ông. Có thể nói, thời gian này, Heloise đã được sống đàng hoàng và ngày càng có uy tín trong cộng đồng tôn giáo, nơi cô cuối cùng trở thành tu viện trưởng. Sống cách biệt một thời gian, sau chuyến đi ngắn từ tu viện St Gildas, Abelard đã viết “Lịch sử Calamitatumla”, đây là cuốn sách nổi tiếng của ông. Sau khi cuốn sách ra đời, Heloise đã viết cho ông bức thư đầu tiên, trong đó vẫn không có gì khác hơn là bày tỏ những tình cảm nồng nàn nhân thế và sự chân thành của một người phụ nữ. Sau bức thư này, Heloise còn viết thêm hai bức thư khác, trong thư cuối cùng bà đã chấp nhận từ chức tu viện trưởng, điều mà Abelard đã đề nghị với bà. Khoảng năm 1136, Abelard quay trở lại nơi đầu tiên ông giành chiến thắng và thuyết giảng trên đồi St Genevieve, nhưng chỉ trong một thời gian ngắn vì một thử thách cuối cùng đang chờ đợi ông. Ông vội trở lại vùng hoang dã Paraclete. Lúc này, kẻ thù chính của ông - Bernard vùng Clairvau, một trong những người hiện thân cho sự nhiệt tâm và không do dự đức tin, buộc tội nổi loạn. Nhân cớ này, Bernard ra sức xúi giục kích động nhằm trừng phạt con người mà ông ta cho là phạm tội táo bạo nhất này. Năm 1141, sau các cuộc bàn luận sơ bộ, Bernard đã bị kích động trước sự kiên định vững vàng của Abelard với toàn bộ sức mạnh của ông. Hội đồng thành phố đã phải tổ chức một cuộc họp ở Sens. Trước đó, Abelard chính thức bị buộc tội dị giáo và ông phải chuẩn bị để đưa ra những lời biện hộ. Khi ấy, Bernard lại tiếp tục buộc tội ông khiến ông phải chống án lên Rome. Tuy nhiên, do Bernard là người có quyền chỉ trích buộc tội nên bản án đã được thông qua trong hội đồng mà không được đưa lên tòa án Rome. Trong khi đó, Abelard tiếp tục gửi đơn thỉnh cầu tới Rome, và vẫn sống trong tu viện ở Clunny. Đây là nơi ông sống lay lắt vài tháng trước khi qua đời. Bị các tu sĩ xa lánh, để giảm nỗi đau khổ của mình, ông đã tới ở Nhà dòng Thánh Marcel, gần Chalon Saône, rồi mất ở đó. Lúc hấp hối, ông đã thốt lên những lời cuối cùng “tôi không biết”. Đầu tiên ông được chôn tại Xanh Marcel, sau đó được bí mật đưa đến Paraclete, dưới sự chăm sóc thương yêu của Heloise. Sau này, bà đã tự nguyện nằm yên nghỉ bên ông năm 1163 ở Cimetière du Père Lachaise tại Paris. Hài cốt của họ đã được di chuyển nhiều lần sau đó, nhưng vẫn được bảo toàn thậm chí trải qua thăng trầm của cuộc Cách mạng Pháp. Giờ đây, người ta cho rằng hài cốt của họ được đặt trong hầm mộ nổi tiếng thuộc nghĩa trang Père Lachaise, phía Đông Paris. Việc di chuyển di hài của họ năm 1817 được đánh giá là đã góp phần làm cho nhiều người tìm đến nghĩa trang này. Theo truyền thống, những người yêu nhau hoặc thất tình thường để các bức thư ở trong hầm mộ, để tỏ lòng tôn kính hoặc với niềm hy vọng sẽ tìm thấy tình yêu thật sự. Tầm quan trọng nổi bật của Abelard là ở chỗ ông đã dịch nhiều tác phẩm của Hy Lạp cổ đại giúp cho sự hiểu biết của người Tây Âu ngày càng mở rộng. Tuy nhiên, ông đã khai thác kiến thức ấy để phục vụ cho thần học, vận dụng một cách xuyên tạc học thuyết của các triết gia Hy Lạp và La Mã cổ đại, nhất là của Aristotles. Ông đã chú thích toàn bộ các tác phẩm của Aristotles thuộc các lĩnh vực logic học, siêu hình học, luân lý học, vật lý học, thiên văn học, địa lý học, động vật học, thực vật học, qua đó chứng minh rằng giáo lý của đạo Kitô không hề trái ngược với triết học và khoa học tự nhiên. Triết học của ông có đặc điểm là áp dụng phương pháp biện luận cực kỳ rắc rối, rất chú trọng logic hình thức, cho rằng đối với các hiện tượng tự nhiên, người ta không cần phải quan sát, thí nghiệm mà chỉ cần dùng phương pháp tư duy trừu tượng cũng có thể đạt đến chân lý. Abelard cũng được biết đến với tư cách là một nhà thơ và nhà soạn nhạc. Abelard đã sáng tác một số ca khúc tình yêu dành tặng cho Heloise, các ca khúc này đến nay đã bị thất lạc. Heloise đã ca ngợi những bài hát này trong một bức thư: “Sự quyến rũ tuyệt vời và vị ngọt trong ngôn ngữ và âm nhạc, sức hấp dẫn một giai điệu mềm mại thậm chí không thể diễn đạt bằng lời”. Sau này Abelard còn soạn cuốn thánh ca dành cho cộng đồng tôn giáo mà Heloise tham gia. Cuốn sách này được viết sau năm 1130, khác với các sách thánh ca đương thời. Các cuốn thánh ca này dày hàng mét, điều này cho thấy giai điệu tương đối ít được sử dụng. Chỉ có một giai điệu từ các tập sách thánh ca này còn tồn tại. Albert Camus A lbert Camus sinh ngày 7 tháng 11 năm 1913 tại Mondovi, một làng ở Constantinois, gần Bône, Algérie. Cha ông, Lucien Camus, một công nhân sản xuất rượu nho vùng Mondovi cho một thương gia thành phố Alger. Khi Thế chiến I nổ ra, cha ông vào quân đội tháng 9 năm 1914 và bị thương trong trận chiến Marne rồi chết tại Bệnh viện Quân y Saint- Brieuc ngày 17 tháng 10 năm 1914. Abert chỉ biết về người cha qua một bức ảnh duy nhất còn để lại. Gia đình của Albert sống ở thủ đô Alger và trong thời gian học tập ở đây, được sự động viên của giáo sư, triết gia Jean Grenier, ông bắt đầu tìm hiểu Friedrich Nietzsche. Albert Camus cầm bút từ rất sớm, những bài viết đầu tiên của ông xuất hiện trên tạp chí Sud vào năm 1932. Sau khi tốt nghiệp trung học, ông học triết học ở Đại học Alger. Albert định sẽ học tiếp cao học, nhưng bệnh lao phổi đã cản trở ý định của ông. Năm 1935, Albert bắt đầu viết tác phẩm L'Envers et l'Endroit (Mặt trái và mặt phải) và xuất bản hai năm sau đó. Tại Alger, ông thành lập nhóm “Théâtre du Travail” và năm 1937 đổi thành “Théâtre de l'Équipe”. Thời gian đó, Albert rời bỏ đảng cộng sản mà ông là đảng viên từ năm 1934. Năm 1938, ông viết quyển Noces (Đám cưới), tuy ca ngợi vẻ đẹp rực rỡ của mặt trời quê hương nhưng đã cho thấy sự bi quan sâu sắc về cuộc sống. Albert làm việc cho tờ Front populaire của Pascal Pia, cuộc điều tra Misère de la Kabylie của ông đã gây được tiếng vang lớn. Năm 1940, chính phủ Algérie ra lệnh đóng cửa tờ báo và cũng với sự can thiệp của chính phủ, Albert đã không thể tìm được việc làm ở Alger. Albert đến Paris làm biên tập cho tờ Paris-Soir. Năm 1942, ông phát hành cuốn tiểu thuyết L'Étranger (Người xa lạ) và tiểu luận Le Mythe de Sisyphe (Huyền thoại Sisyphe), trong đó ông đã trình bày những tư tưởng triết học của mình. Sisyphe là một nhân vật trong thần thoại Hy Lạp bị trừng phạt phải lăn một hòn đá lớn lên núi dốc, khi đến đỉnh hòn đá lại rơi trở xuống chân dốc, cứ thế Sisyphe tiếp tục lăn lên rồi rơi xuống theo một chu kỳ vĩnh cửu. Theo sự phân loại của riêng Albert, các tác phẩm đó thuộc “thời kỳ phi lý” (cycle de l'absurde), cùng với các vở kịch Le Malentendu (Ngộ nhận, 1944) và Caligula (1945). Năm 1943, ông làm việc cho nhà xuất bản Gallimard rồi làm chủ biên báo Combat, cũng trong năm này ông gặp và làm quen với Jean-Paul Sartre. Những tác phẩm tiếp theo của Camus thuộc “thời kỳ nổi loạn” (cycle de la révolte), trong đó nổi tiếng hơn cả phải kể đến “La Peste” (Dịch hạch, 1947), kế đến là “L'État de siège” (1948), “Les Justes” (1949) và “L'Homme révolté” (Người nổi loạn, 1951). Trong quyển tiểu luận triết học “Người nổi loạn”, ông đã trình bày tất cả các hình thức nổi loạn (siêu hình, chính trị và nghệ thuật...) qua mọi thời đại. Ông miêu tả con người cảm nhận sâu sắc sự phi lý của cuộc sống, luôn muốn nổi dậy, chống lại nỗi khốn khổ của kiếp người, nhưng cuối cùng vẫn không có lối thoát, mọi cố gắng đều hoàn toàn vô ích. Tình bạn giữa Albert Camus và Jean-Paul Sartre rạn nứt vào năm 1952, khi trên tạp chí Les Temps modernes của Sartre, Henri Jeanson đã chê trách sự nổi loạn của Camus là “có suy tính”. Năm 1956, tại Alger, Albert công bố “Appel pour la trêve civile”. Cũng trong năm đó, cuốn La Chute, tác phẩm quan trọng cuối cùng của Albert Camus được xuất bản. Ngày 4 tháng 1 năm 1960, tại Petit-Villeblevin vùng Yonne, Albert Camus mất trong một tai nạn giao thông. Trên chiếc xe Facel Véga khi đó còn có một người bạn của ông - Michel Gallimard và người cháu Gaston. Albert Camus được chôn cất ở Lourmarin, vùng Vaucluse, nơi ông đã mua một căn nhà trước đó. Ông là nhà văn, triết gia người Pháp nổi tiếng. Cùng với Jean Paul Sartre, Albert Camus là đại diện tiêu biểu nhất của chủ nghĩa hiện sinh. Ông là tác giả của các tiểu thuyết nổi tiếng “L'Étranger” (Người xa lạ), “La Peste” (Dịch hạch). Albert Camus được trao tặng giải Nobel Văn học năm 1957 vì các sáng tác văn học của ông đã “đưa ra ánh sáng những vấn đề đặt ra cho lương tâm loài người ở thời đại chúng ta”. Albertus Magnus A lbertus Magnus sinh vào khoảng năm 1193 hoặc 1206, mất ngày 15 tháng 11 năm 1280. Ông còn được gọi là Albertus vĩ đại hay có lúc là Albert vùng Cologne. Ông là một thầy dòng Dominic và một giám mục nổi tiếng về các kiến thức toàn diện, một người biện hộ cho sự hòa hợp giữa khoa học và tôn giáo. Ông được coi là nhà triết học và thần học người Đức vĩ đại nhất thời Trung cổ, là người đầu tiên trong số các học giả thời Trung cổ áp dụng triết học của Aristotles cho tư tưởng Kitô giáo. Giáo hội Công giáo La Mã đã tôn vinh ông là một trong 33 tiến sĩ hội thánh. Albertus chủ yếu học ở Padua, được tiếp thu kiến thức từ các tác phẩm của Aristotles. Thời gian sau, Rudonf người Novamagia đã giới thiệu ông đến với Virgin Mary, người này đã thuyết phục ông tham gia vào hội thánh. Năm 1223 (hoặc 1221) ông trở thành một thành viên của dòng tu Dominic, bất chấp mong muốn của gia đình, ông nghiên cứu thần học tại Bologna và các nơi khác. Ông đã được tuyển chọn vào vị trí giảng dạy tại Cologne - Đức. Ông dạy nhiều năm ở đó và một số nơi khác như Regensburg, Freiburg, Strasbourg, Hildesheim. Năm 1245, ông đến Paris, nhận bằng tiến sĩ và giảng dạy một thời gian với tư cách là một nhà thần học nổi tiếng và đạt được thành công lớn. Thời gian này Thomas Aquinas bắt đầu học theo Albertus. Năm 1254, Albertus đã lập nên một giáo khu của dòng tu Dominic, hoàn thành thánh chức khó khăn một cách hiệu quả. Trong nhiệm kỳ của mình, ông công khai bảo vệ các tu sĩ của dòng tu này chống lại cuộc tấn công của các giảng viên thế tục trong các khoa khác của Đại học Paris, ông đã viết bài nhận xét về St John, và những gì mà ông cảm nhận về nhà triết học Ả Rập Averroes. Năm 1260, giáo hoàng Alexander IV đã phong ông làm giám mục vùng Regensburg, nhưng ông đã từ bỏ sau đó ba năm. Trong thời gian đảm nhận chức vụ này, ông nổi tiếng về sự khiêm nhường do từ chối đi xe ngựa, phương tiện mà ông được hưởng và đi bộ trên toàn giáo phận lớn của ông. Điều này khiến ông được các giáo dân đặt cho một cái tên trìu mến là “giám mục giày ống”. Sau khi từ chức giám mục, ông đã dành phần đời còn lại của mình đi thăm các giáo phận dưới quyền của mình trước đây nhưng vẫn thường thuyết giảng khắp miền Nam nước Đức. Năm 1270, ông đã thuyết giảng về cuộc Thập tự chinh thứ tám tại Áo. Năm 1278, sức khỏe của ông suy giảm, ông qua đời vào ngày 15 tháng 11 năm 1280, tại Cologne, Đức. Lăng của ông đặt trong hầm mộ của dòng tu Dominic, nhà thờ St Andreas, di hài đặt tại nhà thờ Cologne. Albertus được tuyên phước năm 1622. Ông được giáo hoàng Pius XI phong thánh và thừa nhận là một Tiến sĩ Hội thánh năm 1931. Năm 1899, người ta đã sưu tầm được 38 tác phẩm của ông. Các tác phẩm này trình bày các kiến thức bách khoa của ông về các chủ đề như logic học, thần học, thực vật học, địa lý, thiên văn học, chiêm tinh, khoáng vật, hóa học, động vật học, sinh lý học, nhân tướng học và nhiều vấn đề khác; tất cả đều là kết quả của các suy luận logic và quan sát của ông. Có lẽ ông là tác giả được đọc nhiều nhất trong thời Trung cổ. Ông tiếp nhận, giải nghĩa và hệ thống hóa toàn bộ công trình của Aristotles, lượm lặt từ các bản dịch tiếng La tinh và ghi chú của nhà bình luận Ả Rập, theo tư tưởng của giáo hội. Hầu hết các kiến thức cơ bản nhất của Aristotles đã được ông gìn giữ và giới thiệu. Tuy nhiên, tác phẩm của ông nghiêng về triết học nhiều hơn so với thần học. Các tác phẩm triết học, gồm 6 tác phẩm đầu tiên và một tác phẩm cuối cùng trong số 21 tập, nói chung được phân chia theo sự sắp xếp các ngành khoa học của Aristotles, bổ sung thêm các cuộc tranh luận theo các chủ đề đương đại, và sự phân kỳ theo ý kiến của các học giả. Công trình thần học chính của ông gồm 3 tập bình luận về cuốn sách tri giác của Peter Lombard. Các kiến thức về khoa học vật lý của ông rất đáng giá và khá chính xác trong thời đại ông. Trong mọi lĩnh vực, kỹ nghệ đó rất đáng chú ý, mặc dù chúng ta vẫn tìm thấy trong hệ thống của ông nhiều điều bất hợp lý do xuất phát từ đặc trưng của triết học kinh viện. Các nghiên cứu của ông về Aristotles đã tạo nền tảng quan trọng về tư duy hệ thống và diễn giải. Di sản kinh điển của ông cho thấy những người cùng thời đã tôn vinh danh hiệu tiến sĩ của ông. Tuy nhiên phải thừa nhận rằng, phần lớn kiến thức của ông ít được tiếp nhận, nó còn được xem là tác phẩm của Platon và Speusipus. Nhiều thế kỷ sau khi ông qua đời, trong các câu chuyện kể về ông, ông chỉ được miêu tả như một nhà giả kim và người làm ma thuật. Nói về thuật giả kim và hóa học, ông đã viết nhiều cuốn như: “Thuật giả kim”, “Kim loại và vật liệu”, “Bí mật của hóa học”, “Nguồn gốc của kim loại”, “Nguồn gốc của các hợp chất”, và một cuốn sách hướng dẫn tập hợp các quan sát về viên đá thần bí và các thuật giả kim khác. Ông đã khám phá ra các thành tố của asen và làm các thí nghiệm với các hóa chất như nitrat bạc. Ông tin rằng có loại đá có đặc tính thần kỳ. Tuy nhiên, có rất ít bằng chứng cho thấy các thí nghiệm của ông thành công. Theo truyền thuyết, Albertus Magnus được cho là đã phát hiện ra viên đá triết học và truyền lại cho người học trò Thomas Aquinas không lâu trước khi ông qua đời. A Aristotles ristotles là nhà triết học vĩ đại nhất của Hy Lạp cổ đại. Ông sinh năm 384 TCN ở Stagira thuộc vương quốc Macedonia, là học trò của Platon và là thầy giáo của Alexandros đại đế. Sau khi Alexandros lên ngôi, ông đến Athens mở trường dạy học. Aristotles là một học giả uyên bác về nhiều lĩnh vực như triết học, toán học, vật lý học, sinh vật học, sinh lý học, y học, sử học và được xem là bộ bách khoa toàn thư của Hy Lạp. Về triết học, ông chịu ảnh hưởng rất lớn của Platon và Democritos nên tư tưởng triết học của ông có mặt gần với chủ nghĩa duy vật nhưng cuối cùng lại sa vào chủ nghĩa duy tâm. Ông là một nhà triết học nhị nguyên luận. Một mặt ông khẳng định vật chất tồn tại vĩnh viễn, sự vật cụ thể được tạo nên bởi bốn nguyên liệu là chất liệu, hình thức, động lực và mục đích. Do đó trong sự vật cụ thể, chất liệu và hình thức không thể tách rời nhau, không có hình thức thì không có chất liệu, không có chất liệu thì không có hình thức. Bởi vậy, tuyệt nhiên không có thế giới ý niệm ở ngoài vật chất thực tại. Đó là chỗ khác nhau căn bản giữa Platon và Aristotles. Nhưng mặt khác ông lại cho rằng “hình thức” là nhân tố tích cực năng động và nêu ra một loại hình thức không có chất liệu, đó là “lực thúc đẩy đầu tiên của mọi vật”, là lý tính. Theo ông, lý tính là “tư duy của tư duy”, là “tư duy thuần tuý”. Như vậy về điểm này, ông đã sa vào chủ nghĩa duy tâm. Dù là học trò của Platon nhưng Aristotles đã vứt bỏ lý luận duy tâm về các ý niệm của Platon và phê phán rất tỉ mỉ lý luận đó. Sự phê phán của ông chứng tỏ ông đã hiểu biết chủ nghĩa duy tâm nói chung. Theo Aristotles, Platon đã tách rời bản chất khỏi cái có bản chất và do đó biến ngay cái chung (khái niệm) thành cái riêng; bên cạnh thế giới cảm giác, thế giới hiện thực, Platon đã tạo ra một thế giới riêng biệt, một thế giới lý tưởng, siêu cảm giác. Theo Platon, những ý niệm, tức là nguyên hình của mọi sự vật, tồn tại một cách độc lập với những sự vật đó. Sự vật nhờ có ý niệm mới tồn tại được. Sự vật chỉ là phản ánh của những ý niệm, là những cái bóng, những cái hình chưa hoàn thiện. Aristotles cho rằng, không phải chỉ cứ thừa nhận có những bản chất siêu cảm giác bất di bất dịch là người ta có thể giải thích được tại sao những sự vật cảm thấy được có thể xuất hiện và thay đổi: “Nói rằng ý niệm là những nguyên hình, còn ngoài ra tất cả đều có quan hệ với ý niệm, như thế là nói để mà không nói gì cả, và là lạm dụng những ẩn dụ của thơ ca”. Trái với Platon, Aristotles khẳng định bản chất chứa đựng ngay trong bản thân sự vật và cái chung không tồn tại song song với cái riêng, không tồn tại tách rời cái riêng. Aristotles tin thế giới bên ngoài là có thật, nhưng ông lúng túng trong phép biện chứng của cái phổ biến và cái riêng biệt, của khái niệm và cảm giác, của bản chất và hiện tượng. Theo Aristotles thì ý niệm (ông gọi là hình thức) và sự vật không tách rời nhau. Có thể nói, Aristotles đã phân vân giữa chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật để rồi sau cùng ông rơi vào chủ nghĩa duy tâm. Theo ông, mỗi vật thể, mỗi sự vật đều gồm có hai yếu tố là vật chất và hình thức. Thế giới dựa trên một cơ chất tiêu cực và vô định là: “vật chất đầu tiên”. Tuy gắn liền các hình thức với vật chất, nhưng theo Aristotles vẫn có một hình thức thuần tuý, nghĩa là một hình thức không có vật chất và là hình thức của tất cả mọi hình thức. Đó là tư duy, là lý tính “tự suy nghĩ”, là Thượng đế. Thượng đế đóng vai trò động lực bất động của thế giới, thế giới duy nhất và vĩnh viễn. Theo Aristotles, vũ trụ hình tròn, ở giữa có trái đất, bên trên trái đất có những “viên cầu” vận động cùng với những tinh thần gắn liền với “viên cầu”. Trong nhận thức luận (cũng như trong một loạt những vấn đề triết học tự nhiên và toán học), Aristotles đã đi gần đến chủ nghĩa duy vật. Khác với Platon, ông đã bênh vực thuyết cho rằng sự hiểu biết bắt nguồn từ cảm giác. Tuy Aristotles phân vân giữa phép biện chứng và phép siêu hình, nhưng triết học của ông đã có những nhân tố của quan niệm biện chứng về hiện thực. Engels nhận xét Aristotles “đã nghiên cứu những hình thức rất trọng yếu của tư duy biện chứng”. Trong khi phê phán phái Ê-lê về việc họ phủ nhận vận động, Aristotles gọi họ là những người “bất động” và “phản tự nhiên”. Ông cho rằng việc không biết đến vận động tất nhiên dẫn đến việc không biết đến tự nhiên. Khi ông đề cập vấn đề quan hệ giữa khả năng và hiện thực, giữa hình thức và nội dung... thì những nhân tố biện chứng hiện ra rất nổi bật trong triết học của ông. Trong triết học cổ đại, Aristotles là người sáng tạo ra logic học. Ông cố gắng không tách rời tư duy ra khỏi tồn tại, gắn liền những hình thức của tư duy với tồn tại, để giải thích những phạm trù logic cho hợp với hiện thực khách quan. Ông có công lao rất lớn khi dùng phương pháp quy nạp từ kinh nghiệm rút ra nguyên lý, từ nguyên lý dùng phương pháp diễn dịch (tam đoạn luận) để rút ra những kết luận cá biệt. Về mỹ học, ông cho rằng tác phẩm nghệ thuật khi mô phỏng sự vật cá biệt nhằm mục đích làm cho đặc trưng của sự vật được biểu hiện ra. Về giáo dục, ông cho rằng mục đích của giáo dục là phát triển lý tính đồng thời chủ trương nhà nước nên mở trường dạy con em quý tộc để họ được phát triển hài hòa về thân thể, trí tuệ. Ngoài ra ông còn có những đóng góp quan trọng về các mặt khác như đã miêu tả tới 100 loài động vật, chia động vật thành hai nhóm có xương sống và không xương sống, phân loại đá và các khoáng vật, chia các thể chế chính trị thành quân chủ, độc tài, dân chủ. Ông đã để lại cho đời sau 150 tác phẩm về nhiều lĩnh vực khoa học khác nhau. Và những tư tưởng của ông có ảnh hưởng lâu dài ở phương Tây. Những tác phẩm chính của ông là: “Siêu hình học”, “Vật lý học”, “Bàn về linh hồn”, “Lý luận học”, “Chính trị học”, “Những phạm trù”, “Phân tích”, “Quyển I” và “Quyển II”. Auguste Comte A uguste Comte tên đầy đủ là Isidore Marie Auguste François Xavier Comte. Ông sinh ngày 17 tháng 1 năm 1798 tại Montpellier, tây Nam nước Pháp. Sau khi học xong phổ thông, ông trúng tuyển vào trường Bách khoa Paris. Đây là ngôi trường nổi tiếng với những đào tạo chuyên sâu về chủ nghĩa cộng hòa và tiến bộ. Khi trường này đóng cửa năm 1816 để tái tổ chức, Comte rời trường và tiếp tục học tại trường Y ở Montpellier. Khi trường Bách khoa mở lại ông cũng không quay lại học. Sau khi trở về Montpellier, Comte nhận ra sự khác biệt giữa ông với gia đình và quyết định trở lại Paris, kiếm sống bằng nhiều nghề. Tháng 8 năm 1817, Comte trở thành học sinh và thư kí cho Claude Henri de Rouvroy, Comte de Saint-Simon, những người đã đưa ông tiếp xúc với giới tri thức. Chính trong thời gian này ông đã cho xuất bản những tiểu luận trong rất nhiều ấn bản đỡ đầu bởi Saint-Simon như: L'Industrie, Le Politique, Le Censeur Européen và L'Organisateur, dù không xuất bản dưới tên riêng. Năm 1824, Comte tách khỏi Saint-Simon do có những khác biệt không thể dung hòa. Ông kết hôn với Caroline Massin, nhưng ly hôn vào năm 1842. Năm 1826 Comte được đưa tới bệnh viện thần kinh nhưng rời viện trong tình trạng chưa được chữa trị vì ông muốn tiếp tục công việc dang dở. Comte có tình bạn khá thân thiết với John Stuart Mill. Từ 1844, Comte sống với Clotilde de Vaux. Sau khi cô mất năm 1846, Comte cùng Stuart Mill phát triển một cái gọi là “tôn giáo nhân văn” mới. Ông cho xuất bản bốn cuốn của Système de politique positive (1851 - 1854). Tác phẩm cuối cùng, với tập đầu tiên “La Synthèse Subjective” được xuất bản năm 1856. Comte mất ở Paris vào ngày 5 tháng 9 năm 1857 và được chôn cất ở nghĩa trang nổi tiếng Père Lachaise. Căn hộ mà ông sống từ năm 1841 - 1857 hiện được bảo tồn và đổi tên thành Maison d'Auguste Comte, tòa nhà nằm ở số 10 rue Monsieur-le-Prince, Paris. Comte là nhà tư tưởng Pháp, người tạo ra ngành xã hội học. Ông đã đóng góp không nhỏ vào lĩnh vực xã hội học của thế giới, đóng góp của ông về mặt lý thuyết là quan niệm về xã hội học, xem xã hội học là khoa học nghiên cứu các tổ chức xã hội. Quan điểm nhìn nhận về xã hội và cấu trúc xã hội bao gồm: bộ phận, thành tố, quan hệ, sắp xếp theo trật tự nhất định. Ông xem xã hội là một hệ thống có cấu trúc, cá nhân gia đình và các tổ chức xã hội. E Engels ngels là một triết gia và là một nhà khoa học người Đức, cùng với Marx, ông đã phát triển chủ nghĩa cộng sản, ông cũng là đồng tác giả của Tuyên ngôn Đảng Cộng sản. Engels sinh ngày 28 tháng 11 năm 1820, tại Barmen, tỉnh Rhine, nước Phổ. Engels từng học ở Trường Trung học Barmen, sau đó học Trường Trung học Elberfelder. Ông làm việc gần một năm tại văn phòng của bố, rồi đến Bơrêmơ làm trong một hãng buôn lớn. Ở đó ông liên lạc với nhóm nhà văn cấp tiến “Nước Đức trẻ” và cộng tác với báo Điện tín Đức. Mùa xuân năm 1841, Engels rời Bơrêmơ đi thăm Thụy Sĩ và miền Bắc nước Ý, ông đến Berlin và tham gia vào một trung đoàn pháo binh, nhưng cũng không vì thế mà ngừng việc học triết học ở trường đại học. Vào tháng 3 năm 1842, Engels xuất bản cuốn “Sen linh và việc chúa truyền”, trong đó ông chỉ trích nghiêm khắc những quan niệm thần bí phản động của Sen linh. Năm 1842, hết hạn lính, Engels sang Manchester ở Anh. Tại đây, ông tìm hiểu đời sống và nghiên cứu tình hình của giai cấp công nhân Anh, giao thiệp với những chiến sĩ của phái hiến chương và bắt đầu hợp tác xuất bản những tài liệu về chủ nghĩa xã hội. Năm 1844, Engels cho đăng ở Paris tác phẩm “Phê phán trị kinh tế học” của ông trong tạp chí niên giám Pháp - Đức của Marx và A. Ruge. Marx đã đánh giá tác phẩm này là một cuốn đại cương tài tình về khoa chính trị kinh tế học mới của giai cấp vô sản. Cuối tháng 8 năm 1844, Engels rời Manchester sang Đức. Khi đi qua Paris, ông gặp Marx, và tình bạn vĩ đại bắt đầu giữa hai nhà lãnh tụ của giai cấp vô sản. Ở Paris, Marx và Engels viết cuốn “Gia đình thần thánh chống lại phái Hegel trẻ”. Cuốn sách đã đặt nền tảng cho chủ nghĩa xã hội duy vật cách mạng. Năm 1845, Engels trở về Đức, xuất bản cuốn sách nổi tiếng của ông “Tình cảnh giai cấp công nhân Anh - một trong những tác phẩm hay nhất của nền văn học xã hội chủ nghĩa trên thế giới...” (Lenin). Đầu năm năm 1845, Engels đến ở Bruy-xen. Lúc này Marx cũng đang ở đấy. Hai ông viết chung quyển Hệ tư tưởng Đức, phê phán những thiếu sót trong triết học của Feuerbach, những quan điểm của phái Hegel trẻ và “chủ nghĩa xã hội chân chính” tức là học thuyết phản động ở Đức. Từ 1845 - 1847, Engels ở Bruy-xen và Paris, tiếp tục nghiên cứu khoa học và hoạt động thực tiễn trong phong trào công nhân. Cũng như Marx, ông tiếp xúc với tổ chức bí mật “Đồng minh những người cộng sản”, chuẩn bị cho Đại hội lần thứ II của Đồng minh. Ông đã viết cuốn “Nguyên lý chủ nghĩa cộng sản”, bản sơ thảo cương lĩnh của “Đồng minh những người cộng sản” và cùng với Marx viết tác phẩm nổi tiếng “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”. Khi cuộc Cách mạng tháng 2 năm 1848 ở Pháp nổ ra, Engels đến Paris sau khi Marx cũng đã đến đấy vì bị trục xuất khỏi Bruy xen. Đầu tháng 4 năm 1848, cách mạng lại nổ ra ở Đức, Engels và Marx rời Paris và đến Cologne. Tại đây, hai ông lập ra và lãnh đạo “Báo Rênani mới” và miệt mài trong công tác cách mạng vĩ đại. Nhưng Engels lại phải sang Bruy-xen vì có lệnh bắt các nhà biên tập “Báo Rênani mới”. Ông bị bắt, bị cầm tù rồi bị trục xuất. Đến tháng 10, ông sang Paris, rồi trốn sang Thụy Sĩ. Tháng Giêng năm 1849, ông mới trở lại Cologne. Ông và Marx bị đưa ra tòa về tội “xúc phạm đến nhà cầm quyền”. Giữa phiên tòa, hai ông lại đứng trên vị trí của nguyên cáo và tòa án phải tha bổng các ông. Engels tham gia cuộc khởi nghĩa vũ trang của nhân dân, nhưng khi phong trào bị đàn áp, Engels liền sang Thụy Sĩ với hai đội quân cách mạng cuối cùng. Theo lời yêu cầu tha thiết của Marx, ông lại đến London. Engels viết hai cuốn sách “Cuộc chiến tranh của nông dân Đức”, và “Cách mạng và phản cách mạng ở Đức”, tổng kết thời kỳ cách mạng trong những năm 1848 - 1849. Engels đặc biệt chú ý đến những vấn đề khởi nghĩa vũ trang và giáo dục công nhân. Tháng 11 năm 1850, ông đến làm công cho một hiệu buôn ở Manchester, về sau ông có cổ phần trong hiệu buôn ấy. Trong thời gian ở Manchester, Engels viết nhiều cuốn sách về các vấn đề quân sự. Marx và Engels trao đổi thư từ với nhau gần như hằng ngày để thảo luận các vấn đề lý luận, chính trị, sách lược và kinh tế. Trong nội bộ Quốc tế thứ nhất, Engels và Marx công kích Pơruđông, Bacunin và những kẻ thù khác của Quốc tế thứ nhất. Mùa thu năm 1870, Engels đến London và được chọn làm Tổng uỷ viên hội của Quốc tế thứ nhất. Khi Quốc tế thứ nhất giải tán, Marx và Engels vẫn tiếp tục lãnh đạo phong trào công nhân. Tất cả gánh nặng của cuộc đấu tranh chống thù địch với chủ nghĩa Marx đều trút lên vai Engels, vì Marx đang bận viết bộ Tư bản. Những bài chống Đuy rinh cũng được viết trong thời kỳ ấy, và xuất bản trong những năm 1877 - 1878. Sau này những bài ấy được tập hợp lại thành cuốn “Chống Đuy rinh”, trong đó Engels “phân tích những vấn đề quan trọng nhất của triết học, của khoa học tự nhiên và xã hội... Đó là cuốn sách đặc biệt bổ ích và có nội dung phong phú”. Đồng thời, Engels dồn hết tâm trí vào việc nghiên cứu khoa học tự nhiên và toán học. Sau khi Marx mất, Engels tiến hành việc hoàn chỉnh và xuất bản quyển II và quyển III của bộ Tư bản mà Marx chưa kịp hoàn chỉnh. Quyển II ra đời năm 1885 và quyển III năm 1894. Chính trong thời kỳ này, ông cũng viết “Nguồn gốc của gia đình”, của chế độ tư hữu và của Nhà nước. Năm 1866, cuốn Lút-vích Phơ-bách và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức” ra đời, đã thể hiện những nguyên lý của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Trong thời kỳ đầu của những năm 1890, Engels tiếp tục phát triển trong thư từ của mình những tư tưởng về chủ nghĩa duy vật lịch sử, phản bác ý kiến cho rằng chủ nghĩa duy vật lịch sử chỉ công nhận ý nghĩa quyết định của những sự biến đổi trong nền kinh tế, và phủ nhận vai trò của kiến trúc thượng tầng: Nhà nước, ý thức tư tưởng... Lối giải thích đó gây ra một tai hại nghiêm trọng, làm cho người ta có thái độ nhìn quá trình lịch sử một cách tiêu cực và đánh giá quá thấp vai trò của tư tưởng, của những tổ chức chính trị, của cuộc đấu tranh giai cấp vô sản để giành chính quyền. Trong thư từ của mình, Engels đã làm sáng tỏ tác dụng qua lại giữa cơ sở và kiến trúc thượng tầng, chỉ rõ những đặc điểm riêng biệt của sự phát triển của hệ tư tưởng (triết học, tôn giáo, nghệ thuật) khác với kinh tế, ông chỉ trích những người “Mácxít” mới học được vài nguyên lý chung chung của chủ nghĩa duy vật lịch sử, đã không chịu khó nghiên cứu tỉ mỉ sự việc cụ thể của lịch sử nữa. Tác phẩm kinh điển của Engels là “Chống Đuy rinh”, trong đó ông trình bày ba bộ phận cấu thành chủ nghĩa Marx: triết học Mácxít, tức là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, chính trị kinh tế học và lý luận về chủ nghĩa cộng sản khoa học. Tác phẩm gồm ba phần: Triết học, Chính trị kinh tế học và Chủ nghĩa xã hội. Cuốn sách “phân tích những vấn đề quan trọng nhất của triết học, của khoa học tự nhiên và khoa học xã hội... Đó là một cuốn sách hết sức bổ ích và có nội dung phong phú” (Lenin). Engels viết cuốn sách này để bảo vệ lý luận của chủ nghĩa Marx, chống sự công kích của Ơgien Đuy-rinh - một người mưu đồ làm cho phong trào công nhân và đảng xã hội dân chủ chịu ảnh hưởng tiểu tư sản. Đuy-rinh là một người theo phái chiết trung, có những quan điểm dung hòa những học thuyết hết sức đối lập nhau. Ở Đuy-rinh, chủ nghĩa duy vật tầm thường và những quan điểm máy móc liên kết với chủ nghĩa duy tâm của Căng và của Hegel được đám cơ hội chủ nghĩa, đặc biệt là Bécxten hoan nghênh nhiệt liệt. Vì thế, Engels đã cho đăng một loạt bài báo nhằm chống những ý định phản động của nhà tư tưởng đó. Năm 1878, ông tập hợp những bài báo đó thành một tập lấy tên là Ông Ơ. Đuyrinh đảo lộn khoa học, sau đó gọi là Chống Đuyrinh. Trong tác phẩm này, Engels lật mặt nạ và chế nhạo Đuyrinh, một đại biểu điển hình của một khoa học giả mạo, tự phụ và dốt nát, tách rời khỏi đời sống, trống rỗng, tuyên bố một cách tự phụ những chân lý “vĩnh viễn, cuối cùng, và không thể cãi được”. Marx đã đọc bản thảo cuốn sách đó trước khi đưa in và viết Chương X của phần thứ hai (“Lịch sử phê phán”). Trong “Lời nói đầu” và phần thứ nhất “Triết học”, khi phê phán triết học của Đuy-rinh, Engels đã trình bày những nguyên lý của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Ông đưa ra cách giải quyết theo chủ nghĩa duy vật vấn đề cơ bản của triết học, chứng minh những nguyên lý căn bản của chủ nghĩa duy vật triết học Mácxít: Vật chất là cái có trước, ý thức là cái có sau, thế giới là vật chất và phát triển theo những quy luật khách quan, thế giới là có thể biết được. Bằng những ví dụ điển hình, Engels làm sáng tỏ tính chất biện chứng của sự tiến hóa của tự nhiên, xã hội và của nhận thức. Áp dụng chủ nghĩa duy vật biện chứng vào việc nghiên cứu tự nhiên và xã hội, ông đã giải thích nhiều vấn đề khoa học tự nhiên và khoa học xã hội. Trái với những người duy tâm cho rằng, tư tưởng là do ý thức sinh ra và không phụ thuộc vào thế giới bên ngoài, Engels dựa vào tài liệu của khoa học và những ví dụ về khái niệm toán học, đã chứng minh rằng tất cả những nhận thức của con người đều phản ánh thế giới vật chất. Engels chỉ ra rằng, thế giới là thống nhất, không phải vì tư tưởng liên kết tất cả mọi hiện tượng với nhau, nhưng vì thế giới là vật chất và vì tất cả mọi hiện tượng và quá trình của tự nhiên đều là những biểu hiện của vật chất đang vận động. Tính thống nhất thực sự của thế giới là ở trong tính vật chất của nó. Vật chất tồn tại trong không gian và thời gian, không gian và thời gian là những hình thức tồn tại của vật chất. Engels phân tích sâu sắc mối tương quan biện chứng của vật chất, của không gian và của thời gian, và chứng minh tính vô hạn của thời gian và không gian. Vạch trần quan niệm máy móc của Đuy-rinh, Engels giải thích một cách sâu sắc những khái niệm về vật chất và vận động.Vận động là thuộc tính căn bản và là phương thức tồn tại của vật chất. Không có vật chất nào mà không có vận động, ngược lại, không có vận động nào mà không có vật chất. Lần đầu tiên, Engels trình bày rộng rãi về những hình thức vận động của vật chất, không chỉ tồn tại dưới hình thức đổi chỗ một cách máy móc của những vật thể trong không gian. Những nguyên lý của triết học Mácxít về thế giới hữu cơ mà Engels phát triển trong chống Đuy-rinh có giá trị rất lớn. Engels đánh giá rất cao chủ nghĩa Đácuyn, cho rằng nó là một học thuyết duy vật về giới sinh vật. Đồng thời, ông sáng suốt vạch ra những thiếu sót của học thuyết Đácuyn, như thiếu thái độ phê phán đối với chủ nghĩa Mantuýt, không nghiên cứu những nguyên nhân gây ra những thay đổi trong cơ thể, hơn nữa ông còn vạch ra con đường khoa học để bổ khuyết. Sau này nhà sinh vật học Mítsurin đi theo con đường của Engels, vạch ra một số chỗ thiếu sót và xóa bỏ được một số khuyết điểm trong học thuyết của Đácuyn. Trong những chương sau của Phần thứ nhất, Engels phê phán những quan niệm giáo điều siêu hình về nhận thức và chân lý, về đạo đức, về bình đẳng, về tự do và về tất yếu. Bác bỏ những chân lý “vĩnh viễn” của Đuy-rinh, Engels đã làm sáng tỏ phép biện chứng của nhận thức. Ông chứng minh sự tồn tại của chân lý khách quan, tính chất tương đối của những chân lý khoa học và đồng thời chứng minh rằng tư tưởng loài người có khả năng nhận thức chân lý tuyệt đối. Sau đó, Lenin phát triển những quan điểm đó của Engels và xây dựng lý luận hoàn chỉnh về mối tương quan giữa chân lý tương đối và chân lý tuyệt đối. Cuốn chống Đuy-rinh phân tích sâu sắc nguyên lý của chủ nghĩa duy vật Mácxít về tính khách quan của những quy luật tự nhiên và xã hội, chứng minh rằng tự do là tính tất yếu đã được nhận thức. Trong lời nói đầu và trong những chương cuối cùng phần triết học, Engels trình bày một cách rõ ràng và sâu sắc những nguyên lý của phép biện chứng duy vật Mácxít. Bàn về những vấn đề của chủ nghĩa duy vật lịch sử, Engels giải thích nguồn gốc của tư hữu, của giai cấp và nhà nước, giải thích vai trò của đấu tranh giai cấp trong sự phát triển của xã hội và bản chất giai cấp của nhà nước. Ông chỉ ra rằng nhà nước và luật pháp, đạo đức và tôn giáo không vĩnh viễn, mà nó thay đổi vì ảnh hưởng của sự phát triển cơ sở kinh tế của xã hội. Engels bác bỏ khái niệm trừu tượng về bình đẳng và chứng minh rằng “nội dung thật sự của yêu sách của công nhân về bình đẳng là yêu sách xóa bỏ giai cấp”. Trong phần thứ hai (Chính trị kinh tế học), Engels phê phán những quan điểm của Đuy-rinh và trình bày những nguyên lý của chính trị kinh tế học Mácxít. Ông định rõ đối tượng của chính trị kinh tế học. Ông trình bày lý luận Mácxít về hàng hóa và giá trị về sự bóc lột những người công nhân làm thuê, về giá trị thặng dư, về địa tô, về tình trạng vô chính phủ của sản xuất và của cạnh tranh trong chế độ tư bản chủ nghĩa, về những cuộc khủng hoảng thừa. Những chương chuyên nói về vai trò của bạo lực trong lịch sử có ý nghĩa rất lớn về mặt triết học. Trong khi đập tan “lý luận về bạo lực” duy tâm cho rằng bạo lực là nhân tố chủ yếu của đời sống xã hội, Engels chỉ ra vai trò quyết định của những điều kiện kinh tế, đồng thời cũng nhấn mạnh ý nghĩa tiến bộ lớn lao của bạo lực cách mạng chống lại giai cấp bóc lột. Trong phần thứ ba “Chủ nghĩa xã hội”, Engels trình bày lý luận của chủ nghĩa xã hội khoa học một cách tóm tắt và rõ ràng. Ông chỉ ra mối quan hệ giữa chủ nghĩa xã hội không tưởng và chủ nghĩa xã hội Mácxít, trình bày quan điểm Mácxít về nhiều vấn đề cơ bản của chủ nghĩa xã hội như: sự sản xuất, sự phân phối, nhà nước, gia đình, nhà trường. Khác với chủ nghĩa xã hội không tưởng, chủ nghĩa xã hội vô sản dựa trên sự hiểu biết những quy luật khách quan của sự phát triển xã hội, trên quan niệm duy vật về lịch sử. Việc chủ nghĩa xã hội thay thế cho chủ nghĩa tư bản là một tất yếu khách quan, những mâu thuẫn nội tại của chủ nghĩa tư bản làm cho chế độ dựa trên tài sản tư hữu và chế độ người bóc lột người sẽ bị sụp đổ. Quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa trước kia thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất của xã hội, ngày nay biến thành những trở ngại cho sự phát triển đó. Chủ nghĩa tư bản chính nó lại sinh ra lực lượng tiêu diệt nó là giai cấp công nhân làm thuê, giai cấp vô sản công nghiệp. Engels chỉ ra rằng, con đường dẫn từ chủ nghĩa tư bản đến chủ nghĩa xã hội, thông qua cách mạng xã hội chủ nghĩa của giai cấp vô sản để giành lấy chính quyền Nhà nước, nghĩa là thông qua chuyên chính vô sản. Có thể nói cuốn sách là một kiểu mẫu về luận chiến Mácxít. Một trong những tác phẩm triết học đầu tiên của ông viết cùng với Marx chuyên phê phán chủ nghĩa duy tâm của phái Hegel trẻ và chủ nghĩa duy vật hẹp hòi của Feuerbach là cuốn “Hệ tư tưởng Đức”. Với thế giới quan đã hoàn thành về cơ bản của mình, lần đầu tiên Marx và Engels trình bày một cách tường tận lý luận duy vật lịch sử. Sau này, Marx viết: “Chúng tôi quyết định cùng nhau nêu ra sự đối lập giữa quan điểm của chúng tôi với hệ tư tưởng của triết học Đức...” Hệ tư tưởng Đức phê phán kịch liệt chủ nghĩa cá nhân tư sản của Xtiecne, một người vô chính phủ chủ nghĩa ở Đức cũng phê phán kịch liệt “chủ nghĩa xã hội chân chính” có tính chất phản động do Hexơ, Gơrun... truyền bá. Hệ tư tưởng Đức nêu lên những đặc điểm cơ bản của chủ nghĩa cộng sản khoa học, chứng minh rằng trong khi hoạt động, giai cấp vô sản dựa vào quy luật khách quan của sự phát triển xã hội. Marx và Engels coi cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chống giai cấp tư sản, coi cách mạng cộng sản thắng lợi và sự xuất hiện tất yếu của chủ nghĩa cộng sản, là kết quả tất nhiên của quy luật kinh tế, quy luật tồn tại một cách độc lập đối với ý chí con người. Cuốn “Hệ tư tưởng Đức” bàn về một trong những vấn đề quan trọng nhất của chủ nghĩa duy vật lịch sử, vấn đề các hình thái kinh tế xã hội, nêu rõ nguyên nhân làm cho những hình thái đó kế tiếp nhau và giải thích nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử, cho rằng tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội... Trong khi luận chứng nguyên lý chủ yếu về tính tất yếu của cách mạng cộng sản chủ nghĩa của giai cấp vô sản, Marx và Engels vạch rõ rằng cuộc cách mạng đó “là tất yếu không những vì không thể lật đổ giai cấp thống trị bằng cách nào khác, mà còn vì giai cấp tiến hành việc lật đổ chỉ có dùng cách mạng mới có thể thoát khỏi hết thảy mọi cái thối nát cũ và có khả năng sáng tạo một xã hội mới.” Engels qua đời ngày 5 tháng 8 năm 1895, thọ 76 tuổi. Bertrand Russell B ertrand Arthur William Russell sinh ngày 18 tháng 5 năm 1872, tại Trellech, Monmouthshire, nay là Wales, trong gia đình quý tộc Anh. Ông nội của ông, John Russell - bá tước Russell I, từng làm thủ tướng Anh trong các thập kỷ 1840 và 1860 và là con trai thứ hai của John Russell, quận công Bedford VI. Mẹ của Russell, Kate (tên họ thời con gái là Stanley), cũng xuất thân từ một gia đình quý tộc và là chị em gái với Rosalind Howard, nữ bá tước Carlisle. Cha mẹ của Russell là những người khá cấp tiến vào thời của họ - cha Russell, John Russell - tử tước Amberley, là một người vô thần. Cả hai là những người ủng hộ đầu tiên cho các biện pháp tránh thai mà thời đó được coi là đầy tai tiếng. John Stuart Mill - nhà triết học theo thuyết vị lợi, là cha đỡ đầu của Russell. Russell có hai anh chị: Frank Russell - Bá tước Russell II (hơn Bertrand gần 7 tuổi), và Rachel (hơn 4 tuổi). Tháng 6 năm 1875, mẹ Russell qua đời vì bệnh bạch hầu, ít lâu sau Rachel cũng vậy, và vào tháng 1 năm 1876 cha ông cũng qua đời vì bệnh viêm phế quản sau một thời gian dài bị trầm cảm. Frank và Bertrand được ông bà nội - những người trung thành với các tiêu chuẩn đạo đức thời Victoria chăm sóc. Bá tước Russell I qua đời năm 1878, bà quả phụ - nữ bá tước Russell (tên thời con gái là Frances Elliot) là người thân quan trọng nhất đối với phần còn lại của tuổi thơ và tuổi trẻ của Russell. Bà xuất thân từ một gia đình người Scotland theo giáo phái Kevin. Bà đã kiến nghị để tòa án Anh bỏ một điều khoản trong di chúc của Amberley rằng các con của ông phải được nuôi dạy thành những người theo thuyết bất khả tri. Mặc dù có tư tưởng bảo thủ tôn giáo, bà vẫn giữ các quan niệm tiến bộ trong các lĩnh vực khác (chấp nhận thuyết Darwin và ủng hộ Irish Home Rule (luật nội bộ Ireland), và ảnh hưởng của bà đối với quan điểm của Bertrand Russell về công bằng xã hội, sự bảo vệ nguyên tắc đã đồng hành với ông suốt cuộc đời. Tuy nhiên, bầu không khí tại Pembroke Lodge luôn đầy những lời cầu nguyện, sự kìm nén cảm xúc và các nghi thức thủ tục - Frank đã phản ứng với điều này bằng sự nổi loạn công khai, còn Bertrand trẻ tuổi đã học được cách giấu những tình cảm của mình. Thời thanh niên, Russell rất cô đơn, ông đã toan tính tự tử. Trong hồi ký của mình, ông ghi nhận rằng những mối quan tâm sâu sắc nhất của ông là tình dục, tôn giáo và toán học, và mong muốn hiểu biết nhiều hơn về toán học là điều duy nhất giúp ông không tự tử. Frank, đã giới thiệu với ông về Euclid, sự kiện này đã làm thay đổi cuộc đời của Russell. Russell giành được một học bổng cho ngành toán học tại Trinity College, Đại học Cambridge, và bắt đầu theo học tại đó từ năm 1890. Tại đây, ông làm quen với George Edward Moore và bắt đầu chịu ảnh hưởng của Alfred North Whitehead, người đã giới thiệu ông với hội kín Các thánh tông đồ Cambridge (Cambridge Apostles). Ông nhanh chóng trở thành sinh viên nổi bật trong các môn toán và triết học. Ông lấy bằng cử nhân Toán học năm 1893 và được nhận vào làm nghiên cứu viên triết học năm 1895. Năm 17 tuổi, Russell lần đầu gặp Alys Pearsall Smith, một tín đồ Quaker người Mỹ. Ông phải lòng Alys, người có quan hệ với một số nhà hoạt động tôn giáo và giáo dục. Trái ý bà nội, ông đã cưới Alys tháng 12 năm 1894. Cuộc hôn nhân của họ bắt đầu có dấu hiệu tan vỡ năm 1902, khi Russell nhận ra rằng ông không còn yêu vợ. 19 năm sau họ li dị. Trong thời kỳ này, Russell đã có những cuộc tình say đắm (và thường là cùng lúc) với nhiều phụ nữ, trong đó có Công nương Ottoline Morrell và nghệ sỹ, Công nương Constance Malleson. Suốt những năm này, Alys mòn mỏi mong đợi và vẫn tiếp tục yêu Russell trong suốt phần đời còn lại. Russell bắt đầu xuất bản các tác phẩm của mình vào năm 1896 với cuốn “Nền dân chủ xã hội Đức”, đây là nghiên cứu chính trị báo hiệu mối quan tâm cả đời của ông đối với chính trị và các học thuyết xã hội. Năm 1896, ông dạy môn Dân chủ xã hội Đức tại Trường Kinh tế London, cũng là nơi ông đã giảng về khoa học của quyền lực vào mùa thu năm 1937. Năm 1908, Russell trở thành thành viên của Hội Hoàng gia Anh. Tập đầu tiên trong bộ Principia Mathematica (viết chung với Whitehead) được xuất bản năm 1910. Bộ sách này cùng với tác phẩm “The Principles of Mathematics” trước đó đã nhanh chóng làm cho Russell trở nên nổi tiếng trong lĩnh vực toán học. Năm 1911, ông gặp Ludwig Wittgenstein, một sinh viên ngành kỹ thuật người Áo. Ông sớm nhận ra tài năng xuất chúng của Wittgenstein và coi anh là người kế tục các công trình của ông về logic toán học. Ông đã dành nhiều thời gian giúp đỡ Wittgenstein vượt qua nhiều nỗi ám ảnh và sự thất vọng thường xuyên. Ông đã khuyến khích sự phát triển hàn lâm của Wittgenstein, trong đó có việc xuất bản cuốn “Tractatus Logico-Philosophicus” năm 1922. Trong Thế chiến I, Russell tham gia các hoạt động kêu gọi hòa bình, và năm 1916, ông bị Trinity College sa thải sau khi bị buộc tội theo Defence of the Realm Act - đạo luật phòng vệ được nghị viện Anh thông qua năm 1914. Ông đã phải ngồi tù 6 tháng tại nhà tù Brixton. Năm 1920, Russell đến nước Nga với vai trò thành viên của một đoàn đại biểu chính thức được chính phủ Anh gửi đến để nghiên cứu các hiệu ứng của cuộc Cách mạng tháng Mười Nga. Cũng thời gian này, Dora Black, người tình của Russell cũng đến thăm Nga. Bà đã rất nhiệt tình với cuộc cách mạng này, nhưng những gì Russell chứng kiến đã phá hủy dự định của ông về việc hỗ trợ cuộc cách mạng này. Sau đó, Russell dạy triết học tại Bắc Kinh trong một năm có Dora đi cùng. Khi ở Trung Quốc, Russell đã viêm phổi nặng, báo chí Nhật đăng tin nhầm về cái chết của ông. Khi hai người đến thăm Nhật Bản trên đường về Anh, Dora đã nói với các nhà báo “Theo báo chí Nhật thì Bertrand Russell đã chết, nên không thể trả lời phỏng vấn của các phóng viên được”. Trên đường về Anh năm 1921, Dora có mang 5 tháng, Russell thu xếp một cuộc li dị vội vã với Alys, 6 ngày sau khi ly dị, ông cưới Dora. Thời gian này, Russell kiếm sống từ việc viết các cuốn sách phổ thông giải thích các vấn đề về vật lý học, luân lý học và giáo dục dành cho người không chuyên. Cùng với Dora, ông còn thành lập trường thực nghiệm Beacon Hill năm 1927. Sau khi ông rời trường vào năm 1932, Dora còn tiếp tục điều hành trường cho đến năm 1943. Cuộc hôn nhân với Dora ngày càng mong manh, rạn vỡ khi bà có hai người con với Griffin Barry, một nhà báo Mỹ. Năm 1936, Russell lấy vợ ba là sinh viên của trường Đại học Oxford tên là Patricia Spence, người đã từng là gia sư của các con ông từ mùa hè năm 1930. Russell và Patricia Spence có một người con trai - Conrad Russell - Bá tước Russell V, người sau này trở thành nhà sử học nổi tiếng và là một trong những nhân vật lãnh đạo của Đảng Dân chủ Tự do Anh. Mùa xuân năm 1939, Russell chuyển tới Santa Barbara để giảng dạy tại Đại học California, Los Angeles. Ông nhận chức giáo sư tại City College of New York vào năm 1940, nhưng sau đó việc này bị hủy bỏ bởi phán quyết của một phiên tòa: các quan điểm của ông (đặc biệt là các quan điểm liên quan đến đạo đức tình dục, chi tiết trong tác phẩm “Hôn nhân và đạo đức” 10 năm trước đó) đã làm ông trở nên “không phù hợp về mặt đạo đức” cho việc giảng dạy đại học. Ít lâu sau, Russell ra nhập Barnes Foundation, giảng lịch sử triết học cho nhiều thính giả - các bài giảng này đã tạo cơ sở cho cuốn A History of Western Philosophy (Lịch sử triết học phương Tây) của ông. Quan hệ của ông với Albert C. Barnes lập dị trở nên xấu đi một cách nhanh chóng, và ông quay trở lại Anh năm 1944 để lại về làm việc tại Trinity College. Trong những năm 1940 và 1950, Russell tham gia nhiều chương trình phát thanh của BBC về nhiều chủ đề triết học và thời sự. Thời gian này, Russell đã nổi tiếng trên thế giới bên ngoài cộng đồng hàn lâm, ông thường là tác giả của các bài đăng trên các báo và tạp chí, ông còn được đề nghị đưa ra quan điểm về một diện rộng các chủ đề, kể cả các chủ đề trần tục. Tháng 10 năm 1948, Russell đã thoát chết trong một vụ máy bay rơi khi ông đang trên đường đi giảng tại Trondheim. Cuốn “Lịch sử triết học phương Tây” (1945) trở thành cuốn sách bán chạy nhất, mang lại cho Russell một nguồn thu nhập ổn định trong suốt phần đời còn lại. Năm 1949, Russell được tặng Huân chương Công lao của Khối Thịnh vượng chung Anh, và năm sau, ông nhận được Giải Nobel Văn học. Năm 1952, Patricia Spence bỏ Russell. Sau vụ li dị, Russell nhanh chóng cưới người vợ thứ tư, Edith Finch. Họ đã biết nhau từ năm 1925, Edith giảng dạy tại Bryn Mawr College gần Philadelphia, Pennsylvania, bà ở chung nhà trong 20 năm với Lucy Donnelly - người bạn cũ của Russell. Edith đã sống hạnh phúc cùng ông cho đến khi ông qua đời. John, con trai cả của Russell bị bệnh tâm thần nặng. Đây là nguồn gốc của những cuộc cãi vã dai dẳng giữa Russell và Dora - vợ cũ của Russell. Russell dành hai thập kỷ 1950 và 1960 cho nhiều hoạt động chính trị, chủ yếu liên quan đến giải trừ vũ khí hạt nhân và phản đối chiến tranh Việt Nam. Thời kỳ này, ông viết rất nhiều thư gửi các nhà lãnh đạo thế giới. Ông trở thành một anh hùng đối với nhiều thành viên trẻ của New Left - một phong trào cánh tả cấp tiến trong những năm 1960. Đặc biệt, trong thập kỷ 1960, Russell ngày càng phản đối quyết liệt các chính sách của chính quyền Mỹ. Năm 1963, ông là người đầu tiên được nhận Giải thưởng Jerusalem - một giải thưởng dành cho các tác giả viết về tự do cá nhân trong xã hội. Bertrand Russell xuất bản bộ hồi ký dài ba tập vào cuối năm 1960. Khi sức khỏe sa sút, ông vẫn minh mẫn cho đến khi ông qua đời vào năm 1970 tại nhà riêng ở Plas Penrhyn, Penrhyndeudraeth, Merioneth, Wales. Theo di chúc, ông đã được hỏa táng và tro được rải khắp nơi. Russell thường được xem là một trong những người đặt nền móng cho triết học phân tích và thậm chí một số nhánh của ngành này. Đầu thế kỷ XX, cùng với George Edward Moore, Russell gần như khởi xướng “cuộc nổi dậy” tại nước Anh chống lại chủ nghĩa duy tâm - một trường phái triết học chịu ảnh hưởng lớn của Georg Hegel và vị thánh tông đồ người Anh - F. H. Bradley. 30 năm sau, cuộc nổi dậy này còn được vọng lại tại Vienna với “cuộc nổi dậy” của những người theo chủ nghĩa thực chứng logic chống lại siêu hình học. Russell đặc biệt phê phán mạnh mẽ học thuyết duy tâm về các quan hệ nội tại - quan niệm cho rằng để hiểu về một vật cụ thể nào đó, ta phải hiểu tất cả các quan hệ của nó. Russell chỉ ra rằng quan niệm này sẽ làm cho không gian, thời gian, khoa học và khái niệm về số trở thành không thể hiểu được. Russell và Moore đã cố gắng loại bỏ những gì mà họ cho là các khẳng định vô nghĩa và không mạch lạc trong triết học, tìm kiếm sự trong sáng và tính chính xác trong luận cứ bằng ngôn ngữ chính xác và bằng cách phân tích các mệnh đề triết học thành các thành phần đơn giản nhất. Cụ thể, Russell coi logic và khoa học là các công cụ chính của các nhà triết học. Khác với đa số các nhà triết học trước ông và nhiều người cùng thời, Russell không tin có một phương pháp riêng dành cho triết học. Ông tin rằng nhiệm vụ chính của nhà triết học là làm sáng tỏ các mệnh đề tổng quát nhất về thế giới và loại bỏ những mơ hồ và nhầm lẫn. Cụ thể, ông muốn chấm dứt cái mà ông coi là những thứ quá mức của siêu hình học. Nhận thức luận của Russell trải qua nhiều giai đoạn. Thời trẻ, ông đã từ bỏ chủ nghĩa Tân Hegel và là một người theo thuyết duy thực triết học trong suốt phần đời còn lại. Ông tin rằng các trải nghiệm trực tiếp có tầm quan trọng bậc nhất đối với việc đạt được tri thức. Tuy một số quan niệm của ông không còn được hâm mộ, nhưng ông vẫn có ảnh hưởng mạnh mẽ trong sự phân biệt giữa hai cách mà theo đó ta có thể làm quen với các đối tượng: “tri thức từ nhận biết” và “tri thức từ mô tả”. Có một thời gian, Russell đã cho rằng chỉ có thể nhận biết bằng dữ liệu giác quan của chính ta - các tri giác nhất thời về màu sắc, âm thanh và những thứ tương tự. Và rằng tất cả những thứ khác, trong đó có các đối tượng vật lý mà ta chỉ có thể thu được các dữ liệu giác quan về chúng bằng cách suy luận hoặc lập luận. Nghĩa là được biết bởi mô tả, không được biết một cách trực tiếp. Sự phân biệt này đã được ứng dụng rộng rãi, tuy sau này Russell đã loại bỏ quan niệm về dữ liệu giác quan trực tiếp. Trong triết học của ông về cuối đời, Russell đã chia sẻ quan điểm với một dạng chủ nghĩa nhất nguyên trung dung (neutral monism), trong đó ông cho rằng khác biệt giữa thế giới vật chất và tinh thần là tùy ý, và rằng cả hai đều có thể được suy giảm về một tính chất trung gian - một quan niệm tương đồng với quan niệm của một nhà triết học Mỹ - William James, và là quan niệm được khởi xướng bởi Baruch Spinoza, người mà Russell rất ngưỡng mộ. Tuy nhiên, thay vì “trải nghiệm thuần túy” của James, Russell đã mô tả đặc điểm của bản chất các trạng thái khởi đầu của tri giác là các “biến cố”, một quan điểm tương đồng một cách kỳ lạ với triết học quá trình của Alfred North Whitehead - người thầy cũ của Russell. Russell dùng năng lực của một nhà triết học viết về luân lý học. Thời trẻ, Russell chịu ảnh hưởng lớn của tác phẩm Principia Ethica của George Edward Moore. Cùng với Moore, khi đó ông đã tin rằng các sự kiện đạo đức có tính chất khách quan nhưng chỉ được biết qua trực quan, và rằng chúng là các tính chất đơn giản của các đối tượng chứ không tương đương với các đối tượng tự nhiên mà chúng thường được gán cho. Ông cho rằng các tính chất đạo đức đơn giản không định nghĩa được này không thể được phân tích dựa trên các tính chất thuộc về đạo đức mà chúng có quan hệ. Tuy nhiên, theo thời gian, ông đi đến đồng quan điểm với người hùng triết học của ông, David Hume, người tin rằng các thuật ngữ luân lý học nói đến các giá trị chủ quan mà không thể được chứng thực theo cách mà người ta vẫn làm đối với các vấn đề sự kiện. Cùng với các học thuyết khác của Russell, quan niệm này đã ảnh hưởng tới các nhà thực chứng logic, những người thiết lập lý thuyết emotivism với quan điểm rằng các mệnh đề luân lý (cũng như các mệnh đề siêu hình học) về bản chất là vô nghĩa và vô lý, hay cùng lắm cũng không hơn các biểu đạt về thái độ và sự ưu tiên là bao. Mặc dù vậy, chính Russell lại không hiểu các mệnh đề luân lý theo cách hẹp như các nhà triết học thực chứng vì ông tin rằng các suy xét luân lý học không chỉ có ý nghĩa mà còn là một chủ đề sống còn đối với giao tiếp thông thường. Quả thực, tuy Russell thường được mô tả là ông thần bảo hộ của sự hợp lý, ông đã đồng ý với Hume, người nói rằng lý tính nên giữ vị trí kém quan trọng hơn các suy xét luân lý. Russell đã viết một số sách về các vấn đề luân lý thực tiễn chẳng hạn như hôn nhân. Ông có các quan điểm tự do về lĩnh vực này. Ông cho rằng các quan hệ tình dục ngoài hôn nhân là chấp nhận được. Trong cuốn “Human Society in Ethics and Politics” (1954), ông ủng hộ quan niệm rằng ta nên nhìn các vấn đề đạo đức từ góc nhìn của các mong muốn cá nhân. Các cá nhân được phép làm những gì họ mong muốn, miễn là không có xung đột giữa mong muốn của những cá nhân khác nhau. Bản thân các mong muốn không xấu, chỉ có đôi khi các hậu quả tiềm năng hay thực tế của chúng là xấu. Russell còn viết rằng sự trừng phạt chỉ quan trọng với ý nghĩa một công cụ. Do đó, ta không nên trừng phạt một ai đó chỉ vì mục đích trừng phạt. Có lẽ lối phân tích triết học hệ thống hóa nhất và thuyết logic với trọng tâm là chủ nghĩa kinh nghiệm của Russell được thể hiện rõ nhất trong cái mà ông gọi là thuyết nguyên tử logic (logical atomism), học thuyết này được phát triển trong một tập hợp các bài giảng. Trong các bài giảng này, Russell trình bày khái niệm của ông về một ngôn ngữ lý tưởng có thể phản ánh chính xác thế giới, trong ngôn ngữ đó, tri thức của ta có thể được suy giản về các mệnh đề nguyên tử và các kết hợp của chúng với ý nghĩa như các hàm chân giá trị. Thuyết nguyên tử logic là một hình thức chủ nghĩa kinh nghiệm cấp tiến, vì Russell tin rằng yêu cầu quan trọng nhất đối với một ngôn ngữ lý tưởng như vậy là: mọi mệnh đề có nghĩa đều phải bao gồm các thuật ngữ chỉ trực tiếp đến các đối tượng mà ta biết. Russell loại trừ một số thuật ngữ logic hình thức nhất định, chẳng hạn tất cả, mọi, là, v.v... khỏi yêu cầu của ông. Nhưng ông chưa bao giờ hoàn toàn hài lòng với cách hiểu của chúng ta về những từ này. Một trong những chủ đề trung tâm của thuyết nguyên tử của Russell là: thế giới bao gồm các sự kiện độc lập với nhau về logic, tính đa nguyên của các sự kiện, và rằng tri thức của ta phụ thuộc vào dữ liệu của trải nghiệm trực tiếp của ta về các sự kiện đó. Về cuối đời, Russell trở nên nghi ngờ các khía cạnh của thuyết nguyên tử logic, tuy ông vẫn tiếp tục tin rằng một quá trình triết học cần phải phân tích sự kiện, tri thức thành những thành phần đơn giản nhất, ngay cả khi ta có thể không hoàn toàn đạt đến một sự kiện tuyệt đối. Trong phần lớn cuộc đời, Russell nghĩ rằng rất ít khả năng tồn tại một vị Chúa trời, và ông cho rằng tôn giáo chỉ mê tín dị đoan tí chút và mặc dù tôn giáo có thể có hiệu ứng tích cực, nói chung tôn giáo vẫn có hại đối với dân chúng. Ông tin rằng tôn giáo và lối suy nghĩ tôn giáo làm cản trở tri thức, nuôi dưỡng sự sợ hãi và phụ thuộc, do đó phải chịu trách nhiệm phần lớn đối với các cuộc chiến tranh, đàn áp và đau khổ trên thế giới. Quan điểm của Russell về tôn giáo thể hiện trong cuốn sách nổi tiếng của ông “Tại sao tôi không phải tín đồ Kitô giáo”, và các bài luận khác về tôn giáo, các chủ đề liên quan. Cuốn sách còn gồm những bài luận trong đó Russell xem xét một loạt các luận cứ logic về sự tồn tại của Chúa trời, bao gồm luận cứ nguyên nhân đầu tiên, luận cứ quy luật tự nhiên - thuyết cho rằng Chúa trời đã tạo ra các quy luật tự nhiên), luận cứ thiết kế và các luận cứ đạo đức khác. Ông còn bàn luận cụ thể về thần học Ki-tô giáo. Có thể nói, ông là một triết gia, nhà logic học, nhà toán học người Anh. Ông viết nhiều tác phẩm, mang triết học đến với đại chúng và là một nhà bình luận đối với nhiều chủ đề đa dạng, từ các vấn đề rất nghiêm túc cho đến những điều trần tục. Nối tiếp truyền thống gia đình trong lĩnh vực chính trị, ông là một người theo chủ nghĩa tự do với vị thế nổi bật, ông còn là một người dân chủ xã hội và người hoạt động chống chiến tranh trong phần lớn cuộc đời của mình. Hàng triệu người coi ông như là một nhà tiên tri của cuộc sống sáng tạo và duy lý; đồng thời, quan điểm của ông về nhiều chủ đề đã gây nên rất nhiều tranh cãi. Sinh vào thời kỳ nền kinh tế và uy thế chính trị của nước Anh đang phát triển, ông là một trong những trí thức nổi tiếng nhất, tiếng nói của ông mang một quyền lực đạo đức, thậm chí cả khi ông đã ở tuổi 90. Trong các hoạt động chính trị, Russell là một người kêu gọi đầy nhiệt huyết cho việc giải trừ vũ khí hạt nhân và phê phán mạnh mẽ sự tham gia của Mỹ trong chiến tranh Việt Nam. Năm 1950, Russel được tặng giải Nobel Văn học, “để ghi nhận các tác phẩm đầy ý nghĩa mà trong đó ông đã đề cao các tư tưởng nhân đạo và tự do về tư tưởng.” Francis Bacon F rancis Bacon sinh năm 1561, ông là một nhà triết học lỗi lạc người Anh, người sáng lập ra “Chủ nghĩa duy vật Anh và mọi khoa học thực nghiệm hiện đại”. Nhận rõ triết học kinh viện và thần học ngăn cản bước tiến của khoa học, Bacon đã phê phán nghiêm khắc tư tưởng triết học thời Trung cổ này. Bacon được phong tước hiệp sĩ năm 1603. Ông được biết đến là một nhân vật quan trọng của cách mạng khoa học và được xem là cha đẻ của chủ nghĩa duy vật Anh và các ngành khoa học thực nghiệm hiện đại. Trong khi đấu tranh cho sự nhận thức khoa học, ông cho rằng “triết học chân chính” phải có tính chất “thực tiễn”, nghĩa là phải dựa trên sự phân tích những hiện tượng tự nhiên và kinh nghiệm. Ông cho cảm giác là nguồn gốc của mọi hiểu biết và coi tự nhiên, vật chất là đối tượng để nghiên cứu. Bacon xem “những giác quan không thể sai được và là nguồn gốc của mọi hiểu biết. Khoa học là một khoa học thực nghiệm cốt áp dụng phương pháp hợp lý vào những tài liệu mà giác quan cung cấp. Quy nạp, phân tích, so sánh, quan sát, thực nghiệm, đó là những điều kiện căn bản cho một phương pháp hợp lý”. Ông quan niệm, con người chỉ có thể hiểu biết và chinh phục tự nhiên nếu biết “phục tùng tự nhiên”, nghĩa là tuân theo quy luật của tự nhiên. Tự nhiên ở trong trạng thái vận động, vận động này là đặc tính vĩnh viễn của nó. Bacon thừa nhận tính muôn vẻ về chất lượng của sự vận động của vật chất, ông không quy sự vận động đó thành sự đổi chỗ một cách máy móc của những vật thể trong không gian. Nhưng vì hoàn cảnh lịch sử và trình độ khoa học thời đó, nên ông không thể giải quyết được vấn đề những hình thức vận động của vật chất. Nhìn chung, triết học của ông có tính chất máy móc. Cách ông xếp hạng những hình thức vận động (ông tính đến 19 hình thức) thật giả tạo và phản khoa học. Bacon là người đầu tiên xây dựng một cách tỉ mỉ phương pháp quy nạp. Theo ông thì điểm xuất phát của nhận thức là mối liên hệ nhân quả, là sự phân tích những vật khác nhau và hiện tượng khác nhau; tất cả các chân lý đáng tin cậy đều phải dựa trên thật nhiều sự việc; trong khi đem đối chiếu những sự việc đó với nhau, người ta có thể đi từ cái riêng biệt, cái cá thể, cái phổ biến, đến kết luận. Tuy không phủ nhận tư duy trừu tượng, nhưng ông không hiểu rõ tác dụng thật của mặt hiểu biết đó, ông coi thường phép suy diễn. Do đó, phương pháp nhận thức luận của ông là siêu hình. Tác phẩm chủ yếu của Bacon là “Công cụ mới”. Ông đã đề tên như vậy cốt để phân biệt với cuốn “Công cụ” của Aristotles. Tác phẩm của Bacon phê phán sâu sắc những quan niệm kinh viện, phân tích những tư tưởng sai lầm cản trở bước tiến của khoa học. Bacon phân chia những tư tưởng hão huyền và mê tín đó thành bốn loại “ảo tượng” (tượng thờ): “ảo tượng của chủng tộc”, “ảo tượng của hang động”, “ảo tượng của chỗ công cộng” và “ảo tượng của rạp hát”. Những “ảo tượng của chủng tộc” sinh ra từ bản tính của trí tuệ loài người: “Giác tính của con người giống như một tấm gương không bằng phẳng, tấm gương này đem trộn lẫn bản tính riêng của nó với bản tính của sự vật, bóp méo và làm sai lạc những hình ảnh mà nó phản ánh lại”. Những “ảo tượng của hang động” là những ảo tượng của cá nhân và phụ thuộc vào giáo dục, vào sở thích, vào thói quen, vào hoàn cảnh xung quanh của cá nhân đó. “Những ảo tượng của chỗ công cộng” sinh ra do chỗ người ta được đoàn kết nhờ ngôn ngữ, nên dùng những tiếng thích hợp với trình độ quần chúng. Những “ảo tượng của rạp hát” sinh ra do những hệ thống triết học khác nhau, sai lầm và duy tâm. Bacon không phải là một nhà duy vật triệt để. Học thuyết của ông chưa trút bỏ được “sự không triệt để của thần học”. Ông vừa thừa nhận tính vĩnh viễn của vật chất, lại vừa thừa nhận sự tồn tại của Thượng đế. Ông chứng minh tính hai mặt của chân lý: sự truyền phán thuộc lĩnh vực thần học, và tính nhân quả thuộc lĩnh vực khoa học. Bởi vậy ông cho là người ta có hai linh hồn: một linh hồn biết tư duy, hợp lý, và một linh hồn khác, có tính chất cảm giác và phi lý. Linh hồn thứ nhất do Thượng đế tạo ra, linh hồn thứ hai là linh hồn của vật chất, thuộc nhục thể. Cho nên chủ nghĩa duy vật của Bacon dính với thần học, với tôn giáo, tuy tôn giáo không hề giữ vai trò chính trong triết học của ông. Cách ông xếp loại khoa học, căn cứ trên những “năng lực của linh hồn” (trí nhớ, trí tưởng tượng, giác tính) là cách xếp loại duy tâm. Bacon cũng đề cập đến xã hội một cách duy tâm. Những quan điểm xã hội và chính trị của ông phản ánh lợi ích của đại tư sản Anh và của quý tộc tư sản hóa. Ông đã tích cực ủng hộ việc bành trướng tư tưởng thống trị thế giới và xâm chiếm Ấn Độ của nước Anh. Ông cho chế độ quân chủ chuyên chế là hình thức nhà nước tốt nhất. Theo ông thì nhân dân là một nguồn loạn lạc. Mặc dù trong triết học của ông đầy rẫy những mâu thuẫn và những điều phi lý, mặc dù ông có xu hướng điều hòa khoa học với tôn giáo, nhưng những tư tưởng của Bacon đã giữ một vai trò lớn trong việc phát triển triết học trước Marx. Những tư tưởng của ông đã ảnh hưởng rất lớn đến những nhà triết học duy vật Hốpxơ và Lốccơ và đến những nhà duy vật Pháp thế kỷ XVII. Karl Marx (1818 - 1883) K arl Marx là nhà triết học, nhà tư tưởng, nhà kinh tế chính trị, nhà lãnh đạo cách mạng của Hiệp hội người lao động quốc tế. Karl Marx nổi tiếng trong nhiều lĩnh vực khác nhau, nhưng ông nổi tiếng nhất với những phân tích lịch sử dựa trên thuật ngữ “đấu tranh giai cấp”, được tổng kết lại trong lời mở đầu của Tuyên ngôn Đảng Cộng sản. Cùng với Engels, ông là người sáng lập ra Chủ nghĩa xã hội khoa học. Karl Marx sinh ngày mùng 5 tháng 5 năm 1818 ở Trier, Đức trong một gia đình Do Thái nghèo. Ngay từ thuở nhỏ, ông đã được tiếp xúc với nhiều học giả và họa sỹ thường xuyên lui tới gia đình ông. Sau khi tốt nghiệp trung học ở Trier, năm 1835, Marx vào học trường đại học ở Bon để học luật. Karl Marx thường quan tâm đến triết học và văn học, nhưng cha ông không cho phép điều đó vì tin rằng Marx sẽ sống sung túc nếu trở thành một học giả. Những năm tiếp theo, Marx vào trường Đại học Berlin. Tại đây, Marx viết nhiều thơ và tiểu luận liên quan đến cuộc sống, sử dụng những ngôn ngữ triết học như tác phẩm “Thượng đế”. Cũng trong thời gian này, ông tham gia nhóm “Hegel phái tả” có xu hướng cách mạng. Bài luận văn tiến sĩ của ông chuyên bàn về triết học của Epicurus và Democritus. Trong đó, ông lên tiếng bênh vực các quan điểm duy tâm chủ nghĩa. Sau khi trình bày một cách xuất sắc bài luận văn tại trường Đại học triết học ở Iêna, Marx trở về Bon. Năm 1842, ông đến Côlônhơ, ở đây ông viết bài cho báo Rênani, cơ quan của giai cấp tư sản cấp tiến ở Rênani. Đầu năm 1843, báo Rênani bị đóng cửa. Tháng 6 năm 1843, Marx kết hôn với Gienni phôn Vexphalen. Cuối tháng 10 năm 1843, Marx đến Paris, tại đây, ông cùng với Ácnon Ruygiơ thành lập tờ Niên giám Pháp - Đức. Tạp chí này đã đăng những bài đặc sắc của ông như “Góp phần phê phán triết học pháp luật của Hegel” và “Vấn đề Do Thái”. Tháng 9 năm 1844, Marx gặp Engels ở Paris, từ đấy hai ông bắt đầu cuộc đấu tranh chung vì sự nghiệp của giai cấp công nhân. Hai ông là những người đầu tiên vạch rõ vai trò lịch sử của giai cấp vô sản, trở thành những người giáo dục và lãnh đạo giai cấp vô sản trong cuộc đấu tranh giải phóng người lao động khỏi ách nô lệ của chủ nghĩa tư bản. Năm 1845, Marx và Engels viết cuốn “Gia đình thần thánh” nhằm chống lại các thủ lĩnh của “phái Hegel trẻ”. Trong cuốn sách “Hệ tư tưởng Đức”, Marx và Engels đã trình bày lý luận về chủ nghĩa cộng sản khoa học của mình. Ở Paris, Marx nghiên cứu chính trị kinh tế học và lịch sử cách mạng Pháp, đồng thời vẫn tiếp tục hoạt động cách mạng. Năm 1845, Marx bị trục xuất khỏi Paris vì bị coi là một nhà cách mạng nguy hiểm. Năm 1847, khi ở Bruy-xen, ông đã xuất bản tác phẩm “Sự khốn cùng của triết học” để phản bác lại cuốn “Triết học của sự khốn cùng” của Pơruđông, một người vô chính phủ chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa tiểu tư sản. Marx còn tham gia một hội tuyên truyền bí mật, “Đồng minh những người cộng sản” và góp phần lãnh đạo Đại hội lần thứ hai của Đồng minh. Đại hội đã giao cho Marx và Engels thảo cương lĩnh. Tháng 2 năm 1848, bản Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản ra đời. Đây là tác phẩm nổi tiếng với khẩu hiệu quốc tế vĩ đại: “Vô sản tất cả các nước liên hợp lại!”. Lenin nhận xét: “Cuốn sách mỏng ấy có giá trị bằng hàng bộ sách: tinh thần của nó đến bây giờ vẫn cổ vũ và thúc đẩy toàn thể giai cấp vô sản có tổ chức và chiến đấu trong thế giới văn minh”. Ở Bruy xen, Marx tiếp tục đấu tranh chống chính phủ Phổ. Khi vừa nổ ra cuộc cách mạng tháng 2 năm 1848 ở Pháp, chính phủ Bỉ, đứng trước phong trào nhân dân bắt đầu nổi lên ở Bruy-xen, đã trục xuất Marx, ông bị cảnh sát dẫn đến biên giới Pháp. Marx lại trở về Paris. Nhưng sau cuộc cách mạng tháng 3 năm 1848 ở Đức, Marx lại về Cologne để lập ra tờ “Báo Rênani mới”. Sau khi thế lực phản động ở Đức thắng lợi, Marx bị truy tố trước tòa án và bị trục xuất ra khỏi nước Đức. Sau cuộc biểu tình tháng 6 năm 1849, Marx lại bị trục xuất khỏi Paris và phải đến London và ông sống ở đây cho đến cuối đời. Sau cuộc chính biến ở Pháp, Marx đã cho xuất bản hai cuốn sách “Đấu tranh giai cấp ở Pháp” và “Ngày 18 tháng Sương mù của Lui Bônapáctơ”. Đây là hai tác phẩm tổng kết cuộc cách mạng từ 1848 - 1851. Những năm sau đó, Marx đã để hết tâm sức viết tác phẩm khoa học chủ yếu của mình, bộ “Tư bản”. Sau nhiều năm nghiên cứu về kinh tế, năm 1859 Marx viết cuốn “Góp phần phê phán chính trị kinh tế học”. Trong cuốn sách này, lần đầu tiên ông trình bày lý luận về giá trị và tiền tệ. Năm 1867, quyển đầu của bộ “Tư bản” đã được xuất bản ở Hămbua, trình bày những nguyên lý cơ bản của các quan điểm kinh tế, quan điểm xã hội chủ nghĩa của Marx và phê phán xã hội đương thời, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và những hậu quả của nó. Thời gian Marx viết bộ Tư bản cũng chính là thời gian ông ra sức hoạt động cách mạng thực tiễn. Trước sự phát triển mạnh mẽ của phong trào công nhân đầu năm 1860, Marx đã bắt tay thực hiện ý định của mình: sáng lập một hội liên hiệp những người lao động để định ra một sách lược thống nhất cho cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản. Năm 1864, ở London đã thành lập “Hội liên hiệp lao động quốc tế” tức Quốc tế thứ nhất mà Marx là người cổ vũ và lãnh đạo. Ông đã thảo ra bản “Tuyên ngôn” thành lập và hầu hết những văn kiện chủ yếu của Quốc tế. Trong khi sáng lập ra Quốc tế thứ nhất, Marx đã đặt cơ sở cho tổ chức vô sản quốc tế trong cuộc đấu tranh cách mạng vì Chủ nghĩa xã hội. Là người đứng đầu, Marx tham gia đấu tranh để chấm dứt tình trạng phân tán trong phong trào công nhân. Trong khi đấu tranh kịch liệt chống chủ nghĩa cơ hội trong phong trào công nhân, chống nhóm vô chính phủ (Pơruđông, Bucanin...), Marx đã định ra sách lược cách mạng cho cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân. Năm 1871, ông đã viết tác phẩm nổi tiếng “Nội chiến ở Pháp”, trong đó phân tích kinh nghiệm của Công xã Paris, đánh giá Công xã một cách “sâu sắc, chính xác, xuất sắc, có hiệu quả và cách mạng” (Lenin). Vì thế lực phản động hoành hành sau khi Công xã Paris thất bại, căn cứ vào một nghị quyết của Đại hội Lahay (1872), Ban chấp hành của Quốc tế đã chuyển sang Mỹ, sau đó tuyên bố giải tán. Sau Đại hội Lahay, Marx lại tiếp tục viết bộ “Tư bản” vì ông nhận rõ ý nghĩa của tác phẩm này đối với cách mạng vô sản và giai cấp công nhân quốc tế. Năm 1875, ông đã viết tác phẩm nổi tiếng “Phê phán cương lĩnh Gôta”. Marx đặc biệt quan tâm tới phong trào giải phóng xã hội ở Nga. Ông đã học tiếng Nga để có thể đọc nguyên văn những tác phẩm văn học Nga. Ông rất vui khi được tin bộ “Tư bản” đã được dịch ra tiếng Nga. Việc nghiên cứu sâu sắc những biến đổi về kinh tế và chính trị xảy ra ở Nga, đã giúp cho Marx và Engels có thể tiên đoán được rằng sau Công xã Paris 1871, cuộc đại cách mạng Nga lần thứ nhất sắp nổ ra. Marx và Engels viết ngày 21 tháng 3 năm 1881: “Khi Công xã Paris đã bị bọn bảo vệ trật tự đánh đổ bằng những cuộc tàn sát, ngay cả những kẻ chiến thắng cũng không thể đoán được rằng chưa đầy 10 năm sau, ở Pêtécbua, lại sẽ xảy ra một sự biến không thể không đưa đến Công xã Nga, dù có phải đấu tranh lâu dài và khốc liệt... Cho nên Công xã mà các cường quốc của thế giới cũ tưởng là đã bị xóa tên trên mặt đất, vẫn sống!” Nhận xét này của Marx cho thấy tài tiên đoán dự báo cách mạng của ông. Những biện pháp trục xuất mà các chính phủ phản động nhiều lần dùng đối với Marx cảnh nghèo túng suốt đời của ông mà sự giúp đỡ về tài chính của Engels cũng chỉ giảm nhẹ một phần nào, cuộc đấu tranh kịch liệt của ông chống đủ các thứ trào lưu tư tưởng không vô sản và chống vô sản, sự làm việc rất khẩn trương mà công tác lý luận đòi hỏi, đã làm sức khỏe của Marx suy yếu và ông qua đời ngày 14 tháng 3 năm 1883. Engels viết: “Marx chết đi, hàng triệu chiến sĩ cách mạng trên toàn thế giới, khắp châu Âu và châu Mỹ, từ những hầm mỏ ở Xibêri cho đến Caliphoócnia, người người đều tôn kính Marx, yêu mến Marx và khóc thương Marx”. Marx đã phát hiện ra các quy luật của sự tiến hóa lịch sử của loài người, sáng tạo ra lý luận và sách lược cách mạng của giai cấp vô sản. Cùng với Engels, Marx đã sáng lập ra thế giới quan cách mạng của giai cấp vô sản, chủ nghĩa duy vật biện chứng và khi vận dụng học thuyết đó vào việc nghiên cứu xã hội, ông đã sáng lập ra chủ nghĩa duy vật lịch sử, khoa học của các quy luật phát triển xã hội, quy luật đấu tranh giai cấp. Chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử là một cuộc cách mạng thực sự trong lịch sử triết học. Khác với các nhà triết học trước, Marx và Engels không chỉ là những người sáng lập ra một “môn phái” triết học, mà còn là những lãnh tụ chân chính của phong trào vô sản. Nhờ nghiên cứu toàn diện hoạt động kinh tế và chính trị của xã hội tư bản chủ nghĩa nên Marx đã vạch rõ nguồn gốc của chủ nghĩa tư bản, quy luật và xu hướng phát triển của chủ nghĩa tư bản và chứng minh rằng chủ nghĩa tư bản không thể tránh khỏi bị diệt vong. Ông đã vạch ra chủ nghĩa tư bản có một tính chất quá độ, và thắng lợi của một chế độ xã hội mới, chủ nghĩa cộng sản là điều tất yếu. Thay cho các lý luận cũ của chủ nghĩa xã hội không tưởng, Marx đã sáng tạo ra lý luận của chủ nghĩa cộng sản khoa học. Và đáng chú ý nhất khi kể về cuộc đời và sự nghiệp của Marx là quá trình Marx viết bộ “Tư bản”. Đây là tác phẩm bất hủ và quan trọng của Marx, làm đảo lộn hoàn toàn những khái niệm về xã hội loài người. Lenin nhận xét bộ “Tư bản” là “tác phẩm về kinh tế chính trị học vĩ đại nhất trong thế kỷ chúng ta”. Ông bắt đầu viết từ những năm 1840 cho đến lúc cuối đời. Quyển I xuất bản năm 1867, quyển II xuất bản vào năm 1885 và quyển III xuất bản vào năm 1894. Bản dịch đầu tiên của bộ “Tư bản” là bản dịch ra tiếng Nga. Bộ “Tư bản” là một “kiểu mẫu về sự phân tích khoa học một hình thái xã hội - phức tạp nhất - theo phương pháp duy vật, một kiểu mẫu được mọi người thừa nhận và không có gì sánh nổi”. Marx đã chứng minh quan hệ tư bản chủ nghĩa là một hình thức lịch sử, quá độ của nền sản xuất xã hội. Hình thức đó ra đời theo tính tất yếu của quy luật tự nhiên trong một giai đoạn phát triển xã hội nhất định và không thể tránh khỏi tiêu vong trong ngọn lửa cách mạng vô sản, không thể không nhường chỗ cho những hình thức xã hội mới tiến bộ hơn. Marx “đã chấm dứt quan niệm cho rằng xã hội là một sự kết hợp máy móc của những cá nhân, sự kết hợp này chịu đủ mọi thứ thay đổi tuỳ theo ý muốn của những nhà cầm quyền, sinh ra và biến đổi một cách ngẫu nhiên. Marx là người đầu tiên đã cho xã hội học một cơ sở khoa học bằng cách xác định khái niệm hình thái kinh tế xã hội là toàn bộ những quan hệ sản xuất nhất định, bằng cách xác định rằng sự phát triển của những hình thái đó là một quá trình lịch sử tự nhiên”. Marx đã tìm ra quy luật kinh tế của sự vận động của xã hội tư bản chủ nghĩa và chỉ ra rằng, chủ nghĩa cộng sản là giai đoạn tương lai và không tránh khỏi của sự phát triển xã hội, giai đoạn đó phát sinh do toàn bộ lịch sử loài người, do những quy luật khách quan bên trong của sự phát triển của bản thân chủ nghĩa tư bản, chuẩn bị. Marx đã làm sáng tỏ những nhân tố vật chất, những lực lượng xã hội dẫn chủ nghĩa tư bản đến chỗ diệt vong. Ông đã chứng minh rằng, trong một phạm vi nào đó và ở một giai đoạn lịch sử nhất định, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, hoàn toàn thích hợp với trình độ của lực lượng sản xuất trong giai đoạn đó, kích thích đà phát triển của lực lượng sản xuất đó, đà phát triển này nhanh hơn đà phát triển trong những hình thái xã hội trước. Tuy nhiên chủ nghĩa tư bản ngày càng biến thành trở ngại cho lực lượng sản xuất đang phát triển. Do sự phát triển của lực lượng sản xuất của xã hội tư bản chủ nghĩa, nên sản xuất mang tính chất xã hội. Việc xã hội hóa lao động trong chủ nghĩa tư bản trước hết biểu hiện ở chỗ: sự phân công lao động trong xã hội ngày càng phát triển thì chức năng của mỗi cá nhân ngày càng mất tính chất độc lập đối với lao động của toàn xã hội. Việc xã hội hóa đó còn biểu hiện ở chỗ nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, do những quy luật của bản thân nó chi phối, nên tập trung vào những xí nghiệp khổng lồ. Sự phát triển những hình thức hợp tác lao động dưới chủ nghĩa tư bản, và nhất là việc ngày càng dùng một số rất lớn những máy móc dẫn tới loại bớt những nhà tư bản nhỏ. Những nhà tư bản lớn nắm phần ngày càng lớn trong sản xuất xã hội. Việc xã hội hóa sản xuất đó có tính chất đặc biệt tư bản chủ nghĩa. Nó không dẫn đến chỗ xóa bỏ chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, mà trái lại còn góp phần củng cố chế độ đó. Do đó, mâu thuẫn cơ bản của xã hội tư bản chủ nghĩa, mâu thuẫn giữa tính chất xã hội của sản xuất với hình thức chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa những thành quả của sản xuất, ngày càng gay gắt thêm (điều này thường xảy ra dưới hình thức khủng hoảng sản xuất thừa). Đồng thời, tất cả mọi mâu thuẫn khác của xã hội tư bản chủ nghĩa cũng trầm trọng thêm. Lý luận về giá trị thặng dư của Marx đã vạch trần bản chất của sự bóc lột tư bản chủ nghĩa đối với những công nhân làm thuê, tức là những người thực sự sáng tạo ra của cải trong xã hội tư sản, theo Lenin, lý luận đó là hòn đá tảng của học thuyết kinh tế của Marx. Marx đã vạch trần cơ sở tồn tại của giai cấp tư bản, vạch trần bản chất của sự bóc lột tư bản chủ nghĩa mà kinh tế chính trị học tư sản cố công che đậy. Người công nhân làm việc cho nhà tư bản là họ đã phải bán sức lao động cho nhà tư bản để lấy tiền công, nhưng tiền công thấp hơn giá trị của sức lao động, trong khi họ tạo ra một giá trị lớn hơn nhiều. Giai cấp tư bản chiếm lấy phần chênh lệch giữa giá trị của hàng hóa do công nhân sản xuất ra và tiền công của công nhân, phần chênh lệch đó là giá trị thặng dư và là nguồn gốc của mọi khoản lợi nhuận, lợi tức, địa tô, thuế. Giai cấp tư bản tồn tại dựa trên sự chiếm hữu giá trị thặng dư, điều này hoàn toàn đối lập với giai cấp vô sản. Việc chạy đua để kiếm giá trị thặng dư dẫn đến chỗ giai cấp tư bản không ngừng bóc lột lao động. Việc kéo dài ngày lao động, việc bóc lột dã man lao động phụ nữ và trẻ em, sự phá huỷ sức lao động, việc làm huỷ hoại thể chất của hàng triệu công nhân, là những thủ đoạn mà tư bản thực hiện. Việc dùng máy móc và phát triển lực lượng sản xuất là một phương sách để cho tư bản nâng cao mức giá trị thặng dư, chứ không phải để tiết kiệm lao động. Chủ nghĩa tư bản càng phát triển thì sự bóc lột giai cấp công nhân càng tăng. Việc mở rộng quan hệ tư bản chủ nghĩa và việc dùng máy móc gây ra nạn thất nghiệp, sinh ra tình trạng bần cùng tương đối và tuyệt đối của công nhân. Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản không tạo cho giai cấp công nhân một phương tiện nào để cải thiện cuộc sống của họ trong khuôn khổ chế độ tư bản chủ nghĩa. Vì thế, lợi ích của giai cấp vô sản đối lập với những cơ sở của chế độ tư bản và đòi hỏi phải phá huỷ những cơ sở đó đi. Vì tập trung và tích tụ nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, nên số lượng những người vô sản làm thuê tăng lên không ngừng và làm giảm bớt số lượng những tiểu chủ và nhất là những nông dân bị chủ nghĩa tư bản làm phá sản. Giai cấp vô sản tăng về số lượng và lực lượng cũng mạnh lên. Công nhân tập trung ngày càng nhiều trong những xí nghiệp tư bản chủ nghĩa rộng lớn. Chính vì thế mà chủ nghĩa tư bản, trong quá trình phát triển, tự nó đã sinh ra lực lượng xã hội tiêu diệt nó. Quy luật phát sinh, phát triển và diệt vong của xã hội tư bản chủ nghĩa, do Marx tìm ra, không hề có nghĩa là lịch sử nhất định sẽ dẫn loài người đến chủ nghĩa cộng sản mà không phải đấu tranh giai cấp. Quy luật phát triển của chủ nghĩa tư bản, cũng như của mọi xã hội có đối kháng nói chung, bao hàm sự trầm trọng của những mâu thuẫn của nó, sự gay gắt của đấu tranh giai cấp. Việc hiểu biết những quy luật khách quan của sự phát triển của chủ nghĩa tư bản làm cho giai cấp vô sản có thể hướng cuộc đấu tranh của mình vào con đường cách mạng chống chế độ tư bản chủ nghĩa, phân biệt được kẻ thù, tìm được đồng minh, và tin tưởng tiến đến thắng lợi, thành lập nền chuyên chính của mình. Bộ “Tư bản” đã làm sáng tỏ tính tất yếu lịch sử của nền chuyên chính vô sản và thắng lợi tất yếu của chuyên chính vô sản khi cách mạng xã hội chủ nghĩa thắng lợi. Học thuyết của Marx đã giúp cho giai cấp vô sản thế giới có ý thức về vai trò cách mạng của mình, biết và áp dụng những cách thức đấu tranh thắng lợi chống chủ nghĩa đế quốc. Bộ “Tư bản” của Marx không chỉ là một tác phẩm kinh tế chính trị học, mà còn là một tác phẩm vĩ đại về lịch sử và triết học. Tác phẩm trình bày một cách rất tài tình những nguyên lý của chủ nghĩa duy vật lịch sử, áp dụng trước hết vào việc nghiên cứu sâu sắc một hình thái kinh tế xã hội nhất định. Bộ “Tư bản” cũng là một kiểu mẫu không gì so sánh được về việc hoàn chỉnh và vận dụng phép biện chứng duy vật vào việc nghiên cứu xã hội loài người. Mikhail Ivanovich Kalinin M ikhail Ivanovich Kalinin là một trong những lãnh tụ lỗi lạc của Đảng Cộng sản và Nhà nước Liên Xô, một người tuyên truyền xuất sắc của chủ nghĩa Marx - Lenin. Ông sinh tháng 11 năm 1875 trong một gia đình nông dân tại Tơve. Năm 1893, ông vào làm công nhân tại nhà máy Xtary Acxennan Peterburg và năm 1896 vào làm thợ tiện tại xưởng đúc súng đại bác thuộc nhà máy Putilốp. Chính trong thời kỳ này, ông bắt đầu tham gia công tác cách mạng của các tổ chức công nhân bí mật, và tỏ ra là một công nhân tiên tiến. Ông là hội viên tích cực của “Hội liên hiệp đấu tranh giải phóng giai cấp công nhân” thành phố Peterburg, và gia nhập Đảng Công nhân Xã hội - Dân chủ Nga năm 1898. Là chiến sĩ cách mạng chuyên nghiệp, bị chính phủ Nga hoàng lùng bắt, ông hoạt động ở Peterburg, Tiphơlip, Rêvan, Matxcơva, hoạt động tích cực trong cuộc cách mạng 1905 - 1907, được cử làm đại biểu dự Đại hội Đảng Công nhân Xã hội - Dân chủ Nga lần thứ tư. Năm 1912, tại Hội nghị Pơraha, ông được cử làm uỷ viên trung ương dự khuyết Ban chấp hành trung ương Đảng Cộng sản và uỷ viên cục Trung ương nước Nga. Năm 1912 - 1914, Kalinin là cộng tác viên tích cực của báo Sự thật. Trong cách mạng tháng Hai (1917), ông cùng với một số đồng chí khác lãnh đạo cuộc đấu tranh anh dũng của công nhân và binh sĩ Pêtécbua và sau đó, tích cực tham gia Cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười vĩ đại. Ông là một trong những người lãnh đạo lỗi lạc nhất của Nhà nước Xô viết trẻ tuổi. Tháng 3 năm 1919, sau khi Xveclov mất, theo đề nghị của Lenin, ông được cử làm chủ tịch Ban chấp hành trung ương Nga. Từ đó và suốt trong 27 năm, ông lãnh đạo cơ quan tối cao của Nhà nước Xô viết và cống hiến hết sức mình vào việc củng cố Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, củng cố khối liên minh công nông và trí thức, tình hữu nghị giữa các dân tộc Liên Xô. Tháng Chạp năm 1922, khi thành lập Liên bang Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Xô viết, Kalinin được cử làm chủ tịch Hội uỷ viên trung ương Liên Xô và tháng 1 năm 1938, ông được cử làm Chủ tịch đoàn Xô Viết tối cao. Từ 1926 - 1946, ông là uỷ viên Bộ chính trị Đảng Cộng sản Liên Xô. Trong thời kỳ hòa bình, sau khi nội chiến kết thúc thắng lợi, Kalinin đem hết sức lực và kinh nghiệm phong phú của mình phục vụ đất nước. Là bạn chiến đấu trung thành của Lenin và Xtalin, ông đấu tranh không biết mỏi chống những kẻ thù của Đảng và nhân dân, làm cho chủ nghĩa Lenin thắng lợi. Là người tuyên truyền xuất sắc và bền bỉ lý luận Marx - Lenin, ông nói: “Chúng ta không nghiên cứu để hiểu biết chủ nghĩa Marx - Lenin một cách hết sức máy móc như trước kia người ta đã nghiên cứu kinh thánh. Chúng ta nghiên cứu chủ nghĩa Marx - Lenin vì đó là một phương pháp, một công cụ, nhờ nó mà chúng ta quyết định hành động của chúng ta trong sinh hoạt chính trị, xã hội và cá nhân, đó là vũ khí sắc bén nhất của con người trong đời sống thực tiễn của mình.” Kalinin đã cống hiến rất nhiều cho việc giáo dục quần chúng nhân dân lao động theo tinh thần chủ nghĩa yêu nước Xô viết, tinh thần chủ nghĩa quốc tế vô sản, tinh thần bình đẳng và hữu nghị giữa các dân tộc. Ông đã viết một loạt tác phẩm đặc sắc về giáo dục cộng sản chủ nghĩa, xây dựng đạo đức mới, xã hội chủ nghĩa, xây dựng tinh thần chủ nghĩa tập thể trong đời sống hàng ngày và trong lao động theo tinh thần Xô viết. Những tác phẩm của Kalinin về việc xây dựng chủ nghĩa xã hội, trong các giai đoạn phát triển khác nhau của xã hội Xô viết đều có ý nghĩa lý luận và thực tiễn lớn lao. Ông đã nhiều lần nhắc rằng chủ nghĩa yêu nước Xô viết là một động lực phi thường của xã hội Xô viết. Ông nói: “Chủ nghĩa yêu nước Xô viết cổ vũ và vũ trang về tinh thần cho nhân dân, làm cho người ta, từ những người thông thường nhất và vô danh nhất, có những hành động anh hùng, nó thúc đẩy hàng triệu người hành động”. Điểm nổi bật nhất trong việc tuyên truyền các tư tưởng về giáo dục quần chúng theo tinh thần chủ nghĩa cộng sản là ông đã nhấn mạnh sự liên hệ chặt chẽ giữa giáo dục với các vấn đề thực tiễn của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. “Sự giáo dục cộng sản chủ nghĩa, theo chúng ta quan niệm, bao giờ cũng phải cụ thể. Trong điều kiện nước ta, nó phải phục tùng các nhiệm vụ đặt ra cho Đảng và Chính phủ”. Trong thời kỳ chiến tranh giữ nước vĩ đại, Kalinin mặc dù ốm nặng, vẫn ra sức làm việc góp phần vào thắng lợi, làm cho toàn bộ sinh hoạt của nhân dân Xô viết ăn nhịp với tình hình chiến tranh. Ông lãnh đạo công tác lập pháp trong thời chiến. Những diễn văn yêu nước nồng nàn của ông đem lại cho chiến sĩ lòng tin vững chắc ở thắng lợi, góp phần động viên nhân dân. Chính phủ Liên Xô đã đánh giá rất cao hoạt động của Kalinin: tặng cho ông nhiều huân chương danh hiệu Anh hùng lao động xã hội chủ nghĩa. Cuộc đời và hoạt động của Kalinin là một tấm gương sáng về tinh thần tận tuỵ với sự nghiệp chủ nghĩa cộng sản. Campanela Tommado L úc còn rất trẻ, ông vào nhà tu dòng thánh Đôminicơ, học triết học. Do ảnh hưởng của Têlêxiô (1508 - 1588), Campanela chuyển sang hàng ngũ những người đối lập với học thuyết của Aristotles mà các thầy tu đã biến thành triết học kinh viện. Năm 1591, Campanela xuất bản ở thành Napơlơ cuốn “Triết học về các giác quan” nhằm chống triết học Trung cổ. Cuốn sách đó làm cho ông bị bắt giam. Không lâu sau ông được tha, song tòa án tôn giáo vẫn còn nghi ngờ ông rất nhiều. Phê phán triết học kinh viện, ông đã đề xướng ra sự nhận thức bằng kinh nghiệm và việc nghiên cứu tự nhiên. Ông cho là toàn thể vũ trụ có linh hồn và coi vũ trụ như một cơ thể sống. Trong triết học về tự nhiên của ông, khuynh hướng duy vật lẫn lộn với những tàn dư của triết học kinh viện. Campanela là một người yêu nước và một nhà chính trị tiên tiến. Ông đấu tranh chống ách thống trị của người Tây Ban Nha đè nặng lên nước Ý lúc bấy giờ. Ông lãnh đạo một tổ chức bí mật nhằm mục đích giải phóng Tổ quốc. Bị phản bội, tổ chức đó tan rã. Campanela bị giam trong nhà lao 27 năm. Trong thời gian này, ông đã viết tác phẩm nổi tiếng “Đô thành Mặt trời” xuất bản lần đầu tiên năm 1623. Trong cuốn sách đó, ông trình bày sự mong muốn của ông về một xã hội cộng sản không tưởng. Campanela là một trong những người cộng sản không tưởng đầu tiên. Ông chủ trương con người phải bình đẳng về chính trị và kinh tế. Campanela chỉ trích xã hội bóc lột, xã hội mà “sự nghèo khổ... sinh ra những hành vi hèn hạ, lật lọng, vuốt ve, ăn cắp, phản bội, làm chứng giả, lưu manh và ăn mày; nhưng giàu có cũng sinh ra những hành vi vô phép vô tắc, kiêu ngạo, tự phụ, lừa gạt, khoe khoang, ích kỷ và thô bỉ”. Campanela cho rằng một xã hội không có quyền tư hữu, sự bất bình đẳng và sự áp bức, thì sẽ tạo ra những tiền đề cho khoa học, kỹ thuật, nghệ thuật nảy nở. Để làm việc đó, những người ở Đô thành Mặt trời sử dụng một kỹ thuật hoàn thiện trong mọi lĩnh vực sản xuất. Những công dân trong Đô thành Mặt trời, những người đã được giải phóng, lao động trở thành một nhu cầu nội tâm. “Bởi vậy, dù giữ một cương vị nào, người trong Đô thành Mặt trời cũng cho là đáng quý. Họ không thuê đầy tớ vì trong mọi việc, họ đều tự cung tự cấp cho mình vào còn dư thừa nữa”. Các tác phẩm của Campanela được đánh giá là thể hiện nguyện vọng của nông dân nghèo vào tầng lớp dưới cuối thế kỷ XVI đầu thế kỷ XVII. Campanela là một nhà tư tưởng cô độc, tư tưởng không tưởng của ông về tương lai chỉ là mộng tưởng không dựa trên sự hiểu biết về những quy luật thật sự của sự phát triển của xã hội. Trong cuốn “Vô thần luận bị chinh phục”, Campanela đã lấy việc phê phán vô thần luận để trực tiếp đánh vào tôn giáo và nhất là vào các thầy tu. K Kant ant sinh ngày 22 tháng 4 năm 1724 tại thành phố Konigsberg trong một gia đình tiểu thị dân. Ông là một trong những nhà triết học nổi tiếng nhất, sáng lập ra chủ nghĩa duy tâm Đức hồi nửa sau thế kỷ XVIII và đầu thế kỷ XIX. Ông là người mở ra thời đại mới cho lịch sử triết học thế giới. Có người đã ví tư tưởng triết học của Kant như một hồ chứa nước. Tư tưởng của những người đi trước thì tích tụ vào đó, còn tư tưởng của người đời sau được sản sinh ra từ đó. Vì vậy, tư tưởng triết học của Kant chiếm một vị trí vô cùng quan trọng trong lịch sử triết học thế giới. Gia cảnh nhà Kant vô cùng khó khăn, cha là một người thợ làm yên ngựa, mẹ là một tín đồ Cơ đốc giáo ngoan đạo. Chính vì ảnh hưởng của gia đình nên ngay từ nhỏ Kant cũng đã tiếp thu ít nhiều tư tưởng Cơ đốc giáo. Cha mẹ ông mong muốn ông trở thành một vị mục sư nên đã gửi ông theo học tại trường giáo hội của Chính phủ. Nhưng những nghi thức tôn giáo gò bó và không khí ảm đạm buồn tẻ của ngôi trường đã khiến Kant thay đổi tư tưởng. Cũng chính vì môi trường giáo dục đó đã khiến Kant nảy sinh tư tưởng hoài nghi đối với các quan niệm tôn giáo được hình thành trên cảm giác và cảm thụ. Năm 16 tuổi, sau khi tốt nghiệp trung học, ông theo học khoa thần học tại Đại học Koenigbeg. Tại đây ông vừa học triết học vừa học vật lý, một môn học được xem như triết học của khoa học tự nhiên. Các trường đại học của Đức lúc này chịu ảnh hưởng chủ yếu của triết học duy lý. Năm 1755, ông nhận bằng tiến sĩ và bắt đầu giảng dạy tại trường đại học ở Koenigbeg. Các bài giảng của ông đi từ vật lý học đến triết học, được sinh viên rất yêu thích. Tác phẩm đầu tiên của ông ra đời năm 1755 mang tên “Lịch sử tự nhiên tổng quát và lý thuyết về bầu trời”, đây là một cống hiến quan trọng cho việc nghiên cứu về khoa học tự nhiên. Trong tác phẩm này, ông đã đề xuất một giả thuyết táo bạo về nguồn gốc của hệ mặt trời. Ông rất say mê triết học của Rousseau. Tương truyền, ông có thói quen dạo mát đúng giờ quy định đến nỗi các bà nội trợ trong vùng khi thấy ông đi dạo mát mới bắt đầu nấu bữa tối. Hôm ấy không thấy ông đi dạo, mọi người tưởng ông ốm, vội đến nhà thì thấy ông đang say sưa đọc cuốn Emily của Rousseau. Năm 1871, ông viết tác phẩm Phê phán lý trí thuần tuý. Tác phẩm này đã gây nên một cuộc cách mạng trong giới triết học. Thông qua tác phẩm này, ông được coi là đã tỉnh dậy khỏi “giấc ngủ giáo điều”, không những mở ra một tư tưởng triết học mới mà còn sáng tạo ra một phương pháp mới để quan niệm và phân tích các vấn đề triết học. Nhận xét về Kant, Lenin viết: “Tính chất cơ bản trong triết học của Kant là điều hòa chủ nghĩa duy vật với chủ nghĩa duy tâm; làm cho hai chủ nghĩa ấy thỏa hiệp với nhau, kết hợp thành một hệ thống duy nhất hai trào lưu triết học khác nhau và đối lập nhau”. Một mặt Kant thừa nhận sự tồn tại của một thế giới của những “vật tự nó”. Mặt khác, “vật tự nó” của Kant căn bản là cái không thể hiểu biết được và nằm ở bên kia nhận thức của ta. “Khi thừa nhận vật tự nó ở ngoài chúng ta, phù hợp với những biểu tượng của chúng ta, thì ông đứng về lập trường duy vật. Khi tuyên bố vật tự nó là không thể hiểu biết được, là siêu nghiệm, là nằm ở bên kia, thì Kant lại là nhà duy tâm”. Xuất phát từ tính bất khả tri của “vật tự nó”, Kant đã xây dựng nhận thức luận chủ quan duy tâm của ông. Do ảnh hưởng của “vật tự nó”, nên năng lực cảm giác của con người tạo ra một mớ tri giác hỗn loạn, những tri giác đó được chỉnh đốn lại là nhờ ở những hình thức chủ quan của trực quan - không gian và thời gian. Do đó, mà nảy ra hiện tượng hoặc đối tượng của cảm giác. Sau đó, đến lượt giác tính phát sinh tác dụng. Nhờ những phạm trù logic chủ quan mà nó vốn sẵn có, giác tính biến đối tượng của cảm giác (hiện tượng) thành khái niệm. Lĩnh vực cao nhất của nhận thức của người ta là ở lý tính, mà lý tính cũng do những quan niệm chủ quan chỉ đạo. Theo Kant, không gian, thời gian, tính nhân quả, các quy luật của tự nhiên không phải là đặc tính của bản thân tự nhiên, mà là đặc tính của giác tính của người ta, là phạm trù “tiên thiên”, có trước kinh nghiệm, độc lập đối với kinh nghiệm, là điều kiện của mọi kinh nghiệm, là phạm trù “tiên nghiệm”. Do đó, Kant đặt cho triết học của ông là: “Chủ nghĩa duy tâm tiên nghiệm”, tức là một chủ nghĩa duy tâm cho rằng các hình thức tiên thiên của ý thức là có trước kinh nghiệm. Như vậy, nhận thức tách con người khỏi tự nhiên chứ không liên kết con người với tự nhiên. Kant đã đưa ra nguyên lý duy tâm cho rằng giác tính định ra quy luật cho tự nhiên. Toàn bộ cảnh tượng tự nhiên đúng như người ta nhận thức được chỉ là một kết cấu chủ quan của trí tuệ. Theo Kant, tính thống nhất của tự nhiên không phải ở trong tính vật chất của nó, mà ở trong tính thống nhất của chủ thể nhận thức, của cái “Tôi”. Hết thảy mọi cố gắng của lý tính để vượt ra ngoài giới hạn của kinh nghiệm chủ quan tất nhiên đều đưa lý tính đến những mâu thuẫn không thể giải quyết được, người ta chỉ có được những cái tương phản, những mâu thuẫn biện chứng của giác tính với bản thân nó. Ở đây xuất hiện một số nhân tố biện chứng quan trọng đặc biệt của triết học Kant, những nhân tố này có một tác dụng lớn đối với sự phát triển sau này của phép biện chứng trong triết học Đức. Nhưng Kant cho mâu thuẫn đó là một sai lầm, một ảo ảnh chứ không phải là sự phản ánh của những mâu thuẫn có thật của thế giới bên ngoài. Tất cả những quan điểm của Kant về tính chất mâu thuẫn của lý tính, về những cái tương phản đều đi đến chỗ bênh vực cho bất khả tri luận. Cũng như toàn bộ triết học Kant, nhận thức luận của ông; chủ trương phục hồi chủ nghĩa duy tâm, khôi phục Thượng đế và tôn giáo đã bị lung lay dưới những đòn công kích của các nhà duy vật. Kant điều hòa nhận thức với tôn giáo. Nhận thức luận của ông tự định cho mình trách nhiệm là hạn chế quyền lực của lý tính, để dành lại cho Thượng đế một chỗ đứng ở ngoài nhận thức. Trong học thuyết luân lý của mình, Kant cho rằng muốn duy trì đạo đức, tất phải thừa nhận sự tồn tại của Thượng đế và sự bất tử của linh hồn. Trong thời kỳ đầu, Kant đã nêu ra giả thiết về nguồn gốc của thái dương hệ, giả thiết này góp phần làm cho khoa học tự nhiên tiến bộ. Trong tác phẩm Lịch sử tự nhiên tổng quát và lý thuyết về bầu trời, Kant đã đề cập đến vấn đề đó theo quan điểm phát triển, điều này được Engels đánh giá rất cao. Engels vạch rõ, với học thuyết của mình, Kant đã mở một đột phá khẩu trong thế giới quan siêu hình phủ nhận sự phát triển. Trong các lĩnh vực xã hội và chính trị, Kant là người bênh vực quyền tự do công dân và hòa bình vĩnh viễn nhưng theo ông, tất cả những cái đó không thể thực hiện được. Kant cho là cần có một số cải cách xã hội nào đó, phải có những cải cách đó và đúng về mặt đó mà nói, thì học thuyết của ông đã phản ánh lợi ích của sự phát triển của thị dân tiến bộ Đức. Nhưng, như Marx và Engels đã nói, đó chỉ là lý luận Đức về cách mạng Pháp, nghĩa là hệ tư tưởng nhu nhược, dao động. Những tác phẩm chính của Kant là: Lịch sử tự nhiên tổng quát và lý thuyết về bầu trời (1755), Tự luận (1783), Phê phán lý trí thuần tuý (1788), Phê phán phán đoán (1790). Năm 1789, cách mạng Pháp bùng nổ, ông đã vô cùng xúc động trước cuộc cách mạng này và cho ra đời hai tác phẩm “Một kế hoạch về hòa bình vĩnh viễn” (1795) và “Tôn giáo trong giới hạn của lý trí thuần tuý” (1793). Kant mất ngày 12 tháng 2 năm 1804. Jan Amos Comenxki C omenxki là một nhà giáo dục nhân đạo chủ nghĩa vĩ đại và nhà triết học Tiệp Khắc chống lại chế độ giáo dục kiểu kinh viện. Comenxki là một trong những người lãnh đạo “Hội anh em Môravi” đã lãnh đạo phong trào chống phong kiến và cuộc đấu tranh dân tộc chống phong kiến Đức và Nhà thờ công giáo. Thế giới quan của ông có nhiều mâu thuẫn. Ông là một người theo đạo Tin lành có khuynh hướng phiếm thần luận. Ông có những khuynh hướng duy vật chủ nghĩa khá rõ rệt. Comenxki cho rằng có thể hiểu biết được thế giới. Ông viết: “Bước đầu của nhận thức, không còn nghi ngờ gì nữa, bao giờ cũng bắt nguồn từ cảm giác (vì không có cái gì tồn tại trong nhận thức mà lại chưa tồn tại trong cảm giác)...”. Cần phải nhận thức và phân tích chính ngay sự vật, chứ không nên chỉ dựa vào những điều quan sát và chứng thực của kẻ khác. Ông yêu cầu giáo dục và nhận thức phải có hệ thống và có tính chất toàn diện. Ông nói tất cả mọi người đều có khả năng nhận thức và có thể thu nhận được tri thức. Người bình dân phải có quyền được học hiểu (dạy hết thảy mọi điều cho hết thảy mọi người). Đối với Comenxki, nhận thức là một quá trình tích cực liên hệ chặt chẽ với giáo dục hợp lý. Ông muốn giáo dục phải có những mục đích thực tế: “Biết, nói và làm, đó là thú vị của trí tuệ”. “Nguyên tắc về tính thích ứng với tự nhiên” của ông có nghĩa là giáo dục phải thích hợp với thế giới bên ngoài và bản tính của trẻ em; nhà giáo dục phải xuất phát từ tính thống nhất của thế giới (con người là một bộ phận của tự nhiên, một vũ trụ nhỏ trong cái vũ trụ lớn), phải chiếu cố đến đặc điểm của lứa tuổi của học sinh. Không được nhồi sọ một cách máy móc, mà phải phát triển cân đối mọi năng khiếu của trẻ. Đôi khi Comenxki thêm vào nguyên tắc trên đây một ý nghĩa duy tâm, thần học: chính Thượng đế “đã gieo vào trong chúng ta những hạt giống của mọi môn khoa học”. Comenxki đã không biết khắc phục mâu thuẫn giữa nhận thức “xuất phát từ tự nhiên” và nhận thức “xuất phát từ sự tiến hóa của linh hồn”. Trong lịch sử giáo dục, ông là người đầu tiên đã xây dựng phương pháp giáo dục thành một khoa học chuyên môn. “Bốn nguyên tắc” của ông về sư phạm (giáo dục cụ thể, từng bước, bắt chước, luyện tập) đòi hỏi phải hiểu biết mối quan hệ nhân quả trong tự nhiên và phải củng cố một cách hợp lý những tri thức đã thu hoạch được. Nhà giáo là “đầy tớ của tự nhiên” và buộc phải “bắt chước” tự nhiên; giảng bài là hình thức cơ bản của việc giảng dạy. Comenxki đã chống lại Giáo hoàng và Công giáo, phê bình kịch liệt sự buôn thần bán thánh và sự truỵ lạc về tinh thần của bọn Nhà dòng công giáo. Tư tưởng tiên tiến của Comenxki có ảnh hưởng rất lớn đối với sự phát triển của khoa giáo dục ở Bôhêm và các nơi khác. Những tác phẩm nổi tiếng của ông là “Phương pháp sư phạm vĩ đại” (1657), “Ngôn ngữ nhập môn” (1631), “Thế giới vật thể cảm tính trong hội họa” (1658). D David Hume avid Hume sinh ngày 7 tháng 5 năm 1711 tại Edinburgh. Trong suốt cuộc đời, thỉnh thoảng ông sống ở ngôi nhà gia đình tại Ninewells, Chirnside, Berwickshire. Ông được gia đình gửi vào Đại học Edinburgh khi mới 12 tuổi. Ban đầu, ông định theo nghề luật, nhưng rồi ông cảm thấy “một ác cảm không thể vượt qua đối với tất cả mọi thứ trừ việc theo đuổi triết học và sự học nói chung”. Năm 1729, khi được 18 tuổi, ông đã có một phát kiến triết học, phát kiến này đã mở ra cho ông “một chân trời mới của tư tưởng”. Ông không kể lại, đó là cái gì, nhưng có vẻ như đó chính là thuyết nhân quả của ông - rằng niềm tin của ta vào nguyên nhân và kết quả phụ thuộc vào cảm tính, truyền thống và thói quen, chứ không phụ thuộc vào lý tính hay các quy luật tổng quát, phi thời gian và trừu tượng của thiên nhiên. Năm 1734, sau vài tháng ở Bristol, ông rút về để tự nghiên cứu và thực hiện các thí nghiệm tư duy tại La Fleche ở Anjou, France. Trong bốn năm ở đó, ông đã đặt ra kế hoạch cho cuộc đời mình. Cũng thời gian này, ông hoàn thành cuốn “Luận thuyết về bản chất con người” ở tuổi 26. Mặc dù ngày nay, nhiều học giả coi Luận thuyết là tác phẩm quan trọng nhất của Hume và là một trong các cuốn sách quan trọng nhất trong lịch sử triết học. Nhưng ban đầu, công chúng ở Anh quốc không cho là như vậy. Sau khi xuất bản cuốn “Các bài luận về đạo đức và chính trị” năm 1744, ông xin dạy môn luân lý học và tâm lý học tại Đại học Edinburgh nhưng bị từ chối. Trong cuộc nổi dậy Jacobite năm 1745, ông đã dạy Hầu tước Annandale. Đó là khi ông bắt đầu cuốn lịch sử đồ sộ của mình “Lịch sử vương quốc Anh”, cuốn sách được viết trong 15 năm và dài hơn một triệu từ, được xuất bản thành 6 tập trong thời kỳ từ năm 1754 đến năm 1762. Năm 1748 ông bắt đầu phục vụ 3 năm trong quân đội với vai trò thư ký của tướng St Clair và viết cuốn “Các bài luận triết học về hiểu biết của con người”, sau được xuất bản với tên “Câu hỏi về hiểu biết của con người”. Cuốn sách này cũng không thành công hơn “Luận thuyết”. Hume bị buộc tội dị giáo nhưng ông đã được tuyên bố trắng án. Có lẽ do sự chống đối của Thomas Reid xứ Aberdeen, người mà năm đó đã đưa ra sự phê phán mạnh mẽ của Cơ Đốc giáo đối với lý thuyết siêu hình học của Hume, vì thế Hume không nhận được vị trí giáo sư triết học tại Đại học Glasgow. Năm 1752, Hume được nhận vào làm quản lý thư viện của khoa Luật. Đây chính là nguồn tài liệu cho ông tiếp tục các nghiên cứu của mình về lịch sử. Hume nổi tiếng với danh nghĩa một nhà sử học và một người viết tiểu luận. Tác phẩm “Lịch sử vương quốc Anh” từ thời các vương quốc Saxon cho tới Cách mạng Anh 1688 là một trong các cuốn sách bán chạy nhất thời đó. Trong tác phẩm này, Hume đã trình bày con người chính trị như là một sinh vật của thói quen, với khuynh hướng yên lặng tuân theo chính phủ trừ khi gặp phải các tình huống bất ngờ. Theo quan điểm của ông, chỉ có các khác biệt về tôn giáo mới có thể làm lệch hướng con người khỏi cuộc sống hàng ngày để nghĩ về các vấn đề chính trị. Bài luận thời kỳ đầu của Hume “Về mê tín và tôn giáo” (Of Superstition and Religion) đã đặt nền móng cho hầu hết các tư tưởng thế tục về lịch sử tôn giáo. Ở thời của Hume, phê phán về tôn giáo phải được biểu đạt một cách cẩn trọng. Chưa đầy 15 năm trước khi Hume sinh ra, Thomas Aikenhead, một sinh viên 18 tuổi, đã bị xử vì đã công khai nói rằng Cơ Đốc giáo là thứ vô nghĩa. Anh ta đã bị kết án treo cổ vì tội báng bổ. Hume cũng theo cách thông thường, ông biểu đạt kiến giải của mình một cách mơ hồ, thông qua các nhân vật trong các đoạn hội thoại. Hume đã không thừa nhận ông là tác giả của “Luận thuyết” cho đến tận năm ông qua đời, năm 1776. Các bài luận của ông với tựa đề “Về việc tự vẫn”, và “Về sự bất tử của linh hồn” và “Đối thoại về tôn giáo tự nhiên” đã bị giữ không được xuất bản cho đến sau khi ông qua đời (được xuất bản lần lượt vào các năm 1778 và 1779), và khi đó chúng vẫn không mang cả tên tác giả lẫn tên nhà xuất bản. Trong việc ngụy trang quan điểm của chính mình, Hume tài tình đến nỗi ngày nay vẫn đang tiếp diễn các cuộc tranh luận về thực chất Hume là người vô thần hay Thần giáo tự nhiên. Từ năm 1763 tới năm 1765, Hume là thư ký cho Huân tước Hertford tại Paris, nơi ông đã được Voltaire ngưỡng mộ và các quý bà trọng vọng. Ông kết bạn và sau đó bất hòa với Rousseau. Năm 1768, ông định cư tại Edinburgh. Sự quan tâm đến các tác phẩm triết học của Hume càng tăng sau khi triết gia người Đức, Immanuel Kant, ghi nhận Hume đã đánh thức ông ra khỏi “giấc ngủ giáo điều” (khoảng năm 1770), từ đó Hume đạt được sự thừa nhận của công chúng. James Boswell đến thăm Hume vài tuần trước khi ông qua đời. Hume nói với ông ta rằng ông thành thực tin, khả năng có cuộc sống sau cái chết là một “sự tưởng tượng vô lý nhất”. Hume viết văn bia của chính mình: “Sinh năm 1711, Chết [----]. Phần còn lại để cho hậu thế viết thêm”. Vào năm 1776, ông mất và con số này được viết lên “ngôi mộ Roman đơn giản” mà ông đã yêu cầu. Ngôi mộ nằm ở sườn phía đông đồi Calton, nhìn về phía ngôi nhà của ông ở số 1 phố St David, New Town, Edinburgh, như ông mong muốn. Trong số các công trình triết học có ảnh hưởng lớn nhất của ông, Hume cho rằng tất cả kiến thức của con người đều đến qua các giác quan. Các nhận thức của chúng ta, theo như cách gọi của ông, có thể được chia thành hai loại: các ý niệm và ấn tượng. Ông định nghĩa các thuật ngữ này trong tác phẩm “Câu hỏi về sự hiểu biết của con người” như sau: “Với thuật ngữ ấn tượng, tôi muốn nói đến tất cả các nhận thức sống động hơn của chúng ta, khi ta nghe thấy, nhìn thấy, hoặc cảm thấy, hoặc yêu, hoặc ghét, hoặc ước, hoặc muốn. Và ấn tượng phân biệt với ý niệm; các ý niệm là những nhận thức ít sống động hơn, ta nhận ra chúng khi ta suy ngẫm về một trong các cảm giác hoặc các hoạt động kể trên.” Ông miêu tả rõ hơn về các ý niệm: “... tất cả các ý niệm của ta chỉ là các bản sao của các ấn tượng của ta. Nói cách khác, ta không thể nghĩ về bất cứ cái gì mà ta chưa hề cảm nhận được từ trước đó, hoặc bằng các giác quan bên ngoài hoặc bằng các giác quan nội tại.” Điều này tạo thành một khía cạnh quan trọng của chủ nghĩa hoài nghi của Hume, vì ông nói rằng không thể chắc chắn một thứ gì tồn tại, chẳng hạn Thượng đế, một linh hồn, hoặc một bản ngã, trừ khi ta có thể chỉ ra ấn tượng mà ý niệm về sự vật đó đã được rút ra từ đó. Trong tác phẩm của mình, ông đưa ra luận đề nhân quả. Khi một sự kiện xảy ra tiếp sau một sự kiện khác, hầu hết mọi người cho rằng có một mối quan hệ giữa hai sự kiện “làm cho” sự kiện thứ hai theo sau sự kiện thứ nhất. Hume thách thức niềm tin này lần đầu trong tác phẩm đầu tay của ông “Luận thuyết về bản chất con người”, và sau đó là trong tác phẩm “Câu hỏi về sự hiểu biết của con người”. Ông thừa nhận , mặc dù ta chứng kiến một sự kiện xảy ra tiếp sau sự kiện kia, nhưng ta không chứng kiến bất cứ một quan hệ cần nào giữa hai sự kiện. Hume lấy ví dụ về hai quả bi-a: quả bóng đen lăn tới đập vào quả bóng trắng, và quả bóng trắng bắt đầu lăn. Ông nói rằng, thực chất, ta chỉ chứng kiến các sự kiện bóng lăn mà không chứng kiến rằng quả bóng trắng lăn là vì bị quả bóng đen đập phải, (tuy nhiên, ta lại có kỳ vọng rằng quả bóng trắng sẽ lăn sau khi bị quả bóng đen đập phải). Và theo nhận thức luận hoài nghi của ông, ta chỉ có thể tin vào các tri thức mà ta thu được từ các nhận thức của mình. Do đó, quan hệ nhân quả kia không nằm trong bản chất của sự vật mà chỉ nằm trong tâm thức của ta. Hume thiết lập rằng ý niệm của con người về nhân quả chẳng qua chỉ là sự trông đợi rằng một số sự kiện nhất định nào đó sẽ xảy ra sau các sự kiện khác đã đến trước. Một quan niệm như vậy tước bỏ tất cả động lực của thuyết nhân quả, và sau này một số người theo trường phái Hume như Bertrand Russell đã loại bỏ hoàn toàn khái niệm nhân quả như thể một cái gì đó tương tự mê tín dị đoan. Nhưng quan niệm đó thách thức kinh nghiệm thông thường, từ đó sinh ra vấn đề về nhân quả; cái gì biện minh cho niềm tin của ta vào quan hệ nhân quả, và ta có thể có được tri thức về loại quan hệ nào? - một vấn đề không có một lời giải được chấp nhận. Hume khẳng định rằng con người (và các động vật khác) có một niềm tin bản năng vào luật nhân quả dựa trên sự phát triển của các thói quen trong hệ thần kinh, một niềm tin mà ta không thể xóa bỏ, nhưng cũng không thể chứng minh bằng bất cứ luận cứ nào, diễn dịch hay quy nạp. Đó cũng là trường hợp của niềm tin của chúng ta vào thực tại của thế giới bên ngoài. Hume là người đầu tiên xây dựng luận đề về quy nạp (cùng với diễn dịch là một phương pháp suy luận quan trọng trong logic học) và đặt câu hỏi, dựa trên căn cứ nào mà ta có kết luận từ suy luận quy nạp. Câu trả lời là dựa trên thực tế quan sát thấy tức là sử dụng cách suy luận quy nạp. Và nói như vậy là lý luận vòng quanh. Một ví dụ đơn giản về phương pháp quy nạp là hầu hết mọi người đều chắc chắn rằng mỗi khi thả một hòn đá thì hòn đá sẽ rơi. Nhưng thực tế là người ta chỉ được chứng kiến hòn đá đã rơi nhiều lần, chứ chưa hề chứng kiến rằng hòn đá sẽ rơi, hay luôn luôn rơi. Có thể giải thích rằng hòn đá rơi là do định luật hấp dẫn. Nhưng chúng ta chưa hề trải nghiệm định luật đó, ta mới chỉ chứng kiến các vật rơi. Cố gắng giải thích bằng một luận cứ viện dẫn đến một “nguyên lý đồng nhất” rằng quá khứ và tương lai tương tự nhau chắc chắn thất bại: Một nguyên lý như vậy có thể đã được thiết lập chỉ từ kinh nghiệm, trong khi kinh nghiệm lại chỉ được chứng minh là đúng trong quá khứ. Như đã giải thích ở trên, vì đã nhiều lần chứng kiến hòn đá rơi, nên chính thói quen đã làm cho ta trông đợi rằng hòn đá sẽ lại rơi khi được thả. Rõ ràng, ta không có cách nào khác là phải dựa vào các kỳ vọng đó, nghĩa là phải học bằng kinh nghiệm. Từ quan điểm thực tiễn, việc đó được đánh giá là hoàn toàn hữu ích. Tuy nhiên, nhìn từ phía lý tính, nó vẫn là một việc làm không hợp lý. Hume phủ nhận sự phân biệt giữa các đặc điểm đa dạng của một con người và cái bản ngã kỳ bí được cho là chứa đựng các đặc điểm đó. Hume chỉ ra rằng, khi xem xét nội tâm, ta nhận thấy một loạt các suy nghĩ, cảm xúc, tri giác và những thứ tương tự, nhưng ta không bao giờ thấy một cái gì mà có thể gọi là “bản ngã”. Nhận thức về bản ngã trong thực tế là một chuỗi dài những ấn tượng đơn mà ta không bao giờ trải nghiệm trong cùng thời điểm. Tâm thức là “một kiểu nhà hát, nơi một vài tri giác nối tiếp nhau xuất hiện: qua, lại, lướt đi, và hòa vào trong vô số các tư thế và tình thế”. Theo cách nhìn của Hume, các tri giác này không “thuộc” về bất cứ cái gì, không có một cái gì liên quan đến bản ngã trong đó. Hume phủ nhận lý tính đóng vai trò quan trọng nào trong việc thúc đẩy hoặc không khuyến khích hành vi. Dù sao thì lý tính cũng chỉ là một dạng máy tính dành cho các khái niệm và kinh nghiệm. Hume cho rằng, điều có ý nghĩa tối cao là chúng ta cảm thấy như thế nào về hành vi đó. Nghiên cứu của ông liên quan đến thuyết công cụ. Học thuyết này nói rằng một hành động được gọi là hợp lý khi chỉ khi nó phục vụ các mục đích và mong muốn của người thực hiện nó, bất kể các mục đích và mong muốn ấy là những gì. Lý tính chỉ đóng vai trò một kẻ phục vụ, thông báo cho chủ thể hành động các cơ sở lập luận hữu ích về hành động nào sẽ phục vụ mục tiêu và mong muốn của anh ta, nhưng nó không bao giờ khuyên chủ thể rằng anh ta nên có những mục tiêu và ước muốn nào. Ngày nay, nhiều nhà dẫn giải lý luận rằng thực ra Hume đã đi xa hơn một bước tới thuyết hư vô. Hume bàn về luân lý dựa trên cảm tính lần đầu trong “Luận thuyết về bản chất con người”. Sau đó, ông trích ra và trình bày chi tiết các tư tưởng mà ông đã đề xuất trong một bài luận ngắn hơn với tựa đề “Câu hỏi về các nguyên tắc đạo đức”. Cách tiếp cận của Hume trong tác phẩm đó về cơ bản là cách tiếp cận kinh nghiệm chủ nghĩa. Thay vì trình bày đạo đức nên hoạt động như thế nào, ông miêu tả cách chúng ta thực hiện các đánh giá đạo đức trong thực tế. Sau khi đưa ra nhiều ví dụ, ông đi đến kết luận rằng hầu hết các hành vi mà ta ủng hộ có tác dụng làm tăng lợi ích công cộng. Vậy có phải điều đó có nghĩa rằng chúng ta thực hiện các đánh giá đạo đức chỉ dựa trên lợi ích cá nhân? Không như triết gia kinh nghiệm chủ nghĩa Thomas Hobbes, Hume lý luận rằng thực ra điều đó không đúng. Ông khẳng định rằng bên cạnh việc suy xét các lợi ích cá nhân, ta còn chịu ảnh hưởng của sự cảm thông dành cho những người gần gũi của mình. Hume còn bảo vệ thuyết đạo đức dựa trên cảm tính này bằng cách tuyên bố không bao giờ có thể đưa ra các đánh giá đạo đức mà chỉ dựa vào lý tính. Lý tính của ta làm việc với các sự kiện và rút ra các kết luận từ đó, nhưng tất cả đều bình đẳng, nó không thể dẫn ta tới việc chọn một lựa chọn này thay vì lựa chọn kia; chỉ có cảm tính tự nhiên của ta mới có thể làm được điều này. Luận cứ này chống lại việc đặt nền móng của đạo đức lên trên lý tính, và ngày nay là một trong các luận cứ đạo đức ổn định của thuyết phản hiện thực. Quan niệm của Hume là hành vi của con người, cũng như mọi vật khác, có nguyên nhân, và do đó, việc giữ cho mọi người có trách nhiệm với hành động của mình phải tập trung vào việc khen thưởng hoặc trừng phạt họ theo một cách mà khi đó họ sẽ cố gắng làm những điều đáng ước muốn và tránh những việc đáng bị chê trách, xét trên quan điểm đạo đức. Hume là một trong những tác giả đầu tiên phân biệt giữa các mệnh đề miêu tả (là gì) và các mệnh đề quy chuẩn (nên như thế nào), đây là vấn đề phổ biến trong các ngành khoa học xã hội và triết học đạo đức. Có lẽ Hume đã là người đầu tiên, cùng với các thành viên khác của thời kỳ Khai sáng Scolland, đề ra tư tưởng rằng có thể giải thích các nguyên tắc đạo đức vì lợi ích riêng. Tuy Francis Hutcheson, là người đặt ra khẩu hiệu “hạnh phúc là tối đa cho số đông”, nhưng sau khi đọc Luận thuyết của Hume mà Jeremy Bentham đã lần đầu tiên cảm thấy sức mạnh của một hệ thống vị lợi chủ nghĩa. Tuy nhiên, chủ nghĩa vị lợi sơ khai của Hume rất đặc biệt từ góc nhìn của chúng ta. Ông không cho rằng sự kết hợp của các con số đếm về lợi ích có thể cho ra một công thức để đi tới chân lý đạo đức. Ngược lại, Hume là một người theo chủ nghĩa cảm tính đạo đức, ông cho rằng các nguyên tắc đạo đức không thể được minh giải bằng tri thức. Đơn giản là ta cảm thấy một số nguyên tắc là đúng và những người khác thì không; và lý do tại sao các nguyên tắc đạo đức theo chủ nghĩa vị lợi được ta công nhận là vì chúng khuyến khích lợi ích của cả ta và những người khác, những người mà ta có sự thông cảm. Con người được cấu tạo để đồng ý với những gì giúp cho xã hội, nghĩa là lợi ích công cộng. Hume đã sử dụng hiểu biết sâu sắc này để giải thích cách chúng ta đánh giá nhiều hiện tượng đa dạng, từ các thể chế xã hội và các chính sách của chính phủ cho đến tính cách và tài năng. Có thể nói, ông là một triết gia, nhà kinh tế học và nhà sử học, một trong những nhân vật quan trọng nhất trong thời kỳ Khai sáng của Scotland. Các sử gia thường xem triết học Hume như là một dạng thức triệt để của chủ nghĩa hoài nghi, nhưng nhiều người khác đã lý luận rằng trong triết học Hume, thành phần chủ nghĩa tự nhiên cũng không kém phần quan trọng. Ông có ảnh hưởng lớn tới các triết gia và nhà khoa học khác như Adam Smith, Adam Ferguson, Kant, Bentham, James Madison, Alexander Hamilton, Comte, William James, Darwin, Russell, T. H. Huxley, J. S. Mill, Einstein, Ayer, J. L. Mackie. René Descartes D escartes sinh ngày 31 tháng 3 năm 1596 tại vùng Tourain (Pháp). Thời thơ ấu của ông trải qua ở trường dòng. Thuở nhỏ ông luôn ốm yếu nhưng do thông minh nên khi lên 10 tuổi, ông được nhận vào trường hoàng gia Flechơ. Gia đình ông là một gia đình tri thức, cha ông làm cố vấn cho hội đồng thành phố. Thời thanh niên, môn học ông yêu thích là toán nhưng cuối cùng ông lại học luật. Năm 20 tuổi, ông tốt nghiệp khoa Luật trường Đại học Poitie. Ông đã đi nhiều nơi, đến Hà Lan, Đan Mạch, Đức, Áo, Thuỵ Sĩ. Năm 1622, ông trở về Pháp và nghiên cứu triết học. Năm 1629, ông quyết định đến Hà Lan và định cư ở đây. Descartes là nhà triết học và bác học nổi tiếng người Pháp đã đứng trên quan điểm nhị nguyên luận để giải quyết vấn đề cơ bản của triết học, tức vấn đề quan hệ giữa tư duy và tồn tại. Ông thừa nhận có hai thực thể: thực thể của nhục thể có thuộc tính là quảng tính và thực thể của linh hồn có thuộc tính là tư duy; do đó có hai bản nguyên không lệ thuộc vào nhau: một bản nguyên vật chất, một bản nguyên tinh thần. Sự tồn tại của nhục thể và linh hồn là do một thực thể thứ ba là thượng đế quyết định. Là một nhà triết học, ông cố gắng đặt nền tảng lý thuyết của mình vào những gì hiển nhiên mà ông chứng minh được là chân thực, ông tìm kiếm để khám phá sự thật bằng cách hoài nghi tất cả những gì ông đã được học và nhận thấy sự hoài nghi đó giúp ông suy nghĩ đúng. Ông nhận thấy tư duy là tất cả giá trị của con người. Ông đã viết “Tôi tư duy tức là tôi tồn tại.” Về mặt vật lý học, Descartes ủng hộ các luận điểm duy vật chủ nghĩa. Theo Descartes thì tự nhiên là một khối liên tục gồm những hạt nhỏ vật chất. Đặc tính của vật chất là quảng tính. Sự vận động của thế giới vật chất là vĩnh viễn và diễn ra đúng theo những quy luật của cơ học: Vận động của thế giới vật chất quy lại chỉ là sự di chuyển của những hạt nhỏ vật chất, tức là nguyên tử trong không gian. Descartes thừa nhận vật chất vốn có sức sáng tạo độc lập của nó và cho rằng vận động cơ giới biểu hiện sinh mệnh của vật chất... vật chất là thực thể duy nhất, là căn cứ duy nhất của sự tồn tại và của nhận thức. Descartes bác bỏ triết học thời Trung cổ, phủ nhận uy quyền của Giáo hội. Tin tưởng một cách sâu sắc vào sức mạnh của lý tính con người, ông muốn sáng tạo ra một phương pháp mới, khoa học, về việc nhận thức thế giới, đem lý tính và khoa học thay thế cho tín ngưỡng mù quáng. Ông dùng sự “hoài nghi” làm phương pháp suy luận. Nhờ phương pháp suy luận này, người ta có thể tránh được mọi ý kiến thiên lệch hoặc mọi khái niệm thường dùng và xác định ra những chân lý không thể chối cãi được. Ông hoài nghi tính chất chính xác của những quan niệm đối với thế giới và cũng hoài nghi sự tồn tại của bản thân thế giới. Tuy hoài nghi tất cả, Descartes vẫn phải công nhận ông hoài nghi, nghĩa là ông đang suy nghĩ. Và Descartes đã đi đến kết luận nổi tiếng: “Tôi tư duy tức là tôi tồn tại”. Như vậy ông xuất phát từ sự thật về sự tồn tại của cái “tôi” riêng của mình để đi đến kết luận rằng thế giới bên """