🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Dặm Xanh Ebooks Nhóm Zalo Dặm Xanh Stephen King Daëm Xanh Stephen King GIỚI THIỆU Dặm Xanh (The Green Mile) là tác phẩm được đánh giá là xuất sắc nhất của Stephen King, một nhà văn nổi tiếng với những câu chuyện hình sự, kinh dị; người được báo chí và độc giả mệnh danh là "Ông vua kinh dị" (King of Horror). Tác phẩm này đã được giải thưởng Bram Stoker năm 1997 cho thể loại tiểu thuyết xuất sắc nhất. Dặm Xanh (The Green Mile) gồm sáu phần được nối kết với nhau qua lời tường thuật của viên quản giáo trưởng trại tử tù khi đã già. Câu chuyện xoay quanh các tù nhân đang chờ ngày lên ghế điện và các quản giáo có nhiệm vụ canh giữ họ trong những ngày cuối đời. Trong số các tử tù có John Coffey, một người da đen to lớn có năng lực siêu nhiên. Anh bị kết án tử hình vì tội đã bắt cóc và sát hại hai bé gái sinh đôi của ông bà Detterrick. Điều trớ trêu là John Coffey không phải là thủ phạm. Anh đã bị bắt khi đang cố gắng cứu sống hai đứa trẻ và bị kết án tử hình vì tội ác do kẻ khác gây ra... Xen lẫn trong câu chuyện dữ dội ở trại tử tù là những mối quan hệ đầy nhân bản giữa người và người. Các quản giáo, dù biết tù nhân của mình đã phạm phải những tội ác tày trời và sắp phải trả giá cho tội ác ấy, nhưng họ vẫn cố gắng trấn an họ trong những ngày cuối cùng của cuộc đời. Có thể nói Dặm Xanh (The Green Mile) là một trong những tiểu thuyết gây tiếng vang lớn của Stephen King, không chỉ bởi cốt truyện đầy kịch tính mà còn bởi phong cách hành văn đặc biệt của ông: lôi cuốn, đơn giản và sâu sắc. Cuốn tiểu thuyết đề cập đến những vấn đề nhức nhối trong xã hội Mỹ hiện nay: sự kì thị chủng tộc, những tù nhân bị kết án tử hình oan. Đó cũng là điều nhắc nhở cảnh báo đối với lương tri của mỗi con người. Dặm Xanh (The Green Mile) cũng đã được chuyển thể và dựng thành phim với nam diễn viên Tom Hanks đóng vai viên quản giáo trưởng trại tử tù Paul Edgecombe. Phim đã có ở Việt Nam với tựa đề "Quản giáo và tử tù". Phần 1 - CÁI CHẾT CỦA HAI BÉ GÁI Chương 1 Sự việc xảy ra vào năm 1932, khi trại giam tiểu bang vẫn còn ở Cold Mountain. Dĩ nhiên chiếc ghế điện cũng ở đấy. Bọn tù nhân bày chuyện giễu cợt về chiếc ghế, theo cách người ta vẫn giễu cợt về những chuyện làm họ sợ hãi nhưng không bỏ qua được. Họ gọi nó là Già Sparky, hoặc Juicy Bự. Họ tán phét về công suất, và bằng cách nào Giám thị Moores sẽ làm bữa tối nhân dịp Lễ Tạ ơn mùa thu năm đó, trong khi bà Melinda vợ ông ấy, quá bệnh hoạn, không nấu nướng được. Nhưng đối với những kẻ thực sự phải ngồi vào chiếc ghế điện thì câu chuyện hài hước mau chóng tắt lịm. Tôi đã chủ trì hơn bảy mươi tám vụ xử tử trong suốt thời gian công tác ở Cold Mountain, một con số mà tôi không bao giờ nhầm lẫn; ngay cả lúc hấp hối trên giường bệnh, tôi vẫn sẽ nhớ đến nó, và tôi nghĩ rằng, đối với hầu hết những con người đó, sự thật của điều sắp xảy ra cho họ, rốt cuộc sẽ đeo đẳng họ suốt con đường về nhà, khi mắt cá chân bị khóa chặt vào những cái chân bằng gỗ sồi chắc nịch của Già Sparky. Lúc ấy họ nhận ra đôi chân của chính họ đã kết thúc sự nghiệp của chúng. Máu vẫn còn chảy, các bắp thịt vẫn còn mạnh, nhưng chúng đã tiêu vong, chẳng có gì khác; chúng sẽ không bao giờ đi thêm một dặm đường quê hương, hoặc khiêu vũ với một cô gái trong dịp ăn mừng xây kho thóc nữa. Khách hàng của Già Sparky hiểu rằng cái chết của họ dâng lên từ mắt cá chân. Một cái túi màu đen bằng lụa được chụp vào đầu sau khi họ đã nói xong những lời cuối cùng, vốn huyên thiên, và phần lớn là rời rạc. Cái túi được xem là dành cho họ, nhưng tôi luôn nghĩ nó thật sự là để cho chúng tôi, để chúng tôi không thấy được trạng thái lạc thần đáng sợ trong mắt họ khi họ nhận ra sắp phải chết. Không có dãy xà lim tử tội ở Cold Mountain, chỉ duy nhất Khu E, tách xa bốn khu khác và rộng bằng khoảng một phần tư, bằng gạch thay vì gỗ, với một cái mái ghê rợn bằng kim loại trần trụi, chói chang dưới ánh mặt trời mùa hè. Bên trong là sáu xà lim ở hai bên một lối đi rộng, mỗi xà lim rộng gấp đôi các xà lim trong bốn khu kia. Lại là phòng một người nữa. Tiện nghi ăn ở tuyệt vời đối với một nhà tù, nhưng tù nhân ở đấy sẵn lòng đánh đổi với bất cứ xà lim nào khác trong bốn khu kia. Tin tôi đi, họ sẽ chịu đánh đổi. Trong những năm tôi làm đội trưởng ở Khu, chưa khi nào cả sáu xà lim chứa đầy tù nhân. Bốn là tối đa, da trắng da đen lẫn lộn (ở Cold Mountain, không có kì thị chủng tộc giữa các tử tội) , và quả là một địa ngục thu nhỏ. Một trong số tù nhân là phụ nữ, Beverly McCall. Cô ả đen như than, xấu xa y như thứ tội lỗi mà bạn không bao giờ đủ lì lợm để gây án. Cô ả chịu đựng nổi sáu năm bị chồng đánh đập nhưng không chấp nhận chuyện anh ta lăng nhăng một ngày. Vào buổi chiều khám phá ra chuyện ngoại tình của chồng, ả đứng chờ anh chàng xấu số Lester McCall, vốn được bạn bè gọi là Dao Cắt (có lẽ dựa theo mối tình vắn số với cô tình nhân) , trên đầu cầu thang dẫn đến căn phòng bên trên cửa hàng cắt tóc của anh ta. Ả chờ đến khi chồng đã cởi áo khoác ra được một nửa, rồi xén một phát cho cái của nợ bội bạc của anh ta rơi xuống mũi giày hai “tông” màu. Một lưỡi dao cạo của riêng Dao Cắt đã được dùng vào việc đó. Hai đêm trước khi phải ngồi lên Già Sparky, cô ả gọi tôi đến xà lim, nói rằng đã được ông bố - thần linh gốc Phi châu - báo mộng. Ông ta bảo cô ả từ bỏ cái tên cũ ám ảnh thân phận nô lệ đi, rồi chết dưới cái tên tự do là Matuomi. Ả đòi hỏi bản án tử của mình phải được tuyên bố bằng tên Beverly Matuomi. Tôi đoán có lẽ ông bố thần linh đã không cho biết họ, hoặc có họ nhưng cô ả không nhận ra. Dù sao thì tôi cũng đồng ý. Có một điều mà những năm tháng công tác với tư cách đội trưởng lính gác trại giam đã dạy tôi là không bao giờ từ chối yêu cầu của những tử tội, trừ khi tình hình buộc phải thế. Dù gì thì trường hợp của Beverly Matuomi cũng không có khác biệt. Ngày sau đó, vào khoảng ba giờ chiều, Ngài Thống đốc gọi điện thoại, giảm án tử hình xuống tù chung thân ở nhà tù phụ nữ Grassy Valley - dạo ấy chúng tôi cứ nói đùa rằng chỉ toàn trừng phạt mà thiếu rửng mỡ. Xin nói với các bạn là tôi hân hạnh được nhìn thấy cặp mông tròn trịa của Beverly đánh sang trái thay vì sang phải khi cô ả đến trước bàn trực. Ba mươi lăm năm sau hoặc hơn nữa tôi bắt gặp cái tên đó trên trang cáo phó của một tờ báo, bên dưới bức ảnh một quý bà da đen mặt gầy, có mái tóc trắng và cặp kính gắn kim cương giả trên gọng. Cô ả đã sống như một phụ nữ tự do trong mười năm cuối đời và đã đơn độc cứu vớt thư viện tỉnh lẻ Raines Fall. Cô ả cũng dạy lớp Giáo lí Chủ nhật và được yêu mến biết bao ở cái vùng hẻo lánh nhỏ bé đó. Tựa bài báo viết “Quản thủ thư viện chết vì đau tim” dưới đó, bằng khổ chữ nhỏ hơn, gần như một lời cảnh tỉnh: “Đã thi hành án hơn hai thập niên vì giết người”. Chỉ có đôi mắt, to và rực sáng sau cặp kính, là vẫn như trước. Chúng là cặp mắt của một người đàn bà, một con người mà thậm chí ở tuổi bảy mươi bất kì nào đó, vẫn sẽ không do dự rút một lưỡi cạo an toàn ra khỏi cái lọ đựng chất khử mùi, nếu sự thôi thúc có vẻ gây sức ép. Các bạn thừa biết bản chất bọn giết người, dù chúng có trở thành quý bà quản thủ thư viện tại các thị trấn ngái ngủ chăng nữa. Ít nhất bạn cũng sẽ biết, khi bỏ quá nhiều thời gian lưu tâm đến bọn giết người, như tôi đã làm. Chỉ duy nhất một lần tôi đặt câu hỏi về bản chất công việc của mình. Tôi cho đấy là lí do khiến tôi viết tập truyện này. Sàn hành lang rộng dẫn lên trung tâm Khu E được lót bằng vải sơn màu vôi xanh cũ kĩ, vì thế cái được gọi là Dặm Đường Cuối Cùng ở những trại giam khác thì ở Cold Mountain này, nó được gọi là Dặm Đường Xanh. Tôi đoán là nó dài bằng sáu mươi bước chân, đi từ hướng Nam lên Bắc, từ đáy lên đỉnh. Ở đáy là phòng giam. Ở đỉnh là giao lộ hình chữ T. Rẽ sang trái là sự sống - nếu bạn gọi điều xảy ra trong cái sân tập thể dục nắng nung người là sự sống; nhiều người đã sống như thế bao năm tháng, không chút hề hấn. Trộm cắp, đốt nhà, và tội phạm tình dục, tất cả đều nói năng, đi đứng và gạt gẫm nhau theo kiểu của chúng. Nhưng mọi cú rẽ phải - đấy là chuyện khác. Trước hết bạn bước vào văn phòng của tôi (nơi có trải thảm cũng màu xanh, một thứ mà tôi có ý định thay đổi nhưng không làm được) , và đến trước bàn làm việc của tôi, bên trái bàn treo cờ Mỹ, bên phải là cờ tiểu bang. Ở phía xa là hai cánh cửa. Một cửa dẫn vào căn phòng vệ sinh nhỏ mà tôi và các nhân viên bảo vệ Khu E (đôi khi có cả Giám thị Moores) sử dụng; cửa kia mở vào một thứ nhà kho. Đây là nơi bạn kết thúc khi bước trên Dặm Đường Xanh. Đó là một cánh cửa nhỏ, tôi phải cúi đầu mỗi khi đi qua, còn John Coffey thì phải ngồi xuống rồi lách vào. Bạn sẽ bước ra một chỗ đứng hẹp, rồi theo ba bậc xi măng bước xuống một sàn nhà rộng. Nó là một căn phòng khốn khổ, không có lò sưởi; mái bằng kim loại, giống như mái trên khu nhà tiếp giáp với nó. Trong phòng đủ lạnh để nhìn thấy hơi thở của bạn vào mùa đông, mùa hè thì ngột ngạt khó thở. Trong lần thi hành án tử Elmer Manfred đã có chín nhân chứng bị ngất. Bên trái khu nhà kho lại có sự sống. Các dụng cụ (tất cả đều được khóa chặt sau những bộ khung chằng chịt dây xích, như thể chúng là súng carbine chứ không phải mai và cuốc chim) , hàng vải, các bao hạt giống để gieo trồng trong vườn trại giam vào mùa xuân, hộp giấy vệ sinh, các tấm pallet để chồng chéo những tấm ván dùng cho xưởng ván của trại... thậm chí cả những túi chứa vôi để kẻ đường biên sân chơi bóng chày và bóng bầu dục - tù nhân chơi bóng trong cái được gọi là Bãi Cỏ, và những buổi chiều mùa thu rất được mong đợi ở Cold Mountain. Bên phải là cái chết. Đích thân Già Sparky chễm chệ trên mặt sàn bằng ván ở góc Đông Nam của nhà kho, chân ghế bằng gỗ sồi cứng cáp, tay dựa rộng rãi bằng gỗ sồi vốn đã hấp thu dòng mồ hôi kinh hoàng của biết bao người trong những giây phút cuối đời, và cái nón kim loại thường đong đưa trên lưng ghế, giống loại nón sát đầu kiểu robot của trẻ em trong truyện tranh. Một dây cáp vắt từ nón ra xuyên qua lỗ hổng có vòng đệm trên bức tường gạch đằng sau ghế. Tách sang một bên là một cái xô bằng thiết mạ. Nếu nhìn vào bên trong, bạn sẽ thấy một vòng đệm bằng chất xốp, được cắt tỉa vừa khít cái nón kim loại. Trước khi hành hình, cái vòng được nhúng vào nước muối để tăng sức dẫn dòng điện trực tiếp chạy qua dây cáp, qua lớp xốp, xuyên vào óc tử tội. Chương 2 Năm 1932 là năm của John Coffey. Các chi tiết sẽ có trong hồ sơ, vẫn còn đó cho bất cứ ai đủ quan tâm tìm hiểu - một ai đó có nghị lực nhiều hơn lão già khọm đang gọt xén đoạn kết của đời mình trong nhà dưỡng lão ở Georgia. Lúc ấy là một mùa thu nóng bức, tôi nhớ rõ - quả thật hết sức nóng. Tháng mười mà gần như tháng tám, và Melinda, vợ của viên Giám thị, đã vào nhà thương ở Indiana vì một cơn bệnh. Đấy là mùa thu mà tôi bị nhiễm trùng đường tiểu nặng nhất trong đời, dù không đến mức phải nhập viện, nhưng gần như đủ tồi tệ để tôi muốn chết cho rảnh nợ mỗi khi đi tiểu. Đấy là mùa thu của Delacroix, gã người Pháp nhỏ bé, hói nửa đầu, với con chuột, kẻ đã đến vào mùa hè và giở trò ma mãnh sắc sảo với cái ống chỉ. Tuy nhiên, hầu như đấy là mùa thu mà John Coffey đến Khu E, bị kết án tử hình vì tội cưỡng hiếp và giết chết chị em song sinh nhà Detterick. Mỗi ca trực Khu có bốn hoặc năm lính gác, nhưng nhiều người trong số đó làm việc theo thời vụ. Dean Stanton, Harry Terwiliger, và Brutus Howell (tù nhân gọi anh ta là Brutal - Hung Ác, nhưng chỉ là gọi đùa, vì ngay đến một con ruồi anh ta cũng không động đến trừ khi bắt buộc, dù thể xác to lớn) , tất cả đều đã chết; cũng như Percy Wetmore, một gã hung ác... chưa kể đến sự ngu đần. Percy chẳng có việc gì ở Khu E, nơi một tính khí xấu tỏ ra vô tác dụng, đôi khi còn nguy hiểm nữa, nhưng hắn có quan hệ thông gia với ngài Thống đốc nên được ở lại. Chính Percy Wetmore là người đưa Coffey đến Khu E trong tiếng rao truyền thống: “Tử tội đến! Tử tội đến đây!” Thời tiết vẫn nóng như địa ngục dù đang là tháng tám. Cửa vào sân tập thể dục mở ra, một làn ánh sáng chói chang tràn vào, và một con người đồ sộ nhất tôi từng thấy - ngoại trừ vài gã cầu thủ bóng rổ trên TV trong “Phòng Giải trí” của ngôi nhà dành cho những kẻ cứng đầu cứng cổ mà tôi đã xem, bước vào. Gã đeo xiềng xích trên tay và vắt ngang bộ ngực to bè như một cái thùng đựng nước, cùm sắt ở mắt cá chân và kéo lê một sợi xích ở giữa, phát ra tiếng kim loại loảng xoảng khi chạy dọc theo hành lang màu xanh, giữa hai hàng xà lim. Percy Wetmore ở một bên gã, Harry Terwilliger nhỏ nhắn gầy gò bên kia, nhìn họ giống những đứa trẻ cùng đi với một con gấu sa bẫy. Thậm chí Brutus Howel cũng như một đứa trẻ khi đứng bên cạnh Coffey, trong khi anh ta cao hơn 6 feet và cũng to ngang, từng là cầu thủ bóng đá chơi ở đội LSU cho đến khi giải nghệ và trở về quê. John Coffey là dân da đen, như hầu hết những kẻ đến lưu trú tại Khu E một thời gian trước khi chết trong lòng Già Sparky, và gã cao đến 6 feet 8 inch. Tuy thế, gã không lỏng khỏng như các chàng cầu thủ bóng rổ trên TV - vai gã rộng, bộ ngực sâu chằng chịt bắp thịt tủa ra mọi hướng. Người ta nhét gã vào chiếc quần jeans rộng nhất có thể tìm được tại nhà kho, thế mà gấu quần vẫn kéo lên trên bắp chân căng cứng đầy sẹo. Áo sơ mi gã hở bên dưới ngực, ống tay áo dừng lại đâu đó trên bắp tay. Bàn tay khổng lồ của gã cầm nón, nếu ngất nghểu trên cái đầu hói tròn xoe đen mun, sẽ giống như loại nón mà con khỉ của tay nhạc sĩ hát rong ngoài phố thường đội, có điều là màu xanh thay vì đỏ. Trông gã có thể bứt đứt dây xích dễ dàng như bạn giật đứt dây buộc quà Giáng sinh, nhưng khi nhìn vào mặt gã, bạn biết gã sẽ không làm chuyện như thế. Bộ mặt đó không tẻ nhạt - mặc dù đấy là điều Percy nghĩ, không lâu trước khi Percy gọi gã là thằng cả ngố - mà lạc lõng. Gã cứ dáo dác nhìn quanh như thể muốn biết mình đang ở đâu. Thậm chí tìm hiểu gã là ai. Ý nghĩ đầu tiên của tôi là gã trông như một Samson đen... chỉ sau khi bị Delilah cạo đầu nhẵn thín như bàn tay phản bội của cô ả, và tước đi tất cả những niềm vui của gã. - Tử tội đến! - Percy oang oang rao, lôi mạnh cổ tay áo của con người to lớn như loài gấu này, như thể hắn thật sự tự tin làm được nếu Coffey quyết định rằng gã không muốn đi nữa. Harry không nói gì nhưng anh ta có vẻ bối rối. - Tử tội... - Đủ rồi. - Tôi lên tiếng. Tôi đang ở trong cái sắp trở thành xà lim nhốt Coffey, ngồi trên sạp ngủ của gã. Dĩ nhiên tôi biết gã sắp đến, tôi có mặt để đón và nhận trách nhiệm, nhưng không có ý niệm gì về tầm vóc của gã cho đến khi nhìn thấy. Cái nhìn của Percy dành cho tôi hàm ý rằng tất cả chúng ta đã biết tôi là một tên khốn kiếp (ngoại trừ gã hình nộm to xác, kẻ chỉ biết hãm hiếp và sát hại những bé gái) , nhưng hắn không nói gì. Ba người bọn họ dừng lại bên ngoài cửa xà lim đang mở. Tôi gật đầu với Harry, anh ta nói: - Anh chắc muốn ở trong ấy với tên này chứ, sếp? - Tôi ít khi thấy Harry tỏ ra hoang mang - anh ta từng sát cánh bên tôi trong những cuộc nổi loạn bảy năm trước và chưa bao giờ nao núng, kể cả khi lời đồn một số tù nhân có súng bắt đầu lan truyền - nhưng lần này thì giọng anh ta hoang mang thật sự. - Anh sẽ gây rắc rối cho tôi chứ, Bự Con? - Ngồi trên sạp tôi hỏi, và cố không ra vẻ hoặc có giọng nói khổ sở như tôi cảm nhận. Coffey chậm chạp lắc đầu một cái sang trái, một cái sang phải, rồi trở lại chết cứng ở giữa. Khi nhìn thấy tôi, gã không rời ánh mắt khỏi tôi nữa. Harry cầm trong tay một cái bìa kẹp hồ sơ có giấy tờ của Coffey bên trên: - Đưa cho gã. - Tôi bảo Harry. - Đặt vào tay gã. Harry làm theo. Gã khờ to xác đờ đẫn cầm lấy như người bị mộng du. - Bây giờ đem lại đây cho tôi, Bự Con. - Tôi nói và Coffey làm theo lệnh, các sợi xích khua rổn rảng. Gã phải cúi xuống để chui vào địa ngục. Tôi nhìn gã từ đầu xuống chân để ghi nhận chiều cao là sự thật, hay là ảo ảnh thị giác. Đúng là thật: 6 feet 8 inch. Trọng lượng gã được ghi là 280 pound, nhưng tôi nghĩ chỉ là ước lượng, có thể đến 350 pound không chừng. Bên dưới khoảng trống dành cho các vết sẹo và dấu nhận dạng là một từ bị che khuất, được vẽ tỉ mỉ bởi Magnusson, gã tù nhân tín cẩn làm việc tại phòng Danh bạ: Numerous. Tôi nhìn lên. Coffey đã nhích sang bên một chút nên tôi thấy được Harry đứng bên kia hành lang, trước mặt xà lim của Delacroix - gã này là tù nhân duy nhất ở Khu E trước khi Coffey đến. Del là một gã mảnh khảnh hói đầu, có bộ mặt lo lắng của một kế toán viên khi biết vụ biển thủ của mình sớm muộn gì cũng sẽ bị khám phá. Con chuột nuôi đang ngồi trên vai gã. Percy Wetmore đang thò đầu vào ngưỡng cửa trong cái xà lim vừa trở thành nơi ở John Coffey. Hắn đã lôi cây dùi cui bằng gỗ hồ đào ra khỏi cái bao đặt làm riêng, vỗ nó vào lòng bàn tay theo cách một kẻ thường làm khi có đồ chơi và muốn sử dụng. Và đột nhiên tôi không chịu nổi sự có mặt của hắn. Có lẽ vì sức nóng trái mùa, có lẽ vì chứng nhiễm trùng đường tiểu của tôi đang sôi sục trong người khiến cho bộ đồ lót của tôi gây ngứa ngáy không chịu nổi, có lẽ vì biết rằng chính phủ gửi cho tôi một tên da đen đến ở xế cửa nhà một gã đần độn để thi hành án, và rõ ràng Percy muốn dằn mặt tù nhân một chút đã. Dù là điều gì thì tôi đã thôi không quan tâm đến các mối quan hệ chính trị của hắn nữa. - Percy. - Tôi lên tiếng. - Họ đang dọn nhà ở khu bệnh xá đấy. - Bill Dodge phụ trách chi tiết. - Tôi biết là cậu ấy. - Tôi nói. - Nhưng đến giúp cậu ấy đi! - Đấy không phải là việc của tôi. - Percy trả lời. - Thẳng cả thộn này mới là việc của tôi. - Cả thộn là tiếng chế nhạo mà Percy dùng để gọi những người to lớn. Hắn ghét những người to lớn. Hắn không gầy như Harry Terwilliger nhưng thấp lùn. Một thứ gà trống vênh váo, loại người thích gây gổ đánh nhau, nhất là khi lợi thế nghiêng về hắn. Và tự đắc về mái tóc của mình. Hắn gần như không thể rời tay khỏi nó. - Nếu vậy công việc của cậu đã xong. - Tôi nói. - Hãy đến khu bệnh xá. Môi dưới của hắn trề ra. Bill Dodge và người của anh ta đang di chuyển những thùng gỗ và các chồng giấy, kể cả giường; toàn bộ bệnh xá dọn sang một khu mới ở cánh phía Tây trại giam. Không khí nóng nực, khiêng vác nặng nhọc. Percy Wetmore không hề muốn tham gia. - Họ đã có đủ số người cần thiết. - Hắn đáp. - Vậy cứ đến đó mà làm phụ tá. - Tôi cao giọng nói. Tôi thấy Harry nhăn mặt và làm ngơ. Nếu ngài Thống đốc ra lệnh cho Giám thị Moores đuổi việc tôi vì dám chọc vào ổ kiến lửa thì Hal Moores sẽ đặt ai thay vào chỗ tôi đây? Percy chăng? Chuyện đùa. - Tôi thật sự không cần biết cậu làm gì, Percy, miễn là cậu ra khỏi đây một lúc. Trong một thoáng tôi tưởng hắn sẽ ở lì và sẽ có rắc rối thật sự, với Coffey đứng đó suốt, như cái đồng hồ chết to nhất thế giới. Rồi Percy nhét dùi cui trở vào cái bao may bằng tay - một vật dụng hào nhoáng khốn kiếp - vùng vằng bỏ đi lên hành lang. Tôi không nhớ lính gác nào ngồi ở bàn trực ngày hôm ấy - một trong những người làm thời vụ, tôi đoán thế - nhưng hẳn là Percy không thích vẻ mặt của anh ta, bởi hắn càu nhàu khi đi ngang qua. “Dẹp cái nụ cười bố láo khỏi bộ mặt chết giẫm ngay, nếu không tao sẽ chùi nó giùm mày”. Có tiếng chìa khóa lách cách, một luồng ánh nắng nóng bức từ sân tập thể dục ùa vào trong thoáng chốc, rồi Percy Wetmore đi khuất. Con chuột của Delacroix chạy qua chạy lại từ vai này sang vai khác của gã người Pháp nhỏ bé, mấy sợi râu giật giật. - Yên nào, ông Jingles. - Delacroix nói và con chuột dừng lại trên vai trái của gã, tựa hồ hiểu được lời chủ. - Cứ yên lặng và nín thinh nhé. - Với giọng nói du dương của cư dân vùng Louisiana của Delacroix, tiếng “quiet” phát âm nghe có vẻ hương xa và lạ lẫm - kwaht. - Nằm xuống, Del. - Tôi nói cộc lốc. - Nghỉ ngơi đi. Chuyện này cũng không phải của anh. Gã làm theo lời tôi. Gã đã cưỡng hiếp một bé gái rồi giết chết, bỏ xác đằng sau ngôi nhà của cô bé, đổ dầu lên rồi mồi lửa đốt, hi vọng bằng cách gây nhiễu sẽ xóa được dấu vết tội ác. Ngọn lửa lan sang ngôi nhà, nuốt chửng nó và thêm sáu người nữa phải chết, hai trong số đó là trẻ em. Đấy là tội ác duy nhất gã phạm phải, và bây giờ gã chỉ là một con người hòa nhã có bộ mặt lo lắng, một cái sọ hói, tóc dài xơ xác phủ xuống sau cổ áo. Gã sẽ ngồi vào Già Sparky một lúc, rồi Già Sparky sẽ kết thúc gã... nhưng cái gì gây ra chuyện tàn bạo đó đã biến mất, và bây giờ gã nằm trên sạp, để mặc cho người bạn đồng hành nhỏ bé vừa chạy vừa kêu chít chít trên tay. Một cách nào đó, đấy là điều tệ hại nhất; Già Sparky không bao giờ thiêu đốt nổi cái bên trong đôi bàn tay gã, những liều thuốc người ta tiêm vào chúng ngày hôm nay không làm cái đó thiếp ngủ. Nó bỏ đi, nhảy sang một kẻ khác, mặc cho chúng ta thanh toán những cái vỏ ngoài vô giá trị, thật ra không có sự sống. Tôi hướng sự quan tâm vào gã khổng lồ. - Nếu tôi để Harry cởi xích cho anh, anh sẽ đàng hoàng chứ? Gã gật đầu. Cũng giống như cú lắc đầu: xuống, lên, rồi trở về vị trí giữa. Đôi mắt lạ lùng của gã nhìn tôi. Trong đôi mắt đó có một vẻ bình an, nhưng không phải thứ bình an mà tôi chắc chắn tin cậy được. Tôi ngoắc tay gọi Harry, anh ta bước vào và tháo các dây xích. Anh ta không tỏ ra sợ sệt, ngay cả khi quỳ dưới cặp chân to như thân cây của Coffey để mở khóa cùm chân, điều này làm tôi nhẹ nhõm được một chút. Chính Percy mới làm cho Harry bồn chồn, và tôi tin vào bản năng của Harry. Tôi tin vào các bản năng của tất cả nhân viên hàng ngày của Khu E, ngoại trừ Percy. Tôi thường đọc một diễn văn ngắn soạn sẵn trước tù nhân mới đến khu, nhưng với Coffey tôi lại chần chừ, vì gã có vẻ bất thường, không chỉ ở tầm vóc. Khi Harry đứng lùi ra (Coffey vẫn bất động trong suốt nghi thức mở khóa, bình thản như một con ngựa nòi Percheron) , tôi ngước nhìn gánh nặng mới của tôi, nhịp nhịp ngón cái trên tấm bìa kẹp hồ sơ và nói: - Anh nói được không, Bự Con? - Được, thưa sếp, tôi nói được. - Gã trả lời. Giọng gã trầm trầm êm ả. Nó làm tôi nghĩ đến một bộ máy kéo mới được tu bổ. Gã không nói giọng lè nhè của dân miền Nam chính gốc nhưng có một lối cấu trúc câu kiểu miền Nam mà sau này tôi mới nhận ra. Gã ăn nói không ra vẻ vô học, nhưng cũng không nghe ra người có giáo dục. Trong lời nói cũng như trong nhiều điều khác, gã là một sự bí hiểm. Phần lớn chính đôi mắt gã khiến tôi bối rối - một thứ xa vắng đầy yên bình trong chúng, như thể gã đang bồng bềnh trôi xa, trôi xa đi. - Tên anh là John Coffey? - Vâng, thưa sếp, giống như cà phê, chỉ có điều không viết giống chính tả. - Anh có thể đánh vần, phải không? Viết và đọc được chứ? - Chỉ tên tôi thôi, thưa sếp. - Gã trả lời, vẻ bình thản. Tôi thở ra, rồi đọc đoạn diễn văn ngắn soạn sẵn của mình. Tôi đã quả quyết gã sẽ không gây rối. Về điểm này thì tôi vừa đúng vừa sai. - Tên tôi là Paul Edgecombe. - Tôi nói. - Tôi là trưởng Khu E. Anh muốn gì cứ xin gặp tôi. Nếu không có tôi ở đây, hãy hỏi người kia - ông ấy tên là Harry Terwilliger. Hoặc có thể xin gặp ông Stanton hoặc ông Howell. Anh hiểu không? Coffey gật đầu. - Chớ mong nhận được những gì anh muốn trừ khi chúng tôi quyết định đấy là thứ anh cần vì đây không phải là khách sạn. Vẫn theo kịp ý tôi chứ? Gã lại gật đầu. - Đây là một nơi yên tĩnh, Bự Con ạ, không như khu còn lại của trại giam. Chỉ có anh và Delacroix ở đằng kia. Anh sẽ không phải làm việc, hầu như chỉ ngồi suông. Cho anh cơ hội để suy ngẫm về mọi điều. - Quá nhiều thời gian để suy ngẫm, nhưng tôi không nói ra. - Thỉnh thoảng chúng ta nghe radio, nếu mọi việc ổn thỏa. Anh thích radio không? Gã gật đầu nhưng có vẻ hồ nghi, như thế không biết chắc radio là cái gì. Sau này tôi phát hiện ra điều đó có thật, theo một cách nào đó. Coffey biết sự việc khi gã chạm trán với chúng lần nữa, nhưng giữa hai sự việc thì gã lãng quên. - Nếu đàng hoàng, anh sẽ được ăn đúng giờ, sẽ không bao giờ bị nhốt vào xà lim biệt giam ở đầu dưới kia, hoặc phải mặc áo vải bạt cài nút sau lưng. Anh sẽ được ra sân vào buổi chiều từ bốn đến sáu giờ, ngoại trừ những ngày thứ bảy khi những tù nhân khác chơi bóng đá. Anh sẽ được tiếp khách vào chiều thứ bảy, nếu có ai muốn đến thăm. Có ai không, Coffey? Gã lắc đầu. - Không ai cả, thưa sếp. - Gã trả lời. - A, thì luật sư của anh vậy. - Tôi tin là đã nhìn thấy ông ấy lần cuối cùng. - Coffey nói. - Ông ấy cãi nợ cho tôi. Tôi không tin ông ấy có thể tìm ra đường lên vùng núi này. Tôi nhìn kĩ hơn, xem thử gã có nói đùa không, nhưng gã không tỏ vẻ như thế. Và thật sự tôi cũng không trông chờ điều gì khác. Vào thời buổi đó, kháng án không dành cho những kẻ như John Coffey; họ ra tòa chịu xét xử, rồi bị thế giới lãng quên cho đến khi người ta nguệch ngoạc trên báo chí cho biết một gã nào đó đã bị điện giật vào khoảng nửa đêm. Nhưng một con người có vợ, con cái, hoặc bạn bè để mong đợi vào những chiều thứ bảy sẽ dễ khống chế hơn, nếu như việc khống chế trở thành một vấn đề. Ở đây thì không, và đấy là điều tốt. Vì gã quá sức to lớn. Tôi nhúc nhích một chút trên sạp, rồi quyết định có lẽ bụng dưới của tôi sẽ thoải mái hơn nếu đứng lên, và tôi làm thế. Gã lễ phép lùi lại, tay chắp trước mặt. - Bự Con này, cuộc sống của anh ở đây có thể dễ dàng hoặc khó khăn, tất cả tùy thuộc vào anh. Tôi ở đây để nói rằng anh nên làm cho tất cả chúng ta dễ thở, vì cuối cùng chẳng có gì khác cả. Chúng tôi sẽ đối xử đúng với anh nếu anh xứng đáng. Có câu hỏi nào không? - Ông có thể cho để đèn sau giờ ngủ không? - Gã hỏi ngay, như thể chỉ chờ có dịp. Tôi chớp mắt nhìn gã. Tôi đã từng bị bọn tù mới đến Khu E hỏi nhiều câu kì quái nhưng chưa bao giờ như câu vừa rồi. Coffey mỉm cười vẻ hơi lúng túng, như thể biết chúng tôi nghĩ gã điên nhưng không thể không hỏi. - Vì trong bóng tối đôi khi tôi thấy sờ sợ. - Gã thú nhận. Tôi nhìn gã và cảm thấy động lòng một cách kì lạ. Họ quả có làm bạn động lòng, bạn biết đấy; bạn không thấy khi họ ở tình trạng tồi tệ nhất, tưởng tượng ra những nỗi kinh hoàng như quỷ sứ trước lò rèn. - Phải, ở đây suốt đêm khá sáng sủa. - Tôi trả lời. - Phân nửa bóng đèn dọc theo Dặm Đường Xanh sáng từ chín đến năm giờ sáng. - Rồi tôi nhận ra gã không hiểu tôi đang nói gì - gã không phân biệt được Dặm Đường Xanh với bùn lầy Mississippi - vì thế tôi chỉ ra ngoài hành lang. Gã gật đầu, vẻ an tâm. Tôi cũng không chắc gã hiểu hành lang là cái gì, nhưng gã có thể thấy các bóng đèn công suất 200 watt trong lồng sắt. Lúc ấy tôi làm một điều trước kia chưa bao giờ làm đối với một tù nhân là chìa tay ra. Thậm chí đến bây giờ tôi cũng không hiểu tại sao. Có lẽ vì gã hỏi về các bóng đèn. Hành vị của tôi làm cho Harry Terwilliger ngạc nhiên. Coffey bắt tay tôi với một vẻ dịu dàng không ngờ, bàn tay tôi biến mất trong bàn tay gã, và tất cả chỉ có thế. Tôi có thêm một con mối trong chai thuốc độc của mình. Số phận chúng tôi đã được ấn định. Tôi bước ra khỏi xà lim. Harry đóng cửa lại và khóa cả hai ổ. Coffey đứng yên tại chỗ trong một thoáng, tựa như không biết làm gì, rồi gã ngồi xuống sạp ngủ, chắp đôi bàn tay khổng lồ giữa đầu gối, gục đầu xuống như một người đang đau buồn hoặc cầu nguyện. Lúc ấy gã thốt ra một câu bằng một giọng kì lạ, gần như giọng miền Nam. Tôi nghe rõ mồn một, và mặc dù không biết nhiều về điều gã đã làm: “Bạn không cần biết điều một con người đã làm để bạn phải nuôi ăn và chải chuốt cho hắn, cho đến ngày hắn phải trả những gì hắn nợ.” Câu nói đó vẫn làm tôi rùng mình. - Tôi không làm gì được, thưa sếp. - Gã nói. - Tôi cố gắng rút lại nhưng đã quá muộn. Chương 3 Sếp sẽ có rắc rối với Percy mất thôi. - Harry nói khi chúng tôi bước ngược hành lang trở về văn phòng của tôi. Dean Stanton đang ngồi sau bàn giấy và cập nhật hóa các hồ sơ, một công việc mà dường như tôi không bao giờ làm xuể. Anh ta gần như không ngước nhìn khi chúng tôi bước vào, chỉ đẩy cặp kính nhỏ lên bằng ngón tay cái, rồi lại chúi mũi vào đống giấy tờ. - Tôi đã có rắc rối với gã nhà quê đó từ khi hắn đến đây. - Tôi nói, tay rón rén kéo quần ra khỏi hạ bộ và nhăn mặt. - Cậu có nghe hắn la lối khi đưa gã thộn to xác kia xuống đây không? - Không thể không nghe. - Harry đáp. - Tôi có mặt ở đó, sếp biết mà. - Tôi ở trong phòng vệ sinh và nghe rất rõ. - Dean lên tiếng. Anh ta kéo một tờ giấy về phía mình, giơ lên ánh sáng rồi quăng để tôi thấy một vết cà phê cũng như chữ đánh máy trên đó, rồi quăng vào giỏ rác. “Tử tội đến”. Chắc hắn đã đọc trong một tờ tạp chí mà hắn ưa thích. Có lẽ hắn đã đọc thật. Percy Wetmore là độc giả trung thành của các tờ Argosy, Stag và Men’s Adventure. Dường như trong mỗi ấn bản đều có một câu chuyện về nhà tù, và Percy nghiến ngấu đọc như người đang nghiên cứu. Tựa hồ như hắn cố tìm hiểu cách ứng xử và nghĩ rằng trong những tờ tạp chí đó có thông tin. Hắn đến làm việc sau khi chúng tôi thi hành án tử Anthony Ray, kẻ giết người bằng rìu - và hắn chưa thực sự tham gia cuộc hành hình nào, mặc dù có chứng kiến một vụ từ trong phòng cơ điện. - Hắn quen biết nhiều người. - Harry nói. - Hắn có thế lực. Sếp sẽ phải trả lời về chuyện đuổi hắn ra khỏi Khu, và sẽ phải trả lời khó khăn hơn vì đã trông đợi hắn làm việc thực sự. - Tôi không trông đợi điều đó. - Tôi đáp, và hi vọng Bill Dodge không phải loại người chịu để cho kẻ khác đứng ì ra mà bàng quan nhìn ngó. - Trước mắt, tôi quan tâm đến gã to xác hơn. Liệu chúng ta sẽ có rắc rối với gã không? Harry lắc đầu với vẻ quả quyết. - Gã câm nín như một con cừu khi ra tòa ở Trapingus. - Dean nói. Anh ta tháo cặp kính nhỏ không gọng xuống và bắt đầu chùi nó vào vạt áo. - Dĩ nhiên người ta tròng dây xích vào gã nhiều hơn Scrooge thấy trên bóng ma của Marley, nhưng gã có thể đá văng cả ma quỷ nếu gã muốn. Trò vặt thôi, con trai. - Tôi biết. - Tôi nói, mặc dù tôi không biết. Tôi ghét bị Dean Stanton qua mặt. - Đồ sộ, phải không? - Dean hỏi. - Quả thế! Tôi đồng ý. - To lớn quái dị. - Có lẽ phải nâng cấp Già Sparky lên thành Super Bake mới nướng được hắn. - Đừng lo cho Già Sparky. - Tôi lơ đãng nói. - Cụ ấy làm cho những gã to xác thành bé tí. Dean nhéo hai bên mũi, nơi có vài vết đỏ giận dữ vì đeo kính và gật đầu. - Ừ. - Anh ta đáp. - Điều đó thì có thật, được lắm! Tôi hỏi: - Hai cậu có biết gã là người ở đâu trước khi đến... Tefton? Phải Tefton không? - Ừ. - Dean trả lời. - Tefton, ở hạt Trapingus. Trước khi gã đến đấy và làm điều đã làm, dường như không ai biết. Gã chỉ lang thang khắp nơi, tôi đoán thế. Anh có thể tìm hiểu thêm chút ít trên báo chí trong thư viện của trại, nếu thật sự quan tâm. Có lẽ đến tuần sau họ mới dọn. - Anh ta toét miệng cười. - Tuy nhiên, có lẽ anh phải lắng nghe anh bạn nhỏ kêu ca và rên rĩ trên lầu. - Dù sao có lẽ tôi cứ đi xem thử. - Tôi nói, và vào cuối chiều hôm ấy tôi làm thật. Thư viện của trại giam ở phía sau tòa nhà sắp trở thành xưởng sửa xe - ít nhất là trên bản kế hoạch. Thêm thịt lợn chui vào túi ai đó, là điều tôi nghĩ đến, nhưng thời kì đại khủng hoảng đang diễn ra nên tôi để bụng - theo cách lẽ ra tôi nên kín miệng về Percy, nhưng đôi khi người ta không nín được. Phần lớn tai vạ của một con người do miệng lưỡi hắn gây ra, hơn là do cái của nợ. Và dù sao thì xưởng sửa xe đã không bao giờ hình thành - mùa xuân năm sau, trại giam di chuyển sáu mươi dặm xuống phía dưới đường đi Brighton. Tôi cho là có nhiều vụ thông đồng lén lút hơn nữa. Thêm nhiều thùng thịt lợn. Chẳng là gì với tôi. Ban quản trị đã chuyển sang tòa nhà mới ở phía Đông sân tập; bệnh xá đang được dọn đi; thư viện thì một phần vẫn còn cất trong kho và trống hoác. Tòa nhà cũ là một cái hộp bằng ván nóng rực, như thể len vào giữa các Khu A và B. Các phòng tắm được xây trên đó và toàn bộ tòa nhà lúc nào cũng bơi trong mùi nước tiểu thoang thoảng, có lẽ là lí do chính đáng duy nhất để dọn đi. Thư viện xây theo hình chữ L, không to hơn văn phòng của tôi. Tôi tìm một cái quạt nhưng tất cả đã biến mất. Trong ấy nhiệt độ ắt hẳn lên cả 100 độ, và tôi có thể cảm nhận được những cú đập nóng hổi ở bụng dưới khi ngồi xuống. Như kiểu đau răng vậy. Tôi biết điều đó là ngớ ngẩn, tính đến vùng cơ thể chúng ta đang nói ở đây, nhưng đấy là thứ duy nhất tôi có thể đem ra so sánh. Cơn đau trở nên tệ hại hơn nhiều trong và ngay sau khi tiểu, trước khi bước đi. Rốt cục thì vẫn có một anh chàng ở đấy - một tù nhân tín cẩn, già và gầy trơ xương tên Gibbons, đang ngủ gật trong góc phòng, với một quyển tiểu thuyết miền Viễn Tây hoang dã và cái nón kéo sụp xuống mắt. Sức nóng không làm hắn phiền hà, kể cả những tiếng càu nhàu, thình lình, và đôi khi là tiếng chửi thề vọng xuống từ bệnh xá trên lầu. Tôi cũng không quấy rầy hắn, nhưng đi vòng sang cánh ngắn của hình chữ L, nơi để những tờ báo. Tôi nghĩ chúng đã biến mất cùng với những chiếc quạt, bất chấp những gì Dean đã nói. Tuy thế chúng không biến mất và vụ án chị em song sinh Detterick cũng dễ tìm; nó là tin trang nhất từ ủy ban chống tội ác đăng suốt từ tháng sáu đến phiên xử vào cuối tháng tám và tháng chín. Chẳng bao lâu tôi quên mất cái nóng, những tiếng thình thịch ở trên lầu và tiếng ngáy khò khè của Gibbons già nua. Ý nghĩ về những bé gái chín tuổi đó dính líu đến cái bóng tối đồ sộ của Coffey quả là khó chịu, nhưng không thể làm ngơ. Với tầm vóc cỡ gã, thật dễ dàng hình dung ra cảnh ăn tươi nuốt sống các cô bé, giống như tên khổng lồ trong chuyện cổ tích. Điều gã đã làm còn đồi bại hơn và quả là may mắn cho gã khi đã không bị hành hình tập thể ngay trên bờ sông. Nếu có, nghĩa là bạn xem việc chờ đợi bước trên Dặm Đường Xanh và ngồi vào lòng Già Sparky là may mắn. Chương 4 Năm trước khi tất cả những sự việc này xảy ra và sẽ không bao giờ lên ngôi nữa, nhưng trong những năm của thập niên ba mươi nó có được chút hồi sinh. Không còn đồn điền trồng bông vải, nhưng có năm mươi trang trại bông vải thịnh vượng ở phía Nam tiểu bang chúng tôi. Klaus Detterick làm chủ một trong những trang trại đó. Theo tiêu chuẩn của những năm 1950, ông ta chỉ được xem là trên bọn khố rách áo ôm một bậc, nhưng với tiêu chuẩn của thập niên 1930 lại được đánh giá là sung túc, vì ông ta thực sự thanh toán chi phiếu cửa hàng bằng tiền mặt vào cuối tháng, và dám nhìn thẳng vào mắt ông chủ tịch ngân hàng nếu tình cờ họ đi qua mặt nhau ngoài phố. Trang trại của ông ta sạch sẽ và thênh thang. Ngoài bông vải còn có hai thứ khác: gà và một ít bò. Ông ta và bà vợ có ba con: Howard, mười hai tuổi cùng hai con gái song sinh: Cora và Kathe. Một đêm ấm áp tháng sáu năm ấy, hai cô bé gái hỏi xin và được phép ngủ ngoài hiên bên hông nhà có tấm sáo che, chạy dọc theo chiều dài ngôi nhà. Đây là một biệt đãi dành cho chúng. Mẹ chúng hôn chúng và chúc ngủ ngon lúc chín giờ, khi tia sáng cuối cùng đã tắt trên nền trời. Đấy là lần cuối cùng bà ta gặp con trước khi chúng nằm trong quan tài và nhà đoàn đã sửa chữa những hư hỏng tồi tệ nhất. Vào những ngày đó, các gia đình ở vùng quê đi ngủ sớm và ngủ rất ngon. Chắc chắn Klaus, Marjorie và Howard Detterick ngủ ngon vào đêm đôi bé gái song sinh bị bắt cóc. Lẽ ra Klaus bị đánh thức bởi Bowser, con chó già nòi collielai to xác của gia đình nếu nó sủa, nhưng Bowser đã không sủa. Đêm đó và không bao giờ nó sủa nữa. Klaus thức dậy cùng tia nắng đầu tiên để vắt sữa. Mái hiên ở bên hông nhà, cách xa vựa thóc và Klaus không nghĩ đến chuyện tạt qua chỗ các con gái. Việc Bowser không đi theo ông ta cũng không gây xáo động. Con chó chăn đàn bò và lũ gà như nhau với thái độ khinh miệt, thường xuyên trốn trong cũi phía sau vựa thóc khi công việc đang được tiến hành, trừ khi bị gọi thật tích cực. Mười lăm phút sau, Marjorie xuống dưới nhà sau khi chồng đã mang ủng trong phòng để giày và nặng nề đi ra vựa thóc. Bà ta bắt đầu pha cà phê, rồi rán thịt lợn muối. Các mùi vị kết hợp đã kéo Howard từ căn phòng ở đầu hồi xuống dưới nhưng bọn con gái ở hiên nhà thì không. Bà ta sai Howard đi tìm chúng về trong lúc bà đập trứng cho vào mỡ thịt lợn muối. Klaus muốn hai đứa con gái ra ngoài nhặt trứng mới mỗi khi ăn sáng xong. Có điều sáng hôm ấy trong nhà Detterick không có bữa ăn sáng. Howard từ hiên nhà trở lại, mặt trắng bệch, cặp mắt vốn sưng húp có vẻ buồn ngủ thì giờ đây mở trao tráo. - Các em mất tích rồi! - Thằng bé thốt lên. Marjorie đi ra hàng hiên, lúc đầu chỉ thấy bực tức hơn là hoảng hốt. Sau này bà ta nói bà ta giả định, nếu quả thật bà ta có giả định điều gì, rằng bọn con gái đã quyết định đi dạo và hái hoa trong ánh sáng sớm của bình minh. Là thế hoặc trò dại dột gì đó của bé gái thôi. Một cái nhìn, và bà ta hiểu tại sao mặt Howard trắng bệch. Bà ta hét lên gọi Klaus và Klaus chạy đến, đôi giày ống bảo hộ trắng xóa do ông vấp phải xô sữa, đổ lên giày. Cái ông ta thấy trên hiên nhà sẽ làm bủn rủn chân tay hầu hết các bậc cha mẹ dũng cảm nhất. Những tấm chăn mà hai đứa bé gái sẽ chui vào khi rời đêm tàn dần và trở lạnh, bị ném vào một góc. Tấm sáo che bị giật tuột khỏi bản lề trên và treo ngả nghiêng, thò ra ngoài sân. Trên những tấm ván đóng hiên và bạc thềm bên kia tấm sáo là những giọt máu tung tóe. Marjorie nài nỉ chồng đừng đi tìm mấy đứa con gái một mình, đừng đem theo con trai nếu ông cảm thấy phải đuổi theo, nhưng chỉ tốn hơi vô ích. Ông ta lấy khẩu súng săn dựng trên cao trong phòng để giày và đưa cho Howard khẩu súng hai mươi hai li mà họ để dành tặng sinh nhật thằng bé vào tháng bảy. Thế là họ lên đường, không ai đoái hoài đến tiếng kêu khóc của người phụ nữ đang muốn biết họ sẽ làm gì nếu chạm trán với một bọn lang thang vô gia cư, hoặc một đám nô lệ da đen xấu thối thoát ra từ nông trang của hạt ở Laduc. Trong chuyện này, tôi nghĩ những người đàn ông đã làm đúng, bạn biết đấy. Máu đã thôi không chảy nhưng vẫn còn hơi dính, gần với màu đỏ tươi hơn màu nâu sẫm của máu khô, chứng tỏ vụ bắt cóc xảy ra chưa lâu. Chắc chắn Klaus tin còn có cơ hội để cứu con gái và ông ta nhất quyết nắm lấy cơ hội đó. Cả hai bố con không ai biết chút gì về kĩ thuật theo dõi dấu vết vì họ không phải thợ săn. Mảnh sân quanh nhà là một vạt đất khô héo, đầy những vết chân chồng lên nhau trong một mớ rối rắm vô nghĩa. Họ đi quanh vựa thóc và gần như tức thì hiểu ra tại sao Bowser, một gã cắn dở nhưng sủa giỏi lại không báo động. Con chó nằm nửa trong nửa ngoài cái cũi đóng bằng những tấm ván còn thừa sau khi đựng vựa thóc, đầu nó xoắn quanh cổ gần như hẳn một vòng. Phải là người có sức mạnh khủng khiếp mới hạ nổi một con vật cỡ lớn như thế - công tố viên tuyên bố trước hội thẩm đoàn xét xử John Coffey... rồi ném một cái nhìn lâu đầy hàm ý vào gã bị cáo đồ sộ đang ngồi sau bàn bào chữa, mắt nhìn xuống, trên người mặc một bộ áo liền quần có yếm mới toanh mua bằng tiền của tiểu bang, có vẻ như tội lỗi vừa ẩn trong bộ y phục vừa chính là nó. Bên cạnh con chó, Klaus và Howard tìm thấy một mẩu xúc xích luộc. Giả thuyết - một giả thuyết vững chắc, tôi không có gì nghi ngờ - là Coffey đã dụ con chó ăn, sau đó, khi Bowser bắt đầu ăn mẩu xúc xích cuối cùng, gã vươn tay ra và bẻ cổ nó bằng một cú xoay cổ tay đầy uy lực. Phía bên kia nhà kho là đồng cỏ phía bắc của Detterick, hôm ấy không có con bò nào gặm. Cánh đồng ướt sũng sương mai, và xuyên qua nó, cắt thành một đường chéo đến hướng Tây - Bắc rõ như ban ngày, là dấu chân người đạp thành đường mòn. Dù đang ở trạng thái sắp phát cuồng, Klas Detterick do dự, lúc đầu không muốn lần theo vết. Không phải vì sợ kẻ đã bắt cóc con gái mình; ông ta sợ sẽ đi ngược lại lối cũ của tên bắt cóc... sợ đi sai hướng vào thời điểm mỗi giây phút đều quý giá. Howard giải quyết tình trạng tiến thoái lưỡng nan khi nhổ được một mảnh vải bông màu vàng vướng trên bụi cây mọc ngay bên kia ranh giới sân. Klaus cũng được đưa cho xem mảnh vải khi ngồi ở ghế nhân chứng, và ông ta bắt đầu khóc khi nhận ra mảnh quần ngủ của Kathe, con gái mình. Xa hơn 20 yard, lủng lẳng trên một cành bách xù nhô ra, họ thấy một mảnh vải xanh bạc, khớp màu với vải áo ngủ mà Cora đã mặc khi nó hôn bố mẹ và chúc ngủ ngon. Hai bố con nhà Detterick xông lên, súng chĩa ra trước mặt như binh sĩ vượt qua vùng tranh chấp dưới làn hỏa lực mạnh. Nếu tôi có ngạc nhiên trước bất cứ điều gì xảy ra ngày hôm ấy, là chuyện thằng bé chạy thục mạng theo bố mà không ngã và trút một viên đạn vào lưng Klaus Detterick. Hôm ấy tại trang trại của họ diễn ra cuộc trao đổi hàng hóa - lại một dấu hiệu cho thấy nhà Detterick đang phát đạt, ít nhất cũng là khá giả trong giai đoạn tồi tệ - và Marjorie sử dụng Trung tâm để gọi nhiều người hàng xóm của bà ta, kể cho họ nghe về tai họa từ trời cao giáng xuống đầu, trong lòng biết rằng mỗi cú gọi sẽ tạo ra sư lan truyền, giống như ném nhanh những viên sỏi xuống một cái ao tĩnh mịch. Rồi bà ta nhấc ống nghe lên lần cuối, nói những lời gần như là biểu tượng của hệ thống điện thoại sơ khai thời bấy giờ ở miền Nam thôn dã: - Alô, Trung tâm, bạn có trên đường dây không? Trung tâm có trên đường dây thật, nhưng trong một khoảnh khắc không thốt nên lời - cô điện thoại viên đáng kính đó đang bị kích động. Sau cùng, cô ta cũng xoay xở được. - Vâng, thưa bà, bà Detterick, ôi trời ơi, lạy Chúa lòng lành, tôi đang cầu nguyện cho các con của bà được bình yên. - Dạ, cảm ơn cô. - Marjorie đáp lại. - Nhưng cô làm ơn nối đường dây cho tôi liên lạc với văn phòng cảnh sát trưởng ở Tefton được chứ? Cảnh sát trưởng của hạt Trapingus là một ông già mũi đỏ ửng vì rượu whisky, bụng to bằng thùng giặt quần áo và mái tóc trắng phau, mịn đến mức trông như loại xơ dùng để lau tẩu hút thuốc. Tôi biết rõ ông ta; ông ta từng nhiều lần đến Cold Mountain để chứng kiến cái ông ta gọi là “những chàng trai của tôi” khởi hành đi vào chốn hư vô. Nhân chứng đến chứng kiến thi hành án ngồi trên loại ghế xếp mà có lẽ chính bạn đã từng ngồi một hai lần gì đó, trong các đám tang hoặc bữa ăn tối từ thiện nhà thờ, hoặc sòng bạc ở Grange. Mỗi khi cảnh sát trưởng Homer Cribus ngồi lên một chiếc ghế, tôi lại chờ đợi tiếng gãy khô khốc; báo hiệu sự sụp đổ. Cùng một lúc tôi sợ ngày xảy ra chuyện đó vừa mong nó xảy ra, nhưng ngày đó không bao giờ đến. Không lâu, không hơn một mùa hè sau ngày những bé gái nhà Detterick bị bắt cóc - ông ta lên cơn đau tim tại văn phòng của mình, dường như trong lúc ngủ với cô gái da đen mười bảy tuổi tên là Daphne Shurtleff. Có nhiều lời xầm xì về vụ đó, cùng với việc lúc nào cũng khoe khoang bà vợ và sáu thằng con trai khắp nơi rất lộ liễu, là thời kì bầu cử - đấy là thời kì nếu bạn muốn đua tranh điều gì đó thì đã có câu châm ngôn “Hoặc là người ngoan đạo hoặc cút đi.” Nhưng con người vốn ưa thích kẻ đạo đức giả, bạn biết đấy - người ta nhận ngay ra một kẻ đạo đức giả giữa họ, và luôn luôn cảm thấy vui sướng khi ai đó bị bắt quả tang phạm tội và không phải là mình. Ngoài bản chất đạo đức giả, ông ta còn bất tài, một loại người thích chụp ảnh chính mình đang vỗ về con mèo của một quý bà khi có người nào khác - phụ tá cảnh sát trưởng Rob McGee chẳng hạn - đã thực sự liều mạng chịu gãy xương đòn gánh bằng cách trèo lên cây để đưa cô mèo xuống. McGee lắng nghe Marjorie Detterick lải nhải trong khoảng hai phút, rồi ngắt lời bà ta bằng bốn hay năm câu hỏi ngắn ngủi và cộc lốc, giống như một chiến binh dày dạn tung ra những cú đánh nhẹ vào mặt, một loạt cú đấm nhẹ và rắn đến nỗi máu bật ra trước khi đau. Khi đã có những câu trả lời, ông ta bảo: - Tôi sẽ gọi Bobo Marchant. Hắn có chó. Bà ở yên đây, thưa bà Detterick. Nếu chồng và con trai bà về, hãy giữ họ cùng ở lại. Dù sao cũng phải cố thôi. Trong lúc đó, chồng và con trai bà ta đi theo dấu chân tên bắt cóc ba dặm về hướng Tây Bắc, nhưng khi ra đến những cánh đồng rồi vào trong rừng thông thì họ mất dấu. Như tôi đã nói, họ là nông dân, không phải thợ săn, và đến lúc ấy họ biết là đang truy đuổi một con ác thú. Trên đường truy đuổi, họ phát hiện loại vải vàng khớp với vải quần của Kathe, và một mẩu vải ngủ khác của Cora. Cả hai mẩu đều đẫm máu, và cả Klaus lẫn Howard không còn hăng máu như lúc đầu nữa; một sự khẳng định lạnh lùng hẳn đã chen vào niềm hi vọng nóng bỏng của họ, lan xuống dưới như kiểu nước lạnh chìm xuống dưới vì nặng hơn. Họ hướng ánh mắt vào trong rừng, tìm kiếm những dấu hiệu nhưng không phát hiện, nhìn vào một nơi thứ hai cũng không có kết quả, rồi nơi thứ ba. Lần này họ khám phá vết máu tung tóe trên những chiếc lá hình kim của một cây thông đỏ. Họ đi theo hướng có vẻ như đúng lối, rồi lại bắt đầu quá trình nhìn ngó. Lúc ấy đã là chín giờ sáng, từ sau lưng, họ bắt đầu nghe tiếng người la lối và tiếng chó sủa. Rob McGee đã thành lập một đội dân quân trong khoảng thời gian mà cảnh sát trưởng Cribus dùng để kết thúc tách cà phê pha rượu mùi đầu tiên trong ngày, và mười lăm phút sau họ đã theo kịp Klaus và Howard Detterick, lúc ấy đang loạng choạng một cách tuyệt vọng quanh bìa rừng. Chẳng bao lâu mọi người lại tiến lên, dẫn đầu là những con chó của Bobo. McGee cho Klaus và Howard tiếp tục đi với họ - họ sẽ không quay về dù anh ta có ra lệnh, bất kể nỗi khiếp sợ biết bao trước kết quả phát hiện, và McGee hẳn phải hiểu điều đó - nhưng anh ta buộc họ tháo đạn ra khỏi súng. Những người khác cũng đã làm thế, McGee nói như vậy an toàn hơn. Điều anh ta không nói với họ là chỉ có gia đình nhà Detterick bị yêu cầu giao nộp đạn cho cảnh sát. Nửa bị rối trí và nửa chỉ muốn đi đến tận cùng cơn ác mộng và giải quyết cho xong, họ làm theo lời anh ta yêu cầu. Khi Rob McGee thuyết phục được bố con nhà Detterick tháo băng đạn giao cho mình, có lẽ anh ta đã cứu John Coffey thoát khỏi cuộc kết liễu đau khổ. Lũ chó sủa vang vừa lôi kéo họ băng qua hai dặm đường đầy bụi thông, theo mãi hướng Tây Bắc đầy khó khăn. Thế rồi họ ra khỏi rừng đến bên bờ sông Trapigus, rộng và chậm chạp ở điểm này, chảy theo hướng Đông Nam qua những ngọn đồi thấp có rừng, nơi những gia đình họ Cray, Robinette và Duplissey vẫn còn tự làm lấy đàn mandolin và thường xuyên khạc ra những cái răng sâu trong khi cày ruộng; một vùng quê sâu, nơi đàn ông có khả năng kiềm chế rắn độc vào sáng chủ nhật rồi tận hưởng thú nhục dục với con gái họ trong đêm chủ nhật. Tôi biết gia đình họ; hầu hết đều thỉnh thoảng cung cấp một bữa ăn cho Già Sparky. Ở xa bên kia bờ sông, những người trong toán dân quân có thể thấy mặt trời tháng sáu lấp lánh trên đường ray của tuyến đường xe hỏa Great Southern. Khoảng một dặm xuôi dòng sông về phía tay phải, là một cây cầu bắc ngang, hướng về những bãi than vùng West Green. Tại đây, họ tìm thấy một vạt cỏ rộng và bụi cây thấp bị giẫm nát, đẫm máu đến mức nhiều người trong số họ phải nhảy lui vào trong rừng và tự giải thoát khỏi bữa ăn sáng. Họ cũng đồng thời tìm được phần áo ngủ còn lại của Cora trong vạt đất đẫm máu và Howard, vẫn vững vàng đáng khen cho đến lúc ấy, đã lùi lại đụng vào người bố nó, suýt ngất xỉu. Chính tại đây, đàn chó của Bobo Marchant đã có cuộc cãi vã đầu tiên và duy nhất trong ngày. Có sáu con tất cả, hai con chó săn nòi bloodhound, hai con bluetick, và một số chó lai dạng terrier mà dân biên giới miền Nam gọi là coon hound. Lũ coon hound muốn đi theo hướng Tây Bắc, ngược lên dòng Trapingus; bọn còn lại muốn đi theo hướng ngược lại - hướng Đông Nam. Chúng rối vào nhau trong mớ dây dắt chó, và mặc dù báo chí không đả động gì đến chuyện này, tôi có thể hình dung ra những lời chửi thề ghê rợn của Bobo giáng xuống đầu đàn chó, trong khi anh ta sử dụng đôi bàn tay - chắc chắn đấy là phần có giáo dục nhất của anh ta - để chỉnh đốn chúng. Vào thời của tôi, tôi có biết một số người nuôi chó săn và kinh nghiệm cho tôi biết, tính theo giai cấp thì họ quả thật là con nhà nòi đáng nể. Bobo thâu ngắn dây dắt thành một gói, rồi gí manh áo ngủ rách nát của Cora vào mũi đàn chó, như thể nhắc nhở chúng về điều chúng đang làm ngoài trời vào một ngày mà nhiệt độ sẽ là 100 độ vào buổi trưa, và cơn buồn nôn đã luẩn quẩn trong đầu toán dân quân như những đám mây. Lũ coon hound ngửi một lần nữa, quyết định đúng đắn, rồi tất cả phóng xuôi theo dòng sông, sủa vang dậy. Không đầy mười phút sau cả bọn dừng lại, nhận thấy họ không nghe được chỉ tiếng chó sủa. Đấy là một âm thanh giống tiếng tru hơn là tiếng sủa, và là thứ âm thanh mà chó không bao giờ phát ra, ngay cả trong cực điểm hấp hối. Đấy là một thứ âm thanh mà chưa ai trong số họ nghe, nhưng họ nhận ra ngay, rằng đấy là một con người. Họ kể lại như thế, và tôi tin họ. Tôi nghĩ mình cũng sẽ nhận ra. Tôi nghĩ đã từng nghe con người gào lên theo cách đó khi đi trên con đường dẫn đến ghế điện. Không nhiều - phần lớn câm nín và yên lặng đi, hoặc nói chuyện tếu, như thể đấy là một buổi picnic của lớp học - nhưng một số ít thì có. Thường thường là những kẻ tin rằng địa ngục có thật, và biết rằng nó đang chờ họ ở cuối Dặm Đường Xanh. Bobo lại thâu ngắn dây dắt chó lần nữa. Chúng rất đáng giá và anh ta không có ý định để mất chúng cho tiếng tru điên loạn ở phía xa dưới kia. Những người khác thì nạp đạn và đóng cơ bẩm. Tiếng tru đó khiến tất cả bọn họ lạnh toát, mồ hôi tuôn ra dưới cánh tay và chảy xuống lưng như nước đá. Khi người ta sợ hãi đến lạnh toát như thế thì họ cần một người chỉ huy nếu phải tiếp tục, và phụ tá cảnh sát trưởng McGee đã chỉ huy họ. Anh ta tiến lên phía trước và mạnh dạn bước đến một hàng cây nhô ra khỏi cánh rừng bên tay phải, trong khi toán người còn lại lo sợ lê bước theo sau cách khoảng năm bước chân. Anh ta chỉ dừng lại một lần, để ra hiệu cho người to lớn nhất trong bọn - Sam Hollis - đi gần Klaus Detterick. Phía bên kia tàng cây có thêm nhiều vạt đất trống, trải ngược vào rừng bên tay phải. Bên trái là sườn dốc dài, thoai thoải của bờ sông. Tất cả đứng lại tại chỗ, chết sững. Tôi nghĩ họ sẽ vật vã rất nhiều để đừng thấy điều trước mắt họ, và sẽ không ai trong số họ quên nổi cảnh tượng đó - nó là một thứ ác mộng, lộ liễu và mơ hồ dưới ánh mặt trời, vượt xa những hình thức bề ngoài của cuộc sống tử tế và bình thường - bữa ăn từ thiện của nhà thờ, đi dạo trên những con đường làng quê, công việc lương thiện, nụ hôn tình ái trên giường. Trong mỗi con người có một cái sọ, và tôi nói bạn nghe, có một cái sọ trong cuộc đời của tất cả mọi người. Ngày hôm ấy, họ đã nhìn thấy điều đó, những con người đó - họ thấy cái nhe răng đôi khi ở đằng sau nụ cười. Ngồi trên bờ sông, trong bộ áo liền quần màu bạc, vấy máu là gã đàn ông to lớn nhất mà chưa ai trong số họ từng gặp - John Coffey. Bàn chân khổng lồ, ngón cái loe ra không mang giày. Trên đầu gã quấn một cái khăn đỏ bạc màu, theo kiểu phụ nữ vùng quê quấn khăn khi vào nhà thờ. Ruồi nhặng bay quanh gã thành một đám mây đen. Cuộn tròn trong mỗi cánh tay gã là cái xác trần trụi của một bé gái. Mái tóc vàng của chúng, một thời xoăn tít và nhẹ như tơ, bây giờ bết vào đầu và vấy máu. Gã đàn ông ôm chúng đang ngồi rống lên trời cao như một con bê khờ dại, đôi má nâu sẫm của gã bóng nhẫy nước mắt, bộ mặt méo mó trong cơn co thắt ghê rợn vì đau khổ. Gã hít hơi từng hồi, ngực phồng lên đến khi những dây đeo yếm căng ra, rồi nhả số lượng không khí mênh mông đó bằng những tiếng tru. Các bạn thường đọc thấy trong báo rằng “kẻ sát nhân không tỏ ra hối hận” , nhưng trong trường hợp này thì sai. John Coffey bị xé tan nát vì điều gã gây ra... nhưng sẽ còn sống. Những bé gái thì không. Chúng đã bị phanh thây theo một cách căn bản hơn. Dường như không ai ý thức được mình đã đứng nhìn gã đàn ông tru rống mất bao lâu, còn gã thì, qua mặt sông rộng phẳng lặng, nhìn chiếc xe hỏa phía bên kia đang lao trên đường ray hướng về chiếc cầu bắc qua sông. Dường như họ đã nhìn trong một giờ hay vĩnh viễn, thế nhưng chuyến xe hỏa vẫn không tiến được xa hơn, có vẻ như chỉ chạy tại chỗ, giống như một đứa trẻ giậm chân hờn dỗi, mặt trời không nép mình sau bóng mây và cảnh tượng không bị che mờ trước mắt. Nó ở đó ngay trước mặt họ, thật như một vết chó cắn. Gã da đen lắc lư tới lui; Cora và Kathe cùng lắc lư với gã như búp bê trong tay một gã khổng lồ. Các bắp thịt vấy máu trên đôi tay to tướng để trần của gã cứ co vào giãn ra, co vào giãn ra. Chính Klaus Detterick là người phá vỡ cảnh tượng bất động. Ông ta gào lên, xông thẳng vào con quái vật đã hãm hiếp và giết chết con gái mình. Sam Hollis biết nhiệm vụ và cố gắng thi hành nhưng không được. Anh ta cao hơn Klaus 6 inch và nặng hơn ít nhất 70 pound, nhưng Klaus dường như chỉ lắc vai đã tuột ra khỏi vòng tay ôm của Sam. Klaus phóng qua vạt đất trống ở giữa, đá vào đầu Coffey. Chiếc giày ống có lớp sữa đổ bị đóng bánh, bốc mùi chua vì sức nóng, đập trúng vào thái dương bên trái của Coffey nhưng dường như gã không có cảm giác. Gã chỉ ngồi đó, than vãn ai oán, lắc lư và nhìn qua bên kia sông. Phải cần đến bốn người để tách người nông dân điên loạn ra khỏi John Coffey, và ông ta đã tặng cho Coffey - tôi không biết là bao nhiêu - cú đá ác liệt trước khi họ lôi được ông ta ra. Có vẻ Coffey không hề hấn gì; gã tiếp tục nhìn sang bên kia sông và than vãn. Về phần Detterick, tất cả ý chí chiến đấu tắt lịm khi sau cùng ông ta bị kéo ra - như thể một dòng điện xi mạ kì dị đã chạy qua gã da đen khổng lồ và khi sự tiếp xúc của Detterick với nguồn điện đó sau cùng bị cắt đứt thì ông ta rũ xuống, như người bị văng ra khỏi dây điện. Ông ta dạng chân quỳ trên bờ sông, tay úp vào mặt, khóc nức nở. Howard đến với bố và họ ôm nhau, trán chạm vào trán. Hai người trông chừng họ, trong khi những người còn lại lập thành một vòng súng ống, vây quanh gã da đen đang rên rỉ. Dường như gã vẫn không nhận thấy tất cả mọi người. McGee bước ra phía trước, thay đổi chân trụ từ chân này sang chân kia một chút, rồi ngồi xổm xuống đất. - Ông ơi! - Anh ta nói bằng một giọng êm ả, và Coffey nín ngay. McGee nhìn vào đôi mắt đã vằn máu vì khóc. Thế mà chúng vẫn trào nước mắt, như thể ai đó để lại vòi nước trong người gã. Đôi mắt đó khóc lóc, thế nhưng vì lí do nào đó, chúng vô hồn... xa vắng và bình thản. Tôi nghĩ chúng là đôi mắt kì lạ nhất mà tôi từng thấy trong đời, và McGee cũng nghĩ thế. - Giống mắt của một con vật chưa bao giờ nhìn thấy loài người. - Anh ta nói với một phóng viên tên Hammersmith ngay trước phiên tòa. - Ông ơi, ông có nghe tôi nói không? - McGee hỏi. Vẻ chậm chạp, Coffey gật đầu. Gã vẫn vòng tay ôm những con búp bê không nói được của gã, cằm của chúng đập vào ngực nên không thấy rõ mặt, một trong những ân huệ ít ỏi mà Chúa thấy thích hợp để ban bố vào hôm ấy. - Ông có tên không? - McGee hỏi. - John Coffey. - Gã trả lời bằng giọng khản đặc, đẫm nước mắt. - Coffey như thứ nước uống, có điều không viết giống. McGee gạt đầu rồi lấy ngón cái chỉ vào túi áo ngực căng phồng của Coffey. Có lẽ McGee thấy giống như một khẩu súng - một gã to xác cỡ Coffey không cần đến súng để gây họa, nếu gã quyết định ra tay. - Cái gì trong đó, John Coffey? Một khẩu súng lục? - Không, thưa ngài. - Coffey nói giọng khản đặc, và đôi mắt kì lạ - bề ngoài đẫm nước mắt và đau đớn, bên trong xa vắng và bình thản khác thường, như thể con người thật của John Coffey ở nơi nào khác, đang nhìn ra một quang cảnh khác, nơi những bé gái bị sát hại không đáng để xét hỏi tỉ mỉ - không rời khỏi mắt phụ tá cảnh sát trưởng McGee. - Chỉ là một ít bữa ăn trưa của tôi. - Ô, coi nào, một ít bữa ăn trưa, đúng không? - McGee hỏi và Coffey gật đầu rồi nói vâng thưa ngài với đôi mắt chảy nước và nước mũi thò lò bên ngoài. - Những loại người như ông ấy đâu ra một ít bữa ăn trưa, John Coffey? - Cố dằn lòng giữ bình tĩnh, mặc dù lúc ấy anh ta ngửi được mùi các cô bé, thấy được lũ ruồi nhặng loang loáng và thưởng thức những chỗ ướt trên người chúng. Sau này anh ta nói mái tóc của chúng là chuyện tệ hại nhất... chi tiết này không được đăng trên bất cứ tờ báo nào; nó được xem là quá rùng rợn để đọc trong gia đình. Không, tôi biết sự việc này từ tay phóng viên viết lại câu chuyện, ông Hammersmith. Sau này tôi đến thăm ông ta, bởi vì sau này John Coffey trở thành nỗi ám ảnh của tôi. McGee kể với Hammersmith rằng mái tóc vàng của chúng không còn là màu vàng nữa. Nó là màu nâu vàng. Máu từ tóc ứa ra, chảy xuống má như một thứ thuốc nhuộm tóc tồi tệ, và bạn không cần phải là bác sĩ để thấy rằng xương sọ mảnh mai của chúng đã bị đập vào nhau bằng sức mạnh của hai cánh tay đồ sộ ấy. Có lẽ chúng đã khóc. Có lẽ gã muốn làm cho chúng nín. Nếu những cô bé này gặp may mắn thì chuyện này xảy ra trước khi chúng bị hãm hiếp. Việc chứng kiến cảnh tượng đó làm cho một con người thật khó mà suy nghĩ, kể cả với người cương quyết thi hành nhiệm vụ như phụ tá cảnh sát trường McGee. Suy nghĩ không đúng có thể gây ra sai lầm, có thể gây thêm đổ máu. McGee hít một hơi sâu và tự trấn tĩnh. Dù sao cũng phải cố gắng. - Thưa ngài, tôi không nhớ chính xác, nếu tôi nói sai thì tôi là đồ chó. - Coffey nói bằng giọng nghẹn ngào vì nước mắt. - Nhưng đó là một ít bữa ăn trưa, phải, sandwich và tôi nghĩ có món giấm ngọt. - Có lẽ tôi phải chính mắt nhìn thấy, với anh thì cũng thế thôi. - McGee nói. - Liệu hồn chớ cử động, John Coffey. Đừng làm thế, trời ạ, bởi vì có đủ súng đang nhắm vào anh để làm cho anh biến mất từ thắt lưng trở lên, chỉ cần anh nhúc nhích một ngón tay thôi. Coffey nhìn sang bên kia sông và không cử động, trong khi McGee nhẹ nhàng thọc tay vào túi áo ngực trên yếm và lôi ra thứ gì đó được gói bằng giấy báo và cột bằng một sợi dây của cửa hàng thịt. McGee tháo dây và mở gói giấy ra, mặc dù anh ta biết chắc đúng là thứ Coffey đã nói - một ít bữa ăn trưa. Có một bánh sandwich thịt lợn muối cà chua và một gói thạch. Có cả món ngâm dấm, gói bằng chính trang báo đố chữ mà John Coffey không bao giờ có khả năng giải đáp. Không có xúc xích. Bowser đã xơi hết số xúc xích trong bữa ăn trưa ít ỏi của John Coffey. McGee đưa gói thức ăn trưa qua vai cho một trong những người kia, mắt không rời John Coffey. Ngồi xổm xuống như thế, anh ta đã ở quá gần để cho phép tự xao lãng, dù chỉ một giây. Bữa ăn trưa được gói lần nữa và cột lại cho an toàn, sau cùng đến tay Bobo Marchant, anh này bỏ nó vào balô, nơi anh ta để thức ăn cho đàn chó. Gói thức ăn đã không được đưa ra làm vật chứng tại phiên tòa - công lí tại phần đất này của thế giới vốn nhanh nhạy, nhưng không nhanh nhạy bằng bánh sandwich thịt lợn muối cà chua biến chất - mặc dù các ảnh chụp có được trưng ra. - Chuyện gì xảy ra ở đây, John Coffey? - McGee thấp giọng hỏi, vẻ nghiêm chỉnh nhất. - Anh muốn kể tôi nghe không? Và Coffey kể cho McGee và những người kia gần như chính xác điều gã đã kể cho tôi nghe; chúng cũng là những lời cuối cùng công tố viên tuyên bố với hội thẩm tại phiên xử án John Coffey. - Tôi không thể làm gì. - John Coffey nói, ôm những cô bé bị giết, bị cưỡng hiếp trần trụi trong tay. Nước mắt lại bắt đầu trào xuống má gã. - Tôi cố gắng rút lại, nhưng đã quá muộn. - Này, mày đã bị bắt vì tội giết người. - McGee tuyên bố, rồi anh ta nhổ nước bọt vào mặt John Coffey. Hội thẩm ra ngoài trong bốn mươi lăm phút. Chỉ vừa đủ thời gian để ăn một ít bữa trưa của chính họ. Tôi tự hỏi họ còn lòng dạ nào mà ăn uống. Chương 5 Tôi nghĩ bạn biết tôi không khám phá được tất cả những sự kiện đó vào một buổi chiều nóng nực tháng mười trong cái thư viện trại giam sắp bị khai tử, từ một bộ báo cũ chất đống trong cặp sọt đựng cam Pomana, nhưng tôi đã biết đủ để khó ngủ đêm hôm ấy. Khi vợ tôi thức giấc lúc hai giờ sáng và bắt gặp tôi ngồi trong nhà bếp đang uống buttermilk và hút thuốc quấn Bugler, nàng hỏi tôi chuyện gì không ổn và tôi đã nói dối, một trong ít ỏi những lần nói dối suốt chặng đường hôn nhân lâu dài của chúng tôi. Tôi nói đã va chạm với Percy Wetmore lần nữa. Tất nhiên là có, nhưng đấy không phải là lí do để nàng bắt gặp tôi thức dậy sớm. Tôi thường có khả năng bỏ Percy lại văn phòng. - Thôi, quên cái quả táo thối ấy đi và quay về giường. - Vợ tôi nói. - Em có cái sẽ giúp anh ngủ được và anh có thể có những gì anh muốn. - Em nói nghe hấp dẫn đấy, nhưng anh nghĩ chúng ta không nên. - Tôi đáp. - Anh có chuyện rắc rối nhỏ với hệ thống nước thải của anh và không muốn trút sang em. Vợ tôi nhướng một bên lông mày lên. - Hệ thống nước thải há? - Nàng nói. - Em đoán chắc anh đã lăng nhăng với ả gái điếm bệnh hoạn khi đến Baton Rouge lần vừa qua. - Tôi chưa bao giờ đến Baton Rouge và cũng chưa bao giờ đụng đến một ả gái điếm, và cả hai chúng tôi đều biết như thế. - Chỉ là cái bệnh nhiễm trùng đường tiểu cũ thôi. - Tôi trả lơi. - Mẹ anh thường bảo con trai mắc bệnh đó vì đi tiểu khi gió Bắc nổi lên. - Mẹ anh cũng thường ngồi lì ở nhà suốt ngày nếu bà làm đổ lọ muối. - Vợ tôi nói. - Bác sĩ Sadler. - Không, thưa ngài. - Tôi nói, tay giơ lên. - Ông ấy muốn anh uống thuốc sulfa, và anh sẽ nôn mửa trong khắp góc văn phòng, nhưng trước mắt, anh nghĩ tốt nhất chúng ta tránh xa sân chơi. Nàng hôn lên trán ngay trên lông mày bên trái của tôi, một cử chỉ luôn luôn làm tôi nổi da gà... và Janice biết rất rõ điều đó. - Tội nghiệp cưng. Cứ như thể gã Percy Wetmore tồi tệ đó chưa đủ vậy. Sớm vào giường nhé. Tôi đã làm thế, nhưng trước khi làm, tôi bước ra hiên sau nhà để trút ra ngoài. “Trút bầu tâm sự” ngoài trời là một cái thú của cuộc sống vùng quê mà các nhà thơ không bao giờ miêu tả nổi, nhưng đêm hôm ấy tôi không vui thú chút nào; dòng nước thoát ra khỏi người tôi bỏng rát như một dòng dầu hỏa bị đốt cháy. Tuy thế tôi nghĩ chứng bệnh nặng hơn vào chiều hôm đó, và đã biết nó trở nặng hơn từ hai hoặc ba ngày trước. Tôi hi vọng có thể đã bắt đầu khỏi bệnh. Chưa bao giờ niềm hi vọng lại thiếu căn cứ hơn thế. Không ai cho tôi biết rằng đôi khi vi trùng xâm nhập vào trong đó, nơi vốn ấm áp và ẩm ướt, lại có thể nghỉ ngơi một hoặc hai ngày trước khi mạnh mẽ trở lại. Tôi sẽ ngạc nhiên khi biết điều đó. Tôi sẽ còn ngạc nhiên hơn nữa khi biết rằng trong hai mươi năm nữa, sẽ có thuốc cho bạn uống để quất cái thứ nhiễm trùng đó văng ra khỏi hệ thống của bạn trong thời gian kỉ lục... và trong khi những loại thuốc đó có thể làm bạn nôn nao một chút ở dạ dày hoặc chảy lỏng trong ruột, chúng gần như không bao giờ làm cho bạn nôn mửa như thuốc viên sulfa của bác sĩ Sadler. Vào năm ba mươi hai, bạn không thể làm gì nhiều hơn là chờ đợi, và cố mà lờ đi cái cảm giác có ai đó đã đổ dầu hỏa vào cơ thể bạn rồi dí một que diêm vào đó. Tôi kết thúc mẩu thuốc lá còn lại, vào phòng tắm, rồi sau cùng thiếp ngủ được. Tôi mơ thấy những bé gái có nụ cười e thẹn và máu dính trên tóc. Sáng hôm sau có một mẩu giấy ghi nhớ màu hồng trên bàn giấy của tôi, yêu cầu tôi ghé qua văn phòng Giám thị ngay khi có thể. Tôi biết là chuyện gì - có những luật chơi bất thành văn nhưng rất quan trọng, và ngày hôm qua có lúc tôi đã thôi chơi theo luật - và tôi đã trì hoãn lâu đến mức có thể. Giống như đến bác sĩ vì chuyện rắc rối hệ thống nước thải của mình, tôi luôn nghĩ rằng cái trò “giải quyết cho xong” này đã bị thổi phồng quá đáng. Dù gì tôi cũng không vội đến văn phòng của Giám thị Moores. Thay vào đó, tôi cởi chiếc áo khoác đồng phục bằng len ra, vắt lên lưng ghế và bật quạt trong góc phòng - lại thêm một ngày nóng bức. Rồi tôi ngồi xuống và xem qua bản báo cáo trực đêm của Brutus Howell. Không có gì đáng lo ngại. Delacroix đã khóc lóc sau khi vào giường - hầu như đêm nào cũng khóc, khóc cho bản thân gã nhiều hơn cho những người mà gã đã thiêu sống, tôi dám chắc thế - rồi sau đó lấy ông Jingles, con chuột, ra khỏi cái hộp xì gà, nơi nó ngủ. Điều khiến Del dịu xuống, và gã ngủ ngon như em bé suốt đêm còn lại. Dường như ông Jingles nằm trên bụng Delacroix, đuôi cuộn lại trên chân, mắt mở trao tráo. Như thể Chúa quyết định Delacroix cần có một thiên thần hộ mệnh, nhưng đã quy định trong trí tuệ của Người rằng, chỉ một con chuột nhắt mới thích hợp với một con chuột cống như anh bạn giết người đến từ Louisiana của chúng ta. Không phải tất cả những điều đó nằm trong báo cáo của Brutus, dĩ nhiên, nhưng bản thân tôi đã trực đêm đủ nhiều để hiểu được ẩn ý. Có một đoạn vắn tắt về Coffey: “Nằm thao thức, phần nhiều im lặng, có lẽ đã khóc một chút. Tôi thử gợi chuyện, nhưng sau vài tiếng càu nhàu đáp lại của Coffey, tôi chào thua. Có thể Paul hoặc Harry gặp may hơn.” - Thử gợi chuyện. - Thật sự là trọng tâm công việc của chúng tôi. Lúc ấy tôi không biết, nhưng nhìn lại từ điểm thuận lợi của tuổi già kì lạ này, tôi hiểu nó là trọng tâm, và tại sao lúc ấy tôi không hiểu - nó quá to tát, là trọng tâm đối với công việc của chúng tôi, chúng như hít thở là trọng tâm đối với sự sống của chúng ta. Nó không quá quan trọng để những người làm việc thời vụ phải giỏi gợi chuyện, nhưng đối với tôi, Harry, Brutal và Dean lại vô cùng thiết yếu... và nó giải thích tại sao Percy Wetmore là một tai họa. Tù nhân ghét hắn, lính gác ghét hắn... mọi người ghét hắn, có lẽ ngoại trừ những mối quan hệ chính trị của hắn, bản thân Percy, và có thể là mẹ hắn. Hắn như một liều thạch tín rắc vào ổ bánh cưới, và tôi nghĩ mình đã biết hắn bốc mùi tai họa ngay từ đầu. Hắn là một tai nạn rình rập xảy ra. Về phần tất cả chúng tôi, hẳn chúng tôi sẽ chế giễu cái ý tưởng cho rằng chúng tôi hoạt động có hiệu quả, không chỉ như người canh gác những kẻ bị kết án, nhưng còn như chuyên viên tâm lí của họ - ngày hôm nay một phần con người tôi vẫn còn muốn chế giễu ý tưởng đó - nhưng chúng tôi biết cách gợi chuyện... và nếu không nói chuyện, những kẻ đối mặt với Già Sparky sẽ có thói quen tệ hại là hóa điên. Tôi ghi chú vào bên dưới báo cáo của Brutal để nhớ gợi chuyện với John Coffey rồi chuyển qua một ghi chú của Curtis Anderson, đang chờ đợi lệnh DOE sắp đến cho Edward Delacrois (Anderson viết sai chính tả, thực sự tên gã là Eduard Delacroix). DOE nghĩa là ngày thi hành án, và theo đó thì Curtis được tin có thẩm quyền cho biết gã người Pháp nhỏ bé sẽ bước trên Dặm Đường Xanh, không lâu trước lễ Halloween - anh ta đoán chắc nhất là ngày hai mươi bảy tháng mười, và những tiên đoán của Curtis Anderson thì rất thông thạo. Nhưng trước đó có thể chúng tôi sẽ nhận một gã tù nhân mới, tên William Wharton. Gã là cái mấy anh thích gọi là “trẻ em có vấn đề”. Hung bạo, điên rồ và kiêu ngạo về tính cách đó. Lang bạt khắp tiểu bang suốt năm ngoái, sau cùng đã gây ra chuyện lớn. Giết ba người trong một vụ cướp giật, một là phụ nữ có thai, giết người thứ tư tại cổng ra vào là cảnh sát tiểu bang. Gã chỉ giết hụt một nữ tu và một người mù”. Tôi hơi buồn cười trước điều này. “Wharton mười chín tuổi, xăm hình Billy the Kid trên bắp tay trái. Anh sẽ phải đập vào mũi nó một hay hai lần, tôi đảm bảo với anh điều đó, nhưng hãy cẩn thận khi ra tay. Thằng này cóc cần đời.” Anh ta gạch dưới câu cuối này hai lần, rồi kết luận: “Đồng thời nó có thể là kẻ làm phí thời giờ. Nó đang tiến hành kháng cáo, và thực tế là vị thành niên.” Một thằng nhóc điên rồ, tiến hành kháng cáo, có khả năng ngồi tù một thời gian. Ồ, tất cả nghe hay thật. Đột nhiên ngày có vẻ nóng nực hơn bao giờ hết, và tôi không thể trì hoãn việc gặp Giám thị Moores nữa. Tôi đã làm việc cho ba Giám thị trong những năm làm lính gác ở Cold Mountain; Hal Moores là người sau cùng và tốt nhất. Lương thiện, thẳng thắn, thậm chí thiếu óc sắc sảo cơ bản của Curtis Anderson, nhưng được trang bị vừa đủ thế lực chính trị để giữ được chức vụ trong những năm u ám đó... và đủ liêm chính để không bị cám dỗ bởi trò chơi. Moores sẽ không leo cao hơn nữa, nhưng với ông thì dường như thế là tạm được. Lúc ấy ông năm mươi chín tuổi, gương mặt đầy nét hằn sâu như mặt chó săn bloodhound mà có lẽ Bobo Marchant sẽ thích ngay. Ông có mái tóc trắng, bàn tay run rẩy vì một chứng liệt nào đó, nhưng mạnh mẽ. Năm trước, khi một gã tù nhân xông vào ông trong sân tập thể dục với khúc gỗ chuốt nhọn, Moores vẫn giữ vững tư thế, chụp lấy cổ tay thằng khốn, vặn mạnh đến nỗi xương vỡ nghe như tiếng cành cây khô nổ khi bị đốt trong lửa nóng. Quên hết những đau đớn, gã tù nhân gục xuống bùn và bắt đầu gào lên gọi mẹ. - Tao không phải bà ấy! - Moores nói bằng giọng miền Nam có giáo dục. - Nhưng nếu là bà ấy, tao sẽ vén váy lên và tè vào mày từ cái nơi đã sinh ra mày. Khi tôi bước vào văn phòng, ông dợm đứng dậy và tôi vẫy tay ra hiệu cho ông ngồi xuống. Tôi lấy ghế ngồi đối diện qua bàn giấy và bắt đầu hỏi thăm về vợ ông... ngoại trừ trong thế giới của chúng tôi, ở ngoài đời bạn không xử sự như thế. - Cô gái xinh đẹp của ông thế nào? - Đó là câu hỏi của tôi, như thế Melinda mới chỉ nhìn mười bảy mùa hè trôi qua thay vì sáu mươi ba. Sự quan tâm của tôi là thật tình - bà là người phụ nữ tôi có thể đã yêu và kết hôn, nếu như đường đời của chúng tôi gặp nhau - nhưng tôi cũng chẳng ngại làm cho ông ấy xao lãng công việc đôi chút. Ông thở dài. - Không khỏe lắm, Paul à. Không khỏe chút nào. - Nhức đầu thêm nữa? - Tuần này chỉ một lần, nhưng là lần tồi tệ nhất, bà ấy phải nằm gần suốt ngày hôm kia. Và bây giờ tình trạng yếu bàn tay phải gia tăng. - Ông ấy giơ bàn tay phải màu nâu đỏ lên. Cả hai chúng tôi nhìn nó run rẩy bên trên bàn thấm mực trong một tháng, rồi ông lại hạ tay xuống. Tôi có thể nói rằng ông ấy sẽ chịu mất bất cứ điều gì để không phải kể với tôi điều đang kể, và tôi sẽ chịu mất bất cứ điều gì để không phải nghe điều đó. Những cơn nhức đầu của Melinda đã bắt đầu vào mùa xuân, suốt mùa hè năm ấy bác sĩ riêng của bà cứ nói chúng là chứng “đau nửa đầu vì lo lắng căng thẳng” , có lẽ vì việc Hal sắp về hưu gây stress. Ngoại trừ việc không ai trong số họ có thể chờ đợi việc ông về hưu, và vợ tôi đã bảo rằng chứng nhức nửa đầu là bệnh của giới trẻ, không phải bệnh của người già; đến thời điểm bệnh nhân bằng tuổi Melinda Moores, thông thường họ sẽ tốt hơn chứ không xấu đi. Và bây giờ đến tình trạng bàn tay yếu. Tôi nghe không giống bệnh lo lắng căng thẳng mà nghe như chứng đột quỵ đáng nguyền rủa. - Bác sĩ Haverstrom muốn vợ tôi đến bệnh viện ở tận Indianola để xét nghiệm. - Moores nói. - Ý ông ta là chụp X quang đầu. Ai mà biết còn gì khác nữa. Bà ấy sợ muốn chết. - Ông dừng lại, rồi nói thêm. - Nói thật, tôi cũng sợ. - Phải, nhưng ông hãy lo cho bà ấy tiến hành đi. - Tôi đáp - Đừng chờ đợi. Nếu hóa ra thứ gì đó người ta nhìn được bằng X quang, có thể sẽ hóa ra thứ gì đó người ta chữa được. - Phải! - Ông ấy đồng ý, rồi trong thoáng chốc - khoảnh khắc duy nhất trong cuộc nói chuyện của chúng tôi, như tôi nhớ lại - ánh mắt chúng tôi gặp và khóa chặt vào nhau. Có một thứ hiểu biết hoàn toàn trần trụi giữa chúng tôi, không cần nói. Phải, có thể là chứng đột quỵ. Cũng có thể là một khối u phát triển trong não bộ bà ấy và nếu thế, cơ may các bác sĩ ở Indianola có thể làm được gì chỉ từ mong manh đến con số không. Lúc ấy là năm 1932, nên nhớ điều đó, thời kì mà thậm chí với một thứ tương đối đơn giản như nhiễm trùng đường tiểu thì hoặc là thuốc sulfa và lôi thôi, hoặc chịu đựng và chờ đợi. - Tôi cảm ơn anh đã quan tâm, Paul ạ. Bây giờ ta nói chuyện về Percy Wetmore. Tôi rên lên và che mắt lại. - Sáng nay tôi nhận được cú điện thoại từ thủ phủ tiểu bang. - Viên Giám thị bình thản nói. - Một cú gọi khá giận dữ, mà tôi chắc anh có thể hình dung ra. Paul này Thống đốc râu quặp đến mức gần như lão ta không hiện hữu, nếu anh hiểu ý tôi. Và vợ lão có ông anh có một con. Đứa con đó là Percy Wetmore. Đêm qua Percy gọi điện cho bố, rồi bố Percy gọi điện cho cô của Percy. Tôi có cần vạch ra phần còn lại cho anh không? - Không. - Tôi trả lời. - Percy là đồ mách lẻo. Cứ như thằng học trò õng ẹo mách thầy nó bắt gặp Jack và Jill ôm hôn nhau trong phòng cất áo choàng. - Phải. - Moores đồng ý. - Đúng là tầm cỡ đó. - Ông biết chuyện xảy ra giữa Percy và Delacroix khi Delacroix nhập trại chứ? - Tôi hỏi. - Percy và cây dùi cui gỗ hồ đào khốn kiếp của hắn đấy? - Biết, nhưng... - Và ông biết thỉnh thoảng hắn lại quẹt cây dùi cui dọc theo chấn song như thế nào, chỉ thuần túy vì thú tính. Hắn đê tiện và ngu ngốc. Tôi không biết còn chịu nổi hắn được bao lâu nữa. Đấy là sự thật. Chúng tôi biết nhau đã được năm năm. Đó có thể là một quãng thời gian dài để người ta hòa hợp với nhau, đặc biệt khi công việc là đánh đổi sự sống lấy cái chết. Điều tôi muốn nói là ông ấy hiểu ý tôi. Chẳng phải tôi sẽ bỏ việc, không thể bỏ việc trong khi cuộc Đại Khủng Hoảng đang quanh quẩn bên ngoài các bức tường nhà tù như một con thú nguy hiểm, một con thú không thể bị đem nhốt như trách nhiệm của chúng tôi. Nhiều người giỏi hơn tôi đang vất vưởng ngoài đường hoặc lâm vào thế cưỡi cọp. Tôi có may mắn và biết rõ điều đó - con cái lớn lên và nợ cầm cố, cái khối đá cẩm thạch nặng 200 pound đó đã cất ra khỏi lồng ngực tôi từ hai năm nay. Nhưng một gã đàn ông phải có ăn, và vợ hắn cũng phải ăn. Đồng thời, chúng tôi đã quen cho con gái chúng tôi và anh con rể 20 đôla mỗi khi có thể. Anh ta là một giáo viên trung học thất nghiệp, vào thời đó nếu như thế chưa đủ tiêu chuẩn để tuyệt vọng thì cái từ đó chẳng còn ý nghĩa gì nữa. Vậy thì không, bạn không bỏ cái việc làm được trả lương bằng chi phiếu như của tôi... không lạnh lùng mà bỏ đâu. Nhưng mùa thu năm ấy máu tôi không lạnh. Nhiệt độ bên ngoài đã vô lí, bệnh nhiễm trùng bò quanh trong người tôi còn làm tăng nhiệt kế hơn nữa. Và khi một con người lâm vào thứ tình huống như vậy, đôi khi cú đấm của anh ta tự ý tung ra theo ý của nó. Và nếu bạn đã một lần đánh kẻ có thế lực như Percy Wetmore, bạn nên tiếp tục đánh, bởi vì không thể thối lui. - Hãy kiên trì. - Moores lặng lẽ khuyên. - Đấy là điều tôi gọi vào anh để nói. Tôi nắm được nguồn tin có thẩm quyền - thực tế là người đã gọi điện cho tôi sáng nay - cho biết Percy nộp đơn xin việc tại Briar, và đơn của hắn đã được chấp thuận. - Briar. - Tôi thốt lên. Đấy là Briar Ridge, một trong hai bệnh viện công thuộc tiểu bang. - Thằng nhóc làm gì vậy? Thanh tra cơ sở tiểu bang chăng? - Công việc quản lí. Lương cao hơn và đẩy giấy tờ, thay vì đẩy giường bệnh dưới sức nóng ban ngày. - Ông ấy tặng tôi một nụ cười đầy vẻ thành kiến. - Paul, anh biết đấy, lẽ ra anh đã loại được hắn nếu không nhét hắn vào phòng cơ điện với Van Hay khi Tù trưởng bước trên Dặm Đường Xanh. Trong một thoáng, điều ông nói có vẻ lạ thường đến nỗi tôi không có manh mối để hiểu ông định nói gì. Có lẽ tôi không muốn có manh mối. - Thế tôi sẽ cất hắn vào đâu? - Tôi hỏi. - Lạy Chúa, hắn gần như cóc hiểu hắn làm gì ở Khu! Để hắn tham gia vào đội thi hành án... - Tôi không nói hết câu. Không thể nói hết câu. Tiềm năng phạm sai lầm dường như không có kết thúc. - Tuy nhiên, anh sẽ làm đúng nếu cho hắn xuất hiện với Delacroix. Nghĩa là, nếu anh muốn trừ khử hắn. Tôi nhìn ông ấy, miệng há hốc. Sau cùng tôi đã nắm được mấu chốt để có thể phát biểu. - Ông nói gì? Rằng hắn muốn đến tận nơi có thể ngửi được mùi tử tội bị nướng chín? - -- Moores nhún vai. Ánh mắt ông, vốn dịu dàng khi nói về vợ mình, trở nên sắt đá. - Cái của nợ của Delacroix sẽ bị nướng chín dù Wetmore có tham gia đội hay không? - Ông nói. - Đúng không? - Vâng, nhưng hắn có thể làm hỏng chuyện. Hal, trên thực tế nhất định hắn sẽ làm hỏng chuyện. Lại trước mắt khoảng ba mươi nhân chứng nữa kia... và các phóng viên từ Louisiana lên... - Anh và Brutus Howell phải đảm bảo không để cho hắn sai lầm. - Moores đáp. - Và nếu như hắn cứ sai lầm, sự việc sẽ được ghi vào hồ sơ, và sự việc sẽ còn đó lâu dài, cả sau khi thế lực chính trị của hắn đã tiêu tan. Anh hiểu chứ? Tôi hiểu. Điều đó làm tôi muốn phát bệnh và hoảng sợ nhưng tôi hiểu. - Có thể hắn muốn ở lại vì Coffey, nhưng nếu chúng ta gặp may, hắn sẽ có đủ những gì hắn cần từ Delacroix. Anh nhất định sắp xếp cho hắn xuất hiện một lần này. Tôi đã có kế hoạch đẩy Percy vào phòng cơ điện lần nữa, sau đó xuống dưới hầm, cầm súng bảo vệ băng ca chở Delacroix ra xe chở xác đỗ bên kia đường, đối diện trại giam, nhưng rồi tôi vứt tất cả những kế hoạch đó qua vai, không nhìn lại một lần thứ hai. Tôi gật đầu. Tôi có ý thức mình đang đánh bạc, nhưng tôi cóc cần. Để loại trừ Percy Wetmore, tôi sẵn sàng véo cả mũi quỷ sứ. Hắn có thể tham gia vào đội thi hành án, chụp cái mũ kim loại lên đầu tử tội, rồi nhìn qua tấm phên sắt và bảo Van Hay đóng cầu dao; hắn có thể nhìn gã người Pháp nhỏ bé cưỡi trên tia chớp mà hắn, Percy Wetmore, đã thả từ trong chai ra. Cứ cho hắn hưởng cái thú vui run rẩy ghê tởm, nếu đấy là điều có ý nghĩa đối với hắn. Cứ để hắn đến Briar Ridge, nơi hắn sẽ có văn phòng riêng và một cái quạt để làm mát. Và nếu lão chú bên thông gia bị thất bại trong kì bầu cử sau và hắn phải hiểu thế nào là lao động trong cái thế giới nhọc nhằn cháy nắng cũ kĩ, nơi không phải tất cả bọn xấu đều bị nhốt sau chấn song sắt và thỉnh thoảng chính mình bị quất roi vào đầu, thì mặc xác hắn. - Được. - Tôi nói và đứng dậy. - Tôi sẽ cho hắn xuất hiện với Delacroix. Và trước mắt, tôi giữ gìn hòa bình. - Tốt. - Ông ấy đáp và cũng đứng dậy. - Nhân tiện, vấn đề của anh thế nào? - Ông tế nhị chỉ vào hạ bộ của tôi. - Có vẻ đỡ hơn một chút. - Thế thì tốt. - Ông tiễn tôi ra cửa. - Nhân tiện, Coffey thế nào? Gã sẽ gây rắc rối không? - Tôi nghĩ là không. - Tôi trả lời. - Cho đến nay gã vẫn yên lặng như một con gà chết. Gã rất kì lạ - đôi mắt kì lạ - nhưng yên lặng. Tuy nhiên chúng tôi vẫn theo dõi. Đừng lo! - Dĩ nhiên anh biết gã đã làm gì. - Chắc chắn. Ông tiễn tôi ra đến văn phòng ngoài, nơi cô gái già Hannah vẫn đánh vật với cái máy đánh chữ hiệu Underwood như thuở nào. Tôi rất mừng được đi khỏi. Xét cho cùng, tôi cảm thấy như đã thoát nạn một cách dễ dàng. Sau hết, thật tốt đẹp khi biết có cơ hội thoát khỏi gã Percy. - Ông gửi Melinda một giỏ tình cảm đầy của tôi. - Tôi nói. - Và cũng đừng đi mua thêm cho mình một sọt phiền hà nữa. Có lẽ sẽ hóa ra chẳng là gì ngoài chứng nhức nửa đầu. - Còn phải nói. - Moores đáp, và bên dưới đôi mắt bệnh hoạn, môi ông ấy nở một nụ cười. Một kết hợp gần như ma quái đáng nguyền rủa. Về phần mình, tôi trở lại Khu E để bắt đầu một ngày mới. Có giấy tờ để đọc và viết, sàn nhà để lau chùi, có bữa ăn để dọn ra, một bảng phân công trực để soạn cho tuần sau, có hàng trăm chi tiết để xem xét. Nhưng hầu hết là chờ đợi - điều này thì trong trại giam luôn luôn thừa thãi, nhiều đến nỗi không bao giờ hết. Chờ Eduard Delacroix bước trên Dặm Đường Xanh, chờ William Wharton đến với cái môi cong cớn và hình xăm Billy the Kid, và trên hết, chờ Percy Wetmore cút ra khỏi cuộc đời tôi. Chương 6 Con chuột của Delacroix là một trong những bí mật của Chúa. Tôi chưa bao giờ thấy một con trong Khu E trước mùa hè, và không bao giờ thấy một con sau mùa thu năm ấy, khi Delacroix ra đi khỏi sự bầu bạn của chúng tôi vào một đêm tháng mười nóng bức, đầy giông tố - ra đi theo một kiểu cách tồi tệ đến mức tôi không sao nhớ lại được. Delacroix xác nhận gã đã huấn luyện con chuột và nó bắt đầu cuộc sống giữa chúng tôi với cái tên Steamboat Willy, nhưng tôi thật sự nghĩ ngược lại. Dean Stanton cũng cảm thấy như thế, cả Brutal nữa. Cả hai có mặt tại chỗ khi con chuột xuất hiện lần đầu, và như Brutal đa nói: - Con vật được huấn luyện nửa vời, và thông minh gấp hai lần gã Cajun trong bất cứ ý tưởng nào gã có. Dean và tôi đang ở trong văn phòng, xem xét thùng hồ sơ năm trước, chuẩn bị để viết những thư mời - bổ sung cho nhân chứng trong năm vụ thi hành án, và sáu vụ khác, rải ngược về năm 1929. Về căn bản, chúng tôi chỉ muốn biết một điều: họ có hài lòng với sự phục vụ không? Tôi biết nói ra nghe lố bịch, nhưng đấy là một tính toán quan trọng. Là những người phải đóng thuế, họ là khách hàng của chúng tôi, nhưng là khách hàng đặc biệt. Một người đàn ông hoặc phụ nữ xuất hiện vào nửa đêm để chứng kiến một người phải chết là đã có một lí do đặc biệt, thúc bách để có mặt, một nhu cầu đặc biệt. Nếu việc thi hành án là một sự trừng phạt thỏa đáng thì nhu cầu đó phải được thỏa mãn. Họ đã có ác mộng. Mục đích của sự thi hành án là để cho họ thấy ác mộng đã chấm dứt. Thậm chí có lẽ cách đó mới hiệu quả. - Này! - Brutal lên tiếng gọi từ ngoài cửa, nơi cậu ấy đang trấn giữ bàn giấy ở đầu hành lang. - Này, hai người! Ra đây! Dean và tôi trố mắt nhìn nhau với cùng cảm giác báo động, nghĩ rằng chuyện gì đó đã xảy ra với gã da đỏ đến từ Oklahoma (gã tên Arlen Bitterbuck, nhưng chúng tôi gọi gã là Tù trưởng... hoặc theo lời Harry Terwilliger, là Tù trưởng Phômai Dê, vì Harry bảo Bitterbuck hôi mùi dê) , hoặc với gã chúng tôi gọi là Tổng thống. Nhưng rồi Brutal bắt đầu cười, và chúng tôi hấp tấp ra xem chuyện gì xảy ra. Chuyện cười cợt trong Khu E nghe ngớ ngẩn như cười trong nhà thờ vậy. Toot Toot, lão tù nhân tín cẩn có nhiệm vụ đẩy xe thức ăn vào thời kì đó, đã đi qua với cái xe đẩy linh thiêng đầy món ăn ngon và Brutal chất một đống sau một đêm dài - ba cái bánh sanwich, hai li nước sủi bọt và một vài cái bánh Moon Pie. Kể cả một dĩa xà lách khoai tây mà Toot hẳn đã thuổng từ nhà bếp trại giam, thứ được coi là ngoài khả năng của lão. Brutal để mở quyển nhật kí công tác trước mặt anh ta - vì một điều kì diệu nào đó, anh ta chưa làm đổ thứ gì lên đấy. Tất nhiên anh ta mới chỉ bắt đầu. - Gì? - Dean hỏi. - Có chuyện gì? - Rốt cuộc năm nay cơ quan lập pháp tiểu bang chắc phải mở rộng hầu bao để thuê thêm lính gác. - Brutal nói, vẫn còn cười. - Nhìn kìa! Anh ta chỉ tay và chúng tôi nhìn thấy con chuột. Tôi cũng bắt đầu cười. Dean phụ họa theo tôi. Thật sự bạn không thể dừng được, vì một lính gác đi tuần tra theo tua mười lăm phút đúng là phong cách mà con chuột ra dáng: một tên lính gác nhỏ xíu, lông lá, đảm bảo không để cho kẻ nào tìm cách chạy trốn hoặc tự tử. Nó chạy lon ton một đoạn về phía chúng tôi dọc theo Dặm Đường Xanh, sau đó quay đầu sang hai bên như thể đang kiểm tra các xà lim. Rồi nó vọt lên trước một đoạn nữa. Việc nghe được cả hai tù nhân hiện tại của chúng tôi đang ngáy thay vì gào thét, và tiếng cười, cách nào đó đã làm cho con chuột càng khôi hài hơn. Nó là một con chuột nâu hoàn toàn bình thường, ngoại trừ dáng vẻ đang kiểm tra các xà lim, nhanh nhẹn nhảy qua những chấn song bên dưới theo một cách mà tôi tưởng tượng nhiều tù nhân của chúng tôi, từ quá khứ đến hiện tại, sẽ phải ganh tị. Dĩ nhiên ngoại trừ việc tù nhân luôn muốn nhảy ra ngoài. Con chuột không vào hai xà lim có người, mà chỉ vào những xà lim trống. Sau cùng, nó đến gần chỗ chúng tôi. Tôi vẫn chờ nó quay lại, nhưng nó không làm thế. Nó không tỏ ra sợ chúng tôi chút nào. - Một con chuột xông đến chỗ có người theo kiểu đó thật không bình thường. - Dean lên tiếng, vẻ hoang mang. - Có lẽ nó mắc bệnh dại. - Ôi, lạy chúa tôi. - Brutal nói qua một miệng đầy bánh sandwich thịt bò. - Chuyên viên có hạng về chuột. Ông Chuột đây. Cậu có thấy nó sùi bọt mép không, ông Chuột? - Tôi không thấy miệng của nó. - Dean trả lời, và điều đó lại làm cho chúng tôi buồn cười lần nữa. Tôi cũng không thấy miệng của nó, nhưng có thể thấy những dấu nhỏ màu đen là cặp mắt, và tôi không thấy có vẻ điên hoặc bệnh dại gì cả. Cặp mắt nhìn chăm chú và thông minh. Tôi đã đưa nhiều con người vào chỗ chết - những người được cho là có linh hồn bất tử - nhưng trông họ ngu ngốc hơn con chuột đó. Nó vụt chạy trên Dặm Đường Xanh đến một điểm cách bàn trực không đầy ba feet... và nó dừng lại đó, cuộn đuôi quanh bàn chân, đứng đắn như một quý bà xếp nếp váy. Tôi thôi cười ngay lập tức, đột nhiên cảm thấy cái lạnh từ da thịt xuyên vào tận xương tủy. Tôi muốn nói không biết tại sao lại có cảm giác như thế - không ai muốn lộ diện với điều gì sẽ làm cho họ có vẻ hoặc nói năng ngớ ngẩn - nhưng dĩ nhiên tôi biết, và nếu có thể nói sự thật, tôi nghĩ có thể nói sự thật về chuyện này. Trong thoáng chốc tôi tưởng tượng mình là con chuột đó, không phải lính gác nhưng chỉ là một phạm nhân bị kết án trên Dặm Đường Xanh, bị kết án và trừng phạt nhưng vẫn còn đủ can đảm nhìn lên một cái bàn giấy dường như xa xôi hàng dặm, và nhìn những gã khổng lồ áo xanh, giọng nói nặng nề ngồi sau bàn. Những gã khổng lồ đã bắn đồng loại của nó bằng súng BB, đập chúng bằng chổi, hoặc đặt bẫy bắt chúng, những cái bẫy bẻ gãy lưng chúng trong lúc thận trọng bò trên chữ “Chiến Thắng” để nhấm nháp miếng phômai trên cái dĩa nhỏ bằng đồng. Lúc ấy không có chổi bên cạnh bàn giấy, nhưng có một cái xô lau nhà với miếng giẻ còn nằm trong trục vắt nước - tôi đã lau tấm thảm trải sàn màu xanh với tất cả sáu xà lim trước khi ngồi xuống soạn thùng hồ sơ với Dean. Tôi thấy Dean định chụp miếng giẻ để ném con chuột. Tôi sờ vào cổ tay anh ta ngay khi ngón tay anh ta chạm vào cái cán mỏng manh bằng gỗ. - Để nó yên. - Tôi nói. Anh ta nhún vai và rụt tay lại. Tôi có cảm tưởng anh ta không muốn đập nó nhiều hơn tôi muốn. Brutal xé một góc bánh sandwich thịt bò, chìa ra phía trước bàn giấy, nhẹ nhàng xe nó giữa hai ngón tay. Con chuột dường như nhìn lên với vẻ thích thú sinh động hơn nữa, như thể nó biết chính xác là vật gì. Có lẽ nó biết, tôi thấy những sợi râu giật giật trong khi mũi nó ngọ nguậy. - Ối chà, Brutal, đừng! - Dean kêu lên, rồi nhìn tôi. - Đừng để cậu ấy làm thế, Paul! Nếu cậu nuôi con vật khốn kiếp thì có lẽ chúng ta phải trải thảm nghênh đón bất cứ thứ gì đi bốn chân. - Tôi chỉ muốn xem nó sẽ làm gì. - Brutal nói. - Giống như vì lợi ích của khoa học vậy. - Anh ta nhìn tôi. Tôi là sếp, thậm chí cả trong những trò giải trí vặt như thế này. Tôi nghĩ về điều đó và nhún vai như không có gì đáng kể, dù cách này hay cách khác. Sự thật là, tôi cũng muốn xem nó sẽ làm gì. Phải, con chuột đã ăn miếng bánh. Nói cho cùng, cuộc Đại Khủng Hoảng vẫn còn tiếp diễn. Nhưng cái cách nó ăn mới làm cả bọn tôi bị mê hoặc. Nó tiến đến gần mẩu bánh sandwich, ngửi chung quanh, rồi ngồi dựng lên trước mẩu bánh như con chó làm xiếc, chụp lấy nó và gạt phần bánh mì ra để lấy được miếng thịt. Nó hành động có chủ ý và hiểu biết, như một người chúi mũi vào đĩa thịt bò rán ngon miệng trong nhà hàng ưa thích của mình. Tôi chưa bao giờ thấy một con vật nào ăn như thế, kể cả một con chó nhà được huấn luyện tốt. Và suốt trong lúc ăn, nó không hề rời mắt khỏi chúng tôi. - Hoặc nó là một con chuột thông minh, hoặc nó đang đói rã họng. - Một giọng nói mới cất lên. Đó là Bitterbuck. Gã đã thức giấc và đang đứng sau chấn song xà lim, trần trụi, ngoại trừ chiếc quần ngắn xệ đáy. Một điếu thuốc lá tự quấn thò ra giữa khớp đốt ngón tay thứ hai và thứ ba bàn tay phải, mái tóc xám của gã xõa trên đôi vai - có lẽ một thời từng săn chắc nhưng bây giờ đã bắt đầu nhão - thắt thành một cặp bím. - Anh biết câu ngạn ngữ nào của dân da đỏ về chuột không. Tù trưởng? - Brutal hỏi, mắt nhìn con chuột đang ăn. Cả bọn chúng tôi đều bị mê hoặc bởi cách thức con chuột cầm gọn gàng mẩu thịt bò bằng chân trước, thỉnh thoảng xoay hoặc liếc mẩu thịt, tựa hồ đang thán phục và thưởng thức. - Không! Bitterbuck trả lời. - Tôi biết một chiến binh từng có một thứ mà anh ta nói là đôi găng tay bằng da chuột nhưng tôi không tin. - Gã cười, như thể toàn bộ là chuyện đùa, rồi rời khỏi chấn song. Chúng tôi nghe tiếng sạp ngủ cót két khi gã nằm xuống lại. âm thanh đó dường như báo hiệu cho con chuột bỏ đi. Nó ăn hết vật nó đang cầm, ngửi phần còn lại, rồi ngoái nhìn chúng tôi, như thể muốn nhớ khuôn mặt chúng tôi nếu gặp lại. Sau đó nó quay đi và chạy vụt ra khỏi lối nó đã đến, lần này không dừng lại để kiểm tra các xà lim nữa. Sự vội vã của nó làm tôi nghĩ đến chú Thỏ Trắng trong truyện Alice Ở Xứ Thần Tiên, và tôi mỉm cười. Nó không dừng lại ở cửa phòng kỉ luật, nhưng biến mất vào bên dưới. Phòng kỉ luật có những bức tường mềm dành cho những kẻ có bộ não đã mềm đi một chút. Chúng tôi cất những dụng cụ làm vệ sinh trong đó khi không cần nó cho mục đích nguyên thủy, và một số sách. Có những mặt hàng thủ công mĩ nghệ, kể cả những cây bút chì màu mà sau này Delacroix sử dụng rất hiệu quả. Không phải vì gã đã gây rối; nên nhớ chuyện này xảy ra trước đó. Đồng thời trong phòng kỉ luật có chiếc áo mà không ai muốn mặc - màu trắng, may bằng thứ vải bạt mũi khâu kép, có nút, móc gài và khóa ra sau lưng. Tất cả chúng tôi đều biết cách nhốt một đứa trẻ ngỗ nghịch vào trong cái áo khống chế đó. Chúng không thường xuyên bạo động, những đứa trẻ lạc lối của chúng tôi, nhưng khi chúng lên cơn, bạn không chờ cho tình hình tự cải thiện được. Brutal thò tay vào ngăn kéo bàn giấy bên trên cái lỗ ngang đầu gối, lôi ra một quyển sách to, bìa bọc da, có hàng chữ Khách Đến Thăm đóng trên mặt bìa trước bằng vàng. Bình thường thì quyển sách nằm yên trong ngăn kéo từ tháng này sang tháng khác. Khi tù nhân có khách đến thăm - trừ khi là một luật sư hoặc một vị linh mục - gã sẽ đến căn phòng bên ngoài phòng ăn tập thể, vốn được dùng cho mục đích đó. Chúng tôi gọi nó là The Arcade. Tôi không biết tại sao. - Cậu nghĩ cậu đang làm trò khỉ gì vậy? - Dean Stanton hỏi, nhìn qua phía trên gọng kính khi Brutal mở quyển sách, lần giở những trang giấy ghi tên khách của những năm tháng đã qua đến thăm những kẻ bây giờ đã chết. - Tuân thủ điều luật số mười chín. - Brutal vừa nói vừa tìm trang hiện hành. Anh ta lấy bút chì, liếm đầu bút - một thói quen khó chịu mà anh ta không bỏ được - và bắt đầu viết. Điều luật số mười chín quy định đơn giản. - Tất cả khách đến thăm tại Khu E phải trình giấy phép màu vàng của Phòng Quản Trị và phải vào sổ, không được sơ sót. - Cậu ấy mất trí rồi. - Dean bảo tôi. - Nó không trình giấy phép cho chúng ta, nhưng lần này thì tôi bỏ qua. - Brutal kết luận. Anh ta liếm đầu bút chì lần nữa để cầu may, rồi ghi hàng chữ “chín giờ bốn mươi chín tối” vào cột có tiêu đề Giờ Vào Khu. - Được thôi, tại sao không? Các sếp lớn có lẽ sẽ cho chuột hưởng ngoại lệ. - Tôi lên tiếng. - Dĩ nhiên họ sẽ cho. - Brutal đồng ý. - Không có túi. - Anh ta quay lại nhìn đồng hồ treo tường phía sau bàn giấy, rồi điền số “10: 01” vào cột có tiêu đề Giờ Ra Khỏi Khu. Khoảng trống dài hơn giữa hai con số này ghi tiêu đề Họ Tên Khách Thăm. Sau một lúc suy nghĩ căng thẳng - có lẽ để tập trung khả năng viết chính tả có giới hạn của mình vì tôi biết chắc ý tưởng đã nảy sinh trong đầu anh ta - Brutal Howell cẩn thận ghi “Steamboat Willy” , cái mà phần lớn mọi người gọi là Chuột Mickey vào thời buổi đó. Vì đấy là phim hoạt họa đầu tiên có tiếng nói, trong đó con chuột láo liên, va đụng cặp hông vào khắp mọi nơi và giật sợi dây kéo còi trong khoang lái của chiếc tàu hơi nước. - Thế đấy. - Brutal nói, gấp mạnh quyển sách, rồi trả nó lại trong ngăn kéo. - Đã là xong tất cả và cài nút. Tôi cười, nhưng Dean, vốn không thể mất nghiêm chỉnh về mọi sự việc ngay cả khi anh ta biết là chuyện đùa, đang nhăn mặt và giận dữ lau cặp kính của mình. - Cậu sẽ gặp rắc rối khi ai đó đọc được. - Anh ta do dự rồi nói thêm. - Kẻ nào đó không đúng người. - Anh ta do dự lần nữa, nhìn quanh với vẻ cận thị, như thể sợ vách có tai, trước khi kết luận. - Kẻ nào đó như Percy Wetmore. - À. - Brutal nói. - Ngày Percy Wetmore an tọa vào cái bàn giấy này sẽ là ngày tôi từ chức. - Cậu sẽ không phải làm thế. - Dean đáp lại. - Người ta sẽ đuổi việc cậu vì bày trò chế giễu trong quyển sổ Khách Đến Thăm nếu Percy mách lẻo đúng người. Và hắn có thể. Cậu biết hắn có thể mà. Brutal quắc mắc nhìn nhưng không nói gì. Khuya đêm hôm ấy, tôi nghĩ anh ta sẽ tẩy xóa điều anh ta viết. Và nếu anh ta không làm, tôi sẽ làm. Đêm kế tiếp, sau khi áp giải Bitterbuck và gã Tổng thống đến Khu D, nơi chúng tôi tắm cho nhóm của chúng tôi sau khi các tù nhân thường đã bị nhốt, Brutal đề nghị chúng tôi đến xem Steamboat Willy ở phòng kỉ luật dưới kia. - Tôi nghĩ chúng ta phải làm thế. - Tôi trả lời. Chúng tôi đã cười thỏa thích vì con chuột đêm hôm trước, nhưng tôi biết rằng nếu Brutal và tôi phát hiện ra nó ở phòng kỉ luật - đặc biệt nếu phát hiện nó đã bắt đầu gặm nhấm thành ổ trong một bức tường lót đệm - thì chúng tôi sẽ giết chết nó. Thà giết gã dẫn đường, cho dù gã vui nhộn biết bao, còn hơn phải sống với bọn hành hương. Và, lẽ ra tôi không nói cho bạn biết, cả hai chúng tôi không ai câu nệ về chuyện sát chuột một chút. Xét cho cùng, giết chuột là việc mà tiểu bang trả lương cho chúng tôi để làm. Nhưng đêm ấy chúng tôi không phát hiện Steamboat Willy - sau này được biết đến như ông Jingles - làm ổ trong các bức tường lót đệm, hoặc đằng sau bất cứ thứ tạp nham thu gom nào mà chúng tôi khuân ra để ngoài hành lang. Có rất nhiều thứ tạp nham, nhiều hơn tôi tưởng, vì chúng tôi đã không phải sử dụng đến phòng kỉ luật trong một thời gian dài. Tình hình đó sẽ thay đổi khi William Wharton nhập trại, nhưng dĩ nhiên lúc ấy chúng tôi không biết. Quả là may mắn cho chúng tôi. - Nó đi đâu rồi? - Sau cùng Brutal hỏi, lau mồ hôi trên gáy bằng một dải vải màu xanh. - Không lỗ hổng, không khe nứt... thế đấy, nhưng... - Anh ta ta chỉ vào ống cống trên sàn. Bên dưới vỉ sắt đậy lỗ cống, nơi có thể con chuột đã chui qua, là một mạng dây thép mịn đến nỗi thậm chí một con ruồi cũng không thể qua lọt. - Làm sao nó chui vào được? Làm sao chui ra? - Tôi không biết. - Tôi nói. - Nó quả đã vào trong này, phải không? Ý tôi nói ba chúng ta đã nhìn thấy nó. - Đúng, ngay bên dưới cửa. Nó phải ép mình một chút, nhưng qua được. - Trời ạ. - Brutal thốt lên. - Một từ ngữ nghe kì lạ, xuất phát từ một người vạm vỡ cỡ đó. - Tù nhân không thể ép mình nhỏ như thế, đấy là điều tốt đẹp, phải không? - Hẳn rồi. - Tôi đáp, lướt ánh mắt trên những bức tường lót nệm lần cuối cùng, tìm một cái lỗ hổng, một khe nứt, bất cứ thứ gì. - Nào, ta đi thôi. Ba đêm sau, Steamboat Willy xuất hiện lần nữa khi Harry Terwilliger đang ngồi trực tại bàn. Percy cũng có mặt, rượt đuổi con chuột trên Dặm Đường Xanh bằng chính miếng giẻ mà Dean đã định sử dụng. Con vật gặm nhấm dễ dàng thoát khỏi Percy, luồn qua khe cửa phòng kỉ luật, một kẻ chiến thắng hiển nhiên. Lấy hết sức cao giọng chửi rủa, Percy mở khóa cửa và khuân thứ rác rưởi đó ra ngoài lần nữa. Sự việc vừa buồn cười vừa đáng sợ, Harry kể lại, Percy thề sẽ tóm được con chuột khốn kiếp và bứt đứt cái đầu nhỏ tí bệnh hoạn, nhưng dĩ nhiên hắn không làm được. Mồ hôi nhễ nhại và xốc xếch, vạt áo đồng phục sau lưng thòi ra ngoài quần, Percy trở lại bàn trực một giờ sau đó, vuốt tóc phủ xuống mắt và báo cho Harry (người đã bình thản ngồi đọc báo suốt thời gian náo động) rằng hắn sẽ bịt khe dưới cánh cửa bằng một dải cách li, cái đó sẽ giải quyết vấn đề con vật vô lại, hắn tuyên bố như thế. - Cậu nghĩ sao cũng được, Percy. - Harry đáp, lật trang báo viết về vở opera rẻ tiền mà anh ta đang đọc. Anh ta nghĩ Percy sẽ quên chuyện bịt cái khe dưới cánh cửa đó, và anh ta đúng. Chương 7 Cuối mùa đông năm ấy, sau khi những sự kiện đó đã chấm dứt từ lâu, vào một đêm Brutal đến gặp tôi khi chỉ còn hai chúng tôi, Khu E tạm thời bỏ trống và tất cả những lính gác đều tạm thời tái phân công. Percy đã đến Briar Ridge. - Lại đây. - Brutal nói bằng một giọng kì lạ, méo mó đến mức tôi vùng quay lại, nghiêm khắc nhìn anh ta. Tôi vừa mới bước vào từ một đêm mưa lạnh lẽo, và đang rũ tuyết khỏi vai áo trước khi treo nó lên. - Có gì không ổn? - Tôi hỏi. - Không. - Anh ta trả lời. - Nhưng tôi đã tìm thấy nơi ở của ông Jingles. Khi nó xuất hiện lần đầu tiên, tôi muốn nói là trước khi Delacroix nuôi nó. Anh muốn xem không? Dĩ nhiên là tôi muốn. Tôi đi theo anh ta xuống Dặm Đường Xanh, đến phòng kỉ luật. Tất cả đồ đạc cất trong phòng đã được bỏ ra hành lang; rõ ràng Brutal đã tận dụng thời gian vắng khách để dọn dẹp. Cửa mở và tôi thấy cái xô lau nhà có miếng giẻ bên trong phòng. Sàn phòng, cũng cái màu xanh bệnh hoạn như chính Dặm Đường Xanh, đang khô thành những vệt dài. Đứng giữa sàn phòng là một cái thang, loại thường dùng trong nhà kho, vốn cũng tình cờ được dùng như trạm cuối cùng dành cho những kẻ bị tiểu bang trừng phạt. Có một cái kệ nhô ra từ mặt sau thang gần đỉnh, thứ mà công nhân dùng để đặt bộ dụng cụ, hoặc thợ sơn dùng đặt thùng sơn. Trên đó có một cái đèn pin. Brutal trao nó cho tôi. - Anh lên trên kia đi. Anh thấp hơn tôi, vì thế anh phải với lên, nhưng tôi sẽ giữ chân anh cho. - Chân tôi hay bị nhột. - Tôi đáp và bắt đầu leo lên. - Đặc biệt ở đầu gối. - Tôi sẽ lưu ý điều đó. - Tốt. - Tôi nói. - Vì một cái hông bị gãy sẽ là cái giá quá cao phải trả cho việc khám phá nguồn gốc của một con chuột. - Hả? - Bỏ đi. - Lúc ấy đầu tôi nhô lên bên cạnh bóng đèn bọc trong lồng sắt giữa trần phòng, và tôi cảm thấy cái thang ngọ nguậy dưới sức nặng của mình. Ở ngoài kia, tôi có thể nghe thấy tiếng gió đông rên rỉ. - Nắm chặt tôi đấy nhé! - Tôi giữ được anh rồi, đừng lo! - Anh ta nắm chặt bắp chân tôi, và tôi leo lên một nấc nữa. Bây giờ đỉnh đầu tôi còn cách trần nhà không đầy 1 feet, và tôi thấy những mạng lưới mà các chú nhện dạn dĩ đã giăng trong những cái chạc, nơi các thanh rui mè đỡ mái gặp nhau. Tôi chiếu đèn chung quanh nhưng không thấy có gì đáng để liều mạng leo lên đây. - Không phải. - Brutal nói. - Anh nhìn quá xa, Paul. Hãy nhìn sang trái, chỗ có hai thanh rui mè bắt chéo. Anh thấy chưa? Một cái hơi bạc màu. - Tôi thấy. - Hãy chiếu sáng chỗ bắt chéo. Tôi làm theo, và gần như nhìn thấy ngay cái anh ta muốn tôi xem. Các thanh rui mè được chốt vào nhau bằng nửa tá con chốt và một cái đã long ra, để lại một cái lỗ đen hình tròn, to bằng cỡ đồng xu. Tôi nhìn cái lỗ, rồi nghi ngờ ngoái nhìn Brutal qua vai. - Con chuột vốn nhỏ. - Tôi lên tiếng. - Nhưng nhỏ đến cỡ đó sao? Thôi đi, tôi không nghĩ thế. - Nhưng đó là nơi nó đến. - Brutal trả lời. - Tôi dám chắc như đinh đóng cột. - Tôi không hiểu sao cậu lại chắc. - Cúi gần hơn nữa, đừng lo, tôi giữ được anh. Ngửi đi. Tôi làm theo lời anh ta yêu cầu, tay trái nắm vào một thanh rui mè và cảm thấy an tâm hơn. Gió ngoài trời lại nổi lên, không khí thoát ra từ cái lỗ quét vào mặt tôi. Tôi có thể ngửi thấy hơi thở rét buốt của một đêm đông ở miền Nam biên thùy... đồng thời một cái gì đó khác nữa. Mùi bạc hà. “Đừng để xảy ra chuyện gì cho ông Jingles” , tôi nghe được Delacroix nói bằng giọng không vững. Tôi có thể nghe được lời nói đó, và cảm nhận được sức ấm của ông Jingles khi gã người Pháp trao nó cho tôi, chỉ là một con chuột, dù thông minh hơn hầu hết các loài, chắc chắn là thế, những vẫn chỉ là một con chuột, dù thế này thế kia. “Đừng để cho kẻ xấu kia gây tổn thương con chuột của tôi” , gã nói, và tôi đã hứa, như tôi luôn luôn hứa vào giây phút cuối cùng, khi việc bước lên Dặm Đường Xanh không còn là một huyền thoại hoặc giả thuyết nữa, nhưng là một điều gì đó mà họ thật sự phải làm. “Gửi lá thư này cho anh tôi, người đã hai mươi năm tôi không gặp, được chứ?” Tôi hứa. “Hãy để tôi chết dưới cái tên thần linh của tôi và lo cho nó được khắc lên bia mộ, nhé?” Tôi hứa. Đấy là cách mà bạn khiến họ chịu ra đi và ngoan ngoãn chấp nhận, cách mà bạn tiễn họ vào chiếc ghế ngồi ở cuối Dặm Đường Xanh trong trạng thái tỉnh táo. Dĩ nhiên tôi không thể giữ tất cả những lời hứa, nhưng tôi giữ lời hứa với Delacroix. Về phần bản thân gã người Pháp đã phải trả giá tệ hại. Kẻ xấu đã gây tổn thương cho Delacroix, gây tổn thương rất nhiều cho gã. Tôi biết gã đã phạm tội gì, đúng thôi, nhưng không ai xứng đáng với điều xảy ra cho Eduard Delacroix khi hắn ngã vào vòng tay ôm dã man của Già Sparky. Một mùi bạc hà. Và một thứ gì khác. Một thứ gì khác bên trong cái lỗ. Tôi rút cây bút từ túi áo ra bằng tay phải, không còn lo ngại về việc Brutal tình cờ làm đầu gối tôi bị nhột. Tôi vặn nắp bút bằng một tay, rồi chọc đầu ngòi bút vào trong, khều ra được thứ gì đó. Đó là một mẩu gỗ vụn nhỏ xíu, từng nhuốm sắc vàng tươi, và tôi lại nghe thấy giọng Delacroix, lần này rõ ràng như thể hồn ma của gã đang ẩn náu trong căn phòng cùng chúng tôi - căn phòng nơi William Wharton trải qua rất nhiều thời gian của gã. “Ê này! Mấy anh!” lần này giọng nói lên tiếng - cái giọng tươi cười, đầy ngạc nhiên của một con người đã quên mất nơi hắn đang ở và điều gì đang chờ hắn, ít nhất là trong khoảnh khắc. “Đến xem ông Jingles làm được những trò gì nào!” - Chúa ơi! - Tôi thầm thì. Tôi cảm thấy như làn gió đã bị đánh bật ra khỏi người tôi. - Anh tìm được một cái nữa, phải không? - Brutal hỏi. - Tôi tìm được ba hoặc bốn. Tôi leo xuống và chiếu ánh đèn pin vào bàn tay to chìa ra của anh ta. Nhiều mẩu gỗ vụn rải rác trên đó, giống như những cây gậy đồ chơi cho người lùn. Hai mẩu màu vàng, giống như mẩu tôi tìm thấy. Một mẩu màu xanh và một màu đỏ. Chúng không phải được sơn mà tô màu bằng bút chì sáp. - Ôi trời! - Tôi thốt lên bằng một giọng thấp, run rẩy - Đây là những mảnh vụn ống chỉ, phải không? Nhưng tại sao? Tại sao lên tận trên kia? - Khi còn là thằng nhóc, tôi không to xác như bây giờ. - Brutal nói. - Hầu như tôi phát triển trong khoảng mười lăm và mười bảy tuổi. Trước đó tôi chỉ là con tép. Khi đến trường lần đầu, tôi cảm thấy mình nhỏ bé như... một con chuột - tôi nghĩ anh sẽ nói thế. Tôi sợ muốn chết. Vậy anh biết tôi đã làm gì không? Tôi lắc đầu. Bên ngoài gió đã lại nổi lên. Trong những góc rui mè, mạng nhện run lên trong làn gió mỏng manh như lớp ren bị hỏng. Chưa bao giờ tôi lọt vào một nơi nào có cảm giác ám ảnh trần trụi như thế, và đúng lúc đó, trong khi chúng tôi đứng nhìn xuống những mảnh vỡ của cái ống chỉ đã gây ra nhiều rắc rối, đầu tôi bắt đầu nhận ra điều mà trái tim tôi đã hiểu từ khi John Coffey bước trên Dặm Đường Xanh: tôi không thể tiếp tục công việc này nữa. Khủng hoảng hay không Khủng hoảng, tôi không thể chứng kiến thêm con người bước qua văn phòng của tôi để đến gặp cái chết nữa. Dù chỉ thêm một cũng là quá nhiều. - Tôi hỏi xin mẹ tôi một chiếc khăn tay. - Brutal nói. - Để khi cảm thấy muốn khóc, tôi có thể lấy nó ra, ngửi mùi nước hoa của bà và sẽ không còn thấy buồn tủi. - Cậu nghĩ - cái gì? - Con chuột cắn vỡ cái ống chỉ tô màu để nhớ đến Delacroix sao? Anh ta nhìn lên. Trong thoáng chốc tôi tưởng trong mắt anh ta có nước mắt, nhưng tôi nghĩ có lẽ mình đã lầm. - Paul, tôi không nói gì cả. Nhưng tôi tìm thấy chúng trên kia, và ngửi thấy mùi bạc hà, cũng như anh - anh biết là anh đã ngửi thấy. Và tôi không thể làm việc này nữa. Tôi sẽ không làm việc này nữa. Chứng kiến thêm một người nữa trên chiếc ghế kia sẽ làm tôi chết mất. Tôi sẽ xin thuyên chuyển sang trại Cải huấn Thanh Thiếu niên vào thứ hai. Nếu được chấp thuận trước cuộc hành hình sắp đến thì tốt. Nếu không được, tôi sẽ từ chức, về quê cày ruộng. - Cậu đã cày ruộng gì, ngoài sỏi đá? - Không thành vấn đề. - Tôi biết thế. - Tôi nói. - Tôi nghĩ tôi đồng tình với anh. Anh ta chăm chú nhìn để biết chắc tôi không nói bãi bôi với anh ta, rồi gật đầu như thể vấn đề đã được giải quyết. Gió đã lại nổi lên, lần này đủ mạnh để lay các thanh rui mè kêu răng rắc rồi dịu xuống, và cả hai chúng tôi bồn chồn nhìn quanh các bức tường lót nệm. Tôi nghĩ trong một thoáng chúng tôi nghe được William Wharton - không phải Billy the Kid, không phải gã, gã đã là “Wild Bill” đối với chúng tôi từ ngày đầu đến Khu - la hét và cười cợt, lên án chúng tôi thích thú khi trừ khử gã, đe dọa chúng tôi sẽ không bao giờ quên được gã. Về những điểm đó thì gã nói đúng. Về điều mà Brutal và tôi đồng ý vào cái đêm trong phòng kỉ luật, sự việc diễn ra đúng như vậy. Gần như chúng tôi đã có lời thề trang trọng trên những mẩu gỗ được tô màu. Cả hai chúng tôi không bao giờ tham gia vào việc hành hình nữa. John Coffey là vụ cuối cùng. Nhà dưỡng lão, nơi tôi đang gạch ngang một nhúm chữ “t” và chấm lên đầu một mớ lộn xộn những chữ “i” cuối cùng, được gọi là Georgia Pines. Nó cách Atlanta khoảng sáu mươi dặm và cách xa cuộc đời khoảng hai trăm năm ánh sáng như hầu hết mọi người, cứ cho là những người dưới tám mươi tuổi - trải qua cuộc sống. Bạn nào đang đọc tập truyện này hẳn muốn cẩn thận biết chắc không có một nơi chốn như thế chờ đợi mình trong tương lai. Nó không phải là một nơi chốn độc ác, phần lớn thì không; có truyền hình cáp, thức ăn ngon, nhưng theo cách của nó, cũng độc bằng một chai thuốc độc ở Khu E tại Cold Mountain dạo nào. Ở đây có một kẻ gợi tôi nhớ lại một chút về Percy Wetmore, kẻ đã có việc làm trên Dặm Đường Xanh nhờ có họ hàng với Thống đốc tiểu bang. Tôi nghi ngờ việc tay này có họ hàng với nhân vật quan trọng nào đó, mặc dù hắn làm ra vẻ như thế. Brad Dolan là tên hắn. Hắn luôn chải đầu, giống như Percy, và luôn luôn nhét thứ gì đó để đọc trong túi quần sau. Với Percy là những tạp chí như Argosy và Men’s Adventure; với Brad thì những quyển sách bỏ túi rẻ tiền gọi là “Những Câu Chuyện Tếu Thô Tục và Bệnh Hoạn”. Hắn luôn luôn hỏi mọi người vì sao gã người Pháp băng qua đường hoặc cần bao nhiêu người Ba Lan để gắn một cái bóng đèn, hoặc trong một đám tang ở khu Harlem có bao nhiêu đạo tì. Giống như Percy, Brad là một gã đần độn vốn nghĩ rằng không có gì vui nhộn, trừ khi nó là điều tầm thường. Ngày hôm kia Brad đã nói gi đó gây ấn tượng cho tôi vì điều đó thật sự thông minh, nhưng tôi không đánh giá hắn cao. Tục ngữ có câu: “Thậm chí một cái đồng hồ chết cũng đúng giờ hai lần trong ngày”. “May mắn cho ông không mắc chứng bệnh Alzheimer đó, Paulie” là điều hắn đã nói. Tôi ghét hắn gọi tôi là Paulie nhưng hắn cứ gọi; tôi đã chịu thua không đòi hắn thôi đi. Có những câu nói khác - không hẳn là tục ngữ - áp dụng được cho Dolan: “Có thể dẫn một con ngựa đến dòng nước nhưng không thể buộc nó uống” là một; “Có thể chải chuốt cho nó nhưng không thể đưa nó ra trình diễn” là câu khác. Trong tính cách đần độn thì hắn cũng như Percy. Khi bình phẩm về chứng bệnh Alzheimer thì hắn đang lau sàn phòng tắm nắng, nơi tôi đang xem qua những trang đã viết. Có rất nhiều trang và tôi nghĩ có khả năng thêm một số lượng lớn nữa trước khi tôi viết xong. - Cái bệnh Alzheimer đó, ông biết nó thật sự là gì không? - Không. - Tôi trả lời. - Nhưng tôi chắc anh có thể nói cho tôi nghe, Brad. - Là bệnh AIDS của người già. - Hắn đáp rồi phá ra cười, như hắn hay làm với những câu chuyện tếu ngu ngốc của hắn. Tuy nhiên tôi không cười vì điều hắn nói chạm đến một sợi thần kinh ở đâu đó. Không phải vì tôi mắc bệnh Alzheimer; mặc dù ở Georgia Pines xinh đẹp này có rất nhiều, bản thân tôi chỉ gặp những khó khăn thông thường về trí nhớ của tuổi già. Những vấn đề đó dường như liên quan đến thời điểm nhiều hơn về sự kiện. Nhìn lại những gì tôi đã viết cho đến nay, tôi nhận thấy mình nhớ tất cả mọi sự kiện đã xảy ra vào năm 1932; chính thứ tự thời gian của chúng mới thỉnh thoảng gây nhầm lẫn trong đầu. Thế nhưng, nếu cẩn thận, tôi nghĩ có thể giữ cho điều đó không phát tác. Dù ít hay nhiều. John Coffey đến Khu E và Dặm Đường Xanh vào tháng mười năm đó, bị kết án giết chết hai bé gái song sinh chín tuổi nhà Detterick. Đấy là điểm mốc chính của tôi, và nếu giữ điều đó trong tầm nhìn, tôi sẽ viết tốt. William “Wild Bill” Wharton đến sau Coffey, Delacroix đến trước. Con chuột cũng thế, con chuột mà Brutus Howell - với bạn bè là Brutal - gọi là Steamboat Willy và Delacroix kết thúc bằng tên gọi ông Jingles. Dù bạn gọi là gì thì con chuột vẫn đến trước, thậm chí trước cả Del - khi nó xuất hiện vẫn còn là mùa hè, và chúng tôi có hai tù nhân khác trên Dặm Đường Xanh: Tù trưởng Arlen Bitterbuck; và Tổng thống, Arthur Flanders. Con chuột đó. Con chuột trời đánh. Delacroix yêu nó, nhưng Percy Wetmore chắc chắn là không. Percy thù ghét nó ngay từ lúc đầu. Chương 8 Con chuột trở lại đúng ba ngày sau khi Percy đã rượt đuổi nó trên Dặm Đường Xanh lần đầu tiên. Dean Stanton và Bill Dodge đang nói chuyện chính trị... Percy đứng ở bậc cửa văn phòng, thực tập rút nhanh cây dùi cui hắn rất ưa thích, trong khi lắng nghe câu chuyện. Hắn rút cây dùi cui ra khỏi cái bao lố bịch làm bằng tay mua được ở đâu đó và xoay tròn, rồi nhét lại vào trong bao. Đêm ấy tôi vắng mặt nhưng có bản báo cáo đầy đủ của Dean vào chiều hôm sau. Con chuột đi lên Dặm Đường Xanh như nó đã làm lần trước, nhảy lò cò dọc theo con đường, rồi dừng lại và ra vẻ kiểm tra các xà lim trống. Sau khi làm thế một chút, nó tiếp tục nhảy lò cò, không ngã lòng như thể biết tỏng đây là một cuộc tìm kiếm lâu dài, và nó đã sẵn sàng cho việc đó. Lần này thì gã Tổng thống đã thức giấc, đứng tại cửa xà lim. Gã này là một tác phẩm mỹ thuật, cố gắng tỏ vẻ đỏm dáng ngay cả trong bộ quần áo tù. Qua dáng vẻ của gã, chúng tôi biết gã không dành cho Già Sparky, và chúng tôi đã đoán đúng. Chưa đầy một tuần sau khi Percy săn đuổi con chuột lần thứ hai, bản án dành cho Tổng thống được giảm thành án tù chung thân và gã gia nhập vào đội ngũ dân cư tổng quát. - Này! - Gã kêu lên. - Trong đây có một con chuột! Các anh đang điều hành loại nhà tù nào thế? - Có vẻ gã đang cười, nhưng Dean bảo nghe cũng có vẻ giận dữ, như thể ngay cả một bản án giết người chưa đủ để đánh bật hội Kiwanis ra khỏi linh hồn của gã vậy. Hắn từng là thủ lĩnh địa phương của một tổ chức gọi là Hội Bất động sản Trung Nam, và đã từng tự hào mình đủ thông minh để có thể thoát tội với hành vi đẩy ông bố bị chứng lão suy ra ngoài cửa sổ tầng ba và được lĩnh gấp đôi tiền bồi thường bảo hiểm trọn đời. Về chuyện đó thì gã sai lầm, nhưng có lẽ đối với nhiều người thì không. - Câm họng, đồ ngu. - Percy nói, nhưng đấy là một phản ứng khá máy móc. Hắn đang để mắt đến con chuột. Hắn đã tra dùi cui lại vào trong bao và rút ra một trong những tờ tạp chí của hắn, nhưng bây giờ hắn quăng tờ tạp chí lên bàn trực và rút dùi cui ra một lần nữa. Hắn bắt đầu nhịp dùi cui một cách bất thường lên các khớp đốt ngón tay trái. - Đồ chó. - Bill Dodge thốt lên. - Tôi chưa bao giờ thấy chuột ở đây. - Ấy, nó khá xinh xắn. - Dean nói. - Và không đáng sợ chút nào. - Làm sao anh biết? - Nó vào đây đêm hôm kia. Percy cũng thấy. Brutal gọi nó là Steamboat Willy. Percy có vẻ khinh miệt điều đó, nhưng lúc ấy hắn không nói gì. Hắn đang nhịp dùi cùi trên mu bàn tay nhanh hơn nữa. - Xem này. - Dean lên tiếng. - Nó đi thẳng đến trước bàn giấy. Tôi muốn xem nó có làm lại lần nữa không. Con chuột làm thế, đánh một vòng rộng tránh Tổng thống trên đường đi, như thể không thích mùi hôi của kẻ giết cha. Nó kiểm tra hai trong số xà lim trống, thậm chí trèo lên một trong những tấm cót trống không có nệm để ngửi, rồi trở lại Dặm Đường Xanh. Và Percy đứng suốt tại đó, không nói chuyện để thay đổi không khí, muốn làm cho con chuột phải hối tiếc vì đã trở lại. Hắn muốn dạy cho nó một bài học. - May mà các cậu không phải cho nó lên Sparky. - Bill nói, vẻ quan tâm ngoài ý muốn. - Các cậu sẽ rất vất vả khi gài khóa và đội nón sắt cho nó. Percy vẫn không nói gì, nhưng hắn rất từ tốn nắm chặt cây dùi cui giữa hai ngón tay, theo cách người ta cầm một điếu xì gà ngon. Con chuột dừng lại nơi nó đã dừng lần trước, cách bàn giấy không đầy ba feet, ngước nhìn Dean như một tù nhân đứng trước vành móng ngựa. Nó liếc Bill một thoáng, rồi chuyển sự chú ý sang Dean. Percy thì dường như nó không để ý. - Một thằng con hoang nhỏ bé gan dạ, tôi phải khen nó. - Bill nói. Anh ta cao giọng lên một chút. - Ê! Steamboat Willy! Con chuột hơi do dự và ve vẩy đôi tai, nhưng nó không bỏ chạy, kể cả tỏ ra dấu hiệu muốn bỏ chạy. - Bây giờ xem này, - Dean nói, nhớ lại cách Brutal đã cho nó ăn một ít bánh sandwich thịt bò. - Tôi không biết là nó sẽ làm lại lần nữa không, nhưng... Anh ta bẻ một mẩu bánh và bỏ nó xuống trước mặt con chuột. Nó chỉ nhìn mẩu bánh màu cam bằng cặp mắt đen sắc bén trong một thoáng, những sợi dây mảnh co giật trong khi ngửi. Rồi nó thò chân ra, nhặt lấy mẩu bánh, ngồi dựng lên, bắt đầu ăn. - Ái chà, toi mạng tôi rồi! - Bill la lên. - Ăn gọn ghẽ như một vị quan tòa. - Tôi thì thấy giống như một thằng mọi đen ăn dưa hấu. - Percy nhận xét, nhưng không ai để ý đến hắn. Con chuột ăn xong mẩu bánh nhưng tiếp tục ngồi, dường như lấy thăng bằng trên cái đuôi cuộn tròn đầy khéo léo, ngước nhìn các vị thần khổng lồ mặc áo xanh. - Để tôi thử. - Bill nói. Anh ta bẻ thêm một mẩu bánh, cúi người trên mặt bàn giấy, rồi cẩn thận bỏ xuống. Con chuột ngửi nhưng không động đến. - Hừ. - Bill thốt lên. - Chắc no rồi. - Không đâu. - Dean nói. - Nó biết cậu là người làm việc thời vụ, thế thôi. - Tôi làm thời vụ ư? Tôi thích câu đó! Tôi ở đây lâu bằng Harry Terwilliger! Có thể hơn nữa. - Bình tĩnh, lão làng, bình tĩnh nào. - Dean nói và toe toét cười. - Cứ nhìn đi và xem tôi có sai không nhé. - Anh ta ném một mẩu bánh khác qua bên kia. Đủ an tâm, con chuột nhặt mẩu bánh này lên và bắt đầu ăn lần nữa, vẫn hoàn toàn làm ngơ phần đóng góp của Bill. Nhưng trước khi con chuột kịp nhấm nháp một, hai miếng đầu tiên, Percy ném cây dùi cui của hắn vào nó như phóng một lưỡi giáo. Con chuột là một mục tiêu nhỏ bé, và công bằng mà nói đấy là một cú ném chính xác và có thể đã chém bay đầu Willy nếu như phản xạ của nó không sắc bén. Con chuột cúi xuống để tránh - phải, một con người sẽ làm thế - và buông rơi mẩu bánh. Cây dùi cui gỗ hồ đào nặng nề vụt qua đầu và sống lưng nó, sát đến nỗi lông con chuột xáo động, rồi đập trúng tấm vải sơn lót sàn và nảy lên, và vào chấn song một xà lim trống. Con chuột không nấn ná chờ xem đấy có phải là một sai lầm không; nó quay đi và chạy vụt nhanh như chớp xuống phía dưới hành lang, hướng về phòng kỉ luật. Percy gầm lên vì thất vọng - hắn biết mình đã suýt thành công và đuổi theo con chuột lần nữa. Bill Dodge chụp tay hắn, dường như vì bản năng thuần túy, nhưng Percy giằng ra khỏi tay anh ta. Tuy nhiên Dean kể, có lẽ cú chụp đó đã cứu mạng Steamboat Willy, và suýt nữa đấy là một tai họa. Percy không chỉ muốn giết con chuột mà còn giẫm nát nó, vì thế hắn nhảy những bước dài như một con nai, giậm chân xuống sàn với đôi giày bảo hộ nặng nề. Con chuột tránh sít sao hai cú nhảy cuối cùng của Percy, đầu tiên ngoặt sang bên này rồi ngoặt sang hướng kia. Nó chui xuống dưới cửa với một cú giật cái đuôi dài màu hồng, rồi biến mất. - Mẹ kiếp! - Percy rủa và quật lòng bàn tay vào cánh cửa. Rồi hắn bắt đầu lựa trong chùm chìa khóa, như có ý đồ vào trong phòng kỉ luật để tiếp tục cuộc săn đuổi. Dean đi xuống phía cuối hành lang theo sa hắn, cố ý bước chậm rãi để kiềm chế cảm xúc. Phần thì anh ta muốn cười nhạo Percy, anh ta kể với tôi thế, nhưng phần lại muốn tóm lấy hắn, xoay lại, đè vào cửa phòng kỉ luật và đập cho hắn một trận tối tăm mặt mũi. Phần lớn cảm xúc, dĩ nhiên, chỉ là bị hoảng hốt, nhiệm vụ của chúng tôi ở Khu E là kiềm chế náo động ở mức tối thiểu, mà náo động lại thực sự là tên giữa của Percy Wetmore. Làm việc với hắn giống như tháo gỡ bom trong lúc có người đứng sau lưng bạn và thỉnh thoảng lại dập một cặp chiêng vào nhau. Nói nôm na là rối loạn. Dean bảo anh ta nhìn thấy sự rối loạn đó trong mắt của Arlen Bitterbuck... thậm chí cả Tổng thống, mặc dù gã quý tộc vẫn lạnh nhạt như dưa leo muối. Và còn một điều khác nữa. Ở phần nào đó trong tâm trí, Dean đã bắt đầu chấp nhận con chuột, có thể không như một người bạn, nhưng như một phần của cuộc sống trong Khu. Điều đó khiến cho hành vi Percy đã làm và đang cố làm trở thành sai trái. Và sự thật việc Percy không bao giờ hiểu tại sao hành vi của hắn lại sai trái, quả là một thí dụ hoàn hảo về nguyên nhân tại sao hắn mãi mãi sai lầm trong công việc mà hắn tưởng hắn đang làm. Khi Dean đến cuối hành lang, anh ta đã tự trấn tĩnh lại, và biết mình muốn làm gì để giải quyết vấn đề. Điều Percy tuyệt đối không chịu đựng nổi là tỏ vẻ ngớ ngẩn, và tất cả chúng tôi biết điều đó. - Dĩ nhiên lại thua rồi! - Anh ta nói, cười cười, trêu Percy. Percy ném cho anh ta một cái nhìn căm tức, gạt tóc ra khỏi lông mày. - Coi chừng cái miệng anh, đồ “bốn mắt”. Tôi đang quạu đây. Đừng làm tình hình xấu đi. - Vậy lại là ngày dọn nhà nữa, phải không? - Dean hỏi, không cười nhiều... nhưng cười bằng mắt. - Sao, lần này nếu cậu dọn tất cả ra ngoài, phiền cậu lau sàn nhà nhé? Percy nhìn cánh cửa. Nhìn chìa khóa của hắn. Nghĩ về một chuyến lục soát lâu dài, nóng nực, vô ích trong căn phòng có tường mềm, trong khi cả lũ đứng quanh nhìn hắn... Cả gã Tù trưởng và Tổng thống nữa. - Quỷ tha ma bắt đi nếu tôi hiểu được chuyện gì thú vị ở đây. - Hắn nói. - Chúng ta không cần chuột trong khu xà lim - đã có đủ bọn sâu bọ ở đây rồi không cần thêm chuột. - Cậu nói sao cũng được, Percy. - Dean giơ tay lên đáp lại. Đã có lúc, anh ta nói với tôi vào đêm sau, anh ta nghĩ Percy sẽ xông vào đánh mình. Bill Dodge nhàn nhã bước đến và dàn hòa. - Tôi nghĩ cậu đánh rơi cái này. - Anh ta lên tiếng, đưa cây dùi cui cho Percy. - Thấp hơn một inch nữa thì cậu đã đập gãy sống lưng thằng con hoang nhỏ tí đó rồi. Ngực Percy phổng phao lên trước lời khen ngợi. - Ừ, cú ném cũng không tồi. - Hắn nói, cẩn thận nhét cây dùi cui vào trong cái bao ngớ ngẩn. - Tôi từng là cầu thủ ném bóng hồi Trung học. Đã ném hai cú ăn trắng. - Đúng thế không? - Bill đáp bằng giọng nể nang, đủ để hoàn tất việc tháo gỡ tình hình căng thẳng. - Đúng! - Percy trả lời. - Đã ném một quả ở Knoxville. Bọn thanh niên thành phố không biết bị cái gì đập trúng. Làm thêm quả thứ hai. Lẽ ra đã có một trận thi đấu hoàn hảo nếu lão trọng tài không ngu ngốc. Lẽ ra Dean lúc ấy có thể ngừng lại, nhưng anh ta lớn tuổi hơn Percy, mà công việc của người lớn tuổi hơn là giáo huấn, và vào lúc ấy trước mặt Coffey, trước mặt Delacroix anh ta vẫn nghĩ rằng có thể giáo huấn được Percy. Vì thế, anh ta đưa tay ra chụp lấy cổ tay gã đàn ông trẻ hơn. - Cậu hãy suy nghĩ về điều cậu đang làm. - Dean nói. Ý định của anh ta là nói sao nghe cho nghiêm nghị nhưng không chê bai. Dù gì thì cũng không quá chê bai. Có điều với Percy, cách đó không hiệu quả. Có thể hắn không học được... nhưng sau chúng tôi sẽ làm được. - Ê, “Bốn mắt” , tôi biết tôi đang làm gì, tìm cách tiêu diệt con chuột! Anh sao thế, mù hả? - Cậu cũng làm cho Bill sợ, tôi sợ và họ nữa. - Dean nói, tay chỉ về hướng Bitterbuck và Flanders. - Thì sao? - Percy hỏi, ưỡn người lên. - Chúng không phải ở nhà trẻ, nói để phòng ngừa trường hợp anh không biết. Mặc dù phân nửa thời gian mấy người nuông chiều chúng đến thế. - Này, tôi không thích bị hù dọa. - Bill gầm lên. - Và tôi làm việc tại đây, Wetmore, nói để phòng ngừa trường hợp cậu không biết. Tôi không phải thằng cả ngố của cậu. Percy ném cho anh ta một cái nhìn không rõ ràng. - Và chúng ta không hù dọa họ nhiều hơn mức độ cần thiết, bởi vì họ chịu rất nhiều căng thẳng. - Dean vẫn nói bằng giọng thấp. - Người bị áp lực căng thẳng có thể phát điên. Tự gây tổn thương. Làm tổn thương người khác. Đôi khi cũng lôi kéo những người như chúng ta đâm đầu vào rắc rối. Miệng Percy co giật khi nghe câu nói đó. “Đâm đầu vào rắc rối” là một ý tưởng có sức mạnh đối với hắn. Gây rắc rối thì được. Đâm đầu vào đó thì không. - Công việc của chúng ta là nói chứ không phải la hét. - Dean giảng giải. - Người la hét tù nhân là người mất tự chủ. Percy biết ai đã viết câu trích dẫn đó. - Tôi, ông sếp. Không có tình cảm giữa Percy Wetmore và Paul Edgecombe, và nên nhớ bấy giờ vẫn còn là mùa hè - các lễ hội còn lâu mới bắt đầu. - Cậu sẽ làm tốt hơn. - Dean nói. - Nếu cậu xem nơi này là khu săn sóc đặc biệt trong bệnh viện. Im lặng là điều tốt nhất. - Tôi nghĩ đây là một cái bô nước tiểu để trấn nước lũ chuột. - Percy đốp chát. - và thế thôi. Bây giờ hãy để tôi đi. Hắn giằng tay Dean ra, bước vào giữa hắn và Bill, lủi đi dọc theo hành lang, đầu cúi xuống. Hắn đi hơi quá gần Tổng thống - đủ gần để gã Flanders có thể thò tay ra ngoài, vồ lấy hắn, và có thể bị đập đầu bằng chính cây dùi cui gỗ hồ đào đáng giá, nếu Flanders là loại người như vậy. Gã không phải loại người đó, dĩ nhiên, nhưng Tù trưởng thì khác. Gã Tù trưởng, nếu có cơ hội, chắc sẽ đập một trận ra trò để dạy cho Percy một bài học. Điều Dean nói với tôi về đương sự khi kể tôi nghe câu chuyện vào đêm hôm sau đã đeo đuổi tôi kể từ lúc ấy, bởi vì hóa ra nó trở thành một lời tiên tri. - Wetmore không hiểu rằng hắn không có quyền lực gì với họ cả. - Dean bảo. - Rằng hắn không thể gây ra điều gì tồi tệ hơn cho họ, rằng họ chỉ có thể bị xử tử bằng ghế điện một lần mà thôi. Trừ khi cái đầu của hắn hiểu được, bằng không hắn sẽ gây nguy hiểm cho chính hắn và cho tất cả mọi người ở dưới đây. Percy bước vào văn phòng tôi và đóng sầm cánh cửa sau lưng hắn. - Nào, nào. - Bill Dodge thốt lên. - Hắn đúng là cái hòn d... bị sưng phù và nhiễm trùng nặng. - Cậu không biết một nửa sự vụ đâu. - Dean nói. - Ồ, hãy lạc quan chứ. - Bill đáp. Anh ta luôn khuyên mọi người nên lạc quan; nhàm đến nỗi bạn muốn đấm vỡ mũi anh ta mỗi khi câu nói lọt ra khỏi cửa miệng. - Ít nhất thì con chuột làm trò của cậu đã thoát nạn. - Ừ, nhưng chúng ta sẽ không còn thấy nó nữa. - Dean nói. - Tôi nghĩ lần này Percy Wetmore đã làm nó sợ hãi vĩnh viễn. Câu nói đó hợp lí nhưng sai lầm. Con chuột trở lại ngay tối hôm sau, tình cờ lại là ngày đầu tiên trong hai đêm nghỉ của Percy Wetmore trước khi hắn vào ca trực đêm. Steamboat Willy xuất hiện vào khoảng bảy giờ. Tôi có mặt để chứng kiến sự tái xuất của nó, kể cả Dean. Harry Terwilliger cũng vậy. Harry ngồi bàn trực. Về mặt kĩ thuật tôi làm ca ngày, nhưng nán lại để ở bên gã Tù trưởng thêm một giờ, kẻ mà ngày giờ đền tội đang đến gần. Ngoài mặt thì Bitterbuck lạnh lùng theo truyền thống của bộ lạc, nhưng tôi có thể thấy nỗi sợ ngày kết thúc cuộc đời đang bừng nở trong hắn như đóa hoa độc. Vì thế chúng tôi nói chuyện. Bạn có thể nói chuyện với tù nhân vào ban ngày nhưng điều đó không hay, vì những tiếng la hét và nói chuyện phát ra từ sân thể dục, tiếng thình thịch của máy dập trong xưởng làm ván, tiếng hét của lính gác ra lệnh ai đó bỏ cuốc chim xuống hay nhặt thuổng lên. Sau bốn giờ thì đỡ hơn một chút, và sau sáu giờ còn tốt hơn nữa. Sáu đến tám giờ là khoảng thời gian tối ưu. Sau khoảng thời gian đó, bạn có thể nhận thấy những ý tưởng dài hơi bắt đầu tái chiếm tâm trí họ - bạn có thể nhìn thấy điều đó trong mắt họ, như những bóng chiều - và tốt nhất nên dừng lại. Họ vẫn nghe bạn nói, nhưng không còn ý nghĩa với họ nữa. Quá tám giờ họ bắt đầu chuẩn bị cho những ca gác đêm và tưởng tượng cảm giác cái nón sắt như thế nào khi nó chụp lên đầu họ, và không khí bên trong cái túi màu đen trùm lên khuôn mặt đẫm mồ hôi của họ sẽ có mùi vị gì. Nhưng tôi đã làm cho Tù trưởng được vui vẻ. Gã kể tôi nghe về bà vợ đầu tiên, và họ đã cùng nhau dựng một cái chòi gỗ ở Montana như thế nào. Đấy là những ngày hạnh phúc nhất cuộc đời gã. Gã nói làn nước tinh khiết và lạnh đến nỗi miệng của bạn cảm thấy như bị dao cắt mỗi khi uống vào. - Này, ông Edgecombe. - Gã nói. - Ông nghĩ nếu một người thành thật hối hận vì điều sai trái đã gây ra, anh ta có thể trở lại thời gian hạnh phúc nhất cho mình và sống ở đó mãi mãi không? Liệu thiên đường có giống như vậy không? - Tôi tin điều đó. - Tôi trả lời, một câu trả lời dối trá nhưng không mảy may ân hận. Tôi đã học những vấn đề vĩnh hằng trước đầu gối xinh đẹp của mẹ tôi, và điều tôi tin là điều Thánh Kinh nói về những kẻ sát nhân: không có cuộc sống vĩnh hằng trong họ. Tôi nghĩ họ sẽ xuống địa ngục, ở đấy họ sẽ bị tra tấn đến lúc cuối cùng, khi Chúa gật đầu ra hiệu cho Gabriel dóng tiếng kèn báo ngày tận thế. Khi đó, họ sẽ nháy mắt... và có lẽ họ sẽ vui mừng ra đi. Nhưng tôi không bao giờ hé mở về những đức tin như thế với Bitterbuck, hoặc với bất cứ ai trong số họ. Tôi nghĩ trong tâm hồn họ đã biết điều đó. Tù trưởng còn cười khi tôi ra về, có lẽ đang nghĩ về cái chòi gỗ của gã ở Montana và người vợ ngực để trần, nằm dưới ánh sáng lò sưởi. Gã sẽ sớm bước trong một lò sưởi nóng hơn, không còn nghi ngờ gì nữa. Tôi trở lại phía trên hành lang, và Dean nói tôi nghe về chuyện xích mích giữa anh ta và Percy đêm hôm trước. Tôi nghĩ anh ta đã chờ tôi để kể lể, và tôi chăm chú lắng nghe. Tôi luôn luôn chăm chú nghe khi đề tài là Percy, bởi vì tôi đồng ý với Dean một trăm phần trăm - tôi nghĩ Percy là loại người có thể gây nhiều rối rắm, cho tất cả chúng tôi cũng như cho chính hắn. Trong khi Dean đang kết thúc, lão Toot Toot đi qua với cái xe đẩy tay màu đỏ chở thức ăn, bán cho chúng tôi một ít bánh sandwich và bắp rang. Dean đang lục lọi tìm tiền lẻ trong túi áo và nói rằng chúng tôi sẽ không gặp lại Steamboat Willy nữa, rằng gã Percy Wetmore trời đánh đã làm nó sợ sệt bỏ đi mãi mãi, thì lão Toot Toot nói: - Thế cái gì kia? Chúng tôi nhìn, và kìa con chuột đang đến, đích thị là nó, nhảy lóc cóc giữa Dặm Đường Xanh. Nó đi một đoạn ngắn, dừng lại, nhìn quanh bằng cặp mắt sáng sủa rồi tiếp tục di chuyển. - Ê, chuột! - Tù trưởng kêu. Con chuột dừng lại và nhìn gã, những sợi râu giật giật, y như con vật biết người ta gọi nó vậy. - Mày hướng dẫn tâm linh chứ? - Bitterbuck quăng cho con chuột một mẩu phômai trích từ bữa tối của hắn. Mẩu phômai đáp xuống ngay trước mặt con chuột, nhưng Steamboat Willy thậm chí không liếc nhìn, chỉ tiếp tục con đường của nó trên đầu Dặm Đường Xanh, nhìn vào các xà lim trống. - Sếp Edgecombe! - Gã Tổng thống gọi. - Anh nghĩ thằng nhãi ranh con hoang biết Wetmore không có mặt chứ? Tôi nghĩ nó biết, lạy Chúa! Tôi cũng cảm thấy thế... nhưng tôi không định oang oang nói ra như vậy. Harry bước ra hành lang, kéo quần lên cao theo cách anh ta vẫn làm sau khi giải tỏa vài phút trong nhà vệ sinh và đứng đó, mắt mở to. Toot Toot cũng trố mắt nhìn, nụ cười móm mém tạo thành một hình ảnh xấu xí cho nửa dưới khuôn mặt nhão nhoẹt, sún răng. Con chuột dừng lại tại địa điểm đang trở thành chỗ quen thuộc của nó, cuộn cái đuôi quanh bàn chân, nhìn chúng tôi. Một lần nữa tôi lại nhớ đến hình ảnh quan tòa phán quyết bản án cho các tù nhân không may... Tuy nhiên, đã bao giờ có một tù nhân nhỏ nhắn và không sợ sệt như gã này chưa? Không phải vì nó là tù nhân thực thụ, dĩ nhiên, nó có thể đến và đi tùy ý. Thế nhưng ý tưởng vẫn không rời bỏ tâm trí tôi, và một lần nữa tôi chợt nghĩ, phần lớn chúng ta sẽ cảm thấy nhỏ bé như vậy khi tiến đến gần ghế phán xét của Chúa, sau khi sự sống của chúng ta đã kết thúc, nhưng sẽ có rất ít người trong chúng ta có thể tỏ ra không sợ hãi. - A, tôi thề đấy. - Lão Toot Toot thốt lên. - Nó ngồi kia, to như Billy Be Frigged. - Lão chưa thấy gì đâu, Toot à. - Harry nói. - Xem này. - Anh thò tay vào túi áo ngực, rút ra một khoanh táo quế bọc trong giấy sáp. Anh ta bẻ đầu và ném xuống sàn. Khoanh táo khô và cứng khiến tôi tưởng nó sẽ nẩy qua khỏi con chuột, nhưng con chuột thò một bàn chân ra, thờ ơ như một người đang đập ruồi để giết thì giờ, đập nó bẹp gí. Tất cả chúng tôi đều cười tán thưởng và ngạc nhiên, một sự bùng nổ âm thanh có thể tống con chuột trượt đi, nhưng nó không hề nhúc nhích. Nó nhặt mẩu táo khô bằng bàn chân, liếm vài cái, rồi bỏ xuống và nhìn chúng tôi như thể nói rằng, “Không tệ, các anh có gì khác không?” Toot Toot mở nắp xe đẩy của lão, lấy ra một cái bánh sandwich, lột giấy gói, và xé một mẩu xúc xích Bologna. - Đừng bận tâm. - Dean nói. - Ý anh nói sao? - Toot Toot hỏi. - Chẳng con chuột sống nào chê xúc xích Bologna khi có thể. Anh là thằng điên! Nhưng tôi biết Dean nói đúng, và qua nét mặt Harry tôi thấy là anh ta cũng biết. Có những nhân viên thời vụ và có những nhân viên chính quy. Bằng cách nào đó, con chuột dường như biết sự khác biệt. Chuyện điên nhưng có thật. Lão Toot Toot ném mẩu Bologna xuống và rõ ràng con chuột có việc để làm với mẩu xúc xích, nó ngửi một lần rồi lùi lại một bước. - Tôi chết mất, đồ chó khốn kiếp! - Lão Toot Toot kêu lên, nghe ra vẻ bị xúc phạm. Tôi chìa tay ra. - Đưa cho tôi. - Sao cũng thứ đó? - Cũng thứ đó. Tôi sẽ trả tiền. Toot Toot trao bánh qua. Tôi nhấc khoanh bánh mì trên, xé một mẩu thịt khác và bỏ xuống trước bàn trực. Con chuột tiến ngay lên phía trước, nhặt nó bằng bàn chân và bắt đầu ăn. Mẩu Bologna mất dạng trước khi bạn kịp hô biến. - Tôi chết mất! - Toot Toot hét lên. - Đưa cái đó đây! Lão giật phắt cái bánh sandwich, xé một mẩu thịt to hơn - lần này không còn là mẩu mà hẳn hoi một khoanh - và bỏ xuống sát con chuột đến mức Steamboat Willy suýt đội nó thành nón. Nó lại lùi ra sau, ngửi, rồi ngước nhìn chúng tôi. - Tiếp tục, ăn đi! - Toot Toot nói, nghe ra vẻ bị xúc phạm hơn bao giờ hết. - Mày làm sao thế? Dean lấy cái bánh sandwich và bỏ một mẩu thịt xuống - đến lúc ấy giống như một buổi lễ cộng đồng kì lạ nào đó. Con chuột nhặt ngay mẩu thịt lên và nuốt chửng. Sau đó nó quay lại và đi trở xuống phía dưới hành lang đến phòng kỉ luật, dừng lại trên đường đi để nhìn vào hai xà lim trống và làm một vòng kiểm tra xà lim thứ ba. Một lần nữa, ý tưởng nó đang tìm người nào đó lại nẩy ra với tôi, và lần này tôi gạt bỏ ý tưởng đó chậm hơn. - Tôi sẽ không nói về chuyện này. - Harry thốt ra. Anh ta nói nửa đùa, nửa thật. - Trước nhất, không ai thèm quan tâm. Thứ nhì, người ta sẽ không tin tôi dù họ có quan tâm. - Nó chỉ ăn của các anh bạn. - Toot Toot kết luận. Lão lắc đầu trong nỗi ngờ vực, rồi cần cù cúi xuống, nhặt thứ con chuột không thèm ăn lên, đút tọt vào cái miệng sún răng của chính lão, nơi lão bắt đầu công việc nhai bằng lợi cho đến khi mẩu thịt chịu thua. - Tại sao con chuột làm thế? - Tôi có câu hỏi hay hơn. - Harry nói. - Làm sao nó biết Percy vắng mặt? - Nó không biết. - Tôi trả lời. - Chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiên khi con chuột đến vào đêm nay. Ngoại trừ càng lúc càng khó tin hơn với ngày tháng trôi qua và con chuột chỉ xuất hiện khi Percy nghỉ, trực ca khác, hoặc có mặt ở khu vực khác của trại giam. Chúng tôi - Harry, Dean, Brutal và tôi - quyết định rằng hẳn nó nhận ra giọng của Percy, hoặc mùi của hắn. Chúng tôi thận trọng tránh thảo luận quá nhiều về bản chất con chuột - bản thân cậu ta. Điều đó, có vẻ chúng tôi đã quyết định mà không nói thành lời, có thể về lâu dài sẽ làm hỏng một điều đặc biệt... và đẹp đẽ, vì vẻ kì lạ và tinh tế của nó. Willy đã chọn chúng tôi, xét cho cùng, theo một cách nào đó mà tôi không hiểu, ngay cả bây giờ. Có lẽ Harry hiểu gần đúng nhất khi anh ta nói rằng không có lợi nếu kể cho người khác nghe, không chỉ vì họ không tin nhưng vì họ sẽ không thèm quan tâm. Chương 9 Thế rồi giờ hành hình Arlen Bitterbuck đã đến, kẻ trong thực tế chẳng phải Tù trưởng gì cả nhưng là đại ca của bộ lạc tại khu bảo tồn Washita, đồng thời là thành viên của Hội đồng Cherokee. Gã đã giết một người say, trong lúc cả hai đều say rượu. Tù trưởng đã nghiền nát đầu nạn nhân bằng một khối xi măng. Họ tranh cãi nhau về một đôi ủng. Vì thế, ngày mười bảy tháng bảy mùa hè mưa dầm dề năm ấy, hội đồng các huynh trưởng của tôi quyết định kết thúc đời gã. Giờ thăm viếng cho các tù nhân ở Cold Mountain vốn cứng nhắc như cột thép, nhưng không áp dụng cho các chàng trai của chúng tôi ở Khu E. Vì thế, vào ngày mười sáu, Bitterbuck được phép đến căn phòng dài kề bên quán cà phê The Arcade. Căn phòng được chia đôi ngay giữa phòng bằng lưới sắt đan với dây kẽm gai. Tại đó, Tù trưởng sẽ gặp người vợ thứ hai và những đứa con còn tôn trọng gã. Đã đến giờ vĩnh biệt. Gã được Bill Dodge và hai lính gác thời vụ áp giải đến nơi. Những người còn lại chúng tôi có việc phải làm - một giờ để thanh toán ít nhất hai cuộc diễn tập. Nếu xoay sở được thì ba. Percy không phản đối gì nhiều vì bị đưa vào phòng cơ điện với Jack Van Hay trong vụ hành hình Bitterbuck, hắn còn quá non nớt để biết mình được phân công vào vị trí tốt hay xấu. Điều hắn biết là hắn có một cửa sổ lưới sắt hình chữ nhật để nhìn qua, và mặc dù có lẽ không muốn nhìn cái lưng ghế điện thay vì trước mặt, hắn vẫn đủ gần để thấy tia lửa điện tung tóe. Ngay bên ngoài cửa sổ đó là một bộ điện thoại treo tường màu đen, không có tay quay hoặc mặt số. Cái điện thoại đó chỉ có thể gọi đến, và chỉ từ một địa điểm: văn phòng Thống đốc. Tôi đã xem rất nhiều bộ phim về nhà tù, trong đó cái điện thoại chính thức vang lên đúng lúc người ta đã sẵn sàng để đóng cầu dao xử tử một gã ngớ ngẩn vô tội nào đó, nhưng điện thoại của chúng tôi chưa bao giờ vang lên suốt thời gian tôi ở Khu E; chưa một lần. Trong phim, sự cứu rỗi rất rẻ tiền. Sự vô tội cũng thế. Bạn trả một đồng hai mươi lăm xu, và nhận được những gì tương xứng với hai mươi lăm xu. Sự sống thật sự đắt giá hơn, và hầu hết những câu trả lời đều khác nhau. Chúng tôi có một hình nộm thợ may dưới đường hầm để lo việc đẩy xe thức ăn và chúng tôi có lão Toot Toot cho phần còn lại. Năm tháng trôi qua, Toot bằng cách nào đó đã trở thành người đóng thế vai trò truyền thống cho những kẻ bị xử phạt, như thể sống lâu lên lão làng theo cách của lão, giống như con ngỗng mà bạn gặp trên bàn ăn lễ Giáng sinh, cho dù bạn thích hay không thích. Hầu hết những cai ngục đều ưa thích lão, được mua vui bằng giọng nói ngộ nghĩnh của lão - cũng là giọng Pháp, nhưng ảnh hưởng Canada nhiều hơn Cajun, và mềm mại đi thành một âm sắc riêng qua nhiều năm ngồi tù ở miền Nam. Thậm chí Brutal cũng say mê lão. Nhưng tôi thì không. Tôi nghĩ, theo kiểu của lão, lão chính là một phiên bản già hơn và mờ nhạt hơn của Percy Wetmore, một con người quá yếu đuối không dám mổ thịt và tự nấu lấy món ăn, nhưng cũng ưa thích mùi thịt nướng, vậy thôi. Tất cả chúng tôi đều có mặt để diễn tập, giống như sẽ có mặt trong buổi trình diễn chính thức. Brutus Howell được “xuất hiện” , theo cách nói của chúng tôi, nghĩa là anh ta sẽ chụp cái nón sắt, giám sát đường dây điện thoại của Thống đốc, triệu tập bác sĩ từ chỗ ngồi của ông ta bên bức tường khi cần thiết, và ra hiệu lệnh đóng điện khi đến lúc. Nếu sự việc diễn tiến tốt đẹp, không ai được khen ngợi. Nếu không diễn tiến tốt đẹp, Brutal sẽ bị các nhân chứng chỉ trích và tôi sẽ bị giám thị quở trách. Không ai trong chúng tôi than phiền; chẳng đem lại điều gì tốt đẹp. Trái đất vẫn quay, thế thôi. Bạn vãn bám víu và quay với nó, hoặc vùng lên phản kháng và bị hất văng ra. Dean, Harry Terwilliger và tôi đi xuống xà lim của gã Tù trưởng để diễn tập lần đầu, chưa đầy ba phút sau khi Bill và toán của anh ta áp tải Bitterbuck ra khỏi khu đến Arcade. Cửa xà lim để mở và lão Toot Toot ngồi trên sạp ngủ của Tù trưởng, mái tóc trắng lòa xòa phấp phới. - Tấm trải giường đầy vết ố bậy bạ. - Toot Toot nhận xét. - Hẳn gã cố xả ra trước khi các anh đun sôi nó. - Lão già khúc khích cười. - Im đi, Toot Toot. - Dean lên tiếng. - Việc này phải nghiêm chỉnh. - Được rồi. - Toot Toot nói, ngay lập tức thấy vẻ mặt trịnh trọng một cách ồn ào, nhưng cặp mắt lại lấp lánh. Lão Toot Toot không bao giờ sống động bằng lúc lão giả chết. Tôi bước lên phía trước. - Arlen Bitterbuck, nhân danh Tòa và tiểu bang... tôi có lệnh... sẽ được thi hành vào mười hai giờ một ngày... Anh hãy bước tới trước. Toot Toot rời khỏi sạp ngủ. - Tôi bước tới trước, tôi bước tới trước. - Lão nói. - Quay lại. - Dean ra lệnh. Khi Toot Toot đã quay lại, Dean khám xét đỉnh đầu bám đầy gàu của lão. Tối mai đỉnh đầu của Tù trưởng sẽ bị cạo, và Dean sẽ kiểm tra để đảm bảo không cần phải sửa chữa. Chân tóc còn sót sẽ cản trở độ dẫn điện, làm cho sự việc trở nên khó khăn hơn. Tất cả những gì chúng tôi đang làm hôm nay là để cho mọi việc được dễ dàng. - Được rồi, đi thôi! - Tôi nói với Toot Toot và chúng tôi đi. - Tôi đi xuống dưới hành lang, tôi đi xuống dưới hành lang... - Toot nói. Tôi áp giải bên trái, Dean bên phải, Harry ngay sau lưng lão. Đến đầu hành lang, chúng tôi rẽ phải, rời khỏi sự sống đang sống trong sân tập thể dục và tiến đến cái chết trong nhà kho. Chúng tôi bước vào văn phòng của tôi và Toot Toot quỳ xuống mà không cần phải yêu cầu. Lão đã biết kịch bản, đúng vậy, có lẽ còn rõ hơn bất cứ người nào trong số chúng tôi. Chúa biết lão đã ở đây lâu hơn bất cứ người nào trong số chúng tôi. - Tôi cầu nguyện, tôi cầu nguyện. - Toot Toot nói, đôi bàn tay xương xẩu giơ lên. Trông chúng giống như bức khắc họa lừng danh, có lẽ bạn biết tôi muốn nói bức nào. - Chúa là người chăn dắt tôi... - Bitterbuck có ai? - Harry hỏi. - Sẽ không có thầy mo người Cherokee vào đây để rung cây gậy phép, phải không? - Thật ra... - Vẫn cầu nguyện, vẫn cầu nguyện, vẫn hối cải với Chúa Jesus. - Toot Toot không đếm xỉa đến tôi. - Im đi, lão già khùng. - Dean nói. - Tôi đang cầu nguyện! - Vậy cầu nguyện với chính lão đi. - Các cậu làm gì chậm trễ thế? - Brutus la toáng lên trong nhà kho. Nhà kho cũng được dọn trống để chúng tôi sử dụng. Chúng tôi lại ở trong vùng chết chóc, phải rồi; đấy là một thứ mà bạn có thể ngửi thấy. - Khép cái mồm chết tiệt của cậu lại! - Harry hét trả đũa. - Đừng nôn nóng khốn kiếp như thế! - Cầu nguyện. - Toot nói, toét miệng nở cái nụ cười móm sọm của lão. - Cầu nguyện giữ lòng kiên nhẫn. - Thật ra thì Bitterbuck theo đạo Thiên Chúa, - tôi bảo họ, - và gã hoàn toàn hài lòng với anh chàng giáo phái Baptist đến từ Tillman Clark. Ông ta tên Schuster. Tôi cũng thích ông ta. Ông ta nhanh nhẹn, và không làm cho họ căng thẳng. Đứng lên, Toot Toot. Lão cầu nguyện đủ cho một ngày rồi. - Bước đi. - Toot Toot nói. - Bước đi lần nữa, bước đi lần nữa, vâng thưa sếp, bước đi trên Dặm Đường Xanh. Thấp người như lão mà cũng phải cúi xuống một chút để qua được cánh cửa ở đầu bên kia văn phòng. Bọn còn lại chúng tôi càng phải cúi thấp hơn nữa. Đây là thời điểm dễ bị nguy hiểm với tù nhân thật, nên khi nhìn sang bên kia đến cái bục nơi Già Sparky chễm chệ và thấy Brutal đã rút súng ra, tôi gật đầu hài lòng. Đúng như bài bản. Toot Toot bước xuống các bậc thang và dừng lại. Khoảng bốn mươi chiếc ghế gỗ xếp đã được đặt vào chỗ. Bitterbuck sẽ băng qua phòng đến bục theo góc độ có khoảng cách an toàn với các nhân chứng đang ngồi, và một nửa tá lính gác sẽ được bổ sung để đảm bảo. Bill Dodge sẽ chỉ huy toán lính gác này. Chúng tôi chưa bao giờ để nhân chứng bị đe dọa bởi một tù nhân bị trừng phạt, mặc dù phải thú nhận kế hoạch bố trí quả là sơ sài... và tôi cương quyết duy trì điều đó. - Sẵn sàng chưa, các cậu? - Toot Toot hỏi khi chúng tôi trở lại theo đội hình nguyên thủy tại chân cầu thang dẫn từ văn phòng tôi xuống. Tôi gật đầu, và chúng tôi bước đến bục. Tôi thường nghĩ, hình thức mà chúng tôi nhìn giống hơn bất cứ thứ gì, là một toán quân kì quên đem cờ. - Tôi phải làm gì? - Percy gọi ra từ phía sau lưới sắt giữa nhà kho và phòng cơ điện. - Quan sát và học hỏi. - Tôi gọi đáp lại. - Và đừng rớ vào khúc xúc xích của mày. - Harry lẩm bẩm. Tuy nhiên, Toot Toot nghe được, và lão khúc khích cười. Chúng tôi hộ tống lão bước lên bục và Toot Toot tự quay lại như một chiến binh già đang hành động. - Ngồi xuống. - Lão nói. - Ngồi vào lòng Già Sparky. Tôi khuỵu đầu gối phải xuống trước chân phải của lão. Dean khuỵu đầu gối trái xuống trước chân trái của lão. Chính lúc này bản thân chúng tôi sẽ lâm vào nguy cơ bị tấn công nhất, nếu tội nhân nổi điên... điều thỉnh thoảng họ đã làm. Cả hai chúng tôi đều quay đầu gối vào trong người một chút để bảo vệ phần hạ bộ. Chúng tôi gặp cằm xuống để bảo vệ cổ họng. Và, dĩ nhiên, chúng tôi di chuyển để khóa an toàn cổ chân và vô hiệu hóa nguy cơ, càng nhanh càng tốt. Tù trưởng sẽ mang dép khi đi dạo lần cuối cùng nhưng khi “tình hình có thể xấu hơn” thì chuyện một người bị vỡ thanh quản sẽ chẳng hay ho gì. Hoặc quằn quại trên sàn nhà, hạ bộ sưng tấy lên, thêm vào đó, trong lúc bốn mươi nhân chứng hoặc hơn nữa - nhiều người trong số đó là các quý ông bên báo chí - ngồi trên những chiếc ghế của sòng bạc Grange và chứng kiến toàn bộ hoạt cảnh. Chúng tôi kẹp cổ chân Toot Toot. Kẹp bên phía Dean hơi to hơn vì nó sẽ truyền điện. Ngày mai khi Bitterbuck ngồi vào ghế, Dean sẽ làm như vậy với cái bắp chân trái cạo nhẵn nhụi. Người Da Đỏ có rất ít lông trên cơ thể theo nguyên tắc, nhưng chúng tôi không làm liều. Trong khi chúng tôi kẹp cổ chân Toot Toot, Brutus khóa chặt cổ tay phải của lão. Harry lướt tới trước và khóa cổ tay trái. Khi đã làm xong, Harry gật đầu vói Brutal, và Brutal gọi ra sau cho Van Hay: - Xoay lên một! Tôi nghe Percy hỏi Jack Van Hay thế nghĩa là gì (khó mà tin nổi sự hiểu biết quá nghèo nàn của hắn, hắn học hỏi quá ít trong suốt thời gian ở Khu E) và lời giải thích thì thào của Van Hay. Hôm nay xoay lên một không có nghĩa gì cả, nhưng ngày mai, khi Brutal nói, Van Hay sẽ xoay nút khởi động máy phát điện của trại giam, đằng sau Khu B. Các nhân chứng sẽ nghe thấy tiếng máy như một âm thanh rù rì thấp, đều đặn, và bóng đèn trong khắp trại giam sẽ bật sáng. Tại những khu xà lim khác, tù nhân sẽ quan sát những bóng đèn sáng quá mức và tưởng rằng đã xảy ra, cuộc hành hình đã kết thúc, trong khi thật ra nó mới chỉ bắt đầu. Brutal đi quanh chiếc ghế điện để Toot Toot có thể nhìn thấy anh ta. - Arlen Bitterbuck, anh đã bị kết án tử hình trên ghế điện, bản án được thông qua bởi một hội thẩm đoàn gồm những người đồng đẳng với anh, và được tuyên đọc bởi một thẩm phán có uy tín của tiểu bang. Cầu Chúa cứu giúp người dân của tiểu bang này. Anh có điều gì để nói trước khi thi hành bản án không? - Có chứ. - Toot nói, mắt sáng lên, môi chụm lại thành một nụ cười rạng rỡ. - Tôi muốn một bữa ăn có gà rán với khoai tây nước sốt, tôi muốn ị vào nón của anh, và tôi phải có Mae West ngồi trên mặt tôi, vì tôi là một gã háo sắc khốn kiếp. Brutal cố giữ vẻ nghiêm trang nhưng không được. Anh ta ngả đầu ra sau và bắt đầu cười. Dean ngã vật xuống mép bục như thể bị bắn, đầu gục vào giữa đầu gối, hú lên như một con sói đồng cỏ, một bàn tay ép chặt lấy lông mày như để giữ chặt bộ não của anh ta ở nơi của nó. Harry thì dập đầu vào tường và cứ hự hự- hự như thể mắc nghẹn thức ăn trong cổ họng. Thậm chí cả Jack Van Hay, người nổi tiếng là không có óc khôi hài, cũng đang cười. Tôi cũng muốn cười, dĩ nhiên, nhưng tự kiềm chế bằng cách nào đó. Tối mai sẽ là sự thật, và một con người sẽ chết tại nơi Toot Toot đang ngồi. - Im đi, Brutal. - Tôi nói. - Cậu nữa, Dean. Harry. Còn Toot, một lời nữa giống như thế ra khỏi miệng lão sẽ là lời cuối cùng. Tôi sẽ cho Van Hay xoa lên hai thật đấy. Toot toét miệng cười với tôi tựa như khen ngợi đấy là một câu nói hay, thưa sếp Edgecombe, một câu nói thật hay. Nụ cười ngập ngừng rồi biến thành một cái nhìn bối rối khi lão thấy tôi không phản ứng. - Anh có chuyện gì không ổn vậy? - Lão hỏi. - Không có gì vui nhộn. - Tôi nói. - Đấy là chuyện không ổn với tôi, và nếu không đủ thông minh để hiểu, tốt hơn lão nên câm mồm. - Có điều câu chuyện vui thật, và tôi cho đấy chính là điều thật sự làm tôi nổi cáu. Tôi nhìn quanh, thấy Brutal trố mắt nhìn mình, vẫn còn vẻ cười cợt. - Mẹ kiếp. - Tôi thốt lên. - Tôi đã quá già đối với công việc này. - Không. - Brutal nói. - Anh đang ở tuổi thanh xuân, Paul ạ. - Nhưng tôi không phải thế, cả anh ta nữa, không kham nổi con đường dài trong công việc này, và cả hai đều biết như vậy. Tuy nhiên, điều quan trọng là cơn buồn cười đã qua. Thế là tốt, bởi điều cuối cùng tôi muốn là đêm mai có người nhớ lại câu nói láu cá của lão Toot Toot và lại rũ ra cười. Bạn sẽ nói như thế là không được, một lính gác cười sặc sụa trong khi áp giải tử tội đi ngang qua các nhân chứng đến ghế điện, nhưng khi con người chịu áp lực căng thẳng, bất cứ điều gì cũng có thể xảy ra. Với một chuyện như thế, người ta sẽ bàn tán về nó suốt hai mươi năm sau. - Lão có chịu im đi không, Toot Toot? - Tôi hỏi. - Vâng. - Lão trả lời, khuôn mặt hờn dỗi của đứa trẻ già nhất thế giới ngoảnh đi chỗ khác. Tôi gật đầu ra hiệu cho Brutal tiếp tục cuộc diễn tập. Anh ta lấy một cái túi lụa trên móc bằng đồng trên lưng ghế xuống, trùm lên đầu Toot, kéo xuống sát dưới cằm lão, mở một lỗ trên đỉnh đầu với đường kính rộng nhất. Sau đó Brutal cúi xuống, nhặt cái vòng ướt bằng xốp ra khỏi xô nước, nhấn một ngón tay vào nó, rồi liếm đầu ngón tay. Xong xuôi, anh ta lại bỏ vòng vào xô. Ngày mai anh ta sẽ không làm thế. Ngày mai anh ta sẽ nhét nó vào trong cái nón treo trên lưng ghế. Nhưng hôm nay thì không, không cần phải làm ướt đầu lão Toot. Cái nón làm bằng thép và với những dây đai lủng lẳng hai bên, trông nó như nón lính bộ binh. Brutal đội nó lên đầu lão Toot, kéo đai sát xuống phía bên trên lỗ hổng của cái túi đen. - Đội nón, đội nón. - Toot Toot nói và lúc này giọng lão ghe vừa méo mó vừa nghèn nghẹt. Các dây đai kẹp hàm lão gần như dính cứng và tôi ngờ rằng Brutal đã kéo xuống hơi chặt hơn mức cần thiết cho mục đích diễn tập. Anh ta lùi lại, đối mặt với những chiếc ghế trống và nói. - Arlen Bitterbuck, bây giờ dòng điện sẽ chạy qua người anh đến khi chết, căn cứ theo luật pháp tiểu bang. Cầu Chúa thương xót cho linh hồn anh. Brutal quay lại phía lưới sắt hình chữ nhật. - Xoay lên hai! Lão Toot, có lẽ đang cố gắng lấy lại tia lóe thiên tài khôi hài lúc nãy, bắt đầu uốn cong lên và đong đưa trên ghế, trong khi các thân chủ thật sự của Già Sparky hầu như không bao giờ làm thế. - Tôi đang bị nướng! - Lão la toáng lên. - Nướng! Nướng! Tôi là con gà tây bị nướng! Tôi thấy Harry và Dean không nhìn cảnh tượng đó. Họ đã quay mặt tránh Sparky và đang nhìn qua nhà kho trống đến cánh cửa dẫn trở về văn phòng. - Quỷ quái, hay thật. - Harry nói. - Nhân chứng đến sớm trước một ngày. Ngồi trên bậc cửa với cái đuôi cuốn gọn gàng quanh bàn chân, quan sát sự kiện bằng cặp mắt hạt thị đen láy, chính là con chuột. Cuộc hành hình diễn ra tốt đẹp - nếu từng có một điều gọi là “tốt đẹp” , thì cuộc hành hình Arlen Bitterbuck, đại ca hội đồng Cherokee bộ tộc Washita quả là tốt đẹp. Gã thắt bím sai cách - tay gã quá run rẩy không thể thắt cho đúng - và con gái lớn nhất của gã, một phụ nữ khoảng ba mươi tuổi, được phép thắt bím tóc cho đẹp và đều đặn. Cô ta muốn gài lông chim vào đầu bím tóc - những cái lông chim ưng, loài chim biểu tượng của gã, nhưng tôi không thể cho phép. Chúng có thể bắt lửa và bốc cháy. Tôi không nói để cô ta biết điều đó, tất nhiên, chỉ nói như thế là đi ngược lại quy định. Cô ta không phản đối, chỉ cúi đầu và đặt tay lên hai bên thái dương để bày tỏ sự thất vọng và không tán thành. Cô ta ứng xử với danh dự, người phụ nữ đó và qua cách làm thực tế đảm bảo rằng bố cô ta cũng sẽ được ứng xử như thế. Gã Tù trưởng rời khỏi xà lim mà không phản kháng hoặc trì hoãn khi đến lúc. Đôi khi chúng tôi phải gỡ ngón tay của tội nhân ra khỏi chấn song - tôi đã làm gãy một hoặc hai ngón tay trong thời kì làm việc và không bao giờ quên âm thanh xương gãy tắc nghẹn - nhưng Tù trưởng không phải là một trong những kẻ đó. Gã mạnh dạn bước trên Dặm Đường Xanh đến văn phòng của tôi, ở đấy gã quỳ xuống và cầu nguyện cùng Sư huynh Schuster, người đã lái chiếc xe cũ kĩ rẻ tiền từ nhà thờ Baptist Ánh Thiêng đến đây. Schuster ban cho Tù trưởng một vài bài thánh ca, và Tù trưởng bắt đầu khóc khi Schuster nói đến việc nằm xuống bên dòng nước êm đềm. Tuy vậy, sự việc không tồi tệ, không có cơn hoảng loạn, không xảy ra chuyện gì như vậy. Tôi nghĩ gã đang suy tưởng về dòng nước êm đềm tinh khiết và mát lạnh đến mức có cảm giác như miệng của bạn bị dao cắt mỗi lần uống vào. Thật ra tôi muốn thấy họ khóc một chút. Khi họ không khóc mới là lúc tôi lo ngại. Nhiều kẻ đã không thể đứng lên nếu không được giúp đỡ, nhưng Tù trưởng làm được trong căn phòng đó. Lúc đầu gã hơi loạng choạng, như thể bị choáng và Dean đưa tay ra đỡ, nhưng Bitterbuck đã tự lấy lại được cân bằng, thế là chúng tôi đi. Hầu hết những chiếc ghế đã có người ngồi, họ lặng lẽ thầm thì với nhau, như người ta vẫn làm khi chờ đợi cử hành một đám cưới hoặc đám tang. Đấy là khoảnh khắc duy nhất Bitterbuck chùn bước. Tôi không biết có ai đó đặc biệt làm gã e ngại, nhưng tôi nghe được một giọng rên rĩ khẽ nổi lên trong cổ họng gã, và đột nhiên cánh tay tôi đang nắm giữ có một sức trì trệ mà trước đó không có. Từ khóe mắt, tôi thấy Harry Terwilliger tiến lên để cắt đứt đường lui của Tù trưởng nếu Bitterbuck thình lình quyết định chơi dữ. Tôi siết chặt khuỷu tay gã và gõ vào bên trong cánh tay gã bằng một ngón tay. - Vững vàng đi, Tù trưởng. - Tôi nói qua kẽ răng, môi không mấp máy. - Điều duy nhất khiến mọi người nhớ đến anh là cách xử sự của anh, vậy hãy làm cho đẹp, cho họ thấy dân Washita biết xử sự ra sao. Gã liếc sang tôi và nhẹ gật đầu, rồi cầm lấy một bím tóc mà con gái đã thắt, hôn lên nó. Tôi nhìn sang Brutal đang đứng tư thế nghỉ sau ghế điện, lộng lẫy trong bộ đồng phục xanh đẹp nhất của anh ta, tất cả nút áo được chùi sáng bóng, nón đội hiên ngang trên cái đầu to. Tôi nhẹ gật đầu với anh ta và anh ta nhìn trả lại ngay, bước lên phía trước để giúp Bitterbuck leo lên bục nếu gã cần được giúp. Hóa ra gã không cần. Thời gian chưa đầy một phút từ lúc Bitterbuck ngồi xuống ghế đến lúc Brutal khẽ gọi “Xoay lên hai!” qua vai ra phía sau. Các bóng đèn mờ đi lần nữa, nhưng chỉ một chút thôi; bạn sẽ không nhận thấy nếu không để ý. Điều đó nghĩa là Van Hay đã đóng cầu dao. Có một tiếng vo vo khẽ phát ra từ chiếc nón sắt, và Bitterbuck nhào ra phía trước, đụng vào những khóa kẹp và đai khống chế xiết ngang ngực gã. Phía bên kia, dựa vào tường là vị bác sĩ của trại giam đang bình thản quan sát, môi mím chặt dần đến khi miệng ông ta trông như một nét đơn màu trắng. Không có chuyện ngã phịch và đung đưa như lão Toot Toot đã làm trò khi diễn tập, chỉ có cú vật mạnh ra trước, như một người gập đôi thân mình trên hông anh ta trong móng vuốt của cơn khoái cảm. Chiếc áo xanh của Tù trưởng co kéo ở chỗ các nút áo, tạo thành hình ảnh những nụ cười gượng ép giữa chúng. Và cái mùi nữa. Tự nó thì không tệ, nhưng khó chịu khi kết hợp. Tôi chưa bao giờ xuống nổi dưới hầm nhà cháu gái tôi khi chúng đưa tôi đến đấy, mặc dù đấy là nơi đứa con trai nhỏ của chúng đặt bộ đồ chơi Lionel, mà nó sẽ thân thiết chia sẻ với ông cố của nó. Tôi không phiền hà vì những chuyến xe hỏa, vì tôi chắc bạn có thể đoán được - máy biến thế mới là thứ tôi không chịu nổi. Cái cách nó kêu vo vo. Và cái cách, khi nóng lên, nó bốc mùi. Thậm chí sau bao nhiêu năm, thứ mùi đó vẫn gợi tôi nhớ về Cold Mountain. Van Hay dành cho gã ba mươi giây, sau đó tắt nguồn điện. Từ chỗ của mình, vị bác sĩ bước lên phía trước và đặt ống nghe. Lúc này các nhân chứng không còn nói chuyện nữa. Bác sĩ thẳng người lên và nhìn qua lưới sắt. - Rối loạn! - Ông ta nói, làm cử chỉ ngoáy một vòng bằng một ngón tay. Ông ta đã nghe được vài tiếng tim đập ngẫu nhiên trong lồng ngực Bitterbuck, có thể vô nghĩa như những hoảng hốt của một con gà bị chặt đầu, nhưng tốt hơn đừng liều. Bạn không muốn đột nhiên gã ngồi bật dậy trên xe đẩy khi đã đi được nửa đường hầm, oang oang nói rằng gã cảm thấy như đang bị bốc cháy. Van Hay xoay lên ba và Tù trưởng nhào ra trước lần nữa, oằn oại một chút từ bên này sang bên kia trong Cuộc xử tử đã kết thúc. Một lần nữa chúng tôi thành công trong việc hủy diệt cái chúng tôi không tạo ra được. Một vài người trong số khán giả lại bắt đầu nói chuyện khẽ khàng; hầu hết đều ngồi yên, gục đầu nhìn sàn nhà, như thể sững sờ hoặc xấu hổ. Harry và Dean tiến đến với băng ca. Thật ra Percy có bổn phận khiên một đầu cáng nhưng nhắn không biết, và chẳng ai buồn gọi hắn. Gã Tù trưởng, vẫn còn đội cái bao lụa đen, được Brutal và tôi chất lên băng ca, rồi chúng tôi lướt qua cánh cửa dẫn vào đường hầm, nhanh đến mức như chạy mà không phải là chạy. Khói - quá nhiều khói bốc ra từ cái lỗ trên đầu mặt nạ, và cái mùi hôi thối ghê rợn. - Ôi trời! - Percy kêu ca, giọng ngập ngừng. - Mùi gì thế? - Tránh đường cho tôi và đứng ngoài chuyện này. - Brutal nói, xô qua hắn để đến bức tường nơi treo bình chữa lửa. Trong lúc đó, Dean đã lột cái mặt nạ. Không đến nỗi tệ hại như có thể xảy ra; bím tóc trái của Bitterbuck đang cháy âm ỉ như một chồng lá cây ẩm ướt. - Đừng quan tâm đến thứ đó. - Tôi bảo Brutal. Tôi không muốn phải chùi sạch một đống bùn hóa chất trên mặt người chết trước khi đưa gã vào phía sau xe chở xác. Tôi vỗ vào đầu Tù trưởng cho đến khi khói thôi bốc lên. Sau đó chúng tôi khiêng cái xác xuống mười hai bậc cầu thang đến đường hầm. Ở đấy lạnh lẽo và ẩm ướt như ngục tối, với âm thanh róc rách trống rỗng của tiếng nước nhỏ giọt. Những ngọn đèn treo lủng lẳng có chụp đèn thô bằng thiếc - chúng được chế tạo trong xưởng máy của trại giam - rọi sáng đường ống bằng gạch chạy dài 30 feet bên dưới xa lộ. Mái đường hầm cong và ẩm ướt. Nó khiến tôi cảm thấy mình như một nhân vật trong truyện của Edgar Allan Poe mỗi lần sử dụng đến nó. Một chiếc xe đẩy đang chờ. Chúng tôi chất xác của Bitterbuck lên xe, tôi kiểm tra lần cuối để đảm bảo tóc gã đã ngừng cháy. Bím tóc đã cháy thành than, và tôi rất tiếc khi thấy cánh cung nhỏ bên đầu gã bây giờ không còn gì, ngoài một tảng nám đen. Percy tát vào má kẻ đã chết. Âm thanh tiếng tát khô khốc do bàn tay hắn gây ra làm tất cả chúng tôi giật mình. Percy nhìn quanh chúng tôi với nụ cười vênh váo trên cửa miệng, mắt lấp lánh. Rồi hắn nhìn Bitterbuck lần nữa. - Vĩnh biệt Tù trưởng. - Hắn nói. - hi vọng địa ngục đủ nóng cho chú mày. - Đừng làm thế. - Brutal lên tiếng, giọng trống rỗng và hùng hồn trong đường hầm rò rỉ nước. - Anh ta đã trả lại những gì anh ta nợ. Anh ta đã sòng phẳng với trại giam. Bỏ tay ra khỏi anh ta. - Ôi dào, thôi đi! - Percy đốp chát nhưng hoảng hốt lùi lại khi Brutal tiến về phía hắn, bóng tối dâng lên sau lưng anh ta, giống như bóng con khỉ trong câu chuyện Đường Nhà Xác. Nhưng thay vì vồ lấy Percy, Brutal nắm lấy xe đẩy và bắt đầu đẩy Arlen Bitterbuck chậm rãi tiến về đầu kia đường hầm, nơi chuyến đi cuối cùng đang đợi gã. Đỗ trên bờ cỏ xa lộ, những bánh xe bằng cao su cứng của chiếc xe đẩy rên lên trên những tấm ván; bóng sẽ đổ dài theo bức tường gạch nhô ra, đầy rồi vơi; Dean và Harry nắm lấy tấm vải dưới chân, kéo đậy lên mặt Tù trưởng, lúc này đã bắt đầu khoác cái nét trơ như sáp, vô hồn của tất cả những bộ mặt đã đã chết, người vô tội cũng như kẻ có tội. Phần 1 - CÁI CHẾT CỦA HAI BÉ GÁI Chương 10 Khi tôi mười tám tuổi, chú Paul của tôi - người mà tôi được đặt tên theo - chết vì một cơn đau tim. Mẹ và bố đưa tôi cùng đến Chicago để dự tang lễ và thăm viếng họ hàng bên bố, trong số họ có nhiều người tôi chưa bao giờ gặp. Chúng tôi đi gần một tháng. Về một số mặt nào đó, chuyến đi quả là tốt đẹp, một chuyến đi cần thiết và hấp dẫn, nhưng ở một mặt khác, nó lại tồi tệ. Bạn thấy đấy, tôi đã yêu sâu đậm cô gái trẻ, người sẽ trở thành vợ tôi hai tuần sau ngày sinh nhật thứ mười chín của tôi. Một đêm kia, khi nỗi khao khát nàng như cháy bỏng trong tim và tâm trí tôi, tôi đã viết cho nàng một lá thư dường như vô tận - tôi trút trọn tâm hồn mình vào lá thư, không hề xem lại những gì tôi đã nói vì sợ nỗi nhút nhát sẽ buộc tôi dừng tay. Tôi không dừng tay, và khi một giọng nói trong đầu tôi ầm ĩ phản đối rằng việc gửi đi một lá thư như vậy là điên rồ, rằng tôi sẽ dâng con tim thơ ngây cho nàng nắm trong tay, tôi đã lờ nó đi, theo kiểu trẻ con nín thở làm ngơ các hậu quả. Tôi thường thắc mắc không biết Janice còn giữ lá thư không, nhưng chưa bao giờ đủ can đảm để hỏi. Tất cả những gì tôi biết chắc là không tìm được nó khi lục lọi vật dụng của nàng sau tang lễ, và dĩ nhiên bản thân nó không có ý nghĩa gì. Tôi cho rằng mình không bao giờ hỏi vì sợ phát hiện lá thứ nồng cháy đó đối với nàng có ít ý nghĩa hơn đối với tôi. Lá thư dài bốn trang. Tôi nghĩ sẽ không bao giờ viết thứ gì dài hơn nữa trong đời, và bây giờ hãy nhìn đây. Vẫn chưa thấy bóng dáng của tất cả những dòng này và đoạn kết. Nếu biết trước câu chuyện sẽ dài đến mức này, hẳn tôi đã không bắt đầu. Điều tôi không nhận ra là việc viết văn đã mở ra biết bao cánh cửa, như thể cây bút máy cũ của bố tôi không phải là bút, nhưng là một thứ chìa khóa vạn năng kì diệu nào đó. Con chuột có lẽ là thí dụ hay nhất về điều tôi đang nói đến - Steamboat Willy, ông Jingles, con chuột trên Dặm Đường Xanh. Trước khi bắt đầu viết, tôi chưa hề nhận thức được tầm quan trọng của cậu ta. Chẳng hạn, cái vẻ dường như cậu ta đi tìm Delacroix trước khi Delacroix đến - dù sao, tôi không nghĩ điều đó từng xuất hiện với tôi, trong tâm thức của tôi, cho đến khi bắt đầu viết và nhớ lại. Tôi đang nói tôi không hình dung nổi phải ôn ngược dòng thời gian theo thứ tự bao xa để kể bạn nghe về John Coffey, hoặc tôi phải bỏ mặc gã trong xà lim bao lâu, một con người khổng lồ đến mức bàn chân gã không chỉ thò ra khỏi mép sạp ngủ, mà còn thòng xuống tận sàn nhà. Tôi không muốn bạn quên gã, được chứ? Tôi muốn bạn thấy gã ở đó, đang nhìn lên trần xà lim, khóc những giọt nước mắt thầm lặng, hoặc lấy tay che mặt. Tôi muốn bạn nghe được gã, những tiếng thở dài run rẩy như tiếng nức nở của gã, thỉnh thoảng là một tiếng rên đẫm nước mắt. Những thứ này không phải là âm thanh của nỗi thống khổ và ân hận mà đôi khi chúng ta nghe được ở Khu E, những tiếng thét chói tai chứa đựng những mảnh vụn ăn năn; như đôi mắt ướt của gã chẳng hạn, bằng cách nào đó đã tách ra khỏi cơn đau đớn mà chúng ta từng đối phó. Mặt nào đó - tôi biết điều này nghe rất điên rồ, tất nhiên tôi biết, nhưng nếu bạn không thể nói ra điều con tim bạn cảm nhận là sự thật thì tập truyện dài này sẽ không có ý nghĩa - mặc nào đó nó như thể nỗi buồn cho toàn bộ cái thế giới mà gã cảm nhận, một điều gì đó quá to tát không bao giờ có thể hoàn toàn an ủi. Thỉnh thoảng tôi ngồi nói chuyện với gã, như tôi vẫn làm với tất cả bọn họ - nói chuyện là công việc to tát nhất, quan trọng nhất của chúng tôi, tôi tin đã nói như thế - và tôi cố gắng an ủi gã. Tôi không cảm thấy mình đã từng làm thế, và một phần tâm hồn tôi vui sướng khi gã chịu đau khổ, bạn biết đấy. Cảm thấy gã đáng phải chịu đau khổ. Đôi lúc thậm chí tôi còn nghĩ đến việc gọi điện cho Thống đốc và đề nghị hoãn thi hành án. “Chúng ta chưa nên nướng gã, - tôi sẽ nói. - Tội lỗi vẫn còn làm gã rất đau đớn, cắn rứt gã rất nhiều, quằn quại trong ruột gã như mũi kim bén ngót. Hãy cho gã thêm chín mươi ngày nữa, thưa ngài. Hãy để gã tiếp tục làm cho chính gã điều chúng ta không làm được”. Gã John Coffey đó, tôi muốn bạn gạt sang một bên tâm trí trong khi tôi làm xong việc theo kịp nơi tôi bắt đầu - cái gã John Coffey nằm trên sạp, cái gã John Coffey sợ bóng tối có lẽ vì lí do chính đáng, bởi trong bóng tối chẳng phải có hai bóng dáng với mái tóc quăn - không còn là bé gái nữa mà là ác thần báo thù - đang chờ gã hay sao? Cái gã John Coffey với đôi mắt luôn trào lệ, giống như máu tuôn ra từ một vết thương không bao giờ lành. Vậy là Tù trưởng bị xử tử và Tổng thống dời nhà - đến Khu C, ngôi nhà của phần lớn trong số một trăm năm mươi cư dân của Cold Mountain. Cuộc đời của Tổng thống hóa ra được mười hai năm. Gã bị trấn nước chết trong nhà giặt trại giam năm 1944. Không phải là nhà giặt của trại giam Cold Mountain; Cold Mountain đóng cửa năm 1933. Tôi không cho đó là điều quan trọng nhiều đối với phạm nhân - tường vẫn là tường, như lời bọn tội phạm nói, và tôi xác nhận Già Sparky vẫn là tai họa chết người từng chút một trong căn phòng tử thần nhỏ bằng đá của riêng nó, như đã từng một thời trong nhà kho ở Cold Mountain. Về phần Tổng thống, kẻ nào đó đã dúi đầu gã vào trong một cái vại chứa chất hấp tẩy rồi kiềm chặt. Khi được lính gác lôi ra, bộ mặt gã đã gần như biến mất. Người ta buộc phải nhận dạng gã bằng vân tay. Về tổng thể, có lẽ gã đi với Già Sparky thì tốt hơn... nhưng nếu thế thì gã không có thêm mười hai năm đó, phải không? Tuy nhiên, tôi nghi gã không hề nghĩ nhiều về điều đó vào phút cuối đời, khi buồng phổi của gã cố gắng học cách hít thở với chất hexlite và chất tẩy trắng. Người ta không bao giờ bắt được thủ phạm. Lúc ấy tôi dã rời khỏi công việc cải huấn, nhưng Harry Terwilliger viết thư kể cho tôi biết. - Gã được giảm án phần lớn là nhờ dân da trắng. - Harry viết. - Nhưng cuối cùng cũng bị trừng phạt, không có gì khác. Tôi chỉ xem như một cuộc hoãn thi hành án lâu dài, sau cùng đã hết hạn. Có một quãng thời gian êm ả cho chúng tôi ở Khu E, khi Tổng thống đã ra đi. Harry và Dean được tạm thời tái phân công, chỉ còn tôi, Brutal và Percy trên Dặm Đường Xanh một chút. Thực tế có nghĩa chỉ là tôi và Brutal, vì Percy sống rất khép kín. Nói bạn nghe, gã thanh niên đó là thiên tài trong chuyện tìm ra việc để không làm. Và thỉnh thoảng (nhưng chỉ khi Percy không có mặt) , những anh chàng kia sẽ đến để có cái Harry gọi là “một chầu tán gẫu vui vẻ”. Trong nhiều dịp như thế này, con chuột cũng xuất hiện. Chúng tôi cho nó ăn và nó ngồi đó ăn, uy nghi như Solomon, nhìn chúng tôi bằng cặp mắt hạt thị trong sáng. Đấy là một vài tuần lễ tốt lành, yên ả và thoải mái, kể cả trò bới móc nhiều hơn thường lệ của Percy. Nhưng những gì tốt đẹp sẽ đến hồi kết thúc, và một ngày thứ hai mưa nhiều vào cuối tháng bảy - tôi đã kể bạn nghe mùa hè năm ấy mưa và ẩm ướt biết bao chưa? Tôi thấy mình đang ngồi trên sạp ngủ của một xà lim mở cửa và chờ đợi Eduard Delacroix. Gã đến với một tiếng sầm bất ngờ. Cánh cửa dẫn vào sân tập thể dục bật tung ra, để lọt vào một nguồn sáng tràn ngập, có tiếng lách cách lẫn lộn của dây xích, một giọng nói sợ sệt lắp bắp từ xa, pha trộn giữa giọng Anh và giọng Pháp Cajun (một thứ thổ ngữ mà bọn tù nhân ở Cold Mountain thường gọi là da bayou) , và Brutal la lớn, “Ê! Thôi đi! Thôi đi, Percy!”. Tôi đang nửa tỉnh nửa ngủ trên cái sẽ trở thành sạp ngủ của Delacroix, nhưng mau chóng đứng lên, tim đập mạnh trong lồng ngực. Âm thanh ồn ào kiểu đó gần như chưa bao giờ xảy ra ở Khu E cho đến khi Percy xuất hiện, hắn đem nó theo như một thứ mùi hôi thối. - Nhanh lên, đồ đồng tính luyến ái khoai tây rán kiểu Pháp khốn kiếp! - Percy hét ầm, lờ Brutal đi. Và hắn xuất hiện, kéo lê một gã to không hơn cây kim bằng một tay. Trong bàn tay kia là cây dùi cui của Percy. Răng hắn nhe ra với vẻ nhăn nhó bị kiềm chế, mặt bừng đỏ. Tuy nhiên trông hắn không hoàn toàn mất vui. Delacroix cố gắng theo kịp hắn, nhưng gã đeo xiềng trên chân, và cho dù gã lê bước nhanh bao nhiêu thì Percy vẫn lôi gã theo nhanh hơn. Tôi nhảy bổ ra khỏi xà lim đúng lúc để đỡ khi gã bị ngã, và đấy là cách mà Del và tôi được giới thiệu với nhau. Percy đi quanh gã, dùi cui giơ lên, và tôi kiềm hắn lại bằng một tay. Brutal thở hào hển đến với chúng tôi, nhìn có vẻ bị sốc và bối rối vì toàn bộ chuyện này, như tôi cảm nhận. - Đừng để anh ta đánh tôi nữa, m’sieu. - Delacroix lắp bắp. - S'il vous plait, s’il vous plait! - Để tôi xử nó, để tôi xử nó! - Percy kêu to, nhào tới trước. Hắn bắt đầu đập dùi cui vào vai Delacroix. Delacroix giơ tay lên, gào thét, và cây dùi cui đập chát chát vào tay áo tù màu xanh của gã. Đêm ấy tôi thấy gã cởi trần, và gã mang những vết thâm tím từ Giáng sinh sang Phục sinh. Nhìn những vết thâm tím đó, tôi thấy khó chịu. Gã là kẻ giết người nhưng đấy không phải là cách chúng tôi quản lí Khu E. Dù sao thì không phải như thế trước khi Percy đến. - Nào! Nào! - Tôi gầm lên. - Dẹp đi! Thế này là sao? - Tôi cố lách người vào giữa Delacroix và Percy, nhưng không hiệu quả lắm. Cây dùi cui của Percy tiếp tục vụt tứ tung, lúc thì bên này, lúc bên kia người tôi. Sớm muộn gì hắn cũng giáng một gậy vào tôi thay vì vào mục tiêu đã nhắm của hắn, và lúc ấy sẽ có ẩu đả ngay tại đây trong hành lang, cho dù thế lực của hắn là ai. Tôi sẽ không nhịn được, và Brutal sẵn sàng xông vào. Về một số khía cạnh, tôi ước gì chúng tôi đã làm thế. Có lẽ điều đó sẽ thay đổi được một số sự việc xảy ra sau này. - Đồ đồng tính mẹ kiếp! Tao sẽ dạy cho mày tránh đụng vào người tao, đồ chăn bò hạng bét tồi tệ! Phập! Phập! Phập! Và bây giờ Delacroix đang chảy máu tai, la hét inh ỏi. Tôi bỏ không che chắn cho gã nữa, nắm lấy một bên vai, đẩy gã vào xà lim, ở đó gã ngã sóng soài lên sạp ngủ. Percy lao vòng qua người tôi và đập một cú cật lực cuối cùng vào mông gã - một cú nhớ đời, bạn có thể nói thế. Thế rồi Brutal chụp lấy vai Percy và kéo mạnh qua hành lang. Tôi nắm lấy cánh cửa và đẩy nó theo đường ray đóng lại. Rồi tôi quay sang Percy, cơn sốc và hoang mang của tôi đấu tranh dữ dội với cơn giận dữ thuần túy. Percy đã làm việc nhiều tháng ở đây, đủ lâu để tất cả chúng tôi quyết định rằng chúng tôi không ưa hắn, nhưng đây là lần đầu tiên tôi hoàn toàn hiểu hắn dễ mất tự chủ đến mức nào. Hắn đứng nhìn tôi, không phải hoàn toàn không sợ - hắn là một thằng hèn trong bản chất, điều này thì tôi chưa bao giờ nghi hoặc - nhưng vẫn tự tin rằng các mối quan hệ sẽ bảo vệ hắn. Về chuyện đó thì hắn đúng. Tôi ngờ là có những người không hiểu tại sao lại thế, kể cả sau tất cả những gì tôi đã nói, nhưng đó là những người chỉ biết cụm từ “Đại Khủng Hoảng” trong sách lịch sử. Nếu bạn từng ở thời đó, thì nó không chỉ là một cụm từ trong sách, và nếu bạn có một việc làm ổn định thì, ôi trời, bạn sẽ làm gần như mọi chuyện để giữ được nó. Màu đỏ đã nhòe đi một chút trên bộ mặt Percy, nhưng má hắn vẫn còn đỏ bừng, và mái tóc hắn, vốn thường xuyên được chải lật ra sau và bóng nhẫy brillantine, đã xổ xuống trán. - Nhân danh Chúa, tất cả chuyện này là sao? - Tôi hỏi. - Tôi chưa bao giờ cho đánh đập tù nhân trong khu của tôi! - Thằng khốn ranh đồng tính tìm cách bóp hạ bộ của tôi khi tôi lôi gã ra khỏi xe. - Percy trả lời. - Nó gây sự, và tôi sẽ đập nó nữa. Tôi nhìn hắn, quá sửng sốt không nói nên lời. Tôi không thể hình dung gã đồng tính luyến ái ham hố nhất trên quả đất xinh tươi của Chúa gây ra hành vi mà Percy vừa mô tả. Chuẩn bị chuyển vào căn hộ có chấn song sắt trên Dặm Đường Xanh, như một quy luật, không làm cho tù nhân, thậm chí kẻ ác độc nhất, có hứng thú tình dục. Tôi nhìn lại Delacroix đang co rúm trên sạp, tay vẫn giơ lên để bảo vệ gương mặt. Trên cổ tay gã có còng và một sợi xích gữa hai ổ chân. Rồi tôi quay lại Percy. - Ra khỏi đây. - Tôi ra lệnh. - Tôi sẽ nói chuyện với cậu sau. - Chuyện này sẽ nằm trong báo cáo của anh? - Hắn ngổ ngáo hỏi. - Bởi vì nếu có, tôi sẽ viết báo cáo của riêng tôi, anh biết đấy. Tôi không muốn viết báo cáo, tôi chỉ muốn hắn cút cho khuất mắt tôi. Tôi bảo hắn như thế. - Khép lại vấn đề. - Tôi kết luận. Tôi thấy Brutal nhìn tôi vẻ phản đối, nhưng lờ đi. - Đi đi, ra khỏi đây. Đến khu Quản trị, bảo họ anh có nhiệm vụ đọc thư và hỗ trợ trong phòng đóng gói. - Được! - Hắn đã lấy lại vẻ điềm tĩnh, hoặc là thói kiêu căng ngu ngốc ngụy trang như vẻ điềm tĩnh. Hắn chải tóc từ trán lật ra sau bằng bàn tay mềm mại, trắng và nhỏ nhắn như bàn tay của một thiếu nữ, rồi đến gần xà lim. Delacroix nhìn thấy hắn, và gã cố nép mình lùi xa hơn nữa trên sạp, lắp bắp một thứ hỗn hợp tiếng Anh và tiếng Pháp hổ lốn. - Tao chưa xong với mày đâu, Pierre. - Hắn thốt lên, rồi giật mình khi bàn tay khổng lồ của Brutal đặt lên vai hắn. - Phải, cậu chưa xong. - Brutal nói. - Bây giờ thì biến đi! - Anh không làm tôi sợ đâu, anh biết đấy. - Percy nói. - Không sợ chút nào. - Ánh mắt hắn chuyển sang tôi. - Cả hai anh. - Nhưng chúng tôi đã làm hắn sợ. Bạn có thể nhìn thấy điều đó trong mắt hắn, rõ như ban ngày, và điều đó càng làm cho hắn nguy hiểm hơn. Một gã như Percy, thậm chí bản thân cũng không biết mình quyết tâm làm gì từ phút này qua phút khác và từ giây này sang giây khác. Điều hắn làm ngay lúc đó là quay đi khỏi chúng tôi và đi lên hành lang bằng những bước chân dài, vênh váo. Hắn đã cho thế giới chứng kiến điều gì xảy ra khi một gã người Pháp nhỏ bé, hói đầu phân nửa và gây trơ xương tìm cách bóp hạ bộ của hắn, và hắn đang rời khỏi hiện trường với tư cách của kẻ chiến thắng. Tôi phát biểu lời lẽ đã soạn sẵn, tất cả về chuyện làm cách nào chúng tôi có radio, rằng chúng tôi sẽ đối đãi hắn tử tế nếu gã cũng xử sự như thế với chúng tôi. Bài giảng đạo nhỏ nhoi đó không phải là điều mà bạn sẽ gọi là một trong những thành công của tôi. Gã khóc suốt thời gian nói chuyện, ngồi co quắp ở chân sạp ngủ, càng xa tôi càng hay mà không thật sự mờ nhạt vào trong góc. Gã khép nép mỗi khi tôi cử động và tôi nghĩ gã không nghe được lấy một từ trên sáu từ. Có lẽ thế. Dù sao tôi không nghĩ bài giảng đạo đặc biệt đó tạo ra ý thức toàn phần. Mười lăm phút sau tôi trở về bàn giấy, nơi Brutus Howell có vẻ kích động, đang ngồi liếm đầu cây bút chì mà chúng tôi dùng cho quyển sổ ghi tên khách thăm. - Anh có chịu từ bỏ thói quen đó trước khi bị nhiễm độc không? - Tôi hỏi. - Lạy chúa. - Anh ta đáp, bỏ bút chì xuống. - Tôi không bao giờ muốn có thêm một thằng lớn lối như thế áp tải tù nhân đến Khu. - Chuyện Delacroix bóp hạ bộ hắn là thế nào? - Tôi hỏi. Brutal khịt mũi. - Gã bị xích chân và Percy kéo gã đi quá nhanh, thế thôi. Gã vấp chân và sắp ngã khi vừa ra khỏi xe. Gã đưa tay ra như bất cứ người nào khi sắp ngã, và một bàn tay quẹt qua đũng quần Percy. Hoàn toàn là tai nạn. - Cậu nghĩ Percy biết chứ? - Tôi hỏi. - Có phải hắn lấy cớ để đánh dằn mặt Delacroix không? Để chứng tỏ ai chỉ huy cuộc săn ở đây. Brutal chậm rãi gật đầu. - Ừ. Tôi nghĩ có lẽ thế. - Vậy chúng ta phải theo dõi hắn. - Tôi nói và vuốt tóc. Như thể công việc chưa đủ khó khăn. - Chúa ơi, tôi ghét chuyện này quá đi. Tôi ghét hắn! - Tôi cũng vậy. Và anh muốn biết chuyện gì khác không, Paul? Tôi không hiểu hắn. Hắn có thế lực, tôi hiểu điều đó, đúng rồi, nhưng tại sao hắn lợi dụng họ để tìm việc làm ở Dặm Đường Xanh khốn kiếp? Hơn nữa, lại bất kì nơi nào trong nhà tù tiểu bang nữa chứ? Tại sao không là một tên hầu tại Thượng viện, hoặc một kẻ sắp lịch hẹn cho Phó Thống đốc? Chắc chắn người của hắn có thể tìm cho hắn việc gì đó tốt hơn nếu xin họ, vậy tại sao lại ở đây? Tôi lắc đầu. Tôi không biết. Có nhiều điều lúc ấy tôi không biết. Tôi cho rằng mình quá ngây thơ. Phần 1 - CÁI CHẾT CỦA HAI BÉ GÁI Chương 11 Sau sự kiện đó, tình hình trở lại bình thường... ít nhất trong một thời gian. Ở Tòa án hạt, tiểu bang chuẩn bị đưa John Coffey ra xét xử, và cảnh sát trưởng Homer Cribus của hạt Trapingus bác bỏ ý kiến cho rằng một cuộc hành hình tập thể có lẽ sẽ thúc đẩy công lí nhanh hơn một chút. Những chuyện đó không ảnh hưởng gì đến chúng tôi; tại Khu E, không ai chú ý nhiều đến tin tức. Cuộc sống ở Dặm Đường Xanh, theo cách nào đó, giống như sống trong một căn phòng cách âm. Thỉnh thoảng bạn nghe những tiếng rì rầm mà có lẽ với thế giới bên ngoài là những vụ nổ, nhưng tất cả chỉ có thế. Không cần vội vã với John Coffey; người ta chỉ muốn chắc ăn về gã. Percy có hai cơ hội chơi ác Delacroix, đến lần thứ hai thì tôi lôi hắn sang một bên và ra lệnh cho hắn đến văn phòng của tôi. Đây không phải lần đầu tôi thẩm vấn Percy về đề tài ứng xử của hắn, và sẽ không là lần cuối, nhưng được tiến hành lập tức vì điều có lẽ là sự hiểu biết rõ ràng nhất về bản chất của hắn. Hắn có tâm hồn của một đứa bé trai độc ác đến sở thú không phải để nghiên cứu những con vật, mà để ném đá vào chuồng của chúng. - Cậu tránh xa gã ngay, nghe chưa? - Tôi nói. - Trừ khi tôi có lệnh đặc biệt, cậu phải tránh xa gã! Percy chải lật tóc ra sau, rồi vỗ về nó bằng đôi bàn tay nhỏ nhắn. Gã con trai đó thích sờ vào tóc mình. - Tôi có làm gì nó đâu. - Hắn cãi. - Chỉ hỏi nó cảm thấy thế nào khi thiêu cháy rụi đứa bé, thế thôi. - Percy nhìn tôi bằng đôi mắt tròn xoe, ngây thơ. - Cậu dẹp chuyện đó, hoặc sẽ có báo cáo. - Tôi nói. - Cứ báo cáo nếu anh muốn. - Hắn cười và trả lời. - Rồi tôi sẽ quay lưng và làm báo cáo của riêng tôi. Giống như tôi đã nói với anh khi gã đến. Chúng ta sẽ xem ai ngon hơn ai. Tôi cúi người, khoanh tay trên mặt bàn và nói bằng giọng mà tôi hi vọng nghe như của một người bạn tín cẩn. - Brutus Howell không ưa cậu. - Tôi bảo hắn. - Và khi Brutal không ưa ai, được biết cậu ấy từng làm báo cáo. Cậu ấy vốn không thành thạo lắm với bút mực, vì thế cậu ấy sẵn sàng báo cáo bằng hai quả đấm. Nếu cậu hiểu ý tôi. Nụ cười tự mãn của hắn nao núng. - Anh định nói gì? - Tôi không định nói gì. Tôi đã nói rồi. Và nếu cậu mách ai trong số... bạn bè của cậu... về cuộc nói chuyện này, thì tôi sẽ nói là cậu bịa đặt. - Tôi nhìn hắn, mắt mở to và thành khẩn. - Hơn nữa, tôi đang cố gắng làm bạn với cậu, Percy. Với người khôn ngoan chỉ một lời là đủ, người ta nói thế. Và tại sao cậu cứ nhất quyết gây gổ với Delacroix? Gã có đáng gì đâu. Và trong một thời gian, cuộc nói chuyện trên đã có hiệu quả. Đã có bình an. Một đôi lần thậm chí tôi có thể phái Percy đi với Dean hoặc Harry khi đến giờ tắm của Delacroix. Ban đêm chúng tôi có radio, Delacroix bắt đầu thư giãn một chút trong công việc ít ỏi thường ngày ở Khu E, và đã có bình an. Rồi, một đêm kia, tôi nghe gã cười. Harry Terwilliger trực ở bàn giấy và chẳng bao lâu sau anh ta cũng cười. Tôi đứng dậy và đi xuống xà lim của Delacroix để xem gã có thể cười vì điều gì. - Nhìn này, sếp! - Gã thốt lên khi nhìn thấy tôi. - Tôi đã thuần hóa được một con chuột! Đấy là Steamboat Willy. Nó đang ở trong xà lim của Delacroix. Hơn thế nữa, nó đang ngồi trên vai của Delacroix và bình thản nhìn chúng tôi qua chấn song bằng cặp mắt hạt thị. Đuôi cuộn quanh bàn chân, trông nó hoàn toàn yên bình. Về phần Delacroix - bạn sẽ không nhận ra con người đã từng ngồi co quắp và run rẩy ở chân sạp ngủ cách đó chưa đầy một tuần. Nhìn gã giống con gái tôi vào sáng ngày Giáng sinh khi con bé xuống nhà dưới và thấy những món quà. - Xem đây! - Delacroix nói. Con chuột đang ngồi trên vai phải gã. Delacroix duỗi tay trái ra. Con chuột chạy vụt lên đỉnh đầu Delacroix, sử dụng tóc của gã để trèo lên. Sau đó nó vụt chạy xuống phía bên kia, Delacroix cười khúc khích khi đuôi con chuột cù vào bên hông cổ gã. Con chuột chạy suốt xuống đến cổ tay, rồi quay lại, vụt chạy lên lại vai trái của Delacroix và cuộn đuôi quanh bàn chân lần nữa. - Trời nguyền rủa tôi mất! - Harry kêu lên. - Tôi huấn luyện nó làm thế. Delacroix hãnh diện khoe. - Tên nó là ông Jingles. - Không. - Harry vui vẻ nói. - Nó là Steamboat Willy. Sếp Howell đặt tên cho nó đấy. - Nó là ông Jingles. - Delacroix khẳng định. Về bất cứ chủ đề nào khác, hẳn gã sẽ nói thứ thối tha đó là Shinola, nhưng về đề tài tên con chuột thì gã hoàn toàn cứng rắn. Nó thầm nói tên nó vào tai gã. - Sếp, cho tôi xin một cái hộp được không? Tôi xin một cái hộp cho con chuột để nó ngủ trong đây với tôi được không? - Giọng gã bắt đầu rơi vào âm sắc nịnh nọt mà tôi đã nghe cả ngàn lần trước đó. - Tôi để nó dưới sạp ngủ và nó sẽ không bao giờ gây phiền hà, dù chỉ một lần. - Tiếng Anh của chú mày khá hơn nhiều khi chú mày muốn điều gì đó. - Tôi đáp, trì hoãn thời gian. - Ồ, - Harry lẩm bẩm và huých tôi. - Phiền hà đến kìa. Nhưng tôi thấy Percy không có vẻ gây phiền hà, đêm đó thì không. Hắn không vuốt tóc hoặc vân vê cây dùi cui của hắn, và nút áo đồng phục trên cùng đã cởi ra. Lần đầu tiên tôi thấy hắn như thế, và thật ngạc nhiên khi một điều nhỏ nhoi như thế lại có thể tạo ra sự thay đổi lớn lao. Tuy thế, phần lớn điều gây ấn tượng cho tôi là nét mặt hắn. Trên đó có vẻ bình an. Không phải là sự thanh bình - tôi không nghĩ Percy Wetmore có một khúc xương thanh bình trong cơ thể hắn - nhưng là điệu bộ của một con người phát hiện ra hắn có thể chờ đợi điều hắn muốn. Một sự thay đổi đáng kể của gã thanh niên trẻ mà tôi đã dọa dẫm bằng những quả đấm của Brutus Howell, chỉ vài ngày trước đó. Tuy nhiên, Delacroix không thấy sự thay đổi; gã co rúm vào tường xà lim, kéo đầu gối lên tận ngực. Mắt gã dường như phồng ra cho đến lúc che khuất nửa khuôn mặt. Con chuột vụt chạy lên đỉnh đầu hói của gã và ngồi ở đó. Tôi không biết con chuột nhớ nó có lí do để ngờ vực Percy không, nhưng chắc chắn nó tỏ vẻ như thể là nhớ. Có lẽ nó chỉ ngửi thấy nỗi sợ hãi của gã người Pháp nhỏ bé và phản ứng. - Sao, sao. - Percy cất giọng. - Có vẻ mày đã tìm được cho mày một người bạn kìa, Eddie. Delacroix cố gắng trả lời, tôi đoán là một thời thách thức trống rỗng về điều sẽ xảy ra cho Percy nếu Percy làm hại người bạn mới của gã, nhưng không có gì. Môi dưới gã hơi run rẩy, nhưng chỉ có thế. Trên đỉnh đầu gã, ông Jingles không run. Nó ngồi yên tuyệt đối, chân sau lùa trong mái tóc Delacroix, chân trước dạng ra trên cái sọ hói tóc của gã, nhìn Percy tựa như đang đánh giá hắn. Cách bạn đánh giá một cựu thù. Percy nhìn tôi. - Chẳng phải đây là con chuột tôi đã rượt đuổi sao? Con chuột sống trong phòng kỉ luật đấy? Tôi gật đầu. Tôi nghĩ Percy chưa thấy kẻ mới được đặt tên là ông Jingles từ lần rượt đuổi vừa rồi, và lúc này hắn không lộ vẻ muốn rượt đuổi con chuột. - Phải, đúng là nó. - Tôi trả lời. - Có điều Delacroix gọi nó là ông Jingles, không phải Steamboat Willy. Gã nói con chuột thì thầm vào tai gã. - Thế ư. - Percy nói. - Điều kì diệu không bao giờ cạn, phải không? - Tôi chờ hắn rút dùi cui ra và bắt đầu vỗ vào chấn song, chỉ để cho Delacroix biết ai là sếp, nhưng hắn chỉ đứng đó chống nạnh, nhìn vào trong. - Delacroix hỏi xin một cái hộp, Percy. Gã nghĩ con chuột sẽ ngủ trong đó, tôi đoán thế. Nhờ vậy gã có thể giữ nó làm vật nuôi. - Tôi chất chứa nỗi hoài nghi vào giọng nói, và cảm nhận hơn là thấy Harry nhìn tôi ngạc nhiên. - Cậu nghĩ sao về chuyện đó? - Tôi nghĩ có lẽ đêm nào đó nó sẽ ị lên mũi gã trong khi ngủ rồi chuồn mất. - Percy thản nhiên đáp. - Nhưng tôi nghĩ đấy là chuyện của thằng nhóc người Pháp. Tôi đã thấy một cái hộp xì gà khá đẹp trên xe đẩy của Toot Toot vào đêm kia. Nhưng tôi không biết lão có chịu cho không. Có lẽ lão muốn một đồng năm xu, thậm chí mười xu không chừng. Đến lúc này tôi đánh liều liếc nhìn Harry và thấy miệng anh ta há hốc. Percy nghiêng lại gần Delacroix hơn, đưa mặt hắn vào giữa các chấn song. Delacroix lùi vào sâu hơn. Tôi thề có Chúa hắn sẽ tan biến vào trong tường nếu có thể. - Mày có năm xu hoặc có thể là mười xu để mua hộp xì gà không, đồ ngớ ngẩn? - Hắn hỏi. - Tôi có bốn xu. - Delacroix trả lời. - Tôi đưa chúng đổi lấy cái hộp, nếu là hộp tốt, s’il est bon. - Nói mày nghe điều này, - Percy nói. - Nếu lão già khọm sún răng đó chịu bán cái hộp Corona với giá bốn xu cho mày, tao sẽ chuồn một ít bông ra khỏi bệnh xá để lót hộp. Chúng ta sẽ xây khách sạn Hilton cho chuột, trước khi xong xuôi với nhau. - Hắn chuyển ánh mắt sang tôi. - Tôi phải viết một báo cáo phòng cơ điện về Bitterbuck. - Hắn nói. - Trong văn phòng anh có bút không, Paul? - Quả thực là có. - Tôi trả lời. Cả mẫu đơn nữa. Ngăn kéo trên cùng bên trái. - Sao, số dzách. - Hắn đáp rồi vênh váo bỏ đi. Harry và tôi nhìn nhau. - Anh nghĩ hắn bệnh không? - Harry hỏi. - Có lẽ đã đi bác sĩ và biết chỉ còn sống được ba tháng nữa? Tôi bảo anh ta tôi không có chút ý niệm gì về chuyện vừa xảy ra. Lúc ấy đó là sự thật, nhưng rồi theo thời gian tôi hiểu ra. Và một vài năm sau, tôi có một cuộc nói chuyện thú vị bên bàn ăn với Hal Moores. Lúc ấy chúng tôi có thể ăn nói thoải mái vì ông ấy đã về hưu, còn tôi công tác tại Trại Cải huấn Thanh niên. Một bữa ăn mà ở đó ta uống quá nhiều và ăn quá ít, và những cái lưỡi trở nên ba hoa. Hal kể tôi nghe rằng Percy định khiếu nại về tôi và cuộc sống ở Dặm Đường Xanh nói chung. Chuyện này xảy ra ngay sau khi Delacroix đến Khu, Brutal và tôi đã cản Percy không cho đánh gã kia sống dở chết dở. Điều làm cho Percy tức tối nhất là việc tôi đã đuổi hắn cút cho khuất mắt tôi. Hắn nghĩ một người có quan hệ với Thống đốc không thể chấp nhận những lời lẽ như thế. Vâng, Hal kể tôi nghe, ông đã hoãn binh với Percy càng lâu càng tốt, và đến khi thấy rõ Percy sắp giật dây để tôi bị khiển trách, ít nhất cũng bị chuyển sang nơi khác trong trại giam thì ông ấy, Moores, đã kéo Percy vào trong phòng của mình và bảo rằng nếu hắn thôi không quậy cho hôi, Moores đảm bảo sẽ cho Percy xuất hiện trong buổi xử tử Delacroix. Thế có nghĩa trên thực tế, hắn được đứng ngay bên cạnh chiếc ghế điện. Tôi sẽ chỉ huy, như mọi lần, nhưng các nhân chứng không biết điều đó; đối với họ sẽ có vẻ như ông Percy Wetmore chủ đạo cuộc khiêu vũ vậy. Moores không hứa gì khác hơn điều chúng tôi đã thảo luận và tôi thuận theo, nhưng Percy không biết. Hắn đồng ý bỏ những lời đe dọa làm cho tôi bị tái bổ nhiệm, và bầu không khí ở Khu E nhẹ thở hơn. Thậm chí hắn còn đồng ý cho Delacroix nuôi giữ kẻ cựu thù của Percy. Ngạc nhiên biết bao khi một số người có thể thay đổi, nếu được khích lệ đúng chỗ; trong trường hợp của Percy, tất cả những gì Giám thị Moores phải hứa hẹn chỉ là cơ hội để lấy mạng một gã người Pháp nhỏ bé, sói đầu. Toot Toot cảm thấy bốn xu còn kém xa giá trị một hộp xì gà Corona thượng hạng - hộp xì gà là vật được đánh giá cao trong trại giam. Một ngàn mặt hàng nhỏ khác có thể cất trong đó, mùi vị thì dễ chịu, và có vẻ gì đó về những cái hộp gợi cho thân chủ của chúng tôi cảm giác thế nào là tự do. Bởi vì thuốc lá được phép hút trong trại giam nhưng xì gà thì không, tôi hình dung thế. Dean Stanton, lúc ấy đã trở lại Khu, góp một xu vào hũ tiền, và tôi cũng ném vào một xu nữa. Khi Toot Toot vẫn tỏ ra lưỡng lự, Brutal bèn làm việc với lão, trước hết bảo rằng lão phải tự xấu hổ cho bản thân vì đã xử sự như một gã bần tiện, sau đó hứa với lão rằng anh ta, Brutus Howell, sẽ đích thân đặt trả cái hộp Corona đó vào tay Toot ngay sau ngày hành hình Delacroix. “Sáu xu có thể hoặc không thể là đủ nếu lão nói chuyện về cái bán hộp xì gà - chúng ta có thể cãi nhau một trận ra trò theo kiểu tiệm hớt tóc về điều đó,” Brutal hùng hồn, “nhưng lão phải công nhận đấy là một giá hời khi cho thuê nó. Một tháng nữa gã sẽ bước trên Dặm Đường Xanh, sáu tuần là tối đa. Sau, cái hộp sẽ trở về trên kệ dưới xe đẩy của lão gần như trước khi lão kịp biết nó đã ra đi.” - Gã có thể được một thẩm phán mềm lòng cho hoãn thi hành án và sẽ còn ở đây để hát “Nếu những mối quen biết cũ bị bỏ quên” - Toot nói, nhưng lão biết rõ hơn và Brutal biết lão biết. Toot Toot đã đẩy cái xe chết tiệt của mình quanh Cold Mountain, trên thực tế, từ thời Pony Express kia, và lão có thừa mứa nguồn tin... chính xác hơn cả chúng tôi, lúc ấy tôi nghĩ thế. Lão biết Delacroix không thoát khỏi tay các thẩm phán mềm lòng. Tất cả những gì còn lại để hi vọng là Thống đốc, người có nguyên tắc không ân xá cho những thằng đã nướng chín nửa tá cử tri của ông ta. - Thậm chí nếu gã không được hoãn, con chuột sẽ ị vào cái hộp đến tháng mười, có thể đến cả lễ Tạ ơn nữa kìa. - Toot cãi, nhưng Brutal có thể thấy gã đang đuối lí. - Ai sẽ mua hộp xì gà mà một con chuột đã dùng làm phòng vệ sinh? - Ôi Louise. - Brutal nói. - Đây là điều ngớ ngẩn nhất tôi từng nghe lão nói đấy, Toot à. Ý tôi là, tệ hại nhất. Trước hết, Delacroix sẽ giữ cái hộp đủ sạch để ăn một bữa từ thiện - theo cách gã mê con chuột thì gã sẽ liếm sạch nó nếu cần. - Bỏ qua chuyện đó đi! - Toot đáp, mũi nhăn lại. - Thứ hai, - Brutal tiếp ục, - phân chuột không phải chuyện lớn. Chỉ là những hạt cứng nhỏ, giống phân chim. Đổ là ra khỏi hộp ngay. Không còn gì. Lão Toot Toot biết tốt hơn không nên phản đối nữa; lão đã ở tù đủ lâu để hiểu khi nào có thể đối mặt với làn gió thoảng và khi nào cần uốn mình dưới trận cuồng phong, nhưng bọn đồng phục xanh chúng tôi thích con chuột, và chúng tôi thích cái ý tưởng Delacroix có con chuột, và như thế có nghĩa ít nhất là một cơn gió mạnh. Thế là Delacroix nhận được cái hộp, và Percy giữ lời hứa - hai ngày sau, đáy hộp được lót bằng lớp bông lấy từ bệnh xá. Percy đích thân đưa cho gã, và tôi thấy nỗi sợ trong mắt Delacroix khi hắn thò tay qua chấn song để cầm lấy. Gã sợ Percy sẽ chụp tay gã và bẻ gãy ngón tay. Tôi cũng hơi sợ chuyện đó, nhưng không có gì xảy ra. Đấy là điểm gần nhất để tôi ưa thích Percy, nhưng ngay cả lúc đó cũng khó mà nhầm lẫn vẻ thích thú lạnh lẽo trong mắt hắn. Delacroix có con vật nuôi; Percy cũng có một con. Delacroix sẽ nuôi con vật của gã, vỗ về và yêu thương nó lâu dài chừng nào có thể; Percy sẽ kiên nhẫn chờ và sau đó thiêu sống gã. - Khách sạn Hilton Chuột khai trương kinh doanh. - Harry tuyên bố. - Câu hỏi duy nhất là con quái ranh có chịu sử dụng không? Câu hỏi đó được trả lời ngay sau khi Delacroix tóm ông Jingles trong bàn tay và nhẹ nhàng bỏ vào trong hộp. Con chuột rúc vào trong lớp bông trắng như thể đấy là tấm chăn và là nhà nó cho đến khi... vâng, tôi sẽ phải sớm kết thúc câu chuyện về ông Jingles. Nỗi lo lắng của lão Toot Toot về chuyện cái hộp xì gà bị tràn ngập phân chuột tỏ ra hoàn toàn vô căn cứ. Tôi không hề thấy một cục phân trong đó, và Delacroix nói nó cũng không bao giờ làm bậy... kể cả ở bất cứ nơi nào trong xà lim của gã. Mãi về sau, vào lúc Brutal chỉ cho tôi thấy cái lỗ trong cây đà ngang và chúng tôi phát hiện những mẩu vụn có màu, tôi di chuyển chiếc ghế ra khỏi góc phía đông của phòng kỉ luật và thấy một đống phân ở đấy. Có vẻ nó đã luôn trở lại chỗ cũ để làm việc, và càng xa chúng tôi càng tốt. Một chuyện khác: tôi không bao giờ bắt gặp nó tè, mà thường thì chuột khó tắt vòi nước hai phút một lần, đặc biệt khi chúng đang ăn. Nói bạn nghe, con vật đáng nguyền rủa đó là một trong những bí mật của Chúa. Một tuần sau khi ông Jingles đã an cư lạc nghiệp trong cái hộp xì gà, Delacroix gọi tôi và Brutal xuống xà lim để chứng kiến một sự kiện. Gã kêu réo nhiều đến mức gây phiền phức - nếu như ông Jingles có ngã lăn ra chổng bốn chân lên trời thì đối với gã Cajun bé tẹo, nó vẫn là tạo vật xinh xắn nhất trên quả đất của Chúa - nhưng lần này âm mưu của gã khá vui nhộn. Delacroix đã bị thế giới quên bẵng sau khi tuyên án, nhưng gã vẫn còn họ hàng - một bà cô già không chồng, tôi nghĩ thế - người viết thư cho gã mỗi tuần một lần. Bà ấy cũng gửi cho gã một túi kẹo bạc hà to đùng, loại kẹo được tiếp thị dưới cái tên Bạc Hà Canada vào thời đó. Nhìn chúng giống những viên thuốc to màu hồng. Delacroix không được phép nhận toàn bộ một lần - túi kẹo nặng 5 pound, và gã sẽ ngấu nghiến cho đến khi phải đi bệnh xá vì đau thắt dạ dày. Giống như hầu hết những tên giết người chúng tôi từng cai quản ở Dặm Đường Xanh, gã tuyệt nhiên không hiểu sự điều độ về ẩm thực. Chúng tôi đưa kẹo cho gã mỗi lần một nửa tá và chỉ khi nào gã nhớ đến và yêu cầu. Ông Jingles đang ngồi bên cạnh Delacroix trên sạp ngủ khi chúng tôi đến, nắm trong bàn chân một viên kẹo màu hồng và tóp tép nhai với vẻ hài lòng. Delacroix hoàn toàn đắm mình trong vui sướng - giống như một nhạc sĩ dương cầm cổ điển ngắm nhìn đứa con trai năm tuổi của mình đang diễn tấu vụng về những bài tập đầu tiên. Nhưng đừng hiểu sai ý tôi, cảnh tượng quả là vui nhộn, một chuyện tiếu lâm thật sự. Viên kẹo to bằng nửa kích thướt ông Jingles đã làm cho cái bụng lông trắng căng phồng. - Lấy lại viên kẹo đi, Eddie. - Brutal thốt lên, nửa buồn cười và nửa hãi hùng. - Lạy Chúa, nó sẽ ăn đến vỡ bụng mất. Tôi ngửi thấy mùi bạc hà từ chỗ này kìa. Chú mày cho nó ăn bao nhiêu rồi? - Đây là viên thứ hai. - Delacroix trả lời, bối rối nhìn bụng ông Jingles. - Anh thật sự nghĩ nó... anh biết đấy... sẽ vỡ bụng? - Có thể. - Brutal đáp. Vậy là quá đủ uy lực đối với Delacroix. Gã thò tay đòi viên kẹo hồng ăn dở dang một nửa. Tôi tưởng con chuột sẽ cắn gã, nhưng ông Jingles trả lại - dù chỉ là phần còn thừa - vẻ hết sức ngoan ngoãn. Tôi nhìn Brutal, anh ta nhẹ lắc đầu như thể nói không, anh ta không hiểu điều đó, cũng như tôi. Rồi ông Jingles rơi tõm vào trong cái hộp và nằm nghiêng một bên với vẻ mệt lử làm cả ba chúng tôi bật cười. Sau lần đó, chúng tôi có thói quen xem con chuột ngồi bên cạnh Delacroix, cầm một viên kẹo bạc hà và tóp tép nhai gọn ghẽ như một quý bà lớn tuổi trong bữa tiệc trà buổi chiều, cả hai chìm trong một thứ mà sau này tôi ngửi thấy trong cái lỗ trên cây đà ngang - cái mùi nửa đắng, nửa ngọt của kẹo bạc hà. Thêm một điều nữa để kể bạn nghe về ông Jingles trước khi chuyển sang việc nhập trại của William Wharton, là lúc cơn lốc giáng xuống Khu E. Một tuần sau sự việc những viên kẹo bạc hà - nói cách khác, khoảng thời gian chúng tôi đã khá chắc chắn Delacroix sẽ không cho con chuột ăn no đến chết - gã người Pháp gọi tôi xuống xà lim. Lúc ấy chỉ có mình tôi, Brutal đến kho lương thực vì việc gì đó, và theo quy định, tôi không được phép tiếp cận tù nhân trong những tình huống như thế. Nhưng có lẽ vì tôi đủ khả năng hạ Delacroix từ khoảng cách 20 yard bằng một tay vào ngày đẹp trời, tôi quyết định phá luật và đến xem gã muốn gì. - Xem này, sếp Edgecombe. - Gã nói. - Sếp sẽ thấy ông Jingles làm được gì! - Gã thò tay ra sau hộp xì gà và lấy ra một ống chỉ nhỏ bằng gỗ. - Anh lấy đâu ra thứ đó? - Tôi hỏi, mặc dù tôi nghĩ mình đã biết tỏng. Quả thật chỉ có một người từ đó mà gã có thể nhận được món đồ. - Lão Toot Toot. - Gã trả lời. - Xem đây. Tôi đang xem, và thấy ông Jingles trong cái hộp, đứng lên với đôi bàn chân trước nhỏ nhắn chống vào thành hộp, cặp mắt đen nhìn chăm chú vào cái ống chỉ mà Delacroix kẹp giữa ngón cái và ngón trỏ tay phải. Tôi chưa bao giờ thấy một con chuột chăm chú vào một thứ gì đó với nét sắc bén như thế, với vẻ thông minh như thế. Tôi thật sự không tin ông Jingles là một sinh vật siêu nhiên, và tôi xin lỗi nếu đã tạo cho bạn ý nghĩ đó, nhưng tôi dám khẳng định con chuột này là một thiên tài trong số đồng loại của nó. Delacroix cúi xuống và lăn cái ống chỉ rỗng qua sàn xà lim. Nó lăn dễ dàng, như một cặp bánh xe có trục nối. Con chuột phóng ra khỏi hộp như một tia chớp, băng qua sàn đuổi theo ống chỉ như con chó đuổi theo một cái que. Tôi thốt lên ngạc nhiên, và Delacroix toét miệng cười. Ống chỉ đụng vào tường, dội ngược lại. Ông Jingles đi vòng qua và đẩy nó trở về sạp, chuyển từ đầu ống này sang đầu kia mỗi khi có vẻ như nó đi lệch khỏi lộ trình. Nó đẩy cho đến khi ổng chỉ chạm vào bàn chân Delacroix. Rồi nó ngước nhìn gã một lúc, như thể để biết chắc Delacroix không còn giao nhiệm vụ cấp bách nào nữa. Dường như hài lòng về thành tích đã đạt, ông Jingles trở vào chiếc hộp xì gà và ngồi xuống lại. - Chú mày đã dạy nó làm trò đó. - Tôi nói. - Vâng, thưa sếp Edgecombe. - Delacroix trả lời, nụ cười của gã chỉ khẽ che đậy. - Lần nào nó cũng đem về. Thông minh quá xá, phải không? - Còn cái ống chỉ? - Tôi hỏi. - Làm sao anh biết mà lấy về cho cậu ta, Eddie? - Con chuột thầm thì vào tai tôi rằng nó muốn cái ống chỉ. - Delacroix bình thản trả lời. - Giống như đã thầm thì tên nó. Delacroix cho tất cả những cậu kia xem trò biểu diễn của con chuột... tất cả, trừ Percy. Với Delacroix, việc Percy đã đề nghị cái hộp xì gà và cung cấp lớp bông để lót là không đáng kể. Delacroix giống như loài chó: đã đá chúng một lần thì chúng không bao giờ còn tin cậy ta, dù tử tế với chúng bao nhiêu chăng nữa. Bây giờ tôi vẫn còn nghe được Delacroix hét lên, “Ê, các anh ơi! Đến xem ông Jingles làm trò này!” Và cả một bọn áo xanh mò xuống - Brutal, Harry, Dean, lẫn Bill Dodge. Cả bọn đều sửng sốt đúng mức, cũng như tôi. Ba hoặc bốn ngày sau khi ông Jingles bắt đầu trò biểu diễn với ống chỉ, Harry Terwilliger lục lọi trong đống tranh và đồ thủ công chúng tôi cất trong phòng kỉ luật, tìm được bộ bút sáp màu Crayola và đem đến cho Delacroix với một nụ cười gần như bối rối. - Tôi nghĩ có lẽ anh thích tô nhiều màu khác nhau cho ống chỉ. - Anh ta nói. - Lúc ấy tên bạn nhỏ con của anh sẽ giống một con chuột gánh xiếc, hay thứ gì đó. - Một con chuột gánh xiếc! - Delacroix thốt lên, vẻ hạnh phúc vẹn toàn. Tôi cho là gã đã hạnh phúc vẹn toàn, có lẽ là lần đầu tiên trong suốt cuộc đời khốn khổ của gã. - Đấy cũng là bản chất của nó! Một con chuột làm xiếc! Khi tôi ra khỏi tù, nó sẽ làm cho tôi giàu có, giống như trong gánh xiếc! Các anh cứ thử xem nó làm được không? Nếu là Percy Wetmore, chắc chắn hắn sẽ nói toẹt cho Delacroix biết rằng khi rời khỏi Cold Mountain, gã sẽ đi trên băng ca không cần chớp đèn hoặc hụ còi, nhưng Harry thì biết rõ hơn. Anh ta chỉ đề nghị Delacroix tô màu ống chỉ càng sặc sỡ càng hay và càng nhanh càng tốt, bởi anh ta phải lấy lại bộ bút sau bữa ăn tối. Delacroix tô sặc sỡ cái ống chỉ, đúng thế. Khi gã tô xong, một đầu ống là màu vàng, đầu kia màu xanh, và cái trục giữa thì màu đỏ lửa. Chúng tôi quen dần với việc nghe Delacroix rống lên: “Maintenant, m’sieurs et mesdames! Le cirque présentement le mous’ amusant et amazeant!” (Bây giờ, thưa quý ông quý bà! Gánh xiếc xin giới thiệu chú chuột vui nhộn và bất ngờ! ). Không hẳn chính xác như thế, nhưng cho bạn một ý niệm về thứ tiếng Pháp ba rọi của gã. Sau đó gã tạo ra một âm thanh sâu trong cổ họng - tôi nghĩ nó được xem như thay tiếng trống dồn - rồi quăng ống chỉ ra. Ông Jingles sẽ đuổi theo nhanh như chớp, hoặc ủi bằng mũi hoặc lăn bằng chân, đẩy trở về. Cách đẩy thứ nhì đó thật sự là một thứ mà bạn chịu trả tiền cho gánh xiếc để được xem, tôi nghĩ vậy. Delacroix cho con chuột và cái ống chỉ màu mè sáng chói đã là trò giải trí chính của chúng tôi ở thời điểm John Coffey bước vào sự canh giữ và chăm sóc và mọi việc yên ổn theo cách đó được một thời gian. Thế rồi căn bệnh nhiễm trùng đường tiểu của tôi, vốn đã nằm im một thời gian, nay tái phát, rồi William Wharton nhập trại và tình hình trở nên hỗn loạn. Phần 1 - CÁI CHẾT CỦA HAI BÉ GÁI Chương 12 Các mốc thời gian hầu như tuột khỏi kí ức của tôi. Tôi cho là có thể nhờ cháu ngoại tôi, Danielle, tìm được một số trong những hồ sơ báo chí cũ, nhưng ích gì? Dù sao thì mốc thời gian quan trọng nhất, thí dụ như ngày chúng tôi xuống xà lim của Delacroix và thấy con chuột ngồi trên vai gã, hoặc ngày William Wharton đến khu và suýt nữa giết chết Dean Stanton, sẽ không có trên báo. Có lẽ cứ tiếp tục như tôi đã viết thì hay hơn, cuối cùng tôi nghĩ các mốc thời gian không quan trọng lắm, nếu bạn có thể nhớ được những gì đã thấy và giữ chúng theo đúng trình tự. Tôi biết rằng các sự kiện bị xoắn vào nhau một chút. Khi giấy tờ DOE của Delacroix sau cùng đến tay tôi từ văn phòng của Curtis Anderson, tôi ngạc nhiên khi thấy ngày hò hẹn của anh bạn Cajun của chúng tôi với Già Sparky đã được đẩy lên sớm hơn thời hạn chúng tôi tưởng, một sự kiện gần như không nghe nói đến, thậm chí vào những ngày khi bạn không phải quậy tung nửa thiên đường và toàn thể hạ giới để xử tử một con người. Đấy là vấn đề hai ngày, tôi nghĩ thế, từ ngày hai mươi lăm tháng mười đến ngày hai mươi bảy. Đừng bắt bẻ tôi về tính chính xác, nhưng tôi biết thế là sát với sự thực; tôi còn nhớ đã nghĩ rằng Toot Toot sẽ lấy lại cái hộp Corona của lão thậm chí sớm hơn mong đợi. Trong khi đó, Wharton lại đến với chúng tôi trễ hơn dự tính. Trước hết, thời hạn xét xử thằng nhóc lâu hơn so với thời hạn mà nguồn tin đáng tin cậy của Anderson đã dự đoán (khi sự việc dính liếu đến Wild Billy thì không có gì đáng tin cậy, điều này chúng tôi sẽ sớm phát hiện, bao gồm những phương pháp kiểm soát tù nhân đã được thử thách với thời gian và được xem là bền vững). Sau đó, khi bị xem là có tội - ít nhất chừng ấy theo nguyên văn - nó được đưa vào Bệnh viện Tổng quát Indianola để xét nghiệm. Nó đã bị một vài cơn tai biến giả định trong thời gian xét xử, hai lần trầm trọng đủ để vật nó lăn xuống đất, nơi nó nằm run rẩy, giẫy giụa và đạp chân lên ván sàn. Luật sư của Wharton do Tòa chỉ định tuyên bố thằng nhóc mắc chứng “động kinh” và phạm tội trong tình trạng mất trí; công tố viên thì lên án chứng động kinh là thủ đoạn lừa đảo của một thằng hèn nhát, tuyệt vọng muốn giữ lại mạng sống. Sau khi trực tiếp quan sát cái gọi là “chứng động kinh” , hội thẩm đoàn quyết định những cú lên cơn chỉ là màn kịch. Chánh án tán thành nhưng cho lệnh xét nghiệm tiền tuyên án một loạt sau khi bản luận tội được ban ra. Chúa mới hiểu tại sao; có lẽ chỉ vì ông ta tò mò. Quả là điều kì diệu nếu Wharton không chạy trốn khỏi bệnh viện, nhưng gã không trốn. Người ta cho lính gác bủa vây gã, tôi cho là thế, và có lẽ vì gã vẫn còn hi vọng được tuyên bố không chịu trách nhiệm hình sự vì lí do động kinh. Gã không bị động kinh. Các bác sĩ không tìm thấy điều gì bất thường trong bộ não gã - ít nhất về mặt sinh lí học - và Billy “the Kid” Wharton rốt cuộc lên đường đi Cold Mountain. Chuyện đó lẽ ra vào khoảng ngày mười sáu hoặc mười tám; tôi nhớ lại Wharton đến nơi khoảng hai tuần sau John Coffey, và một tuần trước khi Delacroix bước trên Dặm Đường Xanh. Ngày gã tâm thần mới gia nhập với chúng tôi là một ngày đầy ắp sự kiện với tôi. Tôi tỉnh giấc vào bốn giờ sáng hôm ấy, hạ bộ đập thình thịch, cái của nợ nóng hổi, tắc nghẽn và sưng phù. Thậm chí trước khi tung chân ra khỏi giường, tôi đã biết chứng nhiễm trùng đường tiểu của mình không khá hơn, như đã hi vọng. Nó chỉ là một khúc quanh chóng vánh sang tình trạng tốt hơn, thế thôi, và nó đã chấm dứt. Tôi ra ngoài nhà xí để giải quyết công việc của mình và chưa kịp đi xa hơn đống củi ở góc nhà thì nhận thấy không thể kiềm chế được nữa. Tôi tuột quần pyjama xuống ngay khi nước tiểu bắt đầu tuôn ra, và dòng nước đó được hộ tống bởi một cơn đau nặng nề nhất trong toàn bộ cuộc đời tôi. Tôi đã tè ra một viên sỏi vào năm 1956, và tôi biết người ta nói đó là điều tệ hại nhất, nhưng viên sỏi đó chỉ như một chứng khó tiêu so với cơn đau tàn bạo này. Đầu gối như long ra và tôi nặng nề khuỵu lên chúng, xé toang đũng quần pyjama khi dạng chân ra để giữ thăng bằng và đưa mặt hướng ngay vào vũng nước thải của chính mình. Tôi còn có thể ngã đập mặt vào đó nếu không kịp thời chụp vào đống củi bằng tay trái. Tất cả những gì tôi quan tâm đến là cơn đau đã thiêu đốt tôi; bụng dưới của tôi bốc cháy, và cái của nợ của tôi - một bộ phận mà tôi hầu như đã quên bẵng, ngoại trừ khi nó cung cấp cho tôi khoái cảm thể xác cực độ nhất mà một người đàn ông có thể hưởng - bây giờ có cảm giác như nó đang tan chảy, tôi chờ đợi khi nhìn xuống sẽ thấy máu trào ra từ đầu mút, nhưng vẫn là một dòng nước tiểu hoàn toàn bình thường. Tôi bám vào đống củi bằng một bàn tay và bịt miệng bằng bàn tay kia, tập trung tinh thần để khóa miệng lại. Tôi không muốn làm vợ tôi hoảng sợ tỉnh giấc với một tiếng thét. Dường như tôi cứ tè ra mãi mãi, nhưng sau cùng dòng nước khô đi. Đến lúc ấy, cơn đau đã lún sâu vào dạ dày và tinh hoàn của tôi, cắn xé đau buốt như những cái răng cáu kỉnh. Trong một lúc lâu - có lẽ dài đến một phút - tôi mất khả năng sinh lí để đứng dậy. Sau cùng cơn đau bắt đầu dịu xuống và tôi cố sức đứng lên. Tôi nhìn bãi nước thải của mình đã thấm vào lòng đất, tự hỏi không hiểu vị Chúa Trời lành mạnh nào lại có thể sáng tạo ra một thế giới, ở đó chỉ một vũng ẩm ướt nhỏ nhoi như vậy lại phải trả giá bằng một cơn đau khủng khiếp đến thế. Tôi sẽ gọi đến sở báo bệnh, tôi nghĩ, và rốt cuộc đi gặp bác sĩ Sadler. Tôi không ưa cái mùi hôi thối và gây buồn nôn của những viên thuốc sulfa của bác sĩ Sadler, nhưng bất cứ điều gì cũng tốt đẹp hơn là quỳ bên cạnh đống củi, cố nhịn không hét lên trong khi cái của nợ báo cáo rằng nó đang hiển nhiên bị nhúng dầu hỏa và thiêu đốt. Sau đó, trong lúc nuốt viên aspirin trong nhà bếp của chúng tôi, và lắng nghe Jan nhẹ nhàng ngáy trong căn phòng kia, tôi nhớ lại hôm nay là ngày William Wharton được ấn định nhập Khu, và Brutal sẽ không có mặt - bảng phân công giao nhiệm vụ cho anh ta ở bên kia trại giam, giúp việc dọn nốt phần thư viện còn lại và một số thiết bị bệnh xá bỏ sót đến tòa nhà mới. Có một điều tôi đã không cảm nhận đúng mặc dù bị cơn đau, là bỏ mặc Wharton cho Dean và Harry. Họ là những người tốt, nhưng báo cáo của Curtis Anderson đã cho biết William Wharton là tin xấu khác thường. Thằng nhóc này cóc cần đời, anh ta đã viết như thế, gạch dưới để nhấn mạnh. Lúc ấy cơn đau đã dịu đi một chút và tôi có thể suy nghĩ. Ý tưởng hay nhất, dường như đối với tôi, là sớm đến trại giam. Tôi có thể đến đó vào sáu giờ, là thời điểm giám thị Moores thường lệ bước vào. Ông ấy có thể cho Brutus Howell tái phân công sang Khu E đủ lâu để tiếp nhận Wharton, rồi tôi sẽ làm chuyến du hành quá hạn đã lâu để đến bác sĩ. Cold Mountain thực tế nằm trên lộ trình của tôi. Hai lần trong chuyến đi dài hai mươi lăm dặm đến trại giam, nhu cầu đi tiểu đã chiếm lĩnh tôi. Cả hai lần tôi đều có thể ghé xe vào lề và giải quyết vấn đề mà không tự gây bối rối cho bản thân. Cả hai lần tháo nước này đều không đau đớn bằng lần quét tôi té ngã trên đường đến nhà xí, nhưng cả hai lần, tôi đều phải bíu chặt lấy tay nắm cửa chiếc xe Ford nhỏ hai chỗ ngồi để giữ vững và cảm nhận mồ hôi tuôn xuống bộ mặt nóng bừng của mình. Nhưng rồi tôi cũng đến được, lái xe vào trong qua cổng phía Nam, đỗ xe chỗ quen thuộc và đi thẳng đến gặp viên Giám thị. Lúc ấy đang là sáu giờ. Văn phòng của cô Hannah còn vắng - cô ta sẽ không đến trước giờ dân sự là bảy giờ - nhưng trong văn phòng của Moores có ánh sáng, tôi có thể nhìn thấy qua lớp kính nổi hạt. Tôi gõ cửa chiếu lệ và mở cửa. Moores ngước lên nhìn, ngạc nhiên thấy có người vào giờ bất thường này, và lẽ ra tôi sẽ nỗ lực rất lớn để không phải là người đến gặp ông ấy trong tình cảnh như thế. Mái tóc trắng của ông, thường lệ chải chuốt gọn gàng, nay tua tủa chĩa ra thành các túm và mớ rối tung, tay ông đang lùa vào trong ấy, giật và kéo khi tôi bước vào. Mắt ông đờ dại, làn da bên dưới phồng và sưng lên. Chứng run rẩy của ông là điều tệ hại nhất tôi chưa từng thấy, trông ông giống như người vừa được vào trong nhà sau khi đi bộ một quãng xa trong đêm lạnh buốt. - Hal, xin lỗi ông. Tôi sẽ trở lại. - Tôi lên tiếng. - Không. - Ông ấy nói. - Anh vui lòng, Paul. Vào đi. Đóng cửa lại rồi vào đi. Tôi đang cần có ai đó ngay lúc này, nếu từng có lúc cần ai đó trong suốt cuộc đời tôi. Đóng cửa lại rồi vào đi. Tôi làm theo lời yêu cầu, làn đầu tiên quên mất cơn đau của chính mình kể từ lúc tỉnh giấc sáng hôm ấy. - Chứng bướu não. - Moores nói. - Họ đã chụp X quang não. Thật sự có vẻ họ rất hài lòng về những bức ảnh. Một trong bọn họ đã nói có thể đấy là những bức ảnh rõ nhất mà bất cứ ai từng có được, ít nhất cho đến lúc này; họ nói sẽ ấn hành chúng trong tạp chí y khoa lớn nào đó tận New England. Kích thước nó bằng quả chanh, họ bảo thế, và lan sâu tận bên trong, nơi họ không thể giải phẫu. Họ nói vợ tôi sẽ chết vào Giáng sinh. Tôi chưa nói cho bà ấy biết. Tôi không nghĩ ra cách nào. Tôi không nghĩ ra cách nào, dù phải chết. Rồi ông ấy bắt đầu khóc, những tiếng nấc to, tắc nghẹn khiến tôi vừa thương xót vừa như kinh hoàng - khi một con người biết giữ mình nghiêm ngặt như Hal Moores rốt cuộc mất kiềm chế, quả là hãi hùng khi phải chứng kiến. Tôi đứng đó một lúc, rồi tiến đến và quàng tay quanh vai ông. Ông dò dẫm đưa cả hai tay ra tìm tôi, như một người chết đuối, và bắt đầu nức nở trên bụng tôi, tất cả những kiềm chế trôi sạch. Sau đó, khi tự trấn tĩnh lại được, ông xin lỗi. Ông ấy xin lỗi mà không nhìn mắt tôi, như một con người vẫn làm khi anh ta cảm thấy đã tự gây bối rối đáng sợ cho bản thân, có thể sâu đậm đến mức anh ta không bao giờ chịu đựng nổi. Một người có thể thôi ghét bỏ con người khi trông thấy anh ta trong tình trạng như vậy. Tôi nghĩ giám thị Moores tốt đẹp hơn thế, nhưng không nhớ lí do mà vì nó tôi đến đây, và khi rời khỏi văn phòng của Moores, tôi đi đến Khu E thay vì trở ra xe. Lúc ấy viên aspirin đang có tác dụng, và cơn đau trong phần giữa của tôi đã giảm xuống mức một tiếng đập khẽ. Cách nào đó, tôi sẽ qua được một ngày, tôi nhận xét, ổn định gã Wharton, kiểm tra lại với Hal Moores chiều hôm ấy, rồi xin nghỉ bệnh vào ngày mai. Điều tệ hại đã vượt qua được nhiều, tôi nghĩ, mà không mảy may biết rằng tai họa ngày hôm ấy thậm chí chưa bắt đầu. - Bọn tôi cứ tưởng nó còn say thuốc sau các xét nghiệm chứ. - Dean lên tiếng vào chiều hôm ấy. Giọng anh ta nói khẽ, khàn khàn, gần như một tiếng ho và trên cổ nổi lên những vết bầm đỏ, hơi đen. Toi có thể thấy là anh ta bị đau khi nói chuyện và định bụng bảo anh ta bỏ qua vụ việc đi, nhưng đôi lúc giữ im lặng còn gây đau đớn hơn thế. Tôi xét đoán đây chính là một trong những thời khắc đó và ngậm kín miệng. - Tất cả chúng ta đều nghĩ nó say thuốc, đúng không? Harry Terwilliger gật đầu. Cả Percy, đang ngồi tách ra trong cái nhóm một người hờn dỗi của hắn, cũng gật đầu. Brutal liếc nhìn tôi và trong thoáng chốc tôi gặp ánh mắt anh ta. Chúng tôi nghĩ nhiều đến cùng một điều, rằng đấy là cách mà sự kiện đã xảy ra. Bạn đi đường xa, mọi thứ đều tuân theo quy luật, bạn phạm sai lầm và bùm một tiếng, bầu trời sụp xuống đầu bạn. Họ tưởng gã say thuốc, đấy là một giả thuyết hợp lí để nghĩ đến, nhưng không một ai hỏi gã có say thuốc thật không. Tôi nghĩ mình cũng nhìn thấy một điều khác trong mắt Brutal: Harry và Dean sẽ học hỏi từ sai lầm của họ. Đặc biệt là Dean, người suýt nữa đã dễ dàng về chầu tiên tổ ở quê nhà. Percy thì không. Percy có lẽ không thể. Tất cả những gì Percy có thể làm là ngồi trong góc và hờn dỗi vì hắn lại ngập vào đống phân lần nữa. Bọn họ có tất cả bảy người đến tận Indianola để nhận Wild Bill Wharton: Harry, Dean, Percy, hai lính gác khác ngồi sau xe, thêm hai người khác ngồi trước. Họ đem theo cái mà họ hay gọi là xe ngựa chạy tuyến - một chiếc Ford tải khép kín dã được gia cố thép và trang bị bằng loại kính được cho là chống đạn. Trông nó tựa như lai tạp giữa xe chở sữa và xe bọc thép. Về mặt kĩ thuật, Harry Terwilliger chịu trách nhiệm chuyến đi. Anh ta giao công văn cho cảnh sát trưởng của hạt, đến lượt tay này giao lại ông William Wharton, đồ trời đánh thánh đâm - đồ trời đánh extraordinaire, theo cách gọi của Delacroix. Một bộ đồng phục tù của Cold Mountain đã được gửi đi trước, nhưng tay cảnh sát trưởng và người của anh ta không màng đến việc bắt Wharton mặc vào; họ chừa chuyện đó lại cho các chàng trai của tôi. Wharton mặc bộ quần áo vải bông của bệnh viện và đi dép nỉ rẻ tiền khi họ thấy gã lần đầu trên tầng hai Bệnh viện Đa khoa, một gã đàn ông gầy trơ xương với khuôn mặt hẹp, đầy mụn và một mớ tóc vàng dài thượt, rối nùi. Hông gã cũng hẹp và phủ đầy mụn, thò ra khỏi bộ quần áo bệnh viện. Đấy là phần của gã mà Harry và những người kia thấy lần đầu, vì Wharton đang đứng ở cửa sổ, nhìn ra bãi để xe khi họ tiến vào. Gã không quay lại nhưng cứ đứng tại chỗ, nắm tấm màn cửa bằng một tay, câm nín như một con búp bê, trong lúc Harry cự nự tay cảnh sát trưởng hạt vì chuyện quá lười biếng không bắt Wharton mặc quần áo tù màu xanh, còn tay cảnh sát trưởng thì lên lớp - tất cả cảnh sát địa phương tôi từng gặp dường như chắc chắn sẽ làm thế - về những gì là công việc của hắn và những gì không phải. Khi Harry trở nên mệt mỏi vì chuyện này, anh ta ra lệnh cho Wharton quay lại. Wharton làm theo. Nhìn gã, Dean kể lại bằng tiếng ho khàn của giọng nói bị sốc, giống như bất cứ kẻ nào trong số một ngàn gã giang hồ nhà quê đã vạch lối đi của chúng qua Cold Mountain trong những năm chúng tôi ở đấy. Lột cái vẻ đó xuống và thứ mà bạn có là một thằng ngu đần với vẻ độc ác. Đôi khi bạn phát hiện một vẻ hèn nhát trong con người chúng khi bị dồn vào chân tường, nhưng thường thì không có gì ngoài đấm đá và độc ác, và vì thế có nhiều cuộc đấm đá hơn và nhiều sự độc ác hơn. Có nhiều người nhìn thấy tính cách quý tộc trong những kẻ như Billy Wharton, nhưng tôi không phải một trong số họ. Một con chuột cũng chiến đấu, nếu nó bị dồn vào góc. Bộ mặt của gã này dường như không có nhân cách nhiều hơn cái mông khảm đầy mụn của nó, Dean nói với chúng tôi thế. Quai hàm thằng nhóc xệ xuống, mắt vô hồn, vai sụm, tay đong đưa. Nhìn gã như chích đầy chất morphin, từng phân một đều điên loạn như bất cứ thằng nghiện nào mà họ từng gặp. Đến câu này, Percy lại hờn dỗi gật đầu lần nữa. - Mặc vào. - Harry ra lệnh, chỉ vào bộ đồng phục để ở chân giường - nó đã được lấy ra khỏi bọc giấy gói màu nâu, nhưng lại chưa ai động đến - vẫn còn gấp gọn như vừa ở trong phòng giặt trại giam, với một quần ngắn bằng vải bông trắng thò ra ngoài một cái áo thường và một đôi vớ trắng, chiếc này thò ra khỏi chiếc kia. Wharton có vẻ đủ nhiệt tình tuân theo, nhưng không thể đi xa nếu không có trợ giúp. Thằng nhóc xoay sở với chiếc quần ngắn, nhưng khi đến phần quần dài, nó cứ cố nhét hai chân vào cùng một ống. Sau cùng Dean giúp nó, đút chân nó vào đúng chỗ để xỏ, rồi giật quần lên, kéo khóa quần và gài dây lưng. Wharton chỉ đứng trơ ra đó, thậm chí không cố gắng phụ giúp khi thấy Dean đang làm việc đó vì nó. Nó nhìn trân trối vô hồn qua căn phòng, tay xoải thõng, và không ai trong họ mảy may nghi ngờ nó đang giả vờ. Không phải vì hi vọng trốn thoát nhưng chỉ là hi vọng gây rối tối đa khi có dịp thuận tiện. Các giấy tờ được kí kết. William Wharton, kẻ đã trở thành tài sản của hạt khi bị bắt, nay trở thành tài sản của tiểu bang. Thằng nhóc được đưa xuống cầu thang phía sau, đi qua nhà bếp, bủa chung quanh là đồng phục xanh. Nó bước đi, đầu cúi xuống, đôi bàn tay có ngón dài đong đưa. Lần đầu khi nó để rơi nón, Dean đội lại cho nó. Lần thứ hai, anh ta nhét luôn vào trong túi quần sau của mình. Thằng nhãi có cơ hội thứ hai để gây rối ở sau xe chuyển tù, khi họ đang xích nó, nhưng nó không manh động. Nếu có suy nghĩ, ắt hẳn nó sẽ nghĩ không gian ở đó quá chật và số lượng cảnh sát quá lớn để có thể gây ra tiếng vang thỏa mãn. Vì thế tiếp tục đến bộ dây xích, một bộ chạy giữa hai cổ chân và một bộ khác - hóa ra quá dài - trói giữa hai cổ tay. Chuyến về Cold Mountain mất một giờ. Suốt thời gian đó, Wharton ngồi trên băng ghế dài bên trái cạnh buồn lái, đầu cúi thấp, tay bị còng đung đưa giữa hai đầu gối. Thỉnh thoảng thằng nhãi ranh ngâm nga một chút, Harry kể, và Percy đủ thức tỉnh khỏi nỗi khiếp sợ của hắn để nói thêm rằng thằng ngu đần nhỏ dãi từ môi dưới ra, mỗi lần một giọt, cho đến khi thành vũng giữa chân nó. Giống như một con chó nhỏ dãi ra từ đầu lưỡi vào một ngày hè nóng bức. Họ lái xe vào trong, qua cổng phía Nam khi đến trại giam, vượt ngay qua xe tôi, tôi đoán thế. Người lính gác ở lối vào phía Nam đẩy cánh cửa to giữa khu và sân thể dục, và xe chuyển tù chạy qua. Trong sân là giờ nghỉ ngơi, không có nhiều người ở ngoài và phần lớn đang giẫy cỏ trong vườn. Giờ trồng dưa, hẳn là thế. Họ lái xe thẳng qua sân đến Khu E và dừng lại. Tài xế mở cửa và bảo họ anh ta sẽ đến bãi xe để thay nhớt, rất vui được làm việc với họ. Những người lính bổ sung đi theo xe, hai trong số đó ngồi phía sau ăn táo, cửa xe mở toang. Như vậy còn lại Dean, Harry, và Percy với một tù nhân bị xiềng xích. Lẽ ra thế là đủ, nếu họ không bị ru ngủ bởi thằng ranh con nhà quê đang đứng cúi đầu trong bùn lầy với xiềng xích trên cổ tay và cổ chân. Họ áp giải nó đi mười hai bước gì đó đến cửa mở vào Khu E, theo cùng đội hình mà chúng tôi sử dụng khi áp giải tội nhân xuống Dặm Đường Xanh. Harry ở bên tay trái nó, Dean bên tay phải và Percy đi phía sau, dùi cui cầm trong tay. Không ai kể tôi nghe điều đó, nhưng tôi biết tỏng hắn đã rút ra; Percy ưa thích cây dùi cui bằng gỗ hồ đào. Về phần tôi thì đang ngồi trong cái sẽ là nhà của Wharton cho đến thời điểm gọi nó đăng kí vào chỗ nóng bỏng - xà lim thứ nhất bên phải khi bạn đi theo xuống dưới hành lang về hướng phòng kỉ luật. Tôi đã có bìa kẹp hồ sơ trong tay và không suy nghĩ gì ngoài đoạn diễn văn ngắn viết sẵn và chuồn khỏi chỗ đó. Cơn đau trong hạ bộ lại đang tăng lên, và tất cả những gì tôi muốn là đi về văn phòng của mình và chờ cho cơn đau đi qua. Dean bước lên trước để mở khóa cửa. Anh ta chọn chiếc thích hợp trong chùm chìa khóa đeo ở đây lưng và nhét vào ổ khóa. Wharton vùng lên ngay khi Dean vặn chìa khóa và kéo nắm cửa. Thằng ranh con lắp bắp thét một tiếng - một thứ tiếng thét nổi loạn - khiến Harry tạm thời cứng đơ và kết thúc Percy Wetmore trong toàn bộ cuộc đối đầu. Tôi nghe tiếng thét qua cánh cửa khép hờ và lúc đầu không liên hệ nó bất cứ sự kiện gì, tôi nghĩ một con chó đã sổng vào trong sân và đã bị thương, có lẽ do bị một gã tù bẳn tính nào đó đập cho một cuốc. Wharton giơ tay lên cao, thả sợi xích lủng lắng giữa hai cổ tay nó lên đầu Dean và bắt đầu xiết anh ta bằng sợi xích. Dean thét lên một tiếng tắt nghẹn và lảo đảo nhào ra phía trước, lọt vào trong vùng ánh sáng điện mát lạnh của cái thế giới nhỏ bé chúng tôi. Wharton hả dạ cùng theo vào với anh ta, thậm chí còn xô đẩy anh ta, la hét và lắp bắp suốt, thậm chí cười vang nữa. Thằng khốn co tay ở khuỷu với đôi nắm tay kề sát tai Dean, cật lực kéo sát sợi xích, xiết tới rồi xiết lui. Harry nhảy lên lưng Wharton, xiết một bàn tay vào bộ tóc vàng bóng nhẫy của thằng nhóc mới của chúng tôi, lấy hết sức quất một quả đấm bằng tay kia vào bên mặt Wharton. Anh ta có dùi cui của riêng mình và một khẩu súng lục, nhưng trong lúc kích động đã không rút ra thứ nào. Chúng tôi đã từng có rắc rối với tù nhân trước đây, bạn còn phải hỏi, nhưng chưa bao giờ có kẻ nào tấn công chúng tôi bất ngờ theo cách thằng Wharton. Tính xảo quyệt của thằng này vượt quá kinh nghiệm của chúng tôi. Tôi chưa từng thấy thứ gì tương tự và không bao giờ thấy lại lần nữa. Và thằng nhóc khỏe thật sự. Tất cả vẻ vô hồn trì trệ của nó biến mất. Sau này Harry nói giống như nhảy vào một ổ lò xo thép chuộn, bằng cách nào đó đã trở thành sống động. Wharton, lúc này đã ở bên trong, gần bàn trực, xoay sang trái và hất văng Harry. Harry đụng vào bàn và ngã sóng soài. Chương 13 Nhìn xuyên suốt những gì tôi đã viết, tôi thấy cái tôi gọi là Georgia Pines, nơi hiện nay tôi sinh sống, là một nhà dưỡng lão. Những người điều hành cơ sở sẽ không hài lòng với điều đó! Theo những tờ bướm họ để trong phòng khách và phát ra ngoài cho các thân chủ tương lai, nó là một “phức hợp hưu trí hiện đại dành cho người cao tuổi”. Thậm chí có cả một Trung tâm Giải trí - tờ bướm nói thế. Những người phải sống tại đấy chỉ gọi nó là phòng TV. Mọi người tưởng tôi sống tách biệt vì không xuống phòng TV nhiều lần trong ngày, nhưng các Chương trình mới là thứ tôi không chịu nổi, không phải mọi người. Oprah, Ricki Lake, Carnie Wilson, Rolanda - thế giới đang rơi rụng quanh tai chúng ta, và tất cả những gì những con người đó quan tâm là nói về việc ngủ với các cô gái mặc váy ngắn và đàn ông mặc sơ mi để hở nút. Phải rồi, khốn kiếp - chớ phán xét, nếu ngươi không muốn bị phán xét, Kinh Thánh dạy thế, do đó tôi sẽ leo xuống bục diễn đàn đường phố thôi. Chỉ là nếu muốn tiêu dao thời gian với việc phê bình phim quảng cáo, tôi sẽ đi hai dặm xuống Happy Wheels Motor Court, nơi xe Cảnh sát luôn dường như hướng đến vào các đêm thứ sáu và thứ bảy, với còi hụ réo inh ỏi và đèn xanh chớp nháy. Người bạn đặc biệt của tôi, Elaine Connelly, cũng có chung cảm nghĩ. Elaine đã tám mươi tuổi, cao và thon, vẫn còn thẳng người và sáng mắt, rất thông minh và tinh tế. Bà bước đi rất chậm vì cặp hông có vấn đề gì đó, và tôi biết chứng viêm khớp ở bàn tay khiến bà ấy rất khổ sở, nhưng bà có cái cổ dài xinh đẹp - gần như cổ thiên nga và mái tóc dài, đẹp đẽ rơi xuống vai mỗi khi bà ấy xõa ra. Điều tốt đẹp hơn hết, bà ấy không nghĩ tôi lập dị, hoặc xa cách. Chúng tôi dành nhiều thời gian bên nhau, Elaine và tôi. Nếu không đến mức tuổi già dị hợm như thế này, tôi cho rằng có thể sẽ nói về bà như bạn gái của tôi. Thế nhưng, có một người bạn đặc biệt - chỉ thế thôi - cũng không đến nỗi tệ và trong một số mặt nào đó, thậm chí tốt đẹp hơn kia. Rất nhiều phiền toái và cơn đau tim đi kèm theo chuyện bạn trai và bạn gái đã dễ dàng cháy rụi trong tâm hồn chúng tôi. Và mặc dù tôi biết không ai ở lứa tuổi, xem nào, lứa tuổi năm mươi sẽ tin điều này: đôi khi tro tàn còn tốt hơn cả lửa trại đấy. Quả là kì lạ, nhưng có thật. Vì thế tôi không xem TV trong ngày. Thỉnh thoảng tôi đi dạo, đôi lúc đọc sách, phần lớn điều tôi làm từ tháng trước là viết lại quyển hồi kí này giữa đám cỏ cây trong nhà kính. Tôi nghĩ căn phòng đó có nhiều khí oxy hơn và nó giúp ích cho kí ức già nua. Nếu ở Geraldo Rivera, nó sẽ chuồn một mạch, tôi có thể nói bạn nghe điều đó. Nhưng khi không ngủ được, thỉnh thoảng tôi lén xuống nhà dưới và mở TV. Không có Phòng Bán vé hoặc bất cứ thứ gì ở Georgia Pines - tôi đoán nguồn cung cấp hơi quá đắt cho Trung tâm Giải trí - nhưng chúng tôi có các dịch vụ cáp căn bản, và như thế nghĩa là chúng tôi có Kênh Điện ảnh Mỹ. Đấy là kênh truyền hình, trên đó phần lớn các bộ phim là phim đen trắng và không có phụ nữ thoát y. Với một lão già dịch như tôi, đấy là một niềm xoa dịu. Có rất nhiều đêm tôi lịm ngay vào giấc ngủ trên chiếc trưởng kỉ màu xanh lục trước chiếc TV trong lúc Francis Con Lừa Biết Nói một lần nữa lôi cái chảo rán của Donald O’Connor ra khỏi lửa, hoặc John Wayne rửa xe Dodge, hoặc Jimmy Cagney mắng ai đó là đồ chuột dơ bẩn rồi rút súng ra. Một số là những phim tôi đã xem với vợ tôi, Janice (không chỉ là bạn tình nhưng còn là bạn tốt nhất của tôi) và chúng khiến tôi được thanh thản. Những bộ y phục họ mặc, cách họ đi đứng và nói chuyện, kể cả âm nhạc trong phim - tất cả những thứ đó khiến tôi được thanh thản. Chúng gợi nhớ, tôi cho là thế, khi tôi là một người còn bước đi trên lớp da của thế giới, thay vì một di tích bị mối ăn đang mục ruỗng trong nhà nuôi người già, nơi có nhiều người cư trú đeo tã và mặc quần cao su. Tuy vậy, không có gì xoa dịu về điều tôi thấy sáng nay. Không gì hết. Đôi khi Elaine tham gia cùng tôi vào cái gọi là Early Bird Matinee của AMC, bắt đầu từ bốn giờ sáng - bà ấy không nói nhiều về chuyện đó, nhưng tôi biết chứng viêm khớp gây đau đớn khủng khiếp cho bà và những loại thuốc người ta kê cho bà không giúp ích gì nhiều. Khi bà ấy đến vào sáng nay, lướt nhẹ như một bóng ma trong bộ áo dài bằng vải bông xù, bà ấy phát hiện tôi đang ngồi trên chiếc trường kỉ lồi lõm, cúi gập mình trên những cái que khẳng khiu từng là đôi chân, và nắm chặt đầu gối để cố gắng trấn áp những cơn run rẩy đang chạy qua người tôi như một luồng gió mạnh. Tôi cảm thấy lạnh khắp người, ngoài trừ hạ bộ dường như thiêu đốt bởi bóng ma căn bệnh nhiễm trùng đường tiểu vốn đã gây rắc rối cho cuộc đời tôi vào mùa thu năm 1932 - mùa thu của John Coffey, Percy Wetmore và ông Jingles, con chuột được thuần hóa. Cũng là mùa thu của William Wharton nữa. - Paul! - Elaine kêu lên, và hối hả đến với tôi, dù sao cũng chỉ hối hả ở mức độ được những cái đinh rỉ sét và thủy tinh vụn trong hông bà cho phép. - Paul, có chuyện gì không ổn? - Tôi sẽ ổn. - Tôi trả lời, nhưng lời lẽ không thuyết phục lắm, chúng được phát âm không đều, qua hàm răng muốn đánh lập cập. - Cứ để tôi yên một hai phút, tôi sẽ khỏe như vâm ngay. Bà ấy ngồi xuống bên tôi và vòng tay ôm quanh vai. - Em chắc thế. - Bà nói. - Nhưng chuyện gì xảy ra nào? Vì Chúa, kìa Paul, trông anh như vừa gặp ma vậy. Tôi có gặp ma thật, tôi nghĩ và không nhận thức được cho đến khi mắt bà mở rộng, mới biết là mình đã nói to điều đó ra. - Không hẳn thế. - Tôi nói, và vỗ vào tay bà ấy. - Nhưng trong một phút, Elaine - lạy Chúa! - Có phải vì thời kì anh làm lính gác ở trại giam không? - Bà hỏi. - Thời kì anh vẫn viết lại trong nhà kính ấy? Tôi gật đầu. - Tôi đã viết về phiên bản Dãy Xà Lim Tử Tội của chúng tôi. - Em biết. - Có điều chúng tôi gọi là Dặm Đường Xanh. Vì tấm lót sàn. Vào mùa thu năm ba mươi hai, chúng tôi nhận một gã - chúng tôi nhận một gã hung bạo - tên William Wharton. Nó thích nghĩ nó là Billy the Kid, thậm chí xăm hình trên cánh tay. Chỉ là một thằng nhóc, nhưng nguy hiểm. Tôi vẫn còn nhớ điều Curtis Anderson - anh ấy là phụ tá giám thị vào thời đó - đã viết về gã: Điên rồ, hung bạo và tự kiêu về điều đó. Wharton mười chín tuổi và nó cóc cần đời. Anh ấy gạch dưới câu đó. Bàn tay đã ôm vai tôi bây giờ đang xoa bóp lưng tôi. Tôi bắt đầu trấn tĩnh lại. Trong khoảng khắc đó, tôi yêu Elaine Connelly, và có thể hôn lên khắp khuôn mặt bà như đã nói. Có lẽ tôi nên làm thế. Thật khủng khiếp khi cô đơn và sợ hãi ở bất cứ lứa tuổi nào, nhưng tôi nghĩ sẽ tệ hại hơn khi bạn già đi. Nhưng tôi có điều khác trong tâm trí, cái gánh nặng của tuổi già và công việc còn dở dang. - Dù sao thì, - tôi bảo, - cô nói đúng, tôi đã viết nguệch ngoạc về việc Wharton đến Khu và suýt giết chết Dean Stanton như thế nào - một trong những chàng trai làm việc với tôi thời đó - khi nó manh động. - Làm sao nó có thể manh động? - Elaine hỏi. - Độc ác và bất cẩn. - Tôi nghiêm nghị trả lời. - Wharton cung cấp sự độc ác, những lính gã áp giải cung cấp sự bất cẩn. Sai lầm thực sự là dây xích cổ tay của Wharton - hơi quá dài. Khi Dean mở khóa cửa vào Khu E, Wharton ở sau lưng cậu ấy. Có lính gác kèm hai bên nó, nhưng Anderson nói đúng - Wild Billy bất cần về những chuyện như thế. Nó thả sợi xích xuống đầu Dean và bắt đầu xiết cổ cậu ấy bằng sợi xích. Elaine rùng mình. - Dù sao thì tôi đã suy nghĩ về tất cả những chuyện đó và không ngủ được, vì thế tôi xuống dưới này. Tôi mở kênh AMC, nghĩ là có thể cô sẽ xuống và chúng ta sẽ có một cuộc hẹn hò nho nhỏ... Bà ấy cười và hôn lên trán tôi, ngay trên lông mày. Cử chỉ đó thường khiến tôi bị kim châm khắp người khi Janice làm thế, và vẫn khiến tôi bị kim châm khắp người khi Elaine làm thế vào sáng sớm nay. Tôi đoán có một số điều không bao giờ thay đổi. Bộ phim xuất hiện trên màn hình là bộ phim đen trắng về bọn gangster từ thập niên bốn mươi. Tựa phim là Nụ Hôn Tử Thần. Tôi có thể thấy mình muốn bắt đầu run rẩy trở lại và cố gắng trấn áp. - Richard Widmark diễn xuất trong phim. - Tôi nói. - Tôi nghĩ là vai diễn lớn đầu tiên của ông ấy. Tôi chưa bao giờ đi xem phim đó với Jan - chúng tôi dành cho các anh cớm và bọn cướp bóc một sự thiếu sót, thường là vậy - nhưng tôi nhớ đã đọc ở đâu đó rằng Widmark diễn xuất thần vai tên côn đồ. Chắc chắn ông ấy đã làm được. Ông ấy tái xanh... dường như không bước đi nhiều bằng việc lướt quanh quẩn... ông ấy luôn gọi người ta là “đồ trơ tráo”... nói chuyện về bọn chỉ điểm... ông ấy thù ghét bọn chỉ điểm biết bao... Tôi bắt đầu run rẩy lần nữa mặc cho những nỗ lực lớn của mình. Tôi chịu, không làm được. - Tóc vàng. - Tôi thì thầm. - Tóc vàng rũ xuống. Tôi quan sát đến đoạn ông ấy xô bà cụ ngồi xe lăn xuống một đoạn cầu thang, sau đó tôi tắt TV. - Ông ấy làm anh nhớ lại Wharton? - Ông ấy là Wharton. - Tôi đáp. - Bằng xương bằng thịt. - Paul, - bà bắt đầu và dừng lại. Bà nhìn màn hình trống rỗng trên TV, rồi nhìn lại tôi. - Cái gì? - Tôi hỏi. - Cái gì vậy, Elaine? - Suy nghĩ, bà ấy sẽ bảo mình phải ngưng viết về vụ đó. Rằng mình phải xé bỏ những trang đã viết cho đến lúc này và ngưng từ đây. Điều bà ấy nói là: Đừng để chuyện này chặn anh đứng lại. Tôi trố mắt nhìn bà. - Ngậm miệng lại nào Paul, anh sẽ nuốt phải một con ruồi. - Xin lỗi. Chỉ là... phải... - Anh nghĩ em sẽ nói anh nghe điều ngược lại, phải không? - Phải. Bà cầm tay tôi trong tay bà và cúi về phía trước, nhìn chăm chú vào cặp mắt xanh của tôi bằng đôi mắt màu hạt dẻ của bà, con mắt trái hơi mờ vì lớp màng liên kết của chứng đục tinh thể. - Có thể em quá già và quá dễ vỡ để sống sót. - Bà nói. - Nhưng em không quá già để suy nghĩ. Một vài đêm mất ngủ ở lứa tuổi chúng ta có là gì? Thêm nữa, chuyện thấy ma trên TV có là gì? Anh sẽ nói với em đấy là hồn ma duy nhất anh từng thấy chứ? Tôi nghĩ về giám thị Moores, về Harry Terwilliger và Brutus Howell; tôi nghĩ về mẹ tôi và về Janice, vợ tôi, người đã chết ở Alamaba. Tôi biết về các hồn ma, đúng vậy. - Không. - Tôi đáp. - Không phải hồn ma đầu tiên tôi từng thấy. Nhưng Elaine này - đấy là một cú sốc. Bởi vì chính là nó, thằng nhóc. Bà ấy hôn tôi lần nữa rồi đứng lên, nhăn mặt và ép cườm tay vào trên hông, như thể sợ chúng sẽ thực sự nổ tung ra ngoài qua làn da nếu không thật cẩn thận. - Em nghĩ là em đã đổi ý về truyền hình. - Bà nói. - Em còn một viên thuốc phụ trội để dành cho một ngày mưa... hoặc ban đêm. Em nghĩ sẽ uống nó rồi đi ngủ lại. Có lẽ anh cũng nên làm như thế. - Vâng. - Tôi đáp. - Tôi cho rằng mình nên làm. - Trong một thoáng hoang đàng, tôi nghĩ đến việc đề nghị chúng tôi cùng đi ngủ chung, rồi tôi nhìn thấy cơn đau âm ỉ trong mắt bà ấy và nghĩ sâu xa hơn. Bởi vì có thể bà sẽ nói vâng và bà ấy sẽ chỉ nói thế vì tôi. Không tốt lắm. Chúng tôi rời phòng TV đi bên nhau, tôi bắt theo nhịp bước chân của bà, vốn chậm chạp và cẩn thận một cách đau đớn. Tòa nhà vẫn yên ả ngoại trừ có người nào đó đang rên rỉ trong móng vuốt của cơn ác mộng đằng sau cánh cửa đóng kín nào đó. - Anh nghĩ anh sẽ ngủ được chứ? - Bà ấy hỏi. - Vâng, tôi nghĩ thế. - Tôi trả lời, nhưng tất nhiên không thể, tôi nằm trên giường đến khi mặt trời lên, nghĩ về Nụ Hôn Tử Thần. Tôi thấy Richard Widmark, cười khúc khích điên loạn, trói bà cụ vào xe lăn rồi xô bà ấy xuống cầu thang - Đây là cách bọn tao trừng phạt lũ chỉ điểm. - Ông ta nói với bà cụ và rồi khuôn mặt ông ta hòa nhập vào khuôn mặt William Wharton, giống như dáng vẻ của nó vào ngày nó đến Khu E và Dặm Đường Xanh - Wharton cười khúc khích như Widmark, Wharton gào thét, Chẳng phải đây là bữa tiệc sao? Phải không, hay là gì? Tôi không đụng đến bữa ăn sáng, không ăn sau sự việc đó, tôi chỉ xuống đây vào nhà kính và bắt đầu viết. Các hồn ma ư? Chắc chắn. Tôi biết hết mọi chuyện về các hồn ma. - Ê ê, bọn mày! - Wharton cười. Chẳng phải đây là bữa tiệc sao? Phải không, hay là gì? Vẫn gào thét và cười cợt, Wharton quay lại xiết cổ Dean bằng dây xích của nó. Tại sao không? Wharton biết điều tất cả chúng tôi biết: người ta chỉ có thể nướng nó một lần mà thôi. - Đập nó! - Harry Terwilliger gào lên. Anh ta vật lộn với Wharton, cố gắng ngăn chặn sự việc trước khi chúng xảy ra, nhưng Wharton đã hất văng anh ta và bây giờ Harry đang cố gắng đứng lên. - Percy, đập nó đi! Nhưng Percy chỉ đứng trơ ra đó, dùi cui bằng gỗ hồ đào trong tay, mắt mở to bằng đĩa đựng súp. Hắn ưa thích cây dùi cui khốn kiếp của mình, và bạn sẽ nói đấy là cơ hội để sử dụng nó nếu hắn đã thèm khát như thế kể từ khi đến trại giam Cold Mountain... nhưng bây giờ khi có dịp, hắn rét đến nỗi không vồ lấy được cơ hội. Đây không phải là gã người Pháp nhỏ bé hoảng hốt nào đó, cũng chẳng phải một gã da đen khổng lồ, kẻ gần như không biết mình đang hiện hữu trong chính thân xác của mình, đây là một con quỷ đang quay cuồng. Tôi bước ra khỏi xà lim của Wharton, bỏ bìa kẹp hồ sơ xuống và rút khẩu 38 mm ra. Tôi đã quên hẳn căn bệnh nhiễm trùng đang đun sôi hạ bộ của mình lần thứ hai trong ngày. Tôi không nghi ngờ câu chuyện những người kia nói về bộ mặt trống rỗng và cặp mắt vô tri vô giác của Wharton khi họ kể lại sau này, nhưng đấy không phải là thằng Wharton tôi nhìn thấy. Cái tôi thấy là bộ mặt của một con vật - không phải một loài vật thông minh, nhưng là một con thú đầy xảo quyệt... độc ác... và niềm vui. Phải. Nó đang làm điều nó được sinh ra để làm. Nơi chốn và hoàn cảnh không quan trọng. Thứ khác mà tôi thấy là khuôn mặt đỏ bừng, sưng phồng của Dean Stanton. Anh ta đang chết trước mặt tôi. Wharton nhìn thấy khẩu súng và nó xoay Dean về hướng mũi súng, để khi tôi phải bắn kẻ này thì trúng vào người kia. Từ phía trên vai Dean, một con mắt xanh lấp lánh thách thức tôi bóp cò. Con mắt kia của Wharton bị tóc Dean che khuất. Sau lưng họ tôi thấy Percy đứng phân vân, dùi cui giơ lên nửa chừng. Thế rồi, lấp đầy khoảng trống ở bậc cửa ra sân trại giam, là một phép lạ bằng xương bằng thịt: Brutus Howell. Họ đã dọn xong phần thiết bị cuối cùng của bệnh xá, và anh ta đến để xem ai muốn uống cà phê. Anh ta lập tức hành động không chậm trễ một giây - xô Percy sang một bên, với sức mạnh lung lay cả hàm răng, rút dùi cui của mình ra khỏi móc đeo, giáng cật lực xuống ót Wharton bằng tất cả sức lực chứa trong cánh tay phải đồ sộ. Một tiếp “bốp!” khô khốc - một âm thanh gần như trống rỗng, như thể không có chút não chất nào trong hộp sọ của Wharton và rốt cuộc sợi xích quanh cổ Dean lỏng ra. Wharton đổ vật xuống như một bao bột và Dean bò ra chỗ khác, ho khan rũ rượi và ôm cổ họng bằng một bàn tay, mắt lồi ra. Tôi quỳ xuống bên anh ta nhưng anh ta lắc đầu kịch liệt. - Được rồi. - Anh ta nói giọng the thé. - Coi chừng... nó! - Anh ta chỉ Wharton. - Nhốt! Xà lim! Tôi không nghĩ nó cần đến xà lim khi Brutal đã cật lực đập nó, tôi nghĩ cái nó cần là một cỗ quan tài. Tuy nhiên, không được may mắn như thế. Wharton bị đập bất tỉnh, nhưng còn lâu mới chết. Thằng nhóc nằm sóng soài nghiêng vè một bên, một cánh tay thòng ra ngoài khiến đầu ngón tay chạm vào lớp vải sơn lót Dặm Đường Xanh, mắt nhắm nghiền, hơi thở chậm nhưng đều. Thậm chí có cả một nụ cười bình an trên khuôn mặt, như thể nó thiếp ngủ đi trong khi nghe bài hát ru ưa thích nhất của mình. Một dòng máu đỏ nhỏ xíu đang rỉ ra khỏi mái tóc, thấm vào cổ chiếc áo tù mới. Tất cả chỉ có thế. - Percy. - Tôi lên tiếng. - Giúp tôi! Percy không nhúc nhích, chỉ đứng dựa vào tường, giương to cặp mắt đờ đẫn nhìn trừng trừng. Tôi nghĩ hắn không biết chính xác hắn ở đâu. - Percy, mẹ kiếp, tóm lấy nó! Lúc ấy hắn mới cửa động và Harry giúp hắn. Ba chúng tôi cùng nhau lôi ông Wharton bất tỉnh vào xà lim trong lúc Brutal giúp Dean đứng dậy, nhẹ nhàng ôm anh ta như bất cứ bà mẹ nào trong khi Dean cúi gập xuống, ho khan lấy lại hơi thở vào phổi. Suốt gần ba giờ sau, thằng nhóc có vấn đề của chúng tôi vẫn không dậy nổi, nhưng khi tỉnh lại, nó tỏ ra hoàn toàn không có dấu hiệu tổn thương nào sau cú đập tàn bạo của Brutal. Thằng khốn hồi tỉnh theo cách nó tấn công nhanh chóng. Phút trước nó vẫn còn nằm soài trên sạp, đối với thế giới là đã chết. Ngay phút sau nó đã đứng tại chấn song, im lặng như một con mèo và trân trối nhìn tôi đang ngồi tại bàn giấy, viết báo cáo về tai nạn xảy ra Sau cùng khi cảm thấy có ai đó đang nhìn ngó và tôi ngước lên nó ở kia, nụ cười phô ra bộ răng chết, đen xỉn đã có nhiều khoảng trống giữa chúng. Tôi giật nảy mình khi thấy nó đứng đó như thế. Tôi cố không để lộ ra, nhưng tôi nghĩ nó biết. - Ê, thằng tay sai. - Nó lên tiếng. - Lần sau sẽ là mày. Và tao sẽ không để sổng. - Chào Wharton. - Tôi cố thản nhiên nói. - Trong hoàn cảnh này, tao đoán có thể bỏ qua bài diễn văn và Buổi Chào mừng, mày nghĩ thế không? Nụ cười của thằng nhóc nao núng một chút. Đấy không phải là một loại phản ứng mà nó chờ đợi, và có lẽ không phải loại phản ứng mà tôi có trong hoàn cảnh này. Nhưng điều gì đó đã xảy ra trong lúc Wharton bất tỉnh. Đấy là, tôi cho rằng, một trong những điểm chính mà tôi đã lê bước qua tất cả những trang giấy này để kể cho bạn biết. Bây giờ hãy xem bạn có tin không. Chương 14 Ngoại trừ một lần quát tháo Delacroix, Percy ngậm câm sau khi vụ náo động kết thúc. Đây có lẽ vì hậu quả cú sốc hơn vì bất cứ nỗ lực khéo léo nào - Percy Wetmore hiểu biết về sự khéo léo cũng bằng tôi hiểu biết về các bộ lạc thổ dân ở Châu Phi tăm tối nhất, theo quan điểm của tôi - nhưng quả là một điều tốt đẹp khốn kiếp, vậy thôi. Nếu hắn bắt đầu than vãn vì Brutal xô vào tường hoặc thắc mắc tại sao không ai nói cho biết về những đứa côn đồ như Wild Billy Wharton thỉnh thoảng lại xuất hiện ở Khu E, tôi nghĩ chúng tôi sẽ giết hắn mất. Lúc ấy có thể chúng tôi sẽ dạo trên Dặm Đường Xanh theo một cách hoàn toàn mới. Một loại ý tưởng kì lạ, khi bạn xem xét nó. Tôi bỏ lỡ cơ hội tiến hành như James Cagney trong bộ phim White Heat. Dù sao thì, khi chúng tôi biết chắc Dean còn thở được và không ngất tại chỗ, Harry và Brutal đã hộ tống anh ta đến bệnh xá. Delacroix, người tuyệt đối im lặng suốt trận ẩu đả (gã đã nằm tù rất nhiều lần, con người đó biết khi nào nên khôn hồn câm mõm lại và khi nào tương đối an toàn để mở ra) bắt đầu oang oang từ cuối hành lang khi Harry và Brutal giúp Dean ra ngoài. Delacroix muốn biết chuyện gì xảy ra. Hẳn bạn sẽ nghĩ rằng quyền hợp hiến của gã bị xâm phạm. - Câm miệng, mày đấy, thằng đồng tính! - Percy quát lại, giận dữ đến mức mạch máu hằn ra hai bên cổ hắn. Tôi đặt bàn tay lên tay hắn và cảm thấy nó run lên bên dưới áo sơ mi. Một phần phản ứng này là nỗi hoảng sợ còn sót lại, tất nhiên (lúc này lúc kia tôi vẫn phải tự nhắc nhở mình rằng một phần vấn đề của Percy là hắn mới hai mươi mốt tuổi, không già hơn Wharton bao nhiêu) , nhưng tôi nghĩ phần lớn là cơn thịnh nộ. Hắn thù ghét Delacroix. Tôi không hiểu tại sao, nhưng hắn thù. - Hãy đến xem Giám thị còn đây không? - Tôi sai Percy. - Nếu có, cậu báo cáo miệng đầy đủ chuyện xảy ra. Nói là ngày mai sẽ có báo cáo bằng văn bản của tôi trên bàn giấy của ông ấy, nếu tôi làm kịp. Percy phổng mũi thấy rõ vì được giao nhiệm vụ; trong một thoáng khủng khiếp, tôi thật sự nghĩ hắn sẽ đứng nghiêm chào tôi. - Vâng, thưa sếp. Tôi sẽ đi. - Hãy bắt đầu bằng cách báo cáo ông ấy biết tình hình ở Khu E bình thường. Không phải chuyện gì ầm ĩ, và ông Giám thị sẽ không cảm ơn anh thêu dệt để tăng phần giật gân đâu. - Tôi sẽ không làm thế. - Được rồi. Cậu đi đi. Hắn ra đến cửa, rồi quay lại. Một điều bạn có thể tin cậy hắn là tính trái ngược. Tôi hết sức muốn hắn biến đi, hạ bộ tôi đang bốc cháy, và bây giờ có vẻ hắn không muốn đi. - Anh không sao chứ, Paul? - Hắn hỏi. - Có lẽ bị sốt, phải không? Bị cúm sao? Mồ hôi đầy mặt anh kìa. - Có lẽ tôi bị cái gì đó, nhưng phần lớn thì khỏe. - Tôi trả lời. - Đi đi, Percy, đến báo cáo giám thị đi. Hắn gật đầu và đi khỏi, cảm ơn Chúa đã ban cho những ân huệ nho nhỏ. Cửa vừa đóng lại, tôi phóng ngay vào văn phòng của mình. Bỏ bàn giấy không có người trực là vi phạm quy tắc, nhưng tôi đã vượt quá mức lo lắng chuyện đó rồi. Tệ hại quá, giống như chuyện tệ hại sáng hôm ấy. Tôi cố vào được phòng vệ sinh nhỏ đằng sau bàn trực và giải tỏa công việc ra khỏi quần trước khi nước tiểu trào ra, nhưng suýt nữa không kịp. Tôi phải lấy tay bịt miệng để chặn tiếng thét khi bắt đầu trào ra, và quờ quạng chụp lấy thành bồn cầu bằng tay kia. Không giống như ở nhà, nơi tôi có thể khuỵu xuống và tè ra một vũng bên đống củi, nếu tôi quỳ thụp xuống ở đây, nước tiểu sẽ lan ra khắp sàn nhà. Tôi gắng gượng đứng vững và nén tiếng thét, nhưng suýt nữa không kịp cho cả hai việc. Có cảm giác như nước tiểu của tôi chứa đầy những mẩu thủy tinh vỡ nhỏ xíu. Cái mùi bốc lên từ bồn cầu lầy lội và khó chịu, và tôi có thể nhìn thấy thứ gì màu trắng - mủ, tôi đoán thế - lơ lửng trên mặt nước. Tôi rút khăn ra khỏi kệ để lau mặt. Tôi đang đổ mồ hôi, đúng rồi nó đang tuôn ra ra khỏi người. Tôi nhìn vào chiếc gương kim loại và thấy bộ mặt đỏ bừng của một người bị sốt cao đang nhìn trả lại mình. Tôi treo khăn lên thanh ngang, chậm chạp đi qua văn phòng đến cửa khu xà lim. Tôi sợ Bill Dodge hoặc ai đó khác có thể bước vào và thấy ba gã tử tù không có người canh gác, nhưng khu vực vắng bóng người. Wharton vẫn nằm bất tỉnh trên sạp ngủ của nó, Delacroix đã nín lặng và John Coffey chưa hề phát ra một tiếng động nào, đột nhiên tôi nhận thức được. Không một tiếng thút thít. Điều đáng lo. Tôi đi dưới Dặm Đường Xanh và liếc vào xà lim của Coffey, nửa chờ đợi khám phá gã đã tự sát theo một trong hai cách thông thường ở khu tử tội hoặc treo cổ bằng quần dài, hoặc cắn vào cổ tay. Không có gì, hóa ra là thế. Coffey chỉ đơn thuần ngồi ở đầu sạp ngủ, tay để trong lòng, con người đồ sộ nhất tôi từng gặp trong đời, đang nhìn tôi với cặp mắt ướt, kì lạ. - Đội trưởng? - Gã lên tiếng. - Có chuyện gì, Bự Con? - Tôi cần gặp anh. - Chẳng phải anh đang nhìn thẳng vào tôi đấy sao, John Coffey? Gã không nói gì về câu hỏi này, chỉ tiếp tục quan sát tôi bằng cái nhìn rò rỉ, quái dị. Tôi thở dài. - Chờ chút, Bự Con. Tôi nhìn sang Delacroix, đang đứng sau chấn song xà lim của gã. Ông Jingles, con chuột nuôi của gã (Delacroix sẽ khoe với bạn rằng gã đã huấn luyện ông Jingles biểu diễn các mánh lới, nhưng bọn tôi làm việc trên Dặm Đường Xanh lại rất đồng lòng với quan điểm rằng ông Jingles đã tự luyện tập) , đang nhảy nhót không ngưng nghỉ từ một bàn tay duỗi ra rcủa Delacroix đến bàn tay kia, như một nghệ sĩ nhào lộn nhảy từ bục đặt trên cao giữa rạp xiếc. Cặp mắt nó to tướng, tai ép sát vào cái sọ màu nâu bóng mượt. Tôi không nghi ngờ gì chuyện con chuột đang phản ứng cho thần kinh của Delacroix. Trong khi tôi nhìn, con chuột chạy xuống ống quần Delacroix và băng qua xà lim đến chỗ ống chỉ đầy màu sáng nằm sát tường. Nó đẩy cái ống chỉ trở lại đến bàn chân của Delacroix và hăng hái ngước nhìn gã, nhưng gã Cajun nhỏ bé không để ý đến anh bạn nhỏ, ít nhất là trong lúc hiện thời. - Chuyện gì xảy ra, sếp? - Delacroix hỏi. - Ai đã bị thương? - Mọi thứ đều yên ổn. - Tôi đáp. - Chàng trai mới của chúng tôi xông vào dũng mãnh như sư tử, nhưng bây giờ nó bất tỉnh như một con cừu. Điều tốt đẹp sẽ có kết thúc tốt đẹp. - Chưa kết thúc đâu. - Delacroix nhận định, nhìn lên Dặm Đường Xanh về hướng xà lim nơi Wharton bị nhốt. - L’homme mauvais, c’est vrai! - Thằng xấu xa, thật đấy! - Nào. - Tôi đáp. - Đừng để chuyện đó làm chú mày thất vọng, Del. Sẽ không ai buộc chú mày chơi với nó ngoài sân đâu. Có một tiếng cót két sau lưng tôi khi Coffey rời khỏi sạp ngủ. - Sếp Edgecombe! - Gã lại lên tiếng. Lần này giọng gã nghe khẩn cấp. - Tôi cần nói chuyện với anh. Tôi quay lại gã, suy nghĩ, được rồi, không có gì, nói chuyện là công việc của tôi. Suốt thời gian cố gắng không run rẩy, vì cơn sốt đã nguội lạnh, như nó đôi khi vẫn thế. Ngoại trừ hạ bộ của tôi, vẫn còn cảm giác như bị xẻ ra, nhét đầy than nóng vào, rồi khâu kín lại. - Vậy thì nói đi, John Coffey. - Tôi đáp, cố sức giữ giọng nói nhẹ nhàng và bình thản. Lần đầu tiên từ khi đến Khu E, Coffey có vẻ như thật sự hiện diện ở đây, thật sự ở giữa chúng tôi. Dòng nước mắt gần như không ngừng trào ra từ góc mắt gã đã ngưng, ít nhất là trong lúc này và tôi biết gã đang thấy cái gã đang nhìn. - Ông Paul Edgecombe, đội trưởng toán lính gác Khu E, và không phải là nơi nào đó gã ao ước có thể trở về, để rút lại điều khủng khiếp gã đã gây ra. - Không. - Gã nói. - Anh phải vào trong này. - Coi nào, anh biết tôi không được làm thế. - Tôi trả lời, vẫn cố gắng nói nhẹ nhàng. - Ít nhất vào lúc này là không đúng. Hiện giờ có mình tôi ở đây và anh thì nặng hơn tôi cả tấn rưỡi. Chúng tôi đã bị một trận huyên náo chiều nay, đủ rồi. Vậy chúng ta sẽ tán gẫu qua chấn song, nếu anh thấy thích, và... - Làm ơn! - Gã bấu lấy chấn song chặt đến nỗi khớp ngón tay tái đi và móng tay trắng bệch. Mặt gã dài thượt ra vì thất vọng, mắt quắc lên với nhu cầu nào đó mà tôi không hiểu nổi. Tôi nhớ đã nghĩ rằng có lẽ tôi có thể hiểu nếu như không quá bệnh hoạn, và biết điều đó sẽ cho tôi một cách giúp đỡ gã qua khỏi tình trạng này. Khi bạn biết điều một con người cần, tức bạn biết con người đó, thường là thế. - Làm ơn đi, sếp Edgecombe! Anh phải vào đây! Điều ngu ngốc nhất tôi từng được nghe, tôi nghĩ và rồi nhận ra một điều còn ngu ngốc hơn nữa: tôi sẽ làm theo lời gã. Tôi tháo chùm chìa khóa ra khỏi dây lưng và lục tìm những chiếc mở được cửa xà lim của Coffey. Gã đã có thể nhấc bổng tôi lên và bẻ gãy trên đầu đầu gối như củi nhóm lửa vào một ngày tôi khỏe mạnh và cảm thấy thoải mái, và hôm nay thì không phải là ngày đó. Dù sao tôi cũng sẽ làm theo lời gã. Làm một mình, và không đầy nửa giờ đồng hồ sau cuộc thể hiện sinh động nơi mà sự ngu ngốc và tính sơ hở có thể lôi bạn đến khi đối phó với bọn giết người bị kết án, tôi sẽ mở cửa xà lim của gã da đen khổng lồ này, bước vào, và ngồi với hắn. Nếu bị phát hiện, tôi có thể bị đuổi việc, ngay cả khi gã không làm chuyện gì điên rồ, nhưng tôi sẽ làm thế, vậy thôi. Hãy dừng lại, tôi tự bảo mình, mày hãy dừng lại đi, Paul. Nhưng tôi không dừng lại. Tôi dùng một chìa khóa cho ổ khóa trên cùng, một chìa khác cho ổ khóa dưới và rồi đẩy cửa trượt trên đường ray. - Anh biết không, sếp, có lẽ đấy không phải là ý tưởng hay. - Delacroix lên tiếng bằng một giọng hoảng hốt và khó chịu đến nỗi có lẽ sẽ làm tôi bật cười trong hoàn cảnh này. - Chú mày lo chuyện chú mày, còn tôi lo việc tôi. - Tôi đáp lại mà không nhìn quanh. Mắt tôi nhìn thẳng vào mắt John Coffey, như trân trối đến mức như đóng đinh vào đấy. Giống như đang bị thôi miên. Tai tôi nghe giọng nói của mình như thứ gì đó vọng xuống một thung lũng dài. Quái quỷ, có lẽ tôi đã bị thôi miên. - Anh cứ nằm xuống và thư giãn. - Chúa ơi, nơi này điên quá. - Delacroix nói bằng giọng run rẩy. - Ông Jingles, tao ước gì chúng nướng quách tao cho rồi! Tôi vào trong xà lim của John Coffey. Gã lùi ra sau khi tôi tiến lên trước. Khi lùi đến sạp ngủ - mép nó đụng vào bắp chân gã, gã cao đến mức đó - gã ngồi xuống sạp. Gã vỗ vào tấm nệm bên cạnh gã, ánh mắt không rời khỏi mắt tôi. Tôi ngồi xuống đó kế bên gã, và gã vòng tay ôm vai tôi, như thể chúng tôi đang ở trong rạp xi-nê và tôi là bồ của gã. - Anh muốn gì, John Coffey? - Tôi hỏi, vẫn nhìn vào mắt gã, đôi mắt buồn rầu, thanh thản. - Chỉ giúp đỡ thôi. - Gã trả lời. Gã thở dài theo cách một người sẽ làm khi đối mặt với một việc mà anh ta không muốn làm, và rồi gã thò tay xuống hạ bộ tôi, trên khung xương dưới rốn khoảng 1 foot hay gì đó. - Ê! - Tôi la lên. - Rút cái bàn tay chết tiệt. Một cú đấm quật xuyên qua người tôi, một cú đánh gì đó mạnh mẽ không đau đớn. Nó làm tôi co giật trên tấm đắp và ưỡn cong lưng, làm tôi nghĩ đến lão Toot gào lên rằng lão đang bị nướng, lão là con gà tây trống hết đời. Không có sức nóng, không có cảm giác điện giật, nhưng trong một thoáng màu sắc dường như thoát ra khỏi tất cả mọi vật, như thể thế giới bị vắt kiệt và làm cho toát mồ hôi bằng cách nào đó. Tôi có thể thấy từng lỗ chân lông trên mặt John Coffey, tôi có thể thấy một vết trầy nhỏ xíu đang đang lên da non trên cằm của gã. Tôi nhận thức được ngón tay của mình đã khoằm lại thành móng vuốt trong không khí, và chân tôi đang giậm thình thịch trên sàn xà lim của Coffey. Rồi sự việc chấm dứt. Căn bệnh nhiễm trùng đường tiểu của tôi cũng thế. Cả sức nóng lẫn cơn đau phập phồng khốn nạn biến mất khỏi hạ bộ, cơn sốt cũng biết mất khỏi đầu tôi. Tôi vẫn còn cảm nhận được mồ hôi mà nó rút ra khỏi làn da cả mình, và tôi ngửi được nó, nhưng nó đi rồi, được thôi. - Chuyện gì xảy ra? - Delacroix the thé gọi. Giọng gã vẫn còn văng vẳng từ xa, nhưng khi John Coffey cúi mình ra trước, cắt đứt tiếp xúc bằng mắt với tôi, thì giọng của gã Cajun nhỏ bé đột nhiên trở nên rõ ràng. Như thể ai đó đã rút mẩu bông hoặc ống che tai xạ thủ ra khỏi tai tôi. - Gã đang làm gì anh vậy? Tôi không trả lời. Coffey đang cúi gập người trên lòng gã với nét mặt nhăn nhúm và lồng ngực lồi ra. Mắt gã cũng lồi ra. Nhìn gã như một người hóc xương gà trong cổ họng. - John! - Tôi thốt lên. Tôi vỗ vào lưng gã, đấy là tất cả những gì tôi nghĩ được để làm. - John, có gì không ổn? Gã giật mình dưới bàn tay tôi, rồi phát ra một tiếng nôn ọe nghèn nghẹt khó chịu. Miệng gã há ra như cách loài ngựa đôi khi há mõm để nuốt thức ăn một cách miễn cưỡng, môi trên kéo ra sau, nhe răng trong một nụ cười khinh miệt dữ dội. Thế rồi hai hàm răng của gã cũng rời ra, và gã thở ra một đám mây côn trùng nhỏ xíu màu đen trông như ruồi nhặng. Chúng quay cuồng giận dữ giữa hai đầu gối gã, chuyển sang màu trắng, và biến mất. Thình lình tất cả sức mạnh của tôi thoát ra khỏi hạ bộ. Như thể các bắp thịt ở đấy đã hóa thành nước. Tôi ngồi sụm xuống lại nền đá xà lim của Coffey. Tôi nhớ có nghĩ đến tên của Đấng cứu thế - Chúa Ki-tô, Chúa Ki-tô, Chúa Ki-tô, lặp đi lặp lại như thế và tôi nhớ có nghĩ rằng cơn sốt đã khiến tôi mê sảng. Thế thôi. Rồi tôi ý thức được Delacroix đang oang oang kêu cứu, gã đang mách thế giới này là John Coffey đang giết tôi và mách bằng một giọng to hết cỡ. Coffey đang cúi xuống tôi, phải rồi, nhưng chỉ để biết chắc tôi không sao. - Im đi, Del. - Tôi nói và đứng lên. Tôi chờ đợi cơn đau xé toạc hạ bộ nhưng nó không xảy ra. Tôi đã tốt hơn. Thật sự. Có một thoáng chóng mặt, nhưng nó qua khỏi thậm chí trước khi tôi kịp đưa tay ra chụp lấy chấn song cửa xà lim của Coffey để giữ thăng bằng. - Tôi hoàn toàn yên ổn. - Anh ra khỏi đó ngay. - Delacroix nói, nghe như một bà già nóng nảy ra lệnh cho thằng nhóc leo xuống khỏi cây táo. - Anh không được vào trong đó khi không có ai khác trong Khu. Tôi nhìn John Coffey, gã ngồi trên sạp, đôi bàn tay khổng lồ đặt trên đầu gối to như thân cây. John Coffey nhìn trả lại tôi. Gã phải nghiêng đầu lên một chút, nhưng không nhiều. - Anh đã làm gì, Bự Con? - Tôi hỏi bằng giọng khẽ khàng. - Anh đã làm gì cho tôi? - Giúp đỡ. - Gã trả lời. - Ta đã giúp, phải không? - Phải, tôi nghĩ thế, nhưng bằng cách nào? Làm sao anh giúp được? Gã lắc đầu phải, trải, trở lại chết cứng ở giữa. Gã không biết đã giúp bằng cách nào (gã đã chữa khỏi bệnh bằng cách nào) , bộ mặt điềm tĩnh của gã cho thấy gã cóc thèm quan tâm - không quan tâm hơn tôi quan tâm đến cơ học môn chạy khi tôi đang dẫn đầu 50 yard cuối cùng trong cuộc chay đua hau dặm nhân ngày bốn tháng bảy. Tôi nghĩ đến việc hỏi gã làm sao biết được tôi mắc bệnh, ngoại trừ việc đó chắc chắn sẽ nhận được cú lắc đầu như thế. Có một câu tôi đọc ở đâu đó và không bao giờ quên, một thứ gì đó về “điều bí ẩn bọc trong sự bí mật”. John Coffey là thế, và tôi cho rằng lí do duy nhất khiến gã ngủ được vào ban đêm là bởi vì gã không cần. Percy gọi gã là thằng đần độn, nghe tàn nhẫn nhưng cũng không quá đáng. Chàng trai to xác của chúng tôi biết tên của gã, và biết nó không đánh vần như thứ nước uống, và đấy là tất cả những gì gã cần biết. Như để nhấn mạnh điều này vì tôi, gã lắc đầu theo cách khoan thai đó một lần nữa, rồi nằm xuống sạp, tay chắp lại dưới má như một chiếc gối và quay mặt vào tường. Chân gã bỏ thõng ra ngoài mép sạp từ ống quyển xuống, nhưng điều đó dường như không làm gã phiền hà. Vạt lưng áo đã kéo lên, và tôi có thể thấy các vết sẹo ngang dọc trên làn da. Tôi rời khỏi xà lim, khóa lại, rồi đối diện với Delacroix, kẻ đang đứng phía bên kia, tay nắm quanh chấn song xà lim của mình, lo lắng nhìn tôi. Có lẽ thậm chí sợ nữa. Ông Jingles vắt vẻo trên vai gã với những sợi râu mảnh run rẩy như tơ. - Gã đen kia làm gì anh? - Delacroix hỏi. - Bùa gris-gris gì vậy? Gã đã ếm bùa gris-gris vào anh? - Được phát âm bằng giọng Cajun của gã, từ gris-gris vần với pee-pee - đi tè. - Tôi không hiểu chú em nói gì, Del. - Quỷ quái gì mà anh không biết! Nhìn anh kìa! Tất cả đã thay đổi. Thậm chí bước đi cũng khác, sếp! Có lẽ tôi đã bước đi khác thật. Có một cảm giác bình an tuyệt vời ở hạ bộ, một ý thức thanh bình khác thường đến mức gần như khoái cảm, bất cứ ai đã chịu cơn đau nặng nề rồi hồi phục sẽ hiểu điều tôi đang nói. - Mọi việc đều ổn thỏa, Del. - Tôi nhấn mạnh. - John Coffey mơ thấy ác mộng, thế thôi. - Gã là phù thủy! - Delacroix sôi nổi nói. - Có những giọt mồ hôi đọng ở môi trên của gã. Gã không thấy gì nhiều, chỉ đủ để làm gã sợ gần chết. - Gã là phù thủy hoodoo! - Điều gì khiến chú em nói thế? Delacroix đưa tay ra và cầm lấy con chuột trong một bàn tay. Gã khum lấy nó trong lòng bàn tay và đưa lên mặt. Từ trong túi áo, Delacroix lấy ra một mẩu màu hồng - một trong những viên kẹo bạc hà. Gã chìa ra, nhưng lúc đầu con chuột làm ngơ, vươn cổ về phía gã, ngửi mùi hơi thở gã theo cách người ta ngửi một bó hoa. Cặp mắt hạt thị của nó mở ti hí rất gần với nét biểu cảm khoái lạc. Delacroix hôn vào mũi nó, và con chuột cho phép mũi nó được hôn. Sau đó nó cầm lấy mẩu kẹo mời và bắt đầu nhấm nháp. Delacroix nhìn nó một lúc lâu hơn, rồi nhìn tôi. Đột nhiên tôi hiểu. - Con chuột nói anh biết. - Tôi bảo. - Tôi nói đúng không? - Oui - vâng. - Giống như nó đã nói thầm tên cho anh biết. - Oui, nó nói thầm vào tai tôi. - Nằm xuống, Del. - Tôi ra lệnh. - Nghỉ nơi một chút đi. Tất cả những trò thì thầm tới lui hẳn làm chú mày mòn mỏi. Gã nói điều gì khác, buộc tội tôi không tin gã, tôi cho là thế. Giọng gã có vẻ lại văng vẳng từ xa. Và khi trở lại bàn giấy, tôi hầu như không có vẻ đang bước đi chút nào, giống như tôi đang trôi bồng bềnh, hoặc thậm chí không di chuyển, các xà lim chỉ lan qua tôi ở cả hai bên. Tôi bắt đầu ngồi xuống như bình thường, nhưng được nửa đường thì đầu gối bung ra và tôi rơi phịch xuống cái nệm màu xanh mà Harry mua từ quê nhà vào năm trước, rơi tõm lên mặt ghế. Nếu chiếc ghế không có đó, tôi nghĩ mình sẽ rơi thẳng xuống sàn nhà mà không có hiệu lệnh Đi hoặc lĩnh 200 đôla. Tôi ngồi đó, cảm nhận cái không có trong hạ bộ, nơi một vụ cháy rừng đã hoành hành trước đó chưa đầy mười phút. Ta đã giúp, phải không? John Coffey đã nói, và đấy là sự thật, theo chừng mực thể xác tôi biến chuyển. Tuy vậy, sự bình an tâm hồn trong tôi lại là một chuyện khác. Điều đó thì gã không giúp được gì. Mắt tôi bắt gặp xấp mẫu công văn dưới gạt tàn thuốc lá bằng thiếc mà chúng tôi để ở góc bàn. BÁO CÁO KHU được in trên đầu, và đến nửa trang là một khoảng trống có tiêu đề “Báo Cáo Tất Cả Những Sự Kiện Bất Thường”. Tôi sẽ sử dụng khoảng trống đó trong báo cáo đêm nay, kể lại câu chuyện về sự xuất hiện đầy ắp màu sắc và hành động của William Wharton. Nhưng giả sử tôi cũng báo cáo chuyện xảy ra với tôi trong xà lim của Coffey? Tôi thấy mình đang nhặt bút chì lên - cây bút mà Brutal luôn luôn liếm đầu - và viết đơn độc một từ bằng chữ in hoa to: PHÉP LẠ. Điều đó hẳn là ngộ nghĩnh, nhưng thay vì mỉm cười, đột ngột tôi cảm thấy chắc mình sắp khóc. Tôi đặt tay lên mặt, lòng bàn tay áp vào miệng để chặn tiếng nấc - tôi không muốn làm Del sợ hãi lần nữa ngay khi gã bắt đầu dịu xuống - nhưng không có tiếng nấc. Cũng không có nước mắt. Sau vài giây phút, tôi bỏ tay xuống bàn và khoan lại. Tôi không biết mình đang có cảm giác gì và ý tưởng rõ ràng duy nhất trong đầu tôi là ao ước đừng ai ở lại Khu cho đến khi tự chủ được một chút. Tôi sợ điều người ta có thể thấy trên mặt tôi. Tôi kéo một mẫu văn bản báo cáo Khu về phía mình. Tôi sẽ chờ đến khi bình tĩnh hơn một chút để viết về chuyện làm sao thằng nhóc có vấn đề mới nhất của tôi đã suýt nữa siết cổ Dean Stanton chết, nhưng trước mắt tôi có thể làm đầy đủ phần thủ tục văn bản ngớ ngẩn còn lại đã. Tôi nghĩ chữ viết của mình có vẻ buồn cười, run rẩy nhưng nó vẫn hiện ra như cũ. Khoảng năm phút sau khi bắt đầu, tôi đặt bút xuống và đi vào phòng vệ sinh kề bên văn phòng để đi tiểu. Tôi không mắc tè lắm, nhưng có thể cố gắng đủ để thử nghiệm điều đã xảy ra cho tôi, tôi nghĩ vậy. Trong khi đứng đó, chờ dòng nước chảy ra, tôi chắc sẽ bị đau giống hệt như đã bị vào sáng nay, như thể đang đi qua những mẩu thủy tinh vỡ vụn, điều gã đã làm cho tôi sẽ hóa ra chỉ là thôi miên, xét cho cùng và như thế có lẽ là sự nhẹ nhõm mặc dù có cơn đau. Ngoại trừ việc không có cơn đau nào cả và cái rơi xuống bồn cầu thì trong trẻo, không có dấu hiệu của mủ. Tôi cài nút quần, giật sợi xích dội cầu, trở về bàn trực và ngồi xuống lại. Tôi biết điều gì đã xảy ra, tôi cho là tôi biết, kể cả khi cố thuyết phục bản thân rằng tôi bị thôi miên. Tôi đã được chữa lành, một Ngợi Ca Jesus, Chúa Uy Vũ đích thực. Là một bé trai lớn lên đi nhà thờ Baptist, mẹ tôi và các chị em của bà tình cờ ưa thích chuyện trong bất cứ tháng chỉ định nào đó, tôi phải được nghe rất nhiều câu chuyện về phép lạ Ngợi Ca Jesus, Chúa Uy Vũ. Tôi không tin tất cả những chuyện đó, nhưng có rất nhiều người tôi tin. Một trong những người đó là Roy Delfines, người đã sống với gia đình cách chúng tôi hai dặm ở cuối đường khi tôi lên sáu tuổi. Delfines đã chặt đứt ngón tay út của con trai mình bằng một cái rìu, một tai nạn xảy ra khi thằng bé bất ngờ di chuyển bàn tay đang giữ khúc củi cho bố chẻ trong sân sau. Roy Delfines nói rằng ông ta đã thực sự mài mòn tấm thảm bằng đầu gối của mình trong mùa thu và mùa đông năm đó, và đến mùa xuân thì ngón tay của thằng bé đã mọc lại. Thậm chí móng tay cũng mọc lại. Tôi tin Roy Delfines khi ông ta ra làm chứng trong bữa liên hoan đêm thứ năm. Có một sự chân thật không phức tạp, trần trụi trong điều ông ta nói khi ông ta đứng đó phát biểu với bàn tay nhét sâu trong túi quần khiến không thể không tin. - Thằng bé bị ngứa khi ngón tay đó bắt đầu mọc ra, làm cho nó mất ngủ nhiều đêm. - Roy Delfines nói. - Nhưng cháu nó biết đấy là cơn ngứa của Chúa và mặc nhiên chấp nhận. Ngợi Ca Jesus, Chúa Uy Vũ. Câu chuyện của Roy Delfines chỉ là một trong nhiều chuyện, tôi đã lớn lên trong một truyền thống các phép lạ và chữa lành. Tôi lớn lên tin vào phép phù thủy gris-gris, cũng như nước thải chữa mụn cóc, rêu bỏ dưới gối để xoa dịu nỗi đau thất tình vã dĩ nhiên, cái chúng tôi thường gọi là hait - nhưng tôi không tin John Coffey là phù thủy gris-gris. Tôi đã nhìn vào mắt gã. Quan trọng hơn, tôi đã cảm nhận sự tiếp xúc của gã. Được gã sờ vào cũng giống như được sờ vào bởi một bác sĩ tuyệt vời và xa lạ nào đó. - Ta đã giúp, phải không? Câu đó cứ vang lên trong đầu tôi, như một đoạn ca khúc mà bạn không gạt bỏ được, hoặc những từ mà bạn sẽ thốt lên để ếm bùa. - Ta đã giúp, phải không? Ngoại trừ việc không phải gã giúp. Chúa đã giúp. Cách dùng từ “Ta” có thể gán cho sự dốt nát hơn là tính kiêu căng, nhưng tôi biết - ít nhất cũng là tin - điều tôi đã học về sự chữa lành trong các nhà thờ Ngợi Ca Jesus, Chúa Uy Vũ, những góc cầu nguyện trong rừng thông mà người mẹ hai mươi mốt tuổi và các dì của tôi rất ưa thích: sự chữa lành đó không bao giờ về người được chữa hay người chữa, nhưng về ý Chúa. Một người vui mừng vì khỏi bệnh là chuyện bình thường, quả là điều không bất ngờ, nhưng người được chữa khỏi lúc ấy có bổn phận hỏi tại sao để suy ngẫm về ý Chúa và những tầm mức phi thường mà Chúa đã đến để hiện thực ý của Người. Chúa muốn gì ở tôi, trong trường hợp này? Người muốn điều gì đủ mạnh để đặt quyền lực chữa lành vào tay một kẻ giết trẻ em? Để có mặt ở Khu, thay vì ở nhà, bệnh tật như một con chó, run rẩy trên giường với mùi hôi của thuốc Sulfa tỏa ra từ lỗ chân lông của tôi? Có lẽ, có thể tôi có nhiệm vụ ở đây thay vì ở nhà trong trường hợp Wild Bill Wharton quyết định giở thêm trò ma quỷ, hoặc để biết chắc Percy Wetmore không gây chuyện ngu ngốc điên rồ, có tiềm năng hủy hoại. Vậy được rồi. Cứ thế đi. Tôi sẽ mở to mắt... và giữ kín miệng, đặc biệt về những phép lạ chữa lành bệnh tật. Không ai thắc mắc vặn hỏi chuyện dáng vẻ và giọng nói khá hơn của tôi, tôi bảo mọi người là tôi đã khá hơn và cho đến ngày ấy tôi thật tình tin đều đó. Thậm chí tôi còn bảo Giám thị Moores rằng tôi đang trên đà khỏi bệnh. Delacroix đã nhìn thấy điều gì đó, nhưng tôi nghĩ gã cũng sẽ giữ kín miệng (có lẽ vì sợ John Coffey ếm bùa nếu gã không làm thế). Về phần bản thân Coffey, có lẽ gã đã quên. Xét cho cùng, gã chỉ là đường ống dẫn, trên thế giới không có ống dẫn nào nhớ được luồng nước đã chảy qua nó một khi mưa đã dứt. Vì thế tôi quyết định kín miệng hoàn toàn về sự việc, không hề có ý tưởng bao lâu nữa tôi sẽ tiết lộ câu chuyện, hoặc ai là người sẽ được tôi tiết lộ cho biết. Nhưng tôi tò mò về gã đàn ông to xác và thật vô lí nếu không thú nhận điều đó. Sau chuyện đã xảy ra với tôi trong xà lim của gã, tôi lại tò mò hơn bao giờ hết. Chương 15 Đêm ấy trước khi về, tôi dàn xếp nhờ Brutal thay tôi ngày hôm sau, nếu tôi vào trễ một chút, và sáng hôm sau, khi thức dậy, tôi lên đường đi Tefton, ở Hạt Trapingus. - Em không thích anh quá lo nghĩ về anh chàng Coffey. - Vợ tôi lên tiếng, trao bữa ăn trưa nàng đã nấu cho tôi - Janice không bao giờ tin tưởng các quầy bán hamburger bên lề đường, nàng thường nói bệnh đau bụng đang chờ chực trong tất cả mọi người. - Không giống anh, Paul. - Anh không lo nghĩ về gã. - Tôi nói. - Anh tò mò, thế thôi. - Theo kinh nghiệm của em, chuyện này sinh ra chuyện kia. - Janice chanh chua đáp lại, rồi tặng tôi một nụ hôn, nồng nàn lên môi. - Ít nhất trông anh cũng tốt hơn, em sẽ nói thế. Lúc còn ở đó, anh làm em lo quá. Hệ thống nước chữa lành rồi chứ? - Nàng nói về bệnh của tôi có vẻ hài hước. - Hoàn toàn lành bệnh. - Tôi trả lời rồi đi khỏi, hát vang những ca khúc như “Come, Josephine, in My Flying Machine” và “We’re in the Money” để có bầu bạn cùng đi. Tôi đến văn phòng báo Intelligencer của Tefton trước, và người ta bảo tôi rằng Burt Hammersmith, anh chàng tôi đang tìm, rất có thể đang ở Tòa án hạt. Tại Tòa, người ta bảo tôi rằng Hammersmith đã ở đấy nhưng một vụ vỡ ống nước đã làm gián đoạn vụ xét xử chính, ngẫu nhiên lại là một vụ hãm hiếp. Người ta đoán có lẽ anh ta đã về nhà. Tôi được chỉ dẫn ra một con đường lầy lội có quá nhiều vết lún và hẹp đến nỗi không dám lái chiếc Ford của mình vào và ở đấy tôi tìm được anh chàng của tôi. Hammersmith đã viết hầu hết những câu chuyện về vụ xử án Coffey, và chính từ anh ta tôi tìm hiểu được phần lớn chi tiết về cuộc săn người ngắn ngủi đã lưới được Coffey. Những chi tiết mà tờ Intelligencer xem là quá khủng khiếp để loan tin là điều tôi muốn nói, tất nhiên. Bà Hammersmith là một cô gái trẻ có khuôn mặt xinh đẹp, mệt mỏi và đôi bàn tay đỏ bừng vì xà bông có nhiều chất kiềm. Cô ta không hỏi lí do tôi đến, chỉ đưa tôi đi qua một ngôi nhà nhỏ thơm lừng mùi nướng và bước lên hàng hiên sau nhà, nơi chồng cô ta đang ngồi, trong tay cầm một chai soda và một ấn bản tạp chí Liberty chưa mở để trên lòng. Đấy là một cái sân sau nhỏ, có dốc, tại chân dốc là hai đứa bé đang cãi cọ và cười đùa về một chiếc đu. Thậm chí có thể là song sinh, điều đã soi một thứ ánh sáng đáng quan tâm lên vai trò người cha, vốn ở ngoài phạm vi như hồi nào, trong vụ xử án Coffey. Gần trong tầm tay, nhô lên như một hòn đảo giữa vạt đất trống, xơ xác đầy phân, là chiếc cũi chó. Không thấy bóng dáng Fido, hôm ấy là một ngày nóng bức trái mùa nữa, tôi đoán có lẽ con chó nằm trong cũi, đang ngủ gà ngủ gật. - Burt, anh có khách. - Bà Hammersmith lên tiếng. - Hay lắm. - Anh ta nói. Anh ta liếc nhìn tôi, liếc nhìn vợ, rồi nhìn mấy đứa con, là nơi con tim anh ta hiển nhiên trải lòng. Anh ta gầy - gầy thảm hại, như thể vừa bắt đầu hồi phục sau một cơn bệnh trầm trọng - và tóc đã bắt đầu hói. Vợ anh ta dè dặt chạm vào vai chồng bằng một bàn tay đỏ bừng, sưng tấy vì gặt giũ. Anh ta không nhìn cũng không đưa tay ra chạm vào nó và sau một lúc, cô ta rút tay về. Tôi chợt lóe lên ý nghĩ, thoảng qua thôi, rằng họ trông giống anh trai và em gái hơn là chồng và vợ - anh ta có bộ óc, cô ta có dáng vẻ, nhưng không ai thoát được vẻ giống nhau cơ bản, một nét di truyền không bao giờ tránh được. Sau đó, trên đường về nhà, tôi nhận ra họ chẳng giống nhau chút nào; điều khiến họ có vẻ như vậy là hậu quả của sự căng thẳng và nỗi buồn dai dẳng. Thật kì lạ sao mà nỗi đau ghi dấu nét mặt chúng ta, và làm cho chúng ta giống như người cùng gia đình. Cô ta nói: - Ông muốn uống một li nước lạnh không, ông... ? - Edgecombe. - Tôi đáp. - Paul Edgecombe. Cảm ơn bà. Một li nước lạnh tuyệt lắm, thưa bà. Cô ta trở vào trong nhà. Tôi đưa tay cho Hammersmith, anh ta bắt tay ngắn gọn. Nắm tay ẻo lả và lạnh. Anh ta không hề rời mắt khỏi đám nhóc ở cuối sân. - Ông Hammersmith, tôi là Khu Trưởng Khu E ở trại giam tiểu bang Cold Mountain. Đấy là... - Tôi biết nó là gì. - Anh ta đáp, nhìn tôi với một chút quan tâm hơn. - Vậy là đội trưởng đội lính gác Dặm Đường Xanh đang đứng trên hiên nhà tôi, vĩ đại như cuộc sống. Điều gì đã đưa ông đi năm mươi dặm để nói chuyện với phóng viên chuyên nghiệp duy nhất của tờ báo địa phương? - John Coffey. - Tôi nói. Tôi nghĩ mình chờ đợi một thứ phản ứng mạnh (những đứa trẻ vốn có thể là cặp song sinh đang luẩn quẩn trong tâm trí tôi... và có lẽ cả chiếc cũi chó nữa, gia đình nhà Detterick có nuôi chó) , nhưng Hammersmith chỉ nhướng lông mày lên và nhấp li của anh ta. - Coffey bây giờ là vấn đề của ông, phải không? - Hammersmith hỏi. - Anh ta không gây phiền hà gì nhiều. - Tôi trả lời. - Anh ta không thích bóng tối và khóc rất nhiều, nhưng cả hai đều không gây ra nhiều vấn đề cho công việc của chúng tôi. Chúng tôi gặp chuyện tệ hơn. - Khóc rất nhiều, phải không? - Hammersmith hỏi. - Phải, gã có rất nhiều thứ để khóc, tôi nói thế. Tính đến điều gã đã gây ra. Ông muốn biết chuyện gì? - Bất cứ điều gì ông có thể nói tôi nghe. Tôi đã đọc những câu chuyện trên báo của ông, vì thế tôi nghĩ những gì tôi muốn là bất cứ điều gì không có trên báo. Anh ta ném cho tôi một cái nhìn sắc bén, khô khan. - Thí dụ mấy bé gái trông như thế nào? Chính xác gã đã làm gì chúng? Đấy là thứ mà ông quan tâm phải không, ông Edgecombe? - Không. - Tôi nói, giữ giọng nhẹ nhàng. - Tôi không quan tâm đến mấy cô bé nhà Detterick, thưa ông. Những cô bé đáng thương đã chết. Nhưng Coffey không chết - chưa chết - và tôi tò mò về anh ta. - Được rồi. - Anh ta đáp. - Kéo ghế lại đây và ngồi xuống, ông Edgecombe. Ông tha lỗi nếu nãy giờ nghe tôi nói hơi gay gắt, nhưng tôi phải đụng độ nhiều con kền kền trong lãnh vực công việc. Tiên sư nó, tôi vẫn thường xuyên bị cáo buộc là một con trong bọn chúng, chính tôi đấy. Tôi chỉ muốn biết chắc về ông. - Thế còn ông? - Đủ đảm bảo, tôi đoán thế. - Anh ta trả lời, nghe gần như hờ hững. Câu chuyện anh ta kể tôi nghe kha khá giống câu chuyện tôi đã viết ở đoạn trước - làm sao Bà Detterick phát hiện hiên nhà bỏ trống, với tấm phên tuột ra khỏi bản lề trên, những tấm chăn vứt vào một góc, và máu trên các bậc thềm, làm sao con trai và chồng bà ấy đã đuổi theo tên bắt cóc những cô bé, làm sao đội dân quân đã bắt kịp họ trước và John Coffey sau đó không lâu. Coffey ngồi trên bờ sông và rền rĩ như thế nào, với hai xác chết cuộn tròn trong đôi bàn tay khổng lồ của gã như những con búp bê to. Người phóng viên, gầy trơ xương trong chiếc áo sơ mi trắng hở cổ và quần dài xám, nói bằng một giọng thấp, vô cảm... nhưng ánh mắt anh ta không hề rời khỏi hai đứa con của mình trong lúc chúng cãi nhau, cười đùa và thay phiên nhau đánh đu ở dưới kia, trong bóng tối của chân đoạn đường dốc. Đâu đó vào giữa câu chuyện, bà Hammersmith trở lại với một chai bia tự cất, lạnh và ngon. Cô ta đứng nghe một lúc, rồi gián đoạn câu chuyện đủ lâu để gọi bọn nhóc và bảo chúng đi thẳng lên, cô ta đã có bánh sẵn sàng ra khỏi lò nướng. “Chúng con sẽ lên, thưa Mẹ!” một giọng bé gái kêu lên, và người phụ nữ lại trở vào trong. Khi Hammersmith kể xong, anh ta nói: - Vậy tại sao ông muốn biết? Tôi chưa bao giờ được một lính gác trại giam đến thăm, đây là lần đầu. - Tôi đã nói ông là... - Tò mò, phải. Con người vốn tò mò, tôi biết, thậm chí cảm ơn Chúa về điều đó, nếu không có nó, tôi sẽ mất việc làm và có thể thật sự phải đi kiếm sống. Nhưng năm mươi dặm là một quãng đường quá dài chỉ để thỏa mãn sự tò mò đơn thuần, đặc biệt khi hai mươi dặm cuối cùng là đường xấu. Vậy tại sao ông không nói sự thật tôi nghe, ông Edgecombe? Tôi đã thỏa mãn trí tò mò của ông, bây giờ ông thỏa mãn trí tò mò của tôi. Vâng, tôi có thể nói, tôi bị nhiễm trùng đường tiểu, John Coffey đặt tay lên người tôi và chữa lành bệnh. Kẻ hãm hiếp và giết chết hai bé gái đã làm thế. Vì tôi thắc mắc về anh ta, tất nhiên - bất cứ ai cũng sẽ thắc mắc. Thậm chí tôi thắc mắc biết đâu Homer Cribus và cảnh sát viên RobMcGee chẳng đã còng tay lầm người. Mặc cho tất cả những chứng cớ chống lại anh ta, tôi thắc mắc điều đó. Bởi vì một con người có quyền lực mạnh như thế trong tay, bạn sẽ không nghĩ anh ta là loại người chuyên cưỡng hiếp và sát hại trẻ em. Không, nói thế sẽ không ổn. - Có hai điều tôi thắc mắc, - tôi nói. - Đầu tiên là có khi nào anh ta làm như thế trước đây không. Hammersmith quay lại tôi, mắt anh ta bất ngờ sắc bén và sáng lên vì chú ý, và tôi thấy anh ta đã là một gã khôn ngoan. Thậm chí có thể là một gã thông minh, theo cách thầm lặng. - Tại sao? - Anh ta hỏi. - Ông biết gì, Edgecombe? Gã đã nói gì? - Không có gì. Nhưng một con người nhúng tay làm chuyện như thế thường là đã phạm tội trước đó. Chúng có khẩu vị về điều đó. - Phải. - Anh ta đáp. - Chúng có. Chắc chắn chúng có. - Và tôi chợt nghĩ sẽ đủ dễ dàng để lần theo dấu vết và tìm hiểu. Một con người to lớn như gã, lại là da đen bị đuổi, thì việc truy tìm dấu vết không thể khó khăn. - Ông nghĩ như vậy, nhưng sai lầm. - Anh ta nói. - Dẫu sao, trong trường hợp Coffey thì sai. Tôi biết. - Ông đã thử? - Tôi đã thử và trắng tay. Có một vài gã công nhân đường sắt nghĩ đã thấy gã trong các sân nhà ở Knoxville hai người trước khi các bé gái nhà Detterick bị giết. Không có gì ngạc nhiên; gã ở bên kia sông cách đường sắt xe hỏa Great Southern khi họ tóm được gã, và có lẽ gã từ Tennessee đến đây bằng cách nào đó. Tôi nhận được lá thư của một người viết rằng anh ta đã thuê một gã da đen to lớn để khuân những thùng gỗ cho anh ta vào đầu xuân năm nay - chuyện này ở Kentucky. Tôi đã gửi cho anh ta một ảnh chụp Coffey và anh ta nói đúng là gã. Nhưng ngoài chuyện đó thì... - Hammersmith nhùn vai và lắc đầu. - Ông không có ấn tượng là có chút kì dị sao? - Tôi có ấn tượng rất kì dị, ông Edgecombe. Giống như gã rơi từ trên trời xuống. Và gã chẳng hề có ích, gã không thể nhớ lại tuần trước khi tuần này đến. - Không, gã không thể. - Tôi đáp. - Ông giải thích thế nào? - Chúng ta đang ở thời kì khủng hoảng. - Anh ta trả lời. - Đấy là cách giải thích của tôi. Đường lộ nào cũng đầy ắp người. Người vùng Oklahoma muốn hái đào ở California, dân da trắng nghèo từ những vùng rừng rú muốn chế tạo xe hơi ở Detroit, bọn da đen ở Mississippi muốn lên tận New England và làm việc trong các nhà máy đóng giày hoặc xưởng dệt. Tất cả mọi người - đen cũng như trắng - đều nghĩ rằng nhảy sang vùng đất kế cận sẽ tốt đẹp hơn. Đấy là cuộc sống khốn kiếp kiểu Mỹ. Thậm chí một gã khổng lồ như Coffey đi khắp nơi mà vẫn không bị để ý... cho đến lúc, nghĩa là, gã quyết tâm giết hai bé gái. Những bé gái da trắng. - Anh tin điều đó? - Tôi hỏi. Anh ta ném cho tôi một cái nhìn vô hồn từ bộ mặt quá gầy của mình. - Đôi khi tôi tin. - Anh ta trả lời. Vợ anh ta chồm ra ngoài cửa sổ nhà bếp như một kĩ sư trong toa xe hỏa và gọi: - Các con! Bánh xong rồi! - Cô ta quay lại tôi. - Ông muốn ăn bánh yến mạch nhân nho khô không, ông Edgecombe? - Tôi chắc là ngon, thưa bà, nhưng lần này xin bà miễn cho. - Được rồi. - Cô ta nói, và rút đầu trở vào trong. - Ông đã thấy những vết sẹo trên người gã? - Hammersmith bất ngờ hỏi. Anh ta vẫn quan sát bọn nhóc, chúng không rời bỏ được những thú vui của chiếc đu - thậm chí không vì những cái bánh yến mạch nhân nho khô. - Vâng. - Nhưng tôi ngạc nhiên vì anh ta đã thấy. Anh ta nhận ra phản ứng của tôi và cười. “Chiến thắng to lớn của luật sư biện hộ là xin cho Coffey được cởi áo và cho hội thẩm xem những vết sẹo đó. Công tố viên George Peterson phản đối kịch liệt nhưng chánh án cho phép. Lão George lẽ ra có thể tiết kiệm hơi sức - hội thẩm quanh những vùng đó không chấp nhận cái lí luận tâm lí rác rưởi về chuyện những kẻ bị bạc đãi không thể tự giúp mình như thế nào. Họ tin rằng con người có thể tự giúp mình. Đấy là một quan điểm tôi rất đồng cảm... nhưng những vết sẹo đó quả là khá ghê rợn, cũng vậy thôi. Có để ý điều gì về chúng không, Edgecombe? Tôi đã nhìn thấy gã trần truồng trong nhà tắm và tôi có để ý, đúng rồi, tôi biết anh ta đang nói về điều gì. - Tất cả đều vỡ nát. Gần như mắt cáo. - Ông biết như thế nghĩa là gì không? - Ai đó đã quất gã tàn bạo khi gã còn nhỏ. - Tôi trả lời. - Trước khi gã lớn lên. - Nhưng họ đã không quất được con quỷ ra khỏi người gã, phải không Edgecombe? Lẽ ra đừng roi vọt mà đem gã đi trấn nước dưới sông như một con mèo hoang, anh nghĩ thế chứ? Tôi cho rằng sẽ chính trị hơn nếu cứ đơn giản đồn ý và chuồn ra khỏi nơi đó, nhưng tôi không thể. Tôi đã thấy gã. Và tôi cũng đã cảm thấy gã. Cảm thấy sự tiếp xúc của bàn tay gã. - Gã thật... kì lạ. - Tôi nói. - Nhưng dường như không có bất cứ bạo lực thật sự nào trong con người gã. Tôi biết gã đã bị phát hiện như thế nào, khó mà hòa hợp chuyện đó với đièu tôi thấy, ngày này qua ngày kia ở Khu trại giam. Tôi biết rõ những kẻ hung bạo, thưa ông Hammersmith. - Tôi đang nghĩ đến Wharton, dĩ nhiên, Wharton xiết cổ Dean Stanton bằng dây xích cổ tay và rống lên: “Ê ê, bọn mày! Đây chẳng phải là bữa tiệc sao?”. Anh ta nhìn sát vào tôi, mỉm cười một chút, nụ cười hoài nghi mà tôi không quan tâm lắm. - Ông không đến đây để biết gã có hoặc không có giết vài bé gái ở nơi nào khác. - Anh ta nói. - Ông đến đây để xem tôi nghĩ gã có giết người hay không. Phải vậy không? Thú nhận đi, Edgecombe. Tôi nuốt ngụm nước uống lạnh cuối cùng, đặt chai xuống cái bàn nhỏ, và hỏi: - Sao? Ông có nghĩ thế không? - Các con! - Anh ta gọi với xuống dưới đồi, hơi cúi ra phía trước ghế. - Các con lên đây ngay để ăn bánh! - Rồi anh ta lại ngả người ra sau ghế và nhìn tôi. Cái nụ cười nhỏ đó - cái nụ cười mà tôi không quan tâm lắm, xuất hiện trở lại. - Nói ông nghe một chuyện. - Anh ta lên tiếng. - Ông cũng muốn nghe nữa, vì chuyện này có thể là một điều ông cần biết. - Tôi đang nghe. - Chúng tôi có một con chó tên Sir Galahad. - Anh ta kể, và ngoắc ngón cái về phía cũi chó. - Một con chó tốt. Không phải nòi đặc biệt, nhưng dịu dàng. Bình thản. Sẵn sàng liếm tay chúng ta hoặc một cái que. Có rất nhiều chó lai như nó, ông đồng ý? Tôi nhún vai, gật đầu. - Về nhiều mặt, một con chó lai cũng giống như gã nô lệ da đen của chúng ta. - Anh ta nói. - Chúng ta phải hiểu nó và thường thì chúng ta sẽ yêu nó. Không có sử dụng đặc biệt gì, nhưng chúng ta giữ nó bên mình vì chúng ta nghĩ nó yêu chúng ta. Nếu may mắn, thưa ông Edgecombe, chúng ta sẽ không bao giờ phải thấy điều gì khác lạ. Cynthia và tôi, chúng tôi không may mắn. Anh ta thở dài, một âm thanh dài và xương xẩu, giống như tiếng gió luồn qua đám lá rụng. Anh ta chỉ vào cũi chó một lần nữa, và tôi tự hỏi tại sao trước đó mình lại bỏ qua cái không khí hoang vắng chung, hoặc sự kiện nhiều đống phân đã hóa trắng và giống như bột trên đỉnh. - Tôi thường dọn sạch cho nó. - Hammersmith nói. - Và luôn sửa mái che cũi để chống chọi với mưa. Theo cách đó thì Sir Galahad giống như gã nô lệ da đen miền Nam của chúng ta, kẻ không làm những chuyện đó cho bản thân gã. Bây giờ tôi không đụng đến nó, tôi đã không đến gần nó từ khi xảy ra tai nạn... nếu có thể gọi đó là tai nạn. Tôi đến đó với khẩu súng và bắn nó, nhưng đã không đến đó kể từ lúc ấy. Tôi không đủ can đảm ra tay. Tôi cho là theo thời gian, tôi sẽ làm được. Tôi sẽ dọn sạch xác nó và giật sập cũi. Bọn nhóc vào, và thình lình tôi không muốn chúng vào; thình lình đấy là điều cuối cùng tôi muốn trên quả đất này. Cô bé gái thì không sao, nhưng đứa con trai... Chúng chạy rầm rầm trên bậc thềm, nhìn tôi, cười khúc khích, rồi đi về hướng cửa nhà bếp. - Caleb. - Hammersmith gọi. - Lại đây. Một chút thôi. Cô bé gái, chắc chắn là chị em sinh đôi với thằng bé, chúng phải cùng lứa tuổi - đi tiếp vào nhà bếp. Thằng bé đến bên bố, nhìn xuống chân. Nó biết mình xấu xí. Nó mới bốn tuổi, tôi đoán thế, nhưng bốn tuổi đã đủ lớn để biết mình xấu xí. Bố nó đặt hai ngón tay dưới cằm thằng bé và cố nâng mặt nó lên. Lúc đầu thằng bé cưỡng lại, nhưng khi bố nó nói "Làm ơn đi, con trai,” bằng giọng ngọt ngào, bình tĩnh và yêu thương, nó làm theo lời yêu cầu. Một vết thẹo tròn, to tướng chạy ra khỏi mái tóc thằng bé, kéo xuống trán, xuyên qua một con mắt chết và lãnh đạm vểnh lên, đến khóe miệng đã biến dạng thành một cú liếc mắt ý nhị của một tên bợm cờ bạc hoặc có lẽ một tên chủ chứa. Một bên má mịn màng và xinh đẹp; má bên kia túm lại như một gốc cây sau khi bị đốn. Tôi đoán trước đây có một cái lỗ, nhưng cái đó, ít nhất, đã lành lặn. - Nó còn một mắt. - Hammersmith nói, vuốt ve bên má bị túm của thằng bé bằng những ngón tay dịu dàng của người yêu. - Tôi cho là nó may mắn không bị mù. Chúng tôi quỳ xuống và cảm ơn Chúa về điều đó, ít nhất là thế. Này, Caleb? - Vâng, thưa ngài. - Thằng bé bẽn lẽn nói. - Thằng bé, người sẽ bị hạ gục tàn nhẫn trên sân chơi bởi tiếng cười, tiếng hiếp đáp chế giễu suốt những năm đi học đầy đau khổ; thằng bé, người sẽ không bao giờ được mời chơi trò Quay Chai hoặc Bưu Điện và có lẽ sẽ không bao giờ được ngủ với một người đàn bà mà không phải mua và trả tiền, một khi nó lớn lên với những thời kì và nhu cầu của đàn ông; thằng bé, người sẽ mãi mãi đứng ngoài cái vòng ấm áp và sáng sủa của những người đồng đẳng; thằng bé, người sẽ nhìn chính nó trong gương suốt bảy mươi năm cuộc đời mình và nghĩ xấu xí. - Vào trong lấy bánh của con đi. - Bố nó nói và hôn lên cái miệng nhạo báng của con trai. - Vâng, thưa ngài. - Caleb đáp lại và vụt chạy vào trong. Hammersmith rút khăn tay trong túi sau ra và lau mắt, mắt anh ta khô ráo, nhưng tôi cho là anh ta có thói quen với mắt ướt. - Con chó ở đây khi chúng sinh ra. - Anh ta nói. - Tôi đem nó vào nhà cho ngửi hơi bọn trẻ khi Cynthia đưa chúng từ bệnh viện về nhà, và Sir Galahad liếm tay chúng. Những bàn tay nhỏ nhắn của chúng. - Anh ta gật đầu, như thể xác nhận sự việc đó với chính mình. - Nó chơi đùa với chúng; hay liếm mặt Arden đến khi con bé cười khúc khích. Caleb thường kéo tai nó, và khi bắt đầu tập đi lần đầu tiên, nó đã nắm đuôi Galahad. Con chó không hề gầm gừ với nó. Với cả hai. Nước mắt bây giờ đang trào ra, anh ta lau đi một cách máy móc, giống như người đã thực hành nhiều. - Không có lí do. - Anh ta nói. - Caleb không làm nó đau, không la hét nó, không gì cả. Tôi biết rõ. Tôi đã có mặt ở đấy. Nếu không, chắc hẳn thằng bé đã bị cắn chết. Chuyện xảy ra, thưa ông Edgecombe, không có gì. Thằng bé chỉ vì đưa mặt ra ngay trước mặt con chó, lập tức nảy sinh ý nghĩ trong tâm trí Galahad - hoặc bất cứ thứ gì gọi là tâm trí của con chó - xông vào cắn. Giết chết, nếu có thể. Thằng bé ở trước mặt con chó và con chó cắn. Và đấy là điều đã xảy ra với Coffey. Gã có mặt ở đó, nhìn thấy chúng trên hàng hiên, bắt giữ chúng, hãm hiếp chúng, giết chúng. Ông bảo phải có ám chỉ nào đó rằng gã từng hành động như thế trước kia, tôi hiểu ý ông, nhưng có thể trước đó gã đã không làm như thế. Con chó của tôi trước đó không bao giờ cắn; chỉ một lần đó thôi. Nếu được thả, có thể Coffey sẽ không bao giờ tái phạm. Có thể con chó sẽ không bao giờ cắn lần nữa. Nhưng tôi không quan tâm đến điều đó, ông biết mà. Tôi bước ra ngoài với khẩu súng, nắm lấy vòng cổ và bắn vỡ đầu con chó. Anh ta thở hào hển. - Tôi được giải thoát khỏi sự mê muội như bất cứ ai, ông Edgecombe à - học tại Đại học ở Bowling Green, cả môn Lịch sử lẫn Báo chí, một ít Triết nữa. Tôi thích nghĩ mình đã giác ngộ. Tôi cho là bọn miền Bắc không tin, nhưng tôi thích nghĩ bản thân tôi đã giác ngộ. Tôi không tái lập chế độ nô lệ để đổi lấy tất cả số trà ở Trung Hoa. Tôi nghĩ chúng ta phải nhân đạo và rộng lượng trong nỗ lực giải quyết vấn đề chủng tộc. Nhưng chúng ta phải nhớ rằng tên nô lệ của mình sẽ cắn khi có dịp, giống như một con chó lai giống sẽ cắn khi có cơ hội, khi ý tưởng chợt nảy sinh trong óc xui bảo nó. Ông muốn biết gã Coffey khóc nhè, chằng chịt thẹo của ông đã từng giết người phải không? Tôi gật đầu. - Ồ, có đấy. - Hammersmith nói. - Gã đã giết người. Ông chớ nghi ngờ điều đó, chớ quay lưng lại gã. Ông có thể thoát nạn một hoặc trăm lần... thậm chí cả ngàn lần... nhưng sau cùng thì... - Anh ta giơ bàn tay ra trước mắt tôi, lẹ làng miết các ngón tay vào ngón cái, thể hiện hình ảnh một cái miệng đang cắn xé. - Ông hiểu không? Tôi gật đầu lần nữa. - Gã hãm hiếp chúng, gã giết chúng, sau đó gã ân hận... nhưng những cô bé đó vẫn bị hãm hiếp, vẫn chết. Nhưng ông sẽ sửa trị gã, phải không Edgecombe? Vài tuần nữa ông sẽ sửa trị gã để gã không bao giờ làm như thế nữa. - Anh ta đứng lên, bước đến rãnh bậc cửa, mơ hồ nhìn cái cũi chó ở giữa đống phân đang lão hóa. - Có lẽ xin ông thứ lỗi. - Anh ta nói. - Vì chiều nay không phải có mặt tại Tòa, tôi định sum họp với gia đình một chút. Tuổi trẻ của con cái chúng ta chỉ có một thời. - Ông cứ tự nhiên. - Tôi đáp lễ. Môi tôi tê dại và xa vắng. - Cảm ơn ông đã mất thời giờ vì tôi. - Có gì đâu. - Anh ta nói. Tôi lái xe từ chỗ Hammersmith về thẳng trại giam. Một chuyến đi dài, và lần này tôi không thể rút ngắn bằng cách ca hát. Có cảm giác như tất cả những bài hát đã thoát ra khỏi người tôi, ít nhất trong một thời gian. Tôi vẫn còn nhìn thấy gương mặt biến dạng của thằng bé tội nghiệp. Và bàn tay của Hammersmith, với các ngón tay cọ xát lên xuống trên ngón cái trong một chuyển động cắn xé. Chương 16 Wild Bill Wharton đi chuyến du hành đầu tiên xuống phòng kỉ luật ngay hôm sau. Suốt buổi sáng và buổi chiều thằng nhóc đã câm nín và ngoan ngoãn như con cừu của Marie, một tình trạng mà chúng tôi sớm phát hiện là không bình thường, có nghĩa là rắc rối. Lúc ấy, khoảng 7: 30, Harry cảm thấy có thứ gì nóng hổi tung tóe lên gấu quần đồng phục sạch sẽ anh ta đang mặc ngày hôm đó. Thứ đó là nước tiểu. William Wharton đang đứng tại xà lim, phô hàm răng đen xỉn ra cười toe toét, tè lên khắp quần và giày của Harry Terwilliger. - Thằng chó đẻ hẳn đã nhịn cả một ngày. - Về sau Harry kể lại, vẫn còn ghê tởm và phẫn nộ. Phải, thế là quá đủ. Đã đến lúc cho William Wharton biết ai là người điều khiển Chương trình biểu diễn ở Khu E. Harry gọi Brutal và tôi, tôi báo động cho Dean và Percy biết, lúc ấy cũng có mặt. Hãy nhớ là lúc đó chúng tôi có ba tử tù và đang trực ca toàn phần, nhóm chúng tôi từ bảy giờ tối đến ba giờ sáng thời điểm dễ bùng nổ bạo động và hai toán khác chịu trách nhiệm phần còn lại trong ngày. Những toán đó gồm phần lớn các nhân viên thời vụ và thường do Bill Dodge phụ trách. Nói cho cùng, điều hành mọi việc không phải là chuyện tồi tệ, và tôi cảm thấy rằng, một khi đổi được Percy lên ca trực ban ngày, thậm chí cuộc sống sẽ tốt đẹp hơn. Thế nhưng tôi không bao giờ làm được điều đó. Đôi lúc tôi tự hỏi nếu làm thì điều đó có thay đổi được mọi việc không. Dẫu sao, có một đường ống nước trong nhà kho, chạy bên hông cách Già Sparky một quãng và Dean cùng Percy đã nối một đoạn ống chữa cháy vào đấy. Sau đó họ đứng bên cạnh van mở nước, phòng khi cần thiết. Brutal và tôi nhanh chóng đến xà lim của Wharton, nơi thằng khốn vẫn còn đứng, vẫn còn toét miệng cười, cái của nỡm vẫn còn thõng thẹo ngoài quần. Tôi đã lấy chiếc áo đai ra khỏi phòng kỉ luật, bỏ trên kệ trong văn phòng; đấy là việc cuối cùng tôi làm vào đêm hôm trước, trước khi về nhà, nghĩ có thể sẽ cần dùng cho thằng nhóc có vấn đề của chúng tôi. Bây giờ tôi cầm nó trong một tay, ngón trỏ xỏ vào bên dưới một trong những cái đai bằng vải bố. Harry đến từ sau lưng chúng tôi, kéo vòi chữa cháy qua văn phòng của tôi, xuống các bậc thềm nhà kho, đến thùng nước nơi Dean và Percy đang nhanh nhẹn thả ông ra. - Ê, bọn mày khoái vậy phải không? - Wild Bill hỏi. - Nó cười nắc nẻ như một đứa trẻ đi xem hội, cười thô bạo đến mức không nói được, những giọt nước mắt to lăn xuống má. - Bọn mày xông đến nhanh tới mức tao nghĩ chắc bọn mày khoái thật. Tao đang nuôi một số phân để đi kèm với nước đái đây. Những cục mềm mại ngon lành. Ngày mai tao sẽ thải ra cho bọn mày. Thấy tôi mở khóa cửa xà lim, mắt thằng nhãi ranh nheo lại. Nó thấy Brutal cầm súng trong một tay, dùi cui trong tay kia và mắt nó càng nheo hơn nữa. - Bọn mày vào đây bằng chân nhưng sẽ trở ra bằng lưng, Billy the Kid bảo đảm điều đó với bọn mày. - Nó đe chúng tôi. Ánh mắt thằng nhóc chuyển sang nhìn tôi. - Nếu mày tưởng ép được tao mặc cái áo điên khùng, mày sẽ biết tay tao, đồ ngựa già. - Mày không phải là kẻ ra lệnh ở đây. Tôi bảo nó. - Mày nên biết điều đó, nhưng tao nghĩ mày quá ngu ngốc, không dạy dỗ một chút thì không hiểu. Tôi mở xong khóa cửa và đẩy nó trượt trên rãnh. Wharton lùi về sạp ngủ, cái của nỡm vẫn còn thõng thẹo ngoài quần, chìa tay ra về phía tôi, lòng bàn tay ngửa lên, rồi ngoắc ngón tay. - Thách mày đấy, đồ khốn kiếp xấu xí. - Nó lên tiếng. - Sẽ có dạy dỗ, được thôi, nhưng thằng nhóc già này đủ trình độ làm thầy giáo đấy. - Nó chuyển ánh mắt và nụ cười phô hàm răng xỉn sang Brutal. - Coi nào, thằng bự con, tao tiếp mày trước. Lần này mày không thể đánh lén sau lưng tao nữa. Bỏ súng xuống, dù sao mày cũng không dám bắn mày thì không, chúng ta chơi tay đôi. Để xem ai giỏi hơn. Brutal bước vào xà lim nhưng không tiến về phía Wharton. Anh ta nhích sang trái khi đã bước qua cửa và cặp mắt ti hí của Wharton mở to khi nhìn thấy cái vòi chữa cháy chĩa vào người nó. - Không, mấy người không được làm thế. - Nó thốt lên. - Ôi không, mấy người... - Dean! - Tôi hét to. - Mở vòi nước! Mở hết cỡ! Wharton xông đến nhưng Brutal quật một cú đáng giá - một cú quật mà tôi chắc chắn Percy hằng mơ ước - ngang trán thằng nhóc, cây dùi cui nện ngay vào bên trên lông mày Wharton. Wharton tưởng bỡ ngỡ, chúng tôi chưa bao giờ gặp rắc rối trước khi gặp nó, khuỵu xuống trên đầu gối, mắt vẫn mở nhưng tối sầm. Sau đó dòng nước phun ra, Harry loạng choạng lùi một bước vì sức mạnh của nó rồi trụ vững lại, vòi nước giữ chắc trong tay, chĩa ra trước như một khẩu súng. Dòng nước phun trúng ngay giữa ngực Wild Bill Wharton, xoáy thằng nhóc quay nửa vòng tròn, rồi tống nó ngược ra sau chui tọt vào dưới sạp ngủ. Ở cuối hành lang, Delacroix đang nhảy cẫng lên từ chân này sang chân kia, tru tréo và chửi rủa John Coffey, đòi Coffey kể cho gã nghe chuyện gì đang xảy ra, ai đang chiến thắng, và cái thằng ranh đại khùng kia thích thú trò điều trị bằng nước đó như thế nào. John không nói gì, chỉ đứng yên lặng lẽ trong chiếc quần quá ngắn và đôi dép nhà tù. Tôi chỉ liếc nhanh gã được một cái, nhưng thế cũng đủ để nhận ra nét biểu lộ cố hữu của gã, vừa buồn bã vừa bình thản. Như thể trước đó gã từng chứng kiến toàn bộ sự việc, không chỉ một hay hai mà cả ngàn lần. - Tắt nước! - Brutal la lên qua vai, rồi chạy vọt vào xà lim. Anh ta vòng tay vào nách thằng Wharton nửa tỉnh nửa mê, lôi nó từ gầm sạp ngủ ra ngoài. Wharton ho hen và phát ra âm thanh ọc ọc. Máu nhỏ vào mắt thằng nhóc từ phía trên lông mày, nơi dùi cui của Brutal đã đập nứt da thành một đường. Chúng tôi tròng chiếc áo đai vào thằng nhóc theo cách hết sức khoa học, Brutus Howell và tôi; chúng tôi đã thực tập như một đôi vũ công tạp kĩ khổ luyện một điệu nhảy mới. Thỉnh thoảng, công sức thực tập đó được đền bù xứng đáng. Như lúc này chẳng hạn. Brutal dựng Wharton ngồi dậy và nắm tay nó đưa ra cho tôi theo cách một đứa trẻ nắm tay con búp bê chìa ra. Nhận thức bắt đầu thấm trở vào mắt Wharton, sự nhận thức biết rằng nếu không chống cự lập tức sẽ là quá muộn, nhưng các đường dẫn truyền vẫn còn ẩn sâu giữa bộ não và cơ bắp, và trước khi thằng nhóc kịp sửa chữa chúng, tôi đã kéo được những ống tay áo đai tuột lên trên tay nó và Brutal thì gài khóa sau lưng. Trong khi anh ta lo việc của mình, tôi chụp lấy đai cổ tay, kéo tay Wharton vòng sang hai bên và nối cổ tay nó với một chiếc đai vải bố khác. Cuối cùng nhìn Wharton như đang ôm ấp chính bản thân nó. - Tiên sư mày, đồ bị thịt đần độn, họ xử thằng ranh ra sao rồi? - Delacroix hét lên. - Tôi nghe Ô. Jingles kêu chút chít, như thể nó cũng muốn biết. Percy đến, áo ướt đẫm, dính sát vào người vì vật lộn với đường ống nước, mắt sáng lên vì khích động. Dean đến từ sau lưng hắn, đeo một vòng vết bầm quanh cổ họng và có vẻ kém khích động hơn nhiều. - Nào, đứng dậy, Wild Bill. - Tôi ra lệnh và lôi Wharton đứng lên. - Thằng nhãi ranh. - Mày dám gọi tao như thế sao? - Wharton tru tréo và tôi nghĩ đây là lần đầu chúng tôi nhìn thấy những xúc cảm thật, không chỉ là những cái đốm ngụy trang của một con vật thông minh. - Wild Bill Hickok không phải là thằng chăn bò! Nó cũng không bao giờ đánh nhau với gấu bằng dao găm Bowie! Nó đích thị là một tên cảnh sát khác! Thằng chó đẻ ngu ngốc ngồi quay lưng ra cửa để bị giết bởi một thằng say rượu! - Ối quỷ thần ơi, một bài học lịch sử! - Brutal kêu lên rồi xô Wharton ra khỏi xà lim. - Kẻ vào đây không bao giờ biết mình sẽ nhận được gì, ngoại trừ khả năng tỏ ra tử tế. Nhưng với quá nhiều đứa tử tế như mày quanh đây, tao nghĩ chuyện này dường như hợp lí, phải không? Và mày biết điều gì chứ? Mày sẽ sớm trở thành lịch sử thôi, Wild Bill. Trước mắt, mày phải đi xuống hành lang. Bọn tao có căn phòng dành cho mày. Một loại phòng làm nguội đấy. Wharton thét lên một tiếng ú ớ đầy phẫn uất, xông vào Brutal, dù bị bó gọn trong chiếc áo đai, tay bị trói quặt ra sau lưng. Percy phác cử chỉ rút dùi cui - giải pháp Wetmore cho tất cả những rối rắm của cuộc đời - nhưng Dean đã đặt tay lên cổ tay hắn. Percy nhìn anh ta, vẻ bối rối và bất bình, như thể nói rằng, sau những gì Wharton đã gây ra cho Dean thì Dean phải là người cuối cùng trên thế gian muốn kiềm chế hắn. Brutal đẩy Wharton lùi ra sau. Tôi túm lấy nó và xô về phía Harry. Harry đẩy nó đi xuống Dặm Đường Xanh, đi qua gã Delacroix hoan hỉ và gã Coffey dửng dưng. Wharton phải chạy để khỏi ngã đập mặt xuống đất, tuôn ra những câu chửi rủa suốt con đường. Tuôn ra theo cách mỏ hàn phát tia lửa. Chúng tôi tống nó vào xà lim cuối cùng bên phải trong lúc Dean, Harry, và Percy (ít nhất lần này hắn không kêu ca vì phải làm việc quá mức sòng phẳng) giật tất cả những thứ linh tinh ra khỏi phòng kỉ luật. Trong khi họ đang làm việc, tôi nói chuyện với Wharton. - Mày tưởng mày lì lợm. - Tôi lên tiếng. - Và có lẽ mày lì lợm thật, con trai ạ, nhưng ở đây lì lợm không ăn thua gì. Nếu mày đàng hoàng với bọn tao, bọn tao sẽ tử tế với mày. Nếu mày cứng đầu, cuối cùng mày vẫn chết, không có gì khác, chỉ có điều bọn tao sẽ mài nhọn mày như bút chì trước khi lên đường. - Bọn mày sung sướng khi thấy tao tiêu đời. - Wharton nói, giọng khản đặc. Thằng nhóc vùng vẫy hòng thoát ra khỏi cái áo đai, mặc dù biết là vô ích, mặt mũi đỏ bừng như quả cà chua. - Và cho đến lúc chết, tao sẽ làm cho bọn mày phải khốn khổ. - Nó nhe răng với tôi như một con khỉ đầu chó điên dại. - Nếu làm cho bọn tao phải khốn khổ là tất cả những gì mày muốn, mày có thể thôi đi, vì mày đã làm được rồi. - Brutal nói. - Nhưng ngày nào còn ở Dặm Đường Xanh, Wharton, nếu mày có ở suốt trong căn phòng tường mềm bọn tao cũng cóc cần. Và mày có thể mặc cái áo đai chết tiệt đó, cho đến khi tay mày bị hoại tử vì máu không lưu thông rồi đứt lìa. - Anh ta ngừng lại. - Không ai xuống dưới này, mày biết đấy. Và nếu mày tưởng sẽ có ai đó ngó ngàng đến chuyện của mày thì nên suy nghĩ lại. Đối với thế giới nói chung, mày là một thằng phạm pháp đã chết. Wharton chăm chú quan sát Brutal, vẻ tức tối trên mặt tan biến dần. - Thả tôi ra, - thằng nhóc giở giọng xoa dịu, một giọng nói quá tỉnh táo, quá biết điều, không đáng tin. - Tôi sẽ đàng hoàng. Da Đỏ trung thực đấy. Harry xuất hiện ở bậc cửa xà lim. Cuối hành lang trông như nơi bán đồ linh tinh, nhưng chúng tôi sẽ dọn dẹp nhanh chóng một khi bắt tay vào việc. Chúng tôi đã từng làm như thế; chúng tôi biết cách. - Tất cả sẵn sàng. - Harry lên tiếng. Brutal nắm lấy khuỷu tay phải thằng Wharton thù lù một đống trong chiếc áo đai, lôi nó đứng dậy. Đi, Wild Billy. Lạc quan lên. Mày sẽ có ít nhất hai mươi bốn giờ để tự nhắc nhở đừng bao giờ ngồi xoay lưng ra cửa, và đừng bao giờ bám víu vào lá bài ách và tám nút. - Thả tôi ra. - Wharton nói. Thằng nhóc nhìn từ Brutal sang Harry đến tôi, mặt lại đỏ dần lên. - Tôi sẽ ngoan ngoãn, nói các anh là tôi đã được một bài học. Tôi... tôi... Thằng nhóc bất ngờ đổ vật xuống, một nửa người nằm trong xà lim, nửa kia thò ra ngoài trên tấm vải lót đã sờn của Dặm Đường Xanh, giẫy đạp và uốn cong người. - Lạy Chúa linh thiêng, nó giả bộ lên cơn động kinh đây. - Percy thì thào. Brutal cúi xuống, móc tay vào nách Wharton. Tôi móc vào nách kia. Wharton bị kẹp giữa chứng tôi như cá mắc câu. Khiêng cái cơ thể co giật, nghe nó ủn ỉn từ một lỗ và đánh rắm ở lỗ kia là một trong những trải nghiệm kém thú vị của đời tôi. Tôi ngước nhìn và bắt gặp ánh mắt của John Coffey trong thoáng chốc. Mắt gã vằn tia máu, cặp má đen đủi ướt đẫm. Gã đã lại khóc. Tôi nghĩ đến động tác cắn xé của bàn tay Hammersmith và hơi rùng mình. Rồi tôi quay lại chú ý đến Wharton. Chúng tôi lôi nó vào phòng khống chế như lôi một kiện hàng, nhìn nó nằm dài trên sàn nhà, bị khóa chặt trong chiếc áo đai, bên cạnh ống cống mà chúng tôi từng kiểm tra tìm con chuột, vốn đã bắt đầu cuộc sống ở Khu E như là Steamboat Willy. - Tôi không quan tâm dù nó có nuốt mất lưỡi hoặc thứ gì đó và chết đi. - Dean lên tiếng, giọng khàn và the thé. - Nhưng hãy nghĩ đến chuyện giấy tờ, các cậu! Sẽ không bao giờ xong nổi. - Đừng lo chuyện giấy tờ, hãy nghĩ đến phiên tòa. - Harry rầu rĩ nói. - Chúng ta sẽ mất việc làm. Kết thúc bằng cách đi hái đậu ở Mississippi. Cậu biết Mississippi là gì phải không? Tiếng Da Đỏ có nghĩa là khốn nạn. - Nó sẽ không chết và nó cũng sẽ không nuốt mất lưỡi. - Brutal đáp. - Ngày mai khi chúng ta mở cánh cửa này, nó sẽ khỏe khoắn thôi. Tin lời tôi nói đi. Sự việc đúng là như thế. Con người chúng tôi đem trả lại xà lim vào tối hôm sau tỏ ra yên lặng, xanh xao và có vẻ đã biết kiềm chế. Thằng nhóc bước đi, đầu cúi gục, không tìm cách tấn công bất cứ người nào khi áo đai được tháo ra, chỉ bơ phờ nhìn tôi trân trối. Tôi bảo nó lần sau hình phạt sẽ được thi hành giống như thế, và nó phải tự hỏi bản thân muốn tè ra quần và ăn thức ăn dành cho em bé, mỗi lần một muỗng, trong bao lâu. - Tôi sẽ đàng hoàng, thưa sếp, tôi đã học được bài học của mình. - Thằng nhóc nhỏ nhẹ thì thào bằng một giọng khúm núm trong khi chúng tồi tống nó trở lại xà lim. Brutal nhìn tôi và nháy mắt. Cuối ngày hôm sau, William Wharton, kẻ là Billy the Kid với chính mình và không bao giờ là cảnh sát viên John Law Wild Bill Hickok, mua một cái bánh Moon Pie của lão Toot Toot. Wharton đã bị cấm tuyệt đối chuyện như thế, nhưng toán gác ca chiều gồm các nhân viên thời vụ, như tôi nghĩ đã nói, và vụ mua bán được chìm xuồng. Lão Toot hẳn biết rõ hơn, điều này không có gì hồ nghi, nhưng đối với lão, cái xe đẩy bán quà vặt bao giờ cũng là chuyện năm xu là năm xu, mười xu là mười xu. Tôi sẽ hát một đoạn hợp xướng nữa nhưng không có thì giờ. Đêm ấy, khi Brutal đi tuần tra, Wharton đứng tại cửa xà lim. Thằng khốn chờ đến khi Brutal ngước nhìn, lúc đó nó mới đập cườm tay vào cặp má căng phồng, phun ra một luồng chocolate đặc quánh, dài ngoằng, trúng vào mặt Brutal. Nó đã nhét toàn bộ chiếc bánh Moon Pie vào miệng, ngậm cho đến khi chảy nước, rồi sử dụng như loại thuốc lá nhai. Wharton ngã vật ra sau trên sạp ngủ, chocolate dính trên cằm như chòm râu dê, chân giãy giụa, vừa gào thét vừa cười và chỉ trỏ Brutal, lúc ấy đang đeo một thứ nhiều hơn cả chòm râu dê. - Black Sambo, vâng thưa ngài, sếp, vâng thưa ngài, ngài thế nào? - Wharton ôm bụng, rống lên. - Quỷ sứ, giá như chỉ là cục phân! Tao ước gì nó là thế! Nếu tao có một ít thứ đó... - Mày là cục phân. - Brutal gầm lên. - Tao hi vọng mày đã soạn hành lí, vì mày sẽ trở lại cái phòng vệ sinh ưa chuộng của mày. Một lần nữa Wharton bị nhét vào áo đai và một lần nữa chúng tôi lại tống nó vào căn phòng có vách tường mềm. Lần này là hai ngày. Thỉnh thoảng chúng tôi nghe nó rít lên trong đó, thỉnh thoảng chúng tôi nghe nó hứa hẹn sẽ đàng hoàng, rằng nó đã tỉnh ngộ và sẽ đàng hoàng, và thỉnh thoảng chúng tôi nghe nó gào lên rằng nó cần bác sĩ, rằng nó sắp chết. Dù vậy, thằng khốn câm nín trong phần lớn thời gian. Và nó cũng câm nín khi chúng tôi lôi nó ra ngoài, bước về xà lim với đầu cúi gục, mắt đờ đẫn, không đáp lại khi Harry nói: - Nhớ đấy, mọi việc tùy thuộc vào mày. - Thằng khốn sẽ êm ả được một thời gian, rồi lại tìm cách giở trò khác. Không có gì nó gây ra mà chưa từng được thử trước đó (phải, ngoại trừ trò chiếc bánh Moon Pie, có lẽ thế; thậm chí Brutal công khai xác nhận là trò mới mẻ) , nhưng sự lì lợm của nó quả đáng sợ. Tôi e ngại sớm muộn gì có thể ai đó mất tập trung và cái giá phải trả sẽ rất đắt. Và tình hình này có thể kéo dài, vì ở đâu đó, thằng nhóc có một gã luật sư đang quậy tung, than thở với mọi người rằng sẽ là sai lầm biết bao khi xử tử một con người mà màn sương tuổi thanh xuân chưa khô trên làn mi... và ngẫu nhiên lại là người da trắng, giống như Jeff Davis thân mến vậy. Chuyện than thở đó chẳng có ý nghĩa gì, vì làm cho Wharton thoát khỏi ghế điện là việc của gã luật sư. Làm cho nó phải bị phán xét an toàn là việc của chúng tôi. Và sau cùng, Già Sparky hầu như chắc chắn sẽ tóm được nó, luật sư hay không luật sư, mặc kệ. Chương 17 Đấy là tuần lễ khi Melinda Moores, vợ của giám thị, từ Indianola trở về nhà. Các bác sĩ đã xong việc với bà ấy; họ đã có những tấm ảnh chụp X-quang mới toanh, đáng quan tâm về khối u trong đầu bà; họ đã lưu hồ sơ tình trạng bàn tay yếu kém của bà, những cơn đau gây tê liệt đã phá hủy bà gần như trường kì vào lúc ấy, và đã xong trách nhiệm với bà. Họ phát cho chồng bà một mớ thuốc có chất morphin và trả Melinda về nhà chờ chết. Hal Moores có cả một chồng đơn xin nghỉ bệnh - không nhiều lắm, thời ấy người ta không cho bạn nhiều đơn xin nghỉ bệnh, nhưng ông ấy đã sử dụng những gì ông có để có thể giúp bà ấy làm những gì phải làm. Ba ngày sau khi bà ấy về nhà, vợ tôi và tôi đến thăm. Tôi gọi điện thoại trước và Hal nói được, như thế là hay, Melinda đang có một ngày tốt đẹp và sẽ thích thú được gặp chúng tôi. - Anh ghét những cú gọi như thế. - Tôi bảo Janice trong khi chúng tôi lái xe đến ngôi nhà nhỏ, nơi vợ chồng Moores cư ngụ suốt phần lớn cuộc sống chung. - Mọi người cũng ghét, cưng ạ. - Nàng nói và vỗ vào tay tôi. - Chúng ta chịu đựng sức nặng của nó, và bà ấy cũng vậy. - Anh hi vọng thế. Chúng tôi gặp Melinda trong phòng khách, bất động dưới ánh nắng tháng mười sáng sủa, ấm áp trái mùa, và ý nghĩ bị sốc đầu tiên của tôi là bà đã sụt đi 90 pound. Dĩ nhiên là không - nếu sụt bấy nhiêu cân, bà ấy khó mà ngồi ở đó - nhưng đấy là phản ứng đầu tiên của não bộ tôi trước những gì mắt tôi nhìn thấy. Khuôn mặt bà đã suy sụp để lộ ra hình dáng xương sọ bên dưới, làn da bà trắng bạch như giấy. Có những vòng sậm tối bên dưới mắt. Và đây là lần đầu tôi thấy bà ngồi trên ghế mà trên lòng không có đồ may vá, những mảnh thêu Afghan vuông vức hoặc vải vụn để bện thành một tấm thảm. Bà chỉ ngồi xuống ở đấy. Như một người ngồi chờ tại ga xe hỏa. - Melinda. - Vợ tôi nồng nàn cất tiếng. Tôi nghĩ nàng cũng bị sốc như tôi - có lẽ nhiều hơn - nhưng nàng khéo léo che dấu, như một số phụ nữ vẫn có khả năng làm thế. Nàng tiến đến chỗ Melinda, quỳ một gối xuống bên cạnh chiếc ghế trên đó vợ ông Giám thị đang ngồi, cầm lấy một bàn tay bà. Trong lúc nàng làm thế, mắt tôi tình cờ bắt gặp tấm thảm màu xanh da trời bên lò sưởi. Tôi chợt nảy sinh ý nghĩ lẽ ra nó phải có màu vàng chanh cũ kĩ, bởi vì giờ đây căn phòng đúng là một phiên bản của Dặm Đường Xanh. - Tôi có đem biếu chị một ít trà. - Jan nói. - loại mà tôi tự tay gói. Trà an thần tốt đấy. Tôi để trong nhà bếp. - Cảm ơn cô nhiều lắm, cưng ạ. - Melinda đáp. Giọng bà nghe già nua và khàn khàn. - Chị cảm thấy thế nào, chị thân mến? - Vợ tôi hỏi. - Khỏe hơn. - Melinda nói bằng một giọng khàn, chói tai. - Không phải vì tôi muốn ra ngoài dự khiêu vũ mừng xây vựa lúa, nhưng ít nhất hôm nay không bị đau. Họ cho tôi một số thuốc trị nhức đầu. Đôi khi có hiệu lực. - Vậy là tốt, phải không? - Nhưng tôi không nắm chặt được. Điều gì đó xảy ra... với bàn tay của tôi. - Bà giơ tay lên, nhìn như thể trước đây chưa từng thấy nó, rồi lại hạ tay xuống, đặt trên lòng. - Điều gì đó xảy ra... khắp người tôi. - Bà bắt đầu khóc lặng lẽ theo một cách làm tôi nghĩ đến John Coffey. Trong đầu tôi lại vang lên điều gã nói: Ta đã giúp, phải không? Ta đã giúp, phải không? Giống như vần thơ bạn không thể gạt bỏ. Lúc ấy Hal bước vào. Ông ấy tóm lấy tôi, và bạn có thể tin khi tôi nói tôi rất mừng được tóm cổ. Chúng tôi bước vào nhà bếp, ông ấy rót cho tôi một nửa ngụm whisky trắng, loại hấp dẫn vừa lấy ra khỏi lò cất của một nông dân nào đó. Chúng tôi chạm li và uống. Dòng nước chảy xuống bỏng rát như lửa, nhưng tỏa ra trong bụng như thiên đường. Nhưng khi Moores chìa hũ rượu về phía tôi, hỏi mà không thốt nên lời tôi muốn uống nửa ngụm kia không, tôi lắc đầu, xua tay từ chối. Wild Bill Wharton đã vượt ra khỏi sự kiềm chế - dù sao cũng chỉ là trước mắt - và sẽ không an toàn khi đến gần nó với một cái đầu mờ ảo vì rượu. Thậm chí cả khi có chấn song ở giữa. - Tôi không biết mình chịu đựng được bao lâu, Paul. - Ông nói bằng một giọng thấp. - Mỗi buổi sáng có một cô gái đến giúp tôi, nhưng bác sĩ nói bà ấy có thể mất kiểm soát đường ruột, và... và... - Ông ngừng lại, cổ họng co thắt, cố nén không khóc trước mặt tôi lần nữa. - Ông hãy thuận theo bằng khả năng tốt nhất. - Tôi nói. Tôi đưa tay ngang qua bàn và bóp bàn tay bị hậu quả của chứng liệt, lốm đốm vì bệnh gan của ông. - Làm điều đó ngày qua ngày, dành phần còn lại cho Chúa, ông không thể làm gì khác, phải không? - Tôi đoán là không. Nhưng quả là nặng nề, Paul ạ. Tôi cầu nguyện cho anh không bao giờ phải tìm hiểu sự nặng nề đến mức nào. Ông cố gắng tự trấn tĩnh. - Bây giờ cậu cho tôi biết tin tức. Cậu giải quyết thằng Wharton thế nào? Và kết quả với Percy Wetmore ra sao? Chúng tôi nói chuyện công việc một lúc, rồi kết thúc cuộc thăm viếng. Sau đó, suốt trên đường về nhà, vợ tôi hầu như ngồi yên lặng - mắt ướt và suy tư - trên ghế bên cạnh tôi, những lời lẽ của Coffey cứ quay cuồng trong đầu tôi như Ô. Jingles chạy quanh xà lim của Delacroix: Ta đã giúp, phải không? - Thật khủng khiếp. - Vợ tôi chán ngán lên tiếng. - Và không ai có thể giúp gì cho bà ấy. Tôi gật đầu đồng ý và nghĩ: Ta đã giúp, phải không? Nhưng chuyện đó điên quá và tôi cố sức gạt nó ra khỏi tâm trí. Khi chúng tôi rẽ vào sân trước cửa, sau cùng nàng lên tiếng lần thứ hai - không phải về người bạn thân Melinda, nhưng về chứng nhiễm trùng đường tiểu của tôi. Nàng muốn biết đã thật sự khỏi bệnh chưa. Thật sự rồi, tôi bảo nàng. - Vậy thì tốt. - Nàng nói, rồi hôn lên phía trên lông mày, ở cái chỗ gây cảm hứng của tôi. - Có lẽ chúng ta phải, anh biết đấy, tính đến một điều gì đó nho nhỏ. Nghĩa là, nếu anh có thì giờ và có hứng thú. Với điều kiện sau có quá nhiều mà điều trước chỉ vừa đủ, tôi cầm tay nàng đưa vào phòng ngủ, cởi bỏ quần áo nàng trong khi nàng khều cái phần sưng lên và đập phập phồng của tôi nhưng không còn đau nữa. Và trong khi tôi tiến vào nơi ngọt ngào của nàng, xuyên qua nó theo cách thức chậm rãi mà nàng ưa thích - cả hai chúng tôi đều ưa thích - tôi nghĩ đến John Coffey nói gã đã giúp, gã đã giúp, phải không? Giống như một đoạn nhạc không chịu rời bỏ tâm trí bạn cho đến khi nó đã hoàn hảo và sẵn sàng. Sau đó, trong lúc lái xe đến trại giam, tôi nghĩ đến việc sẽ sớm phải bắt đầu diễn tập cuộc hành hình Delacroix. Ý nghĩ đó dắt tôi đến sự việc lần này Percy sẽ xuất hiện như thế nào, và tôi cảm thấy cơn rùng mình vì sợ. Tự bảo mình cứ làm theo như vậy, một cuộc hành hình rồi chúng tôi sẽ đóng cửa vĩnh viễn với Percy... nhưng tôi vẫn cảm thấy cơn rùng mình đó, như thể chứng nhiễm trùng tôi từng phải chịu đựng chưa hề buông tha, chỉ là thay đổi vị trí, từ việc đốt cháy hạ bộ chuyển sang đốt cháy xương sống. - Coi nào. - Brutal bảo Delacroix vào tối hôm sau. - Chúng ta đi dạo chơi một chút. Anh và tôi và ông Jingles. Delacroix nghi ngờ nhìn anh ta rồi thò tay vào hộp tìm con chuột. Gã khép nó trong lòng bàn tay và nheo mắt nhìn Brutal. - Anh nói gì vậy? - Gã hỏi. - Một đêm tuyệt vời của anh và ông Jingles. - Dean lên tiếng, rồi cùng Harry nhập bọn với Brutal. Chuỗi vết bầm quanh cổ Dean đã biến thành một thứ màu vàng khó coi, nhưng ít nhất anh ta đã có thể nói năng mà không nghe như tiếng chó sủa mèo nữa. Anh ta nhìn Brutal. “Cậu nghĩ có cần khóa chân tay gã không, Brutal?" Brutal ra vẻ suy nghĩ. - Không. - Sau cùng anh ta nói. - Gã sẽ tử tế, đúng vậy không, Del? Anh và con chuột của anh, cả hai. Dù sao thì tối nay anh sẽ trình diễn trước một số nhân vật tầm cỡ đấy. Percy và tôi đang đứng bên cạnh bàn giấy, quan sát sự việc. Percy khoanh tay, khẽ nở nụ cười khinh miệt trên môi. Sau một thoáng, hắn lấy cái lược bằng sừng ra và chải đầu. John Coffey cũng đang xem, lặng lẽ đứng yên sau chấn song xà lim. Wharton thì nằm dài trên sạp, trố mắt nhìn trần nhà và làm lơ toàn bộ sự việc. Thằng nhóc vẫn còn “đàng hoàng” , mặc dù cái gọi là “đàng hoàng” thì các bác sĩ ở Briar Ridge gọi là trầm cảm. Và cũng có một người khác nữa. Người đó khuất khỏi tầm nhìn trong văn phòng tôi, nhưng cái bóng gầy guộc của lão hắt ra khỏi cửa, đổ xuống Dặm Đường Xanh. - Chuyện này là gì, đồ điên dại mấy anh? - Del cáu kỉnh hỏi, chân thu lên sạp khi Brutal mở ổ khóa đôi trên cửa xà lim và đẩy ra. Mắt gã láo liên nhìn ba người bọn họ. - À, nói anh nghe. - Brutal trả lời. - Ông Moores vắng mặt một thời gian - vợ ông ây đang ốm, có lẽ anh đã nghe nói. Vì thế ông Anderson phụ trách, ông Curtis Anderson. - Thế à? Chuyện đó liên can gì đến tôi? - À. - Harry nói. - Sếp Anderson nghe nói đến con chuột của anh, Del và muốn xem anh biểu diễn. Ông ấy và sáu người khác đang ở phòng hành chính, chờ anh đến. Cũng không phải là lính gác áo xanh tầm thường đâu. Tai to mặt lớn đấy, như Brute đã nói. Tôi tin một gã trong số họ là chính trị gia đi suốt từ thủ phủ tiểu bang xuống đây. Del phổng mũi thấy rõ trước sự kiện này, và tôi thấy không còn chút vẻ nghi hoặc nào trên mặt gã. Dĩ nhiên họ muốn xem ông Jingles, ai mà không muốn? Gã lục lọi khắp nơi, đầu tiên là bên dưới sạp ngủ, rồi dưới gối. Sau cùng gã tìm ra một cục kẹo bạc hà màu hồng và cái ống chỉ tô màu sặc sỡ. Gã nhìn Brutal với vẻ dò hỏi và Brutal gật đầu. - Phải. Tôi nghĩ họ nóng ruột được xem biểu diễn trò ống chỉ, nhưng cách nó ăn mấy cục kẹo bạc hà cũng hay tuyệt. Và đừng quên cái hộp xì gà. Anh muốn đựng nó trong hộp, đúng không? Delacroix lấy cái hộp và bỏ mọi thứ của ông Jingles vào trong, nhưng con chuột thì gã đặt lên vai áo. Sau đó gã bước ra khỏi xà lim, bộ ngực căng phồng đi trước và gã nhìn Dean cùng Harry. - Các anh đến xem chứ? - Không. - Dean trả lời. - Bận việc khác. Nhưng anh hãy làm cho họ lác mắt, Del - cho họ thấy điều gì xảy ra khi một chàng trai Louisiana bỏ búa xuống và thật sự bắt tay vào việc. - Còn phải nói. - Một nụ cười sáng lên trên khuôn mặt gã, bất ngờ và giản dị trong niềm hạnh phúc đến nỗi tôi cảm thấy đau lòng cho hắn một chút, dù gã đã gây ra tội lỗi khủng khiếp. Cái thế giới chúng ta đang sông quả là tồi tệ - một thế giới tồi tệ biết bao! Delacroix quay sang John Coffey, kẻ khiến gã nảy sinh một tình bạn rụt rè, không khác gì một trăm mối quen biết khác ở khu tử tù mà tôi đã chứng kiến. - Anh hãy làm cho họ lóe mắt, Del. - Coffey trịnh trọng lên tiếng. - Anh hãy cho họ xem tất cả những mánh lới của nó. Delacroix gật đầu rồi giở bàn tay lên ngang vai. Ông Jingles bước lên đó như thể là sân khấu, và Delacroix đưa bàn tay hướng về xà lim của Coffey. John Coffey thò một ngón tay to tướng ra ngoài và tôi sẽ bị nguyền rủa nếu không phải con chuột đã vươn cổ ra và liếm đầu ngón tay đó, y như một con chó. - Đi thôi, Del, đừng chần chừ nữa. - Brutal nói. - Mấy người đó hoãn bữa ăn tối nóng sốt ở nhà để xem con chuột của anh nhảy cỡn. Sự thật không phải thế, dĩ nhiên - Anderson sẽ có mặt đến tám giờ vào bất cứ đêm nào, những lính gác anh ta lôi kéo đến xem buổi "biểu diễn” của Delacroix có mặt đến mười một hoặc mười hai giờ, tùy thuộc vào thời điểm kết thúc ca trực. Gã chính trị gia đến từ thủ phủ tiểu bang hầu như sẽ là một nhân viên trại giam thắt chiếc cravat đi mượn. Nhưng Delacroix không cách gì biết được chuyện đó. - Tôi đã sẵn sàng. - Delacroix nói với giọng điệu đơn giản của một ngôi sao nghệ thuật biết cách kiềm chế nỗi xúc động tầm thường. - Chúng ta đi. - Và trong khi Brutal dẫn gã đi trên Dặm Đường Xanh với Ô. Jingles vắt vẻo trên vai anh chàng nhỏ bé, một lần nữa Delacroix lại oang oang, “Thưa quý ông quý bà! Xin chào mừng đến với gánh xiếc chuột!” Thế nhưng, dù đang chìm đắm trong thế giới tưởng tượng của chính mình, gã vẫn tránh xa Percy và tặng cho hắn một cái liếc nhìn đầy nghi ngờ. Harry và Dean dừng lại trước xà lim trống đối diện xà lim của Wharton (nhân vật quan trọng này vẫn chưa cục cựa gì nhiều). Họ nhìn Brutal mở khóa cửa ra sân thể dục, nơi có hai lính gác khác đang chờ nhập bọn, rồi đưa Delacroix ra ngoài, hướng về buổi biểu diễn được đặt hàng bởi những vị tai to mặt lớn của nhà tù Cold Mountain. Chúng tôi chờ đến khi cửa được khóa lại, rồi tôi nhìn về văn phòng của mình. Cái bóng vẫn còn ngả dài trên sàn nhà, gầy tong teo như bị đói ăn, và tôi lấy làm mừng vì Delacroix quá hào hứng nên không thấy. - Ra ngoài đi. - Tôi nói. - Và làm cho nhanh. Tôi muốn diễn tập hai lần, chúng ta không có nhiều thời gian đâu. Lão Toot Toot, tươi tỉnh như mọi khi, ra ngoài, đi đến xà lim của Delacroix và nhàn nhã bước vào trong qua cánh cửa mở sẵn. - Ngồi xuống. - Lão nói. - Tôi đang ngồi xuống, tôi đang ngồi xuống, tôi đang ngồi xuống. Đây mới là gánh xiếc thật, tôi nghĩ, mắt nhắm lại một thoáng. Gánh xiếc thật ở ngay đây và tất cả bọn tôi chỉ là một lũ chuột đã được huấn luyện. Rồi tôi gạt bỏ ý nghĩ ra khỏi tâm trí và chúng tôi bắt đầu diễn tập. Chương 18 Bài diễn tập đầu tiên diễn ra trôi chảy, bài thứ hai cũng thế. Percy thi hành tốt hơn cả sự mong mỏi của tôi dù trong những giấc mơ hoang đường nhất. Điều đó không có nghĩa là mọi việc sẽ tốt đẹp khi thời điểm gã Cajun bước trên Dặm Đường Xanh thực sự đến, nhưng đây là bước tiến lớn theo chiều hướng đúng. Tôi chợt nghĩ sự việc diễn tiến trôi chảy vì rốt cuộc Percy đang làm điều hắn ưa thích. Tôi thấy trào lên một cảm giác khinh bỉ nhưng rồi tôi gạt bỏ nó đi. Có gì quan trọng đâu? Hắn sẽ chụp nón lên đầu Delacroix và mở nguồn điện, sau đó cả hai tên sẽ biến mất. Nếu đấy không phải là một đoạn kết có hậu, thì cái gi? Và như Moores đã vạch ra, cái của nỡm của Delacroix sẽ bị nướng chín, bất kể ai là người xuất hiện. Dù vậy, Percy đã chứng tỏ lợi thế trong vai trò mới và hắn biết điều đó. Tất cả chúng tôi đều biết, về phần tôi, tôi đã quá thanh thản để ghét bỏ hắn, ít nhất trong lúc này. Có vẻ như mọi thứ sẽ trở nên ổn thỏa. Tôi còn nhẹ nhõm hơn nữa khi thấy Percy thực sự lắng nghe chúng tôi nêu ra những gì hắn có thể làm đề hoàn thiện công tác hơn, chí ít cùng giảm thiểu khả năng sai lầm điều gì đó. Nếu bạn muốn biết sự thật, phải nói là chúng tôi khá phấn khởi về sự kiện này - thậm chí cả Dean, người thường xa cách với Percy... về thể xác lẫn tinh thần, nếu anh ta có thể. Chẳng có gì đáng ngạc nhiên, tôi cho là thế - đối với hầu hết mọi người, không gì thỏa mãn hơn là một người trẻ tuổi thực sự chú tâm đến lời khuyên, về phương diện đó thì chúng tôi cũng không khác. Kết quả là không ai trong chúng tôi để ý thấy Wild Bill Wharton không còn nhìn lên trần nhà nữa. Kể cả tôi, nhưng tôi biết nó không nhìn. Thằng nhóc đang nhìn chúng tôi đứng bên bàn trực, huênh hoang và khuyên bảo Percy. Khuyên bảo hắn! Và hắn thì giả vờ lắng nghe! Quả là nực cười, nếu tính đến những điều xảy ra! Tiếng chìa khóa khua lách cách trong ổ khóa cửa mở ra sân thể dục chấm dứt buổi phê bình hậu diễn tập của chúng tôi. Dean liếc Percy cảnh báo. - Không một lời hoặc một ánh mắt khác thường. - Anh ta lên tiếng. - Chúng ta không muốn gã biết chúng ta đã làm gì. Điều đó không tốt với họ. Làm cho họ sợ. Percy gật đầu và để một ngón tay lên môi ra hiệu đừng tiết lộ bí mật có ý hài hước nhưng không phải thế. Cửa ra sân thể dục mở ra và Delacroix bước vào, áp giải bởi Brutal đang cầm theo chiếc hộp xì gà đựng cái ống chỉ màu mè, theo cách người phụ việc của một ảo thuật gia trong vở tạp kĩ phải đưa đồ nghề của sếp xuống sân khấu sau màn trình diễn. Ông Jingles ngồi vắt vẻo trên vai Delacroix. Thế còn bản thân Delacroix? Nói bạn nghe một điều - Lillie Langtry cũng không thể rạng rỡ hơn thế sau khi biểu diễn tại Tòa Bạch Ốc. - Họ yêu thích ông Jingles! - Delacroix tuyên bố. - Họ cười, hoan hô và vỗ tay!” - A, thế là số dzách. - Percy thốt ra. Hắn nói bằng một giọng nuông chiều, kẻ cả, nghe không giống gã Percy cố hữu chút nào. - Vào xà lim lại đi, anh bạn già. Delacroix phóng cho hắn một cái nhìn kì cục đầy nghi ngờ, thế là gã Percy cố hữu bùng nổ. Hắn nhe răng giả vờ gầm gừ và ra bộ vồ lấy Delacroix. Một trò đùa, tất nhiên, Percy đang hài lòng, không có hứng thú vồ chụp thật sự chút nào, nhưng Delacroix không biết. Gã giật nẩy ra xa với vẻ sợ hãi và mất tinh thần, vấp phải bàn chân to của Brutal. Gã ngã mạnh xuống đất, ót đập vào tấm vải sơn lót sàn. Ông Jingles nhảy ra kịp lúc để tránh bị đè bẹp, vụt chạy trên Dặm Đường Xanh đến xà lim của Delacroix, rít lên the thé. Delacroix đứng lên, nhìn Percy đang cười khúc khích bằng ánh mắt chất chứa căm thù, rồi hối hả chạy theo sau con vật, réo tên nó và xoa ót mình. Brutal (vốn không biết Percy đã có những dấu hiệu biết trách nhiệm đáng phấn khởi) tặng cho Percy một cái nhìn khinh bỉ không lời và đi theo Del, rút xâu chìa khóa ra. Tôi nghĩ chuyện xảy ra sau đó đã xảy ra vì Percy thực phi thường vào ngày hôm ấy. Nếu là thật, điều đó chỉ chứng minh một câu châm ngôn xưa đầy mỉa mai tôi có lần được nghe, về việc làm sao mà sự mủi lòng để xin lỗi - tôi biết thật khó tin, nhưng hắn đã ở trong tâm trạng không một hành vi tốt đẹp nào thoát khỏi bị trừng phạt. Còn nhớ tôi đã kể bạn nghe, sau khi rượt đuổi con chuột đến phòng kỉ luật vào một trong hai dịp trước khi Delacroix nhập trại, làm sao Percy đã đến hơi quá gần xà lim của Tổng thống không? Làm như thế là nguy hiểm, vì vậy tại sao Dặm Đường Xanh lại quá rộng - khi bước đúng vào giữa đường, bạn sẽ không bị tấn công từ các xà lim. Gã Tổng thống không gây sự gì với Percy, nhưng tôi nhớ có nghĩ rằng Arien Bitterbuck sẽ ra tay, nếu Percy đến quá gần gã. Chỉ để dạy cho hắn một bài học. Vâng, Tổng thống và Tù trưởng đi rồi, nhưng Wild Bill Wharton đã thay chỗ họ. Hành vi của thằng nhóc tệ hại hơn cả Tổng thống và Tù trưởng từng mơ ươc, và nó đã theo dõi toàn bộ vở kịch nhỏ, hi vọng có cơ hội chính mình bước lên sân khấu. Cơ hội đó bây giờ đã lọt vào lòng thằng nhóc, nhờ ơn Percy Wetmore. - Ê, Del! - Percy gọi, vẻ cười cợt, đi theo Brutal và Delacroix, rồi đạt đến quá gần phía Wharton trên Dặm Đường Xanh mà không nhận ra. - Này, đồ ngớ ngẩn, tao không có ý gì đâu. Chú mày ổn không?... Wharton bật dậy khỏi sạp ngủ, phóng nhanh như chớp ra ô chấn song - trong đời làm lính gác chưa bao giờ tôi thấy tên nào di chuyển nhanh như thế, kể cả vài đứa trẻ tuổi lực lưỡng mà Brutal và tôi phải đối phó sau này khi làm việc tại trại Cải Huấn Thiếu Niên. Thằng nhóc thọc tay ra ngoài chấn song, vồ lấy Percy, trước hết là vai áo đồng phục, sau đó là cổ họng. Wharton kéo hắn lùi lại, đụng vào cánh cửa xà lim của nó. Percy tru tréo như một con heo trong lò mổ và tôi thấy mắt hắn biểu lộ ý nghĩ hắn sẽ phải chết. - Sao mà mày ngọt ngào quá. - Wharton thì thào. Một bàn tay buông cổ họng Percy ra để vò đầu hắn. - Mềm mại! - Thằng nhóc khen, nửa cười cợt. - Như tóc con gái. Tao nghĩ thà ngủ với mày còn sướng hơn với bà chị mày đấy. - Và nó đã thực sự hôn tai Percy. Tôi nghĩ Percy - kẻ đã đánh đập Delacroix ở Khu vì tội vô tình quẹt vào hạ bộ hắn, nhớ không - biết chính xác điều gì đang xảy ra. Tôi không chắc hắn muốn thế, nhưng tôi nghĩ là có. Mặt hắn trắng bệch không còn sắc máu, khuyết điểm trên má lộ ra như những cái bớt. Mắt hắn mở to và ướt. Một dòng nước dãi nhỏ ra từ khóe miệng co giật của hắn. Tất cả diễn ra nhanh chóng - bắt đầu và kết thúc chưa đầy mười giây, tôi sẽ nói thế. Harry và tôi tiến lên, giơ cao dùi cui. Dean rút súng. Nhưng trước khi sự kiện kịp biến chuyển thêm, Wharton đã buông Percy ra và lùi lại, giơ tay lên vai và nở nụ cười u ám của nó. - Tôi đã thả hắn, tôi chỉ đùa và thả hắn rồi. - Thằng nhóc nói. - Không hề động đến một sợi tóc trên cái đầu xinh đẹp của thằng nhóc kia, vậy mấy người chớ ép tôi vào cái phòng tường mềm chết tiệt đó nữa. Percy Wetmore phóng ngang qua Dặm Đường Xanh, co rúm người dựa vào cánh cửa bị chốt chặn của chiếc xà lim trống phía bên kia, thở nhanh và to đến mức nghe như tiếng khóc nức nở. Rốt cuộc hắn đã nhận được bài học phải biết giữ hướng đi ở giữa Dặm Đường Xanh, tránh xa con quái vật hung hãn, những hàm răng biết cắn và móng vuốt biết vồ mồi. Tôi nghĩ đây là một bài học sẽ gắn bó với hắn lâu hơn tất cả những lời khuyên của chúng tôi sau các buổi diễn tập. Có một nét biểu lộ nỗi hãi hùng cực độ trên mặt hắn, mái tóc quý báu bù xù trầm trọng lần đầu kể từ khi tôi gặp hắn, dựng đứng và rối tung. Trông hắn như người vừa thoát nạn hiếp dâm. Có một khoảnh khắc ngưng đọng tuyệt đối, một sự nín lặng dày đặc đến mức âm thanh duy nhất là tiếng hơi thở rít lên nức nở của Percy. Cái phá tan sự nín lặng đó là một tiếng cười khúc khích, đột ngột và hoàn toàn điên cuồng đến mức sửng sốt. Wharton là ý nghĩ đầu tiên của tôi, nhưng không phải. Chính là Delacroix đứng tại cánh cửa xà lim đang mở của gã và chỉ vào Percy. Con chuột đã trở lại trên vai gã, và Delacroix giống như một gã phù thủy nhỏ bé nhưng hiểm ác, thêm con tiểu quỷ nữa là đủ một bọn. - Nhìn hắn kìa, hắn tè ra quần! - Delacroix rú lên. - Nhìn xem người vĩ đại đã làm gì! Đánh người khác bằng dùi cui, nhưng thưa vâng, với một con người xấu xa, khi kẻ khác đụng vào hắn, hắn phun nước ra quần như em bé! Gã cười và chỉ trỏ, tất cả nỗi sợ hãi và căm thù Percy thoát ra theo tiếng cười nhạo báng. Percy trừng trừng nhìn gã, dường như bất lực không thể cử động hoặc cất tiếng nói. Wharton bước trở ra ô chấn song xà lim, nhìn xuống vệt sẫm màu trên đũng quần Percy - nhỏ nhưng có thật, không cần phải hỏi là gì - và toét miệng cười. - Ai đó phải mua cho thằng nhóc lì lợm một cái tã thôi. - Nó nói rồi trở lại sạp ngủ, ùng ục cười. Brutal đi xuống xà lim của Delacroix, nhưng gã Cajun đã rúc vào trong và vật mình lên sạp ngủ trước khi Brutal đến kịp. Tôi đưa tay ra nắm lấy vai Percy. - Percy... - Tôi cất tiếng, nhưng chỉ thế thôi. Hắn bừng tỉnh, gạt tay tôi ra. Hắn nhìn xuống đũng quần, thấy vệt bẩn đang lan ra, mặt đỏ bầm. Hắn lại ngước nhìn tôi, rồi nhìn Harry và Dean. Tôi nhớ là mình rất mừng vì lão Toot Toot đã đi khỏi. Nếu lão có mặt, câu chuyện sẽ lan truyền khắp trại giam chỉ trong vòng một ngày. Và, căn cứ vào họ của Percy - một cái họ xui xẻo trong khung cảnh này - đó là một câu chuyện sẽ được kể lại trong nhiều năm về sau với niềm hứng thú tột độ đầy hoan hỉ. - Nếu kể lại với bất cứ người nào thì tất cả các anh sẽ sắp hàng lãnh bánh mì từ thiện trong vòng một tuần. - Hắn thì thào, vẻ hằn học. Ở hoàn cảnh khác, đây là thứ giọng điệu sẽ làm tôi nổi cơn đập cho hắn một trận, nhưng trong hoàn cảnh này, tôi chỉ thấy thương hại. Tôi nghĩ hắn nhận ra lòng thương hại đó và điều đó càng làm cho hắn thấy tồi tệ hơn - giống như lấy gai nhọn chà xát vào vết thương. - Điều gì xảy ra ở đây sẽ ở lại đây. - Dean lặng lẽ nói. - Cậu không phải lo. Percy nhìn qua vai về hướng xà lim của Delacroix. Brutal vừa khóa cửa xong, và từ bên trong, rõ mồn một, chúng tôi có thể nghe tiếng Delacroix khúc khích cười. Ánh mắt nhìn của Percy tối sầm như địa ngục. Tôi định bảo hắn là gieo nhân nào gặt quả nấy, nhưng rồi quyết định lúc này không phải thời điểm thích hợp để giảng kinh. - Về phần thằng kia... hắn bắt đầu, nhưng không bao giờ nói hết câu. Thay vào đó, hắn bỏ đi, đầu cúi gục, vào nhà kho tìm một chiếc quần khô. - Hắn xinh quá. - Wharton nói bằng giọng mơ màng. Harry bảo nó câm miệng trước khi bị nhốt vào phòng khống chế vì những nguyên tắc tổng quát khốn kiếp. Wharton khoanh tay trước ngực, nhắm mắt ra vẻ đi ngủ. - Đêm trước ngày hành hình Delacroix tỏa xuống nóng nực và oi bức hơn bao giờ - 81 độ trên nhiệt kế bên ngoài cửa sổ phòng họp Hành chính khi tôi đến lúc sáu giờ. 81 độ vào cuối tháng mười, hãy nghĩ về điều đó, và tiếng sấm động ở hướng tây như trong tháng bảy. Chiều hôm ấy, tôi gặp một thành viên của giáo đoàn trong thị trấn, và ông ta đã hỏi tôi với vẻ nghiêm trọng rõ rệt, rằng tôi có nghĩ thời tiết trái mùa như thế này liệu có phải là dấu hiệu Ngày tận thế không. Tôi trả lời không biết chắc, nhưng chợt nảy sinh ý nghĩ đây là Ngày tận thế của Eduard Delacroix, thế đấy. Phải, quả đúng vậy. Bill Dodge đang đứng ở cửa ra sân tập thể dục, uống cà phê và hút thuốc. Anh ta nhìn quanh rồi nói: - A, nhìn đây. Paul Edgecombe, vĩ đại như cuộc sống và xấu xí gấp đôi. - Trong ngày thế nào, Billy? - Tạm được. - Delacroix? - Tốt. Gã hình như hiểu là ngày mai, thế nhưng giống như gã không hiểu. Anh biết phần lớn bọn họ phản ứng thế nào khi rốt cuộc đoạn kết đến với họ. Tôi gật đầu. - Wharton? Bill cười. - Một diễn viên hài có hạng. Làm cho Jack Benny nghe như một giáo dân Quaker. Nó bảo Rolfe Wettermark là nó đã ăn mứt dâu lấy ra từ trong lòng vợ anh ấy. - Rolfe nói sao? - Rằng anh ấy chưa có vợ. Rằng chắc hẳn thằng Wharton đang nghĩ đến mẹ nó. Tôi cười và khó chịu. Câu chuyện thật sự buồn cười, theo một kiểu cách hạ cấp. Và quả là thoải mái được cười mà không có cảm giác bị kẻ nào đó đốt diêm ở tận dưới ruột. Bill cười với tôi, rồi đổ phần cà phê còn lại ra sân, lúc ấy vắng người, trừ một ít tù nhân tín cẩn đang lê bước, hầu hết đã ở đây cả ngàn năm gì đó. Sấm ầm ì ở chốn xa xôi nào đó, và tia chớp tán nhiệt lóe sáng trên bầu trời tối đen. Bill bồn chồn nhìn lên, tiếng cười lịm đi. - Tuy nhiên, nói anh nghe nhé, - anh ta bảo, - tôi không thích thứ thời tiết này. Có cảm giác chuyện gì đó sẽ xảy ra. Chuyện gì đó xấu xa. Về điều ấy thì anh ta nói đúng. Chuyện xấu xảy ra vào khoảng mười giờ mười lăm phút đêm đó. Đấy là lúc Percy giết Ô. Jingles. Chương 19 Thoạt đầu có vẻ sẽ là một đêm tốt lành mặc cho cơn nóng bức - John Coffey vẫn là một thực thề câm nín thường lệ của chính gã, Bill Hung Bạo đang tiến triển trở thành Bill Ôn Hòa và Delacroix thì tinh thần phấn chấn so với một kẻ có hẹn với Già Sparky trong vòng hơn hai mươi bốn giờ một chút. Gã quả đã hiểu chuyện gì sắp xảy đến với gã, ít nhất cũng ở mức cơ bản; gã đã đặt món chili cho bữa ăn cuối cùng và đưa cho tôi những yêu cầu đặc biệt đối với nhà bếp. - Anh bảo họ đổ sốt cay cho tôi. - Gã nói. - Bảo họ lấy thứ làm cho cổ họng thật sự nhảy dựng lên và nói xin chào - không được lấy thứ ớt xanh cay nhẹ. Thứ đó làm tôi đau quặn như một tên khốn kiếp, ngày hôm sau không bỏ được phòng vệ sinh, nhưng tôi nghĩ lần này sẽ không thành vấn đề nữa, n’est-ce pas - phải không? Hầu hết những tử tù đều lo lắng cho linh hồn bất tử của chúng với một nét hung hãn khờ dại, nhưng Delacroix gạt bỏ nhiều câu hỏi của tôi về nguyện vọng an ủi tâm linh trong giờ phút cuối cùng. Nếu “anh chàng” Schuster đó đã đủ tốt cho Tù trưởng Bitterbuck, Del xác nhận, thì Schuster sẽ đủ tốt cho gã. Không, điều gã quan tâm - bạn đã đoán ra, tôi chắc thế - là chuyện gì sẽ xảy ra cho ông Jingles sau khi gã, Delacroix, qua đời. Tôi đã quen việc bỏ ra nhiều giờ ở bên cạnh tử tù vào đêm trước chuyến đi cuối cùng, nhưng đây là lần đầu tôi bỏ ra nhiều giờ suy ngẫm về số phận của một con chuột. Del cân nhắc hết kịch bản này sang kịch bản khác, kiên nhẫn tìm kiếm những khả năng trong tâm trí lờ mờ của gã. Và trong khi gã suy nghĩ ồn ào, muốn tạo ra tương lai cho con chuột của gã như thể nó là một đứa trẻ phải được giáo dục ở Đại học, gã ném cái ống chỉ màu mè vào tường. Mỗi lần gã làm thế, ông Jingles sẽ phóng theo sau, săn lùng, rồi lăn ống chỉ trở lại bên bàn chân Del. Trò chơi bắt đầu làm tôi căng thẳng sau một lúc - trước hết là tiếng ống chỉ đập lóc cóc vào tường, rồi đến tiếng động nhỏ do bàn chân của ông Jingles gây nên. Mặc dù là trò hay, nó vẫn trở thành nhàm chán sau chín mươi phút. Và ông Jingles dường như không mệt mỏi. Đôi lúc nó dừng lại, rồi tự lấy lại sức bằng cách uống nước trong một cái muỗng cà phê mà Delacroix dùng vào việc này, hoặc nhấm nháp một mẩu kẹo bạc hà màu hồng, rồi trở lại với cái ống chỉ. Nhiều lần tôi sắp buột miệng bảo Delacroix thôi đi, nhưng mỗi lần như vậy, tôi lại tự nhủ gã chỉ còn đêm nay và ngày mai để chơi trò ống chỉ với ông Jingles và thế là hết. Tuy nhiên, khi gần đến hồi kết thúc, thật khó mà giữ được ý tưởng đó - bạn biết sự thể ra sao với một tiếng động cứ lặp đi lặp lại không dứt. Sau một thời gian, nó sẽ bắn nát thần kinh của bạn. Rốt cuộc, khi tôi sắp nói thì điều gì đó khiến tôi liếc qua vai, nhìn ra ngoài cửa xà lim. John Coffey đang đứng tại cửa xà lim của gã ở phía bên kia, lắc đầu với tôi: phải, trái, trở lại ở giữa. Như thể gã đọc được tư tưởng của tôi và đang bảo tôi suy nghĩ lại. Tôi sẽ lo cho ông Jingles đến với bà cô không chồng của Delacroix, tôi nói, người đã gửi một gói kẹo to cho gã. Cái ống chỉ màu mè cũng có thể đến, thậm chí cả “ngôi nhà” của nó - chúng tôi sẽ bắt đầu sưu tập đều đặn một bộ, và thuyết phục Toot từ bỏ quyền sở hữu cái hộp Corona. Không, Delacroix từ chối sau khi cân nhắc một chút (gã đã có thời giờ để ném ống chỉ vào tường ít nhất là năm lần và ông Jingles ủi bằng mũi hoặc đẩy bằng chân trở lại) , điều đó không ổn. Bà cô Hermione đã quá già, bà ấy sẽ không hiểu những kiểu cách nghịch ngợm của ông Jingles, và giả sử ông Jingles thọ hơn bà thì sao? Lúc ấy điều gì sẽ xảy ra cho nó? Không, không, Cô Hermione không ổn. Phải, vậy thì, tôi hỏi, giả sử một người trong số chúng tôi nhận nó? Một trong những người lính gác của chúng tôi? Chúng tôi có thể nuôi nó ngay tại Khu E. Không, Delacroix nói và tử tế cảm ơn tôi vì có nhã ý, certainement - chắc chắn là thế, nhưng ông Jingles là một con chuột khao khát tự do. Gã, Eduard Delacroix, biết điều này, bởi vì ông Jingles đã - hẳn bạn đã đoán ra - thì thầm vào tai gã. - Thôi được. - Tôi bảo. - Một trong số chúng tôi sẽ đem nó về nhà, Del. Có thể là Dean. Cậu ấy có một con trai còn nhỏ hẳn sẽ yêu thích con chuột nuôi, tôi cá với anh. Delacroix thực sự tái mặt kinh hoàng trước ý tưởng đó. Một thằng bé chịu trách nhiệm một thiên tài gặm nhấm như ông Jingles à? Nhân danh le bon Dieu - Chúa lòng lành, làm sao một thằng bé có thể được trông đợi theo kịp sự nghiệp huấn luyện của gã, nói gì đến việc dạy con chuột những mánh lới mới? Và giả sử thằng bé mất hứng thú và quên cho nó ăn trong hai hoặc ba ngày liên tục? Delacroix, người đã nướng chín sáu mạng người sống trong nỗ lực che đậy tội ác nguyên thủy của mình, rùng mình với vẻ khiếp sợ tế nhị của một người nhiệt thành chống lại việc mổ xẻ thú vật. Được, tôi nói, đích thân tôi sẽ nhận nó (hãy hứa bất cứ điều gì với họ, bạn nên nhớ; trong bốn mươi tám giờ cuối cùng, hãy hứa với họ bất cứ điều gì). Vậy thì thế nào? - Không, thưa ngài, sếp Edgecombe. - Del nói với vẻ biết lỗi. Gã lại ném cái ống chỉ. Ống chỉ đập vào tường, nảy lên, xoáy tròn; rồi ông Jingles bật ra theo nó như hình với bóng, ủi trở lại cho Delacroix. - Cảm ơn sếp nhiều - merci beaucoup - nhưng sếp sống trong rừng, mà ông Jingles thì sợ sống dans la forêt - sống trong rừng. Tôi biết, vì... - Tôi nghĩ có thể đoán được tại sao anh biết, Del. - Tôi đáp. Delacroix gật đầu, mỉm cười. - Nhưng chúng ta sẽ nghĩ ra cách. Thật đấy! - Gã ném ống chỉ. Ông Jingles đuổi theo, gây ra tiếng động. Tôi cố gắng không nhăn mặt. Sau cùng Brutal đã cứu vãn được tình hình. Anh ta thức dậy bên bàn trực, xem Dean và Harry đánh bài cribbage. Percy cũng có mặt, và rốt cuộc, Brutal mệt mỏi vì cố gắng bắt chuyện với hắn, nhưng chẳng được gì ngoài những tiếng càu nhàu hờn dỗi đáp lại. Anh ta tản bộ đến nơi tôi ngồi trên một chiếc ghế đẩu bên ngoài xà lim của Delacroix, rồi đứng đó nghe chúng tôi, tay khoanh lại. - Mouseville thì sao? - Brutal lên tiếng trong khoảnh khắc nín lặng đáng kể sau khi Delacroix bác bỏ ngôi nhà cũ kĩ ma quái trong rừng của tôi. Anh ta đưa ra lời bình luận bằng một âm sắc bình thường, theo kiểu chợt nảy ra ý tưởng. - Mouseville? - Delacroix hỏi, nhìn Brutal vừa bất ngờ vừa quan tâm. - Mouseville là gì? - Là địa điểm du lịch ở Florida. - Anh ta trả lời. - Tallahassee, tôi nghĩ thế. Đúng không, Paul? Tallahassee? - Đúng. - Tôi đáp lại không chút ngập ngừng, nghĩ Chúa ban phúc lành cho Brutus Howell. - Tallahassee. Ngay bên dưới con đường, cách Đại học chó một đoạn. - Miệng Brutal giật giật trước câu nói của tôi, và tôi nghĩ anh ta sắp làm hỏng việc bằng tiếng cười, nhưng anh ta kiềm chế được và gật đầu. Tuy nhiên, sau này tôi có nghe nổi đến Đại học chó, tôi cho là vậy. Lần này Del không ném ống chỉ, mặc dù ông Jingles đứng trên dép của Delacroix, chân trước giơ lên, rõ ràng là thèm khát một dịp nữa để săn đuổi. Gã Cajun nhìn từ Brutal sang tôi rồi trở lại Brutal lần nữa. - Người ta làm gì ở Mouseville? - Gã hỏi. - Anh nghĩ người ta sẽ nhận ông Jingles chứ? - Brutal hỏi tôi, cùng một lúc vừa phớt lờ Del vừa lôi cuốn gã. - Anh nghĩ nó có tay nghề chứ, Paul? Tôi cố ra vẻ suy nghĩ. - Cậu biết không. - Tôi nói. - Càng nghĩ nhiều về điều đó, thì nó càng có vẻ là một ý tưởng lỗi lạc. Từ khóe mắt, tôi thấy Percy đi trên Dặm Đường Xanh (đánh một vòng rất rộng, tránh xa xà lim của Wharton). Hắn đứng dựa một bên vai vào một xà lim trống, lắng nghe với một nụ cười khẽ, khinh miệt trên môi. - Cái Mouseville này là gì? - Del hỏi, lúc này háo hức muốn biết. - Một địa điểm du lịch, như tôi đã nói với anh. - Brutal trả lời. - Ồ, tôi cũng không rõ, nhưng có đến cả trăm con chuột ở đấy thì phải. Anh nói sao, Paul? - Lúc này hơn một trăm năm mươi con. - Tôi đáp. - Một thành công lớn. Tôi biết họ đang nghĩ đến việc khai trương thêm một địa điểm ở California và đặt tên là Mouseville West. Việc kinh doanh bùng nổ như thế đấy. Chuột được huấn luyện là màn biểu diễn đầy hứa hẹn thu hút giới sang trọng, tôi nghĩ - chính tôi cũng không hiểu nữa. Del ngồi lặng lẽ với cái ống chỉ màu mè trong bàn tay, nhìn chúng tôi, trước mắt tạm quên đi hoàn cảnh của chính mình. - Người ta chỉ nhận con chuột thông minh nhất. - Brutal cảnh cáo. - Những con có khả năng diễn trò. Và không được là chuột bạch, vì những thứ đó là chuột bán ở cửa hàng thú nuôi. Chuột cửa hàng thú nuôi, phải, đúng vậy! - Delacroix sôi nổi nói. - Tôi ghét chuột cửa hàng! Và thứ họ có. - Brutal nói, ánh mắt xa vắng trong khi anh ta hình dung ra nó. - Là chiếc lều mà ta bước vào... Phải, phải, giống như trong rạp xiếc! Có phải trả tiền để được vào không? Anh nói giỡn chơi tôi sao? Dĩ nhiên phải trả tiền mới được vào. mười xu một vé, trẻ em hai xu. Và kia rồi, toàn thành phố được xây dựng bằng những cái hộp Bakelite và cuộn giấy vệ sinh, có cửa sổ làm bằng isinglass để xem chúng làm trò gì trong đó... Phải! Phải! - Delacroix đang khoái cảm cực độ. Rồi gã quay lại phía tôi. - Isinglass là gì? Giống như trên mặt bếp lò, nơi có thể nhìn vào bên trong. - Tôi nói. Ôi hẳn rồi! Thứ chết tiệt đó! - Gã xoay tròn đôi cánh tay hướng về Brutal, muốn anh ta nói tiếp và cặp mắt hạt thị của ông Jingles gần như xoay tròn trong hốc mắt, cố gắng giữ cái ống chỉ trong tầm nhìn. Cảnh tượng khá buồn cười. Percy tiến đến gần, như thể muốn nhìn rõ hơn. Tôi thấy John Coffey cau mày với hắn, nhưng vì quá chìm đắm trong câu chuyện hoang đường của Brutal nên không để ý. Chuyện này cho thấy điều gã tù nhân muốn nghe ở những tầm cao mới khiến tôi được hoàn toàn thán phục, hãy tin tôi. - À. - Brutal kể. - Đấy là thành phố chuột, nhưng thứ mà bọn nhóc thực sự yêu thích là Gánh Xiếc Toàn Sao Mouseville, nơi loài chuột đu bay, lăn những chiếc thùng nhỏ, xếp những chồng tiền xu... Phải, đúng thế! Đấy là nơi thích hợp cho ông Jingles! - Delacroix kết luận. Mắt gã lấp lánh, má hồng hào. Tôi chợt nghĩ Brutus Howell đúng là một vị thánh. - Sau cùng, mày sẽ là một con chuột làm xiếc, ông Jingles ơi! Sẽ sống trong thành phố chuột ở Florida! Toàn cửa sổ bằng Isinglass! Hoan hô! Gã ném ống chỉ ra hết sức mạnh. Nó đập vào phía dưới tường, nẩy một cú điên cuồng, rồi bắn vọt ra ngoài chấn song cửa xà lim, lăn trên Dặm Đường Xanh. Ông Jingles chạy ra ngoài đuổi theo, và Percy nhìn thấy cơ hội của hắn. Chương 20 Ngoài tất cả những bài viết này, tôi còn ghi nhật kí từ khi sống tại Georgia Pines - không có gì lớn lao, chỉ là một đôi đoạn văn mỗi ngày, phần lớn về thời tiết - và tối hôm qua tôi đã xem lại. Tôi muốn biết thời gian đã được bao lâu, kể từ lúc hai đứa cháu ngoại Christopher và Danielle ép buộc tôi, ít hay nhiều, vào Georgia Pines. Vì quyền lợi của chính ông, ông ngoại ạ. - Chúng bảo thế. Tất nhiên là chúng nói thế. Chẳng phải đấy là câu người ta hay nói khi tìm ra cách loại bỏ một vấn đề biết đi và biết nói ư? Đã hơn hai năm một chút. Điều kì dị là tôi không biết cảm giác như hai năm, hoặc dài hơn, hay ngắn hơn. Ý thức về thời gian của tôi có vẻ đang tan chảy, như hình nộm người tuyết của trẻ em vào giai đoạn băng tan trong tháng giêng. Như thể thời gian mãi mãi như trước - giờ Eastern Standard Time, giờ Daylight Saving Time, giờ Working - Man Time - không còn hiện hữu nữa. Ở đây chỉ có giờ của Georgia Pines, tức là giờ của Lão Ông, giờ của Lão Bà, và giờ Đái Dầm. Phần còn lại... đã trôi đi. Đây là một nơi khốn kiếp, đầy nguy hiểm. Thoạt đầu bạn không nhận ra điều đó, thoạt đầu bạn tưởng nó chỉ là một nơi chốn buồn tẻ, chỉ nguy hiểm bằng nhà trẻ vào giờ ngủ trưa, nhưng vẫn là nguy hiểm, đúng vậy. Tôi đã thấy nhiều người trôi tuột vào tình trạng lão hóa từ khi đến đây, đôi khi họ còn làm nhiều hơn là trôi tuột - đôi khi họ lao xuống với tốc độ của một chiếc tàu ngầm bị đắm. Họ đến đây phần lớn vốn ổn thỏa - mắt mờ và dính liền với gậy chống, có thể lỏng lẻo một chút ở bàng quang, nhưng mặt khác vẫn ổn thỏa - thế rồi điều gì đó xảy ra với họ. Một tháng sau, họ chỉ còn ngồi lì trong phòng TV, trân trối nhìn Oprah Winfrey trên TV bằng những con mắt đờ đẫn, quai hàm xệ xuống, với một li nước cam bị quên lãng, ngả nghiêng và nhỏ giọt trên một bàn tay. Một tháng sau nữa, bạn phải nhắc tên con cái khi chúng đến thăm họ. Rồi một tháng sau đó, bạn phải nhắc họ nhớ lại tên của chính họ. Điều gì đó xảy ra cho họ, thế đấy: Georgia Pines xảy ra với họ. Thời gian ở đây giống như một thứ acid yếu, trước hết bào mòn kí ức, sau đó là khát vọng được sống. Ta phải chiến đấu. Tôi nói như thế với Elaine Connelly, người bạn đặc biệt của tôi. Tôi đã khỏe hơn từ khi bắt đầu viết lại những gì xảy ra cho tôi vào năm 1932, năm mà John Coffey đến Dặm Đường Xanh. Một số hồi tưởng thì tồi tệ, nhưng tôi cảm thấy chúng mài bén tâm trí và nhận thức của mình, theo cách một con dao gọt nhọn cây bút chì, điều đó làm dịu bớt nỗi đau đớn. Tuy nhiên, chỉ viết lách và hồi tưởng thì chưa đủ. Tôi cũng có một thể xác, dù bây giờ có lẽ đã tàn tạ và dị hình, nhưng tôi vận động hết sức có thể. Thoạt đầu là điều khó khăn - những lão già hủ lậu như tôi không khá gì khi tập thể dục chỉ vì chính bản thân sự tập thể dục - nhưng dạo này đã dễ dàng hơn, vì những bước đi của tôi đã có mục đích. Tôi ra ngoài trước bữa ăn sáng - ngay lúc vừa sáng, phần lớn số ngày - để tản bộ lần đầu. Sáng nay trời mưa, độ ẩm làm các khớp xương tôi đau nhức, nhưng dù sao tôi vẫn lấy áo mưa poncho để trên kệ bên cửa nhà bếp và ra ngoài. Khi một con người có công việc, anh ta phải làm, và nếu nó gây đau đớn thì quá tệ hại. Vả lại, còn có phần thưởng. Điều chính yếu là giữ được ý thức Giờ Thật, ngược lại với Giờ Georgia Pines. Và tôi thích trời mưa, dù đau hay không đau. Đặc biệt vào sáng sớm, khi ngày còn mới và dường như đầy ắp các khả năng, thậm chí cho cả một lão già mòn mỏi như tôi. Tôi đi qua nhà bếp, dừng lại để xin một trong những anh đầu bếp ngái ngủ hai khoanh bánh mì nướng, rồi bước ra ngoài. Tôi băng qua sân chơi bóng croquet, rồi qua một bãi cỏ nhỏ um tùm cỏ dại. Phía bên kia là một khoảnh rừng có lối đi hẹp ngoằn ngoèo xuyên qua, và một vài căn nhà gỗ không còn sử dụng, lặng lẽ đổ nát dọc theo con đường. Tôi chậm chạp bước trên lối đi, lắng nghe tiếng mưa rơi tí tách trơn tru và bí mật trên hàng thông, nhai mẩu bánh bằng những cái răng còn lại. Chân tôi đau, nhưng là cơn đau nhẹ, có thể chịu đựng. Phần nhiều tôi cảm thấy khá khỏe. Tôi hít sâu thứ không khí xám xịt ẩm ướt, nuốt vào như thực phẩm. Khi đến ngôi nhà gỗ thứ hai, tôi bước vào trong đó một lúc, rồi chăm sóc công việc của mình ở đấy. Hai mươi phút sau, khi trở về trên lối đi đó, tôi cảm thấy con sâu đói ngọ nguậy trong bụng và nghĩ mình có thể ăn một thứ gì có chất lượng hơn bánh mì nướng một chút. Một đĩa bột yến mạch, thậm chí có thể là một quả trứng kèm xúc xích bên cạnh. Tôi thích xúc xích, luôn luôn thích, nhưng dạo ấy nếu ăn hơn một cái, tôi dễ dàng bị đau quặn. Tuy nhiên một thì đủ an toàn. Rồi với cái bụng no nê và không khí ẩm ướt vẫn còn làm hưng phấn não bộ (hoặc tôi hi vọng thế) , tôi sẽ đến nhà kính và viết về cuộc xử tử Eduard Delacroix. Tôi sẽ viết hết sức nhanh, để không mất can đảm. Tôi đang nghĩ về ông Jingles khi băng qua sân chơi bóng croquet đến cửa nhà bếp - Percy Wetmore đã giẫm đạp lên con chuột, làm gãy lưng nó như thế nào, và Delacroix đã gào rống thế nào khi gã nhận ra điều kẻ thù gây ra - và không thấy Brad Dolan đang đứng đó, nửa người bị che khuất bởi cái thùng rác hiệu Dumpster, cho đến khi gã đưa tay ra, chụp lấy cổ tay tôi. Ra ngoài đi dạo một chút hả, Paulie? - Gã cất tiếng hỏi. Tôi vùng ra sau, giật tay ra khỏi tay gã. Một phần do bị bất ngờ - bất cứ ai cũng sẽ vùng ra khi bị bất ngờ - nhưng chưa phải là tất cả. Tôi thường suy nghĩ về Percy Wetmore, bạn nên nhớ điều đó và chính tên Brad luôn luôn khiến tôi nhớ đến Percy. Một phần vì Brad luôn luôn rảo khắp nơi với một quyển sách nhét trong túi (với Percy luôn luôn là tạp chí phiêu lưu mạo hiểm của đàn ông; với gã Brad là sách truyện khôi hài, vốn chỉ khôi hài khi ta ngu ngốc và độc ác) , một phần vì gã ra vẻ như đại ca của một lũ vô lại, nhưng phần lớn vì gã lén lút, và gã thích xúc phạm người khác. Gã chỉ vừa đến nơi làm việc, tôi thấy rõ, vì thậm chí gã chưa mặc áo trắng hộ lí. Trên người gã vẫn còn quần jeans và một chiếc áo sơ mi phong cách Tây rẻ tiền. Trong tay gã là phần còn lại của chiếc bánh ngọt Danish mà gã vừa thuổng của nhà bếp. Gã đứng dưới đầu hồi, ăn bánh ở nơi không bị ướt. Và là nơi gã có thể theo dõi tôi, bây giờ thì tôi biết chắc như thế. Tôi cũng biết chắc một điều khác: phải đề phòng Ô. Brad Dolan. Gã không ưa tôi lắm. Không biết tại sao, nhưng tôi cũng không bao giờ biết tại sao Percy Wetmore không ưa Delacroix. Và ghét là một từ quá nhẹ. Percy căm thù Del từ giây phút đầu tiên gã người Pháp nhỏ bé đến Dặm Đường Xanh. - Ông mặc áo mưa poncho này làm gì, Paulie? - Gã hỏi, búng tay vào cổ áo. - Thứ này không phải của ông. - Tôi lấy nó trong hành lang bên ngoài nhà bếp. - Tôi trả lời. Tôi căm ghét khi gã gọi tôi là Paulie và tôi nghĩ gã biết điều đó, nhưng không dại gì tạo cơ hội cho gã được thỏa mãn. - Có cả một dãy áo đó. Tôi không làm hỏng cái nào, anh bảo có phải không? Xét cho cùng, nó được làm ra để dùng khi trời mưa. - Nhưng nó không được làm ra cho ông, Paulie. - Gã nói, búng thêm một cái vào cổ áo. - vấn đề là chỗ đó. Những cái áo mưa đó dành cho nhân viên, không phải cho bệnh nhân nội trú. - Tôi vẫn không thấy điều gì có hại. Gã cười mím môi. - Không phải chuyện có hại, mà là kỉ luật. Cuộc sống sẽ là gì nếu không có kỉ luật? Paulie, Paulie, Paulie. - Gã lắc đầu, như thể chỉ việc nhìn tôi đủ làm gã cảm thấy ân hận vì được sống. - Có lẽ ông tưởng một lão già dịch như ông không cần quan tâm đến kỉ luật nữa, nhưng thế là không đúng. - Paulie. Gã cười với tôi. Ghét tôi. Thậm chí có lẽ căm thù tôi. Và tại sao? Tôi không biết. Đôi khi không có lí do. Đấy là điều hãi hùng. - Phải, tôi xin lỗi nếu là vi phạm kỉ luật. - Tôi đáp. Giọng tôi nghe than vãn, hơi the thé; và tôi tự ghét mình vì đã phát ra giọng nói như thế, nhưng tôi đã già, mà người già thì dễ dàng than vãn. Người già dễ dàng sợ sệt. Brad gật đầu. - Lời xin lỗi được chấp nhận. Bây giờ ông hãy treo áo trở về chỗ cũ. Dù sao thì không có việc gì phải ra ngoài đi dạo dưới mưa. Đặc biệt trong khu rừng đó. Nếu ông trượt ngã và gãy cái hông khốn kiếp thì sao? Ông nghĩ ai sẽ phải vác cái thân già nua của ông leo qua đồi? - Tôi không biết. - Tôi nói. Tôi chỉ muốn tránh xa gã. Càng nghe gã nói, càng thấy giọng điệu của gã giống như Percy. William Wharton, gã điên xuất hiện trên Dặm Đường Xanh vào mùa thu năm 1932, đã có lần vồ lấy Percy, và làm hắn sợ đến nỗi tè ra quần. Các anh mà kể cho bất cứ ai nghe, Percy nói với bọn tôi sau đó, trong vòng một tuần, tất cả sẽ phải sắp hàng lĩnh bánh mì từ thiện. Bây giờ, sau nhiều năm, tôi hầu như có thể nghe được Brad Dolan thốt ra cùng thứ lời lẽ đó, cùng giọng điệu đó. Sự kiện như thể bằng cách viết về những thời kì xa xưa, tôi đã mở cánh cửa siêu hình nào đó nối liền quá khứ với hiện tại - Percy Wetmore với Brad Dolan, Janice Edgecombe với Elaine Connelly, trại giam Cold Mountain với nhà dưỡng lão Georgia Pines. Và đêm nay, nếu ý nghĩ đó không làm tôi mất ngủ thì tôi đoán không gì có thể. Tôi làm ra vẻ đi vào trong qua cửa nhà bếp nhưng Brad lại chụp lấy cổ tay tôi. Tôi không biết về lần chụp tay đầu tiên, nhưng lần này gã ra tay có dụng ý, bóp mạnh để làm đau. Mắt gã láo liên để biết chắc không có ai ở quanh đấy trong cái ẩm ướt sáng sớm, để không ai có thể thấy gã đang ngược đãi một trong những người già mà gã có bổn phận chăm sóc. - Ông làm gì ở lối đi đó? - Gã hỏi. - Tôi biết ông không ra đó để thủ dâm, những ngày đó qua lâu rồi, vậy ông làm gì? - Không có gì. - Tôi trả lời, tự nhủ phải giữ bình tĩnh, để không cho gã thấy đang làm tôi đau biết bao, để nhớ là gã chỉ đề cập đến lối đi, gã không biết có ngôi nhà gỗ. - Tôi chỉ đi dạo. Để tâm trí được sáng suốt. - Chuyện đó quá trễ rồi, Paulie. Tâm trí ông sẽ không bao giờ sáng suốt lại. - Gã bóp chặt cái cổ tay già nua của tôi lần nữa, nghiền nát những cái xương giòn, cặp mắt vẫn đảo qua đảo lại vì muốn biết chắc mình được an toàn. Brad không sợ vi phạm kỉ luật, gã chỉ sợ bị bắt gặp đang vi phạm. Và trong chuyện đó, gã giống như Percy Wetmore, kẻ không bao giờ để cho bạn quên gã là cháu của Thống đốc. - Già khọm như ông mà còn nhớ mình là ai thì quả là phép lạ. Ông đã quá già. Kể cả ở một nhà bảo tàng như nhà này. Ông làm tôi sởn tóc gáy chết tiệt đấy, Paulie. - Thả tôi ra. - Tôi nói, cố gắng không thốt ra giọng than vãn. Cũng không chỉ vì lòng kiêu hãnh. Tôi nghĩ nếu nghe được, có thể gã sẽ bị khích động, theo kiểu mùi mồ hôi thỉnh thoảng có thể kích động một con chó xấu tính - một con chó mà ở hoàn cảnh khác chỉ gầm gừ - cắn xé. Điều đó khiến tôi nghĩ đến một phóng viên viết bài về vụ xử án John Coffey. Phóng viên đó là một con người khủng khiếp tên Hammersmith, và điều khủng khiếp nhất về anh ta là ở chỗ anh ta không biết mình khủng khiếp. Thay vì buông ra, Dolan lại bóp chặt cổ tay tôi. Tôi rên lên. Tôi không muốn, nhưng không thể. Cơn đau lan xuống tận mắt cá chân. - Ông làm gì dưới kia, Paulie? Nói tôi nghe. - Không làm gì cả! - Tôi đáp. Tôi không khóc, chưa khóc, nhưng e rằng tôi sẽ sớm bật khóc nếu gã cứ tiếp tục đè mạnh như thế. - Không có gì. Tôi chỉ đi dạo, tôi thích đi dạo, thả tôi ra! Gã buông ra, nhưng chỉ vừa đủ lâu để chụp lấy bàn tay kia của tôi. Bàn tay này đang nắm. - Mở ra. - Gã nói. - Cho Bố xem. Tôi mở ra và gã cằn nhằn với vẻ ghê sợ. Chẳng có gì ngoài phần còn lại của khoanh bánh mì thứ hai. Tôi đã siết chặt nó trong bàn tay phải khi gã bắt đầu bóp cổ tay trái của tôi, và chất bơ - à, ở đây họ không có bơ thật, dĩ nhiên - dính đầy các ngón tay. - Vào trong kia rửa bàn tay trời đánh của ông đi. - Gã nói, lùi lại và bắt đầu cắn thêm một miếng bánh ngọt Danish. - Lạy Chúa. Tôi bước lên các bậc thềm. Chân tôi run rẩy, tim đập thình thịch như động cơ hở van và piston cũ lung lay. Trong lúc tôi nắm quả đấm cửa mở vào nhà bếp - và sự an toàn - thì Dolan đe dọa tôi: - Paulie này, ông mà kể cho bất cứ ai nghe tôi bóp cái cổ tay già nua của ông, tôi sẽ bảo họ rằng ông bị ảo tưởng. Sự khởi đầu chứng lẫn trí ở người già, chẳng hạn. Và ông biết người ta sẽ tin tôi. Nếu có vết bầm, họ sẽ nghĩ do ông tự gây ra. Vâng. Những chuyện đó có thật. Và một lần nữa, có lẽ đây là Percy Wetmore đang thốt ra lời, một gã Percy bằng cách nào đó trẻ trung và độc ác mãi, trong khi tôi già đi và dễ vỡ. - Tôi không kể bất cứ điều gì cho bất cứ ai nghe. - Tôi lẩm bẩm. - Không có gì để nói. - Đúng vậy, lão già cưng. - Giọng gã nhẹ nhàng và giễu cợt, cái giọng của một tên cả ngố (sử dụng ngôn từ của Percy) , kẻ tưởng mình sẽ trẻ mãi không già. - Và tôi sẽ tìm hiểu ông có mưu mô gì. Tôi sẽ xem đó là việc của tôi. Ông nghe không? - Tôi có nghe, được rồi, nhưng không để cho gã thỏa mãn vì đã nói như thế. Tôi vào trong, đi qua nhà bếp (tôi ngửi được mùi trứng và xúc xích đang làm, nhưng không thèm ăn nữa) , rồi treo chiếc áo mưa poncho lên móc của nó. Sau đó tôi lên cầu thang đến phòng của mình - nghỉ chân trên từng bậc, để tim có thì giờ đập chậm lại và thu thập các tư liệu bài viết của mình. Tôi đi xuống dưới nhà, đến nhà kính và vừa ngồi vào chiếc bàn nhỏ bên cửa sổ thì bà bạn Elaine của tôi thò đầu vào. Bà ấy có vẻ mệt mỏi và tôi nghĩ, bà không được khỏe. Bà đã chải đầu nhưng vẫn còn mặc áo ngủ. Tình nhân già chúng tôi không coi trọng nghi lễ; phần lớn vì chúng tôi không có tiền. - Em sẽ không làm phiền anh. - Bà lên tiếng. - Em thấy anh đang chuẩn bị viết... - Đừng ngớ ngẩn. - Tôi nói. - Tôi có thời gian nhiều hơn Carter có thuốc gan nữa kia. Vào đi. Bà ấy vào, nhưng đứng cạnh cửa. - Chỉ tại em không ngủ được và tình cờ nhìn ra cửa sổ hơi sớm một chút... và... - Và cô thấy ông Dolan cùng tôi đang tán gẫu dễ chịu. - Tôi đáp. Tôi hi vọng bà ấy chỉ nhìn thấy, hi vọng cửa sổ phòng còn đóng và bà không nghe được tôi rên rỉ xin buông tha. - Không có vẻ dễ chịu và không có vẻ thân thiện. - Bà thốt lên. - Paul, cái ông Dolan đó vẫn dò hỏi khắp nơi về anh. Gã hỏi em về anh - vào tuần trước. Lúc ấy em không nghĩ ngợi nhiều, chỉ cho là gã có cái mũi dài ghê tởm thọc vào chuyện người khác, nhưng bây giờ thì em thắc mắc. - Hỏi về tôi? - Tôi hi vọng giọng mình nghe không bất an như tôi cảm thấy. - Hỏi gì? - Trước hết là nơi anh đi dạo. Rồi tại sao anh đi dạo. Tôi gắng sức cười. - Đấy là một gã không tin vào việc tập thể dục, điều đó quá rõ. - Gã nghi anh có bí mật. - Bà dừng lại. - Em cũng thế. Tôi há miệng - để nói gì tôi cũng không biết - nhưng Elaine đã giơ một bàn tay xương xẩu nhưng đẹp một cách kì lạ lên, trước khi tôi kịp thốt ra lời. - Nếu anh có, em không muốn biết nó là gì, Paul ạ. Việc của anh là việc của anh. Em được giáo dục theo chiều hướng đó, nhưng không phải tất cả mọi người. Anh hãy cẩn thận. Em chỉ muốn nói với anh thế thôi. Và bây giờ em sẽ để anh ở lại làm việc một mình. Bà ấy quay đi, nhưng chưa kịp ra khỏi cửa thì tôi đã gọi tên. Bà quay lại, ánh mắt dò hỏi. - Khi tôi viết xong. - Tôi cất giọng, rồi hơi lắc đầu. Nói thế là sai lầm. - Nếu tôi viết xong, cô sẽ đọc chứ? Bà ra vẻ suy tính, rồi tặng tôi một nụ cười, kiểu cười khiến một gã đàn ông dễ dàng xiêu lòng, thậm chí già như tôi. - Sẽ là một vinh dự cho em. - Cô nên chờ đọc xong đã rồi nói chuyện vinh dự sau. - Tôi đáp và tôi nghĩ về cái chết của Delacroix. - Dù sao em cũng sẽ đọc. - Bà ấy nói. - Từng chữ một. Em hứa đấy. Nhưng trước hết anh phải viết cho xong. Bà để tôi lại với bài viết, nhưng phải mất một lúc lâu tôi mới viết nổi. Tôi ngồi nhìn trân trối ra cửa sổ trong gần một giờ, gõ nhịp bút vào cạnh bàn, ngắm nhìn ban ngày xám xịt tươi sáng lên một chút, nghĩ ngợi về Brad Dolan, kẻ gọi tôi là Paulie và không bao giờ chán những truyện tiếu lâm về những cái lỗ và sườn dốc, dân gốc Tây Ban Nha và dân gốc Irish, nghĩ ngợi về điều Elaine Connelly đã nói. Gã nghĩ anh có bí mật... Em cũng thế. Và có lẽ là có. Phải, có lẽ tôi có. Và tất nhiên Brad Dolan muốn cướp lấy nó. Không phải vì gã nghĩ là quan trọng (và tôi nghĩ đúng là không quan trọng, ngoại trừ đối với tôi) , nhưng vì gã nghĩ những người quá già như tôi không được có bí mật. Không được lấy áo mưa poncho ra khỏi móc bên ngoài nhà bếp; cũng không được bí mật. Không được có ý nghĩ đồng loại chúng ta vẫn còn là con người. Tại sao chúng tôi không được phép có ý nghĩ như thế? Gã không biết. Về điểm đó thì gã cũng giống như Percy. Cứ như thế, dòng suy tưởng của tôi, như một dòng sông uốn hình chữ U, sau cùng dẫn trở về thời điểm khi Brad Dolan thò ra từ bên dưới đầu hồi, chụp lấy cổ tay tôi: đến Percy, Percy Wetmore tâm hồn - độc ác, và hắn đã trả thù kẻ dám cười chế nhạo hắn như thế nào. Delacroix đã ném cái ống chỉ màu mè - cái ống chỉ mà ông Jingles sẽ đi lấy về - và nó đã nẫy văng ra ngoài xà lim, lăn vào hành lang. Chỉ cần có thế, Percy đã thấy được cơ hội của hắn. Chương 21 Không, đồ điên! - Brutal hét lên, nhưng Percy không thèm để ý. Đúng lúc ông Jingles chạm vào cái ống chỉ - nó quá chăm chú nên không nhận ra kẻ cựu thù đang ở trong tầm tay - Percy đạp gót giày cứng lên con chuột. Một tiếng rắc nghe rất rõ khi lưng ông Jingles bị gãy, máu trào ra từ trong mõm. Cặp mắt nhỏ đen láy lồi ra khỏi hốc mắt và tôi đọc thấy trong đó một vẻ đau đớn kinh ngạc, đầy ắp tính người. Delacroix gào lên vì kinh hoàng và thương tiếc. Gã vật mình đập vào cửa xà lim, thọc tay qua giữa những chấn song, vươn ra hết mức, gọi tên con chuột không ngớt. Percy quay mặt về phía gã, mỉm cười. Quay mặt về phía ba người chúng tôi nữa. - Đấy. - Hắn nói. - Tôi biết sớm hay muộn sẽ hạ được nó. Thực sự chỉ là vấn đề thời gian. - Hắn quay lại và bước đi trên, không vội vàng, bỏ mặc ông Jingles nằm dài trên tấm vải sơn, trong vũng máu loang lỗ của chính nó. Dean từ bàn giấy đứng lên, đầu gối va vào cạnh bàn, làm đổ bàn đánh bài cribbage xuống sàn nhà. Những con chốt tuột ra khỏi lỗ và lăn tung tóe mọi hướng. Cả Dean lẫn Harry, vốn sắp sửa đi ra ngoài, đểu không mảy may chú ý đến cuộc lật đổ trò chơi. - Lần này cậu làm gì thế? - Dean hét Percy. - Lần này cậu đã làm trò quái gì thế, cậu đấy, đồ hạ cấp? Percy không trả lời. Hắn sải chân bước qua bàn trực, không thốt ra một lời, vỗ về mái tóc mình bằng ngón tay. Hắn đi qua văn phòng tôi và vào trong nhà kho. William Wharton đã trả lời thay cho hắn. - Sếp Dean này? Tôi nghĩ điều hắn làm là dạy cho gã người Pháp tí tẹo biết rằng cười nhạo hắn không phải là điều khôn ngoan, "thằng nhóc lên tiếng, rồi bắt đầu cười. Một tiếng cười khỏe mạnh, một tiếng cười mộc mạc, vui và sâu. Có những con người tôi đã gặp trong giai đoạn cuộc đời đó của tôi (phần nhiều là những con người đáng ghê sợ) , chỉ khi họ cười mới nghe có vẻ bình thường. Wild Bill Wharton là một trong những con người đó. Tôi nhìn xuống con chuột lần nữa, choáng váng. Nó vẫn còn thở, nhưng có nhiều hạt máu nhỏ xíu dính vào những sợi râu, và một vẻ đờ đẫn đang len lỏi vào cặp mắt hạt thị sáng chói trước kia. Brutal nhặt cái ống chỉ màu mè lên, nhìn nó, rồi nhìn tôi. Anh ta có vẻ chết điếng như tôi cảm nhận. Sau lưng chúng tôi, Delacroix vẫn gào lên nỗi đau khổ và kinh dị của gã. Không chỉ vì con chuột, dĩ nhiên; Percy đã đập vỡ một lỗ hổng trong hàng rào tự vệ của Delacroix, và tất cả nỗi kinh sợ của gã trào ra. Nhưng ông Jingles và tiêu điểm của những cảm giác bị đè nén đó và phải nghe gã gào thét quả là khủng khiếp. - Ôi không. - Gã cứ kêu than tới lui, giữa những tiếng gào, tiếng van xin và cầu nguyện thiếu đầu thiếu đuôi bằng tiếng Pháp Cajun. - Ôi không, ôi không, ông Jingles đáng thương, Ô. Jingles thân mến đáng thương, ôi không. - Đưa nó cho tôi. Tôi ngước lên nhìn, bất ngờ bởi giọng nói sâu lắng, thoạt tiên không biết chắc là của ai. Tôi nhìn thấy John Coffey. Giống như Delacroix, gã đã thọc tay qua những thanh chấn song cửa xà lim, nhưng khác Del, gã không vung vẩy lung tung. Gã chỉ đơn giản chìa tay ra xa hết mức có thể, bàn tay xòe ra. Một tư thế có chủ đích, một tư thế gần như khẩn cấp. Và giọng của gã cũng có vẻ khẩn cấp, đó là lí do tôi cho rằng tại sao thoạt đầu không nhận ra giọng của Coffey. Dường như gã là một con người khác so với cái linh hồn lạc lõng, than khóc đã chiếm ngự xà lim này vài tuần trước. - Đưa nó cho tôi, ông Edgecombe! Trong lúc còn kịp! Thế rồi tôi nhớ lại điều gã đã làm cho tôi và tôi hiểu. Tôi cho là không có hại, nhưng tôi nghĩ rằng cũng chẳng có tốt đẹp gì nhiều. Khi nhặt con chuột lên, tôi đã nhăn mặt vì cảm giác - có quá nhiều xương gãy lồi ra ở nhiều điểm khác nhau trên làn da ông Jingles, giống như nhặt lên một cái gối cắm kim phủ lông thú vậy. Đây không phải là chuyện nhiễm trùng đường tiểu. Tuy nhiên... - Anh làm gì vậy? - Brutal hỏi khi tôi đặt ông Jingles vào bàn tay phải to tướng của Coffey. - Cái quái gì vậy? Coffey rút con chuột qua chấn song. Nó nằm lịm trên lòng bàn tay Coffey, đuôi thõng xuống trên vòng cung giữa ngón cái và ngón trỏ của Coffey, chóp đuôi yếu ớt co giật giữa không trung. Coffey lấy bàn tay trái đậy lên bàn tay phải, tạo thành dạng một cái tách có con chuột nằm bên trong. Chúng tôi không nhìn thấy ông Jingles nữa, chỉ còn cái đuôi, thõng xuống và chóp đuôi co giật như một con lắc đang giảm dao động. Coffey đưa tay về phía khuôn mặt gã, đồng thời duỗi các ngón tay phải ra, tạo thành những khoảng trống như giữa các thanh chấn song trại giam. Cái đuôi con chuột bây giờ thõng xuống từ cạnh những bàn tay đang đối diện chúng tôi. Brutal bước đến bên cạnh tôi, vẫn còn nắm cái ống chỉ màu mè giữa các ngón tay. - Gã nghĩ gã đang làm gì thế? - Suỵt. - Tôi nói. Delacroix đã thôi gào thét. - John, làm ơn. - Gã thì thào. - Ôi Johnny, hãy giúp nó, làm ơn giúp nó, ôi s’il vous plait - xin anh vui lòng. Dean và Harry nhập bọn với chúng tôi, Harry với bộ bài Airplane cũ của chúng tôi còn nắm trên tay. - Chuyện gì xảy ra? - Dean hỏi, nhưng tôi chỉ lắc đầu. Tôi lại cảm thấy bị thôi miên, nếu nói sai tôi sẽ bị đọa đày. Coffey kê miệng vào giữa hai ngón tay và hít mạnh. Trong một thoáng, mọi vật đều bị treo lơ lửng. Rồi gã ngẩng đầu ra khỏi hai bàn tay, và tôi nhìn thấy bộ mặt của một người bệnh hoạn tuyệt vọng, hoặc đang lên cơn đau tàn bạo. Mắt gã sắc bén và rực sáng; răng hàm trên cắn vào làn môi dưới đầy đặn, khuôn mặt tối đen đã nhạt đi thành một màu sắc khó chịu, trông như tro hòa lẫn với bùn. Từ sâu trong cổ gã phát ra một tiếng nghẹn thở. - Lạy Chúa Jesus kính yêu và Đấng cứu thế. - Brural thì thào. Mắt anh ta dường như có nguy cơ rơi ra khỏi khuôn mặt. - Cái gì? Harry gần như là sủa. - Cái gì? - Cái đuôi! Cậu không thấy sao? Cái đuôi! Đuôi ông Jingles không còn là quả lắc giảm dao động nữa, nó đang mạnh mẽ quất từ bên này sang bên kia, như đuôi một con mèo đang rình bắt chim. Thế rồi, từ bên trong đôi bàn tay khum của Coffey, phát ra tiếng chít chít hoàn toàn quen thuộc. Coffey phát ra thứ âm thanh ngạt thở, tắc nghẹn lần nữa, rồi quay đầu sang một bên như người ta đã ho lên một cục đờm và nhất định nhổ nó ra. Thay vào đó, gã thở một đám mây đen đầy côn trùng - tôi nghĩ chúng là côn trùng, và những cậu kia cũng nói thế, nhưng đến bây giờ tôi không dám chắc - từ trong miệng và mũi ra. Chúng vần vũ quanh người gã trong một đám mây đen, tạm thời che khuất dáng vẻ của gã. - Chúa ơi, mấy thứ đó là gì? - Dean hỏi bằng giọng the thé, sợ hãi. - Không sao. - Tôi nghe chính mình lê tiếng. - Đừng hoảng hốt, không sao, chúng sẽ bay mất sau vài giây. Giống như khi Coffey chữa khỏi bệnh nhiễm trùng đường tiểu cho tôi, những con “sâu bọ” hóa trắng, rồi biến mất. - Mẹ kiếp. - Harry thầm thì. - Paul? - Brutal hỏi, giọng bất an. - Paul? Coffey lấy lại vẻ bình thường - giống như một kẻ đã thành công trong việc ho ra một khối thịt, vốn đang làm anh ta nghẹt thở. Gã cúi xuống, đặt đôi bàn tay lên sàn nhà, nhìn trộm qua các ngón tay, rồi mở ra. Ông Jingles, hoàn toàn khỏe mạnh, sống lưng không một chút méo mó, làn da không một vết lồi chạy ra ngoài. Nó dừng lại một thoáng trước cửa xà lim Delacroix. Trong lúc nó chạy đi, tôi nhận thấy vẫn còn có những giọt máu đọng trên những sợi râu. Delacroix nhặt con chuột lên, vừa khóc vừa cười, phủ kín nó bằng những cái hôn kêu thành tiếng, không ngượng ngùng. Dean, Harry và Brutal ngắm nhìn cảnh tượng với nỗi ngạc nhiên câm lặng. Rồi Brutal tiến lên và đưa cái ống chỉ màu mè qua khe chấn song. Thoạt tiên, Delacroix không thấy, gã đang quá say đắm với ông Jingles. Gã như một ông bố có con vừa được cứu khỏi chết đuối. Delacroix nhìn, thấy và nhận lấy nó, quay lại với ông Jingles, vuốt ve bộ lông và ngấu nghiến nó bằng ánh mắt, không ngớt cần thiết để nhắc nhở gã, phải rồi, rằng con chuột vẫn bình yên, con chuột vẫn thân toàn vẹn, khỏe mạnh và ổn thỏa. - Ném đi! - Brutal nói. - Tôi muốn xem nó chạy thế nào. - Nó không sao đâu, sếp Howell ạ. Nó không sao, ngợi ca Chúa... - Ném đi. - Brutal lặp lại. - Chiều tôi đi đi, Del. Delacroix cúi xuống, rõ ràng miễn cưỡng, rõ ràng không muốn thả. Ô. Jingles ra khỏi tay gã lần nữa, ít nhất là chưa muốn. Thế rồi, rất dịu dàng, gã ném ống chỉ. Nó lăn ngang xà lim, vượt qua cái hộp xì gà Corona, lăn đến chân tường. Ông Jingles đuổi theo, nhưng không nhanh bằng trước kia. Chân trước bên trái có vẻ hơi khập khiểng, và đấy là sự kiện đập mạnh vào tôi nhất - điều đó, tôi nghĩ, làm cho sự việc thật hơn. Cái vẻ hơi khập khiễng đó. Tuy nhiên con chuột đuổi kịp ống chỉ, đuổi kịp đúng lúc và lấy mũi ủi nó trở lại chỗ Delacroix bằng tất cả sự hào hứng cũ. Tôi quay sang John Coffey đang đứng ở cửa xà lim và mỉm cười. Một nụ cười mệt mỏi, và tôi không gọi đó là niềm hạnh phúc thật sự, nhưng vẻ khẩn cấp gắt gao tôi nhìn thấy trên mặt gã khi nài nỉ tôi đưa con chuột đã tan biến, nét đau đớn và sợ hãi cũng thế, như thể gã đang nghẹt thở. Đây lại là gã John Coffey của chúng tôi, với bộ mặt dường như không bao giờ hiện diện và đôi mắt kì lạ, nhìn xa xôi. - Anh đã giúp nó. - Tôi lên tiếng. - Phải vậy không, Bự Con? - Đúng. - Coffey trả lời. Nụ cười rộng thêm một chút, trong thoáng chốc quả là hạnh phúc. - Ta đã giúp nó. Ta đã giúp con chuột của Del. Ta đã giúp... - Gã nói nhỏ dần, không thể nhớ được tên. - Ông Jingles. - Dean nói. Anh ta nhìn John với ánh mắt cẩn thận, dò hỏi, như thể chờ đợi Coffey bùng lên thành ngọn lửa, hoặc bắt đầu bay lơ lửng trong xà lim. - Đúng. - Coffey đáp lại. - Ông Jingles. Nó là chuột làm xiếc. Sẽ đến ở nhà Isinglass. - Anh còn phải nói. - Harry nói, nhập bọn với chúng tôi để nhìn ngắm John Coffey. Sau lưng chúng tôi, Delacroix nằm xuống sạp ngủ, ông Jingles ngồi trên ngực gã. Del đang ngâm nga với nó, hát một ca khúc tiếng Pháp nào đó, nghe như một bài hát ru. Coffey nhìn lên về phía bàn trực và cánh cửa dẫn vào văn phòng của tôi, và nhà kho phía bên kia. - Sếp Percy xấu xa. - Gã nói. - Sếp Percy nhỏ nhen. Ông ấy đạp lên con chuột của Del. Ông ấy đạp lên ông Jingles. Và trước khi chúng tôi kịp nói điều gì khác với gã - nếu có thể nghĩ được gì để nói - John Coffey đã quay lại sạp ngủ, nằm xuống rồi nghiêng người, xoay mặt vào tường. Percy đang đứng xoay lưng lại chúng tôi khi Brutal và tôi bước vào nhà kho khoảng hai mươi phút sau đó. Hắn đã tìm ra một lon vẹc ni dùng cho đồ gỗ để trên kệ phía trên cái sọt, nơi chúng tôi bỏ những bộ đồng phục bẩn (và đôi khi cả những quần áo dân sự; nhà giặt ủi trại giam không quan tâm đến những thứ họ đem giặt) , và đang đánh bóng những cánh tay và chân bằng gỗ sồi của chiếc ghế điện. Chuyện này bạn nghe có vẻ quái dị, thậm chí có lẽ rùng rợn nữa, nhưng đối với Brutal và tôi, dường như đó là điều bình thường hơn hết mà Percy đã làm suốt đêm. Ngày mai Già Sparky sẽ gặp mặt công chúng, và Percy ít nhất sẽ ra vẻ chỉ đạo. - Percy. - Tôi lặng lẽ gọi. Hắn quay lại, khúc nhạc đang ngâm nga chết dí trong cổ họng và hắn nhìn chúng tôi. Tôi không thấy vẻ sợ hãi như đã chờ đợi, ít nhất là không vào lúc đầu. Cách nào đó, tôi nhận thấy Percy có vẻ già hơn. Và tôi nghĩ, John Coffey nói đúng. Trông hắn rất nhỏ nhen. Tính nhỏ nhen giống như ma túy - không ai trên quả đất này có tư cách hơn tôi để nói như thế - và tôi nghĩ rằng, sau khi dùng một số lượng rõ rệt nào đó, Percy đã mắc vòng nghiện ngập. Hắn thích điều đã gây ra cho con chuột của Delacroix. Cái mà hắn thậm chí thích hơn nữa là nhưng tiếng gào bất hạnh của Delacroix. - Đừng gây sự với tôi. - Hắn thốt lên bằng một âm sắc gần như dễ chịu. - Tôi muốn nói, này, nó chỉ là một con chuột. Nó chưa bao giờ thuộc về nơi này, như các anh biết rõ. Con chuột khỏe mạnh. - Tôi nói. Tim đập mạnh trong lồng ngực, nhưng tôi dùng giọng nói nhẹ nhàng, gần như vô tư. - Khỏe thôi. Chạy và kêu chít chít và lại rượt đuổi cái ống chỉ. Cậu giết chuột chẳng giỏi hơn gì những công việc khác cậu làm ở đây. Hắn nhìn tôi, ngạc nhiên và không tin. - Anh tưởng tôi tin điều đó sao? Con vật trời đánh kêu cái rốp! Tôi đã nghe thấy! Vậy anh có thể... - Câm miệng. Hắn trân trối nhìn tôi, mắt mở to. - Cái gì? Anh nói gì với tôi? Tôi tiến một bước đến gần hắn hơn. Tôi cảm thấy một động mạch đập nhanh giữa trán. Tôi không thể nhớ lại lần cuối cùng quá sức tức giận là khi nào. - Cậu không vui vì ông Jingles bình an sao? Sau tất cả những cuộc thảo luận về cách thức duy trì cho tù nhân được thanh thản, đặc biệt khi gần đến ngày cuối cùng, tôi nghĩ cậu phải vui chứ. Giải tỏa. Với việc Del ngày mai phải lên đường, với mọi thứ. Percy nhìn từ tôi sang Brutal, vẻ bình thản cố ý tan biến thành vẻ hoang mang. - Các anh nghĩ mình chơi trò quái quỷ gì vậy? - Hắn hỏi. - Chuyện này không có gì là trò chơi, anh bạn. - Brutal trả lời. - Cậu nghĩ thế... phải, đấy là một trong những lí do khiến cậu không đáng tin. Cậu muốn biết sự thật tuyệt đối không? Tôi nghĩ cậu là một trường hợp khá buồn đấy. - Các anh muốn sinh sự. - Percy nói. Lúc này giọng hắn đã thể hiện vẻ non nớt. Sau cùng, nỗi sợ đang lần mò quay lại - sợ điều có thể chúng tôi muốn ở hắn, sợ điều chúng tôi đang âm mưu. Tôi rất vui nghe được nỗi sợ của hắn. Như thế dễ đối phó hơn. - Tôi quen nhiều nhân vật. Tôi quen nhiều nhân vật quan trọng. - Cậu nói thế, nhưng cậu đúng là kẻ mơ mộng. - Brutal đốp chát. Anh ta nói nghe như thể sắp lăn ra cười. Percy buông rơi miếng giẻ đánh bóng lên mặt ghế, có các ổ khóa kẹp bắt vào tay và chân. - Tôi đã giết chết con chuột. - Hắn nói bằng một giọng không vững vàng. - Cứ tự đi kiểm tra. - Tôi nói. - Đất nước này tự do mà. - Tôi sẽ làm. - Hắn đáp. - Tôi sẽ làm. Hắn hiên ngang đi qua chúng tôi, miệng đanh lại, đôi tay nhỏ nhắn (Wharton nói đúng, chúng đẹp thật) vân vê chiếc lược. Hắn bước lên bậc thềm, chui qua đó và vào văn phòng tôi. Brutal và tôi đứng bên Già Sparky, chờ hắn quay lại và không nói chuyện. Tôi không biết ý Brutal, nhưng tôi thì không nghĩ được điều gì để nói. Thậm chí không biết nghĩ sao về điều chúng tôi vừa chứng kiến. Ba phút trôi qua. Brutal nhặt miếng giẻ của Percy lên và bắt đầu lau bóng những thanh gỗ dát lưng chiếc ghế điện. Khi Percy quay lại, anh ta đã có đủ thời gian để đánh bóng xong một thanh và bắt đầu thanh khác. Hắn vấp chân, suýt ngã lăn xuống bậc thang từ văn phòng đến nhà kho, và khi băng qua phòng đến phía chúng tôi, hắn bước khập khễnh. Bộ mặt hắn có vẻ bị sốc và không tin. - Mấy anh đổi chúng. - Hắn the thé lên án. - Cách nào đó mấy anh đã đổi mấy con chuột, đồ khốn kiếp mấy anh. Mấy anh giỡn mặt tôi, và mấy anh sẽ hối hận đến chết nếu mấy anh không thôi đi! Tôi sẽ làm cho mấy anh phải sắp hàng lãnh bánh mì cứu trợ nếu mấy anh không thôi đi! Mấy anh nghĩ mấy anh là ai? Hắn ngừng nói, thở hào hển, tay nắm lại. - Tôi sẽ nói cậu nghe chúng tôi là ai. - Tôi bảo. - Chúng tôi là những người cậu cùng làm việc, Percy... nhưng không còn lâu nữa. - Tôi đưa hai tay ra kẹp lấy vai hắn. Không quá mạnh, nhưng là một cú kẹp, thế đấy. Vâng, đúng vậy. Percy rướn người lên để giằng ra. - Lấy tay... Brutal chụp tay phải hắn toàn bộ cái vật nhỏ nhắn, mềm oặt và trắng trẻo biến mất trong quả đấm rám nắng của Brutal. - Câm cái lỗ miệng mày đi, con ạ. Nếu mày biết điều gì là tốt cho mày, mày sẽ lợi dụng cơ hội cuối cùng này để lấy ráy tai. Tôi xoay hắn lại, nhấc lên bục, rồi đẩy lùi lên đến khi khuỷu chân của hắn va vào mặt ghế điện và hắn buộc phải ngồi xuống. Vẻ bình thản đã biến mất; nét độc ác và kiêu ngạo cũng thế. Những tính cách đó hắn có đủ thật, nhưng bạn cần nhớ là Percy còn rất trẻ. Ở lứa tuổi hắn, những thứ đó chỉ là một lớp mã ngoài mỏng manh, giống như một lớp men sắc độ xấu xí. Bạn vẫn có thể mài thủng. Và chúng tôi đánh giá lúc này Percy đã sẵn sàng để lắng nghe. - Tôi muốn cậu hứa một lời. - Tôi nói. - Hứa chuyện gì? - Miệng hắn vẫn còn tỏ vẻ khinh miệt, nhưng cặp mắt đã hoảng sợ. Nguồn điện trong phòng máy đã khóa, nhưng mặt ghế của Già Sparky có nguồn điện riêng, và ngay lúc ấy tôi đánh giá Percy đang cảm nhận được nó. - Hứa là nếu bọn tao cho mày xuất hiện trong cuộc hành hình vào tối mai, mày sẽ thực sự chuyển sang Briar Ridge và để bọn tao yên. - Brutal nói với vẻ mãnh liệt mà trước đây tôi chưa từng nghe từ anh ta. - Rằng mày sẽ nộp đơn xin thuyên chuyển ngay ngày hôm sau. - Và nếu tôi không làm thì sao? Nếu tôi gọi cho một vài nhân vật nào đó và mách họ các anh quấy rối và đe dọa tôi thì sao? Ức hiếp tôi thì sao? - Chúng tôi có thể bị thất nghiệp nếu thế lực của cậu ngon lành như cậu nghĩ. - Tôi trả lời. - Nhưng chúng tôi cũng đảm bảo cậu sẽ phải để lại phần máu xương công bằng trên sàn nhà nữa, Percy. - Vì con chuột đó sao? Hứ! Mấy anh nghĩ sẽ có ai đó quan tâm chuyện tôi đạp chết con chuột của một thằng bị kết án tử hình ư? Nghĩa là ai đó ở bên ngoài cái bệnh viện tâm thần này? - Không có. Nhưng ba người thấy cậu đứng trơ tại chỗ, không động đậy một ngón tay trong lúc Wild Bill Wharton tìm cách siết cổ Dean Stanton bằng dây xích cổ tay. Về chuyện đó thì người ta sẽ quan tâm, Percy à, tôi hứa với cậu đấy. Về chuyện đó thì ông chú Thống đốc việt vị của cậu sẽ quan tâm. Má và lông mày Percy đỏ bừng lên. - Mấy anh tưởng người ta tin mấy anh sao? - Hắn hỏi, nhưng giọng nói đã mất đi nhiều sức mạnh giận dữ. Rõ ràng hắn nghĩ sẽ có ai đó tin chúng tôi. Mà Percy không muốn lâm vào rắc rối. Phá vỡ luật lệ, được thôi. Bị bắt vì phá vỡ luật lệ thì không. - À, tao đã chụp ảnh cổ của Dean trước khi các vết bầm tan đi. - Brutal lên tiếng, tôi không biết điều đó có thật hay không, nhưng chắc chắn nghe rất hay. - Mày biết những tấm ảnh đó nói gì không? Rằng Wharton đã ra tay đúng mức trước khi ai đó lôi nó ra, mặc dù mày đứng ngay đó, ở phía Wharton không nhìn thấy. Mày sẽ có những câu hỏi hóc búa phải trả lời, đúng không? Và một thứ như thế sẽ đeo đuổi một con người trong thời gian lâu dài. Có cơ may là chúng vẫn đeo đuổi lâu dài cả sau khi thân nhân của hắn ra khỏi thủ phủ tiểu bang, về vườn uống nước bạc hà trên hiên nhà. Lí lịch lao động của một con người là một điều đáng quan tâm, và rất nhiều người có cơ hội xem xét nó suốt quãng đường đời. Mắt Percy láo liên giữa chúng tôi, vẻ ngờ vực. Hắn đưa bàn tay trái lên vuốt tóc, không nói gì, nhưng tôi nghĩ chúng tôi sắp đánh gục hắn. - Coi nào, bỏ chuyện này đi. - Tôi nói. - Cậu không muốn ở đây hơn chúng tôi muốn cậu ở đây, phải thế không? - Tôi căm ghét nơi này! - Hắn bùng nổ. - Tôi ghét cách mấy anh dối xử với tôi, cách mấy anh không bao giờ cho tôi một cơ hội! Điều sau cùng hắn nói quá xa sự thật, nhưng tôi phán đoán ngay bây giờ không phải lúc để tranh luận vấn đề. - Nhưng tôi cũng không thích bị đùn đẩy khắp nơi. Bố tôi dạy rằng một khi bắt đầu tuột xuống lối đi đó, hầu như ta sẽ để yên cho người ta đẩy đưa khắp nơi suốt đời. - Mắt hắn, không đẹp bằng bàn tay nhưng cũng gần như thế, tóe lửa. - Tôi đặc biệt không thích bị đùn đẩy khắp nơi bởi lũ khỉ to xác như người này. - Hắn liếc người bạn thân của tôi và càu nhàu. - Brutal - ít nhất anh cũng có một biệt danh chính xác. - Cậu phải hiểu một điều, Percy. - Tôi nói. - Theo cách nhìn của chúng tôi, cậu đã đẩy chúng tôi thì có. Chúng tôi vẫn khuyên cậu về cách thức chúng ta điều hành công việc ở đây, nhưng cậu vẫn làm theo cách của cậu, sau đó núp bóng những thế lực chính trị nếu sự việc sai lầm. Đạp lên con chuột của Delacroix. Brutal! Nhìn mắt của tôi và tôi vội rút lại lời nói. - Tìm cách giẫm lên con chuột của Delacroix chỉ là một trường hợp của vấn đề. Cậu đẩy và đẩy, sau đó chúng tôi đẩy lại, thế thôi. Nhưng cậu nghe đây, nếu cậu làm đúng, cậu sẽ ra khỏi đây với dáng vẻ tốt lành như một thanh niên trên đà thăng tiến và thơm như một đóa hồng. Sẽ không có ai biết câu chuyện chúng ta đang nói đây. Vậy cậu nói sao? Hãy xử thế như một người trưởng thành đi. Hãy hứa là cậu sẽ ra đi sau Del. Hắn suy đi tính lại. Và sau một hai phút gì đó, trong mắt hắn có một ánh nhìn, thứ ánh mắt mà một người có được khi anh ta có ý tưởng hay. Tôi không thích điều này lắm, vì bất cứ ý tưởng nào dường như tốt với Percy không có vẻ tốt cho chúng tôi. - Nếu không gì khác. - Brural nói, - cứ nghĩ là một tuyệt vời biết bao khi tránh được cái bao tải Wharton đầy máu mủ. Percy gật đầu và tôi để cho hắn ra khỏi ghế. Hắn kéo áo đồng phục lại cho thẳng, nhét vào lưng quần, chải lại mái tóc. Rồi hắn nhìn chúng tôi. - Được, tôi đồng ý. Tôi ra trước công chúng vì Del vào đêm mai, tôi sẽ thuyên chuyển sang Briar Ridge ngay ngày hôm sau. Chúng ta kết thúc ngay tại đó. Đủ tốt chưa? - Đủ tốt rồi. - Tôi trả lời. Cái vẻ nhìn đó vẫn còn trong mắt hắn, nhưng ngay lúc ấy, tôi quá nhẹ nhõm nên không để ý. Hắn chìa tay ra. - Bắt tay thỏa thuận chứ? Tôi bắt tay. Brutal cũng làm thế. Wetmore đã lừa chúng tôi. Chương 22 Thế nhưng hôm sau là một ngày nặng nề nhất và là ngày cuối cùng của cái nóng tháng mười kì lạ. Sấm nổi ầm ì ở hướng Tây khi tôi đến nơi làm việc, những đám mây đen đã bắt đầu tụ lại ở đấy. Chúng di chuyển vào sát hơn nữa khi màn đêm buông xuống và chúng tôi có thể thấy những lưỡi sét tráng xanh từ bên trong thọc mạnh ra. Vào khoảng mười giờ đêm xảy ra một cơn lốc xoáy ở Hạt Trapingus - giết chết bốn người và thổi tốc mái chuồng nuôi ngựa cho thuê ở Tefton - và những trận bão này cùng cuồng phong dữ dội ở Cold Mountain. Sau này tôi thấy rằng dường như Trời Cao đã ra tay phản đối cái chết tồi tệ của Eduard Delacroix. Mọi việc diễn tiến êm thấm trong lúc đầu. Del đã có một ngày êm ả trong xà lim, thỉnh thoảng chơi đùa với ông Jingles, nhưng phần lớn thời gian chỉ nằm dài trên sạp ngủ, vỗ về con chuột. Wharton cố ý gây rối một hai lần - một lần thằng nhóc hù dọa Del về món thịt burger-chuột người ta sẽ xơi, sau khi chàng Pierre May Mắn nhảy vũ điệu hai bước dưới địa ngục - nhưng gã Cajun nhỏ bé không phản ứng và Wharton, rõ ràng quyết định đấy là đòn chơi hay nhất, đành bỏ cuộc. Sư huynh Schuster đến vào mười giờ mười lăm phút và làm cho tất cả chúng tôi thích thú, bằng cách thông báo rằng ông ấy sẽ cầu kinh Cha Của Chúng Con cùng với Del bằng tiếng Pháp Cajun. Có vẻ là một điềm tốt. Về chuyện đó thì chúng tôi đã sai lầm, tất nhiên. Các nhân chứng bắt đầu đến vào khoảng mười một giờ, hầu hết đều bàn tán về thời tiết đe dọa bằng giọng khẽ khàng và suy tính về khả năng thiếu hụt nguồn điện, phải hoãn cuộc xử tử lại. Không ai biết Già Sparky có máy phát điện riêng, và trừ khi bị sét đánh trực tiếp, buổi biểu diễn vẫn tiếp tục. Đêm ấy Harry ở trong phòng cơ điện, vì thế anh ta, Bill Dodge và Percy Wetmore đóng vai nhân viên xếp chỗ, đưa mọi người vào chỗ ngồi và hỏi họ thích uống nước lạnh không. Có sự hiện diện của hai phụ nữ: em gái của cô gái đã bị Del hãm hiếp và giết chết, và người mẹ của một trong những nạn nhân chết cháy. Quý bà này vóc dáng to lớn, xanh xao và quả quyết. Bà ta bảo Harry Terwilliger rằng bà hi vọng con người mà mình đến để gặp được khỏe mạnh và sợ hãi, rằng gã biết ngọn lửa trong lò kia được đốt lên vì gã, rằng lũ tiểu yêu của Satan đang chờ gã. Rồi bà ta òa ra khóc, giấu mặt vào trong chiếc khăn tay thêu ren to gần bằng một chiếc áo gối. Tiếng sấm khó lòng bị mái nhà tôn cản nổi, giáng xuống chát chúa và ầm ĩ. Người ta hồi hộp liếc nhìn lên. Những người đàn ông, dáng vẻ không thoải mái vì phải đeo cravat vào đêm khuya như thế này, lau những đôi má đỏ bừng. Nóng hơn cả những ngọn lửa xanh trong gian nhà kho. Và tất nhiên, họ tiếp tục quay nhìn Già Sparky. Có thể họ đã nói đùa về công việc vặt này vào đầu tuần, nhưng vào mười một giờ ba mươi phút đêm ấy, những câu chuyện tếu đó đều tan biến. Tôi đã bắt đầu tất cả câu chuyện này bằng cách nói với bạn là óc khôi hài nhanh chóng biến khỏi địa điểm, dành chỗ cho những kẻ phải ngồi xuống cái ghế gỗ sồi đó, nhưng những tù nhân bị trừng phạt không phải là những người duy nhất đánh mất nụ cười trên gương mặt, khi thời điểm thực sự đến. Vì lí do nào đó, chuyện ngồi xổm trên bục hành hình dường như quá sức lộ liễu, với những bộ khóa kẹp trên chân chìa ra hai bên, giống những thứ mà người mắc bệnh bại liệt phải đeo. Người ta không nói chuyện nhiều, và khi tiếng sấm bùng nổ lần nữa, chói tai và đầy bản sắc như một thân cây vỡ tan từng mảnh, cô em gái nạn nhân của Delacroix khẽ hét lên một tiếng. Nhân vật cuối cùng ngồi vào ghế ở khu vực nhân chứng là Curtis Anderson, người thay thế Giám thị Moores. Vào mười một giờ ba mươi phút, tôi tiến đến xà lim của Delacroix, đi sau lưng tôi một chút là Brutal và Dean. Del đang ngồi trên sạp, ông Jingles nằm trên lòng gã. Đầu con chuột vươn ra trước, hướng về gã tử tù, cặp mắt hạt thị say đắm gương mặt Del. Del đang vuốt ve đỉnh đầu ông Jingles, ở đoạn giữa hai tai. Những giọt nước mắt to âm thầm lăn xuống mặt Del, và đấy chính là thứ mà dường như con chuột đang nhìn ngắm. Del ngước lên khi nghe thấy tiếng chân chúng tôi. Gã tái xanh như tàu lá. Từ phía sau lưng, tôi cảm nhận hơn là John Coffey đang đứng ở cửa xà lim, quan sát. Del nhăn mặt trước tiếng chìa khóa đập vào cửa sắt, nhưng vẫn bình tĩnh, tiếp tục vuốt ve đầu ông Jingles, trong khi tôi mở khóa và đẩy cửa trượt mở ra. - Chào sếp Edgecombe. - Gã lên tiếng. - Chào các anh. Chào đi, ông Jingles. - Nhưng ông Jingles chỉ tiếp tục say đắm nhìn lên khuôn mặt gã đàn ông nhỏ bé hói đầu, như thể thắc mắc về nguồn gốc những giọt nước mắt. Cái ống chỉ màu mè đã được xếp gọn gàng một bên trong cái hộp Corona - xếp lần cuối cùng, tôi nghĩ, và thấy nhói đau. - Eduard Delacroix, với chức năng là người thừa hành lệnh Tòa Án... - Sếp Edgecombe? Tôi định bụng cứ tiếp tục đọc bài diễn văn soạn sẵn, nhưng rồi tôi nghĩ lại. - Chuyện gì thế, Del? Gã chìa con chuột ra cho tôi. - Đây. Đừng để xảy ra chuyện gì cho ông Jingles. - Del, tôi không nghĩ con chuột chịu đến với tôi. Nó không... - Mais oui - có chứ, nó nói nó chịu. Nó bảo nó biết tất cả về anh, thưa sếp Edgecombe, và anh sẽ đưa nó xuống Florida nơi có những con chuột biết diễn trò. Nó nói nó tin cậy anh. - Gã vươn tay xa hơn nữa, và nếu không phải con chuột đã bước ra khỏi lòng bàn tay gã để leo lên vai tôi thì trời chu đất diệt tôi. Nó nhẹ đến nỗi thậm chí tôi không thể cảm nhận qua lớp áo đồng phục, nhưng tôi ý thức được, như một nguồn điện nhỏ vậy. - Sếp này? Đừng để gã xấu xa kia lại gần nó lần nữa. Đừng để gã xấu xa kia làm hại con chuột của tôi. - Không đâu, Del. Tôi sẽ không cho phép. - Vấn đề là, tôi phải làm gì với con chuột ngay lúc ấy? Không thể áp giải Delacroix đi qua các nhân chứng với con chuột vắt vẻo trên vai được. - Để tôi giữ cho, sếp. - Một giọng nói rền vang sau lưng tôi. Giọng của John Coffey và điều kì quái là gã nói đúng lúc, như thể đọc được tư tưởng của tôi. - Giữ lúc này thôi. Nếu Del không phiền. Del gật đầu, cảm thấy nhẹ nhõm. - Được, anh giữ nó đi, John, cho đến khi trò điên rồ này xong. Rồi sau đó... - Ánh mắt gã chuyển trở về Brutal và tôi. - Anh sẽ đưa nó xuống Florida. Đến nơi có thành phố Mouseville. - Phải, gần như Paul và tôi sẽ cùng làm. - Brutal nói, quan sát bằng một con mắt bồn chồn và không an tâm trong khi ông Jingles thi hành mà không phản đối hoặc tìm cách bỏ chạy, ngược lại, nó chạy vụt lên cánh tay của John Coffey giống như đã leo lên vai tôi. - Chúng ta sẽ bỏ ra một ít thời gian nghỉ phép. Chúng ta sẽ làm thế phải không, Paul? Tôi gật đầu. Del cũng gật đầu, mắt sáng lên, phác một nét cười trên môi. - Người ta sẽ mua mười xu một vé để xem nó biểu diễn. Hai xu cho trẻ em. Đúng thế chứ, sếp Howell? - Đúng thế, Del. - Anh là người tốt, sếp Howell ạ. - Del kết luận. - Anh cũng vậy, sếp Edgecombe. Thỉnh thoảng các anh có la lối tôi, oui - vâng, nhưng chỉ khi bắt buộc. Các anh đều là người tốt, trừ gã Percy kia. Ước gì tôi có thể gặp các anh ở một nơi nào khác. Mauvais temps, mauvaise chance - không đúng lúc, không đúng dịp. - Tôi có điều phải nói với anh, Del. - Tôi bảo gã. - Chỉ là những lời phải nói với tất cả mọi người trước khi chúng ta đi. Không quan trọng, nhưng là một phần công việc của tôi. Được chứ? - Vâng, thưa ông. - Gã nói, rồi nhìn ông Jingles ngồi vắt vẻo trên bờ vai rộng của John Coffey, lần cuối cùng. - Au revoir, mon ami - Tạm biệt, anh bạn của tôi. - Gã nói, bắt đầu khóc mạnh hơn. - Je t’aime, mon petit - Tôi yêu cậu, cậu bé ạ. - Gã gửi con chuột một nụ hôn gió. Nụ hôn ấy, lẽ ra đáng buồn cười, hay có thể là dị hợm, nhưng lại không phải thế. Tôi thoáng bắt gặp ánh mắt của Dean, rồi phải nhìn tránh đi. Dean trân trối nhìn xuống dưới hành lang về phía phòng khống chế, mỉm cười một cách kì lạ. Tôi tin là anh ta sắp phát khóc. Về phần tôi, tôi nói những gì phải nói, bắt đầu từ phần tôi là người thừa hành công vụ của Tòa Án, và khi tôi nói xong, Delacroix bước ra khỏi xà lim của gã lần cuối cùng. - Đợi một chút. - Brutal nói và kiểm tra đỉnh đầu của Del, nơi cái nón sắt sẽ chụp lên. Anh ta gật đầu với tôi, rồi vỗ vai Del. - Bén ngót. Chúng ta đi thôi. Vậy là Eduard Delacroix đi chuyến cuối cùng trên với những dòng mồ hôi và nước mắt hòa trộn rơi trên má, sấm trời vang rền trên đầu. Brutal bước đi bên trái gã tử tù, tôi ở bên phải, Dean đi phía sau. Schuster đang ở trong văn phòng của tôi, có hai lính gác là Ringgold và Battle đứng quan sát ở góc phòng. Schuster ngước lên nhìn Del, mỉm cười, và nói với gã bằng tiếng Pháp. Tôi nghe có vẻ giả tạo, nhưng lại có kết quả tuyệt vời. Del cười đáp lại, rồi tiến đến chỗ Schuster, vòng tay ôm lấy ông ta. Ringgold và Battle tỏ vẻ căng thẳng, nhưng tôi giơ tay ra hiệu cho họ và lắc đầu. Schuster lắng nghe Del tuôn ra tràng tiếng Pháp nghẹn nước mắt, gật đầu như thể ông ta hoàn toàn hiểu ý và vỗ vào lưng gã. Ông ta nhìn tôi qua vai gã Pháp nhỏ bé và nói: - Tôi gần như không hiểu nổi lấy một phần tư những gì anh ta nói. - Tôi nghĩ không quan trọng. - Brutal oang oang nói. - Ta cũng nghĩ thế, con ạ. - Schuster vừa trả lời vừa cười. Ông ta là người giỏi nhất, mà bây giờ tôi không biết ông ta ra sao. hi vọng ông ấy vẫn giữ được đức tin, cho dù xảy ra bất cứ điều gì khác. Ông thúc giục Delacroix quỳ gối, rồi khoanh tay lại. Delacroix cũng làm theo. - Cha chúng ta ở trên trời. - Schuster bắt đầu và Delacroix họa theo. Họ cùng đọc bài kinh bằng giọng tiếng Pháp kiểu Cajun nghe như nước chảy, suốt đến câu “mais déliverez-nous du mal, ainsi soit-il - hãy giải thoát chúng con khỏi tội lỗi, xin được như nguyện”. Đến lúc này, Del đã gần như thôi khóc và có nét bình thản. Một vài đoạn Kinh Thánh (bằng tiếng Anh) tiếp theo, không bỏ sót đoạn thiết yếu cũ nói về dòng nước ngầm. Khi cầu nguyện xong, Schuster bắt đầu đứng lên, nhưng Del nắm lấy tay áo ông và nói gì đó bằng tiếng Pháp. Schuster cẩn thận lắng nghe, mày cau lại. Ông phản ứng. Del nói một điều gì khác, rồi nhìn ông vẻ hi vọng. Schuster quay sang tôi và nói: - Anh ta có ý muốn khác, ông Edgecombe. Một bài cầu nguyện mà ta không thể giúp, vì đức tin của ta. Được không? Tôi nhìn đồng hồ trên tường thấy còn mười lăm phút nữa là nửa đêm. - Vâng. - Tôi nói. - Nhưng phải nhanh lên. Chúng tôi phải tôn trọng thời gian ở đây, cha biết đấy. - Phải, ta biết. - Ông ấy quay sang Delacroix và gật đầu. Del nhắm mắt lại như đang cầu nguyện, nhưng không nói gì trong một lúc. Một nếp nhăn hằn sâu lên trán gã, và tôi có cảm giác gã đi ngược vào sâu tâm trí, giống như người tìm kiếm một vật trên căn gác xép, vốn đã từ lâu không còn được dùng đến. Tôi liếc nhìn đồng hồ lần nữa và suýt nói một điều lẽ ra đã nói, nếu như Brutal không giật tay áo tôi và lắc đầu. Thế rồi Del bắt đầu, dịu dàng nói nhưng nhanh nhẹn bằng thứ tiếng Cajun tròn trịa, mềm mại và gợi cảm như bộ ngực một thiếu nữ trẻ: “Marie! Con kính chào Mẹ Marie, vâng, đầy ân sủng; Chúa Trời ở bên Người; Người được ban phúc lành trong tất cả phụ nữ, và đấng Jésus kính yêu của con, núm ruột của Người, được ban phúc lành.” Gã lại khóc, nhưng tôi nghĩ gã không biết. “Nữ thánh Marie, ôi Mẹ của tôi, Mẹ của Chúa, xin hãy cầu nguyện cho con, cho chúng con, những ngư dân nghèo khổ, lúc này đây đã đến... giờ chết của chúng con. Giờ chết của con”. Gã hít một hơi thở sâu, run rẩy. - Xin được như nguyện. Ánh chớp tràn qua cửa sổ duy nhất vào phòng thành một luồng sáng vụt chói chang màu xanh trắng khi Delacroix đứng lên. Mọi người giật nẩy mình và co rúm lại, ngoại trừ chính Del, dường như gã còn đắm chìm trong bài cầu nguyện cổ xưa. Gã đưa tay ra mà không nhìn nó đi đâu. Brutal cầm lấy tay gã và bóp nhẹ. Delacroix nhìn anh ta và hơi mỉm cười. “Nous voyons - chúng ta sẽ thấy” gã bắt đầu nói, nhưng rồi dừng lại. Với một nỗ lực đầy ý thức, gã lại chuyển sang tiếng Anh. - Chúng ta có thể đi được rồi, sếp Howell, sếp Edgecombe. Tôi đã dọn mình trước Chúa. - Tốt. - Tôi nói, tự hỏi Del sẽ cảm thấy dọn mình trước Chúa thế nào sau hai mươi phút nữa, khi gã đứng phía bên kia luồng điện. Tôi hi vọng bài cầu nguyện cuối cùng của gã được chứng giám và Đức Mẹ Marie đang cầu nguyện cho gã bằng tất cả tâm hồn và linh hồn của Người, bởi vì Eduard Delacroix, kẻ hiếp dâm và sát nhân, ngay lúc ấy cần đến tất cả những lời cầu khấn nào mà gã vớ được. Ngoài kia, sấm sét lại đánh ngang bầu trời. - Đi nào, Del. Không còn xa nữa. - Được, thưa sếp, được mà. Vì tôi không còn sợ nữa. - Gã nói thế, nhưng tôi nhìn thấy trong mắt gã - Cha Chúng Ta hay không Cha Chúng Ta, kính chào Mẹ Marie hay không kính chào Mẹ Marie - rằng gã nói dối. Vào lúc bọn tử tội băng qua mảng thảm xanh cuối cùng và chui qua cánh cửa nhỏ, hầu hết chúng đều sợ hãi. - Xuống hết cầu thang thì dừng lại, Del. - Tôi nói nhỏ khi gã chui qua, nhưng lời khuyên đó không cần thiết. Gã đã đứng lại tại chân cầu thang, đúng thế, đứng chết sững. Nguyên nhân gây ra là hình ảnh Percy Wetmore đang đứng trên bục hành hình, với xô nước nùi giẻ đặt một bên chân, và chiếc điện thoại liên lạc với Thống đốc thấy rõ phía bên kia hông phải của hắn. - Không. - Del nói nhỏ, giọng hãi hùng. - Không, không, không thể là hắn! - Cứ đi. - Brutal nói. - Anh chỉ cần nhìn tôi và Paul. Quên hắn đi. - Nhưng... Người ta đã quay lại nhìn chúng tôi, nhưng bằng cách dịch chuyển thân mình một chút, tôi vẫn có thể nắm lấy khuỷu tay trái của Delacroix mà không ai thấy. - Vững vàng nào. - Tôi nói chỉ đủ cho Del và có lẽ cả Brutal nghe được. - Điều duy nhất mà phần lớn những người này nhớ lại là cách xử sự của anh, vậy hãy cho họ điều gì đó tốt đẹp. Đúng lúc ấy, tiếng sét to nhất nổ trên đầu, đủ to để làm rung mái tôn căn nhà kho. Percy giật nảy mình như bị ai đó chọc vào sau lưng. Del khịt mũi cười khẩy, tỏ vẻ coi thường. - Nếu tiếng sét to hơn thế, chắc hắn lại tè ra quần lần nữa. - Gã nói, rồi vươn vai - vai gã cũng chẳng nhiều nhặn gì để mà vươn. - Đi thôi. Thanh toán cho xong. Chúng tôi bước đến bục gỗ. Delacroix bối rối nhìn các nhân chứng - lần này có khoảng hai mươi lăm người - nhưng Brutal, Dean và tôi vẫn nhìn vào chiếc ghế điện. Tất cả có vẻ ổn thỏa. Tôi giơ một ngón tay cái và nhướng lông mày ra hiệu cho Percy, hắn nhăn mặt một bên, như thể muốn nói: Anh hỏi mọi việc có ổn thỏa không là ý gì? Tất nhiên mọi việc đều ổn thỏa. Tôi hi vọng hắn đúng. Brutal và tôi máy móc nắm lấy khuỷu tay Delacroix khi gã trèo lên bục gỗ. Nó chỉ cao cách mặt sàn khoảng 8 inch gì đó, nhưng bạn sẽ ngạc nhiên khi biết bao gã tử tội, kể cả những đứa lì lợm nhất, đã phải cần được giúp đỡ trèo bước cuối cùng trong cuộc đời chúng. Dù sao thì Del cũng vượt qua. Gã đứng trước mặt cái ghế một lúc (cương quyết không nhìn Percy) , rồi nói với nó, như thể tự giới thiệu: “C’est moi - Tôi đây” , gã nói. Percy đưa tay ra, nhưng Delacroix tự xoay người lại và ngồi xuống. Tôi quỳ xuống trên cái bây giờ là bên trái gã, Brutal quỳ bên phải. Tôi che chắn hạ bộ và cổ họng theo cách đã mô tả, rồi đưa ổ khóa kẹp vào để cặp hàm thép bọc lấy lớp thịt trắng ốm o ngay trên mắt cá chân gã Cajun. Sấm gầm lên khiến tôi nhấp nhổm. Mồ hôi len vào mắt, đau nhói. Vì một lí do nào đó, tôi vẫn nghĩ đến Mouseville. Mouseville, và phải tốn mười xu mua vé vào xem. Trẻ em mua vé hai xu, ngắn nhìn ông Jingles qua cửa kính Isinglass. Cái ổ khóa kẹp dở chứng không chịu khép vào. Tôi nghe tiếng Del khô khốc hít mạnh, những buồng phổi chưa đầy bốn phút nữa sẽ biến thành những cái bao bị đốt ra tro than, lúc này đang nỗ lực theo nhịp quả tim bị nỗi sợ điều khiển. Sự kiện gã đã giết nửa tá con người, vào thời khắc đó, dường như là điều ít quan trọng nhất về gã. Ở đây, tôi không cố gắng nêu ra điều gì đúng hoặc sai, chỉ để nói lên cảm giác như thế nào. Dean quỳ bên cạnh tôi, thì thào: - Có gì không ổn, Paul? - Tôi không thể... tôi dợm nói, thế rồi ổ khóa kẹp bật lại, phát ra tiếng tách nghe rất rõ. Hẳn là cặp hàm của nó cũng đã kẹp trúng một nếp da của Delacroix, vì gã nhăn mặt và khẽ rít lên. - Xin lỗi. - Tôi nói. - Không sao, sếp. - Del đáp lại. - Sẽ đau một thoáng thôi. Ổ khóa kẹp bên phía Brutal có điện cực nên luôn luôn mất thời giờ hơn một chút. Cả ba người chúng tôi đứng dậy, gần như cùng một lúc. Dean với lấy ổ khóa kẹp cổ tay trái Del, Percy đến bên tay phải gã. Tôi đã sẵn sàng tiến lên trước nếu Percy cần trợ giúp, nhưng hắn tiến hành gài ổ khóa kẹp cổ tay trơn tru hơn tôi đã làm với ổ khóa kẹp cổ chân. Bây giờ tôi có thể thấy toàn thân Del run rẩy, như thể một dòng điện thấp đã chạy qua người gã. Tôi cũng ngửi được mùi mồ hôi của gã, chua và nồng, gợi nhớ đến nước dưa muối lạt. Dean gật đầu ra hiệu cho Percy. Percy quay đầu qua vai - tôi nhìn thấy một vết ngay dưới góc cằm, nơi hắn cạo râu bị đứt ngày hôm ấy và cất giọng thấp, quả quyết: - Xoay lên một! Có một tiếng rền, giống như tiếng tủ lạnh cũ khi khởi động và những ngọn đèn treo trong nhà kho sáng lên. Có một vài tiếng hổn hển và xì xào khẽ phát ra từ phía nhân chứng. Del co giật trên ghế, tay gã níu lấy đầu tay dựa bằng gỗ sồi, chặt đến mức các khớp ngón tay trắng bệch ra. Mắt gã láo liên, hơi thở khô khốc gấp gáp hơn nữa. Bây giờ gã đã gần như nghẹn thở. - Vững vàng nào. - Brutal thầm thi. - Vững vàng, Del, anh làm tốt đấy. Cố lên, anh đang làm tốt. Ê này các cậu! Tôi nghĩ. Đến xem ông Jingles làm gì đây! Và trên đầu tôi, sấm sét lại giáng xuống. Percy oai vệ bước vòng ra trước mặt chiếc ghế điện. Đây là giây phút trọng đại, khi hắn đứng giữa bục, mọi cặp mắt dồn vào hắn. Tất cả, đúng thế, ngoại trừ một cặp. Delacroix nhận ra kẻ nào và nhìn xuống lòng gã. Tôi cá một đô la ăn một cái bánh rán rằng Percy sẽ vấp váp khi thực sự phải phát biểu trước cử tọa, nhưng hắn đã tuôn ra những lời lẽ trơn tru, bằng một giọng bình thản kì lạ. - Eduard Delacroix, anh bị phạt tội chết trên ghế điện, bản án được thông qua bởi hội thẩm đoàn gồm những người đồng đẳng với anh và tuyên bố bởi một thẩm phán uy tín của tiểu Bang, cầu Chúa cứu rỗi người dân tiểu bang này. Anh có nói gì trước khi bản án được thi hành không? Del cố gắng nói, lúc đầu không thành lời, ngoài một tiếng thì thầm hãi hùng, đầy không khí và các nguyên âm. Bóng dáng một nụ cười khinh bỉ thoáng hiện trên góc môi của Percy; hẳn tôi đã vui mừng nếu được bắn gục hắn ngay tại đó. Rồi Del liếm môi và cố gắng lần nữa. - Tôi hối hận về điều tôi đã làm. - Gã thốt ra. - Tôi chịu mất bất cứ điều gì để quay ngược dòng thời gian, nhưng không ai có thể. Vì thế bây giờ... - Sấm sét nổ vang như đạn súng cối bên trên chúng tôi. Del nhảy dựng lên trong giới hạn các ổ khóa kẹp cho phép, mắt lồi ra trên bộ mặt ướt đẫm. - Vì thế bây giờ tôi trả giá. Cầu Chúa tha thứ cho tôi. - Gã liếm môi lần nữa, rồi nhìn Brutal. - Đừng quên lời hứa về ông Jingles nhé. - Gã nói bằng giọng thấp hơn, cố ý cho riêng chúng tôi nghe. - Chúng tôi sẽ không quên, đừng lo. - Tôi đáp lại, vỗ vào bàn tay lạnh ngắt của Delacroix. - Nó sẽ đến Mouseville... - Nó chẳng đến chỗ quái nào hết. - Percy nói bằng khóe miệng như một gã tội phạm lắm chuyện, trong lúc hắn móc cái đai kiềm chế qua ngực Delacroix. - Chẳng có chỗ nào như thế. Đấy là chuyện cổ tích mấy gã kia bịa ra để trấn an chú mày. Tao nghĩ chú mày nên biết, đồ đồng tính. Một tia sáng kích động trong mắt Del bảo tôi rằng một phần con người gã đã biết... nhưng sẽ giữ kín đối với phần còn lại của hắn, nếu được. Tôi nhìn Percy, chết lặng và phẫn nộ, còn hắn thì ngang nhiên nhìn trả, như thể hỏi tôi có ý định làm gì về điều đó. Và hắn đã thắng tôi, dĩ nhiên. Tôi không thể làm gì được về điều đó, không thể làm gì khi Delacroix đang ngồi trên bờ xa nhất của sự sống. Lúc này không thể làm gì ngoài việc tiếp tục bản án, kết thúc bản án. Percy lấy cái túi bằng lụa treo trên mọc, chụp vào đầu Del, kéo xuống và xiết chặt bên dưới chiếc cằm nhô, để chừa lỗ trống trên đỉnh đầu. Lấy miếng xốp ra khỏi xô nước rồi đặt nó vào trong cái nón sắt là bước tiếp theo, và chính ở điểm này mà lần đầu tiên Percy đi trệch ra khỏi quy trình: thay vì chỉ cần cúi xuống và lấy miếng xốp ra, hắn lại lấy cái nón sắt treo trên lưng ghế, rồi cầm nó trong tay và cúi xuống. Nói một cách khác, thay vì đem miếng xốp đến nón sắt - vốn là cách thức tiến hành bình thường - hắn lại đem nón sắt đến miếng xốp. Lẽ ra tôi phải thấy được điều bất thường, nhưng tôi đã quá bối rối. Đấy là cuộc hành hình duy nhất mà tôi đã tham gia và cảm thấy hoàn toàn mất kiểm soát. Về phần Brutal, anh ta không nhìn Percy chút nào, không nhìn khi Percy cúi xuống chiếc xô nước (hắn di chuyển để che chắn phần nào điều hắn đang làm khỏi tầm mắt chúng tôi) , không nhìn cả khi hắn thẳng người lên và quay về phía Del với nón sắt trong tay, và cái vòng xốp màu nâu đã nằm sẵn trong nón. Brutal đang bận nhìn mành vải đã thay thế gương mặt Del, quan sát hình ảnh cái mặt nạ bằng lụa đen hít vào, viền theo dạng tròn là cái miệng há hốc của Del, rồi phình ra trở lại khi Del thở. Có những giọt mồ hôi to trên trán và trên thái dương của Brutal, ngay dưới đường chân tóc. Phía sau anh ta, Dean có vẻ xao lãng và bệnh hoạn như thể anh ta đang chống chỏi để không nôn ra bữa ăn tối. Tất cả chúng tôi đều hiểu rằng có điều gì đó không ổn - bây giờ thì tôi đã biết. Chỉ có điều chúng tôi không thể nói là điều gì. Không ai biết - lúc ấy thì không - về những câu hỏi mà Percy đã hỏi Jack Van Hay. Có rất nhiều câu nhưng tôi ngờ rằng phần lớn chỉ là để đánh lạc hướng. Điều Percy muốn biết - điều duy nhất Percy muốn biết, tôi tin chắc như vậy - là cái vòng bằng chất xốp. Mục đích của cái vòng bằng chất xốp. Tại sao lại nhúng nó vào nước muối... và điều gì sẽ xảy ra nếu không nhúng nó vào nước muối. Điều gì sẽ xảy ra nếu cái vòng xốp đó khô ráo. Percy ấn cái nón sắt lên đầu Del. Gã nhỏ con nhảy dựng lên và lại rên rỉ, lần này cao giọng hơn. Một vài nhân chứng cựa quậy, vẻ bất an, trên những chiếc ghế xếp của họ. Dean bước lên trước nửa bước, có ý giúp gài khóa cằm, nhưng Percy cộc lốc ra hiệu cho anh ta lùi lại. Dean làm theo, hơi khom vai một chút và nhăn mặt khi một luồng sấm sét khác làm rung chuyển căn nhà kho. Lần này có tiếng mưa kèm theo, rơi lộp độp trên mái. Tiếng mưa nghe nặng nề, giống như người nào đó vãi hạt đậu lên tấm ván giặt. Bạn đã từng nghe người ta nói “Máu tôi đông cứng lại” về những sự việc, phải không? Chắc chắn rồi. Tất cả chúng ta đã từng nghe thế, nhưng lần duy nhất trong suốt những năm tháng mà tôi thực sự cảm nhận điều đó xảy ra với tôi là buổi sáng tinh mơ đầy sấm sét tháng mười năm 1932, vào khoảng mười giây sau nửa đêm. Không phải là cái vẻ đắc thắng độc hại trên bộ mặt Percy khi hắn bước xa khỏi cái hình nhân bị chụp mặt nạ, còng tay chân và đội nón sắt, đang ngồi kia trong lòng Già Sparky; nó là cái lẽ ra tôi phải thấy mà không thấy. Không có nước từ nón sắt chảy xuống má Del. Đấy là thời điểm sau cùng tôi nhận ra điều bất thường. - Edward Delacroix. - Percy nói. - Bây giờ dòng điện sẽ chạy qua người anh cho đến khi anh chết, phù hợp theo luật tiểu bang. Tôi nhìn sang Brutal trong một cơn đau đớn, nếu đem so với cơn nhiễm trùng đường tiểu thì căn bệnh trước kia chỉ như ngón tay sưng. Cái vòng xốp còn khô ráo! Tôi nhép miệng ra hiệu nhưng anh ta chỉ lắc đầu, tỏ vẻ không hiểu và nhìn lại chiếc mặt nạ chụp trên mặt gã người Pháp, nơi những hơi thở cuối cùng đang hít tấm lụa đen vào, rồi lại thổi bung ra. Tôi đưa tay ra chạm vào khuỷu tay Percy nhưng hắn bước tránh tôi, đồng thời nhìn tôi bằng ánh mắt vô hồn. Chỉ là một cái liếc thoảng qua, nhưng nó mách bảo tôi tất cả mọi việc. Sau này hắn sẽ nói dối và sự thật nửa vời, mà phần lớn sẽ được những người có liên can tin tưởng, nhưng tôi biết một câu chuyện khác hẳn. Percy là một học sinh giỏi khi làm điều gì hắn ưa thích, chúng tôi đã phát hiện ra tính cách đó trong những buổi diễn tập và hắn đã cẩn thận lắng nghe khi Jack Van Hay giải thích miếng xốp nhúng nước muối dẫn điện như thế nào, chuyên chở nó, biến lượng điện nạp thành một loại đạn bằng điện bắn thẳng vào não bộ. Ồ vâng, Percy biết chính xác điều hắn làm. Tôi nghĩ sau này tôi tin hắn khi hắn nói không biết chuyện đi xa đến đâu, nhưng thậm chí điều đó không được xem là ý tốt, phải không? Tôi không nghĩ thế. Thế nhưng, ngoài việc trước mặt Giám thị phụ tá và các nhân chứng hét to gọi Jack Van Hay ngưng đóng điện, tôi không thể làm gì khác. Nếu được thêm năm giây, có lẽ tôi đã hét lên thật, nhưng Percy đã không cho tôi thêm năm giây. - Cầu Chúa thương xót linh hồn anh. - Hắn nói với cái hình nhân đang thở hổn hển, kinh hoàng trên ghế điện, rồi nhìn qua gã đến khung lưới hình chữ nhật, nơi Harry và Jack đang đứng, tay Jack đặt trên cầu dao có dòng chữ: máy sấy tóc của Mabel. Viên bác sĩ đứng bên phải chiếc cửa sổ đó, mắt gắn chặt vào chiếc túi đen giữa chân ông ta, im lặng và tự giấu mình như mọi khi. - Xoay lên hai! Lúc đầu cũng như mọi khi - tiếng rì rào hơi ồn hơn chu kì nguyên thủy, nhưng không nhiều, rồi thân mình Del vật ra phía trước, vô thức, các cơ bắp co giật. Thế rồi mọi việc bắt đầu sai lầm. Tiếng rì rào mất tính chất đều đặn và bắt đầu dao động. Hòa vào nó là một âm thanh tanh tách, như tiếng giấy cellophnane bị gấp nếp. Tôi ngửi được một mùi gì đó ghê rợn mà không nhận ra một hỗn hợp gồm mùi tóc và xốp hữu cơ bị cháy, cho đến khi nhìn thấy những sợi khói xanh uốn cong, tỏa ra từ bên dưới mép nón kim loại. Thêm nhiều khói tỏa ra từ lỗ trên đỉnh nón, nơi dây cáp điện xuyên qua, cảnh tượng trông như khói đang bốc ra từ lỗ trên nóc lều Da Đỏ. Delacroix bắt đầu co giật và quằn quại trên ghế, khuôn mặt phủ mặt nạ giật từ bên này sang bên kia, như thể đang kịch liệt khước từ. Chân gã bắt đầu trượt lên xuống bằng những cú co giật ngắn, bị cản trở bởi những ổ khóa kẹp ở cổ chân. Sấm sét rền vang trên đầu và bây giờ thì mưa bắt đầu trút xuống nặng hạt hơn. Tôi nhìn Dean Stanton, anh ta trân trối nhìn trả một cách mơ hồ. Một tiếng nổ bị nén phát ra từ dưới cái nón kim loại, giống tiếng gỗ thông nổ trong lửa nóng, và lúc này tôi thấy khói cũng bốc qua mặt nạ, rỉ thành những làn nhỏ. Tôi phóng về phía tấm lưới giữa chúng tôi và phòng cơ điện, nhưng trước khi tôi kịp mở miệng, Brutus Howell đã nắm lấy khuỷu tay tôi. Cú nắm của anh ta đủ mạnh làm cho dây thần kinh trong đấy bị tê. Anh ta trắng bệch như sáp nến nhưng không hoảng sợ - thậm chí không có vẻ sắp hoảng sợ. - Chớ có bảo Jack dừng lại. - Anh ta thấp giọng nói. - Dù anh làm gì thì cũng đừng bảo cậu ấy làm điều đó. Đã quá trễ, không thể dừng lại. Lúc đầu, khi Del bắt đầu la hét, các nhân chứng không nghe được. Trận mưa trên mái tôn đã tăng lên thành tiếng gầm rống, còn tiếng sấm sét thì gần như liên tục. Nhưng bọn chúng tôi ở trên bục thì nghe, phải rồi - những tiếng rú đau đớn tắc nghẹn từ bên dưới mặt nạ, là những âm thanh mà một con vật bị mắc bẫy và phanh thây trong lò sát sinh phát ra. Tiếng rì rào từ cái nón kim loại bây giờ gay gắt và hung bạo, bị phá vỡ bởi những tiếng nổ của thứ nghe như tiếng nhiễu vô tuyến. Delacroix bắt đầu vật mình ra trước và sau trên ghế, như một đứa trẻ đang cáu kỉnh. Bục gỗ rung lên, và gã vật vào đai kiềm chế bằng da mạnh đến mức gần như làm đứt nó. Dòng điện cũng đang vặn gã từ bên này sang bên kia, và tôi nghe tiếng nghiến răng rắc vì vai gã bị gãy hoặc trật khớp. Âm thanh phát ra giống như tiếng người nào đó chẻ đôi thùng gỗ bằng búa tạ. Đũng quần gã vốn mờ ảo vì chân gã cứ giật cục từng hồi, bây giờ đã sẫm màu. Rồi gã bắt đầu ré lên, những âm thanh ghê rợn, the thé như tiếng chuột, nghe rất rõ, ngay cả trong tiếng mưa rào xối xả. - Chuyện quái quỷ gì xảy ra cho anh ta vậy? - Người nào đó kêu to. - Mấy cái ổ khóa đó kềm được không? - Chúa ơi, cái mùi ghê quá! Phì! Rồi đến một trong hai người phụ nữ: - Điều này có bình thường không? Delacroix vật ra phía trước, ngã ra phía sau, vật ra trước, ngã ra sau. Percy trân trối nhìn gã, hàm xệ xuống trong nỗi kinh hoàng. Hắn đã mong chờ điều gì đó, đúng vậy, nhưng không phải như thế này. Cái mặt nạ bùng cháy thành ngọn lửa trên mặt Delacroix. Mùi tóc và chất xốp bây giờ được phụ họa bằng mùi thịt nướng. Brutal chụp xô nước đựng miếng xốp - lúc này tất nhiên là trống rỗng - và xông đến bồn nước sâu dành cho giám thị đặt trong góc phòng. - Tôi có cần cúp nguồn điện không, Paul? - Van Hay gọi qua tấm lưới kim loại. Giọng anh ta đầy vẻ hoảng sợ. - Tôi có cần? - Không! - Tôi hét trả. Brutal đã hiểu ra vấn đề trước, nhưng tôi cũng không quá tụt hậu: chúng tôi phải hoàn tất cuộc hành hình. Bất cứ điều gì chúng tôi có thể làm trong suốt quãng đời còn lại cũng là thứ yếu so với điều này: chúng tôi phải kết thúc Delacroix. - Mở điện, vì Chúa! Mở, mở, mở! Tôi quay sang Brutal, hầu như không để ý mọi người đang bàn tán sau lưng chúng tôi, một số đã đứng dậy, có hai người đang gào thét. - Bỏ đi! - Tôi hét lên với Brutal. - Đừng lấy nước! Đừng lấy nước! Cậu điên à? Brutal quay về phía tôi, một vẻ hiểu biết sững sờ hiện trên nét mặt. Dội nước lên một người đang bị điện giật. Ồ vâng. Như thế thì ngu ngốc quá. Anh ta nhìn quanh, thấy bình chữa lửa bằng hóa chất trên tường và lấy xuống, thay vì múc nước. Chàng trai giỏi giang. Cái mặt nạ bị tuột khỏi mặt Delacroix, đủ để lộ những điểm đã hóa đen hơn cả John Coffey. Mắt gã, bây giờ chỉ còn là những khối cầu trắng đục, biến dạng, đã bị bắn tung ra khỏi hốc mắt và nằm trên má gã. Lông mày gã biến mất, và như tôi nhìn thấy, vành mắt đã bắt lửa và bắt đầu bốc cháy. Khói phun ra từ chỗ cổ áo hở hình chữ V. Và tiếng điện chạy rì rào vẫn tiếp tục, tràn ngập đầu tôi, rung lên trong đó. Tôi nghĩ đấy là thứ âm thanh mà người điên phải nghe thấy. Dean tiến lên phía trước, mụ mẫm nghĩ rằng có thể dập tắt lửa trên áo Del bằng tay. Tôi lôi anh ta ra, đủ mạnh suýt làm Dean mất thăng bằng. Chạm vào Delacroix vào điểm đó cũng sẽ như Brer Rabbit tung cú đấm vào Tar-Baby. Trong trường hợp này sẽ là một Tar-Baby bị điện giật. Tôi vẫn không quay lại để xem điều gì đang xảy ra sau lưng chúng tôi, nhưng nghe như một cơn hỗn loạn, ghế ngã khắp nơi, người ta rống lên, một phụ nữ gào hết sức to: - Dừng lại, dừng lại, ôi, các người không thấy anh ta bị hành hạ đủ rồi sao? - Curtis Anderson chụp vai tôi và hỏi chuyện gì xảy ra, vì Chúa, chuyện gì xảy ra, và tại sao tôi không ra lệnh cho Jack cắt nguồn điện? - Vì tôi không thể. - Tôi trả lời. - Chúng ta đã đi quá xa không thể quay lại, anh không thấy sao? Dù sao thì vài giây nữa mọi việc sẽ kết thúc. Nhưng phải đến ít nhất hai phút sau mọi việc mới kết thúc, hai phút dài nhất trong suốt cuộc đời tôi, và trong phần lớn thời gian đó, tôi nghĩ Delacroix vẫn còn ý thức. Gã gào thét, co giật và lắc lư từ bên này sang bên kia. Khói tuôn ra từ lỗ mũi và từ cái miệng đã hóa màu tím đen của mận chín. Khói từ lưỡi gã bốc lên giống như khói bốc lên từ vĩ nướng thịt. Tất cả nút áo hoặc bật tung ra, hoặc tan chảy. Áo lót của gã không bắt lửa nhiều, nhưng cháy thành than và khói tuôn qua nó, chúng tôi ngửi thấy mùi lông ngực bị nướng. Sau lưng chúng tôi, người ta tuôn ra cửa như đàn bò trong cơn chạy tán loạn. Họ không thể qua được, dĩ nhiên - dù sao thì chúng ta đang ở trong một căn nhà tù khốn kiếp - vì thế họ chỉ đơn giản túm tụm quanh cửa trong khi Delacroix bị nướng chín. (Bây giờ tôi đang bị nướng, lão Toot đã hát như thế khi chúng tôi diễn tập xử tử Arlen Bitterbuck, tôi là con gà tây hết đời) , sấm sét cứ vang lên và mưa thì trút xuống từ trên trời cao trong một cơn thịnh nộ hoàn hảo. Ở thời điểm nào đó, tôi chợt nghĩ đến vị bác sĩ và nhìn quanh tìm ông ta. Ông ta vẫn còn đó, nhưng đã ngã vật trên sàn nhà bên cạnh túi thuốc màu đen. Ông ta đã bất tỉnh. Brutal bước đến đứng cạnh tôi, tay cầm bình chữa lửa. - Chưa được. - Tôi nói. - Tôi biết. Chúng tôi nhìn quanh tìm Percy và thấy hắn đang đứng gần như núp sau lưng Sparky, cóng người, mắt lồi ra, một khớp ngón tay đút vào trong miệng. Rồi sau cùng, Delacroix ngã vật trở vào ghế, khuôn mặt lồi, biến dạng vắt trên một bên vai. Gã vẫn còn co giật, nhưng điều này trước đây chúng tôi đã chứng kiến, đấy là do dòng điện chạy qua người gã. Cái nón sắt đã lệch đi trên đầu, nhưng khi chúng tôi lột nó ra sau một thời gian ngắn, phần lớn da đầu và tóc còn lại tuột ra theo, dính cứng vào nền kim loại như thể bị dán bằng một thứ keo mạnh. - Tắt đi! - Tôi gọi Jack sau khi ba mươi giây trôi qua mà không xảy ra chuyện gì, ngoài những cơn co giật vì điện của đống than hình người bốc khói đang nằm vật trên ghế điện. Tiếng rì rào ngưng lại tức thì và tôi gật đầu với Brutal. Anh ta quay lại và đẩy cái bình chữa lửa vào tay Percy, mạnh đến mức Percy loạng choạng lùi lại, suýt rơi khỏi bục. - Mày làm đi. - Brutal nói. - Dù gì thì mày cũng là kẻ điều khiển Chương trình, phải không? Percy nhìn Brutal bằng ánh mắt vừa bệnh hoạn vừa tàn bạo, rồi gài khóa bình chữa lửa, bơm, lên cơ bẩm và bắn ra một đám mây bọt trắng lên con người ngồi trên ghế điện. Tôi thấy chân Del co giật một lần khi bọt xịt trúng mặt gã và nghĩ: Ôi không, lẽ nào chúng ta lại phải chịu đựng nữa, nhưng chỉ có một cú giật duy nhất đó thôi. Anderson đã quay lại và đang oang oang phát biểu trước các nhân chứng hoảng sợ, bảo họ rằng mọi việc