🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Đảng Cộng Sản Việt Nam - Trí Tuệ, Bản Lĩnh, Đổi Mới Vì Độc Lập Dân Tộc Và Chủ Nghĩa Xã Hội
Ebooks
Nhóm Zalo
Chịu trách nhiệm xuất bản
GIÁM ĐỐC - TỔNG BIÊN TẬP
PGS. TS. PHẠM MINH TUẤN
Chịu trách nhiệm nội dung
PHÓ GIÁM ĐỐC - PHÓ TỔNG BIÊN TẬP ThS. PHẠM THỊ THINH
Biên tập nội dung: ThS. PHẠM THỊ NGỌC BÍCH ThS. NGUYỄN THỊ HẢI BÌNH
NGUYỄN MAI ANH
ThS. NGUYỄN THANH HƯƠNG
TRẦN PHAN BÍCH LIỄU
Vẽ bìa:
Chế bản vi tính: Sửa bản in:
Đọc sách mẫu:
ĐƯỜNG HỒNG MAI
NGUYỄN QUỲNH LAN NGUYỄN THANH HƯƠNG PHÒNG BIÊN TẬP KỸ THUẬT VIỆT HÀ
Số đăng ký kế hoạch xuất bản: 1812-2021/CXBIPH/4-18/CTQG. Số quyết định xuất bản: 341-QĐ/NXBCTQG, ngày 25/5/2021. Nộp lưu chiểu: tháng 5 năm 2021.
Mã ISBN: 978-604-57-6836-5.
4
BAN CHỈ ĐẠO HỘI THẢO
PGS.TS. NGUYỄN XUÂN THẮNG Bí thư Trung ương Đảng, Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ
Chí Minh, Chủ tịch Hội đồng Lý
luận Trung ương, Trưởng ban
LÊ MẠNH HÙNG Phó Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương, Phó Trưởng ban
PGS.TS. NGUYỄN NGỌC HÀ Phó Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Phó
Trưởng ban
PGS.TS. PHÙNG HỮU PHÚ Phó Chủ tịch Thường trực Hội đồng Lý luận Trung ương, Phó
Trưởng ban
TỔ CHỨC BẢN THẢO
PGS.TS. NGUYỄN NGỌC HÀ
PGS.TS. NGUYỄN DANH TIÊN
PGS.TS. LÊ VĂN LỢI
PGS.TS. TRẦN TRỌNG THƠ
PGS.TS. TRỊNH THỊ HỒNG HẠNH
TS. LƯƠNG VIẾT SANG
TS. NGUYỄN BÌNH
TS. DƯƠNG THỊ HUỆ
TS. NGUYỄN THỊ XUÂN
ThS. ĐỖ VĂN PHƯƠNG
5
LỜI NHÀ XUẤT BẢN
Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại sáng lập và rèn luyện đã lãnh đạo nhân dân ta hoàn thành sự nghiệp cách mạng dân tộc dân chủ và tiến lên chủ nghĩa xã hội. Thực tiễn đã chứng minh sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng nước ta. Quá trình lãnh đạo cách mạng 90 năm qua (03/02/1930 - 03/02/2020) là quá trình Đảng liên tục được tôi luyện thử thách và trưởng thành để ngày càng xứng đáng với vai trò lãnh đạo cách mạng, xứng đáng với niềm tin của nhân dân; đồng thời cũng là 90 năm Đảng khẳng định mạnh mẽ bản lĩnh, tầm vóc trí tuệ lớn lao của mình; tích lũy, đúc rút những bài học kinh nghiệm quý báu, không ngừng đổi mới, sáng tạo, lãnh đạo cách mạng Việt Nam vượt qua mọi cam go, thử thách, đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Tự hào về chặng đường 90 năm Đảng ra đời và lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật xuất bản cuốn sách Đảng Cộng sản Việt Nam - Trí tuệ, bản lĩnh, đổi mới vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội (Kỷ yếu Hội thảo khoa học). Cuốn sách gồm các bài viết, là tham luận của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, các cơ quan Trung ương và địa phương, các nhà khoa học,... tại Hội thảo khoa học “Đảng Cộng sản Việt Nam - Trí tuệ, bản lĩnh, đổi mới vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội” nhân kỷ niệm 90 năm thành lập Đảng, do Học viện Chính trị
6 ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM - TRÍ TUỆ, BẢN LĨNH, ĐỔI MỚI...
quốc gia Hồ Chí Minh phối hợp với Ban Tuyên giáo Trung ương Đảng và Hội đồng Lý luận Trung ương tổ chức.
Các bài viết tập trung ôn lại những chặng đường lịch sử vẻ vang 90 năm qua, khẳng định Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là một tất yếu lịch sử, đáp ứng yêu cầu giành độc lập dân tộc và phát triển đất nước; sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam; khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị ở Việt Nam và vị trí then chốt của công tác xây dựng Đảng thật sự trong sạch, vững mạnh, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ cách mạng mới; làm rõ thêm những thành tựu to lớn trên mọi lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, đặc biệt trong công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế hiện nay; làm sáng tỏ tầm nhìn, định hướng chiến lược của Đảng trong lãnh đạo công cuộc đổi mới toàn diện, phát triển, bảo vệ đất nước trong bối cảnh mới và hội nhập quốc tế.
Xin trân trọng giới thiệu cuốn sách cùng bạn đọc.
Tháng 12 năm 2020
NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA SỰ THẬT
7
PHÁT BIỂU KHAI MẠC HỘI THẢO
Đồng chí TRẦN QUỐC VƯỢNG*
Kính thưa các đồng chí lãnh đạo, nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước,
Kính thưa các nhà khoa học, các vị khách quý, Thưa các đồng chí,
Hôm nay, tôi cùng với các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư rất vui mừng, phấn khởi đến tham dự Hội thảo khoa học quốc gia với chủ đề “Đảng Cộng sản Việt Nam - Trí tuệ, bản lĩnh, đổi mới vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội” do Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh chủ trì, phối hợp với Ban Tuyên giáo Trung ương, Hội đồng Lý luận Trung ương tổ chức nhân kỷ niệm 90 năm Ngày thành lập Đảng ta. Thay mặt Bộ Chính trị, Ban Bí thư, tôi nhiệt liệt hoan nghênh, chào mừng và xin gửi tới các nhà khoa học, các vị khách quý, các đồng chí tham dự Hội thảo lời chúc mừng tốt đẹp nhất.
Thưa các đồng chí,
Từ khi thành lập đến nay, trải qua 90 năm, Đảng ta do
________________
* Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư Trung ương Đảng.
8 ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM - TRÍ TUỆ, BẢN LĨNH, ĐỔI MỚI...
Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại sáng lập và rèn luyện, đã lãnh đạo nhân dân ta tiến hành cuộc đấu tranh cách mạng lâu dài, gian khổ, vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách và giành được những thắng lợi vĩ đại. Đó là, thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đập tan ách thống trị của thực dân, phong kiến, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam), đưa dân tộc ta tiến vào kỷ nguyên độc lập, tự do; thắng lợi của các cuộc kháng chiến chống xâm lược, mà đỉnh cao là Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954, Đại thắng mùa xuân năm 1975, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, bảo vệ Tổ quốc, làm tròn nghĩa vụ quốc tế; thắng lợi của công cuộc đổi mới, tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, tiếp tục đưa đất nước phát triển, từng bước quá độ
lên chủ nghĩa xã hội với nhận thức và tư duy mới đúng đắn, phù hợp thực tiễn Việt Nam và thế giới.
Với những thắng lợi vĩ đại đã giành được trong 90 năm qua, nước ta từ một xứ thuộc địa nửa phong kiến đã trở thành một quốc gia độc lập, tự do, phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa; nhân dân ta từ thân phận nô lệ đã trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội, có đời sống vật chất và tinh thần không ngừng được nâng cao; đất nước ta đã ra khỏi tình trạng nước nghèo, kém phát triển trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình, đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, có quan hệ quốc tế rộng rãi, có uy tín, vị thế quốc tế ngày càng cao. Tuy nhiên, cũng còn nhiều vấn đề lớn, phức tạp, nhiều hạn chế, yếu kém, đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân và toàn quân cần phải tập trung giải quyết,
PHÁT BIỂU KHAI MẠC HỘI THẢO 9
khắc phục để xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong sạch, vững mạnh, đưa nước ta phát triển nhanh, bền vững hơn nữa và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam muôn vàn yêu dấu của chúng ta.
Nhìn lại chặng đường đấu tranh oanh liệt của Đảng ta trong 90 năm qua, ôn lại những khó khăn, gian khổ, sự hy sinh vô bờ bến của đồng bào, chiến sĩ ta cùng những thắng lợi vẻ vang mà nhân dân ta đã giành được dưới sự lãnh đạo của Đảng, chúng ta càng trân trọng quá khứ, nâng niu giữ gìn những thành quả của cách mạng, càng thấm thía và biết ơn vô hạn công lao trời biển của Chủ tịch Hồ Chí Minh muôn vàn kính yêu; càng thấu hiểu, tin yêu và tự hào thêm về dân tộc ta - một dân tộc anh hùng, thông minh và sáng tạo; tự hào về Đảng ta - Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh, một lòng một dạ chiến đấu, hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân.
Chúng ta thành kính tưởng nhớ, tri ân các lãnh tụ tiền bối của Đảng, các anh hùng liệt sĩ, đồng bào, đồng chí đã chiến đấu ngoan cường và hy sinh anh dũng trong sự nghiệp đấu tranh lâu dài, gian khổ nhưng vô cùng vẻ vang của dân tộc, của Đảng và thực hiện nghĩa vụ quốc tế cao cả; vì sự
phát triển và trường tồn của dân tộc ta dưới ngọn cờ vinh quang của Đảng Cộng sản Việt Nam. Chúng ta chân thành cảm ơn các nước xã hội chủ nghĩa anh em, phong trào cộng sản và công nhân thế giới, cảm ơn nhân dân và bạn bè quốc tế đã dành sự ủng hộ, giúp đỡ quý báu cho sự nghiệp chính nghĩa của chúng ta.
Thực tiễn phong phú của cách mạng Việt Nam trong suốt 90 năm qua đã chứng minh rằng, sự lãnh đạo đúng đắn,
10 ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM - TRÍ TUỆ, BẢN LĨNH, ĐỔI MỚI...
sáng suốt của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng nước ta; đồng thời chính trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta được tôi luyện, thử thách và không ngừng trưởng thành, dày dạn kinh nghiệm để ngày càng xứng đáng với vai trò và sứ mệnh lãnh đạo cách mạng, xứng đáng với sự tin cậy của nhân dân. Và cũng chính trong quá trình đó, Đảng ta đã thể hiện mạnh mẽ bản lĩnh, tầm vóc trí tuệ lớn lao của mình, tích lũy và đúc rút được nhiều bài học quý báu, hun đúc nên truyền thống vẻ
vang của Đảng quang vinh mà chúng ta phải ra sức giữ gìn và phát huy trong điều kiện mới.
Thưa các đồng chí,
Năm nay, chúng ta trọng thể tổ chức kỷ niệm 90 năm thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, 130 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhiều sự kiện chính trị trọng đại khác trong bối cảnh toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đang nỗ lực phấn đấu hoàn thành thắng lợi Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016 - 2020 và Nghị quyết Đại hội lần thứ XII của Đảng, tổ chức tốt đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội lần thứ XIII của Đảng; cũng là lần đầu tiên đảm nhận đồng thời hai trọng trách Chủ tịch ASEAN 2020 và Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2020 - 2021.
Đây là dịp chúng ta tiếp tục khẳng định vai trò, sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng; khẳng định niềm tin, niềm tự hào của cán bộ, đảng viên và nhân dân ta về Đảng quang vinh của chúng ta, qua đó tạo động lực thúc đẩy thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại
PHÁT BIỂU KHAI MẠC HỘI THẢO 11
hóa đất nước và hội nhập quốc tế. Ban Bí thư đã có chủ trương và chỉ đạo tổ chức Lễ kỷ niệm cấp quốc gia, tổ chức đợt sinh hoạt chính trị tư tưởng sâu rộng trong toàn Đảng, toàn dân và toàn quân, tổ chức thi tìm hiểu về Đảng, tổ chức triển lãm, xây dựng và phát hành phim tài liệu về Đảng, tổ chức các chương trình nghệ thuật mừng Đảng, mừng Xuân và nhiều hoạt động thiết thực, phong phú khác. Hội thảo khoa học cấp quốc gia của chúng ta tổ chức hôm nay là một trong những hoạt động trọng tâm có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc, thiết thực kỷ niệm 90 năm thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Tại Hội thảo hôm nay, chúng ta cùng nhau ôn lại pho sử “bằng vàng” của Đảng, khẳng định mạnh mẽ những thành tựu vĩ đại, đúc kết những kinh nghiệm quý báu của Đảng ta trong 90 năm qua; trên cơ sở đó, thống nhất đánh giá, nhận định, đồng thời đề xuất, kiến nghị những giải pháp nhằm tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong sạch, vững mạnh, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, dân chủ xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, sánh vai với các cường quốc năm châu như ý nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhân dân ta.
Hội thảo hôm nay cũng góp phần đẩy mạnh công tác tuyên truyền truyền thống vẻ vang của Đảng và dân tộc; về sự nghiệp đổi mới và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta; cổ vũ, động viên toàn Đảng, toàn dân và toàn quân nỗ lực phấn đấu thực hiện thắng lợi Kế hoạch phát triển
12 ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM - TRÍ TUỆ, BẢN LĨNH, ĐỔI MỚI...
kinh tế - xã hội 5 năm 2016 - 2020 và Nghị quyết Đại hội lần thứ XII của Đảng.
Thực hiện chủ trương của Ban Bí thư, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh đã chủ trì, phối hợp với Ban Tuyên giáo Trung ương, Hội đồng Lý luận Trung ương triển khai các công việc chuẩn bị tổ chức Hội thảo khoa học rất tích cực, khẩn trương, đã thành lập Ban Chỉ đạo, Ban Tổ chức Hội thảo, xây dựng kế hoạch, mời các cơ quan, các nhà khoa học công tác ở nhiều ban, bộ, ngành, các cơ quan nghiên cứu, giảng dạy, những người làm công tác lãnh đạo, quản lý tham gia Hội thảo.
Thay mặt Bộ Chính trị, Ban Bí thư, tôi xin hoan nghênh các cơ quan, các nhà khoa học đã làm tốt công tác chuẩn bị, tham gia viết bài với tinh thần trách nhiệm cao để chúng ta tổ chức tốt Hội thảo. Với sự chuẩn bị chu đáo, nghiêm túc, tôi tin tưởng Hội thảo nhất định sẽ thành công tốt đẹp.
Thưa các đồng chí,
Để Hội thảo thành công và đạt kết quả tốt đẹp, đề nghị các đồng chí tập trung thảo luận, làm sâu sắc hơn nữa một số vấn đề sau đây:
- Khẳng định mạnh mẽ tính tất yếu khách quan của sự ra đời, ý nghĩa lịch sử và sứ mệnh lịch sử của Đảng Cộng sản Việt Nam; chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam.
- Phân tích làm sáng tỏ hơn vai trò lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng Việt Nam qua các chặng đường lịch sử; nêu bật những thành tựu trên mọi lĩnh vực của đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng - an ninh, đối ngoại, xây
PHÁT BIỂU KHAI MẠC HỘI THẢO 13
dựng hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng trong 90 năm qua, đặc biệt là hơn 30 năm tiến hành công cuộc đổi mới; qua đó, khẳng định vai trò, sự trưởng thành của Đảng về trí tuệ, bản lĩnh của Đảng trong quá trình lãnh đạo cách mạng và đúc kết các bài học kinh nghiệm từ thực tiễn 90 năm lãnh đạo cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam.
- Bổ sung, làm rõ và khẳng định những thành tựu về lý luận của Đảng trong quá trình 90 năm lãnh đạo cách mạng Việt Nam; làm sáng tỏ tầm nhìn và định hướng chiến lược của Đảng trong lãnh đạo công cuộc đổi mới, phát triển và bảo vệ đất nước trong bối cảnh mới.
- Đánh giá, phân tích và đề xuất những nội dung, giải pháp nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; trình độ, trí tuệ, bản lĩnh, chất lượng và hiệu quả công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng nhằm xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
- Hội thảo là diễn đàn để chúng ta khẳng định sự kiên định mục tiêu, lý tưởng cách mạng, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng; đấu tranh, phản bác những thông tin, quan điểm sai trái, luận điệu xuyên tạc của các đối tượng thù địch, cơ
hội; bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ, củng cố và nâng cao niềm tin của cán bộ, đảng viên, nhân dân đối với Đảng.
Tôi mong rằng, các đại biểu tham dự Hội thảo với tinh thần khoa học, thực sự cầu thị, ý thức trách nhiệm cao, tập trung trí tuệ, dân chủ thảo luận để Hội thảo thực sự có cả “thảo và hội”, thiết thực và hiệu quả. Các đồng chí cũng cần làm tốt công tác tuyên truyền về kết quả Hội thảo, có kế
14 ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM - TRÍ TUỆ, BẢN LĨNH, ĐỔI MỚI...
hoạch giới thiệu các bài viết có chất lượng trên các ấn phẩm sách, báo.
Nhân dịp năm mới và đón Xuân Canh Tý 2020, kính chúc các đồng chí lãnh đạo, nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước, các nhà khoa học, các vị khách quý và các đồng chí tham dự Hội thảo sức khỏe, hạnh phúc và thành công.
Chúc Hội thảo của chúng ta thành công tốt đẹp! Xin trân trọng cảm ơn!
15
PHẦN THỨ NHẤT
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM NHỮNG CHẶNG ĐƯỜNG LỊCH SỬ VẺ VANG
C
17
ĐẢNG TA, CHÍN MƯƠI NĂM ẤY
GS.TS. VŨ VĂN HIỀN*
hín mươi năm đã trôi qua kể từ ngày thành lập Đảng, một đảng của trí tuệ và niềm tin, kiên cường phấn đấu
vì lợi ích của giai cấp, của dân tộc và sự phát triển không ngừng của đất nước. Chín mươi năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân ta đã tiến bước mạnh mẽ và vững chắc trên con đường độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội.
So với lịch sử dựng nước và giữ nước hàng nghìn năm của dân tộc, 90 năm chỉ là một giai đoạn ngắn, nhưng đó là những năm tháng hào hùng, sôi động và đẹp đẽ nhất, đưa nhân dân ta từ bóng tối ra ánh sáng, từ kiếp nô lệ thành người tự do, từ kẻ mất nước thành người làm chủ, từ đói nghèo lạc hậu đến cuộc sống ngày càng ấm no, hạnh phúc.
Ôn lại chặng đường lịch sử 90 năm qua, chúng ta càng thấy việc Đảng ta ra đời là một tất yếu của lịch sử. Dân tộc ta có truyền thống yêu nước, anh dũng, bất khuất, đã từng chiến thắng nhiều đế quốc phong kiến hung hãn. Từ khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, phong trào yêu nước đã
________________
* Phó Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương.
18 ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM - TRÍ TUỆ, BẢN LĨNH, ĐỔI MỚI...
dấy lên hết sức mạnh mẽ. Liên tiếp nổ ra các cuộc nổi dậy trên khắp mọi miền đất nước, thu hút đông đảo các tầng lớp nhân dân, các bậc sĩ phu, kể cả một bộ phận quan lại phong kiến: các phong trào Cần Vương, Duy Tân, Đông Du; các cuộc khởi nghĩa Yên Thế, Yên Bái và hàng chục cuộc đấu tranh khác nữa; tuy đều bị thực dân Pháp thẳng tay đàn áp và bị dìm trong biển máu. Điều đó chứng tỏ rằng, nhân dân ta vốn giàu lòng yêu nước, có truyền thống kiên cường chống giặc ngoại xâm, sẵn sàng tham gia quên mình vào các phong trào yêu nước; các bậc sĩ phu, các nhà lãnh đạo các phong trào chống thực dân Pháp đều có trí dũng, tài cao, không thiếu mưu lược, nhưng cả giai cấp phong kiến và đại diện cho thế lực tư sản lúc đó đều không giải quyết được vấn đề dân tộc, không chọn đúng con đường giải phóng dân tộc và hướng đi cho đất nước ta.
Nhưng rồi chính lịch sử đã có lời giải đáp. Chủ nghĩa Mác ra đời đã vạch ra điều tất yếu từng bị che lấp bởi màn sương mù trong lịch sử. Chủ nghĩa Mác khẳng định, chủ nghĩa tư bản nhất định bị thay thế bằng một chế độ tốt đẹp hơn - chế độ cộng sản chủ nghĩa không có người bóc lột người, và người đào huyệt chôn chủ nghĩa tư bản chính là giai cấp những người cần lao. Rồi chính vào lúc chủ nghĩa tư bản thế giới đang cực thịnh thì Cách mạng Tháng Mười Nga đã nổ ra. Sự đột phá của Cách mạng Tháng Mười Nga mở đầu cho một xu thế mới của lịch sử thế giới, xu thế chặt đứt xiềng xích của chủ nghĩa tư bản và tạo ra làn sóng giải phóng dân tộc với quy mô to lớn và chiều sâu cách mạng chưa từng có; tạo ra hướng đi mà các dân tộc bị áp bức có thể lựa chọn con đường giải phóng dân tộc, đi lên chủ nghĩa xã hội.
Phần thứ nhất: ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM... 19
Toàn bộ tình hình đó của thế giới, bằng nhiều con đường, đã dội vào và thấm sâu trong mảnh đất Việt Nam - nơi mà chính sự tàn bạo của chủ nghĩa tư bản thực dân đã chuẩn bị đất rồi, chủ nghĩa cộng sản chỉ còn phải làm một việc là gieo hạt của công cuộc giải phóng mà thôi. Hơn ai hết, chính lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc là người gieo hạt, gây mầm cách mạng Việt Nam. Với bản lĩnh thiên tài của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, chủ nghĩa Mác - Lênin kết hợp với phong trào yêu nước và phong trào công nhân Việt Nam chuyển hóa thành một tất yếu và đưa tới một sự kiện trọng đại: Năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Đảng đã tuyên bố trong Chính cương đầu tiên của mình: “Chủ trương làm tư sản dân quyền c.m và thổ địa c.m để đi tới xã hội cộng sản”1. Một cách tự nhiên là sau lời tuyên bố bất hủ ấy và tiếp đó là những sáng tạo vượt bậc của Đảng, được nhân dân ta đồng tâm hiệp lực, chủ nghĩa xã hội được xác định là mục tiêu và con đường đất nước ta đi tới, đồng thời cũng chính là động lực thúc đẩy lịch sử dân tộc, trở thành giá trị phát triển của Việt Nam.
Thời gian là đá thử vàng. Chín mươi năm qua là giai đoạn đặc biệt của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng, là thời gian mà đất nước phải vượt qua những thách thức to lớn, có lúc hiểm nghèo. Nhưng mỗi lần vượt qua thử
thách là mỗi lần dân tộc Việt Nam tự vươn lên tạo dựng những mốc son lịch sử đánh dấu những thắng lợi vẻ vang: Đó là thắng lợi của một đảng mới 15 năm tuổi đã lãnh đạo Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công và bảo vệ
________________
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.2, tr.2.
20 ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM - TRÍ TUỆ, BẢN LĨNH, ĐỔI MỚI...
chính quyền dân chủ nhân dân đầu tiên của Đông Nam Á còn hết sức non trẻ. Trong hoàn cảnh nền kinh tế - tài chính quốc gia kiệt quệ, giặc đói, giặc dốt hoành hành, lại thêm thù trong giặc ngoài quấy đảo với sức mạnh và ý đồ tưởng chừng có thể xóa bỏ trong chốc lát chính quyền cách mạng, nhưng với sự lãnh đạo sáng suốt và tài tình của Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, con thuyền cách mạng Việt Nam đã vượt qua mọi ghềnh thác, lướt sóng đi lên.
Đó là chiến thắng lẫy lừng của hai cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, gian khổ chống lại thế lực thực dân, đế quốc hung bạo, làm nên một “Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”; “đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, chiến thắng hai cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc; đưa dân tộc ta vững bước trong kỷ nguyên độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội.
Đó là thành tựu vô cùng to lớn trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân; xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc Việt Nam và tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; xây dựng nền quốc phòng toàn dân và nền an ninh nhân dân, thế trận lòng dân vững chắc đủ sức bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ và bình ổn đất nước.
Đó là những thành tựu quan trọng đầy ấn tượng của công cuộc đổi mới toàn diện đất nước. Trong điều kiện vô cùng khó khăn do sự bao vây cấm vận của chủ nghĩa đế quốc và sự sụp đổ của hệ thống xã hội chủ nghĩa ở các nước Đông Âu và Liên Xô, đất nước ta không những đứng vững mà còn phát triển, chính trị - xã hội ổn định, nền kinh tế thoát khỏi
Phần thứ nhất: ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM... 21
khủng hoảng và tiến bước vững chắc, đời sống nhân dân không ngừng được cải thiện. Sau hơn 30 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thắng lợi to lớn có ý nghĩa lịch sử. Thành tựu của sự nghiệp đổi mới đã tạo ra thế mới, lực mới và một cơ đồ vững vàng, tươi sáng cho đất nước ta.
Đó là thắng lợi to lớn trong các quan hệ đối ngoại, mở cửa và hội nhập quốc tế. Quan hệ quốc tế của nước ta ngày càng được mở rộng và đi vào chiều sâu, nhất là quan hệ với các nước láng giềng và trong khu vực, các nước lớn và các trung tâm lớn của thế giới, các bạn bè truyền thống và các đối tác quan trọng. Những năm gần đây, với việc tham gia tích cực và có trách nhiệm vào các diễn đàn, tổ chức khu vực và quốc tế, là thành viên tích cực của các tổ chức và thể chế quốc tế, đảm đương tốt vai trò Ủy viên Không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, đóng góp đáng kể vào việc xây dựng Cộng đồng ASEAN..., vị thế của nước ta trên thế giới ngày càng được nâng cao, tạo môi trường thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Những thắng lợi của sự nghiệp cách mạng Việt Nam trong 90 năm qua là minh chứng hùng hồn về sức mạnh kỳ diệu của dân tộc ta. Sức mạnh ấy được kết tinh bởi sự lãnh đạo tài tình của Đảng Cộng sản Việt Nam với lòng yêu nước nồng nàn, ý chí độc lập tự cường và tinh thần chủ động, sáng tạo của nhân dân ta. Điều đó càng khẳng định sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là một tất yếu khách quan, là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thành công của cách mạng. Đảng ta là cội nguồn của sức mạnh dân tộc và Đảng đã kết hợp đúng đắn chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa yêu nước, truyền thống quý báu của dân tộc, tiếp thu tinh hoa của nhân loại, biết quý trọng và phát huy
22 ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM - TRÍ TUỆ, BẢN LĨNH, ĐỔI MỚI...
sức mạnh toàn dân tộc, biết kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để đưa đất nước vươn lên.
Lịch sử hàng nghìn năm của dân tộc Việt Nam có nhiều thời kỳ phát triển rực rỡ, nhưng chưa bao giờ vị thế của đất nước và dân tộc lại được khẳng định như bây giờ. Cội nguồn của sự kỳ diệu đó chính là tinh thần làm chủ và ý thức tự
cường của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo sáng suốt, đúng đắn của Đảng. Đảng ta - một đảng Mác - Lênin, dưới sự dẫn dắt của lãnh tụ Hồ Chí Minh, là đội tiên phong trí tuệ đầy bản lĩnh của giai cấp công nhân và của cả dân tộc Việt Nam. Chín mươi năm có Đảng là chặng đường vinh quang đầy ắp niềm tin yêu của tình dân nghĩa Đảng. Đảng được nhân dân gắn bó như một lẽ đương nhiên. Toàn bộ sự nghiệp cách mạng của nước ta do Đảng khởi xướng, luôn đi tới thắng lợi, bởi có nhân dân tham gia, nhân dân đồng tình hưởng ứng. Chất keo gắn bó nhân dân với Đảng ngày càng bền chặt trở thành xung lực của cách mạng, thể hiện trí tuệ, phẩm chất nhân văn của Đảng và sự cao quý vô cùng của lòng dân. Lý tưởng cao đẹp và mục tiêu phấn đấu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” chính là hạnh phúc muôn đời của dân tộc ta, nhân dân ta. Vậy nên cả dân tộc ta, nhân dân ta gọi Đảng Cộng sản Việt Nam bằng sự trìu mến, thân thương nhất: Đảng ta.
23
TÍNH TẤT YẾU SỰ RA ĐỜI CỦA ĐẢNG
VÀ YẾU TỐ HỒ CHÍ MINH TRONG THÀNH LẬP
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
PGS.TS. TRẦN TRỌNG THƠ*
1. Sự ra đời của Đảng Cộng sản là một tất yếu khách quan trong lịch sử phát triển của nhân loại, bắt nguồn từ yêu cầu thực tiễn của cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản của nhân dân lao động, được soi rọi dưới ánh sáng chủ nghĩa Mác - Lênin mà một nội dung cốt lõi là giai cấp công nhân vừa có sứ mệnh “đào mồ chôn chủ nghĩa tư bản” và sáng tạo ra xã hội mới, vừa là nhân tố lãnh đạo trong phong trào cách mạng giải phóng của quần chúng bị áp bức cũng như của các dân tộc thuộc địa. Thuận chiều dòng chảy của lịch sử nhân loại, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là một tất yếu, nằm trong quy luật vận động của cách mạng thế giới, vừa phù hợp với đặc điểm kinh tế, xã hội và văn hóa Việt Nam, vừa đáp ứng những yêu cầu khách quan, thiết yếu và cấp bách của dân tộc Việt Nam là độc lập, tự do và phát triển.
Trong quá trình hình thành quốc gia - dân tộc Việt Nam, các thế hệ người Việt Nam thường xuyên và đồng thời thực ________________
* Viện Lịch sử Đảng, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
24 ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM - TRÍ TUỆ, BẢN LĨNH, ĐỔI MỚI...
hiện hai sự nghiệp là dựng nước đi liền với giữ nước. Chính trong quá trình tạo lập và phát triển giang sơn gấm vóc, người Việt Nam đã hình thành chủ nghĩa yêu nước Việt Nam và tinh thần cố kết cộng đồng. Quá trình hòa hợp và thích ứng với thiên nhiên, chống thiên tai, địch họa đã hình thành những giá trị truyền thống “lá lành đùm lá rách”, “nhường cơm sẻ áo”, “chung lưng đấu cật”, “sát cánh kề vai”, chuộng công bằng và lẽ phải, ghét bất công và bạo ngược. Chính điều kiện sống và bản sắc văn hóa đó đã làm cho sự phân chia giai cấp trong xã hội không thật sự triệt để; chi phối mối quan hệ giai cấp, làm giảm thiểu và chế ngự các mâu thuẫn giai cấp nảy sinh trong xã hội. Trong đời sống kinh tế nông nghiệp, ruộng đất là tư liệu sản xuất chủ yếu, thì ruộng đất công (công điền, công thổ) bao giờ cũng có một vai trò quan trọng trong các hoạt động kinh tế - xã hội; địa chủ Việt Nam “không có tài sản gì lớn (...) đời sống của địa chủ cũng chẳng có gì là xa hoa”1, chỉ là “những tên lùn” so với các lãnh chúa châu Âu, châu Mỹ, “cuộc đấu tranh giai cấp không diễn ra giống như phương Tây”2. Về cơ bản, các triều đại phong kiến Việt Nam trong các giai đoạn cường thịnh và tự chủ là các chính quyền thân dân. Mỗi khi đất nước lâm nguy thì người Việt Nam bất kể là thuộc tầng lớp nào, đều dốc sức chống giặc giữ nước, khôi phục nền độc lập. Người Việt Nam, dù là bất kỳ tầng lớp nào đều có thể thành hạt nhân khởi xướng các phong trào yêu nước, các phong trào đấu tranh giải phóng
________________
1, 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.1, tr.509, 508.
Phần thứ nhất: ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM... 25
dân tộc. Dân tộc ta có truyền thống hòa hiếu, giao hảo với lân bang. Chủ nghĩa dân tộc Việt Nam là một động lực lớn, mang nhiều yếu tố tích cực, xa lạ với chủ nghĩa dân tộc vị kỷ, rất gần gũi với chủ nghĩa quốc tế. Những đặc điểm kinh tế, xã hội, những tinh hoa văn hóa, những khát vọng của dân tộc Việt Nam rất phù hợp và tương đồng với những giá trị cao đẹp của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Từ cuối thế kỷ XIX, do sự bất lực và hèn nhát của triều Nguyễn, Việt Nam từ một quốc gia độc lập, thống nhất, có chủ quyền đã bị thực dân Pháp xâm lược và biến thành thuộc địa. Chế độ cai trị “độc tài và chuyên chế (...) vô cùng khả ố và khủng khiếp”1, sự bóc lột vô nhân đạo của thực dân Pháp đã làm xã hội Việt Nam biến đổi toàn diện, mạnh mẽ, song lại thiếu triệt để và theo chiều hướng lệ thuộc, ngày càng tù túng, lạc hậu với sự tha hóa và bần cùng hóa của đại đa số dân cư2. Với truyền thống yêu nước và tinh thần quật cường dân tộc, ngay khi đất nước đối đầu với họa ngoại xâm, khi triều Nguyễn ngày càng lún sâu vào vũng bùn đầu hàng, từ bỏ chủ quyền quốc gia cho thực dân Pháp, nhiều phong trào kháng chiến đã diễn ra, nhiều xu hướng cải cách đã xuất hiện với mục tiêu chung là bảo vệ, khôi phục nền độc lập dân tộc,
________________
1. Dẫn theo Phan Văn Trường, bài viết đăng trên báo La Cloche FêLée (Tiếng chuông rè), số 36, ngày 21/01/1926.
2. Phan Văn Trường viết: Thực dân Pháp “duy trì mãi mãi dân bản xứ trong tình trạng yếu hèn cả về thể lực lẫn trí tuệ để chặn đứng mọi mong muốn được sống tự do và độc lập” (Xem Phan Văn Trường: Une histoire des conspirateurs annammites à Paris ou la vérité sur l’Indochine, Sai Gon, 1928, p.62).
26 ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM - TRÍ TUỆ, BẢN LĨNH, ĐỔI MỚI...
toàn vẹn lãnh thổ, thống nhất quốc gia, chấn hưng đất nước. Trong suốt hơn 70 năm ròng rã (từ năm 1858 đến năm 1930) tại Việt Nam đã thể nghiệm nhiều học thuyết về con đường giải phóng dân tộc. Các phong trào đấu tranh diễn ra khắp từ Bắc chí Nam, hoặc theo ý thức hệ phong kiến với các tên tuổi của những nhà ái quốc nổi tiếng như Trương Định, Trần Tấn, Đặng Như Mai, Tôn Thất Thuyết, Phan Đình Phùng,...; hoặc theo đường lối cải cách, canh tân đưa đất nước phát triển thành một quốc gia phú cường của các trí thức Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Lộ Trạch,...; hay theo ý thức hệ dân chủ tư sản của nhiều sĩ phu yêu nước, tiêu biểu là Phan Châu Trinh, Phan Bội Châu, của giai cấp tư sản dân tộc đại diện là Nguyễn Thái Học; cùng với đó là các phương pháp, hình thức đấu tranh như kháng chiến, khởi nghĩa, bạo động, bất bạo động... đều lần lượt bị thất bại. Có nhiều nguyên nhân, song nguyên nhân chung và lớn nhất dẫn đến thất bại của các phong trào yêu nước chịu sự chi phối của tư tưởng phong kiến, tư sản là thiếu lực lượng lãnh đạo có hệ tư tưởng cách mạng - khoa học dẫn đường, có lý luận và đường lối cách mạng đúng đắn và sáng tạo giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội, giữa chủ
quyền quốc gia và lợi ích của nhân dân, có sức quy tụ lực lượng toàn dân tộc và có phương pháp tiến hành đạt hiệu quả. Sự thất bại của các phong trào yêu nước thể hiện sự khủng hoảng, bế tắc của các phương pháp cứu nước truyền thống Việt Nam trước sự chuyển biến của thời cuộc, song không vô ích, mà đó lại là động lực thôi thúc ý chí tự lực vươn lên, sức thông minh, sáng tạo của người Việt Nam trong cuộc
Phần thứ nhất: ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM... 27
đấu tranh giải phóng, đồng thời đặt ra yêu cầu cấp bách phải có ánh sáng mới soi đường và ngọn cờ mới dẫn dắt. Trong lúc các phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc theo các ý thức hệ phong kiến, tư sản bế tắc thì phong trào công nhân xuất hiện. Do tác động của các cuộc khai thác thuộc địa, bộ phận công nhân Việt Nam hình thành và dần trở thành một giai cấp trong xã hội Việt Nam vào năm 1914. Công nhân Việt Nam hầu hết xuất thân từ những người nông dân nghèo khổ, bị tước đoạt tài sản, có liên hệ chặt chẽ với giai cấp nông dân, vừa mang thân phận người dân mất nước, vừa chịu thân phận làm thuê, bị bóc lột của chính quyền thuộc địa, của tư sản Pháp. Với đặc điểm tập trung, giàu tinh thần đấu tranh chống áp bức xã hội, lòng uất hận với bọn xâm lược, và ước ao tự giải phóng giai cấp và giải phóng dân tộc, giai cấp công nhân Việt Nam đã đứng lên đấu tranh, sớm hòa nhập và gắn quyện với các phong trào dân tộc.
Sự thống nhất của ý thức đấu tranh giai cấp với chủ nghĩa yêu nước trong phong trào công nhân, sự thống nhất của phong trào công nhân với phong trào yêu nước trong sự nghiệp đấu tranh chống thực dân Pháp là một đặc điểm, một giá trị nổi bật, là nền tảng xã hội cho phong trào dân tộc theo khuynh hướng vô sản hình thành khi con đường cứu nước của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc được phổ biến và dẫn đến việc ra đời của chính đảng vô sản ở Việt Nam như một tất yếu lịch sử.
2. Sinh ra và lớn lên trong một gia đình giàu tinh thần yêu nước và lòng nhân ái, sớm tiếp xúc với các chiến sĩ yêu nước và phong trào đấu tranh chống chế độ thực dân, bước đầu cảm nhận những tư tưởng tiến bộ của nhân loại về
28 ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM - TRÍ TUỆ, BẢN LĨNH, ĐỔI MỚI...
“tự do, bình đẳng, bác ái” được truyền đến Việt Nam, lãnh tụ Hồ Chí Minh1 đã sớm hình thành ý chí cứu nước, suy ngẫm về con đường cứu nước và tiến bộ, cứu đồng bào. Với trí tuệ mẫn tiệp, lãnh tụ Hồ Chí Minh đã sớm nhận thấy những bất cập và bế tắc của con đường cứu nước cũ mà thế hệ cha anh đang tiến hành, nhận thấy tính bức thiết của việc tìm kiếm con đường cách mạng để giúp dân tộc Việt Nam giành độc lập và chính Người đã tự đảm đương trách nhiệm cao cả đó. Người đã dấn thân tìm kiếm chân lý, học thuyết và phương pháp cách mạng đấu tranh chiến thắng kẻ thù xâm lược; trở thành người Việt Nam đầu tiên dành gần 10 năm quan sát, khảo nghiệm, phân tích thực tế xã hội, chế độ chính trị của nhiều quốc gia lớn, nhỏ, giàu, nghèo ở hầu khắp các châu lục; cũng là người Việt Nam đầu tiên nghiên cứu và tổng kết, tìm ra bản chất của các học thuyết và các cuộc cách mạng trên thế giới để qua đó chắt lọc, vận dụng và phát triển cho phù hợp với yêu cầu của dân tộc mình. Hành trình từ Việt Nam hướng ra thế giới, hòa mình vào các trung tâm văn hóa, trí tuệ, cách mạng của nhân loại, rồi từ thế giới hướng về Việt Nam cũng là quá trình nhà yêu nước Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh “kế thừa và nâng tầm những giá trị truyền thống dân tộc, tiếp thu có chọn lọc, vận dụng và phát triển sáng tạo lý luận cách mạng thế giới mà cốt lõi là chủ nghĩa Mác - Lênin (TG nhấn mạnh) xây dựng đường lối cứu nước, đưa học thuyết cách mạng và phong
________________
1. Trong quá trình hoạt động cách mạng, lãnh tụ Hồ Chí Minh có nhiều danh xưng, chúng tôi dùng tên Hồ Chí Minh là tên gọi quan phương, phổ biến hiện nay.
Phần thứ nhất: ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM... 29
trào công nhân và phong trào yêu nước, chuẩn bị chu đáo, toàn diện về chính trị, tư tưởng và tổ chức để thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam”1.
Sự phát triển sáng tạo của lãnh tụ Hồ Chí Minh hàm chứa những tư tưởng hết sức độc đáo trong việc định hướng, định hình về một chính đảng vô sản gắn kết chặt chẽ với dân tộc và vận mệnh dân tộc. Sự phát triển sáng tạo của lãnh tụ
Hồ Chí Minh xuất phát từ quan điểm thực tiễn và biện chứng của một thế giới rất đa dạng và luôn vận động, do đó Người nhận thấy “cẩm nang” chủ nghĩa Mác - Lênin cung cấp những nguyên lý chung về quy luật và chiều hướng phát triển của xã hội loài người, về bản chất của thời đại, về sứ
mệnh của giai cấp công nhân,... song cần phải được làm phong phú, bổ sung và phát triển từ hơi thở cuộc sống và đặc điểm chính trị - xã hội khắp năm châu, chứ không đơn thuần chỉ từ thực tiễn châu Âu.
Nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho sự ra đời của Đảng là chủ nghĩa Mác - Lênin và trong thực tế, còn bao hàm cả tư tưởng Hồ Chí Minh.
Trên lĩnh vực tư tưởng chính trị và xác định đường lối, lãnh tụ Hồ Chí Minh không chỉ vận dụng mà đã phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, trước hết là lý luận về mô hình và con đường phát triển
________________
1. “Lời giới thiệu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng về tác phẩm Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, tập I (1930 - 1954)”, in trong sách Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Lịch sử Đảng: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Tập I (1930 - 1954), Quyển 1 (1930 - 1945), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2018, tr.16-17.
30 ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM - TRÍ TUỆ, BẢN LĨNH, ĐỔI MỚI...
của cuộc cách mạng vô sản ở Việt Nam. Dày công nghiên cứu những luận điểm của C. Mác về cách mạng vô sản, về việc nổ ra cách mạng vô sản trước hết và giành thắng lợi ở một loạt các nước tư bản phát triển nhất ở châu Âu, lĩnh hội những luận điểm của V.I. Lênin về khả năng thắng lợi của cuộc cách mạng vô sản trước hết trong một số ít các nước tư bản, thậm chí chỉ trong một nước tư bản chủ nghĩa, là cuộc đấu tranh không chỉ của riêng giai cấp công nhân mà còn bao hàm tất cả các thuộc địa, các nước phụ thuộc chống lại chủ nghĩa đế quốc quốc tế, lãnh tụ Hồ Chí Minh đi đến một luận điểm mấu chốt là đặt cách mạng Việt Nam trong phạm trù cách mạng vô sản, sự nghiệp giải phóng giai cấp vô sản phải gắn liền với sự nghiệp giải phóng dân tộc. Theo đó, lộ trình con đường phát triển của cuộc cách mạng vô sản ở Việt Nam là giành độc lập dân tộc, tiến hành cách mạng ruộng đất và thực hiện các quyền tự do cho nhân dân về chính trị, xã hội, văn hóa, giáo dục, phát triển nền kinh tế, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa với tư cách là một chế độ, đưa đất nước tiến tới chủ nghĩa cộng sản. Chánh cương vắn tắt của Đảng do lãnh tụ Hồ Chí Minh soạn thảo, được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng năm 1930, xác định rõ con đường giải phóng và phát triển của dân tộc Việt Nam là “làm tư sản dân quyền c.m và thổ địa c.m để đi tới xã hội cộng sản”1. Nhiệm vụ của cách mạng tư sản dân quyền và thổ địa cách mạng, tức cách mạng dân tộc, dân chủ, trong đó giành độc
________________
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.2, tr.2.
Phần thứ nhất: ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM... 31
lập dân tộc được đặt ở vị trí trên hết, trước hết. Nội hàm của cuộc cách mạng vô sản được mở rộng về nhiệm vụ, bổ sung thêm nội dung giải phóng các dân tộc bị áp bức, xóa bỏ hệ thống thuộc địa; có thể khởi phát ngay ở một thuộc địa lạc hậu. Nói một cách khác, giải phóng, giành lại độc lập dân tộc là bước đi đầu tiên của cuộc cách mạng vô sản ở thuộc địa như Việt Nam. Đây là một luận điểm cơ bản, chính yếu được khắc ghi trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, một đóng góp đặc sắc, bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin trên phương diện lý luận về các mô hình vận động, phát triển của cuộc cách mạng vô sản. Sau này, tại Đại hội đại biểu lần thứ II của Đảng (1951), lãnh tụ Hồ Chí Minh phát biểu: “phải áp dụng chủ nghĩa Mác cho đúng. Cốt lõi là ở đấy. Chủ nghĩa Mác là gì? là cộng sản. Mà cộng sản thì ai lãnh đạo? Giai cấp công nhân. Chủ nghĩa Mác nói như thế, cũng ví như nói “đói thì ăn cho no”, nhưng không nói “ở Việt Nam ăn bánh mỳ”, cũng không nói “ở châu Âu ăn cơm”. Chủ nghĩa Mác bảo ăn sao cho no, nhưng không bảo ai cũng ăn như nhau, mà bảo trẻ con ăn sữa, người lớn ăn rau, nếu mà có thịt thì ăn bít tết nữa. Chủ nghĩa Mác nói thế giới sẽ hóa ra cộng sản. Nhưng chủ nghĩa Mác không nói chỗ nào cũng lập xôviết, cũng lập chính quyền vô sản, vì thế, lúc áp dụng phải cho khéo”1.
Về vấn đề động lực của cách mạng, phát triển luận điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin: cách mạng là sự nghiệp của
________________
1. Biên bản Đại hội lần thứ II của Đảng, tài liệu lưu tại Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, tr.134.
32 ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM - TRÍ TUỆ, BẢN LĨNH, ĐỔI MỚI...
quần chúng, lãnh tụ Hồ Chí Minh còn xác định: cách mạng là sự nghiệp của toàn dân tộc, chỉ trừ những phần tử phản bội Tổ quốc, làm tay sai cho đế quốc. Luận điểm trên là một dòng mạch xuyên suốt từ tác phẩm Đường cách mệnh (1927) và đậm nét trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên (1930), được thực hành nhất quán trong toàn bộ tiến trình hoạt động lãnh đạo cách mạng của Đảng sau khi thành lập. C. Mác trong luận điểm của mình coi lực lượng cách mạng là giai cấp công nhân thế giới, đề xuất khẩu hiệu “Giai cấp vô sản toàn thế giới liên hiệp lại”. Đến V.I. Lênin, lực lượng của cuộc cách mạng vô sản được mở rộng hơn, để chiến thắng hoàn toàn chủ nghĩa tư bản, cần phải có “sự liên minh và sự thống nhất của giai cấp vô sản, rồi sau nữa, của toàn thể
quần chúng cần lao thuộc tất cả các nước và các dân tộc trên toàn thế giới“1. Tuy vậy, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin chủ yếu nặng về liên minh, đoàn kết giai cấp cần lao, hầu như không đề cập vấn đề động lực dân tộc, đến đại đoàn kết toàn dân tộc, đến mặt trận dân tộc thống nhất, đến hòa hợp dân tộc - một vấn đề quan trọng trong sự ra đời, tồn tại và phát triển của tất cả các quốc gia - dân tộc trên thế giới. Sau Lênin, tại Đại hội lần thứ VI (1928), Quốc tế Cộng sản xác định rằng lực lượng cách mạng ở các thuộc địa là thuần túy công nông binh.
Trên cơ sở thấu hiểu sâu sắc giá trị truyền thống văn hóa Việt Nam, khi lòng yêu nước và tinh thần cố kết cộng đồng
________________
1. V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, t.41, tr.206.
Phần thứ nhất: ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM... 33
luôn đặt ở nấc thang giá trị cao nhất, từ sự phân tích tinh thần và thái độ của các giai cấp tầng lớp trong xã hội, lãnh tụ Hồ Chí Minh đã giải quyết sáng tạo vấn đề lực lượng dân tộc, vừa bảo đảm tính nền tảng, vừa khẳng định tính trụ cột. Theo đó, lực lượng và động lực cách mạng là khối đại đoàn kết dân tộc bao gồm các giai cấp và tầng lớp nhân dân yêu nước kể cả trung, tiểu địa chủ, phú nông, tư sản, các tổ chức yêu nước, cách mạng, do liên minh giai cấp công nhân và giai cấp nông dân làm nền tảng đặt dưới sự lãnh đạo của chính đảng vô sản. Trong các bài giảng tại lớp huấn luyện lý luận cách mạng cho các chiến sĩ cộng sản đầu tiên tại Quảng Châu, lãnh tụ Hồ Chí Minh đã chú trọng quán triệt đến các học viên về sức mạnh vô địch của quần chúng giác ngộ lý tưởng cách mạng, đứng lên đấu tranh giành tự do, độc lập: “Dân khí mạnh thì quân lính nào, súng ống nào cũng không chống lại”1, song muốn biến niềm tin ấy thành hiện thực thì người lãnh đạo phải: làm cho dân giác ngộ, phải giảng giải lý luận cách mạng cho dân hiểu, phải bày sách lược cho dân, và đảng cách mạng phải biết tập hợp sức mạnh của dân. Tư tưởng đại đoàn kết toàn dân tộc của lãnh tụ Hồ Chí Minh về mặt lý luận là một chiến lược xuyên suốt, một bộ phận cấu thành chủ yếu trong đường lối của Đảng ngay khi thành lập và về mặt thực tế đã gạt bỏ tư tưởng “tả” khuynh, xây dựng và phát triển Mặt trận dân tộc thống nhất và khơi dậy, phát huy mọi nguồn lực của cộng đồng dân tộc Việt Nam trong
________________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.2, tr.297.
34 ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM - TRÍ TUỆ, BẢN LĨNH, ĐỔI MỚI...
tiến trình thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ cách mạng của dân tộc mình và đóng góp tích cực vào sự phát triển của phong trào cách mạng thế giới.
Gắn liền với sự sáng tạo lý luận về mô hình vận động và con đường phát triển, về đại đoàn kết toàn lực lượng toàn dân tộc là những phát triển sáng tạo lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin của lãnh tụ Hồ Chí Minh về xử lý mối quan hệ dân tộc - giai cấp, đấu tranh giai cấp và liên minh giai cấp, quốc gia - quốc tế, vừa chứa đựng những nét phổ biến của cách mạng thuộc địa, vừa in đậm những đặc điểm Việt Nam trong quá trình chuẩn bị về đường lối chính trị của Đảng. Những nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin nhìn chung xác lập mối quan hệ giai cấp - dân tộc trong mối quan hệ trước - sau, chi phối - hệ quả, trong đó đấu tranh giải phóng giai cấp là tiền đề, là điều kiện của đấu tranh giải phóng dân tộc. C. Mác đưa ra những luận điểm nổi tiếng: xóa bỏ nạn người bóc lột người thì nạn dân tộc này bóc lột dân tộc khác cũng bị xóa bỏ; cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản mang sứ mệnh quốc tế, song giai cấp vô sản trước hết phải hoàn thành sứ mệnh đối với dân tộc “phải giành lấy chính quyền, phải tự xây dựng thành giai cấp lãnh đạo của toàn dân tộc, phải tự mình trở thành dân tộc”1. Trên cơ sở phân tích đặc điểm xã hội thuộc địa Việt Nam trong hoàn cảnh thuộc địa khi mà mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp là mâu thuẫn cơ bản và chủ yếu, lãnh tụ Hồ Chí Minh sớm xác định: Việt Nam trước hết phải
________________
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.37, tr.335.
Phần thứ nhất: ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM... 35
làm “dân tộc cách mệnh”, tức là trước hết phải đánh đổ sự cai trị, nô dịch dân tộc của chủ nghĩa đế quốc, giành lại quyền bình đẳng, độc lập, tự do cho dân nước mình: “dân tộc cách mệnh thì chưa phân giai cấp, nghĩa là sĩ, nông, công, thương đều nhất trí chống lại cường quyền”1. Có thể thấy, giải phóng dân tộc phải tiến hành trước tiên, tạo tiền đề để giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội là luận điểm của lãnh tụ Hồ Chí Minh trong việc thực hiện ba cuộc giải phóng của cách mạng vô sản ở một thuộc địa như Việt Nam. Tinh thần này được thể hiện trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng.
Lĩnh hội và chắt lọc những luận điểm của Lênin và của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế về mối quan hệ giữa cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản thế giới và cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc ở thuộc địa, trong đó sự giúp đỡ của cách mạng vô sản ở các nước tư bản phát triển là điều kiện thắng lợi của cách mạng ở thuộc địa, từ sự phân tích đặc tính của chủ nghĩa thực dân “như con đỉa hai vòi”, lãnh tụ Hồ Chí Minh xác định cách mạng thuộc địa là một bộ phận của cách mạng thế giới trong thời đại mới, vận động và phát triển theo quỹ đạo cách mạng vô sản. Luận điểm này đã mở ra một hướng phát triển mới cho cách mạng Việt Nam, mấu chốt của nó là kết hợp sức mạnh dân tộc với sự ủng hộ, giúp đỡ của phong trào cách mạng thế giới. Lãnh tụ Hồ Chí Minh đã sớm đề xuất luận điểm đúng đắn, sắc sảo về mối quan hệ đó và trở thành chủ trương nhất quán chi phối hoạt động của Đảng. Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng thể
________________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.2, tr.287.
36 ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM - TRÍ TUỆ, BẢN LĨNH, ĐỔI MỚI...
hiện chủ trương kết hợp sức mạnh dân tộc với sự ủng hộ, giúp đỡ của các phong trào cách mạng thế giới theo hướng ngày càng mở rộng phạm vi và nâng cao hiệu quả của nó phù hợp với đặc điểm của tình hình quốc tế và yêu cầu của cách mạng Việt Nam. Sức mạnh dân tộc Việt Nam trong thời đại mới là sự tổng hòa và phát triển những giá trị cơ bản của tinh thần yêu nước chân chính, của toàn dân tộc kết hợp với sự ủng hộ, giúp đỡ về tinh thần, vật chất của phong trào cách mạng giải phóng dân tộc, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, phong trào hòa bình, dân chủ thế giới. Tuy nhiên, lãnh tụ Hồ Chí Minh chỉ rõ: Cách mạng thuộc địa như Việt Nam có tính chủ động và chỉ có thể thực hiện được bằng sự nỗ lực tự thân; đồng thời có vai trò quan trọng trong cách mạng thế giới, có thể giành được thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc, qua đó sẽ tước bỏ nguồn sinh lực chủ yếu của chủ nghĩa đế quốc và giúp cho giai cấp vô sản Pháp những điều kiện thuận lợi để giải phóng. Chủ động, nỗ lực tự vươn lên, không hề “ngồi ỷ lại đâu đâu” trở thành một nguyên tắc, một phương châm, một tư tưởng lãnh đạo, chỉ
đạo tạo nên thắng lợi của Đảng trong suốt 90 năm qua. Trên lĩnh vực xây dựng đảng cách mạng, lãnh tụ Hồ Chí Minh đã có những luận điểm xuất sắc, trên cơ sở đó sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Thấm nhuần luận điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về Đảng Cộng sản, về những nguyên tắc xây dựng chính đảng vô sản của chủ nghĩa Lênin..., lãnh tụ Hồ Chí Minh xác định vấn đề quan trọng nhất là: cách mạng trước hết phải có Đảng cách mạng; Đảng có vững, cách mạng mới thành công; Đảng phải có lý luận cách mệnh tiền phong
Phần thứ nhất: ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM... 37
mới làm nổi trách nhiệm cách mệnh tiền phong; Đảng phải lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm “trí khôn”, làm kim chỉ nam cho hoạt động của mình... Xuất phát từ bối cảnh xã hội - giai cấp đặc thù Việt Nam, lãnh tụ Hồ Chí Minh cho rằng: Đảng mang bản chất giai cấp công nhân, song không những đại diện cho giai cấp công nhân, mà còn đại biểu cho lợi ích của nhân dân lao động và toàn thể dân tộc, Đảng phải xác lập mối quan hệ bền chặt với nhân dân lao động và dân tộc; gắn kết biện chứng các nhiệm vụ giải phóng giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc trong tiến trình phát triển theo con đường cách mạng vô sản1. Do đó, khi thành lập, tên Đảng được lãnh tụ Hồ Chí Minh định danh là Đảng Cộng sản Việt Nam. Mở đầu hoạt động chuẩn bị thành lập Đảng, lãnh tụ Hồ Chí Minh đã tiến hành xây dựng Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên để tập hợp những thanh niên yêu nước đang khát khao tìm chọn con đường đấu tranh giải phóng dân tộc đúng đắn; lấy tổ chức này làm nơi truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin và những quan điểm, phương pháp cách mạng của Người, trên cơ sở đó để phát triển đảng viên và hình thành tổ chức đảng.
________________
1. Sau này, trong Báo cáo chính trị tại Đại hội lần thứ II của Đảng, Người viết: “Trong giai đoạn này, quyền lợi của giai cấp công nhân và nhân dân lao động và của dân tộc là một. Chính vì Đảng Lao động Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, cho nên nó phải là Đảng của dân tộc Việt Nam”, Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.12, tr.38. Người lấy danh nghĩa cá nhân đề nghị
Đại hội thông qua tên Đảng là Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động Việt Nam” (Biên bản Đại hội lần thứ II của Đảng, tài liệu lưu tại Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng).
38 ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM - TRÍ TUỆ, BẢN LĨNH, ĐỔI MỚI...
Trong chuẩn bị về tổ chức, cán bộ, lãnh tụ Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng công tác đảng viên. Thu phục, tập hợp các giai cấp, tầng lớp xã hội có tinh thần yêu nước, cách mạng là một quan điểm của Người được thể hiện rõ trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng. Việc phát triển đảng viên chủ
yếu dựa trên tinh thần yêu nước, tinh thần tự nguyện xả thân vì độc lập, tự do cho dân tộc, từ quá trình rèn luyện và phấn đấu của những quần chúng ưu tú, xuất thân từ nhiều giai cấp, tầng lớp trong xã hội. Điều này thể hiện trong Chỉ thị của Trung ương gửi Xứ ủy Trung Kỳ về vấn đề thanh Đảng Trung Kỳ ban hành tháng 5/1931: “Đảng Cộng sản Đông Dương1 xuất phát từ chỗ giác ngộ phản đế, ghét Pháp từ trước tới nay, nên trong hàng ngũ Đảng có những thù gia tử đệ2, cựu nho, trung, tiểu địa chủ, phú nông, trung nông ở nông thôn và một số giáo viên, học sinh chữ Pháp và một số tiểu thương, tiểu chủ hay con nhà tiểu thương, tiểu chủ ở thành thị, cùng với một số thợ xí nghiệp, một số công chức, tổ chức hỗn hợp lại trong một phong trào. Sau năm 1923 (...) giai cấp công nhân ở Đông Dương đã thành một lực lượng giai cấp giác ngộ nhứt định của nó, mặc dầu mới đầu tiên và còn yếu ớt. Cộng vào một khí chất phản đế của các dân tộc ở Đông Dương do các phong trào phản đế từ trước nung nấu lại, hai lực lượng ấy hợp lại xây dựng nên Đảng Cộng sản Đông Dương”3. Đặc điểm phát triển đảng viên chuẩn bị ________________
1. Từ tháng 10/1930 đến tháng 02/1951, Đảng Cộng sản Việt Nam mang tên là Đảng Cộng sản Đông Dương.
2. Thù gia tử đệ: con em các gia đình có hận thù với đế quốc. 3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.3, tr.155-156.
Phần thứ nhất: ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM... 39
thành lập Đảng như trên khác với con đường xây dựng đội ngũ đảng viên cộng sản ở châu Âu, nơi mà ý thức giác ngộ giai cấp là điều kiện tiên quyết để có thể gia nhập hàng ngũ lãnh đạo cách mạng.
Trong công tác xây dựng đội ngũ đảng viên, lãnh tụ Hồ Chí Minh rất chú trọng nâng cao trình độ lý luận, năng lực hoạt động thực tiễn, đồng thời rất coi trọng nhiệm vụ giáo dục, nâng cao đạo đức cách mạng và thực hành đạo đức cách mạng, coi đó là một mặt quan trọng của công tác xây dựng Đảng. Vì đạo đức cách mạng không chỉ là đạo đức cá nhân cán bộ, đảng viên, mà còn liên quan chặt chẽ đến sức chiến đấu và năng lực, uy tín lãnh đạo của Đảng. Về lĩnh vực này, lãnh tụ Hồ Chí Minh là người có đóng góp nổi bật trong số các nhà lãnh đạo cách mạng trên thế giới. Bài học mở đầu tại lớp huấn luyện đội ngũ cán bộ cộng sản đầu tiên do Người truyền thụ là Tư cách một người cách mạng, gồm 23 điều cốt lõi để tu dưỡng đạo đức cách mạng, để xử sự với người khác và để làm việc. Cái cơ bản của đạo đức cách mạng mà Người giáo dục là đặt lợi ích của Đảng, của cách mạng lên trên lợi ích cá nhân. Thực tiễn hoạt động của Đảng sau khi thành lập cho thấy: được lãnh tụ Hồ Chí Minh giáo dục và rèn luyện, đại đa số cán bộ, đảng viên thế hệ đầu tiên đã thể hiện rõ phẩm chất cách mạng kiên cường, dũng cảm, hy sinh, chịu đựng gian khổ, vượt qua khó khăn, thử thách, được nhân dân tin yêu, trở thành chiến sĩ cộng sản đi tiên phong trong sự nghiệp đấu tranh vì độc lập dân tộc và tự do cho nhân dân.
Không chỉ xác lập những luận điểm sáng tạo về lý luận, lãnh tụ Hồ Chí Minh còn xây dựng các phương pháp thành
40 ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM - TRÍ TUỆ, BẢN LĨNH, ĐỔI MỚI...
lập Đảng và chủ động thực hiện với bản lĩnh chính trị cao độ, mang lại hiệu quả tối ưu, đáp ứng những đòi hỏi cấp bách của cách mạng Việt Nam. Lý luận Mác - Lênin, tư tưởng cách mạng Hồ Chí Minh đi vào phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và quần chúng yêu nước tạo nên “chất” mới của phong trào là đấu tranh giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản, đưa tới một yêu cầu cấp bách của cách mạng Việt Nam là thành lập Đảng Cộng sản vào cuối năm 1929. Mặc dù chưa nhận được chỉ thị của Quốc tế Cộng sản về việc thành lập Đảng Cộng sản ở Đông Dương, lãnh tụ Hồ Chí Minh đã chủ động triệu tập Hội nghị hợp nhất thực hiện sứ mệnh lịch sử của người sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Người cũng không thực hiện những bước “sàng lọc” mang nặng quan điểm thành phần xuất thân và tiêu chuẩn trình độ giác ngộ giai cấp vốn đang rất phổ biến trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, nhất là ở châu Âu, mà xác nhận và công nhận tư cách đảng viên của những người đã dấn thân vào con đường hoạt động cách mạng thông qua việc tiến hành hợp nhất các tổ chức cộng sản đã ra đời từ trước. Hiện thực lịch sử cho thấy đây là phương pháp thành lập Đảng tối ưu, vừa bảo đảm những yêu cầu cơ
bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về xây dựng chính đảng vô sản, vừa phù hợp với đặc điểm Việt Nam, vừa đáp ứng yêu cầu cấp bách về lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
*
* *
Thực tiễn lịch sử cho thấy, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là một tất yếu lịch sử, có yếu tố Hồ Chí Minh thể hiện ở
Phần thứ nhất: ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM... 41
những nỗ lực không mệt mỏi, đặc biệt là ở những luận điểm cách mạng độc đáo và sáng tạo, xác lập Cương lĩnh chính trị đúng đắn, hình thành tổ chức một cách khoa học và hiệu quả. Nói cách khác, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là kết quả của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng cách mạng Hồ Chí Minh với phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Đảng thành lập tạo một bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam, chấm dứt tình trạng khủng hoảng về đường lối cách mạng, về giai cấp lãnh đạo cách mạng; là sự chuẩn bị đầu tiên cho những thắng lợi vĩ đại tiếp theo của dân tộc Việt Nam; đưa cách mạng Việt Nam gắn liền với cách mạng thế giới, góp phần tích cực vào sự nghiệp đấu tranh chung của nhân loại tiến bộ. Sự ra đời của Đảng cũng là sự khởi đầu cho truyền thống chủ động, tiên phong trong sáng tạo không ngừng cả về mặt lý luận và hoạt động lãnh đạo thực tiễn, rất cần được phát huy trong công tác xây dựng Đảng hiện nay.
42
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN
VỀ CON ĐƯỜNG CỦA CÁCH MẠNG VIỆT NAM
QUA CÁC CƯƠNG LĨNH CHÍNH TRỊ CỦA ĐẢNG -
SỰ PHÁT TRIỂN NHẬN THỨC VÀ GIÁ TRỊ THỰC TIỄN
PGS.TS. TRẦN THỊ THU HƯƠNG*
TS. NGUYỄN THỊ MAI CHI**
K
hi viết về cương lĩnh chính trị, V.I. Lênin chỉ rõ: “Cương lĩnh là một bản tuyên ngôn vắn tắt, rõ ràng và chính xác nói lên tất cả những điều mà đảng muốn đạt được và vì mục đích gì mà đảng đấu tranh”1. Cương lĩnh chính trị là cơ sở thống nhất ý chí và hành động của toàn Đảng, là ngọn cờ tập hợp, đoàn kết các lực lượng xã hội nhằm phấn đấu cho mục tiêu, lý tưởng cách mạng của Đảng. Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập cho đến nay, đã có các văn kiện sau đây được gọi là Cương lĩnh chính trị của Đảng:
Một là, hai văn kiện do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc soạn thảo, được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng (tháng
________________
*, ** Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
1. V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, t.7, tr.203-204.
Phần thứ nhất: ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM... 43
02/1930): Chánh cương vắn tắt của Đảng và Sách lược vắn tắt của Đảng1 đã phản ánh những nội dung cơ bản về đường lối chiến lược và sách lược cách mạng Việt Nam - đó là Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng.
Hai là, Luận cương chánh trị của Đảng Cộng sản Đông Dương, được thông qua tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ nhất (tháng 10/1930) tại Hồng Kông (Trung Quốc).
Ba là, Chính cương Đảng Lao động Việt Nam được thông qua tại Đại hội đại biểu lần thứ II của Đảng (tháng 02/1951) tại Tuyên Quang.
Bốn là, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được thông qua tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (tháng 6/1991) tại Hà Nội.
Năm là, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) được thông qua tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng (tháng 01/2011) tại Hà Nội2.
Đó là các văn kiện quan trọng, mang tính pháp lý cao nhất của Đảng, có tính chiến lược lâu dài nhằm định hướng lớn, toàn diện đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng ta trong từng giai đoạn lịch sử nhất định; trong đó đặc biệt là xác định con đường cách mạng Việt Nam.
________________
1. Xem Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.2, tr.2-5.
2. Theo Nguyễn Phú Trọng: Cương lĩnh chính trị - ngọn cờ tư tưởng lý luận soi sáng con đường cách mạng Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011.
44 ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM - TRÍ TUỆ, BẢN LĨNH, ĐỔI MỚI...
1. Sự phát triển nhận thức lý luận về con đường cách mạng Việt Nam qua các Cương lĩnh chính trị
a) Về đường lối chiến lược cách mạng Việt Nam
Cương lĩnh chính trị đầu tiên được hoạch định khi phong trào yêu nước Việt Nam đang khủng hoảng bế tắc về đường lối cứu nước, từ việc phân tích thực trạng và mâu thuẫn trong xã hội Việt Nam - một xã hội thuộc địa nửa phong kiến, mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam trong đó có công nhân, nông dân với đế quốc ngày càng gay gắt cần phải giải quyết, đi đến xác định đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam “chủ trương làm tư sản dân quyền c.m và thổ địa c.m để đi tới xã hội cộng sản”1.
Mục tiêu chiến lược được nêu ra trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng đã làm rõ nội dung cách mạng thuộc địa nằm trong phạm trù của cách mạng vô sản, gắn giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp và giải phóng con người, gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội. Mục tiêu chiến lược nêu trên đã chỉ rõ tính chất và phương hướng phát triển của cách mạng Việt Nam - một nước thuộc địa nửa phong kiến là tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc, giành độc lập cho dân tộc và ruộng đất cho người cày, đưa đất nước lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
Đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam được tiếp tục phản ánh trong Luận cương chánh trị của Đảng Cộng sản Đông Dương (tháng 10/1930). Luận cương nêu rõ tính chất của cách mạng Đông Dương lúc đầu là một cuộc “cách mạng
________________
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.2, tr.2.
Phần thứ nhất: ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM... 45
tư sản dân quyền”, “có tính chất thổ địa và phản đế ”, sau đó sẽ tiếp tục “phát triển, bỏ qua thời kỳ tư bổn mà tranh đấu thẳng lên con đường xã hội chủ nghĩa”1.
Đến Chính cương Đảng Lao động Việt Nam (tháng 02/1951), ra đời trong bối cảnh cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của nhân dân Việt Nam đã giành được nhiều thắng lợi quan trọng. Sau khi phân tích tình hình cách mạng Việt Nam, Chính cương đã xác định: “Nhiệm vụ cơ bản hiện nay của cách mạng Việt Nam là đánh đuổi bọn đế quốc xâm lược, giành độc lập và thống nhất thật sự cho dân tộc, xóa bỏ
những di tích phong kiến và nửa phong kiến, làm cho người cày có ruộng, phát triển chế độ dân chủ nhân dân, gây cơ sở cho chủ nghĩa xã hội”2.
Đến năm 1991, sau 16 năm đất nước thống nhất, cả nước cùng quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, sau 4 năm tiến hành đổi mới đất nước, trong bối cảnh những năm đầu thập niên 90 của thế kỷ XX, trước sự khủng hoảng trầm trọng của chủ
nghĩa xã hội trên thế giới, Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn tiếp tục kiên định con đường cách mạng mà Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng đã nêu. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1991), được Đảng hoạch định, trong đó xác định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam mang tính phổ quát và khẳng định: “Đối với nước ta, không còn con đường nào khác để có độc lập dân tộc thực sự và tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Cần nhấn mạnh
________________
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.2, tr.94. 2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.12, tr.434.
46 ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM - TRÍ TUỆ, BẢN LĨNH, ĐỔI MỚI...
rằng đây là sự lựa chọn của chính lịch sử, sự lựa chọn đã dứt khoát từ năm 1930 với sự ra đời của Đảng”1.
Sau 30 năm thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, tình hình thế giới và trong nước đã có nhiều biến đổi to lớn. Nhiều vấn đề thực tiễn đặt ra được nhận thức làm sáng tỏ và từng bước giải quyết qua các nhiệm kỳ đại hội. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI (tháng 01/2011) của Đảng đã khẳng định: “Qua tổng kết 20 năm thực hiện Cương lĩnh năm 1991, chúng ta càng thấy rõ ý nghĩa lịch sử và giá trị định hướng, chỉ đạo to lớn của Cương lĩnh đối với công cuộc đổi mới theo con đường xã hội chủ nghĩa ở nước ta; đồng thời cũng thấy rõ thêm những vấn đề mới đặt ra cần tiếp tục được giải đáp”2. Đại hội đã bổ sung và phát triển những nội dung trong Cương lĩnh năm 1991 cho phù hợp với sự biến đổi của tình hình trong nước, khu vực và thế giới. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã xác định: “Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ
sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong
________________
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.51, tr.13. 2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.186.
Phần thứ nhất: ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM... 47
cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”1.
Trong Cương lĩnh bổ sung và phát triển năm 2011, Đảng tiếp tục nhất quán tư tưởng Hồ Chí Minh - một đảng vì dân, thể hiện ở mục tiêu, đường lối cách mạng mà chính đảng cần đạt tới, ngày càng được sáng rõ hơn về chặng đường, phương hướng, giải pháp mà Đảng cùng toàn dân đang nỗ lực hiện thực hóa thành công mục tiêu đã xác định.
Sau 20 năm thực hiện Cương lĩnh năm 1991, tình hình thế giới và trong nước có những thay đổi, với những thách thức to lớn mà cách mạng Việt Nam phải đối mặt, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) được thông qua tại Đại hội lần thứ XI đã xác định rõ: “Chế độ xã hội chủ nghĩa ở
Liên Xô và Đông Âu sụp đổ là tổn thất lớn đối với phong trào cách mạng thế giới, nhưng một số nước theo con đường xã hội chủ nghĩa, trong đó có Việt Nam, vẫn kiên định mục tiêu, lý tưởng, tiến hành cải cách, đổi mới, giành được những thành tựu to lớn, tiếp tục phát triển; phong trào cộng sản và công nhân quốc tế có những bước hồi phục”2.
Do vậy “Theo quy luật tiến hóa của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội” 3. Đối với Việt Nam: “Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự
________________
1, 2, 3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Sđd, tr.70, 68, 69.
48 ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM - TRÍ TUỆ, BẢN LĨNH, ĐỔI MỚI...
lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử”1. Qua nhiều lần tổng kết, Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: “Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn của Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử” 2.
b) Về tập hợp, đoàn kết lực lượng cách mạng
Khi phân tích tình hình xã hội Việt Nam sau khi thực dân Pháp thống trị, Cương lĩnh chính trị đầu tiên đã phân tích thái độ chính trị của từng giai cấp, trong đó chỉ rõ lực lượng cơ bản của cách mạng là công nhân, nông dân, trong đó giai cấp công nhân lãnh đạo; đồng thời Cương lĩnh chủ trương đoàn kết tất cả các giai cấp, các lực lượng tiến bộ, yêu nước để tập trung chống đế quốc và tay sai. Đảng “phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình”3, nhưng đồng thời “Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông... để kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp. Còn đối với bọn phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản c.m thì phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ đứng trung lập”4. Đến Luận cương tháng 10/1930, do nhiều nguyên nhân, vấn đề tập hợp lực lượng có phần “tả” khuynh, nhưng khi Luận cương đi vào thực tế cách mạng Việt Nam đã từng bước được điều chỉnh, phù hợp với yêu cầu của cách mạng.
________________
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Sđd, tr.70.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016, tr.66.
3, 4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.2, tr.4.
Phần thứ nhất: ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM... 49
Đến Chính cương Đảng Lao động Việt Nam, nhận thức về lực lượng cách mạng Việt Nam đã được phát triển cụ thể hơn: “Động lực của cách mạng Việt Nam lúc này là: công nhân, nông dân, tiểu tư sản thành thị, tiểu tư sản trí thức và tư sản dân tộc; ngoài ra là những thân sĩ (địa chủ) yêu nước và tiến bộ. Những giai cấp, tầng lớp và phần tử đó họp thành nhân dân. Nền tảng của nhân dân là công, nông và lao động trí thức. Người lãnh đạo cách mạng là giai cấp công nhân”1.
Tại Cương lĩnh năm 1991, Đảng xác định: “các giai cấp, các tầng lớp dân cư đều có nghĩa vụ, quyền lợi chính đáng, đoàn kết chặt chẽ, góp phần xây dựng nước Việt Nam giàu mạnh... Quan tâm thích đáng lợi ích và phát huy khả năng của các tầng lớp dân cư khác vì sự nghiệp “ích nước lợi nhà”. Động viên sự cống hiến của đồng bào Việt Nam ở nước ngoài góp phần tích cực xây dựng quê hương xứ sở”2.
Đại hội lần thứ XI của Đảng nhấn mạnh xây dựng chủ nghĩa xã hội là một quá trình cách mạng sâu sắc, triệt để, đấu tranh phức tạp giữa cái cũ và cái mới nhằm tạo ra sự biến đổi về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất thiết phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước phát triển, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen. Do vậy: “Xây dựng một cộng đồng xã hội văn minh, trong đó các giai cấp, các tầng lớp dân cư đoàn kết, bình đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi”3. Cương lĩnh năm 1991
________________
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.12, tr.434.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.51, tr.141.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Sđd, tr.80.
50 ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM - TRÍ TUỆ, BẢN LĨNH, ĐỔI MỚI...
và Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011 đã giải đáp đúng đắn vấn đề cơ bản nhất của cách mạng Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; đặt nền tảng đoàn kết, thống nhất giữa tư tưởng với hành động, tạo ra sức mạnh tổng hợp đưa cách mạng Việt Nam tiếp tục phát triển.
Việc xác định lực lượng cách mạng Việt Nam là cơ sở của tư tưởng chiến lược đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng khối đại đoàn kết rộng rãi các giai cấp, các tầng lớp nhân dân yêu nước và các tổ chức yêu nước, cách mạng, trên cơ sở đánh giá đúng đắn thái độ các giai cấp phù hợp với đặc điểm xã hội Việt Nam, đáp ứng yêu cầu trong từng giai đoạn lịch sử.
c) Về mục tiêu phấn đấu của cách mạng Việt Nam
Trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên năm 1930, Đảng xác định mục tiêu chiến lược của cách mạng Việt Nam là giành độc lập dân tộc và tiến lên chủ nghĩa xã hội “đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến, Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập. Dựng ra chính phủ công nông binh. Tổ chức ra quân đội công nông”1. Về phương diện xã hội, Cương lĩnh xác định rõ: “a) Dân chúng được tự do tổ chức. b) Nam nữ bình quyền, v.v.. c) Phổ thông giáo dục theo công nông hóa”2.
Chính cương Đảng Lao động Việt Nam xác định cụ thể hơn về mục tiêu hướng tới của cách mạng Việt Nam là phấn đấu để “phát triển chế độ dân chủ nhân dân, tiến lên chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, để thực hiện tự do, hạnh phúc cho giai cấp công nhân, nhân dân lao động và tất cả các dân
________________
1, 2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.2, tr.2.
Phần thứ nhất: ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM... 51
tộc đa số, thiểu số ở Việt Nam”1. Trong thời điểm đang tiến hành toàn quốc kháng chiến, Chính cương đã xác định nhiệm vụ của cách mạng là vừa kháng chiến, vừa kiến quốc. Kháng chiến để có được hòa bình, độc lập cho dân tộc; kiến quốc để
xây dựng chế độ dân chủ nhân dân - điều kiện tiên quyết để đi lên chủ nghĩa xã hội.
Đến năm 1991, Đảng xác định: “Mục tiêu tổng quát phải đạt tới khi kết thúc thời kỳ quá độ là xây dựng xong về cơ bản những cơ sở kinh tế của chủ nghĩa xã hội, với kiến trúc thượng tầng về chính trị và tư tưởng, văn hóa phù hợp, làm cho nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh”2. Đây là thời kỳ đầu tiến hành công cuộc đổi mới, cả nước nỗ lực vượt qua khủng hoảng kinh tế - xã hội, từng bước xây dựng những cơ sở cả về kinh tế, chính trị, văn hóa... để phấn đấu trở thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh. Do vậy, đây cũng là lần đầu tiên xác định rõ xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội có sáu đặc trưng cơ bản là: “Do nhân dân lao động làm chủ. Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu. Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân. Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ. Có quan hệ ________________
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.12, tr.444.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.51, tr.136.
52 ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM - TRÍ TUỆ, BẢN LĨNH, ĐỔI MỚI...
hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới”1. Để thực hiện được mục tiêu trên, Cương lĩnh nêu ra bảy phương hướng lớn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trong đó lần đầu tiên chỉ rõ: “Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước”2.
Từ thực tiễn 25 năm đổi mới đất nước, Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011 xác định mục tiêu tổng quát “Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”3; Khi kết thúc thời kỳ quá độ là xây dựng được về cơ bản nền tảng kinh tế với kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hóa phù hợp, tạo cơ sở để Việt Nam trở thành một nước xã hội chủ nghĩa ngày càng phồn vinh, hạnh phúc. Mục tiêu đến giữa thế
kỷ XXI là xây dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Để hiện thực hóa các mục tiêu trên, Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011 đã tổng kết và bổ sung, phát triển tám đặc trưng cơ bản của xã hội xã hội chủ nghĩa4. Trong các đặc trưng, ngoài đặc trưng “có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”5 không đổi, Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011 có bổ sung hai đặc trưng bao trùm, tổng quát: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”6, “có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
________________
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.51, tr.134.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.65, tr.64.
3, 4, 5, 6. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Sđd, tr.70.
Phần thứ nhất: ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM... 53
nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo”1. Các đặc trưng khác diễn đạt mới rõ hơn, không chỉ là thay đổi từ ngữ mà chứa đựng những nội dung mới, với ý nghĩa phù hợp hơn với mục tiêu khi Việt Nam đã bước sang giai đoạn mới trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Những đặc trưng vừa là mục tiêu, vừa thể hiện bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa được nêu rõ trong những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, phù hợp với đặc điểm, hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam. Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011 chỉ rõ tám phương hướng cơ bản xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam và xác định giải quyết tốt các mối quan hệ lớn: Quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ.
Quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, nhất là thực tiễn của công cuộc đổi mới cho thấy hoàn toàn có thể bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa để tiến lên chủ nghĩa xã hội. Bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế
________________
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Sđd, tr.70.
54 ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM - TRÍ TUỆ, BẢN LĨNH, ĐỔI MỚI...
thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt là về khoa học và công nghệ để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại.
d) Về xác định chính sách đối ngoại
Cương lĩnh chính trị đầu tiên xác định mối quan hệ giữa cách mạng giải phóng thuộc địa với cách mạng vô sản ở chính quốc, cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới. Cương lĩnh chỉ rõ: “Trong khi tuyên truyền cái khẩu hiệu nước An Nam độc lập, phải đồng thời tuyên truyền và thực hành liên lạc với bị áp bức dân tộc và vô sản giai cấp thế giới, nhất là vô sản giai cấp Pháp”1. Như vậy, ngay từ khi thành lập, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định tính tự lực tự cường, đồng thời xác định rõ lực lượng đồng minh quốc tế đó là sự đoàn kết, ủng hộ của các dân tộc bị áp bức và giai cấp vô sản thế giới, nhất là giai cấp vô sản Pháp. Cương lĩnh không chỉ đặt cách mạng Việt Nam trong dòng chảy của cách mạng giải phóng dân tộc thế giới, nhằm phát huy sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, mà còn đặt cách mạng Việt Nam trong mối quan hệ chặt chẽ và sự chủ động của cách mạng giải phóng dân tộc với phong trào cách mạng vô sản thế giới. Quan điểm đó được Luận cương tháng 10/1930 tiếp tục khẳng định.
Chính cương Đảng Lao động Việt Nam đã có bước phát triển về quan hệ đối ngoại, xác định rõ chính sách đối ngoại: “Những nguyên tắc của chính sách ngoại giao là nước ta và
________________
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.2, tr.4-5.
Phần thứ nhất: ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM... 55
các nước tôn trọng độc lập dân tộc, chủ quyền lãnh thổ, thống nhất quốc gia của nhau và cùng nhau bảo vệ hòa bình dân chủ thế giới, chống bọn gây chiến... Mở rộng ngoại giao nhân dân; giao thiệp thân thiện với chính phủ nước nào tôn trọng chủ quyền của Việt Nam, đặt quan hệ ngoại giao với các nước đó theo nguyên tắc tự do, bình đẳng và có lợi cho cả
hai bên”1.
Trong Cương lĩnh năm 1991, lần đầu tiên Việt Nam tuyên bố: “Mục tiêu của chính sách đối ngoại là tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đi lên chủ nghĩa xã hội, góp phần vào sự nghiệp đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội”2. “Hợp tác bình đẳng và cùng có lợi với tất cả các nước không phân biệt chế độ chính trị - xã hội khác nhau trên cơ sở những nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình”3.
Hai mươi năm sau, vị thế cách mạng Việt Nam đã thay đổi trên chính trường quốc tế, tại Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011, Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định rõ hơn, với sự chủ động hội nhập quốc tế: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế”4.
________________
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.12, tr.441.
2, 3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.51, tr.144.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Sđd, tr.83.
56 ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM - TRÍ TUỆ, BẢN LĨNH, ĐỔI MỚI...
Như vậy, nhận thức về đường lối đối ngoại của Đảng đã có sự phát triển ở sự khẳng định Việt Nam không chỉ “là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”1 mà còn “góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới”2, với mục đích là nâng cao vị thế của đất nước; vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh.
đ) Về vai trò lãnh đạo của Đảng
Đây là vấn đề nhất quán xuyên suốt của các Cương lĩnh chính trị của Đảng từ năm 1930 đến nay.
Sau khi xác định vai trò lãnh đạo của Đảng, Cương lĩnh chính trị đầu tiên xác định: “Đảng là đội tiên phong của vô sản giai cấp phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng”3. Đây chính là nội dung về xây dựng, chỉnh đốn Đảng được chỉ rõ ngay trong văn kiện đầu tiên của Đảng mới được thành lập. Cương lĩnh xác định vai trò lãnh đạo, nhưng để
lãnh đạo được thì phải “thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình”4, Đảng muốn “thu phục” thì phải tự đổi mới, tự chỉnh đốn Đảng, phải nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng; đồng thời “làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng”5 thì Đảng cần phải thường xuyên chú trọng xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh toàn diện về cả tư
________________
1, 2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Sđd, tr.83-84.
3, 4, 5. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.2, tr.4.
Phần thứ nhất: ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM... 57
tưởng, chính trị, tổ chức và đạo đức, mới “có đủ năng lực lãnh đạo quần chúng”1.
Luận cương tháng 10/1930 khẳng định: “Điều kiện cốt yếu cho sự thắng lợi của cuộc cách mạng ở Đông Dương là cần phải có một Đảng Cộng sản có một đường chánh trị đúng, có kỷ luật, tập trung, mật thiết liên lạc với quần chúng, và từng trải tranh đấu mà trưởng thành”2.
Đến Chính cương Đảng Lao động Việt Nam (tháng 02/1951) xác định: “Trong giai đoạn này, quyền lợi của giai cấp công nhân và nhân dân lao động và của dân tộc là một. Chính vì Đảng Lao động Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, cho nên nó phải là Đảng của dân tộc Việt Nam”3.
Đến Đại hội lần thứ VII (1991) của Đảng, vấn đề xây dựng, chỉnh đốn Đảng được đặt ra: “Để đảm đương được vai trò lãnh đạo, Đảng phải vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, ra sức nâng cao trình độ trí tuệ, năng lực lãnh đạo”4.
Tại Đại hội lần thứ VII, lần đầu tiên Đảng giương cao ngọn cờ tư tưởng Hồ Chí Minh và khẳng định: “Đảng Cộng sản Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, tiếp thu tinh hoa trí tuệ của dân tộc và của nhân loại, nắm vững quy luật khách quan và thực tiễn của đất nước để đề ra
________________
1, 2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.2, tr.6, 100.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.12, tr.38. 4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.51, tr.147.
58 ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM - TRÍ TUỆ, BẢN LĨNH, ĐỔI MỚI...
Cương lĩnh chính trị, đường lối cách mạng đúng đắn, phù hợp với yêu cầu, nguyện vọng của nhân dân”1. Cương lĩnh nêu rõ quan điểm về xây dựng hệ thống chính trị, xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; xây dựng Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân. Trong hệ thống chính trị, Đảng Cộng sản Việt Nam là một bộ phận và là tổ chức lãnh đạo hệ
thống đó. Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản. Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức.
Vai trò lãnh đạo của Đảng được khẳng định nhất quán trong Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011: “Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội”2. Bổ sung thêm mệnh đề “đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động”3 trong diễn đạt về Đảng: “Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc”4. Đây là sự phát triển nhận thức lý luận về Đảng - làm rõ hơn cội nguồn sức mạnh của Đảng trong bối cảnh lịch sử mới - quy tụ tinh hoa của toàn thể các giai tầng, các dân tộc trong cộng đồng quốc gia Việt Nam.
________________
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.51, tr.208-209.
2, 3, 4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.69, tr.283.
Phần thứ nhất: ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM... 59
Đồng thời, Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011 nhấn mạnh về công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng: “Để đảm đương được vai trò lãnh đạo, Đảng phải vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức; thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, ra sức nâng cao trình độ trí tuệ, bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức và năng lực lãnh đạo. Giữ vững truyền thống đoàn kết thống nhất trong Đảng, tăng cường dân chủ
và kỷ luật trong hoạt động của Đảng. Thường xuyên tự phê bình và phê bình, đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa cơ hội, tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí và mọi hành động chia rẽ, bè phái. Đảng chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên trong sạch, có phẩm chất, năng lực, có sức chiến đấu cao theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; quan tâm bồi dưỡng, đào tạo lớp người kế tục sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc”1. Từ đó, Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011 so với Cương lĩnh năm 1991 về bài học được đúc kết từ sự lãnh đạo của Đảng “Năm là, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam”2 - có sửa đổi từ “bảo đảm” thay bằng từ
“quyết định” ở bài học thứ năm; bổ sung vào nội dung phân tích ở bài học thứ hai: “Quan liêu, tham nhũng, xa rời nhân dân sẽ dẫn đến những tổn thất khôn lường đối với vận mệnh của đất nước, của chế độ xã hội chủ nghĩa và của Đảng”3.
Các Cương lĩnh chính trị của Đảng đã phản ánh được quy luật khách quan, đáp ứng những nhu cầu cơ bản và cấp bách,
________________
1, 2, 3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Sđd, tr.89-90, 66, 65.
60 ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM - TRÍ TUỆ, BẢN LĨNH, ĐỔI MỚI...
phù hợp với xu thế của thời đại, định hướng chiến lược đúng đắn cho tiến trình phát triển của cách mạng Việt Nam.
2. Giá trị thực tiễn của các Cương lĩnh chính trị
Sau 15 năm đi theo con đường cách mạng được Đảng hoạch định trong Cương lĩnh chính trị năm 1930, với sự bổ sung, hoàn thiện về con đường cách mạng giải phóng dân tộc (qua Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương tháng 11/1939; tháng 11/1940 và Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa I (tháng 5/1941), dân tộc Việt Nam đã giành được thắng lợi vĩ đại - Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945.
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã đập tan ách thống trị của thực dân, phong kiến, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - một nhà nước kiểu mới, nhà nước dân chủ đầu tiên ở Đông Nam Á - đưa dân tộc Việt Nam tiến vào kỷ nguyên độc lập, tự do. Khẳng định ý nghĩa của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, lãnh tụ Hồ Chí Minh viết: “Chẳng những giai cấp lao động và nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào, mà giai cấp lao động và những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự hào rằng: Lần này là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc”1.
Bước vào thời kỳ Đảng nắm chính quyền, có những thời điểm khó khăn như “ngàn cân treo sợi tóc”, nhưng tiếp tục
________________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.7, tr.25.
Phần thứ nhất: ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM... 61
triển khai Cương lĩnh năm 1930 với điều kiện lịch sử mới, đặc biệt là Cương lĩnh được thông qua tại Đại hội lần thứ II, Đảng đã khơi dậy và phát huy cao độ sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và mọi nguồn lực sáng tạo của nhân dân tập trung vào nhiệm vụ chống thù trong giặc ngoài, xây dựng, củng cố và bảo vệ chính quyền cách mạng vừa giành được; phát động cuộc chiến tranh nhân dân toàn dân, toàn diện kiên định thực hiện mục tiêu độc lập, dân chủ, tiến bộ trong suốt thời kỳ kháng chiến; kết hợp sức mạnh đoàn kết và sự sáng tạo của nhân dân Việt Nam với việc tranh thủ tối đa những điều kiện thuận lợi để mở rộng và phát huy sự ủng hộ, giúp đỡ của bạn bè quốc tế và các lực lượng tiến bộ đối với các cuộc kháng chiến. Điều đó đã đem đến thắng lợi của các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc, đánh thắng các thế lực thực dân xâm lược, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ, thống nhất Tổ quốc, góp phần quan trọng vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Khi cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, con đường cách mạng Việt Nam trong quá độ lên chủ nghĩa xã hội là con đường mới mẻ, chưa có tiền lệ; lại đúng vào thời điểm các nước đi trước trong hệ thống xã hội chủ nghĩa đang gặp nhiều khó khăn, cũng tìm con đường cải cách, mở cửa, cải tổ... vì vậy, Việt Nam phải vừa tiến hành đổi mới, vừa khảo nghiệm, vừa rút kinh nghiệm; không ít vấn đề mới nảy sinh cần được nghiên cứu, tổng kết, làm sáng tỏ. Sau 5 năm tiến hành công cuộc đổi mới (1986 - 1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
62 ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM - TRÍ TUỆ, BẢN LĨNH, ĐỔI MỚI...
thông qua tại Đại hội lần thứ VII của Đảng là cương lĩnh chính trị thể hiện sự phát triển nhận thức lý luận của Đảng về con đường cách mạng Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Thắng lợi của công cuộc đổi mới, tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa, mở cửa, hội nhập, đã đưa đất nước từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội với những nhận thức và tư duy mới đúng đắn, phù hợp với thực tiễn Việt Nam.
Chín mươi năm qua, Việt Nam từ một xứ thuộc địa nửa phong kiến đã trở thành một quốc gia độc lập, tự do, phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa; nhân dân ta từ thân phận nô lệ đã trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội; đất nước ta đã thoát khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu, đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, có quan hệ
quốc tế rộng rãi, có vị thế ngày càng quan trọng trong khu vực và trên thế giới.
Đặc biệt, những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử của hơn 30 năm đổi mới đã tạo thế và lực cho đất nước ta. Tính đến tháng 12/2019, Việt Nam đạt mức tăng trưởng GDP 7,02% trong bối cảnh kinh tế thế giới gặp nhiều khó khăn, cạnh tranh chiến lược trong khu vực và trên thế giới gia tăng. Đây là năm thứ hai liên tiếp Việt Nam hoàn thành tất cả 12/12 chỉ tiêu Quốc hội đề ra. Điều đáng ghi nhận là, dù tăng trưởng GDP ở mức cao, song nền kinh tế vẫn bảo đảm ổn định vĩ mô, chỉ số giá tiêu dùng ở mức 2,79%, đảm bảo mục tiêu kiểm soát chỉ số giá tiêu dùng dưới 4%, tỷ lệ nợ công trên GDP tiếp tục giảm... Đây cũng là năm thứ tư liên tiếp Việt Nam kiểm soát lạm phát dưới 4%. Đáng chú ý, theo Chương trình phát triển của Liên hợp quốc (UNDP),
Phần thứ nhất: ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM... 63
Việt Nam nằm trong nhóm các nước có tốc độ tăng trưởng chỉ số phát triển con người (HDI) cao nhất trên thế giới. Với chỉ số HDI năm 2019 là 0,63, Việt Nam đang ở gần mức trần của nhóm các nước có HDI ở mức trung bình và chỉ cần thêm 0,007 điểm để vào được nhóm các nước có HDI ở mức cao. Tỷ lệ hộ nghèo giảm còn 1,45%.
Sau hơn 30 năm đổi mới, Việt Nam đã thoát khỏi tình trạng bị bao vây, cấm vận, trở thành thành viên của hơn 70 tổ chức khu vực và quốc tế, có quan hệ với hơn 500 tổ chức phi chính phủ. Những thành tựu trên là kết quả sự nỗ lực của tất cả các kênh đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước, đối ngoại quốc hội và đối ngoại nhân dân; hoạt động đối ngoại đa phương góp phần quan trọng vào việc khẳng định vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế; tranh thủ nguồn lực quốc tế, tăng cường tiềm lực đất nước, góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội; chuyển tới bạn bè năm châu về hình ảnh một dân tộc Việt Nam yêu chuộng hòa bình, đổi mới, năng động, tích cực phấn đấu vì hòa bình, tiến bộ xã hội và những giá trị chung của nhân loại.
Những thắng lợi vĩ đại của dân tộc Việt Nam từ Cương lĩnh chính trị đầu tiên đến nay chứng tỏ các Cương lĩnh chính trị của Đảng có giá trị to lớn và có sức sống mãnh liệt. Sự xác định con đường đi lên của cách mạng Việt Nam là phù hợp với quy luật khách quan và đáp ứng đúng yêu cầu của thực tiễn đất nước qua các giai đoạn lịch sử.
64
CAO BẰNG - CĂN CỨ ĐỊA ĐẦU TIÊN
KHI LÃNH TỤ HỒ CHÍ MINH VỀ NƯỚC,
KHỞI NGUỒN CHIẾN THẮNG CỦA CÁCH MẠNG GIẢI PHÓNG DÂN TỘC VIỆT NAM
Đồng chí LẠI XUÂN MÔN*
L
ãnh tụ Nguyễn Ái Quốc (Chủ tịch Hồ Chí Minh) sinh ngày 19/5/1890. Khi đi học Người có tên là Nguyễn Tất
Thành. Lớn lên trong cảnh nước mất, nhà tan, đồng bào bị bóc lột, lầm than, chứng kiến phong trào yêu nước của nhân dân ta diễn ra sôi nổi, liên tục nhưng do thiếu đường lối và sự lãnh đạo đúng đắn nên không giành được thắng lợi; là người thanh niên giàu lòng yêu nước, sớm có chí đánh đuổi thực dân Pháp, giải phóng dân tộc, ngày 05/6/1911, từ Bến cảng Nhà Rồng, Nguyễn Tất Thành rời Tổ quốc ra đi tìm đường cứu nước, cứu dân.
Sau khi tìm ra con đường đúng đắn để giải phóng dân tộc, Nguyễn Ái Quốc tập trung mọi nỗ lực truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam, chuẩn bị những tiền đề về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho sự ra đời của một đảng cách mạng tiền phong
________________
* Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Cao Bằng.
Phần thứ nhất: ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM... 65
của giai cấp công nhân Việt Nam. Ðặc biệt, Người không ngừng xúc tiến việc tìm đường trở về nước như nguyện ước lúc Người ra đi từ Bến cảng Nhà Rồng. Trong Báo cáo gửi Quốc tế Cộng sản ngày 18/02/1930, Người đã viết: “Đã hai lần tôi cố gắng về An Nam, nhưng phải quay trở lại. Bọn mật thám và cảnh sát ở biên giới quá cẩn mật, đặc biệt là từ khi xảy ra vụ An Nam “Quốc dân Đảng”“1, nên thời cơ “đột nội” chưa đến. Tháng 9/1935, khi trả lời phỏng vấn nhà báo Xôviết Ilia Erenbua, Người nói: “Tôi chỉ có một mong ước là sớm trở về Tổ quốc”2. Có thể nói trở về Tổ quốc luôn là khát vọng cháy bỏng của Người. Tháng 10/1938, Nguyễn Ái Quốc lại rời Mátxcơva, tìm cơ hội về nước. Sự kiện Chính phủ Pháp đầu hàng phát xít Đức (tháng 6/1940) theo Người nhận định “là một cơ hội rất thuận lợi cho cách mạng Việt Nam. Ta phải tìm mọi cách về nước ngay để tranh thủ thời cơ, chậm trễ lúc này là có tội với cách mạng”3. Nhưng việc lựa chọn địa điểm, tức chỗ “đứng chân” trong nước là hết sức quan trọng, nó có ý nghĩa quyết định toàn bộ sự phát triển về sau của cách mạng Việt Nam.
Ý tưởng về chọn chỗ đứng chân, để xây dựng căn cứ địa cách mạng đã xuất hiện khá sớm trong lý luận cách mạng của Nguyễn Ái Quốc, từ năm 1928, Người đã chỉ rõ: “... Việc tuyên truyền cổ động cách mạng cần phải được tiến hành trong nông dân ở mọi nơi, nhưng sức mạnh chủ yếu của Đảng phải được dồn cho một tỉnh hay một vài tỉnh đặc biệt... phải chỉ ra được
________________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.3, tr.13.
2, 3. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng: Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2016, t.2, tr.60, 99.
66 ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM - TRÍ TUỆ, BẢN LĨNH, ĐỔI MỚI...
tỉnh nào hay huyện nào là quan trọng nhất theo quan điểm tuyên truyền trong nông dân, phải dồn sự chú ý của Đảng và tập trung các nguồn lực của Đảng cho các tỉnh này”1.
Với ý tưởng và lập luận đó, Người đã vận dụng vào thực tiễn để lựa chọn chỗ đứng chân, xây dựng căn cứ và mở rộng căn cứ địa cách mạng của cả nước. Lúc đầu từ Trung Quốc, Người có ý định về nước “theo hướng Côn Minh - Lào Cai. Người đã phái Bùi Đức Minh2, Hoàng Văn Lộc3 về Hà Khẩu4
để điều tra và nắm tình hình trong nước và đặt cơ sở liên lạc”5. Qua tìm hiểu thấy nhân dân giác ngộ chưa cao, phong trào phát triển chưa mạnh, cơ sở đảng chưa vững chắc, cầu Hồ Kiều
________________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.2, tr.569.
2. Đồng chí Bùi Đức Minh (tên thật là Bùi Văn Hách, có tên khác là Bùi Thanh Bình) - người có đóng góp quan trọng trong việc đưa nhiều cán bộ của Đảng ta sang Trung Quốc học tập rồi lại đưa về lãnh đạo phong trào cách mạng trong nước; là một trong những cán bộ lãnh đạo đầu tiên của lực lượng Công an nhân dân Việt Nam. Đồng chí được Đảng, Chính phủ tặng Huân chương Độc lập hạng Nhì năm 1963.
3. Đồng chí Hoàng Văn Lộc (tên thật là Nguyễn Văn Ty), vốn là một Việt kiều ở Xiêm (Thái Lan); đi theo lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc hoạt động cách mạng từ năm 1928, khi Người đến Xiêm. Cuối tháng 5/1940, đồng chí Hoàng Văn Lộc và đồng chí Đặng Văn Cáp tới Côn Minh, Vân Nam, Trung Quốc gặp lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc. Ngày 28/01/1941, đồng chí Hoàng Văn Lộc theo lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trở về Tổ quốc và là người đầu bếp đầu tiên của Người.
4. Thị trấn Hà Khẩu của huyện Hà Khẩu thuộc Châu tự trị dân tộc Cáp Nê, Di Hồng Hà, Vân Nam, giáp biên giới Việt Nam - Trung Quốc. Nơi đây đã là cửa khẩu từ thời Pháp thuộc, nhưng từ khi tái lập tỉnh Lào Cai năm 1990, cửa khẩu Hà Khẩu mới thực sự trở thành nơi giao thương buôn bán lớn nhất của tỉnh Vân Nam với Việt Nam qua cửa khẩu quốc tế Lào Cai.
5. PGS.TS. Phạm Xanh: “Cao Bằng trong tầm nhìn chiến lược Hồ Chí Minh”, in trong Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với nhân dân các dân tộc Cao Bằng, Tỉnh ủy Cao Bằng - Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Hà Nội, 1995, tr.61.
Phần thứ nhất: ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM... 67
nối liền biên giới Việt Nam - Trung Quốc đã bị đánh sập ngày 10/9/1940, vì vậy, dự định về nước theo hướng Lào Cai không thể thực hiện được. Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc “tin cho Bùi Đức Minh, Hoàng Văn Lộc trở lại Côn Minh tìm hướng mới. Và hướng mới đó là Cao Bằng”1 để về nước hoạt động và xây dựng căn cứ địa.
Nhưng vì sao lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc chọn Cao Bằng để về nước hoạt động và xây dựng căn cứ địa là một vấn đề được rất nhiều người quan tâm, nghiên cứu, tìm hiểu. Đây không phải sự lựa chọn tình cờ, ngẫu nhiên, mà là một sự tính toán kỹ lưỡng. Với tầm nhìn chiến lược của một vị lãnh tụ thiên tài, Người đã phát hiện Cao Bằng là nơi hội tụ đủ cả “thiên thời, địa lợi, nhân hòa” để xây dựng căn cứ địa cách mạng của cả nước.
Trước hết Cao Bằng là tỉnh miền núi, có đường biên giới với Trung Quốc dài hơn 333km, vừa có đường bộ, đường thủy sang Trung Quốc nên thuận lợi cho giao thông liên lạc. Cao Bằng còn có các tuyến đường bộ đi xuống Lạng Sơn, Thái Nguyên... Địa thế Cao Bằng hiểm trở, là địa bàn thực dân khó kiểm soát. Từ Cao Bằng khi lực lượng cách mạng phát triển, cơ sở Việt Minh mở rộng có thể nhanh chóng “đông tiến” sang Lạng Sơn, “nam tiến” xuống Thái Nguyên và “tây tiến” sang Hà Giang, Tuyên Quang... đến các tỉnh vùng trung du, đồng bằng Bắc Bộ. Về mặt địa thế, địa hình, kinh tế, quân sự, Cao Bằng có đủ điều kiện trở thành một trong những bàn đạp chiến lược đầu tiên của thời kỳ khởi nghĩa vũ trang giải phóng dân tộc.
________________
1. PGS.TS. Phạm Xanh: “Cao Bằng trong tầm nhìn chiến lược Hồ Chí Minh”, in trong Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với nhân dân các dân tộc Cao Bằng, Tlđd, tr.61.
68 ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM - TRÍ TUỆ, BẢN LĨNH, ĐỔI MỚI...
Song yếu tố quan trọng góp phần đi đến quyết định lựa chọn Cao Bằng để lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc về nước là “Cao Bằng có phong trào tốt từ trước”, là nơi sinh sống của hàng chục vạn đồng bào các dân tộc Tày, Nùng, Dao, Mông, Kinh, Lô Lô, Hoa... Từ xưa đến nay, các dân tộc luôn đoàn kết gắn bó với nhau, đã từng cùng đồng bào cả nước anh dũng đấu tranh trong công cuộc dựng nước và giữ nước. Từ ngày có Đảng, đồng bào các dân tộc Cao Bằng luôn một lòng theo Đảng, không ngừng đấu tranh chống thực dân, phong kiến, tiêu biểu như Hoàng Đình Giong - người cộng sản kiên trung, người học trò xuất sắc của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc1.
________________
1. Anh hùng liệt sĩ Hoàng Đình Giong (1904 - 1947) (tức Hoàng, Trần Tín, Lầu Voòng, Nam Bình, Văn Tư, Võ Văn Đức, Vũ Đức, Lê Minh, Cụ Vũ), quê ở phường Đề Thám, thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng. Đồng chí là người con ưu tú của dân tộc Tày - người cộng sản kiên trung, người học trò xuất sắc của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, đã hăng hái tham gia hoạt động cách mạng từ những năm 1926 - 1927, năm 1928 được kết nạp vào Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, năm 1929 được kết nạp vào Đảng và giữ chức vụ Bí thư Chi bộ hải ngoại ở Long Châu (Trung Quốc). Chi bộ trực tiếp chỉ đạo phong trào cách mạng ở Cao Bằng, Lạng Sơn và các tỉnh thuộc vùng Đông Bắc Việt Nam. Đồng chí là Ủy viên Ban Thường vụ Trung ương Đảng khóa I (1935), phụ trách Xứ ủy Bắc Kỳ; Chỉ huy trưởng Bộ đội Nam tiến vào miền Nam đánh thực dân Pháp xâm lược (tháng 9/1945), Chính ủy Quân giải phóng Nam Bộ, Khu Bộ trưởng (Tư lệnh) đầu tiên Khu IX, Khu Bộ trưởng (Tư lệnh) Khu VI thời kỳ
kháng chiến chống thực dân Pháp. Đồng chí đã hy sinh tại Khu VI (Ninh Thuận) năm 1947. Đồng chí đã được Đảng và Nhà nước truy tặng Huân chương Hồ Chí Minh (1998); danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân (2009); và năm 2018, Đồng chí đã được Đảng và Nhà nước công nhận là lãnh đạo tiền bối tiêu biểu của Đảng và cách mạng Việt Nam.
Phần thứ nhất: ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM... 69
Cao Bằng có phong trào cách mạng phát triển mạnh, ngày 01/4/1930, chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên ở Cao Bằng và cũng là chi bộ đầu tiên ở vùng Việt Bắc được thành lập (chỉ sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập chưa đầy 2 tháng). Đến năm 1933 tại Cao Bằng đã có 8 chi bộ ở 4 huyện, trong đó Chi bộ Cốc Coóc (Quảng Uyên) còn giữ mối liên lạc từ Cao Bằng sang Long Châu (Trung Quốc), nơi có Chi bộ hải ngoại của Đảng ta. Với những hoạt động tích cực đó, năm 1933, Ban chỉ huy ở ngoài của Đảng công nhận Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Cao Bằng do đồng chí Hoàng Như làm Bí thư. Sau đó các châu ủy được thành lập ở Hòa An (1933), Hà Quảng (1935)... Tiếp đó, đồng chí Hoàng Đình Giong được cử tham dự Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ I (tháng 3/1935 tại Ma Cao, Trung Quốc) và được bầu vào Ban Thường vụ Trung ương Đảng, phụ trách Xứ ủy Bắc Kỳ. Tại Đại hội này, đồng chí Bùi Bảo Vân1 được bầu làm Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa I. Tháng 7/1935, đồng chí Hoàng Như (Bí thư Tỉnh ủy Cao Bằng) được cử tham gia đoàn đại biểu Đảng Cộng sản Đông Dương tham dự Đại hội lần thứ VII Quốc tế Cộng sản họp ở Mátxcơva. Thay mặt Đảng ta, Đồng chí có bản tham luận về “Công tác vận động các dân tộc thiểu số ở Đông Dương tham gia cách mạng” và dự Đại hội lần thứ VI Quốc tế Thanh niên. Sau Đại hội, đồng chí Hoàng Như được ở lại dự lớp học ngắn hạn tại Trường Đại học Phương Đông. Trong thời gian lưu lại Mátxcơva, đồng chí Hoàng Như đã được lãnh tụ
________________
1. Đồng chí Bùi Bảo Vân - Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa I (1935), Bí thư Tỉnh ủy Cao Bằng những năm 1946, 1948, 1949.
70 ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM - TRÍ TUỆ, BẢN LĨNH, ĐỔI MỚI...
Nguyễn Ái Quốc giúp đỡ tận tình, đồng thời qua Đồng chí, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc cũng hiểu thêm về con người và phong trào cách mạng ở Cao Bằng.
Đến năm 1935, nhiều tổ chức như “Cộng sản đoàn”, “Công hội đỏ”, “Nông hội đỏ”, “Hội bản”, “Hội làng”... được thành lập ở nhiều địa phương. Vì thế, Cao Bằng không những có điều kiện thuận lợi cho việc duy trì, phát triển phong trào cách mạng mà còn có “hàng rào quần chúng bảo vệ” vững chắc.
Trong những năm 1938 - 1939, Tỉnh ủy Cao Bằng đã chỉ đạo xây dựng căn cứ cách mạng ở vùng Lục Khu - Pác Bó (Hà Quảng) gồm các xã vùng biên giới Việt Nam - Trung Quốc, tuyên truyền vận động đồng bào tham gia “Hội đánh Tây”, “Hội phòng phỉ”... được quần chúng nhân dân ủng hộ, nên đã xây dựng được cơ sở cách mạng vững chắc. Căn cứ Lục Khu - Pác Bó vừa tiếp giáp với biên giới, nhân dân giác ngộ, vì vậy có thể coi đó là địa bàn hoạt động trọng yếu của Châu ủy Hà Quảng, Tỉnh ủy Cao Bằng, cũng như đảm bảo những điều kiện thuận lợi cho việc “đứng chân” của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc.
Tháng 10/1940, khi chính thức quyết định chọn Cao Bằng để xây dựng căn cứ địa cách mạng đầu tiên, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã nhận định: Căn cứ địa Cao Bằng sẽ mở ra triển vọng lớn cho cách mạng nước ta. Cao Bằng có phong trào tốt từ trước, lại kề sát biên giới, lấy đó làm cơ sở liên lạc quốc tế rất thuận lợi. Nhưng từ Cao Bằng còn phải phát triển về
Thái Nguyên và thông xuống nữa mới có thể tiếp xúc với toàn quốc được. Có nối phong trào được với Thái Nguyên thì khi phát động đấu tranh vũ trang, lúc thuận lợi có thể công, lúc khó khăn có thể thủ. Tầm nhìn của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc
Phần thứ nhất: ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM... 71
trong việc chọn Cao Bằng là một địa bàn có ý nghĩa chiến lược lớn, thấy được mối quan hệ biện chứng giữa một địa phương với toàn quốc, giữa phong trào cách mạng một vùng với phong trào cách mạng cả nước, nhận thức, đoán định được hiện tại và triển vọng tương lai. Trong thời gian chuẩn bị về nước, Người còn tổ chức một lớp huấn luyện chính trị
cho 40 thanh niên Việt Nam yêu nước tại Nặm Quang, Ngàm Tảy (Trung Quốc), trong đó chủ yếu là người Cao Bằng để làm hạt nhân cho việc xây dựng phong trào cách mạng ở địa phương sau này.
Với nhận định đánh giá và sự lựa chọn đúng đắn đó, ngày 28/01/1941 (tức mùng Hai Tết Tân Tỵ), lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc vượt qua mốc 108 (cũ) biên giới Việt Nam - Trung Quốc về đến Pác Bó, xã Trường Hà, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng. Đồng bào Pác Bó - nhân dân các dân tộc Cao Bằng vinh dự, tự hào thay mặt nhân dân cả nước đón người con ưu tú của dân tộc Việt Nam - lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, sau này là Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu của chúng ta, sau 30 năm bôn ba hoạt động ở nước ngoài, tìm đường cứu nước, cứu dân đã trở về Tổ quốc, trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
Trong lịch sử hiện đại Việt Nam, sự kiện ngày 28/01/1941 là một sự kiện chính trị quan trọng, là mốc son đánh dấu bước ngoặt phát triển của cách mạng Việt Nam. Từ đây, Pác Bó - Hà Quảng - Cao Bằng trở thành đại bản doanh của căn cứ Việt Bắc, trở thành chiếc nôi của cách mạng Việt Nam.
Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc về hoạt động và gắn bó với Cao Bằng là sự nối tiếp dòng chảy của thời gian 30 năm Người sống và hoạt động ở nước ngoài. Ngay sau khi trở về
72 ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM - TRÍ TUỆ, BẢN LĨNH, ĐỔI MỚI...
Tổ quốc, Người đã cùng những đồng chí của mình bắt tay ngay vào việc xây dựng căn cứ địa cách mạng; ra sức tổ chức, hoạt động để thực hiện những gì mà suốt 30 năm trước đó Người hằng ấp ủ mong đợi. Do đó, Cao Bằng là nơi diễn ra nhiều sự kiện lịch sử quan trọng gắn liền với tên tuổi của Người, gắn liền với lịch sử vẻ vang của Đảng, của dân tộc Việt Nam. Như Tổng Bí thư Lê Duẩn khẳng định: “Cuộc đời của Bác gắn bó mật thiết với đất nước Việt Nam, với đồng bào Việt Nam, đặc biệt với đồng bào Cao Bằng, với núi rừng Cao Bằng, nơi Bác Hồ đặt chân đầu tiên sau bao nhiêu năm xa Tổ quốc. Đó là vinh dự, là niềm tự hào của Cao Bằng”1.
Với sự có mặt và hoạt động của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và những người đồng chí hướng, miền rừng núi Pác Bó, Cao Bằng hẻo lánh, xa xôi trở thành đại bản doanh của căn cứ Việt Bắc, cái nôi đầu tiên của cách mạng Việt Nam. Từ đây, những tư tưởng chỉ đạo cách mạng của Người được đưa vào thực tế một cách nhanh chóng và linh hoạt, từng bước đưa cách mạng cả nước tới thành công. Trên mảnh đất Cao Bằng lịch sử, Người đã trực tiếp chỉ đạo phong trào cách mạng cả nước, chủ trì Hội nghị Trung ương lần thứ tám (tháng 5/1941) hoàn chỉnh sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược đối với cách mạng Việt Nam, thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh (gọi tắt là Mặt trận Việt Minh); chỉ đạo thành lập các tổ chức quần chúng lấy tên là hội cứu quốc (Hội Thanh niên cứu quốc, Hội Nhi đồng cứu quốc, Hội Công nhân cứu quốc, Hội Phụ nữ cứu quốc, Hội Nông dân cứu quốc...);
________________
1. Lê Duẩn: Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1976, t.2, tr.200.
Phần thứ nhất: ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM... 73
quyết định khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền và quyết định nhiều vấn đề quan trọng khác... Sự chuyển hướng đó đã tạo ra bước nhảy vọt của phong trào cách mạng và có tính quyết định thắng lợi đối với Cách mạng Tháng Tám năm 1945 ở Việt Nam.
Đồng thời, cũng tại Cao Bằng, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã quyết định xuất bản báo Việt Nam độc lập - tờ báo của Tỉnh bộ Việt Minh tỉnh Cao Bằng1; bồi dưỡng, đào tạo, huấn luyện cán bộ, từng bước xây dựng lực lượng vũ trang tập trung; chỉ đạo xây dựng quan hệ quốc tế...; xây dựng Cao Bằng trở thành căn cứ địa cách mạng và tích cực chuẩn bị
mọi mặt cho Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Chấp hành chỉ thị của Người, với sự chuẩn bị khẩn trương của Liên Tỉnh ủy Cao - Bắc - Lạng, ngày 22/12/1944, Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân - tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng ngày nay - được thành lập tại Khu rừng Trần Hưng Đạo (châu Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng), gồm 34 chiến sĩ, do đồng chí Võ Nguyên Giáp chỉ
huy. Trong số 34 chiến sĩ đầu tiên của Đội thì có 25 chiến sĩ là con em các dân tộc tỉnh Cao Bằng (trong đó đồng chí Xích Thắng tức Dương Mạc Thạch làm Chính trị viên).
________________
1. Thời kỳ đầu, báo Việt Nam độc lập (từ số 101 đến số 129) là cơ quan tuyên truyền của Việt Minh tỉnh Cao Bằng, sau là cơ quan tuyên truyền của Liên tỉnh hội Việt Minh Cao Bằng - Bắc Kạn (từ số 130 đến số 186), là cơ quan của Mặt trận Việt Minh Liên tỉnh Cao - Bắc - Lạng (từ số 187 đến số 225); và từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, báo là cơ quan của Mặt trận Việt Minh tỉnh Cao Bằng, Tỉnh hội Liên Việt Cao Bằng (từ
tháng 12/1949); đến tháng 7/1956, thành lập Khu tự trị Việt Bắc, báo Việt Nam độc lập được chuyển về khu, trở thành cơ quan tuyên truyền của Mặt trận Liên Việt Khu tự trị Việt Bắc.
74 ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM - TRÍ TUỆ, BẢN LĨNH, ĐỔI MỚI...
Ngay sau ngày thành lập, ngày 25 - 26/12/1944, Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân đã ra quân diệt gọn 2 đồn địch (Phai Khắt, Nà Ngần). Chiến thắng Phai Khắt - Nà Ngần đã mở đầu truyền thống đánh thắng trận đầu của quân đội ta.
Rất nhiều hoạt động, sự kiện mà lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh thời kỳ mới về nước thực hiện ở Cao Bằng (1941 - 1945) để xây dựng căn cứ địa cách mạng. Sự chỉ đạo trực tiếp và sáng suốt của Người đã thể hiện rõ một hệ thống tư tưởng, quan điểm cách mạng toàn diện, sâu sắc, đúng đắn, phù hợp, nên đã huy động được cao nhất khả năng, năng lực và sức mạnh toàn dân, toàn diện, đồng thời phát huy cao độ tinh thần yêu nước của cả dân tộc.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu, lịch sử Việt Nam đã viết nên những trang đẹp nhất trong thế kỷ XX. Đảng và Bác Hồ đã lãnh đạo, tổ chức toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta vượt qua bao ghềnh thác, đưa con thuyền cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Từ Pác Bó, Người đã nhóm lên ngọn lửa cách mạng và ngọn lửa đó đã bùng cháy, lan rộng khắp cả nước, dẫn dắt, soi đường cho toàn dân đứng lên tổng khởi nghĩa, lật đổ chế độ thực dân, phong kiến, giành chính quyền về tay nhân dân, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vào ngày 02/9/1945, mở
ra một kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Để rồi sau đó chín năm, ngày 07/5/1954, nhân dân ta đã xây tiếp nên tượng đài chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” và kết thúc trọn vẹn sau đó 21 năm bằng Đại thắng mùa xuân 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, đưa cả nước
Phần thứ nhất: ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM... 75
tiến lên chủ nghĩa xã hội, đem lại cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho cả dân tộc Việt Nam... Tất cả những dấu son lịch sử huy hoàng đó đều được bắt đầu từ mốc của mùa xuân năm 1941 khi Bác Hồ về nước.
Trong suốt chặng đường 90 năm thành lập và phát triển, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn kiên định lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động; lãnh đạo toàn dân giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, làm nên những thắng lợi vĩ đại. Từ một nước thuộc địa nửa phong kiến, Việt Nam đã trở thành một quốc gia độc lập tự do, phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa, có quan hệ quốc tế rộng rãi, ngày càng khẳng định được vị thế ở khu vực và trên thế giới. Nhân dân ta từ thân phận nô lệ đã trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội. Đất nước ta từ một nền kinh tế nghèo nàn lạc hậu, đã bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Đặc biệt, thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử của hơn 30 năm đổi mới đã chứng tỏ bản lĩnh vững vàng của Đảng, đồng thời khẳng định vai trò quyết định của Đảng đối với sự phát triển đất nước.
*
* *
Đảng bộ và nhân dân các dân tộc Cao Bằng rất vinh dự, tự hào được góp sức mình vào việc xây dựng căn cứ địa cách mạng và Mặt trận Việt Minh. Cách mạng đã đem lại cho Cao Bằng tầm vóc lịch sử lớn lao là căn cứ địa đầu tiên, “đại bản doanh”, “chiếc nôi của cách mạng Việt Nam” và là quê hương thứ hai của Bác Hồ. Đây không chỉ là niềm tự hào
76 ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM - TRÍ TUỆ, BẢN LĨNH, ĐỔI MỚI...
của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc Cao Bằng, mà còn là nguồn động lực to lớn, trở thành nguồn lực nội sinh, thúc đẩy mạnh mẽ các phong trào thi đua yêu nước trong các tầng lớp nhân dân trên các lĩnh vực phát triển kinh tế - xã hội và xây dựng Đảng qua các thời kỳ, giai đoạn cách mạng của tỉnh Cao Bằng.
Đã gần 80 năm trôi qua, kể từ khi Cao Bằng đón Bác Hồ trở về Tổ quốc lãnh đạo cách mạng Việt Nam, cùng với cả nước, nhân dân Cao Bằng luôn phát huy truyền thống quê hương cách mạng, nỗ lực phấn đấu và đạt được những thành tựu to lớn trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; trong công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Là một tỉnh miền núi, điểm xuất phát thấp nên gặp nhiều khó khăn trong phát triển kinh tế; thời gian qua, tỉnh đã và đang tập trung tháo gỡ ba điểm nghẽn, nút thắt; huy động mọi nguồn lực để thực hiện ba đột phá chiến lược; phát huy tối đa các tiềm năng, lợi thế để phát triển kinh tế - xã hội, đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chăm lo, nâng cao đời sống nhân dân. Đặc biệt trong giai đoạn 2011 - 2019, tỉnh đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng: Kinh tế phát triển ổn định, tốc độ tăng trưởng kinh tế (GRDP) trung bình đạt trên 7%/năm. Nhiều dự án lớn đã và đang hình thành, đi vào vận hành; tỉnh đã và đang huy động các nguồn lực để
phát triển du lịch thành ngành kinh tế mũi nhọn; phát triển nông - lâm nghiệp ứng dụng công nghệ cao và phát triển kinh tế biên mậu... Cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội được đầu tư, mở rộng, phát triển, nhất là các khu kinh tế cửa khẩu, các điểm du lịch. Tình hình chính trị luôn ổn định, quốc phòng - an ninh được giữ vững và tăng cường; diện mạo đô thị,
Phần thứ nhất: ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM... 77
nông thôn, miền núi có nhiều đổi mới, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân không ngừng được cải thiện. Tỷ lệ hộ nghèo được giảm mạnh qua từng năm (giảm khoảng 4%/năm). Đến nay, 100% xã có đường ôtô và điện lưới quốc gia, 100% xã được phủ sóng điện thoại di động, 90% dân cư được dùng nước sinh hoạt hợp vệ sinh. Khối đại đoàn kết các dân tộc thường xuyên được củng cố và phát huy. Công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị thường xuyên được củng cố vững chắc, từng bước nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động.
Tự hào về Đảng quang vinh, về Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại qua 90 năm lịch sử vẻ vang; trân trọng, tự hào và phát huy những thành quả của 520 năm thành lập tỉnh Cao Bằng (1499 - 2019) và 90 năm thành lập chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên của tỉnh Cao Bằng (01/4/1930 - 01/4/2020); thấm nhuần sâu sắc lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng như tình cảm của Người đối với quê hương cách mạng Cao Bằng, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc Cao Bằng quyết tâm xây dựng tỉnh Cao Bằng trở thành tỉnh năng động, phát triển, “gương mẫu”, “đi đầu” như lời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn, xứng đáng với niềm tự hào và truyền thống của quê hương “cội nguồn cách mạng”.
78
ĐẢNG LÃNH ĐẠO
CÁCH MẠNG DÂN TỘC DÂN CHỦ NHÂN DÂN (1930 - 1975) - 90 NĂM NHÌN LẠI
PGS.TS. NGUYỄN DANH TIÊN*
1. Quá trình Đảng lãnh đạo cách mạng Việt Nam (1930 - 1975)
Mùa xuân năm 1930, từ ngày 06/01 đến ngày 07/02/1930, tại bán đảo Cửu Long, Hồng Công (Trung Quốc), dưới sự chủ trì của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản, thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam được tổ chức. Đảng Cộng sản Việt Nam thành lập là thành quả của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Cương lĩnh chính trị đầu tiên được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng xác định mục tiêu chiến lược của cách mạng Việt Nam là “làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập”1, “để đi tới xã hội cộng sản”2. Việc thành lập Đảng và đường lối cách mạng Việt Nam thể hiện trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên đã đáp ứng
________________
* Viện trưởng Viện Lịch sử Đảng, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. 1, 2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.2, tr.2.