"
Đàn Cò Trằng Bay Qua Miền Ký Ức full prc pdf epub azw3 [Tập truyện ngắn]
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Đàn Cò Trằng Bay Qua Miền Ký Ức full prc pdf epub azw3 [Tập truyện ngắn]
Ebooks
Nhóm Zalo
ĐÀN CÒ TRẮNG BAY QUA MIỀN KÍ ỨC Tuyển Tập Truyện Ngắn Nhiều Tác Giả Tập hợp, làm Ebook: Cuibap
Cover: silence00
Nguồn: vanchuongviet.org
Bìm Bìm Mãi Tím
Chế Diễm Trâm
Vừa kết thúc hợp đồng cuối năm, tôi đặt vé máy bay về nước ngay. Vợ tiễn tôi ra sân bay, nàng ôm tôi hơi chặt, hôn hơi dài. Bố vợ tôi không được khỏe nên lần này tôi về một mình. Chắc nàng lo lắm, có lẽ nàng nghĩ tôi về mà không có nàng giống y cái xe không có thắng. Mà cũng phải, lần hai đứa về ra mắt má tôi và họ hàng, nàng chứng kiến tôi bù khú với mấy thằng bạn cũ ì xèo. Tội nghiệp, nàng chỉ dám ngồi bên cạnh, lâu lâu đá ngầm chân tôi dưới gầm bàn, chờ khi tôi quắc cần câu, nàng gọi taxi chở về nhà, rên rẩm với má tôi một hồi. Má tôi hồi đầu la thằng con cho mát lòng con dâu, sau thấy tôi bê tha thiệt, bà già cự dữ dội. Lạ, nàng lại quay ra bao che cho tôi. Khi tôi say, nàng kêu xe chở thẳng hai tên về khách sạn, sáng mai tôi tỉnh ra mới trở về nhà, còn nói dối má tôi là hồi tối về nhà thằng bạn thân tôi ngủ lại.
Tôi gặp nàng khi một mình trên xứ người, tơi như cái giẻ. Tôi đi làm thêm để kiếm tiền chi tiêu và gửi về phụ gia đình. Mỗi tháng tôi đến xén cỏ cho khu vườn nhà nàng một lần, còn tưới cây thì một lần vào cuối tuần. Mười lần như chục, khi tôi bấm chuông căn nhà đẹp như địa đàng ấy và người giúp việc mở rộng cổng, tôi đều thấy nàng đu đưa trên cái xích đu sơn trắng và mở to mắt nhìn tôi như đã chờ đợi tôi từ lâu lắm. Bao giờ tôi cũng nghiêng đầu chào nàng trước khi bắt tay tưới cây, cắt cỏ.
Nhà nàng có hai cha con, mẹ nàng mất khi nàng non nỉu như trái bắp măng tơ trên cây. Tôi săn được học bổng du học toàn phần nên quyết chí đi, mọi sinh hoạt phí đều tự lo để má tôi không phải lo lắng. Tôi làm tất cả mọi việc, từ giao báo mỗi sáng sớm đến xén cây, dọn vườn vào những ngày nghỉ, cả rửa chén bát cho hàng ăn vào mỗi tối. Thế là, tôi đã trở thành người chăm sóc vườn cây của gia đình nàng, chính xác là của nàng.
Nàng đẹp mong manh. Như một nhành lan. Nàng yêu cây lá theo cách thật cảm động. Trong vườn có mấy cây táo, mấy gốc đào, ít tán cherry… Mùa trái chín nàng chờ mong tôi đến để hái quả giúp nàng. Và ngắm, vuốt ve, không nỡ ăn.
Một ngày, nàng rụt rè nhờ tôi thiết kế giúp nàng một giàn cây.
- Để làm gì?
- Em thích một giàn hoa leo, thật mềm mại.
- Em định trồng hoa gì?
- Dạ hoa bìm bìm.
Suýt chút nữa tôi la lên. Sao nàng lại thích ngay cái loài hoa dại ấy, loài hoa mọc khắp hàng rào, tường vôi, bờ bãi bên nhà thờ đổ ngày xưa ấy vẫn thỉnh thoảng gậm nhấm dây thần kinh tim tôi, vẫn loi lói dưới lần áo mỗi khi tôi nhớ về.
Tôi chọn học ngành kinh tế vì nhà tôi không khá giả gì, ba má tôi còn phải lo cho hai đứa sau tôi đang tuổi ăn học. Nhưng tôi không dừng được niềm đam mê hội họa. Hết giờ học, tôi hay la cà đến Nhà thờ Đức Bà xem mấy đứa sinh viên phác phác họa họa. Tôi làm quen với một nhóm sinh viên Mỹ thuật, lâu dần thành thân. Vẽ ở đâu tụi nó cũng hú hé. Có khi tôi còn góp ý, còn vẽ giúp tụi nó nữa. Hê hê…
Một hôm, thằng Phấn trong nhóm gọi tôi hỏi mày đi Đà Lạt với tụi tao không? Đi xe máy, nhỏ Linh có xe nhưng thiếu tài. Ok, nhưng… Dường như nó hiểu ngay nỗi khó nói của tôi. Tài chính hả, yên tâm, yên tâm, có tao!
Tôi dân tỉnh lẻ chính hiệu con nai vàng, nhà lại nghèo nên chả bao giờ rủng rẻng. Thấy tôi ngại ngần, thằng Phấn dúi vô túi áo tôi hai triệu để đóng cho bọn con gái làm thủ quỹ. Tôi thầm hứa lòng mình, khi nào đi làm có tiền tôi sẽ gửi lại cho thằng Phấn ngay.
Nhỏ Linh bám tôi đến phát sượng. Linh không đẹp nhưng cũng dễ thương, hay cười. Nhưng tôi dứt khoát không yêu nó được vì mỗi tội ngồi sau cứ áp sát vào lưng tôi làm tôi không thoải mái tí nào! Tôi hơi bảo thủ: con gái vậy thì hơi dễ dãi, chơi vui thì được, yêu thì ghen tuông mệt mỏi chết.
Vậy nên lên tới Đà Lạt sau một ngày lang thang đồi thông vẽ một bộ tranh những hạt nhựa thông màu hổ phách trong veo như những giọt cà phê nâu nguyên chất, nhỏ Linh sụt sịt, ách xì mấy cái là tôi bắt nó uống thuốc cảm nằm nhà đắp mền kẻo ốm. Tội, cô bé nghe cái rụp như lời thánh phán, chắc nó nghĩ tôi lo lắng cho nó thật sự.
Một mình một yên, tôi bỗng muốn tách bọn thằng Phấn một ngày để lang thang những cung đường cao nguyên, một mình nghe cảm giác cô đơn lan tỏa. Thằng Phấn hình như rất hiểu kiểu ngựa chứng của tôi, không cần hỏi lý do lý trấu gì cả, chỉ dặn chiều nhớ về sớm, trên này trời tối nhanh nhen mày.
Ừ với nó xong, lòng tôi tự dưng buồn buồn chi lạ. Nhưng, màu đất đỏ của những con đường cao nguyên uốn lượn có sức hút ghê quá. Tôi lên xe đi về phía đám mây xám mờ mờ. Vô định. Với một câu nói của ai đó: “Một cái đầu đầy nỗi sợ hãi sẽ không còn chỗ trống cho những ước mơ”. Sự hấp dẫn của những con đường lạ là những thú vị bất ngờ để nghe râm ran thích thú trong đáy tim. Cả thử nghiệm một chút âu lo về những bất trắc có thể xảy đến, sức chịu đựng của tấm lưng dài bờ vai rộng tuổi đôi mươi.
Đang mơ mơ trên đường bỗng tôi nhận ra một giáo đường bỏ hoang với một mảng tường là cả thảm hoa lá bìm bìm lơi lả. Những bông hoa hình chuông tím dại tím khờ như đang ngân rung bản nhạc Jingle bells theo phong cách dân dã nhất. Tôi dựng chưn chống xe, bắt đầu tìm một vị trí để phác thảo bức tường đan dệt bằng màu lá xanh ngút và những cái chuông tím rung rinh. Tôi sắp cảm nhận sự bất lực của chì đen trong việc tái hiện sắc tím đang loang dần từ nhụy hoa ra đến rìa cánh thì hình như có bóng ai thấp thoáng sau bức tường. Tôi chầm chậm lần vô, thoáng giật mình vì một mái tóc dài mướt rượt. Con gái! Một nhánh cây vướng mũi giày làm tôi suýt chúi nhũi. Nàng quay lại có vẻ hơi hoảng sợ. Đúng con gái Đà Lạt, mỏng manh như dây tơ. Trời, một cái giá vẽ màu nước với bức họa giậu đổ bìm leo trong trẻo nhưng buồn tê tê.
Tôi khựng lại ngắm bức phác thảo, phải công nhận là đẹp nhưng sao thiêu thiếu một cái gì. Thấy tôi chỉ chăm chăm cái giá vẽ nên có lẽ nàng hơi yên tâm, nhìn tôi như chờ đợi. Tôi nheo mắt, nghiêng ngó:
- Em xem, bức tranh của em thiếu các cấp độ từ lam sang hồng tím, hoa của em ngả hết sang tông tím than, đúng không?
Nàng nhìn tôi, ngỡ ngàng gật đầu. Tôi bước đến bên bức tường, nâng một đọt lá cong như lò xo và còn vẹn nguyên những sợi lông măng:
- Em phải thể hiện cả cái nguyên sơ ngời lên trong nắng của cái đọt lá này nữa! Bỗng, tôi nghe nhói lòng bàn tay một phát. Một con rắn lục vừa thụt đầu vào đám lá xanh um. Tôi la lên:
- Rắn!
Nàng tái xanh, run rẩy như cành lau rũ ướt sương đêm. Nàng bối rối, cuống quýt và nước mắt bắt đầu lăn.
Tôi ôm chặt cổ tay, bảo nàng tìm cho tôi một sợi dây. Tôi muốn buộc ga rô trước khi ra đến bệnh viện gần nhất. Tôi bảo nàng bứt cho tôi một sợi dây bìm bìm nhưng tay nàng run lật bật, bứt không nổi một đoạn già gần gốc. Bất ngờ, tôi thấy nàng xổ tung ba lô, tìm thấy chùm chìa khóa đính một cái cắt móng tay. Nàng quay lưng cởi áo ngoài, lột chiếc soutien, cắt hai sợi dây nối lại rồi cột cánh tay tôi. Trong phút chốc, tôi như ngừng thở trước vẻ đẹp
ngọc ngà của tấm thân nàng.
Nàng chở tôi đến bệnh viện gần đó. Lạ kỳ, sợ hãi đến lạnh người mà tôi vẫn còn đủ sức ngả đầu lên vai nàng, hít mùi hương trên vai, trên cổ, trên tóc nàng. Nàng tưởng tôi sắp ngất nên càng đưa lưng ra cho tôi tựa hẳn vô. Ôi, cái thằng quỷ tôi!
Những ngày sau đó, tôi nằm lại bệnh viện. Nàng chăm như chăm em bé. Tôi sướng ngất ngây, quên cả cái cánh tay phù to vật vã. Thằng Phấn vô thăm, nhìn thấy nàng đang đút cháo cho tôi, nó ghé sát tai tôi, chúc mừng mày, thằng số đỏ! Hehe. Nhưng nó đâu có biết nỗi khổ tâm của tôi, hễ tôi nắm tay nàng là y như rằng nàng rụt tay lại, đứng lên lấy cớ đi lấy nước cho tôi, giặt khăn cho tôi.
Thằng bạn chí cốt ghé tai tôi hỏi nhỏ mày có cần tụi tao ở lại chăm mày không? Nhưng tôi ra hiệu không cần. Tôi muốn được nàng chăm sóc hơn! Chỉ mong nó thu xếp sao cho xe nhỏ Linh về lại thành phố. Nó vờ nhăn nhó nói với nàng, bọn anh lên đây có hai thằng thôi mà anh phải về thành phố có việc rất gấp, nhờ em coi ngó thằng bạn anh giúp anh. Nàng hồn nhiên:
- Anh yên tâm, anh cứ lo việc anh đi. Khi nào anh ấy xuất viện, em sẽ nhắn anh lên đón anh ấy về.
Nhưng chưa đầy một tuần sau, tôi nhận được tin ba tôi ở nhà bệnh nặng. Tôi xin xuất viện sớm, và từ biệt nàng trong lưu luyến, rồi đáp xe đò về thẳng quê. Ba tôi không qua khỏi bạo bệnh. Gia cảnh đi vào một trận bão, trong tâm bão. Tôi vừa học vừa làm, phụ má nuôi hai em ăn học, quên cả đam mê hội họa.
Tôi săn học bổng du học với ước mơ đổi đời cho má, cho các em và mình. Tôi an ủi má và các em ráng chờ một vài năm. Tôi lao vào học và làm như điên, thỉnh thoảng kỷ niệm cũ có sống dậy cũng chỉ thấy tim mình loi lói một chút rồi cũng êm lặng như mặt nước một hồ nhỏ kín gió.
*
Khi vợ tôi bây giờ đòi làm một cái giàn cây để trồng dây bìm bìm thì kỷ niệm từ đâu bừng dậy như mới vừa xảy ra thôi.
- Tại sao em không trồng hoa gì khác mà phải là bìm bìm?
- Em thích màu tím, tím hồng, tím xanh thủy chung của nó. Nó là loài hoa bình dị, đẹp khiêm nhường và mang một sức sống bền bỉ!
Tôi lố mắt nhìn nàng. Nàng học ở đâu ra cả một lô xách xông ý nghĩa loài hoa sớm nở trưa tàn ấy? Nàng như sợ tôi không đồng ý dựng cái giàn cây, phụng phịu như sắp khóc: - Em không thích những loài hoa đài các. Em thích vẻ đẹp tự nhiên, chân mộc. Em yêu sức sống mãnh liệt của hoa bìm bìm. Em rất thích màu tím khiêm nhường của nó… - Thôi thôi, được rồi! Anh sẽ dựng cho em!
Lần đầu tiên, nàng nhảy đến ôm ngang hông tôi để bày tỏ lòng biết ơn. Tôi thấy rân rân ở vành tai.
Không biết nàng nói gì với bố nàng, mà hôm sau ông mời tôi vô phòng khách với đề nghị tăng lương vì sẽ tăng số buổi làm việc trong tuần. Tôi thành thực đáp rằng mỗi tuần tôi đến một lần là đủ nhưng ông tha thiết đề nghị tôi hai, ba ngày đến một lần để chăm giàn hoa và khu vườn cho con gái rượu của ông. Nghĩ đến món tiền gửi về cho má và các em mà tôi mừng thầm.
Năm tháng sau giàn bìm bìm Nhật Bản bắt đầu bói hoa. Lác đác những chiếc chuông tím rung rinh theo gió. Nàng hân hoan nói với tôi rằng lúc ấy nàng có thể nghe chúng đang thì thầm ngân nga những bản thánh ca. Tôi thì thấy nàng lúc đó sao mà thánh thiện.
Tôi nhón ra một ít tiền lương để mua giá vẽ, giấy và bút. Đam mê của tuổi trẻ thức dậy cựa quậy. Và tôi dự định làm một bộ tranh về hoa bìm bìm nhún nhường, nền nã nhưng lung linh và không kém phần rực rỡ: hoa đơn, hoa chùm, hoa và lá, hoa và đọt lá cong mịn màng lông tơ, cả giàn hoa tím hồng dưới nắng mai, rồi tím thẫm trong màn mưa xiên xiên…
Tôi bắt đầu nghiên cứu hoa đạo Nhật Bản, cách viết thư pháp thơ haiku của xứ sở Mặt Trời Mọc. Rồi tác phẩm Triêu nhan theo lối tranh thủy mặc của tôi nên hình nên hài. Một bức tường đá ong lỗ chỗ dấu vết thời gian, mấy chà cây trụi lá bên cái cổng gỗ xiêu vẹo đỡ một giàn triêu nhan tím bừng trên màn lá hình tim rậm rịt xanh. Mấy ngồng tơ non cố vươn tay qua cổng gỗ, hướng về tường đá rồi bất thần lả lơi trong màu nắng thu thưa thớt. Xong, tôi đề lên đó một bài thơ haiku của Basho:
Triêu nhan một đóa
Suốt ngày chốt cửa
Cài vào cổng tôi
Một ngày. Tôi gói bức tranh, trịnh trọng mang đến tặng nàng. Nàng đặt bức tranh lên nền nhà, rồi quỳ xuống đưa đôi bàn tay rờ rẫm từng cánh hoa, phiến lá. Nàng thì thầm đọc mấy câu thơ. Và vẫn tư thế nửa quỳ nửa ngồi, nàng ngước mắt nhìn tôi. Với hai hàng mi đẫm lệ. Cái áo trắng cổ hơi trễ nhìn từ trên cao xuống khoe một bờ vai thanh mảnh và trắng trong. Y như người con gái năm nào.
Nàng đón lấy từng lời tôi về ý nghĩa ẩn kín của bài thơ haiku. Vì yêu bông hoa triêu nhan bám trên cổng mà không dám mở cổng, suốt ngày chốt kín im ỉm. Thấy nàng dường như nín thở, tai thì lắng nghe tôi nói, còn mắt dán vô bức tranh, tôi cao hứng thêm: còn có nhà thơ thương cái đẹp mong manh của triêu nhan vương vào dây gàu mà không nỡ múc nước, đành đi xin nước nhà bên…
Bất giác, nàng ôm lấy chân tôi và run run lời cảm ơn. Tôi đỡ nàng đứng dậy. Nàng đứng sát vào tôi, tin cậy. Tôi ôm châu thân ấy vào lòng, nàng khép mi chờ đợi. Tôi đặt một nụ hôn đầu đời lên môi nàng. Cả hai run lên, tựa sát vào nhau. Lần đầu tiên tôi biết thế nào là hôn nhau. Với nàng thì càng chắc chắn thế.
Chúng tôi thành đôi. Bố nàng thương tôi như con đẻ. Tôi yêu nàng. Trong tình yêu của tôi có chút tình thương dành cho người em gái. Nàng yêu tôi, trong thứ tình tôn sùng. Tôi có riêng một phòng làm phòng tranh. Và giấc mơ phong cách tranh Morning Glory của tôi thành hình. Lạ thay, bức triêu nhan nào của tôi cũng đầy hơi hướm Đà Lạt. Đêm đêm, trong giấc mơ tôi, kỷ niệm Đà Lạt lại hiện về, day dứt một niềm ân hận không hề nhẹ. Ngày tôi đi học xa, tôi không có điều kiện để tìm nàng, nói một lời cảm ơn. Không có cái hành động quyết liệt ấy của nàng chưa chắc tôi sống sót mà ra viện. Nhưng biết tìm nàng ở đâu bây giờ?
Công việc cuối năm thưa bớt, tôi nói với vợ, tôi cần về nhà. Để trông coi xây lại mộ phần ba tôi. Và trong đầu tôi lớn dần ý nghĩ: tôi phải lên Đà Lạt đi tìm người thiếu nữ vẽ bức tường giáo đường tím thẫm hoa bìm bìm.
Tôi chọn chuyến xe đến nơi vào đầu giờ chiều. Bắt một chiếc taxi với yêu cầu chạy thật chậm để tôi nhớ đường. Không khó để tìm lại con đường trập trùng bóng thông thẳng tắp. Nhưng vòng tới vòng lui mà vẫn không thấy ngôi nhà thờ cổ bỏ hoang. Chỉ toàn những biệt thự sang trọng, những nhà hàng cao cấp ẩn hiện bên những gốc thông già và những vạt dã quỳ vàng nhức. Thấy tôi đã bắt đầu thất vọng, anh tài xế rụt rè lên tiếng:
- Anh cần tìm nhà ai?
- Em có biết một giáo đường cũ bỏ không đoạn đâu đây không?
- Hình như lâu lắm rồi, anh à. Nó sụt dần. Rồi người ta phá bỏ…
- Trời!
Tôi tiếc một thánh đường. Và tôi hoang mang: biết tìm nàng ở đâu bây giờ? Tôi trả tiền taxi và xuống đi bộ. Không khí mát mẻ làm lòng tôi dịu bớt. Tôi lang thang mong có chút thông tin gì chăng. Một quán cà phê nhỏ giữa con dốc với tấm bảng gỗ thông khắc bằng bút lửa cái tên “HOA BÌM BÌM” và hai bên hai trụ bìm bìm tim tím đập vào mắt tôi. Tim tôi loạn xạ hy vọng. Cô chủ quán mặc một chiếc áo len tím hoa cà nhìn tôi lạ lẫm. Có lẽ do tôi ăn mặc trịnh trọng, không giống khách bụi thường thấy bây giờ chăng?
Tôi gọi một ly cà phê nguyên chất. Khi cô chủ mang phin cà phê ra, tôi vô ý huơ tay làm
sóng sánh những giọt nước sôi văng lên vạt áo ấm tím. Tôi xin lỗi nhưng cô một mực xin lỗi tôi. Thật cảm kích! Mấy phút sau, cô xuất hiện với một chiếc vest trắng vẽ nơi chân cổ một đóa bìm bìm. Tôi đứng hình. Bởi cô đẹp quá. Và bởi cái bông hoa kỳ lạ kia. Bìm bìm hiện hữu ở cái quán này không ít: cổng vào…trên áo…
Cô chủ quán vào ngồi lặng lẽ phía trong quầy. Tôi không dám đường đột lên tiếng. Mãi đến khi gọi cô tính tiền, kèm một ít tiền boa nhưng cô dứt khoát gửi lại, tôi mới dám rụt rè hỏi về ngôi giáo đường cũ nát ngày xưa.
- Ông không phải người ở đây sao ông lại biết nó?
- Tôi đã từng đến đây vẽ và tôi có biết một người con gái cũng chính tại nơi này! - Cô ấy tên là gì?
- Cô ấy tên Mai!
Cô chủ quán biến sắc:
- Anh là Quân?
- Sao cô biết???
- Chị Mai em kể về anh nhiều lắm…
- Mai bây giờ ở đâu, em???
Cô ấy đưa tôi vào nhà. Trên bức tường treo bức tranh hoa bìm bìm Mai vẽ ngày ấy. Không lẫn vào đâu được. Trong khi tôi còn đang dán ánh nhìn vào tấm tranh thì cô em níu tôi đến trước bàn thờ. Mai đó ư? Sao vậy, sao Mai của tôi lại ở đây? Mai ơi!
Nước mắt tôi giàn giụa. Hạnh – em Mai – nức nở kể cho tôi nghe về cái chết của Mai. Trên đường đi làm về, Mai bị chiếc xe du lịch mất thắng hất vào gốc thông. Cô ấy mãi mãi trinh nguyên. Cô ấy đã tin rằng thể nào tôi cũng quay lại tìm. Cô ấy từ chối hết những lời tỏ tình của những chàng trai trẻ giàu có, đẹp trai, phong độ.
Một thằng đàn ông như tôi mà khóc như mưa gió. Tôi hận tôi quá, tôi là thằng tệ bạc. Tôi là kẻ vô ơn. Tôi không thể tha thứ cho tôi. Những ngày ấy nàng đã đợi tôi trong lê thê. Không một lời trách móc. Vậy mà tôi cắm đầu ra đi tìm một chân trời cho mình. Không một lời từ giã. Trời ơi!
Vợ chồng Hạnh giữ tôi lại mấy ngày, cho chị Mai vui. Hạnh bảo thế. Hạnh đưa tôi ra mộ Mai. Và đến cả chỗ nhà thờ cũ, giờ là một trại hoa oải hương tím ngát. Tôi như thấy Mai với bờ vai trần, hy sinh chiếc áo và cả nỗi e thẹn của người con gái để cứu tôi. Tôi ngước lên trời cao. Một làn mây tím đang bay về cuối trời.
Tạm biệt vợ chồng Hạnh, tôi mang theo bức tranh hoa bìm bìm như ý nguyện Mai từng thổ lộ mỗi khi Mai kể về tôi với Hạnh.
Bây giờ bức tranh ấy ở ngay chính giữa phòng khách của nhà tôi. Bên cạnh là bức Triêu nhan tôi tặng vợ ngày nào. Tôi đã kể với vợ. Nàng thút thít như một đứa trẻ và hối tôi đưa nàng về Đà Lạt.
Giờ, nàng thương Hạnh còn hơn tình chị em ruột thịt.
Khúc mở đầu:
Tạ Ơn
Chế Diễm Trâm
Trước 14/2 một ngày, tình cờ tôi đi nhà sách với gã bạn, lòng trống trải, cả thế giới như đột nhiên biến đi đâu mất hết. Nhìn những chiếc gối hình trái tim hồng hồng đỏ đỏ có thêu chữ “Valentine's day”, tôi thờ ơ tự hỏi liệu người ta có thể dễ dàng trưng phô hết trái tim mình cho người khác? Tôi biết, hôm nay có biết bao người mong chờ nhận được từ tôi một món quà nhỏ như một lời thừa nhận tình yêu nhưng tôi không còn tha thiết yêu đương gì nữa. Đêm về, tôi viết một bài thơ hẹn với mình sang năm xin thôi cô đơn:
Không có ai để gửi quà Valentine
Khi vào nhà sách PN cùng NM có chưng bày rất nhiều quà cho ngày Valentine,
Tôi bất giác nói sao mình không có ai để tặng quà Valentine?
Có lẽ càng lúc càng cô độc buồn bã
Đã bao nhiêu chục năm đi qua tôi không còn nhớ ngày tình yêu,
Hay vì không còn ai để nhớ…hay mọi người cũng đã quên mình?
Ngày hôm nay lỡ đã qua…xin nhớ sang năm…
Ai gọi điện thoại cho tôi một lần bằng tình cảm để tôi nhớ Valentine năm tiếp
Và một mình gửi quà Valentine
Để tôi biết không còn lẻ loi
Sẽ còn làm những bài thơ tình để gửi…tung lên vòm trời lời chúc vào đêm…
Nhưng tôi vẫn chúc bạn bè cho đêm Valentine, các bạn sẽ yêu chân tình,
Nhận món quà nồng nàn không lời dối trá
Tôi quên đi những tình yêu quá khứ đã nhiều năm qua đi
Ngày Valentine, tôi sẽ đi lang thang ngắm biển, nhìn đám đông vui và tôi mỉm cười Tôi sẽ nhận ra ai thầm thì cho những lời yêu nhau
Và mọi người sẽ yêu nhau chân tình để bỏ lại những tháng năm quá nhiều cô độc. 13.2.2012
Đêm tình nhân. Tôi đang lang thang trên mạng, bỗng có email đến. Lại một người bỏ quên thế giới như mình? Em hỏi tôi hôm nay có gì vui không và phải gửi bao nhiêu món quà mới đủ trả nợ lòng. Tôi mail cho em bài thơ tôi viết tối hôm qua. Em đọc, không biết có xót xa hay không, nhưng hình như là không tin, nên lát sau trả lời: “Chúc mừng anh khỏi tốn tiền mua quà!”. Tôi bật cười thành tiếng, thầm cám ơn em đã nhắc tôi ý này, hẹn sang năm nếu vẫn một mình, tôi sẽ làm bài thơ tạ ơn trời vẫn cho tôi khỏi phải tốn tiền quà. Em bên kia chắc sợ tôi phật lòng nên rụt rè an ủi: “Nỗi buồn không có ai để tặng quà liệu có bằng nỗi buồn không có ai tặng quà?”. Tôi không tin một người như em ngày này lại không có ai gửi tặng một bông hồng. Đàn ông vốn rất biết tận dụng cơ hội để đạt được mục đích nào đó. Mà em thì cả tin biết bao. Nhưng tôi cứ cho là em nói thật, tôi nói sang chuyện khác rồi “G9” nhau.
Nằm một mình trong bóng tối, nghe gió và tán lá hát với nhau lao xao trên khung cửa sổ, tôi cố hình dung khuôn mặt em nhưng sao nhạt nhoà.
Em chưa là gì cả với tôi.
Tôi biết em qua một người bạn. Tôi và hắn cà phê với nhau, hai tên đàn ông ngồi tán mãi cũng hết chuyện. Hắn gọi cho em nói đến đây đi, có một người khách đặc biệt. Em nói đang bận công việc, xin lỗi chưa chắc đến được. Sau đó em im luôn, không gọi lại lời nào. Tôi thắc mắc cô nàng có kiêu lắm không, hắn cam đoan em bận thật, nếu không chắc chắn em sẽ đến.
Mấy tháng sau, tôi lại đến thành phố ấy, cũng ngồi với bạn, hắn cũng gọi em, em lại xin lỗi bận việc, không đến được và rồi cũng im luôn. Tôi thấy tò mò, sao có người bận bịu thế không biết và cũng “bất lịch sự” thế không biết.
Lần thứ ba, trước khi quay trở lại nơi ấy, tôi phone trực tiếp cho em, hỏi ngày mai có thể café không? Em nói hàng hai, để em thu xếp. Sau cuộc họp ở cơ quan, mãi ba rưỡi chiều, em gọi hỏi tôi đang ở đâu. Quán trưa có mỗi mình tôi nên em nhận ra ngay. Em có vẻ vội vã nhưng hơi rụt rè. Quần jean áo trắng giản dị, cười nói tự nhiên, không như tôi nghĩ. Em có vẻ thích nghe người khác nói hơn là tự bộc lộ mình. Rồi chỉ cười. Tôi nói hăng đến nỗi khi em về rồi tôi cũng chưa nhớ kỹ khuôn mặt em.
Em chưa là gì cả với tôi…
Đoản khúc hai:
Hôm nay lễ Valentine. Đến cơ quan, tôi bất ngờ nhận được một bưu phẩm. Vội vàng chui vào toilet, mở gói quà ra, một chiếc khăn san tím tím nâu nâu. Tôi thấy trong gương, môi tôi run run, mặt tôi tái nhợt khi tôi quàng thử chiếc khăn qua cổ. Mắt mũi đỏ lên, tôi vội vàng cuốn lấy chiếc khăn nhét vội vào hộp rồi trở về chỗ ngồi. Người tôi lạnh như cọng cỏ sớm đẫm sương. N. vẫn còn nhớ tôi thích màu tím, N. vẫn nhớ tôi có sở thích đi đến đâu cũng mua một chiếc khăn về làm kỷ niệm? N. vẫn nhớ tôi sao? Đắn đo hồi lâu, tôi gửi một tin nhắn làm ra vẻ lạnh lùng nói lời cảm ơn ngắn gọn. Mãi lâu mới thấy tin nhắn N. đến, cũng ngắn ngủn, chúc ngày Valentine ngọt ngào. Chắc N. đang họp.
Tối, nằm một mình, chương trình tivi chán ngắt, tôi nhắm mắt rồi mở mắt, không biết giờ này N. đang làm gì. Điện thoại im như cục gạch. Tôi vùng dậy, mở máy, định đọc một cái gì để đừng nghĩ ngợi đau đầu, chợt thấy nickname anh sáng lên xanh ngát. Người như anh mà tối hôm nay lại nằm nhà? Tôi gửi một email hỏi anh sao lại ở nhà. Anh gửi tôi bài thơ anh viết hôm qua, đại ý không có ai để gửi quà Valentine nên đành gửi lên vòm trời lời chúc những người yêu nhau hãy yêu thật lòng. Tôi chạnh lòng, biết làm sao là yêu chân tình. Tôi làm như rất cứng cỏi, nói đùa một câu chúc mừng anh khỏi tốn tiền mua quà. Gửi đi, tôi ân hận quá, biết anh có giận, có buồn? Tôi vội nhắn thêm mấy chữ về nỗi buồn không được ai tặng quà còn buồn hơn không có ai để gửi quà cho. Tôi tự giả định nếu hôm nay N. đừng gửi quà thì lòng tôi có u ám thế này không? Ngay giây phút ấy tôi cảm nhận thấm thía sự trống trải. Giá đừng có ai nhớ đến thì có lẽ hay hơn. Hoặc là được nhận trọn vẹn hoặc là thôi hẳn, nửa vời thế này liệu có khác gì một liều thuốc an thần cho một con bệnh nan y. May quá, anh cũng không khơi vào nỗi buồn của tôi, cũng không hỏi lại tôi hôm nay thế nào. Tôi đoán anh chẳng quan tâm nói gì với tôi.
Anh vẫn là một người xa lạ.
Đoản khúc ba:
15/2. Không đợi được cho tới khi sáng hẳn, tôi nhắn tin cho em với lời chúc một ngày mới và hỏi liệu có thể gọi cho em lúc nào. Em kể một lô công việc trong ngày. Tôi hiểu chỉ có thể gọi cho em vào buổi tối. Tôi nhẫn nại đợi đến chín rưỡi tối, nghe giọng em ở đầu dây cách tôi mấy chục cây số, tôi biết em cố che đậy sự yếu đuối. Nói mấy chuyện không đâu, kể một chuyện vui, nghe giọng em cười, tôi hình dung nụ cười em không tròn. Em cũng cô đơn như tôi. Tôi gọi em là số phận của tôi nhưng em lái sang chuyện khác. Thật tình, lúc đó, tôi cố nói cho lãng mạn. Tôi đang muốn có ai đó hoá thân vào hình tượng người đàn bà cô đơn trong bộ tác phẩm dở dang của tôi. Tội nghiệp, tôi nghe em khóc. Em khóc vì thương tôi hay thương thân. Tôi cũng không nghĩ gì nhiều, cứ để mọi thứ tự cuốn đi.
Đoản khúc bốn:
Tôi có một đêm chập chờn. Tôi vốn khó ngủ, tối nào suy nghĩ một chút, dụ dỗ thế nào giấc ngủ cũng không đến. Tôi nằm đến tiếng thằn lằn tặc lưỡi - hãy quên N. đi, hãy quên N. đi, hãy quên N. đi…Từ lâu lắm rồi, N. hờ hững với yêu đương, chỉ mê mải danh vọng. Có khi hai, ba tuần, N. không nhắn nhe lời nào, tôi tự ái đùng đùng cũng không liên lạc nữa.
Cứ thế mà rời rã.
Trời mới ưng ửng sáng, tôi lồm cồm bò dậy, chế một ly cà phê rồi tiện tay vơ một cuốn sách cũ. Đọc lơ mơ nhưng vẫn thân thiết như nghe người bạn cũ đang nói. Tin nhắn anh đến. Tôi bật dậy, không tin được mắt mình. Rồng mà lại đến nhà tôm làm gì, nhất là giờ này? Một lời chúc ngày mới và hỏi bao giờ có thể gọi cho tôi. Tôi cố thêm một số việc cho thời gian biểu dày khít như một lời từ chối khéo. Tôi tin một người kiêu hãnh như anh chắc sẽ phật ý, sẽ thôi không liên lạc nữa.
Chín rưỡi tối. Điện thoại reo làm tôi giật thót. Tôi sợ điện thoại ban đêm, sợ những bất trắc có thể đến trong những thời khắc ấy. Anh gọi rất dịu dàng em ăn tối chưa. Tôi có thể cảm động đến chảy nước mắt nếu có ai đó hỏi những câu đại loại em ăn chưa, em đang làm gì, em đang ở đâu, em có khoẻ không… Anh đã chạm đúng vào chỗ yếu mềm nhất trong trái tim tội nghiệp của tôi. Nhưng tôi nói nhát gừng nhát nghệ, cười lấy lệ, rụt rè, cảnh giác, rồi cúp máy.
Đoản khúc năm:
Một ngày tôi nhắn cho em hàng chục tin. Tôi cũng thấy lạ về mình, chẳng giống tôi chút nào. Và toàn những chuyện đẩu chuyện đâu. Chuyện tôi hôm nay sáng tác đến đâu, chuyện người hàng xóm đi chợ giùm hôm nay cho ăn gì, chuyện về những tiếng ve sớm cho tôi biết mùa xuân sắp ra đi lần nữa, nhắc cho tôi biết chỉ còn gần một tháng cho bộ tranh kịp triển lãm sắp đến… Em cũng cặm cụi trả lời tin nhắn của tôi, tin em đến bao giờ cũng dài hơn tin tôi gửi. Có một đôi khi tôi nói tôi nhớ em, em im lặng cho đến bao giờ tôi gửi một tin khác nói sang đề tài khác… Và tôi đã đi hết hai tuần với công việc miệt mài và với hàng trăm tin nhắn bay qua bay lại. Tôi cũng không săm soi lòng dạ mình nhưng tôi thầm cám ơn em vì đã đưa đến cho tôi những cảm giác mới mẻ, ít ra là không bị rơi vào tình trạng hoàn toàn lãng quên…
Đoản khúc sáu:
Tôi có hai tuần chông chênh như cánh diều bị mắc trên cành cây, tôi không muốn bay nhưng gió vẫn làm tôi phật phờ, tôi không cố công lượn theo cánh gió mà vẫn như đang bay. Tin nhắn anh đến dồn dập đến mức tôi thấy cảm động rồi thấy sờ sợ. Anh nói anh nhớ tôi, anh hỏi tôi có nhớ anh tí nào không. Làm sao tôi có thể trả lời được. Nói không nhớ thì sợ anh buồn, mà nói nhớ thì thớ lợ. Những lúc như vậy tôi lờ đi, tôi cười, tôi khóc một mình. Đàn bà sao khổ quá, không ai hỏi đến cũng khổ, có người nhớ đến cũng khổ. Biết anh nói thật hay nói đùa, sợ cái gì đến nhanh như gió cũng dễ bay đi như gió. Tôi không tập trung được vào một cái gì cho ra hồn, tôi rúng động thật sự vì những cảm giác vừa hạnh phúc vừa âu lo.
Đoản khúc bảy:
Tôi có việc phải đi xa mấy ngày, tôi không muốn đi nhưng đã lỡ hứa với bạn bè. Trước khi đi, tôi nhắn em ở nhà ngoan. Hình như tôi ích kỷ, như ai đi xa cũng mơ có con đò nép mình buồn buồn dưới vòm cây bên bến đợi mình trở về. Hai ngày đầu tôi nhớ em, nhớ thật sự, nhớ nhiều hơn mới lạ. Nhưng đến ngày thứ ba công việc cuốn tôi đi, bạn bè lôi đi từ sáng đến khuya mới lê về được đến nhà, rồi đổ xuống giường như một khúc cây mục. Tôi có ngày không nhắn được em một lời. Tôi hăng hái với việc bạn bè, tôi không rờ đến điện thoại, rồi tôi gửi luôn điện thoại cho ai đó…
Đoản khúc tám:
Anh nói anh đi bốn, năm ngày, tôi ở nhà ngoan, anh sẽ nhớ tôi lắm. Hai ngày đầu, thỉnh thoảng anh nhắn tin khi đang ăn trưa, đang cà phê với bạn bè và hỏi tôi có nhớ anh không. Tôi thận trọng không trả lời những câu hỏi khó trả lời. Biết người ta có nói thật? Quả nhiên, ngày thứ ba, thứ tư, điện thoại tôi hầu như tê liệt. Tối ngày thứ năm, không chịu đựng nổi, tôi rụt rè bấm số anh. Đã rất khuya mà tôi nghe trong điện thoại xôn xao nhưng không nghe tiếng anh nói gì. Ngay sau đó điện thoại cũng tắt luôn. Tôi nghe có cái gì vừa vỡ vụn, tung
toé…Nước mắt tôi tràn gối, đầu óc tôi quay cuồng, tôi thề không nhìn mặt anh nữa, cũng không liên lạc với anh nữa.
Chín – cửu trùng:
Ngày 14/3. Tôi quay lại mảnh đất tôi muốn gắn bó một phần ba quãng đời còn lại. Hồi hộp, tôi nhắn tin hẹn em ở góc cà phê quen quen. Tôi ngồi chờ từng giây với ý nghĩ lớn dần em không đến. Tôi vừa cần giải thích cho em hiểu, vừa không biết phải bắt đầu từ đâu để giải thích cho em hiểu. Tính em cố chấp như trẻ con liệu có tin tôi đã quăng cho bạn bè giữ giùm điện thoại trước khi bước lên diễn đàn nói về đề tài tôi theo đuổi, mê mải. Lúc đang diễn thuyết tôi không thể để điện thoại rung rung trong túi quần, có thể nó sẽ làm tôi mất tập trung. Hôm sau, nhìn lại những cuộc gọi đi, gọi đến, tôi thấy có cuộc gọi của em gần nửa khuya nhưng chờ mãi, chờ mãi không thấy em gọi nữa, tôi mất dần dũng khí, không dám gọi cho em lần nào.
Tôi ngồi năm phút…mười phút…mười lăm phút, rồi hai mươi phút…Tôi lom lom nhìn cái điện thoại nằm trên tờ báo. Không có gì cả. Tôi nhong nhóng ra ngoài cửa quán. Không có ai cả. Nếu em không đến, cũng không trả lời, tôi phải sao đây? Tôi thật cô đơn đi tìm em.
Không thể tin được! Em đến, áo dài hồng tươi sáng làm khuôn mặt em hồng hào hơn tôi tưởng tượng. Tôi lúng túng xoay trở trong chiếc ghế tựa, lâu lâu lén nhìn vào ánh mắt em long lanh. Không dám hỏi tại sao em giận anh vậy mà vẫn đến. Bất giác, em cúi đầu, nói nhẹ như thở : « Em nằm mơ thấy anh… chết. Em khóc… ».
Tạ ơn trời, tạ ơn giấc mơ kỳ cục. Tôi đã quan trọng với em thật rồi!./.
Mép Nước
Chế Diễm Trâm
1.Sáng nay, vừa xỏ chân vào đôi “giày búp bê”, tôi thấy tim mình như lỗi nhịp khi bàn chân chạm phải cái nham nhám, ươn ướt của cát biển, cát biển quê anh. Những hạt cát dấp dính vào da đau đáu như một sự chia xa. Tôi bỏ chân ra, lùa tay vào giày, vân vê từng hạt cát li ti, lòng tôi nghèn nghẹn. Tôi nhớ anh vô cùng…
Anh đã đưa tôi đi dọc biển quê anh. Tôi đã trật chân ra khỏi giày khi bất thần một con sóng nghịch ngợm xô vào chân anh. Tôi phản xạ bíu chặt lấy tay anh kéo về phía mình. Anh ngả về phía tôi, cả hai chấp chới. Anh cười, cám ơn em, không thì anh ướt hết rồi. Tôi nghe lòng mình thổn thức, tôi muốn nói may là em vẫn còn có anh, nhưng không hiểu sao tôi im lặng. Tôi tự hỏi lòng mình nếu quả tình có một bàn tay khổng lồ thò lên kéo chân anh xuống khỏi mép nước thì tôi sẽ làm gì. Tôi sẽ nắm chặt tay anh để cùng bị lôi phăng xuống hay là tôi sẽ buông tay anh ra để được vô sự. Tôi là người sợ biển đêm, sợ mép nước tăm tối. Nước mắt tôi giàn ra vì thấy sợ hãi với ý nghĩ lựa chọn thật dễ sợ của mình, nhưng anh không nhận ra, anh nghĩ tôi khóc vì ngày mai chúng tôi đã phải xa nhau rồi. Đến bây giờ khi đã xa anh thật xa, sống trong nỗi nhớ dày vò, tôi nhận rõ một điều, được ở bên anh dù vui hay buồn, sống hay không sống cũng là hạnh phúc.
2. Tôi vừa yêu biển vừa sợ biển. Lúc còn bé xíu tôi được xem là dạn nước, thường theo ông anh và đám con trai lốc nhốc trong xóm đi bộ gần hai cây số ra biển rồi lại hai cây số về. Hè nào cũng đủ chín mươi ngày như thế. Thời đó nhà nào cũng đông con, đứa nào cũng tự thân vận động. Nhà tôi cũng vậy, miễn sao đến khi cái đồng hồ có cái quả lắc đánh chín tiếng thì phải có mặt điểm danh để học sinh ngữ là được. Bố tôi sinh thời rất giỏi tiếng Anh, cả tiếng Pháp. Lính Mỹ trọ ở khách sạn của bác Hai tôi cứ năn nỉ bố tôi đi phiên dịch cho nhưng ông cụ không chịu. Cụ đi làm hỏa xa, lúc ở trên tàu thì thôi, về nhà là bắt đàn con “vô lớp”, vì theo bố tôi, phải biết sinh ngữ để còn ăn nói với người ta. Bất kể chênh lệch trình độ, bố tôi đã “lên lớp” là từ trên xuống dưới phải ngồi vào bàn. Lập luận của bố là đứa lớn phải kèm cặp đứa nhỏ, “em ngã chị nâng”. Vì vậy một đứa lười học, không làm bài là tất cả phải nằm xếp hàng ăn roi, bởi chị em “máu chảy ruột mềm” mà không chịu nhắc nhở nhau là có lỗi như nhau. Nhà tôi có một bộ bàn mặt gương sáu ghế để ở phòng khách. Anh chị tôi xuống bếp bưng thêm bộ bàn tròn dùng để ăn cơm lên nữa là dư chỗ ngồi. Dân xóm thấy lớp học nhà tôi cũng hay hay nên muốn gởi con sang học. Bố tôi là “nhà sư phạm” rất amatơ, chỉ đứa nào qua sát hạch đọc đúng giọng mới được vô học chung. Vậy nên anh em nhà tôi được nhiều đứa nịnh nọt gà cho vài câu “tủ” của bố. Anh em tôi con nhà nòi, học hơn hẳn tụi trong xóm. Năm tuổi tôi đã phải đọc đúng những câu tiếng Anh có rất nhiều âm gió như “I see the seashell on the seashore” (Tôi thấy cái vỏ sò trên bãi biển) trong khi nhiều đứa to ngồng ngồng trong xóm đọc hoài chưa được. Mẹ tôi sinh một đàn con tám người, cứ xen kẽ một gái một trai, đều đặn. Lẽ ra đến tôi phải là con trai thì mới đúng, nhưng tôi lại là gái, nên các cụ ngừng lại. Tôi thành cô Út. Nhưng tôi không thân với bà chị kế mình mà lại lẵng nhẵng theo ông anh kế trên. Tôi phải mặc quần đùi, cắt tóc ngắn lơ thơ, tập tọng vài câu chửi bậy ngô nghê. Có như vậy anh tôi và mấy thằng trong xóm mới cho đi theo. Bù lại, có ảnh kèm một bên, bố tôi không sợ tụi nhóc trong xóm ăn hiếp tôi, thả cho hai anh em muốn
làm gì thì làm. Anh tôi có đầu óc chỉ huy lại có tài kể chuyện tiếu lâm, chuyện ma nên tụi trong xóm khoái lắm, tụi nó không dám đụng đến sợi lông chân của tôi mặc dù có đứa nói gièm tôi là con gái không được đi chơi với con trai.
Đi tắm biển, anh tôi mang cho tôi cái batxi vốn là cái ruột xe hơi bơm lên nhưng dần dà tôi cũng men theo mép nước đập tay đập chân lung tung cho nổi lên, coi như đã biết bơi. Bởi anh tôi ra tối hậu thư Út biết bơi anh mới thưởng cho ăn kem. Đến tận bây giờ tôi vẫn không tìm đâu ra cái vị kem tuyệt vời của thời ấu thơ. Những que kem hồng hồng cam cam được người bán để trong một cái thùng xốp trắng đeo lên vai mang bán đến tận mép nước, tay cầm một cái chuông lắc kêu keng keng rất mời gọi. Đâu phải ngày nào hai anh em cũng có tiền, phải lâu lâu anh tôi mới mua cho ăn một lần. Ôi sao mà nó ngọt ngào, lại vương vướng một chút mằn mặn của nước biển, cắn từng miếng thật mỏng, để cho nước đá tan ra buôn buốt êm ái, chốc chốc phải liếm một lượt không thì nó chảy ra thật phí.
Tôi còn thích biển sáng vì mặt biển như một tấm áo kim tuyến óng ánh, thi thoảng điểm vài hạt kim sa sáng lóe lên. Những con sóng vỗ vào bờ trắng xóa giống những đường ren lụa viền dưới chân váy. Cứ mỗi lần ngụp xuống tôi lại nghĩ nàng lọ lem mặc áo dạ hội đi gặp chàng hoàng tử chắc đẹp đến thế này cũng là cùng. Nói cho mau là tôi yêu biển.
Vậy mà mười tuổi tôi lại thành nhút nhát. Nhát nước, nhát bóng đêm. Số là xóm tôi có tám nhà, lại thêm nhà bác Hai tôi ở mặt tiền xóm nhỏ nữa chơi với nhau thật thân thiết. Độ tuổi nào cũng có bạn với nhau. Nhiều tối, mấy anh chị lớn dẫn đám con nít lũ lượt kéo nhau ra biển. Hết bắt còng lại chơi u mọi. Cái trò mà người lớn thích nhất là rượt đám con nít, túm được đứa nào là hai người một người xốc nách, một người tóm chân, một hai ba đưa như đưa võng rồi quăng ùm xuống nước. Tôi thường nghe kể về một con ma da tóc tai rũ rượi, thò bàn tay lông lá lên tóm lấy chân người kéo xuống nước là coi như tiêu đời. Tôi đã từng chứng kiến cảnh một đứa trẻ chết đuối khi tìm được xác cái bụng to như cái trống vậy mà cứ dập dềnh nửa nằm trên cát nhưng nửa dưới vẫn phải để trong nước, sóng biển cứ liếm đi liếm lại cái bụng đã bắt đầu nứt da dưới sức nóng của mặt trời. Tôi cũng từng đọc bài thơ “Đại dương đêm” của Vichto Huygô viết về những tiếng kêu tuyệt vọng trong đêm dài của những người thủy thủ không bao giờ còn có thể trông thấy quê hương và người thân. Thân xác họ tan trong nước, theo sóng biển xô mãi vào bờ…
Lần đó tôi bị tóm, bị hất tung lên rồi rơi tòm xuống màn nước đen ngòm. Biển đêm thăm thẳm như không tới đáy, nước lạnh như chưa từng thấy lạnh như vậy bao giờ, tôi hoảng hốt tối tăm mặt mũi vì sóng cát làm mắt tôi cay sè, tôi thấy mình chuồi xuống không phương bấu víu. Tôi nghĩ đến bàn tay con ma da, tôi vùng vẫy tuyệt vọng đến khi chạm vào đáy cát, tôi lóp ngóp loi ngoi bò bằng tay bằng chân lên được bờ cát. Tôi đã chạy trên bãi cát dài như vô tận nhưng không khóc nổi, chỉ tức tưởi không thành tiếng. Từ đó tôi hãi thôi không ra biển ban đêm nữa, biển sáng cũng dần thưa thớt cho đến khi gia đình tôi rời xa thành phố về quê ngoại vì bố tôi bị tai biến, phải về hưu non.
3. Anh nói nhờ có tôi anh biết biển đêm quê anh thật tuyệt. Chúng tôi lang thang theo những con sóng, anh cười : “Biển một bên và em một bên”. Lòng tôi rối bời, luôn trông chừng những con sóng. Anh chỉ cho tôi tượng Phật Bà tỏa sáng một góc trời, rồi nói biển quê anh hiền hòa và yên bình. Tôi muốn nói em chỉ cần thấy anh là thấy ấm áp, chỉ cần nhìn anh cười là thấy an tâm, chỉ cần ở đâu có anh là em thấy nơi đó thật êm đềm. Tôi cố nhìn vào mắt anh, thấy thăm thẳm một cái gì lặng thầm sâu kín. Lòng anh cũng như tôi? Ông trời bất công, cho tôi gặp anh làm gì rồi lại bắt chia xa? Anh hỏi Út có thấy biển nói gì không? Tôi lắng nghe biển âm âm như đang gọi tên mình, tên anh. Đang nghĩ đến câu hát trong “Biển nhớ” của Trịnh thì con sóng lạ tràn lên…
4. Tối nay tôi lần xuống biển. Bờ cát giờ bị xâm thực chỉ còn mấy bước chân đã đến mép nước. Và tôi cởi bỏ đôi giày búp bê để cho sóng cát xoi vào gan bàn chân. Tôi nhớ anh quá chừng. Tôi nhớ anh không nguôi. Từ nơi tôi đến nơi anh núi đèo cách trở, chỉ có mặt nước
này thông nhau. Nước mắt ở đâu dào lên cay đắng. Nhưng rồi mãi mãi tôi dừng lại ở mép nước. Tôi không thể dấn thêm bước nào, chính xác là tôi không dám vượt qua giới hạn cái mép nước của số phận cuộc đời…/.
Mỏng Như Cánh Chuồn
Chế Diễm Trâm
Đàn bà phận mỏng như cánh chuồn
Chấp chới cao thấp cùng nắng mưa
Vậy là cái điều Hạ lo sợ nhất đã xảy ra, dù không biết chính xác nó đã xảy ra như thế nào. Vào giờ cơm, Tuấn – chồng Hạ – lạnh lùng hỏi :
- Cô có gì giấu không?
Từ lâu, Tuấn đã nói chuyện với Hạ theo kiểu dấm da dấm dẳng như vậy. Hạ im lặng, nhìn Tuấn cảnh giác. Tuấn gằn :
- Cô gọi ai trong mơ ?
Trời ơi, ra là thế…
Từ lâu Hạ sợ mình bị stress, có thể chưa đến nỗi trầm trọng nhưng đã mất ngủ thường xuyên, nằm đêm trăn qua trở lại rất lâu, có khi tận hai, ba giờ sáng vẫn chưa ru nổi giấc ngủ. Hai mắt quầng thâm, soi gương, Hạ xót xa trước một bóng hình thê thảm. Nghe lời bạn bè, Hạ thử đi “thương thân”. Ngay cái việc dễ đưa người ta vào giấc ngủ êm đềm nhất là đi massage, mặt nạ dịu dịu êm êm, nhạc nhè nhẹ như tơ vương… thì Hạ vẫn cứ trơ ra. Đã vậy, cái việc mỗi tuần Hạ vắng nhà sáng thứ bảy hai, ba tiếng cũng làm Tuấn rất không bằng lòng. Tuấn không hỏi Hạ đi đâu - tính Tuấn vẫn cao ngạo thế - nhưng rất lạnh lùng mỗi khi Hạ về nhà trễ. Hạ ít nói hẳn nhưng những lúc ở nhà một mình Hạ vẫn tự nói chuyện, thường chỉ âm thầm trong tâm tưởng nhưng đôi lúc không kiểm soát được, Hạ vẫn thốt nên lời như đang có Nguyễn trước mặt. Hồi trẻ, lúc còn đi học, Hạ học một người thầy có vợ bỏ đi lấy người khác, thầy vẫn thường lẩm nhẩm như nói cái gì trong miệng. Mấy đứa học trò nghịch ngầm vẫn đố nhau thầy nói gì. Đứa nói thầy đang chửi (mà khẩu hình thì giống thầy đang chửi thật). Hạ ngây ngô và lãng mạn hơn nói thầy đang hát một câu gì rất buồn, bị tụi bạn xùy thật dài “Mày vớ vẩn!”. Vậy mà bây giờ Hạ đang lẩm bẩm một mình! Đôi lúc như không thở nổi, Hạ xách xe ra đường lang thang, dận đôi kiếng mát, che khẩu trang kín mít, mặc cho nước mắt tuôn rơi. “Trời cao đất rộng một mình tôi đi, một mình tôi đi… Đời như vô tận một mình tôi về với tôi…” Không phải Hạ không có người thân và bạn bè nhưng bạn thân đến mức có thể lắng nghe cô “điên điên” và không kể đi kể lại cho người khác thì không. Còn gia đình? Mẹ Hạ đã già chắc không thể chấp nhận đứa con gái giở giói. Hạ thấy mình cô đơn dễ sợ.
Hạ thấy mình như là lẩn thẩn. Trước đây, việc nhà mà Hạ không thích nhất là rửa chén và giặt áo quần thì giờ đây Hạ làm rất chăm chú. Đó là những lúc Hạ được thả mình thơ thẩn mà không sợ bị bắt bẻ. Những việc đó không cần tập trung tuy đôi khi vẫn bị lộ ra là đầu óc để đâu đâu. Như lơ đãng đến mức Hạ để chai nước rửa chén chảy gần hết, hay để quên vòi nước lênh láng. Không như nấu ăn, công việc đòi hỏi phải chú mục, chú tâm, Hạ đã bỏ muối rồi, lại bỏ muối nữa, hoặc quên chảo dầu trên bếp bốc khói, quên không bớt lửa nồi canh sôi sùng sục. Canh đục nước, canh mặn, cá chiên bị sém là Tuấn bỏ bữa. Hạ rất hối hận, tự dặn lòng hãy tập trung vào công việc, hãy quên hết đi, nhưng rồi vẫn cứ lẫn lội.
Nỗi nhớ Nguyễn làm Hạ tối tăm mặt mũi. Nguyễn không biết hay vờ như không biết cô cũng không biết nữa… Có lần Hạ gọi cho Nguyễn, nghe giọng bên kia đầu dây, Hạ muốn khóc òa vậy mà Nguyễn hỏi cô có gì vui không. Một người rất tinh tế như Nguyễn làm sao không biết Hạ muốn nói gì, chờ đợi Nguyễn nói gì. Nguyễn không cho Hạ cơ hội để khóc lóc
dù chưa bao giờ anh ấy bày tỏ quan điểm về giọt nước mắt. Hạ thấy Nguyễn thật gần mà cũng cao vời vợi để cô ngước mãi lên ngưỡng mộ. Hạ biết Nguyễn không phải là dành riêng cho mình. Nguyễn tài hoa khiến Hạ tưởng anh không là xương là thịt. Hạ tự hỏi phải chăng cái gì ta không với tới được nên ta mơ màng chăng? Cũng có thể. Nguyễn là người của công chúng. Bao quanh Nguyễn có cả một thế giới fan hâm mộ và vô vàn người thân kẻ sơ. Lúc nào trước Nguyễn, Hạ cũng chỉ thấy lóng ngóng, sợ mình quá vụng về hoặc quá nhạt nhẽo… Nguyễn rất kiệm lời, điều đó làm Hạ lúc nào cũng băn khoăn cố đoán Nguyễn đang nghĩ gì. Tất cả những gì Hạ khám phá về Nguyễn đều bằng cách vào blogs của anh ấy, đắm đuối trong cái thế giới tâm hồn lặng thầm của anh. Hạ biết Nguyễn là người nổi tiếng nhưng cứ mỗi lần nhìn thấy anh trên internet cô lại run rẩy. Giá mà Nguyễn cứ ồn ào xưng tụng mình như những người Hạ đã gặp thì cô đã được khó chịu và sợ hãi tránh ra xa. Đằng này Nguyễn cứ bình thản, lúc nào cũng chỉ cười cười. Đời Nguyễn cũng nhiều nỗi buồn vậy mà chưa bao giờ Hạ nghe anh kể lể, than thở lấy một lời. Hạ tự nhủ, trước Nguyễn tốt nhất là hãy vờ như bình thản, thảng hoặc hãy cười cười nói nói dù trong lòng đã thổn thức đầy. Đấy không phải là giả dối mà đấy là một cách sống không dễ dàng có được. Nó làm lòng Hạ thấy cơ cực nhưng rồi cứng cỏi chấp nhận được hết.
Thật ra đã có lần Nguyễn ngồi nghe Hạ than van. Hạ đã sắp ràn rụa, đã toan thấy mình là người bất hạnh nhất trần gian nhưng để kết luận câu chuyện nức nở của Hạ, Nguyễn chỉ hỏi một câu “Em có thật sự muốn từ bỏ hết không?” thì Hạ bừng tỉnh. Nói như thế là dường như Nguyễn đã hiểu thấu chân tơ kẽ tóc con người nàng. Phải rồi, Hạ luôn trốn tránh khao khát bằng cách tự nhủ nàng có con, con Hạ cần sự bình yên, Hạ không có quyền ích kỷ. Nếu Nguyễn thường tình sẽ tận dụng cơ hội để Hạ khóc lóc, lên án Tuấn, tuyệt vọng và ngả vào lòng Nguyễn. Nguyễn cứ như không nhưng đã cho Hạ biết Hạ sẽ không dám thay đổi gì cả dù có thể không còn tha thiết gì nữa.
Tuấn hành xử theo kiểu ơ hờ sở hữu một thứ không còn yêu quý nhưng đã quen dùng làm Hạ rất tủi thân. Hạ lúc nào cũng thấy lẻ loi trong cái tổ của mình, cái tổ vương vãi những giọt nước mắt nếu không tức tưởi thì cũng lặng lẽ lã chã. Hạ một mình chằng giữ, chống đỡ cái tổ chao chênh trước những bão tố xảy ra liên miên. Nhưng đến một ngày gặp Nguyễn, Hạ mới nhận thấy rõ là Hạ đã quá mệt mỏi.
Ngày chia tay, Nguyễn dẫn Hạ ra công viên ngắm bức tượng đá mô phỏng sự sống đang sinh sôi. Anh ôm nhẹ, vỗ nhẹ vai Hạ. Hạ tự dịch ra rằng Hạ phải rấn lên, dù phải đi tới chỉ có một mình. Cái giây phút ấy có thể thật bình thường với người này người khác nhưng với Hạ đó là thiên thu.
Trên đường thiên lý, xe ngừng trên đỉnh đèo phần phật gió. Mọi người chỉ trỏ tảng đá na ná như một thiếu phụ quàng tay ôm con, hướng ra mặt biển mờ như màn mưa. Người tài xế nói dân gian gọi đó là Hòn Vọng Phu. Một ý nghĩ làm toàn thân Hạ lạnh toát, xây xẩm rồi đổ xuống như cảm gió. Mọi người xôn xao, vực Hạ vào trong xe. Người cạo gió, người xoa dầu cho đến khi Hạ bật khóc được, khóc như thế giới này chỉ còn trơ lại một mình nàng. Hạ thấy mình còn thua cả đá, đá còn biết thương nhớ, biết đợi chờ, vậy mà Hạ chỉ còn một trái tim đá hóa, đang tập trơ ra trước mọi chấp chới của số phận…/.
Tám Phút Mười Chín Giây
Chế Diễm Trâm
Năm rưỡi sáng, chuông điện thoại báo thức. Huê bật dậy, thọc chân xuống giường nhưng vội nằm xuống ngay. Chao đảo và muốn ói. Nhắm tịt mắt lại, những vòng sáng vẫn xoay xoay liên u trong đầu. Nửa nằm nửa ngồi, Huê cố mở hộc tủ tìm vỉ tanganil cho một viên vô miệng nuốt khan. Chai nước ở đầu giường đã hết hồi đêm nhưng cái tội làm biếng không chịu xuống bếp thay chai khác.
Bảy giờ. Xem chừng vẫn chưa khá lên là mấy, Huê quyết định hôm nay đóng cửa hàng nằm nhà một ngày, coi như lấy khoản chi phí cà phê khách khứa bù vô thuế má vậy. Lâu lâu cho phép mình một ngày không như mọi ngày, hàng họ mối mang tạm dẹp qua một bên. Điện thoại để chế độ yên lặng, thi thoảng hé mắt liếc coi có cuộc gọi nhỡ, tin nhắn nào quan trọng thì trả lời, còn thì coi như không biết.
Ngủ thêm một giấc, giật mình cũng chỉ mới chín rưỡi sáng. Huê với tay bật ti vi để có một người đang nói trong nhà. Đang có một bộ phim khoa học. Ban đầu Huê cũng chỉ nghe ơ hờ nhưng chỉ mấy giây sau Huê không thể không dán tai vô cái tivi treo tường. Ánh sáng mặt trời cần tám phút mười chín giây mới đến được trái đất, vậy nếu quả cầu lửa vụt tắt thì tám
phút mười chín giây sau trái đất sẽ ra sao? Trong đầu Huê tự dưng bật lên câu hỏi. Ừ nhỉ, nếu được báo trước thời khắc đó, Huê sẽ như thế nào và sẽ làm gì trong hơn tám phút đó? Tám phút mười chín giây ư? Con bé Hân, con Huê, đang ở tận Đà Nẵng, biết lúc đó có gọi cho con gái được không trong tình trạng mất mạng viễn thông? Làm sao nghe được giọng con bé và chí ít cũng phải nói được cái câu “Mẹ thương con!” luôn ở trong lòng? Sau khi ba bé Hân qua đời vì bệnh, hai mẹ con Huê chỉ còn cái xác nhà, tất tần tật tiền bạc chắt chiu mười mấy năm không còn một xu, nợ nần không ngước nổi mặt. Huê bỏ việc, bắt chước chạy chợ, làm cò kinh doanh, hùn hạp buôn bán búa xua. Trời đền bù, con bé học hành tấn tới, tốt nghiệp đại học xong được công ty nước ngoài nhận, thế là hai mẹ con hai nơi. Không phải bé Hân không năn nỉ Huê ra thành phố ở với nó, nhưng cửa hàng vật liệu xây dựng Huê lao tâm khổ tứ gầy dựng đang làm ăn được. Hơn nữa, Huê cũng còn sức làm, tính Huê thích “độc lập về kinh tế”.
Soạn một cái tin nhắn lấp lửng: “Mình cần làm gì nếu chỉ còn 8 phút 19 giây cuối cùng?”, Huê gửi đến một vài cái tên thân quen. Tuyệt nhiên không có bé Hân. Giờ này chắc con bé đang ở công ty. Huê không muốn con gái lo lắng hay suy nghĩ gì.
Hai phút sau, Huê nhận được tin nhắn trả lời đầu tiên: “Chạy ngay đến H!”. Nguyễn. Nguyễn là bạn đồng môn thời sinh viên. Đúng ra, Huê phải gọi Nguyễn bằng thầy vì sau khi tốt nghiệp, Nguyễn được giữ lại trường, thời gian đầu quản lý các khóa đàn em. Nhưng bọn Huê gọi thầy Nguyễn bằng anh quen miệng rồi. Nguyễn giỏi, thường được thầy cô khen, tuy không điển trai nhưng là điểm sáng, nhiều người để ý. Đôi ba lần Nguyễn nói xa nói gần nhưng cuối cùng vẫn là tình anh em trong sáng. Giờ Nguyễn nói như đinh mười đóng cột. Biết Nguyễn trêu, Huê vẫn hỏi: “Sao chạy cho tới? Chỉ có 8’19” thôi mà!”. Tin nhắn từ đầu kia: “Cứ chạy, đến đâu hay đến đó…” Huê tự mỉm cười một mình với loạt tin nhắn trả lời đầu tiên.
Người thứ hai trả lời Huê là Đỉnh. “Có chuyện gì vậy? Em không khỏe hả?”. Đúng chất của Đỉnh, luôn luôn lo lắng cho tất cả mọi người và luôn thương Huê như thương đứa em
gái. Huê không trả lời Đỉnh, bên Đỉnh cũng đứt. Miên đoán Đỉnh đang quay mòng mòng với công việc một “Phó giám đốc thường làm” – cách Đỉnh gọi chức phó giám đốc thường trực của anh là vậy.
Tin nhắn thứ ba tới sau chừng nửa tiếng. Khang, bạn làm ăn cũ, hay có cái cười hiền hiền. Chuyện gì trước đó làm Huê buồn thúi ruột thúi gan, mệt mỏi tưởng muốn chết lên chết xuống, Khang nghe xong cũng khuyên thôi quên đi em, tha thứ cho người ta đi em. Hồi đầu, Huê nghĩ Khang không quan tâm điều Huê muốn nói, tính Khang ba phải nhưng lâu dần, Huê thấy cách hóa giải của Khang có cái lý của cuộc đời và nhất là cái tình của một người hiền hòa, không thích hơn thua.
Tin nhắn Khang đến thật gọn: “Nam mô A di đà Phật”. Huê không ngạc nhiên. Nhưng thấy một chút se sắt: Khang chưa dịu được nỗi đau vô thường, chỉ một thời gian ngắn anh ấy phải hứng chịu mấy cái tang lớn, còn có gì để mà vui. Cầu nguyện để tĩnh tâm giác ngộ là dĩ nhiên, nhưng… như thế sẽ không có Huê trong tám phút mười chín giây ấy. Ôi, thật đau lòng!
Huê quyết định chặn tin nhắn. Đã đủ để cảm nghe cái cô đơn của mình. Huê nằm yên nhìn ra khung cửa sổ. Nắng đưa qua mành lưới giàn hoa lan tán ra nhiều sắc màu như thực như hư. Huê nhoài mình đến một góc cửa sổ, từ đây Huê được lặng nhìn bầu trời không qua tấm lưới. Nền trời chợt tím hoa cà lay phay trong cái nắng mơ phai bắt lên trong Huê nỗi nhớ con. Tám phút mười chín giây, nếu được báo trước dẫu chỉ một ngày, Huê sẽ đặt vé bay ra với con ngay. Hai mẹ con sẽ nắm tay nhau, khóc và cười miên viễn…
Tin nhắn chị Phương đến qua cái sim thứ hai cắt ngang dòng nghĩ của Huê: “Đang nhớ em thì nhận tin em. Hihi.” - “Chị tạt qua cửa hàng thấy đóng cửa. Hihi” - “Sao chặn SIM vậy? Bệnh phải không? Có cần chị qua không?”. Tính chị Phương lúc nào cũng phải hai ba tin nhắn một lần mới chịu, khi nào cũng cười cười nói nói rôm rả – cái cách chị che giấu nỗi buồn. Chỉ khi hai chị em với nhau, Huê mới thấy chị cười đó rồi khóc đó.
Huê không trả lời, dù biết rằng có thể chị Phương giận. Chỉ từng tuyên bố đời tao ghét nhứt là ai đương nhắn tin nói chuyện mà ngắt ngang không trả lời. Không trả lời bây giờ đồng nghĩa là Huê ốm nặng. Huê biết sẽ làm Phương lo nhưng không hiểu sao Huê muốn có ai đó lúc này lấp cho vơi sự cô độc này.
Quả nhiên, nửa tiếng sau, “em gái Trương Phi” (Huê thường gọi chị Phương như thế) bấm còi xe ngoài cổng. Tính chị ấy vậy, bấm còi xe mình không thèm bấm chuông nhà người. Chị lôi Huê vô phòng, ấn Huê nằm xuống rồi nằm lăn ra bên cạnh. Chị định dang tay ôm Huê nhưng rồi cười lớn:
- Thôi, ôm em, ai thấy tưởng hai con les thì có nước cô đơn suốt đời!
- Cô đơn thì sao chứ? – Huê cãi.
- Thôi đi, không có cưng thì đời buồn thật. Nhưng chỉ có cưng thôi thì cũng không hết buồn!
Chị Phương sống đơn thân, có đứa con trai thì cũng đi làm ở Sài Gòn, năm về thăm mẹ hai, ba lần. Ngủ một mình, ăn một mình thường xuyên nên hai chị em thích hú hí với nhau, hạt muối hạt đường cũng cắn đôi.
- Em mệt sao?
- Em mệt xíu thôi.
- Còn cái câu hỏi kia là sao?
- À, em coi trên ti vi, muốn biết chị ứng xử sao lúc đó đó mà!
Chị ngồi bật dậy, mặt thần ra năm phút. Rồi chị trả lời rất nghiêm: “Chị sẽ chạy vô với thằng con. Nắm tay thằng con chặt, thiệt chặt…”. Từ đôi mắt chị, hai giọt nước mắt đang lăn dài xuống. Huê thấy gai người, ý nghĩ chị trùng với ý nghĩ Huê lạ kỳ. Nhưng Huê không nỡ nhắc chị rằng: “Chỉ có tám phút mười chín giây thôi mà”.
Tối, Đỉnh gọi lại. Công việc chắc đã vợi. Đỉnh nói câu hỏi của Huê gây khó dễ anh cả ngày
nay biết không. Đỉnh có vẻ nghĩ ngợi:
- Sao chúng ta không nghĩ theo hướng, đó chỉ là một giả định. Hãy cầu nguyện cho điều đó không bao giờ xảy ra!
- Thì “nếu” mà!
- Vậy anh hy vọng sẽ tập trung năng lượng cầu cho mọi người không hề hay biết gì để thanh thản về cát bụi…
Đúng là Đỉnh, đúng cái lối nghĩ của Đỉnh, nghĩ cho mọi người. Huê không tranh cãi với Đỉnh rằng thật khó có thể hình dung chính xác thời khắc ấy. Và cũng không nói với anh ấy rằng các nhà khoa học đã phỏng đoán mặt trời không thể nổ tung mà chỉ phồng lên trước khi chết để trở thành ngôi sao lùn trắng và nguội đi vĩnh viễn. Quá trình phồng lên của quả cầu lửa khổng lồ sẽ làm cho quỹ đạo địa cầu dịch ra xa để không bị nuốt chửng. Rồi trái đất sẽ tranh tối tranh sáng nhờ các dải ánh sáng phát ra từ các ngôi sao khác. Và lượng khí ôxy còn lại đủ để sự sống tiếp tục cho một số động vật, thực vật. Và điều quan trọng nhất: tám phút mười chín giây ấy nếu xảy ra thì chí ít phải năm tỷ năm nữa kia!
Một ngày, thật tình cờ, Huê nhận ra rằng những người mình yêu quý sẽ đón nhận thật bình tĩnh lẽ huyền vi vô thường. Khi người ta không còn trẻ, mọi thứ đều nhẹ như mây, kể cả sự kết thúc. Huê chui vô mền, bật cười một mình vì cái trò giả định của mình. Huê sắp đi vào giấc ngủ với ba ý nghĩ. Một là, tin tưởng điều đó không bao giờ xảy ra. Thứ hai, nếu được báo trước dù chỉ một ngày, Huê sẽ từ biệt tất cả mọi người Huê yêu quý để bay ra với con, ôm con vào lòng, mềm mại đến độ hai mẹ con có thể bay lên được. Còn nếu chỉ biết trước đúng tám phút mười chín giây, Huê sẽ lên chiếc giường êm ái này, nhắm mắt lại để tất cả những người Huê yêu thương lướt qua trong đầu, một lần và mãi mãi…
Tin nhắn đến. Bốn tin gần như một lần. Bé Hân: “Mẹ ơi, mẹ đang làm gì? Nhớ mẹ quá à!”. Hai tin liên tiếp của chị Phương: “Ngủ chưa?” - “Khỏe chưa em? Hihi”. Và Đỉnh: “Này, em có cái ví dụ nào hay hơn ví dụ lúc sáng không? Ví dụ mình yêu nhau chẳng hạn…”.
Huê có hơn tám phút để bật cười, rồi nghĩ, rồi viết một cái tin nhắn gửi cho tất cả năm người – bé Hân, chị Phương, thầy Nguyễn, anh Khang và… Đỉnh: “Thương mến!”. Năm tin nhắn bay về giống nhau kỳ lạ: “???”
Huê cười một mình, tắt điện thoại, hẹn ngày mai khi mặt trời lên…
Miền Quê Thương Nhớ
Quang Nguyễn Mưa ào ào đổ xuống mái hiên nhà, tiếng sét réo vang gầm từ xa lắc, mấy chú gà con nấp ẩn vội vào cây rơm sau nhà. Mưa đầu mùa những hạt mưa thật lớn, rơi xuống từng bẹ dừa tạo ra nhiều thứ âm thanh thật da diết và sâu lắng, chiều nay trời âm u không có một tia nắng xuyên qua giàn bí, để làm khô quần áo đang phơi ngoài sau nhà, cảnh tượng xem rất buồn và hồn nhiên như những chú gà con co rút vì lạnh.
Hùng ngồi nhìn thật não nề, dường như những hạt mưa đã làm ướt hết cả tấm lòng của anh, gợi cho anh nhớ lại thuở ban đầu tuổi nhỏ cùng tắm mưa như chiều nay. Mỗi khi buồn đặt ngay tâm trạng mình vào những cơn mưa đầy hối hả, hôm nay cũng vậy, nỗi buồn in hằn lên khuôn mặt cháy nắng của anh.
Hai mươi tuổi dáng người thấp bé, miệng ít khi cười cũng rất hiếm khi trò chuyện cùng ai, xóm làng bạn bè trang lứa đặt anh biệt danh là "Hùng Sầu". Anh đã thôi học vì hoàn cảnh gia đình, công việc mưu sinh của anh là phụ hồ nhưng đồng lương quá ít ỏi, nên anh quyết định bỏ quê lên Sài Gòn để tìm việc làm. Anh buồn vì sắp chia tay với căn nhà mà hai mươi năm nay anh đã sinh sống. Nơi có hình ảnh cha mẹ, bạn bè và hàng khối kỷ niệm đang sâu lắng trong tim.
- Hùng ơi! xuống ăn cơm con ơi, mẹ có nấu món canh chua cá lóc mà ba con mới bắt được lúc mưa hồi nãy, kêu ba con nghỉ tay vào ăn cơm luôn.
- Ba ơi nghỉ tay vào ăn cơm luôn.
Ông Sáu cha Hùng đang cầm trên tay mấy cần câu, ông đứng nhìn Hùng mỉm cười trả lời. - Ba vào đây, ba cố gắng cắm thêm câu để bắt cá làm món thật ngon để tiễn con lên thành phố.
Ông Sáu bước vào với mình ướt đẫm vì mưa, trên tay cầm hai con cá.
- Má nó ơi, đem hai con cá này chiên luôn đi, làm thật nhiều để tiễn mai con nó lên đường Bà Sáu vâng lời chồng làm ngay để có một bữa ăn thật ngon, vì bà, và Hùng. Ông Sáu đều biết đây là bữa ăn chia tay, biết đến bao giờ Hùng mới được trở lại bên gia đình với bữa cơm đầm thắm, tuy đơn sơ nhưng dạt dào tình cảm gia đình.
- Thôi được rồi, như vậy là đủ lắm rồi ba mẹ ạ, hai con cá còn lại để ngày mai ba mẹ ăn. Gia đình ngồi bên bữa cơm chiều, kể chuyện cho nhau nghe vì họ đều biết sắp có cuộc chia tay diễn ra trong nước mắt. Nhà nghèo quá, dù muốn hay không thì Hùng cũng phải lên thành phố tìm việc làm. Bà Sáu quay mặt về nơi khác vì sợ sự xúc động lại trào dâng, đôi khi bà chỉ ú ớ đôi tiếng đáp cho qua chuyện, những câu đáp thật ngắn gọn. Ông Sáu cũng buồn không kém, với ông Hùng là tất cả, nhưng giờ đành phải để con trai tự mình bươn chải giữa chốn phồn hoa đô thị.
- Thôi má nó ăn đi, không gì phải buồn cả chuyện đời mà, huống chi thằng Hùng con mình nó đi làm kiến tiền phụ giúp gia đình, mình phải vui chứ bà.
Bà Sáu nghẹn ngào trong giây phút rồi nhẹ lắc đầu thở dài.
- Tôi ăn không nổi đâu, cũng chẳng biết là chuyện gì.
Bữa cơm gia đình tưởng chừng sẽ đầm ấm nào ngờ lại tắc nghẹn trong một nỗi buồn, rất sâu thẳm từ đâu vọng về, chợt nhói đau như một vết thương từ lâu chưa lành trong lòng bà, Hùng phải đôi lần lên tiếng an ủi, để cho cả ông bà được thấy nhẹ nhàng hơn và trạng thái
sẽ trở lại như ban đầu.
- Mẹ à, con đã lớn rồi mà, biết tự chăm sóc cho mình huống gì con đã quen cực nhọc, con hứa khi nào tìm được công ăn chuyện làm sẽ thường xuyên viết thư về cho cha mẹ. Ông Sáu cũng nói vào để xua tan đi những ưu phiền, trong bữa cơm chiều đầy tiếng mưa như nổi lên những khúc nhạc buồn văng vẳng trong căn nhà tranh.
- Đó má nó thấy chưa, con đã lớn rồi mà, má nó còn lo gì nữa.
Tuy miệng nói vậy nhưng lòng của ông Sáu cũng tan nát không kém vợ, bà Sáu vẫn còn in sâu nỗi buồn trên mặt.
- Tuy là vậy nhưng nó chưa bao giờ đi xa nhà.
Ông Sáu gạt ngang.
- Đó thấy chưa. Bà đúng là trong cuộc đời ai cũng có lúc bắt đầu ngay từ lần đầu tiên, nó đi làm chứ có phải đi ra chiến trường đánh giặc đâu mà bà lo.
Hùng phải lần nữa an ủi mẹ già để bà bớt lo lắng hơn.
- Đúng rồi mẹ, ai cũng có lần đầu tiên mà, câu này mẹ hay nói đó.
Giây phút chan hòa đã trở lại, họ cũng dần quên đi nỗi buồn, hai tiếng đã trôi qua tiếng mưa càng nặng hạt hơn buổi chiều, thời gian hai ông bà được trò chuyện cùng Hùng không được bao lâu nữa. Sáng sớm năm giờ Hùng phải ra bến xe để lên đường ngay, cả ba người họ cùng trò chuyện trong đêm, ông Sáu chăm đầy bình trà nóng với ánh mắt nhìn Hùng tràn đầy niềm tin ông nhẹ nhàng vỗ vào vai Hùng.
- Hùng à, lần này ba cho con đi lên thành phố, nhà mình quá nghèo cuộc sống ở quê thì không trang trải được, thứ hai cố gắng nơi đất lạ quê người, cho dù đi đến đâu con cũng nên nhớ con là con của cha mẹ, con sinh ra tại đây thì phải trở về tại đây, ra đi là để quay trở lại.
Bà Sáu và Hùng hiểu được thái độ và những lời dặn của ông, Hùng lên tiếng. - Dạ con biết rồi, cám ơn ba.
Bà Sáu cũng nắm lấy tay Hùng dặn dò.
- Phải giữ gìn sức khỏe nha con, lên trên đó khi nào có việc làm viết thư về cho cha mẹ biết. Hùng trấn an bà.
- Ba mẹ cứ yên tâm, con hứa rồi mà.
Ông Sáu đứng dậy đi vào trong và nói vọng lại.
- Má nó kiểm tra lại đồ đạc trong hành lý nó đủ chưa.
Bà Sáu nhìn theo dáng ông trả.
- Có sẵn hết rồi! Ông yên tâm ngủ đi mệt cho ông quá đúng là già hay lo xa. Thời gian đã chín giờ, những tiếng mưa vẫn ào ào từ chiều vẫn không thôi, Hùng hiểu được tâm lý của cha mẹ khi có con một là lo vậy.
- Thôi mẹ cũng đi ngủ sớm đi.
Bà Sáu ngáp dài gương mặt đầy căng thẳng.
- Ừ con cũng vậy ngủ sớm đi mai cha mẹ tiễn con ra bến xe sớm.
Hùng đáp cho qua chuyện.
- Dạ chúc cha mẹ ngủ ngon.
Chỉ còn lại mình Hùng, tâm trạng anh rối bời trong những tiếng mưa đêm, anh ước gì thời gian đừng trôi qua nhanh để được ở lại căn nhà này lâu tí nữa. Bao nhiêu suy nghĩ chưa có lời giải đáp thì ông Sáu bước lên với điếu thuốc trên tay nồng nặc mùi khói. - Sao giờ này còn chưa ngủ hả Hùng, ngày mai phải đi sớm đó.
Hùng đáp gọn.
- Dạ lát con ngủ, sao giờ ba còn chưa ngủ?
Ông Sáu trả lời.
- Tại mưa lớn quá âm thanh rầm rộ làm ba khó ngủ quá.
Một câu nói dối lòng của ông, mà Hùng nghe qua đã biết ngay. Cha anh nằm xuống là đã ngủ người dân quê hay ngủ sớm, thời gian mà ông Sáu còn thức là có chuyện đang lo lắng
cho Hùng nhưng không nói ra, bà Sáu bước chân ra thì thào với chồng. - Ông ơi! Tôi không ngủ được.
Cả đêm đó ba người họ cùng trò chuyện khá lâu, họ chỉ ngủ được hai tiếng đồng hồ thì tiếng chuông báo thức năm giờ sáng réo vang lên.
Trời vẫn chưa sáng hẵn những chú gà gáy sau cây rơm, ông Sáu lái chiếc xe cub chở Hùng và vợ ra bến xe mà lòng đầy sự đau nhói, đến nơi Hùng bước xuống ngồi bên chiếc ghế đá chuẩn bị lên xe, hai ông bà đưa mắt nhìn mà cầm lòng không được, bà Sáu ú ớ chỉ nói được một câu khi Hùng đã lên xe.
- Mẹ chúc con lên đường mạnh khỏe.
Ông Sáu vẫy tay chào sau tiếng còi của tài xế, Hùng nhìn theo đăm chiêu, chuyến xe đã lăn bánh hai ông bà tựa vào nhau ngắm nhìn chuyến xe đang chạy, bà đã khóc trên vai của ông Sáu. Hùng cũng nhỏ từng giọt nước mắt xuống áo, nhìn về phía cha mẹ đang đứng và xa dần dần đến mất hút sau một cua quẹo, chỉ còn lại hai ông bà với những tiếng nghẹn ngào bà Sáu thì thầm cùng chồng.
- Không biết chuyến xe này mang nó đi thời gian bao lâu mới mang nó trở về. Ông sáu nói:
- Cầu trời phật cho con mình tìm được việc làm ở thành phố, mình về nhà thôi bà, khi nào làm có tiền nó sẽ về quê thăm mình mà.
Lên đến Sài Gòn, công việc ban đầu của anh là phụ hồ, đến bóc vác, làm quán cơm, nhưng vẫn không ổn định vì tiền lương quá thấp. Mãi đến một tháng sau anh mới được vào làm trong công ty chỉ là công nhân, nhưng công việc cũng khá nhẹ nhàng, tiền lương cũng không thấp nên anh quyết định làm luôn, tiền lương tháng đầu tiên anh vui như chưa bao giờ vui. Những lá thư của anh gửi về, dường như không hết cảm xúc của anh viết ở đất Sài Gòn, người đông nhà lớn, anh lại thích cái an nhàn mộc mạc của quê hương. Mỗi khi tan ca về anh hay ra ngõ trước nhìn những áng mây cao trên trời, thèm cái nhìn và lắng nghe tiếng dịu của sông nước, thèm luôn những chiều hoàng hôn giăng lối trên những cánh đồng quê, có nắng chiều trong lành, những cánh chim bay về tổ ấm, dưới đường có đàn trâu, nghĩ đến những cảnh ở quê hương anh chỉ bật khóc vì nhớ nó vô cùng.
Đêm nay những ánh sao của Sài Gòn đã mọc đầy, một vầng trăng đứng yên trên một nóc nhà cao tầng, những tiếng còi xe inh ỏi ngoài đường, anh lại nhớ quê hương nông thôn da diết. Nhớ những cánh đồng mơn mởn lúa vẫy chào khi gió thổi, nhớ luôn hàng dừa quê ngoại mỗi khi trốn tìm tuổi thơ...
Chim Én Bay
Phong ơi, có thư từ miền xa gởi đến cho anh nè .
Quang Nguyễn
Tiếng nói của anh đưa thư trong quân đội vừa dứt thì Phong chạy ào ra với nụ cười hớn hở tràn đầy niềm vui
- Cám ơn anh mà ai gởi thư cho em vậy ?
Anh đưa mắt nhìn Phong cười và nói
- Gì mà phải cám ơn ! Nhiệm vụ của em mà, đồng chí đọc thì sẽ biết ai gởi, thôi em chào đồng chí nha, em còn phải giao thư cho nhiều chiến sĩ khác sắp đến tết thư từ miền xa của các đồng chí nhiều lắm
Nói xong anh đưa thư đã đi sang nơi khác Phong đứng nhìn lá thư mà lòng hồi hợp biết bao anh đã đợi chờ những lá thư gởi đến từ rất lâu nay mới được cầm trên tay như một món quà cuối năm, lòng vừa mừng vừa thấy lo xa đó là đức tính và thói quen của con người anh từ khi anh bước chân vào quân đội thì những đức tính ấy dường như không còn nay được lộ ra vì một lá thư bé nhỏ mà anh luôn hi vọng của một người con gái mà lúc chưa nhập ngũ anh đã yêu và cho đến bây giờ hình ảnh của cô gái ấy cứ xuất hiện trong tâm trí anh từng giờ, từng phút. Anh đã gởi rất nhiều lá thư nói lên sự nhung nhớ của mình về người con gái ấy nhưng chưa bao giờ được nhận lại cái hồi âm, trong doanh trại có nhiều chiến sĩ được người yêu và gia đình đến thăm còn riêng anh thì chưa một lần vì quê hương của anh quá xa gia đình cũng không có nhiều thời gian, với tuổi hai mươi bảy những chiến sĩ trang lứa rất nhiều họ cũng có những phút mơ mộng và hồi tưởng về những kỉ niệm khó quên nhất trong đời lính, họ biết nhường nhịn, yêu thương nhau như anh em một nhà sẵn sàng chia sẻ bao bọc những tâm sự vui buồn cho nhau nghe nên rất nhẹ nhàng mỗi khi Phong vướng vào chuyện buồn, mỗi đêm trần trọc không ngủ được luôn có những ánh mắt thân thương với bao câu nói đầy sự chân thật và cảm thông đó là những người trong đơn vị của Phong, dường như một cái duyên nào đó sắp xếp cho họ đến với nhau với tình yêu thương bao la, sự đùn bọc, họ đem tim mình đến với người khác, rất đáng trân trọng hình ảnh của những anh bộ đội trong đơn vị của Phong, chưa kịp đọc lá thư thì tiếng bước chân đi xào xạc bên hàng lan đang hướng về Phong
- Ê Phong anh em mình vào dọn phòng chuẩn bị tết với người ta
Phong nhìn lại thấy Vũ đang đứng sau lưng anh, Vũ quê tận Cà Mau nhập ngũ trước Phong hai tháng Vũ là người rất vui tính hay kể những câu truyện cười của Bác Ba Phi ở quê anh cho mọi người nghe những lúc mệt mỏi, căng thẳng, buồn bã
- Ừ tập hợp anh em đầy đủ mình dọn luôn cho vui
Vũ cười kha kha khi nhìn xuống tay Phong có lá thư
- Thư của người yêu phương xa gởi tới hả
Phong đáp
- Chưa biết, chưa đọc mà
Vũ xua tay
- Thôi thôi để vào túi rồi tối đọc, đi dọn phòng cho mấy sếp nhờ
Vũ và Phong bước vào nơi các anh sinh hoạt hằng ngày với những cái giường mà nhiều đêm các anh đã gắn liền trong cuộc đời đi lính, Vũ lên tiếng
- Thằng Đoàn và thằng Tú đâu, nảy giờ mày thấy tụi nó không ?
Phong Trả lời
- Tụi nó đi gác rồi ông ơi, thằng Tú thì gác trước, thằng Đoàn gác sau, tối nay tới tôi gác sau, ông gác trước
Vũ cười hí hí
- Chết cha tao quên tới lượt gác mà không nhớ, vậy tranh thủ dọn đi
hai người cùng dọn cùng trò chuyện rất vui, với những câu cười nở trên môi không bao giờ dứt, Vũ lên tiếng
- Ê Phong không biết bốn đứa mình ra quân biết có còn gặp lại không ? Thật sự mà nói tao không dám nghĩ đến và nói ra vì tao sợ anh em buồn
Phong đánh nhẹ vào đầu Vũ rồi nói
- Bữa tiệc nào cũng phải tàn mà, có duyên thì gặp lại thôi, trời không chia cắt anh em mình được đâu
Vũ nhìn phong nói những lời mà anh chưa bao giờ nói
- Tao có ba món quà tặng cho ba đứa bây mà giờ không có thằng Đoàn và thằng Tú tao tặng cho mày trước, để khi nào ra quân nhìn thấy nó là nhớ lại những tháng ngày vui buồn có nhau trong quân đội
Phong nói
- Mệt mày ghê nổi tiếng là nói chuyện vui mà giờ nói toàn là chuyện buồn, mà quà gì ? Vũ lấy trong túi ra một cây bút bằng vỏ đạn đồng mà anh đã nhặt làm thành những món quà lưu niệm trong những thời gian rãnh
- Nè ! Mày lấy đi cho tao vui, cây bút này nếu sữ dụng theo thời gian sẽ không cạn mực, nhưng tình nghĩa anh em mình thì sẽ không bao giờ khô cạn
Phong nhìn Vũ với đôi mắt buồn tênh và nói
- Tao hiểu ý mày mà , được tao nhận và tao sẽ giữ nó đến suốt đời, cám ơn mày giờ tao đang nghĩ đến những chuyện trước
Vũ nói
- Là chuyện gì ?
Phong kể lại
- Tao nhớ một năm về trước cũng vào mùa cuối năm này, thằng Lâm nó ra quân bốn anh em chỉ biết đứng nhìn vẫy tay chào mà miệng nghẹn ngào nức nở không nói được một lời nào, lúc đó tao thấy đôi mắt thằng Lâm dường như nó đang khóc, nó quay lưng đi mà cứ nhìn lại như đi không đành, ra khỏi cổng nó đứng nhìn bốn anh em thật lâu trong phút chia tay kẻ đi người ở, tâm trạng nó buồn lắm bốn anh em mình cũng vậy cả đêm đó chẳng có ai ngủ được nhìn chiếc giường đã vắng bóng thằng Lâm càng hiu quạnh, nỗi buồn lại hiện về trong cả bốn đứa
Vũ nghẹn ngào quay mặt nơi khác nói những lời xúc động
- Mày nhắc lại làm tao thấy nhớ thằng Lâm quá, nhớ luôn những anh đã ra quân trước đó, anh Minh, anh Hải, anh Cường, anh Bảo, anh Quang, tất cả họ đều để lại những kỉ niệm êm đẹp trong đơn vị, giờ này đã thành kí ức trong những người còn lại
Không khí đã chuyển sang buồn của những ngày cuối năm nó gợi lại cho họ những hình ảnh thật đẹp mà những hình ảnh đó họ sẽ mang trong lòng mãi mãi trong những tháng ngày quân trường , Phong lách sang chuyện khác để tránh nỗi buồn tìm về
- Nè Vũ tối nay gác rồi giờ mình tranh thủ dọn dẹp cho nhanh để tối còn làm nhiệm vụ nữa chứ
Vũ gãi đầu
- Ừ ha ! Sao dạo này mau quên vậy ta nói chuyện nảy giờ mày không nhắc chắc giờ tao chưa nhớ
Phong pha trò chọc ghẹo
- Mới hai mươi mấy tuổi mà y như ông già chín mươi
Vũ cười hí hí
- Ông già chín mươi thì đâu có vào đây, đâu có chọc gái, đâu có bắn súng và ném lụ đạn Phong đá nhẹ vào người anh
- Cái thằng này đúng là... Thôi tranh thủ cho kịp thằng Tú và thằng Đoàn về Vũ nói vui
- Biết rồi đồng chí trẻ, để lão già chín mươi này lấy chổi quét
Thời gian của buổi chiều đã trôi qua họ thay phiên nhau gác để giữ gìn đất mẹ cuộc sống của những anh bộ đội gian nan vất vả nhưng họ vẫn luôn nở nụ cười vui khi họ đã đóng góp một sức trai để bảo vệ quê hương và đất nước, đó là trách nhiệm của những chàng trai họ tình nguyện tất cả chỉ vì một lý do đơn giãn đó là yêu thương tổ quốc, đó là ý chí của những anh bộ đội với Phong cũng vì lẻ đó từ khi anh khoác áo quân đội màu xanh huy hoàng niềm tự hào bao la rạng ngời hiện rỏ trong con người anh, anh gác cổng sau lắng nghe từng cơn gió xì xào thổi qua những hàng cây mảnh trăng ngoài xa lấp ló sau những tán lá thưa một nỗi nhớ xa xôi nào đó kéo về trong người anh. Anh nhớ gia đình, nhớ nhà, và nhớ luôn cả người yêu, nỗi nhớ này đã làm nhiều đêm anh thức giấc, anh nhớ lúc chưa đi quê hương anh còn đang lũ lụt ngoài đồng như biển cả trắng xóa vì mùa nước về, lúc anh lên đường mẹ già tóc bạc trắng và bốn đứa em nhìn anh quay lưng đi mà lòng họ như tan nát nghỉ đến những chuyện này anh nhớ đến người mẹ quê và chắc bây giờ họ cũng rất nhớ anh và luôn mong anh về bên gia đình . Phong lấy lá thư lúc trưa đã nhận ra đọc người gởi là cô Thanh người yêu của anh ở quê, nhìn nét chữ nghiêng nghiêng qua ánh trăng với những lời mộc mạc văn chương học trò mà anh cắn lòng nhớ Thanh da diết cái ngày anh lên đường nhập ngũ chính Thanh đã tiễn anh còn thêu tặng anh chiếc khăn tay màu trắng chỉ hồng có đôi chim én bay chuẩn bị về tổ ấm hiện lên ý nghĩa sâu sắc giữa anh và Thanh, lá thư kèm theo một tấm hình của một người con gái tóc buông xõa mặc áo dài tuổi học trò vừa nhìn anh đã nhận ra chính là Thanh cũng mái tóc ngày xưa anh hay vuốt mỗi khi Thanh hờn dỗi, cũng dáng thướt tha với áo dài mà anh hay làm thơ tả về cô trong phút gặp gỡ ban đầu tất cả sự nhớ nhung anh đem gởi vào trang nhật kí trong những ngày quân trường hay gởi cho một cơn gió nhờ nó bay về bên Thanh, không biết xuân nay anh có được về thăm lại quê hương, gia đình và Thanh hay không nhưng anh luôn hi vọng sẽ có một ngày nào đó anh sẽ trở về. Trăng đêm nay rất thơ mộng cảnh vật yên tịnh và thanh vắng gió của mùa đông lạnh lạnh cũng có sự ấm áp của mùa thu còn đọng lại nó đã đi và bắt đầu một mùa mới trong năm, đó là mùa xuân cũng là mùa hoa nở khắp quê hương rộn ràng miềm vui câu cười
Sáng sớm Phong thức dậy nhẹ nhàng khi được hít làn không khí trong lành của một ngày mới sau một đêm gác đầy nhớ nhung, trời hôm nay rất mới mẻ ngọn gió lạnh thổi qua người anh những con chim én bay lượn quanh trên kia hàng cây báo hiệu mùa xuân đã về Phong lại nhớ đến chiếc khăn tay của người yêu tặng lúc anh nhập ngũ cũng có đôi chim én cảnh tượng đã hiện lên trong ánh mắt anh, làm anh gợi nhớ lại thời yêu đương nồng nàn có không ít kỉ niệm đẹp ở anh và Thanh. Tuy xuân nay anh không về cùng với gia đình và người yêu nhưng chẳng xa xôi vì tất cả đều nằm trong lòng của anh mùa én bay dường như đã đưa tâm hồn anh trở lại quê nhà với hình ảnh mẹ già, bốn đứa em thơ và cô Thanh, anh đón xuân tại doanh trại cũng giống như ở nhà, anh và ba người bạn đón xuân trong quân đội và cùng kể chuyện nhau nghe về những mùa xuân xưa .
Miền Quê Thương Nhớ
Quang Nguyễn Mưa ào ào đổ xuống mái hiên nhà, tiếng sét réo vang gầm từ xa lắc, mấy chú gà con nấp ẩn vội vào cây rơm sau nhà. Mưa đầu mùa những hạt mưa thật lớn, rơi xuống từng bẹ dừa tạo ra nhiều thứ âm thanh thật da diết và sâu lắng, chiều nay trời âm u không có một tia nắng xuyên qua giàn bí, để làm khô quần áo đang phơi ngoài sau nhà, cảnh tượng xem rất buồn và hồn nhiên như những chú gà con co rút vì lạnh.
Hùng ngồi nhìn thật não nề, dường như những hạt mưa đã làm ướt hết cả tấm lòng của anh, gợi cho anh nhớ lại thuở ban đầu tuổi nhỏ cùng tắm mưa như chiều nay. Mỗi khi buồn đặt ngay tâm trạng mình vào những cơn mưa đầy hối hả, hôm nay cũng vậy, nỗi buồn in hằn lên khuôn mặt cháy nắng của anh.
Hai mươi tuổi dáng người thấp bé, miệng ít khi cười cũng rất hiếm khi trò chuyện cùng ai, xóm làng bạn bè trang lứa đặt anh biệt danh là "Hùng Sầu". Anh đã thôi học vì hoàn cảnh gia đình, công việc mưu sinh của anh là phụ hồ nhưng đồng lương quá ít ỏi, nên anh quyết định bỏ quê lên Sài Gòn để tìm việc làm. Anh buồn vì sắp chia tay với căn nhà mà hai mươi năm nay anh đã sinh sống. Nơi có hình ảnh cha mẹ, bạn bè và hàng khối kỷ niệm đang sâu lắng trong tim.
- Hùng ơi! xuống ăn cơm con ơi, mẹ có nấu món canh chua cá lóc mà ba con mới bắt được lúc mưa hồi nãy, kêu ba con nghỉ tay vào ăn cơm luôn.
- Ba ơi nghỉ tay vào ăn cơm luôn.
Ông Sáu cha Hùng đang cầm trên tay mấy cần câu, ông đứng nhìn Hùng mỉm cười trả lời. - Ba vào đây, ba cố gắng cắm thêm câu để bắt cá làm món thật ngon để tiễn con lên thành phố.
Ông Sáu bước vào với mình ướt đẫm vì mưa, trên tay cầm hai con cá.
- Má nó ơi, đem hai con cá này chiên luôn đi, làm thật nhiều để tiễn mai con nó lên đường Bà Sáu vâng lời chồng làm ngay để có một bữa ăn thật ngon, vì bà, và Hùng. Ông Sáu đều biết đây là bữa ăn chia tay, biết đến bao giờ Hùng mới được trở lại bên gia đình với bữa cơm đầm thắm, tuy đơn sơ nhưng dạt dào tình cảm gia đình.
- Thôi được rồi, như vậy là đủ lắm rồi ba mẹ ạ, hai con cá còn lại để ngày mai ba mẹ ăn. Gia đình ngồi bên bữa cơm chiều, kể chuyện cho nhau nghe vì họ đều biết sắp có cuộc chia tay diễn ra trong nước mắt. Nhà nghèo quá, dù muốn hay không thì Hùng cũng phải lên thành phố tìm việc làm. Bà Sáu quay mặt về nơi khác vì sợ sự xúc động lại trào dâng, đôi khi bà chỉ ú ớ đôi tiếng đáp cho qua chuyện, những câu đáp thật ngắn gọn. Ông Sáu cũng buồn không kém, với ông Hùng là tất cả, nhưng giờ đành phải để con trai tự mình bươn chải giữa chốn phồn hoa đô thị.
- Thôi má nó ăn đi, không gì phải buồn cả chuyện đời mà, huống chi thằng Hùng con mình nó đi làm kiến tiền phụ giúp gia đình, mình phải vui chứ bà.
Bà Sáu nghẹn ngào trong giây phút rồi nhẹ lắc đầu thở dài.
- Tôi ăn không nổi đâu, cũng chẳng biết là chuyện gì.
Bữa cơm gia đình tưởng chừng sẽ đầm ấm nào ngờ lại tắc nghẹn trong một nỗi buồn, rất sâu thẳm từ đâu vọng về, chợt nhói đau như một vết thương từ lâu chưa lành trong lòng bà, Hùng phải đôi lần lên tiếng an ủi, để cho cả ông bà được thấy nhẹ nhàng hơn và trạng thái
sẽ trở lại như ban đầu.
- Mẹ à, con đã lớn rồi mà, biết tự chăm sóc cho mình huống gì con đã quen cực nhọc, con hứa khi nào tìm được công ăn chuyện làm sẽ thường xuyên viết thư về cho cha mẹ. Ông Sáu cũng nói vào để xua tan đi những ưu phiền, trong bữa cơm chiều đầy tiếng mưa như nổi lên những khúc nhạc buồn văng vẳng trong căn nhà tranh.
- Đó má nó thấy chưa, con đã lớn rồi mà, má nó còn lo gì nữa.
Tuy miệng nói vậy nhưng lòng của ông Sáu cũng tan nát không kém vợ, bà Sáu vẫn còn in sâu nỗi buồn trên mặt.
- Tuy là vậy nhưng nó chưa bao giờ đi xa nhà.
Ông Sáu gạt ngang.
- Đó thấy chưa. Bà đúng là trong cuộc đời ai cũng có lúc bắt đầu ngay từ lần đầu tiên, nó đi làm chứ có phải đi ra chiến trường đánh giặc đâu mà bà lo.
Hùng phải lần nữa an ủi mẹ già để bà bớt lo lắng hơn.
- Đúng rồi mẹ, ai cũng có lần đầu tiên mà, câu này mẹ hay nói đó.
Giây phút chan hòa đã trở lại, họ cũng dần quên đi nỗi buồn, hai tiếng đã trôi qua tiếng mưa càng nặng hạt hơn buổi chiều, thời gian hai ông bà được trò chuyện cùng Hùng không được bao lâu nữa. Sáng sớm năm giờ Hùng phải ra bến xe để lên đường ngay, cả ba người họ cùng trò chuyện trong đêm, ông Sáu chăm đầy bình trà nóng với ánh mắt nhìn Hùng tràn đầy niềm tin ông nhẹ nhàng vỗ vào vai Hùng.
- Hùng à, lần này ba cho con đi lên thành phố, nhà mình quá nghèo cuộc sống ở quê thì không trang trải được, thứ hai cố gắng nơi đất lạ quê người, cho dù đi đến đâu con cũng nên nhớ con là con của cha mẹ, con sinh ra tại đây thì phải trở về tại đây, ra đi là để quay trở lại.
Bà Sáu và Hùng hiểu được thái độ và những lời dặn của ông, Hùng lên tiếng. - Dạ con biết rồi, cám ơn ba.
Bà Sáu cũng nắm lấy tay Hùng dặn dò.
- Phải giữ gìn sức khỏe nha con, lên trên đó khi nào có việc làm viết thư về cho cha mẹ biết. Hùng trấn an bà.
- Ba mẹ cứ yên tâm, con hứa rồi mà.
Ông Sáu đứng dậy đi vào trong và nói vọng lại.
- Má nó kiểm tra lại đồ đạc trong hành lý nó đủ chưa.
Bà Sáu nhìn theo dáng ông trả.
- Có sẵn hết rồi! Ông yên tâm ngủ đi mệt cho ông quá đúng là già hay lo xa. Thời gian đã chín giờ, những tiếng mưa vẫn ào ào từ chiều vẫn không thôi, Hùng hiểu được tâm lý của cha mẹ khi có con một là lo vậy.
- Thôi mẹ cũng đi ngủ sớm đi.
Bà Sáu ngáp dài gương mặt đầy căng thẳng.
- Ừ con cũng vậy ngủ sớm đi mai cha mẹ tiễn con ra bến xe sớm.
Hùng đáp cho qua chuyện.
- Dạ chúc cha mẹ ngủ ngon.
Chỉ còn lại mình Hùng, tâm trạng anh rối bời trong những tiếng mưa đêm, anh ước gì thời gian đừng trôi qua nhanh để được ở lại căn nhà này lâu tí nữa. Bao nhiêu suy nghĩ chưa có lời giải đáp thì ông Sáu bước lên với điếu thuốc trên tay nồng nặc mùi khói. - Sao giờ này còn chưa ngủ hả Hùng, ngày mai phải đi sớm đó.
Hùng đáp gọn.
- Dạ lát con ngủ, sao giờ ba còn chưa ngủ?
Ông Sáu trả lời.
- Tại mưa lớn quá âm thanh rầm rộ làm ba khó ngủ quá.
Một câu nói dối lòng của ông, mà Hùng nghe qua đã biết ngay. Cha anh nằm xuống là đã ngủ người dân quê hay ngủ sớm, thời gian mà ông Sáu còn thức là có chuyện đang lo lắng
cho Hùng nhưng không nói ra, bà Sáu bước chân ra thì thào với chồng. - Ông ơi! Tôi không ngủ được.
Cả đêm đó ba người họ cùng trò chuyện khá lâu, họ chỉ ngủ được hai tiếng đồng hồ thì tiếng chuông báo thức năm giờ sáng réo vang lên.
Trời vẫn chưa sáng hẵn những chú gà gáy sau cây rơm, ông Sáu lái chiếc xe cub chở Hùng và vợ ra bến xe mà lòng đầy sự đau nhói, đến nơi Hùng bước xuống ngồi bên chiếc ghế đá chuẩn bị lên xe, hai ông bà đưa mắt nhìn mà cầm lòng không được, bà Sáu ú ớ chỉ nói được một câu khi Hùng đã lên xe.
- Mẹ chúc con lên đường mạnh khỏe.
Ông Sáu vẫy tay chào sau tiếng còi của tài xế, Hùng nhìn theo đăm chiêu, chuyến xe đã lăn bánh hai ông bà tựa vào nhau ngắm nhìn chuyến xe đang chạy, bà đã khóc trên vai của ông Sáu. Hùng cũng nhỏ từng giọt nước mắt xuống áo, nhìn về phía cha mẹ đang đứng và xa dần dần đến mất hút sau một cua quẹo, chỉ còn lại hai ông bà với những tiếng nghẹn ngào bà Sáu thì thầm cùng chồng.
- Không biết chuyến xe này mang nó đi thời gian bao lâu mới mang nó trở về. Ông sáu nói:
- Cầu trời phật cho con mình tìm được việc làm ở thành phố, mình về nhà thôi bà, khi nào làm có tiền nó sẽ về quê thăm mình mà.
Lên đến Sài Gòn, công việc ban đầu của anh là phụ hồ, đến bóc vác, làm quán cơm, nhưng vẫn không ổn định vì tiền lương quá thấp. Mãi đến một tháng sau anh mới được vào làm trong công ty chỉ là công nhân, nhưng công việc cũng khá nhẹ nhàng, tiền lương cũng không thấp nên anh quyết định làm luôn, tiền lương tháng đầu tiên anh vui như chưa bao giờ vui. Những lá thư của anh gửi về, dường như không hết cảm xúc của anh viết ở đất Sài Gòn, người đông nhà lớn, anh lại thích cái an nhàn mộc mạc của quê hương. Mỗi khi tan ca về anh hay ra ngõ trước nhìn những áng mây cao trên trời, thèm cái nhìn và lắng nghe tiếng dịu của sông nước, thèm luôn những chiều hoàng hôn giăng lối trên những cánh đồng quê, có nắng chiều trong lành, những cánh chim bay về tổ ấm, dưới đường có đàn trâu, nghĩ đến những cảnh ở quê hương anh chỉ bật khóc vì nhớ nó vô cùng.
Đêm nay những ánh sao của Sài Gòn đã mọc đầy, một vầng trăng đứng yên trên một nóc nhà cao tầng, những tiếng còi xe inh ỏi ngoài đường, anh lại nhớ quê hương nông thôn da diết. Nhớ những cánh đồng mơn mởn lúa vẫy chào khi gió thổi, nhớ luôn hàng dừa quê ngoại mỗi khi trốn tìm tuổi thơ...
Chuyện Trồng Rừng
Khaly Chàm
Ởmột mảnh đất khi còn tồn tại một số con người phải lê lết từng bước chân đến những hồ, ao, đìa…tìm từng giọt nước. Đó là những giọt nước thánh hay những giọt nước từ ý niệm thiêng liêng? Họ luôn tin rằng nước sẽ hòa tan vào trong máu. Chỉ có nước đồng nghĩa với niềm hy vọng để con người ta còn được thở để nhìn thấy mặt trời và biết rằng mình đang còn sống. Chỉ nói về nước thôi! Còn thức ăn thì sao? Người ta đã nhai sạch những cọng cỏ non ngậm sương vừa nhú mầm sau một đêm cố vươn lên khỏi mặt đất… Cỏ không còn sống sót nổi, thì đừng nói đến chuyện rừng rú gì nữa.
Hãy nhìn những cụ già đang rình rập vài con kiến đói lang thang bò đi tìm mồi… cũng là niềm hy vọng? Khi bắt được một con kiến họ cố gắng nhìn thật kỹ: “Đây có phải là một sanh linh cứu cánh?” và họ bỏ vào miệng nhai nhóp nhép. Còn những trẻ nhỏ thì sao? Những bà mẹ, trong hai nhánh tay gầy khẳng khiu là một sinh vật teo tóp, hai mắt nhắm nghiền không động đậy. Có phải là một con người hay không? Chuyện có thật được các kênh truyền hình trên bề mặt quả cầu đất này đã phát nhiều lần trong nhiều ngày, để rồi những tin tức hấp dẫn nào cũng phải nhanh chóng đi vào quên lãng.
Không có một loài động vật nào lộn kiếp lên để làm bạn với dân tộc Chamanu kiên cường, một dân tộc có chiều dài lịch sử gần chục thiên niên kỷ. Là một dân tộc dũng cảm dám đối kháng lại những “mãnh thú bầy đàn” láng giềng văn minh hơn họ, giống dân này hiện nay từng cụm nhỏ sống rải rác khắp cùng trên lãnh thổ Navithu. Ở một góc trời dường như rất ít người biết tới một số dân Chamanu nếu gom lại khoảng vài chục mái nhà, họ luôn cúi đầu âm thầm nhẫn nhục, họ luôn muốn định hình trên mảnh đất nhỏ nhoi dưới quyền cai trị của lãnh địa Tachathu (cấp huyện). Tachathu trực thuộc Tanitha (cấp tỉnh). Tanitha bao trùm diện tích rộng theo ước tính khoảng chừng 80 km vuông trên bản đồ châu lục da màu có tên Navithu (cấp quốc gia). Tuy Navithu là châu lục da màu nhưng trên đà phát triển để chạm mặt với nền văn minh của nhân loại. Đó là chuyện của ngày xưa hào hùng. Cũng cần phải nên biết dân tộc Chamanu đã bị dân tộc Navithu của hơn ngàn năm đã trôi qua rồi. Sau những lần giao tranh khốc liệt Navithu đã khẳng định ai là dân tộc chiến thắng… Hôm nay dưới sự cai trị, dân tộc Chamanu đã bị đồng hóa gần như hoàn toàn về mọi mặt trong đời sống hiện thực này.
Không còn nhớ là ngày, tháng, năm mấy. Có một hội đồng thế giới hay thế chấp đếch chó gì đó mang cái tên rất nhân văn, nhân bản theo cách nói của hạng người biết mặt mày con chữ (Bảo vệ môi trường & Quyền sống con người), chắc được dịch ra từ những chữ Tây-U mà ra. Hội đồng này góp mặt nhiều thành phần đại diện cho những màu da vàng, đen, trắng, đỏ. Hội đồng đã đến khảo sát đất đai, con người của giống dân Chamanu và ra quyết định: Cứu trợ khẩn cấp nhiều mặt cho tộc dân Chamanu. Cứu trợ! Lấy gì mà cứu trợ? Tất nhiên cái chính trước mắt phải là tiền. Chắc chắn đó là tiền đô la. Khi hội đồng cứu trợ giao tiền Mỹ kim cho Navithu (một quốc gia). Navithu chuyển xuống Tanitha lo giải quyết vấn đề cứu trợ dân tình nghèo khổ. Như vậy, ai giữ số tiền đó? Phải có cấp thẩm quyền Tanitha duy nhất quyết định… Điều này đã khiến cho những con người trên hành tinh thứ sáu mươi mấy này quá đỗi ngỡ ngàng và không biết số tiền đô la đó sẽ đi về đâu? Biện pháp khắc phục phải được hội thảo do những bộ mặt thuộc vào hàng “chóp bu” tỉnh bàn bạc, để rồi cuối
cùng đi đến thống nhất: trồng lại rừng, phải phủ kín cây xanh khắp nơi trên những cánh rừng đều do bàn tay con người tàn phá. (Nên nhớ vì đây chính là nguyên nhân làm đảo lộn môi trường sinh thái tự nhiên toàn cầu). Kết luận, phải nhanh chóng thống kê toàn bộ diện tích đất hoang hóa trong đó có vùng đất nơi giống dân Chamanu đang định cư. Dự án, phương án và kế hoạch đã sẵn có, người tộcdân Chamanu chỉ nghe tin đã phấn khởi vô cùng, vì có những ông cán bộ từ Tanitha và Tachathu xuống tận nơi truyền bá tin mừng. Họ đang chờ đợi từng ngày, họ nghĩ thật đơn giản, trước mắt thế nào rồi cũng phải có công việc để làm, để kiếm ra đồng tiền, vì có tiền mới đi sang những bộ tộc khác mua những thứ ăn được để mà sống. Chờ! Thì cứ dài cổ ra mà chờ!
Một ngày nọ, không biết từ đâu ầm ào kéo đến mảnh đất khô cằn sỏi đá ít người này. Đoàn xe chạy bằng dây xích, phía rước có càng bảng sắt nằm chắn ngang rất lớn, người dân tộc Chamanu kéo nhau ra hỏi; họ biết được là đoàn xe dây xích đến là để khai hoang, san bằng hơn mười ngàn mẫu Tây đất tại đây (người dân Chamanu không cần phải biết số lượng dất đai được tính bằng mẩu hay hecta). Với một đức tin cao nhất trong tâm tưởng của người dân bộ tộc lạc hậu: “Đấng tối cao” có thể là ông trời luôn ban cho họ sự sống!
Sự sống đâu không thấy! Những ông trời con đem tin vui đến phủ dụ tộc dân Chamanu, các ngài phán một câu xanh rờn: “Những người dân đang bám trụ ở đây phải thu xếp và dọn đi khỏi chỗ này!” Người dân Chamanu ngơ ngác hỏi: “Chúng tôi đi tới chỗ nào?” Tức thì nhận được câu trả lời: “Phải chấp hành. Đây là lệnh tới nơi nào sẽ biết sau!”. Phải có chỗ để con người ta sống chứ! Tất cả được gom hết về một chỗ và chỗ mới cũng nằm kề ranh những thửa đất đã khai hoang. Trước tiên cấp trên Tanitha phái trực tiếp những vị “già mồm lẻo mét” xuống quan sát bộ tộc Chamanu cư trú. Không biết từ đâu một đoàn xe tải chỡ đến nào là xi măng, gạch, cát, sắt thép… mới đầu con người bộ tộc không thể biết được là xảy ra chuyện gì. Một ngôi nhà Nguyện được hình thành cao ráo nghiêm trang, cửa chính trực diện với mặt trời đỏ máu (một biện pháp trấn an?). Là một bộ tộc đói khát không còn bao nhiêu miệng ăn, nhưng họ chẳng màng quan tâm gì hết và họ chỉ biết thứ tôn giáo của họ. Chỉ có đấng tối cao không hề thấy mặt, duy nhất là đấng trên hết. Người tộc dân Chamanu an tâm vui sống.
Không biết có phải là phép nhiệm mầu?! Những cụm mây xám kéo đến lành lạnh rồi ban cho những giọt mưa. Dù là mưa không nặng hạt, nhưng cũng nhỏ xuống từng chập trên vùng đất mới khi người dân bộ tộc “cu đen” đã bằng lòng với số phận của mình. Ngày tháng cứ lặng lẽ trôi qua. Còn cái chuyện trồng rừng nó giống như đem ném một hạt muối vào biển cả.
Chuyện trồng rừng như thế đó. Người dân Chamanu cứ âm thầm mà tồn tại. Họ sống với suy nghĩ thấp nhất trong đầu: Còn được sống là may lắm rồi!. Một hôm có đoàn người không biết từ đâu xuất hiện tại tộc dân Chamanu. Trong đoàn có người ghé qua từng nhà để hỏi thăm về đời sốsinh n ghoạt hiện tại của nhóm tộc dân này. Người dân Chamanu không biết họ là ai nhưng người nào cũng hiền lành thân thiện… có lúc họ vác máy quay phim ghi hình hết chỗ này rồi lại quay tới chỗ khác. Người tộc dân Chamanu không thèm để ý hay nghĩ ngợi một chút gì, miễn làm sao trồng được nhiều khoai, củ để có cái nhét vào bụng là vui sướng lắm rồi.
Đoàn người từ đâu đến? Lâu ngày người dân Chamanu cũng biết được. Họ là những phóng viên, nhà báo ở tận Navithu trung ương gì đó xa xăm lắm. Dần dà họ di chuyển sang vùng đất cách đây hơn mười năm, nay đã trở thành đất thuộc. Bây giờ là những cụm rừng được phân lô, ít nhất một lô là mười mẫu Tây đất (một mẫu 10.000 m2), có lô hai chục, năm chục mẫu, lô cao nhất 100 mẫu (loại này có hơn chục lô). Nếu tính lô mười, hai chục, năm chục thì phải mất gần tháng trời mới đếm hết (con số trên do phóng viên điều tra). Như vậy, thông tin đã được công bố trên mọi phương tiện truyền thông đại chúng.
Rừng theo cách gọi đúng nghĩa tất nhiên là phải có nhiều loại cây? Nhưng ở xứ sở
Tachathu này chữ rừng rất đặc biệt, một khi người ta dùng dao cạo hơi sâu vào vỏ cây cây, tự thân nó chảy ra một thứ nước trắng như sữa được vắt ra từ vú con bò cái. Dân khù khờ Chamanu nghe người dân bộ tộc màu da sáng hơn họ nói: “vàng trắng”. Trắng hay đen là gì, tộc dân Chamanu làm sao hiểu nổi!? Hàng ngày mặt trời vẫn mọc ở hướng đông. Đoàn nhà báo, phóng viên đến lúc cũng phải ra đi…
Đài truyền hình trung ương Navithu phát song “chuyện trồng rừng” qua nhiều ngày với những thước phim phóng sự, cùng với báo chí đăng tải nhiều kỳ…thu hút nhiều người đọc có lẽ là báo Thanh Niên trong nước. Bấy giờ người dân châu lục Navithu sững sờ khi hiểu biết được câu chuyện “thần sầu quỷ khóc, đảo hải di sơn”này . Bọn lãnh đạo “đầu trâu mặt ngựa” Tanitha liên kết với nhau chia chác số tiền của dự án trồng rừng 200.000 Mỹ kim (tỉ giá Usd năm 2002) số tiền này từ trung ương châu lục Navithu rót xuống, số tiền đó “bề trên” Navithu cấp cho hạ tầng trong nước với mục đích: Để phân phối đến tay người dân nghèo có hoàn cảnh khó khăn và trong thành phần đó có tộc dân Chamanu. Tiền sẽ được cấp đúng theo đầu người trực tiếp lao động trồng nhiều loại cây tái tạo lại thành rừng. Nào ngờ mấy “cha dân” tống cổ những con người “thiểu năng trí tuệ” đi nơi khác sống chết mặc bây (có phát hình một đoạn…). Phóng viên đài có hỏi một lão già tại tộc dân Chamanu: “Hiện tại đời sống cả nhà ông ra sao, làm sao để có tiền mua gạo?” ông lão trả lời: “Tui đi qua bộ tộc kế bên kiếm những đống phân bò hốt đem về phơi khô, được chừng một thúng đội đi bán lấy tiền mua vài lon gạo nấu cháo húp cầm hơi!”. Nào là những ông mặt bự, mặt nhỏ thay phiên xuất hiện trên màn hình. Có ông trả lời sẽ có biện pháp, có ông trả lời lấp lủng nửa vời thế nọ thế kia… Chỉ có “đấng tối cao” mới biết rõ mấy vị con trời toan tính những chuyện gì xảy ra sau này (?).
Rừng! Nhưng là rừng cây có tên là cao su, cái thứ cây này biết đẻ ra tiền, khi đã trừ chi phí… nếu tính khiêm nhường một ngày bỏ vào túi ít nhất từ mười đến một trăm triệu, tùy theo chủ sở hữu từng lô. Lời hứa của Navithu (trung ương) cương quyết thu hồi lại đất trồng rừng rất ư là quái đản của mấy cha Tanitha. Nếu đem so sánh với mấy tay bịp bợm nổi tiếng ở Việt Nam những thập niên trước của thế kỷ 20 đã bị đem ra pháp trường hành quyết, thì vẫn thua xa mấy vị “tổ sư” tại lãnh địa Tanitha đại gian manh đã qua mặt nhà nước Navithu. Không biết chuyện thu hồi lại quỹ đất và tiền của ngân khố từ châu lục Navithu xuất ra có khả thi, hay là số tiền Mỹ kim đó đã bị “bốc hơi”? Còn sự tồn tại của tộc dân Chamanu không biết bây giờ ra sao? Thôi thì, cũng xin đề nghị ghi lại chuyện trồng rừng có một không hai này vào danh sách kỷ lục thế giới. (chuyện kể trên ai tin hay không thì TÙY).
Chuyện Đời Thường
Khaly Chàm
Không biết những người dân ngồi chờ đã bao lâu. 7giờ 58 phút trưởng Công an xã mới lù mặt tới. Hắn bước vào bàn và kéo chiếc ghế nhích ra ngoài, hắn lấy tờ “nhật trình” để trên bàn phất vài cái vào mặt ghế, hắn ngồi xuống. Tay trưởng CA xã liếc qua chồng chứng từ, hắn không cần phải ngẩng mặt lên nhìn ai (có thể là một thói quen?), sau khi nghiền ngẫm xong từng tờ đơn xin hay khiếu kiện gì đó. Hắn lấy cây viết cài trên túi áo rồi hắn ký chậm rãi dưới những tờ đơn. Còn lại hai giấy cuối cùng.
- Ai là Nguyễn Thị Kim L… xin tạm vắng 6 tháng lên thành phố HCM làm gì? Tay trưởng CA hỏi cắc cớ như vậy nhưng hắn đã đọc qua lý do xin tạm vắng.
- Dạ, anh Tẻn có ghi trong đó rồi chú Ba!
Thằng Tẻn thư ký ban CA xã, cúi đầu xuống nói nhỏ vào lỗ tai trưởng CA, hắn gật đầu và ký một cái rẹt.
- Lên đó nhớ làm ăn cho đàng hoàng, chứ đừng mang thân tàn ma dại về đây nghe chưa?! - Còn Thạch Lai E… là ai, bị lập biên bản ở quán con Ph… Xù?
- Dạ, xin anh Ba thông cảm, nó mới xuống dưới này mới có mấy ngày. Thằng Tẻn nói thay cho Lai E…
- Con nhỏ này quê ở đâu?
- Nó ở Thanh Điền, Giá Rai… Dạ, nó cũng biết điều rồi anh Ba. Ngày mai nó về quê nhà xin giấy tạm vắng!
Trưởng CA xã (Ba T…) đứng dậy cũng không cần phải nhìn ai, hắn bước ra cửa văn phòng ban, hắn đưa tay ngoắc thằng Tẻn chạy ra, hắn nói với nó: “ Tao lại nhà anh anh Út B… chủ tịch nhậu, nếu có gì không giải quyết được, mày điện cho tao liền!”. Thằng Tẻn dạ lia lịa. Lúc này gần 10 phút nữa mới đúng mười giờ.
Tính đến ngày hôm nay, người dân xã miền biển ở đây sống với cái nghề nuôi tôm sú cũng đã sáu bảy năm rồi. Có nhà đang khắm khá và có nhà thì vỡ nợ trắng tay. Sao lại có chuyện kỳ cục vậy? Chuyện gì trên đời này nếu xảy ra đều phải có nguyên nhân của nó. Kể từ khi xuất hiện những quán nhậu bình dân như: Biển Nhớ, Sóng Tình, Hương Biển… nó đã làm thay đổi được bộ mặt và phong cách cánh đàn ông từ thanh niên cho tới những cha, chú tuổi gần 70 nay yêu đời hơn, không còn tụ năm tụ bảy ở nhà uống rượu rồi cao giọng xuống câu hò với cây đàn phím lõm. Chỉ cần đến quán với túi không cũng được, rượu có người rót, mồi nhắm có người gắp đưa tới miệng, vừa ăn nhậu có người hát rất ngọt mùi mẫn lỗ tai, thỉnh thoảng hứng tình quá ôm ghì với nhau hôn hít thỏa thích, nếu muốn giải quyết “vụ kia” sau tiệc nhậu chạy ra ngoài thi trấn không quá năm cây số, nhà trọ nhan nhản trước mặt. Nhậu cho “tới bến” đến lúc tính tiền chủ quán ghi vào sổ, nếu chơi cho “đã ngứa” ít lắm cũng gần một chai (triệu) trong đó có tính tiền bo cho em rồi; số tiền nợ được chia đều cho từng “huynh-đệ”. Ký lãnh phần trách nhiệm thiếu nợ này người nào cũng được, chủ quán không sợ bị giựt. Vì sao lại có chuyện quá hào phóng này? Đã có mấy “ông trời” bảo kê, nếu thử không trả rồi sẽ biết. CA mời tất cả “con ngọc hoàng” lên xã đồng thời mời luôn mấy bà vợ tới để biết căn cơ.
Những vuông tôm cách nhà độ chừng hơn 100m. Sáng sớm chỉ mặc độc nhất cái quần đùi, Tám K… tay cặp cái thau nhôm bên hông, tay cầm tay lưới được cuốn tròn, hai chân Tám
K… bước đi lạng quạng trên bờ rạch để ra ngoài vuông tôm.
- Anh Tám, hồi hôm anh có nhậu ngoài chòi anh Năm Th… hôn? Thằng Tẻn hỏi - Có, gần sáng tao mới về. Mà mày hỏi có chuyện gì hôn mậy?!
- Tui biết hồi hôm mấy anh nhậu chung với mấy con “gà” móng đỏ, lính ở quán con Ph… Xù. Nhớ là phải kỷ, chứ mấy bả mà biết được phục kích thì các cha chết tươi liền! Nói vừa dứt lời, thằng Tẻn rồ ga chiếc xe phóng đi trên con đường bờ rạch được lót những tấm bê tông xi măng 1x 2 m
Để cái thau và tay lưới trên bờ, Tám K… bước xuống vuông ngay lổ trổ, hai tay đè mạnh tấm ván xuống bít lại miệng cống, con nước đang rút xuống rạch đổ dồn ra biển. Tám K… bung tay lưới ra cắm một đầu xuống gần bờ, hai tay cầm hai đầu cây tầm vông luồn trong đầu lưới, Tám K… cúi người xuống kéo rề lưới qua một bận, hắn gở từng con tôm bỏ vô thau.
Tiếng máy nổ lạch-tạch rồi tắt hẳn, chiếc xuồng cặp sát vào bờ rạch, tay cầm sợi dây hắn nhảy lên bờ rồi cột dây vào gốc dừa.
- Hồi nảy anh Tám điện cho em có gì hôn? Tay đi mua tôm lẻ về bán lại cho cho mấy xí nghiệp chế biến hải sản ngoài tỉnh hỏi.
- Mày cân dùm tao mớ tôm này nghen? Tám K… đưa cái thau cho hắn. - Tôm chưa đúng lứa mà anh bán chi vậy?
- Mày thông cảm cho tao, tao đang kẹt dữ lắm!
- Tình nghĩa có trước, có sau tôi chỉ mua dùm cho anh với giá “bèo” thôi. Hắn thừa biết là mấy cha nông dân này tập tành ăn, nhậu, gái “gú” nay đã ghiền nặng, nợ nần chồng chất ngập đầu đành phải bán tôm non. Thời đại thông tin bùng nổ, chỉ cần a lô muốn gì mà không có, cha nào cũng tìm cách ra ngoài chòi ngủ để giữ vuông tôm, chứ ngủ ở nhà với con vợ ngán tới cổ họng, nó hôi bùn đất và đã cho ra đời bảy tám miệng ăn. - Ba ơi! Bửa nay ba có đi miệt trong lấy củi hôn? Lai E… hỏi ông Sáu bán củi - Có, cơm ba nấu rồi đó, ba mới ăn lát nữa ba đi.
Người dân ở xã này đều biết mặt lão, vì lão đến đây những ngày đất nước đã yên bình, lão kiếm được miếng đất gần bờ rạch, cất một căn nhà lụp xụp mái lá dừa, vách cũng lá dừa chừng 20m vuông. Nếu hỏi tên lão người dân chỉ lắc đầu, mà biết để làm gì! Hàng ngày lão chèo xuồng vô sâu trong rừng tràm nguyên sinh để kiếm những nhánh tràm khô, lão chặt từng khúc đều đặn sấp ngay ngắn vào lòng xuồng, gần đỏ đèn lão mới về tới nhà. Khi trên đường về nếu nhà nào có nhu cầu nguyên liệu chất đốt lão bán với giá rẻ, lão mong sao có tiền mua gạo và vài thứ linh tinh… đời sống lão chỉ nghĩ tới một chữ nhàn, không tranh đua danh lợi. Người dân gọi lão là ông Sáu bán củi.
- Nay con có ra ngoài quán hôn?
- Bửa nay mệt quá con nghỉ. Hôm qua con nhậu với mấy cha chính quyền xỉn quá, con ói tới mật xanh.
- Con ăn cơm không được, ba đi nấu cho con miếng cháo nghen?! Lão hỏi Lai E… - Chút nữa con ra ngoài quán mua chai xá xị uống vô sẽ khỏe liền.Con còn tiền ba cứ lấy mà mua gạo với đồ ăn. Tháng này mưa dầm ba nghỉ vài bửa nghe ba?!
- Đừng lo chuyện đó, con dành dụm tiền kha khá gửi về trển cho má con lo cho mấy đứa nhỏ!
Lai E… xuống đây gần một năm rồi, lúc đầu cũng ở chung với mấy con nhỏ dân tứ xứ như nó. Phái nữ sống chung đụng nên phức tạp vô cùng, những lúc vắng khách tụ lại đánh bài cắc tê, có những chuyện không ra gì cũng sinh ra gây gổ chửi nhau như chó. Ở đời thì phải sòng phẳng, Ph… Xù chủ quán Sóng Tình tính toán răng rắc không lõi một đồng; các em phải trả tiền nhà, tiền điện, nước… chỉ có tiền cơm như lời dân gian nói (ăn mắm-hút giòi) là không phải trả. Lai E… nhớ cái ngày ông Sáu đẩy xe đạp chở hai bó củi tới quán. Lai E… hỏi thăm ông Sáu, biết là nhà không có ai, ông sống chỉ một mình nó liền xin lão đến đó ở,
mỗi tháng nó nói là phụ cho lão chút ít tiền thuê. Từ nhà đi bộ tới quán chừng 15 phút. Tháng này qua tháng khác lão không lấy tiền của Lai E…, lão còn nhận nó làm con nuôi. Nó hỏi vì sao mà lão chỉ sống có một mình? Lão tâm sự với nó: Thời gian trước 75 lão là sĩ quan chế độ cũ, sau ngày giải phóng lão vào trại tập trung cải tạo hơn một năm. Ngày trở về thì mới vỡ lẽ ra, vợ cũa lão đem thằng con trai cho người khác và vợ lão lấy chồng cũng là một sĩ quan chế độ mới. Nếu tính tuổi đời lão chưa tới “cổ lai hy”. Lão thương đám con nít ở xứ sở bùn đen biển mặn này, vào mùa mưa phải sắn ống quần lên tới đầu gối, tay xách dép, tay ôm cặp đi học ngang qua nhà lão, thường thì lão hay kêu vô nhà rồi lấy vài ba ngàn cho mấy đứa nhỏ. Lai E… còn biết quê hương của lão ở xa lắm. nếu có muốn về thăm, từ mờ sáng bửa nay, chiều tối ngày hôm sau mới tới.
- Nè Tẻn, con Lai E… cũng khá gái phải không mậy? Ba T… trưởng CA hỏi. - Dạ, nó lai Miên nên cặp mắt nó quyến rủ. Nó nhiều mối lắm nghe anh Ba. - Nó tới nhà thằng cha Sáu bán củi ở, vậy thì, thằng cha Sáu có đồ chơi rồi. Ba T nói xong rồi cười kha khả.
- Em nói chuyện này chỉ có hai anh em mình biết thôi nghen. Ai nói xì ra chết ráng chịu, hôm tối thứ bảy em ra ngoài thị xã uống cà phê với mấy thằng bạn. Em thấy anh Út B… chở con Lai E… chạy trên đường 30 tháng 4. Em không dám kêu!
- Thằng cha này chơi phổng tay trên tao rồi!? Ba T… nhìn thằng Tẻn chờ nghe nó có nói gì hay không.
- Gái đẹp thiếu gì, nếu có con nào mới xuống xin tạm trú, em sẽ “nạp thịt” cho anh Ba liền. Hai thầy trò cùng phá lên những tiếng cười rất lố bịch.
Hết những ngày mưa cuối mùa, trời bắt đầu hanh khô, nhiều đám mây trắng trên bầu trời đang trôi đi, gió từ phương Bắc mang hơi lạnh về để báo hiệu là sắp hết năm. Lai E nằm vật vạ ở nhà, không thiết ăn uống gì hết, mặt tái xanh. Ông Sáu nhìn nó rồi thở dài: - Con ráng ăn chút gì, hoặc uống sữa cho có sức.?!
- Con cũng muốn ăn, nhưng khi đưa tới miệng là con muốn ói. Lai E… trả lời ông Sáu. - Sáng mai ba chở con ra ngoài chợ thị trấn đến bác sĩ tư khám coi con bệnh gì! Lai E… im lặng một hồi lâu: “Để ngày mai con đi xe ôm, ba già rồi chở con đi mệt lắm!”.
Gần 11trưa. Lai E… với những bước đi mỏi mệt vô nhà, ngồi phịch xuống giường tre vói tay lấy cái gối, nó nằm xuống hai mắt nhìn lên mái nhà không nói một lời gì với ông Sáu. Lão biết nó đang mệt nên không hỏi, thì từ từ chứ có muộn gì. Lão nhủ thầm như vậy.
- Bác sĩ nói là con đã có chửa, uống thuốc vài bửa sẽ hết ói. Lai E… nói với ông Sáu. - Có con thì tốt, nhưng phải biết ai là cha của nó để sau này khi lớn lên, nó biết có một người cha để hãnh diện với đời?! Lão an ủi Lai E…
- Mấy tháng nay con không có “đi” khách nào hết! Chỉ có một người thôi, ba ơi, con không thể nói cho ba biết là ai! Con hứa là phải giữ uy tín và danh dự cho y, nếu có con y sẽ cho con tiền để nuôi con nhưng với một điều kiện; con phải về quê đẻ đứa nhỏ!
- Như vậy cũng tạm ổn, còn làm được ở quán ngày nào thì con ráng đi làm, nhớ là đừng uống rượu nữa, phải giữ gìn sức khỏe nghe con!
Thời gian vô tình đi qua. Những hình thái trên bề mặt trái đất này từng ngày biến đổi, người dân ở xứ biển cứ nghĩ rằng: đứa con trong bụng của Lai E… tác giả chính là lão Sáu bán củi, có người nói thẳng vào mặt lão: “Ông già còn gân lắm, ông đạo đức cái con C…” Lão không trả lời hay trả vốn gì hết, lão chỉ mỉm cười. Cái bụng càng ngày càng lớn, Lai E… ở nhà lão Sáu với một số tiền hơn chục triệu đã tích lũy được. Mùa khô, ngày nào lão Sáu cũng thức dậy thật sớm pha một bình trà, rồi lão vo gạo nấu nồi cơm, kho lại mẻ cá… Uống vài ly trà, lão sang một phần cơm qua cái nồi nhỏ, đồ ăn lão cho vô cái hộp nhựa có nắp, lão mang ra đặt xuống xuồng, lão quay lên lấy chai nhựa 2 lít rồi thụt vào cái lu mái vú chứa nước mưa để quanh nhà. Lão chèo xuồng lướt nhẹ trên mặt nước, tai lão còn nghe tiếng con gà trống gáy rất đúng giờ một khi xuồng của lão rời khỏi bờ rạch độ chừng 50 mét.
Có phải là nghiệp chướng [?] Thằng nhỏ từ lúc sinh ra cho đến bây giờ có hơn ba tháng, nó hết khò khè lại chuyển qua tiêu chảy. Vì muốn tiết kiệm đồng tiền cho hai mẹ con Lai E… nên lão Sáu phải nghỉ ở nhà chở hai mẹ con nó đi bệnh viện thị trấn. Ngày nào lão biết thằng nhỏ bớt bệnh, sáng hôm sau lão mới lên đường dong ruỗi vào khu rừng tràm nguyên sinh.
- Sống hay chết, con nhất định là không về quê, vì ba con khó lắm. Không biết dạo này trên đó cả nhà sống sao!
- Con ra điện thoại công cộng điện về nhà hỏi thăm!
- Ở quê con chưa có điện thoại, nhà này cách nhà kia xa lắm!
Lão Sáu gật đầu không nói thêm nữa. Thằng nhỏ nằm trên võng cựa mình khóc không ra tiếng.
- Ba thấy thằng cháu ngoại nó càng ngày càng yếu?!
- Con cũng không biết tính sao bây giờ. Y không cho tiền vì con không về quê! - Phải chi nó mạnh giỏi ba ở nhà giữ nó, con đi ra quán làm kiếm tiền.
Mặt trời xuống thấp gần chạm mặt biển. Tay trái ông Sáu bán củi cầm chắc ghi đông xe đạp, tay phải vịn cái quách được ràng sau baga, lão đẩy xe lên bờ rạch. Lai E… theo sau khóc thúch thích: “Thôi, con đừng khóc nữa, người sống trên cõi đời này ai cũng số mạng con ơi!!!” Lời khuyên chia sẻ của lão Sáu có pha chút ngậm ngùi.
Mấy ngày nay Lai E… không đi ra quán, cứ xế chiều cơn sốt không được mời, nhưng nó cứ tới nhà để nhập vào thân xác Lai E… Nó run lập cập dù lão Sáu đã trùm cho nó hai cái mền.
- Cái cử này như vậy hoài chắc con chết quá ba ơi!
Sáng sớm lão Sáu chở Lai E… tới BV thị trấn. Sau khi đóng tiền để xét nghiệm máu và chụp X quang… Bác sĩ cầm tấm phim và cho lão biết: “Con gái bác bị nám phổi rất nặng. Bác cầm giấy này xuống phòng chống lao lãnh thuốc đem về trạm xá địa phương điều trị!” Lão hỏi bác sĩ: “Nguyên nhân nào đã gây ra bệnh này, thưa bác sĩ” Bác sĩ liền trả lời: “ Có rất nhiều nguyên nhân, cháu kể ra cả ngày cũng chưa hết. Mong bác thông cảm, nếu muốn biết chính xác, bác qua phòng tài vụ đóng 300 ngàn, BV sẽ gửi mẫu máu đến viện Pasteur Tp HCM để xét nghiệm” Lão nói lời cám ơn bác sĩ, rồi lão bước sang phòng tài vụ đóng tiền, lão không quên hỏi chừng nào có kết quả. Cô nhân viên phòng TV trả lời: thứ hai tuần sau.
Cầm tờ giấy xét nghiệm ông Sáu đọc kỹ từng chữ “Kết quả: Bệnh nhân đã chuyển từ S qua HIV”. Ông Sáu đạp xe một mạch về tới nhà, lão rót trà vào ly rồi hớp một hớp cho tỉnh táo. Lấy tờ giấy từ trong túi ra, lão bật quẹt ga đốt tờ giấy xét nghiệm, ngọn lửa lan ra và cháy bùng, lão đưa tờ giấy lên để mồi điếu thuốc Đà Lạt đang ngậm trên môi. Lai E… nằm mê man không biết là lão đã về. Thời gian vô tình đi qua.
Ông Sáu bán củi biết trước phải có một ngày này.
- Ba ơi, ơn của ba kiếp này con không trả được. Nếu con có chết rồi, con nguyện kiếp sau đầu thai lên làm người con sẽ trả cho ba!!! Ánh sáng của ngọn đèn dầu vàng vọt, nhưng vẫn thấy rõ hai dòng nước mắt chảy xuống thấm ướt cái gối. Ông Sáu nói với Lai E…: “Còn nước còn tát, con đừng có nghĩ bậy bạ, con còn trẻ mà, phải sống đi làm kiếm tiền lo cho gia đình, ba má và các em lúc nào cũng chờ con về!”
- Con biết trong mình con… lúc chưa bịnh ra quán làm để dành được một triệu đồng con nhét trong áo gối. Ba mua cho con cái hòm rồi đem con vô rừng tràm chôn con ở trong đó nghe ba?!
Con gà trống vỗ cánh phành phạch cất giọng gáy đầu canh. Không có ánh trăng xuyên qua vách lá. Từ xa văng vẳng tiếng chim cú từng hồi đúng theo thời khắc. Hương biển nồng nàn hòa vào ngọn gió mùa thu đang hát ru làng biển. Không biết rồi sẽ tới người nào tiếp tục ra đi chối bỏ kiếp làm người [?]
Tháng 8/2008
Tình Người
Khaly Chàm
Văng vẳng từng hồi tiếng gà gáy tàn canh ở một xóm nhà lá lụp xụp gần nghĩa địa. Bóng đêm lui dần nhường chỗ cho bầu trời bắt đầu hửng sáng. Hai Xị trở về đứng truớc ngôi nhà của hắn. Tuy đường xá chật hẹp ngang dọc đan nhau như một cái rổ xảo, nhưng hắn không thể nào lầm lẫn được. Bởi vì, từng nhà đều có “địa chỉ” ghi rõ chữ: Họ tên-ngày-tháng-năm sinh và quê quán … Dù trên bảng không có hình bán thân như những nhà khác: “Đúng là nhà của mình, còn nhà người ta làm sao vô được”. Hai Xị nói thầm với chính hắn. Có điều khiến hắn luôn thắc mắc. Nhà cửa san sát nhau trước có, sau có và cùng dải nhà của hắn. Có nhà ghi: vĩnh biệt ngàn thu -an nghỉ cuối cùng … Hai Xị hiểu không ra. Tại sao cũng cùng là nhà, nhưng trên tấm đá xanh ngay cữa nhà hắn lại ghi hai chữ “phần mộ”. Dưới hàng cuối cùng lại càng khác nữa; nào là từ trần, tạ thế, quá cố? …“Mấy cái chữ sao mà dị hợm quá”. Hai Xị cứ tưởng như một mớ bòng bong rối nùi trước mắt:“Cứ ghi: chết ngày … bày vẽ làm chi cho thêm dài dòng! ”. Hai Xị lẩm bẩm đi quanh vòng nhà bất chợt đứng lại chửi đổng: “An nghỉ cuối cùng cái con c… không biết nằm đây yên thân được bao lâu, rồi cũng bị đào bới đem đi chỗ khác!”. Hai Xị hả hê vô cùng, cơ hồ có một dòng nước làm mát linh hồn của hắn. Tiếng chim hót trên tán lá tràm bông vàng ngoài ngã tư đường cái phân lô đất dành để chôn những người không có khả năng còn thở. Hay nói đúng hơn một mảnh đất chôn xác người chết. Hai Xị thất kinh, lật đật chui vào nấm đất lè tè như cái mui xe ngựa, cỏ gai mọc um tùm cao gần tới ngực.
Hai Xị tính nhẩm từng giơ: “Mười hai tiếng đồng hồ chứ phải ít đâu”. Hắn ước gì nó bùng cháy mau như diêm quẹt. Ru rú trong nhà đối với Hai Xị là một cực hình, khi hắn phải nhìn thấy cái thây ma của hắn. Nó giống na ná một con khô cá khoai, làm cho hắn nhớ tới những bữa nhậu. Con khô thơm lừng thiệt đã. Hai Xị tính kỹ từng miếng, từng ly, bỏ vô miệng nhai nhỏ nhẻ “yêu một mình” với hai xị đế. Giờ đây cái thân hình còm cỏi… nó đang nằm đó cứng đờ, ngày qua ngày từ từ biến dạng: “Mới ngày nào đây nó với mình là một, nghiêng chai đếm từng giọt, gõ muỗng hát tầm xàm tầm đế…”. Hai Xị bùi ngùi tiếc rẻ thằng người của hắn biết mấy!
Mặt trời xuống thấp đỏ lòm không bao lâu biến mất khỏi mặt đất. Điệp khúc thê lương của loài giun dế, cào cào,châu chấu hợp tấu vang rền từ những gốc cỏ, ngọn cây rỉ rả buồn đứt ruột. Hai Xị nao lòng chạnh nhớ quá cái chòi lá xiêu vẹo, dột nát trên mảnh đất hoang không quá 12 mét vuông bên bờ rạch ngoại ô thị xã. Những đêm trời không mưa, ánh trăng xuyên qua lỗ chỗ mái nhà, Hai Xị ngồi một mình nghiền ngẫm sự đời nhâm nhi từng ngụm rượu “Sống cái nhà-thác cái mồ”. Hắn nghe người ta nói như vậy :“Nhà hay mồ mả gì cũng được. Giờ đã thành hồn ma rồi, nhà với cửa có sung sướng được đâu!”. Hắn nói là để tự an ủi những lúc cô đơn. Hai Xị chui qua cửa rồi ngồi bệt trước thềm nhà của hắn.
- Ê. Hai Xị đi nhậu mầy! Thằng bạn ngoài đầu dải nhà rủ hắn đi.
- Nhậu nhẹt gì. Tao không có một đồng dính túi, thôi tao không nhậu! - Đ.m bày đặt tự ái, tự trọng. Trưa nầy là ngày đám giỗ của tao, con vợ nhà nó gởi cho tao mấy triệu bạc.
Ở một vùng đất phố chợ không xa lắm “cõi dương” hàng đêm cũng ồn ào náo nhiệt và luôn có đủ thứ chuyện xô bồ phức tạp, nào là quán bia hơi bình dân, karaoke, càphê “ôm”…
Bạn bè Hai Xị có năm bảy mạng đồng hạng như nhau “nghèo khạc ra tro-ho ra máu” một lũ bợm nhậu khi còn hiện diện trên dương thế “mã tầm mã-ngưu tầm ngưu” . Lần lượt thằng trước, thằng sau ra nhập hộ khẩu dễ dàng trong vuông đất khoảng chừng năm mẫu tây, nơi đây được mệnh danh là nghĩa trang Thành phố CaLi Bình Minh* tiếng tăm khuôn mẫu: “Chết là hết!”Hai Xị nghĩ đó là điều dễ hiểu: “Không lẽ người ta quăng cái xác mình ra ngoài đường như một con chuột?!” Hai Xị còn nhớ như in, cái ngày bà con chòm xóm cùng là dân cắm dùi dọc theo bờ rạch như hắn, hay tin hắn tắt thở. Họ vận động quyên góp tiền mua cho hắn mấy miếng ván, sau đó mướn một chiếc xe lôi đưa hắn đến hòa nhập với cộng đồng cõi âm hồn lạnh lẽo nầy. Thắm thoát đã gần một năm .
Thằng bạn rủ Hai Xị đi nhậu lúc nãy. Có lần nhậu nó kể cho hắn nghe về hoàn cảnh gia đình của nó; nó sướng như tiên. Vợ nó bán rau muống ngoài chợ xã, răng rắc mỗi buổi sáng vợ nó phải có bổn phận phát lương cho nó 20 ngàn. Nó vui vẻ chỡ hai đứa con của nó, đứa 12, đứa 10 tuổi trên chiếc xe đạp cà tàng đến một góc phố trung tâm thị xã rồi bỏ xuống, hai đứa nhỏ chia ra hai hướng đi kiếm quán cà phê để bán vé số. Nó thản nhiên không có điều gì phải lo lắng. Dong xe tới nhà mấy thằng bạn thuộc hàng võ công… da mặt vàng khè“sơ gan thần chưởng ”, mấy cao thủ bèn họp mặt gầy sòng với vài trái cóc da xanh, kèm theo một cục mắm ruốc … Chiều xuống hai đứa nhỏ chờ nó. Có ngày đến chín, mười giờ đêm cho đến khi mòn mỏi đành lê bước về nhà. “Té ra bữa nay là ngày giỗ của nó, vợ nó đốt tiền âm phủ gởi cho nó. Hèn chi!”. Hai Xị chợt hiểu ra nhưng hắn từ chối. Vì không muốn mang tiếng là dân giang hồ lại đi lợi dụng người khác. Những tay “ Võ lâm ngủ bậy ” bèn kéo nhau ra đi là đà trên mặt đất .
Ra khỏi “ thành phố ” Hai Xị nhắm hướng vùng ánh sáng tỏa lên một góc trời. Hắn nghĩ nếu đến đó có thể sẽ gặp được một cơ may. Hắn lang thang trên những con đường, xe cộ của người“cõi dương” chạy vụt vù ngang qua hắn. Đứng trước cửa hàng bán quần áo thời trang, nhiều người mua hàng đang lựa chọn, có vài cô gái đẹp nói cười ríu rít. Một người đàn bà mặc thử cái quần tây dài cho thằng nhỏ. Người ta không nhìn thấy hắn … Hình ảnh vợ con hắn như sương khói chạy luẩn quẩn trước mặt hắn. Đã từ lâu Hai Xị muốn quên đi những chuyện mà người ta nói là quá khứ hay dĩ vãng dĩ hậu gì đó, nghe mơ hồ quá:“Mình học hành chữ nghĩa không đầy lá mít hiểu làm sao được”. Hai Xị vụt chạy ra khỏi cửa hàng một hồi lâu rồi đứng lại, nhưng hình ảnh luôn đeo bám hắn khiến hắn muốn phát điên .
Trốn ra khỏi trại mồ côi Hai Xị nhớ mang máng 13 hay 14 tuổi còn ngu lắm, hắn lang bạt khắp cùng rày đây mai đó làm đủ thứ nghề; lượm bọc mủ, phụ hồ, bốc vác … Chỗ hắn trú thân lúc đỏ đèn là những sạp gỗ trong nhà lồng chợ. Thời gian qua đi, hắn lớn lên trong cái thùng chứa nhung nhúc con người từ khi nào hắn cũng không biết. Hai Xị gặp con vợ của hắn cùng là dân “trôi sông lạc chợ ”. Chuyện là vậy “ Mình có hơn gì nó đâu! ”. Hắn vui lắm, biết tánh nết nó hiền chịu khó làm ăn, sáng nắng, chiều mưa vợ hắn miệt mài lựa dưa, khoai … dưới bến ghe cập chợ, còn hắn khiêng vác hàng lên bờ, đời sống của vợ chồng hắn tạm ổn định .
Vợ Hai Xị bồng thằng con 10 tháng tuổi nhập viện. Bác sĩ khám xong cho biết thằng nhỏ bị viêm nảo cấp. Tiền bạc trút hết cho thằng con cũng không đủ thấm vào đâu. Túng quá làm liều, hắn cạy cửa hàng trong chợ bị phát hiện. Ngày ra tòa lãnh án bốn năm với tội danh: Trộm tài sản công dân và chém người gây thương tích .
Mãn hạn tù Hai Xị liền về chỗ cũ tìm lại vợ con, người ta nói; vợ hắn bồng thằng con đi có hơn hai năm rồi. Hắn chỉ biết dậm chân kêu trời không thấu. Dòng đời cuồng nộ cuốn Hai Xị trôi lăn lóc, hắn nếm đủ mùi sung sướng, khổ đau, thù hận. Hắn kết thân với những “chiến hữu” đồng cảnh ngộ mượn rượu giải sầu, thường là những bữa cơm bụi vỉa hè phải có hai xị, lâu ngày dài tháng thành thói quen, bạn bè hắn đặt cái tên chết danh là Hai Xị. Cuộc sống lê la, Hai Xị ôm trong lòng nỗi cô đơn “Cái thân mình như một con chó chạy rong giữa chợ đời tìm kiếm miếng ăn”. Hai Xị oán ghét những người chung quanh hắn, ngoại trừ
mấy thằng bạn bữa no, bữa đói như hắn. Thằng Năm Đen đạp xích lô, gần nửa đêm nó mò về ngủ chung với hắn, nó là bạn tri âm hay an ủi hắn: “Ở đời biết ngứa chỗ nào đâu mà gãy, mầy có buồn cũng không giải quyết được gì đâu!”. Hai Xị theo thằng Năm Đen về quê của nó. Một miền đất nắng cháy gần biên giới Tây nam, nhưng tạo hóa không đến nổi bất công ban tặng cho một dòng sông êm đềm chia nhánh chảy ngang qua thị xã. Cái thứ dĩ vãng mắc dịch, mắc toi nó chui vô trong đầu Hai Xị. Cho dù hắn có đi làm bất cứ việc gì, nó như cái bóng lẽo đẽo bám theo hình hài của hắn. Chỉ khi nào hắn rót rượu thấm ruột gan của hắn, ít lắm phải hai xị, men rượu như liều thuốc an thần nhận hắn chìm sâu xuống giấc ngủ …
Nỗi mừng vui không nói được thành lời. Trước mắt Hai Xị, một mụ sồn sồn tuổi trên dưới 50 đang ngồi sắp đặt những món đầy cái dĩa giữa tàu lá chuối non trải dưới đất; một trứng hột vịt, một con tôm luộc cở ngón tay cái, một miếng thịt heo luộc, một dĩa gạo muối. Mụ ta không quên rót rượu tràn ba cái chung nhỏ, rồi đốt ba cây nhang khấn vái:“Văn kỳ thanh. Bất kiến kỳ hình. Nay tôi bày bộ tam sên tại ngã ba đường nầy, xin mấy vị cô hồn không nơi nương tựa, đừng quở phạt thằng cháu nội của tôi tên là … ” Mụ ta chấp hai tay xá ba lần rồi đứng dậy bỏ đi. Hai Xị sà xuống ngồi chồm hỗm bên đường. Màu vàng bệnh hoạn từ bóng đèn trên trụ điện cũng đủ sáng cho hắn nhìn thấy những món ăn. Hắn bóc con tôm nhai ngấu nghiến, tay kia bưng chung rượu đưa lên miệng uống chậm rãi, hắn ngỡ rằng; đang ngồi lơ lửng trên mây. Hai Xị quá bất ngờ, không biết từ đâu có mấy thằng con nít bụi đời cướp mồi của hắn chạy đi. Hắn nhìn theo ngẩn ngơ rồi chợt hiểu:“Đ mẹ nó, mình chết rồi hồn ma vất vưởng, nay lại gặp cái đám cô hồn sống nầy giựt miếng ăn của mình … cuộc đời nầy sao mà chó đẻ quá!”. Ngọn gió đêm từ hướng sông thổi lướt qua làm bật tàu lá chuối. Hai Xị nương theo gió bước đi nhẹ nhàng.
Người “cõi dương” lần lượt đi vô nghĩa địa “thành phố CaLi” từ mờ sáng. Họ đem theo nào là cuốc, xẻng, nhang đèn, trà rượu … Hai xị nằm co ro trong nhà của hắn:“ Không biết chuyện gì đây, sao họ vô đông nghẹt làm rùm beng nghe khó chịu quá!”. Hắn lén nhìn qua khe cửa, thấy người ta đang chùi rửa những ngôi nhà, có người đang giẫy cỏ xung quanh, còn người khác đốt nhang cắm trước “địa chỉ” khói bụi bay mịt mù trời đất …
Những hồn ma lân cận nhà Hai Xị, tụi nó chưng diện quần áo mới, có thằng chạy xe gắn máy cắt chỉ nẹt pô nổ giòn lỗ tai trong “thành phố”, có đứa xài tiền đô một xấp. Hai Xị lững thững men theo con đường mòn trước dải nhà của hắn. Có một đám đang ngồi nhậu trước cửa nhà cũng thuộc vào hạng khá giả ở khu phố; bia lon, thịt heo quay, nem chả … khiến cho hắn thèm muốn chảy nước dãi, đám loai choai đó giả vờ như không thấy hắn:“Toàn một lũ quỷ con ông cháu cha, lúc còn ở trên dương thế sống phè phỡn quậy phá không ai chịu nỗi. Nay chuyển vô đây rồi mà thằng điếm cha với con đỉ mẹ tụi nó còn thương tiếc, gởi cho tụi nó không thiếu một thứ gì”. Dưới chân Hai Xị con đường tối nay sạch trơn không còn cỏ gai, cỏ xước như mọi khi. Mãi cứ nghĩ lung tung Hai Xị ra tới ngã tư đường cái hồi nào không hay. Hai Xị gặp một thằng bạn khi vô cư ngụ trong “thành phố” nầy lâu dần cũng quen thân. Nó đứng bên cây bạch đàn đang dõi mắt trông về hướng nhà của nó. Nó tên Tư, bạn bè ghép tên nó là Tư “ lựu đạn ”. Mới nghe qua tên nó nếu có ai yếu bóng vía chắc sẽ giựt mình chứ phải chơi đâu. Nhưng nó hiền khô như cục đất, nó làm nghề đào sắt vụn xót lại ở những vùng còn dấu vết đồn bót chế độ cũ, không may cho nó trong lúc hì hục đào trúng trái M-79 phát nổ, nó chết tươi tai chỗ. Nó giao lại cho con vợ nó một gánh nặng oằn vai, năm chiếc tàu há mồm nhởn nhơ trên biển khổ.
Hai Xị lại gần vỗ vai và hỏi nó:“ Sao mầy đứng một mình ở đây? ” Im lặng một hồi lâu Tư “lựu đạn” trả lời:“Còn mấy bữa nữa là tới tết rồi. Tao trông hoài cả ngày nay không thấy vợ con tao vô thăm, buồn quá ra đây ngó về nhà cho bớt nhớ” Nghe thằng Tư nói vậy, Hai Xị mủi lòng thấy thương nó quá!:“Dù sao nó cũng còn may mắn hơn mình. Một thằng không nhà cửa vợ con như mình, có ai đâu mà trông với đợi!” Hai Xị kéo thằng Tư ngồi đại xuống đất, hai đứa im re không nói thêm một lời nào… Trên trời có một vì sao rụng xuống như
chớp mắt.
Đi ngang qua nhà Hai Xị, thằng con trai chừng 13-14 tuổi nó nói với bà già: “Ngoại ơi, ghé vô đây nghỉ chưn một lát đi ngoại” Bà già gật đầu, tay xách giỏ đồ đặt lên thềm nhà lót gạch men màu xanh cẩm thạch, thằng nhỏ bỏ cái cuốc xuống đất, hai bà cháu ngồi bên thềm nhà. Mặt trời khuất trên nóc nhà mồ, hàng cây bạch đàn đứng lặng thinh lá trên cành không xao động. Thằng con trai đưa tay chỉ qua nhà Hai xị: “ Mả của ai mà cỏ còn y nguyên kìa ngoại?! ”Từ nãy giờ bà già không để ý: “ Ờ… Chà! Tội nghiệp quá, chắc không còn ai thân thích, hay là bà con ở xa. Con nghỉ một lát nữa đi rồi giẫy dùm người ta làm phước, xế chiều mát rồi về ” Thằng nhỏ dạ một tiếng, nó với tay kéo giỏ xách lạ gần, lấy nửa khúc bánh mì khô queo đưa lên miệng nhai nhóp nhép…
Rúc trong nhà từ sáng tới trưa. Hai Xị nghe không xót một lời của hai bà cháu đang nghỉ mát kế bên nhà của hắn “Thì ra, trên dương thế cũng còn có người biết trọng việc nghĩa nhân, họ không tính toán so đo gì hết, miễn sao làm được việc tốt là được rồi” Bà già gom cỏ lại thành đống, tay mò trong túi áo bà ba lấy ra cái quẹt ga, bà ngồi xuống bật quẹt, lửa bắt đầu bén cháy một cột khói trắng dựng lên trời. Thằng nhỏ ngồi nghỉ mệt đưa tay quệt mồ hôi trên trán:“Còn mấy ngày nữa là tết hả ngoại?” Bà già đang mồi mấy cây nhang:“Ngày mốt là tết đó con, nay 29 âm lịch. Nè, con cầm ba cây nhang nầy đem cắm trước mộ bia đi con!”. Hai Xị trông cho trời mau tối, hắn sẽ ra khỏi nhà để cám ơn hai người mà hắn chưa lần nào gặp mặt. Chuyện đó chắc chắn không bao giờ có được… Hơi hướm mùa Xuân chừng như lảng vảng đó đây.
* nghĩa trang xã Bình Minh
Những Mảnh Ghép Bình Yên...
Nguyễn Văn Thượng
(Viết tặng L.H.M)
Tà tà trên con đường về sau một ngày lao nhọc, chiếc điện thoại chợt reo lên tiếng chuông và màn hình hiện lên chữ “ML”
- Chào, ngài vẫn khỏe chứ!?
- A, chào H.M…
Câu chuyện huyên thuyên về công việc, sức khỏe, gia đình chung chung vậy thôi mà cũng gần ba mươi phút điện thoại đường dài. Ừm, Cũng đã lâu rồi mình không nói chuyện nhỉ, đã hơn tám tháng qua rồi thì phải. Người ta thường bảo – Những đứa yêu nhau thật lòng thì nói là quên nhau nhưng thực chất là “lời nói dối cao thượng” để đỡ làm đau nhau thôi. Ánh đèn chạy vụt lại đằng sau, cuộc trò chuyện cũng ngưng lại. Cả đôi đàng thật sự không nói được gì ngoài những lời xã giao rồi kết thúc – Khi yêu thật sự thì một tiếng thì thầm cũng đền vấn vương…
---
Nhớ một chiều mưa, khi phố phường đang mưa rả rích, ta bâng khuâng buổi hẹn hò. Cứ mỗi độ mưa đầu thu thút thít, thì giọt nhớ chợt đong đầy bên hàng phố bâng khuâng. Con đường ấy, tôi đã thôi không còn qua, vết xe đã mờ. Đã bao lần cào xước, đắp vá biết có còn giữ được chút kỷ niệm cho tôi. Xa thật xa một khoảng trời mênh mông thăm thẳm, biết người còn nhớ khi từng ngày, bóng ngã về tây.
Có ai đó nói rằng trong tâm trí mỗi người biết chẳng có cái kỉ niệm nào sẽ thật sự chìm vào ký ức đến mức xóa tan khi chuyện tình đã quá cũ kỹ mòn mõi tháng năm. Khi quen biết nhau, giọt cà phê hiện diện trên chiếc bàn kính như vô hình khi cả hai chỉ nhìn nhau cả một lời cũng chẳng nói được, đến khi câu chuyện vừa có thể cất thành lời thì dòng thời gian đã đến hẹn, kẻ phải trở về với trách nhiệm gia đình, kẻ lao vào kiếp lữ khách hồng trần. Có khi nào ta đã biết nhau từ rất lâu rồi mà đến giây phút đó ta mới chạm ngõ và rung động theo nhịp mưa thu? Nữa năm, mới có dũng khí viết những dòng tâm trạng mơ hồ chỉ để hiểu rằng chấp nhặt cảm xúc cũng viết thành một câu chuyện sương gió chiều thu.
Tưởng cuộc sống tất bật với những bận tâm gia đường khiến cho trái tim kia không còn “lạc lối”, nhưng tiếng chào hỏi của em bên kia sóng điện vẫn như ngày nào trừ những tiếng thiết tha đằm thắm ta đã thầm trao nhau khi xưa thật là xưa... Chuyện đời như dòng trôi, có những phong trần che lấp chẳng tốt đẹp mãi như phút yêu ban đầu dù chỉ là tí xíu hơi thở của ngày xưa. Chẳng hiểu nỗi chính mình khi đã nói lên lời từ biệt vì không thể vượt qua lễ giáo gia phong mà sao nhất cử nhất động của em lại quan tâm nhiều đến thế. Tôi lựa chọn xa nơi ấy chỉ để tìm cho mình một cuộc sống và cho người những lựa chọn xứng đáng hơn tôi. Có lẽ tôi thật ngốc nghếch đến ngu xuẩn về điều đó. Khi quyết định xa tất cả mọi người thân thương, xiết bao kỷ niệm ấm áp với con sông hiền hòa và những con người đôn hậu tôi hiểu con người mình như thế nào. Với em, tôi biết mình không nên làm một mối tình “chân chính”, ràng buộc của đạo đức và dư luận xã hội rất khó nỗi vượt qua. Một tháng, từ ngày ta hẹn hò nhau, đêm nào nhắn tin, tôi cũng mang trong lòng một nỗi buồn không tên, tôi cố kiềm lòng lắm mới có thể nói ra những lời như vô tâm để người bỏ tôi ra khỏi cuộc đời. Biết người buồn, đau và trách. Khi đôi người chính thức chẳng còn là gì, tôi mới thở phào nhưng
cảm xúc lẫn lộn, tôi không biết nên vui hay nên buồn, lần thứ 3 – tôi cố gắng kết thúc bằng mọi giá, nhưng người làm trái tim tôi lung lay và đem hết dũng khí ra tôi mới có đủ can đảm nói ra lời kết!...
Tôi cố che đậy bản thân bằng những công việc, bằng những trang viết bất tận để không còn thời gian thể tiếp cận và buồn thương. Tôi tin rằng sự hững hờ ấy sẽ dập tắt những tia hy vọng cuối cùng để rồi ngày tháng qua, tôi sẽ tan biến trong dòng vô thường cũng chẳng xa. Tôi vẫn mong người tôi đã từng yêu luôn sống tốt đẹp nhất nơi thành phố biển và gió tây nam. Và trong tâm trí lúc nào tôi cũng thấy hình ảnh thân quen xưa xuất hiện đằm thắm, trầm buồn.
Cho đến hôm nay, chúng ta đã nói chuyện nhiều hơn lúc chạm mặt ngần ấy năm chưa hả? – Chưa bao giờ cho đến khi chúng ta …hẹn hò với nhau trong một tối mưa phố rưng rưng. Những dòng tin nhắn như một sợi dây nối chúng ta lại với nhau từ lúc nào chả nhớ, tôi biết người quí từng dòng tin đến nỗi không nỡ xóa chúng đi dù rằng hộp thư không thể tiếp tục nhận nữa và khi mọi chuyện kết thúc thì lại cất chúng vào thư mục riêng, không biết để làm chi nữa! Chúng ta như cảm nhận đươc nỗi buồn của nhau để rồi khi trong tiềm thức biết mình phải quên hẳn nhau, thế rồi những giọt nước mắt chảy xuôi khi tay chạm phím xóa hết những dòng lưu luyến cũ. Ngoài trời lại mưa, trái tim người đã như ngừng đập và nước mắt bắt đầu rơi. Những tiếng chuông buông rơi chiều thứ bảy, những kí ức về tôi mà người có được chắc lại chảy tràn về.
Chiều thứ bảy là kỷ niệm, và cũng là nỗi đau không bao giờ nguôi và người chỉ muốn cất giữ cho riêng mình. Một người thầy, một người bạn một thuở nào, đôi khi trong đời chẳng còn ai mà nương náo sẽ lại đến tìm nhau. Người cứ bảo sẽ xem tôi như một điểm tựa niềm tin vô hình. Có lẽ chẳng tội lệ gì khi còn nhau những cảm nhận cao đẹp và lời đề nghị dễ thương vậy. Những tháng ngày quen nhau dù muộn màng tuổi xanh, tôi rất hạnh phúc, người mang cho tôi những niềm vui, những nỗi nhớ mà không ai có thể mang đến được. Tám tháng trôi qua nhanh thật đấy, giờ thì những kí ức tôi gây ra cho ấy có mờ đi phần nào không? Thành thật xin lỗi vì điều tồi tệ đó.
Đôi khi trong cuộc sống này, con người khô khan và chẳng biết gì về tình yêu, tôi biết làm gì hơn đây. Cũng chẳng ai biết trong tôi từng ngày mâu thuẩn như xé nát suy tư, tôi không biết có xứng đáng để phải như thế không. Chạm nhau qua làn sóng điện cách xa hàng trăm cây số, tôi dừng lại giữa cuộc đời và nhìn ngắm lại những gì đã qua, những kỉ niệm, những tiếng nói trong veo đã cũ, những nụ cười đã cũ nhưng vẫn nằm lại đó, vẹn tròn, và quá khứ sẽ như một thước phim quay chậm cũ kĩ hiện lên trước mắt, nhắc tôi nhớ, những nỗi nhớ khi mơ hồ, khi rõ ràng, những nỗi nhớ mà đôi lần ta lại gọi bằng cái tên mộc mạc: nỗi nhớ…Cà Mau.
Thời gian đôi người đã trải qua, khi bắt gặp những gì tương tự, lại làm mình ngậm ngùi và xao xuyến, thèm được sống lại những cảm giác đó. Những cảm giác đã cũ, ám ảnh trong tim bằng nỗi nhớ dặt dìu, với những kỉ niệm khó phai. Nhưng thời gian nào có quay ngược bao giờ…
Xin cho tôi hương xưa nắng ấm
Để hong khô đôi mắt ngần buồn vương
Và sưởi ấm tình thương đã giá lạnh
Trả lại một người những mảnh ghép bình yên…
---
Ai Đã Qua Đời Ta, Ai Tặng Ta Với Nụ Cười...
Nguyễn Văn Thượng
Cuộc sống này, ai được quyền phán xét ai? Thiên Chúa đã cho ai ngồi trên tòa xét xử anh em mình? Họ là một phần của xã hội, là người mang huyết quản rất con người, họ cũng có quyền sống và quyền được tôn trọng. Đa số họ chỉ là những mắt xích tàn nhẫn trong xã hội, là những người nghèo khổ nhất trong xã hội, thế nhưng khi chứng kiến hoàn cảnh làm việc khắc nghiệt của họ, chắc chắn sẽ khiến bạn không thốt lên lời. Thương cảm nhiều hơn kết tội.
Khi bị đóng đinh, Chúa Giêsu đã thốt lên: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm.” Thật không dễ để nói được những lời này, và có lẽ còn khó hơn khi nói những điều đó với những con người bị đọa đày trong xã hội cho sự trụy lạc của những kẻ lắm tiền nhiều của, đa dục vọng.
Trong một lần nghe lời tâm sự thương tâm được chia sẻ, tôi muốn viết thành lời thay cho tiếng nói lương tâm, thương cảm day dứt tình nhân loại:
“Cuộc đời, người ta đã lấy đi đời sống của một cô gái nghèo, giết chết tình yêu đầu đời và những ước mơ mộng thường của tuổi đôi mươi. Kiếp nghèo trĩu nặng vai gầy của những cô gái đáng thương, cuộc đời có quyền lên án họ, hay chính họ mới có quyền tố cáo tấn trò đời. Họ không được xã hội tìm biết và cũng không muốn biết, họ là những tâm hồn chết. Nếu Chúa dựng nên chúng tôi theo hình ảnh của Ngài, nếu Chúa đó mà nhân danh Ngài, mà nhũng gã đàn ông trụy lạc mua vui trong sựu nhơ nhuốc thân danh của họ, thì mỗi viên đạn trong dư luận là một vết thương trong quả tim của Ngài. Họ tồn tại trong sự bất lực của con người nhường bước trước cái u mê, cái u mê đã làm cho những gã đàn ông dâm dật trở thành con người vô cảm trước đồng loại. … Chúng tôi, những cô gái chấp nhận cuộc sống trong vũng bùn lầy, nhưng chúng tôi mạnh còn hơn tất cả các quân đội trên thế giới này, chúng tôi chết đi ước mơ, chịu ô nhục cho người thân chúng tôi đứng vững, sống mạnh khỏe và thàn danh. Chúng tôi hạnh phúc trong sự hy sinh thầm lặng đầy nhức nhối nơi bản thân mình. Hạnh phúc và hiên ngang hơn những kẻ hay lên án chà đạp chúng tôi ban ngày, nhưng lại cần chúng tôi ban đêm…”
***
Liên Khương đến Tiền Giang trong một dịp rất tình cờ. Liên Khương được công tác về Tiền Giang thập niên 90 của thiên niên kỷ trước. Nhớ ngày mới đến vùng này mà phải ngồi trên chiếc ghe hàng một ngày trời mới đến miền đất kề cận sông Tiền uốn lượn, thời đó xe cộ lưu thông chưa tấp nập lắm, về Tiền Giang thì buộc phải đi lại bằng đường thuỷ, Con sông Tiền chảy ven thành phố Mỹ Tho, nơi mà Phạm Liên Khương sẽ về nhận công tác. Con sông đã gắn bó với bao người, gắn bó thân thiết từ lâu lắm. Mùa hạ về thường xanh biêng biếc và lặng lờ theo dòng về biển cả.
Mặt Trời lên cao, nắng vàng óng ả chiếu xuống mặt sông lấp loáng. Sông khoác lên mình chiếc áo lụa đào của cô thiếu nữ. Sông in bóng thành phố Mỹ Tho trần tình qua mấy thế kỷ, diễm lệ, dịu dàng và mênh mông. Bên kia bờ sông, trên nhưunxg dải đất cù lao, những hàng dừa xanh nghiêng mình soi bóng xuống mặt nước gương trong, chim chóc đua nhau ca hót như đón chào ngày mới, đón chào một con người mới hòa nhập vào nhịp sống Mỹ Tho.
Tàu chạy lướt như bay về phía trước, hai bên mạng tàu nước bắn trắng xoá, những hàng
dừa kéo theo những ngôi nhà sàn lưng lững cặp mé sông cứ vùn vụt tuột lại phía sau. Ở đây với cái gì cũng mới lạ, Khương không hiểu làm sao người ta có thể lưu thông trên sóng nước một cách tài hoa đến vậy…
Nhịp sống ồn ào của phố thị luôn cuốn người ta vào những bộn bề của công việc. Nhưng ở đâu đó nơi thành phố này, thỉnh thoảng vẫn thấy được những khoảnh khắc chứa đầy yêu thương và đầm ấm ẩn trong từng hành động nhỏ, từng nghĩa cử đơn sơ của con người nơi đây. Tạm quên đi những ồn ào của phố thị, Tiền Giang có những con người biết chia sẻ những khó khăn cho nhau, cho tất cả cảm nhận chút tình người để quên đi những lo toan về cuộc sống, xoa dịu nỗi nhớ quê của những con người tha hương.
Ngôi nhà Khương chọn ở nằm khuất trong một con hẻm lát bê tông gần chợ, nhà cửa san sát đan xen nhau, sình lầy và nước đọng. Hầu hết đường xá ở đây điều bị ngập nước lúc triều lên, khi nước rút để lại vô số những bãi - kênh nước đen rất mất mỹ quan.
Ngôi nhà nằm cạnh một quán nhậu, trước cửa có treo bảng “Quán Nhậu Miền Tây”. Hàng ngày, vẫn thấy có những người khách mặt mày đỏ tía đang bước ra, tay cắp bên hông một cô em má phấn môi hồng, ra chiều lả lơi. Cô Sáu, người đàn bà béo múp míp có bộ mặt hình nửa trái banh và đôi chân chim sẻ, không hình dung được đôi chân đó hằng ngày phải khốn khổ thế nào với cái khối thịt to đùng kia. Đó là bà chủ quán nhậu kiêm luôn nữ tú bà khá tiếng tăm. Khương dắt xe đi làm, ngang qua con đường, gật đầu chào lấy lệ và lại nhận được ngay cái cười cảm tình của bà cô múp míp.
Liên Khương cười trừ, hỏi han mấy câu xã giao, lúc quay đi bà cô hỏi.
- Chú mới chuyển đến phải không? Chú làm ở đâu vậy?
Khương ngồi trên chiếc xe honda Wave đen ngoái đầu lại trước khi rồ ga và nói: - Dạ, cháu làm bên phòng nông nghiệp.
- Con trai gì mà rụt rè như con gái, mới đến nên đi chơi đây đó cho biết. Liên Khương nghe mấy lời xong, chạy thẳng đến nơi làm việc.
Khu nhà của cô Sáu chia làm hai gian ăn thông với nhau, có hình chữ u một bên là nhà ở lẫn quán nhậu xây cất khang trang, phía trước là nơi thu tiền cũng là chỗ để kiểm soát nội bộ, như gà mái ấp trứng trong ổ vậy. Phía trong được ngăn thành từng phòng làm nơi tiếp khách, sau cùng là khu nhà bếp. Còn bên kia có một khu nhà xây cất tạm bợ tựa như khu ổ chuột, chứa những cô gái bán hoa. Ở ít lâu nên Khương biết đây là một ổ mại dâm, mà chuyện đáng buồn cười là chỉ cách trụ sở công quyền khoảng 500 mét.
Ở đây vừa là quán nhậu, vừa có những nhân viên vừa phục vụ quán, vừa sẵn sàng chìu khách khi khách có nhu cầu nên lúc nào cũng đông đúc các cô gái phấn son loè loẹt. Mỗi đợt ai tiếp khách xong điều phải chia phần trăm với “má Sáu”, cứ tiền bo một trăm ngàn thì góp hai chục, đi khách hai trăm thì “ăn nhẹ” bốn chục tiền giường. Mà cái giường phải chỗ sạch sẽ cho cam, xây ngôi nhà sàn cách mặt đất vài mét người ta lót ván rồi kê giường, còn bên dưới thì đúng là một hố rác, tắm rửa ăn uống điều tuông xuống đó nhầy nhụa, đen đúa, đêm đêm nằm ngủ nghe tiếng chuột cống cắn lộn mà phát rùng mình. Những người khách mua hoa trong cơn say chỉ việc nằm lên cái bộ dạt tre bẩn thỉu, mà kèn kẹt một lúc lâu đến khi thỏa màn cơn thèm khát dục vọng thấp tầm bản năng sinh thực thì lại quay về với vợ con như người vô tội, và lúc tỉnh rượu lại “gái mại dâm này, con đĩ nọ…” và lên án “tệ nạn xã hội với tờ báo sáng trên tay.
Chỉ tội là tội cho những cô gái bị đày xuống cấp thành cầm thú khi người ta gọi họ lag “gà này, gà nọ, con nọ, con kia, là rau là cỏ…”. Những cô gái ấy ời bỏ quê hương lạc đường vào một xứ sở mới, có người phải mang nặng gánh gia đình, có người dang dở cuộc đời, có người phải lo cho đàn em đi học, và biết bao mảnh đời bất hạnh lầm lũi trong bóng đêm. Ai là tội đồ, ai là người nhân nghĩa? Ai sống cho đời, ai rưng rửng mỡ bụng chà đạp cuộc đời? Ai sẽ trả lời cho những cái nhìn đau đáu tương lai từ những cô gái vướng phong trần gió bụi?
Liên Khương tiếp xúc nói chuyện với hai cô gái đôi mươi ở trọ gần dãy với mình. Dân xóm trọ khu phố này hay gọi họ là Hoa Huệ và Hoa Lan Tím. Thật sự nhiều người có cảm tình với hai cô gái này, mặc dầu hai người cũng làm ở đây như những người khác, có điều, họ không “õng ẹo, hách dịch” và cay cú như những cô kia, lại rất thương những em bé trong khu phố, hay giúp đỡ cho người lớn tuổi neo đơn, bệnh tật.
Họ trông hiền lành và rất dễ thương, Hoa Huệ mới có hai mốt tuổi, còn Hoa Lam Tím thì hai hai. Hai người rất thương anh chàng kỹ sư canh nông hiền từ, những hôm khác bo “sộp” họ lại mua khi thì cái này, khi thì cái kia, “ừ thì ảnh ở có mình ên không vợ con, minhg giúp ảnh khi có thể để làm phước” – họ thường rủ Khương ra tượng đài Thủ Khoa Huân bên vườn hoa Lạc Hồng ngắm cảnh, gió sông mát rượi, nhiều người đi tản bộ và khung cảnh rất sầm uất, huyên náo bởi những tiếng nhạc từ những quán cà phê, hàng ăn uống bên đường.
Khương quý cả hai “cô tiên trong cổ tích” này, anh biết họ cũng quý anh nên hay trải lòng tâm sự, có bận Huệ nói.
- Anh Khương biết hông. Nhà em nghèo mà cha lại mất sớm, mẹ thì bệnh trong người hoài, em gái mới học lớp bảy nên gia đình thiếu trước hụt sau. Em đây làm theo lời chị Lan, hai đứa nhà nghèo nên phải làm nghề này kiếm sống, mà cũng chỉ có nghề này mới có đủ tiền lo cho gia đình. Hồi đó tụi em vô có mượn má Sáu tiền để lo cho gia đình, nên bây giờ phải làm trả lại, được nhìn em và mẹ không phải lặn lội nắng mưa trên đồng dưới ruộng, bắt từng con ốc, con cá để đong từng lon gạo là em không có gì để hối hận. Em nó có tiền đi học, sau này nó sẽ không phải khổ như Huệ, mà nó học giỏi lắm nghe, năm rồi được lãnh thưởng nữa đó.
Liên Khương nghe lòng đầy xúc động. Nhưng đến khi ngồi viết lại những dòng ký sự một kiếp người trong đêm, tự dưng anh thấy thương Huệ và Lan vô cùng, chả hiểu lúc đó anh nghĩ cái gì mà chợt hỏi:
- Vậy sau Huệ và Lan không làm chuyện khác??
Đôi mắt Lan ánh lên nhưng vẫn im lặng, ly cà phê nghi ngút khói ban sáng, anh ngó mái tóc dài mượt mà được gió từ sông Tiền mênh mông lùa qua sóng lưng. Anh buột miệng. - Lan đẹp quá chừng!
- Đôi lúc Lan cũng muốn mình sống bình thường như bao nhiêu bạn bè đồng trang lứa, nhưng cuộc đời đưa đẩy thì biết làm sao đây anh? Nhà lại nghèo, nên phải cắn răng, kệ, làm có số vốn chế mới tính tiếp. Bây giờ mà bỏ nghề, thì gia đình biết làm sao.
Sau hôm đó, một vài bận tôi thấy Lan đương lúc tiếp khác mà bị gọi ra trước nhà thì Khương hiểu Lan phải làm gì. Những lần như thế Khương chỉ muốn vào đấm cho thằng đàn ông nào đó một cái thật đau để hả giận, nhưng lại không dám. Nhiều lúc, thấy thương chỉ muốn cứu chế ra khỏi bàn tay của tên khốn nạn nào đang dày xéo mái tóc mềm mại kia. Nhiều lúc, thấy Lan mím môi nhìn Khương, mắt hoe hoe đỏ, Khương không biết phải làm sao nên đành quay đi, lúc bước đi còn nghe tiếng nhừa nhựa trong giường gọi ra của tên đàn ông nào đó “Em làm gì mà lâu quá vậy” rồi tiếng đóng cửa.
Có lẽ những ngày ở đây đã dạy cho Khương nhiều thứ về cuộc sống lẫn giá trị của đồng tiền. Nhờ đó mà Khương mới phát hiện ra một góc khuất đày đọa của xã hội, và những hy sinh thầm lặng rất có giá trị của những người bị những kẻ khinh bạc gọi là “gà”.
Mẹ Lan là người đàn bà quê rặt, không lẫn vô đâu được, bà bận chiếc áo khoác màu nâu đã ngả màu, bên trong là bộ đồ bộ màu đỏ có đính mấy hạt ngọc trai bằng nhựa trắng tên ngực áo, khuôn mặt khắc khổ, hằng những vết chân chim do thời gian. Đi theo là cô em gái mà Lan vẫn hay nhắc với tôi, cô này có đôi mắt buồn và mái tóc mượt hệt chị, nhưng hơi lùn. Thấy cô ta cứ luôn miệng hỏi han, đôi lúc lại đưa bàn tay thon thả có những ngón tay thẳng đuột như chiếc bút chì, nhưng móng lại dính một ít sình đen lên gảy đầu, chắc lúc đi vội nên chưa kịp chuẩn bị kỹ. Những người nghèo họ có móng tay và móng chân rất lam lũ, chỉ cần
đến những nơi sang trọng hay có mùi của sự uy quyền một tí là lộ ra ngay. Điều đó rất dễ nhận ra khi họ nhìn vào ngón tay hay chân mà lộ vẻ ngượng ngập, rụt rè, như sợ ai nhìn thấy.
Nói chuyện một lúc, Mẹ con Lan đứng dậy vào chào cô Sáu, họ nói năng gì đấy một lát rồi tôi lại thấy Lan ngoắt xe ôm cho họ về, không quên trả tiền trước.
Tối đêm đó, ngồi bên hàng hiên nhà trọ, Lan hỏi Khương:
- Anh về nhà em chơi hông??
Khương đáp ngây không cần lưỡng lự.
- Đi chứ!
Nhưng Huệ đang nằm đó bấm điện thoại chợt lên tiếng:
- Xa lắm nha anh, không sợ Lan của em bắt cóc làm chồng hả??
Khương cười, nói.
- Không! Huệ không đi chung hả??
Huệ ngừng bấm điện thoại, đáp.
- Em bận, nói rồi nheo mắt nhìn Liên Khương.
Sáng đó Lan dậy rất sớm, tất tả đi mua nào thịt, nào rau củ, xô chậu cồng kềnh, toàn những thứ lặt vặt dùng trong nhà. Khương không biết em mua nhiều làm gì, bởi khi đi, phải ôm chúng mệt chúng muốn hụt hơi.
- Em mượn đâu ra cái xe này vậy, Khương hỏi.
- Của anh Chương, con má Sáu đó.
Bao lâu nữa thì tới quê em, anh mệt lắm rồi nè.
- Chút xíu nữa hà.
Đường về nhà Lan, băng qua những con đường đất nhập nhụa sình lầy vì cơn mưa rào rạt mấy đêm trước, hai bên đường là những mảnh đất trống có vuông tôm, ở quê Lan người ta chỉ nuôi tôm và cua là chính. Một dãi trải dài những hàng đước và nước mặn, nhà cửa rất thưa thớt, phần lớn là những ngôi nhà sàn cặp mé sông, chỉ lát đát mấy ngôi nhà tường khang trang. Đến một khúc sông thì Lan gửi xe ở một tạp hoá rồi kiêu đò qua bờ bên kia, băng thêm ba cây số đường trường trên mặt đất lầy lội nữa.
- Anh nói thiệt, chứ chịu hết nỗi rồi, đến nơi phải bật quạt xem tivi rồi đánh một giấc cho đã.
Khương thấy đôi mắt Lan nhìn mà chớp chớp mấy cái rồi dừng lại, ấp úng. - Anh Khương nè! Anh theo em về chơi, đừng nói với ai em... em làm nghề này nhe. Trong một giây, Khương đưa mắt nhìn khuôn mặt xinh xinh có đôi mắt buồn, đang ngồi
chóng gót nhìn, đôi mắt ấy như vang lên một vẻ cần khẩn, đôi mắt xinh đẹp phải chịu bao nhiêu phong ba, bão táp của cuộc sống khi tuổi đời chỉ mới đôi mươi. Khương nói: - Ai hỏi thì anh sẽ nói em bán trái cây. Nói rồi Khương mỉm cười.
Lan cũng cười, đứng dậy nói.
- Nhà em không có tivi, quạt máy, nhưng em sẽ quạt cho anh ngủ, chịu hông?? Khương lò dò bước theo Lan, mắt đăm đăm nhìn tấm lưng thong thả và đôi vai hoàng yến bước đi phía trước, mà tự nhủ: “Tại sao cuộc đời lại nỡ đặt lên đôi vai đó những gánh nặng trần ai, cùng nhiệm vụ một lớn lao đến thế, khi tuổi đời còn tươi thắm như vậy.” Cuối cùng cũng tới, nhà Lan, hay đúng hơn là một căn chòi lá. Rộng bốn mét, dài độ tám mét, hai bên vách được dựng bằng lá dừa nước, mái nhà cũng vậy, phía trước chỉ duy nhất hai chiếc võng giữa nhà và cái bàn tròn dùng uống nước, đi ba bước là đến đằng sau nhà, được che tạm bằng một tấm vải hoa chắn ngan bếp, bên trong kê cái bộ dạt, chắc là làm buồng ngủ cho hai má con. Trên bộ vạc một chút, có một tấm ván hình chữ nhật dùng làm kệ để sách và một cái radio còn mới, gần đó là chỗ treo quần áo.
Cái vẻ nghèo nàn của ngôi nhà đập vào mắt, khiến lòng Khương xót. Bây giờ thì Khương mới hiểu tại sao Lan phải chọn con đường bán mình cho thiên hạ để đổi chát từng đồng bạc
lẻ. Bất giác, Khương trút một tiếng thở dài.
Lúc ban trưa có hai thanh niên ghé lại nhà, chắc là bạn bè gì đó của Lan, có điều thấy họ nói chuyện khá ngập ngừng và có phần dè dặt.
Người thanh niên thứ nhất hỏi.
- Em ra đó làm gì?
Khương thấy Lan mỉm cười, nụ cười có lẽ đẹp nhất từ trước đến nay từng thấy, trong ngôi nhà vách lá đơn sơ, người con gái buông tóc dài ngồi bên bàn nước, đôi mắt chớp chớp như như một chú nai nhỏ ngơ ngác, đằng sau tiếng lửa bếp kêu lép bép - bà má đương đung vội nồi nước, nó yên bình và giản dị như cô Tấm cô Thị trong cổ tích.
- Em đi bán trái cây.
Chợt người thanh niên thứ hai cười giòn, rồi lên tiếng hỏi.
- Bán trái gì đó Lan. Bữa nào tui ghé mua ủng hộ cho.
Tôi thấy đôi môi nhợt nhạt của Lan khẽ mím lại rồi cắn nhẹ một miếng nơi vành, trả lời. - Bán đủ thứ! - Nói rồi Lan đứng lên xuống bếp.
Sau khi hai tên đó về, Khương ngồi lại và tự dưng đâm ra ác cảm với tụi họ, chả biết thế nào, nhưng rõ ràng họ làm Lan giận.
Khương bỗng nghĩ, liệu có khi nào họ đã từng ghé quán cô Sáu, rồi có khi nào Lan đã..! Nhưng không nghĩ được lâu, vì cơm canh đã dọn lên. Chàng kỹ sư chẳng làm gì mà cũng được ăn, đúng là khách có khác.
Mẹ Lan chợt cất tiếng, khiến tôi bỏ lại nỗi bất an.
- Con nói thiệt cho Bác biết, con Lan lên đó làm gì??
Bị hỏi như thế đâm Khương hoảng, mặc dầu đã được dặn trước và hiểu mình cần làm gì, nhưng đứng trước một lão bà hiền lành mà lại là Mẹ của Lan cũng thấy mình lúng túng, vả lại, nói láo không phải là nghề, nên một lát sau Khương mới lấp bấp..
- Dạ thưa...thưa.. Bác, bán trái cây!
Khương lúc đó tự dưng đâm giận mình ghê gớm, có như vậy mà nói cũng không xong, phải ấp úng. Nhưng chưa kịp giận mình lâu thì bà cầm lấy tay
bằng hai tay mà nói.
- Bác biết con Lan làm gì, có điều chưa dám chắc nên phải nhờ con. Lần Bác lên, nghe cô Sáu nói chuyện với mấy đứa Bác cũng lờ mờ hiểu. Con Lan thương em, thương Bác. Bà nói đến đây Khương cảm nhận đôi bàn tay chay sần ấm và rung lên, rồi bà trút một tiếng thở dài như muốn xua đuổi tất cả những ý nghĩ không tốt.
Tự dưng nhìn mái tóc hoa râm lóm đóm những sợi bạc, Khương dậy niềm thương cảm. Người mẹ nhà quê ít học, nghèo khổ, lam lũ, thương con, luôn muốn giành tất cả những thứ tốt đẹp nhất cho đứa con gái kém thế, nhưng vì nghèo nên phải gửi con ra tỉnh học nghề sau nuôi lấy thân, đến một ngày chợt nhận ra con mình vì thương mẹ, thương em, thương gia đình nghèo, phải bán thân cho thiên hạ mua vui để lo cho gia đình, nghĩ đến đó lòng Khương lại trào lên thêm một nỗi xót xa.
- Con nói thiệt cho Bác biết đi con...con Lan...con Lan, lần này, bà xúc động mạnh, người rung lên, chỉ trực trào nước mắt, miệng ấp úng hai ba lần rồi cũng thốt lên rõ từng chữ, “con Lan đi làm…đĩ đúng hông con?”.
Cái tiếng “đĩ” vừa thốt ra khỏi miệng bà Khương cũng sừng sờ chết điếng, khương biết người đàn bà này không tìm sao đâu được những mỹ từ cho tiếng gọi đó, bởi bà làm gì được học rộng. Cuộc đời gắn liền với miếng cơm manh áo từ thuở nhỏ, lớn lên phải chịu cảnh mất chồng, rồi tay xách nách mang hai đứa con. Khương vẫn không thể hiểu tại sao ông trời lại thích trêu ngươi một gia cảnh như thế.
Khương đứng bất động nhìn bà, biết mình không thể nói dối trong hoàn cảnh này, nhất là với một người mẹ, đưa mắt nhìn khuôn mặt nhăn nheo đang rươm rướm nước mắt mà chậm rãi gật đầu.
Bà Bác cầm tay Khương siết mạnh như cố chống chọi với tất cả những nỗi đau trên đời gộp lại, đang đá thóc vào lưng khiến bà gồng mình uất nghẹn, đôi mắt buồn của Lan hiện rõ trên mắt bà, giờ đây nó đau đớn và thất thần.Khương nào hay đâu, cuộc nói chuyện bị người con gái tên Lan đứng nép bên kia vách lá nghe thấy, đang lấy tay che miệng mà khóc không thành tiếng…
***
… Hôm nay khi ngồi đây, viết lại những dòng này, lòng tôi ngậm ngùi khó tả. Ở phương trời xa xăm nào đó, mong những cô gái “anh hùng” trong chốn bùn nhơ hy sinh như những tượng đài chiến thắng, vùi chôn bản thân mình, chấp nhận muôn phần nhơ nhuốc cho gia đình túng bấn được thanh cao…cho họ có một cuộc sống bình yên, người Mẹ già sẽ phần nào ngơi đi đau khổ và cô em gái nhỏ không phải đem đôi mắt buồn và suối tóc mơ kia làm trò cho thiên hạ mua vui…
Đừng gọi họ là “gà”…họ là những con người biết tủi nhục, biết sai lầm, và biết nhẫn nhục vì đồng tiền, tấm áo, lon gạo cho một miền quê với những người thân yêu trong mịt mùng tăm tối, đáng thương hơn đáng lên án. Hãy cho họ tình thương và nhân phẩm, xã hội ơi… ----
Biển Cà Phê Một Mình?
“Nắng xuyên qua lá hạt sương lìa cành
Đời mong manh quá kể chi chuyện mình
Nắng buồn cuộc tình bỗng tắt bình minh
Đường xưa quen lối tình dối người mang
Tình duyên trăm mối một kiếp đa đoan
Cố tìm tình chồng chất ngổn ngang…”
(Bài hát “Một Mình” – Lam Phương)
***
Nguyễn Văn Thượng
Chiều từ biển chầm chậm lùi về, khi nắng vàng ươm còn chưa kịp tắt, Khánh Kiên đọc hết trang cuối cuốn sách “12 cách yêu” của Hamlet Trương. Thấm thoát mà đã gần 04 năm qua, từ ngày Nhã Hân chia tay Khánh Kiên để về nhà chồng, bỏ lại miền biển cuối trời Việt Nam một người cô đơn với biển. Người ta nói nhiều về sự cô đơn, như nó đã trở thành một phần của cuộc sống, nhưng chẳng ai có thể chấp nhận được.
Tôi vẫn luôn tự hỏi bản thân mình và những người bạn của tôi, cô đơn là gì? Họ chỉ cười và đáp: “mỗi người cảm nhận rất khác”. Vâng, rất khác. Và, với Khánh Kiên cũng khác. Khánh Kiên nghe bài nhạc “Trở lại phố cũ” hàng nghìn lần, vẫn thấy không chán. Khi Nhã Hân đi rồi, tường yêu đã rêu phong, mưa có về gõ trên mái cũng chỉ khơi lòng nỗi cô đơn xa vắng. Nằm trong góc phòng, lắng nghe tiếng mưa rơi cùng bản nhạc cổ xưa như ngày còn yêu nhau bên góc quán cà phê Nắng Hạ phát ra từ tiếng loa trầm trầm, nước mắt Kiên rơi trên khóe mắt từng giọt như cà phê đắng trong tim. Những kí ức đã qua, kỉ niệm của người yêu còn đọng lại, về những điều hiện tại tưởng chừng rất hiển nhiên nhưng lại quá chông chênh.
Khánh Kiên tự nguyện xin về làm tại kiểm ngư Cà Mau, làm việc nơi tận cùng tổ quốc để biển xóa đi sự một mình ấy, cô đơn ấy, để trả cho Kiên chút bình thản giữa dòng chảy thời gian miên man.
Vậy đó, đôi khi giữa dòng đời đầy bon chen và xô bồ này, có những phút lặng như thế, có những góc tĩnh như thế, để nước mắt chảy trôi, nghe mặn chát nhưng thấm thía, rồi lại đứng dậy, thản nhiên mà bước tiếp qua những ngày cô đơn. Như gã phong trần để quên túi hành trang lại nơi quán gió, ra đi tiếc một chiều yêu đã một lần thổi vào tận con tim, làm tươi mát tâm hồn và đòi một giá đắt là nỗi cô đơn chông chênh cho phần đời còn lại.
***
Thành phố biển Cà Mau, góc nhỏ cà phê không chỉ là nơi phục vụ thức uống cho du khách mà còn giữ lại một không gian xưa của thành phố. Mỗi ngày vẫn có hàng trăm người đến thưởng thức ly cà phê trong một không gian xưa có một không hai ở đây, cà phê Hương Biển. Sáng sớm khi trời đất còn phủ sương, Khánh Kiên đến đây nhâm nhi ly cà phê nóng để tìm chút hương cũ như ngày xưa nơi quán Nắng Hạ miền đồng ruộng tràm phủ chim bay. Ôn lại những trải nghiệm đáng nhớ trong cuộc đời, tìm lại chút hương tình muộn sóng sánh, lắng đọng nơi đáy ly cà phê đậm đặc huyền bí, đắng như cuộc đời Khánh Kiên hơn 30 năm.
Cà Mau không mang lại được cho Kiên không gian của quá khứ nhưng giúp Kiên được lắng đọng với những bản nhạc trầm ấm. Những giai điệu trữ tình và sâu lắng của bản nhạc
xưa giúp một người đàn ông đã qua tuổi yêu thương đôi mươi mộng mơ tạm quên đi phiền muộn trong cuộc sống, trả lại yêu thương ngày cũ cho lối mòn kỷ niệm. Trong một lần đứng bên đường, trong trạm chờ xe buýt, cho cơn mưa ngang qua, hương cà phê xay ngào ngạt lướt qua mũi, cảm giác này, cũng thật khó gọi tên, Khánh Kiên thấy góc đường Lý Thường Kiệt một quán gỗ “Cà Phê Hương Biển”… Bất giác, tự hỏi rằng, bao lâu rồi ta không cà phê một mình? Bao lâu rồi ta chưa tự thưởng cho mình một buổi cà phê đúng nghĩa, chỉ thưởng thức vị đắng quyến rũ của cà phê thay cho những hỗn độn công việc, gió biển, tàu thuyền, cô đơn trên biển đêm với ngọn hải đăng già? Hình như sóng biển làm ta cuốn theo mải miết, và hình như, ta cũng vô tình quá rồi...
Cũng có những người, thích cà phê một mình, bởi nhiều cảm xúc được dịp trào dâng khi bản thân dừng lại, nghe, nhìn và hiểu. Một mình với ly cà phê ngào ngạt giữa những người xa lạ, một bản nhạc cất lên – cho dù bản nhạc ấy ta từng nhấn next hàng trăm lần khi tự mở ở nhà – cũng trở nên hay ho đến kì lạ. Ngồi cà phê một mình bỗng dưng thấy bản thân mình trầm xuống, nhìn những người hối hả ngoài kia rồi tự tìm hình dáng mình trong đó, à thì ra mình đã bận rộn như thế, vội vã như thế, và hình như mình cũng đánh rơi điều gì mất rồi?!
Khánh Kiên thường đến quán cà phê cùng Nhã Hân. Những câu chuyện thì không nhiều, đa phần là im lặng, nhưng tưởng tình yêu đã nói rất nhiều. Qua những cái nhìn, qua cách cầm tay nhau trìu mến, qua cả những hơi ấm đang lan dần, đan xen vào nhau.
Trong quán cà phê tôi chiều vàng nhạt, có nhiều dạng người khác nhau. Có những người làm nghề kinh doanh, tìm đến quán cà phê để tìm một nơi để giao dịch, làm ăn. Có mấy người trẻ xách theo chiếc laptop đen, chọn góc ngồi cạnh cửa sổ và như thể chỉ tìm được câu chuyện qua chiếc laptop và internet. Lại có những người, như mình, đến quán cà phê chỉ để ngồi đó, lặng yên và ngắm bóng nắng vàng vọt cuối cùng từ ô của sổ nhìn thẳng ra biển, nghe nhạc trữ tình.
Quán tối và ấm, tình ca buồn. Cảm giác như cả cái khung cảnh đang được đẩy lùi về 04 năm trước, trong khung cảnh chia tay tình đầu ở tuổi 28, mối tình đắng như cà phê và thơm như cà phê đầy mê hoặc.
Khi những giọng ca Diệu Linh cất lên một cách chân chất, mộc mạc: “Em không đi tìm, người yêu lý tưởng đâu anh...” Giọng người ca sĩ cất lên một cách trong vắt như pha lê lời tình tự nghe sao ấm áp lòng kẻ chung tình. Tiếng ca chầm chậm đi vào tâm hồn, khua động con tim như tách cà phê khơi đầy cảm xúc.
Trong cái không gian nửa tối nửa sáng đó, bên cạnh những tách cà phê, mùi khói thuốc và âm nhạc ve vuốt, người ta lẳng lặng cuộc đời đang thực sự trôi đi, và cái gánh nặng chất chồng trên vai bỗng vơi đi phần nào.
Đôi khi Khánh Kiên đến quán cà phê không phải để uống cà phê mà để tìm một điều gì đó mà anh nghĩ là đã mất…
***
Nhớ góc quán Nắng Hạ ngày xưa…
“Nếu có nhiều thời gian, em sẽ làm những gì bản thân mình muốn. Nhưng mọi thứ quá ngắn ngủi vì vậy em chỉ muốn làm mọi thứ mà em thích” – Nhã Hân nhìn Khánh Kiên đang gõ tách tách trên chiếc laptop trả lời email của khách hàng.
Kiên mất vài giây để tìm một câu trả lời sao cho hợp lí nhất. Nếu là những gã đàn ông khác, chẳng khó khăn gì để nói một câu: “chúng ta đã đủ trưởng thành cho những quyết định của mình, em cứ thực hiện những gì em thấy cần chứ sao?. Nhưng Khánh Kiên thấy khó khăn khi nói dối bởi vì Nhã Hân, cô gái mà anh yêu đến 5 năm rồi đang chuẩn bị lấy chồng Việt kiều theo ý cha mẹ.
Anh không muốn nói dối bởi vì rõ ràng anh muốn giữ lại Nhã Hân, giữ một cuộc tình với một người yêu nặng lời thề ước. Thế nhưng sự thế, sự nghiệp, sự thành đạt, sự kiêu hãnh của tuổi đôi mươi thường đẩy bùng tự ái lên cao ngất. Đôi mắt đong đưa, thân hình quyến
rũ và bờ môi căng mọng ấy từng làm anh chỉ muốn giũ bỏ hết để đến bên người đẹp. Nhưng cuối cùng, Nhã Hân cũng không đủ can đảm ở lại bên anh.
Khánh Kiên lấy can đảm để nói một câu bâng quơ:
– “Anh đang muốn tìm một thứ gì đó mới mẻ”.
Thế là quá đủ. Những người đàn bà thông minh chỉ cần thế… Nhã Hân chủ động nắm lấy tay Khánh Kiên và ghé lại gần anh:
– “Muốn mới mẻ, anh cần phải vứt bỏ những thứ cũ kĩ”.
Hôm đó ra về, những câu nói của Nhã Hân cứ ám ảnh tâm trí Trường. – “Anh đã về chưa? Ghé qua nhà em chút nhé. Em ó chuyện này muốn nói với anh”. Tin nhắn của Nhã Hân làm anh thấy khó chịu. Ai cũng nói Nhã Hân đẹp, hiền lành và
ngoan ngoãn. Trong con mắt người làng, nàng là mẫu cô gái cam chịu và yêu không toan tính. Ngày trước, đúng là anh thấy thật may mắn khi yêu cô, nhưng giờ, sau 5 năm, anh chỉ thấy một toan tính. Nhã Hân đẹp thật đấy, nàng giống như một màn nước trong veo. Ngày ấy, Nhã Hân yêu anh vô điều kiện. Tình yêu vỡ tan trong thoáng chốc trước sức mạnh của tiền đồ và tiền đô…cuộc đời…
– “Anh này, em sẽ xuất ngoại, ba mẹ em đã tìm một người Việt kiều Mỹ để gả em. Em phải tìm tương lai cho mình. Em xin lỗi…Nhưng…”
Khánh Kiên hơi giật mình trước vẻ mặt phớt tỉnh của Nhã Hân. Chẳng phải chính cô là người hơn ai khác mong đợi được ở bên anh suốt cuộc đời này sao? Anh thấy hơi chột dạ, lẽ nào anh không quan trọng với nàng bằng một tương lai nơi đất lạ quê người hay chỉ cố khơi lên lời nói này để thử lòng hoặc trêu chọc anh?
– “Sao thế em? Lí do là gì vậy?”
– “Em muốn đi học và lấy tiến sĩ y khoa ở Mỹ… Em còn trẻ mà, em sẽ không có tương lai nếu ở đây mãi nơi một bệnh viện huyện, làm một bác sĩ nhi”.
Không hiểu sao nghe Quỳnh nói những điều này, Khánh Kiên lại có cảm giác mình rơi tự do.
– “Được thôi, nếu em muốn như vậy”. Đâu đó những nỗi buồn ngổn ngang. Khánh Kiên lao ra khỏi căn phòng như một con gió. Anh cảm thấy trái tim đau như trăm ngàn mũi dao xuyên thấu…
Đêm hôm đó anh không thể nào ngủ được vì những gì cô đã nói: “Em còn trẻ mà, em sẽ không có tương lai nếu ở đây mãi…” Đêm hôm đó, trời đã mưa…
***
“Câu kinh xưa giờ đây dối gian, còn lại rêu phong lãng quên trên thềm xưa, thời gian thôi xóa đi kỷ niệm sẽ mãi không quay về…” Đan Trường đưa Khánh Kiên trở về hiện thực với ca từ của bài “Trở Lại Phố Cũ”. Rồi anh cười. Nụ cười của anh luôn thật hiền và thật tươi.
Đã 04 năm trôi qua rồi, kể từ ngày chia tay. Bài hát ấy, cứ nghe đi nghe lại, để rồi thổn thức mãi.
Đêm dần xuống, trời cứ lạnh theo gió biển viếng thăm, lạnh đến gai người. Nắng hanh hao xuyên qua ô cửa sổ nhỏ khép hờ, lọt qua các nhành lá cỏ khô còn ướt sương đêm. Có một điều mọi kẻ yêu dang dở thường luôn tránh nghĩ đến, đó là nỗi nhớ người yêu. Chợt chuông điện thoại reo, giọng anh trực hải đăng bên đầu dây: “Khánh Kiên, cậu ở đâu, về trực ngọn hải đăng cho mình được không, trời sắp mưa, mình chuẩn bị về đây?”
Đàn Cò Trắng Bay Qua Miền Ký Ức...
Nguyễn Văn Thượng
Á́ng mây trôi bao lâu thì ngừng trôi đọng lại thành mưa trên những cánh rừng, con phố và chìm trong biển? Cánh bèo trôi bao xa mới già vỡ và tan mảnh trong dòng trôi hoặc nơi ao đọng trên đường nổi trôi? Chắc không ai trả lời được khi cơn mưa từ đâu, và cánh bèo trôi từ đâu ai biết được. Như cuộc sống tôi trôi dạt nhiều nơi, khắp chốn rồi neo lại ở một góc nhỏ của thị trấn đồng bằng, hay giạt về cuối miền gần giáp biển cuối trời sông nước. Nhiều lúc tôi cứ chạnh lòng, tủi thân vu vơ khi nhìn đám nhỏ chơi trong sân rồi tự hỏi: “Sống như trẻ thơ, như áng mây còn trên trời trong vắt, cứ bay nhảy lang thang vô tư cho đến khi đời chín và kết đọng thàng mưa nguồn, như cánh bèo non theo đàn tung tăng cỡi sóng chu du thật đẹp. Tuổi thơ đẹp, nhưng mấy ai đã trải qua trong êm đềm không vết trầy xước. Tự hỏi rồi ngay lập tức tự trách mình thôi đừng tiếc một thời xa...
Tuổi thơ tôi không bay bổng thần tiên, không đầy những vầng thơ đẹp, mà cũng thường thôi, đứa trẻ quê nào lại chẳng lớn lên trong chật vật, chỉ vỏn vẹn cánh đồng, mảnh vườn và một dòng sông? Nhưng tôi cũng đã được sống trong hơi ấm của tình yêu thương.
Chiều nay, những cánh cò đậu trắng bờ lúa duyên hải xa xôi, đưa tôi về tuổi thơ với cánh cò hiền hậu trắng tinh sải cánh trên đồng chiều miền tây. Đất nước này đẹp thật, những cánh cò đã đi vào ký ức dệt thành những tình cảm thiêng liêng. Tôi từng trôi qua tuổi thơ nơi ven đồng làng nhẹ êm như nhịp thở, ngọt ngào và ấm áp như câu chuyện cổ tích bà kể cho tôi mỗi khi ba má vắng nhà tần tảo ngược xuôi theo những chuyến buôn may rủi lênh đênh.
Tiếng những cánh cò chập cánh bay lên trắng dệt nền trời xanh, tôi bổng nhớ làng quê của tôi lắm. Nhớ cái ngõ nhỏ dẫn vào nhà bà nội hai bên lối hàng dừa đung đưa xào xạc những trưa hè. Nhớ dải đất chạy liền một mạch xuyên cánh đồng chia đều hai cánh ruộng làng tôi và làng bên. Nhớ ngôi nhà nhỏ của ba má tôi có mảnh vườn với bao nhiêu là thứ rau xanh như: cà tím, rau mồng tơi, rau ngót và một ít cây kinh giới, tía tô...cùng một mảng xanh đầy lá lốt tươi trong.
Tôi cũng thường tìm những cây nhỏ trồng chen vào một góc vườn, nhiều khi không biết là cây gì, chỉ thấy nó hay hay nho nhỏ rồi đào xới đem về cắm trong vườn. Có khi tôi xin giống được, hoặc là tôi lén nhổ trộm ở vườn nhà người ta hoặc là một ít cây hoa dại tôi thấy hay hay bên vệ đường.
Có lần tôi và thằng bạn trong xóm đi kiếm rau muống đồng ở cánh rẫy bắp gần bờ sông. Cánh rẫy tới mùa trái bắp nếp no tròn mẩy hạt căng sữa. Nghĩ đến những trái bắp nướng ngát hương, ngọt bùi, nóng hổi vừa chín tới tôi bỗng thèm không chịu được và nẩy ra lòng tham ăn trộm. Ừ, vài trái có sao so với cả ngàn trái trong rẫy, ai mà biết được nè!
Đó là lần đầu tiên trong đời tôi ăn trộm: Tôi đã bẻ 6 trái! Mắt đảo quanh xem có ai thấy không rồi nhanh chân chạy tắt đường qua ruộng mía về sau nhà nhanh nhất. Hí húi nhúm mớ bùi nhùi ruột tre, định nhúm lửa thì má ở đồng về. Má hỏi : “Ai cho con ?”.
Tôi chưa kịp nói dối thì con em đã líu lo : Anh ấy bẻ trộm của người ta đó má ạ. Má yên tâm không ai nhìn thấy.” Má xách tay tôi lôi tuốt ra ngoài cửa trước bắt cúi xuống sàn nhà, cầm cây roi tre nhịp nhịp và dạy tôi như muốn khóc: “Ai cho con làm thế hả thằng hai? Ai cho con ăn trộm. Cái thứ ăn trộm xấu xa lắm con biết hông? Má cầm roi vung lên, tôi oà
khóc, má quất xuống mông tôi một roi đau điếng rồi buông thỏng chiếc roi. Má bỏ mấy trái bắp khen khét vào một cái rá tre rổi bảo tôi theo.
Má dắt tôi đến nhà bác bảy chủ rẫy bắp xin lỗi người ta rồi trả tiền 6 trái bắp. Chủ nhà tốt bụng sởi lởi chẳng nỡ mắng mỏ còn bênh tên ăn trộm là tôi. Họ còn cho thêm độ mười trái bắp thơm ngọt nhưng má nhất định không nhận mà xin mua mấy chục, má bảo: “Cám ơn anh chị bảy, em phải dạy lại thằng hai. Ông già bà cả vẫn nói con dại cái mang mà anh chị”.
Về nhà, ba đang đợi cơm chiều, má đi vào nhà không mắng nữa mà chụm lửa nướng bắp gọi cả nhà ngồi trên chiếc chiếu dưới dàn mướp đắng râm mát kể chuyện cho mấy anh em nghe chờ bắp chín. Má vừa kể vừa khóc, 3 anh em tôi vừa nghe vừa khóc, tôi cứ bó gối khóc rấm rứt mãi...Chuyện kể về một chú bé mồ côi sống lương thiện, suốt đời không tham lam của người.
Bắp chín, má chọn những trái ngon nhất lột vỏ, thổi cho bớt nóng rồi phát cho từng đứa. Buổi trưa hôm ấy tôi đã được ăn những trái bắp ngon nhất trong đời. Đó cũng là bài học đầu tiên về lòng tự trọng mà má dạy cho chúng tôi.
Tuổi thơ tôi thích tiếng nhắc nhen trên đồng, thích con bù tọt nhảy tùm xuống mương sau mưa, thích con cua càng bò ra khỏi hang khi mưa rào nặng hạt tưới mát cánh đồng, thích bong bóng mưa vỡ ra như những đóa hoa đất trời li ti trên nền đất quê hương. Chẳng phải mơ mộng lãng mạn. Có tí tuổi đầu đã biết thế nào là lãng mạn. Đơn giản vì chúng làm
cho tôi biết cười, biết yêu quê hương, biết trân trọng những món quà đến từ thiên nhiên. Nhà tôi làm ruộng, quanh năm rơm rạ để làm chất đốt nên cái đốt nhà tôi thơm mùi rơm đặc trưng như trong bài hát nhớ quê.
Tôi cũng yêu mùa thu vì mùa ấy bưởi nhà và mấy cây bưởi lòng đào trong vườn chín rộ. Mùa ổi chín gọi chim về ríu ran náo động cả ban trưa. Tôi cứ rình lúc má ngủ là tót ra vườn ngồi xuống thảm lá lặng im ngó lên vòm cao cây khế ngọt giữa vườn có đôi chim đang mớn mồi cho bầy con nhỏ. Tôi say sưa ngắm mà không biết mình đã khóc, đã yêu biết bao mấy chú chim ở giữa tổ kia. Những chú chim non trong cái tổ nhỏ xíu mà ấm áp, an toàn kia...
Mùa thu làm tôi nhớ nhiều thứ lắm...Nhớ cả cái bức tường rêu xanh nhà thờ có đám dây leo tốt um cả 4 mùa xanh lá trổ những bông hoa li ti đỏ rực...Nhớ đám bạn thuở nhỏ chơi trò ú tim, có đứa con gái dại dột rúc vào đống rơm để kiến đỏ bấu vào cắn sưng người khóc ầm lên tức tưởi...
Tuổi thơ tôi...
Chiều nay khi cánh cò trắng đậu lại bên bờ ruộng xa, khi ánh chiều hắt lên những tia vàng vọt cuối ngày, khi mùi cơm trên bếp nhà ai vừa chín tới thoảng bay theo gió khiến tôi nhớ quá tuổi thơ tôi. Nhớ làng tôi hiền lành như cổ tích, nhớ ngôi nhà có khu vườn nhỏ. Cánh cò trắng xa xôi lạch phạch tung cánh lên tìm về tổ ấm như chạm vào kỉ niệm, như chạm vào phần đời trong trẻo của tôi ngỡ đã phủ bụi thời gian...
Má vẫn nâng chúng tôi dậy sau những vấp ngã, vẫn mỉm cười khi chúng tôi thành công, vẫn dạy chúng tôi tự lòng tự trọng, kiêu hãnh mà sống giữa cuộc đời... Tự nhiên thèm quá một trái bắp nướng năm nào tôi vừa ăn vừa khóc vì thương má, thương mình. Đó là lần ăn trộm duy nhất đời tôi...Tự nhiên thèm quá quả bưởi trong vườn có mồ hôi của đấng sinh thành…
***
Bây giờ tôi miên man những dòng hạ tuần tháng 6 mà chợt ước đó là mùa bắp rộ đầy nương rẫy nhà ai....Dù bây giờ nơi này là miệt vườn có mấy nương bắp rẫy ngô!? ---
Về Nông Trường Viết Lại Chuyện Đời Ta
Nguyễn Văn Thượng
Ly cà phê sóng sánh, tiếng thìa leng keng khua cạnh ly nghe rõ mồn một, Khuyên đặt cốc cà phê xuống sau khi nhấp một ngụm: “Khuyên đi, Lam buồn không?”. Lam nhìn xuống dòng kênh Đồng Tiến trôi lững lờ mang theo hương phù sa nặng trĩu, à mùa này phù sa về theo con nước lớn, “Khuyên lúc nào cũng vậy thôi. Lam buồn gì? Vui gì cũng có được gì?”. Khói cà phê ban chiều bay lên hương thơm vấn vương thôi thúc: “Ai cũng có quyền chọn lựa riêng, em chúc anh làm tròn bổn phận của mình”. Ngoài kia, đồng Tràm Chim gió lộng…
***
Những cơn mưa đầu mùa thường đỏng đảnh và tinh nghịch, bất chợt sà vào lòng thị trấn, rồi lại bất chợt vụt ra xa. Từ xa nhìn lại, từ khu vườn quốc gia điểm xuyết một thị trấn sầm uất giống như một tấm thảm xanh như vô tận. Nổi bật trên đó là những trảng bạch đàn cao vút, đong đưa cành lá trong gió, soi mình xuống dòng nước Đồng Tiến lững lờ. Vườn quốc gia Tràm Chim nhìn từ góc quán cà phê Vườn Sếu xanh mơ màng, hoang sơ và quyến rũ đến lạ. Những ao sen rung rinh trong gió mưa, phía dưới, đàn cá hồng lượn lờ quanh những bông súng tím hồng. Mùa này những tán cây tràm mát rượi men theo lối đường ra Phú Hiệp làm chỗ nghỉ chân cho khách lữ hành. Nhô ra ngoài bờ vườn quốc gia là nhà thủy tạ kiên cố với kiểu cấu trúc hoa mỹ. Đứng trên đó, phóng tầm mắt ra xa, ta sẽ nhìn thấy khu sinh thái như cánh đồng nam bộ xưa như thời cha ông khai khẩn.
Chiều xuống mặt trời ngả về tây, cảnh sắc đất trời màu đỏ pha sắc vàng rực rỡ. Được ngồi trên ghế đá đón gió sông mát rượi, ngắm nhìn trời nước mênh mông, vui chuyện cùng chúng bạn thì không- còn gì thích thú cho bằng.
– Khuyên sẽ đi ngày nào? Đã chuẩn bị mọi thứ hết chưa? – cô lên tiếng. Không lên giọng xuống giọng, không rào trước đón sau, giống như cô định nói: “Tại sao Khuyên lại chọn cách ra đi?” nhưng lại dùng sai từ.
Anh cười.
– Ừ, cũng tối rồi. Để anh đưa em về.
– Không – cô lắc đầu, mắt vẫn nhìn xa xăm ra phía cánh đồng – ý em muốn nói khi anh ra đi, nơi này còn ý nghĩa gì với anh không, và còn…em nữa, em không… Anh hơi sững lại, vẻ khó hiểu nhưng ngay lập tức đã bật cười, anh nghĩ chắc cô đang hờn dỗi chuyện gì.
– Em đang giận à ? – anh kè sát vào tai cô và cố tình nói thật nhỏ giọng. Cô thoáng rùn mình. Anh có một chất giọng rất đặc biệt, nhất là mỗi khi thì thầm, nghe quyến rũ lạ. Cô quay lại nhìn anh, cố mĩm cười thật bình thường, mắt mở to không chớp, cô cần giữ cho tâm hồn mình tĩnh lặng. Cô không muốn anh đọc được điều gì trong đôi mắt cô.
– Anh biết, nơi này rất bất ngờ vì anh quyết định ra đi, tập thể không hiểu tại sao anh lại quyết định xin đi công tác tận Tây Nam. Thế thôi.
Nụ cười trên môi anh tắt hẳn. Anh mím môi, thoáng chút bối rối.
– Giám đốc không nói gì với em à, thư ký cưng ?
– Không gì cả.
– Thế sao, vậy em muốn biết lý do tại sao, hay vì thương hại, hoặc lo lắng khi đến nơi xa lạ?
Cô thở dài, nhìn thật sâu vào mắt anh. Anh không hiểu ý cô hay giả vờ không hiểu. Khi nhận được thông báo phó giám đốc nông trường chuẩn bị điều về Tây Nam làm trưởng trạm thủy văn Cửa Đại. Thùy Lam nghĩ “Có phải là ích kỷ không khi anh hành động như vậy ?”.
– Hay là em nghĩ rằng anh đang ganh ghét một ai đó, hoặc anh muốn sống chủ nghĩa anh hùng lãng mạn? – anh hỏi khi thấy cô im lặng.
Cô thấy xót xa. Chính cô cũng không biết mình có yêu anh không. Từ khi cô lý thân với chồng, từ Kiểm Lâm An Giang cô xin về làm trong Nông Trường Phú Cường năm năm qua, không hy vọng điều gì. Vào một ngày hè tháng năm đầy nắng và gió, nắng nóng đến vã cả mồ hôi làm Thùy Lam bực mình chết lên được. Nhớ hôm ấy, cái mặt bánh góc cạnh đen nhẻm của Phúc Khuyên trông ngố không chịu nổi làm cô gái nông trường mới đến rơi cả cuốc trong tay. Nhớ thời tiết hôm đó nhằm vào lúc Tam Nông nổi gió nóng gắt gỏng, bọn mây gió rủ nhau đi đâu hết để lại khoảng trời xanh bơ vơ cô đơn.
Thùy Lam nhớ cái cách anh hất hàm chối biến khi lén trộm cái điện thoại của Lam xin cuộc gọi nhỡ, nhớ tối hôm ấy anh nhắn tin bảo em là “con điên”…. và rồi thế nào nhỉ? không chỉ em mà cả anh cũng điên đó chứ, hai kẻ điên yêu nhau theo cách điên riêng và đặc biệt của mình.
Thùy Lam thường tự nhủ mỗi khi Khuyên nhắn tin: “…Yêu thì đơn giản quá, thương nhiều thì tầm thường quá nghe mãi cũng mòn tai hay nói chỉ yêu đến suốt đời suốt kiếp thì thật nực cười nhưng thầm cảm ơn anh vì đã đến bên em xoa dịu tâm hồn em giữa nông trường nắng lửa, trong lòng cũng như lửa lòng lộng trên lưng trưa hè.
Thùy Lam hạnh phúc với những gì mình có. Cô đơn giản chấp nhận vị trí của mình mà không một lần suy xét nó có đúng là dành cho cô không.
– Em… thật… không có ý nghĩa gì với sự lựa chọn lần này của anh sao? Anh bỏ em lại đây sao? – giọng cô có vẻ run run. Đôi mắt đã ươn ướt.
Anh luôn bất ngờ trước những phút yếu đuối của cô, thật vậy, nông trường này khá nhiều những cô gái mạnh mẽ trong đó có Thùy Lam. Điểm dễ thấy là Lam và những cô gái ấy luôn nỗ lực và cố gắng để khẳng định mình trong cuộc sống, sống độc lập, không ủy mị, không lấy lý do bởi mình là con gái mà cho phép ủy mị hay yếu đuối (ít ra, những gì họ thể hiện ra bên ngoài là vậy). Phó giám đốc mới ra trường và mọi người có thể thường xuyên bắt gặp những nụ cười trên môi cô gái An Giang này, thấy một sức sống mạnh mẽ, là một chỗ dựa vững chắc cho những cô bạn gái, khi họ gặp những chuyện đau buồn trong cuộc sống...
Những sự mạnh mẽ ấy tạo nên dấu ấn cho một nhân viên nông trường khắc nghiệt này, nhưng đôi khi, cũng bởi dấu ấn ấy mà Lam và những cô gái giống thế lại phải nhận về mình những thiệt thòi...
Người ta thường nói một vẻ ngoài vững vàng rắn rỏi đi chung với một tâm hồn nhạy cảm mong manh. Nghĩ buồn cười. Chính Lam cũng không biết tại sao mình lại như thế, vậy mà anh phó giám đốc lại hiểu. Cuộc sống bôn ba tự lập từ nhỏ đã tôi luyện một cô gái yếu đuối thành một người đầy bản lĩnh nhưng tình cảm đổ vỡ trong gia đình đã khiến cô trở lại yếu đuối đến không ngờ. Anh yêu cô có lẽ một phần là vì vậy. Bởi cái chất cứng cỏi trong cô che tài tình cho bên trong yếu đuối kia. Thùy Lam kiêu hãnh rằng cô không là người con gái bình thường như bao người khác.
– Anh yêu em. Anh luôn biết điều đó – Anh nói thật nhẹ nhàng và từ tốn. Điều đó đúng. Đúng như đơn giản một với một là hai vậy.
– Thế sao anh lại bỏ ra đi ?
– Yêu thì không được đi làm cục thủy văn Tây Nam sao ?
– Không. Em yêu anh. Anh yêu em. Vậy tại sao phải xa nhau cơ chứ, anh đang làm phó giám đốc, tương lai anh sẽ tiếp quản nơi này, nhân viên và bà con thương yêu kính trọng anh, sao lại về cục thủy văn ?
– Bởi vì ngoài anh và em, còn có ....
– Anh ấy không là gì hết với em. – Thùy Lam hơi cao giọng – Em không còn tình cảm gì với anh ấy cả, anh biết điều đó mà. Em vì hai đứa con gái của em. Chúng nó cần có cha. Bất đắc dĩ em mới cho anh ấy về thăm chúng.
– Phải. Nhưng mối quan hệ giữa hai người vẫn loay hoay không dứt được. Và anh biết, anh Quốc Phương vẫn còn rất yêu em.
Thùy Lam nhăn mặt tỏ ý bực mình.
– Em không quan tâm.- Ly cà phê đã cạn lăn lốc trên bàn khi Thùy Lâm giơ cánh tay lên vuốt lại mái tóc gió bay phủ đến mắt.
– Nhưng anh quan tâm. Nhìn anh ấy đau khổ, anh thấy mình như mang tội nặng. Nếu anh đừng ngỏ lời yêu em, có lẽ em sẽ tha thứ và trở về với anh ấy – Khuyên châm một điếu thuốc, Thùy Lam thoáng nhăn mặt khi khói thuốc len theo gió luồn vào mái tóc cô, xộc vào mũi.
– Anh đừng vớ vẩn. Tội lỗi gì? Anh ấy biết gì về em? Anh ấy chỉ biết về tình cảm của anh dành cho em nhưng anh ấy không được bước chân vào. Đó là do anh ấy quyết định làm khổ em, xua đuổi em và ly dị em trước, giờ anh ta lại như vậy, anh ấy đau khổ với ai chứ?
– Em không thấy nói thế là tàn nhẫn sao ? Còn hai đứa con của em? Chúng có lỗi gì nào? Không, xin lỗi em. Anh chỉ nhìn thẳng sự thật để nói thôi.
Sự thật? Cô mỉm cười chua chát. Sự thật là anh không muốn lựa chọn. Sự thật là cả cô và anh đều đau khổ. Tuy anh muốn dùng sự cao thượng để nối lại một gia đình tan vỡ nhưng cô không đủ can đảm rời xa anh. Vì lý do gì? Chính cô cũng không hiểu nỗi. Chỉ biết là trong hai người đàn ông, phải có một người ra đi. Và cô biết, với bản tánh của anh phó giám đốc này, kẻ ra đi là chính anh.
– Đúng là anh đã quyết định thế, nhưng chính anh cũng đâu muốn tránh né chuyện này, phải không? Anh để việc yêu em và việc em có anh ấy ở bên cạnh cùng đồng hành trong đời như một sự hiển nhiên. Em có biết cảm giác của anh và của anh ấy như thế nào chăng? Đã bao giờ em bận lòng?
– Anh khó chịu ư ? Sao trước giờ anh không nói ?
– Nói để làm gì ?
– Để em biết.
– Em biết rồi thì sao ?
– Thì… thì… – Thùy Lam ấp úng. Cô về phía rừng tràm đang rung rinh đong đưa theo luồng gió tây nam, nuốt vội giọt nước mắt đang chực trào khỏi mi.
– Thôi anh à, điều đó không còn quan trọng nữa. Em chỉ mong chuyện chúng mình đừng trở nên quá căng thẳng. Em không muốn đưa anh lại vì chuyện này mà bỏ mất tương lai của anh…
– Chính em là người phải lựa chọn hoặc tình yêu hoặc gia đình. Cứ coi như chưa từng xảy ra chuyện gì cách đây năm năm sẽ được. Hãy thử trở lại giây phút ấy, chúng mình đang là bạn thân và coi như em từ chối không nhận tiếng “yêu” của anh. Vậy nhé. Mình sẽ vẫn là bạn.
– Anh thật lòng muốn thế sao ? – Cô bỗng nức nở.
Phúc Khuyên mĩm cười dịu dàng. Đưa tay lau vệt nước mắt cho cô.
– Em không thấy như thế là vẹn toàn à? Em sẽ có lại gia đình, con em sẽ có cha, chúng sẽ rất hạnh phúc, chồng em sẽ không khủng hoảng nữa. Ba mẹ anh ấy chắc sẽ vui lắm. Ngoan nào – Anh nói kiểu dỗ dành một đứa bé con, ráng sức làm cho giọng mình như đang bông đùa.
Một động lực vô hình đã anh lại ôm thật chặt cô.
– Anh không muốn. Em biết không Thùy Lam. Cứ nhìn thấy anh ấy, lòng anh len lỏi sự ghen hờn và cao thượng, mâu thuẫn quá. Vừa cố muốn giữ lấy em, vừa nghĩ đến hai đứa bé và người đàn ông đau khổ kia ? – Phúc Khuyên nhìn thật sâu vào mắt cô và nhẹ giọng hỏi –
như thế, em không hạnh phúc ư ?
Cô nhìn vào mắt anh. Mông lung quá. Xa xôi quá. Cô thấy một vật sáng trong đôi mắt ấy nhưng mỗi lúc cô đưa tay với thì nó lại tan ra. Cô bắt đầu tự hỏi, phải chăng vật ấy không hiện hữu và cô đang hoài công bắt ánh trăng trong bóng nước ? Cô cúi đầu. Có những lúc người ta tự nhiên chẳng biết phải nói gì và im lặng là cách trả lời hay nhất. Anh rụt tay, vẻ ngạc nhiên vẻ đau đớn.
– Vậy là anh đã dứt khoát. Em không thể dự quyền quyết định phải không ? – Anh không nói vậy. Mọi chuyện chưa hẳn đã hết. Anh chỉ muốn em hãy suy nghĩ về gia đình. Rồi sẽ liệu sau. Anh đến cục thủy văn làm cũng ổn mà. – Phúc Khuyên ngước lên nhìn những vì sao đêm nhấp nháy trên vòm trời Tràm Chim, ly cà phê vơi dần… Cô đưa tay xắn lại tay áo sơ mi cho anh. Anh không bao giờ chịu cài nút , thích thả cho nó bay lùng thùng. Anh bảo cài nút thì nóng mà xắn lên thì anh không biết làm. Ban đầu vì bực mình thấy anh lôi thôi, cô mới làm giúp. Nhưng sau đó, nói sao anh lại để vậy, con gái nhìn sẽ không thích đâu. Anh bảo cô hãy làm cô gái của anh và anh thích được cô “chăm sóc” như thế. Lúc nghe anh lý sự, cô bật cười mà lòng thấy xao xuyến lạ. Rồi cứ mỗi lần hai đứa giận nhau, cái tay áo lại được lôi ra. Cô sẽ im lặng ngồi cẩn thận xếp từng lớp áo, vuốt phẳng phiu để có một đường gấp đẹp. Anh sẽ im lặng ngồi chăm chú ngắm cô. Giây phút ngắn ngủi ấy thường giúp hai người bình tĩnh hơn, sáng suốt hơn. Đó là nói thời gian đầu lúc mới nhận lời yêu anh, càng về sau, cô coi hành động đó như một thói quen. Một thói quen dễ chịu. Tay áo đã được kéo lên gọn gàng và đẹp mắt. Cô thở mạnh: – Thôi, anh về trước đi. Em muốn ở lại một mình…
– Em không về ?
– Không. Em muốn được một lần nhìn theo dáng anh từ phía sau lưng. – Thì bây giờ anh quay lưng lại. Em ngắm đi. Rồi thì… mình cùng về.
Cô vừa cười vừa đẩy.
– Anh lại thế. Không về em… giận à.
Anh gãi đầu, vừa cười vừa bước, chốc chốc quay đầu nhìn như chờ đợi xem cô có theo sau không. Cô phải xua tay dậm chân giả vờ dỗi thì anh mới thật sự quay lưng đi. Khi cái dáng cao cao ngang tàng của anh khuất vào ngã tư vào vườn quốc gia phía xa kia, về phía Ao sen , cô mới thong thả đứng lên và đi men theo bờ kè sáng choang ánh đèn vàng hắt bóng. Cô đứng yên cho từng cơn gió rì rào vỗ nhẹ vào bừ vai như thoa như nắn, nhắm mắt lại cho làn gió mơn man trên da thịt như vuốt như ve. Cô chợt thấy lòng trĩu nặng. Trĩu nặng vì sau bao nhiêu năm yêu nhau yên lành, giờ trong lòng mình sao trống trải. Cô biết anh sẽ trở về, và sẽ lại bận tâm suy nghĩ câu chuyện vừa rồi. Anh là vậy. Ừ, chắc anh cũng chỉ cảm thấy đau khổ trong chốc lát thôi, rồi anh sẽ quên như dòng sông trôi qua trạm thủy văn nơi anh sắp đến. Nhanh như sự tồn tại của cô trong cuộc đời anh vậy. Mọi chuyện sẽ tốt đẹp thôi. Cô nghĩ. Mọi chuyện sẽ tốt đẹp thôi…Dù trong tim đau nhói như cảm giác chia tay tình đầu trong đêm đầy nước mắt…
Những chùm hoa phượng rực cháy giữa mùa tháng sáu đã rụng tơi tả khi mùa hạ đã đi xa chỉ còn lại cơn mưa thu cuối tiễn linh hồn rực cháy về hư vô. Đời này đã không là của những tình nhân hạnh phúc, mỗi người phải tự đi qua những chặng đường và luôn sẵn sàng để tiếp tục bước đi trên con đường mình đã chọn dẫu chỉ còn một nửa con tim... Mở cánh cửa vào cục thủy văn không phải Khuyên tìm cho mình tương lai gì nhưng tìm một sự cao thượng nào đó làm trầy xước con tim.
Có môt câu nói đã đã khiến Phúc Khuyên suy nghĩ: “Dòng sông thời gian quả như đang chảy về biển cả, cuối cùng tất cả chúng ta đều phải có những bước đi riêng, không có bến cảng nào là dừng lại mãi mãi, chia tay hôm nay là để cho chúng ta đi tới những tương lai tốt đẹp hơn”. Anh phó giám đốc sẽ tiếc lắm, không chỉ là nông trường trẻ đang bừng sức sống, những người nông dân chăm chỉ sáng tạo, cần cù, những người bạn, những người đã cùng
sát cánh bên anh suốt từng ấy năm, anh còn tiếc cả người con gái ấy… Tình yêu đã mang đi những gì và níu lại những gì, giờ còn ở lại là những cảm động nằm trong mỗi trái tim mọi người…Đứng trước ngưỡng cửa của cuộc sống, ta sẽ luôn thầm chúc những điều tốt đẹp nhất cho nhau.
Khuyên rời nông trường vào một buổi sáng mùa hạ, rực rỡ nắng. Bản nhạc tình từ chiếc rađiô: “Ta cố dang tay mà không thể níu giữ. Những cơn mưa đã xa rồi, rất xa...”. Sực nghĩ đến lời cuối cùng của Thùy Lam: “Ai cũng có quyền chọn lựa riêng, em chúc anh làm tròn bổn phận của mình”.
***
Mỹ Tho 12/12/2016
Thới Sơn Mùa Đông, Bên Sông Gửi Về Từng Tia Nắng Nhạt...
Nguyễn Văn Thượng
Ngoài kia, từng tảng mây xám đang chiếm lấy bầu trời. Làn gió mùa đông đang mơn man trên má các cô gái ửng hồng, những đôi bàn tay tình nhân đan chặt lấy nhau, thế là mùa đông đã sang rồi đấy! Mùa đông lạnh để khách hào hoa nhân gian lại nhớ bờ môi thật mềm và vòng tay ấm áp. Đông về, những con đường mòn cỏ mượt sáng sương đọng dường như cũng sắt se lại, những đám lá vẫn hát những bản tình ca của gió, tiếng xe máy rì rầm băng qua ngõ vắng, những bước chân ra chợ của mọi người trong xóm vẫn đi nhẹ qua ngõ, thoáng đâu đó những đôi mắt đang ngước tìm những tia nắng xen qua tảng mây tìm đến nụ cười em bé quê.
Cánh mây xám đem theo cảm giác lạnh lẽo cũng không ngăn được tia nắng ấm áp đan xen đi vào dòng cảm xúc mùa đông bên một dòng sông quê. Tôi chỉ là một người thường tồn tại giữa mùa đông nên cũng yêu mùa đông, tưởng tượng cánh tuyết tung giữa không trung, hình dung bầu trời đầy tuyết trắng, những bóng người dựa vào nhau bước trên tuyết như bức phông tinh khôi nhất của địa cầu. Nếu được, tôi ước gì cái se se của khí trời chuyển tiết và đặc biệt là được đi dưới làn đường phố tuyết trắng mà thả hồn mộng mơ cõi thiên đường màu trắng tinh khôi.
Nhớ khi xưa xem bộ phim “Bảy Sắc Nhân Gian” – một bộ phim tình cảm xoay quanh câu chuyện về những người nhặt được tiên đơn của họa tiên. Trong đó có Mã lương nhặt được 1 viên và một cô gái xấu xí nhặt được được 2 viên cô ăn một viên và cho chú rắn 1 viên sao khi ăn chú rắn lập tức biến thành người, rất may mắn những viên tiên đơn đó rơi vào tay những người tốt bụng hiền lành nếu rơi vào tay bọn yêu quái sẽ tạo nên một thảm họa cho nhân gian. Trong lúc này có một con cóc biến thành yêu tinh đang hoành hành bá đạo quấy phá nhân giang. Thế giới tồn tại trong màu sắc lung linh, thần tiên cũng quyến luyến, nhưng khi ác ma lấy mất màu sắc, nhân gian chỉ còn màu xám ảm đạm. Nhân gian là cõi hồng trần đa dạng màu sắc và thế giới rất đẹp. Ai đó đã viết rằng mùa xuân mang theo màu ngọc bích trong trẻo, mùa hè về tràn đầy sức sống thiên thanh rực rỡ, mùa thu dệt không gian màu hổ phách ứa tràn những cảm xúc. Rồi khi mùa đông đến, màu trắng tuyết mang đến niềm luyến lưu, chút lạnh giá để nhân gian cần nhau hơn, màu xám bầu trời không làm xa cách nhưng góp lại yêu thương để xây dựng cho đời những tổ ấm đầu xuân long lanh khi cánh tuyết cuối cùng tan trong nắng, róc rách xuống đời cho mầm xanh lên ngôi.
Màn trời đông như bức rèm châu đan kết từ triệu triệu hoa sữa – loài hoa trắng trong, tinh khiết. Hoa sữa mang sắc trắng tinh khôi, dưới những tán cây đung đưa trong gió như muốn làm điểm kết tụ mùa đông, là sân ga nhỏ cho con tàu yêu đương đến và đi. Hoa sữa rung rinh chào đón mùa đông, hoa sữa rung rẩy tiễn biệt hoa tuyết về đất. Khung trời mùa đông là sân khấu của hạnh phúc và của nỗi buồn.
Trong công viên Rạch Miễu, tôi ngước đôi mắt lên, đếm mấy cụm cây già trơ cành khẳng khiu. Tôi tìm gì trong hơi lạnh của mùa đông? Tìm kiếm một tình yêu trong cõi vô thường của thiên đường mùa đông? Trong tâm tưởng? Hay trong chính tận cùng cảm xúc mùa đông? Tôi yêu mùa Đông, bởi cảm giác lạnh lẽo và ấm áp xen lẫn nhau trong từng dòng cảm xúc mà chỉ Đông về mới có thể cảm nhận thật rõ rệt và sâu sắc.
Trên mái gác chuông, trong giáo đường và trong căn phòng trên lầu đều cảm nhận được
mùa đông lan rộng, hơi lạnh, nỗi nhớ và chút gợn buồn đi qua kẽ cửa nhìn thấu tâm hồn. Ngoài đường, gió lùa mấy chiếc lá khô cuộn lên rồi thả chúng rơi tự do cho dòng xe, dòng người đi qua hờ hững đến lạc lỏng, lại thấy lòng dâng trào một cảm xúc mãnh liệt.
Mùa đông như nàng công chúa tuyết nghịch ngợm, hồn nhiên đến làm cho nhân gian chút bâng khuâng mà vẫn làm ngơ bước vội qua cuộc đời. Tôi cảm nhận rõ sự hiện diện của những miền băng giá trong tâm hồn, mùa đông cho vạn vật đi tìm giấc ngủ vùi, cho những kẻ chạnh lòng khoác vội chiếc áo len – chiếc áo len tự chọn ngoài cửa hàng chứ không phải do một cô gái nào đan tặng - ra phố để vay mượn chút cảm xúc ấm áp từ mấy đôi nhân tình tay níu, tay đan. Khó chịu thay cho chút lắng đọng trong mặc cảm riêng, nghe từng cơn giá buốt riêng tìm đến? Nơi này có đủ lạnh chưa? Đủ cho một thi nhân ủ rũ nguệch ngoạc mà gửi chân tình cho mấy cánh tuyết vừa chạm lên môi mùa đông. Và tôi biết, tôi hay buồn – những nỗi buồn mênh mang vô hạn, những nỗi buồn bâng khuâng chẳng biết từ đâu đến. Mùa đông tự bao giờ đã đến, tiếng dương cầm dìu tôi đến nỗi nhớ, cơn cảm lạnh mùa đông vào sâu trong trái tim tôi, để tôi giờ đây tơ tưởng, suy tư về một nỗi niềm mỏng manh. Ai đã cảm nhận hết được mênh mông cô quạnh mùa đông? Hãy kể lại cho tôi để tâm tưởng được tràn đầy thêm như dòng sông mùa đông đùa với tảng băng trôi sẽ có ngày chẳng ai nhớ đến. Mỗi người sống chậm rãi hơn đôi chút, đi chậm lại quãng đường, sẽ thấy những mùa đông cuộc đời, chính mình tự sưởi ấm lấy bằng tình thương sẽ cảm thấy thêm vững tâm, chắc chắn hơn về cuộc sống này. Mùa Đông giúp tôi cảm nhận rõ về từng ngóc ngách tâm hồn của mình mà bấy lâu ngỡ quên…
Bên ngoài, gió lạnh thổi vù vù, gió luồn lách qua khe cửa sổ, nhưng trong nhà, không khí ấm cúng như một ngọn lửa rực rỡ trong trái tim cố xua tan cái lạnh lẽo, dần đẩy lùi mùa Đông giá rét chợt viết lên trang tuyết trước mặt tinh khôi. Mùa đông đượm nỗi buồn không phải tự nó, chính trong màu xám mây trời, tuyết trắng long lanh, hơi lạnh tràn không gian ta mới thấy yêu và trân trọng vầng thái dương ấm áp của mùa Xuân – vầng thái dương chở bao nỗi mong đợi cho con người tìm lại gần nhau. Và mỗi một mùa Đông đến, mỗi sinh vật đang dần lớn lên, tôi cũng phải lớn để thành nhân, để đảm nhận trách nhiệm với cuộc đời sau bao năm được dưỡng nuôi, giáo dục thành người.Và, trưởng thành để còn yêu mùa Đông nữa chứ!
Tôi viết trong một buổi sáng nắng nhạt, thẫn thờ chắp lại từng mảnh vụn thời gian của một thời chưa quá cũ. Một thời tình nhân hanh hao nắng, một thời đơn độc trong cái se lạnh của gió mùa đông bắc. Ru lòng mình hoang hoải để nghe mùa đông về trong đất trời và cõi nhớ của con tim, để cảm nhận ngỡ ngàng nét đẹp se lòng cô độc. Sao hôm nay phố vắng đến lạ lùng, mỗi bước chân ta bỗng dưng chậm lại... Có phải mùa đông trên từng góc phố cố níu bước chân ta để đỡ cô đơn hè phố lá xao xác cành khô? Có phải mùa đông đã chạm khẽ làm rung động con tim tôi nên bước chân ngập ngừng qua phố?
Mùa đông, bầu trời như thấp xuống. Mây ở đâu kéo về che kín cả khoảng trời xanh. Cả mùa đông, bầu trời toàn mây là mây. Mùa đông về gõ cửa, những cơn gió như tà áo thướt tha khẽ gieo mình vào khoảng không vô tận. Con phố nhỏ nằm im lìm, núp bóng dưới những cây bàng già cỗi…Cái se lạnh, rét mướt, không gian trầm lắng cùng với màu xam xám của mùa đông khiến người ta cần có hơn bao giờ hết.
Mùa này, tôi lại nhớ nhiều những gốc rạ khô mục trên những con đường nứt nẻ ở quê. Ngày đó tôi còn nhỏ, chân cũng nứt nẻ như cánh đồng khô, cũng dầm sương gió, cũng có mùa đông bên bếp lửa có ba má, anh chị với tiếng nói cười của bạn bè lối xóm gọi nhau, nhớ nụ cười e ấp tuổi 15 của cô bé nhà bên... Nỗi nhớ nhiều, ăn sâu đến và nhiều nhất về cánh đồng, về những nông phu cúi mặt trên các luống cày, những người làm ra hạt gạo nuôi sống nhân loại mà cuộc sống lại chất đầy những lo toan, may rủi. Giờ đây, trong căn phòng trên gác nhỏ, tôi vẫn có thể cảm nhận được bước chân của mùa đông đang dần xâm chiếm tất cả mọi ngóc ngách của cuộc sống một cách da diết, trầm mặc. Từng nét viết đi qua bên khung
cửa màu nắng nhạt, thẫn thờ chắp lại từng mảnh vụn thời gian của một thời mùa đông xưa vẫn chưa quá cũ. Một thời tình nhân hanh hao nắng thu, một thời đơn độc trong cái se lạnh của gió lạnh đầu tuổi vào yêu. Gió lay lay cành bưởi sân sau, tôi nghe lòng mình hoang hoải, nghe mùa đông về rồi cảm nhận ngỡ ngàng nét đẹp se lòng cô độc.
Nhớ chiếc lá cuối cùng níu mong được ở lại với cây. Nhớ những dòng sông tuổi thơ chạy dọc hai bên cánh đồng lộng gió mùa đông thổi từ ngoài sông, lạnh đến tái tê lòng. Nhớ ánh mắt trìu mến, nụ cười hiền và giọng nói ấm áp của ai đó đến nao lòng...
Mùa đông phải chắt chiu cho mình từng giọt nắng hiếm hoi. Như bây giơ, tôi vươn cánh tay khỏi ô cửa sổ hứng mấy vài giọt nắng rớt xuống bên hiên nhà lặng lẽ, mùa đông cũng se sẽ nở một nụ cười mừng rỡ cho lòng tràn ngập niềm vui. Vầng dương muốn góp cho mùa đông một chút nắng để an ủi và sẻ chia với khách thi nhân, sẻ chia với từng khóm hồng đang ủ rũ chờ đợi nắng mai sưởi ấm tình yêu nồng đượm. Mùa đông xem xuyên vài sợi nắng trong, thấy tâm hồn mình thanh thản, hạnh phúc, dù nhỏ thôi trong tâm hồn.
“…Con đường nhỏ co ro trong gió bấc
mưa phùn rơi lối nhớ bước chân ai
Tình yêu nhỏ đã chưa một lần bùng cháy
Lối thu xưa dần tắt giữa mùa đông
Có còn không những cánh lá thu lạnh buốt
Giữa tro tàn níu bước kẻ lãng du
Con tim trinh ơi sao cố tình ngu dại
Níu một hồi dĩ vãng quá xa xôi?
Đây mảnh linh hồn lạc lõng giữa mùa đông
Vườn cũ, con đường xưa thưa người thảng thốt
Có khi nào ta hình dung đếm bước
Không tài nào níu nổi trước thời gian…
Đông mải miết trốn tìm cánh tuyết
ta trốn tìm mắt biếc người xưa
Ngược thời gian không ai chờ ai nữa
Rét đầu đông, chỉ một khoảng đau thương…
Mùa đông, vừa xa vừa gần. Khi con người ở một khoảng không gian giống một không gian khác, ký ức về nơi xưa cũ lại hiện về để được gần gũi, được nâng niu ấm nồng. Mỗi cơn gió lạnh mơn man đùa trên tóc, lại nghĩ rằng nơi ấy cũng lạnh như thế, nơi ấy có sương mù, có những con đường đầy hoa, và nơi đó có một ai đó đang chờ đợi...
Mùa đông có lý lẽ của riêng mình. Đôi lúc đi trên con đường quen thuộc, hay ngồi góc quán nào đó nghe khúc dương cầm về mùa đông, cảm nhận chính mình, chính mình thôi, một cái ngôi vị lạnh lẽo như chính nó, như mùa đông tự cho mình những cảm xúc không tên cũng đủ sức nóng để sưởi ấm cả một con tim. Mùa đông gắn với bao kỷ niệm và yêu thương như cái cảm giác gió lạnh phả vào mặt từng cơn, từng cơn khiến đôi khi thấy cô đơn và lạnh lẽo. Mà chính những lúc ấy, quá khứ lại hiện về như những tia nắng ban phát từ sự quảng đại của vầng đông.
Ký ức về mấy mùa đông xưa đôi khi vẫn hiện hữu, rõ nét và đầy đủ. Tôi vẫn còn cảm nhận được hơi thở của những mùa đông ấy, khi mà tôi từng rất yêu thương, lúc mà tôi thực sự cảm nhận được một chiếc khăn len có ý nghĩa thế nào. Một chiếc khăn là đủ để sưởi ấm cả một mùa đông, sưởi ấm một tâm hồn, một trái tim..
Tôi đang thử thay đổi, thử làm những gì mình không nghĩ là mình sẽ làm. Có người bảo, ừ thì cứ thử đi... mở rộng lòng hơn một chút.. .Biết đâu “mùa đông ấm áp sẽ về”... Đây tách café, có lẽ sẽ giúp tôi tỉnh táo hơn, lý trí hơn. Giờ tôi lại tiếp tục trên con đường đi giữa mùa đông của mình...
Và tôi yêu sự ấm áp trong cái gió lạnh của mùa đông…
---
Mùa Đông Thới Sơn 29/12/2016
Viết tặng M.L.T và L.H.M
Xuân Về Lồng Lộng Trên Đất Trời...
Nguyễn Văn Thượng
Sáng nay bầu trời nhiều mây. Trên con đường quen thuộc đi về, ta đâu muốn nhớ thời gian. Có lẽ với một khách lữ hành mang túi hành trang du mục thì thời gian là lẽ vô thường, nhớ đến chỉ khổ thêm thôi. Nhớ thời gian có nghĩa là đang ầm thầm niệm chú nổi cay đắng nhân gian – sự hủy diệt khủng khiếp không thể chặn đứng. Người ta nói không có gì là tồn tại mãi mãi. Vâng, thời gian đậm đặc không gian, như chiếc lưới lồng lộng với những mắt lưới là trăm tỷ khoảnh khắc ngắn nhỏ tồn tại. Có những khoảnh khắc trong tỷ tỷ khoảnh khắc ấy là mãi mãi trong tâm hồn người. Kìa, xuân đã đến trước thềm với hương bưởi ngạt ngào khung cửa, len nhẹ vào hơi thở đằm thắm dịu dàng. Những cô gái Thới Sơn co ro ngồi sau người yêu trên chiếc xe tình nhân băng qua cầu Rạch Miễu lồng lộng gió. Mấy kẻ đang yêu khi xuân về có biết không gian đậm sắc hương kia rồi cũng sẽ phai nhạt. Khi ánh nắng xuân còn khuất sau áng mây xám rưng rưng lưng chừng trời, ta vẫn thấy sức xuân đang tràn về không gì ngăn cản nổi, hừng hực, sôi nổi và trẻ trung.Vì thế, ta hẹn lòng khi xuân vể sẽ hái một đóa hoa thơm dịu dàng để tặng người thương để lưu giữ lại ngàn hương sắc trong con tim đang lăn trên đường mòn thời gian, người sẽ vẽ lên chùm tia nắng điểmsáng cho cánh hoa xuân với mấy chồi non đang đùn mình lên, lấy màu cỏ hoa làm nền, dùng ngọn gió làm bình phong. Ta sẽ vớt lấy một chiếc lá khô lẳng lặng trôi trên con rạch nhỏ bên đường làng kết dệt thành bức hoài niệm thu cuối 2016, lấy những cành khô khẳng khiu cô quạnh để điểm lên vài sợi màu trắng cho mùa đông đang thu hành lý ra đi cuối tia nắng ngày đông. Mùa xuân đến cho ta khoảnh khắc mãi mãi với tâm trạng dạt dào đôi lúc chơi vơi dỗi hờn một mình trong nội tâm tịch mịch.
Xuân về trong niềm hân hoan khi đất trời nở nụ cười bằng những đóa hóa xinh. Em với tay nhặt nắng lắng nghe bầy chim én chao nghiêng để mở toang cánh cửa đón xuân hòa trong khúc ca xum vầy. Hạnh phúc đong đầy trong mắt khi có anh cùng xuống phố bằng những nhịp điệu khẽ khàng. Anh sẽ đưa em vào góc phố quen thuộc mà xuân đã phủ sẵn một vạt cỏ xanh mướt cùng đóa hoa lung linh như mời gọi. Cùng nhau ngắm nụ hoa chúm chím bên ban công thi nhau đua sắc, sẽ cùng giơ tay vin ngọn gió đang mải miết đùa cùng làn mây trắng, lãng du trong tiết trời khi xuân kề bên mà dành tặng cho em khúc nhạc yêu thương.
Mùa xuân đẹp nhất vào lúc giao thoa của đất trời, khi những đợt rét khắc nghiệt của mùa đông nhường chỗ cho không khí ấm áp. Cây cối đâm chồi nảy lộc, con người kết thúc những tháng ngày tất bật để trở về nhà tận hưởng niềm hạnh phúc bên gia đình. Tình yêu và hương vị của mùa xuân đã tạo cảm hứng cho nhân gian. Xuân về cho con tim nhân thế khẽ ngân lên niềm vui trong hạnh ngộ, không còn những dư hương của ngày cũ kỹ, không còn khoảng trời chiều nắng vụt tắt, không còn giọt nước lưng chừng phủ rớt trên đôi vay gầy. Mà giờ đây sẽ là những sắc màu rực rỡ của nhành lá biếc xanh, của quang cảnh tươi đẹp hoa đào nở đã về cùng mùa xuân. Tất cả phủ lên tất cả những phố dài, phủ cả lên tâm hồn thế nhân sắc màu của cỏ hoa, của cánh hoa đào đã chúm chím nảy những lộc xanh biếc lấp ló như in bóng vào bầu trời xuân, như điểm xuyết những sắc màu đỏ tươi của niềm hạnh phúc, như nhụy hoa buông mật ngọt để dùng hương thơm mát lành cùng mùa xuân tạo nên một khúc ca yêu thương tha thiết khi những tình yêu đang kết hoa thơm trái ngọt cho đời. Xuân
vẫn chào cuộc sống qua buổi hoàng hôn vắng lặng, với ráng chiều buông đổ hay bằng nụ hoa đào kịp ươm cho mình nhựa sống, tách mình ra khỏi sự bao bọc của nhành lá tỏa lên làn hương thanh khiết như dành những gì tinh túy nhất cho đất trời thêm hương.
Hơi ẩm ướt đẫm trong làn sương nhẹ màu trắng bao trùm lấy Thới Sơn nhìn từ thành cầu Rạch Miễu. Dường như trên cao cao ấy, những giọt sương của mùa xuân đang rơi. Vài hôm nay trời không nắng hồng, mưa lay phay ray rắc như khảm vào không gian bức kim tuyến đung đưa như mành xuân đang che nàng xuân e thẹn bên thềm khiến nàng xuân đẹp hơn. Xuân nơi này không có từng đàn chim én chao nghiêng lượn qua sóng nước biếc xanh để tìm
khung trời xuân. Có tiếng hót lưng trời của cánh chim lạc nào đó tìm bạn đến hòa khúc xuân đất trời. Ta từng muốn dấu nhẹm mùa xuân vào lòng để quên rằng mình cần hơi ấm mùa xuân bên gia đình, và trong tay với một ai đó trên đường biêng biếc cỏ hoa. Niềm hân hoan làm cho xuân luôn hiển hiện với đầy niềm vui trong nắng ấm áp. Sau một mùa đông miệt mài say ngủ, từng rặng cây bắt đầu trổi sống với cành non chớm, lá nhú mầm, hoa đơm búp, cơn gió xuân mơn man như mẹ hiền trên những nụ non trong. Mây cũng ngừng bay. Còn những nhành thủy tiên e ấp trong bụi hoa cỏ vẫn tràn đầy sắc hương.
Tất cả những điều tuyệt diệu ấy chỉ xuất hiện khi mùa xuân về khiến những cảm xúc yêu thương trở nên ngọt ngào. Vẻ đẹp rực rỡ của mùa xuân dễ khiến cho con người trở nên say đắm, nồng nàn. Cuộc sống trở nên tươi đẹp hơn khi có tình yêu, và tình yêu lại càng thổn thức hơn khi mùa xuân về. Nàng xuân có đôi môi của người yêu như cánh hoa đào dịu dàng ngày Tết, có con tim trẻ trung rạo rực, có tiếng hát trong trẻo hạnh phúc của cô gái mới độ xuân thì khi được ở bên người mình yêu trong men say của mùa xuân mới. Mưa xuân là bức rèm buông, lấm tấm kim tuyến từ không trung kết châu trên vạt cỏ xanh mướt hiền hòa giống như nghìn nghìn trái tim trong vắt của tình nhân gửi gắm ân tình lung linh trong ánh nắng chan hòa của mùa xuân hòa nhập sáng bừng cùng vạn vật, niềm vui tình xuân đã được thiên nhiên khoác lên một chiếc áo rực rỡ.
Ta nâng phím đàn lướt nhẹ trong căn phòng vắng khi làn mây trắng vẫy tay và hương sắc của mùa xuân. Khoảnh khắc giao mùa đầy hy vọng bừng sáng đang chờ đón mỗi người ở phía trước như câu hát giao mùa. Mùa xuân mới như niềm ước vọng đẹp đang dần tới, sắc xuân rực rỡ trên con đường quê chạy vòng vèo quanh cù lanh xanh đượm tình này. Ta như đang bay trên thảm mây trắng vờn quanh cây cỏ dang cành lá quấn quít với gió xuân. Khúc nhạc dìu dặt từ cây dương cầm cũ kỹ cũng quyến luyến lòng ta niềm vui sướng thanh bình. Có tiếng chim hót véo von trên ngọn nhãn bên mái nhà trầm lắng, ta chợt lặng lại để bồi hồi nghe như lời ca chân thành của người nhạc sĩ đa tài. Những cánh chim là nghệ sĩ chân chính, hưởng rất ít từ cuộc đời mà trao tặng cháy hiến tròn đầy say mê. Ta luôn tin vào những giá trị chân thật của cuộc sống con người. Một điệu valse nhẹ nhàng, êm ái thật thích hợp khi trời đất đang bẽn lẽn khoác lên mình chiếc áo rực rỡ của mùa xuân. Ta tưởng tượng như khi còn ở quê nhà, trên cánh đồng sớm, khi xuân về từng đàn én lượn vòng mênh mang, mơ màng. Thới Sơn này, nhà ta này, ở đây xuân thật đơn giản với tiếng gà gáy xa xa khi những giọt nắng trưa vàng cùng những sợi khói bềnh bồng len nhè nhẹ qua vòm cây, kẽ lá song lại có sức biểu cảm, lay động lòng người. Ta hớn hở buông cung đàn để lòng phơi phới hồn xuân trước cảnh mùa xuân tươi thắm yêu thương.
Mùa xuân mang đến sức sống mãnh liệt, mùa để cây lá đâm chồi nảy lộc, cho mầm non xanh mơn mởn thoát khỏi lớp vỏ bọc xù xì để vươn vai đón chào những tia nắng ấm áp diệu kì. Ta thấy rung động trước vẻ đẹp của mùa xuân. Xuân tới, hồi sinh sức sống cho muôn loài, xuân tươi vui từ cái nắng vàng hửng lên, từ cái lá cây xanh biếc, từ chồi non mơn mởn, từ cơn mưa phùn lất phất, từ những loài hoa đua nhau khoe sắc đến màu nâu mỡ màng của đất, cái màu nâu giản dị mộc mạc ấy nhưng lại nuôi sống muôn loài...
Cành hoa mai trong một ngày nắng tạnh, tiết xuân ấm áp và trong trẻo vui sướng hạnh phúc ấm áp đã thổi qua hồn. Ta cảm nhận và hòa mình vào sự thay đổi của sự giao mùa,
nâng niu và trân trọng bao điều mới lạ mà ta biết mình phải đón nhận với hết tình yêu thương…
Mùa xuân là mùa niềm vui cho mọi người, cho những cuộc sum họp, cho sự tha thứ, cho tình nhân trao gửi, cho uyên ương chấp cánh, cho cây liền cành. Nàng xuân đưa gió đông đi qua, cuốn lại những vầng mây xám như muốn nhìn thấy nụ cười hé trên môi nhân sinh. Ta yêu mùa xuân dù ta không màng dòng chảy thời gian, với ta, khi con tim rộn rả là lúc nàng xuân đang khẻ gảy cung đàn du dương cho riêng ta.Khi vạn vật đầy sức sống, cây cối nảy lộc như những ngọn lửa xanh rì, lung linh trong nắng ấm, rồi từng bông hoa thi nhau đua nở rộ trong không khí vui tươi ta mới biết đó là xuân của đất trời nào phải chỉ riêng mình ta. Từng tia nắng sẽ sàng, nhẹ nhàng cố lách mình qua tán mây trầm xám để ve vuốt lên các mái ngói đỏ tươi, mơn man trên mái tóc bồng của cô gái đôi mươi. Chính vì thế mà mùa xuân đến thì không lẫn đi đâu được, nó có những đặc trưng mà cứ mỗi lần đến ta đều biết. Nhưng không phải biết nhờ những tờ lịch cũ mới hay những lời chúc mừng, mà chính là món quà đầu năm của mùa xuân. Năm nay, mới sáng ban mai, giọt sương đêm vẫn còn đọng lại, tia nắng từ đâu đến lọt vào khe cửa sổ nhỏ, ta dụi mắt tỉnh dậy. “Một tia nắng buổi sáng, nó mỏng nhưng tràn đầy sức sống, thật vui!” lúc đó trong ta như có một ngọn lửa nhỏ thắp lên, ấm biết bao! Và tôi mỉm cười lúc nào không hay. Nhìn nó cười một lúc, ta mới biết : “À, nắng xuân đây mà. Món quà thật tuyệt!” Chắc không ai ngờ rằng xuân lại tặng món quà như vậy, mà cứ cho là không cũng nghĩ đó là thứ mùa xuân muốn tôi nhận đầu năm mới. Tuy món quà đó nhỏ, đơn giản đến không ai ngờ tới đã làm tôi mỉm cười. Nói về cảm nghĩ của tôi về mùa xuân, tôi cũng không biết diễn tả thế nào cho hay. Mùa xuân đã đem đến cho con người những khởi đầu tốt đẹp mới. Họ cũng mong mùa xuân đến nhanh để tìm nụ cười từ những thứ đơn giản đến lớn lao. Chính tôi cũng thế, mùa xuân cho ta bao nhiêu điều mới lạ. Nó đã tạo ra cho ta những cơ hội, những kết quả gặt hái đầu mùa.
Còn ta ? Ta chẳng phải nhà thơ, chẳng phải nhạc sĩ, chẳng phải nghệ sĩ mà ta chỉ là một gã hàn sinh muốn dành lời cảm ơn chân thành đến mùa xuân... Vâng, ngoài lời “cảm ơn” mà chẳng biết nói gì hơn…
Đi Dưới Vùng Trời Xanh...
Nguyễn Văn Thượng
Những làn mưa mùa hạ lất phất, hơi lạnh của cơn mưa lướt qua trên cù lao chỉ còn rơi rớt lại trên những lối đi quen thuộc. Cảm xúc nào cũng vẹn nguyên chút bâng khuâng, chút nuối tiếc, chút ngậm ngùi và xen lẫn cả một chút ngỡ ngàng, hạnh phúc. Vậy là mùa bưởi lại về. Ta dừng chân nơi đây ngoài hương nhãn bao dung trùm kín không gian, hào sảng ban tặng nghìn hoa tươi trái ngọt còn còn hương bưởi xao xuyến ngập tràn bên lối giáo đường trầm tư.
Tháng 7 mưa nhiều trắng xóa vùng trời kỷ niệm tuổi thơ gắn liền với mưa ban trưa rào rào mát lạnh, với khúc sông quê và nơi có bến đò tận tụy đi về nối nhịp chảy hai bờ sông. Những cơn mưa tắm gội những mảnh vườn nhỏ ven sông, nơi đó có cây bưởi già, có gốc nhãn chung thủy đội nắng dầm mưa nuôi người làng bao đời son sắt. Mỗi mùa ra hoa lại tỏa hương thơm ngát, trở thành chốn hẹn hò quen thuộc cho bao đôi nhân tình. Mỗi độ đầu mùa mưa bay lất phất những hạt pha lê gõ đều trên mái ngói nhà thờ, cây bưởi già lại nở hoa trắng xóa. Bây giờ, đứng dưới gốc bưởi già ngắm màu trắng của hoa, lẫn trong mùi hương dịu nhẹ, gợi nhớ những kỷ niệm êm đềm đã ngủ vùi trong tuổi xanh đi qua.
Tháng bảy đi giữa nồng nàn hương hoa bưởi, ta lại mải miết đi tìm những tháng ngày tuổi thơ hồn nhiên, trong trắng. Chợt nhớ về những kỷ niệm ngày thơ vô tình cùng bè bạn rủ nhau nhặt cánh hoa rơi. Đã có nhiều bạn bè yêu nhau trong mùa hoa bưởi ấy. Và mùa hoa bưởi lần ấy, ta đăng trình theo bước lý tưởng đi giữa lối quen với ngàn ngạt hương thơm hoa bưởi, mỗi lúc mỗi xa. Mùa hoa bưởi năm ấy với ngập tràn những ước nguyện về tương lai. Mùa hoa mà ta vẫn thầm mong đợi, mùa hoa quê mình. Giờ hoa bưởi lại về nơi đất trời xa.
Mưa đem về những dòng sữa tinh tuyền nuôi dường những cây bưởi đâm chồi nảy lộc, hoa bưởi trắng ngần trĩu trịt trên cành, trái kết nặng oằn, lá xanh tươi thắm. Tiếng gió lay cành bưởi xạc xào mang mùi thơm dịu mát cùng bao nỗi nhớ thuở ấu thơ. Hoa bưởi không rực rỡ, không ngào ngạt, nhẹ nhàng tinh khiết như người thôn nữ, bình dị tỏa hương. Giữa cuộc sống xuôi ngược vô thường, hay thay đổi, không ít người thèm lắm được trở về khu vườn quê, để lại được thấy mùa hoa bưởi về, để sống lại những kỷ niệm, để một lần nữa được ngửi cái “hương thầm” của bưởi và để bối rối….
Buổi sáng thức giấc, những tán cây đã kết đầy trái xanh căng mọng. Nắng xen qua kẻ lá vuốt ve từng trái bưởi ngọt lành thanh mát, nắng xuyên ô cửa ùa vào lòng những khoảng không vô định. Ta biết mình nhớ, biết mình yêu, tuổi thơ, ước mơ, tình cảm mưa hạ, gió thu với kỷ niệm đong đầy. Đi giữa những tán lá đang ôm ấp nâng niu những quả chín đong đưa, ta nhận ra những chân thành mộc mạc nhưng không hề kém cạnh giống như chính con người Thới Sơn này, đùm bọc chăm sóc vỗ về. Một vầng trời xanh trong đã đưa nắng về, không gian đã không còn lạnh.Và cành bưởi vẫn tựa dáng bên tường rêu giáo đường.
Màu nắng lấp lóa giữa sắc xanh của lá, của quả, của cành. Ánh nắng chan chứa góc vườn, lan tỏa ủ ướp không gian nhẹ nhàng đến nỗi như nâng niu cả những hạt sương đêm hay những hạt mưa còn lại đang bám trên tán lá.
Không gian xanh ngát sao mà hồn nhiên quá. Và thế là tôi yêu vườn bưởi bên hiên giáo đường. Giờ ngồi nghĩ lại, tôi thèm đêm đêm được hít hà cái hương vị Thới Sơn vùng đất ngọt
biết nhường nào. Tình yêu và những kỉ niệm thuở ấu thơ cùng mùa bưởi làm sống dậy cảm xúc rưng rưng. Một ngày dạo chơi láng giềng, đi qua mùa bưởi trĩu quả, cảm giác như bắt gặp những gì thân thuộc lắm nên cứ lóng ngóng ghi lại từng cảm xúc dào dạt như mưa chiều dịu êm. Thỉnh thoảng ta vẫn cười nhớ lại: ai đời lại lóng ngóng như đợi nhân tình bên vườn bưởi xanh vô tri? Kệ, khi đứng bên những tàn cây bưởi, ta biết mình đã yêu, yêu cù lao này da diết, như chính quê mẹ đã cưu mang ta vậy. Từ đó ta mới biết mình vẫn còn có một trái tim thịt máu với cảm xúc không dối gian. Chỉ có điều bưởi ở đây ít, chỉ là những gốc rời rạc hoặc cành nhỏ chứ không nhiều như vườn nhãn.
Ta yêu mùa hoa bưởi, yêu vườn bưởi là thế. Yêu cả cái cách nơi này dành những điều bất ngờ cho mình nữa. Cảm giác giữa đêm, bên cửa sổ, hương hoa bưởi thoang thoảng, vấn vương trên mái tóc ai ngày xưa lại trở về. À, ta sẽ lại rong chơi, sẽ lại mang hoa bưởi về khắp nhà, từ phòng khách cho tới phòng ngủ, vào cả trong tủ quần áo để mỗi lần mở tủ ta sẽ lại cười. Cứ giản dị vậy thôi, mùa bưởi vẫn cứ níu chân, vấn vương bao người...trong đó có cả Nguyễn Văn Thượng!
---
Một Kiếp Bụi Trần Mấy Bể Dâu...
Phạm Huỳnh Anh
Nếu cuộc sống là một quyển nhật ký dày vừa đủ cho đến ngày tất cả chúng ta hóa hư vô, thì tôi cam đoan những trang viết cho những cuộc đời thấm đẫm nước mắt, về số phận con người thấp yếu, đau khổ, tức tưởi những năm tháng cuộc đời sẽ chiếm số trang dày nhất của quyển sách đời Thượng Đế đã công tạo. Những con người khốn cùng, lẻ loi cô đơn, nghèo đói sống nương tựa lẫn nhau không đủ làm nên sức mạnh để thay đổi vận mệnh. Lực lượng nào đã dày ám những người sống dưới đáy xã hội, những người nghèo, những thân phận bất hạnh, cô đơn, những con người yếu thế để họ thất bại nhiều trong lúc nỗ lực chân chính vươn lên đấu tranh để bảo vệ sự sống, nhân phẩm và tình yêu thương chính đáng của mình của mình.
Ai cũng khẳng định được mình có trái tim đồng cảm với những mảnh đời bất hạnh. Khả năng là xã hội nào cũng có những lời hứa gắn bó với những con người chân chất, thiệt thòi, đau khổ, tứ cố vô thân, những con người dưới đáy xã hội nhưng thực tế lại thật trớ trêu. Trong cuộc sống đời thường, nhiều người được tiếp xúc với những cảnh đời bất hạnh rất dễ xúc động, dễ khóc nhưng để sẻ chia thì con số còn rất hữu hạn.
Khi viết lại câu chuyện này, tôi bật khóc khi nghĩ đến đời sống cực khổ của một kiếp con người lầm lũi, lam lũ và bất hạnh, khóc khi kể lại những khổ đau, oan trái trong một thân phận con người lắm nỗi truân chuyên giữa dòng đời khắc nghiệt, oan khiên... Hãy nghe tôi kể:
…Lần nữa chị lại khóc, khóc nấc lên như có bao nhiêu nỗi đau khổ vỡ òa hết bởi nhớ con trai. Làn khói trầm tháng 11 này sao nặng nề, ảm đạm thê lương. Từ nay, chị không còn chạm được vào tình thương duy nhất trên dương thế mà chị có được. Trách con tạo xoay vần khắc khe với một phụ nữ yếu đuối…Lần về thăm con này cũng là lần sau cuối chị nhìn thấy con mình qua đôi mắt của một linh hồn khổ đau sắp được lệnh rời xa không gian nhân thế vĩnh viễn không trở lại được nữa. Chị khóc, tiếng khóc câm lặng trong dòng đời của một linh hồn còn đau đáu niềm thương nhớ con…
Một năm trước…
Chiều mưa buồn lê thê, mưa mùa này sao dai dẳng, những cơn bão không mời mà đến liên miên, nhấn chìm những con phố, làm nghẹn ngào những cuộc đời mưu sinh trên đường phố. Có vài tiếng rao vọng lại yếu ớt từ con hẻm đối diện dãy nhà trọ sinh viên, tiếng trẻ con khóc, tiếng hai người đàn ông say rượu đốp chát nhau, tiếng khua của mưa trên những mái tôn hoẻn rỉ hòa vào tiếng côn trùng rả rích giữa xóm lao động nghèo bên trong lòng một đô thi sang trọng. Nó lọt thỏm, mất hút, lãng quên và đen đúa, nhớp nhúa. Nhưng nơi ấy, có sức sống âm thầm, có tình thương che chở nhau, có những nỗi bất hạnh đi liền với những tình tương thân tương ái, san sẻ.
Chị Hai đồng nát đã về, con đường vết rạn, bong tróc, nhiều ổ voi, ổ gà, mặt đường trũng xuống thành ao giữa đường của con phố này làm cho tiếng kêu ken két từ cái bàn đạp đã gãy một bên của chị càng nặng nề hơn. Chị vẫn đi về với chiếc xe đạp cũ kỹ mà chị nhặt được ở bãi rác ngoài ngoại ô. Mượn của bà Năm Thiểu. Trên trời mây xám trôi dồn cục như chuẩn bị “dội” xuống “đô thành thất thủ” đang chim f trong biển nước chưa rút kịp vì cơn mưa tối qua. Chị vui vẻ chào bà Tư béo bán chuối chiên đang dọn hàng chạy mưa. Cuộc sống của chị
đơn giản thôi, với bao lao lực và hi vọng, túi chị bây giờ đã có được vài ba chục ngàn tiền lời bán phế liệu. Vừa đạp xe, thỉnh thoảng chị lại sờ vào túi của chiếc áo bà ba ướt mồ hôi, ở đó có niềm vui, tình thương và hy vọng chỉ gọn trong vài tờ giấy bạc mệnh giá cùng khổ. Chẳng sao, nơi đó có tình yêu thương của chị là đủ.
Thành phố này đón rất nhiều người như chị đến sinh sống như một bà mẹ già có những thế hệ con. Tình thương và cơ hội của bà mẹ thành phố dường như không công bình để những phụ nữ như chị vật lộn trên mười năm mà vẫn trắng tay và đi về với chiếc xe đạp cót két như sản phẩm sau cùng của công nghệ gần hai ba thế kỷ trước.
Cuộc đời những người giàu có thì tiền của được gắn vào những con số không ở phía sau tăng dần từng ngày, người nghèo cũng vậy nhưng khổ nỗi những con số không “nghịch ngợm” lại chạy đừng trước những con số khác. Đời chị có những con số không ấy: không chồng, không thân thuộc, không nghề nghiệp, không học vấn và nhiều con số không nữa tăng theo từng tuổi đời. Cái “có” duy nhất trên đời mang lại niềm an ủi lớn cho chị là một đứa con 6 tuổi.
Nửa tháng nay, mưa dầm, cả con phố nghèo này thiên hạ thi nhau mắc bệnh thời tiết. Mà mẹ con chị có bao giờ được ăn no, có bao giờ đủ tiền chạy thuốc nên thể tạng suy nhược khó chịu đựng trước những cơn mưa dầm. Làm ra được đồng nào là lại ngấm hết cả vào thuốc men. Trong xóm trọ nghèo để mượn tiền thuốc thang là khó khăn vô cùng, ai cũng nghèo thì khả năng giúp nhau cũng chỉ chừng mực, cơm nước qua ngày được đã là phước đức. Mẹ con chị được lối xóm giúp đỡ nhiệt tình, nhưng rồi sau vài chén cơm, miếng cháo loãng ban đầu rồi họ cũng phải bỏ rơi mẹ con chị. Cuộc sống của họ cũng nhiều vất vả khó lòng cưu mang nỗi mẹ con chị dù lòng rất xót, rất thương. Họ lực bất tòng tâm. Xóm trọ nghèo bên sông Sài Gòn như một thước phim buồn liên miên.
---
Hai ngày mưa, cơn ho hành hạ chị, chiều nay lại sốt cao không đi lại được để tìm kiếm nguồn sống nhờ việc bới tìm phế liệu trong các thùng rác công cộng những ngày nắng. Bà lão bán vé số kế bên cám cảnh mẹ con chị, giúp cho họ được vài hớp cháo loãng đỡ dạ nhưng cũng không giúp mãi được với số tiền còm cõi có được từ những xấp vé số tất tả ngược xuôi trên đường phố của một bà già trên 70. Cuộc sống sao trái khoáy, những tình người chân chất lại cứ ham mê chạy tìm những kẻ nghèo, người già và những đứa trẻ thơ hơn là một phần sung túc còn lại của đời…
Cơn mưa đêm qua cũng dứt từ lâu, chị đứng dậy. À mà phải tự đứng dậy thôi chứ chẳng lẽ phải nằm mãi thì lấy gì nuôi đứa bé. Chiếc xe đạp già cỗi đang đợi chị “thúc mã” lên đường mưu sinh. Sau mấy cơn mưa nặng, mùi xú uế từ những thùng rác đầy nước mưa xông lên sặc sụa. Mặc kệ, chị vẫn gồng mình chịu đựng mùi ghe tởm ấy để tìm sự sống cho mình và cho con. Những thùng rác cũng không đến nỗi bạc đãi, cuối cùng, chị cũng có tiền độ nhật. Chị sẽ mua đùi gà chiên cho con, tội nghiệp thằng nhỏ chưa bao giờ được ăn. Nghĩ về số tiền và gương mặt hớn hở của con trai bé nhỏ, chị quệt mồ hôi và lại đạp xe cót két trên đường nhưng với nhịp nhanh hơn và vui tươi hơn…
---
Tiếng ken két của chiếc xe đạp lướt qua những vũng nước mưa nhẹ tênh. Chị chẳng thấy đói gì cả. Dù lúc trưa chỉ uống nước, và ăn mớ xôi hôm qua mà chủ trọ cúng thần tài thổ địa cho chị.
Trên sạp thịt còn ướt nước mưa lẫn mùi mỡ heo nhớp nháp, có một ông già co ro, run lẩy bẩy. Chị ngừng xe:
- Ủa, Ông Bảy, trời đất ơi, sao thế này. Ông đi đâu hổm rày vậy. Ông có sao hông? - Đói quá, tao đói quá bây ơi. Kiếm gì cho tao ăn chút đi…- Ông Bảy “xe đạp” hồi trước ở cùng xóm trọ. Ổng có thằng con trai bị tâm thần bỏ đi từ lâu. Không biết ai báo tin nó đang ngủ bờ ở Chợ Lớn. Thế mà giờ thì ông đang thoi thóp trên tấm ván đầy mỡ heo chợ sáng
này.
- Ờ, ờ ông đợi tui cái. Tui chạy u đi mua cho ông ổ bánh mỳ nghen. - Chị chạy vào tiệm tạp hóa gần đó. Mua cho già bảy một bịch sữa, một ổ bánh mỳ. Có bao nhiêu đâu, chỉ hết 10 ngàn, chị nhẫm tính rồi. Còn 40 ngàn mà lo gì. Ông già đói chẳng lẽ mình bỏ đi, trước đây bác tốt với mình.....
- À, kìa. Gặp rồi đa nghen con kia! Bây nói tao là không có tiền trả mà đi mua đồ sang heng. Bánh mỳ và sữa nữa. – Bà Năm Thiểu bước xuống xe honda túm lấy túi áo chị. - Tao không tự lấy thì chắc kiếp sau mày trả quá, đưa đây, có bao nhiêu đưa hết đây, 1 đồng tao cũng lấy - . Khổ đời, chỉ có 2 tờ 2 chục ngàn cũ xì trên tay chị. Chị giằng lại.
- Bà Năm, con xin bà thương. Con của con đang sốt....
Bà chủ nợ béo quá, chị thì gầy quá. Tay chị lại ướt nữa, 2 tờ tiền cứ thế tuột ra. Chị cứ đứng đờ người ra đó mà chẳng biết làm gì, khuôn mặt chị méo xệch không còn đủ chỗ cho nỗi thất vọng nữa rồi. Và chủ nợ thất nhân cũng đã mất hút đầu hẻm. Mà không quên cảnh cáo chị và chỉ thằng nhỏ đi theo: “ nó còn thiếu tao bốn trăm bảy. Cho nó một tuần, tao sẽ đến hỏi chuyện. Không có, mày lấy luôn chiếc xe đạp của nó cho tao...
Chị tê buốt hết cả người. Đứng đó trong nỗi đau. Trời nắng nhẹ mà toàn thân chị nóng ran. Con trai chị. Nó đang nằm đó, nó ngoái cổ nghiêng tai để nghe tiếng xe của mẹ nó về. Nó nghĩ đến cái đùi gà, nghĩ đến mẹ nó, nghĩ đến những ý nghĩ nhỏ bé về cuộc đời bé nhỏ của nó. Chị nghĩ thế, trong đầu chị ngập đầy hình ảnh con trai. Chị toan bước đi thì dẫm lên bịch sữa hồi nãy chị và bà béo giằng co nhau làm rơi.
Hay là chị mang bịch sữa và bánh mỳ về cho con trai. Còn ông bảy có là gì của mình đâu, đúng rồi, cuộc đời mà. Cái gì từ máu từ thịt mình thì mình mới đau, phải không. Phải, chẳng có gì lớn hơn được tình mẹ con cả. Cũng như mấy ngày trước, chị cố lê lết ra phố chợ này thiếu nợ. Mà...có được đâu. Làm sao mà được. Đừng hòng che đậy, đừng hòng rủ rê, lôi kéo chị - những thứ tình cảm xa vời nhợt nhạt và hời hợt kia. Chị gạt nước mắt. Bước đi. Chị ôm khư khư bịch bánh và sữa, hít thật sâu, hai mắt chị căng ra để đón sự vô cảm ùa vào. Chị đi về phía ông già co ro. Không được. Phải mang về cho con.
- Đói.....sao mà lâu về thế cô ơi, cô bỏ tôi luôn sao, ai cũng bỏ thằng già này luôn sao -. Ông già vừa nằm vừa rên rỉ y như đâm dao vào lòng chị vậy.
“Đời này biết mấy ai thân…” tiếng hát Jimmy Nguyễn từ chiếc máy hát nhà lầu có giậu tường vi cao cao vọng xuống.
Chị nhìn ông bảy, đặt ổ bánh mỳ và bịch sửa vào tay ông rồi khóc, rồi bỏ chạy. Chị không biết mình chạy vì cái gì. Trời vẫn lùn phùn mưa. Mà đời đâu có đau lùn phùn vào lúc này nữa.
Ôi chao ôi ! Tình thương đối với chị sao mà nó xa xỉ quá thế này, xa xỉ như những tờ tiền polyme giá thấp của người nghèo mới ban nảy mà chị cầm trong tay… Chị không biết tại sao mình lại đứng tần ngần trước quán gà nướng từ khi nào. Mà cũng đúng thôi. Vấn đề lớn nhất của chị bây giờ không phải là đói khổ, là cơ cực, là lẻ loi, bạc bẽo ở đời sống này. Mà là niềm trông ngóng của thằng con trai chị. Nó là tất cả...là tất cả... - Chị bán cho em một…
- À... hôm nay có tiền ăn đùi gà rồi hả? Cấm nợ nghe chưa....đầu tháng không nợ nọt gì đâu nga….
- Chị yên t....tâm đi, lấy cái nào to nhất ấy... - Chị dấu nét tội nghiệp, khắc khổ, cái sầu sầu trong mắt lúc trước thật tài. Điều gì khiến chị cố gắng đến mức đó, ngoài tình mẫu tử đây. - Ờ...cái con kia, tiền tao đâu, à...á...ăn cướp hả....bớ người ta, ăn cướp...ăn cướp....Chó má...mày đứng lại cho tao…
Chị chạy, hình như với chị chỉ có chạy mới thoát khỏi mớ khổ đời.
Chị nghĩ rồi, bà Tư béo bán chỉ có một mình, mà lại già cả nữa chắc chẳng đuổi theo chị đâu. Với lại bà ta cũng tốt bụng. Nhưng mà chị chạy ở phố chợ này thì như chạy vào đường
cụt, vì ai chả biết chị. Có lẽ chị đã mụ mị mất rồi. Lần đầu tiên đi làm cái việc mà thiên hạ gọi là ăn cướp. Chị mụ mị rồi, không bàn cãi nữa.Có những lúc con người ta tự cho mình mụ mị, vì họ đã lỡ bước chân lên con đường cụt, mà mắt họ chẳng nhìn thấy một lối ra nào hết cả. Thật thương thay, thương thay cho chị.
Không ai đuổi theo. Chị vẫn cầm khư khư đùi gà, vừa ngoái đầu lại vừa chạy. Chị chạy rất nhanh. Giá mà cuộc đời cứ chạy như thế, sẽ thoát được đói khổ cơ cực thì có phải hay không. Nhưng không thể. Cuộc đời đâu chỉ chạy là thoát, là rời xa được đâu.
Chị chạy ở mé đường, chạy rất nhanh, trên những nắp cống cũ kỹ. Có một cái nắp đã bị ai đó dỡ lên. Chị không nhìn thấy, chân chị lọt thõm xuống đó. “Bụp”- đầu chị va vào nắp cống. Cả thân hình chị như cái bóng bay dài của đám trẻ bị xì hơi. “á... Người ta chỉ nghe có thế. Rồi người ta thấy máu me tràn ra tan vào cả vũng nước tù đọng nơi cái mương nhỏ của của góc chợ tồi tàn.
Đám dân nhậu ở cái quán rẻ tiền bỏ bàn đứng dậy, chạy ra...
***
Bà lão bán vé số xô cửa bước vào, thằng bé đang sốt quấn chiếc mền cũ kỹ nhàu nát… - Bà Năm, sao má con lâu về vậy, ôi đùi gà ngon quá đi mất. Năm ăn một miếng đi này. ...Khiếp, má cho con tới 50 ngàn cơ đấy. Mà Năm gặp má con ở đâu, làm gì mà làm hoài, con không cần nhiều thế này đâu, con cần má ở đây à. .....Ngày mai nè, con khỏe, con sẽ dùng 50 ngàn này mua cho má một tô vằn thắn to thiệt là to....he he con mua cho Năm nữa chứ... - Thằng nhỏ con chị, vừa nhai đùi gà vừa thủ thỉ với bà Năm vé số.
Bốn giờ sáng, bà mới kịp mang cái đùi gà và 50 ngàn qua cho thằng nhỏ: - Nè Tý, quà của má mày nè, bả chưa về, đang đi mớ hàng mấy ngày lận, của một công ty giải thể tận Bình Chánh đó con. Mày biết Bình Hưng Hòa ở đâu không? - Ý nghĩ của bà đứt quảng....hình như bà muốn khóc.
- Ăn đi con, ăn đi… cho má con vui nghen con. Ăn đi còn nhanh lớn nữa. Nhanh lớn nữa mày hiểu không?
Căn phòng xập xệ, ánh điện cũng xập xệ, đôi mắt ngái ngủ của thằng nhỏ không thể nhìn thấy được đôi mắt bà Năm già đang long lanh nước mắt, lòng bà đang quặn đau..... ***
Chị trở về. Người chị nhức mỏi ghê gớm. Trời sáng sớm, phố nghèo đã lục đục âm thanh. Đó là cái âm thanh “đi trước giấc cuộc đời và đi sau tiếng còi xe cuối cùng của đêm” để kiếm miếng cơm. Chú Tư xe ôm, bà Ba đồng nát, Bà Khiêm hủ tiếu.....nhiều lắm. Mới có 4 giờ sáng họ đã lục đục dậy chuẩn bị, thế mà vui, thế mà họ và chị đã sống qua bao năm tháng như một điệp khúc đời người. Mà điệp khúc thì cứ lặp đi lặp lại, chứ có gì khác đâu.
Chẳng ai thấy chị, chị cũng chẳng chào ai. Chỉ lo đi nhanh để về với thằng nhỏ.Tay chị vẫn cầm khư khu chiếc đùi gà đã nhuốm máu, ăn nhằm gì, về chị rửa lại, chị luộc lại. Rồi sang lão chủ nhà trọ năn nỉ lão một ít mỡ hành về xối lên. Thằng bé chẳng lại quíu cả miệng lại ấy chứ.
Có tiếng ru từ trong nhà vọng ra, đó là tiếng bà Năm già. Chị mừng quá, chị đẩy cửa bước vào:
- Bác Năm, con biết là bác sẽ trông thằng nhỏ mà... - Chị dừng lại. Kìa, sao chị nói mà bà Năm chẳng hề để ý. Hay bà giận chị....
- Bác Năm…Trời ơi…sao thế này - Chị không thể chạm vào bà Năm nữa. Không thể chạm vào đứa nhỏ nữa.
- Không…! - Chị hét lên, nhưng chẳng tới đươc cái thế giới của cuộc đời quen thuộc này nữa rồi. Thằng con chị gối đầu lên đùi bà Năm ngủ ngon lành. Miệng nó vẫn còn bóng loáng màu mỡ, tay vẫn cầm khư khư tờ năm mươi ngàn. Thỉnh thoảng nó ú ớ “50 ngàn của má con nè”.
***
Ở ngoài kia, một góc của xóm trọ tồi tàn này. Tiếng sụt sùi, tiếng thủ thỉ to nhỏ, tiếng đóng cộp cộp của búa đinh. Quan tài chị đã được đóng kỹ lại ở bãi bồi của mé sông. Người ta không thể đưa chị vào căn trọ tồi tàn ấy được. Đó là nhà trọ của người ta. Ai cho chị được quàn. Tội nghiệp thằng con chị quá nhỏ. Trời mờ sương rạng sáng bên sông. Xóm ngèo buồn một nỗi buồn liêu tịch…
Hai ngày sau, thằng nhỏ con chị được chồng bà Tư béo cõng trên vai đi ra khỏi xóm trọ nghèo ấy. Bà Tư béo đi bên cạnh, một tai xách túi đồ của thằng nhỏ, một tay vỗ vỗ lên lưng nó :
- Đừng khóc con trai, đã có ba mẹ đây rồi. - Ông bà Tư sống gần hết đời người. Cũng có phúc đức, mà không biết sao chẳng có con....
Những con người trong xóm nhỏ ấy thở dài đón yên bình trở lại. Có người gạt nước mắt mừng thầm cho số kiếp của thằng nhỏ ít nhiều đã đổi thay.
Còn chị, chị lại bắt đầu một cuộc chạy trốn nữa rồi.
***
Có thể bạn cho rằng đây là câu chuyện hư cấu. Cũng được thôi. Hư cấu đấy, nhưng tôi cứ bị ảm ánh mãi bởi hình ảnh những người phụ nữ tảo tần khốn khổ có thực giữa cuộc đời. Những trang viết ngắn ngủi này thay cho những nén hương xin thắp lên bàn thờ của những kiếp đời đau khổ đã đi qua hồng trần. Tôi cố cầu mong điều tha thứ cho xã hội đã thiếu những cánh tay vươn tới người đang khốn ấy, để cho họ níu lấy như tia hy vọng vươn lên cho xứng nhân phẩm làm người, xứng với sự tảo tần, và con tim hiền lương chân chất và cầu xin phép nhiệm màu đến với những người đang sống trong những nỗi cơ cực gần giống như thế.
Không biết tôi sợ cái nghèo vì đói cơm hay vì chiếc áo rách của họ hay sợ cho cái nghèo làm nên những bế tắc đến đến cùng cực đoạn trường như người mẹ khổ đau trong câu chuyện của tôi. Nỗi đau ấy sẽ chẳng bao giờ nguôi ngoai, nhưng biết làm sao khi cùng lúc có rất nhiều mảnh đời đang kêu cứu mà được bao người chịu lắng nghe vì chẳng ai có thể thấu hiểu nỗi khổ của ai cả! Chúng ta chỉ có thể nhìn nhận, ghi nhận, phản ảnh, còn những chia sẻ thực tế thì sao? Vậy thì kể khổ có ích gì?
+++
Tôi Yêu Những Gì Đến Tự Nhiên...(*)
Phạm Huỳnh Anh
Hoa tươi muôn sắc là tuyệt phẩm của Tạo Hóa. Vì, đâu chỉ những dãy núi hùng vĩ, những cánh rừng nguyên sinh cổ thụ nghìn năm kỳ bí, hay những động đá vôi thạch nhũ tráng lệ kỳ ảo mới xứng với tên gọi kỳ quan. Làm sao người bình thường như tại hạ có chiếc vé máy bay hàng chục triệu để đi Phú Sĩ Sơn ngắm tuyết rơi từ đỉnh cao hàng nghìn mét để trầm trồ, hay đến rừng Amazon ướt mưa để làm chuyến phiêu lưu, hay bay ra tận Phong Nha – Kẻ Bàng để chụp ảnh selfie? Nét đẹp có rất nhiều chung quanh, rất gần với cuộc đời đó chứ, chẳng hạn: triệu triệu bông lúa vàng trĩu hạt rung rinh trong gió chiều hanh nắng, hay hình bóng người nông dân cày bừa in đậm dưới trời quê yên ả, và lại nữa ánh nắng sớm xuyên qua kẻ lá làm long lanh những hạt sương sớm, rồi cơn mưa bất chợt trắng xóa góc trời, dòng nước trong xanh cá tung tăng bơi lội, mảng trời xanh chim hót vang lừng…
Tất cả mọi nét đẹp đều ẩn tàng sức sống sâu lắng. Chính sức sống lan tỏa nét đẹp và tôn tạo tài tình cho những thực thể ấy để chúng kiêu sa với hồng trần để rồi sớm hay muộn cũng sẽ hóa hư vô. Nét đẹp nửa thực, nửa mơ hồ giữa đời sân hận tham ái mà vẫn tha thiết và trong sáng đến kỳ thú. Mỗi sinh vật, cảnh vật, thể vật và hiện vật tồn tại trong cuộc sống đều có khả năng thổi vào hồn nhân sinh hơi thở cuộc sống để nhân sinh sẽ gắn chặt tâm hồn mình với thiên nhiên và yêu lấy những sinh thể và hữu thể tế vi hay hùng vĩ có trong đời. Thiên nhiên đẹp nhưng cũng mang nhiều tương phản đôi khi xâm thực và trấn áp nhau cho mỗi bước đi lên của chúng, đi mãi đến hư vô với một nỗi khắc khoải: đến tận cùng cái đẹp.
Thiên nhiên hào phóng dạy cho nhân sinh cách yêu đời, khơi động tình yêu, vun trồng cuộc sống. Nét đẹp mỗi ngày đem lại âm hưởng cho tâm hồn nhân loại giữa cuộc sống gian khổ tạo nét cười, niềm vui trong hy sinh, âm thầm yêu thương và phụng sự. Niềm vui vừa ngời chói, vừa trong sáng lạ lùng là niềm vui trong sự cố gắng vươn lên mỗi sớm mai. Vươn lên trời hồng bất tận.
Vẻ đẹp của thiên nhiên, vẻ đẹp của lòng người quyện vào nhau đằm thắm điểm phóng lên không gian và thời gian một sức sống vừa dễ dàng, vừa rạo rực, mãnh liệt. Con người yêu sự sống sẽ biết quý vô cùng những giọt mồ hôi mình đổ ra để chắt chiu xây dựng cuộc sống, biết quý từng hơi thở trong lành, biết trân trọng cảm xúc trong từng nhịp đập con tim. Tình yêu thâm trầm vượt thắng tất cả khổ ải phiền lụy hay cơn bĩ cực vất vả hàng ngày để liên đới triệu con tim lại thành một khối thương yêu đùm bọc lẫn nhau như thiên nhiên cạnh tranh trong tương hỗ cân bằng chứ không cạnh tranh diệt tuyệt thiên lệch và khủng bố. Tình thương là một nét đẹp gìn giữ cội nguồn của sức sống cho con người. Tình thương giản dị nhưng mang sức mạnh vô cùng.
Nếu thế giới có đầy tình yêu, lòng nhân từ, thái độ thành thực, sự kiên nhẫn và niềm tin, sẽ có thêm sức mạnh để chiến thắng, hay ít nhất là tự gục ngã, diệt thân trước những cuộc chiến tứ phương.
Tôi rung động sâu xa trước những tác phẩm nghệ thuật thiên nhiên tuyệt vời qua một bông hoa bé xíu từ khóm cây dại bên đường bê tông đầy bụi khói. Tôi xúc động rưng rưng và tạ ơn Tạo Hóa về vẻ đẹp của bông hoa, mặc dù tôi chỉ có thể phác họa hoặc miêu tả lại vẻ đẹp ấy một cách rất hạn chế bằng vài kiểu ảnh nghiệp dư, vụn về của mình. Nhưng nếu
không cố cảm nhận trọn vẹn vẻ đẹp ấy, thì vẻ đẹp của bông hoa cuộc sống đời thường cũng chẳng thể nhận ra. Chỉ có một số rất ít nghệ sĩ tài hoa, kiên nhẫn mới có đủ tài năng để miêu tả lại phần nào vẻ đẹp ấy trong các tác phẩm của họ. Nhưng bất cứ ai cũng có thể tiếp xúc và cảm nhận bằng đời sống mình qua vẻ đẹp ấy.
Chúng ta quay cuồng trong cuộc sống bận rộn, lo toan, tính toán đến mức không có khoảng thời gian nào dành cho một bông hoa, càng không có thời gian nào tiếp xúc chiều sâu cùng cuộc sống. Trải qua bao nhiêu năm trong cuộc đời nhưng có khi chưa một lần ai đó thảnh thơi tiếp xúc cùng cuộc sống. Ta chỉ bắt đầu tiếp xúc cùng cuộc sống khi nào ta chịu dừng lại và buông bỏ tất cả quán tính của thói quen suy nghĩ theo định hướng dư luận và lợi nhuận.
Khi tiếp xúc chân thành cùng cuộc sống, ta nhìn thấy sự vật với chiều sâu và bản chất của nó. Ta thấy dòng sông không chỉ là dòng sông, mà còn là sự luân lưu mầu nhiệm của sức sống tiềm ẩn, vô số sinh vật phù du và chủng loài thủy tộc; rồi thấy hơi nước bốc lên không trung, đọng thành những đám mây mát mẻ, và đổ xuống thành những cơn mưa đem sức sống tràn trề cho mọi sinh thể.
Tiếp xúc thật sự với đời sống, ta mới tận được cuộc sống để chấp nhận và yêu mến cả những nghịch cảnh hay đối nhân trong đời thường với ý thức đó là nhưungx bài học cho tâm hồn. Cuộc sống không chỉ là sự tác động tồn tại mà còn là sự tham gia tích cực với một tiến trình chuyển hóa từ bất toàn đến tất toàn…
Mỗi ngày là một mắt xích hữu tình trong chuỗi tiếp nối nhiệm mầu của cuộc sống. Ngày đêm liên tục diễn ra, bất kể ta có nhận thức được điều đó hay không. Những tinh cầu xa xôi vẫn đi đúng quỹ đạo của mình, cho dù viễn vọng kính của con người có nhìn thấy chúng hay không. Loài hoa bé tí xíu vẫn tồn tại và tỏa sắc cho ong bướm lượn quanh dù ống kính có nhòm tới hay liếc mắt ghi ảnh hay không. Tồn tại để yêu mến chứ không phải tồn tại để kiêu căng, đối nghịch và hãnh tiến.
Tiếp xúc thật sự với đời sống qua những sinh linh bé nhỏ có khi như vô hình, ta thấy lòng mình rộng mở hơn. Ta cũng thấy mình sống có trách nhiệm hơn vì sự sống là phương châm chiến đấu và bảo vệ của vũ trụ. Rồi ta sẽ thấy không chỉ những nét hoa mỹ, những biểu tượng thành công, giàu sang, khỏe mạnh kỳ vĩ mới là tiêu biểu cho nét đẹp trong cuộc sống. Ngay cả những gì bé nhỏ, bên lề, không đẹp lung linh, hay những cảnh đời khó khăn, nghèo khổ, tội lỗi cũng là những yếu tố của cuộc sống, và đều liên quan chặt chẽ đến ta.
Cây cỏ, hoa lá, sinh thể dù nhỏ nhất cũng khơi dậy ý thức xây dựng một đời sống đẹp để hòa nhập và thương yêu chia sẻ cùng tất cả. Chiêm ngưỡng vẻ đẹp đời thường để lựa chọn lấy những gì tốt đẹp để tôn thờ, theo đuổi. Sẽ có nhiều niềm vui và hạnh phúc hơn khi ý thức được rằng chính bản thân mình đang góp phần làm đẹp hơn cho cuộc sống.
---
(*) Trích bài hát: “Và Tôi Cũng Yêu Em”, tác giả Đức Huy.
Viết từ Cù Lao Thới Sơn
Ngày 13/9/2016
Ngoài Hiên Giọt Mưa Thu Thánh Thót Rơi...
Phạm Huỳnh Anh
Bầu trời Thới Sơn vào thu vút lên cao, xanh thẳm, đẹp đến mê hồn. Cơn mưa ở cuối mùa hạ vẫn luyến lưu sắc thu nấn ná đợi chờ và tung chiếc áo trắng muốt ve vãn tán lá vàng đang nhợt nhạt nhớ thương cội, chẳng buồn đợi nắng cuối. Kìa, vài giọt nước còn ướt lại đu đưa trên tán lá của khóm trúc cuối hàng hiên. Ánh nắng chiếu vào khiến chúng đẹp lung linh huyền ảo. Chú nhện cuộn tròn dưới đáy lưới ngủ say. Bức tranh thu Thới Sơn của ta đẹp như khung cảnh thần tiên. Dưới dòng sông, ghe thuyền mỗi lúc đông đúc dần lên. Tiếng xe rào rào lướt trên cầu Rạch Miễu như đoàn hùng binh ra đi giữa tiếng gáy chào của những chú chim cúc cu buổi sáng.
Giọt cà phê thủng thẳng rơi xuống đáy ly thấm ngọt nơi góc quán yên bình. Sợi nắng mai hồn nhiên xuyên kẻ lá rót vào ly cà phê sóng sánh mê hồn. Trời Thu dẫn ta vào những câu chuyện ngây ngô trẻ nít.
Tẻ nhạt lắm nếu mùa thu không về cho ta chút se lạnh dỗi hờn của một kiếp cô đơn mộc mạc của tuổi lưng chừng cuối thanh xuân.
Thới Sơn mấy hôm nay thời tiết đã biến chuyển đổi thay, mưa nhiều và con nước đã dâng đầy trên bến. Mới buổi sáng mà mưa đã cuộn về những mảnh mây nặng. Cuối cùng khi giọt hạ cuối thương thương đã thấm vào đất mẹ, ánh nắng rực rỡ lại về trên những luống nhãn dài hun hút. Những màn sương khoác kín lãng đãng trên lối về thênh thang như xứ Tràm Chim đã không còn thấy nữa khi thu về với chút lạnh não lòng. Một chút gió heo may đung đưa cành khô khẳng khiu trơ mây đủ cho lòng ta chùng xuống. Nhớ Đồng Tháp, những sợi sương khói xây thành cũng đủ cho lòng nhau se sắt đón thu sang. Nhớ khói đốt đồng như dải lụa của nữ tiên sa nối nàng thu và chiếc áo nâu đất mẹ.
Mùa thu Thới Sơn, thời tiết viết lên khung trời và cả không gian khúc lãng mạn trữ tình thơ mộng. Ánh sáng hắt lên mái giáo đường đã tạo nên cảm xúc khi tiếng chuông ngân lên xua tan phiền muộn kiếp nhân sinh. Thu trầm ngâm bên dòng nước Tiền Giang, luồng qua buồng phổi cư dân Thới Sơn, sức sống ấy thâm hậu, kỳ tuyệt cao khiết biết dường nào.
Đêm nay trăng thu hiền lành phả hơi thở thanh xuân độ viên nguyệt, gió khua động cây vú sữa khêu chút cảm khoái lên ngôi nhà, tiếng quạ kêu, hơi lạnh đầy trời, hàng dừa nước bên sông, ngọn lửa thuyền chài hắt hiu, chiều muộn tiếng chuông nhà thờ ngân nga làm rung động sóng nước.
Mùa thu đã thực sự vực dậy trong tiềm thức chúng ta những kỷ niệm êm đềm của một thời tuổi trẻ. Những không gian thời gian tịch liêu. Tháng ngày đời đã rêu phong chưa khi thu về mang theo những án mây tim tím. Mùa thu như tiếng đàn lục huyền cầm của tiền kiếp nỉ non khúc u trầm trên những lối văng thênh thang mà dòng đời vẫn xin có nhau. Những tảng đá rong rêu thẩm xanh trầm mặc dưới chân tượng ướt đẫm sau mưa. Những hàng cây tĩnh tâm khoác áo mới cho một mùa thu vàng khiêm nhường đầy nội tâm.
Mùa Thu trên chiếc thuyền Thới Sơn “tiểu đảo” không có những ngọn đỉnh gió hú hoang tịch ngàn năm như thiên sơn. Trong cuộc hiện hữu với bao nhiêu thăng trầm theo mệnh số, chúng ta đã bao nhiêu lần gọi thu về đuổi nắng chói chang đi. Những buổi chiều thu đẫm ướt nỗi buồn vơ vẩn, cám dỗ ta bằng nỗi quạnh hiu, bằng những chiếc lá vàng rơi trên lối về lẻ loi như cánh hạc xa bầy gọi bạn nao nao như còn văng vẳng bên tai.
Nơi đây xa tất cả những gì thân thương nhất với ta trên 34 năm mà trời thu Thới Sơn vẫn đủ sức tạo nên những cảnh trí thật mơ màng quyến rũ, man mác thơ mộng. Trên trời mây lang thang, ta lại mơ màng nhìn về quá khứ sương khói lãng đãng giăng khắp làng quê xưa, mọi thứ đã thoáng hiện não nề như nỗi niềm thu bi thiết của kẻ tha hương…
Từ khi tuổi vừa chớm yêu đương, ta đã có những nỗi buồn vu vơ khi tiết trời se sắt lạnh, lá vàng rơi trên lối đi về, dưới những cánh khói đồng chiều. Có kẻ bảo ta vốn đa cảm nên trí tưởng tượng phong phú, tuy nhiên, ta muốn diễn tả giản dị, đơn sơ nét thơ mộng trời thu mà vẫn lắng nghe những lời than thở của tâm trạng não nề hoài niệm cố hương mỗi độ thu sang…
Tất cả vật chất hiện hữu trong thế gian này sẽ hủy hoại qua thời gian, hủy hoại di tích ký ức. Chỉ có tình yêu chân thành mới mong có hy vọng gởi gắm ít nhiều khổ đau miên viễn cho một miền ảo hóa linh thiêng trường tồn. Ta không đào sâu trong huyệt mộ dĩ vãng, để tìm lại bóng hình yêu dấu của bức họa thu sầu, ta chỉ viết lên như dòng Cửu Long, mong những tâm sự sẽ chảy đi nuôi sống tâm hồn để còn thiết tha yêu cuộc sống giữa thu vàng mấy độ lá khô mục nát dưới chân cội đời.
Bốn bề Thới Sơn hoàng hôn bát ngát buồn hiu hắt, những cành khô khẳng khiu in trên nền trời trắng đục chẳng khác nào bức tranh thủy mạc của thiên nhiên quá tuyệt vời. Ta ngạc nhiên thấy mình đã thẩm thấu trong tâm hồn tình yêu Thới Sơn tự bao giờ.
Trong thế giới đầy mê hoặc của vật chất phù phiếm, Tạo Hóa đã tạo nên sắc thu buồn kỳ ảo thần tình làm nhân thế mênh mông tâm sự. Mùa thu cũng đã khiêm nhượng xuất hiện bàng bạc trong tâm hồn những kẻ biết tương tư…
Bước vào cái không khí đầy ảo giác mơ hồ, trữ tình màu thu vàng, ta thấy mình rộn rạng và bâng khuâng nửa thực nửa siêu hình. Tình yêu hiển lộng trùm phủ kín linh hồn và thiêng hóa cảnh thiên nhiên tuyệt vời của mùa thu kiều diễm.
Đến lúc mùa thu được chiêm niệm sâu xa hơn, vượt thoát ra khỏi những trăn trở khổ đau của định mệnh. Tình yêu mới đích thực làm cho hồn thu rộng lớn thăng hoa, giao hòa đất trời và nhân sinh. Thu buồn bâng khuâng nhưng lại ban tặng những giây phút hạnh phúc, độ lượng như muốn đề cao cái đẹp vĩnh cửu của tâm hồn.
Giữa cảnh trí tiêu điều mùa thu, ta giữ được tâm bình lặng, đã thẩm thấu triết lý sâu sắc của mùa thu.
Đêm thu gần tàn, ta nhìn lên bầu trời lấp lánh hàng muôn triệu vì sao, quan chiêm những thiên hà xinh đẹp thơ mộng, xa cách mà vẫn giữ ánh sáng nhân từ xuống kiếp nhân gian. Cứ mỗi năm, khi bước chân trẻ thơ rộn rã trên đường đến lớp học hay reo vui với nhịp trống múa lân giữa muôn sắc màu lộng lẫy, của những chiếc lồng đèn thắp sáng mừng đón Tiết Trung Thu, tâm hồn người tha hương cũng xao xuyến bâng khuâng, tưởng nhớ đến những chuỗi ngày thơ ấu trên làng quê Tân Quới thanh bình thuần hậu. Con đường quen thuộc giờ đã chìm dưới sông sâu, con đường ấy, buổi sáng đi qua, buổi chiều trở lại như nhịp đập buồn bã của trái tim người cô lữ nơi nghìn dặm quê người. Giữa những hàng cây thay lá của Thới Sơn ròng rã, miệt mài, thầm lặng. Cũng như sáng hôm nay, ta khám phá mùa thu đã hiên ngang trở về, thong thả, bình an theo mây trời hạ xuống nhân gian, từng bước lụa là êm ả đầy quyến rũ trữ tình. Lòng ta cũng rạo rực yêu với thu. Mùa Thu trên Thới Sơn sao dễ thương quá như thuở hồn nhiên và trong sáng như hoa cỏ trong khu vườn dấu yêu, nơi một góc trời Tân Quới hay trời Tràm Chim đầy thơ mộng. Mùa thu vẫn không bội phản từ trong tâm thức thủy chung với nỗi hoài niệm đất trời nơi xưa ta từng quyến luyến thân thương và cả trời nay khi Thới Sơn dung dị hiền hòa ôm ấp ta như người mẹ nhân từ.
Thới Sơn Mùa Thu 2016
Tiễn Mưa Về Trên Phố...
Trái tim cũng như một cánh đồng, Sâu thẳm và mênh mông... ***
Nét Xưa 8:00 p.m
Phạm Huỳnh Anh
Vẫn là sảnh chính bàn số 4. Một nơi tuyệt vời như được sinh ra dành riêng cho những người yêu sự yên tĩnh, hay lãng mạn cho những kẻ quá già cỗi để biết thế nào là hò hẹn yêu đương. Gã ngồi đó, ly café hờ hững buông những sợi khói ve vuốt khứu giác không làm cho gã quên rằng mình đang chờ đợi người không đến nữa…
***
Thành phố ven sông này cũng ẩm ướt trong những ngày mưa tầm tã cuối tháng Sáu. Từng nhánh dương xỉ mảnh mai từ từ mạnh mẽ vươn lên bám lấy những mảng tường xanh của thế kỉ trước. Ngôi nhà cổ xưa được trùng tu từng phần làm lại thành một góc Café độc đáo. Những chiếc cửa sổ của vài ba chục năm trước còn không nghĩ có ngày mình bổng trở nên kẻ mua vui cho những lữ khách yêu nét xưa. Những tấm gỗ vẫn còn rất chắc dù đã qua bao mùa nắng mưa, chứng kiến nhiều thăng trầm của chủ nhân trước, giờ được sửa chữa điểm khuyết vài nét cách tân và gia cố lại ít nhiều nên nét vô tư cổ kính thầm giả tạo dưới bóng đèn led mờ ảo phù du. Vài chiếc Radio võ gỗ cũ được đặt để trang trí, chiếc máy quạt ghép đèn chùm tạo một không gian trầm cho những kẻ muốn chạy ra khỏi thực tại tìm một chốn bình yên cho chính mình.
Thật dễ để khiến con người ta đê mê chìm đắm trong hoài cổ. Những gì cổ kính thường rất êm dịu, trầm tư, sâu lắng và nặng tâm sự. Trong những chuyến đò thời gian cuốn bụi theo như con sóng vỗ bờ làm tàn lụi những dư âm thì nét gì cổ kính còn giữ lại cũng làm vơi những tâm hồn đau đáu trước vết mòn trên đá tường thời gian. Có lẽ gã sẽ vẫn cứ thả hồn theo bụi của mưa và lãng phí ngày Chúa Nhật cuối tuần theo một cách bình lặng nhất, cho đến khâm hưởng của một bài hát quen thuộc đột ngột vang lên: “Mưa về trên khúc hát, lắng u buồn đợi bóng hình ai, như tìm về thoáng hương xưa, con đường giờ là kỷ niệm. Giọt sương lặng lẽ bên em, đọng trên đôi mắt vô tư, để buồn cho con phố nhỏ, để một người đến vấn vương...” Tiếng hát quá đỗi thân quen lấn át mọi xúc cảm, thu hút tâm trí Khanh – gã thanh niên vừa bước trên đường yêu – và hoàn toàn chiếm lĩnh quyền điều khiển tâm tư của gã...
Mờ mờ trong ảo tưởng, một khung cảnh thấp thoáng hiện về...
***
Ngôi nhà cổ tọa lạc ngay trong lòng thành phố bên dòng Tiền Giang phóng khoáng. Hai người đang đối diện nhau qua một chiếc bàn mây, phủ trên mặt là một tấm kính mỏng đặt trên một gốc cây già đã được sơn bóng, những thớ gỗ chạy tủa ra bốn hướng như đang cố rứt mình ra khỏi cội già trăm năm mà tìm hướng cho mình. Dòng chữ màu men cánh gián – “Café Nét Xưa – The City of My Tho”. Bầu không khí yên lặng bủa vây không gian, có mấy người khách ngồi khuất trong từng góc nhỏ, một gã cặm cụi lạch cạch bàn phím bên trái dưới bóng đèn vàng hắt xuống từ trần thạch cao với những đường viền hoa xanh kiểu Pháp xưa. Khanh tựa lưng vào ghế, chân gác trên những chiếc rễ quanh chân bàn bằng gốc cổ thụ chết khô, khói thơm bay lên trần nhà, ánh mắt Khanh như chờ đợi một dấu hiệu nào đó từ
con phố xa đưa tầm nhìn qua hàng cây, một bóng hình sẽ không trở lại. Còn con bé bàn bên cạnh hí hoáy với mấy trò chơi điện tử trên chiếc Lumina màu xanh lá cây, thi thoảng liếc nhìn bạn trai thoáng chốc rồi cất tiếng thở dài. Người ngoài nhìn vào có khi lại tưởng chúng nó đang thi xem đứa nào im lặng lâu hơn thì được bao tiền nước ấy chứ.
Khi Khanh bước vào quán, mặt trời chưa khuất bên kia sông Tiền, vậy mà khắp thành phố đèn vàng đã sáng, màn mưa cuối tháng Sáu kéo qua rồi, những âm thanh í ới réo nhau qua lại không ngớt, chợ đêm Mỹ Tho cũng đã đầy người tấp nập! Mặc cho vậy, phía bên trong không gian xưa vàng vọt này, cái bàn mà Khanh và Linh từng ngồi bên nhau trong câu chuyện mưa không ngớt và trái bàng rơi trên tà áo mà hai đứa thêu dệt đủ điều chuyện cơ duyên nay vẫn chỉ lặng như một tờ giấy soạn dở dang, mực tím thương còn chưa khô dòng, mong chờ chàng văn sĩ nào đó tới, viết tiếp trang kế của tình yêu và viết cho xong nỗi nhớ... Thực ra ko phải Khanh không biết câu chuyện sẽ ra sao, mà anh sợ điều sẽ xảy đến khi Linh còn những chấp chới bừa bộn trong lòng...
Khanh yêu Linh khi đến thành phố này trong cơn gió nhẹ cuối xuân.
Linh như một trang giấy trắng, hiền hòa trong nét môi. Khanh nâng cốc café uống giọt đắng đầu tiên trong ngôi nhà cổ. Sau bao nhiêu chuyện trên trời dưới đất, Khanh nhìn Linh thật lâu và hỏi:
- Em sẽ làm gì, nếu một ngày anh trót yêu em...?
Dáng điệu ngập ngừng, Linh không nói gì. Suốt buổi café của Khanh, chỉ toàn cùng Linh nói những lời như thách thức khả năng chịu đựng của nhau. Dẫu trong lòng Khanh rất đỗi yêu Linh nhưng chưa thật sự bao giờ Linh yêu Khanh. Và vì sao Khanh lại hẹn đi chơi vào một buổi chiều mưa gió ẩm ướt như thế. Tất cả đều đã được sắp đặt một cách hoàn hảo nhất. Nhưng tình yêu như con đò, lỡ chuyến không thể quay lại khi khách đã gần sang đến bên đỗ bên kia sông…
Khanh vẫn ngồi đó, nhìn Linh và nghe Linh kể chuyện đời của cô.
Cả hai lại quay trở về khoảng thời gian xưa của nhau, chẳng ai muốn nói gì hơn như cố tránh né một câu nói từ con tim mà sẽ chẳng bao giờ vang vọng lại hòa nhịp, và cũng chẳng hề có ai có ý định muốn phá vỡ bầu không khí này. Về Khanh, gã hiểu rằng đây là những giây phút đầu tiên mà cũng gần như cuối cùng gã có thể ở cạnh Linh với tư cách là người yêu, gã trân trọng từng phút giây đó và góc quán đó, sợ rằng khi gã đứng lên, người kia sẽ bỏ gã mà đi mất.
Chuyện tình yêu, khi đến với nhau thì chỉ cần yêu thôi là đủ, khi chia cách thì vô vàn lí do nảy sinh, thật giả lẫn lộn. Đương nhiên Linh có lý do cho riêng mình để từ chối Khanh, có lẽ sẽ là bí mật theo chân Khanh đi suốt quãng đường phía trước.
- Khuya rồi, anh về đi…
- Ừ... Ừm. Vậy anh về...
- À... Đường trơn em về cẩn thận. Khi về tới nhà hãy gọi cho anh nhé!
- Dạ, Anh yên tâm!
Khanh vẫn ngồi đó, lặng im cảm nhận từng cơn gió khẽ luồn qua những song thưa cổ kính run run theo từng tiếng gió lạnh. Gã thích thế, quan trọng là gã cảm thấy bình yên ngay lúc này, trước khi về nhà rồi gục mặt vào gối nức nở. Thành phố này mấy kẻ thức khuya chạm trỗ hình người mình yêu trên nỗi nhớ như gã?
Trong đêm trắng, vầng trán mênh mông nỗi nhớ, dằn vặt và ngắt từng nhịp thở, Khanh tự nhủ rằng phải thôi mong chờ cái điều phù phiếm ấy đi. Mặc dù vậy, dẫu có cố tỏ ra cương quyết đến đâu thì tự sâu trong lòng chưa bao giờ thôi mòn mỏi, đã biết bao lần tim nó thắt lại khi tiếng beep có tin nhắn mới vang lên. Cái cảm giác hồi hộp như đứa trẻ con mở hộp quà vào ngày sinh nhật làm mọi thứ xung quanh trở nên mờ nhạt. Rồi gã hụt hẫng, lắc đầu ngao ngán khi biết đấy không phải là điều mà gã đã mong đợi. Mặt gã căng lên đầy thất vọng giống hệt như đứa trẻ bị giành ăn mất miếng đùi gà ngay trên mâm.
***
Cất một tiếng thở dài uể oải chào ngày mới, gã lặng lẽ tự ngắm mình trong bộ áo mới, cùng với một nụ cười nhàn nhạt. Thật sự mà nói, Khanh và Linh ở trong hoàn cảnh khó có thể ở bên nhau, Khanh mong chờ tình yêu giống như con còng gió chờ ngày biển cạn để nhấc mình đi chu du thế giới. Khi đã vào cuộc yêu, người ta sẽ ngộ ra rằng mình đã trở nên khó hiểu đến lạ lùng…
Đường Lê Thị Hồng Gấm sáng sớm nhiều người chen chút qua lại. Con đường ấy Linh vẫn đi về, hai cây bàng tinh nghịch vỗ lên cánh áo Linh trái chín rụng trong làn mưa lất phất. Mặt trời đã rạng rỡ trên đỉnh đầu, nắng sớm dịu nhẹ và ấm áp sau những ngày mưa ảm đạm, cố chen mình len lỏi qua từng kẽ lá rồi nhẹ nhàng in xuống nền đất tạo thành những chùm hoa nắng vàng lợt, nhẹ nhàng vui tươi mà lại nồng nàn ấm áp. Một nhánh bàng đung đưa nhẹ, giọt nước mưa còn đọng trên lá rơi xuống cánh mũi, lòng gã chợt chùng xuống, cũng mới đây thôi đã có người hẹn gã, gieo rắc cho gã niềm vui cho những buổi hoàng hôn sẽ không còn một cõi đi về mà lãng mạn như phim bên dòng sông thơ mộng. Nhưng người đã vội vàng đi, để đến khi tháng Sáu về sẽ lại mang theo những cơn mưa trắng một góc trời thì chỉ còn lại một sắc màu của trống rỗng và hư vô…
***
Mây tím dệt thành khung trời xẫm xua tan đi những tia nắng mới đầu ngày như muốn trêu ngươi người qua đường. Sắp mưa. Sao bây giờ mưa lại có nhiều tâm sự thế, đến nỗi muốn ghét mưa, vì mưa chỉ toàn nước, toàn nhớ, kỷ niệm và con tim rỗng hoang đường. Mưa làm vấy ướt chân chiếc quần jeans bó của Linh thuở nào, mưa làm bết đi mái tóc xõa ngang vai cổ điển đầy thu hút, làm cho trái bàng rơi vây bẩn cánh hồng trên áo. Gã yêu thích bị giam cầm trong không gian xưa đầy tiếng nói yêu thương này, và giờ đây, hơn cả là mưa lại đến làm nỗi nhớ dâng cao. Khanh đã đến vào một ngày mưa, mát lạnh và xoa dịu tâm hồn khách lữ hành độc bộ chơi vơi. Tất cả vẫn vẹn nguyên chỉ mới như ngày hôm qua...
***
Có lẽ thành phố bắt đầu đổ mưa cũng là lúc thành phố cất lên một bản tình ca chậm rãi, nhẹ nhàng mà dễ đi vào lòng người. Một khi con người ta đã mở lòng mình cùng khúc hát sẽ đê mê chìm đắm mãi mà không dứt ra được. Thậm chí dù có quyết tâm ra sao, rồi cũng chỉ như một họa sĩ đang cố gắng tẩy đi một bức tranh hãy còn đang dang dở, người ngoài nhìn vào thì trông có vẻ đang cố gắng.
Tháng Sáu mang trong mình một nỗi niềm man mác xa xăm khó ai lí giải nổi. Thành phố mờ ảo chìm trong mưa khắp phố chợ thành đô, người ta cũng chẳng còn lạ lẫm gì với hình ảnh của một ngày mưa đầy như thế. Đường Lê Thị Hồng Gấm chiều nay hãy còn phảng phất cái se lạnh của ngày cũ. Nếu muốn tìm ở kỷ niệm một màu xanh bất tử, nơi hiên ngang vững chãi với sự nghiệt ngã của thời gian, nơi sức sống ko bao giờ cạn kiệt, chẳng đâu làm gã cảm thấy thỏa mãn như chính con đường này. Một cơn gió tình cờ thoảng qua mang theo cái lạnh ẩm sương đêm, cành cây khẽ lay động, lá rơi. Ngẩn ngơ trong cái lãng mạn chợt đến, Khanh cứ ngỡ mình là nhân vật nam chính trong một bộ phim truyền hình nào đó.
Gã vẫn bỏ ly café dở dang tắt dần sợi khói trở về lạnh nhạt vô hồn để trọn vẹn liên tưởng đến những hình ảnh sến sẩm thường xuất hiện trên Tivi: Một cặp tình nhân buông chiếc ô màu hồng nhạt, mặc cho gió giật văng đi, họ ôm lấy nhau bằng tất cả sự tin tưởng, rồi đặt lên môi nhau một tình yêu chân thành và thuần khiết nhất...
Từ xa. Người ta nhìn thấy một gã buông mình ngồi bệt xuống gốc cây, phả khói thuốc trộn lẫn vào làn sương mờ ảo. Một lúc lâu sau, vẫn ngồi đó, để mặc cho phố vẫn cứ mưa. Có những khoảnh khắc đã qua - mà cho dù bạn có dùng hết phần còn lại của cuộc đời cũng không thể tìm lại cảm xúc đã qua...
Có một thứ tình cảm đau đớn nhất nhưng cũng vĩ đại nhất đó là tình yêu đơn phương. Còn gì đau hơn tình yêu không đươc đáp trả, cho đi nhưng người ta chẳng muốn nhận...
Chẳng biết làm gì hết chỉ biết lặng lẽ đứng nhìn cuộc sống của người ta từ một nơi rất xa - bởi biết rằng mình không thể bước vào cuộc sống đó...
Trái tim cũng như một cánh đồng, Sâu thẳm và mênh mông...
Yêu và quên có cùng một cảm giác, đó là thương nhớ không nguôi. Chỉ khác chăng là khi yêu ta ôm người yêu thương trong nổi nhớ, còn khi quên thì ta lại ôm trái tim đau thương trong nổi nhớ vô bờ.
Tình yêu đơn phương như một bản giao hưởng không mùa, nó lặng lẹ âm thầm và ngân nga mãi mãi. Càng lắng nghe càng thấy cảm động thật nhiều. Mở mắt ra, gã nhớ...
Chợt Khi Mình Nhớ Về, Mộng Thành Mây Bay Đi...
Phạm Huỳnh Anh Một buổi chiều thu muộn, tôi ngồi bên lan can và ngắm những đàn chim về tổ cuối ngày, hoàng hôn dần buông, hương mùa thu thoang thoảng, nhẹ nhàng lan vào không gian Thới Sơn. Tách trà cuối còn lưng chừng sợi khói bâng khuâng, chợt lắng đọng trầm tư khi nghe ca khúc “Xin còn gọi tên nhau” của tác giả Trường Sa, qua tiếng hát của ca sĩ Lệ Thu. Bài ca trỗi lên từ chiếc rađiô ngân nga, da diết làm ta quên đi tách trà lắng đọng ngưng khói tự bao giờ. Rồi ta chợt cảm thấy mắt mình cay cay, con tim ta lặng đi và ta buông mình vào giai điệu ấy, lời ca ấy, những nốt nhạc trải ướt lướt thướt đượm đầy hương kỷ niệm như trận mưa rào thấm ngõ nhà.
Khi bất ta chợt cảm thấy đôi tay mình đã lạnh cóng vì giá rét mưa thu, ta mới nhận ra rằng những giai điệu cuối cùng của bản nhạc đã chìm vào một quãng lặng trong tiềm thức rồi. Nhớ, lại nhớ, lại hình dung, lại tưởng tượng, những giây phút lắng đọng, trong trẻo và chênh vênh nhất của một thời đã trôi đi rất xa…
Tình khúc kia mang theo nỗi nhớ miên man, da diết đã làm cho những ngày tháng xưa kia quay trở về đó là "Tiếng hát bay trên hàng phố bâng khuâng" của Trường Sa và của kẻ du mục chênh vênh trên triền đồi của cuộc đời mênh mông. Người nghe cảm thấy hòa cùng dòng nhạc, trải lòng mình cùng giai điệu và thấy nhớ lắm những cảm xúc, những yêu thương, những tình cảm đã một thời mãnh liệt...
Tất cả giờ chỉ là dĩ vãng, còn chăng, chỉ là nỗi nhớ chìm trong ký ức với thời gian trôi vội vàng và công việc chất ngập của tuổi 30. Ngày xưa thật đẹp…
Trường Sa cảm nhận tình yêu thật sâu lắng, cả kỷ niệm khi tràn về trong ký ức cũng không ồn ào. Khi ca từ và tiếng nhạc cụ hòa quyện cất lên làm ta cảm nhận nhiều điều: Một nỗi khao khát chỉ vừa đủ, những tha thiết mong chờ vừa đủ để “còn nuôi chút êm vui ngày đầu…”
Những ý nghĩ cô đơn trở về mỗi khi màn đêm buông xuống, phải chăng đó là lý do để “thầm hờn dỗi mình”? Tình yêu là gì chẳng ai định nghĩa chính xác được, chỉ biết tình yêu đem lại những niềm vui kèm những nỗi đau, nỗi buồn vô hạn và để lại một bảo tàng ký ức. Có đôi khi, ta chỉ còn “nghe mùa thu bay trên trời không” mà thật ra, tâm hồn vẫn giữ một miền nắng đẹp của thời đã qua.
Tiếng hát Lệ Thu chấp cánh bay vút, chênh vênh, mang theo cảm xúc và ký ức… Cảm giác chênh vênh này không phải là một điều bất ngờ đối với nhiều người. Chắc chắn ai rồi cũng sẽ trải qua những hoang mang những chênh vênh ấy trên đường đời, chỉ có điều sự chênh vênh có thể tìm được một bến đỗ tìm được một con đường đúng đắn hay không? Điều đó còn tùy thuộc vào từng người. Đối với tôi, sự chênh vênh đến từ ca khúc này là một cảm giác rất khó mà diễn tả được hết bằng những giọt mực khô. Khi chênh vênh là lúc ngỡ như mình yêu rất nhiều, nhưng thật ra bản thân mình lại không làm được gì và chẳng có chút gì mang hơi thở tình yêu cũ. Sự chênh vênh này có lẽ nó xuất phát tự tâm hồn mà bài hát đặt đúng nhịp và khơi mở.
***
Mùa thu về trên ngọn cây bắt đầu đổ lá vàng xoay xoay. Cây cỏ trong tiết trời thu như cũng mang một màu buồn bã. Tôi cũng không biết mình có lãng mạn không khi yêu đất trời
"""