"
Danh Gia Cổ Vật 3: Hôi Của Đông Lăng PDF EPUB
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Danh Gia Cổ Vật 3: Hôi Của Đông Lăng PDF EPUB
Ebooks
Nhóm Zalo
DANH GIA CỔ VẬT
TẬP 3: HÔI CỦA ĐÔNG LĂNG
—★—
Tác giả: Mã Bá Dung - Dịch giả: Tố Hinh
Quét mã QR code để truy cập nhanh nhóm trên Facebook.
Facebook: ebookdep
Mua máy đọc sách tại: kindlesaigon.vn hoặc
Shopee.vn/kindlesaigon
MỤC LỤC
Lời tựa
Chương 1
Chương 2
Chương 3
Chương 4
Chương 5
Chương 6
Chương 7
Chương 8
Chương 9
Chương 10
Chương 11
Chương 12
Chương 13
Hậu ký
Ngoại truyện 1
Ngoại truyện 2
M
Lời tựa
ột gia tộc truyền đời cũng giống như một món cổ vật thượng hạng vậy. Trải bao đời giữ gìn và đánh bóng, âm thầm tích lũy giữa dòng thời gian đằng đẵng, dần dà, nó sẽ khoác lên mình một lớp hồ bọc đậm đà tinh thuần, ôn nhuận trầm lặng, toát lên vẻ cổ kính. Cổ vật hữu hình, truyền thừa vô hình, không nhìn thấy, không chạm tới được song lại thấm vào xương máu con cháu đời sau trong gia tộc, trở thành sợi dây ràng buộc tinh thần giữa các thành viên trong gia tộc với nhau, thậm chí trở thành một phần trong tính cách và số phận họ.
Trên đường tới gặp Lão Triều Phụng, tinh thần của nhà họ Hứa đã ẩn tàng cả nghìn năm nay trong cơ thể tôi bắt đầu thức tỉnh. Nó rục rịch, sôi trào như muốn nói gì đó với tôi. Đó không phải sự biểu đạt bằng ngôn ngữ, mà là sự cộng hưởng vượt lên cả hạn chế của thời gian. Câu chuyện nó muốn kể rất dài, song khi truyền đạt cho tôi lại chỉ mất một cái chớp mắt. Những con người quá khứ, những câu chuyện xa xưa cùng những món cổ vật truyền kỳ đã ngưng kết lại thành cảm xúc trong một khoảnh khắc, khiến tôi đang đi chợt dừng bước, đặt tay lên ngực, ngẩng đầu nhìn trời.
Tuy không thấu triệt, nhưng tôi cảm nhận được, đây là một câu chuyện liên quan đến ông nội Hứa NhấtThành của tôi.
Một truyền kỳ tôi chưa bao giờ được biết.
Chương 1 CỜ QUÂN TỬ
H
ạ tuần tháng Năm năm Dân Quốc thứ mười bảy*, Bắc Kinh đương lúc chuyển mùa giữa xuân và hạ, khắp thành nở đầy hoa hòe. Đây là lúc trời nóng dần lên, dễ xảy ra đại dịch nên dân gian kiêng kị rất nhiều. Kiêng dán cửa, kiêng chuyển nhà, không cắt tóc, không phơi giường, ai nấy đều mong tới Đoan Ngọ giết sâu bọ xong mới bắt tay sửa sang dọn dẹp. Dân gian thường gọi là
tháng Năm độc, hễ đến tháng này, nhất định sẽ có chuyện. Năm nay chưa nóng đã có gió lớn. Trận gió này cực lớn, cuốn theo cát bụi đầy trời phủ lên chùa Đàm Giá, trùm lấy núi Hương, cuồn cuộn ập vào thành, liên tục suốt mấy ngày. Quả là bụi lấp mặt trời, đâu đâu cũng một màu vàng của cát, cả thành Bắc Kinh như một bức ảnh cũ, trời mù mịt đất mù mịt tường mù mịt, người ngựa đi trên đường đều mù mịt, khiến lòng người ta cũng mịt mờ.
Hằng năm Bắc Kinh đều nổi bão cát, nhưng chủ yếu vào mùa xuân. Năm nay trận bão này lại oái oăm, đến vào tháng Năm độc. Người già kể rằng loại gió này rất có lai lịch, gọi là gió Hoàng sát, chuyên khắc hoàng thượng. Năm Sùng Trinh treo cổ, Bắc Kinh đã nổi gió này; năm Viên Thế Khải qua đời, cũng nổi gió; về sau
khi Tuyên Thống đế bị Phùng Ngọc Tường trục xuất khỏi Tử Cấm thành, gió này cũng đến. Bởi thế năm nay gió vừa nổi, lại gặp ngay tháng Năm độc, người già ở Bắc Kinh đều nhủ bụng, e rằng… lần này lại thay triều đổi đại rồi đây.
Hoàng Khắc Vũ ôm tay nải xanh, liêu xiêu chạy men theo chân Thiên Đàn về phía Tây. Giữa mịt mù bão cát lại chạy ngược gió, dù đang trai tráng bẻ gãy sừng trâu, cậu cũng phải khom lưng cúi đầu nín thở. Hễ chạy nhanh là miệng đầy cát, vừa hít thở đã sặc sụa vì bụi. Nhưng việc gấp như lửa đốt, Hoàng Khắc Vũ làm gì còn tâm trạng oán trách thời tiết, đành kéo sụp vành mũ xuống, chạy không ngơi nghỉ.
Vừa qua cầu Hổ Phường, trời đã nổi gió lớn, đất vàng mịn hơn cả phấn cuồn cuộn bốc thành làn sương bụi che mờ cả đất trời. Đừng nói đến mái tháp phía xa và biển hiệu treo trên rào chắn ở gần, ngay người ngựa bên kia đường, cách mấy bước chân cũng chẳng trông rõ được. Hoàng Khắc Vũ nheo mắt cúi đầu chạy như bay, ngờ đâu phía trước lại mọc ra một bóng người sau làn sương bụi, khiến cậu không kịp dừng bước, đâm sầm vào người ta. Hoàng Khắc Vũ có võ, lập tức lùi lại mấy bước, túm lấy cây cột đứng vững, song người kia thì ngã nhào. Hoàng Khắc Vũ vội cúi xuống đỡ, vừa khom người đã thầm than không ổn, người kia mặc quân phục xanh xám, đầu buộc một dải băng lem luốc, tay còn cầm cây súng Mauser 13, ra là lính PhụngThiên!
Lính Phụng Thiên là quân Đông Bắc do Trương Tác Lâm dẫn vào quan nội, kỷ luật cực kém, dân chúng vẫn gọi vụng là quân thổ phỉ. Từ đầu năm, khi hai phe Nam Bắc lại giao tranh, tổng
thống Trương vẫn sa lầy trong chiến sự ở một dải Sơn Đông, Hà Nam, quân Bắc phạt đánh thẳng lên phía Bắc, lính Phụng Thiên bị thương trong thành Bắc Kinh ngày càng nhiều. Bề trên bỏ bê lương thưởng nên trong tay đám thương binh này chẳng có gì ngoài cây súng, chúng bèn tụ hợp lại, gặp người là cướp, thấy hiệu là phá, cảnh sát cũng chẳng dám động đến.
Hoàng Khắc Vũ không muốn rầy rà, vội chắp tay xin lỗi rồi quay người toan lẩn vào màn cát bụi chuồn thẳng. Nào ngờ tên lính Phụng Thiên kia lồm cồm bò dậy, lên đạn cách một tiếng, chĩa súng vào Hoàng Khắc Vũ quát lớn, “Đâm vào ông mày còn định chạy à?” Hoàng Khắc Vũ đành đứng lại. Tên lính Phụng Thiên kia khập khiễng đi đến, giáng ngay cho cậu một bạt tai, “Thằng ranh này! Mắt ném cho chó ăn rồi hả?” Hoàng Khắc Vũ nghiến răng nhìn trừng trừng họng súng không đáp. Tên lính Phụng Thiên thấy cậu khoác tay nải thì sáng mắt lên, ra lệnh, “Ông nghi mày là tay trong của quân phản loạn, đưa đây! Mở ra ông kiểm tra!” Đoạn vươn tay định giật. Tay nải này hết sức quan trọng, Hoàng Khắc Vũ đời nào để hắn chạm vào, bèn xoay người né tránh.
Tên lính nổi điên chửi “Rõ là đéo biết điều” rồi giơ súng lên định kéo cò. Tình thế cấp bách, Hoàng Khắc Vũ đành sấn lên nửa bước, tay phải nắm lấy họng súng hất lên, tay trái nhanh như chớp chặt mạnh vào gáy hắn. “Đoàng” một tiếng, đạn bay sượt qua đầu Hoàng Khắc Vũ bắn vào khoảng không, tên lính kia cũng ngã xuống đất ngất lịm.
Hoàng Khắc Vũ sờ đầu, mặt tái xanh. Nếu chậm nửa bước, e rằng cậu đã bị bắn chết tươi ngay trên phố. Giữa kinh đô nổi tiếng là đất lành, vậy mà chẳng biết từ bao giờ lại hỗn loạn tới mức này? Cậu thần ra mấy giây, rồi sực nhớ mình đang có việc quan trọng, vội ném cây súng xuống, thắt chặt tay nải, quay người lẩn vào màn cát bụi mù trời. Chẳng bao lâu sau, lại thấp thoáng mấy bóng người đi đến, thấy tên lính Phụng Thiên nằm mê man, chúng liền xúm lại lột sạch quần áo hắn, cuỗm luôn cả cây súng.
Hoàng Khắc Vũ thoát được tên lính, chạy một mạch qua cổng Tuyên Vũ, tới cửa hội quán Thái Nguyên nằm ở đầu Đông ngõ Trữ Khố Doanh mới dừng lại. Chạy cả một quãng dài, cậu thấy phổi nóng rát như bị giội nước sôi, buộc phải nghỉ chân, chống gối thở hổn hển. Vừa ngẩng lên, cậu đã thấy một cậu trai trắng trẻo đeo kính tròn đứng dưới gốc hòe già vẹo vọ đầu ngõ, rõ ràng đã đợi khá lâu.
“Đem đến rồi à?” Kẻ kia hỏi.
Hoàng Khắc Vũ thận trọng cầm tay nải lên tay, nâng niu vuốt ve, “Dọc đường gặp nhiều rắc rối, suýt nữa làm hỏng.” Hoàng Khắc Vũ đang định cởi tay nải ra thì cậu trai kia đã đưa mắt ra hiệu đừng nói chuyện. Hoàng Khắc Vũ nhìn quanh, phát hiện gần hội quán Thái Nguyên có rất nhiều cảnh sát đi tuần, họ túm năm tụm ba đứng giữa bụi mù, như hồn ma ngoài nghĩa địa giữa đêm hôm, chẳng thấy rõ được dáng dấp và mặt mũi, song vẫn rờn rợn ác ý. “Đi từ từ thôi, đừng chạy, cũng đừng ngoái lại.” Cậu trai hạ giọng dặn, đoạn hai người sánh vai đi vào trong ngõ.
Đi được mười mấy bước, Hoàng Khắc Vũ sốt ruột hỏi, “Lưu Nhất Minh, xảy ra chuyện gì vậy?” Kẻ vừa được gọi tên đẩy gọng kính, thốt ra ba tiếng, “Có họa lớn.” Hoàng Khắc Vũ giận đến mức xô mạnh vào vai Lưu Nhất Minh, “Tôi chạy hết nửa thành Bắc Kinh, còn suýt nữa ăn đạn chết ngắc đấy, ông không thể nói rõ ràng một lần được à? Rốt cuộc là kẻ nào muốn đối phó Minh Nhãn Mai Hoa?”
Biết tính Hoàng Khắc Vũ nóng nảy, Lưu Nhất Minh thở dài, lại buông ra ba tiếng: “Ngô Úc Văn.” Nghe cái tên này, Hoàng Khắc Vũ không khỏi hít vào một hơi, “Ngô Diêm Vương à?”
Lưu Nhất Minh gật đầu. Ngô Úc Văn là trưởng phòng điều tra Sở Cảnh sát Kinh thành, con chó dữ của quân phiệt Phụng Thiên trong thành Bắc Kinh, tính tình tàn nhẫn nham hiểm, động một tí là giết cả nhà người ta, nên được gọi là Ngô Diêm Vương. Năm ngoái Sở Cảnh sát cho treo cổ hai mươi mấy thành viên đảng Cộng sản ở trại tạm giam ngõ Tây Giao Dân, nghe nói người cầm đầu là Lý Đại Chiêu bị chính tay Ngô Úc Văn thắt cổ chết; năm kiaThiệu Phiêu Bình chủ bút tờ Kinh báo bị bắn chết, cũng là Ngô Úc Văn ra lệnh. Người chết dưới tay Ngô Úc Văn e rằng còn nhiều hơn quạ đậu phía Nam phố Phủ Tiền, hễ nghe tới cái tên này, ai ai cũng run sợ.
Hoàng Khắc Vũ đi chậm lại, nghi hoặc hỏi, “Hắn ta bắt người, còn Minh Nhãn Mai Hoa giám định cổ vật, nước sông không phạm nước giếng, hắn định làm gì chúng ta?”
Lưu Nhất Minh vỗ vai cậu, “Ông cả ngày tập võ, nhưng thỉnh thoảng cũng phải đọc báo chứ. Quân Cách mạng Quốc dân đã
đánh đến Sơn Đông, Trương Tác Lâm chẳng được mấy ngày yên ổn ở Bắc Kinh nữa đâu, nghe đồn sắp chạy về Đông Bắc rồi. Ngô Úc Văn là chó săn của Trương Tác Lâm, gây ra bấy nhiêu việc ác, chủ chạy mất, chó cũng phải chột dạ chứ.”
“Không phải trước khi đi hắn định cướp cổ vật của chúng ta đấy chứ?”
“Không phải cướp, mà là bán.” Nói đến chữ “bán”, Lưu Nhất Minh nghiến răng, thái độ đầy chế nhạo.
Hoàng Khắc Vũ biết người này quen thói úp mở, biết mười nói một, bèn giục, “Đừng làm bộ làm tịch nữa, mau nói xem, định bán thế nào?”
Lưu Nhất Minh giơ tay trỏ đầu kia con ngõ, “Hôm nay Ngô Úc Văn mở tiệc sinh nhật, mời mấy chục nhà buôn nổi tiếng trong thành đến ăn mừng, nói rằng mình đã chán làm quan, chuẩn bị về quê nghỉ ngơi. Trong tay có mấy món đồ cổ thượng hạng, định dứt ruột tặng lại cho người có duyên… Ông hiểu chưa?” Lưu Nhất Minh nói chuyện đến cuối thường thích đặt câu hỏi lại, như thầy giáo giảng bài cho học sinh vậy.
Hoàng Khắc Vũ trừng mắt gắt, “Cái gì mà dứt ruột, chẳng phải là lấy hàng giả ra bịp à?” Lưu Nhất Minh cười nhạt, “Ai bảo là hàng giả? Ngô Diêm Vương đã mời Minh Nhãn Mai Hoa chúng ta tới giám định tại chỗ để đảm bảo công bằng đấy.” Hoàng Khắc Vũ dừng bước, bàng hoàng, bấy giờ mới hiểu “họa lớn” mà Lưu Nhất Minh nói có ý gì.
Minh Nhãn Mai Hoa là Thái Sơn Bắc Đẩu trong giới cổ vật ở kinh thành, năm gia tộc Hứa, Lưu, Hoàng, Thẩm, Dược hợp lại
thành một đóa “minh nhãn mai hoa”, nắm giữ con mắt của ngành đồ cổ, định đoạt cấp bậc cả giới giám định. Ngô Diêm Vương mời Minh Nhãn Mai Hoa đến giám định, hẳn là muốn mượn danh đẩy giá.
Đây là một cục diện lưỡng nan cực kỳ khó hóa giải với Minh Nhãn Mai Hoa. Ngô Diêm Vương rõ ràng định dùng đồ giả lừa người, nếu Minh Nhãn Mai Hoa nói toạc ra, để Ngô Diêm Vương nổi giận trở mặt thì sẽ chuốc lấy họa lớn; nhưng nếu làm trái lương tâm nói giả thành thật rẻ thành đắt thì danh tiếng bao đời sẽ mất hết, sau này ai còn cậy đến Minh Nhãn Mai Hoa giám định nữa?
Đường nào cũng chết, đây vốn là một cục diện bế tắc. “Vậy… họ phái ai đi?” Hoàng Khắc Vũ nhíu mày.
Lưu Nhất Minh giễu cợt giơ tay lên, “Chưởng môn Thẩm, bác Dược, bác Hai của ông, chú Ba của tôi, phải đến mười mấy cao thủ trong Minh Nhãn Mai Hoa đều đã kéo đến, giờ đang ở nhà nhị tiến* bàn bạc xem rốt cuộc nên cử ai ra mặt. Cứ đùn đẩy nhau mãi chưa đưa ra được chủ ý gì, bấy nhiêu con người mà chẳng một ai dám gánh vác!”
Vừa nói Lưu Nhất Minh vừa lộ vẻ chán ghét ra mặt. Hoàng Khắc Vũ chợt nghĩ đến mấy con khỉ bị nhốt trong lồng, thấy đầu bếp làm món óc khỉ xách dao đi đến, đám khỉ nháo nhào xô đẩy nhau, ra sức ủn đồng loại ra ngoài.
Cậu ngán ngẩm hỏi, “Này Đại Lưu, ông sáng ý, có nghĩ ra được cách gì không?” Trong lứa bọn họ, Lưu Nhất Minh được coi là đa mưu túc trí, thường ngày vẫn đưa ra rất nhiều ý kiến
tinh quái nên Hoàng Khắc Vũ hết sức tin tưởng. Nào ngờ Lưu Nhất Minh lắc đầu, “Tình hình này ai mà cứu nổi.” Hoàng Khắc Vũ tức tối, “Trương Tác Lâm sắp toi đời rồi, tôi không tin tên Ngô Diêm Vương kia còn dám càn rỡ như thế. Cùng lắm thì đấu với hắn xem ai hơn ai!” Lưu Nhất Minh liền tạt cho một gáo nước lạnh, “Dù Trương đại soái đi ngay ngày mai thì Ngô Diêm Vương chỉ cần một đêm cũng đủ diệt hết chúng ta rồi. Dưới tay người ta có mấy trăm cảnh sát mang súng, trong khi Minh Nhãn Mai Hoa chỉ là một đám thư sinh, lấy gì ra đấu với hắn? Hả?” Hoàng Khắc Vũ cứng họng, trợn trừng mắt tức tối hồi lâu rồi đấm mạnh vào tường ngõ, khiến nửa tờ quảng cáo Nhân Đơn* và vôi vữa lả tả rơi xuống.
“Gặp buổi giao tranh, bút không bằng súng. Minh Nhãn Mai Hoa truyền đời cả nghìn năm, có lẽ chỉ đến ngày hôm nay.” Lưu Nhất Minh gỡ kính ra lấy chéo áo lau rồi than thở như ông cụ non.
“Đừng nói bậy, phỉ phui cái mồm!” Hoàng Khắc Vũ đấm dứ một cú. Lưu Nhất Minh cười khì, không nói thêm nữa. Hai bên con ngõ này là hội quán Thái Nguyên và hội quán Thành Đô, thường ngày ngựa xe như nước, người buôn bán và học sĩ khắp nơi ùn ùn đổ về, vậy mà giờ trước tám cánh cửa cao rộng lại vắng tanh vắng ngắt, gần như không thấy bóng người, tựa hồ ai nấy đều đã nghe ngóng được phong thanh gì đó. Hai người đi quá nửa ngõ thì tới trước một tòa nhà lớn ở phía Tây. Nhà này trông hết sức bề thế, cửa thùy hoa, hai trống đá hai bên. Hai cánh cổng đen gắn khoen đồng sừng sững đóng chặt, hai tên
lính Phụng Thiên đứng canh trước cổng, trông âm u như tượng đá đặt trước lối vào hầm mộ. Sát khí rờn rợn khó tả bao trùm lên cả tòa nhà, đến gió Hoàng sát cũng chẳng xua tan nổi.
Cảnh sát được phái đến đầu ngõ, lính Phụng Thiên canh cổng, xem ra hôm nay Ngô Úc Văn đã quyết lấy thế ép người. Lính gác đã được lệnh hôm nay là tiệc mừng thọ trưởng phòng Ngô, khách khứa chỉ được vào không được ra. Thấy Hoàng Khắc Vũ và Lưu Nhất Minh tới, chúng cũng không ngăn cản mà mở cổng cho họ vào. Cả hai vòng qua chiếu bích đi vào trong, tức thì Hoàng Khắc Vũ sững ra.
Giữa ngày bão cát mà trong sân lại bày bảy tám bàn tròn gỗ táo. Trên bàn lỏng chỏng một ấm trà, mấy đĩa hoa quả, gió vừa nổi lên là cát bụi đầy bàn, chẳng ai đụng đến. Mỗi bàn có năm sáu người, thảy đều mặt ủ mày chau, ngồi rũ trên ghế chẳng nói năng gì, như một đám tượng đất. Không thấy quản gia ra tiếp khách, cũng chẳng có gánh hát diễn kịch, chỉ có chừng mười tên lính đứng canh hai cửa Đông Tây, lau súng hút thuốc, nhìn chòng chọc khách khứa đầy đe dọa, như mèo rình chuột vậy.
Hai người đi qua các bàn, Hoàng Khắc Vũ nhìn quanh ngó quất thấy quá nửa khách khứa quen mặt, đều là nhà buôn lớn có tiếng trong kinh. Những người này thường ngày vận gấm vóc lụa là, vậy mà hôm nay chỉ mặc áo vải thô, mánh lới vặt ấy khỏi nói cũng rõ.
Vốn dĩ đằng sau những thương gia máu mặt đều có người trong chính giới chống lưng, Ngô Úc Văn bình thường cũng chẳng dám động đến. Song hiện giờ thế cục rối ren, các quan lớn
ốc chưa mang nổi mình ốc sao mang được cọc cho rêu. Bản thân Ngô Úc Văn đã định đánh bài chuồn nên chẳng sợ đắc tội ai nữa, mới nghĩ ra cách vời# cả đám đến hốt cú chót. Hoàng Khắc Vũ tuy thẳng ruột ngựa nhưng không ngốc, thoáng nghĩ là hiểu ngay.
Thình lình một người đứng phắt dậy, súng trường của đám lính Phụng Thiên cũng tức thì rào rào giơ lên. Người kia sợ vỡ mật, vội giơ cả hai tay, luôn miệng giải thích, “Tôi chỉ nói với cậu ấy một câu, nói một câu thôi…” Đoạn giật tay áo Lưu Nhất Minh. Lưu Nhất Minh nhận ra ông chủ của Chính Đức Tường, cũng coi như quen biết, bèn lịch sự hỏi, “Ông chủ Vương, có việc gì thế?”
Ông chủ Vương lo lắng hỏi, “Minh Nhãn Mai Hoa các cậu định thế nào đây?” Lưu Nhất Minh đáp, “Chẳng phải họ vẫn đang bàn bạc bên trong đấy ư.” Ông chủ Vương đột nhiên chắp tay, cố ý cao giọng để quan khách xung quanh đều nghe thấy, “Danh tiếng của Minh Nhãn Mai Hoa, ai ai trong kinh cũng biết. Trừ giả giữ thật, nhìn thấu mọi sự, có họ ở đây, chúng ta yên tâm được rồi!” Đám “tượng đất” xung quanh nghe vậy lần lượt sống lại, nhao nhao hùa theo ca ngợi.
Lưu Nhất Minh nhìn ra đám thương nhân này không dám đối chọi với Ngô Úc Văn, đành gây áp lực với Minh Nhãn Mai Hoa. Cậu cũng chẳng nói nhiều, chỉ chắp tay vái bốn phía, “Minh Nhãn Mai Hoa nhất định sẽ cho các vị một câu trả lời công bằng.” Đoạn kéo Hoàng Khắc Vũ đi thẳng vào trong.
Qua cửa nguyệt, Hoàng Khắc Vũ khẽ hỏi, “Ông bảo sao tên Ngô Úc Văn kia không đòi tiền luôn có phải dễ không? Bày ra
mua bán cổ vật làm gì, chẳng phải vẽ rắn thêm chân à?” Lưu Nhất Minh đáp, “Trắng trợn đòi tiền gọi là trấn lột; còn đây là buôn bán, có Minh Nhãn Mai Hoa đứng ra định giá, hắn chỉ theo giá thu tiền, để chúng ta chường mặt hứng búa rìu dư luận. Ha ha, Ngô Diêm Vương tính toán chừng mực cũng khéo lắm.”
“Ông nhìn thấu sự việc cũng có ích gì đâu.” Hoàng Khắc Vũ hậm hực.
“Thế thì từ sau đừng giục tôi nói nữa…” Lưu Nhất Minh ngẩng đầu nhìn trời, giọng rầu rầu, “Nói nhiều cũng vô ích, nhỉ?”
Trong lúc nói chuyện, hai người đã vào đến khu nhị tiến. Ở đây không bày bàn tròn, chỉ có mấy băng ghế dài. Chừng mười người đàn ông mặc áo dài hoặc ngồi hoặc đứng, có người còn chắp tay sau lưng đi lòng vòng trong sân. Hoàng Khắc Vũ đưa mắt nhìn, thấy chưởng môn Thẩm Mặc già lụ khụ ngồi chính giữa, chẳng nói chẳng rằng, bên cạnh là một người ngoại tứ tuần, mặt không biểu cảm, đứng chắp tay. Bề trên của các nhà ngồi quây xung quanh, sau lưng là những cao thủ trẻ tuổi đầy triển vọng. Nòng cốt của Minh Nhãn Mai Hoa hầu như đều đã có mặt đông đủ.
Kiến thức của những người này gộp lại phải hơn Ngô Úc Văn đến mấy con phố. Nhưng người ta có súng nên họ đành bó tay ngồi đây.
Lưu Nhất Minh đi được mấy bước, chợt ồ lên như phát hiện thấy điểm bất thường. Hoàng Khắc Vũ quay sang hỏi, song Lưu Nhất Minh chỉ lắc đầu không nói.
Lúc cậu ra đón Hoàng Khắc Vũ, đám người này đang cãi nhau ỏm tỏi, vậy mà giờ chẳng hiểu sao lại im phăng phắc. Tuy vẫn chau mày nhăn mặt, song trông thái độ như vừa trút được gánh nặng. Mới đi mười phút mà đã xảy ra chuyện gì thế này? Lưu Nhất Minh không khỏi nghi hoặc.
Thấy cả hai đi đến, mọi người bèn nhường đường. Hai người đi thẳng tới trước mặt chưởng môn Thẩm Mặc, Hoàng Khắc Vũ cởi tay nải ra, khom lưng nói, “Đồ đến rồi đây thưa ông.” Thẩm Mặc hai tay vịn gậy, mí mắt chỉ hơi nhướng lên. Người đàn ông đứng bên cạnh lên tiếng, “Đưa vào trong đi, đừng để người ta đợi lâu sốt ruột.”
Người vừa cất tiếng là Dược Thận Hành, gia tộc ông ta chuyên về đồ gốm, song cũng am hiểu cả mấy ngành hàng khác, kẻ này có thần có thế, lại quen biết rộng, là ứng cử viên sáng giá cho vị trí chưởng môn đời kế tiếp. Ông ta thay mặt chưởng môn ra lệnh cũng là lẽ thường.
Lưu Nhất Minh nheo mắt, cảm thấy câu này của Dược Thận Hành rất đáng suy ngẫm. Đưa vào trong à? Nói vậy là đã chọn ra được người đứng ra định giá cho Ngô Úc Văn rồi sao?
Hoàng Khắc Vũ đứng yên tại chỗ, song chẳng ai bước ra đón lấy tay nải. Đám nòng cốt tinh anh kia đều thờ ơ quay đi, vờ như không thấy. Dược Thận Hành chỉ nói đưa vào, chứ không chỉ ra ai phải đưa. Lưu Nhất Minh không khỏi cười thầm, nghĩ bụng các bậc bề trên lúc nào cũng sợ bóng sợ gió, đến nỗi không dám đưa một cái tay nải. Cậu bèn kéo Hoàng Khắc Vũ, “Nào Vũ, ông không nghe bác Hành nói à? Mình đi thôi.”
“Nhất Minh, quay lại đây, đi hóng hớt cái gì!” Chú Ba Lưu Nhất Minh quát gọi. Tức thì bác Hai Hoàng Khắc Vũ liếc xéo, “Lưu Nhất Minh nhà ông không đi, sao lại bắt Khắc Vũ nhà tôi đi?” Thấy hai người sắp cãi cọ, Thẩm Mặc bực bội dằn mạnh cây gậy, “Cãi vã gì thế! Nhất Minh, Khắc Vũ, hai đứa đi đi. Chúng bay còn trẻ tuổi, thiết nghĩ người ta cũng chẳng làm khó đâu.”
Lưu Nhất Minh chun mũi, không muốn đứng chung phòng với đám người chỉ biết bo bo giữ thân này thêm một phút giây nào nữa, bèn kéo Hoàng Khắc Vũ đi thẳng vào nhà tam tiến.
“Ông đã thấy chưa? Đạo đức của Minh Nhãn Mai Hoa bây giờ là thế đấy.” Lưu Nhất Minh khẽ nói, không giấu vẻ căm ghét. Hoàng Khắc Vũ chẳng biết phải trả lời sao, đành e dè đáp, “Bề trên tự có tính toán của họ, ông cũng đừng giận.” Lưu Nhất Minh ngẩng lên, “Tính toán? Tính toán của họ chẳng khác nào thời tiết hôm nay, tối tăm mù mịt, khiến người ta ngạt thở mà không trốn đâu nổi… Ôi thôi, không nói nữa.” Cậu sải bước đi thẳng vào nhà tam tiến, Hoàng Khắc Vũ ngẩn ra rồi cũng lật đật chạy theo.
Ngôi nhà này nhất tiến để tiếp đãi khách thương, nhị tiến tiếp đãi Minh Nhãn Mai Hoa, đi sâu vào trong, qua một cánh cửa là chỗ ở của Ngô Úc Văn. Cánh cửa sơn son khép hờ, hai bên treo hai ngọn đèn lồng đỏ, như con thao thiết trợn mắt há miệng chỉ chực nuốt chửng họ. Hoàng Khắc Vũ ngẩng đầu nhìn lên, thấy bầu trời vẫn mịt mù, không phân sáng tối.
“Ông đoán xem ai ở trong kia?” Hoàng Khắc Vũ chợt hỏi.
“Bất luận là ai thì cũng coi như tiêu đời rồi. Tiếc rằng người ta chịu tội thay Minh Nhãn Mai Hoa mà chỉ có hai kẻ hậu sinh trẻ tuổi đi tiễn chân.” Lưu Nhất Minh đẩy gọng kính, nửa trào phúng nửa cảm thán.
Tuy cậu chỉ thuộc hàng con cháu trong Minh Nhãn Mai Hoa, nhưng nhìn việc cực chuẩn. Cách duy nhất để tháo gỡ bế tắc này là chặt tay giữ mạng, cử ra một người giám định, giúp Ngô Úc Văn đẩy giá lên cao để thoát kiếp nạn, sau đó khai trừ luôn người này khỏi Minh Nhãn Mai Hoa, đặng dễ bề ăn nói với đám thương nhân kia. Lấy thanh danh cá nhân đổi lấy bình yên cho cả Minh Nhãn Mai Hoa, nói khó nghe chính là đưa đầu chịu báng.
Lúc trước cãi vã ỏm tỏi là bởi không ai muốn hy sinh. Giờ đã chọn được kẻ chịu tội thay, dĩ nhiên ai nấy đều vui mừng. Nhưng Lưu Nhất Minh vừa rồi nhẩm tính thấy trong phòng chẳng thiếu ai cả, rốt cuộc kẻ nào là con khỉ bị đẩy ra khỏi lồng?
Cả hai vừa bước một chân qua ngưỡng cửa đã nghe thấy trong nhà vọng ra một tràng cười.
Nghe tiếng cười lạnh lẽo như rắn khè, cả hai đều nhận ra giọng cười đặc trưng của Ngô Úc Văn. Trong kinh thành vẫn có câu: nhắc cho mà nhớ ai ơi, quạ kêu êm ái gấp mười Diêm Vương. Ngô Úc Văn hễ cười là có họa đổ máu. Cả hai nhìn nhau, rồi vội vàng vén rèm đi vào, đập ngay vào mắt là chiếc kháng gạch của người Mãn choán hết nửa gian phòng, được sửa thành giường có khung, bên trên kê một chiếc bàn thấp, bày bộ cờ tướng. Hai kỳ thủ ngồi ở hai đầu bàn cờ.
Kẻ bên trái mày sụp cằm nhọn, xương sọ gồ lên dưới da, ngực đeo mề đay Văn Hổ do Trương Tác Lâm đích thân trao tặng, chính là Ngô Diêm Vương người người khiếp sợ. Hắn ngồi khoanh chân, chăm chú nhìn bàn cờ, tay phải mân mê khẩu súng bạc, ngón trỏ thỉnh thoảng lại gại nhẹ cò súng, sát khí rờn rợn đầy phòng. Người bên trái đang uống trà, đặt chén xuống, hơi quay nghiêng, ngọn đèn điện tù mù soi tỏ nửa bên mặt.
“Hứa NhấtThành à?”
Hoàng Khắc Vũ trợn tròn mắt buột miệng. Lưu Nhất Minh cũng ngạc nhiên ra mặt.
Hứa Nhất Thành là con cháu dòng đích nhà họ Hứa trong Minh Nhãn Mai Hoa. Nhà họ Hứa tiếng là Minh Nhãn Mai Hoa chính tông, nhưng xưa nay hiếm hoi, đến đời này chỉ còn một mình Hứa Nhất Thành. Người này cực kỳ có năng khiếu, Thẩm Mặc vốn định bồi dưỡng thành chưởng môn kế nhiệm nhưng y hành xử chẳng giống ai nên thường bị người trong Minh Nhãn Mai Hoa chỉ trích, về sau chẳng hiểu xảy ra chuyện gì, rốt cuộc y rời khỏi Minh Nhãn Mai Hoa, từ đó ít khi qua lại. Lớp trẻ Lưu Nhất Minh, Hoàng Khắc Vũ chỉ biết đến y như một nhân vật trong truyện kể, quả là rồng thần thấy đầu chẳng thấy đuôi.
Thực không ngờ kẻ được cử đi định giá cho Ngô Diêm Vương lại là y. Lưu Nhất Minh nhủ thầm, vừa nãy trong nhà không hề thấy mặt, hẳn là y mới tới độ mười phút trước. Không rõ y bị đám người kia đẩy ra, hay tự đứng ra nữa. Dù sao kết cục cũng thế cả, Lưu Nhất Minh thương cảm nghĩ.
Hứa Nhất Thành và Ngô Úc Văn không hề để tâm đến sự xuất hiện của hai người, chỉ chú mục vào bàn cờ. Ngô Úc Văn trầm ngâm hồi lâu rồi đi một nước. Hứa Nhất Thành khẽ cười, nhấc quân xe lên, đặt xuống trước cửu cung, nói, “Chiếu tướng! Trưởng phòng Ngô, tướng của ông còn không chạy thì chậm mất.” Giọng y sang sảng, thái độ thong dong, vẻ như chẳng mấy để tâm tới thắng thua trong cuộc cờ này.
Ngô Úc Văn trừng mắt nhìn y, cảm thấy gã này đang nói bóng gió mình, nhưng không tiện nổi giận. Hắn nhìn chằm chằm bàn cờ suy tính một hồi, chẳng hiểu sao càng lúc càng rối loạn vì câu nói vừa rồi, đành đẩy bàn cờ ra, “Không đánh nữa, hòa thôi.”
Bấy giờ Hứa Nhất Thành mới ngẩng lên, nhìn sang hai người, “Các cậu đến rồi à?” Thấy cả hai lúng túng chẳng biết trả lời sao, Hứa Nhất Thành liền giới thiệu với Ngô Úc Văn, “Đây là hai cậu nhà họ Hoàng và họ Lưu.”
Ngô Úc Văn chẳng buồn ngước lên, chỉ hỏi, “Đem đến chưa?” Hoàng Khắc Vũ liền bước tới đưa tay nải màu lam ra. Hứa Nhất Thành đón lấy đặt lên kháng, mở ra, bên trong là một cuộn vải đen. Y trải rộng cuộn vải, tức thì ánh kim loại sắc lạnh lóe lên. Ngay Ngô Diêm Vương đang ngồi như lão tăng nhập định cũng phải nhìn sang. Cuộn vải này được lót một lớp da thuộc màu nâu, bên viền lớp da đóng dấu hình mây tứ hợp như ý, nhưng không phải hoa văn mây tứ hợp như ý trên gấm lụa thông thường, mà ở giữa có thêm một vầng mặt trời chói chang lóa mắt, như vén mây mà ra. Trên lớp da bò gắn một hàng dụng cụ nhỏ nhắn tinh xảo, có câu có xẻng, có thích có dùi, thảy đều bằng
thép đen bóng, tay cầm bằng gỗ hoàng dương, dài chừng năm tấc.
“Hàng tốt đấy.” Ngô Diêm Vương khen.
Hứa Nhất Thành cầm chiếc xẻng nhỏ lên, quay tít giữa năm ngón tay, khiến người ta hoa cả mắt, “Thứ này gọi là Kim Đáy Bể, do thợ khéo rèn vào thời Càn Long, dùng để giám định cổ vật. Minh Nhãn Mai Hoa coi bộ đồ nghề này như báu vật gia truyền, không mấy khi cho người khác xem. Nếu không nể mặt trưởng phòng Ngô, cụThẩm cũng chẳng cho mượn đâu.”
“Giờ Kim Đáy Bể đã đến rồi, anh Thành mau giám định ra giá đi thôi.”
Bấy giờ Lưu Nhất Minh và Hoàng Khắc Vũ mới để ý thấy đầu kia kháng chất đống chừng hai mươi cái bọc to cỡ đầu người, buộc kín bằng vải phin xanh lam thông thường, chẳng biết bên trong là gì. Đây có lẽ là “báu vật” Ngô Úc Văn định bán. Người mua bán cổ vật chính thống đều đựng đồ trong hộp gỗ tráp gấm, chỉ đám trộm cướp nôn nóng tẩu tán tang vật mới không biết trân quý, dùng vải gói ghém qua quýt như vậy.
Lưu Nhất Minh, Hoàng Khắc Vũ lẳng lặng đứng xem Hứa Nhất Thành trong truyền thuyết sẽ làm gì. Hứa Nhất Thành là hậu duệ duy nhất của nhà họ Hứa, lỡ như chọc giận Ngô Diêm Vương bị bắn chết tươi thì Minh Nhãn Mai Hoa sẽ thiếu mất một nhà. Chẳng rõ Thẩm Mặc già rồi lẩm cẩm hay bị kẻ nào xúi giục nữa, dẫu sao cũng có rất nhiều người trong Minh Nhãn Mai Hoa không ưa Hứa NhấtThành.
“Đám người đó giỏi nhất là đấu đá nội bộ.” Lưu Nhất Minh cười nhạt nhủ thầm.
Hoàng Khắc Vũ lo lắng đẩy Lưu Nhất Minh, ý bảo cậu phát biểu vài lời nhưng Lưu Nhất Minh chỉ hếch cằm, ra hiệu cho bạn im lặng quan sát.
Hứa Nhất Thành thong thả gõ nhẹ lên bàn cờ, “Ngài không cố chơi nốt ván này thật sao?” Ngô Úc Văn sốt ruột đáp, “Muộn rồi, đừng để mọi người bên ngoài đợi lâu.” Hứa Nhất Thành cười, phẩy tay qua bàn cờ, “Được thôi, trưởng phòng muốn xem món nào trước?” Ngô Úc Văn hất nòng súng, chọc vào đống cờ bên tay, “Xem bộ cờ này trước đi.”
Lưu Nhất Minh và Hoàng Khắc Vũ lúc này mới để ý đến bộ cờ. Ba mươi hai quân cờ vàng óng dưới ánh đèn, vân gỗ như mây bay ngang non nước, sông, núi, mây lớp lớp rõ ràng, mặt bên khắc hoa văn lá chuối thếp vàng, nhìn kỹ còn thấy một cánh dơi phúc thọ khuất sau tán lá chuối. Tên quân cờ viết theo thể Khải, chia hai màu đen đỏ, nét chữ cứng cáp sắc sảo, thoạt nhìn đã biết là thủ bút danh gia. Hai người còn non nớt, nhất thời không sao nhận ra lai lịch.
“Đây là bộ cờ tướng gỗ lim chỉ vàng ngự chế dưới thời Vạn Lịch, chưa chừng còn được chính hoàng đế Vạn Lịch sử dụng, anh xem cho cẩn thận đấy.” Ngô Úc Văn lạnh lùng bổ sung. Mỗi khi nhìn ai, hắn thường cúi đầu hóp ngực, nhướng mắt nhìn lên, vẻ mặt đầy hung tợn lạnh lùng, có tướng sói ưng rình rập như Tư Mã Ý trong lời kể chuyện rong.
Hứa Nhất Thành quơ tay một cái. Người bên cạnh còn chưa kịp nhìn rõ, y đã cầm cả vốc cờ trong tay, ước lượng rồi nói, “Gỗ lim chỉ vàng chỉ hoàng gia mới được sử dụng. Chất gỗ rắn đanh, vân lẫn chỉ vàng, quả là đồ trong cung cấm.” Sắc mặt Ngô Úc Văn vừa dịu đi, lại nghe Hứa Nhất Thành nói, “Bảo thứ này là hàng ngự chế trong cung nhà Thanh thì còn có lý, chứ nói là từ thời Vạn Lịch, e rằng không xuôi lắm.”
Ngô Úc Văn sầm mặt, lại bắt đầu xoay khẩu súng bạc trong tay, “Anh Thành xem kỹ lại đi, kẻo nhìn lầm.” Hứa Nhất Thành như không nhận ra sát khí của hắn, cầm quân pháo đỏ lên, “Không lầm được đâu, thời Minh quân pháo trong cờ tướng đều viết thành ‘bao’, một bộ cờ có bốn ‘bao’, hai đen hai đỏ. Tới thời Thanh mới bắt đầu viết là ‘pháo’. Thế nên bộ cờ này không thể là đồ thời Minh được.”
Lưu Nhất Minh và Hoàng Khắc Vũ cùng hít vào một hơi. Khác biệt giữa “bao” và “pháo”, bất cứ người giám định nào cũng nhìn ra được, nhưng Hứa Nhất Thành cả gan chỉ ra điểm này trước mặt Ngô Úc Văn, ắt sẽ chuốc lấy họa tày trời.
Quả nhiên, Ngô Úc Văn rút chốt súng “cạch” một tiếng, gương mặt nửa cười nửa không dưới ánh đèn như phủ một bóng đen tàn độc, “Ta thấy anh nói chưa đúng lắm.”
Không khí trong phòng bỗng chốc đông cứng lại. Cổ Lưu Nhất Minh và Hoàng Khắc Vũ túa mồ hôi. Song Hứa Nhất Thành chỉ nhếch môi, “Trưởng phòng Ngô đừng nóng, chỗ hay của bộ cờ này không nằm ở niên đại đâu.” Cho rằng Hứa Nhất Thành chỉ mượn cớ lấp liếm, Ngô Úc Văn bật cười khan nghe như tiếng
quạ kêu, rồi giục y mau nói xem hay ở chỗ nào. Lưu Nhất Minh và Hoàng Khắc Vũ thở phào, song không khỏi thất vọng nhủ thầm, hóa ra Hứa NhấtThành cũng chỉ thế mà thôi.
Hứa Nhất Thành cầm quân pháo đỏ đặt vào tay Ngô Úc Văn, “Trưởng phòng thử ước lượng xem quân cờ này có gì khác thường không?” Ngô Úc Văn nhận lấy, trầm ngâm giây lát, “Hơi nặng.” Hứa Nhất Thành cười nói, “Chính xác, dù bằng gỗ lim chỉ vàng thì cũng không nặng đến thế. Đó là do bên trong có đồ.”
Đoạn y lấy lại quân pháo, tay trái rút trong bộ Kim Đáy Bể ra một chiếc xẻng đầu dẹt, gõ vào đầu con dơi phúc thọ bên mép quân cờ, rồi cạy men theo phiến lá chuối, tức thì quân cờ tách làm đôi. Hứa Nhất Thành lại rút lấy chiếc nhíp gắp mảnh đá lóng lánh trắng muốt bên trong ra. Ngô Úc Văn “ồ” lên, suýt đứng bật dậy. Chẳng trách cầm vào tay thấy nằng nặng, thì ra gỗ lim chỉ vàng chỉ là lớp vỏ mỏng bên ngoài, còn bên trong là mảnh ngọc dày trắng muốt như mỡ đông.
Miếng ngọc này được mài vuông vắn, ngoài ra không có dấu vết đẽo gọt nào khác. Hứa Nhất Thành giơ miếng ngọc lên soi trước đèn rồi bảo Ngô Úc Văn, “Trưởng phòng xem ngọc này trong veo, bên trong như có khói mây bảng lảng, quả là hàng tốt thượng hạng.” Vẻ mặt Ngô Úc Văn đầy phức tạp, “Chuyện gì thế này? Sao bên trong quân cờ lại có miếng ngọc?”
Hứa Nhất Thành cười đáp, “Quân cờ bên ngoài tròn, miếng ngọc bên trong lại vuông, gọi là ngoài tròn trong vuông, hợp với đạo của người quân tử, nên bộ cờ này có tên cờ quân tử. Muốn làm cũng không dễ, trước tiên phải đẽo gỗ lim chỉ vàng nguyên
khối thành hình quân cờ, rồi khoét rỗng ruột, sao cho chỗ khoét nhỏ hơn miếng ngọc một chút. Đoạn hơ lửa, khiến khoảng rỗng mềm ra rồi nhét miếng ngọc vào, khép khe gỗ lại, thế là miếng ngọc được khảm vào lòng quân cờ. Sau đó thợ khéo lại khắc hoa văn lá chuối dọc theo khe, lấy khe làm gân lá, trông như một khối liền lạc, chẳng chút sơ hở.”
“Nhưng bọc kín miếng ngọc như thế, bên ngoài đâu thấy được, cần gì phải phí công làm vậy?” Ngô Úc Văn thắc mắc. Hắn chỉ biết trị người, còn hoàn toàn mù mờ về cổ ngoạn.
“Ý nghĩa bên trong hết sức thâm thúy…” Hứa Nhất Thành vê miếng ngọc vuông, nheo mắt lại, “Bên trong quân cờ quân tử này là đá hay ngọc, nhìn ngoài khó mà biết được, phải cạy ra mới hay. Nhưng nó vốn từ một miếng gỗ đẽo nên, cạy ra rồi không thể khôi phục được nữa, quân cờ cũng hỏng luôn. Bởi vậy thứ này một khi bán sang tay, người mua không thể kiểm tra được, chỉ có thể tin vào sự thành thật của người bán. Thế nên bộ cờ quân tử này mới tượng trưng cho đạo đức của người quân tử. Chỉ cần một ý nghĩ không thành thật, một tia nghi ngờ thoáng qua thì không xứng làm quân tử nữa.”
Ngô Úc Văn gật đầu khen hay, rồi chợt vỡ lẽ, tức thì biến sắc đập bàn cờ đánh “rầm”, chĩa súng vào Hứa Nhất Thành quát lớn, “Mày cạy nó ra là ý gì đây? Nói vòng vo một hồi, định mắng ông là tiểu nhân hả?”
Hoàng Khắc Vũ sợ đến nỗi suýt nữa lao đến, may mà Lưu Nhất Minh kéo lại. Song Hứa Nhất Thành vẫn ngồi yên bất động, cười càng lúc càng tươi, “Đồ người xưa làm ra đều ẩn chứa đại
nghĩa. Ngộ được đạo lý trong đó thì đồ vật mới thực sự thuộc về mình. Bởi thế chơi đồ cổ thực ra là quá trình tu thân dưỡng tính. Tôi không có ý châm chọc trưởng phòng Ngô, chỉ cảm khái rằng bộ cờ quân tử này ngụ ý thâm thúy, chế tác tinh xảo mà thôi.”
Nhìn gương mặt bình thản nọ, Ngô Úc Văn càng thêm điên tiết, bèn gí súng vào đầu Hứa Nhất Thành, “Mặc mẹ nó cờ quân tử hay cờ tiểu nhân, mau định giá cho ông, nếu ra giá thấp, ông bắn nát sọ!”
Hứa Nhất Thành không hề nhíu mày, chỉ gõ lên bàn cờ, giọng trầm hẳn, “Trưởng phòng Ngô vẫn chưa nhìn thấu cuộc cờ tàn trên bàn cờ quân tử này sao? Đại quân đã đến dưới thành, tướng của ông cũng chạy rồi, chỉ còn một con tốt sang sông, có đường nào mà đi nữa?”
Vừa dứt câu, ngoài trời chợt nổi gió to, cát bay mù mịt, khiến trong phòng tối hẳn. Ngô Úc Văn như bị chọc trúng chỗ đau, gân xanh trên trán giần giật. Nhưng khẩu súng trong tay vẫn gí vào Hứa Nhất Thành, “Chính vì thế kẻ hèn này mới phải đem hết đồ sưu tầm ra rao bán kiếm ít tiền dưỡng lão. Chắc anh Thành sẽ không chẹt đường ta đâu nhỉ?” Đoạn hắn nheo mắt, khẽ kéo cò làm chốt lẫy phía sau khẩu súng hơi ghểnh lên, chỉ cần siết mạnh thêm chút nữa, đầu Hứa NhấtThành sẽ bị bắn nát.
Sát khí cuồn cuộn như sóng dữ tràn bờ, song Hứa Nhất Thành vẫn điềm nhiên, “Trưởng phòng Ngô cai quản kinh thành bằng bàn tay sắt, kết vô số oán hận. Nếu cứ thế này buông tay quy ẩn, bỏ hết chức tước, dù hôm nay kiếm thêm được mấy vạn đồng đại dương thì tác dụng gì? Kẻ thù của ngài đâu có ít.”
Ngô Úc Văn thay Trương Tác Lâm giết vô số người, trong kinh đang đồn rầm lên rằng Trương Tác Lâm sắp chạy về Đông Bắc, họ Ngô không còn chỗ dựa, sợ nhất là bị trả thù. Giờ lại bị Hứa Nhất Thành nói toạc móng heo, tay hắn run lên, tâm trí rối loạn, đành lên tiếng phân bua, “Cây đổ khỉ vượn tan. Quân phiệt phe PhụngThiên đã hết hy vọng, ta biết làm sao đây?”
Hứa Nhất Thành khuyên giải, “Lối thoát ở ngay trước mắt, sao ông không hỏi thử xem?” Đoạn trỏ bàn cờ. Ngô Úc Văn nhíu mày, không hiểu y có ý gì. Hứa Nhất Thành giải thích, “Dân chơi cổ vật chúng tôi rất tin vào số phận. Số thế nào sẽ có đồ thế nấy, nói ngược lại là đồ vật có thể dự báo số phận. Bộ cờ quân tử này đã rơi vào tay ông, chứng tỏ đôi bên có duyên, tương lai của ông không hỏi nó thì hỏi ai?”
“Hỏi thế nào đây?” Ngô Úc Văn nghi hoặc hạ súng xuống nửa phân, quyết định nếu Hứa Nhất Thành chỉ biết ba hoa nói nhăng nói cuội thì sẽ bắn chết tươi rồi gọi người khác trong Minh Nhãn Mai Hoa vào thay. Hứa Nhất Thành vươn tay nhặt con tướng của Ngô Úc Văn ra khỏi cửu cung, dùng xẻng cạy, quân cờ tách thành hai nửa, lộ ra miếng ngọc. Hứa Nhất Thành đặt cả ba phần này trong lòng bàn tay, chìa tới trước mặt Ngô Úc Văn, điềm đạm nói, “Chẳng phải đã bày ra trước mắt đây ư?”
“Thế này là ý gì? Đừng úp mở nữa.” Ngô Úc Văn đã sắp hết kiên nhẫn.
Hứa Nhất Thành gạt hai mảnh gỗ ra, chỉ đưa cho hắn miếng ngọc, “Song mộc tuy tốt, vẫn không bằng thạch.”
Cạch một tiếng, khẩu súng trong tay Ngô Úc Văn rơi xuống kháng, hắn bàng hoàng ra mặt.
Hoàng Khắc Vũ ngơ ngác không hiểu, vừa rồi Hứa Nhất Thành đã nạy quân cờ ra một lần, sao lần này Ngô Úc Văn lại bàng hoàng làm vậy? Lưu Nhất Minh ngẫm nghĩ chốc lát mới vỡ lẽ, bèn ghé tai cậu nói nhỏ, “Song mộc (木) là Lâm (林), ngọc trắng là Thạch (石). Ý khuyên Ngô Diêm Vương rời Trương Tác Lâm, đầu quân cho Tưởng Giới Thạch đó…” Bấy giờ Hoàng Khắc Vũ mới hiểu ra.
Hứa Nhất Thành lấy miếng ngọc gõ nhịp vào mảnh gỗ thành tiếng lách cách. Ngô Úc Văn càng nghe càng rối trí, nội tâm như sóng cuộn. Hắn nghi ngờ Hứa Nhất Thành cố tình đơm đặt, nhưng trước khi đến y đâu biết hắn có bộ cờ này, càng không biết bên trong nạm ngọc, đâu thể dễ dàng bịa ra những lời kín kẽ như thế được?
Lẽ nào… bộ cờ quân tử thực sự có duyên với lão Ngô này, trong cõi u minh đã ngầm bảo mình đầu quân cho Tưởng? Quân Cách mạng Quốc dân liên tục thắng lợi, không ít tướng lĩnh quân phiệt Phụng Thiên đã đầu hàng, đều được trọng dụng cả. Ngô Úc Văn cũng có ý đầu quân, nhưng trong tay không có một binh một tốt, lại chỉ là tên trưởng phòng điều tra cỏn con, khó mà lọt mắt các tay quân phiệt lớn, nên mới rắp tâm ẵm tiền bỏ chạy. Giờ bộ cờ quân tử này đã hiện ra điềm báo, xem ra đầu quân cho Tưởng Giới Thạch là lối thoát duy nhất. Song chẳng có đường nào chạy vạy, liệu người ta có nhận không…
Hứa Nhất Thành rút một mảnh khăn trắng trong túi ra, cúi xuống bọc lấy khẩu súng nhặt lên, rồi xoay báng súng đưa trả Ngô Úc Văn. Ngô Úc Văn nhận lấy hỏi dò, “Anh Thành có quan hệ với phía Nam ư?” Hứa Nhất Thành cười đáp, “Cũng không thể gọi là quan hệ được, chỉ có mấy người bạn thôi.” Mấy tháng trước, nếu Hứa Nhất Thành dám nói câu này, ắt đã bị Ngô Úc Văn nhốt vào nhà lao tra tấn rồi. Song sông có khúc người có lúc, giờ đây Ngô Diêm Vương nghe được câu này chẳng những không dám bắt bớ mà còn khách sáo, “Nếu tiện chi bằng giới thiệu giúp tôi nhỉ.”
Nghe hắn nói vậy, Lưu Nhất Minh và Hoàng Khắc Vũ thầm thở phào nhẹ nhõm. Xem ra Minh Nhãn Mai Hoa phen này thoát nạn rồi. Nghĩ lại, hai người không khỏi bội phục Hứa Nhất Thành. Cục diện bế tắc như vậy mà y vẫn đảo ngược được, trong khi lúc nãy cả Minh Nhãn Mai Hoa chỉ mải cãi nhau xem có nên dối trá hay không, bởi dối hay không dối đều chết cả. Hứa Nhất Thành thì đã nhìn thấu bản chất vấn đề, vượt ra khỏi vòng luẩn quẩn thật giả, nhắm vào đường công danh của Ngô Úc Văn, tức thì mở ra cục diện thênh thang.
Nhưng Lưu Nhất Minh vẫn còn thắc mắc, “Nếu trong tay Ngô Diêm Vương không có cờ quân tử thì sao? Hứa Nhất Thành làm sao thuyết phục được hắn ta? Lẽ nào người này lợi hại đến mức nhìn thấy món cổ vật nào cũng tuôn ra được một tràng lý lẽ vậy sao?” Thiên Kiều có những ông thầy cực giỏi đoán chữ, viết gì cũng phán được một tràng, song chiêu này của Hứa Nhất Thành
còn khó hơn họ nhiều, rốt cuộc người này lợi hại đến chừng nào cơ chứ? Lưu Nhất Minh thực không dám nghĩ tiếp. Nhất thời trong phòng chẳng ai nói năng gì. Bầu không khí nặng nề gượng gạo. Ngô Úc Văn bỗng đâm hối hận vì đã bày tiệc sinh nhật lần này. Hắn vốn định hốt cú chót, ẵm mớ tiền bỏ chạy, nhưng nếu theo Tưởng, về sau vẫn phải bám trụ kinh thành thì lại không tiện đắc tội với đám thương nhân kia. Ngô Úc Văn tính buông tay không lấy tiền nữa, nhưng giờ đã đâm lao thì phải theo lao, khua chiêng gióng trống bày tiệc như thế rồi lại im lìm thu quân, đồn ra ắt sẽ thành trò cười, về sau ai còn sợ hắn nữa.
Phân vân một hồi, hắn đành chắp tay hỏi, “Tôi đã hứa với các thương gia ngoài kia rằng sẽ nhượng lại báu vật cho họ, giờ thôi không nhượng, e rằng thất tín, phải làm sao đây?” Ấy là Ngô Úc Văn nói ngược. Hứa Nhất Thành nhìn hắn một lượt từ trên xuống dưới, cuối cùng dừng ở ngực, xoa cằm tủm tỉm cười. Ngô Diêm Vương bị y nhìn mãi cũng đâm bồn chồn thầm nghĩ, hay tên này lại thần kinh bệnh hoạn gì, song chỉ biết cười gượng cho qua, không dám quay đi.
Nhìn một hồi, Hứa Nhất Thành cười nói, “Tôi đề nghị làm thế này là êm đẹp mọi bề.” Thấy y cười đầy kỳ dị, Ngô Úc Văn vội gặng hỏi. Hứa Nhất Thành trỏ mề đay Văn Hổ trên ngực hắn, “Chỉ cần trưởng phòng Ngô chịu bỏ vật này thôi.” Nói rồi ghé tai thì thầm vài câu, Ngô Úc Văn mừng ra mặt, luôn miệng khen hay.
Đám thương gia bên ngoài nào hay tình hình bên trong, vẫn nơm nớp ngồi đợi. Đột nhiên nghe tiếng chân từ nhà trong đi ra, tất cả rào rào quay sang nhìn, ông chủ Vương cầm đầu tái mét mặt. Chỉ thấy Ngô Úc Văn và Thẩm Mặc dẫn đầu, phía sau là một hàng quân sĩ bưng khoảng hai chục bọc vải nối nhau đi ra, lần lượt đặt lên chiếc bàn tròn ở giữa. Ngô Úc Văn đưa mắt ra hiệu, các binh sĩ liền tháo bọc vải, để lộ các món cổ vật bên trong, từ lò Tuyên Đức đến nhẫn ngọc ngón cái, từ khánh đồng hoa sen đến trâm vàng trâm bạc, chẳng món nào giống món nào. Đám lính Phụng Thiên gần đó cũng hăng hái hẳn lên, vác súng đứng nghiêm.
Xem ra Minh Nhãn Mai Hoa đã ăn cánh với Ngô Diêm Vương, chuẩn bị đẩy giá lừa người. Các thương nhân đều đổ dồn mắt vào ông chủ Vương, ông ta sầm mặt, thề sau khi rời khỏi đây sẽ đi khắp nơi rêu rao rằng Minh Nhãn Mai Hoa là một đám lừa đảo.
Ngô Úc Văn đi đến giữa sân, ôm quyền chào khắp lượt rồi cao giọng, “Hôm nay là tiệc sinh nhật của người anh em này, cảm ơn các ông chủ lớn đến góp mặt, người anh em xin ghi lòng tạc dạ. Mấy năm nay tôi có duyên tìm được vài món bảo bối, không dám hưởng thụ một mình, nên lấy ra cùng chư vị thưởng thức.”
Đám thương nhân đều mải tính xem hôm nay rốt cuộc sẽ mất bao nhiêu máu, còn bụng dạ nào nghe hắn vờ vịt khách sáo nữa. Chẳng ngờ Ngô Úc Văn đổi giọng đau đáu, “Giờ thời cuộc rối ren, sinh linh đồ thán. Mấy năm nay trong thành Bắc Kinh chúng ta xảy ra bao nhiêu chuyện, chết mất bao nhiêu người! Tôi từ nhỏ đã được dạy dỗ, hiểu rõ cái gốc của việc dựng nước nằm ở nhân
đức.Thế nên muốn mượn buổi tiệc này, đem bán đấu giá tất cả đồ sưu tầm được lấy tiền quyên góp cho trại trẻ mồ côi và trại tế bần, hoàn thành một phần trách nhiệm với dân với nước. Hoan nghênh các vị cùng tôi chia sẻ nghĩa cử này.”
Lời hắn nói khiến đám thương nhân sững sờ. Xưa nay đã bao giờ nghe chuyện hổ ăn chay, cáo chê gà, Ngô Diêm Vương tay dính đầy nợ máu mà cũng bắt đầu bàn đến chuyện làm việc thiện ư?
Ngô Úc Văn cởi mề đay Văn Hổ đeo trước ngực ra, cao giọng, “Để biểu thị quyết tâm, tôi xin quyên cả chiếc mề đay Văn Hổ này.”
Mề đay Văn Hổ làm bằng bạc ròng, lớp ngoài cùng là hào quang cờ năm màu hình bát giác, lớp thứ hai là vầng sáng bạc hình bát giác đúc nổi, trong cùng là con hổ vểnh đuôi đứng giữa cỏ xanh trời biếc. Tuy không phải cổ vật, song rất có ý nghĩa. Tấm mề đay này do đích thân Trương Tác Lâm trao tặng, Ngô Diêm Vương luôn lấy đó làm hãnh diện, đi đâu cũng đeo, người người đều biết.
Giờ đến tấm mề đay này Ngô Úc Văn cũng đem ra quyên tặng, xem ra việc quyên góp từ thiện là thật.
Tuy không hiểu sao câu chuyện lại xoay chuyển nhanh đến thế, song tư duy của đám thương nhân cũng rất nhanh. Vốn là ép mua, ra giá bao nhiêu phải mua bấy nhiêu; giờ lại thành ép quyên góp, nhưng quyên góp bao nhiêu tự mình quyết định. Vốn dĩ mấy vạn đồng đại dương cũng chưa thấm vào đâu, giờ chỉ hơn nghìn đồng là giải quyết xong. Quả là niềm vui bất ngờ!
Hơn nghìn đồng đại dương là cả gia tài của người nghèo, song trong mắt đám thương nhân này thì chỉ là chuyện nhỏ, hằng ngày lo lót quan phủ còn hơn thế nhiều. Họ chỉ sợ Ngô Úc Văn hối hận, nhao nhao giơ tay hưởng ứng.
Đấu giá phải có giá sàn, đây là lúc cần Minh Nhãn Mai Hoa. Thẩm Mặc ngồi bên cạnh chủ trì, nói vài câu khách sáo, mấy cao thủ giám định trong Minh Nhãn Mai Hoa sôi nổi tham gia. Không còn áp lực đè nặng nên chuyên gia giám định có sao nói vậy, chỉ ra trong những đồ kia có mới có cũ, lần lượt đưa ra mức giá phải chăng. Đám nhà buôn bên dưới quyên góp từ thiện nên cũng chẳng so đo thật giả, sau mấy lượt đấu giá, đôi bên ngầm thống nhất đẩy giá cao lên hai ba phần so với giá sàn thì dừng lại.
Nhất thời trong sân huyên náo hẳn, chỉ một lát sau, hai mươi mấy món hàng đều đã tìm được chủ. Đám thương nhân được một phen hú vía, còn góp ra mấy túi bạc mời đội lính Phụng Thiên uống trà. Đội lính Phụng Thiên được tiền cũng tươi tỉnh hẳn, bầu không khí nặng nề thoắt chốc đã tan biến sạch.
Ngô Úc Văn chống nạnh đứng giữa sân, lòng vui phơi phới. Tuy tiền thu được không nhiều, còn phải trích một phần đem quyên góp, nhưng không đến nỗi đắc tội quá đáng với đám thương nhân, lại còn được tiếng làm việc thiện, tha hồ cho báo chí tuyên dương, rất có lợi cho việc đầu quân sang bên Tưởng Giới Thạch. Chỉ cần giữ được ghế thì mấy đồng tiền kia kiếm đâu mà chẳng được, có gì đáng tiếc.
Hắn xã giao với đám thương nhân mấy câu rồi đến gần Thẩm Mặc, “Cụ Thẩm, lần này được Minh Nhãn Mai Hoa giúp sức, tôi
hết sức cảm kích, về sau có việc gì khó cứ tìm tôi.” Thẩm Mặc nhất thời chẳng biết nói sao, mới một tiếng trước chính kẻ này còn hung tợn giam lỏng cả Minh Nhãn Mai Hoa trong nhà nhị tiến, giờ lại quay ra làm thân. Ông ta đành khách sáo mấy câu lấy lệ. Ngô Úc Văn nhìn quanh rồi hỏi, “AnhThành đâu ấy nhỉ?”
Thẩm Mặc ngẩn ra giây lát mới hiểu hắn đang hỏi tới Hứa Nhất Thành, “À, cậu ta nói nhà trường có việc, xin phép đi trước rồi.” Ngô Úc Văn ngạc nhiên, “Nhà trường ư? Anh ta không phải người của Minh Nhãn Mai Hoa à?” Thẩm Mặc đáp, “Phải, nhưng cậu ta ít qua lại với chúng tôi, giờ đang ở trường Thanh Hoa.” Ngô Úc Văn nhìn đám người Minh Nhãn Mai Hoa đờ đẫn khép nép đứng sau Thẩm Mặc, bật cười the thé như quạ kêu, “Thảo nào tôi thấy không giống lắm. Có điều trước hết phải chúc mừng cụ, người này học vấn thâm sâu khó dò, được người kế nhiệm giỏi giang như thế, Minh Nhãn Mai Hoa chẳng phải lo nữa rồi.”
Thẩm Mặc không tiếp lời, trái lại khóe miệng Dược Thận Hành đứng bên cạnh hơi giần giật, song hắn không dám nói gì. Lúc này, Lưu Nhất Minh và Hoàng Khắc Vũ đang hỏi chuyện Hứa Nhất Thành. Hoàng Khắc Vũ tinh mắt, cuộc đấu giá vừa bắt đầu đã để ý thấy Hứa Nhất Thành lẳng lặng đi ra cửa. Cậu không muốn ở lâu với đám người kia, lại ôm đầy một bụng thắc mắc chưa được giải đáp, vội gọi Lưu Nhất Minh đuổi theo. Mãi đến đầu ngõ mới thấy Hứa Nhất Thành chậm rãi đi giữa gió cát, vội lên tiếng gọi.
Nghe tiếng, Hứa Nhất Thành dừng chân, quay người lại đợi hai cậu thanh niên chạy đến trước mặt. Hoàng Khắc Vũ nhanh
nhảu hỏi ngay, “Vừa bắt đầu đấu giá, sao chú đã đi?” Hứa Nhất Thành nhìn vào sâu trong ngõ, điềm nhiên đáp, “Chú xong việc ở đây rồi.”
“Bọn họ rõ là… là… ăn cháo đá bát!” Hoàng Khắc Vũ nói. Cậu và Lưu Nhất Minh chính mắt chứng kiến, Hứa Nhất Thành từ nhà tam tiến đi ra, thông báo kết quả cho Thẩm Mặc, cả đám Minh Nhãn Mai Hoa như trút được gánh nặng, song chẳng buồn nói một câu khách sáo, nhất loạt lờ Hứa Nhất Thành đi. Tới khi Thẩm Mặc cùng Ngô Úc Văn đi ra ngoài sân, cả đám cũng ào ào theo sau như một bầy ong, chẳng ai nói được nửa lời cảm ơn Hứa NhấtThành.
Hoàng Khắc Vũ thấy mà uất, song Hứa Nhất Thành chỉ cười xòa. Lưu Nhất Minh quan sát kỹ, thầm nhủ nếu không phải người này vờ vịt làm bộ thản nhiên thì hẳn là chẳng buồn để tâm đến việc nở mày nở mặt, tạo dựng uy thế trước những kẻ đã bỏ mình lại…
“Hai đứa chạy theo không phải chỉ vì bất bình giùm chú đâu nhỉ?” Hứa Nhất Thành hỏi. Hai mắt y sáng rực, khiến Lưu Nhất Minh và Hoàng Khắc Vũ có cảm giác không chuyện gì giấu giếm nổi.
Hoàng Khắc Vũ đỏ mặt rồi buột miệng thốt lên đầy ngưỡng mộ, “Cháu muốn theo chú học nghề.” Hứa Nhất Thành cười, vỗ vai Hoàng Khắc Vũ, “Bác Hai cháu xem đồ đồng khắp thiên hạ chẳng ai bằng, một dải Hà Nam không có đối thủ; chú Ba của Nhất Minh cũng rất sành giám định thư họa, đến Vinh Bảo trai
còn phải thỉnh giáo. Người giỏi trong Minh Nhãn Mai Hoa nhiều lắm, cần gì tìm đến một kẻ ngoài lề như chú?”
“Nhưng chú giỏi hơn họ.” Hoàng Khắc Vũ muốn nói cụ thể giỏi hơn ở đâu, nhưng nhất thời không sao diễn đạt rõ được, đành trợn mắt quay sang Lưu Nhất Minh. Bấy giờ Lưu Nhất Minh mới chậm rãi lên tiếng, “Chúng cháu không định hỏi chú cách xem đồ, chỉ muốn học cách nhìn người thôi.”
Mí mắt Hứa Nhất Thành thoáng giật, “Nhất Minh nói trúng trọng điểm rồi đấy, xem đồ dễ, nhìn người mới khó.” Dứt lời y xoay bàn tay, năm ngón chụm lại khum khum hướng lên, “Xem đồ phải truy nguồn gốc, nhìn người phải xét tấm lòng. Muốn nắm bắt được tâm tư con người, phải truy ngược về gốc rễ, tìm hiểu xem kẻ đó muốn gì, sợ gì, quan tâm thứ gì, từ đó mới có thể dễ dàng sai khiến, tùy ý sử dụng. Có điều cánh thương nhân và thầy bói mới giỏi nhìn mặt đoán ý, dùng lời lẽ lay động người khác, hai đứa cứ ra Thiên Kiều đi loanh quanh, còn học được nhiều hơn theo chú ấy chứ.”
Lưu Nhất Minh không nén nổi tò mò hỏi tiếp, “Điềm báo ‘song mộc không bằng thạch’ trong bộ cờ quân tử kia là trùng hợp hay chú tự bịa ra sau khi tìm thấy ngọc trong quân cờ?”
Hứa Nhất Thành tủm tỉm cười, “Nếu giỏi thế, chú chẳng đã thành thần tiên rồi ư? Chú có người bạn làm ở Sở Cảnh sát, trước đã dò hỏi biết được Ngô Diêm Vương có bộ cờ tướng như thế, nên vừa vào phòng liền rủ ông ta chơi một ván, rồi dần dần dẫn dắt ông ta vào tròng thôi. Song với tư cách người giám định, chú không hề nói dối, bộ cờ đó đúng là cờ quân tử đấy.”
Hoàng Khắc Vũ nghi hoặc hỏi, “Chú đã thuyết phục được Ngô Diêm Vương thì để ông ta hủy bỏ vụ mua bán này là xong, sao phải vẽ rắn thêm chân, bày ra chuyện quyên góp nữa?”
Hứa Nhất Thành hơi hếch cằm, khóe môi nhếch lên vẻ hóm hỉnh, “Thường ngày kêu đám phú thương kia quyên góp mấy đồng chẳng khác nào lột da họ vậy. Lần này vừa hay mượn tay Ngô Úc Văn, khiến bọn họ cam tâm tình nguyện làm việc thiện, tội gì không làm?”
Lưu Nhất Minh và Hoàng Khắc Vũ đồng thời chặc lưỡi. Chẳng ngờ Hứa Nhất Thành không chỉ nhẹ nhàng hóa giải tai kiếp, cứu lấy Minh Nhãn Mai Hoa, còn tiện thể ép đám phú thương quyên tiền làm từ thiện. Cục diện bế tắc kẻ khác nghĩ nát óc không ra cách tháo gỡ mà y còn thuận tay ném một hòn đá chết hai con chim, trí tuệ và bản lĩnh ấy thực khiến người ta kinh ngạc.
Nói tới đây, Hứa Nhất Thành tắt hẳn nụ cười, “Việc hôm nay các cháu phải cẩn thận đấy, chú vẫn cảm thấy có gì đó không bình thường. Trước giờ Ngô Úc Văn và chúng ta nước sông không phạm nước giếng, lần này lại khăng khăng bắt chẹt Minh Nhãn Mai Hoa, ắt hẳn đằng sau còn có ẩn tình gì đó…”
Nghe y nói, Hoàng Khắc Vũ và Lưu Nhất Minh tái mặt, ngẫm kỹ mới thấy việc này quả thực không bình thường. Cả ba đồng loạt ngẩng lên, thấy nền trời vàng đục, giữa tầng mây hỗn độn tựa hồ thấp thoáng bàn tay khổng lồ của Phật Như Lai, sẵn sàng chụp xuống bất cứ lúc nào. Hứa Nhất Thành chợt lắc đầu, bật cười tự giễu, “Mà có cụ Thẩm giám sát, anh Hành cai quản, có
thể xảy ra chuyện gì được chứ? Chú đúng là lo hão.” Lưu Nhất Minh không nhịn được buột miệng, “Rặt một đám nhát gan sợ chết, được tích sự gì đâu? Hay chú quay về đi, chúng ta từ từ tính kế lâu dài.”
Hoàng Khắc Vũ tròn mắt, tuy hai người không tường tận việc Hứa Nhất Thành rời Minh Nhãn Mai Hoa, song cũng biết bên trong ắt có ẩn tình, chẳng ngờ Lưu Nhất Minh thường ngày nói một giấu mười, hôm nay lại bạo gan đến thế. Hứa Nhất Thành thoạt tiên sững ra, rồi ôn hòa vỗ vai Lưu Nhất Minh, “Chú đang ở Thanh Hoa theo thầy Lý Tế học khảo cổ, thường ngày cũng bận lắm.”
“Khảo cổ ư?” Lưu Nhất Minh và Hoàng Khắc Vũ ngạc nhiên nhìn nhau, rõ ràng không hiểu từ này lắm.
Hứa Nhất Thành giơ một ngón tay lên, “Khảo cổ là bộ môn khoa học của người Tây truyền đến nước ta, hơi giống giám định cổ vật, đều là nghiên cứu về thời xưa cả. Nhưng giám định cổ vật suy cho cùng vẫn vì buôn bán, đánh giá xem món đồ này đáng giá bao nhiêu, chủ yếu nhằm vào chữ ‘lợi’; còn khảo cổ không đặt nặng tiền bạc, mà chú trọng bảo tồn văn hóa, chỉ xuất phát từ tấm lòng thôi… Ài, để chú nghĩ cách giải thích rõ hơn nhé, nói thế này đi, khảo cổ là giám định vì lịch sử, định giá vì dân tộc.”
Hai người kia ngẩn ngơ nhìn nhau, nửa hiểu nửa không. Hứa Nhất Thành phóng khoáng khoát tay, “Chú ở trường Thanh Hoa, lúc nào rỗi hai đứa cứ đến chơi.” Dứt lời y quay lưng đi khỏi, chỉ trong nháy mắt, bóng dáng thẳng tắp ấy đã khuất sau màn cát vàng mờ mịt.
“Thế là xong à?” Hoàng Khắc Vũ có phần hụt hẫng. Đôi mắt sau cặp kính của Lưu Nhất Minh sáng rực lên, y đáp, “Không nghe chú ấy nói à? Tôi linh cảm tất cả mới chỉ bắt đầu thôi.”
Chương 2 HUYẾT THƯ
M
ấy ngày nay dân Bắc Kinh bồn chồn không yên, lúc thì nghe nói quân phương Nam đã đánh đến Thương Châu, lúc lại nghe Đông Bắc đã điều mấy nghìn lính Phụng Thiên và mấy toa tàu toàn súng ống đạn dược chi viện, thậm chí còn có lời đồn Phổ Nghi ở Thiên Tân đã vời người Tây đến, lại tập hợp liên quân tám nước đổ bộ vào Thiên Tân, khí thế bừng bừng kéo về Bắc Kinh khôi phục đế chế. Giả thuyết hoang đường tới đâu cũng có, cộng thêm trận gió Hoàng sát quái lạ, khiến dân chúng nơm nớp lo sợ. Tháng Năm độc năm nay xem chừng độc hơi quá.
Lúc Phương Lão Sơn quay về thành, trời đã nhá nhem tối, lão không đi đường cái mà lẩn lút trong ngõ hẻm, hễ thấy bóng người là nép mình vào góc tường, chỉ sợ chạm mặt người quen và lính Phụng Thiên. Gặp người quen sợ nhờ vả, gặp lính Phụng Thiên sợ cướp bóc, thời nay chỉ có mạng mình là quan trọng nhất.
Phương Lão Sơn là dân Bắc Kinh gốc, mấy năm nay đã thấy không ít chiến loạn, kinh nghiệm phong phú, tự biết một khi can qua nổi lên, sợ nhất là nạn đói. Thế nên vừa nghe nói sắp đánh nhau, lão đã tất tả chạy ra ngoài thành, mua của nhà nông
ở ngoại ô hai cây củ cải, một bó cải thìa, cả hai con cá sông chỉ nhỉnh hơn ngón tay, lấy dây thừng xâu lại xách lủng lẳng. Nếu thực sự đánh nhau, phong tỏa thành Bắc Kinh thì chút thức ăn này vẫn đủ để cả nhà cầm cự mấy ngày, nghĩ vậy Phương Lão Sơn cũng vững dạ hơn.
Sắp đến cửa nhà, Phương Lão Sơn chợt thấy phía trước thấp thoáng bóng người đang chân thấp chân cao tiến về phía mình, dáng đi cực kỳ quái dị. Phương Lão Sơn kinh hãi nghĩ thầm, lẽ nào là ma vất vưởng trong ngõ. Dân Bắc Kinh truyền tai nhau rằng linh hồn những kẻ chết đường chết chợ muốn về nhà, nhưng không nhớ nổi đường, đành lang thang vất vưởng khắp hang cùng ngõ hẻm. Nếu người đi đường đụng phải thì không được nói chuyện với nó mà phải mau mau cúi đầu đi qua, bằng không để nó đi theo thì rắc rối to.
Phương Lão Sơn lập tức cúi đầu nín thở đi thẳng. Lúc hai bên sắp đi lướt qua nhau, kẻ kia chợt hộc lên một tiếng, vươn tay ra toan ôm lấy Phương Lão Sơn, khiến lão kinh hãi ném luôn mớ đồ ăn trong tay, quay lưng chạy trối chết. Kẻ kia đuổi theo mấy bước rồi ngã bịch xuống đất.
Phương Lão Sơn ngoái đầu, thấy hắn nằm im không nhúc nhích thì đánh bạo vòng lại. Lão ngồi xuống, sờ gáy kẻ nọ, thấy âm ấm mới dám tin đó không phải ma mà là một người đang sống sờ sờ. Thấy kẻ nọ chẳng ừ hử gì, lão chợt nảy lòng tham, thầm nghĩ nếu lột bộ đồ này đem đến hàng quần áo, có khi cũng đổi được mấy đồng.
Phương Lão Sơn do dự giây lát, đang định thò tay lột thì kẻ kia thình lình ngóc đầu dậy, khiến lão rú lên ngồi bệt xuống đất, ê hết cả mông.
Té ra đó là một thanh niên mặt xám ngoét, thần sắc héo hon. Cậu ta hổn hển nói, “Phiền bác… đưa thứ này đến trường Thanh Hoa cho Hứa NhấtThành.” Phương Lão Sơn thấy trong tay cậu ta là một tờ giấy trắng, phía trên còn dính máu nên không dám nhận lấy. Người kia lộ vẻ khẩn cầu, “Sẽ hậu tạ, hậu tạ…” Cậu ta hơi rướn người, như muốn nhấn mạnh. Phương Lão Sơn vội nói để tôi đi tìm thầy thuốc cho cậu, song người kia chỉ khẩn khoản, “Bác nhất định phải đưa đến đấy, bằng không sẽ không…” Chưa kịp nói hết câu, cậu ta đã không gượng nổi nữa, lăn ra đất tắt thở.
Đột nhiên đầu kia con ngõ vang lên tiếng chân rầm rập, phải đến cả toán người. Phương Lão Sơn bật dậy như lò xo, chẳng nghĩ ngợi gì nhiều, giật lấy mảnh giấy từ tay cậu thanh niên rồi chạy thẳng tới cửa nhà. Lão lật đật mở khóa chui vào, đoạn khẽ khàng khép cửa lại, nhòm qua khe cửa ra ngoài.
Mấy bóng người từ xa chạy đến, trông cách ăn mặc thì đều là lính Phụng Thiên, song nhanh nhẹn hơn nhiều. Một tên trong bọn cầm đèn pin soi từ đầu xuống chân cái xác rồi lia cả sang xung quanh. Kẻ này cao gầy, đằng đằng sát khí, khiến Phương Lão Sơn trông mà phát khiếp, chẳng dám thở mạnh. Hắn ngồi thụp xuống lục soát khắp người cái xác, đứng dậy hạ giọng nói vài câu với mấy tên xung quanh bằng thứ tiếng lạ hoắc, đoạn khiêng thi thể, lẳng lặng bỏ đi.
Mồ hôi lạnh đầm đìa cả sống lưng, Phương Lão Sơn cúi xuống nhìn mới nhận ra vừa rồi mình giật vội nên chỉ cầm được nửa mảnh giấy, không khỏi giật bắn người. Lão vẫn hy vọng có thể cầm mảnh giấy tới Thanh Hoa lấy tiền thưởng, vội mở ra xem, thấy đó là loại giấy viết thư, bên trên nguệch ngoạc một chữ “lăng”, cạnh đó là một dấu tay máu đỏ lòm, thấy rõ cả năm ngón. Nửa còn lại chắc vẫn còn chữ, song đã bị đám người kia lấy đi rồi.
Phương Lão Sơn hết sức rầu rĩ, biết thế đã không giật mạnh tay, chẳng rõ nửa mảnh giấy này có đổi được tiền không nữa. Lão trằn trọc cả đêm, càng nghĩ càng tiếc của, đến trưa hôm sau thì quyết định đến trườngThanh Hoa thử vận may.
Trong ngoài thành Bắc Kinh đều rối ren, trường Thanh Hoa cũng trong tình trạng hỗn loạn. Dăm tên lính canh biếng nhác tựa vào mấy bao cát trước cổng trường, uể oải gieo súc sắc; vài nam sinh vận áo dài giương băng rôn trắng, hăng hái trình bày luận cương cách mạng trước đám đông vây quanh; một toán nữ sinh ôm sách hối hả đi qua, giấy vụn và cờ quạt vương vãi đầy đất, chẳng ai quét dọn.
Phương Lão Sơn hỏi thăm khắp lượt, cuối cùng cũng nghe ngóng được Hứa Nhất Thành ở Viện nghiên cứu Quốc học Thanh Hoa. Viện nghiên cứu Quốc học có trụ sở riêng, nằm về phía Đông hồ Vị Danh, là một tòa nhà hai tầng màu trắng theo phong cách phương Tây. Dưới hiên nhà được bao quanh bởi cây bụi và hoa cỏ đủ màu, bờ tường tả tơi dây thì là và thường xuân, đó là vết tích cơn bão cát mấy hôm trước để lại.
Được người ta chỉ đường, lão tìm đến văn phòng tầng một, vừa bước vào đã giật cả mình. Ngay mặt tường quay ra cửa dán một bức hình giải phẫu cơ thể người, trên bàn còn đặt một chiếc đầu lâu. Bốn bề ngổn ngang nào đá, nào đồ gốm, ảnh chụp và các sách vở tiếng Tây, ngoài ra còn lỏng chỏng không ít vật dụng lạ lùng. Một người đang cắm cúi ngồi trước bàn làm việc, nghe tiếng bước chân liền ngẩng lên, hòa nhã hỏi lão có việc gì.
“À tôi tìm anh Hứa Nhất Thành.” Phương Lão Sơn khom người nói. Người kia đáp, tôi là Hứa Nhất Thành đây. Phương Lão Sơn liền nói có người nhờ tôi đưa thư cho anh. Hứa Nhất Thành đặt bút máy xuống, nhìn lão vẻ nghi hoặc. Phương Lão Sơn cũng chẳng khách sáo, tông tốc kể hết chuyện tối qua cho y.
Nghe xong, Hứa Nhất Thành nhíu mày, hỏi han cặn kẽ mặt mũi kẻ nọ. Phương Lão Sơn đáp, “Mặt trái xoan, mũi cao, hai mắt cách xa nhau, à, phải rồi, trán rất rộng.” Hứa Nhất Thành đảo mắt, lấy trong ngăn kéo ra một tấm ảnh, hỏi Phương Lão Sơn có nhận ra được không. Phương Lão Sơn thấy đó là một tấm ảnh tập thể khoảng mươi người. Lão nhìn khắp lượt rồi trỏ một trong số họ, “Đây, chính là người này.” Hứa Nhất Thành nhắm mắt, hít vào một hơi, bàn tay bưng chén trà run run, hồi lâu mới khó nhọc lên tiếng hỏi, “Thư đâu?”
Phương Lão Sơn móc nửa mảnh giấy trắng gập kỹ nhét trong ngực áo ra, song không vội đưa ngay. Hứa Nhất Thành hiểu ý, bèn quăng cho lão một nắm tiền xu. Phương Lão Sơn hớn hở nhận lấy đếm thật kỹ, nhìn sắc mặt Hứa Nhất Thành rồi vội làm bộ xót xa, cung kính đặt mảnh giấy lên bàn.
Hứa Nhất Thành mở mảnh giấy ra xem, chậm rãi hỏi, “Trước lúc lâm chung cậu ta còn nói gì không?” “Không.” Phương Lão Sơn đáp. Hứa Nhất Thành lại ném thêm mấy đồng, Phương Lão Sơn được tiền mới chịu nhả ra vài chữ, “Cậu ta dặn nhất định phải đưa cho anh, bằng không sẽ không kịp.” Hứa Nhất Thành lại hỏi, “Không kịp cái gì?” Phương Lão Sơn rầu rĩ đáp, “Chuyện này tôi không biết…”
Thấy Hứa Nhất Thành nhìn mình chằm chằm, Phương Lão Sơn sợ hãi xua tay, “Tôi không biết thật mà, cậu ta nói đến đó thì tắt thở…” Thấy Hứa Nhất Thành sầm mặt, lão lại ân cần sán đến hỏi han, “Cậu ấy là bạn anh à?” Hứa NhấtThành khẽ gật đầu.
Phương Lão Sơn lẳng lặng cất nắm tiền đi, chuẩn bị cáo từ. Bỗng đâu Hứa Nhất Thành lại lên tiếng, “Nhờ ông chuẩn bị hương đèn, giúp tôi đốt cho cậu ấy ít tiền giấy ở chỗ cậu ấy chết được không?” Phương Lão Sơn lập tức nhận lời, hiện giờ lão chỉ muốn nhanh chóng rời khỏi đây, không dám nhìn thẳng vào mắt Hứa Nhất Thành. Mãi tới khi ra khỏi cổng viện nghiên cứu, lão mới thở phào nhẹ nhõm, xòe tay ra đếm lại mấy đồng tiền rồi tươi tỉnh về nhà.
Phương Lão Sơn nào biết Hứa Nhất Thành vẫn luôn nhìn theo mình, mãi tới khi bóng lão khuất cuối con đường mòn bên hồ Vị Danh, y mới quay về phòng làm việc. Hứa Nhất Thành chậm rãi kéo ghế ngồi xuống, siết chặt nửa mảnh thư trong tay, lòng ngổn ngang trăm mối.
Người chết nọ tên Trần Duy Lễ, là bạn thân của y. Hai người đều ham mê khảo cổ nên rất hợp nhau, chẳng chuyện gì không
thổ lộ. Về sau Trần Duy Lễ sang Nhật du học, hai người đã nhiều năm không gặp. Hứa Nhất Thành thực không ngờ cuộc chia tay bên bến tàu năm ấy lại thành vĩnh biệt.
Hứa Nhất Thành nhắm nghiền mắt, thấy gương mặt tiếng cười của người bạn thân như rành rành trước mặt… Trần Duy Lễ là một thanh niên nhiệt tình và giàu lý tưởng, một lòng muốn xây dựng ngành khảo cổ của Trung Quốc. Cậu ta từng tâm sự rằng mơ ước lớn nhất là có thể mở một bảo tàng của riêng Trung Quốc, giống như bảo tàng Anh quốc vậy, thu thập tất cả báu vật từ tay đám con buôn cổ ngoạn đem trưng bày trong đó, để con cháu đời sau chiêm ngưỡng, tốt nhất là đặt ở Cố Cung! Mỗi khi nhắc tới mơ ước ấy, Trần Duy Lễ hai mắt ngời sáng, như một người cha kể về đứa con mình tự hào nhất.
Tiếc rằng Trần Duy Lễ chẳng được nhìn thấy ngày giấc mơ trở thành hiện thực nữa. Cuộc đời cậu đã mãi mãi dừng lại ở tuổi hai mươi chín, sâu trong một con ngõ nhỏ của thành Bắc Kinh.
Sau khi cơn xúc động ban đầu qua đi, Hứa Nhất Thành dần nảy ra vô vàn thắc mắc.
Trần Duy Lễ về Bắc Kinh khi nào? Sao không chủ động liên lạc với y? Quan trọng hơn là, theo lời Phương Lão Sơn kể, có lẽ Trần Duy Lễ bị người ta truy sát để bịt miệng. Vì sao cậu ta lại bị truy sát? Kẻ nào đã giết cậu ta? Lý do là gì?
Hứa Nhất Thành mở mắt ra, ngẩng đầu nhìn trần nhà, hòng tưởng tượng ra tình cảnh nguy hiểm mà Trần Duy Lễ phải đối mặt. Phút cuối cuộc đời, cậu không hề cầu cứu mà chỉ nghĩ cách đưa được tờ giấy này tới tay người bạn thân đã nhiều năm không
gặp, rồi thốt ra mấy tiếng sau cùng: không kịp nữa… Bởi cậu biết, với tính tình Hứa Nhất Thành, y chắc chắn không ngoảnh mặt làm ngơ, mà sẽ dốc hết sức mình giúp cậu hoàn thành công việc “không kịp” ấy.
Niềm tin ấy sâu sắc làm sao, lời ủy thác ấy nặng nề nhường nào. Tờ giấy kia rốt cuộc viết gì mà khiến Trần Duy Lễ phải liều cả mạng sống để đưa tới tận tay mình? Hứa NhấtThành linh cảm chuyện này không chỉ là ân oán riêng tư. Với tính tình Trần Duy Lễ, đây nhất định là một việc quan trọng, hơn nữa còn cực kỳ nguy hiểm.
Hứa Nhất Thành siết chặt mảnh giấy, cảm thấy nó nặng ngàn cân, không khỏi lẩm bẩm, “Duy Lễ, rốt cuộc chú đã gặp phải chuyện gì cơ chứ?”
Ngón tay Hứa Nhất Thành miết nhẹ trên mặt giấy. Nếu Phương Lão Sơn lấy được cả mảnh giấy hoàn chỉnh, biết đâu còn có thêm manh mối. Giờ chỉ có một chữ “lăng” không đầu không cuối và một dấu tay máu thế này, đừng nói là hoàn thành di nguyện của Trần Duy Lễ, mà đến làm rõ đầu đuôi sự việc cũng rất khó khăn.
Đột nhiên đầu ngón tay y khựng lại, đôi mày khẽ nhíu. Loại giấy viết thư này rất dày, sợi giấy nặng, mật độ sợi cao, bề mặt sáng bóng, hợp với bút máy, sờ là biết ngay hàng của người Tây. Đầu ngón tay Hứa Nhất Thành rất nhạy cảm, chẳng mấy chốc đã sờ thấy mặt giấy có chỗ lồi lõm, như vết hằn từ trang trước để lại.
Hứa Nhất Thành vội mở cửa sổ ra, giơ mảnh giấy lên trước ánh sáng, nheo mắt quan sát một hồi. Y lại rút lấy cây bút chì trong ống bút, dùng dao chuốt nhọn rồi mài cạnh bên lên mặt giấy. Chẳng mấy chốc, một ký hiệu lạ lùng hiện ra trước mắt Hứa Nhất Thành, hai chữ phong và tục xếp chồng lên nhau trong một viền bao.
Phong tục ư?
Hứa Nhất Thành chăm chú nhìn ký hiệu nọ rồi cầm bút chì lên tiếp tục mài. Chẳng mấy chốc bên cạnh ký hiệu đã hiện ra một hình vẽ xám tro, đường nét rõ ràng, phác họa một thanh bảo kiếm Trung Quốc, nhưng chỉ có một nửa từ thân kiếm đến đốc kiếm, phần còn lại có lẽ nằm ở nửa mảnh giấy thất lạc kia.
Nửa thanh kiếm này trông cũng hơi lạ, dường như đã được vẽ làm hai lần, có thể nhận ra một đoạn thân kiếm thẳng tắp và một đoạn thân kiếm hơi cong chồng lên nhau. Tựa hồ người vẽ chần chừ không quyết, trước tiên vẽ kiếm thẳng, sau lại sửa thành kiếm cong.
Xem kỹ lại lần nữa, hình như phía trên còn có hoa văn hình rồng. Tiếc rằng dấu vết quá mờ, không nhận rõ được. Dấu tay máu, chữ “lăng”, ký hiệu Phong tục và phác họa bảo kiếm, mấy thứ này có liên quan gì với nhau? Hứa Nhất Thành trầm tư suy nghĩ.
Trong đó thứ dễ tra nhất hẳn là ký hiệu Phong tục kia. Ký hiệu này thoạt nhìn đã biết được thiết kế riêng, kết hợp cả tính mỹ thuật và hình học. Hẳn là con dấu chuyên dùng của một tổ
chức nào đó, từng đóng lên trang trước của mảnh giấy này, vì ấn hơi mạnh, giấy lại mềm nên hằn dấu sang cả trang sau. Nếu truy tra được nguồn gốc ký hiệu kia, chắc sẽ dễ dàng tìm được nơi Trần Duy Lễ viết thư.
Hứa Nhất Thành trải tấm bản đồ Bắc Kinh ra, lấy con ngõ Trần Duy Lễ chết làm tâm, dùng compa vạch một đường tròn. Phương Lão Sơn kể sắc mặt Trần Duy Lễ xám ngoét, chứng tỏ với thể trạng đó cậu không tài nào chạy được xa, phạm vi hoạt động có lẽ chỉ nằm trong vòng tròn này mà thôi. Huống hồ loại giấy viết thư này khá cao cấp, không nhiều người dùng, thông thường chỉ những nơi như sứ quán hoặc hiệu buôn Tây mới sử dụng, nhờ đó có thể thu hẹp phạm vi tìm kiếm thêm một chút.
Xong xuôi, Hứa Nhất Thành mở ngăn kéo, lấy bộ Kim Đáy Bể ra.Thẩm Mặc tặng bộ dụng cụ này cho y nhằm cảm ơn vụ Ngô Úc Văn, cũng xem như một phần thưởng khá hậu hĩnh. Thú vị ở chỗ, Thẩm Mặc thà lẳng lặng tặng y món gia bảo này, chứ không chịu khen ngợi công khai trước cả Minh Nhãn Mai Hoa, ẩn ý bên trong thực khó mà nói rõ.
Hứa Nhất Thành rút chiếc xẻng nhỏ trong bộ đồ nghề, khắc mấy chữ “Linh vị Trần Duy Lễ” lên một thanh gỗ rồi cung kính đặt trước bàn. Y thắp hai nén hương, đứng thẳng người, hai ngón cái chụm lại, tám ngón kia đan vào nhau, vái ba vái rồi lại lật mu bàn tay, vái tiếp ba vái.
Đây là quy củ trên giang hồ, gọi là vái sinh tử, cũng gọi là vái cậy nhờ, tương truyền được Gia Cát Lượng truyền lại lúc ở thành Bạch Đế*. Vái như vậy trước mộ phần có nghĩa là người sống thề
sẽ hoàn thành di nguyện của người chết bằng mọi giá, một lời nhờ cậy, đến chết không hối, lật tay là tỏ ý không phụ lời ủy thác. Kể cũng lạ, Hứa Nhất Thành vừa vái xong, bên ngoài chợt nổi trận gió to, thốc qua cửa sổ lùa vào phòng, làm đồ đạc xung quanh kêu lên lạch cạch. Thanh gỗ nọ lắc lư rồi đổ ập về phía Hứa NhấtThành.
Môi Hứa Nhất Thành run run, y vội giơ tay dựng thanh gỗ lên, ánh mắt đầy đau xót, song vẫn ráo hoảnh, “Duy Lễ, anh không biết vì sao chú chết, cũng không biết kẻ nào giết chú. Nhưng lúc lâm chung chú đã tìm anh, ắt phải có lý của chú. Người đãi ta như quốc sĩ, ta phải trả ơn như quốc sĩ. Hai hàng nước mắt này, xin để khi nào báo được thù cho chú, anh hẵng khóc cũng chẳng muộn nào!”
Gió nói ngừng là ngừng ngay, trong phòng im phăng phắc. Trần Duy Lễ chết ở gần ngõ Đại Ma Tuyến phía Tây thành, trước sau đều là đường lớn, xung quanh cũng là khu vực phồn hoa tấp nập. Khách thương qua lại như mây, cửa hàng cửa hiệu hai bên đường nối liền thành một dải, ngay hiệu buôn Tây cũng có đến mười mấy tiệm, nhan nhản tụ điểm giải trí mua vui. Có điều gần đây vì loạn lạc nên rất nhiều cửa hiệu đóng cửa cài then, chỉ sợ bị đám tàn quân càn quét, quang cảnh tiêu điều hẳn. Hứa Nhất Thành rời trường Thanh Hoa, lấy ngõ Đại Ma Tuyến làm tâm, đi mấy vòng quanh phạm vi đã vạch ra, song chẳng thu được manh mối gì, đừng nói là ký hiệu nọ, mà ngay cả bảng hiệu đề hai chữ “phong tục” cũng chẳng thấy cái nào. Y đã đi khắp các hiệu buôn Tây trong khu vực này, cũng chẳng thấy gì
đáng nghi. Hứa Nhất Thành lấy hình vẽ kia ra hỏi người đi đường, họ đều trả lời rằng chưa thấy bao giờ.
Trời tháng Năm nói nóng là nóng được ngay, Hứa Nhất Thành đi mãi cũng mệt, định tìm quán trà nghỉ chân uống mấy hớp trà. Vừa ngẩng lên, y bỗng nhíu mày. Thì ra loanh quanh một hồi, y đã tới khách sạn Đại Hoa lúc nào chẳng hay. Khách sạn Đại Hoa lừng danh khắp thành Bắc Kinh, là khách sạn cao cấp chỉ dành cho người phương Tây, nghe nói phải mời cả nhà thiết kế từ New York về thiết kế nội thất, ngay bốn chữ “khách sạn Đại Hoa” cũng được ghép bằng đèn neon, mỗi khi tối đến lại lấp lánh đủ màu, cực kỳ bắt mắt, xa gần đều thấy.
Thấy mấy người châu Á mặc Âu phục bước ra khỏi cổng khách sạn, liên tục gập mình cúi chào kẻ tiễn chân, Hứa Nhất Thành biết ngay là người Nhật Bản. Trông thấy họ, y không khỏi nảy dạ nghi ngờ. Bởi y vẫn nghi cái chết của Trần Duy Lễ có liên quan tới người Nhật. Ký hiệu nọ là hai chữ “phong tục”, mà ngoài Trung Quốc hiện nay chỉ còn Nhật Bản vẫn sử dụng chữ Hán. Huống hồ năm xưa Trần Duy Lễ xuất ngoại, chính là sang Nhật học ngành khảo cổ tại đại học Waseda.
Quanh đây không có cơ quan hay hiệu buôn nào khác của người Nhật, nếu cho rằng có dính dáng tới người Nhật thì chỉ có thể là đám khách lưu trú tại khách sạn Đại Hoa này thôi.
Hứa Nhất Thành lững thững bước vào khách sạn, đi thẳng tới quầy lễ tân. Lễ tân thấy y vận Âu phục đi giày da, đường hoàng đĩnh đạc, vội bước lên chào hỏi. Hứa NhấtThành chẳng buồn dài
dòng, đập luôn một đồng xu lên mặt quầy rồi úp tay lên, “Gần đây các vị có khách trọ nào người Nhật không?”
Tay lễ tân hẳn đã quen với tình huống này, tươi cười đặt ngay cuốn sổ lên trên, tay kia nhanh nhẹn luồn xuống dưới nhón lấy đồng tiền, “Gần đây cục diện chính trị không ổn định, chỗ chúng tôi vắng khách lắm. Giờ chỉ có một đoàn khảo sát của đại học Tokyo thôi, ai ai cũng đeo kính dày như đít chai ấy.”
“Ồ?” Hứa NhấtThành nhíu mày, “Họ đến làm gì vậy?” Tay lễ tân không đáp, chỉ gõ cuốn sổ lên mặt quầy. Hứa Nhất Thành lại đưa thêm đồng nữa, hắn mới chịu tiết lộ, “Nghe nói đến Trung Quốc khảo sát di tích gì đó, tôi từng giúp họ vác vali, giữa đường làm rơi một chiếc, thấy bên trong toàn bản đồ.” Đoạn hắn trỏ, “Ông thầy trong đoàn khảo sát kia kìa.” Hứa Nhất Thành nhìn theo ánh mắt hắn. Tầng một khách sạn Đại Hoa là quán cà phê, trên chiếc xô pha sát cửa sổ, có một người Nhật mặc kimono, ngồi đối diện với một người Trung Quốc đội mũ quả dưa, đang thao thao bất tuyệt.
Hứa Nhất Thành lẳng lặng lại gần, thấy cả hai đang ngắm nghía một cây gậy trúc dài chừng bảy mươi phân, cầm vừa một tay, đốt trúc khá thưa, bên trên còn lốm đốm ngấn tía như vệt nước mắt. Lạ nhất là mỗi mấu đốt lại hơi gồ lên như mặt Phật. Một cây gậy trúc năm đốt là năm mặt Phật, quả thật đẹp đẽ.
Người Nhật kia đầu rất to nhưng cần cổ lại gầy, vầng trán hói bóng loáng gồ lên, xô về phía trước trong khi mấy sợi tóc lơ thơ lại nằm ẹp ra phía sau, khiến anh ta lúc nào trông cũng như đang rướn cổ dòm đầy tò mò. Hai tay người nọ cầm cây gậy trúc, đôi
mắt sau lớp kính dày hơi đờ đẫn, chẳng biết là kinh ngạc hay nghi hoặc.
Người Trung Quốc nọ nói, “Ông cứ yên tâm, tôi lừa ai chứ đâu dám lừa giáo sư của đế quốc Đại Nhật Bản. Cây gậy trúc tương phi mặt Phật này là hàng hiếm đấy. Ông thấy ngấn loang của nó chưa? Đó là trúc tương phi cực phẩm, mấy trăm năm chẳng có một cây đâu…” Đang liến thoắng nói, chợt nghe có tiếng cười khẩy, kẻ nọ quay ra, thấy Hứa Nhất Thành đứng cười nửa miệng bên cạnh thì lấy làm khó chịu, xua tay đuổi, “Biến đi.”
Hứa Nhất Thành chẳng buồn đáp lời hắn, mà bảo người Nhật Bản kia, “Hắn lừa đấy.” Gã Trung Quốc nổi điên, “Mày nói cái gì?” Hứa Nhất Thành cũng chẳng khách sáo, cầm ngay cây gậy lên, chỉ tay vào ngấn tía trên thân trúc, “Ngấn lệ này không phải tự nhiên, mà là nhân tạo. Lúc trúc non mới mọc đắp ít rêu địa tiền lên bọc kín, về sau cây trúc lớn lên lấy thân cỏ rửa rêu địa tiền đi, ngấn lệ sẽ lộ ra, đúng chưa?”
Kẻ kia cứng họng, song vẫn già mồm cãi cố. Hứa Nhất Thành giải thích, “Ngấn lệ thực sự sẽ ngấm vào thân trúc, còn ngấn giả chỉ ở ngoài mặt mà thôi. Chúng ta đánh cuộc thử xem, tôi sẽ chặt cây gậy trúc này ra, xem chỗ vết chặt có ngấn loang màu tía không. Nếu có tôi sẽ bồi thường đúng giá, còn nếu giả chúng ta đến đại sứ quán Nhật giải quyết, thế nào?”
Kẻ nọ lập tức quay sang bảo người Nhật kia, “Ông đừng nghe tên này nói xằng, hắn thì biết cái gì, tôi là người của Minh Nhãn
Mai Hoa hẳn hoi đấy. Ông có biết Minh Nhãn Mai Hoa không nhỉ?”
Thầy giáo nọ đưa hai tay trả lại cây gậy trúc, nói bằng thứ tiếng Trung lơ lớ, “Gậy mặt Phật, tục gọi là gậy Định Quang Phật, có nguồn gốc ở đất Long Nham, Vĩnh Định, Vũ Bình v.v… Thời Tống, Tô Thức từng tặng La Phù trưởng lão một cây, còn đề hai câu thơ, ‘Mặt Thế Tôn mười phương ba giới, Đông Pha đều nắm cả trong tay’.”
Long Nham, Vĩnh Định, Vũ Bình đều ở Phúc Kiến, dĩ nhiên chẳng liên quan gì đến trúc tương phi ở Hồ Nam, người này không muốn thẳng thừng từ chối, chỉ thuật lại điển cố về gậy mặt Phật để khéo léo trả lại hàng. Hứa Nhất Thành và kẻ kia đều không ngờ người Nhật này lại am hiểu văn hóa Hán đến vậy. Tuy anh ta không có kiến thức về cổ vật để giám định được ngấn lệ, nhưng nhờ tinh thông sách vở, vẫn chỉ ra được chỗ sơ hở dưới một góc độ khác.
Kẻ kia đỏ bừng mặt, chẳng nói chẳng rằng cầm cây gậy quay người bỏ đi. Trước lúc đi, hắn còn trừng mắt với Hứa Nhất Thành rồi nhổ toẹt một bãi, “Đồ Hán gian, không giúp người Trung Quốc lại đi bợ đít bọn Nhật!” Hứa Nhất Thành dở khóc dở cười, song cũng chẳng thèm chấp. Những kẻ lừa gạt thế này đâu đâu chẳng có, chuyên lảng vảng quanh mấy khách sạn cao cấp, lừa bán hàng giả cho khách nước ngoài.
Thầy giáo Nhật Bản đứng dậy khom lưng cảm ơn y, “Tôi đang không biết làm sao để xua được hắn đi, may mà có anh giúp đỡ.”
Hứa Nhất Thành thầm nhủ người này quả là thật thà, gặp hạng lừa đảo mà vẫn lịch thiệp lễ độ. Y xua tay cười đáp, “Không có gì, tính tôi thấy hàng giả là không chịu được, nên mới bốc đồng can thiệp, chẳng biết có làm phiền anh không.” Thầy giáo Nhật Bản đưa y một tấm danh thiếp bằng cả hai tay, danh thiếp khá giản dị, bên trên chỉ có hai chữ “Kido Yuzo”. Hứa Nhất Thành nhận lấy rồi ôm quyền tự giới thiệu, “Thứ lỗi, tôi không có danh thiếp. Tôi tên Hứa Nhất Thành, học ngành Khảo cổ tại trườngThanh Hoa.”
Nghe hai chữ khảo cổ, Kido Yuzo sáng mắt lên. Gã vồn vã mời Hứa Nhất Thành ngồi xuống đối diện, bắt đầu thao thao bàn luận về khảo cổ. Thì ra Kido Yuzo là giảng viên chuyên ngành Khảo cổ của đại học Tokyo, lần này cùng mấy học giả khác được mời tham gia đoàn khảo sát phong tục China, chuẩn bị khảo sát các di tích cổ khắp dải Tây Bắc Trung Quốc, hạ tuần tháng Ba vừa tới Bắc Kinh. Vì cục diện chính trị xáo trộn nên tạm thời vẫn chưa xuất phát.
Nghe thấy hai chữ “phong tục”, Hứa Nhất Thành giật mình, vội lấy ký hiệu Phong tục đồ lại được ra hỏi, Kido thoạt trông đã gật đầu ngay, “Đúng rồi, đây là biểu tượng của Hội nghiên cứu phong tục China.”
“Đó là gì vậy?”
“Một quỹ văn hóa, cũng tương tự như Sở nghiên cứu văn hóa đông phương Kyoto, Hội khảo cổ Đông Á hay Hiệp hội văn hóa Đông Á vậy, là một tổ chức học thuật tập trung vào khai quật, bảo tồn và nghiên cứu lịch sử khu vực Đông Á. Hoạt động khảo
sát lần này của chúng tôi thực hiện được hoàn toàn là nhờ họ tài trợ.”
Thế thì đúng rồi, Hứa Nhất Thành thầm nghĩ. Loại giấy viết thư Trần Duy Lễ dùng do đoàn khảo sát này đem từ Nhật sang, còn dấu hằn trên đó thì là của nhà tài trợ, Hội nghiên cứu phong tục China.
Xem ra cái chết của Trần Duy Lễ cùng tin tức mà cậu liều cả mạng sống để thông báo cho y, có liên quan mật thiết đến đoàn khảo sát này.
Hứa Nhất Thành không thể hiện thái độ gì, nhưng lại thầm cười nhạt. Từ năm Giáp Ngọ, người Nhật đã bắt đầu dòm ngó văn hóa Trung Quốc. Mấy năm nay, người Nhật lấy danh nghĩa khảo cổ lũ lượt kéo sang đây, không quật mộ phần di chỉ lên trộm cắp thì mua gom văn vật thư tịch cổ, gần như đã thành bí mật công khai. Tay Kido Yuzo này chỉ là tên mọt sách, nhưng đoàn khảo sát của gã chưa chắc đã có động cơ tử tế gì.
“Đối tượng khảo sát lần này của các vị là lăng mộ cổ đại phải không?” Hứa Nhất Thành hỏi. Trên mảnh giấy Trần Duy Lễ để lại chỉ có thể đọc được duy nhất một chữ “lăng”. Với lòng tham của người Nhật, đây có lẽ là miếng mồi béo bở nhất.
Kido thực thà đáp ngay, “Đúng thế, chúng tôi mong rằng ít nhất cũng khai quật khảo sát được một ngôi, tốt nhất là mộ thời Hán hoặc thời Đường.”
Hứa Nhất Thành không kìm được vặn lại, “Các vị không thấy đó là một dạng trộm cắp sao?”
Kido ngạc nhiên nhìn y, “Anh Hứa hỏi lạ thật. Chúng tôi khai quật hoàn toàn tuân theo quy phạm học thuật, những thứ đó đều là tài sản quý giá của lịch sử Đông Á, nếu chúng tôi không nhanh tay, e rằng đám quân phiệt Trung Quốc sẽ phá hủy hết mất.”
“Nhưng suy cho cùng đó vẫn là hành vi trộm cắp.” “Lịch sử không thuộc về bất cứ cá nhân, tổ chức hay quốc gia nào cả, nó thuộc về toàn thể nhân loại. Tôi cho rằng thà để những học giả biết trân trọng lịch sử dốc lòng nghiên cứu chúng, đúc rút ra thành quả còn hơn để chúng bị hủy hoại trong tay hạng tham lam trục lợi.”
Hứa Nhất Thành nhìn chằm chằm Kido Yuzo, thấy trong ánh mắt anh ta không bợn mảy may hổ thẹn hay thèm muốn. Y hiểu Kido Yuzo là kẻ si mê học thuật thực sự, trong mắt người này e rằng chẳng có khái niệm dân tộc hay chính trị gì cả, chỉ có đề tài nghiên cứu của mình mới là quan trọng nhất.
Nhận ra điều này, Hứa Nhất Thành bèn chuyển chủ đề. Y vốn xuất thân Minh Nhãn Mai Hoa, lại được đào tạo trong môi trường học thuật chính quy, kiến thức và học vấn đều hết sức phong phú, hai người càng nói càng hợp chuyện. Nghĩ tới hình phác họa nửa thanh kiếm hằn trên mảnh giấy viết thư, Hứa Nhất Thành cố tình dẫn dắt chủ đề sang kiếm, vừa hay luận văn tốt nghiệp của Kido Yuzo cũng về đề tài này, gã càng thêm hào hứng, kể ra rất nhiều khác biệt trong công nghệ đúc kiếm của Nhật Bản và Trung Quốc cổ đại. Hứa Nhất Thành liền bóng gió dò hỏi, mục đích của đoàn khảo sát phong tục China lần này có phải liên quan tới thanh bảo kiếm nào của Trung Quốc không?
Kido Yuzo nghiêng đầu nghĩ ngợi hồi lâu rồi lắc đầu, “Đoàn không có kế hoạch khảo sát chuyên đề này. Có điều tôi từng nghiên cứu ít nhiều, nếu lần khảo sát này gặp được văn vật nào như kiếm, tôi nghĩ chắc họ sẽ để tôi xem trước.” Lúc nói câu đó, anh ta hơi ngửa đầu ra sau, tuy lời lẽ khiêm tốn, song không giấu được thái độ kiêu ngạo, về lĩnh vực này, hẳn anh ta là người nghiên cứu sâu nhất trong đoàn.
Hứa Nhất Thành nảy ra một ý, tiện tay vẽ lại hình thanh kiếm với hai lưỡi chồng lên nhau nọ, tìm cớ thỉnh giáo Kido Yuzo. Kido Yuzo chẳng nghi ngờ gì, cho rằng Hứa Nhất Thành là người cùng ngành nên dốc lòng chia sẻ hết mọi điều mình biết. Anh ta giải thích với Hứa Nhất Thành, loại kiếm thân cong thế này có thể gặp ở rất nhiều nền văn minh, ví như gươm Nhật, dao Mông cổ và loan đao Ba Tư. Có điều anh ta cũng chưa từng gặp loại kiếm nào có đốc kiểu Trung Quốc mà thân lại cong thế này bao giờ.
Hứa Nhất Thành chăm chú quan sát Kido Yuzo, cảm thấy người này rất thành thật, hay nói cách khác là rất hồn nhiên, không biết nói dối. Hình phác họa thanh kiếm đó có lẽ không phải do gã vẽ. Vậy thì thật lạ, Kido Yuzo rõ ràng là người am hiểu về kiếm nhất trong đoàn khảo sát, thế mà lại chẳng biết gì.
Nghĩ tới đây, Hứa Nhất Thành lơ đãng hỏi, “Thầy Kido có biết ai tên Trần Duy Lễ không?” Kido Yuzo sững người, tỏ vẻ thương tiếc, “Anh Trần à, tôi biết, anh ấy là phiên dịch của đoàn chúng tôi. Tiếc rằng hôm qua vừa đột tử. Tôi nghe trưởng đoàn Sakai
Daisuke nói là hút thuốc phiện quá liều, ôi, thật đáng tiếc, anh ấy giỏi lắm.”
Hút thuốc phiện quá liều ư? Hứa Nhất Thành nhướng mày. Lý do hay thật! Người nước ngoài tưởng rằng dân Trung Quốc ai ai cũng hút thuốc phiện nên toàn vin vào đó để ngụy tạo nguyên nhân tử vong. Y lại hỏi, “Thi thể cậu ấy giờ ở đâu?” Kido Yuzo ngẫm nghĩ rồi đáp, “Sáng nay chắc đã đưa đến sứ quán Nhật rồi, trưởng đoàn Sakai đích thân đưa đi đấy.”
Theo pháp luật, Trần Duy Lễ là người Trung Quốc, nếu chết ngoài ý muốn phải giao cho Sở Cảnh sát xử lý. Vậy mà người Nhật lại cố tình đưa thi thể Trần Duy Lễ đến sứ quán, ắt có duyên cớ chi đây.
Hứa Nhất Thành vốn đang định hỏi thêm thì Kido Yuzo đột ngột đứng dậy, “Trưởng đoàn về rồi kìa, anh hỏi trực tiếp ông ấy đi.”
Bốn năm người Nhật đang bước vào khách sạn, dẫn đầu là một kẻ mặt to vai rộng, quai hàm đầy đặn, đôi mày rậm lúc nào cũng nhíu lại như đắp cục mực lên mặt. Kido Yuzo cất tiếng chào, “Trưởng đoàn Sakai.” Sakai Daisuke đưa mắt nhìn Hứa Nhất Thành, hỏi y là ai, Kido Yuzo liền nhanh nhảu giới thiệu, “Đây là anh Hứa Nhất Thành, đang hỏi thăm tôi về anh Trần, chuyện này ông biết rõ hơn tôi, ông nói với anh ấy đi.”
Hứa Nhất Thành than thầm, tay Kido Yuzo này đúng là thành nhờ thành thực, bại cũng vì thành thực.
Đêm qua Phương Lão Sơn tận mắt thấy một toán người bí ẩn khiêng thi thể Trần Duy Lễ đi, nửa mảnh giấy trong tay cậu ta
nhất định cũng đã rơi vào tay chúng. Từ đó chúng ắt suy ra đã có người lấy mất nửa tờ giấy kia. Kido Yuzo giới thiệu như thế chẳng phải là nói với chúng, mảnh giấy đang nằm trong tay Hứa NhấtThành, y đến điều tra về cái chết của Trần Duy Lễ ư?
Vốn dĩ y định đi đường vòng, dò hỏi những người khác trong đoàn khảo sát, giờ thì hay rồi, bỗng dưng lại bị tay Kido Yuzo bán đứng.
Quả nhiên, vừa nghe tên Trần Duy Lễ, ánh mắt Sakai Daisuke đã lóe lên sắc lạnh. Gã nhìn Hứa Nhất Thành từ đầu đến chân rồi dùng tiếng Trung hỏi y và Trần Duy Lễ quan hệ thế nào. Hứa Nhất Thành đành đáp, “Tôi là bạn của cậu ấy ở Bắc Kinh, hôm nay cậu ấy hẹn tôi đến Đại Hoa ôn chuyện cũ, nhưng mãi chẳng thấy đâu nên tôi mới tìm người hỏi thăm.” Sakai Daisuke nửa tin nửa ngờ, “Thật bất hạnh, hôm qua anh Trần hút thuốc phiện quá liều nên đã qua đời rồi. Chúng tôi vừa đưa thi thể anh ấy đến sứ quán Nhật, đợi khám nghiệm tử thi xong sẽ báo với người nhà.”
“Khám nghiệm tử thi phải để Sở Cảnh sát Kinh thành làm chứ?” Hứa NhấtThành hỏi.
Sakai Daisuke khinh khỉnh đáp, “Trình độ khám nghiệm tử thi của Trung Quốc các anh quá thấp, không đáng tin. Huống hồ hiện giờ chúng tôi có muốn tìm cảnh sát cũng chẳng tìm nổi.”
Chuyện này là thực, giờ trong Sở Cảnh sát từ Ngô Úc Văn trở xuống đều hoang mang lo sợ, gần như không còn phát huy được chức năng nữa.
Hứa Nhất Thành biết lần này đã đánh rắn động cỏ khiến đối phương nghi ngờ, không thể nghe ngóng tiếp được nữa. Y đãi bôi
qua loa mấy câu như ngày khác sẽ đến phúng điếu rồi tìm cớ ra về. Kido Yuzo vẫn muốn thảo luận tiếp, bèn kéo tay áo Hứa Nhất Thành nói người Trung Quốc chẳng mấy ai có kiến thức về khảo cổ như anh Hứa, nếu có thời gian, tôi muốn đến Thanh Hoa thăm anh. Hứa Nhất Thành thoáng lưỡng lự, nhưng trước ánh mắt săm soi của Sakai Daisuke, y vẫn cho Kido Yuzo địa chỉ.
Lúc rời khách sạn, Hứa Nhất Thành để ý thấy một kẻ đứng sau Sakai Daisuke nãy giờ vẫn lạnh lùng nhìn mình không chớp mắt. Tên này mặc áo dài kiểu Trung Quốc, có thể thấy cơ bắp vồng lên dưới lần vải, cổ to chắc khỏe. Đi ngang qua hắn, Hứa NhấtThành chợt cúi xuống, ngay lập tức kẻ kia né người nhường đường, rồi nhanh chóng đứng nghiêm lại như thường.
Hứa Nhất Thành cười với hắn, trỏ đôi giày da, ý nói mình chỉ buộc lại dây giày mà thôi. Dưới cái nhìn lạnh lùng của hắn, Hứa Nhất Thành chậm rãi bước ra khỏi khách sạn Đại Hoa, không hề ngoảnh lại, mãi tới khi ra đến phố lớn, y mới thở hắt ra, sống lưng lạnh toát.
Hứa Nhất Thành dám chắc đó nhất định là một quân nhân, chỉ quân nhân mới nhanh nhẹn và có sát khí tiềm ẩn như vậy. Thế là rõ, lần này Trần Duy Lễ đến Bắc Kinh với tư cách phiên dịch cho đoàn khảo sát phong tục China. Cậu ta phát hiện ra chuyện gì đó, trong lúc cấp bách vội xé một tờ giấy viết thư dưới tờ từng đóng dấu Hội nghiên cứu phong tục China rồi lẻn ra khỏi khách sạn Đại Hoa, ngờ đâu giữa đường lại bị giết. Đại học Tokyo, Hội nghiên cứu phong tục China, chưa chừng cả quân đội Nhật Bản cũng có can dự, Hứa Nhất Thành cảm thấy
chuyện này càng lúc càng bất thường, càng lúc càng nguy hiểm. Nếu tiếp tục đi sâu điều tra, e rằng y sẽ phải đối đầu với một tổ chức khổng lồ trang bị đầy đủ, trong khi bản thân có báo cảnh sát cũng chẳng ai đoái hoài. Thoạt nhìn đã thấy thực lực chênh lệch rất xa.
Nhưng vậy thì sao chứ?
Hứa Nhất Thành ngẩng lên, thấy một đàn quạ đen bay qua đỉnh đầu, tưởng chừng như bầu trời nứt ra một khe đen cực mảnh. Y nhếch môi cười, tự tin mà kiên nghị, giơ hai tay lên, chụm hai ngón cái lại, tám ngón còn lại đan vào nhau, vái lên trời ba vái rồi lật tay vái thêm ba vái nữa.
Đã vái cậy nhờ, chết cũng không hối.
Người nhà họ Hứa đã thề thì không bao giờ nuốt lời. Hôm nay quả là một ngày nhiều biến động. Vừa về đến trường Thanh Hoa, Hứa Nhất Thành ngạc nhiên thấy hai vị khách trẻ đã đợi sẵn từ lâu.
Một người là Lưu Nhất Minh, người kia là Hoàng Khắc Vũ. Cả hai đang cười nói rôm rả, thấy Hứa NhấtThành mặt mày nghiêm nghị bước vào thì đâm ra ngượng nghịu. Hứa Nhất Thành hỏi sao họ lại tới Thanh Hoa, Hoàng Khắc Vũ bèn đẩy Lưu Nhất Minh, bảo cậu trả lời. Lưu Nhất Minh đẩy gọng kính, trình bày nguyên nhân.
Thì ra hai người đến đây vì vụ Ngô Úc Văn vẫn còn dây dưa chưa dứt.
Hôm ấy ở nhà Ngô Úc Văn, ông chủ Vương của Chính Đức Tường đã quyên một nghìn năm trăm đồng đại dương, đổi lấy một chiếc khánh đồng mạ vàng, bên trong còn chạm một hàng tiếng Phạn thành hình hoa sen. Bấy giờ Dược Thận Hành đích thân giám định, tuy chưa xác định cụ thể niên đại, nhưng chắc chắn là từ thời Càn Gia* đổ lại. Càn Gia cách Dân Quốc chẳng bao lâu, khánh đồng cũng không phải vật quý hiếm gì nên không đáng tiền. Ông chủ Vương đành tự an ủi rằng đây là bỏ tiền giải hạn, không cần so đo thật giả.
Sau khi ôm nó về nhà, ông ta tiện tay đặt ngay trước bệ Phật. Vợ ông ta thờ Phật, vừa hay dùng đến. Nhưng ngay đêm đó đã xảy ra chuyện lạ. Một u già nửa đêm tỉnh dậy, nghe trong gian thờ có tiếng leng keng, bèn thò đầu vào nhìn, chỉ thấy tối om, chẳng có ai cả, lắng tai nghe kỹ mới nhận ra là chiếc khánh đồng treo trước bệ Phật tự rung lên, một lát mới ngừng. Xem giờ thì vừa đúng mười rưỡi.
Sáng hôm sau bà Vương nghe nói thì hết sức mừng rỡ, cho rằng khánh đồng này có Phật tính, hẳn là Bồ Tát giục ta buổi tối phải tụng kinh đây. Tới đêm, bà ta đợi trước cửa gian thờ, đến đúng giờ ấy quả nhiên lại nghe tiếng khánh đồng. Bà cầm nến đi vào, quỳ xuống trước bệ Phật, bỗng thấy bốn bề nổi gió, hai chân không sao cử động được.
Bà Vương ngồi đờ ra đó, chỉ đảo được tròng mắt. Dưới ánh nến, bà thấy cái bóng chiếc khánh đồng kia từ từ đổ dài, rồi thành hình một phụ nữ bới tóc theo kiểu người Mãn. Bà Vương sợ đến xiêu hồn lạc phách mà không sao chạy được, chỉ biết gào
lên kêu cứu. Cả nhà nghe tiếng nháo nhào đổ đến gian thờ Phật, bật đèn điện lên, thấy bà Vương ngồi bệt dưới đất, đã ngất lịm, còn chiếc khánh vẫn rung lên leng keng.
Dân buôn bán kỵ nhất mấy món đồ kiểu này, ông chủ Vương nghe vợ kể lại cũng rợn cả người, đòi đem vứt ngay cái khánh. Nhưng người già trong nhà nhắc nhở rằng đây là tà vật, đưa về thì dễ mà đẩy đi thì khó, nếu tùy tiện quăng đi, chưa chừng lại chuốc lấy vạ lớn.
Giữ lại không được, vứt đi cũng chẳng xong, ông Vương tiến thoái lưỡng nan, đành mời thầy đến đuổi tà. Đã mời mấy đạo sĩ hòa thượng, thậm chí còn tìm một đại sư huynh của Nghĩa Hòa Đoàn năm xưa song vẫn vô ích, khánh đồng mỗi tối cứ đến đúng giờ nọ lại rung lên. Người trong nhà nơm nớp lo sợ, trời vừa tối đã đóng cửa trốn trong phòng chẳng ai dám ra ngoài, cả nhà đang yên lành tự nhiên thành ra như nhà ma, ngay hàng xóm xung quanh cũng bồn chồn không yên, lũ lượt kéo đến nghe ngóng dò hỏi.
Ông Vương tức tối mắng rằng Ngô Diêm Vương giết người như ngóe, vật đã qua tay ắt cũng chẳng sạch sẽ gì. Chửi Ngô Diêm Vương chán, ông ta lại chửi sang Minh Nhãn Mai Hoa, nói rằng đám chuyên gia giám định mù hết cả nên không nhìn ra tà khí. Mạnh miệng là thế song ông ta nào dám ăn vạ Ngô Diêm Vương, đành quay ra bắt đền Minh Nhãn Mai Hoa, chuyển lời đến Thẩm Mặc, yêu cầu Minh Nhãn Mai Hoa phái người tới giám định lại, xem rốt cuộc là xảy ra chuyện gì.
Trong giới buôn bán cổ vật có quy định, vật qua tay có thể giả, nhưng không thể xui xẻo. Bán hàng giả gọi là lừa gạt, còn bán cho người ta thứ không sạch sẽ thì là hại người. Bởi vậy người chơi cổ vật thường phải biết cả phong thủy mệnh lý, lúc bán đồ còn kiêm luôn cả trách nhiệm giải thích cát hung. Ví như có người mua tấm gương cổ, chủ tiệm trước hết phải nhắc khách không được treo trước giường; có người bán lược gỗ hòe, tiệm đàng hoàng sẽ không dám nhận, thậm chí còn không cho ký gửi, bởi gỗ hòe chủ âm, chỉ ma mới chải tóc bằng lược gỗ hòe, bán cho ai sẽ làm người đó mất mạng.
Khánh đồng này tuy không qua tay Minh Nhãn Mai Hoa, nhưng dù sao cũng đã giám định cho người ta, khó tránh khỏi trách nhiệm, nên Thẩm Mặc bèn bảo Dược Thận Hành tới xem lại.
Dược Thận Hành dở khóc dở cười, đành vâng lời đi một chuyến. Tới nhà họ Vương, Dược Thận Hành cầm khánh đồng lật đi lật lại, chẳng thấy có gì khác lạ. Chiếc khánh này tạo hình đơn giản, điểm đáng nghi duy nhất là hàng chữ Phạn chạm bên trong, nhưng cũng chỉ là kinh Phật bình thường, không phải bùa chú tà ma gì.
Có điều ông chủ Vương cứ tóm chặt lấy Dược Thận Hành, khăng khăng đòi Minh Nhãn Mai Hoa phải chịu trách nhiệm. Lưu Nhất Minh đi theo phụ giúp mới đảo mắt đề nghị, nhà họ Hứa chuyên về đồ kim thạch, chi bằng vời người nhà họ tới xem. Dược Thận Hành không vui chút nào, bởi cụ Hứa đã qua đời mấy năm nay, giờ cả nhà họ Hứa chỉ còn mình Hứa Nhất Thành. Nhờ
nhà họ Hứa ra tay, cũng có nghĩa là mời Hứa Nhất Thành đến. Hôm ấy ở nhà Ngô Úc Văn, Hứa Nhất Thành đã chiếm hết vinh quang, khiến kẻ xưa nay vẫn tự cho rằng mình sẽ là chưởng môn đời kế tiếp như DượcThận Hành không khỏi lo lắng.
Song ông chủ Vương nào có để tâm đến những chuyện ấy, vừa nghe nói Minh Nhãn Mai Hoa còn cao nhân lợi hại hơn nữa, bèn giục giã đi mời. Lưu Nhất Minh liền gọi Hoàng Khắc Vũ, hí hửng chạy đến trườngThanh Hoa vời cứu viện.
Sau khi kể rõ đầu đuôi, Hoàng Khắc Vũ oang oang nói, “Nếu không giải quyết được chuyện này, Minh Nhãn Mai Hoa sẽ rắc rối to. Chú đã giúp vụ Ngô Úc Văn thì thôi giúp cho trót, được không chú?” Hứa Nhất Thành cười xòa, nhìn Lưu Nhất Minh đầy thâm ý. Lưu Nhất Minh vội nhìn lảng đi, vẻ chột dạ.
“Nhà ông Vương ở đâu?” Hứa NhấtThành hỏi.
Hoàng Khắc Vũ mừng rỡ, “Nói vậy là chú đồng ý đi ạ?” Bị Lưu Nhất Minh huých một cái, cậu mới nhận ra mình không trả lời đúng câu hỏi, vội đáp, “Cổng Sùng Văn, ở cổng Sùng Văn.” “Gần đó có chùa miếu gì không?”
Hoàng Khắc Vũ rành rẽ Bắc Kinh như lòng bàn tay, nghĩ ngợi giây lát rồi đáp không có. Hứa Nhất Thành giở bản đồ Bắc Kinh ra, tiện tay cầm đinh mũ ghim lên vị trí nhà ông chủ Vương đánh dấu rồi cúi xuống xem xét một hồi, lại rút một cuốn sách trên giá xuống lật lật, chợt vỗ tay đánh đét, “Đây rồi, chú biết là tại sao rồi, hai đứa đợi một lát.” Nói đoạn mở ngăn kéo, lấy bộ Kim Đáy Bể ra.
Vừa thấy bộ đồ nghề, Lưu Nhất Minh và Hoàng Khắc Vũ liền rúng động. Kim Đáy Bể được gọi là “không quý không dùng”, một khi lấy nó ra, ắt phải giám định kỳ trân dị bảo. Hứa Nhất Thành đem nó đi chuyến này, chứng tỏ chiếc khánh đồng kia không đơn giản, lại có trò hay để xem rồi.
“Đi thôi.” Hứa Nhất Thành giục. Từ sáng tới giờ y cứ canh cánh mãi về chuyện Trần Duy Lễ, chi bằng mượn việc này giải tỏa bớt tâm trạng.
Ba người rời trường Thanh Hoa, may mà tàu điện vẫn chạy. Hứa Nhất Thành ngồi một mình ở hàng ghế trước, ngả đầu ra lưng ghế, trầm tư suy nghĩ, mặc cho nắng chiều ngoài song hắt lên mặt. Hai cậu trai trẻ không dám ngang hàng với y, ngồi lùi xuống ghế sau. Xe điện từ từ chuyển bánh. Được nửa đường, Hoàng Khắc Vũ thì thào hỏi Lưu Nhất Minh, “Này, ông đề nghị mời chú ấy đến, khác nào vỗ mặt bác Hành, không sợ bác ấy trị cho à?”
Hoàng Khắc Vũ nóng nảy, nhưng không phải kẻ ngu ngốc. Dược Thận Hành đã được ngầm định là chưởng môn kế nhiệm, Hứa Nhất Thành đi chuyến này khác nào hạ bệ ông ta, người nọ tính khí nhỏ nhen, ắt sẽ không chịu bỏ qua. Lưu Nhất Minh đề ra chuyện này quả là chọc vào tổ ong vò vẽ.
Lưu Nhất Minh cười nhạt, “Kim thạch vốn là chuyên môn của nhà họ Hứa, tôi nói sai chỗ nào hả? Huống hồ nếu ông ta dám động tới tôi, tôi sẽ lôi hết mấy chuyện thối nát của Dược Lai ra, xem ai mất mặt.” Hoàng Khắc Vũ cười, “Ông làm gì chắc cũng tính toán cả rồi. Nói xem, vời chúThành tới để làm gì?”
Lưu Nhất Minh nheo mắt lại, song không chịu nói, chỉ giơ ngón cái và ngón trỏ thành hình chữ “bát”.
Hoàng Khắc Vũ ồ lên, bấy giờ mới hiểu, chưởng môn của Minh Nhãn Mai Hoa hễ đến tám mươi tuổi là phải thoái vị, tránh để già nua lú lẫn làm ảnh hưởng đến đại cục. Tháng Tám năm nay chính là đại thọ tám mươi của Thẩm Mặc, nếu không có gì thay đổi thì trong lễ đại thọ ông ta sẽ trao lại chức chưởng môn cho Dược Thận Hành, ừm, đó là nếu không có gì thay đổi… Nghĩ đến đó, Hoàng Khắc Vũ hiểu ra ngay, “Ông định khoác long bào cho chú ấy đấy à.”
Lưu Nhất Minh đẩy gọng kính, “Minh Nhãn Mai Hoa suy tàn thối nát, phải có một nhân vật như Napoleon đứng ra lãnh đạo mới vực dậy được. Ông biết Napoleon là ai không?” Thấy Hoàng Khắc Vũ lắc đầu, Lưu Nhất Minh cười hì hì, “Đó là vua nước Pháp.” Hoàng Khắc Vũ ngạc nhiên, “Ông gan quá nhỉ…” Lưu Nhất Minh liếc xéo cậu ta, “Đừng giả vờ, nếu ông thích để bác Hành lên ngồi ghế chưởng môn thì đã chẳng đi với tôi rồi.”
Hoàng Khắc Vũ gãi đầu nghiêm trang đáp, “Tôi không ghét bác Hành, bác ấy buôn bán thì giỏi, có điều vật gì qua tay cũng chỉ nhìn giá trị chứ không thật lòng trân trọng, tôi không thích thế.”
Lưu Nhất Minh cười, “Rồi rồi, ai chẳng biết Hoàng Khắc Vũ ông coi đồ cổ như tính mạng. Thế mà còn chê tôi cụ non, tôi thấy ông mới cụ non ấy.”
“Không trân trọng cổ vật thì còn sưu tầm làm gì?” Hoàng Khắc Vũ lầu bầu.
Hai người đang rì rầm nói chuyện thì nghe giọng Hứa Nhất Thành ở hàng ghế trước vọng lại, “Lần này gọi chú đến là ý của Nhất Minh đúng không? Anh Hành chắc chắn không làm vậy đâu.”
Lưu Nhất Minh bị nói trúng tim đen cũng chẳng hề đỏ mặt, thẳng thắn đáp ngay, “Dĩ nhiên bác ấy không muốn chú tới, sợ chú giành ghế của bác ấy.”
Hứa Nhất Thành cười khì, chẳng buồn quay lại, “Hai đứa đọc Thu thủy* của Trang Tử chưa?” Cả hai lắc đầu. Hứa Nhất Thành giảng giải, “Trong Thu thủy, Trang Tử kể một câu chuyện. Đồn rằng ở phía Nam có loài chim, gọi là uyên sồ. Loài này ưa sạch sẽ, không phải cây ngô đồng thì không đậu, không phải nước suối trong núi chảy ra thời không uống. Có con diều hâu nọ tìm được cái xác chuột chết, đang rỉa ăn thì thấy uyên sồ bay qua, sợ nó cướp mồi, bèn ngẩng đầu kêu ‘quác’ một tiếng, toan dọa cho nó sợ.”
Cả hai phá lên cười. Dứt tiếng cười, Lưu Nhất Minh lại than thầm trong dạ. Quả nhiên Hứa Nhất Thành đã nhìn thấu cậu, mượn câu chuyện vừa rồi để từ chối khéo. Cậu nhìn Hứa Nhất Thành đang nhắm mắt dưỡng thần ở hàng ghế trước, chợt nghĩ, chú Thành coi Minh Nhãn Mai Hoa như chuột chết, vậy cái gì mới là ngô đồng và suối trong mà chú hướng đến? Lẽ nào là môn khảo cổ mà chú nói ư? Lưu Nhất Minh muốn hỏi, song chần chừ một lát rồi lại thôi.
Nhá nhem tối, họ đến nhà họ Vương. Vừa vào cửa đã thấy Dược Thận Hành má hóp mũi khoằm đang ngồi uống trà, đúng
là hơi giống diều hâu, Lưu Nhất Minh và Hoàng Khắc Vũ không nhịn được bưng miệng cười thầm, khiến Dược Thận Hành ngơ ngác chẳng hiểu tại sao.
Hứa Nhất Thành bỏ mũ ra, lên tiếng chào trước, “Chào anh Hành.” Bấy giờ Dược Thận Hành mới tươi cười đứng dậy đón, nắm tay y nói, “Anh chỉ biết xem đồ cổ, thực không giỏi trừ tà, đành nhờ chú vất vả một chuyến vậy.” Rõ ràng Dược Thận Hành đang chế giễu Hứa Nhất Thành không lo nghề chính, song y chỉ tủm tỉm cười, không chấp.
Sau vài câu khách sáo với ông chủ Vương, Hứa Nhất Thành đề nghị được dẫn tới gian thờ Phật xem thử. Mọi người đi đến gian thờ, ông chủ Vương liền trỏ chiếc khánh, “Nó đấy, cứ đến mười giờ rưỡi đêm là rung, còn chuẩn hơn đồng hồ Tây.” Hứa Nhất Thành lại gần, không vội chạm vào mà giở Kim Đáy Bể ra. Bộ Kim Đáy Bể này cực kỳ tinh xảo, hình dạng lại lạ lùng, người ngoài nghề nhìn chẳng khác gì pháp khí trừ tà. Thấy bộ đồ nghề chuyên nghiệp làm vậy, ông chủ Vương cũng yên tâm hẳn.
Hứa Nhất Thành lướt tay trên chiếc khánh, khép mắt lim dim, một lúc lâu sau mới mở ra, vẻ mặt nghiêm trang, tựa như cực kỳ hao tổn tâm trí. Thấy mặt y nghiêm hẳn lại, ông chủ Vương thấp thỏm hỏi rốt cuộc là thế nào.
Hứa Nhất Thành bưng khánh lên, hướng miệng về phía ông ta: “Ông có biết những chữ Phạn này có nghĩa gì không?” Ông chủ Vương ngượng ngập đáp rằng không biết. Hứa Nhất Thành nói, “Hàng chữ Phạn này gọi là phân đà lợi hoa, có nghĩa là hoa sen trắng. Trong kinh Phật, khi ca ngợi ai đó, thường nói là phân
đà lợi hoa trong đám người, đại khái giống như chúng ta hay nói Lữ Bố trong hàng người, XíchThố trong bầy ngựa vậy.” “Đó chẳng phải ý chỉ điềm lành ư? Sao lại có ma nữ?” Ông chủ Vương bực bội hỏi.
“Phân đà lợi hoa có tác dụng trấn tà. Cô gái búi tóc kiểu Mãn Châu mà phu nhân thấy e rằng gặp phải mối oan nào đó, linh hồn bị giam trong khánh, bị phân đà lợi hoa trấn áp, đến đêm khuya mới ra sức vùng vẫy khiến khánh đồng không gõ mà tự rung.” Hứa Nhất Thành phân tích đâu ra đấy. Ông chủ Vương cũng từng nghe các đạo sĩ hòa thượng nói tương tự nên nửa tin nửa ngờ. Hỏi Hứa Nhất Thành cách giải quyết, y liền giơ một ngón tay lên, “Hôm nay tôi có thể dặn nó không được gây rối nữa. Có điều nếu muốn hóa giải hoàn toàn oán khí của nó, phải tưới tắm công đức mới được.”
“À cái đó thì có, vợ tôi vẫn chép kinh Phật luôn.”
Hứa Nhất Thành lắc đầu, “Chép kinh chỉ là thành kính, làm việc thiện mới có công đức.” Nghe Hứa Nhất Thành nói vậy, Lưu Nhất Minh và Hoàng Khắc Vũ hiểu ngay y muốn làm gì, lại nhìn thái độ như cao nhân đắc đạo của y, không khỏi cười thầm.
Ông chủ Vương cũng là người sáng ý, nhanh nhảu nói ngay, “Sáng sớm mai tôi sẽ quyên thêm năm trăm đồng đại dương cho trại tế bần. Nhờ anh mau làm phép giúp cho.”
Hứa Nhất Thành gật đầu, rút một cái giũa từ bộ Kim Đáy Bể, đoạn cầm khánh lên giũa mạnh mấy cái rồi đặt xuống. Ông chủ Vương hỏi, xong rồi à? Hứa Nhất Thành đáp, xong rồi. Ông chủ Vương kinh ngạc hỏi, không cần tụng kinh vẽ bùa gì sao? Hứa
Nhất Thành cười vang, “Buông dao giũa xuống là thành Phật ngay. Cách hiệu quả đâu phải ở chỗ làm lâu hay chóng. Mười rưỡi tối nay các vị cứ đợi mà xem.”
Thấy y nói chắc như đinh đóng cột, mọi người đều nửa tin nửa ngờ, ngay Lưu Nhất Minh cũng chẳng hiểu ra sao, lẽ nào chỉ giũa mấy cái mà được ư? Chẳng phải là đơn giản quá à?
Ông chủ Vương mời họ ở lại ăn cơm, nhưng mọi người vừa ăn vừa thấp thỏm, chỉ có Hứa Nhất Thành nói cười vui vẻ, tràn đầy tự tin. Đến gần mười rưỡi, tất cả lại tập trung trước cửa gian thờ Phật, dỏng tai nghe ngóng. Tới đúng giờ ấy, quả nhiên khánh đồng im phăng phắc, chẳng có động tĩnh gì.
Ông chủ Vương mừng khôn xiết, luôn miệng gọi Hứa Nhất Thành là thần tiên tái thế. Dược Thận Hành đứng bên cạnh, tay mân mê quả ấn đồng đeo bên hông, mặt sầm sì tưởng chừng sắp nhỏ ra được nước, hắn loay hoay hai hôm chẳng được tác dụng gì, vậy mà Hứa Nhất Thành chỉ giũa mấy cái đã giải quyết xong. Đáng hận nhất là vẫn chưa biết y làm cách nào xử lý được. Nếu người trong Minh Nhãn Mai Hoa biết chuyện này, chẳng phải lại càng coi trọng họ Hứa hơn sao?
Song Dược Thận Hành đảo mắt một cái đã tươi cười được ngay, hùa theo ông chủ Vương ca ngợi không ngớt lời, nói rằng cậu em này của tôi có thiên bẩm, tu đạo từ nhỏ, giỏi nhất là hàng yêu trừ ma, càng khen nghe càng hoang đường tợn. Dược Thận Hành đã nghĩ ra rằng, đánh cho chết không bằng khen cho chết. Nếu để Hứa Nhất Thành chết danh thầy trừ tà thì sẽ chẳng còn uy hiếp được đến vị trí của hắn nữa. Dầu Minh Nhãn Mai Hoa sa
sút đến đâu, cũng sẽ không để một tên thầy cúng làm chưởng môn.
Trước những lời tán tụng ấy, Hứa Nhất Thành chỉ giải thích vắn tắt: “Tôi đang học ngành Khảo cổ ở trường Thanh Hoa, không phải là đạo sĩ.” Song mọi người lại cho rằng y khiêm tốn, huống hồ từ “khảo cổ” nghe rất lạ tai, chưa chừng cũng là pháp môn tu đạo gì đó.
Ông chủ Vương mời mấy người trong Minh Nhãn Mai Hoa quay về phòng khách dùng trà rồi gọi tất cả mọi người trong nhà vào gian thờ lạy Phật, cảm ơn Bồ Tát phù hộ. Hứa Nhất Thành ngồi ghế trên, thản nhiên uống trà bà Vương tự tay pha. Lưu Nhất Minh lại gần hỏi khẽ, “Chú Thành, chuyện này là thế nào vậy?” Cậu vốn không tin những chuyện ma quỷ.
Hứa Nhất Thành liếc cậu rồi hờ hững buông bốn chữ, “Nguyên lý cộng hưởng.”
Lưu Nhất Minh tròn mắt ngơ ngác. Hứa Nhất Thành cười đáp, “Chuyện này từ xưa đã có, chú cũng chỉ bắt chước làm theo thôi. Thời Đường có người tên Tào Thiệu Quỳ, đánh bạn với một nhà sư. Thấy khánh trong phòng riêng luôn rung theo tiếng chuông bên ngoài, nhà sư cho là có sự quái dị, sợ đến phát ốm. Tào Thiệu Quỳ bèn lấy giũa giũa mấy cái, khánh bèn không rung nữa. Ông ta giải thích rằng vì chuông và khánh hợp âm luật, hô ứng lẫn nhau, nên mới cùng rung lên như thế. Chỉ cần giũa cho mấy cái làm hình dạng khánh thay đổi, âm điệu biến đổi, âm thanh cũng biến mất. Giải thích theo nguyên lý khoa học hiện
đại thì là tần số sóng của hai vật thể trùng khớp nên sinh ra cộng hưởng.”
Lưu Nhất Minh ngạc nhiên, “Nhưng quanh đây không có chùa miếu, cũng không nghe tiếng chuông mà.”
Hứa Nhất Thành dựng một ngón tay lên, “Không có tiếng chuông nhưng có tiếng khác, cháu nghĩ kỹ mà xem.” Lưu Nhất Minh nghĩ ngợi giây lát, chợt ồ lên, “Tàu hỏa?” Hứa Nhất Thành khen, “Nhất Minh thông minh thật. Chính là tàu hỏa. Nơi này nằm trong cổng Sùng Văn, gần đường ray mới. Vừa nãy ở trường, chú tra thời gian biểu biết được hằng đêm cứ tới mười rưỡi sẽ có một chuyến tàu từ Thiên Tân tới ga cổng Chính Dương chạy qua gần khu này. Tàu lăn bánh trên đường ray thành tiếng lạch cạch, tình cờ lại trùng tần số sóng với chiếc khánh đồng này.”
“Hóa ra không phải khánh đồng có ma, mà là cộng hưởng với tàu hỏa.” Lưu Nhất Minh cười.
Hoàng Khắc Vũ thắc mắc, “Vậy ma nữ mà bà Vương trông thấy thì sao?”
“Khánh đồng trên rộng dưới hẹp, hai bên hơi gồ lên, dưới ánh nến trông chẳng giống người phụ nữ búi tóc kiểu Mãn Châu à? Thực ra thiên hạ nào có sự chi, toàn con người tự nghĩ ra thôi, bao nhiêu phiền não trên đời đều bắt nguồn từ hai chữ: cả nghĩ.” Hứa Nhất Thành liếc Dược Thận Hành đầy thâm ý. Lúc này họ Dược đang đứng ngoài hành lang, chắp tay sau lưng lẳng lặng nhìn ra màn đêm đen thẳm. Dược Thận Hành cũng không tin chuyện ma quỷ, nhưng nghĩ mãi không ra Hứa Nhất Thành làm
thế nào, lại không muốn để lòi cái dốt, đành đứng xa xa, giả bộ thâm trầm.
Chuyện đã xong xuôi, Hứa Nhất Thành bưng chén trà lên hớp thêm ngụm nữa, rút khăn ra lau miệng rồi đứng dậy định đi. Đúng lúc ấy, chợt nghe ngoài cửa có tiếng bước chân. Mọi người nhất loạt ngẩng lên, thấy quản gia nhà họ Vương dìu một ông cụ râu tóc bạc phơ thẳng vào phòng khách.
Bắc Kinh đã sắp vào mùa nóng, vậy mà ông cụ còn khoác áo lông chồn trắng, tựa hồ không chịu nổi gió. Gương mặt ông ta chằng chịt nếp nhăn, gáy tết bím tóc bạc, lưng còng gập, như một con tôm phơi sắp khô, chỉ có đôi mắt sáng rực, như mắt loài hải đông thanh*.
Quản gia hết sức cung kính với ông ta, gọi là Phú Lão Công. Ông cụ vừa bước vào đã hỏi ngay, “Nghe nói nhà các người có chiếc khánh đồng chạm hoa sen hả, lấy ra ta xem nào.” Tiếng ông ta có phần lanh lảnh, nhưng thái độ rất cứng rắn. Thấy quản gia chần chừ, ông cụ bèn dằn gậy xuống đất, khiến kẻ nọ run bắn, vội nói để đi hỏi ông chủ. Chẳng mấy chốc ông chủ Vương đã hối hả đi ra, cúi rạp người chào hỏi, “Phú Lão Công, đêm khuya thế này cơn gió nào thổi cụ đến đây vậy?”
“Ta muốn xem cái khánh kia.” Phú Lão Công không úp mở. Ông chủ Vương lo rằng chiếc khánh mới bị phong ấn, không tiện động vào, song lại ngại mất lòng người kia, bèn đưa mắt nhìn Hứa Nhất Thành ra ý hỏi. Hứa Nhất Thành gật đầu, tỏ ý không vấn đề. Bấy giờ ông chủ Vương mới sai người hầu tới gian thờ lấy, còn mình ngồi tiếp Phú Lão Công.
Hứa Nhất Thành ngồi bên lặng lẽ quan sát. Phú Lão Công này từ tên gọi đến phong thái hành xử đều giống thái giám trong cung, thậm chí địa vị không thấp. Sau khi hoàng đế nhà Thanh thoái vị, các thái giám đều bị đuổi ra khỏi cung. Trong đó có vài thái giám cấp cao vừa tháo vát, vừa có gia thế lại có quan hệ, đổi sang nghề khác cũng vẫn phát đạt như thường. Họ vẫn liên lạc giúp đỡ nhau, dần hình thành một thế lực ngầm trong kinh. Để tỏ lòng trung với nhà Thanh, những kẻ này đều không cắt bím tóc. Vị Phú Lão Công này có lẽ cũng là một trong số họ.
Lát sau khánh đồng được đưa đến. Chẳng đợi ông chủ Vương kịp đón lấy, Phú Lão Công đã bước tới cầm ngay, giơ lên nhìn rồi bỗng dưng khóc òa. Những người có mặt trong phòng khách ai nấy đều ngẩn ra. Mọi người vốn đoán rằng ông già tới cướp khánh, chẳng ngờ ông ta lại khóc lóc thế này. Phú Lão Công ôm chặt chiếc khánh, khom người run lên bần bật, tựa hồ lòng đau như cắt. Ông chủ Vương khuyên nhủ mãi, ông ta mới thôi khóc, ôm lấy chiếc khánh nghẹn ngào hỏi mà mắt đỏ hoe, “Cái… cái này từ đâu ra vậy?”
Ông chủ Vương than thầm thôi rồi, chẳng biết còn phải rước lấy chuyện gì nữa, lòng không khỏi căm giận. Vì cái khánh này, trước là ông ta bị giam lỏng, bị chèn ép trấn mất một nghìn năm trăm đồng đại dương, sau đó lại xảy ra chuyện ma quái khiến cả nhà nháo nhác không yên, giờ thì Phú Lão Công kéo đến, toàn những chuyện xui xẻo!
Nghĩ thì nghĩ vậy, song ông chủ Vương vẫn thuật lại đầu đuôi mọi chuyện, Phú Lão Công nghe nói trong khánh phong ấn ma
nữ thì trừng mắt nhìn Hứa NhấtThành, giận dữ gắt, “Đúng là ăn nói bậy bạ!” Đoạn bảo ông chủ Vương, “Cái này giá bao nhiêu, ta trả ông gấp đôi.”
Ông chủ Vương vội xua tay đáp “Báu vật này tôi không có phúc nhận, xin tặng lại cho Phú Lão Công.” Song Phú Lão Công vung tay nói “Ta không lấy không của ông, sáng mai nhớ cho người tới chỗ ta lấy tiền.”
Rồi chẳng để ông chủ Vương nói thêm, ông ta ôm cái khánh đi thẳng ra cửa. Từ đầu đến cuối, Phú Lão Công chẳng buồn nhìn mấy người Minh Nhãn Mai Hoa nửa con mắt. Mọi người ngơ ngác nhìn nhau, không sao ngờ được chuyện lại kết thúc thế này.
Khánh đồng không còn nữa, ở lại đây cũng chẳng có việc gì. Thấy đã hơn mười một giờ, Hứa Nhất Thành và Dược Thận Hành đứng dậy cáo từ, rồi dẫn Lưu Nhất Minh và Hoàng Khắc Vũ ra về.
Đã đến giờ Tý, mây đen che mờ hết trăng sao, là lúc âm khí nặng nhất trong ngày. Ra khỏi nhà họ Vương, bên ngoài là con ngõ tối như hũ nút, xòe tay không thấy ngón. Ngọn đèn lồng giấy chênh chao treo trước cửa chỉ soi sáng được trong bán kính một mét, thời gian này trong thành Bắc Kinh lại rối ren hỗn loạn, điện đóm lúc có lúc không, đi lại ban đêm phải thật tinh mắt.
Từ nhà họ Vương ra đến phố chỉ có một con đường này, Dược Thận Hành tuy không muốn, song buộc phải đi cùng Hứa Nhất Thành. Lưu Nhất Minh đi sau cả hai, thích thú nhìn hai chiếc bóng, chẳng biết nghĩ ngợi chuyện gì. Hoàng Khắc Vũ mở to mắt, tập trung nhìn đường. Bốn người chẳng ai nói chuyện với ai, cứ thế lẳng lặng đi. Chẳng mấy chốc ngọn đèn sau lưng cũng
tắt ngúm, cả con ngõ như bị rẩy một chén mực Tùng dấp dính, thoắt chốc tối đen, chỉ thấy lờ mờ nhà cửa nhấp nhô hai bên đường, chẳng khác nào đường vào hầm mộ. Thỉnh thoảng lại có một bóng mèo hoang vụt qua, hai mắt xanh lè như ma trơi ngoài nghĩa địa.
Bốn người bước đi trong im lặng, được chừng hơn trăm mét, Hoàng Khắc Vũ chợt “hử” một tiếng, sấn tới trước quát lớn, “Ai đó?”
Trong bốn người chỉ mình Hoàng Khắc Vũ luyện võ, mắt tinh tai thính hơn hẳn. Nghe tiếng cậu quát, ba người kia cũng dừng chân, cảnh giác nhìn quanh. Bên trái Dược Thận Hành chợt vang lên tiếng kèn kẹt khe khẽ, thành tràng mãi không dứt, như có thứ gì lăn qua mặt đường lát đá tới gần. Dược Thận Hành tái mặt vô thức nhích về bên phải thì đụng ngay Hứa Nhất Thành. Hứa Nhất Thành hơi lách người, giơ tay ra đỡ lấy vai Dược Thận Hành nói nhỏ, “Đừng sợ, là tiếng bánh xe.”
Đúng lúc này, mấy lồng đèn lớn thình lình sáng rực lên. Dược Thận Hành nhận ra mình đang đứng trước một ngã rẽ, đằng trước là lối ra của ngõ, bên phải là một con đường nằm chênh chếch. Chính giữa đường là một cỗ xe ngựa lớn có mui, bánh cao su, tiếng kèn kẹt nọ do bánh xe nghiến lên mặt đường.
Trước xe có hai thớt ngựa cao lớn đỏ thẫm, thùng xe che rèm vải xanh kín mít. Hai gã hộ vệ vạm vỡ đứng hai bên, mỗi tên xách một ngọn đèn lồng vàng nan trúc chắn gió vừa thắp, mặt tỉnh bơ nhìn sang bên này.
Chương 3 HÔI CỦA ĐÔNG LĂNG
H
oàng Khắc Vũ bước lên phía trước, hai tay thủ thế trước ngực. Chợt một bàn tay gầy guộc vén rèm xe lên, rồi một mái đầu thò ra, hóa ra là Phú Lão Công. Ông ta nhìn quanh, chậm rãi lên tiếng, “Mấy vị Minh Nhãn Mai Hoa xin hãy dừng bước.”
Gương mặt già nua nọ dưới ánh nến lại càng thêm phần quái dị. Bốn người đều lặng thinh. Phú Lão Công nói, “Vừa rồi ở nhà người ta không tiện hỏi han, nên lão cố tình ở đây đợi, chỉ mong nói chuyện được với hai vị.”
Ông ta nói hai vị, dĩ nhiên là chỉ Dược Thận Hành và Hứa Nhất Thành. Lời mời này quá đột ngột, khiến cả hai đều có phần ngạc nhiên. Dược Thận Hành nghĩ bụng, khánh đồng chẳng biết là của gian Ngô Diêm Vương lấy được từ đâu, chưa chừng lại của người này cũng nên. Giờ đã sắp nửa đêm lại mời người ta đi trò chuyện, nói thế nào cũng không thể đi được.
Hứa Nhất Thành cũng không trả lời, chỉ nhìn lên mui xe, chú ý thấy dưới mái xe phía trước chạm hai con rồng hai bên trái phải, chính giữa là một viên nhật châu.
Thấy cả hai im lặng, Phú Lão Công lại nói, “Hai vị yên tâm, lão không có ác ý đâu. Chẳng qua khánh đồng này can hệ trọng
"""