" Danh Gia Cổ Vật 4: Minh Nhãn Mai Hoa PDF EPUB 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Danh Gia Cổ Vật 4: Minh Nhãn Mai Hoa PDF EPUB Ebooks Nhóm Zalo DANH GIA CỔ VẬT TẬP 4: MINH NHÃN MAI HOA —★— Tác giả: Mã Bá Dung - Dịch giả: Tố Hinh Quét mã QR code để truy cập nhanh nhóm trên Facebook. Facebook: ebookdep Mục lục Lời tựa Chương 1 Chương 2 Chương 3 Chương 4 Chương 5 Chương 6 Chương 7 Chương 8 Chương 9 Chương 10 Chương 11 Chương 12 Lời tựa TRIỀU PHỤNG LÀ MỘT DANH TỪ CỔ. T ừ này xuất hiện sớm nhất vào thời Hán, vốn là tên một chức quan trong triều. Tới thời Đường, Tống, triều phụng trở thành tên gọi của một loạt các chức quan cố định, như triều phụng sứ, triều phụng lang, triều phụng đại phu v.v... Cách gọi này về sau truyền cả vào dân gian, ví như thư sinh, chủ hiệu buôn# lớn, lái buôn có tiếng tăm, cũng được gọi là triều phụng. Từ sau triều Minh trở đi, triều phụng trở thành cách gọi tôn kính của chủ tiệm cầm đồ, phụ trách mua hàng ra giá, là nhân vật chủ chốt của cửa hàng. Ai đem đồ tới cầm, đều phải chắp tay chào một tiếng “Triều phụng”. Theo dòng thời đại, từ này cũng dần rơi vào quên lãng. Với phần lớn mọi người, đây đã trở thành một từ xa lạ mà bí ẩn. Nhưng đối với tôi, “Lão Triều Phụng” lại là một cái tên không sao quên được, nó thuộc về một con người. Kẻ này đã bán đứng Hứa Nhất Thành ông tôi, khiến ông phải mang tai mang tiếng, ngậm oan mà chết; chưa hết, lão còn giăng bẫy ép bố tôi là Hứa Hòa Bình đâm đầu xuống hồ tự tử; cài người lừa gạt tôi, giết chết bạn tôi. Cái tên này giống như một con quỷ dữ, đeo đẳng ba đời nhà họ Hứa chúng tôi. Lão một tay gây dựng nên mạng lưới làm giả đồ cổ trên toàn quốc, biến nó trở thành khối u ác tính cực lớn của thị trường văn vật Trung Quốc. Về tư, tôi có thù nhà phải tính với lão, về công, không trừ bỏ thế lực của Lão Triều Phụng, thị trường cổ vật sẽ lẫn lộn thật giả, không thể yên ổn. Lão Triều Phụng rốt cuộc là ai? Tôi nhất định phải vạch mặt lão, bằng không cả đời sẽ canh cánh không yên. Trong vụ việc Thanh minh thượng hà đồ, tôi và lão đã tạm thời liên kết lật tẩy âm mưu của Bách Thụy Liên. Đổi lại, Lão Triều Phụng nhận lời sẽ gặp mặt tôi, giải quyết mối ân oán mấy chục năm nay. Giờ đây, sự thật đã ở gần tôi trong gang tấc. Chương 1 PHÁT HIỆN BẤT NGỜ DƯỚI NÚI PHƯỢNG HOÀNG Đ ó là một căn tứ hợp viện cũ nằm ở huyện Thông, cạnh sông Thông Huệ. Trước cửa đặt hai đôn đá hổ phục, đã bị sương gió bào mòn đến không trông ra hình thù gì nữa, trên khung cửa còn dấu vết của hoa văn hoa cuốn, hẳn là một căn nhà từ thời Thanh, chủ cũ cũng là bậc hiển hách. Tiếc rằng dẫu năm xưa vẻ vang nhường nào, nay cũng thành mây khói. Căn nhà này trải bao thăng trầm, trước nhà đã tan hoang đổ nát, đằng này có dấu vết khói lửa, đằng kia lại một khẩu hiệu từ thời Cách mạng Văn hóa chưa xóa sạch, dưới chân tường là một dãy thùng rác, còn cả một chiếc xe đạp mất bánh nằm nghiêng cạnh cây chổi xể to, chắn bùn trước vênh cả lên. Cổng lớn gắn cửa gỗ hai cánh sơn đen, nước sơn vẫn mới song lỗ chỗ khe rãnh, xem chừng cũng đã lâu đời. Tôi đứng trước cửa, giơ tay lên, tim đập như muốn vỡ cả ngực. Bên kia cánh cửa chính là Lão Triều Phụng. Tôi và lão chỉ cách nhau một cánh cửa thôi. Ân oán giữa ba đời nhà họ Hứa chúng tôi và lão, hôm nay sắp sửa kết thúc. Tôi giơ tay đẩy cửa, cửa chỉ khép hờ, đẩy nhẹ là ra. Bản lề gỉ sét kêu lên ken két, như báo cho chủ nhà biết rằng có khách. Bức chiếu bích sau cửa đã bị dỡ bỏ, chỉ còn nửa bức tường đổ. Tôi vừa bước vào đã thấy hết toàn cảnh căn nhà. Căn nhà này không lớn, ngay giữa sân sừng sững một gốc hòe bị sét đánh cháy sém mất một nửa, nửa còn lại xiêu vẹo vươn cành nhánh lên trời, hệt như một gã khổng lồ giơ hai tay kêu cứu. Nhìn thân cây đủ thấy cây hòe này cũng phải đến mấy trăm tuổi. Dân Bắc Kinh gốc thường không trồng hòe trong sân, cho là điềm gở, nhưng cũng có câu “sân có hòe già, tất là nhà cổ”. Trong sân có cây hòe già thế này, hẳn lai lịch căn nhà chẳng phải tầm thường. Một người đang đứng trước gốc hòe, quay lưng về phía tôi, ngẩng đầu nhìn lên tán cây như thể đang ngắm một bức sơn dầu hậu hiện đại. Thân hình người này rất cao, phải hơn tôi cả cái đầu, vận âu phục chỉnh tề thẳng thớm. Lạ một điều là, trông dáng dấp thì kẻ này không hề già. Đây không thể là Lão Triều Phụng được. Nghe tiếng chân tôi, kẻ nọ từ từ quay lại. Thoạt tiên, tôi vô cùng kinh ngạc, không kìm được buột miệng, “Dược Bất Nhiên à?” Nhưng vừa dứt lời, tôi đã nhận ra mình lầm. Khuôn mặt anh ta tuy khá giống Dược Bất Nhiên, nhưng phong thái lại khác hẳn. Lúc nào Dược Bất Nhiên trông cũng có vẻ cợt nhả lông bông bất cần đời. Còn người trước mặt tôi nét mặt nghiêm nghị, ấn đường hằn ba nếp nhăn, đầu bóng mượt không một sợi tóc rối. “Khỏi cần tìm nữa, trong nhà này không còn ai đâu, Lão Triều Phụng không có ở đây.” Anh ta nói tiếng phổ thông cực chuẩn, không bợn mảy may giọng Bắc Kinh. Tôi dáo dác nhìn quanh, quả nhiên hai bên nhà ngang lặng phắc như tờ. Tôi không dám tin, bèn chạy xộc vào tìm khắp một vòng, thấy bên trong gọn gàng sạch sẽ, nhưng không một bóng người. Tôi đùng đùng nổi giận. Chuyện này là thế nào? Tôi trả giá đắt nhường ấy, khó khăn lắm mới có cơ hội gặp Lão Triều Phụng, tự dưng gã này từ đâu nhảy ra chỉ tay năm ngón chứ? “Mẹ kiếp anh là cái thá gì hả?” Tôi gầm lên, siết chặt nắm đấm. Anh ta đẩy gọng kính mạ vàng, “Hứa Nguyện, cậu đúng là xốc nổi hệt như lời đồn.” “Đừng đánh trống lảng! Anh rốt cuộc là ai?” Tôi hùng hổ dấn lên một bước. Song anh ta vẫn trơ trơ, giọng đều đều không chút cảm xúc, “Chào cậu, tôi là anh trai Dược Bất Nhiên, tên Dược BấtThị.” Anh trai... Dược Bất Nhiên ư? Tôi không khỏi săm soi anh ta thật kỹ, vẻ mặt anh ta lạnh lùng thờ ơ, như một tảng băng. Trước kia tôi cũng nghe loáng thoáng Dược Bất Nhiên kể mình có một người anh hơn ba tuổi, không hứng thú với cổ vật nên từ bé đã được người nhà đưa sang Mỹ. Hai người này đúng là khác nhau trời vực, trừ mặt mũi nhang nhác ra thì chẳng có điểm chung nào hết. Nhưng vì sao Dược Bất Thị lại đột ngột về nước? Sao bỗng dưng xuất hiện trong nhà Lão Triều Phụng? Lẽ nào anh ta cũng là một trong các tay chân của lão? Nghĩ đến đó, tôi bỗng sinh lòng cảnh giác, lùi lại hai bước. Dược Bất Thị nói ngay, “Tôi cũng mới tới đây thôi, có lẽ Lão Triều Phụng đã bỏ đi từ trước, tôi không hề gặp lão.” Anh ta nói rất thản nhiên, nhưng tôi nghe mà tức sôi máu. Ra là vậy, Lão Triều Phụng vốn chỉ hẹn gặp mình tôi, nay lại thấy một người lạ tìm đến trước, với tinh thần cảnh giác của lão, hẳn sẽ bỏ đi ngay. Cuộc gặp có lẽ là quan trọng nhất trong đời tôi, không ngờ lại bị một người không liên quan phá hỏng! “Sao anh biết chúng tôi hẹn gặp ở đây?” “Trước giờ tôi vẫn nghe trộm điện thoại của cậu.” Tôi nổi điên không màng lễ tiết, lao đến tóm cổ áo Dược Bất Thị, “Đây là ân oán của nhà họ Hứa chúng tôi, anh xen vào làm gì?” Dược Bất Thị cao lớn, bị tôi tóm cổ áo, phải khom cả người xuống. Anh ta nhìn xuống tôi, nói rành rọt từng tiếng, “Ông nội tôi vì Lão Triều Phụng mà bị dồn đến bước đường tự sát, em trai tôi thành tội phạm bị truy nã, cậu bảo chuyện này có liên quan đến tôi không?” Tay tôi run lên, tức thì buông cổ áo Dược BấtThị ra. Đúng vậy, Lão Triều Phụng không chỉ hại nhà họ Hứa chúng tôi, ngay Dược Lai cũng bị lão uy hiếp, tự tử ngay trước mặt tôi; Dược Bất Nhiên càng khỏi phải nói, đến giờ tôi vẫn không hiểu vì sao gã lại đi theo Lão Triều Phụng. Nhà họ Dược bọn họ hai đời trung kiên, nay một chết một làm phản, có thể nói là tổn thất nghiêm trọng. Tôi nhìn chằm chằm Dược Bất Thị, tìm kiếm niềm căm hận sục sôi đặc trưng trong mắt những kẻ báo thù, song chỉ thấy vẻ bình lặng như chết. Dược Bất Thị lùi một bước, vuốt phẳng cổ áo, giọng vẫn đều đều không nhanh không chậm, “Trong nhà xảy ra chuyện lớn như vậy, chẳng trông cậy được vào ai, tôi đành đích thân về nước giải quyết.” Nói tới đó, anh ta đẩy gọng kính, lạnh lùng nhận xét, “Nhưng tôi buộc phải nói rằng, Hứa Nguyện, cậu làm tôi thất vọng quá.” Tôi thoáng ngạc nhiên, không hiểu sao anh ta lại nói vậy. “Vừa nãy mới nhắc đến Lão Triều Phụng, cậu đã sồn sồn lên như người điên, chẳng còn chút bình tĩnh nào hết. Nôn nóng như thế, dù có gặp được Lão Triều Phụng thật, thì cậu báo thù nỗi gì?” Những lời anh ta nói vun vút phóng về phía tôi như những mũi lao. “Anh thì hiểu quái gì về tôi.” Tôi lầm bầm. “Mọi hành động của cậu từ sau khi quay về Minh Nhãn Mai Hoa, tôi đều đã nghiên cứu kỹ lưỡng. Trong vụ Thanh minh thượng hà đồ, cậu quá nôn nóng báo thù Lão Triều Phụng, bản thân bốc đồng khinh suất, mới sập bẫy của Bách Thụy Liên. Tôi cứ ngỡ cậu đã được một bài học nhớ đời, song biểu hiện vừa rồi chứng tỏ cậu chẳng khá lên chút nào. Tôi điên tiết mỉa lại, “Nhưng tôi đâu phải người đánh rắn động cỏ làm Lão Triều Phụng bỏ đi.” Dược Bất Thị chất vấn, “Cậu gặp được Lão Triều Phụng, rồi thì sao? Cậu đã bao giờ nghĩ đến chưa?” Câu này của anh ta đã thức tỉnh tôi. Trước đây tôi chỉ nôn nóng muốn trông thấy diện mạo thật của Lão Triều Phụng, chưa bao giờ nghĩ nếu gặp rồi thì phải kết thúc ân oán thế nào? Bắt ông ta đem đến đồn cảnh sát giao cho pháp luật trừng trị hay chính tay kết liễu hung thủ? Thấy tôi lặng thinh, Dược Bất Thị lại nói tiếp, “Cậu có bao giờ nghĩ rằng, Lão Triều Phụng xảo quyệt như thế, sao lại chủ động ra mặt hẹn gặp cậu không? Chắc chắn không phải lão ta áy náy lương tâm, vậy hẳn là có mưu đồ khác. Ngay chuyện này cậu còn chưa nghĩ thông suốt đã lật đật chạy đến, chỉ tổ đâm đầu vào bẫy, giẫm lên vết xe đổ của vụ Thanh minh thượng hà đồ thôi.” Giọng anh ta lạnh lùng rành rọt, như một lưỡi dao mổ, từng nhát từng nhát lóc bỏ những hí hửng trong tôi. Bị anh ta phê bình, tôi nổi khùng, “Liên quan quái gì đến anh!” Dược Bất Thị nhướng mày, “Sao lại không liên quan? Cậu phải cùng tôi tóm Lão Triều Phụng. Cộng sự của tôi không thể là một kẻ ngu ngốc được.” Tôi nhất thời cứng họng, thói tự tung tự tác này của anh em nhà họ Dược đúng là anh truyền em nối. Mới gặp nhau chưa đầy mười phút, còn chưa nói rõ chuyện nghe lén điện thoại tôi, mà anh ta đã bắt đầu chê bai tư chất tôi rồi. “Thần kinh!” Tôi ném lại một câu rồi quay người đi thẳng ra cửa. Một gã rạch trời rơi xuống, đưa ra một đề nghị trời ơi đất hỡi. Nếu tôi ngoan ngoãn làm theo mới là điên! “Cậu không muốn bắt Lão Triều Phụng à?” “Chuyện đó tôi sẽ tự nghĩ cách.” “Lẽ nào cậu cũng không muốn biết tại sao thằng em tôi lại bán đứng cậu?” Giọng Dược Bất Thị cất lên sau lưng, khiến tôi vừa dạm bước qua cửa chợt khựng lại, như bị một sợi dây thừng níu lấy cổ chân. Giờ đây Dược Bất Nhiên là cái dằm lớn nhất, câu đố lớn nhất trong lòng tôi. Nếu Lão Triều Phụng là kẻ thù tôi phải xử lý thì Dược Bất Nhiên là khúc mắc tôi cần tháo gỡ. Gã quả thực đã phản bội tôi, nhưng đồng thời cũng đã cứu tôi. Đằng sau vẻ bất cần đời của tên ôn ấy che giấu tâm tư gì, tôi trước giờ vẫn không sao hiểu được. Dược Bất Thị thở dài, “Nó đi đến bước này, tôi cũng thực không ngờ. Xưa nay người anh như tôi vốn không sao hiểu được rốt cuộc thằng oắt đó định làm gì. Hai chúng ta kết hợp với nhau, may ra mới làm rõ nổi.” Tôi hơi phân vân trước đề nghị có vẻ hấp dẫn này. Nhưng nghĩ lại thì có lẽ đây là chiêu trò của Dược Bất Thị, tôi không thể để anh ta dẫn dắt câu chuyện được. Tự nhiên trên trời rơi xuống một ông tướng cùng lời đề nghị hợp tác đường đột, tuy tôi bộp chộp nhưng cũng không dễ tin người đến thế. Tôi trầm ngâm giây lát rồi quay người lại, “Đây không phải chuyện nhỏ, nếu chỉ có hai người chúng ta e rằng không đủ. Hôm nay Hội có một cuộc họp mặt, đầy đủ cả năm nhà. Anh có ý kiến gì tới lúc đó cứ việc nêu ra, để mọi người chung tay góp sức.” Hiển nhiên, thế lực của Lão Triều Phụng thâm sâu khó dò, muốn bắt được lão, ắt phải mượn sức Minh Nhãn Mai Hoa. Ngờ đâu Dược Bất Thị xì một tiếng, khinh khỉnh lắc đầu, “Tôi sẽ lấy lại công bằng cho nhà họ Dược, nhưng không thể trông mong vào đám người ấy được.” Hay thật đấy, tôi nheo mắt. Nghe giọng điệu Dược Bất Thị, rõ ràng là định tự mình hành động, không muốn dính líu đến Minh Nhãn Mai Hoa. Nhưng theo tôi nhớ thì anh ta vốn không phải người trong giới. Một kẻ ngoại đạo quanh năm sống ở nước ngoài, muốn đơn thương độc mã khiêu chiến với Lão Triều Phụng ư? Anh ta chê tôi hữu dũng vô mưu, tôi lại thấy anh ta mới là không biết tự lượng sức. Dược Bất Thị dường như không định giải thích, vung tay ném một tấm danh thiếp sang cho tôi, “Lần này tôi về nước, hầu như không ai trong Minh Nhãn Mai Hoa biết cả, tôi cũng không muốn dự mấy cuộc họp mặt tẻ ngắt. Nếu cậu đổi ý thì tới khách sạn Hoa Nhuận tìm tôi.” Dứt lời Dược Bất Thị quay đi, tiếp tục ngắm cây hòe còng queo dị dạng nọ. Chẳng biết anh ta nhìn cái gì mà mê mẩn như vậy. Tôi thở dài thườn thượt, lúc đến thì lòng dạ sục sôi, kết cục không ngờ vẫn hoàn mông lung. Đành hậm hực ôm cục tức bỏ đi. Cánh cửa cũ kỹ kèn kẹt khép vào, bỏ lại một khoảnh sân vắng ngắt, một người và nửa cây hòe cháy sém. Bước ra khỏi căn tứ hợp viện, tôi bất giác nhớ tới một câu chuyện phong thủy xa xưa. Nhà buôn giàu có nọ trồng một cái cây trong sân, chẳng ngờ sau đó trong nhà liên tiếp xảy ra tai nạn. Có thầy phong thủy đi ngang qua nói, căn nhà này của ông gở quá, trong sân có cây, chính là chữ “khốn”. Tay lái buôn nọ phát hoảng, vội chặt cây đi, nhưng vẫn xảy ra đủ thứ chuyện. Thầy phong thủy lại nói, ông chặt cây đi, thế là trong sân chỉ còn có người, chẳng phải thành chữ “tù”* sao? Một khoảnh sân, một gốc cây và một người chẳng giống căn nhà sau lưng tôi ư? Tôi không phải người mê tín, nhưng lần này đã chẳng gặp được Lão Triều Phụng thì chớ, còn đâm đầu vào bố cục phong thủy này. Hai chữ khốn và tù, lẽ nào là một điềm báo? Buổi họp mặt của Minh Nhãn Mai Hoa không phải cái cớ tôi bịa ra. Tối hôm ấy quả thực có một bữa cơm, tiếng là mừng Thanh minh thượng hà đồ về Bắc Kinh xuôi chèo mát mái, do cục trưởng Lưu chủ trì tập hợp các thành viên trong Hội. Vì bữa nay, cục trưởng Lưu đã phải vất vả nhiều. Sóng gió từ Thanh minh thượng hà đồ do tôi khơi ra, trong Minh Nhãn Mai Hoa rất nhiều người bất mãn với tôi, nhân cơ hội này cũng coi như xoa dịu mâu thuẫn, lót đường cho nhà họ Hứa quay về với Hội. Tiếc rằng mấy nhân vật quan trọng đều vắng mặt: Dược Lai đã qua đời, ông Hoàng Khắc Vũ đang ở Hồng Kông dưỡng bệnh chưa về, cụ Lưu Nhất Minh không được khỏe. Yên Yên cũng phải ở lại Hồng Kông chăm ông nội. Thế nên trên bàn tiệc, ngoài cục trưởng Lưu ra, tôi chỉ biết mỗi Thẩm Vân Sâm của Thanh môn, còn lại đều là con cháu hàng dưới các nhà, chẳng có chuyện gì để nói. Rượu gặp tri âm ngàn chén ít, chuyện không hợp giọng nửa câu nhiều. Tuy cục trưởng Lưu thao thao nói, ra sức hâm nóng bầu không khí, nhưng tôi thực chẳng có gì để trò chuyện với những người ở đây, sau khi kính rượu một vòng thì mạnh ai nấy ăn, không khí có phần tẻ ngắt. Trong số người ngồi đây,Thẩm Vân Sâm vai vế cao nhất. Bà ta cũng có thiện cảm với tôi, vừa gặp mặt đã tặng cho một quả hồ lô bằng gỗ đàn từ thời Đạo Quang để đeo chơi, bảo rằng có thể gặp dữ hóa lành. Hai nửa trên dưới hồ lô khắc hai chữ “Xứng” và “Hứa”, tuy không đáng giá nhưng lại rất có ý nghĩa, hẳn cũng phải mất công chọn lựa. Thanh môn vốn không phải tông phái lớn trong Minh Nhãn Mai Hoa, lại chuyên về đồ gỗ nên trong cả hai vụ việc đầu Phật ngọc và Thanh minh thượng hà đồ, họ đều không tham dự. Ngoại trừ Thẩm Quân đi theo Lão Triều Phụng ra, nhà họ Thẩm vẫn luôn đứng ngoài mọi chuyện nên khá lặng lẽ trong Hội. Nhờ vậy mà tôi lại có thể bình tĩnh chuyện trò mấy câu với Thẩm Vân Sâm. Nhắc tới những thăng trầm của người đứng đầu các nhà Lưu, Hoàng, Dược, bà Thẩm Vân Sâm không nén nổi cảm thán. Bà nói với tôi, kế hoạch mở sàn giao dịch của Hội nghiên cứu giám định cổ vật đã chuẩn bị hòm hòm, sau khi ngăn được Bách Thụy Liên đổ bộ đại lục, hiện đang là thời cơ tốt để khởi động. Về việc thương mại hóa Minh Nhãn Mai Hoa, tôi vẫn giữ quan điểm, danh tiếng bao đời của Minh Nhãn Mai Hoa xưa nay dựa trên cơ sở công chính nghiêm minh, giờ trọng tài lại ra sân đá bóng, để quá nhiều lợi ích chen vào, e rằng sẽ bớt phần công chính. Có điều nói đi cũng phải nói lại, Minh Nhãn Mai Hoa từ lâu đã mở hết cửa hàng này đến cửa hàng khác, giờ chẳng qua là công khai mà thôi. Mở cửa làm ăn, dẫn đầu phát triển kinh tế, đây là xu thế chung của cả thời đại, không thể đi ngược. “Thế nên mới nói, trên mặt trận cổ ngoạn này, chúng ta không chiếm đóng thì đối thủ sẽ chiếm đóng.” Thẩm Vân Sâm cười khà nói, ánh mắt lấp lánh. Bà ta quan tâm đến chuyện này như vậy cũng khó trách, một khi Hội nghiên cứu giám định cổ vật thương mại hóa, e rằng Thanh môn là lợi nhất. Phải biết rằng trong giới cổ vật, đồ gỗ được gọi là “đồ vặt”, còn gọi là “hàng xanh”. Chữ xanh này vừa chỉ chất gỗ ngả xanh, đồng thời cũng chỉ “xanh non ít tuổi”. Những thứ như tranh chữ hay đồ vàng ngọc, gốm sứ, hở ra là truy được đến đời Hán, Đường, Tống, Nguyên. Chỉ có đồ gỗ khó bảo quản, chủ yếu là từ thời Minh,Thanh, xưa hơn nữa rất hiếm. Xanh thì xanh, đồ gỗ vẫn luôn là ngành lợi nhuận khá cao. Giới chơi cổ vật có câu “ba năm không mở hàng, mở hàng ăn ba năm”, chú trọng mua đắt bán đắt. Song đồ gỗ tuy lãi ít mà lại dễ bán, giá cả mỗi món không cao, nhưng nhiều người mua. Nguyên nhân rất đơn giản, những món đồ cổ khác đều là mua về để thưởng ngoạn, còn đồ gỗ, nhất là đồ gia dụng, lại mua về để dùng. Sau khi Hội mở cửa thương mại hóa, chỉ riêng ngành hàng đồ gia dụng phỏng cổ, lượng tiêu thụ đã không thể xem thường. Thẩm Vân Sâm cao hứng thao thao kể với tôi đủ chuyện trong ngành đồ gỗ, còn nói đang lên kế hoạch cho một triển lãm lưu động giới thiệu sản phẩm gia dụng phỏng cổ trên toàn quốc. Tôi tươi cười ngồi nghe, thỉnh thoảng còn gật gù. Thẩm Vân Sâm nói một hồi mới nhận ra chỉ có mình mình nói, bèn nghiêng người sang hỏi tôi tiếp theo đây định thế nào. Tôi nghĩ ngại, cảm thấy đây là một cơ hội tốt, bèn cầm thìa lên gõ vào chén trà. Mọi người nghe keng keng mấy tiếng đều ngừng trò chuyện, đổ dồn mắt vào tôi. “Tôi có chuyện này muốn bàn bạc với mọi người, hôm nay tôi đã đi gặp Lão Triều Phụng.” Lời vừa nói ra, cả phòng tiệc liền lặng ngắt. Trong Minh Nhãn Mai Hoa, Lão Triều Phụng là một từ cấm kỵ, tôi thình lình nhắc tới cái tên này khiến ai nấy đều nín thở. Ngay cục trưởng Lưu và Thẩm Vân Sâm cũng gác đũa nhìn sang, mỗi người một biểu cảm. Tôi thuật lại vắn tắt đầu đuôi câu chuyện đi gặp Lão Triều Phụng hôm nay, dĩ nhiên không nhắc tới Dược Bất Thị, chỉ nói rằng tìm tới căn nhà cổ nọ, song chẳng có ai. Tôi nhìn quanh một lượt rồi nói, “Lão Triều Phụng là kẻ thế nào, thiết nghĩ chẳng cần nói nhiều mọi người đều hiểu cả. Lần này tôi không bắt được Lão Triều Phụng, nhưng cũng không thể mặc lão ta tiếp tục hại người. Hy vọng các vị chung tay góp sức, cùng tôi chặt đứt bàn tay đen chuyên làm giả văn vật ấy, thực hiện trách nhiệm của Minh Nhãn Mai Hoa.” Mọi người ngồi đó đều gật đầu tán đồng, nâng chén tỏ ý ủng hộ. Lão Triều Phụng là thiên địch của Minh Nhãn Mai Hoa, đối phó lão ta là việc đương nhiên. “Lão Triều Phụng hẹn cậu tới đó gặp nhưng không xuất hiện à?” Cục trưởng Lưu cau mày lên tiếng xen ngang. “Vâng.” “Có phát hiện được gì không?” Thẩm Vân Sâm gặng hỏi. “Có, tôi nhặt được cái này, chắc là Lão Triều Phụng đánh rơi.” Tôi rút trong ngực áo ra một thứ, khẽ đặt lên mâm xoay bằng kính, lập tức không ít người trên tiệc buột miệng ồ lên. Cả gian phòng lặng đi giây lát, mọi người nhìn nhau, bầu không khí bắt đầu có những biến đổi tế nhị mà thú vị. “Minh Nhãn Mai Hoa vừa qua một phen khủng hoảng, cá nhân tôi cho rằng, hiện giờ không nên hành động thiếu suy nghĩ.” “Đành rằng phải bắt Lão Triều Phụng, nhưng trước đây cậu Hứa Nguyện tư tưởng lung lay, làm cả Minh Nhãn Mai Hoa nhốn nháo, lần này phải nghĩ ngợi cho kỹ, đừng mắc bẫy kẻ khác nữa đấy.” “Chúng ta chỉ là tổ chức dân sự, cứ cung cấp manh mối cho ban ngành hữu quan, để họ đi bắt là được rồi.” “Từ xưa tới nay, có bao giờ trừ hết được đám làm đồ giả. Bắt được một Lão Triều Phụng thì không còn hàng giả nữa chắc? Ngớ ngẩn!” Không ít người vừa rồi còn gật gù khen phải, giờ lại xoay ra lập lờ nước đôi, còn có người thẳng thừng tạt gáo nước lạnh, chẳng một ai ra mặt ủng hộ tôi cả. Ngay Thẩm Vân Sâm cũng vỗ vai tôi nói, “Cậu Nguyện à, việc này can hệ rộng lắm, phải từ từ bàn tính kỹ mới được.” Nghe những lời ấy, tôi vẫn cười, song mặt càng lúc càng đanh lại. Thứ tôi đặt lên bàn là một bình đan dược cổ cụt bằng sứ xanh lục đời Thanh. Bình thuốc không lớn, chỉ cao tầm tám phân, men chìm không hoa văn, rất nhỏ. Thực ra thoạt trông đã biết đây là một món hàng giả, màu men lợt lạt, mặt cắt lởm chởm, ai biết võ vẽ về cổ vật đều sẽ nhìn ra. Nhưng thứ này cũng đồng thời là một phép thử. Bình thuốc ít khi có đồ giả, bởi không kinh tế, làm giả nhõn một món thì chẳng đáng. Khi ngay cả thứ này cũng có đồ giả, chứng tỏ đằng sau nó là một tổ chức làm hàng giả cực lớn, đã đạt đến quy mô nhất định, ngay một món đồ nhỏ như vậy cũng có thể sinh lời. Thực ra bình thuốc này tôi tiện tay cầm tới đây, không liên quan gì tới Lão Triều Phụng. Chẳng qua tôi chỉ muốn thăm dò xem thái độ thực sự của người trong Minh Nhãn Mai Hoa thế nào mà thôi. Quả nhiên, đám người nọ trông thấy nó, kẻ thì phát hoảng vì thế lực làm hàng giả đằng sau, kẻ lại có tật giật mình, sợ rằng mình cũng bị phát hiện có dính líu. Thường nghe nói xem đồ dễ, nhìn người khó. Giờ xem ra lòng người cũng chẳng khó nhìn thấu cho lắm, chỉ một bình sứ nhỏ đã soi rõ đủ mọi tâm tư. Họ có cả nghìn lý do để phản đối tôi, nhưng tôi biết lý do thực sự là gì: Hiện giờ chuyện thương mại hóa chỉ còn ngày một ngày hai, mọi người đều sốt sắng muốn kiếm tiền, điều tra về Lão Triều Phụng đã không được tiếng cũng chẳng có miếng, tội gì phải dính vào. Chẳng trách Dược Bất Thị không định mượn sức Minh Nhãn Mai Hoa, anh ta xuất thân từ đây, quá hiểu tính tình đám người này rồi. Ban đầu tôi còn vội mừng, giờ thì đã rõ cả. Tôi lặng lẽ cất bình thuốc, đứng dậy toan đi thẳng ra ngoài, không nói thêm lời nào nữa. Mọi người châu đầu ghé tai xì xầm, song đều ngồi yên tại chỗ, chỉ có Thẩm Vân Sâm run run đứng dậy, níu tay tôi giữ lại, “Cái cậu này sao mà cứng đầu thế, có gì mọi người cùng bàn bạc chứ.” Tôi cúi đầu cười bảo bà ta, “Đạo của Minh Nhãn Mai Hoa, ắt phải có một hai người giữ gìn. Mọi người ai cũng bận cả, chỉ có tôi nhàn rỗi, để tôi làm cho.” Thấy không lay chuyển nổi tôi, Thẩm Vân Sâm bèn đổi giọng thuyết phục, nói rằng tốt xấu gì thì đợi cụ Lưu về hẵng quyết cũng không muộn. Song tôi chỉ lắc đầu, “Nếu tôi đoán không sai, Lão Triều Phụng cũng đã ở tuổi gần đất xa trời, nếu để lão kịp nhắm mắt xuôi tay trước khi tôi bắt được, cả đời này tôi sẽ không sao yên lòng. Năm tháng đâu có đợi người ta.” Thấy tôi đã nói đến nước ấy, Thẩm Vân Sâm đành nhíu mày buông tay. Tôi cầm chén rượu giơ về phía cục trưởng Lưu rồi uống cạn, Mao Đài cay xé từ cổ họng trôi xuống dạ dày thành một đường dây lửa. Cục trưởng Lưu vẫn ngồi yên tại chỗ, nhíu mày, chỉ hơi nhấc chén lên, coi như đáp lại tôi. Ông ta là quan chức, phải chú ý giữ cân bằng ổn định, không thể hành xử quá cảm tính. Tôi đặt chén xuống, bước ra khỏi phòng, vừa thấy nhẹ nhõm vì được giải thoát, lại vừa nặng lòng vì uất ức. Người khác thế nào, tôi không có tư cách bình luận, nhưng tôi nhất định phải tra cho ra chân tướng Lão Triều Phụng. Ra đến cửa nhà hàng, tôi chợt nhác thấy một bóng người đứng dựa vào cột trụ hành lang, lặng lẽ dưới ánh đèn vàng tù mù, trông như thể sắp hòa lẫn vào bóng tối. Tay y còn kẹp một điếu thuốc cháy dở, khói thuốc lững lờ bay lên. “Phương Chấn à?” Tôi ngạc nhiên ra mặt, nhưng nghĩ lại thì cục trưởng Lưu ở đây, dĩ nhiên y cũng đi theo. Nào ngờ Phương Chấn lại nói, “Không phải đợi cục trưởng Lưu đâu, tôi đang đợi cậu đấy.” “Hả... Anh cũng muốn ngăn cản tôi à?” Tôi cảnh giác nhìn y. Tay này là bạn vào sinh ra tử với tôi, nhưng đồng thời cũng là một cảnh sát, một khi nhận lệnh cấp trên thì bất chấp tình thân. “Không, tôi tới tiễn cậu một đoạn.” Vẻ mặt Phương Chấn vẫn thản nhiên như không. Y ném đầu mẩu thuốc lá xuống đất, di cho tắt rồi bước xuống thềm. Dưới thềm là một chiếc Santana xám bạc, gắn biển cảnh sát vũ trang. Tôi chẳng hiểu y định làm gì, đành bĩu môi cúi đầu chui vào ghế phụ. Để xem y tiễn tôi một đoạn thế nào. Phương Chấn nổ máy, xe từ từ lăn bánh, chẳng mấy chốc đã bỏ xa nhà hàng. Tôi hạ cửa kính xuống, thò đầu ra ngoài, thở hắt một hơi dài. Rời khỏi đó tôi mới thấy dễ thở. Vừa rồi lúc ở nhà hàng, nhìn ánh mắt đám người ấy, tôi cứ thấy ngột ngạt khó chịu, như phổi nhét đầy túi nilon vậy. Xe chạy bon bon, nhìn đường phố hai bên vùn vụt trôi ngược, tôi chợt thấy không ổn. “Này, đây đâu phải đường về Tứ Hối Trai!” “Tôi biết, đằng nào cậu cũng có muốn về đó đâu.” Phương Chấn vẫn nhìn thẳng phía trước, nắm chặt vô lăng. “Anh biết tôi muốn đi đâu à?” “Khách sạn Hoa Nhuận.” Phương Chấn đáp. Khách sạn Hoa Nhuận nằm về phía Đông Bắc Kinh, là một cao ốc hình trụ hơn ba mươi tầng, trên cùng có một nhà hàng xoay 360 độ, rất nổi tiếng, nhiều Hoa kiều về nước đều thích ở đây. Tôi nghe tiếng đã lâu nhưng chưa tới lần nào. Hai chúng tôi bước vào đại sảnh ở tầng một. Phương Chấn chẳng buồn hỏi han câu nào, đi thẳng tới thang máy. Tôi thầm ngạc nhiên, lẽ nào Dược Bất Thị đã báo với Phương Chấn việc mình về nước? Chẳng phải lần này anh ta bí mật trở về ư? Nghĩ vậy nhưng tôi không hỏi, có hỏi cũng vô ích. Tay Phương Chấn này, hễ cần nói thì đã tự động nói, còn không cần nói thì có cạy răng cũng chẳng moi nổi nửa câu. Tôi len lén liếc sang, thấy y đang dựa lưng vào vách thang máy, hơi cụp mắt, trông như Đức Phật. Hoàn toàn không thể đoán được giờ y đang nghĩ gì. Dược Bất Nhiên mồm miệng tía lia còn Phương Chấn lại tiếc chữ như vàng, bạn bè bên cạnh tôi chẳng có kẻ nào bình thường cả. Vừa nghĩ đến hai chữ “bạn bè”, lòng tôi lại trĩu nặng. Dược Bất Nhiên giờ có còn là bạn của tôi nữa không? Gã là kẻ phản bội, tay nhuốm máu mấy mạng người, không thể tha thứ, nhưng lúc ở thành trại Cửu Long, gã lại xả thân cứu tôi. Vốn dĩ tôi đã thuyết phục được gã ra đầu thú, nhưng về sau gã lại bị Lão Triều Phụng đưa đi, không biết đi đâu. Chính bản thân tôi cũng không biết mình khăng khăng muốn tìm Lão Triều Phụng như vậy, liệu có phải cũng một phần vì Dược Bất Nhiên? Còn đang nghĩ ngọi vẩn vơ, chúng tôi đã đi đến căn phòng cuối hành lang. Phương Chấn bấm chuông, cửa mở ra ngay lập tức. Muộn thế này rồi mà Dược Bất Thị vẫn đóng bộ âu phục chỉnh tề, tóc chải thẳng nếp, không một sợi rối. “Tôi biết thế nào cậu cũng tới.” Anh ta hơi hếch cằm, giọng tự tin như thầy bói. Tôi gượng cười lắc đầu, không nói gì, đi thẳng vào phòng. Dược Bất Thị sập cửa lại đánh rầm, tôi lấy làm lạ, ngoái lại mới nhận ra Phương Chấn không vào. Dược Bất Thị giải thích, “Chúng tôi quen biết nhiều năm rồi, trong số những người liên quan đến Minh Nhãn Mai Hoa, anh ta là người duy nhất tôi hoàn toàn tin cậy. Nhưng do hạn chế của thân phận, những việc tiếp theo anh ta không tiện tham dự.” Tôi gật đầu. Phương Chấn dù sao cũng là công an, lại cực kỳ nguyên tắc. Những việc dân sự thế này, y chịu giữ bí mật cho đã là giúp đỡ nhiều lắm rồi, đừng hòng âm thầm hỗ trợ. Thái độ của Phương Chấn cũng ngầm thể hiện lập trường của cục trưởng Lưu và các ban ngành liên quan: họ không mấy hăng hái với việc bắt Lão Triều Phụng, chí ít cũng không tán đồng để dân thường như tôi tham gia truy bắt. Thế nên Phương Chấn chỉ có thể đưa tôi tới khách sạn Hoa Nhuận mà thôi. Có điều tôi thực không ngờ Dược Bất Thị và Phương Chấn lại là bạn thân nhiều năm. Hai kẻ này một người nói năng thận trọng, một người lại quá kiệm lời, thực chẳng hiểu họ tán gẫu với nhau thế nào nữa. Tới chỗ lạ, tôi thường có thói quen quan sát kỹ xung quanh. Cách bày biện trong phòng tinh tế mà đơn giản, cạnh chiếc giường thênh thang là một va ly to tướng, trên tủ đầu giường đặt một chiếc cặp da và một xấp tài liệu, còn cả một máy cạo râu chạy điện khá xịn. Đây là toàn bộ hành lý chuyến này về nước của Dược BấtThị. Xem ra người này có rất ít nhu cầu cá nhân, lại cực kỳ khắc kỷ. Mục đích anh ta về nước lần này hết sức đơn thuần, chỉ là để báo thù cho nhà họ Dược. Dược Bất Thị không thích hàn huyên khách sáo, đến trà cũng chẳng buồn pha, chủ khách vừa yên vị, anh ta đã vào đề ngay, “Cậu đến chỗ tôi thế này, xem ra bữa cơm tối nay không mấy suôn sẻ nhỉ?” “Ha ha.” Tôi cười gượng, lấy bình thuốc xanh lục đặt lên bàn trà, “Trung nghĩa khắc bài vị, tiền bạc động lòng người cũng là lẽ thường tình. Chỉ một cái bình nhỏ đã dò được hết lòng sông lòng bể của họ rồi.” Dược Bất Thị xua tay, “Tôi không sành đồ cổ, đừng nói những thuật ngữ giang hồ ấy làm gì, đi thẳng đến kết luận đi.” “Mọi người chỉ lo kiếm tiền thôi, chẳng ai muốn sinh chuyện rầy rà cả. Trừ tôi.” Dược Bất Thị hừm một tiếng, khoanh tay trước ngực nói, “Lúc ở căn nhà kia tôi đã nói rồi mà, người trong Minh Nhãn Mai Hoa không đáng tin đâu. Muốn bắt Lão Triều Phụng, cậu chỉ có thể hợp tác với tôi thôi.” Tôi giơ tay lên, “Anh khoan nóng vội. Tôi còn một câu hỏi: anh không phải người trong giới cổ vật, ngay những thuật ngữ cơ bản còn không hiểu, lại sống ở nước ngoài nhiều năm, không có nhiều mối quan hệ ở Trung Quốc. Sao tôi phải hợp tác với anh?” Dược Bất Thị như đã lường trước tôi sẽ hỏi câu này, bèn thong thả đi tới trước mặt tôi, chăm chú nhìn tôi hồi lâu, nhìn đến mức tôi chột dạ. Cuối cùng anh ta mới lên tiếng, “Cậu không cảm thấy trước đây mình mắc sai lầm là vì quá câu nệ vào cổ vật ư?” Tôi không hiểu ý anh ta. “Trong vụ án đầu Phật, nếu cậu không quá chấp nhất với pho tượng, e rằng đã phát hiện ra Dược Bất Nhiên đáng ngờ từ lâu; trong vụ Thanh minh thượng hà đồ, nếu không phải cậu tự cho là mình thông minh, tưởng rằng đã phát hiện ra chân tướng trong tranh, thì đâu có hàng loạt sóng gió về sau? Hứa Nguyện, cậu quả thực là một chuyên gia giám định cổ vật giỏi, nhưng có lúc chính điều này đã trở thành chướng ngại, khiến cậu phức tạp hóa vấn đề lên.” “Ý anh là một tay gà mờ sẽ dễ tìm ra chân tướng hơn à?” Tôi vặn lại, xen lẫn chế nhạo. “Cậu đã nghe chuyện Edison đo bóng đèn chưa?” “Chưa...” “Một lần, Edison muốn đo thể tích một bóng đèn. Trợ lý cấp cao của ông ta loay hoay hết đo độ sâu đến tính độ cong, toát mồ hôi hột. Bấy giờ một sinh viên thực tập trong phồng thí nghiệm cầm lấy bóng đèn, đổ đầy nước vào rồi lại đổ nước ấy ra cốc đong, dễ dàng tính được thể tích. Trình độ toán học của viên trợ lý cấp cao kia hơn đứt cậu sinh viên chứ, nhưng anh ta quá đặt nặng việc tính toán, mà quên mất cách xử lý đơn giản nhất. Vấn đề của cậu cũng vậy, những kiến thức giám định khiến cậu quá tập trung vào cổ vật, khi giải quyết vấn đề luôn bị lệ thuộc ấn tượng ban đầu, bỏ sót các khả năng khác.” Nói tới đây, Dược Bất Thị chỉ vào mình, “Tôi không biết gì về cổ vật cả, tôi vốn học y, về sau chuyển sang học kinh tế. Hai chuyên ngành này đều yêu cầu logic. Tôi sẽ vận dụng logic dẫn cậu đi theo con đường chính xác, hiệu quả cao và rõ ràng, không để những món cổ vật liên tục xuất hiện kia làm rối óc.” Tay này đúng là thẳng ruột ngựa, nói chuyện chẳng biết khiêm tốn chút nào. Trong số những người tôi biết tới giờ, có lẽ chỉ Đới Hải Yến mang phong cách này. “Lão Triều Phụng suy nghĩ kín kẽ, thủ đoạn tàn nhẫn. Muốn tóm được đuôi lão thì không thể suy nghĩ theo lối thông thường được, phải ra tay bất ngờ. Lão hiểu rõ cậu, nhưng không biết đến sự tồn tại của tôi, đây là cơ hội cho chúng ta.” Dược Bất Thị rõ ràng đã suy xét kỹ càng, ăn nói đĩnh đạc cứ như đang phát biểu báo cáo học thuật. Tôi chăm chú nhìn anh ta, dần đi đến một quyết định. Dược Bất Thị nói không sai, lần trước tôi bừng bừng tự tin xông xáo điều tra Lão Triều Phụng, nào ngờ lại bị Bách Thụy Liên lợi dụng, chuyện này khiến tôi vẫn luôn kiêng dè, chỉ sợ bị hận thù che mắt, trúng kế kẻ địch lần nữa. Quả thực tôi cần một trợ thủ có thể bù đắp khuyết điểm cho mình, giúp tôi phát hiện vấn đề nhanh chóng. “Chỉ có một vấn đề là, tôi làm sao biết anh nói thật hay được Lão Triều Phụng phái tới lừa gạt tôi.” Tôi thẳng thừng hỏi, tuy câu hỏi này rất có thể khiến Dược Bất Thị không vui, nhưng dù sao cũng phải nói rõ ràng mới được. Hết Dược Bất Nhiên đến Chung Ái Hoa, tôi đã hai lần bị đâm sau lưng, hơn nữa lại đều từ những kẻ mà tôi cho rằng không thể nào phản bội mình được. Một lần bị rắn cắn, mười năm sợ dây thừng, huống hồ còn bị cắn tận hai lần, tôi không thể không cẩn thận. Dược Bất Thị gật đầu vẻ tán thưởng, “Hỏi hay lắm, chứng tỏ giờ cậu bắt đầu biết tư duy rồi đấy. Những gì tôi nói dĩ nhiên đều là thật, song tôi không thể chứng minh được, cậu chỉ còn cách đánh cuộc một phen thôi.” Thế này cũng coi như trò chuyện thẳng thắn cởi mở. Hai chúng tôi nhìn nhau giây lát rồi cùng cười. Chính xác là chỉ có tôi cười, còn Dược Bất Thị chỉ hơi cong khóe môi, nói là nhếch mép thì đúng hơn. “Được rồi, tôi cuộc.” Tôi chìa tay ra, đôi bên bắt tay đơn giản. Liên minh nhỏ chống lại Lão Triều Phụng vậy là đã hình thành. “Tiếp theo đây chúng ta phải làm gì?” Tôi hỏi, sau đó liệt kê ra mấy hướng điều tra khả dĩ, “Di động của tôi lúc nào cũng mở máy, Lão Triều Phụng có thể sẽ gọi lại, để xem lão ta định thế nào. Còn nữa, trong Minh Nhãn Mai Hoa có không ít người qua lại mật thiết với lão ta, chúng ta cứ lần theo đó...” “Mấy phương án đó đều hỏng cả.” Dược Bất Thị vung tay chặt mạnh xuống. “Hở?” “Lão Triều Phụng đi guốc trong bụng cậu, tất cả những manh mối hiện giờ cậu có thể chạm đến đều có khả năng là cái bẫy lão giăng sẵn, không thể dùng được.” “Vậy phải làm sao?” Tôi ngẩn người. Dược Bất Thị giơ hai ngón tay ra, “Trước hết, cậu phải cắt đứt mọi liên lạc với Minh Nhãn Mai Hoa, biến mất hoàn toàn khỏi tầm mắt họ, để Lão Triều Phụng không cách nào nắm được hành tung của cậu. Sau đó chúng ta sẽ đi tìm manh mối mới.” “Manh mối mới à?” “Chính xác. Lợi lộc đưa đến cửa đều rất khả nghi, chỉ có bản thân chủ động tìm kiếm mới có thể moi được những manh mối tử tế. Cũng như ngọn núi có thổ phỉ chiếm đóng ấy, đường lớn dễ đi nhất định có chôn cạm bẫy, chúng ta phải tìm đường vòng lối tắt, tự phạt gai góc mở ra một lối đi an toàn, mới xới tung được ổ rắn lên.” Hiếm lắm mới thấy anh ta ví von một lần. “Vậy... chúng ta biết đi đâu tìm manh mối mới bây giờ?” Dược Bất Thị đi đến bên tủ đầu giường, cầm một tập tài liệu đưa cho tôi, “Vừa hay tôi có sẵn một chiếc chìa khóa đây.” Xem ra từ lúc ở Mỹ anh ta đã bắt tay vào chuẩn bị rồi. Đây là một bản photo tài liệu tiếng Anh, may mà bên lề có phần dịch ra tiếng Trung. Trang thứ nhất là mấy tấm ảnh màu chụp lư đồng dưới đủ các góc độ, bên cạnh còn có thước đo. Nhà họ Hứa chúng tôi trong Minh Nhãn Mai Hoa chuyên về đồ kim thạch, vừa nhác thấy lư hương nọ, tôi đã để ý ngay. Lư hương trong ảnh không to lắm, chân cao, có hai tai, chạm hình thao thiết, trông bề ngoài khá hoàn hảo nhưng chất liệu lại không giống đồng đen. Thoạt trông thấy lạc khoản dưới đáy lư, tôi ngạc nhiên buột miệng, “Đây... đây là lư Lộ vương à!” Lai lịch lư Lộ vương là một truyền kỳ bắt nguồn từ vùng Vệ Huy, Hà Nam. Thời Vạn Lịch triều Minh, hoàng đế Vạn Lịch phong em trai mình là Chu Dực Lưu làm Lộ vương, cho cai quản phủ Vệ Huy. Chu Dực Lưu rất được lòng Vạn Lịch, phong thưởng vô số, trong phủ Lộ vương vàng ngọc chất đầy mười nhà kho. Một hôm, trong phủ gặp hỏa hoạn, không cứu kịp, một gian nhà kho bị thiêu trụi. Vàng bạc trong kho bị lửa nung chảy hết, thành một khối vàng lớn. Lộ vương có tiền, cũng chẳng buồn để tâm, cứ để trong phủ chẳng dùng đến. Chu Dực Lưu có một đứa con trai, tên gọi Chu Thường Phương, rất thích sưu tầm văn vật, hiệu là Kính Nhất chủ nhân. Sau khi nối nghiệp cha nhận chức phiên vương, ông ta vô tình phát hiện ra khối vàng này, chợt nảy ra một cách xử lý vô cùng phong nhã. Chu Thường Phương vời thợ khéo đến, nung chảy khối vàng ra lần nữa, đúc lại thành lư hương thờ cúng. Khối vàng nọ quá to, đám thợ tổng cộng đúc đến ba trăm sáu mươi chiếc lư hương mới hết. Chu Thường Phương cho rằng lư hương này tuy hình dáng phỏng cổ, song không đủ vẻ cổ kính, bèn chọn một mảnh đất báu phong thủy, đem da trâu bọc kín cả ba trăm sáu mươi chiếc lư hương rồi chôn xuống, để hút lấy khí đất. Trong mắt người hiện đại, đây thực ra chính là biện pháp dùng đất có tính acid để tạo gỉ đồng trên thân lư, hòng giả cổ. Ai ngờ vừa chôn chưa đầy mấy năm thì quân Lý Tự Thành đánh đến Vệ Huy. Để tránh nạn, Chu Thường Phương lánh đến Hàng Châu, về sau bị quân Thanh bắt giải về Bắc Kinh rồi chết thảm. Ba trăm sáu mươi lư hương kia rốt cuộc chôn ở đâu không ai biết. Những lư hương này được giới chơi cổ vật gọi chung là lư Lộ vương. Tố đỉnh lục của ông nội tôi cũng đề cập tới, còn gọi là hàng có tâm. Tại sao? Bởi Chu Thường Phương dòng dõi nhà vua chẳng tội gì phải làm giả, phỏng cổ là phỏng cổ, chứ không đem ra lừa gạt người khác. Dưới đáy mỗi lư đều khắc một dòng chữ nhỏ “Lư số XX chế ở xứ Lộ năm thứ tám đời Sùng Trinh triều Đại Minh”, XX là số thứ tự. Nói thẳng ra rằng đây là đồ phỏng chế, có đánh số hẳn hoi. Trên thị trường từng lác đác xuất hiện mấy lư hương, đều nói là lư hương từ phủ Lộ. Nhưng rốt cuộc ba trăm sáu mươi chiếc lư kia có bao nhiêu chiếc đã được đào lên, ai đào, đào từ đâu thì chẳng ai biết. Đây trở thành một truyền thuyết kho báu ở địa phương. Thấy bản báo cáo Dược Bất Thị đưa liên quan tới lư Lộ vương, tôi hào hứng hẳn, hăng hái đọc tiếp xuống dưới. Báo cáo rất dài, hẳn phải do một cơ quan điều tra chuyên nghiệp viết ra. Tóm tắt lại thì, vào năm 1937, có hai tên lưu manh ở Vệ Huy nảy lòng tham, định đi quật mộ Lộ vương Chu Dực Lưu. Bị dân làng coi lăng phát hiện, chúng vội vã bỏ chạy. Lùi một bước, chúng lại nhăm nhe trộm mộ phi tử của Lộ vương, nào ngờ trong lúc đào đường hầm tính sai phương vị, đào ra một cái hố lớn. Trong lòng hố, chúng tìm được một lư vàng Lộ vương, dưới đáy ghi “Lư số năm mươi hai chế ở xứ Lộ năm thứ tám đời Sùng Trinh triều Đại Minh”, số thứ tự 52. Như vớ được của báu, hai tên ôm ngay cái lư về nhà, nhưng vì chia chác không đều, lại quay ra choảng nhau. Trưởng thôn hay tin bèn lấy cớ trừng trị bọn trộm mộ, bắt luôn hai tên lưu manh giam lại, tra tấn đánh đập dã man, buộc chúng phải ngoan ngoãn nộp chiếc lư hương kia ra. Dân chơi cổ vật vùng ấy có kẻ am tường mách với trưởng thôn rằng, Lộ vương chôn lư, không có chuyện chỉ chôn một cái. Quanh cái hố ấy ắt còn nhiều lư vàng nữa. Nghe vậy trưởng thôn mừng rỡ, quay lại tìm hai tên lưu manh nọ, gặng hỏi chúng đào được ở đâu. Tiếc rằng cả hai vì bị đánh đập dã man nên đã tắt thở, trước lúc lâm chung chỉ trối lại ba chữ: Núi Phượng Hoàng. Miệt Vệ Huy đúng là có núi Phượng Hoàng, cực kỳ rộng, lăng Lộ vương nằm ở gần đó. Trưởng thôn dẫn người đi tìm suốt mấy tháng mà chẳng thấy chỗ chôn lư đâu cả, đành thôi. Sau khi người Nhật chiếm Hà Nam, trưởng thôn gom góp của nả trong nhà đi chạy nạn, theo quân chính phủ lui đến Côn Minh. Không lâu sau ông ta lâm bệnh qua đời, con trai ông ta vì miếng cơm đã bán lư vàng cho một phi công thuộc biệt đội Phi Hổ của Chennault*. Phi công nọ đem cả nó lẫn câu chuyện đằng sau về Mỹ. Sau mấy phen dời đổi, lư vàng được con cháu viên phi công nọ quyên tặng cho một bảo tàng tư nhân. Những bảo tàng như vậy rất coi trọng xuất xứ của văn vật, vời cả chuyên gia tới tìm hiểu lai lịch của nó. Đây là nguyên nhân dẫn tới bản báo cáo này. Xem xong, tôi ngẩng lên, ngờ vực ra mặt, “Lư Lộ vương này đang ở trong tay anh à?” “Xưa nay tôi không thích thu mua cổ vật. Giờ nó vẫn được trưng bày ở bảo tàng tư nhân ấy.” “Vậy anh biết chỗ đào được nó rồi à?” “Tôi cũng chỉ biết như cậu thôi.” “Thế thì... lư này có manh mối liên quan tới Lão Triều Phụng ư?” “Có lẽ thế, nhưng tôi không biết.” Tôi thấy rối mù, chẳng hiểu anh ta có ý gì nữa. Lư Lộ vương hiển nhiên là một văn vật quý giá, nhưng hình như chẳng liên quan gì tới mục đích của chúng tôi cả. Dược Bất Thị dựa vào cửa sổ, lên mặt dạy dỗ tôi, “Đây chính là điều tôi muốn nói, cậu không thể chỉ chăm chắm vào bản thân cổ vật được. Thử nghĩ theo chiều hướng khác đi.” Dứt lời anh ta duỗi thẳng cánh tay phải ra, đột ngột giật lên, sau đó từ từ hạ xuống, lặp lại như thế ba lần. “Anh đang câu cá à?” Tôi bực dọc hỏi. “Chính xác.” Dược Bất Thị nghiêm trang gật đầu, tỏ ý IQ của tôi vẫn còn cứu vãn được. Sau khi về nhà, việc đầu tiên tôi làm là đóng cửa Tứ Hối Trai. Gần đây mọi chuyện rối tung, cửa tiệm nhỏ này của tôi mở cửa thì ít đóng cửa thì nhiều, làm láng giềng đồn ầm lên rằng tôi không phải nợ đầm đìa thì là mới vớ bở. Sau đó tôi tìm một người bạn làm đạo diễn ở đài truyền hình Bắc Kinh, họ đang định tới Tây An quay phim tài liệu về văn vật. Tôi nói ngon nói ngọt để cậu ta cho mình một chân cố vấn trong đoàn. Bàn bạc xong xuôi, tôi mới báo cho Phương Chấn, bảo y chuyển lời nhắn với cục trưởng Lưu rằng mình theo đoàn làm phim đi Tây An, e rằng mấy tháng tới không ở Bắc Kinh. Như vậy người trong Minh Nhãn Mai Hoa đều sẽ biết tôi mất dấu Lão Triều Phụng nên buồn chán đi chơi cho khuây khỏa. Còn về phần họ tin hay không thì tôi chịu không quản được. Một sáng tinh mơ sương mù bảng lảng, tôi theo đoàn làm phim lên tàu từ ga Bắc Kinh, chẳng đem theo gì, đến điện thoại di động cũng bỏ lại nhà. Theo yêu cầu của Dược Bất Thị, tôi phải biến mất hoàn toàn, cắt đứt mọi liên lạc, để tất cả mọi người, kể cả Lão Triều Phụng, đều không thể tìm thấy. Càng cắt đứt triệt để thì Lão Triều Phụng càng khó bày trò. Đoàn tàu chầm chậm rời Bắc Kinh, tôi nhìn ra ngoài cửa sổ, thấy hơi sương trên cửa còn chưa tan hết, những tòa nhà cao tầng từ từ trôi ngược chiều như đang chìm trong màn sương mờ ảo. Lòng tôi có phần thấp thỏm không yên. Giấu giếm người khác đã đành, ngay cả cụ Lưu Nhất Minh cũng phải giấu, khiến tôi khó tránh khỏi áy náy. Trước kia tôi gây ra họa lớn tày trời, nếu không có cụ Lưu ra tay giúp đỡ, bênh vực cho tôi trước Minh Nhãn Mai Hoa, e rằng tôi đã sa chân mất rồi. Cũng may mục tiêu lần này của chúng tôi là Lão Triều Phụng, cùng lắm bắt được lão rồi, tôi sẽ tới gặp cụ Lưu tạ tội. Tôi tin nếu biết Lão Triều Phụng đã bị bắt, cụ Lưu sẽ hết sức vui mừng. Tàu đi hơn nửa ngày thì tôi đổi toa, chia tay đoàn làm phim, sau đó xuống đại một ga. Đợi ở sân ga một lúc lâu, tôi mới mua vé khác, lên tàu đi về hướng khác, hai ba tiếng sau lại xuống tàu rời ga. Không tiếp xúc với bất cứ ai, tôi tìm một nhà vệ sinh công cộng hẻo lánh, chỉnh trang lại quần áo rồi mới ra phố. Lúc này tôi đã đeo một cặp kính cận dày cộp, đầu cố ý cạo trọc cả mảng giống kiểu bị hói, đội mũ nồi họa sĩ che đi, bên mép còn dùng bút than vẽ mấy đường ria. Dẫu có quen biết cũng phải nhìn gần mới nhận ra tôi là Hứa Nguyện. Thế này thì trừ phi Lão Triều Phụng huy động được cảnh sát hình sự cấp tỉnh, bằng không đừng hòng xác định được hành tung của tôi. Tôi vốn cho rằng chẳng cần cẩn thận đến mức này, cứ tìm đại chỗ nào đó đổi tàu là chẳng ai lần ra được. Song Dược Bất Thị khăng khăng nói mọi chuyện đều phải đặt thận trọng lên hàng đầu, cuối cùng bày ra cả chuỗi hành động này, làm như tôi là gián điệp trong tiểu thuyết nước ngoài không bằng. Trong lúc ấy, Dược BấtThị cũng bận chuẩn bị một số việc. Hai chúng tôi chia nhau đi hai đường, hẹn gặp ở thành phố Vệ Huy tỉnh Hà Nam, nơi đào được lư Lộ vương. Hà Nam có bề dày lịch sử vô cùng lâu đời. Huyện lị nào cũng liên quan tới một danh nhân lịch sử tiếng tăm như sấm động, làng quê nào cũng có tuổi đời mấy nghìn năm. Vệ Huy nằm ở vùng Dự Bắc, đã tồn tại từ thời Thương Chu, chính là quê hương của Khương Tử Nha và Tỷ Can, thuở xưa gọi là Mục Dã. Không sai, chính là Mục Dã nơi Chu Vũ vương và Trụ vương quyết chiến.Thử nghĩ mà xem nơi này lâu đời đến chừng nào. Ngoài những danh nhân ấy, nơi này còn từng xảy ra một vụ trộm mộ nổi tiếng, góp phần làm nên một sự kiện trứ danh trong lĩnh vực văn hóa. Vào thời Tây Tấn, nơi đây gọi là huyện Cấp. Có tên trộm mộ tên là Cấp Bất Chuẩn, đã khai quật một ngôi mộ cổ từ thời Xuân Thu, đào ra được mấy xe sách thẻ tre. Triều đình Tây Tấn tập trung các học giả nổi tiếng lại, tiến hành chỉnh lý, phát hiện trên đó ghi chép rất nhiều điển tịch từ thời Tiên Tần, còn chép lại một đoạn mật sử thời Chu, kể chuyện Chu Mục vương đánh xe tám ngựa đi về phía Tây chơi núi Côn Luân, uống rượu chuyện trò với Tây Vương Mẫu. Về sau những sách thẻ tre này hợp lại thành Trúc thư kỷ niên, trở thành tài liệu quan trọng để nghiên cứu về lịch sử Tiên Tần. Nhà họ Hứa chúng tôi chuyên về kim thạch, tiếp xúc với rất nhiều cổ vật thời Hạ, Thương, Chu nên thuộc làu đoạn lịch sử này. Cứ nghĩ sắp đặt chân tới Vệ Huy, nơi tìm ra Trúc thư kỷ niên, tôi lại thấy phấn chấn như đang chậm rãi bước vào lịch sử. Tàu vào ga rồi đỗ lại, tôi mới phát hiện trước mặt là một nhà chờ mang phong cách châu Âu, chính giữa nhô lên một tháp đồng hồ mái cong hình tam giác. Từ cuối thời Thanh đến thời Dân Quốc, đây là đầu mối xe lửa quan trọng và nhộn nhịp nhất vùng Dự Bắc, tính ra thì nhà chờ này cũng đã có tuổi đời gần trăm năm rồi. Tuy rõ ràng đã được trùng tu mấy lần, nhưng dân chơi cổ vật chỉ thoáng trông đã nhận ra phong vị cổ kính từng trải suốt trăm năm. Bước ra khỏi nhà chờ, tôi thấy một cậu đeo kính đen tựa vào lan can bên ngoài cửa ra, giơ một tờ giấy đánh máy, “Đón thầy Uông Hoài Hư từ Bắc Kinh”. Uông Hoài Hư là tên giả của tôi, giờ tôi đang vào vai một giảng viên khoa lịch sử đến từ Bắc Kinh. Tôi đi đến, nói mình là Uông Hoài Hư, cậu nhóc nhìn tôi từ đầu tới chân rồi bảo thầy đi theo em. Cậu ta lái một chiếc Gaz xanh lục, trông khá cũ, vừa nổ máy đã rung bần bật. Tôi cúi đầu ngồi vào ghế sau. Cậu chàng ngoái lại nói, “Nếu thầy không có kế hoạch gì khác thì chúng ta về thẳng nhà khách nhé, chủ nhiệm Khang đang đợi đấy.” Tôi đáp được, rồi hỏi ông Lý Ước Sắt đã đến chưa, cậu nhóc đáp họ đang bàn việc ở đó. Vệ Huy cũng không rộng lắm, mới từ huyện lên thành phố được mấy năm, có vẻ ngoài đặc trưng của một thành phố nhỏ phía Bắc Trung Quốc. Ngoài đường phần lớn là xe đạp và xe ngựa kéo, hai bên đường đầy các sạp hàng rong, tiếng còi xe và tiếng ngựa hí khắp nơi, xen lẫn cả tiếng chửi bới xoe xóe bằng giọng địa phương. Tuy cảnh tượng khá hỗn loạn, nhưng lại bừng bừng sức sống. Nơi chúng tôi đến là nhà khách Tân Hương mới khánh thành, vừa đến gần đã ngửi thấy mùi sơn khen khét. Xe đỗ lại cạnh một chiếc Mercedes-Benz FC hiếm thấy ở Trung Quốc. Đây là dòng xe lễ tân do FAW* lắp ráp theo kỹ thuật của Mercedes Benz, toàn quốc tổng cộng chỉ có chín trăm chiếc, thường được các bộ ngành chính phủ dùng để đưa đón quan khách. Cậu chàng kia tặc lưỡi ngưỡng mộ, “Nhìn xem người ta hoành tráng chưa, lái cả xe tiếp khách tới, oách quá đi mất.” Tôi cũng ngạc nhiên hết sức, Dược BấtThị đúng là bạo tay. Vừa bước vào sảnh, tôi đã trông thấy Dược Bất Thị đang trò chuyện với một cán bộ trung niên bụng phệ, thỉnh thoảng ông cán bộ lại cười ha hả. Dược Bất Thị đóng bộ âu phục chỉnh tề, trông còn chỉn chu hơn lúc tôi gặp ở Bắc Kinh, rõ ra vẻ trí thức tinh hoa quốc tế. Thấy tôi đến, anh ta liền cùng ông cán bộ kia bước ra đón, niềm nở giới thiệu, “Để tôi giới thiệu nhé, vị này là chủ nhiệm Khang phụ trách bộ phận thu hút đầu tư ở Vệ Huy. Còn đây là thầy Uông Hoài Hư của đại học Bắc Kinh.” “Chào giáo sư Hư.” Chủ nhiệm Khang vồn vã bắt tay tôi lắc lắc thật mạnh. Tôi thản nhiên đính chính, “Tôi chỉ là giảng viên thôi.” Chủ nhiệm Khang chẳng hề lúng túng, trái lại càng vồn vã hơn, “Ôi dào, đằng nào cũng là thành phần trí thức cả, có khác gì đâu. Mừng thầy đến Vệ Huy. Thành phố của chúng tôi có bề dày lịch sử lâu đời, lát nữa tôi sẽ giới thiệu kỹ với thầy và anh Lý Ước Sắt.” Tôi suýt nữa thì phì cười ra tiếng. Tay Dược Bất Thị này trông nghiêm túc là vậy mà lại lấy cái tên cực kỳ gợi đòn. Chỉ cần là người biết võ vẽ về lịch sử đều biết Lý Ước Sắt* là tên một học giả người Anh nổi tiếng chuyên nghiên cứu về Hán học, vậy mà anh ta dám lấy làm tên giả. Chủ nhiệm Khang vồn vã tiếp đãi cũng có lý của nó. Lần này Dược Bất Thị đến Vệ Huy, lấy danh nghĩa là Hoa kiều về nước tới khảo sát đầu tư. Không chỉ lái xe lễ tân tới, còn hào phóng tặng cho các lãnh đạo có liên quan mỗi người một chiếc đồng hồ đeo tay, khiến giới chức địa phương vô cùng rúng động. Vì vậy chính quyền địa phương rất coi trọng anh ta, chỉ mong tay đại gia này đầu tư một hạng mục lớn vào thành phố mình. Có điều thái độ của chủ nhiệm Khang với tôi và Dược Bất Thị có sự khác biệt rất tế nhị. Tại sao khảo sát đầu tư lại phải gọi một tay giảng viên lịch sử đi cùng? Dược Bất Thị không giải thích, chỉ nói tôi là bạn, nên quan chức địa phương có lẽ đều cho rằng tôi dựa hơi người quen tới ăn chực uống chờ. Tôi và Dược Bất Thị nhìn nhau, cũng chẳng phân trần nhiều. Họ hiểu lầm như vậy càng hay, điều này rất quan trọng trong kế hoạch tiếp theo đây. Buổi trưa bộ phận thu hút đầu tư đặt tiệc ở nhà hàng Đức Thắng nổi tiếng để chiêu đãi, sau khi ăn uống xong xuôi, chủ nhiệm Khang đề nghị dẫn chúng tôi đi thăm thú Vệ Huy. Tôi và Dược BấtThị dĩ nhiên đều đồng ý. Những di tích cổ đáng thăm thú quanh Vệ Huy khá nhiều, trung tâm thành phố có phố Nam Mã, phố Bắc Mã, thời Minh từng là khu chợ ngựa, tuy hiện giờ đã chẳng còn dấu vết, nhưng biển đề cửa ngõ do hoàng đế Sùng Trinh nhà Minh đích thân lập vẫn còn đó. Đi xa hơn nữa là quê cũ của Khương Tử Nha, miếu Tỷ Can, từ đường nhà Từ Thế Xương, chùa Hương Tuyền v.v... đều ở quanh quanh Vệ Huy. Chúng tôi mất một ngày cưỡi ngựa xem hoa, cuối cùng tới góc Đông Bắc của thành cổ Vệ Huy. Ở đây có một văn vật trọng điểm được nhà nước bảo tồn - lầu Vọng Kinh, được coi là kiến trúc cất bằng đá không có xà nhà lớn nhất Trung Quốc. Chúng tôi lại gần xem, thấy đó là một công trình trông như lô cốt, cao hơn 30 mét, hình chữ nhật, dựa Bắc hướng Nam, xây toàn bằng đá tảng, chất đá ngoài xanh trong trắng, được tuyển chọn kỹ càng. Vốn lầu có hai tầng và năm gian đại điện hiết sơn đỉnh*, tiếc rằng giờ chỉ còn nền đá và cột trụ. Trên tầng thượng của lầu Vọng Kinh còn có một cổng chào đá bốn cột ba tầng, tên gọi “cổng Thành Ý”. Trống đá Như Ý và đài sen vẫn đây, lờ mờ những hoa văn chạm trổ, tinh xảo khôn xiết. Tiếc rằng giờ cỏ dại mọc đầy, huy hoàng thuở trước chỉ còn dấu đá vệt rêu, khiến người ta chạnh lòng cảm khái. Dược Bất Thị đứng trên lầu, hai tay đút túi, trông vời phía xa. Từ đây có thể nhìn bao quát khắp thành cổ Vệ Huy và vùng phụ cận. Chủ nhiệm Khang không hổ là người của bộ phận thu hút đầu tư, thấy khách chỉ trầm ngâm nhìn ra xa, lập tức thừa cơ sán lại giải thích, “Vị trí địa lý của Vệ Huy có thể xem là đắc địa. Năm xưa hoàng đế Vạn Lịch đã ban cho chỗ chúng tôi tám chữ: 'Nam thông mười tính, Bắc chầu về kinh'. Anh đứng ở đây có thể bao quát tất cả, nhìn về phía Nam hay phía Bắc đều là đồng bằng bát ngát, là đầu mối trọng yếu nối liền Thái Hành và Hoàng Hà, xét về mặt đầu tư, có thể coi là một mảnh đất báu phong thủy.” “Bên kia là núi Phượng Hoàng à?” Dược Bất Thị chợt giơ tay trỏ về phía Tây hỏi. Chủ nhiệm Khang sững ra, rồi mừng rỡ đáp, “Không ngờ anh Sắt hiểu rõ Vệ Huy như vậy. Chính xác, đằng ấy là núi Phượng Hoàng.” Lý Ước Sắt hỏi, “Tôi nghe nói dưới núi Phượng Hoàng có lăng Lộ vương, có phải thật không?” Chủ nhiệm Khang gật đầu lia lịa, “Thật đấy, giờ vẫn còn. Ấy là mộ của Lộ vương Chu Dực Lưu thời Minh, rộng lắm, còn rộng hơn cả Thập tam lăng. Phải rồi, lầu Vọng Kinh dưới chân chúng ta đây là do Lộ vương xây cho mẹ mình. Anh ở Mỹ mà cũng rành mấy chuyện này cơ à?” Lý Ước Sắt đáp, “Tổ tiên nhà tôi có để lại một chiếc lư vàng, nghe nói là đào được dưới chân núi này.” Chủ nhiệm Khang sáng mắt lên, vội cười nói, “Thế thì tốt quá, chứng tỏ anh có duyên với Vệ Huy chúng tôi đấy.” Ông ta nịnh nọt thêm mấy câu rồi đổi chủ đề. Ba ngày sau đó, chủ nhiệm Khang dẫn Dược Bất Thị đi khảo sát điều kiện đầu tư, Dược Bất Thị lúc nào cũng trưng ra vẻ mặt điềm đạm, chỉ luôn miệng nhắc tới việc làm ăn, không đả động gì tới lư vàng. Còn tôi xin được tự do hoạt động, tự đến lăng Lộ vương dạo một vòng, ở đó có thể mua vé vào tham quan, nhưng khá vắng, ngoài tôi ra chẳng có mấy du khách. Tôi thích yên tĩnh, vừa đi vừa hí húi viết vẽ, dạo khắp lăng tẩm còn tiện đường thăm thú quanh núi Phượng Hoàng cho thỏa thích. Đến ngày thứ tư, việc khảo sát về cơ bản đã kết thúc. Bộ phận thu hút đầu tư lại đặt tiệc ở nhà khách, mấy chủ nhiệm đều tham dự. Trong bữa ăn mọi người cụng ly đổi chén, uống thả cửa. Chẳng hiểu sao mấy tay quan chức đó lại hết sức nhiệt tình với tôi, liên tục chuốc rượu, cuối cùng làm tôi phải chạy vào nhà vệ sinh ôm bồn cầu nôn hết ra. Thấy tôi đã say khướt, chủ nhiệm Khang bèn nói: “Để tôi đưa thầy Hư về phòng, các vị cứ uống tiếp đi.” Tôi được ông ta dìu về phòng, lúc ngang qua Dược Bất Thị, tôi yếu ớt giơ tay lên, ngón cái và ngón trỏ chụm lại thành một vòng tròn, ba ngón kia xòe ra, lắc lắc trước mặt anh ta. Bước vào phòng, chủ nhiệm Khang rót cho tôi một cốc nước nóng. Tôi uống cạn rồi ngã vật xuống xô pha thở hồng hộc. Chủ nhiệm Khang nhìn ra cửa, nheo mắt cười hỏi, “Thầy Hư này, anh Lý Ước Sắt mời thầy tới Vệ Huy, chắc không phải vì việc đầu tư đâu nhỉ?” “Hở?” Tôi ngẩng lên, ánh mắt mơ màng. “Tôi cứ băn khoăn mãi không hiểu nổi. Đầu tư làm ăn, sao phải gọi giảng viên lịch sử đến làm gì, đến rồi cũng không đi khảo sát mà lại một mình tới núi Phượng Hoàng tha thẩn dạo chơi, ắt phải có mưu đồ khác.” Tôi lắc đầu, “Chẳng hiểu ông nói gì hết.” Chủ nhiệm Khang lại gần, hạ giọng thật thấp, “Thầy Hư, tôi đoán mục đích thực sự của thầy là thay anh Lý Ước Sắt tìm lư Lộ vương, đúng không?” Quan trường đúng là rặt một hạng cáo già, tôi và Dược BấtThị mới mập mờ ám chỉ như thế mà chủ nhiệm Khang đã đoán ra. Tôi vờ hoảng loạn, đưa mắt nhìn về phía tủ đầu giường. Trên đó rải một đống tài liệu, có kẹp cả báo cáo điều tra về chiếc lư Lộ vương ở Mỹ. Tôi đã đặt chén trà lên bản báo cáo nọ, để lại một vệt nước hình tròn. Giờ chén trà vẫn đây nhưng vệt nước đã lệch khỏi đáy chén. Nhất định có kẻ đã lẻn vào phòng tôi, lấy báo cáo ra xem. Chủ nhiệm Khang tủm tỉm cười vẻ như đã biết tỏng, song cũng không huỵch toẹt ra, chỉ sáp lại gần hơn, “Thầy đừng cuống, tôi không phải người bên quản lý văn vật, mà dù có phải cũng đâu làm gì được thầy. Thực ra tôi chỉ muốn thầy biết rằng tôi cũng biết ít nhiều về chuyện ba trăm sáu mươi chiếc lư Lộ vương đấy, tôi có quen mấy người bạn chơi cổ vật nên được họ kể cho nghe.” Tôi bỗng nôn khan, liêu xiêu định đứng dậy. Chủ nhiệm Khang ân cần dìu tôi đến trước bồn cầu, vừa vỗ lưng cho tôi vừa nói, “Núi Phượng Hoàng rộng mênh mông, nếu không có dân bản xứ chỉ dẫn thì khó mà tìm được hố chôn lư.Thầy Hư này, hay tôi giới thiệu mấy người bạn chơi cổ vật kia với thầy nhé, xem có giúp được gì không? Họ nhiệt tình lắm.” Tôi yếu ớt ngẩng lên, “Anh Lý Ước Sắt ở nước ngoài đã lâu nên lần này ủy thác cho tôi điều tra. Mong rằng mấy người bạn của ông biết giữ mồm giữ miệng.” Câu này tôi đã phải nghiền ngẫm suy tính rất lâu, ám chỉ bốn điều. Một, Lý Ước Sắt không biết gì về cổ vật; hai, tôi và Lý Ước Sắt là quan hệ chủ tớ, không phải bạn bè thân thiết, vậy là tồn tại khe hở có thể lợi dụng; ba, trong việc tìm lư Lộ vương, tôi tượng trưng cho ý kiến chuyên gia cuối cùng; bốn, mong rằng mấy người bạn của ông biết giữ mồm giữ miệng, hiển nhiên là tôi bằng lòng để họ giúp đỡ. Chủ nhiệm Khang lăn lộn quan trường đã lâu, dĩ nhiên nhìn ra ngay những lắt léo trong câu này. Ông ta cười ha hả, tiện tay đưa cho tôi một chiếc khăn nóng, “Vậy để tôi bảo họ đi tìm giúp anh, có tin gì sẽ báo với anh ngay.” Tôi cầm khăn ướt lau mặt, “Phiền ông quá, sau này tôi sẽ hậu tạ.” Chủ nhiệm Khang cười tươi rói. Trên đời chẳng có tin nào giấu được mãi, nhất là những chuyện đã dặn đi dặn lại chỉ cho mình ông biết thôi đấy. Chủ nhiệm Khang kể với mấy người bạn chơi cổ vật, mấy người bạn đó lại kể với bạn bè người thân của họ, một đồn mười, mười đồn trăm, chẳng mấy chốc chuyện này đã lan khắp giới cổ vật Vệ Huy. Vệ Huy là một thành phố nhỏ, chẳng bao lâu khắp nơi đã xôn xao tin đồn. Nói rằng có một Hoa kiều giàu sụ, tổ tiên là người Vệ Huy, đã truyền lại cho anh ta một chiếc lư Lộ vương. Lần này anh ta về nước là muốn tìm ba trăm năm mươi chín chiếc lư còn lại. Bất luận là lư lẻ lưu lạc dân gian hay manh mối về chỗ chôn lư, anh ta đều sẽ trả giá cao. Thậm chí còn có kẻ đồn rằng tay Hoa kiều này là con cháu Lộ vương, muốn thu gom đủ ba trăm sáu mươi chiếc lư vàng, hòng tìm ra kho báu chôn giấu trong lăng Lộ vương. Lời đồn lan đến tai tôi khiến tôi phải phì cười, vẻ mặt Dược BấtThị cũng giãn# ra, khóe môi thoáng vẻ giễu cợt. Tất cả những chuyện này đều nằm trong dự liệu của chúng tôi. Kế sách này kể ra thì đơn giản, có thể hình dung bằng bốn chữ: muốn bắt nên thả. Tâm lý con người lúc nào cũng vậy, càng cố chào mời giới thiệu, người ta càng không tin; càng giấu giếm không cho biết, người ta càng tin chắc như đinh đóng cột. Trong nghề buôn đồ cổ, đây là một thủ thuật rất thực dụng, muốn bán món gì đó, chớ chủ động mời mọc, phải làm ra bộ tiếc rẻ không muốn bán, người mua mới nằng nặc đòi mua. Có câu rằng, vồn vã chẳng bằng mặt lạnh như đá, chính là lý ấy. Qua hàng loạt những ám chỉ trước kia của chúng tôi, chủ nhiệm Khang đã đoan chắc rằng Lý Ước Sắt là một gã cực sộp, đến Vệ Huy để tìm lư Lộ vương. Ngoài thân phận quan chức, e rằng trong giới cổ vật địa phương, ông ta cũng có ảnh hưởng nhất định nên mới vỗ ngực chủ động gọi bạn bè đến “giúp một tay”. Thực ra người trong nghề đều hiểu, bao nhiêu năm nay tìm mãi không ra chỗ chôn ba trăm năm mươi chín chiếc lư Lộ vương kia, sao có thể lần ra manh mối trong một thời gian ngắn được. “Giúp đỡ” theo lời chủ nhiệm Khang, chỉ có thể là hàng hiến tặng, mà lấy đâu ra đem hiến tặng? Chẳng cần nói cũng biết. “Đám người đó chắc cũng làm giả được hòm hòm rồi nhỉ?” Dược Bất Thị cầm tách cà phê đứng bên cửa sổ, nhìn ra cảnh sắc thành phố bên ngoài, nói giọng châm biếm. Tôi bắt tréo chân, chậm rãi đáp, “Làm lư hương cốc chén không mất nhiều thời gian, quan trọng là phải làm cũ. Trước kia người ta đem chôn xuống chỗ đất chua để làm gỉ, mất ba đến năm năm, giờ kỹ thuật phát triển, ngâm vào bể acid acetic hay acid oxalic là xong, ba ngày bằng ba năm. Cho họ thêm một ngày đánh bóng, giờ này ngày mai chắc có thể đem đến hiến tặng được rồi.” “Làm trong thời gian ngắn như thế, nhất định sẽ có nhiều sơ hở, họ dám đem ra hiến tặng à?” Tôi tủm tỉm cười, “Đừng quên anh là đồ gà mờ, mọi việc giám định đều do tôi cả. Chỉ cần họ mua chuộc tôi, hùa nhau lừa anh thì không thành vấn đề.” Kế hoạch câu cá tuyệt diệu này có nguyên lý hết sức đơn giản: cố tình giăng bẫy, biến Lý Ước Sắt thành miếng mồi ngon, dùng lư Lộ vương câu đám chuyên làm hàng giả quanh Vệ Huy ra, để chúng tự động tìm đến cửa. Từ trong số đó chúng tôi sẽ có cơ hội lần ra kẻ có quan hệ mật thiết với Lão Triều Phụng. Như lời Dược Bất Thị, chúng tôi không thể lần theo các manh mối đã biết mà phải tạo ra manh mối mới. Nghĩ kỹ lại thì kế hoạch này chẳng liên quan gì tới cổ vật cả, dẫu đổi lư Lộ vương thành bất kỳ thứ gì khác, cũng vẫn logic như thường. Nó không liên quan đến đồ vật, mà chỉ dựa trên lòng người. Dược Bất Thị nhấp một ngụm cà phê rồi lại lên mặt dạy đời, “Cậu xem, đây chính là thao túng lòng người, nếu cứ chấp nê vào lư hương thì không thể thành sự được. Cậu hiểu được thì tốt.” Tôi đảo mắt, muốn cạn lời. Gã này đáng ghét nhất ở cái thói luyên thuyên phách lối. Tôi búng bản báo cáo trong tay, “Có điều tôi nghĩ mãi không thông một chuyện, sao anh dám chắc người của Lão Triều Phụng sẽ tới hiến tặng?” “Đơn giản thôi, chỉ có hai từ: lợi ích.” Dược Bất Thị lại giơ hai ngón tay lên, “Lão Triều Phụng là thế lực lớn nhất trong lĩnh vực làm giả cổ vật ở Trung Quốc, để giữ vững sản nghiệp to lớn ấy, áp lực về doanh thu đè lên vai các đại lý địa phương nhất định không nhỏ, chiến lược kinh doanh của chúng chắc chắn sẽ đi theo hướng tối đa hóa lợi nhuận trong thời gian ngắn nhất. Chúng ta tung ra tin đồn về lư Lộ vương, người bên ngoài sẽ cho rằng đây là miếng thịt béo, đời nào chúng lại thiếu mặt.” “Những kẻ làm đồ giả đến hiến tặng hẳn là nhiều lắm, anh làm sao phân biệt được đâu là người của Lão Triều Phụng?” “Ắt là kẻ hứa sẽ cung cấp nhiều lư hương nhất rồi.” Dược Bất Thị đáp không chút do dự. “Tại sao?” “Hai chữ thôi, quy mô.” Dược Bất Thị lại giơ hai ngón tay, “Đừng quên chúng ta không chỉ muốn một chiếc, năm chiếc hay mười chiếc lư, mà là ba trăm năm mươi chín chiếc. Con số lớn như vậy, lại thêm chúng ta cố ý ép thật gấp, không phải xưởng làm hàng giả có quy mô nhất định thì không cách nào làm được nhiều thế. Cứ theo đó mà tìm Lão Triều Phụng, chắc chắn không sai được.” Lần này chẳng đợi tôi tỏ vẻ tán thưởng, Dược Bất Thị đã nói tiếp, “Cậu thấy chưa, tôi chẳng cần kiến thức gì về cổ vật, chỉ phân tích dưới góc độ kinh doanh và sản lượng đã đi đến được kết luận chính xác rồi, nên logic mới là...” “Được rồi được rồi, anh trật tự đi.” Tôi vội vàng đứng dậy bỏ ra khỏi phòng, tránh nghe anh ta lải nhải. Hai anh em nhà này tuy phong thái khác nhau nhưng tính ưa lải nhải thì như đúc một khuôn. Tình hình mấy ngày sau đó quả như chúng tôi dự liệu. Ban ngày Lý Ước Sắt tiếp tục đi khắp nơi khảo sát họp hành, mọi sự như thường. Đến tối thầy Hư là tôi mới bắt đầu bận bịu, những bạn bè chủ nhiệm Khang giới thiệu cứ lũ lượt xách đồ đến, úp úp mở mở tìm tôi. Thoạt đầu người đến hiến tặng đều đem theo một hai lư hương, mỗi người nói một phách. Kẻ bảo rằng tổ tiên từng canh lăng cho Lộ vương, được vương gia ban thưởng; người lại nói tổ tiên là phu đào đất chuyên trộm mộ, lư hương này là minh khí đào được trong mộ Lộ vương. Có người còn bạo dạn hơn, tự xưng là con cháu Lộ vương, đòi nhận họ hàng với Lý Ước Sắt. Lư hương họ đem đến mới thật là cái sau xấu hơn cái trước, thực không dám nhìn. Hết chân lệch tai méo đến hình dạng không đúng, có người còn đem đến một cái lư vàng chóe lóa cả mắt - cho tôi xin đi, trước khi đến tốt xấu gì cũng phải tìm hiểu chút chứ, lư Lộ vương là lư đồng pha vàng, đâu phải vàng ròng! Tôi chưa bao giờ thấy lư Lộ vương thật, nhưng lư vàng thời Minh thường không phải vàng ròng, mà là đồng cối gió* trộn lẫn một tỷ lệ vàng bạc nhất định, thành phần chủ yếu vẫn là đồng. Nếu đồng đủ tinh thuần thì vàng bạc sẽ nổi lên bề mặt, dùng da hươu lau nhẹ là thấy ánh vàng bạc lờ mờ, không lóa mắt. Truyền thuyết Chu Thường Phương nấu chảy cả khối vàng lớn đúc lư hương, hẳn là dân gian nghe nhầm đồn bậy. Dân thường tin theo cũng chẳng lạ, nhưng nếu dân chơi cổ vật cũng tin vào thuyết ấy mà đúc lư hương bằng vàng ròng thì đúng là gà mờ quá lắm. Thực ra cũng do chúng tôi không cho họ thời gian để nghiên cứu tìm hiểu kỹ càng. Trước những kẻ ấy, tôi đành làm mặt lạnh giám định, rồi khách sáo tiễn từng người ra về. Chủ nhiệm Khang ghé qua hỏi dò, tôi đáp rằng những thứ này giả đến không thể giả hơn, rất dễ bị Lý Ước Sắt phát hiện. Thái độ soi mói bắt bẻ của tôi lại càng khiến ông ta tin chắc mười mươi, vội giải thích rằng mấy kẻ đó đều nghe hơi nồi chõ mà đến, chứ đám “bạn bè” ông ta giới thiệu vẫn chưa tới. Lại thêm hai ngày nữa, hợp đồng đầu tư mở nhà xưởng của Dược Bất Thị đã sắp bàn thảo xong xuôi, “người bạn” của chủ nhiệm Khang mới lò dò tìm tới. Đó là một ông già đen nhẻm gầy gò, tóc hoa râm, mặc một bộ đồ đại cán nhăn nhúm, cổ áo phanh ra, thấp thoáng thấy chiếc may ô đỏ bên trong, chắc năm nay là năm tuổi* của lão. Ông già giới thiệu mình là lão Từ, đi tay không chẳng mang gì, thái độ cũng không được tử tế cho lắm. Vừa gặp tôi lão đã tỏ ý ở nhà bận việc đồng áng, không muốn tới, chẳng qua nể mặt chủ nhiệm Khang mới miễn cưỡng đến nói chuyện, còn nhấn mạnh rằng phải đền bù cho lão vì làm lão lỡ dở công việc. Tôi đã có dự liệu trước, đối phương cũng đang giở ngón muốn bắt nên thả đây mà, tỏ vẻ miễn cưỡng rồi đòi đền bù gì đó, chẳng qua muốn tạo ấn tượng sai lệch, khiến tôi ngỡ rằng lão là nông dân gà mờ mà lơ là cảnh giác. “Ông Từ này, đã vậy tôi không làm mất thời gian của ông nữa. Chủ nhiệm Khang nói ông từng trông thấy chiếc lư hương giống thế này rồi à?” Tôi chìa bản báo cáo ra. Lão Từ cầm lấy, cũng xoay ngang xoay dọc ngắm nghía một hồi mới vỗ đùi, “Thấy rồi, nhiều là đằng khác.” Tôi nghĩ bụng, đến màn hay rồi đây, bèn làm bộ ngạc nhiên hỏi, “Nhiều cơ à? Bao nhiêu?” Lão Từ nghiêng đầu, kể cho tôi nghe một câu chuyện. Có năm lão lên núi Phượng Hoàng đốn củi thì gặp trận mưa như trút nước. Cuống quá, lão chui bừa vào một cái hang trong khe núi trú mưa. Trú mãi trú mãi, chợt nghe ầm ầm bên tai, lão tự biết không ổn, hớt hải chạy ra ngoài. Vừa chui ra khỏi hang thì cả cái hang rầm rầm đổ sập xuống, thì ra là bị nước lũ trên núi xối sập. Tới khi mưa tạnh, lão mới thấy trên sườn núi sạt lở hẳn một đoạn, để lộ ra rất nhiều cái chân vàng rực, bói lên xem thì là từng chiếc từng chiếc lư hương nhỏ lật úp. “Tôi thấy hay hay bèn đem về nhà. Mỗi lần lên núi lại lấy mấy cái, giờ cũng phải có đến hơn trăm cái rồi.” Hừm, con số này cũng khá đấy, đây hẳn là sản lượng tối đa của xưởng làm giả rồi. Tôi mừng thầm, ngoài miệng lại hỏi, “Ông có biết cái hố ấy ở đâu không?” “Ây dà, mất lâu rồi, về sau lại có năm mưa lớn, san phẳng tất cả luôn. Nếu anh muốn xem lư hương thì còn chất đống ở sân sau nhà tôi ấy.” “Ông mang một cái đến cho tôi xem được không?” Lão Từ vênh mặt, “Thứ đó quý giá lắm, tôi không dám đem đi đâu, anh muốn xem thì theo tôi về làng mà xem.” Lần đầu gặp mặt không đem báu vật, đây là luật trong giới cổ vật, phải xem người trước rồi xem vật báu sau, xem người có đáng tin không mới bàn tới những chuyện khác. Lão ta muốn rủ tôi về làng, đó là địa bàn của lão, muốn xoay vần thế nào đều do lão cả. Lão già này vào vai lão nông dân giảo hoạt ngọt xớt, khiến tôi suýt định vỗ tay khen hay. Thực ra chủ nhiệm Khang vốn định để tôi thông đồng với đám làm đồ giả này lừa Lý Ước Sắt. Nhưng việc này diệu là diệu ở chỗ này đây. Tôi và lão Từ lần đầu gặp nhau, không quen không biết không có sự ăn ý. Bởi vậy lão Từ không đời nào nói trắng rằng, “Tôi có hơn trăm cái lư giả đây, anh cứ nói là thật nhé.” Tôi cũng không thể sổ toẹt rằng, “Ông với tôi cưa đôi tiền, tôi sẽ nói đó là hàng thật.” Có những việc có thể làm nhưng không thể nói. Đôi bên đều biết tỏng nhưng lại vờ hồ đồ, nghĩ một đằng nói một nẻo, để chừa đường lui. Khi đôi bên đã xây dựng được lòng tin sơ bộ, mới huỵch toẹt ra được. Tôi hẹn với lão Từ ngày mai sẽ tới tận nơi xem hàng, sau đó lão ra về. Tôi nhủ bụng, lão đã dám khoác lác rằng mình có hơn trăm cái lư Lộ vương, còn ngang nhiên mời người đến xem, ắt phải có liên quan tới Lão Triều Phụng. Tôi đứng bên cửa sổ trong phòng nhìn xuống, vừa hay trông thấy lão Từ chậm rãi rời nhà khách, trèo lên một chiếc xe đạp cũ nát, lách cách đạp đi. Đang định kéo rèm lại, tôi chợt trông thấy một kẻ cao gầy đứng trước tiệm tạp hóa góc phố đối diện, cứ nhìn chằm chằm lão Từ. Cách quá xa nên không trông rõ nét mặt, nhưng hàm răng trắng thì hiện lên rất rõ, hoàn toàn có thể hình dung bằng cụm “nghiến răng nghiến lợi”. Tôi vừa quay đi rót cốc nước thì người nọ đã biến mất. Tối hôm ấy tôi kể chuyện lão Từ cho Dược Bất Thị nghe rồi nói ngày mai tôi sẽ tự đi xem trước, nếu quả thực lão Từ dính líu tới Lão Triều Phụng thì có thể thu lưới. Dược Bất Thị chỉ hờ hững dặn, “Chú ý an toàn.” Tôi đang định về phòng thì anh ta tự dưng hỏi: “Trước kia cậu với em tôi cũng hợp tác thế này à?” Tôi khựng lại, “ừm... cũng không giống lắm. Tôi với anh là quan hệ hợp tác, còn với cậu ta là chiến hữu... ít nhất là trước khi cậu ta phản bội tôi.” Nhận ra sự khác biệt tinh tế giữa hai từ ấy, Dược Bất Thị cảm khái thở dài, “Thằng Nhiên suốt ngày cợt nhả, gặp ai cũng đùa, nhưng thực ra trong lòng luôn giữ khoảng cách với mọi người, sâu trong cốt tủy là tính cách lạnh lùng hờ hững. Trong nhà chỉ có ông nội tôi là thực sự hòa hợp với nó thôi, ngay kẻ làm anh này cũng chẳng hợp chuyện lắm.” “Sao lại như vậy?” “Ông nội nói nó mang mệnh hồ ly, dẫu được thuần hóa đến đâu chăng nữa, trong lòng vẫn có định kiến riêng, không ai lay chuyển được.” “Vậy mà Lão Triều Phụng lại có thể khiến cậu ta một lòng một dạ đi theo, chấp nhận phản bội lại tất cả đấy.” Dược Bất Thị tháo kính ra lau, “Đây chính là lý do tôi muốn hợp tác với cậu. Trừ Lão Triều Phụng, cậu là người đầu tiên tôi gặp có thể coi là chiến hữu với nó.” “Chiến hữu ư?” Tôi gượng cười lắc đầu, không muốn tiếp tục chủ đề này nữa, bèn lịch sự chúc Dược BấtThị ngủ ngon rồi đi ra ngoài. Phải tập trung tinh thần vào những việc trước mắt, đợi tới khi bắt được tội phạm hẵng phân tích động cơ tâm lý của chúng cũng không muộn. Sáng sớm hôm sau, tôi cứ ngỡ việc đã chắc đến tám chín phần, thình lình lại xảy ra sự cố. Đáng lý sáng hôm ấy lão Từ phải đến đón tôi tới làng lão hoặc gọi điện báo cho tôi địa chỉ. Song tôi đợi suốt cả buổi sáng cũng chẳng thấy động tĩnh. Tôi bàn bạc với Dược Bất Thị, quyết định tiếp tục đợi, có lẽ chúng cũng đang âm thầm quan sát chúng tôi. Nhưng đợi thêm cả chiều vẫn chẳng thấy tăm hơi. Đi hỏi chủ nhiệm Khang, ông ta cũng lấy làm lạ, nói là để đi hỏi thử. Chẳng bao lâu sau ông ta trở về báo tin nhà lão Từ có việc nên lỡ hẹn, bảo chúng tôi đợi thêm mấy ngày nữa. Tôi sầm mặt bảo chủ nhiệm Khang, lịch trình của “anh Lý Ước Sắt” rất bận rộn, tối đa chỉ đợi được ba ngày, bằng không sẽ muộn mất. Chủ nhiệm Khang rầu rĩ trình bày rằng mình cũng không quen thân với lão Từ lắm, để nhờ người đi giục giã thử xem. Ông ta còn nói thêm, việc gì phải bỏ hết trứng vào một giỏ, lão Từ không đến thì còn người khác. Phải nói rằng chủ nhiệm Khang cũng bận túi bụi, ban ngày thay mặt chính quyền bàn chuyện hợp tác làm ăn với Lý Ước Sắt, tối lại sắm vai môi giới cổ vật. Tôi đoán chắc ông ta cũng thu phí dẫn mối của đám làm giả văn vật hiến tặng kia, mỗi lần gặp tôi là từng này từng này tiền, nên tôi gặp càng nhiều ông ta càng kiếm bộn. Mấy ngày sau đó, người tới hiến tặng vẫn nườm nượp không ngớt. Có điều so với mấy ngày đầu, chất lượng hàng hiến tặng đã tăng vọt, lư vàng chế tác tinh xảo, màu sắc chân thật, tuy vẫn nhìn ra là hàng giả, nhưng phải cầm lên xem kỹ mới xác định được. Sau khi tiếp liền bảy tám người hiến tặng, tôi chợt lấy làm lạ. Mấy lư vàng họ đem tới, màu sắc, chất lượng, cảm giác cầm lên tay gần như đều giống nhau, ngay cả sơ hở cũng y hệt. Ví như dòng chữ “chế ở xứ Lộ năm thứ tám đời Sùng Trinh triều Đại Minh”, sáu chữ “đời Sùng Trinh triều Đại Minh” ở lư thật phải viết theo thể chữ khải, bởi đây là niên hiệu của vua một nước, bắt buộc tôn kính; “xứ Lộ năm thứ tám” phải viết theo thể chữ lệ, chứng tỏ đây là hàng phỏng cổ; còn chữ “chế” phải viết thành “chiết”, cùng một quy chế với lư Tuyên Đức*. Đại Minh rất khắc nghiệt với phiên vương, nên các phiên vương luôn phải thận trọng tuân theo các quy chế này, không dám lơ là để khỏi sinh phiền phức. Chữ đề trên mấy lư hương qua tay tôi đều là thể chữ lệ, thoạt trông là biết phỏng theo lư Tuyên Đức, nhưng rõ ràng đã bỏ qua sự khác biệt giữa đồ ngự chế và đồ do phiên vương chế tác dưới thời Minh. Sai lầm cơ bản này rất nhiều người mắc phải, nhưng ai ai cũng mắc lỗi y như nhau thì thật bất thường. Cứ như tất cả đều mua sỉ từ một chỗ vậy... Tôi đang tiếp người thứ chín tới hiến tặng, một bà thím mặc áo khoác hoa, xưng tên là Hĩm (người quê thường đặt tên xấu cho dễ nuôi), nói tiếng địa phương nặng đến nỗi tôi nghe chỉ hiểu lơ mơ. Bà ta cũng đem tới một cái lư y hệt những cái trước. Tôi lắc đầu, chiếu lệ xem qua một lượt rồi hỏi bà ta lấy ở đâu. Câu chuyện bà ta kể cũng hết sức kinh điển, nói là vẫn vứt ngoài sân làm bát cho gà ăn, nghe hàng xóm bảo là của báu nên đem đến cho chuyên gia thu mua. “Bác mua cái này mất bao nhiêu?” Tôi lơ đãng hỏi. “Mất tận... gì cơ? Đây là đồ nhà tôi, đâu có mất tiền.” Thím Hĩm căng thẳng hẳn. Tôi liền nói, “Bác nhìn này, trong khe kẽ cái lư hương này chẳng bám tí vụn cám gà nào sất, mặt lư cũng không có vết trầy xước, sạch sẽ quá.” Thím Hĩm còn cãi cố, “Ô hay tôi rửa sạch không được à?” Song tôi lắc đầu, “Anh Sắt sống ở nước ngoài, nguyên tắc như người Tây ấy. Thu mua cổ vật đều phải truy tra nguồn gốc rõ ràng, nếu không rõ ràng chúng tôi sẽ không mua.” Bà thím cứng họng, đành thẽ thọt thừa nhận đây là hàng mua. Hỏi mua ở đâu thì cương quyết không chịu nói, chỉ nhìn tôi đầy khẩn thiết mà rằng “Chú em xem được thì mua hộ tôi với, giá rẻ rẻ cũng xong, tôi phải giấu người nhà, đem tiền thóc giống năm sau ra mua đấy, nếu chú không mua thì chết tôi mất”, nói về sau giọng điệu gần như vật nài. Tôi thở dài, những chuyện thế này tôi đã gặp quá nhiều. Người bình thường nghe nói có cơ hội phát tài to liền dốc hết tiền bạc ra hòng kiếm món hời lớn, nhưng thường đều rơi vào bẫy của gian thương, mất sạch vốn liếng. Biết bao người vì thế mà khuynh gia bại sản, nhà tan cửa nát. Tôi vốn định mặc kệ, nhưng môi bà thím bắt đầu run bần bật, tay cũng lẩy bẩy, cả người liêu xiêu chực đổ về phía tôi. Nếu tôi nói một tiếng không, sợ rằng bà ta sẽ quỳ sụp xuống mất. Tôi đành điềm đạm nói, “Tôi cũng chẳng muốn làm khó bác đâu. Bác cứ nói cho tôi biết bác mua ở đâu, tôi sẽ mua lại theo giá gốc.” Thấy chẳng còn đường nào khác, thím Hĩm đành lí nhí thốt ra hai tiếng: lão Từ. Tôi trả tiền cho bà ta ra về rồi ôm cái lư giả đi tìm Dược Bất Thị. Dược Bất Thị đang họp hành, tôi đi vào nói có việc gấp, rồi đưa mắt ra hiệu cho chủ nhiệm Khang. Chủ nhiệm Khang hiểu ý, lập tức tuyên bố cuộc họp tạm nghỉ hai mươi phút. Dược Bất Thị từ phòng họp đi ra, tôi chìa cho anh ta cái lư vàng, “Có khi chúng ta lộ tẩy rồi.” Dược Bất Thị ngẩn người, vội hỏi ngọn ngành. “Lão Từ nói sẽ dẫn tôi về nhà xem hàng, song chẳng thấy động tĩnh gì. Hôm nay tôi giám định gần mười cái lư, về cơ bản giống nhau như đúc, đều được mua từ chỗ lão Từ.” Tôi lo âu nói, “Có thể lão nhận ra chúng ta có ý xấu nên không chịu tiếp xúc mà bán đổ bán tháo hàng tồn cho người khác.” Nếu vậy thì kế hoạch của chúng tôi cũng tan thành mây khói. Dược Bất Thị nghiêng đầu nghĩ ngợi, “Không đúng... Tôi không am hiểu về cổ vật, nhưng phân tích về giá thành và lợi nhuận thì lão ta mất công làm hơn trăm cái lư, phải bán cho chúng ta mới tối đa hóa lợi ích được, bằng không coi như mất giá. Dù lão Từ phát hiện thấy điểm đáng ngờ, cũng không dễ bỏ cuộc thế đâu, làm vậy không phù hợp với thói quen của thương nhân.” “Ý anh là...” “Lão ta vẫn đang thăm dò.” Dược Bất Thị giơ một ngón tay lên. Lão Từ quả là cảnh giác, không tùy tiện dẫn tôi về nhà, trái lại còn cố ý tuồn vài cái lư ra, để bên thứ ba không biết gì đưa đến chỗ tôi giám định. Một là để xem tôi có nhìn ra được mánh lới làm giả hay không; hai là xem tôi có lòng muốn mua thứ đó không; ba là cũng muốn thăm dò mục đích thực của tôi. Nếu tôi và Dược Bất Thị bỏ đi ngay, chứng tỏ chúng tôi không muốn tìm lư mà là tìm người, không phải cảnh sát giăng bẫy thì là dân trong nghề trả thù. Chẳng ngờ thủ đoạn thăm dò của lão già này lại kín kẽ cẩn mật như vậy. Giới cổ vật quả lắt léo khó lường, chỉ một câu nói, một cái nhìn, thậm chí chẳng làm gì cả, cũng bao hàm đủ thứ hàm ý. Tôi tự cho rằng mình cũng thuộc hạng thông thạo, nhưng nếu không có Dược Bất Thị nhắc nhở, e rằng đã mắc lỡm rồi. Dược Bất Thị trấn an, “Cậu không phải lo, đối phó với mấy ngón thăm dò của lão cũng đơn giản thôi, cứ án binh bất động là xong.” Tôi xoa tay tức tối, “Ăn miếng không trả miếng thì coi sao được, lão muốn thăm dò chúng ta, không trả đũa lại, e rằng lão càng càn rỡ.” “Vừa vừa phai phải thôi.” Dược Bất Thị dặn một câu, rồi cũng chẳng buồn hỏi cặn kẽ, quay vào phòng họp tiếp. Sau đó chúng tôi vẫn đợi ở Vệ Huy. Nếu có người tới hiến tặng, tôi lại cố tình chỉ ra những sơ hở trên lư, tiễn họ về, còn vờ vô tình chêm một câu chế nhạo, “Món này làm trông giả lắm, chỉ lừa được dân ngoại đạo như các vị thôi.” Những người đó mua hàng của lão Từ, chắc hẳn đều tin vào tay nghề làm giả của lão. Giờ lại bị tôi quăng cho câu khiêu khích ấy, trở về họ nhất định sẽ bắt đền lão Từ, có bắt đền được không tôi cóc quan tâm, tóm lại chỉ cần khiến lão đau đầu nhức óc một phen, tiện thể bắn tin: lư Lộ vương ông làm sơ hở đầy rẫy, mau chỉnh sửa đi, bằng không đừng hòng tiếp tục vụ làm ăn này. Vậy là, thông qua đám người hiến tặng không biết mô tê gì, tôi và lão Từ đã ngấm ngầm đọ sức với nhau. Nghĩ tới việc lão bị cả đám dân quê khôn vặt xúm lại bắt đền, tôi lại lấy làm khoan khoái. Chẳng bao lâu sau, quả nhiên lão tìm đến thật, nói rằng mấy hôm trước tự dưng đổ bệnh nên không tới được. Tôi vội đáp không sao không sao, giờ tới cũng không muộn. Hai chúng tôi nhìn nhau, chẳng ai nhắc tới vụ thăm dò kia, song trong lòng đều hiểu rõ. Lần này lão không đi xe đạp mà lái máy kéo tới, bày tỏ thành ý hợp tác. Tôi cũng chẳng chê bai, nhảy ngay lên thùng xe đằng sau, ngồi giữa đống củ cải và cày cuốc ngổn ngang. Lão Từ lạch xạch lái máy kéo rời nhà khách, đi thẳng ra ngoại ô. Vệ Huy không rộng lắm, chẳng mấy chốc chúng tôi đã ra tới ngoại thành, chạy thẳng về phía núi Phượng Hoàng ở đằng Tây. Chừng hơn bốn mươi phút sau, chúng tôi tới một ngôi làng nhỏ dưới chân núi, gọi là làng Mộ A Hoàn. Lão Từ kể, cái tên lạ lùng này bắt nguồn từ lăng Lộ vương. Lăng Lộ vương gối đầu lên núi Phượng Hoàng, chân giẫm xuống đầm Rồng, là một mảnh đất báu phong thủy, bên trong ngoài an táng vợ chồng Lộ vương, còn có mộ thứ phi họ Triệu chôn bên cạnh, gọi là mộ nương nương, quanh mộ nương nương đầy những nấm mồ nhỏ lúp xúp, nghe đồn là mộ các a hoàn tuẫn táng, làng này ở gần đó nên mới có cái tên như vậy. Sau khi vào làng, lão Từ dẫn tôi tới một căn nhà rộng thênh thang ở đầu Đông. Ba gian nhà mái bằng, trên nóc chồng chất toàn gỗ, bên trái là vườn rau, bên phải là chuồng gà, ở giữa có một lối đi bê tông dẫn thẳng vào gian chính, là một kiểu nhà phổ biến ở thôn quê. Lão Từ mở cửa gian phòng bên phải, nói: “Ở trong này này, anh tự vào mà xem.” Tôi sải bước đi vào, thấy trong phòng có một chiếc xe đạp cũ nát, dưới đất ngổn ngang hơn trăm chiếc lư Lộ vương. Tôi cúi xuống nhặt một cái lên, nhìn chữ dưới đáy, quả nhiên đã sửa, không còn sơ hở gì. Cả công nghệ lẫn hiệu suất làm việc đều khiến người ta kinh ngạc. Tôi càng đoan chắc đám làm đồ giả này có liên quan tới Lão Triều Phụng. Săm soi một hồi, tôi đứng dậy hỏi, “Giá rổ thế nào?” Bắt đầu hỏi giá, chứng tỏ tôi định mua thật, có thể tiến hành bàn bạc các khâu mua bán rồi. Tới bước này thì mọi người không cần đóng kịch nữa, thoải mái ngửa bài với nhau. Lão Từ đảo mắt, rũ bỏ hình tượng lão nông dân gian giảo mà vô tri, đổi sang nói tiếng lóng trong nghề: “Nửa vuông một cái, thổi lá.” Một vuông là mười nghìn tệ, hơn một trăm cái vị chi hơn năm trăm nghìn tệ, quả là một món tiền lớn. Thổi lá ý nói giao dịch bằng tiền mặt, không chấp nhận trao đổi ngang giá hay chuyển khoản. Tôi nửa cười nửa không, “Mấy hôm nay người ta mang đồ đến hiến tặng, chỉ lấy giá mấy trăm tệ một cái thôi.” Thực ra không phải tôi mặc cả, đằng nào cũng đâu phải tiền tôi, là tôi đang bóng gió hỏi mình sẽ được chia bao nhiêu. “Phí giám định ba mươi phần trăm.” Lão Từ thản nhiên đáp. Một chiếc lư Lộ vương tôi được ăn ba mươi phần trăm, tính ra cũng đã một trăm mấy chục nghìn tệ, với một chuyên gia giám định thì bằng ấy tiền đủ ăn mấy năm rồi. Tôi nhẩm tính thật nhanh, giá vốn một cái lư căng lắm khoảng ba trăm tệ, trừ đi phần của tôi thì lão Từ vẫn được một món lợi nhuận khổng lồ. Thảo nào người ta vẫn nói làm giả cổ vật còn kiếm bộn hơn bán hàng thật. Tốt lắm, món hời trước mắt, không sợ lão Từ không cắn câu. Tôi đứng dậy phủi quần áo rồi nói, “Tôi muốn xem cái hố ông đào lên.” Lão Từ ngớ người giây lát mới hiểu ra tôi muốn xem xưởng làm hàng giả. “Trứng ở cả đây rồi, muốn ăn thì tráng, cần gì phải hỏi gà mẹ nữa.” “Không phải tôi tọc mạch các vị, mà chất lượng lư vẫn còn chút vấn đề.” Tôi tiện tay cầm một chiếc lư lên, trỏ viền sáng trên thân lư nói, “Các vị làm phỏng theo lư Tuyên Đức đúng không? Lư Tuyên Đức dùng đồng đỏ Xiêm La thượng hạng, nhưng phiên vương lấy đâu ra thứ ấy. Các vị sai từ gốc rồi. Nhìn màu lư này, chắc hẳn đúc bằng hợp kim đồng H90 chứ gì? Làm thế là quá tay rồi.” Chẳng để lão Từ kịp đáp, tôi lại cầm một chiếc khác lên, “Ông xem cái này, chân cũng bị mài quá, gờ mép nổi hết lên, không có đoạn chuyển. Rõ ràng là mài bằng máy. Đúng ra phải dùng giũa mài tay trước, rồi bôi thuốc làm bóng, sau đó mới mài lại lần nữa, lặp đi lặp lại ba bốn lần trông mới giống bị mài mòn tự nhiên.” Hai vấn đề này cực kỳ chuyên nghiệp, lại là tiểu tiết về mặt kỹ thuật. Tôi vừa đưa ra, lão Từ đã chết sững, sau đó lão sầm mặt xuống, “Nhưng anh chẳng đã ra giá rồi ư?” “Anh Lý Ước Sắt mang đồ về Mỹ, cũng sẽ phải qua kiểm nghiệm của cơ quan có thẩm quyền. Nếu sơ hở lộ quá thì tôi cũng phiền phức lắm.” Tôi thản nhiên đáp, còn bồi thêm một câu, “Không phải tôi lật lọng, mà muốn đề nghị các vị sửa cho hợp lý hơn thôi. Muốn làm được điểm này, phải nắm rõ quy trình công nghệ trước đã.” “Làm cũng làm rồi, sửa thế nào được? Đâu thể bắt chúng tôi làm lại cơ chứ!” Lão Từ bắt đầu sốt ruột. “Không cần đúc lại đâu, tôi có một cách giải quyết nhanh gọn lẹ đây. Nhưng tôi phải xem xét tận mắt nhà xưởng của các vị, mới biết được dựa vào kỹ thuật và thiết bị của các vị có thể sửa chữa đến mức nào.” Cuối cùng tôi cũng tung ra đòn quyết định. Trong tổ chức, lão Từ có thể xem như chân bán hàng, nắm rõ đường đi nước bước trên thị trường nhưng nhất định không rành kỹ thuật. Tôi đưa ra hai vấn đề chuyên môn, lão không trả lời được câu nào. Điều này vô hình trung đã giúp tôi tạo dựng được uy quyền về mặt kỹ thuật, khiến lão không dám cãi lại. Nhưng vụ làm ăn này thực quá lớn, lão cũng chẳng còn lựa chọn nào khác. Có thể nói từ khi báo giá, lão đã bị chúng tôi tóm chặt, không sao vùng ra nổi nữa. Lão Từ hậm hực hỏi, “Chỗ đó xa lắm, sợ anh đi xa lại mệt thôi. Anh gọi điện tới nói cho họ biết cách sửa được không?” Tôi cười nhạt, “Ông có miêu tả bằng lời cho người ta vẽ được bức tranh y hệt tờ tranh tết treo trước cửa kia không?” Lão Từ đứng im tại chỗ ngẫm nghĩ hồi lâu, buông một câu “Anh đợi một lát” rồi quay lưng bỏ đi. Có lẽ lão ta đi liên lạc với người ở xưởng, kiểm tra xem có phải tôi cố tình dọa lão không. Tôi cũng chẳng lấy gì làm vội, cứ lẳng lặng ngồi trong phòng đợi. Thực ra tôi chỉ biết sơ sơ về mấy kỹ thuật này, nhưng không biết vẫn có thể đóng kịch. Hai vấn đề này đều được nhặt từ mục phân tích kỹ thuật trong bản báo cáo kia. Về điểm này muốn không phục người Mỹ cũng khó, sau phần báo cáo điều tra, họ còn đính kèm một bản giám định kỹ thuật dày cộp, đủ cả từ nhiệt phát quang đến giám định thành phần kim loại, thế nên người trong nghề chỉ nghe qua đã biết hai vấn đề này được đặt ra hết sức chính xác. Lão Từ gọi điện thoại hỏi thì càng khó từ chối hơn thôi. Chẳng bao lâu sau, lão Từ ló đầu vào, bộ dạng tiu nghỉu, miễn cưỡng nói, “Anh đi theo tôi.” He he, thế là xong. Quá trình sau đó tôi biết tỏng, đây cũng chẳng phải lần đầu tôi đột nhập xưởng làm hàng giả ở Hà Nam. Lão Từ bịt mắt tôi lại, dìu tôi lên một chiếc xe tải nhỏ dùng trong nông nghiệp, rồi lái hơn hai tiếng đồng hồ trên con đường gập ghềnh, tôi đoán phải mất đến nửa thời gian là đi lòng vòng. Mãi xe mới chịu đỗ lại thì tôi đã bị xóc sắp rụng cả xương. Lão Từ tháo băng bịt mắt ra, tôi thấy trong khe núi trước mặt có một nhà xưởng nhỏ, nằm ngay chỗ giao nhau giữa hai triền núi, một ống khói xây bằng gạch vươn lên cao, tỏa khói đen cuồn cuộn. Từ độ cao của ống khói có thể thấy nhà xưởng này quy mô không lớn lắm. Tôi nhìn lướt qua, thấy bên cạnh còn có một dãy miệng lò thấp tè hình vòm, xem ra nơi này không chỉ làm đồ đồng điếu, mà còn làm cả hàng gốm sứ. Nhà họ Hứa chúng tôi chuyên về đồ đồng, nhà họ Dược của họ chuyên về đồ gốm, xem ra nơi này rất có duyên với chúng tôi. Lão Từ đưa tôi đến cửa xưởng rồi đập rầm rầm mấy tiếng, một cậu trai trẻ mặc đồ công nhân từ bên trong ló ra. Hai người rỉ tai nhau mấy câu rồi dẫn tôi vào. Trong xưởng ngổn ngang bừa bãi, vật liệu, thành phẩm và đồ dùng sinh hoạt để lẫn lộn với nhau, hơn mười công nhân đang tất bật luôn tay. Thấy người ngoài bước vào, họ đều sửng sốt. Tôi thản nhiên chắp tay sau lưng đứng giữa xưởng ngắm nghía. Một người trông như kỹ thuật viên đi đến, gắt gỏng hỏi, “Anh bảo anh có cách chỉnh lại chất đồng mà không cần đúc lại hả?” Tôi cười đầy ẩn ý, “Không phải tôi bảo, mà số liệu và lý luận khoa học bảo thế.” “Vết mài còn đỡ. Nhưng chất đồng, không đúc lại thì làm sao giải quyết đây? Tôi không tin.” Gã cười nhạt. “Về lý thuyết thì được, nhưng phải xem trang thiết bị của các anh có thực hiện được hay không.” Gã kia cứng họng, thái độ lại càng cục cằn, vẫy tay kêu tôi theo đến gian đúc, xem ra muốn chứng tỏ tay nghề kỹ thuật. Chuyện này cũng thực nực cười. Đám làm giả xưa nay luôn nhạy cảm và coi trọng vấn đề kỹ thuật hơn hẳn các cơ quan nghiên cứu chính quy. Họ tiếp thu tiến bộ khoa học kỹ thuật tối tân và ứng dụng vào thực tiễn hết sức nhanh chóng. Khi những món hàng giả áp dụng công nghệ mới nhan nhản ngoài thị trường thì bên giám định mới rề rà nghĩ cách phá giải. Thế nên những thành phần cốt cán về kỹ thuật trong các tổ chức làm hàng giả đa phần đều là tinh hoa đầu ngành, tự trọng cao như núi. Tôi chỉ hiểu sơ sơ về kỹ thuật, nếu ngồi xuống bàn luận nghiêm túc, e rằng chỉ mấy câu là lòi đuôi. May mà tôi và Dược Bất Thị đã có chuẩn bị trước nên không căng thẳng lắm. Tôi ngẩng đầu ưỡn ngực, theo gã vào gian đúc, lão Từ cũng vào theo. Trong gian đặt mấy lò trung tần, nồi nấu quặng than chì và thiết bị đồng bộ, dưới đất vương vãi đầy mạt vụn từ hệ thống lò. Mấy chiếc lò vẫn vận hành ầm ầm, chẳng biết đang đúc thứ gì. Tôi áng chừng trong bụng, với quy mô này, muốn đúc Tư Mẫu Mậu đỉnh* cũng không thành vấn đề. Tay kỹ thuật viên kia loạt xoạt lật giở một cuốn sổ kỹ thuật dày cộp trên bàn rồi ném ra mười mấy biên bản ghi chép thực nghiệm: “Anh muốn khảo sát công nghệ chứ gì? Ở trong đó cả đấy!” Tôi thong dong ngồi xuống, chậm rãi lật xem, thỉnh thoảng lại tặc lưỡi, tỏ vẻ khinh khỉnh. Tôi đã phải luyện tập điệu bộ này rất lâu, vừa có thể bảo đảm tạm thời không lòi cái dốt, lại vừa duy trì được phong thái cao nhân. Thực ra tôi không giỏi đóng kịch cho lắm, phải người như Dược Bất Nhiên vào vai này mới họp. Nghĩ đến cảnh gã ngồi sau bàn vênh vang tự đắc, tôi đã thấy buồn cười, nhưng ngay sau đó lại thở dài thườn thượt. Thấy tôi xem hơn hai mươi phút, tay kỹ thuật viên phát sốt cả ruột, “Anh Uông có gì chỉ bảo không?” Tôi gõ lên biên bản thực nghiệm, “Các vị... làm ẩu quá.” Câu này thực ra chẳng có thông tin gì cả, nhưng lọt vào tai họ lại thành ẩn ý. Tay kỹ thuật viên giận dữ gắt, “Tôi làm ẩu chỗ nào? Anh nói thẳng ra xem, chỗ nào có vấn đề? Đổ khuôn cát, ghép khuôn, điều chỉnh nhiệt độ hay là đúc?” “Lư Lộ vương này đúc bằng đồng ròng pha với vàng bạc, thành phần hợp kim khác nhau thì ánh sáng tỏa ra cũng sẽ khác nhau. Các anh đã nắm rõ được tỷ lệ pha trộn chưa?” “Nói vớ vẩn, trong tay tôi làm gì có đồ thật, biết đi đâu tìm tỷ lệ pha trộn?” Tay kỹ thuật viên đập bàn, “Anh đừng đánh trống lảng, tôi đang hỏi anh không đúc lại thì làm sao điều chỉnh được chất đồng cơ mà?” “Tôi đến kiếm mối làm ăn, không phải đến cãi nhau.” Tôi gộp xấp báo cáo lại, dịu giọng, “Các anh thế này, Lão Triều Phụng biết được sẽ không vui đâu.” Cái tên ấy vừa thốt ra khỏi miệng, cả gian xưởng bỗng lặng đi, chỉ còn tiếng máy móc chạy rì rì. Tay kỹ thuật viên và lão Từ nhìn nhau, ánh mắt lóe lên vẻ hung hãn. “Anh Uông bớt giận, Tiểu Triệu cũng muốn làm cho tốt thôi mà. Có vấn đề gì, đôi bên từ từ thảo luận.” Lão Từ vừa nói vừa đứng lên, kín đáo lại gần tôi. “Không phải tôi không muốn thảo luận, mà là đồng chí kỹ thuật này cứ sồn sồn lên. Chúng ta đều làm việc cho Lão Triều Phụng cả, sao phải thế.” Lão Từ khựng lại, vẻ mặt thoáng do dự. Quả nhiên đám người này có quan hệ với Lão Triều Phụng, nhưng không mật thiết lắm. Theo Dược Bất Thị phán đoán thì tổ chức của Lão Triều Phụng có cơ cấu dạng mạng nhện. Lão Triều Phụng ở giữa, xung quanh là các tay sai trực thuộc, từ những tay sai này lại tiếp tục vươn ra, mỗi kẻ nắm giữ một chuỗi phân xưởng và đầu mối tiêu thụ vòng ngoài, mạnh ai nấy làm. Như vậy có ưu điểm là dù bị cảnh sát chặt đứt một nhánh thì các nhánh khác cũng không ảnh hưởng. Nhưng các chi nhánh này không lệ thuộc nhau nên thường xảy ra tình trạng giẫm chân nhau mà không biết: tên lừa đảo ở chi nhánh A câu được con gà béo, song lại phải lấy hàng từ chi nhánh B, chi nhánh C nghe ngóng hồi lâu, không cẩn thận lại nẫng tay trên của chi nhánh D. Phản ứng của lão Từ đã chứng thực suy đoán của Dược Bất Thị. “Anh là người phái nào?” Lão Từ hỏi. Tôi dè dặt cười, hỏi lại, “Sao ông không tự giới thiệu mình là người phái nào trước?” Lão Từ đáp, “Chúng tôi là môn hạ Quỷ Cốc Tử*...” Chưa nói dứt câu, tay kỹ thuật viên họ Triệu chợt quát lên, “Hắn đang moi tin đấy!” Lão Từ sực tỉnh, nổi khùng lao bổ vào tôi. Tôi lách người tránh, rút súng bắn điện phòng thân ra, xỉa thẳng vào ngực lão Từ. Ánh# điện nhoáng lên, lão Từ co rúm lại ngã lăn ra đất. Tay họ Triệu hung hãn vơ cái cờ lê gang trên bàn đập tới. Tôi vội nghiêng đầu né, song vẫn bị lia trúng khóe mắt, đau rát. Đúng lúc này, bên ngoài chợt có tiếng còi cảnh sát réo ầm ĩ. Tôi rút thiết bị định vị trong túi ra, cười hỏi tay kỹ thuật viên, “Anh làm kỹ thuật, hẳn cũng biết đây là cái gì nhỉ?” Gã thoạt trông liền hiểu ra chuyện này ngay từ đầu đã là một cái bẫy, căm tức nghiến răng nghiến lợi. Tôi chậm rãi thông báo, “Cảnh sát đã bao vây quanh đây rồi, tôi khuyên anh nên đầu hàng sớm là hơn.” “Bọn tao có giấy phép làm hàng mỹ nghệ phỏng cổ của chính phủ cấp, chúng mày dựa vào cái gì mà bắt người?” “Ai bảo bắt các anh vì tội làm hàng giả đâu?” Tôi trỏ vào ngực mình, “Các anh bắt cóc bạn của anh Lý Ước Sắt, hòng đòi một khoản tiền chuộc khổng lồ, phá hoại việc đầu tư vào địa phương.” Mặt gã kỹ thuật viên thoắt chốc tái xanh. Theo kế hoạch, chúng tôi không hề định đóng vai thanh niên nhiệt huyết xả thân nằm vùng hỗ trợ cảnh sát. Những xưởng làm giả quy mô thế này thường đều có vỏ bọc hợp pháp, hơn nữa còn được quan chức địa phương bao che, ví như lão Từ là tuyến dưới của chủ nhiệm Khang vậy, muốn tố cáo chúng làm giả đồ cổ thực sự rất khó. Dược Bất Thị đổi tên thành Lý Ước Sắt, đến Vệ Huy bàn chuyện đầu tư không chỉ để yểm hộ cho tôi, mà còn muốn bẩy đám ô dù kia lên. Chính quyền địa phương có thể mắt nhắm mắt mở với đám làm đồ giả này, nhưng nếu chúng gây ảnh hưởng đến thành tích thu hút đầu tư trong nhiệm kỳ của họ, nhất định họ sẽ thẳng tay trừng trị. Bên này tôi mượn chuyện lư Lộ vương đột nhập vào xưởng làm giả dò xét nội tình; còn bên kia Dược Bất Thị báo cho chính quyền, nói rằng bạn tôi bị bắt cóc đòi một khoản tiền chuộc khổng lồ, ngay thư tống tiền cũng ngụy tạo đầy đủ. Chỉ cần cấp trên hạ lệnh điều tra, phát hiện thấy tôi ở trong xưởng thật thì tội bắt cóc đã chắc như đinh đóng cột, chẳng ai bao che nổi lão Từ. Kế hoạch Dược BấtThị vạch ra quả là thâm độc. Tay kỹ thuật viên họ Triệu cũng không ngu ngốc, vừa nghe tôi nói đã hiểu ra ngay đầu đuôi sự việc. Gã thình lình vơ lấy cái xẻng chém tôi. Kẻ này giờ đã như chó cùng rứt giậu, tôi cũng chẳng muốn giằng co với gã, vội quay người chạy thẳng. Tay họ Triệu như phát điên, đuổi riết phía sau, bất chấp cảnh sát ngoài kia đang lục soát từng gian nhà. Những công nhân khác trong xưởng vừa nghe tiếng còi cảnh sát đã hốt hoảng chuồn sạch. Tôi cũng muốn chạy ra ngoài nhưng gã họ Triệu đuổi riết, không sao bứt ra được, đành chạy vòng vòng quanh lò trung tần. Đuổi bắt giằng co chừng hai ba phút, tôi bỗng thấy gan bàn chân phải đau nhói. Cúi xuống nhìn, hóa ra một miếng thép góc phế liệu dựng đứng trên sàn, chọc thủng đế giày, đâm vào thịt tôi. Công tác đảm bảo an toàn và vệ sinh trong xưởng này kém quá mất... Gã họ Triệu thừa cơ nhào đến, vung xẻng chém ngang người. Tôi nhanh trí nằm rạp xuống đất, chỉ nghe kịch một tiếng, xẻng sắt sượt qua da đầu tôi, đập gãy một ống nước. Nước chảy túa ra từ cái ống vỡ, đúng lúc ấy, tôi chợt có một dự cảm không lành. Tuy không biết mối nguy ở đâu nhưng phản ứng đầu tiên của tôi là chạy đến cửa sổ gần nhất. Ở đó có một tấm thép dựa vào tường, tôi khom người chui vào khoảng trống ở giữa. Ngay sau đó, tôi nghe thấy một tiếng nổ long trời lở đất, xen lẫn tiếng gào thảm thiết. Cả gian xưởng rung lên bần bật, hơi nước nghi ngút, tấm thép che chắn cho tôi cũng lắc lư, suýt thì đổ ập xuống. Tôi dè dặt thò đầu ra, trông thấy một cảnh tượng kinh hoàng. Thì ra sau khi ống nước kia bị chém đứt, nước túa ra phun hết vào lò đúc. Lò đúc trong xưởng này không được kín, nước chảy vào lò, tiếp xúc với đồng nóng chảy gần nghìn độ, xảy ra nổ lớn, dung dịch đồng bắn ra tung tóe từ cửa thoát hơi và cửa xả thải. Tay kỹ thuật viên họ Triệu và lão Từ không chạy kịp, bị dung dịch đồng nóng chảy ở nhiệt độ cao bắn vào người. Khắp người gã kỹ thuật viên đầy những vết bỏng đen sì, chết ngay tại chỗ; lão Từ chẳng biết là may hay rủi, vì đang nằm dưới đất nên không bị bắn nhiều, nhưng vẫn bỏng hết mặt... Tôi nép người sau tấm thép, hai chân nhũn cả ra. Vừa rồi đúng là nghìn cân treo sợi tóc, nếu tôi không phản ứng kịp thời, e rằng giờ đã mất nửa cái mạng rồi. Chúng tôi lên kế hoạch chu toàn, nhưng lại không tính đến tình huống này. Cảnh sát chẳng mấy chốc đã mở tung cửa xưởng, thấy khung cảnh tan hoang bên trong thì cao giọng gọi ơi ới, nghe tôi đáp mới xông vào. Họ dìu tôi ra từ đằng sau tấm thép, cầm bộ đàm thông báo con tin vẫn an toàn. Sau đó hai cậu cảnh sát trẻ một trái một phải đỡ tôi ra ngoài, những người khác khiêng tay kỹ thuật viên họ Triệu và lão Từ, nhanh chóng rời khỏi hiện trường. Những việc về sau giao cả cho đội chuyên xử lý tình huống nguy cấp. Trong ngoài xưởng đầy cảnh sát và xe cảnh sát, còn có cả đội chống bạo loạn, ai nấy đều trong tư thế sẵn sàng chiến đấu, xem ra thành ủy rất quan tâm đến việc này nên phản ứng hết sức nhanh nhẹn. Dược Bất Thị cũng ở trong đám đó, trông thấy tôi ra vội vã bước đến đón. Anh ta chưa kịp nói gì thì chủ nhiệm Khang bên cạnh đã nắm chặt lấy hai tay tôi, lo lắng nói, “Thầy Hư, thầy Hư, chắc thầy hoảng lắm!” Đoạn ông ta hạ giọng phân trần, “Không ngờ lão Từ khốn nạn tham lam đến mức ấy, tôi thật có lỗi với thầy.” Thấy hai bên tóc mai chủ nhiệm Khang sắp bạc trắng cả, đủ biết ông ta cũng được phen hoảng hồn. Lão Từ là ông ta giới thiệu với tôi để mua bán cổ vật, nếu truy cứu ra, ông ta cũng chẳng thoát nổi liên can. Tôi gặp nạn lớn không chết, hẵng còn kinh hãi, chẳng muốn nói gì nhiều. Mấy lãnh đạo thành phố cũng lũ lượt lại gần hỏi han ân cần, hứa rằng sẽ tra rõ ngọn ngành. Tôi được đưa lên xe cấp cứu kiểm tra tổng quát, bấy giờ mới có cơ hội trò chuyện riêng với Dược Bất Thị. Anh ta quan sát tôi một lượt, chẳng buồn an ủi nửa lời mà hỏi độp luôn: “Có nghe ngóng được gì không?” “Chỉ nghe được ba chữ thôi: Quỷ Cốc Tử.” Tôi lắc đầu, không khỏi ủ rũ. Gã kỹ thuật viên họ Triệu đã chết, lão Từ chẳng biết có cứu nổi không, những công nhân khác trong xưởng chắc hẳn không biết gì chuyện ở tầng lớp cao. Vụ nổ bất ngờ này đã giúp Lão Triều Phụng bưng bít hết mọi chuyện. Chúng tôi mất bao công giăng bẫy, vậy mà phút cuối lại xôi hỏng bỏng không. Có điều nói đi cũng phải nói lại, nếu không có vụ nổ ấy, giờ chẳng biết tôi còn sống không nữa. “Quỷ Cốc Tử à...” Dược Bất Thị lẩm bẩm cái tên này, vẻ trầm ngâm. “Đó là một nhân vật truyền thuyết ở Trung Quốc thời cổ...” Tôi giải thích. “Chuyện này tôi biết.” Dược BấtThị trừng mắt nhìn tôi. Đây có lẽ là biệt danh, tiếc rằng giờ khó mà hỏi ra được nữa. Nhưng mất bao công sức chỉ moi được ba chữ này, hai chúng tôi thực không cam lòng. Đột nhiên bên ngoài náo động cả lên, hình như có ai đó đang gào thét. Tôi và Dược Bất Thị ngó ra, trông thấy một người đàn ông trung niên đang chạy bổ vào xưởng, vừa chạy vừa khóc rống lên. Ông ta vùng vẫy dữ dội, ba bốn cảnh sát cũng khó mà giữ nổi, thỉnh thoảng lại ngửa mặt gào lên, để lộ hàm răng trắng nổi bật. Tôi cảm giác người này quen quen, nhìn lại mới sực nhớ ra. Chẳng phải gã đàn ông kỳ dị đứng bên đường mà tôi nhìn thấy từ cửa sổ hôm lão Từ đến nhà khách lần đầu đấy ư? Chủ nhiệm Khang tươi cười ló đầu vào xe cứu thương, tôi hỏi ông ta đó là ai mà khóc thảm thiết như vậy, người nhà lão Từ sao? Nếu là người nhà lão ta thì vẫn có thể tiếp tục lần theo manh mối này. Chủ nhiệm Khang nheo mắt nhìn rồi lúng túng đáp, “Không phải người nhà, mà là kẻ thù.” “Kẻ thù ư?” “Chà, kẻ kia tên Lưu Chấn Vũ, vốn là hiệu trưởng một trường cấp hai địa phương. Năm ngoái ông ta bị lão Từ dụ dỗ, thụt két nhà trường mua một món đồ gốm mới đào được, đem đến Bắc Kinh giám định mới phát hiện là giả. Lưu Chấn Vũ quay về Vệ Huy, không đền được khoản tiền thâm hụt nên đã bị phòng giáo dục đuổi khỏi ngành. Vợ ông ta giận quá dẫn con về nhà mẹ đẻ, không ngờ giữa đường gặp tai nạn ô tô chết cả hai. Lưu Chấn Vũ hóa điên, từ đó trở đi lúc nào cũng lẵng nhẵng theo đuôi lão Từ, hễ trông thấy là lải nhải nói lão Từ đem đồ giả đánh tráo đồ thật của ông ta, đòi lão Từ trả lại...” Tôi lạnh lùng nhìn chủ nhiệm Khang úp úp mở mở, chắc hẳn ông ta cũng đóng một vai trò chẳng lấy gì làm hay ho trong tấn tuồng đó. Lại một vụ án đẫm máu dùng đồ giả cổ lừa người. Những chuyện thế này tôi đã gặp quá nhiều, nhẹ thì vợ con ruồng rẫy, nặng thì tan nhà nát cửa. Nhìn Lưu Chấn Vũ điên điên khùng khùng, tôi chợt bớt hẳn áy náy với hai kẻ kia, đồng thời càng thêm căm ghét Lão Triều Phụng. Lưu Chấn Vũ đằng kia vẫn gào lên điên dại, “Tôi phải lấy cái chóe của tôi về! Chóe vẽ người của tôi!” Xem ra ông ta điên thật, còn định xông vào xưởng lấy lại món “hàng thật” mà lão Từ giấu. Nghe Lưu Chấn Vũ gào thét, Dược Bất Thị chợt nhíu mày, quay ra hỏi chủ nhiệm Khang, “Lão Từ bán cho Lưu Chấn Vũ món đồ gốm gì vậy?” Chủ nhiệm Khang bóp trán, vòng hai tay ước lượng, “Một chiếc chóe to bằng chừng này, sứ thanh hoa thời Nguyên hay Minh gì đó? Cụ thể trông thế nào thì tôi không nhớ nữa, bên trên vẽ ai xuống núi ấy.” “Giờ để đâu?” “Anh nói cái của Lưu Chấn Vũ á? Bị ông ta đập vỡ lâu rồi, ngay trước cửa ủy ban thành phố.” Dược Bất Thị nhanh nhạy nắm bắt ngay vấn đề, “Cái trong tay Lưu Chấn Vũ? Nói vậy là còn nhiều cái nữa à?” Chủ nhiệm Khang bối rối xoa tay, mặt đỏ bừng đáp, “Ừm, còn vài cái, lão ta chẳng phải... chuyên làm thứ này.” Tôi lấy làm lạ không hiểu sao Dược Bất Thị cứ chăm chăm xoáy vào điểm này. Song Dược Bất Thị chẳng buồn giải thích với tôi, tiếp tục gặng, “Thế mấy cái trong tay lão Từ đâu rồi?” Chủ nhiệm Khang không nói nhưng ánh mắt tự nhiên liếc sang một chỗ cạnh xưởng. Vừa rồi lúc tôi đi vào đã để ý thấy, xưởng này ngoài lò đúc còn một dây lò nung, dĩ nhiên cũng chế tác được đồ gốm sứ. Dược Bất Thị dẫn tôi đi thẳng về phía khu xưởng. Cảnh sát định ngăn lại, nhưng Dược Bất Thị nói chúng tôi không vào xưởng mà muốn xem dãy lò gốm bên cạnh thôi. Lò gốm cách hiện trường vụ nổ hơn 300 mét, Dược Bất Thị lại là nhân vật đặc biệt nên cảnh sát không ngăn cản, chỉ giơ tay mời chúng tôi đi, cùng lắm là dặn thêm một câu, “Nhũng thứ đó đều là tang chứng, đừng tùy tiện sờ vào nhé.” Hai chúng tôi lại gần ngắm nghía thật kỹ. Từ độ cao ống khói và thể tích miệng lò, có thể thấy mấy lò nung này không lớn, giữa các lò đâu đâu cũng thấy tro phôi và men gốm loang lổ, khá bừa bộn. Khắp nơi đầy những chai lọ chum vại nhưng hình dạng tương đối đồng nhất, phần lớn là bình miệng rộng, bát chân cao và đĩa cảnh, hoa văn và nước men đều thô vụng. Xem ra lò gốm này chỉ chú trọng sản lượng, đặt sản lượng lên trên hết, tuy chẳng thể lọt mắt dân sành sỏi nhưng muốn lừa đám gà mờ như Lưu Chấn Vũ vẫn thừa sức. Tôi không hiểu nổi chốn này thì có thể có cái gì, sao Dược Bất Thị quan tâm làm vậy? Dược Bất Thị đi một vòng quanh mấy lò gốm, mặt mày cau có. Tôi hỏi anh ta thấy cái gì. Dược Bất Thị trỏ đằng sau nói, cậu tự xem đi. Tôi chạy đến xem, thấy phía sau là một nhà kho, nói là nhà kho, thực ra là một gian nhà gạch cũ nát, có lẽ trước đây là chuồng gia súc. Bên trong xếp một hàng những chóe gốm thanh hoa, áng chừng phải mười mấy chiếc, trông giống hệt nhau, đều cao chừng nửa mét, miệng thẳng cổ ngắn, vai xuôi bụng tròn, viền miệng khá dày. Tuy những thứ này đều là hàng giả, nhưng chế tác khá tinh xảo, khác hẳn đám đồ đồng nát bên ngoài. Trong đó nổi bật nhất là hình vẽ trên chóe. Khác với phần lớn những đồ gốm sứ chú trọng các hoa văn mang tính trang trí, trên chiếc chóe này lại vẽ một bức tranh tả cảnh. Một ông già tiên phong đạo cốt ngồi trên xe do một hổ một báo kéo. Trước xe có hai người lính tay cầm trường mâu, vẻ mặt nghiêm trang, phía sau lại là một tướng quân cưỡi# ngựa, khí phách oai hùng, tay giơ một lá cờ chiến viết hai chữ “Quỷ Cốc”. Ngoài ra còn một người ăn mặc theo lối quan văn đi phía sau. Phía trên trang trí hoa văn sóng nước và mẫu đơn liền cành, bên dưới là hoa văn cánh sen “bát đại mã”*. “Tranh Quỷ Cốc Tử xuống núi à?” Nhận ra điển tích lịch sử vẽ trên chóe, tôi ồ lên một tiếng. Tổ chức của Lão Triều Phụng chia thành mấy chi phái, nhánh của lão Từ gọi là “Quỷ Cốc Tử”. Đây cũng là manh mối duy nhất tôi moi được từ miệng lão. Song ở đây còn chóe sứ thanh hoa vẽ cảnh Quỷ Cốc Tử xuống núi, lẽ nào giữa hai điều này có mối liên quan nào đó? Quan trọng hơn là, một kẻ ngoại đạo như Dược Bất Thị sao lại phát hiện ra điểm này? Chỉ dựa vào mấy câu nói điên khùng của Lưu Chấn Vũ thôi sao? Tôi chợt nhận ra toàn bộ sự việc này dường như phức tạp hơn mình tưởng tượng nhiều. Nhìn lại chóe sứ kia, tôi thấy đôi mắt dưới lớp men sứ của Quỷ Cốc Tử phơi phới như thần tiên nọ ánh lên vẻ quỷ dị, tựa hồ muốn kéo chúng tôi vào vòng xoáy quái gở ngoài sức tưởng tượng. Chương 2 MANH MỐI TRONG TRANH SƠN DẦU C âu chuyện Quỷ Cốc Tử xuống núi là thế này. Chuyện này bắt nguồn từ bình thoại thời Nguyên* Xuân Thu hậu tập - Nhạc Nghị lập mưu làm Tề mất nước: Nước Tề và nước Yên đánh nhau, nước Tề cử Tôn Tẫn cầm quân, dọc đường thế như chẻ tre, đánh cho tướng nước Yên là Nhạc Nghị thua tơi tả. Nhạc Nghị không biết làm sao, bèn vời thầy mình là Hoàng Bá Dương giúp bày trận, vây khốn Tôn Tẫn. Đại phu Đông Tề là Tô Đại đích thân đến núi Vân Mộng, vời thầy của Tôn Tẫn là Quỷ Cốc Tử ra tay giúp đỡ. Bấy giờ Quỷ Cốc Tử mới đi xe xuống núi cứu học trò. Đồ gốm trước thời Nguyên ít khi thấy trang trí bằng điển tích lịch sử. Bình thoại tạp kịch* rất phổ biến trong dân gian vào thời Nguyên, rất nhiều nhân vật lịch sử từ đó mà bắt đầu đi vào lòng người, các tác phẩm cùng loại hình cũng ngày một nhiều lên. Trước kia tôi từng nghe Dược Bất Nhiên nói, vẽ tích cổ là khó nhất trong số các hình thức trang trí đồ gốm sứ. Ví như hoa văn bát bảo, hạc tròn, sen chung gốc, ly uốn mình v.v... đều có khuôn mẫu cố định, không cần động não nhiều. Dù là tranh nhân vật kiểu hai cụ ngắm trăng, năm chàng thi đỗ, bầy trẻ nô đùa... đều có mẫu sẵn, chỉ việc vẽ theo. Riêng những tích lịch sử là cái nào biết cái nấy, Văn vương tìm người hiền bố cục một kiểu, ba lần ghé lều tranh lại bố cục kiểu khác, không thể trùng lặp. Thử thách đặt ra với người vẽ là phải nắm vững từng chi tiết về nhân vật và đồ vật, đồng thời phải xây dựng được bố cục tổng thể, thậm chí còn cần phát huy trí tưởng tượng nữa. Khó nhất là họ không phải tác nghiệp trên giấy, mà là trên đồ gốm sứ. Sứ thanh hoa thuộc dạng vẽ dưới men, chỉ cần hơi sơ sẩy, để vấy ra mấy giọt men, hoặc chỗ nào đó tráng men quá dày, sau khi nung bị biến dạng thì cả bức tranh sẽ hỏng hết. Thế nên những chai lọ vẽ hình nhân vật lưu truyền đến ngày nay đều là hàng tinh tuyển, nếu được thợ khéo vẽ giá không dưới trăm nghìn tệ. Lão Từ làm một loạt hàng giả thế này, hẳn là định đánh một mẻ lớn đây. Bàn về giám định đồ gốm, tôi chỉ thuộc dạng võ vẽ vỡ lòng. Trông qua mười mấy chiếc chóe sứ “Quỷ Cốc Tử xuống núi” này cũng chẳng thấy sơ hở lồ lộ, nếu lấy một chiếc ra bảo tôi xem, có lẽ khả năng phân biệt thật giả chỉ 50-50, chẳng khác gì đoán mò. Dược Bất Thị tuy xuất thân Huyền môn, nhưng không hoạt động trong ngành này, e rằng kiến thức chuyên môn còn chẳng bằng tôi. Anh ta cau mày như vậy, hẳn là vì một nguyên nhân khác. Tôi huých Dược Bất Thị, “Rốt cuộc là sao?” Dược Bất Thị không đáp, chỉ xoa cằm nhìn chằm chằm mấy chóe sứ thanh hoa nọ, gần như dán mắt vào. Chừng hai phút sau, anh ta đi tới trước một chiếc chóe, giơ tay sờ, sau đó vòng ra đằng sau, nhìn phía """