"Đại Việt Sử Ký Tiền Biên - Ngô Thì Nhậm & Ngô Thì Sĩ full prc pdf epub azw3 [Lịch sử] 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Đại Việt Sử Ký Tiền Biên - Ngô Thì Nhậm & Ngô Thì Sĩ full prc pdf epub azw3 [Lịch sử] Ebooks Nhóm Zalo TRUNG TÂM KHOA HỌC Xà HỘI VÀ NHÂN VĂN QUỐC GIA VIỆN NGHIÊN c ứ u HÁN NÔM ĐẠI VIỆT SỬ KỶ TIÊN BIÊN NHÀ XUẤT BẢN KHOA HỌC Xà HỘI HÀ NÔI -1997 ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TIÊN BIÊN / * T ổ chức công trìn h : d ư o n g t h ị t h e D ịch và. chú thích: S ĩ 5 = - H iệu d ín h : IxDỮỸCHỮỒNG Bạn dpc muốn cõ nguyên văn cãc bài trong Tạp chí TW T Ả li * . ^ TRUNG TÀM UNESCO THÒNG TIN Tư LIỆU LỊCH sử - VĂN H A V Địa chi: 19EĨ. K.HXH. cố n g VỊ, Ba Đinh. Ha Nội - Điện thoại: TR U N G TÀM KHOA HOC XẢ HỘI VÀ NHÁN VẢN Q U Ố C GIA VIỆN NGHIÊN c ú u HÁN NÔM ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TIỀN BIÊN NHÀ XUẤT BÀN KHOA HỌC XẢ HỘI H À NÒI - 1997 LÒI GIÓI THIỆU Cùng với Dại Việt sừ ký toàn thư và Khâm định Việt sừ thông giám cương mục. Đại I iệt sừ kỹ tiên biên (DVSKTB) là một trong ba bộ quốc sử lớn của nước ta còn lại dến ngày nay. Sau Đại Việt sử ký toàn thư khấc in và còng bố vào năm Đinh Sửu niên hiệu Chinh Hoa thứ 18, triều Lẽ Hy Tông <1697), DVSKTB là bộ quốc sù thứ hai dược khắc in trong ba năm Mậu Ngọ, Kỳ Mùi, Canh Thôn, hoàn thành vào năm Canh Thăn, niẽn hiệu Cành Thịnh thứ 8 (1800) triều Táy Sơn. Bộ sử 17 tập này dược Sừ quán triều Tày Sơn cho khắc in trên cơ sở công trinh biẻn soạn cùa sù gia Ngô Thì Si, dược con óng là Ngỏ Thi Nhậm tu dinh, thực sư là một thành tựu quan trọng vè sử học cùa vương triéu tiến bộ nhưng quá ngấn ngùi áy. Tác giả Ngô Thì Si (1726-1780) là một nhà tha, nhà văn, nhà sử học, nhà văn ìioá lớn cùa nước ta ở thê kỳ XVIII, mà các tác phẩm cũng như cũng như còng trinh biên khảo dèu toát lèn một tinh thăn yêu nước nòng nàn, dông thoi củng thể hiện một trinh dộ học vấn uyên bác. một thái dộ trị học nghiêm túc, giàu tinh thần phê phan. Trẽn phương diện sử học, DVSKTB cũng như Việt sừ tiêu án của ông đều là những công trinh như vậy. Con ông, Ngô Thi Nhậm (1746-1803) - người biên tập -và tu dính vãn bản - là một tri thức lỏn, sáng suôt và nhạy bén, dà sớm tham gia phong trào Tây Son, cộng tác dác lực và trung thành với Quang Trung Nguyễn Huệ, dòng thời dã cống hiến cho vởn hoá nước nhà nhiêu công trình sáng giá : Hàn cóc anh hoa, Hy Doãn thi văn tập, Bang giao hào thoại, Xuân Thu quàn kiến, Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh... DVSKTB, v'é phương tiện sù liệu, căn bàn dựa theo Dại Việt sù ký toàn thư, nhưng giá trị chù yếu /à à nhũng bình luận sắc sào và những ván dè tác giả nêu lèn dẻ' dính chính hoặc dớnh giá lại. Từ cách xép Triệu Dà thành "Kỳ ngoại thuộc Triệu Vũ Dể', đến việc không dạt Sỉ Nhiếp thành một kỳ riêng, không gọi s ỉ Nhiếp là Si Vương v.v..., tác giả dầu tò rõ quan diếni dộc lập cùa mình. Tinh chát sử luận dậm nét trong ngót năm trăm "lời bàn" của các sử gia nổi tiêng dời trước như Lẻ Vùn Hưu, Phan Phu Tiên, Lẽ Tung, Ngó s i Liổn và cùa chinh tác già, ờ dó toát lẻn lòng tự hào dán tộc và lòng yêu nước său sác. Ngày nay dọc lại, chảng hạn, đoạn bình luận vè Hai Bà Trưng, lập luận chật chẽ mà sác bén, vởn phong súc tích giàu chất trữ tình còn khiến ta xúc dỏng và cảm phục : b DẠI VIỆT SỬ KÝ TIÈN BIÊN " Không gì khó thu phục bàng nhản tám, không gì khó nám vững hơn thế nước. Nhung diều khó han nữa là dàn bà mờ tập hợp dược cà dán chúng trai tráng làm dòng chí. Nước ta bị nội thuộc dă lâu, sự phục tòng pháp chẻ của ta dã quen, người Trung Hoa cho là yên, rát coi thường cách cai trị cùa các quan tướng họ. Những diều oán hận chất thành gò, họ gạt di cho lù tăm dịa trẻ con, thường khi nghi dến chuyên nổi dậy thì họ cho là Phương Nam không phải dát dụng võ mà người thì nhút nhát. Lại chính lúc nhà Hán vừa trung hưng, dông dào người chi dùng, ai dám dưa chút thôn hèn mọn chạm vào con tức giận cùa hùm beo. Thế mà Bà Trưng là dàn bà goá búi cao mớ tóc, trai tráng trong nước dầu cúi dầu nghe bà chỉ huy, những người lớn ỏ năm mươi máy thành cũng phải nín hơi không dám trái lệnh. Lưu Văn từng diệt dược quàn hùng, chống nổi dại địch, lại dược quyền họp bĩnh sai tướng, cáp dù xe thuyên lương thục, thế mà phải õ.n trưa ngủ muộn, dốc cà vào việc ca mưu. Mã Phục Ba từng làm cỏ nước Tiên Linh, phá tan dát Tam Lang một cách dễ dàng, thế mà khi sang dóng đòn ờ Lãng Bạc phái náu quân gò ngựa di chậm, giàu xe dưới chằm, bụng lo rầu ngay ngáy, miệng nói nàng dè dạt. Tiêng tăm cùa hai bà chân dộng cả Di Hạ ; cơ nghiệp cùa hai bà dọc ngang khắp trời dát. Ỏi, anh hùng quá /'Vi. Tóm tại, DVSKTB là một bộ quốc sử có giá trị về nhiều mặt. Các nghiên cứu viên Dương Thị The, L ẽ Vãn Bày, Nguyên Thị Thào, Phạm Thị Thoa à Viện Nghiên cứu Hán Nôm dã dành nhiêu năm lao dộng học thuật cằn cù và bền bỉ dế hoằn thành việc biên dich và kháo chú. Được sụ giúp dã nhiệt tình cùa Nhà xuăt bàn Khoa học xã hội, bộ sách dưac xu át bản kèm theo nguyên tác chữ Hán dể tiện kiểm tra dổi chiếu. Tôi trán trọng giới thiệu bản dịch DVSKTB này với dộc già trong và ngoài nước. Các dịch già dã cố gàng hết sức, song sai sót là diêu khó tránh khỏi, mong dược dộc già VUI lòng chỉ giáo. Ý kiến xin gửi về Viển Nghiên cửu Hán Nôm, 99B Dăng Tiến Đông - Đống Da , Hà Nội. Xuân Á Hợi 1995 PHAN VÃN CÁC Viện trưởng Viện nghiên cứu Hán Nỏm ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TIỀN BIÊN TÌNH TRẠNG VẢN BÀN - ĐẶC ĐIỂM n ộ i d u n g - GIÁ TRỊ TÁC PHẨM Dại Việt sử ký tiền bióĩi (ĐVSKTB) của danh gia Ngô Thì Sĩ được con là Ngô Thì Nhậm sửa sang dâng vua cho in năm Canh Thân (1800), niên hiệu Cảnh Thịnh đời vua Quang Toàn vương triôu Tây Sơn còn lại đẹn ngày nay là 1 trong 3 bộ quốc sử lớn của nước ta (Dại Việt sù ký toàn thu, Dại Việt sử ký tiên biên và Khâm dinh Việt sử th ô n g giám cươìig mục). I. TÌNII TRẠNG VĂN BẤN. 1. Vấn dề dị bản: Sơ bộ điều tra, ĐVSKTB hiện còn 13 bản lưu giữ ở các nơi sau: (1) Pari Pháp 3 bản, trọng đó có 1 bản viết/1) (2) Thư viện Viện Sử học Hà Nội 2 bản in. (3) Thư viện Khoa Sử Trường Dại học Tổng hợp Hà Nội 1 bản in. (4) Thư viện Viện Nghiên củu Hán Nôm H.à Nội 7 bản in. Trong sô’ 13 bản trên chỉ có 1 bản ký hiệu A2/1 - 7, Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm là đủ 17 quyển. Các bản khác đều thiếu ở các mức độ khác nhau. So sánh đối chiếu các bản in không thấy có sự khác nhau về khuôn khổ, khuôn chữ, nội dung. Song có đôi chút sửa đổi ở tờ mật. Cãn cứ vào sự sửa đổi đó chúng tôi chia làm 3 loại: a) Loại còn đầy đủ các chi tiết trên tờ mặt của lần in đầu tiên có khung trang trí 2 rồng châu mặt trời, xung quanh có hoa văn, giữa co' 6 chữ lớn :K íH ‘li uĩl lú (Đại Việt sử ký tiền biên), bên phải là 6 chữ nhỏ hơn i|Y n ■■)?- (Sử quán khâm phụng biên định); bên trái co' 6 chữ It; 'ỉ|í' 3$ hi (Bắc thành học đường tàng bản). Cuối bài đề từ là dòng niên đại ắi 0] lí J;l 'í% ỬV 'Ệ ỊịjiJ fi|i Ệ 11 «1 11 (Hoàng triều Cảnh Thịnh vạn vạn niên chi bát trọng thu nguyệt vọng nhật). Loại này hiện nay chưa tìm thấy. b) Loại tờ mẠt chưa sửa nhưng dòng niên đại ở cuối bài dê tìí bị đục 2 chữ "Cảnh Thịnh ". Loại này chác chán được in lần thủ 2 vào thời đàu đời Gia Long, người có nhiều thù hằn với Tây Sơn. Loại này hiện nay còn có đủ 1 bản đủ 17 quyển ký hiệu A2/1 -7 Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm. 1. Di sdn Hán Nhm Việt Nam thu mục líỉ yfu. Tập I. NXB Khn;i học xã hội, Mìi Nội-1993. ir 525. s c) Loại tờ m ặt co' sửa chữa, không t.rang trí hình rồng, hoa vân, 6 chữ "Sử quán khâm phụng biên định" và 2 chữ "Bác Thành" đã bị đục bỏ. Hai chữ "Cảnh Thịnh" của dòng niên đại sau bài đề cũng bị đục bỏ. Loại này chác được in làn thứ 3 vào đời Minh Mệnh khi Bác Thành đã được đổi thành Hà Nội. Loại này hiện còn 4 bản thiếu mức độ khác nhau, lưu trữ tại Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm 2 bản, Khoa Sử Trường Đại học Tổng hợp H à Nội 1 bản, Viện Sử học 1 bàn. Những bản khác đêu m ất tờ m ạt và cũng thiếu ở các mức độ khác nhau . Như vậy ĐVSKTB không còn dị bản. Trong số 13 bàn trẽn chúng tỏi chọn bản in làn thứ 2 đầy đủ n h ất (17quyến>, ký hiệu A2/1 - 7 của Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nỏm đê’ biên dịch và chú thích. 2) Tác giả và niên dại biên soạn tác phẩm: ■ Sách co' bài đề từ song không ghi tên tác giả, có dòng niên đại sau bài đề tìí lại bị đục niên hiệu. Bởi th ế vấn đề niên đại và tác giả của tác phẩm càn phải nghiên cứu xác định. Trước hết ta hãy xét bài đẽ từ của chính tác phẩm và bài Kim tiên của họ Ngô. a) Bài đề từ: "Mùa xuân năm Mậu Ngọ (1798), vua ta lẽn ngôi ban chiếu cho quan xứ Bắc Thành san khắc ngũ kinh, tứ thư và các sử để ban hành trong thiên hạ. Trong đó, bản in kinh truyện cũ qua thu thập điểm lại còn được sáu phần mười. Trong đo' co' bản in mục nát. mọt ăn phải gia công bổ khuyết Duy co' nguyên bản Dại Việt sử ký đều đá th ất lạc. Nhân các sách còn lại của các quan viết sử đời trước chia lại biến tập từ họ Hồng Bàng đến Ngô sứ quán là Ngoại kỷ; từ Đinh Tiên Hoàng đến thời thuộc Minh là Bản kỷ. Tất cả gồm 17 quvển Mùa th u nàm Canh Thân (1800), san định xong sáp xếp cẩn thận thành từng tập kính dâng vua xem. Vảng m ệnh cho phép lưu giữ tại Bác Thành học đường rồi in ra lựu hành đế tiện cho người học. Vê quốc sử từ ngoại kỷ An Dương Vương năm Nhâm Tuất trở xuống đến bản kỷ thuộc Minh nam Đinh Mùi trở lên gồm 4354 nám. Theo sách Xuân Thu nguyên mệnh bao thì năm H oàng Đ ế thứ 8 Giáp T uất là Giáp Tý thứ nhất; giữa thời Hùng Vương đến thời thuộc Minh năm Đinh Mùi, Tuyên Tông, Tuyên Đức, thứ 2 là Giáp Tý thứ 69. Vâng mệnh láy tên là Dai Việt sử ký tiên biên và liệt kê mục lục niên biểu thế thứ các dời cùng với các nhà làm quan viết sử thời trước theo thứ tự trên đàu sách để đợi người tra xét và chứng minh. Ngày ràm tháng giữa thu niên hiệu [Cảnh Thịnh] thứ 8 Hoàng triều muôn nám. b) Tờ Kim tiên trong Ngô gia vãn phái:(1^ "Vâng m ệnh cha tôi truyẻn bảo làm thay tờ Kim tiên nói vê bộ Quốc sử dã khác xong, dâng cúng tiên tô’ Ngọ Phong cống. Nay buổi giao thời, vận đương hanh thái, nghiệp to lớn vững tưa [Thái Sơn]. Kính nghi Hoàng thượng ta nay để lòng đến cổ điển, đặc 1 1. Bãi Kim liSn này trích trong Ngộ niu \'ăr< phái lập Dưỡng Chuyết thi v,1n của Tĩnh Trai crtng. Tĩnh Trui công la lổn hiCu của Ngữ Thi Diẻn. con trai Ngỏ Thỉ Nhậm, cháu đích lỏn Ngfl Thi Sĩ vâng lỏi cha VIỐI tcl Kim liứn. lá thư dâng cung to Ii£n cáo viộc họ Quiíe sử dã làm xong. ^ « . 4 - 0 J l & ÀL ^ 'a' & * 0 t t 4r o Ì « Ẳ Í 6 « Á * i * *' & * 4" X o 4 f t g t * ã à . o Z 1 * # À $ o i i * fi o ì ă . - t ffl o £ w X * # * * * * . & . . a » f t * o 0p ỳẸ < i t * : o i S í â ầ o iẾ ^ J4 < * . íp 0 jị'ề ã *L o * &* £ ặ*1T * o & o * . £■ •»* o * % ề t & õ Í9 ĩ ^ i < * * ĩ o ** •§- fh & o ỹA « ẵ t & o & te o 4 L $ L ( t ) o tó. o ♦ f c A . # i • te # t* Ỷ # « t o j E * t e * ĩ < * $ * a * * # . : £ * « # & # o ^ U à i t i r # « o 5MẬ Ifc & £ o + - b & ^ ì £ f l r * ’ < # r $ c te * -ỉí* M & £ T * ià T o « + ^ * o Ẳ * t e * . * . * * o J* * l|L ;£ t e ifc * . 0 tfr * la * jo >K < *] *- o f f 3 ] ^ ± o & $ : S L & X * l ị L í£ o * J « ì i r ã ^ x & o fcj* J i ỉ f c ^ £ « o ir í-íè * 8S «o te n *1# ' X te < * í o # & te * te te , te * * *. i k < ít te o 1$ Ịfc *p íỉ- * £ o te * ậ ^ Ẵ l « l o < * £ o t e * o S ^ Ý Ỷ o ; te te &- i£ * •* o * . 3 r £ « - & a < 4 > - t e o *p o t e & te flỉ . & t e * s t f * 0 E < . t e £ * *h t e * . o T ờ m ặt bàn in lần thứ 3, c ỗ sửa chữa DẠI VIỆT SỬ KÝ TIỀN BIÊN chipu cho khác ỉn lai bộ Quốc sử. Con cũng dư vào hàng sửa chép Kính dem bộ sử của nhà ta chứa riêng, đệ lên Quốc sử quán, tuân chỉ sửa định lại. giao cho thợ khắc in. Trải qua ba 'năm: Mậu Ngọ. Kỷ Mùi, Canh Thân (1798 - 1800) khác xong dâng lẽn ngự lãm. Kinh được hoàng thượng coi dọc. hạ chỉ ngợi khen. Áng vãn chương để lại aủa tổ tiên, những mong nói chí, nơi tiên sơn vừa ngày sinh nhật, kính cáo thành công. Kính cẩn dâng Kim tiên chúc mừng. Cúi nghĩ: Sao Khuê giáng xuống trần thế, lòng nghĩ toàn dọc đất ngang trời; biển học tóm về chỉnh thõng, huân thường là ngoài vương trong thánh. Tiếng nói ban đàu phát hiộn huyên bỉ, đức sáng đề lại khắp nơi thấm nhuần. Kinh nghi: Tiên phụ [quan tước] học uẩn súc sáu kinh, dạ bao hàm tám cõi. Lễ nhạc thi thư vẫn còn giảng đọc, chính học mở rộng nguồn gốc của thánh hiền thuở xưa. Vãn chương chính sự mở lối noi theo, nên cao mở mang nhà cửa của vương hau bao kẻ. Danh dư thay cho rừng nho mẫu mực; vãn nghĩa nghi Sử quán phẩm bỉnh. Biên niên hợp cả Lê Phan và Dương, Nguyễn các nhà, mười bảy quyển ngụ tâm thuật tinh thàn vào trong dó; các đời Hùng Lạc đến Đinh, Lẽ trở xuống bốn ngàn năm co' điển chương văn vật. đủ làm bảng Chép thảng tav nêu tiếng Thái sử, Đổng Hồ*1 nêu nghía lớn khác đâu Tử Dương. Tư Mã *“’. Bọn tặc tử loạn thán đã giết chết, lệ phán đoán rõ như hình thư ở sông Tứ 11 ngày xưa, lấy đại thực dụng bảo học trò, các điển yếu dựng nền sử học như Thái sơn vững chác. Pho sách quý khấc in vừa doạn; chốn cửa vàng-^sửa soạn dâng lên. Gương chính trị rõ ràng, sách uyên thâm xứng với lời vua khen ngợi. Tiếng truyền tụng càng nhiều, sách trong vách|S| dùng làm khuôn mẫu cho nhân tài. Kính hoà trên đối với chân dung. Thâm tuý kính nêu làm bảo huấn Cúi mong: Tinh linh xét đến mãi mãi, ngưỡng vọng rất là tín thành. Điển thường trung chinh dược phát huy, mệnh mạch cùa dai phương dài mãi, công dụng phù trì nhờ giúp dỡ. căn cơ lưu truyền mãi không cùng.(,,ỉ Qua nội dung bài đề từ, bài Kim tiên và sách hiện còn, ta rút ra những điểm sau: 1) Tôn sách: Bài đề từ viết: "Vâng mệnh lấy tên là Dại Việt sử ký tiền biên". Tên sách in còn lại mang tên Dại Việt sử ký tiền biên. 2) Nội dung, sổ lương quyển: Bài đề tìí nói "... biên tập từ họ Hỏng Bàng đến Ngô sứ quàn là Ngoại kỷ; từ Dinh Tiên Hoàng đến thời thuộc Minh là Bản kỷ. Tát cả gồm 17 quyến". Bài Kim tiên viết: "Mười bảy quyến ngụ tàm thuật tinh thần vào trong đó.Các thời Hung Lạc đến Đinh Lê trở xuống, bôn ngàn năm có điển chương vãn vật đủ làm bàng". Sách hiện còn cũng gồm 17 quyến. 1234* 1 ICn quan chép Mí nu.ic Tííil thiti Xuân Thu có liếng la chép sù thẳng thắn 2 N‘" Ch“ 1 lv d,‘> hot làm sủ nín "gỹàí la dùng dò gọi thay cho Chu lly. Tu Mã lức Tư M« Thiên. Tư Mã Quang hai nhá VIÓI sù. 3 Nrti Khổng rù gùng bài va lam kinh Xuân Thu. 4 Chi diOn nhu vua. s. Sach tim dii.It irong vách nha họ Không, y nói sách Xuân Thu. '■ Xcm m " v ,n Gifip • "<"* *«"<• I Ạ|» I. NXB v.ln hoá, Hà Nội, 1984. ,r. 88. 14 DAI VIỆT SỬ KÝ TIỀN ......... rrn*u^t' nen Lỉ*upjp7: 1 >IUỊ I ị Trp~ fr*v tfí? ^ k , i > . > *T"\ '&Ui 4 * L BIẼN n i HG IVH '< 3) Thời gian san định đưa khác in. Bài đề từ có đoạn viết: Mùa xuân nám Mậu Ngọ (1798), vua ta lên ngôi ban chiếu cho quan xứ Bác Thành san khác ngũ kinh, tứ thư và các sử để ban hành trong thiên hạ..... Mùa thu nám Canh Thản (1800), san định xong sáp xếp cẩn thận thành từng tập kính dáng vua xem. Vâng mệnh cho phép lưu giữ tại Bác Thành học đường rồi in ra lưu hành để tiện cho người học". Bài Kim tiên viết: "Trải qua 3 nam Mậu Ngọ, Kỳ Mùi, Canh thân (1798 -1800) khác xong dâng lẽn ngự lãm". Cả 2 bài đều đưa ra thời gian san định khác in là 3 năm. 4) Về tác giả: Bài Kim tiên có đoạn: " Vâng mệnh cha tôi truyền bảo làm thay tờ Kim tiên nói về bộ Quốc sử đã khác xong, dâng lên cúng tiên tô’ Ngọ Phong công... Áng văn chương đê’ lại của tô’ tiên , những mong nối chí nơi tiên sơn vừa ngày sinh nhát kính cáo thành công. Kính cẩn dâng Kim tiên chục mừng". Như trên đã trình bày, rõ ràng giữa bài Kim tiên, bài đề từ và tác phẩm có sự trùng hợp về tên sách, tác giả, thời gian san định cũng như nội dung. Vậy là vấn đề đã sáng tỏ: Tác giả của bộ Quốc sử Dại Việt sử ký tiên biên này in thời Tây Sơn là của Ngô Thì Sĩ Ngọ Phong công, một sử thân triều Lê Cảnh Hưng. Còn Ngô Thỉ Nhậm con trai ồng chi góp công sửa chữa đính chỉnh dâng vua cho in. Ngô Thì Sĩ (1726 - 1780), là người làng Tả Thanh Oai, huyện Thanh Oai, trấn Sơn Nam nay là tỉnh Hà Tây. ồng đỗ Hoàng giáp khoa Bính Tuất (1766), niên hiệu Cảnh Hưng. Ông làm quan đến chức Thiômđô ngự sử, làm dốc trán Lạng Sơn kiêm Quõc sử hiệu chinh. Hiệu là Ngọ Phong cư sỉ . Ông soạn sách Việt sử tiêu án, Dại Việt sử ký tien biên và nhiều tập thơ, vãn đê’ lại cho dời. II. NỘI DUNG TÁC PHẨM ĐẠI VIỆT s ử KÝ TIỀN BIÊN Gồm 17 quyển đo'ng thành 7 sách, khô’ 29 X 18cm, 1372 trang, tác già Ngô Thì Sĩ, in năm Canh Thân niên hiệu Cảnh Thịnh thứ 8 (1800) ván in gỗ. Bác Thành hoc dường tàng bản. Tờ mật chạm hlnh rồng châu mặt trời và hoa văn xung quanh, giữa có 6 chư to "Đại Việt, sử ký tiền biên" bên trái co' 6 chữ nhỏ hơn "Sử quán khâm phụng biên định"; bên phải là 6 chữ "Bắc Thành học đường tàng bản". Tiếp theo là "Đại Việt sử ký tiên biên mục lục đề tìí". Cuối bài là dòng niên đại "Hoàng triều [Cảnh Thịnh] vạn vạn niên chi bát trọng thu nguyệt vọng nhật.". Tiếp theo là sơ đồ quốc thống khi chia khi hợp qua các đời và sơ đô các vua truyên kế. Tiếp là mục lục’ sách, họ tên, quê quán, quan chức của các sử thân Lê Văn Hưu, Phan Phu Tiên (thời Trân), Ngô Sĩ Liên, Lê Tung, Nguyễn Nghiễm và Ngô Thì SI Kết thúc phàn này là bài tổng luận của Lê Tung. Phân chính sử gồm 17 quyển. Trong đo' 7 quyển đâu là Ngoại kỷ; 10 quyến sau là Bản kỷ. Phần Ngoại kỷ chép tìí họ Hồng Bàng năm Nhâm Tuất (2879 tr. C.N) đến Bàn kỷ thuộc Minh năm Dinh Mùi trở lên gôm 4354 năm. Ngoại kỷ 7 quyển: Quyển I: Kỷ Hồng Bàng thị, Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân, Hùng Vương bát 16 DẠI VIỆT SỬ KÝ TIỀN BIÊN đàu từ năm Nhâm Tuát đến năm Quý Mão, tổng cộng là 2622 năm. An Dương Vương bát đầu năm Giáp Thìn, kết thúc năm Quý Tỵ gồm 50 nãm. Quyển II: Kỷ Ngoại thuộc Triệu bát đàu từ năm Giáp Tý kết thúc là năm Canh Ngọ gồm 97 năm. Quyển III: Kỳ Nội thuộc Tây Hán bát đầu là năm Tân Mùi kết thúc là năm Kỷ Hợi gồm 149 nám Kỷ Trưng Nữ Vương bát đầu là năm Canh Tý, kết thúc là năm Nhâm Dàn gôm 3 năm. Kỷ Nội thuộc Đông Hán từ nãm Quý Mão kết thúc năm Kỷ Sửu gồm 167 năm. Quyển IV: Kỷ Nội thuộc Ngô, Tấn, Tổng, Tề, Lương bắt đầu là năm Canh Dàn, kết thúc là nãm Canh Thân gồm 323 năm . Quyển V: Kỷ Tiên Lý 3 vua, bắt đàu là năm Tân Dậu, kết thúc là năm Nhâm Tuất gồm 62 năm. Quyển VI: Kỷ Nội thuộc Tuỳ, Dường bát dầu Ịà năm Quý Hợi, kết thúc là năm Bính Dàn gồm 304 nãm. Quyển VII: Kỷ Nam Bác phân tranh bát đầu là năm Đinh Mão, kết thúc năm Mậu Tuất gồm 32 nậm. Kỷ họ Ngô 3 vua và Dương Tam Kha tiếm vị bắt đầu là năm Kỷ Hợi, kết thúc là năm Dinh Mão gồm 29 nàm. Bản kỷ 10 quyển: Quyển I: Kỳ nhà Dinh 2 vua, bắt đầu là năm Mậu Thìn, kết thúc là nãm Canh Thìn gồm 13 năm. Kỳ nhà Lẽ 3 vua, bắt đàu là năm Tân Tỵ, kết thúc là năm Kỷ Dậu gồm 29 nầm. Quyến II III IV: Kỷ nhà Lý 9 vua, bát đàu năm Canh Tuất, kết thúc là năm Ất Dậu gôm 216 năm. Quyển V, VI, v n , VIII, IX, X: Kỷ nhà Tràn 12 vua, phụ kỷ Hồ Quý Ly, nhà Hậu Tràn 2 vua và kỳ Nôi thuôc Minh, bát đàu là nàm Bính Tuất, kết thúc là năm Dinh Mùi gõm 202 nãm. Theo biểu đ'ô ờ phân đàu sách, sau phàn Nội thuộc Minh còn có Lẻ kỳ tục biên. Chính sử không thấy chép. Không hiểu phàn này tác giả dã chép xong chưa? in chưa? hay in thành sách riêng? bài dề từ đầu sách khồng thấy nhắc tới? Hay Lẽ kỳ tục biên là phân thứ 2 của Dại Việt sử ký tiền biên ... Văn đề này chưa được sáng tỏ. III. ĐẶC ĐIỂM VÀ GIÁ TRỊ CỬA ĐVSKTB 1) ĐVSKTB lã bộ Quốc sử mang tính sử luận dậm nét. Tác giả đã tập hợp được nhiêu lời bàn của các sử gia nổi tiếng như Lê Văn Hưu, Phan Phu Tiên, Lê Tung, Ngô Si Liên và của chinh tác giả v'ê các sự kiện, nhản vật, về thời cuộc về vận nước. Tất cả có tới 512 lòi bàn. Các lời bàn thể hiện quan điểm tinh cảm, lòng trung quân ái quốc, tinh thân tự hào dán tộc, biết phân biệt cải đúng cái sai đồng thời cũng thể hiện những han chế cùa tác già. Sau mỗi triêu đại lại co' một bài thông luận, tđm tát những sự kiện lớn của dương trièu, có phẻ phán, đanh giá những sự kiện, việc làm của mhững người có chức có quyền. Xem các bài thông luận ta có thể biết triều đại đó tốt hay xấu, có vua giỏi tôi hiền hay khổng. Các lời bàn, rất xác đáng, khen, chê rõ ràng. Tác giả rát khâm phục các anh hùng dân tộc như Hai Bà Trưng: "Tiếng tăm của Hai Bà chấn động cả Man Di Hoa Hạ, cơ nghiệp mở mang của Bà khuấy động cả đỗt trời, ôi! thật anh hùng!" (NKQ r a tr. 7b). Với Ngô Quỳên tác giả viết: "Vua diệt giậc trong nước để trả thù cho chủ, đuổi giặc ngoại xâm để cứu nạn cho nước, xây dựng quốc gia, khôi phục quốc thống công nghiệp thật là vĩ đại" (NKQ VI tr. 6a). Vội triều Lý tác giả rất khen, nhưng có những việc vẫn bị chê: "Những việc xây dựng cung điện không khỏi làm cho dân cùng khổ, lại còn nhiều lãn làm hại đến nông nghiệp trong khi thu hoạch. Cho nên ghi lại những việc ấy [việc xâ dựng quá nhiều chùa chiền cung điện] và chép ra để chê trách" v.v... £ Quan điểm viết sử của các tác giả cd nhiều điểm khác: a) Xếp Triệu Đà ở thời ngọại thuộc và gọi là "Kỷ ngoại thuộc Triệu Vũ Đế". Tác giả trinh bày: "Từ khi An Dương mất, nền quốc thống bị gián đoạn, người làm sử thãy việc Triệu Đà thôn tính được Giao Chỉ làm vua Nam Việt xưng hiệu "đế" bèn ghi kỷ tiếp theo chép chữ to chữ đặc biệt tựa hồ muổn khoe sự hưng thịnh bát đầu dựng nghiệp đế của nước ta. Người đời sau noi theo không ai biết cái sai đo' . Xét nước Việt của Nam Hải, Quế Lâm không phải đất Việt của Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam. Triệu Đà nổi lẽn ở Long Xuyên đo'ng đô ở Phiên Ngung chi muốn mở rộng bờ cõi bèn thôn tỉnh nước ta làm quận phụ thuộc đặt chửc chủ trì việc giám sát đê’ ràng buộc mà thôi. Thực ra là chưa từng làm vua ở nước ta. Nếu cứ thấy người xưng vương ở đất Việt mà coi là vua thi sau đấy co' Lâm Sĩ Hoàng nổi lên ở Bàn Dương và Lưu Nham nổi lên ở Quảng Châu đều xưng là Nam Việt Vương, sau đo' lại tiếm xưng đế hiệu, cũng cho là một kỷ tiếp với trang quốc thống của ta hay sao? Hoặc nói ràng Triệu Đà là người Hán, An Dương là người Thục cũng như nhau thòi. Đà diệt An Dương cũng như An Dương diệt Hùng Vương. Thế mà khen chê lại khốc nhau là thế nào? An Dương đo'ng đô ở Cổ Loa, tiếp đến Hùng Lạc làm chủ ở Giao Nam. Đà ở Phiên Ngung, ta ở Giao Nam. Sao chl theo cái lệ chép về An Dương mà chép cho Dà còn họ nổi lên từ đất nào thỉ không kể. Đà thôn tính Giao Châu cũng như Nguy thôn tính Thục, Tấn lấy nước Ngô. Hai họ Tôn, Lưu mất thì quốc thống hết.. Nếu sử nước ta co' thể lấy sử nước Nguy tiếp vào Lưu Thiện, sử nước Ngô có thể lấy kỳ nhà Tăn tiếp vào Tôn Hạo được thỉ sử nước ta mới co' thể lấy kỷ nhà Triệu tiếp vào An Dương. Nước ta gọi là nước Văn Hiến, sử của một nước chẳng nhẽ lại lấy sử của một nước khác chép làm của mình? Tôi mạnh dạn cải chính bỏ kỳ Triệu Đà. Bỏi vì quốc thống quy về Triêu Đà là không đúng phép làm sử. Đà đối địch với nhà Hán mà Giao Châu vẫn chưa thông với Trung Quốc cho nên tôi đặt ra lệ ngoại thuộc để phân biệt với nội thuộc (NKQ II tr. la) "Không nhận Đà là vua nước ta là đê’ nước ta tự thành một nước riêng đấy” (NKQ II tr.23) b) Không xếp Sỉ Nhiếp riêng một kỷ, không gọi Sỉ Nhiếp là Sĩ Vương, tác giả viết: "Xét sử cũ chép Sĩ Nhiếp làm Thái thú Giao Chỉ, người trong nước yêu mến đều gọi ông là Sỉ Vương", bèn lấy Sỉ Vương xếp vào kỳ biên niên, xếp theo lệ chinh thỏng, đẫy có lẽ 18 DẠI VIỆT SỬ KÝ TIỀN BIÊN là ân hận hàng trăm năm không có chính thống, Thái thú Phương Bấc tham tàn không kể đến nỗi khôn khổ, một sớm có chỗ dựa, người trong nước yên ổn tới 40 năm cho nên nhân đấy mà tôn là Vương làm cho láng sự căm phẫn của một nước dãy thôi! Không nghỉ ràng Si Nhiếp tuy hiền tài nhưng là người Phương Bác sai sang làm Thái thú, cũng là người Phương Bác đến gỉữ nước này, huống chế độ nhà Hán lấy châu lĩnh quận? Hiến Đế đã sai Trương Tân làm Thứ sử; Tôn Quyền lại sai Bộ Chất làm Thứ sử. Nhiếp tuy có tiếng là coi giữ 7 quận nhưng thực chưa từng được tự chuyên. Một Thái thú Giao Chỉ làm vua mà không biết ràng Cửu Chân, Nhật Nam thuộc vào đâu? Nếu bảo "Nhiếp tuy làm Thái thú nhưng bảo toàn được 1 quận, uy thế được tôn hàng vạn dặm "thì như Viên Huy đã từng nói "còn chưa được như Đào Hoàng 4 đời, Đỗ Viện 3 đời làní Thứ sử ở châu ấy, đời đời trăm họ được hoà thuận riêng chuyên một chế độ". Hai họ Đào, Đỗ không được chép lớn là kỷ hay sao? Nếu -bảo "nước ta thông thi thư, quen lễ nhạc, là nước văn hiến bát đàu từ SI Vương" như sử thần Ngô Sĩ Liên nói thì Sĩ Nhiếp vốn co' học vấn, biết kinh Xuân Thu, thông kinh Thượng thư là điều tự đắc mà chưa từng dạy cho người trong nước. Vẫn chưa được như Tích Quang lấy lễ nghĩa dạy dân Giao Chỉ, Nhâm Diên lấy lễ hôn nhân dạy quận Cửu Chân, làm cho mọi người biết có luân lý vợ chồng, thiên tính cha con, đã từng trước đáy xướng lên vãn phong ở Lĩnh Nam rồi. Hai õng Tích Quang, Nhảm Diên cũng còn chưa được chép lớn là kỷ, huống là SI Nhiếp ? Cho nên tôi đã tước bỏ đi cho vào trong kỷ nội thuộc, theo vào lệ quan Thú mục" (NKQ HI tr. 14a). c) Quan niệm về kỷ chính thống, tác giả đổi lại phụ chép Triệu Việt Vương, còn Đào Lang Vương được đưa lên. Tác giả nêu: Xét sử cũ, Tiền Lý Nam Đế mất năm Mậu Thìn [548] Triệu Việt Vương bát đầu năm Kỷ Tỵ [549], trong thời gian từ năm Kỷ Tỵ đến nàm Canh Dần là hết đời Triệu Việt Vương , tất cả là 24 năm. Sử cũ lấy Triệu Việt Vương kế tiếp Tiền Lý Nam Đế làm chính thống, mà chép Đào Lang Vương làm phụ. Thê' nhưng Triệu Việt Vương là bề tôi của Lý Nam Đế, Đào Lang Vương lại là anh của Nam Đế, nối nghiệp giữ nước, về danh nghĩa là đúng, mặc dù ông chỉ xứ Đào Giang mà chưa co' được thành Long Biên nhưng nước vẫn là nước của ông. Cứ theo cách chép sử của Tử Dương thì phải chép bằng chữ to kỷ Đào Lang Vương kế tiếp vào kỷ Tiền Nam Đế mà chép Triệu Việt Vương làm phụ. Chép Hậu Nam Đế lại kế tiếp vào kỷ Đào Lang Vương, đến nâm Nhâm Tuất thì hết, may chăng kỷ chính thống mới không bị lẫn lộn, mà phương pháp viết sử mới mẫu mực (NKQ III tr. 6a). d) Quan niệm về những truyền thuyết: ở phàn Ngoại kỷ tác giả viết: "Hỡi ôi! Ngoại chuyện sao mà nhiều chuyện càn rỡ thế! con rùa biết nói thì có lý hay không?... ma mà đạp đổ được thành* thì có tin được không? ràng phàm vật gì trái lẽ thường thì gọi là yêu; yêu khí mạnh tất phải có cái gỉ dựa vào nhưng dựa vào con gà và người con gái mà đạp đổ thành thì rõ ràng là muốn phàn không có lý đấy. Việc rút móng thỉ như thế nào? thưa rằng rùa nếu biết nối thì khó gl trong việc truốt móng của nó? Đã giúp vua An Dương xây thành thỉ tiếc gỉ một cái móng mà không cho. Chỉ sợ ràng không co' con rùa đó mà thôi!... Cho nên nói chuyện ở Ngoại kỷ phần nhiều là càn rỡ v.v... (NKQ I tr. 12). 3) ĐVSKTB bổ sung, cải chính nhiều sự kiện, đưa ra nhiêu điều khác với sử cũ. + ) Về tháng lợi của Hai Bà Trưng tác giả nêu "Tổng cộng là 56 thành, sử cũ theo sử nhà Hán lầm là 65 thành cho nên cải chính" (NKQ I tr.l2b). + ) Về cái chết của Lý Nam Đế tác giả nổi: "Vua Lý Nam Đế ở trong động Khuất Liêu bị người trong động giết chết cát tai dâng nhà Lương là nối láo đấy" (NKQ V tr.4b) + ) Với sự kiện Mai Hắc.Đế tác giả phê phán sử cũ: Đương lúc Nội thuộc, Mai Hác Đế ở Nam Đường khởi binh chiếm giữ châu,không chịu sự trói buộc của quan lại bạo ngược, cũng là tay lỗi lạc trong bậc thổ hào. Thành cồng thì có Lý Bôn, Triệu Quang Phục; không thành công thì co' Phùng Hưng, Mai Thúc Loan. Họ đáng được nêu ra mà biểu dương. Nhưng sử cũ lại chép là "tướng giặc "là sai lám. Cho nên tôi sửa lời vân mà chép chữ "dân châu". (NKQ VI tr. 6b). +) Về sự kiện Thứ sử Dương Thanh thời Nội thuộc Đường tác giả nói: " Sử cũ chép rằng Dương Thanh khoảng nãm Khai Nguyên (713 - 742) nhà Đường làm Thứ sử Châu Hoan". Thế thì từ nàm Khai Nguyên đến năm Nguyên Hoà, qua 5 triều vua gàn 100 năm mà Dương Thanh vẫn làm Thứ sử, cho đến đàu niên hiệu Thái Hòa đời Văn Tông vẫn hãy còn? Trong đó có nhiều chỗ lầm lẫn... điêu nữa là người thay Trọng Vũ là Hành Lập, người thay Hành Lập là Nguyên Tố [thế mà trong sử cũ] nảy ra một ông Đô hộ Nguyên Gia cùng thời với Trọng Vũ. Đây co' lẽ là khảo cứu không được rõ, cho nên nhất thiết phải cải chính (NKQ VI tr.i2). + ) Về quê quán của Lê Đại Hành tác giả nêu: "Xét thấy Lê Đại Hành là người làng Bảo Thái, huyện Thanh Liêm chứ không phải người Châu Ái. Sử cũ chép nhầm" (BKQ I tr.19). + ) Về việc cống nạp tác giả cũng nêu lẽn sự nhàm lản "Đầu đời Hưng Thống (989 -994), vua thường bảo sứ nhà Tỗng là Cao Tông ràng: "Ngày sau có quốc thư nên đưa đến chỗ đầu địa giới giao nhận chớ phiền sứ quân phải đến đây để nhân việc bổ thuế tiến cống phiền phức mà đổ tiếng ác cho nhà Tống. Tống Chân Tông không muôn sứ Tống mang tiếng ỹệụ sách cũng như việc năm úng Thiên thứ 6 (999), quân Nội thị của nhà Tống là Bùi Dũ có việc sang nước ta bảo nước ta dùng nhị hoa long nhỡn là của hiếm co' sung vào lễ cống, vua ta làm theo. Vua Tống giận truất Dũ đày ra Chu Nhai và ban chiếu cho nước ta miễn cộng thứ ấy. Cái ý từ đấy về sau, không cho sứ sang có lẽ là vì việc ấy. Sử cũ chép nhầm, nay cải chỉnh (BKQ I tr.30). + Về quan chức của em Khương Công Phụ tác giả viết: "Em ông là Công Phúc cũng đỗ tiến sỉ làm đến chức Tỷ bộ lang trung. Chữ "tỷ" sử cũ chép thành chữ "bác" là lầm (NKQ VI tr.8a). + Tác giả chú được nhiều sự thay đổi về địa danh: "... nhưng sự thay đổi tìí thời Hán thời Tấn trở về sau củng nên biết rõ. Thời Hán quận Giao Chi có 10 huyện (Hán chí chép thêm huyện Phong Khê, Vọng Hải là 12 huyện); Nhật Nam có 5 huyện Cừu Chân co' 7 huyện... chưa hẳn đã là đất An Nam, có lẽ vỉ đất đai ấy lièn sát yới Nam Giao cho nên đem lệ vào đô hộ đó thôi" (NKQ VI tr.4b). IV. NHỮNG HẠN CHẾ CỦA TÁC GIẤ THỂ HIỆN QUA TÁC PHẨM ĐVSKTB là bộ sử có giá trị lớn về nhiều mặt song cũng còn những hạn chế nhất 20 DẠI VIỆT SỬ KỶ TIÈN BIÊN định, dù là những hạn chế mang tính lịch sử của nó. 1) Quan niệm Nho giáo trọng nam khỉnh nữ. Với cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng tác giả khen hết lời và cũng rất đề cao "Vương là con gái, hô một tiêng mà đuổi được bọn Thái thú Phương Bác như là đuổi bọn nỗ lệ. Bình được đát Ngũ Lĩnh, dựng nước xưng vương, thực là bậc hào kiệt trong nữ giới đấy!" hoặc "Trưng Trác là người đàn bà goá trong Bộ Giao Chảu khống có một tấc đất, một người dán. Chỉ vì mối thù của chồng mà dấy binh phất cờ mà 6 bộ theo như hình theo bóng. Chiếm được đất đai 56 thành dễ như người phủi bụi trên rương, trên hòm, khiến cho các quan thú quan uý cai trị đã 150 năm nay cũng phải bó tay chảng làm gì được...” Nhưng cuối cùng tác già lại kết luận "Ôi! khí anh linh của trời đất không chung đúc vào bậc nam tử, mà lại chung đúc vào người đàn bà như thế!" (NKQ II tr.5). 2) Tin vào mệnh trời. Với Lý Bôn tác giả viết: "... Vua chán ghét loạn lạc thời Nội thuộc, dấy binh đánh đuổi Tiéu Tư phá tan Lâm Ap, dựng nước đổi niên hiệu, đúng là bậc hào kiệt một thời. Nhưng vận trời khổng thuận, bị Trần Bá Tiên đánh bại, ốm chết, khổng làm được việc lớn, thực tiếc thay!" (NKQ V tr.la). Vua Lý Anh Tông là vị vua tài giỏi được tác giả viết: "không phân biệt được ké gian tà không sáng suốt trong việc hlnh phạt cho nên trời sinh tai biến để rân đe, giặc cướp nổi lên, rường môi rối loạn không kể xiết (BKQ IV tr.la). v.v... Tóm lai Dại Việt sử ký tiền biên là bộ Quốc sử lớn, mang tính sử luận phong phú, cung cáp được nhiêu sử liệu có giá trị, thể hiện tinh thàn yêu nước, tự hào dân tộc rõ nét, thẻ' hiện quan điếm tư tưởng mới, đáng dược trân trọng và đánh giá cao, đích thực là một di sản quý hiếm của cha ông để lại, một di sản đặc biệt của nền văn hiến nước ta. Đây là công trình biên dịch tập thể, những người dịch mặc dù đả cố gáng hết sức, nhưng chắc chán không tránh khỏi sai sót, rất mong nhận được sự chỉ giáo chân tình của bạn đọc gàn xa. Trong khi biên dịch, chú thích giới thiệu bộ sử này, chúng tôi đã được sự giúp đỡ nhiêt tỉnh của các cơ quan Viện Sử học. Thư viện khoa Sử Trường Đại học Tổng hợp Hà Nôi, Nhà xuất bản Khoa học xã hội và sự chỉ bảo ân cần của Giáo sư Phan Huy Lê, Phan Văn Các. Chúng tôi xin chân thành cảm ơn. Hà Nội, ngày 4 tháng 5 năm 1994 DƯƠNG THỊ THE KÝ HIỆU CHỨ VIẾT TẮT < la> Tờ 1 mặt a theo bản Đại Việt sử ký tiền biên. [...] Đổi ra nãm dương lịch hoặc nội dung của người dịch thêm vào. (...) Chú thích của nguyên bản chữ Hán. (1) Số thứ tự chú thích của người dịch. ĐVSKTT: Đại Việt sử ký toàn thư. CM: Khâm định Việt sử thông giám cương mục. VLS: Việt'sử lược. CMCB3: Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Chính biên 3. CMTB3: Khâm định Việt sử'thông giám cương mục, Tiền biên 3. ĐVSKTB: Đại Việt sử ký tiền biên. NKQ I tr. 2: Đại Việt sử ký tiền biên, Ngoại kỷ quyển I trang 2. BKQ I tr. 4: Dại Việt sử ký tiền biên, Bản kỷ quyển I trang 4. DẠI VIỆT SỬ KỸ TIÈN b iê n MỤC LỤC VÀ LÒI NÓI ĐÂU SÁCH ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TIỀN b iê n < la> Mùa xuân năm Mậu Ngọ [1758], vua ta lên ngôi ban chiếu cho các quan xứ Bác Thành san khấc ngũ kinh, tứ thư và các sử để ban hành trong thiên hạ. Trong đó có bản in kinh truyện cũ, qua thu thập điểm lại còn được sáu phần mười. Trong đo' co' bản in mục nát mọt ăn, phải gia công bổ khuyết. Duy co' nguyên bản Dại Việt sử ký đều đã thất lạc. Nhân các sách còn lại của các quan viết sử đời trước, chia loại biên tập từ họ Hồng Bàng đến Ngô sứ quân là Ngoại kỷ; tỉí Đinh Tĩên Hoàng đến thời thuộc Minh là Bản kỷ. Tất cả gồm 17 quyển. Mùa thu năm Canh Thân, san định xong, sáp xếp cấn thận thành từng tập kính dâng vua xem. Vâng mệnh cho lưu trữ tại Bác Thành học đường rồi in ra cho lưu hành để tiện cho người học. Vê Quốc sử từ Ngoại kỷ Kinh Dương Vương năm Nhâm Tuất trở xuống, đến Bản kỷ thuộc Minh năm Đinh Mùi trở lên gồm 4354 năm. Theo sách Xuãn Thu nguyên mênh bao thỉ năm Hoàng Đế thứ 8 Giáp Tuất là Giáp Tý thứ 1; giữa thời Hùng Vương đến thời thuộc Minh năm Đinh Mùi Tuyên Tông, Tuyên Đức thứ 2 là Giáp tý thứ 69. Vàng mệnh lấy tên là Dại Việt sii ký tiền biển và liệt kê mục lục, niên biểu, thế thứ các đời cùng với các nhà làm quan viết sử đời trước chép theo thứ tự trên đàu sách, để đợi người tra xét và chứng minh. Sơ ĐỒ QUỐC THỐNG CÁC ĐÒI THUỘC TIỀN BIÊN KHI CHIA KHI Hộp 24 DẠI VIỆT SỬ KÝ TIỀN BIÊN SO ĐỒ ĐẾ VƯƠNG CÁC ĐÒI TRUYỀN KẾ THUỘC TIỀN BIÊN T Ô N G . N H  N T Ô N G . T H Ằ N T Ô N G . ANH T Ổ N G CA O T Ô N G . HUp. TỔNG. C H IÊU H O À N G )- T R Ầ N (T H Á I T Ỏ N G . T H Á N H T Ỏ N G , N H Ả N T Ồ N G , ANH T Ồ N G . MINH TÔNG. H IỂN TÔ N G . D Ụ T Ô N G , N G H Ệ T Ô N G . Đ Ư Ơ N G N H Ậ T L ẻ, D U Ệ T Ổ N G . PH Ế tí tí, TH U Ậ N T Ô N G . T H IỂ U D Ể - MỤC LỤC 25 <4a> MỤC LỤC TIỀN BIÊN I. NIÊN BIỂU, THẾ THỨ CẤC ĐÒI 1. Kỷ họ Hồng Bàng Kinh Dương Vương Lạc Long Quân Hùng Vương: Bắt đầu từ Hồng Bàng thị đến Hùng Vương từ năm Nhàm Tuất (ngang thời Đế Minh) kết thúc năm Quý Mão (thời Chu Noãn Vương) gồm 2622 năm. An Dương Vương: Bắt đầu từ An Dương Vương từ năm Giáp Thìn (thời Chu Noãn Vương năm thứ 58 ) đến năm Quý Mão (Tần Nhị Thế năm thứ 2) gồm 50 năm <4b>. 2. Kỷ Ngoại thuộc Triệu: Bát đầu là Triệu Vũ Đế năm Giáp Ngọ, (Tần Nhị Thế năm thứ 3) đến Thuật Dương Vương năm Canh Ngọ (thời Hán Nguyên Đỉnh năm thứ 6) gòm 97 năm. • 3. Kỷ Nội thuộc Tây Hán: Bát đầu từ Hán Vũ Đế nãm Tân Mùi niên hiệu Nguyên Phong thứ 1 đến Hán Quang Vũ năm Kỷ Hợi Kiến Vũ thứ 15 gồm 149 năm. 4. Kỷ Trưng Nữ Vương. Trưng Vương: Trưng nữ Vương bát đầu tìí năm Canh Tý (Hán Kiến Vũ năm thứ 16), kết thúc nãm Nhâm Dần (năm Kiến Vũ thứ 19) gồm 3 năm. 5. Kỷ nội thuộc Đông H án: Bát đàu năm Quý Mão, Quang Vũ Đế hiệu Kiến Vũ năm thứ 19 < 5a> đến Hiến Đế năm Kỷ Sửu hiệu Kiến An năm thứ 14 gồm 167 năm. 6. Kỷ nội thuộc Ngô, Tấn, Tống, Tề, Lương: Bát đầu từ Ngô Tôn Quyên nám Canh Dần niên hiệu Hoàng Vũ năm thứ nhất kết thúc năm Canh Thân thời Vương Vũ Đế năm Đại Đồng thứ 6 gồm 323 năm. 7. Kỷ nhà Tiền Lý có 1 niên hiệu: Thiên Đức - Đào Lang Vương phụ Triệu Việt Vương - Hậu Nam Đế: Trên là nhà Tiên Lý co' 3 vua bát đâu nãm Tân Dậu (năm Lương Đại Đồng thứ 7) kết thúc năm Nhâm Tuất (Tuỳ Nhàn Thọ nãm thứ 2) <5b>gòm 62 năm. 8. Kỷ nội thuộc Tùy, Đường: Bất đầu năm Quý Hợi Nhân Thọ năm thứ 2 đến Đường Ai Tông năm Bính Dần Thiên Hựu thứ 3 gồm 304 nám. 9. Kỷ Nam Bác p h ân tran h : Từ Lương Thái Tổ năm Đinh Mão Khai Bình thứ 1 đến Tấn Cao Tô’ năm Mậu Tuất Thiên Phúc thứ 3 gồm 32 năm. 10. Kỳ nhà Ngô: - Tiền Ngô Vương I Hậu Ngô Vương - Phụ Dương Tam Kha 26 DẠI VIỆT SỬ KÝ TIÈN BIÊN Ngô sứ quân < 6a> Phụ các sứ quân Trẽn là nhà Ngô có ba vua và Dương Tam Kha cướp ngôi bát đầu năm Kỷ Hợi (Tấn Thién Phúc năm thứ 4) kết thúc nám Đinh Mão (Tổng Kiền Đức năm thứ 5) gồm 29 nftm. 11. Kỷ nhà Dinh: Tiên Hoàng đế có một niên hiệu Thái Bỉnh. Phế Đế vẫn láy niên hiệu Thái Binh. Trẽn là nhà Đinh co' 2 vua bát đầu. từ năm Mậu Thìn (Tống Khai Bảo năm thứ 1) kết thúc năm Canh Thỉn (ngang với Tống Thái Bình Hưng Quốc năm thứ 5) gồm 13 năm. 12. Kỷ nhà Lê (Tièn Lê) < 6b> Đại Hành Hoàng đẽ' co' 3 niên hiệu:Thiên Phúc, Hưng Thống, ứ n g Thiên. Trung Tòng Hoàng đẽ' vân dùng niên hiệu ứng Thiên. Khai Minh Vương, một niên hiệu là Cảnh Thuỵ. Nhà Lẻ co' 3 vua, bát đàu từ năm Tán Tv (Tống Thái Bỉnh Hưng Quốc hăm thứ 6), kết thúc nám Kỷ Dậu (Tống Thái Trung, Tường Phù năm thứ 2) gồm 29 năm. 13. Kỷ nhà Lý: - Thái Tô’ Hoàng đế có 1 niên hiệu: Thuận Thiên. < 7a> Thái Tông Hoàng dế có 6 niên hiệu: Thiên Thành, Thông Thuỵ, Càn Phù Hữu Dạo, Minh Đạo, Thiên Cảm Thánh Vũ, Sùng Hưng Dại Bảo. - Thánh Tông Hoàng đế co' 5 niên hiệu: Long Thuỵ Thái Binh, Chương Thánh Gia Khánh, Long Chương Thiên Tự, Thiên Huống Bảo Tượng, Thần Vũ. - Nhân Tông Hoàng đế có 8 niên hiệu: <7b> Thái Ninh, Anh Vũ, Chiêu Tháng, Quảng Hựu, Hội Phù, Long Phù, Hội Tường Đại Khánh, Thiên Phù Duệ Vũ, Thiên Phù Khảnh Thọ. - Thần Tông Hoàng đế có 2 niên hiệu: Thiên Thuận, Thiên Chương Bảo Tự - Anh Tông Hoàng đế có 4 niên hiệu: Thiệu Minh, Đại Định, Chính Long Bảo ứng, Thiên Cảm Chí Bảo. - Cao Tông Hoàng đế có 4 niên hiệu: < 8a> Trinh Phù, Thiên Tư Gia Thuỵ, Thiên Gia Bảo Hựu, Trị Binh Long ứng. - Huệ Tông Hoàng đế có 2 niên hiệu: Kiến Gia, Thiên Chương Hữu Đạo. Trên dây là nhà Lý, có 9 vua, bát đầu từ Thái Tổ nâm Canh Tuất (Tống Đai Trung Tường Phù năm thứ 3), kết thúc là Chiêu Hoàng nãm Ất Dậu (Tống Khánh Bảo năm thứ 1) gồm 260 năm. 14. Kỷ nhà Trần: - Thái Tông Hoàng đế có 3 niên hiệu: <8b> Kiến Trung, Thiên ứ n g Chính Binh, Nguyên Phong. - Thánh Tông Hoàng đế có 2 niên hiệu: Thiệu Long, Bảo Phù. - Nhân Tông Hoàng đế có 2 niên hiệu: Thiệu Bảo, Trùng Hưng. MỤC LỤC 27 - Anh Tông Hoàng đế co' 1 niên hiệu: Hưng Long. - Minh Tông Hoàng đế co' 2 niên hiệu: Đại Khánh, Khai Thái. <9a> - Hiến Tông Hoàng đế co' 1 niên hiệu: Khai Hựu. - Dụ Tông Hoàng đê' có 2 niên hiệu: Thiệu Phong, Thái Trị. - Nghệ Tông Hoàng đế co' 1 niên hiệu: Thiệu Khánh. - Phụ Hôn Đức Công Dương Nhật Lễ 1 năm, có 1 niên hiệu: Đại Định. Duệ Tông Hoàng đế có 1 niên hiệu: Long khánh. <9b> - Phế Đế có 1 niên hiệu: Xương Phù. - Thuận Tông Hoàng đế co' 1 niên hiệu: Quang Thái. - Thiếu Đế có 1 niên hiệu:Kiến Tân. Trên là nhà Trần co' 12 vua, bát đầu là vua Thái Tông năm Bính Tuất (Tống Bảo Khánh năm thứ 3) kết thúc là vua Thiếu Đế năm Kỷ Mão (ngang với Minh Kiến Văn năm thứ 1) gồm 174 năm. - Phụ Hồ Quý Ly co' 1 niên hiệu: Thánh Nguyên. <10a> - Hán Thương có 2 niên hiệu: Thiệu Thành, Khai Đại. Trên là thời Nhuận Hồ tít nãm Canh Thìn (Minh Kiến Văn năm thứ 2) đến nám Bính Tuất (Minh vinh Lạc năm thứ 4) gồm 7 năm. 15. Kỷ n h à Hậu Trần: - Giản Định Đế có 1 niên hiệu: Hưng Khánh. - Trùng Quang Đế co' 1 niên hiệu: Trùng Quang. Trên là Hậu Trần co' 2 vua, từ nãm Đinh Mão (Minh <10b> Vĩnh Lạc năm thứ 11) gồm 7 năm. 16. Kỷ thuộc Minh: Bất đàu từ năm Giáp Ngọ tức vua Thành Tổ niên hiệu vinh Lạc nãm thứ 12, kết thúc năm Đinh Mùi tức là vua Tuyên Tông niên hiệu Tuyên Đức nằm thủ 2, gồm 14 năm. Thống kê từ ngoại thuộc Triệu Đà năm Giáp Ngọ đến khi người Minh rút hết là năm Đinh Mùi, gôm 1634 năm và Ngoại kỷ 2672 năm. Tổng cộng là 4354 năm ^. n. HỌ TÊN SỬ THẦN CÁC TRIỀU ĐẠI 1. Triều nh à Trần: a) Lê Vân Hưu: Người xã Phủ Lý, huyện Đông Sơn, Thanh Hoá, đỗ Bảng nhãn khoa Đinh Mùi, niên hiệu Thiên ứng Chính Bình, lần lần làm quan đến chức Binh bộ Thượng thư, tước Nhân Uyên hầu hàm Hàn lâm học sĩ, giám tu quốc sử, làm sách Dại Việt sứ ký < lla > 3 0 quyển. b) Phan Phu Tiên: Người xã Đông Ngạc, huyện Từ Liêm, Sơn Tây, đỗ Thái học sinh khoa Bính Tý năm Quang Thái, lại trúng khoa Minh kinh nàm Kỷ Dậu niên hiệu Thuận Ị. Tổng cộng 4306«năm. 2X DẠ\ VIỆT SỪ KSr Tlfe.N lâ\B.N Thiên triều Lẽ, lần lftn làm đến chức Tri quốc sừ viện, làm sách Quốc sử biên. /ục. 2 . Triêu L ê : a) Ngô Sĩ Liên: Người xa Chúc Lý, huyện Chưong Đức, trấn Son Nam, d6 Dồng tiẽrv sĩ khoa Nhâm Tuất, niên hiệu Đại Bảo, Vân lần lãm quan dẽn chức Lẽ hộ Ta thị lang, kiêm Sử quán tu soạn . < 111»> bl La Tung: Vốn họ Dương, tên là Bang Bàn, ngưòi xa An Cư, huyện Thanh Liêm, trấn Sơn Nam, dỗ Hoàng giáp khoa Giáp Thin năm Hồng Đức, dược cho theo họ vua, dổi tên là Lé Tung. Lần lần làm đến Lẽ bộ Thượng thư, Thái bão kiêm Đông các Dại học sỉ, Tri kinh diên tước Đôn Hòa bá, biên tu Quốc sử, lãm bãi Việt, SỲ1 tổng luân. c) Nguyễn Nghiễm: Ngưòi làng Tiên Điền, huyên Nghi Xuân, Nghê An, dỗ Hoàng giáp khoa Tân Hợi nam vinh Khánh, lần lần lãm đến chức Nhập thị Tham tụng, Hò bò Thượng thư, Đại tư đb, tước Xuân quận công, kiêm Quốc sừ tổng tài, làm sách Việt sử bị lăm, hiệu Tư Phù. d) Ngô Thì SI: Người lãng Tà Thanh Oai, huyện Thanh Oai, Trấn Sơn Nam, dỗ Hoàng giáp khoa Bỉnh Tuất năm Cành Hưng, Vân lần <12a> lãm quan dến chức Thiêm đô ngự sử, ra làm Đốc trấn trốn Lạng Sơn kiêm Quõc sừ hiệu chính, làm sách Việt sử tiêu án, hiệu lã Ngọ Phong cư sĩ. TỔNG LUẬN 29 TỔNG LUẬN Tổng luận của sử thần Lê Tung: Thần nghe: Sách Chu D ịch^ nói ràng: "Có trời đất rồi mới có muôn vật; cđ muôn vật rồi mới cđ vợ chồng; có vợ chồng rồi mới có cha con; có cha con rồi mới cd vua tôi. Đạo cương thường do đó mà sáng tỏ". Đại Học™ nói: Tâm đúng đán thỉ lòng mình mới nghiêm túc, mình nghiêm túc thì sau nhà mới tề được, nhà có tề được thì sau nước mới ổn định, nước ổn định thì sau thiên hạ mới thái bình. Đấy là nguyên do khiến cho đạo trị nước bình thiên hạ được thi hành đấy, Thế thì đạo trời đất không thể lập cách ngoài cương thường, mà đật ra đạo cao nhất, đạo đế vương lại có thể ngoài cương thường mà yên chính sự được sao? Kể từ khi Kinh Dương Vương họ Hồng Bàng nối dòng dõi vua Thần Nông, lấy con gái vua Động Đình làm sáng rõ đạo vợ chồng, làm đúng đán nguồn gốc phong hoá. Vua thỉ lẵy đức cảm hoá dân, chỉ rủ áo cháp tay( ); dân thì cày ruộng đào giếng, sớm làm tối nghỉ, đấy là phong hoá thái cổ thời Viêm Đế đấy chăng? Lạc Long Quân kế tiếp họ Hông Bàng <13a>lấy con gái họ Ảu Lạc co' điềm lành sinh ra trăm con trai, tổ của Bách Việt thực sự bát đàu từ đấy, hưởng nước rất lâu dài, giàu có sống lâu và nhiều con trai, từ xưa tới nay chưa từng có vậy. Hùng Vương nối nghiệp vua Lạc Long chăm ban đức ban ơn vỗ về dân chúng, chuyên nghề làm ruộng nuôi tầm không lo tới việc binh đao chinh chiến. Con cháu nối truyên đều lấy hiệu là Hùng Vương. Giữ cơ nghiệp gồm 18 đời, trải hơn 2000 năm, làm chính sự theo lối thát nút dây, dân không gian dối. Có thể thấy được phong tục thuần hậu quê mùa. Vị vua sau đạo dủc suy đồi, lười làm chinh sự, bỏ việc võ bị mà không sửa sang, ham mê tửu sác cho là vui, một khi quân Thục đến thì quốc thống liền mất. An Dương Vương dời sang Ba Thục ở phía tây, diệt vua Hùng Vương ở phía nam, đo'ng đô ở Loa Thành, giữ nước Âu Lạc, được nỏ mo'ng rùa đánh tan quân Tàn. Quen mui chiến tháng, yên vui sinh kiêu căng, quân Triệu tiến đến đánh, bờ cõi <14a> không giữ được. Triệu Vũ Đế nhân lúc loạn nhà Tần, chiếm đất Lỉnh Biểu, đóng đô ở Phiên Ngung, cùng Hán Cao Tổ đều xưng đế một phương, cd lòng nhân thương dân, có mưu trí giữ nước. Võ công khiến Tàm Tùng^1 234* phải khiếp sợ; văn giáo khiến Tượng quận dược chấn hưng. Lấy thi thư mà giáo hoá tục nước, lấy nhân nghĩa mà cổ kết lòng người. Dạy dân 1. chu Dịch: Tên sách cùa Trung Quốc do Vfln Vương, Chu Công. Khang Tủ làm ra 2. Dại Học: Một trong bổn sách (Dại hục, Trung dung. Luận ngữ, Mạnh Tứ) cùa Trung Quóc. 3. Rủ áo chấp tay: Dịch từ "Thúy y cúng thù" ý nói vua không phài íằni gì ma nước vãn yên ổn. 4- Tàm Tùng: Tên vua díỉl Thục thời xưa. 30 DẠI VIỆT SỬ KÝ TIỀN BIÊN cấy trồng, nước giàu binh mạnh cho đến một việc cho sứ sang [nhà Hán], lời lẽ cũng khiêm tồn. Nam Bác kết giao, thiên hạ vố sự, hưởng nước hơn 100 nãm, thực là vị vua anh hùng tài lược. Van Vương là cháu đích tôn của Vỗ Vương, nối giữ nghiệp cũ. Phàm chế độ điển chương, tát cả đều theo phép của đời vua trước. Lấy điều nghía mà cảm hoá nước láng giêng, đánh giặc để giữ yên bò cõi, củng là bậc vua nối được cơ nghiệp. Minh Vương buổi đàu nối cơ nghiệp, yên bề phóng túng, Cù Hậu được yêu, Việt Cơ bị bỏ, trong nước không hoà thuận, kỳ cương rối loạn. Ai Vương tuổi còn thơ ấu không biết phép <14b> trị nước, mẫu hậu kiêu d&m, quyên thần giữ chính sự, cơ nghiệp họ Triệu rút cục bị lụn bại. Thuật Dương Vương là anh Ai Vương được lập lên từ tay quyền thần, trí lực kém cỏi, quân giác xâm làng, cơ đò nhà Triệu từ đấy sụp đổ. Xét tai hoạ của Ai Vương tuy là ỏ Lữ Gia, nhưng thực tế lại do Minh Vương yêu Cù Hậu. Sác đẹp của đàn bà làm nghiêng nước người ta như thế rất nên láy đó làm răn . Còn như Trưng Vương là con cháu Hùng Vương, chị em đều nổi tiếng là dũng cảm mưu lược, câm hờn chính sách hà khác của Tô Định, xưâng xuất các bộ, nổi quản hùng manh, lừng lảy tiếng tâm, quận huyện hưởng ứng cho nên đã bình định được 65 thành ở Linh Ngoại, thu lại đát đai cũ của Nam Việt. Cũng là bậc hào kiệt trong nữ giới đáy. Nhưng trời không giúp họ Lạc, quân nhà Hốn đến xâm lược, giả sử lúc đó có vua anh hùng tài lược thi quân nhà Hán há dám dòm ngo' đất Mai Lỉnh! <15a> Sĩ Vương tập phong hoá nước Lỗ, học vân rộng rãi, khiêm tốn với kẻ sĩ, dùng thi thư mà giáo ho'a phong tục, dùng lể nhac mà tối luyện lòng người, trị nước hơn 40 nôm, trong nước vô sự nhưng vì con là Huy nhẹ dạ tin lời Sĩ Khuông, không dặt. binh bị nên bị Lữ Đại giết hại. Triệu Âu là con gái quận Cửu Chân, tụ tập quân trong núi, đánh phả thành ấp, các bộ theo như bóng theo hình, dễ như trở bàn tay. Tuy chưa chiếm được Lỉnh Biểu như việc của Trưng Vương nhưng cũng là bậc hùng tài trong nữ giới đấy . Tièn Lý Nam Đế thông minh, đủ tài vân võ. Đánh đuổi Tiêu Tư ở phía Bác, dẹp yên Lãm Ap ở phía Nam Dựng quốc hiệu chính ngôi tôn, đật trăm quan, định niên hiệu, co' đai lươc quv hoạch của bậc đế vương. Nhưng quân Triệt Hồ o đã tan mà giậc Bá Tiên đang mạnh, thì có lẽ có chữ trên lưng nghé trắng^1 2 3) là do số trời đấy. Đào Lang Vương là anh Nam Đế, thu nhật quản còn lại, đánh một trận đã bị thua ngay <15b> rút quân vê giữ động Dã Nâng, có lẻ vì uy lực không đầy đủ đấy. Triệu Việt Vương kế tiếp Tiên Nam Đế, giữ đất Chu Diên. Lúc đầu cùng với Đào Lang Vương nhân thời mà xưng vương, cuối cùng lại cùng Hậu Lý Nam Đế chia nước cùng tri may được cối móng rồng là điềm tổt, phá tan được toàn bộ quân Lương. Vì sao mà Loa Thành đất dáp chưa khô, quàn biến Nha liên bị chết đuối, cái tai hoạ lông ngỗng là lỗi tại ai? Hàu Nam Dế nói cơ nghiệp của hai anh. Trị vì hơn 4 kỷ^, nhưng bội nghía mà diệt họ Triệu, nghe phong thanh đã hàng nhà Tuỳ, đến nỗi bị nhục đưa sang Phương Bác, là 1. Quân Triệt I ló: Tủc quân c’l hũ Dicn Triệl bị quân I.UOng dánh lan. 2. ITieu I ru vì} 11 ihuvOt liiíy giò có con trâu den dỏ; a m ngltc trảng, trên lung có 4 chữ "nhặt phụ mộc lai" ghép lui la chi) "Trân" ủng vói việc TrAn 13ú TiOu đen) quân sang dánh. 3. Ký. 12 năm gọi la I kỹ. IlAu Nam D ế trị vi 32 năm mà sách ghi hrtn 4 ký có lẽ là íìim. TÔNG LUẬN 31 do minh chuốc lấy đấy. Than ôi! mệnh trời không thường, lòng người khó tin. Trước kia An Dương Vương cậy co' điềm tốt móng rùa,một khi sinh lòng biếng nhác thỉ nước liên bị diệt, về sau Triệu Việt Vương cậy có điềm tốt cồ móng rông một khi sinh lòng kiêu căng thì nước liền bị mất. Việc điềm lành co' ích gì đâu! Triệu Vũ Đế sai Trọng Thuỳ giả càu hôn với con gái An Dương Vương <16a> rồi lẵy cấp móng rùa đẽ’ đánh An Dương Vương mà cướp lấy nước. Kế của Triệu Vũ Đế là nham hiểm đấy nhưng họ Triệu liền bị nhà Hán tiêu diệt. Hậu Nam Đế sai Nhã Lang giả lấy con gái Triệu Việt Vương, rồi lẫy cáp móng ròng để đánh Triệu Việt Vương và giành lấy ngôi thi thuật của Hậu Nam Đế là sâu đấy! Nhưng rồi nhà Lý cũng bị mất vào nhà Tuỳ, Ôi! Diệt nước người ta, người ta diệt nước mình, đạo trời rõ ràng đủ là bài học. Mai Hác Đế dấy quân từ Hoan Châu, căm giận chính sách bạo ngược của Sở Khách, đem quân tiến đánh. Phía nam giữ đất Hải Lỉnh, phía bắc chống lại nhà Đường. Đáng được gọi là vị vua hào kiệt. Tiếc ràng không có tài chống giặc, lòng người ít theo giúp, nên không ngân được cuộc loạn của Dương Tư Húc. Phùng Bố Cái là bậc anh hào ở Đường Lâm, ghét chính sách ngược đãi hà khác của Chính Bình, anh em thừa thời nổi dậy cứu dân dẹp loạn, ban đức lập công. Có thể gọi là vị vua nhân hậu <16b> chỉ tiếc con ông là An không biết nối giữ cơ nghiệp được lập nên do Phá Lậc ( \ rồi đầu hàng Triệu Xương, dù co' Đỗ Anh Hàn là bề tôi lo việc nước cũng không cứu nổi sự diệt vong của họ Phùng. Khúc Tiên chủ đời đời là hào tộc, mạnh bạo, sáng suốt, thông minh, mưu lược, nhân khi nhà Đường mất, lòng người yêu mến suy tôn làm chúa, đo'ng đô ở La Thành, dân yên nước trị, công đức dài lâu. Hưởng thụ chẳng được bao lâu, Khúc Trung Chủ,“) nỗi cơ nghiệp trước, phảng phất giống ông, tính mưu quyết tháng vượt qua ý nghi cùa mọi người. Chống chọi với các nước Bác Triều, là vua hiền của nước Việt ta. Đật chức Quản giáp, mới lập chế độ giữa chừng thỉ mất, đến đời Hậu Chủ hay gây việc can qua, thuế khoá sai dịch nặng nề, trăm họ ta oán liên bị nhà Nam Hán tiêu diệt. Dương Chính Công^ nghĩ về đất đai nước Việt từ lâu bị quân Nam Hán thôn tính, bèn thu dùng bậc hào kiệt, mộ quân khởi nghĩa lớn, hai lần đánh bại tướng giặc thu lại cả cơ đồ. Nhưng không phòng tai hoạ < 17a> ròi bị con nuôi giết chết. Ngô Tiên Chủ giết được dứa nghịch thần là Công Tiễn, phá được tên giặc mạnh là Hoàng Thao, đặt ra cấp bậc cho trâm quan văn võ, định chế độ, luật lệnh, y phuc. Thật là bậc tài giỏi giúp đời. Nhưng ký thác không được người tốt, để tai hoạ cho con. Dương Tam Kha là thân thích họ ngoại, nhận lời ký thác đứa con côi, ròi bỏ chúa mà tự làm vua, tránh sao cái tội cướp ngôi bị giết. Ngô Hậu Chủ khôi phục cơ nghiệp của tổ tông, giữ yên dân trong bờ cõi, đủ là bậc vua thìía hưởng thái bình. Nhưng làm chính sự càu an ngại kho', quá ham võ công, tự chuốc tai hoạ vào thân. Thiên Sách Vương là con đích của tiên chúa, ban đàu bị gian thần cướp ngôi mà 1234 1. Phá l i c Tức Bồ Phá Lặc vó tướng của Phùng Hưng. 2. Khúc Trung Chủ: Khúc Thừa Hạo. 3. Dương Chính Cõng: Dương Dinh Nghệ. 4. Thiên Sách Vương: Ngô Xương Ngập. 32 DẠI VIỆT SỬ KÝ TIÈN BIÊN khồng trị t.ội;sau bị Nam Tấn Vương cưỡng bức mà không biết nhường công, chuyên quyền làm oai làm phúc, mất tinh anh em, đều là bậc vua tầm thường. Than ôi! Từ khi có trời đát là có cương thường. Cha làm rường cột cho con, vua làm rường cột cho bề tôi, muôn đời dứt khoát < 17b> không thể rối loạn được. Kiều Công Tiễn là con nuôi của Dương Chính Công quên công nuôi dưỡng, đem bè đảng mà giết. Chính Công. Như vậy là con giết cha, rốt cuộc bị Tiên chúa giết chết. Tam Kha là bề tôi cũ của Ngô Xương Ngập, phản bội lời ký thác, đuổi vua đi mà tự làm vua. Như vậy là bề tôi mà phản vua, lại bị Hậu chúa giết chết*1). Bọn loạn tặc khi còn sống thl tròi đất chẳng dung, sau khi chết cũng không tránh được lời chê trách của kinh Xuân Thu. Cho nên quan chép sử chép vào sách thông giám đã để ý kỹ vào chỗ Ây. Nhà Ngô m ất, 12 sứ quàn thừa cơ nổi lên như ong. Ngô Nhật Khiinh chiếm Đường Lâm, Lãng Công chiếm Siêu Loại, Kiêu Thuận chiếm Hồi Hồ, Ngô Nam Đế chiếm Dạ Trạch. Nguyễn Siêu chiếm Phù Liệt^2), Phạm Phòng Át chiếm Đàng Châu, Ngô Xương Xi chiếm Binh Kiều; Kiều Công Hãn chiếm Phong Châu, Nguyễn Thái <18a> chiếm Tam Dái, Dỗ Cảnh Thạc chiếm Đõ Động, Nguyễn Thủ Tiệp chiếm Tiên D u/3) đều giữ bờ cõi, chảng ai thôn tính dược nhau. Đạo đức trên đời đến như vậy, thì phong tục kiêu bạc hết mức đấy. Sao lại như vậy? 12 sứ quân đều là bề tôi cũ của Ngô Vương, sao đương khi Hậu chúa phải đi đánh hai thôn Đường, Nguyễn, bị trúng tên thuốc độc chết, kẻ làm tôi lẽ ra phải đi đánh trả thù rửa nhục cho Hậu chúa bàn lập vua nối ngôi để kế tiếp quốc thống cùa vua đời trước mới phải. Thế mà nhà vua bị hại, mà bề tôi lai yên lòng, tự xưng hùng trưởng với nhau, tiếm ngôi rối ren, đạt nguy hiệu lung tung, chảng những chỉ có tội với đương thời, mà còn để tiếng chê cho đời sau. Rốt cuộc bị Đinh Tiên Hoàng dẹp đi là đáng lám. Cho nên quan chép sử xếp 12 sứ quản trở về trước là Ngoại kỷ, để phân biệt nội ngoại. Từ Đinh Tiên Hoàng trở về sau là Chính kỷ, để tỏ danh phận vua tôi. Cái cơ đạo đức trên đời khi lên khi xuống đến đây có thể thấy được <18b>. Đinh Tiên Hoàng nhân lúc nước Ngô rối loạn, dẹp 12 sứ quân. Trời cho, người theo, thống nhát đất nước, dùng các bậc Đinh Điền, Nguyễn Bậc, Lưu Cơ, Trịnh Tú làm người phò tá, đạt ra nghi lễ triều đình, lập ra quân đội. Vua chỉnh thống của nước Việt ta là bát đàu từ đấy. Bàn về công đánh dẹp quàn giặc thl vĩ đại đáy. Nhưng nbà tông miếu chưa lập, trường học chưa xây, dặt vạc, nuôi hổ để làm công cụ hình ngục; biếu tê nạp voi, chi vất vả về việc cống hiến. Lễ nhạc hành chính không sừa sang, mấy lần cửa canh phòng không cẩn thận, cuối cùng chính minh bị giết, nước bị nguy, tai hoạ đến cả đòi con. Đó là không biết mưu tính đề phòng từ lúc việc còn nhỏ bé đấy. Thiếu Đế tuổi còn thơ ấu, nối giữ cơ nghiệp lớn lao lúc khó khăn, đất nước nhiêu tai hoạ, xã tấc lâm nguy, lại thêm giặc Chiêm Thành quấy nhiễu ở phía nam, quân Tống xâm lược ở phía bác. Bọn quyên thần nhiếp chính, lòng dán trong nước lìa tan. Nhà Đinh thôi không chép nữa là vỉ không có mưu kế giữ < 1 9 a> nước cai trị dân đấy. Có lẽ khi nhà Đinh dấy lên tuy là 1. DVSKTT lại chép la Dương Tam Kha hj giáng làm Chướng Dương cổng, cho ilĩíi Chương Dương làm thực ãp chứ khỏng bị I lậu chúa giết chết. 2. DVSKTT chép lã Nguyễn Siêu chiếm Tíìỵ Phù Liệt. 3. DVSKTT T rân Minh Cồng chiếm Brt Chinh Ilài Khíiu. TỔNG LUẬN 33 do tự sô’ trời, còn lúc suy là do đạo "tam cương" không đứng đán đấy, Tiên Hoàng bỏ con đích lập con nhỏ, ân tình cha con sai trái. Lập 5 hoàng hậu, tình nghỉa vợ chồng rối loạn. Yêu quý Đỗ Thích để sinh họa chém giết cướp ngôi vua, mất hết đạo vua tôi. Thế thì họ Đinh dấy lên là do Tiên Hoàng, họ Đinh mất nước cũng là do Tiên Hoàng, chẳng phải trời không giúp mà mưu của người không ra gì đấy. Lê Đại Hành cầm quyền 10 đạo, giữ chức nhiếp chính. Vua còn nhỏ, nước lâm nguy nhân thời cơ nhận mệnh trời. Giết chúa Chiêm Thành, rửa nhục cho việc sứ thần bị bát, đánh bại quân Triệu Tống, để làm gãy cái mưu quyết tháng của nđ. Dùng bọn Hồng Hiến, Cự Lạng, Từ Mục, Tử An làm người giúp đỡ. Cày ruộng tịch điền ở Long Đội, mở đường bộ châu 0, châu Lý, tuyển dụng người hiền tài, sáng lập trường học, có mưu lược lớn của bậc đố vương. Nhưng rồi làm nhiều việc thổ mộc <19b>, lấy vàng ngọc mà trang sức cung điện, luôn gây việc can qua, coi dân như cỏ rác thì làm sao không suy được. Trung Tông vâng di chiếu của Đại Hành vào nối ngôi vua, tha cho em cùng mẹ tội cướp ngôi, giết vua thì chính sự sai lầm vì nhu nhược. Ngọa Triều không xứng ngôi vua, giết anh, ngược đãi dân chúng, dùng hình phạt bằng lửa đốt, dao cưa, làm ngục ở ngọn cây, hầm nước. Ham mê tửu sác, trái với tính người, làm hại sinh mệnh, dù muốn không mất nào co' được đâu. Có lẽ Đại Hành dấy lên tuy là bởi tự lòng dân, đến khi mất cũng vì "tam cương" không đúng đán đấy. Đại Hành phế bỏ con Đinh Hoàng mà giáng làm Vệ Vương thì không còn nghĩa vua tôi. Sinh 9 con trai mà không sớm lập Thái tử, thế là không có ân cha con. Lập 5 hoàng hậu mà lại gian dâm với bề trên là hoàng hậu nhà Đinh, thế là không co' đạo nghĩa vợ chồng, chỉ biết co' dục vọng mà không biết co' nghỉa, chỉ biết cd mình mà không biết đến con, hay chém giết <20a> mà không tiếc sinh mệnh, thích hỉnh phạt mà không thích đạo đức. Thân đã mất, nước cũng mất theo, là do chứa nhiều điều bất nhân đấy. Lý Thái Tổ nhân khi Ngọa Triều thất đức, kết hợp việc điềm lành sét đánh thành chữ, hợp ý trời vừa lòng người, thừa thời mở vận; có đức độ rộng lớn nhân từ, có quy mô vừa xa vừa rộng; rời đô định đỉnh, kính trời yêu dân; tô ruộng được tha, có chế độ nộp thuế sai dịch; Bác Nam thông hiếu, thiên hạ bình yên. Nhưng không nghe đạo thánh học, chưa chấn hưhg phong-hoá đạo Nho. Sư sãi chiếm nửa số dân, chùa chièn dựng kháp thiên hạ, không phải là đạo mở nghiệp rủ mối. Thái Tông dũng trí kiêm toàn, đánh thắng 4 phương; có đức hiếu hữu, học tập vãn hoá lễ nhạc, đánh giặc, dẹp rợ nhung, khuyến khích việc làm ruộng, cày ruộng tịch điền, ctí chuông kêu oan, có luật xử việc hỉnh, là bậc vua giỏi giữ nề nếp vậy. Nhưng say cảnh thiền, làm thơ đọc kệ ở chùa Tiên Du, mê khúc nhạc điệu hát Tây Thiên, không phải là đạo kinh lý việc nước, coi dân như con. Thánh Tông quý dân, trọng người làm ruộng <20b> vỗ người ở xa, yêu mến kẻ ở gàn, đặt khoa Bác học, trọng lệnh dưỡng liêm, đặt quan bí các, đặt chế độ minh luân, sửa sang việc văn, chuẩn bị việc võ, trong nước được yên. Là vị vua hiền nối dõi. Nhưng dùng sức dân quá nhiều để dựng tháp Báo Thiên, hao phí tiền của dân đẽ’ làm cung Dâm Đàm. Đấy là chỗ kém. Nhân Tông thiên tư nhân hiếu, có tiếng là đức tốt, trọng việc tuyển chọn danh thần. Đặt khoa Tiến sỉ, có quan hầu Kinh diên, ban chiốu mở đường cho người được nói. Cầu người hiền, nhận lời oan, giảm nhẹ thuế khoá phu dịch, cho nên tự minh làm nên thái bình, dân được giàu có. Đáng là vua tốt, thừa hưởng thái bỉnh. Nhưng mở DẠI VIỆT SỬ KÝ TIỀN BIÊN 34 yến à Lãm Sơn mà đế mẹ vua rong chơi, đúc chuông Quy Điền để bọn tâng ni mê hoặc. Đo' là chỗ kém. Thần Tông mở mang chính sự, sử dụng hiền nâng, đặt khoa Hoành từ, đật. lệnh binh nông, chính sự rất siêng năng. Nhưng quá thích điềm lành, tôn chuộng đạo Phật, đánh giặc < 21a> cũng quy công cho Phật; dâng hươu cũng cho làm chức quan. Sao mà ngu thế? Anh Tông đặt trường dạy võ để cho võ bị được nghiêm; sửa miếu Khổng Tử để vàn phong được chỉnh; cày ruộng tịch điền, dặt phép tiền tệ, trị nước thế là kỹ lưỡng đáy. Nhưng không ph&n biệt được kẻ gian tà, thưởng phạt bất minh, yêu quý gian thần mà mở đường tượng cước, sùng tín Phật, Lão mà đặt khoa thi Đăng đạo. Sao mà tối tâm đến thế! Cao Tông lúc ban đầu chỉ tin dùng các hiền thần là Tô Hiến Thành, Lý Kinh Tu cùng lo việc chính trị, giáo hoá, ban lệnh củu giúp người nghèo, xuống chiếu cầu bậc hiền tài cho nôn từ năm Thiên Tư Gia Thụy về trước chính sự còn coi dược. Đến nãm Thiên Gia Bảo Hựu về sau việc thổ mộc mọc lên như nấm, giặc giã nổi lên như ong. Điềm mát nước bát đàu tìí đấy. Huệ Tông say đám hoang dâm, giao chính sự cho bọn quyền thần là Tô Trung Tự, Trần Tự KhánhO. Vua yếu tôi mạnh, trời oán dân căm, chỉnh sách bạo ngược, hỉnh pháp phiền phức, dân cùng cực, trộm cướp nổi lên. <21b> Điềm mất nước quyết định từ đáy; lại thêm Chiêu Hoàng là vua con gái, gánh vác không nổi. Họ Tràn nhân đó mà di chuyển ngôi vua nhà Lý. Thật đáng tiếc thay. Và lại bàn ràng: triêu nhà Lý qua 8 đời vua, truyền ngôi hơn 200 năm. Những bậc đáng khen như: Thái Tổ co' độ lượng của bậc đế vương; Thái Tông có tư chất thông minh dũng cảm; Thánh Tông có lòng nhân đức thương dân; Nhân Tông có đức tính ban ơn cho dân. Nhưng Thái Tổ lập 3 hoàng hậu, tinh vướng víu mà đạo nhà không đúng đắn. Thái Tông làm 5 ngọn núi. Đang lúc có tang mà lại vui chơi, là kém về đạo hiếu. Thánh Tông đi theo vết xe của Thái Tổ mà lập hoàng hậù quá chế độ. Nhân Tông nghe lời mẹ đẻ mà giam giết mẹ đích. Việc cấm các quan gả chồng cho con gái là do Thần Tông ham mê sác dẹp, yêu chuộng kẻ bề tôi dâm loạn đều là cái lỗi Anh Tông yêu dùng kẻ gian tà dãy. Cao Tông láy hoang dâm làm thích; Huệ Tông <22a> lấy tửu sác làm vui; đạo tu, tề, trị, bình của bậc dế vương quả như thế đó sao? Bề tôi trong triều, có Lý Đạo Thành là người được ký thác con côi, Tô Hiến Thành giúp chính sự, cũng gần như lòng trung ái của Y Doãn, Chu Công. Cố nhiên là đáng khen đấy. Còn các bậc như Đào Cam Mộc, Đào Thạc Phụ, Lương Nhận Vân, Đào Xử Trung, Lý Đạo Kỷ, Liêu Gia Trinh, Kim Anh Kiệt, Tào Lương Hàn, Dương Cảnh Thông,Nguy Trung Hoàng, Lưu Vũ Nhị, Lý Công Bình, Hoàng Nghla Hiền, Lý Kinh Tu không biết giúp vua để trở thành phong tục tốt đẹp, cho nên nên thịnh trị không bàng đời xưa là phải. Còn như Đỏ Anh Vũ kiêu dám, Đàm Dỉ Mông ngang ngược có kể làm gì. Trần Thối Tông chịu mệnh trời, nhận ngôi của Lý Chiêu Hoàng, cò đức nhân hậu, cố nét giản d> trang trọng, đánh giậc bảo vệ dân, đật khoa thi chọn hiền tài. Tể tướng thì chọn người tôn th ất tài năng; triều điển thì định ra lễ nghi hình luật. Chế độ <22b> nhà Tràn từ đấy thịnh hưng. Nhưng đức xấu chốn buồng the là noi theo thổi dâm hôn của Đường Thái Tông. Thánh Tông có lòng nhân thứ, co' đức hiếu đễ, yêu quý hoà thuận 1 1. TiiRn Tự Khánh: DVSKTT chép là Trìin Khánh Dư. TỒNG LUẬN 35 với họ hàng, tôn người hiền, trọng đạo đức. Chọn người tài giỏi để hầu Kinh diên, tuyến người đức hạnh để phò thái tử. Cơ nghiệp nhà Trần do đó mà vững chác. Nhưng say mê đạo Phật, trở thành tệ như Lương Vũ Đế. Nhân Tông được tinh hoa của bậc thánh hiền, có tướng mạo của thần tiên, thể chất hồn hậu vẹn toàn, nhân từ hoà nhã binh dị, ban chiếu cứu trợ người nghèo do đố lòng người càng cố kết. Chọn tướng chống giặc, dẹp yên được giặc Nguyên, sự nghiệp trùng hưng rực rỡ thiên cổ, đủ gọi là bậc vua hiền của nhà Trần. Nhưng, lưu tâm vào đạo Phật mà dựng am Thiên Kiện, nuôi dưỡng tăng ni mà đúc đỉnh Phổ Minh, chẳng phải là đạo của bậc. đế vương. Anh Tông định ra cấp bậc quan văn, võ ở triều đinh, dặt ra chế độ khoa cử cho học trò. Khi đại hạn thl soát ngục tha tù; năm đói to thì cho vay phát chẩn. <23a> Đạo trị nước thl lấy việc nuôi dân làm gốc; về chính sự thì dùng phong hóa, phép tác làm đàu. Văn vật chế độ đổi mới. Cũng đủ là bậc vua hiền của nhà Trần. Nhưng theo bọn sa môn ở Tiúi Yên Tử, làm nhọc sức dân, xây gác Ánh Vân, không phải là độ lượng của bậc đế vương. Minh Tông nối ngôi giữ cơ nghiệp, chăm việc chính sự, xét kỹ việc làm. Cãm cha con tố giác nhau cho đạo đức của dân được đôn hậu; cấp hộ khẩu cho quan văn võ để nuôi dưỡng tính liêm khiết của bề tôi. Sai tế thần khi thu hoạch ruộng tịch diên, là coi trọng việc nông trước đấy. Dựng nhà Thái học để cho thi học trò là châm lo chọn học trò đấy. Khoảng năm Đại Khánh, Khai Thái việc lớn việc nhỏ đều được tiến hành, trong ngoài đều yên ổn, đủ gọi là đời vua thái bình thịnh trị. Nhưng tuổi tác đã cao, ngôi thái tử chưa định,nghe lời gian thần là Trần Khấc Chung để đến nỗi Quốc Chẩn phải chết. Há chẳng phải làm thương tổn cho sự thông minh nhân nghĩa đtí sao? Hiến Tông nhỏ tuổi nối ngôi, trên cđ Minh Tông nám quyền, dưới có hiền thần phò chính, trên dưới cùng sửa sang, hành động không bị lầm lỗi, nếu trời cho tuổi thọ thì đạo đức <23b> của vua, chính sự của nước cũng co' thể coi được, nhưng hưởng lộc nước không được lâu, tiếc thay! Dụ‘Tông tính thông minh nhanh nhẹn, học vấn cao minh, giỏi võ hay văn, tứ Di đều phục. Thời Thiệu Phong Đại Trị chính sự đều được ban hành, dường như có phần đáng khen đấy. Nhưng khi tuổi già, tin dùng Trâu Canh làm điều loạn luân^1) mở sòng đánh bạc, giong chơi không chừng mực, đo'i kém xảy ra luôn. Cơ nghiệp nhà Tràn suy yếu từ đấy. Nghệ Tông dẹp yên tai nạn bên trong, khôi phục ngôi cũ, thực lòng kính trời thương dân, ctí quy mô giữ nước mưu trị, ctí khoa thi lấy học trò ở Tiên Du, làm tập Dư hà ở cung Bảo Hoà, định chế độ lễ nghi trong triều đình, bỏ lệnh cát lấy đất bãi. Quy mô công trạng rạng rỡ đất trời. Nhưng đức cung kiệm cd thừa, mà tài quyết đoán không đủ. Ngoài thỉ giặc Chiêm Thành xâm lán kinh kỳ, trong thì giậc Hồ ngấp nghé ngôi báu. Cơ nghiệp nhà Tràn do đấy mà mất <24a>. Duệ Tông lúc mới lên ngôi, lưu tâm tính việc trị nước, tuyển tướng luyện binh, đặt khoa thi lấy học trò có bài để chấm, có sách Hoàng huấn, dường như có thể làm khá được, nhưng tin dùng người họ ngoại, mở ra mưu kế của kẻ gian thần tiếm ngôi, gạt tà sớ can ngăn trung thực của Lê Tích, nghe lời tâu gian trá 36 ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TIÈN BIÊN của Tử Bỉnh, thán chinh đánh Chiêm Thành, khinh thường vào động Ỷ Mang, vội vã dùng binh chuốc lấy tai vạ, rốt cuộc bỏ mỉnh. Giản Hoàng càng như lòng dạ trẻ con, giư đức tính không thường, chuyển của quý dấu ở núi Thiên Kiện, ban cờ kiếm hậu đãi-cho Quý Ly, chổng giặc khổng có mưu, uy lệnh không chẵn chỉnh. Cuối cùng khiến cho người mặc áo Bồ Hoàng*1) đác chí, mà mỉnh phải cầm tù chùa Tư Phúc. Thuận Tông nghe theo mệnh lệnh của đứa quyền thần, ngồi giữ ngôi không. Cồng việc ở Kim Âu chưa xong, tiệc yến ở Thạch Thành đang nồng thỉ các công hàu người bị giết] người thỉ về núi Chí Linh ở ẩn*2) rốt cuộc để cho Xích Chuỷ*3) hoành hành rồi bị bức giết ở quán Ngọc Thanh*4). Thiếu Đế đương tuổi trẻ thơ, quyền bỏ vua lập vua đều từ miệng Hồ Quý Ly đưa ra và cơ <24b> nghiệp nhà Trần bị mất. Và lại bàn ràng: Nhà Trần trải qua 12 đời vua, hưởng nước hơn 170 năm. Các vua đáng khen như: Thái Tổng cố độ lượng của bậc đế vương, Thánh Tông có đức nhân hậu, Nhân Tông có công lấy lại cơ đồ, Anh Tồng cđ lòng đại hiếu, Minh Tông cố tài văn trị, Nghệ Tông co' công khôi phục, nhưng Huệ Tông bị giết, mất đạo vua tôi. Người nhân không làm như vậy. Lấy Linh Từ làm vợ là trái đạo vợ chồng, người nghĩa không làm như vậy. Đường đường là thiên tử mà làm sư ở Trúc Lâm, người trí khồng làm như vậy. Là con gái nhà vua nghiêm chỉnh mà gả cho Chiêm thành, lễ không làm như vậy, Đích thân đi đón vợ của con là loạn luân đấy, yêu mến quyền thần họ ngoại là chính sự mục nát đáy. Đạo tu, tề, trị, bình < 2 5 a> của bậc đế vương quả là như thế chăng? Bề tồi ở triều đình, có Tràn N hật Duật lập công ở cửa ải Hàm Tử, Trần Quốc Tuấn dâng tích chiến tháng ở sông Bạch Đàng, cũng ngang với danh dự Quách Phần Dương và Kháu Lại Công, tấ t nhiên là cũng đáng khen. Còn các bậc hiền tài như Trần Quang Khải, Phùng Tá Chu, Trần Nguyên Đán, Phạm Ngũ Lão, Đoàn Nhữ Hài, Trương Hán Siêu, Đinh Củng Viên, Phạm Sư Mạnh, Nguyễn Trung Ngạn, Lê Bá Quát đều không ngăn chân được làm lỗi của vua thỉ sự thịnh trị khổng bàng đời xưa. Còn gian tà như Trần Khác Chung, tham bẩn như T rần Khánh Dư, thỉ bàn làm gì? Đại để sự suy vong của triều Lý, triều Trần tuy là do cương thường rối loạn, mà cũng còn do mê tín dị đoan, phát tiền kho để làm tượng Phật, phát kho đồng đế đúc chuông to, phát kho giấy để viết kinh Phật. Triều nhà Lý thờ Phật cẩn thận đấy, nhưng giết con cháu nhà họ Lý lại là Trần Thủ Độ, con người gian hiểm. Là thiên từ m à làm đại sỉ; < 25b> là phi tần mà làm sãi vãi; là vương chúa mà làm tăng chúng, nhà Trần thờ Phật kính cẩn đấy, nhưng giết các tôn thất nhà Trần đều do sự gian giảo của Hồ Quý Ly. Khi m ất nước mà Phật cũng không che chở được. Vậy việc thờ Phật, nào có ích lợi gỉ đâu. Còn như Hồ Quý Ly dựa vào người thân nổi đỉnh, quen thối ác của kẻ gian thàn, tàn bạo với dân, lừa vua để cướp ngôi báu, tội chất nặng, dân oán hờn, giặc Minh vào đánh, thân bị tù, nước bị mất, chết làm vua quê người cuối cùng bị thiên hạ chê cười. Hồ 1. A ó Bb Hoàng: Chi H ò Quý Ly. 2. Chì T rần Nguyên Hãn. 3. C hi HÒ Quý Ly. 4. Q uán Ngọc Thanh: Thuận Tông bị bức chết ỏ quán Ngọc Thanh sau khi đẫ nhường ngỏi. TỔNG LUẬN 37 Hán Thương kế thừa ngôi cướp được, thi hành chính sách tàn bạo với dân. Người Minh sang xâm lược nước Nam thl non sông bị mất, xã tấc thành gò hoang, lưới tròi lồng lộng, thưa mà không lọt. Than ôi, lễ không gì lớn bằng phận, phận không gì lớn bằng danh. Dánh phận là đê phòng của nhà nước, không thể không cắn thận. Danh phận chính thì cương thường vững. Long Đĩnh là em mà giết anh <26a> để cướp nước, là tên loạn tặc hạng nặng, thế mà sử thăn lại chép là "hoàng đế" thì là danh không chính đáng. Quý Ly là bẽ tôi giết vua để cướp ngôi, tức là đầu sỏ bọn gian thần, thế mà sử thần lại chép là "thiên chúa", thế là danh phận không rõ ràng đấy. Nếu theo phép Kinh Xuân Thu, định khen chê công bàng, cố nhiên phải tước bảng hiệu giả của Ngọa Triều để trừ kẻ nghịch tặc, bỏ hiệu lấn cướp của Quý Ly để -trừng trị kẻ gian thần. Như vậy mới chính được danh phận ở đương thòi, giữ gìn cương thường cho muôn đời, mà sự sai lầm của sử thần mới rửa hết được. Còn như bề tôi trung nghĩa của nhà Trần như Chu Cư Kính, Trần Bình Trọng, Nguyễn Hàn, Trần Tích, Nguyễn Cán, Đào Khiết, Trần Thực, Lê Giác, Trần Thiệu, Phạm Huyền Linh, Lê Ấ Phu, Nguyễn Sử^\ Nguyễn Văn Nghê, Nguyễn Kha, Lê Lặc, Lưu Thường, Nguyễn Kháng, Hà Đức Lân, Trần Khát Chân, Lê Nguyên Bưu, chính khí vẫn còn, tiếng thơm khồng mất và lời khen tiết nghĩa không thể thiên lệch được. VI nhà Trần muốn báo thù thì lòng của Bùi Bá Kỳ cũng như lòng của Bao Tư, Dự Nhượng^* 2) đấy. Xin lập con cháu nhà Tràn làm vua thì lòng của Lê Cảnh cũng như lòng của Cữu Phạm, Nhân Kiệt đấy. Tờ thư Vạn ngôn, lòng trung thành thấu tới mật trời mặt trâng, há chảng phải do sức của đạo Nho đo' sao? Tờ sớ thất trảm, nghĩa khí cảm động quỷ thần, há chẳng phải công của đạo Nho đó sao? Tiếc ràng vua thời' đó tối tăm không biết nghe theo để đến nỗi diệt vong, không đáng cho là lạ. Đến khi Giản Định Đế đời Hậu Tràn lên ngôi trong lúc phiêu dạt, cd các ông Đặng Tất, Cảnh Chân hiệp mưu giúp đỡ, hãng hái cầm quân đi đánh giặc Minh. Trận đánh ở Bô Cô, khôi phục được ngôi vua nhà Trần tức là đạo quân nhân nghỉa đấy. Sao lại nhẹ dạ nghe lời gièm pha vội giết tướng giỏi, nhanh chóng chuốc lấy sự thất bại. Trùng Quang đế lên ngôi trong lúc loạn li, có các bậc như Đậng Dung, Nguyễn Suý cùng nhau giúp sức, mưu tính cơ nghiệp nhà vua <27a>. Trận đánh tháng ở Thái Dà, thanh thế quân lừng lẫy, đáng gọi là trận đánh phục thù. Rồi sao tướng suý lại bất hoà, bỏ lỡ cơ hội, dẫn L DVSKTT chép là Nguyễn Ouyếl. 2. Bao Tu, Dự Nhượng: Bao Tư là quan (lại phu nuóc sđ thòi Xuân Thu và là bạn thân cùa Ngũ Viên. Ngũ ViSn bị vua sỏ giết và cà gia đình phải ra nUdc ngoài. Khi đi trốn gặp Bao Tư. Ngũ Viên nói: " Tôi quyết diệt nước Sổ" - Bao Tư nói: " Tôi quyết giữ nước sỏ". Ngũ Viên mượn quân hưóc Ngữ vè đánh nước sđ, đào mộ vua sỏ đánh vào thây. Bao Tư mượn quận T^n, vua Tăn không cho, Bao Tư dứng ngoài sân vua Tân khóc 7 ngày, vua Tin cảm dộng phải cho quân sang duÂi quản Ngữ VẾ nước. Dụ Nhượng là ngUdi nước Tân thòi Chiến Quốc. Lúc dầu thờ Trung Hàng, sau bó Phạm Trung Hàng thò Trí Bá rắt dược Trí Bá tôn trọng, sau Trí Bá bị Triệu Tưdng Tủ giết chết, ông dã bôi sdn váo mình già làm hùi. nuãt than già câm dè lừa giết Triệu TUdng Tủ nhung bj bắt. Khi bị bắt Triệu TUdng Tử hỏi: " Sao dă thò Phạm Trung Hàng lại thò Trí Bá?". Dự Nhượng nôi:" Phạm Trung Hàng dai lôi nhu một nguôi thường thi tữi cũng đói xủ như một người Ihưòng. Trí Bá dăi lối như một bậc quốc st (nguòi dược cà nước lỡn trọng) nên lôi cũng láy tư cách một bậc quốc sĩ dáp lại ". 38 DẠI VIỆT SỬ KÝ TIÈN BIÊN đến chỗ mất nước. Than ôi! Đậng Tất, Cảnh Chân vỉ lời gièm bị giết, rồi người Minh vào cướp nước. Xem như Đàm Đạo Tế*1) bị giết thl người Nguy đến xâm lăng, Nhạc Vũ Mục*2) bị giết thỉ người Kim vào đánh chiếm. Kẻ gian nịnh gièm pha làm đổ nước người ta, trước sau cùng một lối. Khi nhà vua dùng người bỏ người không thể khổng cẩn thận. Nhà Nhuân Hồ bị bát; Hâu Trần cũng mất theo. Đất nước bị chia sẻ, như bổ quả dưa, như xé mảnh vải hơn cả cuối thời Chu. Quan lại hỉnh phạt thảm khốc hơn ngày nhà Tàn khi mẵt nước. Do đấy người Minh thả sức tàn bạo, dân chúng lầm than chưa bao giờ như lúc này. May nhờ đạo trời trở lại, lòng người hợp thuận, quốc triều Thái Tổ Cao Hoàng Đế có tư chất trí dũng như Thành Thang nhà Ân, dấy quân nhân nghĩa như Vũ Vương nhà Chu, thu dùng bậc hào kiệt quét sạch yêu ma. Tuy tướng nhà Minh dữ tợn <27b> như bọn Liễu Thảng, Lương Minh cũng phải thua trận mà chở xác về. Xảo quyệt như lũ Thôi Tụ, Hoàng Phúc cũng phải hết kế và tự trdi tay dầu hàng. Hơn 20 năm loạn lạc, một sớm dẹp yên. Non sông nhờ thế mà đổi mới, đất nước nhờ thế mà bình yên. Do nhà vua co' đức tính trí dũng, khoan nhân, v^a tôi đồng tâm hiệp lực mới được như vậy. HỂT PHẦN TỔNG LUẬN 1 Đàm Đạo Té: NgUòi nước Tổng. Dánh 'lần diệt Nguy có công nhung bị triều đình ngờ vực giết chết. 2 Nhạc VO Mục tức Nhạc Phi rìgưòi thòi Tổng dánh thắng quân Kim. sau vĩ Tần cỏi gièm pha mà ông bj giết Đ Ạ I V IỆ T SỬ K Ỹ TIEN BIÊN NGOẠI KỶ QUYỂN I < la> Sử thần Ngô Thì s ĩ bàn: Theo thiên Vũ Cốngt1) thi nước Việt à phía nam Dương Chảu. Theo sách Thiên quan từ sao Đáu 11 dộ qua sao Khiên Ngưu dến Tu Nữ 7 dộ là Tinh Kỷ. Nói uế sao là ỏ ngôi sửu cùng phận dã với nước Ngô. Vua Nghiêu sai Hy Thị ờ Nam Giao, tức là dát An Nam ta ngày nay. Tương truyền cõi phía nam là của dát Việt, có rất nhiầu xứ như Âu Việt, Mãn Việt, Lạc Việt. Cho nên gọi là Bách Việt. Và miền này à phía nam Dương Chău nên lại gọi là Nam Việt. Từ thời Hán trở vè trước thì Ngũ Linh vè phía nam thuộc dát Nam Việt; An Nam là địa giới phía nam dát Việt bèn dặt làm quốc hiệu chung. KỶ HỌ HÒNG BÀNG Sử thần Ngô Thì sí bàn: Xét từ sau khi hội dần sinh ra loài ngươi, loài người dã nhiều, tất phải có người trội han làm vua. Bất dầu từ Nhân Hoàhg cho dến Thần Nông có lẽ là kỷ thứ 9 trong 10 kỳ gọi là Thien Thông dăy. Từ Thiền Thông trỏ v'ê trước máy vạn năm há dầu là mờ mịt cả sao? cõi Nam d&ng dặc, có núi sông tất có loài người. Thế mà mãi dến cháu 4 dời của vua Thần Nông là kỳ Sơ hất, bắt dàu của 10 kỳ, ròi sau mới mái có vị dế vương hay sao? Huống hò sử thời Thần Nóng chép ràng: "Phía nam vỗ vè dắt Giao Chì", thì vón dã tự thành một nước, không lẽ không thống thuộc vào dâu. Không dù sách và và bậc hiền tài, không dược nghe truyện kỷ. Trước thài Hòng Bàng, cho răng không có vua chăng? Hay là có vua chăng? Sẽ khảo cứu vào dău ? Truyện dặt ra trước, sử thuật lại sau, nhân dấy chép lên dầu Ngoại kỳ. <2a> KINH DƯONG VƯƠNG Tổ tiên nước Việt ta tương truyền vua đâu tiên gọi là Kinh Dương, là dòng dõi vua Viêm Đế, họ Thần Nông; trước kia cháu 3 đời của họ Thần Nông là Đế Minh, đi tuần thú đến Hải Nam, gặp con gái Vụ Tiên lấy làm vợ, sinh con là Lộc Tục. Lộc Tục tinh thần đoan chính, cđ đức tính của thánh nhân. Đế Minh yêu quý lạ thường, muốn lập làm thừa kế. Lộc Tục cố nhường cho anh là Nghi. Đế Minh bèn phong cho đất Nam Việt. Đó là Kinh Dưc "7 Vương; Kinh Dương Vương lấy con gái vua Động Đình sinh ra Lạc Long Quân (sú :u 1. Vũ Cống: Tín sách cổ của Trung Quốc. 40 ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TIÈN BIÉN chép: nâm Nhàm Tuất thứ 1, Kinh Dương Vương đặt quốc hiệu là Xích Quỷ, nay bỏ đi). Sử thần Ngô Thì sí bàn: Nước Nam gáy dụng, tuy sau dời vua Hy và Hiệt mà chữ nghía chưa lưu hành, ghi chép thiếu sót thứ tụ dời trước dời sau, năm tháng gàn hay xa, trong vòng cha con vợ chòng, chính trị, vua tói, nhăn vật phong tục, truyền dũng hay sai, tát cả dèu không có chứng có. Khổng Tử nói ràng: 'Ta ván tháy <2b> chép sử có chữ phái bỏ thiếu dáu'. Chu Klịảo Đình nói ràng: "Đọc sách không nên dể quan làm sù lừa dối.' Cho nén chữ Quách Công, Hặ Ngủ trong Kinh XuAn Thu còn tồn nghi. Mạnh Tử dối vói Thiên Vũ thành chi láy hai, ba doạn mà thôi Nếu sưu tàm rộng răi chí dùng lời mà không xét dến lẽ, tác giả dối ta, ta tin ròi lại di dối người khác. Bậc quăn tủ dối với diều mình khổng biết há lại bừa băi thê sao ? Nay xét phàn Ngoại kỳ chép: Năm Nhăm Tuất thì bát dầu Giáp Tý là năm náo? Ghi chép tén huý Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân sao riêng lược bỏ vua Hùng Vương? Thời Ngủ Dế trỏ vè trước chưa từng gọi là vương, xíc h Quỷ là tên nào, mà dề làm tẻn nước. Một loạt hoang dường cùn rỡ dầu là dáng bỏ di. Cái tói áy lại tại kẻ hiếu sụ tháy trong Liẻu Nghị truyện thư. Trong truyện nói con gái vua Dộng Dinh gà cho con thứ của Kinh Xuyên Vương, tưởng càn Kinh Xuyên là Kinh Dương. Đă có vợ chòng thì có cha con, vua tôi nhân dó mà thêu dệt thành ván, cốt cho dù số dời vua, nhà làm sù theo dấy mà chọn <3a> dùng, và cho là sụ thực. Phàm những chuyện láy từ [Linh Nam] chích quái, [Việt điện] u linh, cùng như Bấc sừ láy ở kinh Nam H o a ^ và thiên Hồng Liệt dấy (2>. Như vậy là có dát thì có vua, sự vát tát phải có lúc ban dầu. Nếu cho tát cả dã sử là không dù tin thì căn cứ vào dứu dể chu án bị cho nhũng tác phdm lớn? Cái gì gần vói lẽ phải thì giữ lại, những lời thô bị, không căn cứ thì tước bỏ di là dược dáy. Sử chép: Dế M inh láy con gái Vu Tiên sinh dược Kinh Dương Vương và sứ Nguyên Nguy chép lời ngạn ngữ rằng: Cật Phăn Hoàng dè không có vợ, việc dó cũng tương tụ. Bậc dế vương nối lén chung đúc diêm lành khác vói người thường có thề có lý. Còn như việc Kinh Dương Vương láy con gải vua Dộng Dinh, Lạc Long Quăn láy Âu Ca, dưới nước trên cạn kết hôn vói nhau, người với thần ở lản với nhau, lời nói như không họp lẽ thường. Tôi trộm nghi, trời dát từ khi mở mang dến nay, nước ta ớ nơi hoang phuc xa xỏi, văn hoá so với Trung Chău là chậm nhát, nước lụt thời vua Nghiêu chưa rũt hết, vạc thời vua Vũ chưạ dúc, mênh mang bién quét3* < 3b> ván là một cái dăm cùa rồng rán ma quỳ. Những chuyện quỳ quái chỗ nào mà chàng có. Nước rói ròng sinh ra ngừòi con gáii4> chuyện xưa còn có, huống hồ thời Kinh Dương Vương. Lac Long Quản. Việc như là lạ mà không phải lù lạ, cũng không nên tụ coi minh nhỏ bé như con sâu mùa hè vậy. *34 1. Nam Hoa: Tốn sách kinh cùa Trung Quôc. 2. Hồng LÌỂ1: T ín lách, lén gọi tắt cùa Hồng Uột huẩn. 3 Biẻn Q uí' Dịch chữ "Quế hải" Phương Nam có nhiều quế nên gọi là Qué Hài. 4 Rái con rông mà sinh ra ngưòi con gái: Chi việc vua nhà Ha $ai bỏc rãi con rồng cẩt vào nidng; qua nhà Hạ. nha An đến thơi L.ẽ Vương nha Chu mới mỏ ra xem. rãi con ròng chày ra h o i thành con dài chạy vào h |u cang diiíi con (hú 7 của vua H tuổi giỉnt phải rồi có thai. Dến nlm 13 tuồi dử ra một người con gái, chinh lã Bao Tư. NGOẠI KỶ, QUYỂN I - LẠC LONG QUÀN 41 LẠC LONG QUÂN Con Kinh Dương Vương là Sùng Lãm lên ngổi, gọi là Lạc Long Quân. Long Quân lấy Au Cơ sinh ra 100 con trai (tục truyền Ằu Cơ sinh ra 1 bọc có 100 trứng nở thành 100 người COỊO trai), một hổm, bảo Âu Cơ ràng: ta là Rồng, Âu Cơ là Tiên, nước lửa xung khác, khó sống với nhau. Thế là chia nhau, 50 người con theo cha về biển, 50 người con theo mẹ lên núi, suy tổn người con cả làm vua nối ngôi hiệu là Hùng Vương. Sử thần Ngô Thì s ĩ bàn: Theo truyện chép thì Lạc Long Quán thường về dộng dưới nước, <4a> dản có việc gì thì hô to ràng: "Bố à dâu ? lại dãy giúp ta’, Long Quăn lại ngay. Lúc dó Dế Lai con của Đế Nghi, di tuần dẻn Phương Nam, di choi khắp núi sông xem phong cành. Người vua yêu là nàng Ảu Co một mình ỏ lại hành cung. Người trong nước khổ về vua Phương Bắc quáy nhiễu, lại gọi Long Quán ra. Long Quán tháy Cơ thì thích dưa về biển. Đế Lai dến hành cung không tháy Co dău buồn bă quay vẽ Bác. Nhà viết sử trành việc áy, mà nói là láy con Dế Lai, vì cho việc con gái theo trai như con chim Thuần và nói chuyện dức hạnh như con chim là xdu hố, đêu không nén nói, chi băng bỏ di. Truyện lại chép: Lạc Long Quăn ở dưới nước láu, mẹ con Ảu Go muốn vê Bắc nhưng không dược, kêu gọi Long Quăn, Long Quản bèn chia dôi số con, mỗi bên một nửa, theo mẹ lên núi và theo cha xuống nước, có việc gì thì cho nhau biết. Khi dă từ biệt nhau, Âu Cơ dát 50 người con lén à Phong Sơn, suy tôn người con trưởng làm vua gọi là Hùng Vương. Người làm sù <4b> muổn láy việc theo cha là chính thống do dó dã thay dổi lời văn là 50 người con theo cha à phía Nam, mà chép nối chữ "Hùng Vương "xuống dưới, làm cho sự thực lăn lộn, dộc giả không thể không nghi ngờ. Già sử Long Quân không phải là giống của Dộng Đình thì khổng bàn làm gì; Long Quăn mà quả là giống cùa Dộng Đình, thì giống ỏ dưới nước không thể lên cạn dược; những người con theo mẹ ai mà không thuộc vào Long Quăn, sao lại cứ người theo cha mới làm vua còn người theo mẹ là man di ? Xét sử củ, sứ thần Ngô s ỉ Liên nói: Thời Hùng Vương dặt chư hầu làm phên giậu chia nước ra làm 15 bộ. Ngoài 15 bộ ra, các nai dều có trường tả, còn các con thứ đầu theo thứ tự chia nhau mà trị. Lời nói rõ ràng cẩn mật, hoàn tát, hình như không phải là quy mô thời xa xưa.Lại ngoài 15 bộ còn có dát nào có thề chia dược? Lại bảo 15 người con theo mẹ vè núi, mẹ làm quận trưởng <5a> các con dầu làm chủ một phương, rồi láy man tù. Ngày nay có tên gọi là "nam phụ dạo", "nữ phụ dạo ’lam chứng. Không biết răng cái thuyết áy có cơ sở hay không ? Có người hỏi rằng: Cái bọc trăm trứng có hay không? Trả lời ràng: Con rồng sinh ra tức là phi thường, việc dẻ ra trứng có gì là lạ, cũng là thuyết vó ván. HÙNG VƯONG (CON CỦA LẠC LONG QUẢN) Hùng Vương đã lên làm vua, đặt quốc hiệu là Ván Lang, đống đồ ở Phong Châu (theo sử cũ thỉ nước phía đông giáp biển, phía tây đến Ba Thục, phía bác đến hồ Đỏng Dinh, phía nam giáp nước Hồ Tôn tức Chiêm Thành ngày nay), chia nước làm 15 bộ, gọi là Giao Chỉ, Chu Etfên, Vũ Ninh, Phúc Lộc, Việt Thường, Ninh Hải, Dương Tuyền, Lục 42DẠI VIỆT SỬ KÝ TIỀN BIÊN Hải Vũ Định, Hoài Hoan, Cửu Chân, Bình Vân, Tân Hưng và Cửu Đức. Nơi vua ở gọi là Vàn Lang, con trai vua gọi là Quang Lang, con gái vua gọi là Mỵ Nương, tướng vàn gọi là Lạc hàu, tướng võ gọi là Lạc tướng, các quần gọi là Bồ chính. Đòi đời cha truyền cho con gọi là Phụ đạo. <5b> Tương truyền là đa truyèn cho nhau 18 đời đều gọi là Hùng Vương. Sử thần Ngô Thì sĩ bồn: Xét bờ cõi dát dai nước Việt ta, từ thời Hán dã chia làm 7 quận, 56 huyện gọi là bộ Giao Châu, bát dầu có chỗ dề khảo chứng. Đến thòi Tán, thòi Tuỳ vẽ sau có cả sụ theo cũ, dối mới. Đến thời Đường dặt ra dạo Lính Nam, là lấy An Nam riêng làm phủ dỗ hộ, gòm 12 quận, 59 huyện tức là 3 quận Giao Chi, Cửu Chăn, Nhật Nam trong số 7 quận cùa thòi Hán. Trong dó có những noi theo cũ, nơi dối mới, tách chỗ này ra thuộc vào chỗ kia và cương giới nước An Nam ta dén dảy mói ổn dịnh. Nay láy tên bộ do Hùng Vương dật ra mà tìm dịa chi các dài. Ò Đường thư gọi là Giao Chí, gọi là Chu Diên thuộc quận Giao Chỉ; gọi là Cửu Chán thì thuộc quặn Aí Cháu; gọi là Cửu Đức gọi là Việt Thường thì thuộc quận Hoan Cháu; gọi là Phúc Lộc thì thuộc quận Đường Lâm; gọi là Thang Tuyèn thì thuộc quận Thang Tuyền (sử cũ nói Dương Tuyèn là nhầm); gọi là Ninh Hải <6a> thì thuộc quận Lục Chảu; gọi là Hoài Hoan thì thuộc quận Diễn Chảu; Vũ Dịnh trước thuộc quận Giao Chi thời Tuy dổi thành Long Bình. Lại theo Đường thư có 3 huyện thuộc chău Vũ Dịnh gọi là Nhu Viẻn, Phúc Lộc, Đường Lăm. Có thể lúc dó lấy Nhu Viễn hoặc Dường Lảm làm Vũ Định cùng vói Phúc Lộc dầu làm bộ. Vũ Ninh à thòi Tán là huyện thuộc Giao Chí; Tán Hưng à Phong Cháu Giao Chi thòi Ngỗ mói chia dặt lăm quận. Riêng Lục Hải, Bình Văn vè sự thay dổi thì khỏng rõ, tường cũng là quận huyện thuộc dịa giới phủ dô hộ mà người thời Dường thay tên mới không thề tra cứu dược dăy thòi. Nếu nói nước Vãn Lang phía bấc dến Dộng Dinh, tức là thời Hùng Vương dă có dát 7 quận cùa nhà Hán. Xét ra Nam Hải Quế Lăm và nủa Tượng Quận, từ thời Tần chưa dặt ra, trờ về trước deu la nòi gióng bộ lạc mọi rọ, như Đông Giao, Linh Bặt dầu xưng vương xưng trường vói nhau. Hùng Vương lăm sao mà có dược. Lại Hùng Vương ở thời Nghiêu Thuán, miền hiểm <6b> Dộng Dinh là nơi hiểm trỏ dương bị tam Miẽu ngăn trỏ thì sao dịa giới phía bắc nước ảy lại có thê dển dó dược. Có lẽ từ khi Tàn hàng phục dược Bách Việt, Lưỡng Quáng mói làm quận huyện, Triệu Vũ nhà mệnh lệnh của nhà Tần nhăn khi loạn mới ẹhiếm cứ dược. Tù Nam Hải, Phiên Ngung trà vào phía nam, từ Khảnh Viễn, Tu An, Thái Bình trở ra phía bác, nơi gọi là Nam Việt thì Giao Cháu không ỏ trong dó. An Dương kỳ có chép là Nhảm Hièu, Uý Dà dem quăn dến xám lăn; lại trong Đông Hán địa chí thi Giao Chi là nước của An Dương Vương cách phía nam Lạc Dương một vạn một nghìn dặm, há chàng phải rõ ràng là nước của An Dương Vương trỏ về trước là bờ cõi cùa dát An Nam ngày nay dó sao? Thiên Nghiêu diên nói: Ỏ dát Nam Giao. Sử nhà Chu nói: Phía nam dát Giao Chỉ. Vậy từ thời Nghiêu dén thời Chu nước ta dã có giới hạn rõ ràng. Cái gọi là phía tày dến dát Ba Thục! Xét thấy nay miên tận cùng dát Hưng Hoá thõng dến dát Văn Nam là dát Thục xưa. Cho nên An Dương Vương từ Ba Thục mà thôn tính Văn Lang. Như thế là chứng nghiệm dược dáy <7a>. Theo Hoàng Giản lục ghi chép dát của nước ta: Phía dông dến biển, phía táy dến Văn Nam, phía nam dển Chiêm Thành, phía bác dến Quàng NGOẠI KỶ, QUYỂN I . HỪNG VƯONG 43 Tăy, phía dông bác dến Quàng Đông, phía tây nam dến Lão Qua cùng vói sù cũ ghi chép củng như nhau. Nhung cho Hồ Tôn là Chiêm Thành là không ki1 cứu dấy. Người xưa làm dịa chí 1 châu 1 huyện cùng phải nói rát rõ vè 8 cõi, huống hò là một nước? Cho nên không thề không biện luận! Lúc bấy giờ dân rỉa núi thấy vùng nước như các sông ngòi có cái lợi tôm cá, kéo nhau đi bắt để ăn, thường bị các loài rán cán hại, bèn tới vua nói rõ việc ấy. Vua nói: Giống man ở núi thật khác với loài ở dưới nước, nó yêu loài giống nhau, ghét loài khác nhau cho nên như thế, bèn sai mọi người lấy mực vẽ loài quỷ quái vào mình. Tìí đó các loài rán trông thấy không cán hại nữa. Tục vẽ mỉnh của người Bách Việt có lẽ bất đàu tìí đó. Nước Việt ta bát đầu thăm hỏi nhà Chu, tự xưng là Việt Thường thị <7b> dâng con bạch tri, 9 lần phiên dịch mới tới được. Chu Công uý lạo cho về, ban cho 5 cỗ biền xa làm phép hướng về phương nam, cho sứ giả chở về. Lập đền thờ thần ở hương Phù Đổng (sử cũ chép thời Hùng Vương, hương Phù Đổng, bộ Vũ "Ninh có một người nhà giàu, sinh ra đứa con 3 tuổi ăn uống béo tốt mà không biết ndi cười. Gặp khi trong nước có giặc, nhà vua sai người tỉm người đánh giặc bỗng em bé bảo với mẹ mời sứ giả đến rồi nđi: "Ta được một thanh kiếm, một con ngựa thỉ nhà vua không phải lo". Nhà vua ban cho kiếm và ngựa, em bé lập tức nhảy lên ngựa, vung kiếm lao về phía trước, quan quân chạy theo sau đánh nhau với giặc ở núi Vũ Ninh. Bọn giặc trở giáo đánh nhau, chết rất nhiều. Bọn còn lại lạy hô là tướng của trời, liền đàu hàng cả. Em bé nhảy lên ngựa bay lên không trung, rồi biến mất. Nhà vua sai mở mang vườn nhà ở và lập đền thờ cúng. Sau Lý Thái Tổ phong làm Xung Thiên Thân Vương. Đền thờ tại hương Phù Đổng bên cạnh chùa Kiến Sơ). Vua nhà Thục sai sứ sang cầu hôn, Hùng Vương khước từ (sử cũ chép rằng: Cuối thời Hùng Vương, vua co' con gái gọi là Mỵ Nương. Vua Thục nghe no'i sai sứ sang càu hôn. Vua muốn gả cho, nhưng Lạc hâu ngăn và nói rằng: "Họ mưu tính chiếm nước ta, lấy danh nghĩa là càu hôn đấy thôi". Vua liền thôi. Vua muốn tỉm người có thể gả con gái được, bỗng thấy 2 người từ ngoài đến yết kiến đều muốn xin lấy con gái vua. Vua lấy làm lạ hỏi. Một người xưng là Sơn Tinh, một người xưng là Thuỷ Tinh. Vua noi: "Ta co' một con gái làm sao lẫy được cả hai chàng. Hẹn nếu ai đem lễ vật đến trước, sẽ gả. Hôm sau Sơn Tinh đến trước sắm đủ lễ vật, châu báu, vàng bạc, chim thú rừng không gì không co'. Vua y lời hẹn gả cho. Sơn Tinh đo'n về Tản Viên ở trên núi cao. Thuỷ Tinh đến muộn hận là không kịp, bèn <8a> dâng nước tràn lên, dẫn các loài thuỷ tộc đuổi theo. Nhà vua cùng với Sơn Tinh chăng lưới sắt ngang thượng lưu huyện Từ Liêm chận lại. Thuỷ Tinh theo đường sông khác từ Lý Nhân vào chân núi Quảng Oai đi men bờ lên cửa sông Hát, ra sống Cái vào sông Đà, đánh núi Tản Viên. Đi đến đâu cũng tạo thành đầm vực, tích nước để đánh Sơn Tinh. Sơn Tinh biết phép biến hoá thần thống, sai người Man đan tre thành phên ngăn nước, dùng nỏ bán ra, các loài có vảy bị trúng tên chạy trốn. Cuối cùng không đánh đứợc). Sử thần Ngô Thì sí bàn: Sử cũ chép việc Phù Đổng Thiên Vưong xin kiếm dánh giặc và việc Sơn Tinh, Thuỳ Tinh tranh giành một Mỵ Nương, dèu do truyện Lĩnh Nam chích quái tô vẽ lời văn. Truyện Phù Đổng không nói tới quăn nhà Án, không nói tói việc dúc ngựa sắt, không nói hát hơi thành mình dài cao, cũng dã 44 DẠI VIỆT SỬ KÝ TIỀN BIÊN nghi là quái dàn ròi. Còn dến hai chùng San Tinh, Thuỳ Tinh tranh vợ có lẽ do kẻ hiếu sự cho việc nước dăng ngập núi non dó là núi sông thù nhau, bèn viết ra một chuyện dề chứng thục. Người dời sau lại tin theo biến thành thục lục trong sách vờ rườm rà mờ không chán. Truyện thoát móng rùa ò dời trước, thoát móng ròng ớ dời sau, truyện con ré ăn cáp móng, trước sau phù hợp, thậm chí tho chiêm bao, lài ma quỳ không gì không chép. Thuật dàu thai, ca dao chữa thuốc củng láy làm ký. Kể việc mà không xét lý, tin chuyện ma quái mà trở thành nói càn. Có lẽ nào dem bộ sù tin cậy cùa một nước mù làm thành bộ chép chuyện kỳ quái dược. Riêng có núi Tản Viên là núi tổ cùa nước ta, linh ứng rát rõ ràng quan hệ dến mệnh mạch cùa nước. Xung Thiên Vương cũng vón là vị thần nổi tiếng của nước, cho nên nhản sử cũ ghi chép mà ghi chú việc ấy dể giữ lại chuyện cũ dấy thôi. Ngoài ra củng theo như thế. Sử th ần Ngô Thì s ĩ bàn : Truyện Sơn Tinh Thuỳ Tinh cũng thật là quái dàn. Tin sách chảng bàng không có sách, hây xin thuật lại chuyện củ dể truyần nghi. Trên đây là Hồng Bàng thị từ Kinh Dương Vương đồng thời với Đế Nghi (sử cũ chép: Khởi đầu năm Nhâm Tuát thụ phong), đến Hùng Vương (sử cũ chép đến năm Quý Mão là hết, lúc đo' là Chu Noãn Vương năm thứ 57). Cộng 2622 náựi <9a> (tham khảo Thông giám ngoại kỳ tháy ghi 2590 năm). Thống luận cùa sử thân Ngô Thì sĩ: Thường dọc sách Ngoại kỳ từ Lạc Long Quán dến dầu thời Hùng Vương, ước chừng vào thài Hiên, Hiệu, Tăn, Dương bên Trung Quốc. Những chỗ làn lộn thì dã có thứ tự, người non trẻ dần dần biết dược máy móc còn nước ta thì nga ngơ, ngác ngác không nghi gì, không làm gì, giống như thế giới Sào, Toại vê trước. Có người nói giữa thời Hừng Vương về sau, vũ trụ thời Nghiêu, Thuấn dã chuyển sang Hạ, Thương, Chu rồi. Núi sông tuy xa cách, phong hoá dằn dần dược mỏ mang, kẻ dề chỏm tóc^ụ xưa kia sẽ dần dần có sự ham muốn sao có thể ngăn chặn dược sụ dòm ngó, sao có thề cám chỉ sự soán doạt, cha truyền con nối, dời dời làm vua kiêm cả sự nghiệp hoàng dế vương bá lău dài như thẻ dược chăng? Nói ràng: Lấy phong tục 3 mièn khe dộng ngày nay dề chứng nghiệm thì Dại dòng Tiểu khang dầu tuỳ từng vận hội. Vận hội chưa mớ, <9b> thì dân còn chát phác, vận hội dã mở ròi thì dán kiêu bạc, khí của trời dát dến thì khí của muôn loài cũng đến. Chi khác nhau là dến trước dến sau thôi. Phong khí nước ta nẻng ó sau mièn trung thổ, nên mỏ mang chậm chạp là lẽ dương nhiên. Trung thổ từ Đường Ngu cho dến Thương Chu, phong khí dã mỏ, nhản vần rát rạng rỡ, nên thế dạo thay dối, dã có hậu bạc, thịnh suy. Nước ta khi ờ thời Lạc Long, Hùng Vương, vua với dân cùng cày, cha với con cùng tám, không phải dè phòng, không phán biệt cáp bậc, rào gai là có thể ở dược, người vật ờ chung, ruộng hoang cũng có thể cày, tuỳ theo nước triều lèn xuổng. Dân sóng với nhau trong dáy, choi dùa với nhau trong khu vực không lạnh không nóng. Người già chết di, trò con lán lên, 12 1. Sào Togi: Túc Hữu Sào vù Toại Nhăn Thị diu là vua thòi cổ Trung Quốc. 2. Dẻ chỏm tóc: Chi các dSn lộc tì vùng bién giói phía nam. NGOẠI KỶ, QUYỂN I - HÙNG VƯONG 45 không biết dển binh dao, qua lại ớ nhờ nhau. Có thé gọi là dời rát có dạo dức, nước rất vui vẻ dáy. Bậc quán trưởng thì cũng cảm hoá ngòi yẻn lặng, thuần hoá, dãn vẽ mình, uống nước bàng mủi, không có sự phiên nhiễu vè sụ dốc thúc, không có sự phiền hà về thuế khoá, không <10a> có sự quáy nhiễu sai phái, không bó buộc cần mật, không bị thay dổi từ ăn vì đ. Vua. với dán thăn nhau, dến vài nghìn năm không có diều gì khác. Tuy vậy, dấy mới chỉ bàn vĩ phong khí dỏ thôi. Thời Tam Dại trỏ vì trước, Nam Việt'còn chua thòng vói Trung Quốc, huống hò An Nam lại ở phía ngoài Nam Việt. Từ thời Tần, mở dặt quận huyện, chia dặt chức Thủ uý. Họ Triệu mới nổi lên ở Nam Hải. Vè sau sử Biên niên của nước ta mới có Bác sử dể tham khảo kê cứu. Như Kinh Dương dến An Dương trên dưới han 2600 năm, mấy triều máy dại, máy dời máy năm, Giáp Tý nào dáy lên, Giáp Tý nào thì thôi, há cô người giát bút dứng chỗ dầu con ly mà ghi chép hầng ngày khi dậy khi nghỉ. Rõ ràng thài Hòng Bàng bất dầu là năm Nhăm Tuất kết thúc là năm Quý Mão và Hùng Vương mất, An Dương Vương dấy lên chính xác thuộc vè năm 57, 58 dời Chu Noãn Vương. Lại lùm một con tinh, từ Kinh Dương Vương dến Hùng Vương gồm 20 dời, cộng 2622 < Ỉ0b> năm, nhíèu ít chia dầu thì mỗi dời vua là 130 năm. Người chứ dău phải vàng dá mà hết thảy sống lảu được như Tiền Khanh fl>, là diều lại càng không thề tin dược. Sù và truyện khổ vì nỗi văn hiến không dầy dù dẩy. Láy khởi dầu là Kinh Dương Vương thì tát phải có vua cuối cùng, nhung hảy láy cái năm hường quốc dòng thời vói Dế Nghi, tính xuôi di, cho dến vua nào dó thời Chu năm thứ mấy, tống cộng là máy nghìn máy trăm năm, ròi lại láy số năm An Dương Vương trị nước tính ngược lại từ khi Tàn Thuỳ Hoàng dặt quận huyện trỏ về truóc dến năm thứ mấy dời vua nào của nhà Chu cộng mấy chục năm, ròi lấy 8Ó năm thừa của An Dương Vương trò vỉ trước thì quy cho Hùng Vương, vì sau thì quy cho An Dương Vương cho dù 2 kỷ, còn như Hùng Vương truyền cho vua nào vè danh hiệu, số dời đều không biết, cho nên bát dác di dều gọi là Hùng Vương rồi ước chừng 18 dời thì két thúc. Ôi! tác giả cũng khổ tăm lắm dáy. Dộc giả cũng không thổ < l l a >xét rõ. AN DƯONG VƯONG (huý Phán, người Ba Thục ỏ ngôi 50 nảm. Sử cú .chép là họ Thục. Không đúng) Giáp Thìn, năm thứ 1 [257 tr. CN] (Chu Noãn Vương năm thứ 58), vua dốy binh đánh diệt nước Vân Lang. Lúc đầu vua thường đảnh Hùng Vương nhưng Hùng Vương quân khoẻ tướng mạnh, nhiều lần vua bị thua. Hùng Vương bảo: Ta co' sức mạnh của thần, nước Thục khổng sợ ư? Rồi bỏ việc quân, không phòng bị, ngày ngày chỉ ăn chơi hưởng lạc. Quân nước Thục kéo đến nơi, vẫn còn say mềm chưa tỉnh, rồi thổ huyết nhảy xuống giếng chết. Quân còn lại đều quay giáo xin hàng. Thục Vương đa thốn tính được nước áy, mới đổi quốc hiệu là Àu Lạc, đóng đô ở Phong Khê (Sử cũ nói ràng: Tổ tiên vua Thục kết hôn với con gối Hùng Vương là Mỵ Nương khổng được, lấy làm căm giận, di 1. Tièn Khanh: Túc Bành Tổ người thòi thượng cồ à Trung Quốc, tương truyền ỏng sổng tới 800 nám. 46 ĐẠI VIỆT SỬ KỶ TIỀN BIÊN chúc cho con cháu đời sau phải diệt nước Văn Lang. Đến dây vua cd đủ dũng cảm mưu lược bèn thôn tính. Phong Khê nay là thành Cổ Loa). X Y LOA THÀN H (Sử cũ chép ràng: Vua xây thành ở đất Việt Thường rộng 1000 trượng, xoáy quanh như hỉnh con ốc, gọi là Loa Thành còn gọi là thành Tư Long. Người Đường gọi là thành Côn Lôn, bảo là thành này rất cao) < llb> . Bính Ngọ năm thứ 3 [255 tr. CN] (Chu, Dông Chu Quân năm thứ 1), Loa Thành xây xong (Sử cũ chép: "Mói đầu vua xây Loa Thành, xây đến đâu lại bị đổ đến do'. Vua rất lo, bèn ăn chay càu khấn rồi lại xây. Đến khi ấy co' vị thần hiện lên ở cửa thành. Vua mời vào hỏi, thân ràng: đợi Thanh Giang sứ đến. Nói ròi tìí biệt. Sáng sớm hôm sau vua dậy, ra thành thấy con rùa vàng bơi từ phía đông sông tới xưng là Thanh Giang sứ, biết nói tiếng người, nói việc .tương lai. Vua vui mừng đật vào mâm vàng rồi hỏi nguyên do thành bị đổ. Rùa vàng ràng: Tinh hoa của núi sông bị con vua trước nhập vào. Để báo thù cho nước, đã ẩn vào núi Thất Diệu. Núi cố ma, đó là hôn phách của người con hát đời trước hoá ra. Cạnh đó có cái quán, chủ quán là Ngộ Không, có một người con gái, nhà nuôi một con gà tráng, yêu tinh ấy nhập vào, thường hay hại người đi đường. Yêu khí ngày càng mạnh, cho nên có thể đạp đổ thành. Nếu giết chết được con gà đó thì thành sẽ tự đứng vững. Vua bèn dẫn rùa vàng tới quán, ngủ lại ở đó. Đêm co' ma đến gõ cửa. Rùa vàng quát máng, ma không dám vào. Dến gà gáy đều bỏ đi. Rùa vàng bảo vua đuổi theo. Đến núi Thất Diệu thi khồng thấy gì nữa. Khi về quán chủ quán sợ lấm bèn hỏi vua dùng phép gỉ mà trừ được ma. Vua nói: giết con gà của ngươi mà tế có thể trừ được mối lo. Con gà bị giết, người con gái cũng chết, rồi cho đào núi, được nhạc khí cô’ và nám xương tàn đem đốt ròi tung lên, ma ấy sẽ hết, thành chỉ xây trong nửa tháng là xong, rùa vàng tù biệt ra về. Vua cảm tạ và xin cho kế chống ngoại xâm. Rùa vàng tuốt móng trao cho và nói: "Quốc gia yên nguy tự có sỏ trời, người cũng phải đê phòng, khi giặc dến dùng cái móng đó làm lẫy nỏ bán vào quân giặc thì không lo gì nữa. Vua sãi bề tồi là Cao Lỗ làm nỏ thần, lấy móng ấy làm lẫy nỏ và gọi là nỏ thần Linh Quang móng vàng (truyện chép ỏ Linh Nam chích quái). Lại chép: Cao Biền thời Đường diệt quân Nam Chiếu, khi về qua châu Vũ Ninh, đêm nàm mơ thẩy người lạ tên là Cao Lỗ, tự nói ràng: Xưa kia giúp An Dương Vương, <12a> có công dẹp giặc, bị lạc hầu gièm pha, Thiên Đế thương là không có lỗi, cho một dải núi sông quản lỉnh. Đô thống tướng quân lúc đi đánh giặc, lúc việc cấy trồng đều làm chủ. Nay xin theo ông để đánh giặc, xong rồi lại trở về Bộ của tôi. No'i đoạn xin cảm tạ rồi về. Cao Biền tỉnh dậy nói chuyện với bọn nha lại. Cd thơ ràng: Dẹp thay dát Giao Châu, Dàng dặc dã từ lảu. Người xưa nay dược thấy, Thục chẳng phụ lòng dầu. (Truyện chép ở Việt diện u linh ) Núi Thất Diệu ỏ xà Yên Khang, huyện Yên Phong. Cái quán tương truyền là quán Ma Lôi, nay ở xã Xuân Lôi. Loa Thành nay ỏ xã Cổ Loa, huyện Đỏng Ngàn). NGOẠI KỶ, QUYỂN I - AN DƯONG VƯỚNG 47- Sử thần Ngô Thì sĩ bàn: Hỡi ôi! Ngoại kỳ truyền lại sao mà nhiều chuyện càn rõ thế. Con rũa nói thì có lý hay không? Ràng Bò Kiến thời Tàn dược con rùa lớn 2 thước 6 tác, nuôi 16 năm thì chết, láy xương nó dê hòi việc lành hay dữ, gọi là rùa khách. Rùa nói: Tướng của ta vì Giang Nam không gập, chết ở Tăn. có lẽ lù lời nói của người bói rùa, củng còn có lý. Ma mà dạp dồ dược thành thì có tin dược không? Ràng phàm vật gì trải vói thường thì gọi là yêu, yêu khí mạnh tát phải có cái gì d i dựa vào, nhung dựa vào con gà và người con gái mà dạp dổ dược thành <12b> thì rõ ràng là không có lý. Việc rùa rút móng thì như thế nào? thưa ràng: Rùa nếu biết nói thì khó gỉ trong việc rút móng cùa nó? Đã giúp vua An Dương Vương xảy xong thành thì tiếc gì một cái móng mà không cho. Chí sợ răng không có con rùa dó mà thôi! Dương Hùng làm bàn kỳ Thục Vương nói ràng: Trương Nghị xáy thành, theo dũng vết chăn rùa di dể xảy. Hoặc có thể An Dương Vương xăy thành, ngầu nhiên tháy con rùa lớn, nhăn dó cho là thần, người dời sau do dăy nói ngoa lên cho là việc lạ. Nếu không nhu vậy người làm truyện có thề nghe thuyết dựa vào dẫu rùa di mà xăy thành, cho nên nhận nước Thục nọ ra nước Thục kia, mà diễn ra một pho truyện lạ, bát tát là có việc dó. Lại sách Bác Vật chí: An Dương Vương cố người tên là Cao Thông lầm nỏ cho An Dương Vương, bán một phát giết dược 200 người, thì việc làm nỏ là thằn chứ không phải là người. Biết dău, ngươi làm truyện không láy ờ chuyện này mà cố ý làm cho hơi khác di, cho cái móng của rùa truót ra là thần, dể doạ dời <13a> sau chảng? Cho nén nói: Truyện ỏ Ngoại kỷ phần nhiều là càn rỡ. Nhâm Tý năm thứ 9 [249 tr.CN] (Chu, Đông Chu Quân nâm thứ 7. Lúc này co' 7 nước: Tần, Sở, Yên, Ngụy, Hàn, Tề), năm ấy nhà Chu mất. Canh Thìn, năm thứ 37 (Tần Thuỷ Hoàng, Lã Chính năm thứ 26), Tần đã thôn tính được 6 nước đổi gọi là Hoàng đế, đố là Thuỷ Hoàng. Người nước ta là Lý ông Trọng làm quan với nhà Tần (sử cũ chép Lý ông Trọng là người Từ Liêm, cao 2 trượng 3 thước. Lúc ít tuổi phục dịch hương ấp bị Trưởng quan đánh bầng roi bèn vào làm quan cho nhà Tàn đến chức Tư lệ Hiệu uý, Thuỷ Hoàng sai đem quân đi đánh Lâm Thao, tiếng tăm chấn động Hung Nô, lúc già về quê thì chết. Thuỳ Hoàng cho là lạ, sai đúc tượng đồng, dật ở cửa Tư Mã thành Hàm Dương. Trong bụng tượng chứa được vài chục người, ngàm cho chuyển động. Hung Nô cho là Hiệu uý còn sống không dám xâm phạm. Về sau đến Triệu Xương thời Đường làm Đô hộ, thường nàm mơ thấy cùng ông Trọng giảng sách Xuân Thu Tả thị truyện, nhân hỏi mới biết nhà cũ của ông ở đấy, bèn lập dền thờ. Đến khi Cao Biền đánh quân Nam Chiếu thường hiển linh phù trợ. Biền sửa lại đền miếu, tạc tượng gỗ, gọi là Lý Hiệu uý. Nay đèn ở làng Thuỵ Hương, huyện Từ Liêm. Sử thần- Ngô Thì s ĩ bàn: Sử cũ chép Lỹ Ông Trọng thăn hình cao cùng vãi việc từ dầu dến cuối ông làm quan với nhà Tần, e ràng chua chác dã là sụ thật. Theo Thập thất quốc sử: Thời Tần Thuỳ Hoàng <13b> có người cao tới 5 trượng hiện ra ờ Đãng Cừ. Sử gia thời Tần là Hò Máu Kính nói: 500 năm dát này tát có người lạ, là người lớn lám. Lúc áy người nước ta làm quan với nhà Tần, có thể có người thăn thể to lớn, người lúc dó gọi tên là Ồng Trọng. Ngoại sử kết hợp với Thập 48 DẠI VIỆT SỬ KỶ TIỀN BIÊN thát sử chép vè người cao thòi Tần, dé cho việc áy là có thực. Cho dêh việc lập công ở khu vực khác, nhà Tần dúc tượng dòng dề doạ Hung Nô, chưa chác dã có. Từ Tằn Hán tới nay, cung khuyết phần nhiều dặt người bàng dồng, ngựa bàng dòng dé trán giữ. Tàn Thuỳ Hoàng dúc 12 người vàng, cũng không dặt tổn. Vua Ngụy là Duệ cũng muốn chuyển những người bàng dòng ỏ Trường An về dát Nghiệp, nhưng nặng quá không chuyền dược, bèn phát nhiều dòng dúc 2 người gọi là Ồng Trọng, dặt ỏ ngoài của Tu Mã. Lại theo Thuỷ Kinh chú, ỏ dộng phía dông bắc dàn miếu dinh Thiên Thu, ỏ Hạo Nam có 2 tượng dá dối diện nhau liên gọi là Ông Trọng. N hư vậy cái tên ô n g Trọng cũng dại loại nhu tên Phi Liêm o . Người dời sau < 14a> thấy ô n g Trọng linh thiêng, nhản dó phụ thêm dể thần thánh hoá chuyện lên mà thôi. Xem nhu trong truyện kể doạn Ông Trọng giả chết, Tần Thuỷ Hoàng sai sứ khảm bệnh càng là hù lậu quẻ mùa, vì thế càng biết dược truyền thuyết áy là sai dấy. Dinh Hợi, năm thứ 44 [214 tr. CN] (Tần Thuỷ Hoàng năm thứ 33), lúc đó nhà Tần thấy mối lợi ở đất Việt nhiều châu báu, muốn lấy đất ấy đặt thành quận huyện, phái những người trôn tránh, người ở rể, người đi buôn ra làm lính, sai Hiệu uý là Đô Thư ra làm tướng, sai Sử Lộc đào ngòi chở lương, vào sâu đất Lỉnh Nam, giết vua Tây Ảu là Dịch Hu Tống, đánh chiếm đất Lục Lương, đặt ra Quế Lâm, Nam Hải và Tượng Quận. Người Việt vào hết trong rừng rú không ai chịu người Tần, rồi ngầm đặt Kiệt Tuấn làm tướng, đêm ra đánh giặc Tần, giết chết Hiệu uý Đồ Thư. Nhà Tần phải đưa 50 vạn người bị tội đồ, cho Nhâm Hiêu làm Nam Hải uý, Triệu Đà làm Long Châu lệnh, sang đo'ng ỏ Ngũ Lỉnh. Hiêu, Đà co' mưu chiếm cứ thôn tính nước ta <14b> (sử chép Lộc đào ngòi ở Quế Làm, huyện Lý* Định dài hơn 40 dặm, gọi là ngòi Linh, đưa nước sông Ly vào để vận chuyển lương thực. Đất Lục Lương ở Giang Nam, Như Thuần nói: Là người Lĩnh Nam, phàn nhiều núi rừng vùng cạn, tính tình mạnh bạo táo tợn cho nên gọi là Lục Lương. Gọi là Quế Lảm, xưa là đất Bách Việt, nhà Hán đổi là Nam Hải, Uất Lâm thời Xuân Thu là đ ất Nam Việt, thời Ngô trở về sau là đất Quảng Châu. Tượng quận xưa là đất Nam Việt, Long Châu là thuộc huyện của Nam Hải). Tân Mão, năm thứ 48 [210 tr. CN] (Tần Thuỷ Hoàng năm thứ 37), m ùa đông, tháng 10, Tần Thuỳ Hoàng m ất ở Sa Kháu. Con là Hồ Hợi lên, đấy là Nhị Thế Hoàng đế, vua đời thứ 2 thời Tần. Nam Hải uý Nhâm Hiêu và Long Châu lệnh Triệu Đà đem quân sang xâm lán. Đà đóng quân ở núi Tiên Du, Bác Giang. Nhà vua đem quân đến đánh. Đà thua chạy. Báy giờ Hiêu đem thuỷ quân đóng ở Tiểu Giang (sử cũ chép là Đồ hộ phủ, sau lầm là bến Đông Hô) bị ốm rú t về, đem quân cho thuộc vào Đà (sách cũ ghi Hiêu nổi với Đà ràng nhà Tần m ẫt rồi, dùng kế đánh Thục Phán, cố thô’ lập được nước. Đấy là vàn trong sử tổ điểm khéo léo. Nam Hải có thế dựng nước, sao phải đến lúc kiêm tính Thục Phán. Có lẽ phỏng theo lời nói cùa Hiêu bảo Đà ở đoạn dưới mà thêm lên như vậy. Cho nên xin sửa lại). Dà biết vua cd phòng bị nên rút về núi Vũ Ninh, sai sứ đến xin hoà. Vua mừng bèn chia tìí Bình Giang về phía bác thuộc về Đà (Bình Giang sử cũ chép là Đông Ngàn < 1 5 a> sống Thiên Đức) về phía nam, thuộc về vua ngự trị. Đà liền cho con là 1. Phi LiCm: Lá nguòi thòi vua Trụ à Trung Quổc, lo lón khoẻ mạnh lạ thường NGOẠI KỶ, QUYỂN I - AN DƯỔNG VƯỚNG 49 Trọng Thuỷ làm con tin, nhân đtí cầu hôn, vua liền gả con gái là Mỵ Chãu cho (sử cũ chép Đà đến xâm lược, đóng quân ở Bác Giang, đánh nhau với vua, vua lấy nỏ thần bán, Đà thua chạy. Đà biết vua có nỏ thần, không thê’ địch nổi, mới mưu thông hiếu. Lúc ấy vua đem con gái là Mỵ Châu gả cho con của Đà là Trọng Thuỷ. Trọng Thuỷ dụ dỗ Mỵ Châu lấy trộm nỏ thần cho xem, rồi ngấm ngầm làm hỏng lẫy mà đổi đi-, rồi nói thác là về Bác thăm cha. Khi tạm biệt Mỵ Châu, nói rằng: Ngày khác ta lại đến, vạn nhất hai nước co' sự bất hoà thỉ lúc ấy làm thế nào đê’ nhận được nhau? Mỵ Châu nội: Thiếp có chiếc đệm gấm bàng lông ngỗng, thường khoác trên mình khi đến đường chẽ sẽ rác lông ngỗng làm dấu, nhận dấu ấy sẽ biết nơi thiếp ở, Trọng Thuỷ về no'i với Đà), Sử thần Ngô sĩ Liên bàn: Thuyết rùa vàng có dáng tin không? Thăn nước Hữu Sần giảng xuống thì dã biết nói, củng có lẽ thàn dựa vào người mà hành dộng, nhờ vào vật mà nói dáy. Khi nước sấp hưng thịnh thì th'âh minh giảng xuổng dề xét dạo dức, khi nước sắp mát thì thần cũng giảng xuống dể xem diêu ác. Cho nén có khi thần giáng mà hưng thịnh, củng có khi thản giảng ma mát nước. Việc An Dương Vương khôi công xây thành cũng có thể không dè sức dán, cho nên thăn thác vào rùa vàng dề bào. Thế chảng phải dộng lòng oản hận cùa dán mà <15b> như vậy ư? Cũng giống như vậy, dến khi lo hoạn nạn mới cầu xin với thăn, thì là ý riêng nảy ra dấy. Một khi ý riêng dã nảy ra thì lẽ trời cũng theo dó mà mát, sao thần lại không giáng tai hoại Vổ việc truốt móng thiêng trao cho, bảo rằng dù dể đánh dược dịch, là mầm hoạ này sinh dó chăng. Củng nhu việc thần cho nước Quấc ruộng dát, rỗi nước Quác theo dó mà mát. Về sau quả như vậy. Như thế chảng phải không việc gì là thần không dựa vào người mà hành dộng dó sao. Nếu không có lời cầu xin cứ theo lẽ trài mà làm, thì biết dău nước lại chàng dược dài lảu ? Còn việc Mỵ Cháu rải lông ngỗng chi dường, chưa chắc dã là có. Nếu nhu là có, thì chỉ thấy một lần là còn dược, sau con gái Triệu Việt Vương cũng bát chước như vậy là có làm sao? Có lẽ người chép sử do việc nhà Thục mát nước về tay họ Triều đêu từ việc ỏ rề, cho nên nhản một việc mà nói hai lần chàng? Thẻ thì việc ma làm dồ thành cũng dáng tin chăng? Thưa rằng củng như loại Bá Hữu làm quỷ dữ dấy < 16a> Sau lập con cháu của Hữu, Hữu có nai về bèn thói. Thế là trừ dược tai hoạ. Ma quỳ không nương tựa vào dâu dược thì cũng thôi. Còn nhu sử chép: An Dương Vương bị bại vong là vì nỏ thần bị dổi láy; Triệu Việt Vương bị bại vong là do mủ dău máu bị mát mong rồng, thê là mượn lời dể thăn thánh hoá vật ấy dáy. Còn như giữ nước chống giặc tự có lý của nó. Dũng lý thì nhiêu người giúp mà nước hưng thịnh; trái lý thi dược ít người giúp mà nước bị mát, chứ chảng phải vì những cái dó. Sử th ân Nguyến Nghiễm bàn: Cái lý trong thiên hạ chi có dũng mà thôi. Lý dũng thì việc có hay không có, diều dáng tin hay không dáng tin, dù qua ngàn dài cũng có thề biết dược dấy. Có lẽ từ họ Hòng Bàng gãy ra ca sở, xứ Au Lạc mở ra bò cõi, khi non trẻ, bát dầu mở mang, sách vỏ còn thiếu. Nay những phàn ghi chép ỏ phần Ngoại kỷ dầu là dược nghe từ những truyền thuyết, trong dó thánh thàn kế tiếp sinh ra. Dời không ít chuyện thần kỳ. Một bọc mà mò ra bờ cõi xứ Bách Việt; 3 tuổi mà có sức dịch muôn người, có lẽ là những bậc trội hơn cả nòi gióng, có diều khác với người thường, không dáng cho là lạ. Đến nhu giống Rồng giống Tiẻn cũng 50 DẠI VIỆT SỬ KÝ TIÈN BIÊN là hoang dường, Sơn Tinh, Thuỳ Tinh cũng là huyền ảo; chuyện ma quái à núi Thát Diệu, việc Tiên bay ở dầm Nhát Dạ dầu là quái dàn không hợp dạo thường, chẳng thể tin dược. Ôi! Diều tin thì truyền cho người ta tin, diều ngờ thì truyần cho người ta ngờ. Bậc nhà nho có dạo chủ yếu là suy cho cùng lý. Khống Tủ nói: "Được nghe nhièu thì ít ngờ vực". Mạnh Tủ nói: "Tin cả vào sách chàng bàng không có sách". Người dọc sù phải láy lý mà suy, láy tăm mà hiểu, bỏ cái quái dàn mà giữ cái bình thường, khống bị' sự lưu truyền mẻ hoặc là dược dáy. Quý Tỵ, nàm thứ 50 [208 tr. CN] (Tần Nhị Thế năm thứ 2), Hành Nam Hải uý của nhà Tàn là Triệu Đà lại đến xâm lược. Nam qu&n tan vỡ. Vua chạy ra biển. Thục mất (theo sử cũ, Đà đem quân đánh vua. Vua không biết lẫy nỏ thần đả mát,*ngồi đánh cờ cười mà ràng: Đà < 17a> khổng sợ ta có nỏ thân hay sao? Quản của Đà kéo sát tới nơi, dàn trận, vua giương nỏ, lẫy nỏ gẫy, quân tan vỡ. Vua liền cùng Mỵ Châu lên ngựa chạy về phía nam. Trọng Thuỷ nhận ra lông ngỗng đuổi theo. Vua đến bờ biển hết đường, vội vàng gọi: "Thanh Giang sứ đâu? "Rùa vàng hiện lên mật nước nói: "Người ngồi phía sau ngựa là giặc đấy, sao không giết đi". Vua rút gươm toan giết Mỵ Châu, Mỵ Châu khấn ràng: "Tôi một lòng trung tín bị người ta lừa dối, xin hoá thành ngọc trai để rửa mối thù này". Khấn xong vua chém chết, máu chảy xuống nước, con trai ngậm lấy hoá thành ngọc trai. Vua càm vàn tê 7 tấc nhảy xuống biển chết. Trọng Thuỷ tới nơi thấy Mỵ Châu chết, khóc rất thảm thương, ôm xác Mỵ Châu về chôn ở Loa Thành, đến chỗ Mỵ Châu thường tám gội, thương tiẽc quá, bèn nhảy xuống giếng chết. Người dồi sau bát được hạt ngọc minh châu ở Biển Đông, lấy nước giếng này rửa thì ngọc càng sáng. Lại xét, mẹ Trọng Thuỳ là Trình T hi người làng Dường Thâm quận Giao Chỉ đổi là Đà, nay làng Đường Thâm, huyện Chân Định có miếu thờ Triệu Đà, Trinh Thị được thờ phụ). Sử th â n Ngô Thì s ĩ bàn: Nhà Tần mở mang dát Dương Việt, cho Nhâm Hiêu làm tướng, là kế khai thác dát nai xa, mà sau lại làm nơi cho Triệu Dà chiếm cứ. Dà mượn sức của Hiêu, theo lời dạy cùa Hiêu, cuối cùng từ một chức huyện lệnh mà dụng dược nuóc, chóng nhau vói nhà Hán. Còn việc xu thời, lợi dụng cơ hội thì khổng ngoài sự tính toán hàng ngày cùa Nhăm Hiéu. Ôi! Hiêu có thề gọi là vị hào kiệt cùạ một dời dấy. Giả sử Nhăm Hiêu khổng chết, Triệu Dà dương ỏ trong vòng ' không chế, trời buộc Hiêu chết, cho Đà lẻn <17b>, thế thì trong vòng người vói trài cô dé nói dău. Lại xét sử cũ chép: Đà cho con là Trọng Thuỳ vào làm con tin với An Dương Vương. Xét ra, Dà có toàn lực cùa Quế Quảng, dang hăng việc kiêm tinh, có sọ gì mà phải cho con làm tin? Hoặc giả cố ý dầu hàng khuất phục, dề cho An Dương Vương kiêu căhg, ròi khổng cản dánh mà láy dược chăng? Còn như việc Trọng Thuỳ ân trộm móng rùa, Mỵ Cháu rác lông ngỗng dầu là sụ nói bịa không cần phải biện luận nhiêu. Cà dến việc nước giếng rủa hạt cháu sử chép là việc thần dị dể mẽ hoặc dời sau. Nay miếu ỏ Loa Thành các dời theo nhau thờ phụng dược ghi trong sách Việt Điện u linh, nếu muốn trà lại dạo thường mà không có sự tà quái thì háy gạt hết những ngoa truyèn của 8Ù cũ là dược dấy. Trẻn dáy là sử An Dương Vương bát dầu từ năm Giáp Thìn, kết thúc là năm Quý Tỵ, gồm 60 năm. Ng o ạ i k ỷ , q u y ể n I - AN DƯONG VƯONG 51 Thông luận của sử thần Ngô Thì sĩ: An Dương Vương dáy lên từ dát Ba Thục, <18b> bờ cõi khác với nước Việt. Nhãn lúc Hùng Lạc suy yếu, một làn khởi binh mà láy dược một nước 2 ngàn năm, dễ như trở bàn tay, sao mà mạnh thế! Ý lờ con cháu nhà Thục dựa vào nên của cha ông, mưu bảo thù sáu sác. Công cụ dánh nhau như nhà chép sử truỳên lại thì củng chưa thổ biết dược. Còn việc dựng nước dóng dô xây thành, dặt chỗ hiềm, trị kẻ dịch, chóng kẻ khinh nhờn giặc, lo phòng hoạn nạn khiến cho hơn 40 năm không phải lo việc canh phòng giặc, trong nước vô sụ, có thể nói là bậc có mưu lược dựng nước và giữ nước dáy. Nhưng xét về hình tích thảng bại khi lây nỏ còn thì quăn xăm lược Phương Bảc phải tan; lảy nò gãy thi hét dường, chạy vì phía nam. Ngoài cái móng rùa thì việc người dầu không dự dến. Giả sử nỏ mà không có móng rùa thì chưa chác dã chống lại dược Hiêu. Nước dịch à bổn cạnh, dáng ra phải có quy mô luyện binh tuyền tướng, phải có kế hoạch dẹp loạn mưu sự sinh tòn, sao lại dám yên lặng vui chơi, dẫn cừu thù vào nơi cung khuyết, dặt mưu kế giữ biên giới vào cuộc an nhàn ? < 18b> Chỉ vì nỏ có móng rùa. vì trận tháng nhỏ mà lòng kiêu căng lớn lẽn, dề dến nỗi lứa dôi thành thù dịch, nước non Au Lạc như dây bần cà ra là hết. Mỵ Châu chết uổng, không cứu dược sự diệt vong. Đó chồng phải là mông rùa làm ma ảm ảnh dó sao ? Truyền rầng: Nước sáp mất thì nghe cận thần, dó là nói về An Dương Vương dốy. . Than ôi! Rùa vàng đến làn thứ nhất thì tặng cho An Dương Vương cải mầm tai lioạ, rùa vàng dến lần thứ hai thì dưa An Dương Vương tói con dường chết. Loài vật có mai kia dối với nhà Thục có ích gì? Vua Thục cố tình dưa dón cầu xin, kêu khăn dến chết mà củng không hổi, thật là quá ngu dấy! Hoặc có người nói: An Dương Vương bị mất nước là không giữ dược cái móng thiêng dó thôi, chứ rủa dău có phụ. Đáp rằng: An Dương Vương chi cậy sức mạnh của thần, không sang sủa chính sự có dạo dức, biên giới không dề phòng, quán giặc vào sát cõi mà chưa từng sai một quan tướng, ra một dạo quàn. Dại dến lúc giặc vào tới quốc dô, văn còn muốn giáĩ quyết ca mưu trong chốc lát, khác nào lừa chảy dển mái nhà ván cứ ngôi yên. Mẽ muội dến thế! Giả sử có thiên tướng thần binh <19a> củng chằng thể nào duổi giúp dược giặc, huống chi một chiếc móng rùa? An Dương Vương và Dà thế lực khỗng tương dương, hình thắng bại như núi Thái Sơn dè lên quả trúng. Triệu Dà dược móng rùa. cố nhiên la không dùng làm gì, mang uổng cải tiếng phụ lời thè, khiến cho Trọng Thuỳ vì phụ lòng mà thẹn chết dấy thôi. An Dương Vương ban dầu vì chú ý dến một cái thành mà dẫn dến một con Rùa vàng khiển cho thành còn mà nước mát. Dến nay thành văn còn nguy nga ngàn dời. Nên vì An Dương Vương mà viếng thăm cảm khái dề răn những kẻ hay bàn chuyện linh dị trong dời. Còn việc có hay không có thì sử thăn Ngô Si Liên dã bàn ròi. HÉT QUYỂN I NGOẠI KỶ DẠI VIỆT s ử KÝ T1ÈN BIÊN ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TIỀN BIÊN NGOẠI KỶ QUYỂN II KỶ NGOẠI THUỘC TRIỆU < l a > S ử th ầ n N gô T h ì s ĩ b à n : Từ khi An Dương mát, hèn quốc thống (1) bị gián đoạn, người làm sử thấy việc Triệu Đà thôn tính dược Giao Chỉ làm vua N am Việt, xư ng hiệu dê bèn ghi kỳ tiếp theo, chép chữ to chữ dặc biệt tựa hò muốn khoe sự hưng th ịn h bát dầu dụng nghiệp d ế của nước ta. Người dời sau noi theo, không ai biét cái sai dó. Xét ra. nước Việt cùa Nam Hải, Quế Lảm không phải nước Việt cùa Giao Chi, Cừu Chăn, N hật Nam. Triệu Dà nổi lên ỏ Long Xuyên ,2>, dóng dô à Phiên N gung (3>, chi m uốn m ở rộng bờ cõi bèn thôn tính nước ta làm quận phụ thuộc, dặt chức chủ trì việc giám sát d é ràng buộc mà thôi. Thực ra là chưa từng làm vua ở nước ta. Nếu cứ tháy người xưng vương ỏ dát Việt, mà coi là vua thì sau dáy có L ăm S i H oàng (4) nối lẻn ỏ Bàn Dương và Lưu N ham (5i < lb > nổi lén ờ Quàng Cháu, dầu xưng là N am Việt Vương sau dó lại tiếm xưng d ế hiệu, cũng cho là một kỳ tiép vói trang quốc thống ta ư ? Hoặc nói ràng Triệu Đà là người Hán, An Dương là người Thục cũng như nhau thòi. Dà diệt A n Dương củng như An Dương diệt H ùng Vương. Thẻ m à khen chê lại khác nhau là thế nào? An Dương dóng dò ỏ Cổ Loa, tiếp dén H ùng Lạc làm chủ ỏ Giao Nam. Đà ỏ Phiên Ngung, ta à GÍao Nam sao chi theo cài lệ chép ve A n Dương mà chép cho Dà, còn họ nổi lẽn từ dát nào thì không ké. Dà thôn tín h Giao Cháu cũng như Nguy thôn tính Thục, Tán lăy nước Ngó. Hai họ Tôn [Quyền], Lưu [Bị] m át thì quốc thống hết. Nếu sừ nước ta có thể láy sử nước N g u y tiếp vào Lưu Thiện (6Ì, sử nước Ngô có thể láy kỳ nhà Tán'tiếp 123456 1. Q uốc Iliỏng : Su nối tiếp chú quyền trong một nước. Dưới chế dộ phong kiến, chi sự nối liếp các triÊu dại. 2. Long XuyCn : Tốn huyện thuộc Trung Quốc. 3. PhìCn N gung : T ên huyện thuộc Trung Quốc. 4. Lâm Sĩ H oàng : N guôi Bàn D udng thòi Duòng, cutìi thời Tuỳ theo nguôi làng lã Thao Su Hát xung la Nguyên H ung VUổng khỏi nghĩa, sau khi Su H ất chết. Sĩ Hoằng chiếm giũ Kiền Châu xUng dế, d ặt niên hiệu là Thái Bình. H ào kiệt trong vùng nhiều nguòi theo. 5. Lưu Nham : Con co lỄn la NghiỂm. em ruột Luu Ẩm thúi Nam Hán. Ẩm chết. Nham ÌCn thùa kế cct ngliiCp. D én nflm T rinh Minh [915 - 919] thòi LUdng. tự xUng d ế lấy quốc hiệu là Hán. ỏ ngôi 32 năm thì mắt. 6. I Uu T hiện : Túc T hục hậu chúa, con l.ưu Bị khi mối lên ngỏi dùng Gia Cát Lượng làm phụ chinh. nUdc dược yỄn, Sau khi LUỢng chết, ntlcíc Nguy sai Dăng Ngài đến dánh. Thiện chưa dánh dỉi ra hãng, du«.1c vua Nguy phong cho tudc A n Lạc Công. NGOẠI KỶ, QUYỂN II - KỶ NGOẠI THUỘC TRIỆU 53 vào Tôn Hạo 1/1 dược, thì sử nước ta mói có thể láy kỷ nhà Triệu tiếp vào An Dương. Nước ta gọi là nước văn hiến, sù của một nước chàng nhẽ lại láy sứ của một nước khác chép làm của mình ? [Tôi] bèn mạnh dạn cài chính, bỏ kỷ Triệu Dà <2a>. Bời vì láy quốc thống quy vè Triệu Đà là không dũng phép làm sử. Đà dối dịch vôi Hán mà Giao Châu lúc áy chưa thông với Trung Quốc. Cho nên tôi dặt m 'ệ ngoại thuộc dề phàn biệt vói nội thuộc. Giáp Ngọ [207 tr. CN] (Tần Nhị Thế năm thứ 3, Triệu Vũ Đế Đà nãm thứ 1), Triệu Đà tự lập làm Nam Việt! Vương. Đà người huyện Chân Định. Trước đấy viện uý Nam Hải nhà Tần là Nhâm Hiêu lâm bệnh sáp chết bảo Đà ràng: "Nhà Tần vô đạo, thiên hạ khổ vì Tần. Nghe tin bọn Trần Tháng nổi loạn, lòng dân chưa biết theo ai. Đất này hẻo lánh xa xôi, ta e rằng bọn giặc cướp xâm lấn nên muốn dấy binh cất đường sạn đạo^2) để tự phòng thủ đợi sự biến động của chư hầu. Vả lại đất Phiên Ngung dựa núi cách sông, đông và tây mỗi bên vài nghìn dặm, lại có người Trung Quốc giúp đỡ, có thể lập được nước. Bọn trưởng lại trong quận không có ai đáng cùng mưu sự. Cho nên mài riêng ông đến mà bảo cho biết”. Viết thư cho Đà tức là làm cồng việc của quan uý Nam Hải. Hiêu chết Đà bèn truyền hịch cho các cửa ải Hoành Bồ Dương Sơn Hoàng Khê *-5\ rằng: "Quân cướp sáp đến phải gấp rút cát đường tự thủ". Hịch chuyển đến các châu quận <2b> mọi nơi đều hưởng ứng. Nhân đấy Đà dần dần tỉm cách giết bọn trưởng lại của nhà Tần, lấy người thân thuộc bè đảng của mỉnh làm chức giả thú í ' thôn tính đất Quế Lâm, Tượng quận, đánh diệt An Dương Vương rồi tự lập làm vua nước Nam Việt. Vũ Vương sai hai viên thư lại trông coi 2 quân Giao Chỉ, Cửu Chân (theo Lục Cháu ký của án sát họ Diên. An Nam ta thuộc về Triệu), Ất Mùi [206 tr. CN] (Hán vương Lưu Bang năm thứ 1, Tày sở Hạng Tịch nãm thứ 1, Triệu Vũ Đế năm thứ 2), năm ấy nhà Tần mất. Kỷ Hợi [202 tr. CN] (Hán Cao Đế năm thứ 5, Triệu Vũ Đế năm thứ 6). Mùa xuân tháng giêng, Hán Vương Lưu Bang lên ngôi hoàng đế, tức Cao Đế. Năm ấy Tây Sở mất. Ất Tỵ [196 tr.CN] (Hán Cao Đế năm thứ 11, Triệu Vũ Đế năm thứ 12), nhà Hán đã bình định thiên hạ, nghe tin Đà cũng xưng vương ở đất Việt bèn sai Lục Giả ( ) sang 123456 1. Tftn Hạo : Cháu nội Ngữ Tôn Quyên, saủ khi Ngữ chúa là Hựu mắt. dược triều đinh rước lẽn ngòi. N;lm 279 bị quAn nhà Tắn tiến công. Hạo đầu hàng, nhá Ngô mắt. 2. Sạn dạo : Đường do dùng tliAn cậy ghép thành cl những chỗ núi non hiéin trỏ, theo chúng tỏi loại càu treo hầng mây của các dAn lộc miền núi cũng là một hình thúc cùa san dạo. 3. Hoành Bồ i cửa quan ỏ tây bác, huyện Nam Hành, tình Quàng Dông, Trung Quốc. 4. Dương Sơn : cửa quan ỏ tay bắc, huyộn Dương Sơn, lình Quàng Dơng, Trung Quổc. 5. Hoàng Khê : cửa quan ỏ tinh Quàng Dông. Trung Quõc. 6. Già thú : Chức thái thú lụm thời. 7 Lục Già • Người đắt sò, theo Hán Cao Tồ thrtng nhất thiin hạ làm đén chúc Dại Trung dại phu, hai lần di sứ sang Nam Việt. 54 DẠI VIỆT SỬ KÝ TIỀN BIÊN ban án cho Dà lập làm Nam Việt Vương, trao phù tin ' ^ thông sứ giả, bảo Đà hoà hợp ở Bách Việt chớ gây hại ở biên giới phía nam. Giả đến, Đà búi tóc ngồi xổm tiếp kien Giả. Giả nói: <3b> "Vương vốn là người Hán, họ hàng phân mộ đêu ở Chân Định nay lại trái tính bỏ đai mủ hòng trỗi dậy ở đất này, làm nước đối địch chống nhau với nhà Hán, chảng đã lầm lẫn đo' sao? Vả lại nhà Tàn chính sự gai trái, hào kiệt đều nổi d ậ y , chỉ có Hán Đế vào Quan Trung trước tiên chiếm giữ Hàm Dương nổi lên ở Ba Thục, cuối cung diệt được họ Hạng trong vòng 5 năm, bình định được thiên hạ. Đó không phải là sức người làm nổi mà là trời gây dựng nên đấy. Thiên tử nhà Hán nghe vương xưng vương ở đẵt này toan đưa quân xuống phía nam, chỉ vì tràm họ khó nhọc vìía xong nên sai sứ trao án cho vương. Đáng nhẽ vương nên ra đón bải yết ngoài thành quay mặt về hướng bác mà nhận làm bề tôi, thế mà vương lại muốn cậy co' nước Việt chưa yên mà khinh nhờn sứ giả của thiên tử. Nhà Hán nếu nghe biết chuyện này phát binh đến đất Việt thì Vương làm thế nào?". Đà dứng dậy nói: "Tôi ở đây lâu ngày quên mất cả lễ nghĩa". Nhàn đấy hỏi Giả ràng: "Tôi với Tiêu Hà, Tào Tham, Hàn Tín ai hơn?" Giả đáp: "Có lẽ vương hơn". Đà lại hỏi: "Tô? với Hoàng đế, ai hơn?" Giả đáp: "Hoàng đế <3b> nối nghiệp Ngũ Đế Tam Vương thông trị Trung Quốc, người Trung Quốc có tới hàng ức vạn, đất rộng muôn dậm, cùa lảm dàn giàu, chính lệnh do một nhà mà ra. Tìí khi có trời đất dến nay chưa có đời nào được thế. Nay dân chúng của vương chảng qua được vài chục vạn ở lẩn vào giữa khoảng núi và biển, chl như một quận của nhà Hán, sao mà so với Hán được". Dà cười nói: "Tôi ân hận khống dấy lên ở Trung Quốc nên làm vua ở đây, sao vội cho tôi không bàng nhà Hán", rồi giữ Giả ở lại vài tháng. Đà còn no'i: "Trong nước Việt không co' ai đáng no'i chuyện nay tiên sinh đến đây, hàng ngày tôi được nghe những điều chưa được nghe". Lại còn hẹn cho Giả châu báu trong túi đáng giá ngàn vàng. Đến lúc Già về lại cho thêm ngàn vàng. Binh Ngọ [195Ntr. CN] (Hán Cao Đế năm thứ 12, Triệu Vũ Đế năm thứ 13), mùa hạ tháng 4, vua Hán bâng, miếu hiệu là Thái Tổ, con là Doanh lên ngôi tức là Hiếu Huệ Đế. Quý Sửu [188 tr. CN] (Hán Hiếu Huệ năm thứ 7, Triệu Vũ Đế năm thứ 20), mùa thu tháng 8, vua Hán mất, mẹ là Lã Thái Hậu tên là Trĩ <4a> nám quyền thiên tử đặt là Cao Hậu. Mậu Ngọ [183 tr. CN] (Hán Cao Hậu nâm thứ 5, Triệu Vũ Đế năm thứ 25), nhà Hán cám nước Nam Việt mua bán đồ sất ỏ cửa quan. Nam Việt Vương Dà nghe tin áy nói: "Khi Cao Dế lén ngôi, ta cùng trao đổi sứ thàn và phẩm vật. Nay Cao Hậu nghe bề tối gièm pha, phân biệt Hán với Việt, ngàn cách việc trao đổi đồ vật. Việc này ắt là mưu kế của Trưòng Sa Vương muốn dựa uy thế của nhà Hán mưu lẩy nước ta mà làm vua cả, đế lập công cho mình do' thôi". Đà bèn tự xưng là Nam Việt Vũ Đế, sai quân sang đánh những áp biên giới của Trường Sa, đánh bại vài huyện ròi trở về. 1. Nguyên văn lá chữ "Phân phũ" (vật tin bỏ liim dõi) chi VỘI chế bằng ngọc hoặc kim loại, hay bạng tre gỗ, trốn mặt crt khắc chữ. bẻ ra lam dôi. triều đình và viên quan ngoải bién trấn mỗi hên giữ một nửa. Khi có viộc cân trao dồi, sai ngtlòi đến, phải mang nửa này dẻ ráp vói nửíi kia làm tin. NGOẠI KỶ, QUYỂN II - KỶ NGOẠI THUỘC TRIỆU 55 Canh Thân [181, tr. CN] (Hán Cao Hậu năm thứ 7, Triệu Vũ Đế năm thứ 27), nhà Hán sai Lâm Lư hầu là Chu Táo đánh Việt để báo thù việc đánh Trường Sa. Gập mùa náng no'ng ẩm thấp, bị nạn dịch lớn không thể vượt qua được Ngũ Linh, bèn phải bãi binh. Nhân dịp ấy Đà lấy binh lực và của cải chiêu dụ dân Việt và Tây Âu Lạc lệ thuộc vào minh, đông tây hơn vạn dặm, ngồi xe mui vàng dùng cờ tả đạo xưng là Thiên tử ngang hàng với nhà Hán. (Theo Hoàn Vũ ký, Vĩnh Gia là Đông Au, Uất Lâm là Tây Au. Dư địa chí <4b> chép: Giao Chỉ thời Chu là Lạc Việt, thời Tàn là Tây Âu, sách ẩn^lj nói: Nay Chu Nhai, Đạm Nhĩ gọi họ là ngươi Âu (tức Âu Việt). Tân—Dâu [179 tr. CN] (Hán Cao Hậu năm thứ 8, Triệu Vũ Đế năm thứ 28), mùa thu tháng 7, Cao Hậu bâng, các đại thần nhà Hán rước con thứ của Cao Đế là Đại vương Hằng lập làm vua txic Vản Đế. Nhâm Tuất [180 tr.CN] (Hán Vãn Đế năm thứ 1, Triệu Vũ Đế năm thứ 29), vua Hán đặt người trông nom phân mộ tổ tiên của Nam Việt Vương Đà ở Chân Định trông coi ấp hằng năm theo mùa thờ cúng. Vời anh em của Đà cho làm quan to, ban cho rất hậu. Hán Vãn ĐẾ hỏi tướng Trần Bình cử ai sang sứ nước Việt được? Bình no'i: "Lục Giả thời tiên đế đã từng sang sứ nước Việt". Vua Hán bèn vời Giả cho làm Thái Trung đại phu^1 2) và một viên yết giả^3^ làm phó sứ, sang đưa thư cho Dà nói rằng: "Kính thảm Nam Việt Vương rất lao tâm khổ tứ. Trẫm là con vợ lẽ của Hoàng đế bị ruồng bỏ ra ngoài làm phiên vương đất Đại, đường sá xa xôi, lại quê kệch dốt nát nên chưa từng gửi thư cho vương. Cao Hoàng Đế lìa bỏ bề tôi. Hiếu Huệ Đế qua đời, Cao Thận tự ý lên nám chính sự <5a> không may lâm bệnh, bọn họ Lữ làm loạn, nhò anh linh của tông miếu, còng sức của công thần đã giết được hết. Trẫm vì lẽ vương hầu và quan lại không tha cho, nên không thể không lên ngôi. Mới rồi nghe no'i vương gửi thư cho Long Lư hàu, muốn tìm anh em thân và xin bãi chức 2 tướng quân ở Trường Sa. Trẫm vỉ thư của vương đã bai bỏ tướng quân Bạc Dương hầu rồi. Còn anh em thân thích cùa vương hiện ở Chân Định, trẫm đã sai ngưòi thăm hỏi và đáp sửa phần mộ tổ tiên của vương. Ngày trước nghe tin vương đem quân cướp phá liên miên ở ấp biên giới, dân Trường Sa khổ vì việc đo' mà Nam Quận^4) là khổ nhất. Như thế nước của vương phỏng co' được lợi riêng gì? át sẽ giết nhiều quân lính, hại lắm tướng tài, làm cho vợ người ta phải goá bụa, con người ta phải côi cút, cha mẹ người ta phải cô đơn được một mất mười. Trẫm đây không nỡ làm thế. Trẫm muốn định lại chỗ địa giới lôi lõm, cài nhau như răng lược mới đem việc đo' để hỏi các quan thỉ họ nổi: Cao Hoàng Đế sở dỉ đã láy Trường Sa làm giới hạn vì đấy là đất của vương nên không tự tiện thay đổi. Nay dù lấy được đất của vương^cũng không lớn thêm được và lấy được của cải của vương <5b> cũng không giàu thêm. Từ Ngũ Lĩnh trở về nam, vương cứ tự cai trị. Dẫu vậy, nhưng vương xưng là đế, hai vị hoàng đế cùng ở ngôi mà không biết nhường thì người nhân không làm thế. Trẫm nguyện cùng vương 1. Sách Àn : Phân chú thích sách Sử ký' do Tu Ma Trinh thỏi Dilòng biCn soạn. 2. Thái Trung dại phu : Chức quan nắm giữ việc bàn bạc thảo luOn cAng viộc trong triều dinh, có tù thdi Tền. 3. Yết già : Chức quan giũ công việc tan khách yến tiệc, dặt ra tù thcti Hán. nhu quan lẽ tân. 4. Nam Quận : Quận do nhà Tẳn đặt à phía nam tinh Hò Bẳc. Trung Quốc. DẠI VIỆT SỬ KÝ TIỀN BIÊN 56 đôu bỏ hiềm oán cũ, từ nay về sau lại thông hiếu như xưa. Vậy sai Lục Giả sang đưa tờ dụ để tỏ ý với vương về bản ý của trảm. Vương hãy nên nghe theo chớ gây sự tai ương cướp phá nữa. Nhân gửi biếu vương 50 chiếc áo thượng giả, 30 chiẽc áo trung giả, 20 chiẽc áo hạ giả. Mong ràng vương hãy nghe âm nhạc, quên nỗi lo buồn mà thăm hỏi đến nước láng giềng". Giả đến, Đà cảm. tạ ndi: "Tôi kính vâng chiếu chỉ xin làm phiên thần giữ mãi lễ công". Thế rồi hạ lệnh cho trong nước biết ràng: Ta nghe nđi hai anh hùng không cùng đứng với nhau dược, hai hiền tài không cùng sống trong một thời được. Hoàng đế nhà Hán là bậc thiên tử giỏi, vậy từ nay ta bỏ đế chế, thôi dùng xe mui Vàng, cờ tả đạo". Nhán đấy viết thư ràng: "Đà tôi kẻ đại trưởng lão phu ở Man di, mạo muội cam tội chết, vái hai vái dâng thư lên Hoàng đế bệ hạ: Lão phu vốn là lại cũ ở đất Việt < 6 a > , Cao Đế ban cho ấn tín, phong làm Nam Việt Vương. Hiếu Huệ Hoàng đế lên ngôi, giữ ân nghỉa không nỡ dứt bỏ, đã ban cho lão phu rát hậu. Cao Hậu nám giữ việc nước, phân biệt Hoa với Di, ra lệnh không cho Nam Việt đồ dùng bàng sát để làm ruộng. Ngựa, trâu, dê, có cho thì cho con đực, không cho con cái. Lão phu nơi hẻo lánh, ngựa, trâu, dê đã già cả, tự nghỉ không lấy gì đê’ cúng tế thỉ tội đáng chết, nên mới sai Nội sử là Phan, Trung uý ^ là Cao và Ngự sử ( M à Bình gồm ba bọn sang dâng thư tạ tội, đều không tháy trở về Lại nghe phong thanh là mồ mả cha mẹ của lão phu bị san phá, anh em họ hàng bị giết chết. Cho nên các quan lại bàn nhau ràng: Bây giờ, trong thỉ không được động đến nhà Hán, ngoài thỉ không có gì làm cho mình lạ lẫm khác người. Cho nên đổi hiệu là đế, chỉ là tự xưng đế ở nước mình, không dám có ý hại đến thiên hạ. Cao Hậu nghe tin cà giận, xoá sổ Nam Việt, khiến sứ giả không qua lại được. Lão phu trộm ngờ là Trường Sa Vương gièm pha nên đem quân đến đánh biên giới phía ấy. Hơn nữa, Phương Nam là nơi ẩm tháp, trong đám Nam Di như Đông Màn, Tây Âu < 6b> đều xưng vương cả. Lão thàn xưng đế cũng tạm để tự vui thôi, đâu dám để tiếng lọt đến tai thiên tử. Lão phu ở đất Việt đã 49 năm nay, đã có cháu rồi, thế nhưng khuya nằm sớm dậy, ngủ chẳng yên ăn chẳng ngon, m át không dám nhìn sác đẹp, tai không dám nghe chuông trống, chỉ vì không được thờ nhà Hán. Nay được bệ hạ rủ lòng thương yêu, cho theo hiệu cũ, sứ giả thông hiếu như trước. Lão phu này dù chết, xương cũng không mục. Vậy xin đổi hiệu không dám xưng đế nữa. Nhân có sứ giả đến, kính dâng đôi ngọc bích tráng, một ngàn chiếc lông cánh chả, 10 chiếc sừng tê, năm trăm tử bối 1 một hộp tổ sâu quế, bốn mươi đôi chim trả sống, hai đôi chim công. Mạo muội liều chết lạy hai lạy dâng lên Hoàng đế bệ hạ”. (Sách Lục thị Việt kỷ chép: Sâu quế ở vùng Quế Lâm, ngọt hơn m ật ong, vị cay thơm lạ thường). S ử th a n N gô T hi s ĩ b àn : Xét tháy bức thu của Hán Văn Dế gửi cho Việt Vuong các bậc tiên nho dã từng khen < 7 a > riêng có bức thu dáp lại cùa N am Việt *34 1. Nội sử : Chúc I/Uiiin ỏ nước chư hầu. Thòi Hán VẾ sau các nước chư hầu đèu đặt quan nội sử đẻ Ciii trị trong ndóc giring chúc quận thú. 2. Trung uý : Chức quan tuần xét đ Kinh sư, dặt từ thài Chiến Quổc. 3 Ngự sử : Chúc quan nắm giũ việc soạn thảo sắc du chiếu biểu luật lệnh, là quan thân cặn của vua. 4 Tử bổi : Một thứ vỏ sò biẻn có van tút óng ánh. ngưòi xưa dùng làm tiẾn dê mua bán. NGOẠI KỶ, QUYỂN II - KỶ NGOẠI THUỘC TRIỆU 57 Vuong, dầu thư xưng là Lão phu ỏ nai Man Di" mà không e ngại gì, cùng với thư của vua Hán không kiêng nói: "Trám là con vợ lẽ", hai cáu dó chiếu ứng với nhau. Trong thư khỗng h'é giấu giếm việc xưng dế, phát binh. Một bén thì quy lỗi vè Lữ Hậu, một bén thì buộc tội cho Trường Sa. Ngày trước xung dế thì thác là dể tụ vui, vè sau dổi hiệu thì nói là mừng dược thò Hán. Lòi lẽ uyển chuyển mà không tự ti, thảng than mà không gay gàt, ý tứ chu dáo, từ ngữ cứng cỏi, có bút pháp của Tả truyện, Quốc ngữ. Có thề tưởng tượng tháy dược văn tụ thời Tiền Hán chứ không thề cho răng dời sau không thề sảnh kịp. Những người phò tá của Đà, nhản tài cũng nhiều vì thế mà Đà trò nên hùng bá dược. Giáp Thân [157 tr.CN] (Hán Vân Đế năm thứ 7, Triệu Vũ Đế năm thứ 51), mùa hạ tháng 6, vua Hán băng, con là Khải lên ngôi, tức Hiếu Cảnh Đế. Đinh Dậu [144 tr.CN] (Hán Cảnh Đế năm thứ 6, Triệu Vũ Đế năm thứ 64), bấy giờ đều xưng vương. Mỗi lân sai sứ sang Hán <7b>, lễ triều yết theo như các nước chư hâu. Còn đối với trong nước thì vẫn hiệu đế như cũ. Canh Tý [141 tr.CN] (Hán Cảnh Đế năm Hậu Nguyên thứ 3, Triệu Vũ Đế năm thứ 67), mùa xuân tháng giêng, vua Hán băng. Con là Triệu lên ngôi tức Hiếu Vũ Đế. Sử th ần Ngô Thì s ĩ bấn: Xét tháy một thời dại ngoại thuộc họ Triệu, sử cũ chép từ Vủ Dế đến Thuật Dưong Vưong dầu phòng theo sử nhà Hán mà biên chép thành sách. Ỏ thời Vũ Đế chép v'ê nhật thực có 18 lần (Dinh Dậu năm thứ 4, mùa dông tháng 10, ngày 30 nhật thực; thảng 11 ngày 30 nhật thực; Quý Sửu năm thứ 20 [188 tr.CN], mùa xuân tháng giêng ngày mòng 1 nhật thực; mùa hạ thảng 5 nhật thực mặt tròi bị che hết; Ắt Mão năm thứ 22 [186 tr.CN], mùa hạ tháng 6 ngày 30 nhật thực; Quý Hại năm thứ 30 [178 tr.CN], mùa dông thảng 10 ngày 30 nhật thực; Giáp Tý năm thứ 31 [177 tr. CNJ, mùa dông tháng 10 ngày 30 nhật thục; tháng 11 ngày 30 nhật thực; Tăn Tỵ năm thứ 48 [160 tr. CN], mùa hạ ịháng 4 ngày 30 nhật thực; Đinh Hợi năm thứ 54 [154 tr. CNJ, mùa xuân thảng giêng ngày 30 nhật thực; Mậu Tý năm thứ 55 [143 tr.CN], mùa dông tháng 10 ngày 30 nhật thực; Quý Tỵ năm thứ 60 [148 tr.CN], mùa thu tháng 9 ngày 30 nhật thực; Ảt Mùi năm thứ 62 [146 tr.CN], mùa dông thảng 10 ngày 30 nhật thục; Đinh Dậu năm thứ 64 [144 tr.CN], mùa thu thảng 7 ngày 30 nhật thực; Mậu Tuất năm thứ 65 [143 tr.CN], mùa thu, thảng 7 ngày 30 nhật thực <8a>; Nhăm Dần năm thứ 69 [139 tr.CN], mùa xuân thảng giêng ngày 30 nhật thực; Quý Máo năm thứ 70 [138 tr.CN ] tháng 9 ngày 30, nhật thực). Các sao biến dị có 9 lằn: Mậu Tuất năm thứ 5 [203 tr. CNJ, mùa thu, thảng 7 có sao Chổi mọc ở vùng sao Đại Giác; Giáp Thản năm thứ 51 [157 tr. CN ] thảng 9, có sao Chổi mọc ở phương tày; Bính Tuất năm thứ 53 [155 tr.CN], mùa dông tháng 11, có sao Chổi mọc ỏ phương tây; Dinh Hại năm thứ 54 [154 tr.CN], mùa xuân, tháng giêng, có sao Chổi duôi dài mọc ỏ phương tảy; Quý Tỵ năm thứ 60 [148 tr.CN], mùa hạ tháng 4, có sao Chổi mọc ỏ tây bác; Giáp Ngọ năm thứ 61 [147 tr. CN], mùa thu tháng 9, có sao Chổi mọc à táy bác; Canh Tý năm thứ 67 [141 tr. CN], tháng 12, Mặt Trời dỏ tia, 5 sao di ngược chiều giữ láy sao Thái Vi Mặt Trăng di thiên vào trong thiên dinh. Nhâm Dần năm thứ 69 [139 tr CN] mùa hạ tháng 4, có vì sao như mặt trời mọc ban dèm; Quỹ Máo nám thứ 58 DẠI V IỆT SỬ KÝ T IỀ N BIÊN 70 [138 tr.CN], m ùa thu tháng 7, có sao Chối mọc ở tây bấc. Dại khái phần nhiều dựa theo sử nhà H án m à ghi chép, riêng có năm Quý Măo thứ 10 [208 tr. CNJ, m ùa hạ, thá n g 6, ngày 30, nhặt thực bỏ sót không ghi; năm Canh Thân thứ 27 [181 tr. CNJ, m ù a xuớn, tháng giêng, năm áy có nhật thực nhưng Cao Hậu ghét chuyện dó nôi ràng: "Dáy là diêm ứng vào ta dó" cho nén sử nước Việt không chép. X ét ra thi n h ậ t thực, nguyệt thực muôn nước dầu chung dộ số, khi nó tròn trỏ lại cũng cùng n h ìn tháy ánh sáng, ghi chép việc dó về lý tựa hồ khỗng hại gì lảm, n h ư n g ở thiên văn th ì cho ràng nhật thực ỏ dộ nào, sao nào, trong 28 vì sao thì thuộc vẻ việc nào < 8 b > . v í như ở khu vực sao Tát là việc binh dao; ở khu vực sao Vi là việc kho tàng, dộ nào thì thuộc về dịa phận của nước nào, ví như 11 dộ sao Dấu th i thuộc vê nước Ngô, 5 dộ sao Giác thì thuộc vầ nước Trịnh. Kẻ suy xét tinh th ì chưa việc gì không nhận biết dược. Chuyện sao biến dị cũng như vậy. N h ă n sự có duyên do, phận dã cô chỗ hệ thuộc, ánh sảng có lúc nhiều lúc ít, ứng nghiệm có k h i chậm khi nhanh. Già sử các triều dại ờ nước m ình có lịch hàng ngày, có quan xem sao, tháy việc gì không ứng vói nước m ình thì không ghi cũng d ù n g thôi. Hơn nữa Dà dang thuộc Hán, Giao N am ta lại thuộc Đà, nén những hiện tương biến dị của trời ứng với Dà cũng dã không dáng ghi rỗi, huống chi nhà Hán thông trị T ru n g Quốc, sử nhà Hán chép sự biến dị cùa Mặt Trài và sao là dể giúp cho việc chiêm nghiệm chứ liên quan gì dến Da. Nay dă nhàm mà dua Dà hệ thuộc vào quốc thống lại theo dáy m à bát chước sự ghi chép của sử Hán cốt cho day dù, kh ô n g xét xem có d á n g hay không. N hư thẻ thì dáng gọi là "dă" chứ không phải là "sử". Cho nén n h á t thiết p h á i bỏ di. Từ dăy vẽ sau cứ theo như thế. Còn việc nhà H á n d ự n g nhà N guyên m iếu ban chiếu dể tang ngán ngày, hạ lệnh cho các quận các nước d ự n g m iếu Thái TỗngtJ dầu là việc dặt lẽ nghi cùa Trung Quốc làm sao m à p h ả i g h i cà vào. N ếu nước ta thời thuộc Hán còn khổng dáng ghi huống chi thuộc Dà. Cho nén chi ghi việc của Dà thôi. Còn việc của Hán thì chỉ nên ghi việc vua m á t hoặc lẻn ngôi d ề biết dược thứ tụ các dài cùa Trung Quốc là dược rồi há p h ả i g h i chép n h à m n hư thế. Cho nên theo lệ tước bỏ di. Giáp T hìn [137 tr.C N ] (H án Vũ Đế nàm Kiến Nguyên thứ 4, Triệu Vũ Đế pàm thứ 71), Triệu Vũ D ế D à m ất, cháu là Hồ lên ngôi, tức Vân Vương (Hồ là con Trọng Thuỷ. T riều nh à T rà n tru y phong là H oàng đế, sử cũ chép nay bỏ đi). S ử t h â n L ẽ V ă n H ư u b à n : Dát Liêu Dông không có Cơ Từ thì không thể có ph o n g tục m ặc áo dội m ù; d á t N gô Cối khổng có Thái Bá 1 1 thì không thể cường *34 1. Nguvỏn m iêu- M iổu th ò thuỷ tử. 2. M iếu Thúi T ổng la m iếu thờ I lán Viín Dế. 3 C(1 Tù Tổn là T ử D u. làm quan thái sư dươc phong iứcíc Tủ và dược nước c) ilấi C(J 11 ổn gọi lá Cứ Tủ. Vua T ru vô dạn, C ơ Từ ta n ngỉin vua khổng nghe còn bỏ tù Ong. Víi Vương diột Trụ, Cư Tử dưa 5000 người tránh sang Chu ly vã làm vua dó. 4 T hái Ba C on cà cùa Chu Thái v ư ơ ng, em thứ hai lá Trọng Ung. 0111 út lá Quý Lịch. Quý Lịch hiền lài lụi tó dứa con lu X ương cúng giòi. Bơi thố T hái v ư ơ ng muOn lập Quy Lịch dò VỀ sau sẽ truyền ngôi cho Xương. Bííy giơ rii.il Bá. T rọng U ng trách Quý Lịch dốn d dát Kinh Man lự xưng hiCu la CAu NgA. Díiii á Kinh Man càm Ciìi nghía cùa Ang theo VÒ hơn 1000 nhá. IAp Ang làm NgA Tliiĩi Bá. NGOẠI KỶ, QUYỂN II - KỲ NGOẠI THUỘC TRIỆU 59 thịnh thành nghiệp vương nghiệp bá. Dại Thuẫn là người Dông Di m à là bậc vua giỏi trong ngũ dế, Vón Vương là người Táy Di la bậc vua hiên trong tam vương. Thế mói biết người giỏi trị nước thì không cứ gi rộng hay hẹp, người Hoa hay người Di, chỉ trỏng vào dạo dức m à thôi <9b>. Triệu Vũ Dế khai thác dứt Việt ta tu xưng d ế tròng nước, chống chọi với nhà Hán, là người mỏ dàu cơ nghiệp dế vương cho nước ta. Công áy cô thể nói là lớn dẩy! Người làm vua nước ViỈỊt sau này, nếu biết bát chước Triệu Vũ Dế mà giữ vững bờ cỗi, dặt quan cai trị nước, có dường lối dể giao thiệp với láng gièng, láy nhản nghía mà giữ ngói báu thì. giữ dược bờ cõi láu dài, người Phương Bác không thể trừng mất với ta dược. Sử thần Ngô s í Liên bàn: Truyện có cảu: "Người có d.ức lớn ảt có dịa vị, có danh vọng, dược sống lâu”. Vũ Dế tu dưỡng thế nào mà dược nhu thế? Cũng chi ở chỗ có dạo dức dấy thôi. Xem câu trà lời của Dà với Lục Giả thì uy thế Anh Vũ,ìf chàng kém gì Hán Cao Dế. Đến khi nghe Văn Dế dột thủ áp dề trổng coi phàn mộ tố tiên cùa vua, hàng năm cúng tế và ban thưởng rất hậu cho anh em thì lại khuát phục nhà Hán. Do dó mà tông miếu dược cúng thờ, con cháu dược bào tòn, chảng phải lờ vì dạo dức dó sao.? <10a> Kinh Dịch nói: "Biết khiêm tốn thì ỏ ngôi cao dức sẽ càng sảng, ỏ ngôi thấp củng không ai dám vượt qua"l2>. Triệu Dà là hợp vái câu ấy dấy. Sử th ần Ngô Thì s ĩ bàn: Triệu Đà cuối thời Tần chi là m ộ t quan lệnh m à thối, nhân nhà Tàn loạn, chiếm cứ d á t Lưỡng Quảng, dang g ia n h d ịa vị ỏ Trung Nguyên, chưa d ề m á t dổh d á t Linh N am . Sau kh i việc nhà H á n d ã ổn dinh, Cao TỔ củng thấy ghét binh dao chán công trạng. Văn D ế nối ngôi lại càng ngại dùng vũ lực. Cho nên lần trước ban cho p h ù tiết, lấn sau sai sứ dưa thư. Lục Giả hai làn sang nước Việt. Đ à nhăn d ấ y buộc M ân Việt, Tây A u p h ả i lệ thuộc vào nìinh, ngôi xe m u i vàng xư n g là hoàng d ế d ể tự dè cao m ìn h cho khác biệt. Song tự biết sức không th ể dịch nổi nhà H án bèn nhản Vàn D ế vỗ về, từ d ấ y d ù n g lời lẽ n h ú n nhường bỏ hiệu dế, tự xưng là bề tôi dâng lẻ cống d ể làm vừa lòng n h à Hán. Dáy lại càng tháy rõ chỗ quỷ quyệt của Dà. N ếu không p h ả i là người hiểu thấu dược cái lẻ nên cứng nén m èm , kh i co k h i giản, th ì kh ô n g th ề lam th ế dược. D à m ờ dược nước rộng m u ô n dặm , truyền ngôi hàng tră m năm , thay tục búi tóc th à n h tục dội m ũ dai, xếp bỏ can qua m à d ù n g ngọc lụa bòng cháu làm vui, tuổi cao m à văn còn m ạ n h khoẻ <10b>. B uổi dầu thời H án, trong th ì chư hàu, ngoài th ì nh iều nước kh ô n g ai sả n h kịp sự lảu dà i áy. N gười b ìn h lu ậ n dời sau khen là bậc vu a nổ i tiếng, chàng p h á i lò anh h ù n g m ộ t thời dó sao? S o n g cóc n h à làm sử n h ư Lẽ V ăn H ư u , N gô s ỉ L iên v í D à n h ư Cơ Tủ, T hái B á và láy công m ở nghiệp d ế m à q u y cho D à; th ậ m ch í cho D à là người cô dức tứ ứng ^ n g ang vói T huấn, hết sức tá n dư ơ ng d ú c kh iêm tốn cùa Dà th ì là sai đáy. Sao lại nói thế? v ì ráng VỚI T h u á n th ì Đ à vốn k h ô n g thể 1. Anh Vũ : Túc Dà Anh Vũ. quan dại (hAn (hỏi Lý. 2. Câu này «ì soán lừ của què KliiCm {Kinh l)ịch). 3. Ngọc lụa: Thứ quý háu. thài xưa dùng dò lãm lé công nap. 4. Ngi/cìi có dức "tứ ứng" là ngdòi dUrtc báo ứng 4 điều : dịa vị. phúc Irtc, danh tiếng, sring lâu. 60 ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TIỀN BIÈN sánh kịp ròi. Còn như Ca Tử dến Triều Tién dặt ra lệnh cấm, biến dổi phong tục cho dãn, nền giáo hoá nhăn dức hiền từ áy dến nay vản còn. Thái Bá ba lăn nhường thiển h ạ '1' dức lớn ấy không thề tà nổi chứ không phải giáo hoá của ông chỉ ở Kinh Man mà thôi. Đất Giao Nam từ dời Hoàng dế Chuyên Húc cho dến nhà Chu chi sai sứ tiến cống tụ thành một nước riéng. Ngay mạnh như nha Tần, uy lực của Thuỳ Hoàng trong ngoài 9 cháu, đánh dâu mà không dược, gọi ai mà không dến, nhưng dổc hết binh lực của Vương Tiên l2> cũng chi mỏ dến Bách Việt thôi chú không dến dược Giao Chi. < lla > Đà chiếm Ngũ Linh, chí khổ vì lòng tham không biết thế nào cho dù, lại tiêu diệt An Dương mà thôn tính, truyền dược vài dời thì mát. Bản dò số sách thuộc nước cũ cùa An Dương phải nhập vè nhà Hán. Do dó nước ta trà thành nguồn lợi cho Trung Quốc. Châu ngọc chứa dầy kho, quát vải dặt thành chức quan (Hàn Vũ Đế dành Nam Việt, dựng cung Phù Lệ trong vườn Thượng uyển dề tròng các thứ căy láy dược như nhãn, vài, xương bò, mỗi thứ han trăm gốc. Vải xứ Giao Chi dời dến tròng ở trong săn, không sống dược một cây nào. Tại Giao Chỉ có chức Quát quan dặt một người trường quan, phẩm trật hưởng 300 thạch, chù yếu coi việc cống quát cho vua hàng năm). Già sử Dà không gây nên mối binh dao thì cho dù Hán Vũ Dế có tham mà dát, thích lập công, chàng qua cũng chi diệt họ Triệu dể lấy lại quận huyện cùa nhà Tăn xưa mà thôi, chứ cũng không dén dược Giao Chi. Nước ta ngoại thuộc vào Triệu nên nội thuộc vào Hán cho mãi dến thời Dường, quốc thống bị doạn tuyệt, suy nguồn gốc, người dàu tiên gây nên tai vạ không phải Đà thì còn ai? Hơn nữa Dà dặt nước ta làm quận huyện, chi biết tịch thu dắt dai, vơ vét thuế má, chi cốt láy dầy ngọc bích cho triều dinh nhà Hán, chất túi Lục Già có dù nghìn vàng. Còn như giáo hoá phong tục không mảy may dể ý dến. Nghè cày cấy là cội gốc dể nuôi dán < llb > , việc cưới xin là việc lớn của con người, thì báy giờ dàn ta ván tối tăm không biết gì hết. Trài qua hằng trăm năm dát nước chỉ là lệ thuộc. Công dúc cùa Ca Tử, Thải Bá lẽ nào lại như thế ư? Còn như suy rộng công của Đà cho là người mở dău ca nghiệp dế vương, thì tôi dã bàn ròi. Lê Văn Hưu dật phép chép sù dó, lặp lối nghị luận dó, Ngô s i Liên theo lối hiều nông cạn dó mà không sứa dổi, cho dến bài Tống luận của Lê Tung, tha vịnh sử của Đặng Minh Khiêm 1 2(3), cùng nhau ca tụng, cho Dà là bậc vua giỏi cùa nước mình, dến nay dã trải hàng nghìn năm không ai cải chính, bài vậy tôi phải luận thật sảu. Bính Ngp [135 tr.CN] (Hán Kiến Nguyên năm thứ 6, Triệu Vãn Vương - Hồ năm thứ 2), mùa thu tháng 8, Mán Việt Vương Sính xâm lấn ấp biên giới. Nam Việt Vương - Hồ giữ lời ước với nhà Hán, không tự tiện dấy quân, sai người đem thư báo việc đo' với nhà Hán, nhà Hán khen Hồ khéo giữ chức phận, hẹn sẽ vì Hồ dấy binh. Thế rồi sai Vương 1. Thái Bá ba lần nlulilng thiẽn hạ. khổng lún ngối, bò irổn đến díít Ngỏ Cối, cắt tóc vẽ mình thay dổi tập lục d í khAng gíổhíg ngdòi Trung Quốc nũa. 2. Vtldng Tiễn: Người Tín Dưitng thỏi Tán theo Tân Thuỹ Hoàng làm tướng quân, tùng đánh dược các díít Triện, Yẽn. Tô. , 3. Dặng Minh Khiêm? Tự là Trinh Dụ. hiệu là Thoát Hịẽri, quê ò Can Lộc. Hả Tĩnh, sau ra ỏ huyện Son Vi. linh phu Tho ông dâu Hoang giáp năm Hồng Dúc thú 18 [1487], lảm quan Han lăm thị thư sau chạy theo Lố Chiêu Tống rỏi Itiiii ỏ Châu Hoá. ồng soạn sách Việt giám vịnh sử thi tập NGOẠI KỶ, QUYẾN II - KỶ NGOẠI THUỘC TRIỆU 61 Khôi Dự Chương, Hàn An Quốc <12a> đem quân ra Cối Kê đánh Mân Việt. Hoài Nam Vương là An dâng thư can, vua Hán không nghe. Bấy giờ , quân Hán chưa vượt qua Ngũ Lĩnh, em Mân Việt Vương là Dự Thiện cùng với người trong họ bàn mưu giết Sính để đầu hàng. Vương Khôi thấy thuận lợi, bèn bãi binh. Vua Hán sai Trang Trợ sang ngỏ ý chiêu dụ. Hồ giập đầu nói: "Thiên tử vì quả nhân mà dấy quân diệt Mân Việt, quả nhân dù phải chết cũng không đủ để báo đáp ân đức ấy", rồi sai thái tử là Anh Tề sang làm con tin. Nhân đấy bảo với Trợ rằng: "Nước mới bị cướp phá xin sứ giả về trước đi, quả nhân đang ngày đêm sấm sửa hành trang để vào yết kiến thiên tử đấy". Trợ về, các đại thần đến can rằng: "Quân nhà Hán giết Sính có ý muốn làm cho nước ta kinh sợ, vả lại tiên đế đã nói thờ nhà Hán cót để khỏi thất lễ, chớ nên nghe lời ngon ngọt của họ mà vào triều kiến, vào rồi không về được là thế mất nước đấy". Hồ bèn nói thác là bị bệnh không vào triều kiến nữa. Sử th ần Ngô Thì s ỉ bàn: Hai nước Việt dảnh nhau không phải là việc cùa nước mình. Han nữa <12b> Hoài Nam can việc dánh Mán Việt mà người Hán không nghe, việc dó cũng không phải là bức thiết. Bức thư can giản của Hoài Nam mà sử cũ chép dã thấy trong sứ nhà Hán ròi cho nén bỏ di. Còn như em Măn Việt Vưang'Sính là Dự Thiện giết sính dể dầu hàng nhà Hán, thì dạo trời, lòng người dến thế là dáng buồn. Xét ra,.sính xăm lăn Hò, lỗi là ó chỗ thích dùng binh thôi, chứ thực ra không có tội gì vái nước ấy, thế mà em và người trong họ quả quyết giết dề dầu hàng noi cửa quản. Quăn Hán dến Mân Việt, không đánh cũng dã tự tan vỡ, có quý hoá gì Dự Thiện là dứa giết vua, giết anh mà nhận cho dầu hàng. Vũ Dế nhu thế là làm sai■ hình phạt dấy. Tuy nhiên bọn loạn thản tặc tủ, ban dầu thì kết bè dàng làm diều hung ác, ăn gan nếm mật thề bòi, nhưng gặp lúc nguy cáp thì kẻ dâng còng dể láy thường lại thường từ trong bọn chúng mà ra. Kè như Dự Thiện thì nhiều lấm. Ghi lấy việc này dề cho người làm vua thiên hạ dời sau không thề không lo■ tính khi việc mới chớm nỏ. <13a> Ất Mão [126 tr.CN] (Hán Nguyên Sóc năm thủ 3 Triệu Vân Vương năm thứ 11), Triệu Vương là Hồ ốm nặng, Thái tử Anh Tề từ Hán về (sử nhà Hán chép: "Anh Tề thượng lạc" nghĩa là Anh Tê chuộng hưởng lạc). Bính Thìn [125 tr.CN] (Hán Nguyên Sóc nãm thứ 4, Triệu Vãn Vương nãm thứ 12), Triệu Văn Vương Hò bảng, Thái tử Anh Tề lên ngôi tức là Minh Vương. Đinh Tỵ [124 tr.CN] (Hán Nguyên Sóc năm thứ 5, Triệu Minh Vương - Anh Tề năm thứ 1), nhà Triệu dùng Lữ Gia làm thái phó. Mậu Thìn [123 tr.CN] (Hán Nguyên Đỉnh năm thứ 4, Triệu Minh Vương nám thứ 12, Ai Vương Hưng năm thứ nhất), trước kia, Triệu Vương Anh Tề làm thế tử, sang làm con tin với nhà Hán ở Trường An, lấy con gái ở Hàm Đan là Cù thị, sinh con là Hưng Đến khi lên ngôi lấy ấn của tiên vương dâng thư cho nhà Hán, xin lập Cù thị làm hoàng hậu Hưng làm thế tử. Nhà Hán nhiều làn sai sứ giả sang khuyên Anh Tề vào chầu. Anh Tề sợ vào yết kiến phải theo luật nhà Hán, bị liệt vào hạng chư hầu, bên trong, cổ ý cáo ốm không đi bèn sai con là Thủ Cống vào làm con tin Nàm ấy Anh Tề bảng <13b>. 62 DẠI VIỆT SỬ KÝ TIỀN BIÊN con thứ là Hưng lên ngôi tức là Ai Vương. Hưng lên ngôi, tôn mẹ là Cù thị làm thái hậu. Trước kia khi Cù Hậu chưa lấy Anh Tẽ từng đã thổng dám với An Quốc Thiếu Quý người Bá Làng. Bấy giờ nhà Hán sai Thiếu Quý sang dụ Hưng và Cù thị vào chầu, lại sai biện sỉ o gián nghị đại phu ^ là Chung Quân tuyên lời dụ, dũng sỉ là bọn nguy thần giúp việc giải quyết, vệ uý là Lộ Bác Đức đưa quàn đóng ỏ Quê' Dương để đợi sứ giả. Bồy giờ vua còn ít tuổi, Cù Hậu là người nhà Hán, Thiếu Quý đến lại tư thông với Cù Hậu, người trong nước biết chuyện đó, phần nhiều không theo thái hậu. Thái hậu sợ sẽ sinh loạn, muốn dựa vào uy của nhà Hán thường khuyên vương và quần thần xin phụ thuộc vào nhà Hán, liền nhân có sứ giả nhà Hán, nhờ d&ng thư xin theo như chư hàu ờ Trung Quốc, 3 năm một lần vào chầu, bỏ quan ải ở biên giới. Vua Hán bàng lòng, ban cho vương và thừa tướng là Lữ Gia ấn bàng bac và các ấn nội sử trung uý, thái phó, ngoài ra các chức khác được tự đặt lấy. Bỏ hình phạt-cũ như thích vào mặt, cát mũi mà dùng pháp luật nhà Hán như các chư hầu Trung Quốc. Sư giả ở lai để trấn giữ vỗ về dân < 14a> (Cù thị thấy trong sách dã sử của Nguyễn Dâng Bính nói người đương thời gọi là Câu La Ma). Kỳ Tỵ [112 tr.CN] (Hán Nguyên Đỉnh năm thứ 5, Ai Vương Hưng năm thứ 2), Triệu Vương Hưng và Cù Thái hậu sửa soạn hành trang đem nhiều lễ vật quý tròng để vào chầu. Bấy giờ Tể tướng là Lữ Gia tuổi đa cao, làm tướng qua 3 triều, họ hàng làm quan to đến hơn 70 người, con trai đều lấy cổng chúa, con gái đều gả cho con em hàng tôn thát cùa nhà vua và thông gia ( ^ với Tần Vương ở Thương Ngô*5). Trong nước rất trọng, mọi người xin theo, nhiều kẻ làm tai mắt cho ông. Được lòng dân hơn cả vua là Hưng. Gia nhiều lân can Hưng đừng vội phụ, nhưng Hưng không nghe, nhân thế có lòng muốn phản, thường cáo ốm khống tiếp kiến sứ giả nhà Hán. Sứ già nhà Hán đều chú ý đến Gia. nhưng thế chưa thê’ giết được. Hưng và Thái hậu rát sợ bọn Gia khởi sự trước, nên đật tiệc rượu mời sứ giả giúp, bàn mưu giết bọn Gia. Sứ giả uống rượu, các đại thần đêu ngồi hàu. Sứ giả ngòi hướng dông, Thái hậu ngồi hướng nam <14b>, Triệu Vương Hưng ngồi hướng bác, Tể tướng Lữ Gia và các đại thần đều ngồi hướng tây. Em Gia là tướng võ, dem quân đóng ở ngoài cung. Khi uống rượu, Thái hậu nói với Lữ Gia: Nam Việt nội thuôc vào Hán là có lợi cho nước, mà tướng quân lại cho là bất tiện là cớ làm sao ? Cốt để chọc tức sứ giả. Sứ giả hồ nghi, giữ miếng nhau (chữ trượng " " nghla là giữ miếng)^ không ai dám hành động. Gia thấy tai mát họ có vẻ khác, liền đủng dậy đi ra ngoài. Thái hậu tức giận muốn láy mâu đâm Lữ Gia, Hưng ngân lại, Gia bèn đi ra, chia lấy quân của em về nhà cáo Ồm không chịu gặp sứ giả và vương, rồi ngâm cùng các đại thần mưu nổi loạn Hưng vốn không có ý giết Gia, Gia cũng biết điều đó, vì thế đến mấy tháng không hành dộng gì. Riẽng Thái hậu muốn giết Gia, nhưng sức không thê’ giết nổi. Vua Hán 12345 1. Biện sĩ : NgUới có tài ứng đổi. hùng biện, thuồng dùng vào viỌc di sú, thuyết khách. 2. Gián nghị dụi phu : Chúc quan ngự sử. cun ngỉln vua. dặt lù thòi Hãn. thưỏng gọi lắt IÌI gián nghị. 3. Vệ uy : Chức quan cai quàn linh canh trong cung dinh, có lù thòi Tan. Sang thòi Tuỳ giữ chílc nẩm eầc viộc binh khí, nghi trượng, trướng mạc. 4. Thững gia : Hịch lú chữ "lién". 5. Thương Ngơ ỏ trong nước Viộl, vương tư xdng lá Tãn Vương. NGOẠI KỲ, QUYỂN II - KỶ NGOẠI THUỘC TRIỆU 63 nghe tin Gia không nghe theo mệnh, Triệu Vương Hưng và Thái hậu lẻ loi yếu đuối khổng chế ngự được, sứ giả nhút nhát không quyết đoán, lại cho ràng mẹ con Triệu Vương đã nội phụ, riêng Lữ Gia làm loạn, không đáng dấy quân, muốn sai Trang Sâm đem 2000 người sang sứ, Trang Sâm nói: "VI sự hoà hiếu mà sang < 15a> thì vài người là đủ rồi, lấy vũ lực mà sang thì 2000 người cũng không làm được gì". Sâm từ chối không nhận, vua Hán bèn bãi chức Trang Sâm. Tướng Tế Bấc cũ là Hàn Thiên Thu hăng hái nói: "Một nước Việt cỏn con, lại có vương và Thái hậu làm nội ứng, một mình Thừa tướng Lữ Gia làm loạn xin cho tôi 300 dũng sĩ, nhất định sẽ chém được Gia để báo tin về". Thế rồi nhà Hán sai Thiên Thu và em Thái hậu là Cù Lạc đem 2000 quân tiến vào đất Việt. Lữ Gia bèn hạ lệnh cho trong nước ràng: " Vua tuổi còn nhỏ, Thái hậu vốn là người nhà Hán lại dâm loạn với sứ giả nhà Hán chuyên muốn nội phụ Trung Quốc, đưa hết những dồ châu báu của tiên vương dâng cho nhà Hán đê’ nịnh bợ, đem nhiêu người đi theo đến Tràng An bán đi làm đầy tớ để kiếm món lợi nhất thời cho mình, không đoái gỉ đến xã tắc họ Triệu và chẳng có ý lo gì đến mưu kế cho muôn đời ", thế rồi cùng em đưa quân đánh Hưng, giết Hưng và Cù Hậu, giết hết sứ giả nhà Hán. Hưng chết đặt tên thuỵ là Ai Vương. Gia sai người báo với Tàn Vương ở Thương Ngỏ <15b> cùng các quận ấp lập con cả của Anh Tề là Thuật Dương hầu Kiến Đức làm vua tức là Thuật Dương Vương. Kiến Đức đã lập lên rồi, quân của tướng nhà Hán là Hàn Thiên Thu kéo vào bờ cõi, đánh phá mấy ấp nhỏ. Lữ Gia bèn mở con đường thảng để cung cấp lương. Quân Hán vào cách Phiên Ngung chưa đến 40 dặm, thì Gia cho quân đánh, giết được bọn Thiên Thu, sai người gói cờ tiết sứ giả của nhà Hán đặt ở biên giới (sử cũ chép là ở đèo Đại Dũ), khéo dùng những lời giả dối để tạ tội rồi cho quản giữ nơi hiểm yếu (bấy giờ là mùa đông tháng 11). Vua Hán nghe tin sai Phục ba tướng quân( * là Lộ Bác Đức đem quân từ Quế Dương đi xuống Ung Thuỷ, Làu thuyền tướng quán'2^ là Dương Bộc đem quân từ Dự Chương đi xuống Hoành Phố. Hai người ở đất Quy Nghỉa, Việt Hầu xưa, Nghiêm là Qua thuyền tướng quân^ và Giáp là Hạ lại tướng quân*4) (cả hai người đều không chép họ) ra Linh Lăng, đi xuống Lỵ Thuỷ, đến Thương Ngô, Tri Nghĩa hầu là Quý đem quân Dạ Lang(5) đến sông Tường K ha^ đều hội ở Phiên Ngung. Bấy giờ Tri Nghĩa hầu cầm quân Man đi xuống Phương Nam, vua Thả L an^ sợ đi xa nước bên cạnh, bọn tôi mọi toàn người già yếu <16a> bèn cùng với quân lính làm phản giết sứ nhà Hán. Nhà Hán bèn đưa bọn tù người Ba Thục từng đánh Nam Việt, gồm 8 hiệu uý đi đánh Thả Lan. ■' Sử thần Ngô Sĩ Liên bàn: Tai vạ cùa-Ai Vương dù là do Lữ Gia nhưng thực lại là Cù Hậu. Xét ra nữ sấc làm dồ nước người ta có hhĩếu mối, nhưng cái triệu 1234567 1. Phục ba tướng quân : Danh hiệu đặt cho những tưống được phái di đánh ỏ mièn biền phương Nam (phục ba nghía lã dẹp sóng). 2. Lâu thuyền tướng quAn : Danh hiệu dặt cho nhũng iưóng chì huy thuỳ quân, di thuyền lớn có íãu trân. 3. Qua thuyền tướng quăn : Danh hiệu cùa những tướng chì huv các dội thuyên có cắm ngọn giáo dâu thuyên; 4. I lạ lại tướng quân : Danh hiệu dặt cho những tướng chì huy các dội thuyên thạo việc xuôi thác ghènh. 5. Dạ Lang : Một nước cồ, bị nhà Hán tiêu diột và dặt làm huyộn. Nay là dịa danh ò Trung Quốc. 6. Tường Kha : Nay gọi là sông Bắc Bàn cùa Trung Quổc, 7. Thà Lan : Một nước thòi cổ bị Hán Vũ Dế liCu diệt vá dặt làm quận. Nay là địa danh ỏ Trung Quíic. DẠI VIỆT SỬ KÝ TIỀN BIÊN chứng này sinh thì không thể tháy trước dược. Cho nên các tiên vưong phải dặt ra lẻ dại hôn , cẩn thận chỗ quan hệ vợ chòng, phán biệt chỗ Mầm nghi, làm rõ việc mới manh mún, làm dáng dấn ngôi thứ trong ngoài, phải ngăn ngừa việc vào ra, dạy dù dạo Tam tòng. Như thế tai vạ về sau mói không sinh ra dược. Ai Vương ít tuổi không ngăn cám dược mẹ. Lữ Gia dàm dương việc nước, công việc trong ngoài há lại không dư doán mà biết trước dược sao? Khách nước lớn dến, tiếp dón có lẻ nghi, chỗ ỏ có thú bậc, có số mục cung cáp, có người thù tiếp thì làm sao mà thông dăm với mẫu hậu dược? Mâu hậu ỏ sáu trong cung, không dự việc bên ngoài, < 16b> có việc ra ngoài thì di xe bọc da cá, cám cờ lông duỗi tri, cung tần theo ỉìâu, thì sao thông dăm vói khách dì sứ dược? Bọn Gia toan dập ngọn lửa trong lúc dang cháy khắp dòng, sao bàng ngân chặn cái cơ hoạ loạn từ khi chưa này nà có hon không? Cho nên có cảu: "Làm vua mà không biết nghía của Kinh Xuân Thu, tất phải chịu cái tiếng dứng dầu tội ác; làm bề tôi mà không biết nghía của Kinh Xuân Thu tát mác vào tội giết vua". Minh Vương, Ai Vương, Lữ Gia là những người như thế dấy. Sử thần Ngô Thì sĩ bàn: Người xưa có cáu: "Nước loạn mong có vị tướng giỏi", lại nói: 'nhà suy diêu bởi tự dàn bà". Trách nhiệm cùa quan tề tướng, quan hệ của bậc phi tần là rứt hệ trọng. Cừ Hậu chỉ là gái giăng hoa ở Hàm Đan, tình cờ gặp dược con tin là Anh Tè lên làm hoàng hậu của một nước. Đạo dức làm vợ, nghi thức làm mẹ, ăn nghía của chồng, kế hoạch cho con, chàng lẽ tối tăm không biết gì hay sao? Lại còn thèm rỏ rãi dứa trẻ ranh, cam tăm làm tì thiếp cho Hán lật dồ nước người ta, tai hoạ dén thân. Kẻ cuồng dăm < 17a> như thế không dáng dếm xia nữa ròi. Sứ thần của Trung Quốc chảng lẽ không còn một người nào có thề sai dược, mà phải dùng dển người dã từng "trên Bộc trong dâu”'V với Cù Hậu lúc tuổi trẻ. Rõ ràng là dưa mã dến miệng mèo mà không phiền dến can qua, không cản gì văn cáo. Thế là khinh rẻ người trong nước, làm nhục dến quốc thể, còn gì tệ hon nữa. Lữ Gia nám quốc chính, nám binh quyên, trong ngoài cung phủ không dãu là không do Chùng té cai quản. Nếu sáng suốt một chút thì phải nghiêm mật phòng ngừa, dặt người dò xét. Lài nói noi sứ quán không dược lọt vào cung cám, cung tần thị nữ không dược ra ngoài cung. Láy lé hậu mà tiếp dãi sứ thăn, láy lòi khiêm tốn mà tâu lại với thiên triều. Bén ngoài thì tổ lòng thờ nước lớn, bên trong thì chuẩn bị chống xăm lăng. Họ biết nước mình có người giỏi, dù có mưu dò thôn tính cũng phải thay dổi, nạn binh dao sẽ dược ngăn chận từ dó. Nhung lại dề cho Cù Hậu 1. LỖ dại hổn : Là lẽ cuối củii các bậc dế vương. 2. Chữ Hán lã 'Tang irung kỳ thượng" (trôn ký trong dâu) câu này trong thơ 'Tang trung" ở Vệ pluing (Kinh Thi). SAng Ký còn có lẽn là Sững Bộc, nôn còn nói "tang gian bộc thượng" (trẽn bộc trong dílu). Người xưa thường dùng c8u này dể nói quan hí trai gái bất chính. Truyện Kiìu cùa Nguyễn Du có câu : "Nhũng phường ưtn Bộc trong dâu, Thì con người ây ai cầu lùm chi". 3. Chùng Tể: Chức quan dặt tù thời Chu. là chức dứng dâu trong lục khanh. Vè sau là chức Thượng thư bộ Lại. NGOẠI KỶ, QUYỂN II - KỶ NGOẠI THUỘC TRIỆU 65 gặp Thiếu Quý, cõng nhiên dăm loạn ỏ nước mình, cùng nhau bàn mưu di sang Hán. Ngày tháng dàn dà, thư từ qua lại <17b>, dại dến khi hành tran? dã sám xong, mới dăng thư can. Tiệc rượu không hay, bèn mưu khỏi loạn, đến khi quăn Hán vào nước, không nghỉ ra dược kế gì bèn giết vua, giết sứ giả dể chóng diệt vong. Lẽ nào mưu tính việc nước như thế mà muốn thanh công dược? Cho nên trông vào việc Cù Hậu cuồng dăm và Lữ Gia ngu xuẩn thì biết dược sụ diệt vong của họ Triệu dã này mầm từ khi Anh Tề lập phi và dùng tướng rồi. Bậc lầm vua dối với việc kén vọ há không thận trọng dược sao?. Canh Ngọ [111 tr.CN] (Hán Nguyên Đinh năm thứ 6,'Triệu Thuật Dương Vương năm thứ 1)1 mùa đông, Dương Bộc nhà Hán đưa 9 nghỉn tinh binh, trước tiên đánh hãm Trần Hiệp, phá Thạch Môn (Lữ Gia chất đá ở sông gọi là Thạch Môn), bắt được thuyền chở lương của Việt, nhân buộc thuyền lại, lấy vài váh người đợi Bác Đức dẫn tội nhân đi đường xa, sau kỳ hẹn mới đến hội với Lâu thuyền tướng quân được hơn nghìn người cùng tiến. Bác Đức dẫn tội nhân xuất phát từ Thục, đường xa cho nên đến sau kỳ hội quân. Tội nhân chỉ có hơn nghỉn người làm lính <18a>. (Sử cũ chép: Bác Đức nói: "Vỉ đường xa nên đến sau kỳ hẹn" là sai ý của chính văn). Dương Bộc đi trước đến Phiên Ngung, trước Kiến Đức và Lữ Gia đều giữ thành. Bộc tự chọn chỗ tiện lợi đo'ng ở mật Đông nam, Bác Đức đóng ở mặt Tây bắc. Vừa chập tối Bộc tấn công đánh bại quân Việt rồi châm lửa đốt thành. Trong thành vốn đã nghe tiếng Bác Dức. Vì trời tối nên không biết quân trong thành nhiều hay ít, Bác Đức bèn đóng doanh trại, sai sứ chiêu dụ những người đàu hàng, cho ấn tín, lại tha cho về để chiêu dụ lẫn nhau. Bộc cố sức đánh đuổi vào trong doanh trại của Bác Đức. Đến tảng sáng trong thành đều hàng. Kiến Đức và Lữ Gia cùng vài trăm người đang đêm bỏ chạy ra biển, lấy thuyền đi về hướng tây. Bác Đức lại dò hỏi những người đầu hàng, biết được chỗ Lữ Gia ở, sai người đuổi theo. Hiệu uý Tư mã cũ là Lưu Hoàng bắt được Kiến Đức, Lữ Gia. Bấy giờ quân của Hạ lại tướng quân, Qua thuyền tướng quân và quân Dạ Lang của Tri Nghĩa hàu chưa đến mà quân Việt đã bị Bác Đức dẹp yên. (Bấy giờ 3 sứ giả trong nước Việt dát 300 con bò, mang 1000 vò rượu, cầm sổ hộ của 3 quận Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam <18b> đến xin hàng. Lộ Bác Đức nhân đây phong cho 3 sứ giả làm Thái thú 3 quận để cai trị dân như cũ. Xét ra thì Tri Nghĩa chỉ huy quân Dạ Lang, Dạ Lang không chịu theo mà những tội nhân do Bác Đức dẫn đi là những người lấy từ Ba Thục còn Tri Nghĩa đang bị Thả Lan đánh làm sao đến Việt được. Co' lẽ đấy là Hạ lại tướng quân, Qua thuyền tướng quân chưa đến kịp, mà sử chép luôn cả là quân Tri Nghĩa hầu chưa đến. Bởi vỉ theo sự ghi chép cũ của sử nhà Hán mà chưa khảo kỹ đấy thôi). Rồi lấy đất Việt đặt làm 9 quận: Nam Hải (quận cũ của nhà Tần nay là Quảng Đông), Thương Ngô, Uất Lâm (thời Tần là Quế Lâm, Hán Vũ Đế đổi tên), Hợp Phố (thời Tần là Tượng Quận hay là Liên Châu) và Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam (là Tượng Quận thời Tần), Chu Nhai, Đạm Nhỉ (đều ở giữa biển, nay là Quỳnh Châu, Đam Châu). Nhà Hán mỗi quận đều dặt quan thứ sử, thái thú để cai trị (Xét thấy Hán Kiến Nguyên năm thứ 6, [135 tr.CN], Thái Thành Vương là Khôi đánh phá Đông Việt nhân uy thế của quân lính sai phiên Dương lệnh là Dường Mông đến ngỏ ý hiểu dụ 66 DẠI VIỆT SỬ KÝ TIỀN BIÊN Nam Việt. Việt Vương lấy cấu tương^1) của nước Thục đãi Mông, Mông hỏi: "Thứ này ở đâu đưa đến?" Vương trả lời: "ở quận Tường Kha^2) phía tây bắc đạo, sông Tường Kha rộng vài dặm chảy ra phía dưới thành Phiên Ngung". Mông về hỏi người đi buôụ nước Thục. Người đi buôn no'i là chỉ nước Thục co' cẩu tương, phàn nhiều đem ra bán trộm cho Dạ Lang, Dạ Lang ở sát sông Tường Kha, Nam Việt lấy của cải mua chuộc Dạ Lang, đến đất Dồng Sư ở phía tây nhưng cũng không thần phục được. Mông bèn dâng thư tâu với vua Hán rằng: "Nam Việt Vương đi xe mui vàng cám cờ tả đạo, đất đai đông tây rộng hàng vạn dặm, tiếng là ngoại thần nhưng làm chúa một châu. Thần trộm nghe Dạ Lang có thể có được hơn 10 vạn tinh binh, thà thuyền trên sông Tường Kha để "xuất kỳ bát ý", đấy là một kế kỳ diệu để trị nước Việt đấy". Vua Hán cho phép. Thế là sự binh đao ở nước Việt khơi ra từ cẩu tương. Nhà Hán đánh Việt có lệnh phát binh từ Dạ Lang <19a> kéo xuống Tường Kha, thực là vì lời nói của Dương-Móng đấy". Nay chép cả lại). Sử thần Lê Vân Hưu bàn: Lữ Gia can ngăn Ai Vương và Cù Thái Hậu chó xin làm chư hầu nhà Hán, dừng bò cửa quan ỏ biên giói, có thề gọi là biết trọng nước Việt dáy! Song can không nghe thì vè nghía là nên dưa hết các bề tôi dến triều dinh, trước mặt vua trình bày lọi hại vè việc làm tôi nhà Hán xưng dế dát Việt (sử cũ chép "đế Hán" [làm vua nước Hán] có lẽ lầm, chữ "thằn Hán" [làm tôi nhà Hán] mói phải) thì Ai Vương và Thái Hậu cũng nghe ra mà tỉnh ngộ. Nếu vẫn không nghe theo thì nên tụ nhận lỗi mà nên lảnh bò ngôi của mình. Không thế thì làm như việc củ cùa họ Y họ Hoắc ị4ilà chọn một người con của Minh Vương mà thay ngôi, dé cho Ai Vương dược như Thái Giáp và Xương Ắp, giữ toàn dược tính mệnh mà không mát dương tiến thoái. Nay lại giết vua dề hả lòng oàn riêng, khỗng cố chết giữ láy nước khiến cho nước Việt bị chia xẻ, lại vào làm tôi nhà Hán. Tội của Lữ Gia giết chết cũng chưa dáng. <19b> Sử thần Ngô s ĩ Liên bàn: Ngũ Linh ò nước Việt là hiểm trỏ, là của ngõ của nước, cũng như Hổ Lao $ của nước Trịnh, Hạ Dương của nước Quắc. Dáy lên làm vua ở nước Việt tát phải canh phòng nơi hiềm trỏ, dể giữ nước không thể dể cho mất dược. Họ Triệu một khi dể mất Ngủ Lỉnh thì nước bị mát, quốc thống bị dứt doạn, bờ cõi bị cáu xé. Nước Việt ta lại thành cái thế bị cáu xé ròi. Sau này có bậc dế vương nào nối dậy mà nai dát hiềm dă bị mát ròi thì khôi phục lại tát nhiên là khó. Cho nên Trưng Nữ Vương tuy bình dinh dược dát Linh Nam, nhưng 1. Cẩu tương: Một loại cây niởc ỏ dấl Thục, thân như cây dâu. quà dài đến 2, 3 tấc, vị chua. Quả dùng làm tương ăn rất ngọt. 2. Nguyên bàn thiếu chứ "Tường Kha", chúng tối đối chiếu truyện Tăy Nam đi trong Sit ký mà thêm. 3. Họ Y : Túc Y Doãn, cồng thần của vua Thang nhà Thương. Thái Giáp co* vua Thang vô đạo, không nghe lời can cùa Y Doãn. Doãn dây Thái Giáp ra đát Đồng, sau Giáp hổi cài. Doãn lại dán về cho làm vua. 4. Họ Hoắc : Tức Hoắc Quang thòi Hán. nhận di chiếu của Hán Vũ Dế cho pjiụ chinh giúp Chiéu Dế. Chiỏu D í chết. Quang rước lập Xương Ấp Vương, nhưng Xương Ấp Vương dâm loạn, Quang lại phế di mà lập Tuyên Dế. 5. HỔ Lao; Dịa danh thuộc Trung Quốc. 6. Ha Dương Kinh dỗ của nước Bắc Quắc thòi Xuân Thu, nay là địa danh củậ Trung Qu6c. NGOẠI KỶ, QUYỂN II - KỶ NGOẠI THUỘC TRIỆU 67 không giữ dược dát hiềm Ngũ Linh nên củng mất nước, s ỉ Vương tuy dược toàn thịnh nhưng còn là chư hầu của thời áy, chưa chính vị hiệu, sau khi chết lại bị mất hết. Các triều Đinh, Lê, Lý, Trần chỉ có từ dát Giao Cháu trỏ về nam, không thu phục dược dát cũ của Triệu Vũ Đế là thế phải buộc như vậy thôi. Sử th ần Ngô Thì s ĩ bàn: Xét theo sách Việt chí thì phía tày huyện Hưng Yên tính Quảng Tảy 40 dặm <20a>, có các thành tương truyền do Tần Thuỳ Hoàng dảp dề ngăn cách nước Việt. Phía bấc thành nhà Tần 20 dặm có cửa Nghiêm Quan,I> có hai ngọn núi dứng dựa vào nhau, ờ giữa chỉ di lọt một con ngựa. Tuyết miền rợ Hò dến dó thì hết. Tuyết lớn có thể xuống dến Qué Lăm chứ cũng không thề xuống đến phía nam dược nữa. Xét ra việc dáp thành nhà Tòn có lẽ vào lúc Thuỷ Hoàng chưa mỏ dát Dương Việt, mà khí trời hình dát dã có nam bấc nhắt dinh. Đến khi nhà Tần dặt dát áy lam quận huyện, Ngũ Linh liền trờ thành dát của Trung Quốc. Họ Triệu chiếm cứ của Tần, nhà Hán diệt Triệu mà thu về. Giao Nám ta ỏ ngoài Ngũ Lỉnh, ban dầu thuộc vẽ Triệu vì Triệu mát, sau gộp vào nhà Hán. Thế là Ngũ Linh vốn dã không phải là dịa giói của Giao Chi, Cửu Chăn, Nhật Nam. Giả sử Triệu mà giữ dược thì 3 quận ấy cũng chàng qua là lệ thuộc vào Triệu mà thôi. Vè sau các triều Đinh, Lê, Lý, Trần chỉ có dắt Giao Châu trỏ về nam, <20b> không thu phục dát cũ của Triệu Vũ dế không phải là do họ Triệu dề mát dát hiềm mà dến nỗi như vậy. Nơi nhà Triệu dặt 3 sứ giả ờ trong nước Việt, tức là dát 3 quận ngày nay. Sao lại nhận Ngủ Linh là dát hiềm trỏ của 3 quận mà tiếc cho triều Đinh Lê, Lý, Trần không thu lại dát cũ ?. Nhưng khí trời thố dát dã sáp dặt ròi, thi Giao Nam ta cũng phải có thảnh hiên hào kiệt ứng vận trời mà sinh ra. Thành Thang có 70 dặm, Văn Vương có 100 dặm mà cũng dều làm cho chư hầu phải thần phục và có dược thiên hạ. Nếu sao Dẩu, sao Ngưu gặp thời, ứng vói vận trời lại không dáng vượt quá Ngũ Lính láy cà Trung Nguyên, lại chỉ bo bo ỏ trong Ngủ Linh mà thôi sao? Tóm lại Lữ Gia là bê tôi láu của nhà Triệu, dang lúc vua bé nhỏ, nước gian nguy, thò nước lớn thì vô lẽ, mưu giữ bà cõi thì trái sách, bèn trong thì dề Cù Hậu thành dược mưu gian, bên ngoài thì gây cho vua Hán dộng lòng tức giận, không biết lượng sức mình tự chuốc láy sụ diệt vong. Phiên Ngung không giữ nối như dát lò không cách gì cứu dược, bèn dề mất cả nước cũ của An Dương Vương <21a>, khiến cho vùng dát Hoà Trọng l~' chọn ở phải làm tôi tó cho người Phương Bấc. Từ thời Hán cho dén thài Dường năm sáu trăm năm, xét tội người dầu tiên gây ra tai họa thì Lữ Gia không thổ tránh dược. Nhưng cái dó dầu là việc dã qua. Riêng mình Gia không cho việc dược nhận án nhà Hán là vinh dự, dứt khoát giữ vững lập trường cho nội phụ là không lợi, thì không thể bảo là không phải người trí; giết Thiếu Quý, diệt Thiên Thu, dóng gói cờ tiết sứ giả, chiếm giũ nơi trọng yếu, làm hả cơn giận của vua trước ở nơi chín suối, thì không thề bào là không phải *2 1. Nghiêm Quan : của ải hiểm trỏ, ỏ cách huyên Hung Yên, tinh Quàng-T8y Trung QUỐC 17 dậní VỀ p h ía n a m . 2 Kinh thư thiên Nghiêu điển chép : Vua Nghiêu sai Hy Thúc dánh Nam Giao, sai Hoà Trọng đến ò dát phía tây. NhUnjf ờ dây tác già cho rằng nước ta là nơi Hoà Trọng chọn ỏ. Như vậy có lẽ là nhầm chăng? 68 DẠI V IỆT SỬ KÝ TIỀN BIÊN người dũng. P hế bồ một vua lập một vua, chỉ biết cô con cháu Vũ Đế và xã tác họ Triệu, sống chết vì dó, không nghi gì khác thì không thổ bảo là người không trung dược. Người quăn từ bàn vè người, nên bàn ỏ kh í tiết. Còn như dề m át dát hiềm m à m át nước thì cố nhiên là có tội với họ Triệu, mà từ họ Triệu cho dến ngày nay chưa thể thu hòi dược toàn bộ Ngũ Lỉnh dể nhìn thảng vào Trung Nguyên mà tranh giành thì còn phải chờ thời kỳ thánh hiền hào kiệt sinh ra chứ cũng không thê láy cái dô m à quy tội cho Lữ Gia dược. < 2 1 b > Trên đây kỷ Ngoại thuộc Triệu bát đầu từ Vũ Đế năm Giáp Ngọ [207 tr.CN] đến Thuật Dương Vương năm Canh Ngọ [111 tr.CN], gồm 97 năm. T h ô n g lu â n c ủ a sử thần Ngô Thỉ sĩ: Xét từ sau khi' Hán Vũ Đế diệt họ Triệu, dặt dát áy lam 9 quận trừ khu Chu, Đạm ỏ giữa biển còn Giao Chỉ, Cửu Chăn, N h ậ t N am cùng .với N am Hải, Thương Ngô, Uát Lảm, Hạp Phố dầu liệt vào bộ Giao Cháu, chưa từng có sự phản biệt. Đến Ngỗ Tôn Quyền mói bất dầu chia Giao Cháu, dặt thêm Quàng Cháu. Nhà Đường bát dầu dặt A n N am Đô hộ, trị sỏ ô Giao Chỉ thì quận Giao Chỉ, Cửu Chăn, N hật N am mói gọi là Giao Châu. Còn A n N am là bát dầu từ thời Ngô và thời Đường. Thời Hán trỏ vè trước, 9 quận dầu thuộc vào nước Việt. Triệu Đà chuyên chế dát áy. Riêng 3 quận Giao Chỉ, Cửu Chăn, N h ậ t N am thì dùng 3 quan Điền sứ quản linh. Khi nhà Triệu dã bị nhà Hán thôn tính, 3 quan sứ dua sổ hộ của 3 quận xin hàng <22a>, nhà H án nhăn dấy dặt chức thù uý và gọi chung dăt Việt là Giao Châu. Có lẽ trong 9 quận áy thì 3 quận thuộc Giao Chđu, 6 quận thuộc Quảng Cháu. Lục bấy giờ Giao Châu trước thuộc về Triệu, sau thuộc về Hán mà Hán thì m ạnh hơn Triệu. Về sau bị Thủ uý ức hiếp, lý và th ế phải như vậy. Đương thời nhà Triệu phải cam tăm chịu sụ ức chế cùa quan Dién sứ, dến khi họ Triệu mát, trong khoảng hơn 90 năm, không m ột người nho xướng lên tiếng nói chính nghia dé khôi phục lại dát dai bờ cõi của A n Dương Vương là vì sao?. Thưa ràng Triệu Vũ là một quan lệnh dẩy lên, tri khôn dù d ể nhăn lúc nhà Tàn loạn m à chiếm cứ, vè mưu lược thì khuất phục dược nhà Hán d ề tự cường, vè sức m ạnh dù sai khiến dược Màn Việt, Tày Âu mà ngự trị hàng m uôn dặm. Vè việc dánh Thục An Dương không m át m ột m ủi tên hòn dạn, láy dược nưởc và giữ dược hơn 50 năm dẻ như phủi bụi. Uy danh vang dội, mưu lữợc bao quát vốn dã không ai dám làm gì. Dién sứ nhận mệnh cùa Triệu dến cai trị cháu ấy <22b>, người trong nước coi họ cũng như An Dương từ nước Thục dến làm chủ nước ta. Điển sứ à kề bên Đà không dám tự xưng vương như A n Dương nhưng vận mệnh cùa Đà nhờ uy cùa Dà vè k h ỉ th ế m ạnh mẽ không khác gì A n Dương. Vận hội nước ta chưa m ỏ mang, sau thời H ùng Lạc, dàn ta còn chát phác quê m ùa cho nên cúi dầu d ể cho Điền sứ cai trị, củng như ngày trước cúi dầu với A n Dương m à thôi. An Dương quy hoạch Giao Châu làm nước, m à Đà thực kiêm giữ cà Giao Chău và Quảng Chău, thì th ế lực cùa Dà còn gáp 5 lần An Dương. Người Phương Bác thống trị nước ta lù vận trời xui nên như thế, chưa cô bậc tài dức hơn người sinh ra thời áy cho nên phải chịu sụ thống trị của Triệu, cho dến Hán Đường. Dáy không phải là sức người làm dược. Song mạch dát Giao Cháu ta thục là từ núi Côn Lôn ăn NGOẠI KỶ, QUYỂN II - KỶ NGOẠI THUỘC TRIỆU 69 xuống. Về sau Hai Bà Trưng còn biết dem thăn con gái mà chống trả vói nhà Hán thì dó là một chứng nghiệm:”Đất linh thiêng sinh người hào kiệt” <23a>. Biết dău lại không cô kẻ chờ thời thế dé dắc chí hoành hanh ỏ Trung Quốc cho thoả sự căm phản bị người Phương Bác thống trị chúng ta . Cho nên tôi láy ngoại thuộ.. dặt vặo họ Triệu, không nhận Đà là vua nước ta là dể nưóc ta tự thành một nước riêng dáỵ. Đông Di sinh ra Thuấn, Tày Di sinh ra Văn Vương. Thuấn và Văn Vương dău phải án định là phải ỏ dát Trung Quốc mói sinh ra dâu. Khí dến dâu thì lý dến dáy, khí lý dến thì dúng như lời Khổng Tử dã nói: ”Việc sau trăm dời có thể biết trước dược” là như thế dấy. HẾT QUYỂN II, NGOẠI KỶ DẠI VIỆT s ử KÝ TIÈN BIÊN Đ Ạ I V IỆ T SỬ K Ỹ T IỀN B IÊ N NGOẠI KỶ QUYỂN III KỶ NỘI THUỘC TÂY HẤN Tân Mùi [110 tr.CN] (Hán, Nguyên Phong năm thứ ỉ), Hán đã diệt được nhà Triệu, nước Nam ta lại thuộc về Hán. Nhà Hán cho Thạch Đái làm thứ sử (chế độ nhà Hán lấy chầu lãnh quận, trừ Chu Nhai và Đạm Nhĩ đều ở phía biển,-còn 7 quận thuộc Giao Châu, Đái làm thứ sử của châu. Lỵ sở cụa châu thời Tây Hán ở Long Biên, thời Đông Hán ở Mê Linh*-1 2). Sách Giao Quảng Xuân Thu của Vương Phạm gọi là Giao Châu, trị s ở ở huyện Luỹ Lâu*3) năm Nguyên Phong thứ 5, chuyển trị sở về huyện Quảng Tín quận Thương Ngô*4); năm Kiến An thứ 15, trị sở ở Phiên Ngung. Theo chiếu thư, vì châu ở nơi biên giới khi sai sứ cầm phù tiết, gộp cả 7 quận, đều giao cho kèn trống để thêm uy thế. Ất Mùi (Hán Chiêu Đế, Thuỷ Nguyên năm thứ 1), nhà Hán cho Chu Chương làm thái thú Giao Châu (Thạch Đái mất cho nên Chu Chương thay. Sau các quan thú nhiệm khổng rố). Vương Mãng cướp ngôi. Lúc ấy Giao Châu mục là Đặng Nhượng cùng các quận đóng giữ bờ cõi. Về sau tôn thất nhà Hán là Lưu Tú dấy binh tức là Quang Vũ, tướng là Sầm Bành, vốn thân với Nhượng < lb> bày tỏ uy đức của nhà Hán, do đđ xướng xuất cho thái thú Giao Chỉ là bọn Tíoh Quang cống hiến nhà Hán. Nhà Hán đều phong là liệt hầu. Lúc ấy năm Kỷ Sửu, Kiến An thứ 5. Tích Quang là người Hán Trung, thời vua Bình Đế là Thái thú Giao Chỉ. ở châu ông 1. v è trị Sở của Giao Châu mà sử chép là "Thòi Tây Hán ỏ Long Biên, thòi Đổng Hán ồ Mẽ Linh, có lẽ dều sai. Đến cuối thòi Dông Hán sau khi Sĩ Nhiếp kiẽm nhiệm 7 quận thi trị sỏ mói ròi đến Long Biên. CMTĐ quyên 2 chép: khi nhà Hán đặt bộ Giao Chì, lỵ sỏ ò Biên Thụ, năm Nguyên Phong thú s, dòi sang huyện Quảng Tín, quận Thương Ngố. DỂn năm Kiến An thú 15, đóng trị sỏ ò huyện Phiện Ngung, nhả Ngô lại dãi ly sã sang Long Biên còn lỵ sổ ch đặt lảm Quảng Châu, nhu thế thì về thòi Tây Hán chua hề đóng tri sò ò Long Biôn ; thòi Dông Hán chưa hè đống lỵ sỏ ỏ Mẽ Linh. Việc này sủ cũ chép nhầm". Còn địa điẻm Long Biên, thòi xua cho là thành Thăng Long túc Hà nội ngày nay. Gần đây nhiều nhà nghiên cứu lịch sử cho là vùng Thị Cầu Hà Bắc. Tói nay cũng chưa khẳng định. 2. Mí Linh : Trưóc là bộ lạc Mê Linh, tương đương vói miền Sơn Tây, Phúc Thọ. Thành Mê Linh ỏ làng Hạ Lôi, huyện Y4n Lẵng tỉnh Vĩnh Phú ngày nay. 3. Luy Lâu : Tỗn huyên, dặt tù thài Hán. Nay ỏ xã Lũng Khẽ, huyện Thuận Thành tình Hà-Bắc, còn có dấu vết cfl của thành. 4. Quảng Tín : Sau dổi lảm huyện Thương Ngô, nay thuộc tinh Quảng Tây, Trung Quổc. NGOẠI KỶ, QUYỂN III - KỶ NỘI THUỘC TÂY HÁN 71 dậy dân biết lễ nghĩa. Lại có Nhâm Diên người đất Uyển, làm Thái thú Cửu Chân. Tục của người Cửu Ch&n là đánh cá săn bắn, không biết trồng cấy. Diên bèn sai sấm khí cụ làm ruộng, dạy dân khai khẩn, hằng năm trồng trọt, nhân dân sống đầy đủ. Lại vì dân không biết lễ phép, lấy vợ lấy chồng, không biết thiên tính cha con, đạo nghĩa 'Ợ chồng, bèn dậy dân trong bộ theo lứa tuổi mà lấy nhau. Người nghèo không có lễ cưới thì sai' từ quan trưởng sử trở xuống bớt bổng lộc để giúp đỡ. Cúng một thời kỳ cổ tớĩ 2000 người lấy vợ lấy chồng. Những đứa trẻ đẻ ra mới biết họ, biết dòng giống. Mọi người nói: Ta có đứa con này là nhờ có ông Nhâm Diên đấy. NhTêu người còn lấy tên ông để đặt tên cho con Ông làm việc 4 năm thì có chiếu đòi về. Người Cửu Chân lập đền thờ sống, văn hoá Lỉnh Nam <2a> bắt đầu có là từ hai thái thú này. Sử th ần Ngô Thì s ĩ bàn: Xét dã sử thì Hán Vũ Đế năm Bính Tý Nguyên Phong năm thứ 6, cho Thạch Đức làm thái thú, nhậm chức dược 19 năm. Thiếu Đế năm át Mùi, Thuỷ Nguyên năm thứ 1, cho Chu Chương làm thải thú, nhậm chức 13 năm. Tuyên Đế năm Mậu Thăn là năm Bản Thuỷ thứ 1, cho Nguy Lãng làm thải thú, nhậm chức dược 25 năm. Nguyên Đế năm Quý Dậu là năm Sơ Nguyên thứ 1, <}ho Tích Quang làm thái thú, nhậm chức dược 16 năm. Thành Dế năm Kỷ Sửu là năm Kiến Thuỷ thứ 1, cho Nhâm Diên làm Thái thú Cửu Chăn, nhậm chức dược 26 năm. Ai Đế năm Kỷ Mão là năm Kiến Bình thứ lị cho Đặng Nhưỡng làm Thái thú Giao Chi, lãnh chức châu‘mục trước sau 30 năm. Ghi chép thế thứ khá rõ. Lại xét sử nhà Hán thời vua Vũ Đế trong năm Chính Hoà, cho Lã Hoàng làm Thứ sử Qiao Chỉ. Thời vua Bình Đế năm Nguyên Thuỷ cho <2b> Hà Xưởng lầm Thứ sử Giao Chi. Sử cũ không chép. Nhân chép ra để phòng khi tham khảo. Giáp Ngọ [34] (Hán Quang Vũ năm Kiến Vũ thứ 10), nhà Hán cho Tô Định làm Thái thú Giao Chi Đinh Dậu [37] (Hán Kiến Vũ năm thứ 13) quận Nhật Nam dâng trĩ trắng và thỏ trắng cho nhà Hán. Kỷ Hợi [39] (Hán Kiến Vũ năm thứ 15), Thái thú Giao Chỉ là Tô Định làm chính sự tham tàn bạo ngược. Trưng Trắc ở Phong Châu nổi binh đánh lại. Trên đây là thời kỳ thuộc Tây Hán, từ năm Tân Mùi Nguyên Phong năm thứ 1 đến năm Kỷ Hợi Kiến Vũ thứ 15 gồm 149 năm. Sử th ần Ngô Thì s ĩ thông luận: Từ Triệu Dà làm vua nước Việt chiếm cứ Nam Hải, ròi kiêm tính Giao Chău, hưởng sự tôn quý cưỡi xe hoàng ốc, dụng cờ tà dạo ^ hưởng sụ giàu có bàng văn tế tử bối uy dằnh chế ngụ muôn dặm, sai khĩến cả các Man Di. Vua nhà Hán nghe tin ấy vốn thường nghi tới Vương Tiễn 1 ) oán giận Nhâm <3a> Hiêu, từ Ngũ Linh trở về phía Nam dâu có cam tâm dể cho họ khác cai trị, chỉ vì vị trưởng lão hàng trăm tuổi không có sơ hờ nào có thổ thừa cơ, cho nên sứ giả và con tin qua lại thong dong máy dời, vài quận của Giao Chỉ vản 123 1. Xem Hậu Hán thư quyền 76 Nhâm Diên truyện ; quyền 86, Nam Man truyện. 2. Cưỡi xe hoàng ổc dựng cò tà đạo: Ý nói dược giũ ngôi báu hưởng giậu sang. 3. Vương Tiễn : Là một tưóng tài giỏi nổi tiếng của Trung Quốc thời Tàn Thuỷ Hoàng. ĐẠÍ VIỆT SỬ KÝ TIỀN BIÊN là bày tồi cùa họ Triệu, cho dến khi bà Hoàng hậu da dăm dộng lòng nhớ tói quê hương, quên mưu mô trị nước, dân thì mang dù giả cam bầu nước, quăn si thì mang theo áo giáp mù trụ, nên sau Phục ba mới nhón có nhuệ khí mà dón quăn. Tuy nói là công việc của người nhưng củng là thời vận của trời. Ngủ Lỉnh không giữ dược mà 3 quận cũng mất. Cho nên ban dầu thì ngoại thuộc vào nhà. Triệu, nhà Triệu mát thì cuối cùng lại'nội thuộc vào nhà Hán. Có lẽ là vận hậị dển lúc như vậy dâu phải là người nghi dến dược. Từ năm Nguyên Phong thời Tă.y Hán dến năm Kiến Vũ thời Dông Hán khoảng 150 năm, người dến giữ nước áy chỉ có Tích Quang, Nhăm Diên là chinh sự tốt khá rõ rệt. Đảu phải là sử sách ghi chép thiếu, hay là khó có người quan lại lương thiện, mà trong 150 năm không hè có sự phàn trác nếu không phái cái khổ bị xăm lăng không thậm tệ như quan l ạ i ở Chu Nhai < 3 b > Dạm Nhi, tức là phong tục chất pháo quê mùa củng dễ trị hơn dán ở Chu Nhai, Đạm Nhi. Cho nên người Hán không cưỡng ép hai quận nội thuộc. Hán Nguyên Đế năm So Nguyên thứ 1," mùa. xuăn, người Hán bãi bỏ quận Chu Nhai. Quận Chu Nhai, Đạm N h i ỏ bãi giữa biển. Quan quăn cùa Chu Nhai đều lù người Hán phần lớn là xăm lãng. Dàn ỏ dó vặi mươi năm một lần phản lại, giết quan lại, người Hán liền cho quân dành dẹp dến bấy giờ các huyện chống lại, nhà Hán liền mấy năm không bình dịnh dược. Vua Hán bàn với quần thần dùng kế sách của Giả Quyên Chi111 bãi bỏ di. Có ai muốn nội thuộc thì cho ỏ, không muốn thì không ép thế mà Giao Chỉ, Cửu Chăn, Nhật Nam lại không chịu bỏ. Có lẽ lúc dó không có người hào kiệt nổi lén, cho nên phải cam tăm làm tôi tớ cho người Phương Bác. Thật là một diều dáng than thở cho cái dạo ở dời dấy, chỉ vì nước ta ở xa ngoài biền, văn vật thời Hán, thời Chu thám thìa hai chậm. Có Tích Quang thì giáo hoá vè lê nghĩa sáng sủa, có Nhâm Diên thì luân lỵ vợ chồng dược đúng dán. Bất dầu từ giáo hoá của một thời, dần dần thành phong hoá dẹp hàng trảm dời, khiến cho nước nổi tiếng vãn hiến , dược Bác triều tôn trọng, các nước phải kính nể, suy nguyên từ dầu thì công của hai thái thú là lớn lăm dấy. Còn như Triệu Đà bắt nước ta lệ thuộc m à không có < 4 a> công dức gì dến dời sau thì há chảng phải là người có tội với hai thái thú dó sao? < 4 a > KỶ TRƯNG NỮ VƯƠNG Trưng Vương (Họ Trưng huý Trác, người huyện Mê Linh thuộc Phong Châu là con gái quan Lạc tướng và là vợ Thi Sách người huyện Chu D iên^. Dấy binh được 3 năm 1. Già Quyẽn Chi : Người thỏi Hán, tự là Quân Phòng, thòi Nguyên D ế dâng sớ tâu việc thắng bại, được mài vào lam chúc đãi chiếu. Chu Nhai làm phản, triiu dinh bàn dưa quân di dánh, Giả Quyên Chi cho rằng không nôn. do dó bái bd quận Chu Nhai. 2. Chu Diên : Huyện Chu Diên, trước là bộ lọc Chu Diên tướng dương vái đất tinh Hà Tây và tình H à Nam ngày nay. NGOẠI KỶ, QUYỂN III - KỶ NỘI THUỘC TÂY HÁN 73 .thỉ mất. Đọng đô Mê Lỉnh. Vương là người con gối, hô một tiếng m à đuổi được bọn thái thú Phương Bác như là đuổi bọn nồ lệ, bình định đất Ngũ Lỉnh, dựng nước xưng vương, thực là bậc hào kiệt trong giới nữ đáy. Nhưng vi tài yểu điệu, lại là lúc vân nước đương đen tối nên khống thể giữ trọn được công lao. Đáng tiếc thay!) Sử th ần ' Ngô Thì s ĩ bàn: Xét tháy sau thời H ùng Lạc, quốc thống bị m át từ lâu. Đến bây giờ Trưng Vương tự lập. Sừ củ vội cho là chính thống nhưng xét họ Trưng dựng nước, trước sau mói 3 năm, bỗng chốc dăy lẽn, bỗng chốc bị diệt. Có lẽ chưa thành một nước, cho nên xử chí theo chế dộ các nước m à chia dòng ghi chú số năm vào giữa triều nhà Hán. Canh Tý [40] (Trưng Nữ Vương năm thứ 1, Hán Kiến Vũ năm thứ 16), tháng 2, mùa xuân, Trưng Trắc, người con gái < 4b > huyện Mê Linh thuộc Phong Châu, nổi binh đánh đuổi Thái thú là Tô Định. Trước kia, chồng Trưng Trắc bị Định giết chết, Trắc căm thù, lại khổ vì bị Tô Định lấy pháp luật gò bo', bèn cùng em gái là Trưng Nhị khởi binh, đánh hãm lỵ sở của châu, Tô Định bỏ chạy về. Trưng Trác thực là hùng dũng, đến đâu đều như c ó g ió cuốn, mường mán ở Nam Hải, Cừu Chân, N hật Nam, Hợp Phố đều hưởng ứng. Bình định được hơn 50 thành ở Lĩnh Nam, tự lập làm vua. Thứ sử và các thái thú chỉ tự giữ được nơi minh ở (theo dã sử, lúc vua xuất quân, tan g chồng chưa hết, bà trang điểm rất đẹp, các tướng hỏi, bà nói: Việc binh không để ảnh hưởng. Nếu giữ lễ mà làm xấu dung nhan thl nhuệ khí tự nhiên suy kém. Cho nên ta m ặc đẹp để m ạnh thêm màu sắc của quân, và khiến cho bọn giặc trông thấy động lòng, lợi là chí tra n h đấu, thì dễ giành phần thắng. Mọi người tạ từ, cho m ình không theo kịp Sử th ầ n Ngô Thì s ĩ b àn : Xét từ khi Vũ Đ ế dẹp dược N am Việt, dật 7 quận Nam Hải, Thương Ngô, Uất Lăm, Hợp Phố, Giao Chỉ, Cửu Chăn, N h ậ t N am gọi tát là Giao Châu quận. Thuộc vè N am Hải gồm 7 thành là Phiên Ngung, Bác La, Trung Túc, Long Xuyên, Tứ Hội, Yết Dương, Tăng Thành; thuộc về Thương Ngô, gồm 11 thành là Quàng Tín, Tạ Mộc, Cao Yến, Phong Dương, Lăm Hạ, Doan Khẽ, Phùng Thừa, Phú Xuyên, Lệ Phố, Mãnh Lăng, Chương Bình. Thuộc vầ Ưát Làm gồm 11 thành là Bố San, An Quảng, A Lăm, < 5 a > Quảng Cháu, Uất Lăm , Trung Truy, Quế Lăm, Hỗn Trung, còn 3 thành khuyết danh; thuộc vè Hợp P hố gòm 5 thành là Hợp Phố, Từ Văn, Cao Lương, Lăm Nguyên, Chu Nhai; thuộc về Giao Chi gôm 12 thành là Long Biên, Luy Lâu, Yên Định, Cáu Lảu, Mê Linh, Khúc Dương, Bác Đới, Kê Từ, Tây Vu, Chu Diên, Phong Khê, Vọng Hải; thuộc về Cửu Cháu gồm 5 thành là Tê Phố, Cư Phong, Hàm Hoan, Võ Công, Vô Biên; thuộc vè N h ậ t N am gồm 5 thành là Táy Quyền, Chu Ngỗ, Lư Dung, Tượng Lảm, Tỷ Can. Tổng cộng là 56 thành. Mói dặt hai thành là Phong Khê và Vọng Hải thôi. Sử củ theo sai lầm của sử nhà Hán chép là 65 thành cho nên cải chính lại. Xét ra Giao Chỉ, Cửu Chăn, Nhật Nam là dát Thục, không giữ dược m à rơi vào nhà Triệu. N am Hải, Thương Ngô, Uát Làm, Hợp Phó là dát của nhà Triệu không giữ dược m à bị nhà H án thôn *2 1. Các sách khác đều chép 65 thành. 2 Sự tích về Hai Bà Trựng, ngoài các bộ sử chép ra còn thấy chép trong L ĩnh N am Trích quái Việt (tiện u linh và các thần tích, phả lược, bi ký.t 74 DẠI VIỆT SỬ KÝ TIỀN BIÊN tính. Trưng Trắc là người đàn bà goá trong bộ Giao Châu, không có một tác đát, 1 người dăn. Chỉ vì mối thù của chồng dã nổi binh phất một ngọn cờ mà 6 bộ theo như hình theo bóng. Chiếm dược dát dai 56 thành dẻ như người phủi bụi trên rương trên hòm, khiến cho các quan thú, quan uý cai trị dã 150 năm nay củng <5b> phải bó tay chàng làm gì dược. Ổi! Khí anh lình của trời dát không chung đúc vào bậc nam tử mà lại chung dúc vào người dàn bà như thế. Giả sử lòng trời ban phúc cho dát Lạc Việt thì cả trong vùng dát Kinh Dương cũng có thề có dược chứ dău phải chỉ dát Ngủ Linh mà thôi. Cho nên người tiếc dát Ngũ Linh thì nên tiếc vào sau khi Bà Trưng mất chứ không dáng tiếc vào trước khi nhà Triệụ mất. Tân Sửu [41] (Trưng Nữ Vương năm thứ 2, Hán Kiến Vũ năm thứ 17), nhà Hán vl thấy Bà Trưng xưng vương, đem quân sang đánh hãm thành ấp, các quận biên giới bị khổ sở, bèn hạ lệnh cho Trường San, Hợp Phố, và Giao Châu chuẩn bị xe thuyền, sửa sang càu đường, thông khe suối, tích lương thực, cho Mã Viện làm Phục ba tướng quân, Phù Lạc hầu Lưu Long làm phó. Viện đem Lâu thuyền tướng quân là bọn Đoan Chí sang xâm lấn. Nhâm Dàn [42] (Trưng Nữ Vương năm thứ 3, Hán Kiến Vũ năm thứ 18), mùa xuân, tháng giêng, Mã Viện men theo đường biển mà tiến, san núi làm đường hơn một ngàn dặm đến hồ Lãng Bạc (con đường phía tây của La Thành tức Hô Tây ngày nay), đánh nhau với Trưng Vương. Trưng Vương <6a> thấy quân Hán mạnh, tự nghỉ quân minh ô hợp, sợ không chống nổi, lui quân về giữ đất Cấm Khê w (sử cũ chép là Kim Khê), quân cũng cho rằng vua là đàn bà không địch nổi quân Hán, bèn chạy tán tác. Quốc thống lại mất. Sử thần Lê Văn Hưu bàn: Trưng Trắc, Trưng Nhị là dàn bà, hô một tiếng mà cả Cứu Chăn, Nhật Nam, Hợp Phố và 56 thành ỏ Lỉnh Ngoại dầu hưởng ứng. Bà dựng nước, xưng vương dể như trỏ bàn tay. Như thế dủ tháy hình thế dát Việt ta có thề dựng dược ca nghiệp bá vương. Tiếc rằng người tiếp sau họ Triệu dến trước thời Ngô, trong khoảng han một ngàn năm, dàn ông chỉ cúi dầu, bó tay làm tôi tó cho người Phương Bấc, không biết xău hố với hai chị em họ Trưng là dàn bà, ồi có thề gọi là tự bỏ mình dáy!. Sử th ần Nguyễn Nghiếm bàn: Từ khi Cù Thị gảy nạn, vua Nguyên ĐỈnh(2) 2 dùng hết sức quản, 7 quận Linh Nam bị người ta sai khiến, những người có trách nhiệm chăn dắt dán, ngoài 2 thái thú Tích Quang, Nhăm Diên ra, thì Thạch Dái <6b> Chu Chương không có chính sự gì dặc biệt mà còn tham lam hà khấc, dán không chịu nổi. Còn như Tô Định lại có thề nào dung thứ cho chúng một ngày làm càn dược sao! Trưng Vương là dòng dõi bực thần minh, nhàn lòng dàn oân hận, nổi giận, khích lệ người cùng chung mối thù. Nghía binh di dến dău gần xa đều hường ứng, 65 thành ngoài mièn Ngũ Linh một buổi sớm dầu dược thu phục, người dần chịu khổ sỏ từ lảu, không khác gi dã ra khỏi vực thảm dược thấy mặt trời. Bà quả là bậc anh hùng khí khải hon người. Tuy ràng quân mới tập hợp, bị tan rã khi 1 Dịa điểm Bà TrUng lui quân vè giũ có hai ý kiến : Một cho là vùng huyện cám Khê, linh Vĩnh Phú, ý kiến nữa cho rằng chũ cấm Khê gân vói chữ Kim Khê mà Kim Khô là dịch từ tôn khe vàng ỗ Hà Tay. 2. Vua Nguyên Dinh : Tức Hán Quang vo. NGOẠI KỶ, QUYỂN III - KỶ NỘI THUỘC TÀY HÁN 75 dã thành công, cũng làm hà dược lòng căm phẫn của thần dân một chút. Lại cảm nghvYàng co nghiệp giàu mạnh của họ Triệu, rút cuộc bị một mụ dàn bà ở Hàm Dan cướp doạt. Khi dát nước bị chìm dấm, thì lại hàu như dược khôi phục do một nữ chúa ỏ Mẽ Linh. Lúc dó bậc con trai mày râu phải cúi dầu ngoan ngoãn tuán theo không dám làm gì, chàng dáng khen làm 8 0 0 ? <7a>. Trên đây Trưng Nữ Vương bát đàu từ nảm ‘Canh Tý [40] (Hán Kiến Vũ năm thứ 16) kết thúc nám Nhâm Dần [42](nãm Kiến Vũ thứ 18) gồm 3 năm. Sử thần Ngô Thì s ĩ thông luộn: Không gì khó thu phục bằng lòng người, không gì khó tập họp bàng thế nước, càng không gì khó bằng một phụ nữ mà tập họp dược nhiều nam giói làm người cùng chí hướng với mình. Nước An Nam nội thuộc dă lảu, phục tùng pháp chế cho lả nên, chịu bọn tướng lại thống trị cho là thường, người căm phẫn thì cày trên mộ dã vừa người Ồm, kẻ sinh sau lòng vản bình thản, người muốn hăng hái lẻn cũng khổng có dát dụng võ, mà người Phưong Nam phải khiếp sọ. Viêm Chinh trũng hưng, bậc trí dũng tập họp lại, ai dám vì tháy người phụ nữ mầm yếu trỗi dậy, mà chóng với lòng phản nộ của con hổ dựa vào vách núi dược sao? Bà Trưng, một dàn bà goả ván tóc lén, con trai trong cà nưóc dầu cúi dầu chịu sự chi huy. Quan chức ỏ hon 50 thành cũng phải nín hoi không dám khảng cự. Lưu Văn Thúc ^ là người <7b> diệt dược quăn hừng, chống dược dại dịch mà khi tập họp quần, diều khiển tướng cùng dụng cụ xe thuyền lưong thực dến nỗi mát ăn mát ngủ vì lo việc ngoài biên. Mă Phục ba )2> làm cỏ nước Tiền ■ L in h ^\ đánh tan nước Tham Lang <‘i> một cách an nhàn, thế mà khi dóng quàn Lăng Bạc, khi nghi dến dược ngòi xe hạ trạch, cưỡi ngụa khoản doạn ' * mà bây giò phải dau đáu buồn vè lời nói của Thiếu Du ’ ' muốn làm mà không dược. Tiếng tăm cùa Bà chán dộng cả Man Di, Hoa Hạ, co nghiệp mỏ mang của bà khuấy dộng cả dát trời. Ôi thật anh hùng thay! Còn việc thảng bại của nhà binh là không thường số năm dài ngàn là có số, người quăn tử khổng kể dến. Theo Bảc sử, thời Hán thời Dường củng có vua dàn bà. Lã Trí Vở Chiếu dèu dựa vào sự tôn quý của mẫu hậu, nước là nhà, vua là con nấm quyền sinh sát dịnh doạt, dé dẻ 1 1. Lưu Văn Thúc ỉ Tôn của Hán Quang Vũ. 2 Mã Phục ba : Túc Mã Viện. . 3. Nuóc Tiẽn Linh : Một trong nhãng tộc Khưctng ỏ -phía Tây thời Hán, bao gòrn miền đát từ huyện Dạo Hà tình Cam Tiíc đến vùng Thanh Hải, Trung Qutìc. 4. Tham Lang : Một bộ tộc Tây Thành, Trung Quốc. 5. Xe hạ trạch : Là loại xe trục ngắn cỏ thẻ đi qua chằm nuỏc dưọc; Ngựa khoản đoạn : Ngựa đi thong thả. Câu này ý nói khi Mâ Viện di đánh Tiên Linh và Tham Lang thì thong dong, mà đến day thì phải lo sộ vít vả . 6. Hậu Hán thu, Mă Viện truyện chép : Viện nói vói liêu thuộc rằng: "Em họ ta là Thiếu Du, thưòng thuồng khen ta là ngưòi khàng .khái, có nhiỉu chí lốn, nhung lại nói vói ta rằng: "NgUòi sĩ phu sống ồ đôi chì cổt làm sao cho dù ăn đù mặc cuđi con ngựa đi thủng thẳng, ngồi Cà xe lan khoan thai, làm cái chức chuyên lại dể giũ mồ mà cha Ang, làng xóm khen là dược rồi muốn cầu cho thừa thai chì khổ đến thân mà thỏi".' 7. Lá Trĩ : Tủc La Hậu vợ Hán Cao Tổ. 8. Vỗ Chiếu : Tức v ỏ Tắc Thiên vợ Đưòng Cao Tông. 76 DẠI VIỆT SỬ KÝ TIỀN BIÊN bề lung lạc bổn bể, cổ vũ hào kiệt. Còn như Bà Trưng chi là một dàn bà bình thường thì thục là khó dấy. Trong Nam sử, thòi nội thuộc nhà Lương nhà Trần có Lý Nam Dê và Triệu Việt Vương, hoặc là nhà hào phú hoặc nhà dời dời làm tướng, hoặc là trong dòng họ, lòng người <8a> vốn dã phục, thế nước ổn định. Còn Bà Trưng là dàn bà con gái thì lại khó dấy. Tuy thế cũng chưa phải là lạ làm. Chỉ vì chòng mà căm phẫn, em vì chị cố gáng, tiết phụ ngliia nữ à cà trong một nhà, dó mới là lạ. Những vua mát nước thì hoặc bị bát hoặc dầu hàng, con gái trong cảnh nhà tan hoặc bỏ di hoặc chịu nhục. Bà Trưng chị chết vì xă tấc 3 năm, Bà Trưng em củng tuẫn tiết. Sợi dãy buộc cổ của Tủ Anh không dừng vào dău, cung của hai cô họ Ki'éu[2) xây dụng uổng. Vua tôi Văn Thúc khổng dược mát dạ vẫn thoà lòng. Tuy bại mà vẫn vẻ vang, tuy chết mà tiếng bát hủ, thế mói càng lạ. Ôi son phai phán nhạt, xưa nay chôn vùi biết bao nhiêu khách mả hòng! Từ khi bà Nữ Oa luyện dá vá trời 1 về sau chi còn chị em nhà họ Trưng mà thôi. Còn tẹp nhẹp như Triệu Ảu, Trần Thạc Trinh thì kề làm gì (dời Dường Cao Tông, con gái châu mục là Tràn Thạc Trinh làm phàn, tự xưng là Vãn Giai Hoàng dế). KÝ NỘI THUỘC ĐÔNG HẤN <8b> Quý Mão [43] (Hán Kiến Vũ năm thứ 19, năm ấy họ Trưng mất), mùa xuân, tháng giêng, Trưng Trác cùng em là Trưng Nhị đánh nhau với quân nhà Hán, bị thua chỉ còn lại bọn Dô Dương về tụ tập Cửu Chân. Viện lại truy kích đến huyện Cư Phong(1 234 5) thi đâu hàng. Kiều Nam bị bình định hết, [Mã Viện] bèn dựng cột đồng ở Kiều Nam biên giới cuối cùng của nhà Hán, nêu rõ pháp chế cũ để cai quản, từ đấy về sau xứ Lạc Việt phải làm theo công việc cũ của Mã tướng quân. Nước Việt ta lại thuộc vào nhà Hán (theo sách Thuỳ Kinh chú, nói Mã Văn Ưyên^) dựng kim tiêu làm địa giới cuối cùng ở phía Nam Kim tiêu tức cột đồng đấy. Theo sách Thông giám, Kỷ nhà Tuỳ thì Lưu Phương qua sông Đồ Lê đánh tan quân Lâm Ãp. Đuổi quá phía nam cột đồng của Mã Viện, 8 ngày đến thủ đô của nước ấy, Đỗ Hưu nói phía nam Lâm Ãp đi hơn 2 nghìn dặm cố 2 1. Triệu Can giết Nhị Thẻ lập Tù Anh lẽn. bò dế hiệu, xưng vương. Khi quân Bái Cồng đến Bái Thượng. Tủ Anh di xc tráng ngựa tràng, quấn sợi dây vào cổ dến tủn nơi dăng án xin hàng. Ỏ dây ý nói Hai Bà không dầu hàng giặc. 2. Hai người con gái của Kiều Hưvền dèu là người xinh dẹp nôi tiếng trong nước. Cô chị gà cho Tôn Sách, cô an gà cho Chu Du. Tào Tháo xay cung Đồng Tước trên sông Chương Hà. dịnh dánh Dõng Ngô bắt hai chị em cô Kicu vi sững cung dẻ VUI thú tuổi già. Thế nhưng sau trận Xích Bích, quân Tào Tháo bị dại bại. Tháo chạy thoát than. rổỊ cuộc cung Dhng Tước vẫn bỏ khổng. 3. Theo thăn thoại, xưa kia trời thiếu góc tây bầc, Nũ Oa luyện dá ngũ sắc dẻ vá, từ dấy trời mói dầy dù'trọn vẹn. 4. cư Phong : TCn huyện cửu Chân tương dương với miền dát huyện Thọ Xufln và huyện Đồng Sơn tinh Thanh Hoá. 5. Mã Văn Uyên . da Viện. NGOẠI KỶ, QUYỂN III - KỶ NỘI THUỘC DÔNG HÁN 77 cột đồng của Mã Viện chồn ở Tây Đồ Di đó là chỗ nêu địa giới đấy. Núi Đồng trụ chu vi 10 dậm, hình như cái lọng. Phía tầy vượt qua mấy tầng đồi núi, phía đông đến biển lớn Tống Bạch nói: Mã Viện đánh Giao Chỉ. Từ Nhật Nam đi hơn 400 dặm đến Lâm Ấp. Lại đi về phía nam hơn hai nghìn dặm co' nước Tây Đồ Di. Viện tới nước ấy, đúc 3 cột đồng ở biên giới Tượng Lâm để chia bờ cõi với Tây Đồ Di, từ Giao Chi đến cột đồng 5 nghìn dặm. Theo thuyết họ Tống, họ Đỗ thì cột đồng ở phía nam Lâm Ấp. Theo sử nhà Tuỳ chép: Lưu Phương đánh Lâm Ấp, đuổi quá cột đồng Mã Viện 8 ngày đến thủ đô của nước ấy. Vậy thì Lâm Ấp lại ở phía nam cột đồng. Hoặc là Lâm Ấp sau này càng lớn kiêm tính Tây Đồ Di làm thành một nước <9a> cũng chưa biết được. Theo sách Minh thống chỉ thì cột đồng ở trên động cổ xâm ^\ Mã Viện có lời thề rằng: "Cột đồng gãy thì Giao Chỉ bị diệt". Người Việt ta mỗi lần đi qua, thường lấy đá đáp vào, bèn thành gò cao vì sợ cột gãy đấy. Khâm Châu ở phía tây chẩu Hải Đông(1 2 3) của nước ta, cách 300 dặm có núi Phân Mao(3\ ở giữa núi có cột đồng lớn hơn 2 thước. Trong năm Nguyên Hoà nhà Đường, Đô hộ là Mã Tổng lại dựng cột đồng ở chỗ cũ của nhà Hán. Chỗ ấy co' thể là của Tổng dựng để nêu rõ là con cháu Mã Viện), Mã Viện vì thấy huyện Tây Vu có 3 vạn 3 nghìn hộ, nhân đó xin chia làm 2 huyện Phong Khê và Vọng Hài, vua Hán nghe theo. Viện lại đắp thành Kiển Giang(4) ở Phong Khê. Thành tròn như cái kén cho nên lấy nó làm tên. Sau 3 năm, Viện về, người ở đo' thương mến Trưng Vương lập đền thờ Bà (đền ở sông Hát Giang, huyện Phúc Lộc. Theo Biệt Lục chép, quân của Hai Bà thua, lên núi Hy Sơn rồi không biết đi đâu. Đền thờ Bà Trưng hương án đồ thò toàn sơn đen, tuyệt nhiên không co' màu đỏ. Dân ở địa phương không dám mặc áo đỏ. Những người đến yết cáo thâm hỏi mặc áo đỏ đều phải cởi ra không ai dám phạm đến lệ cấm. Tục truyền rằng: Trưng Vương chết vì việc binh đao, nên kiêng màu đỏ vì đó là màu máu). Sử thần Ngô Sĩ Liên bàn: Bà Trưng căm phẫn nhà Hán bạo ngược, vung tay hô một tiếng mà quốc thống nước ta gần như dược khôi phục. Khí khái anh hùng dâu có phải chỉ riêng lúc sống <9b> dựng nước xưng vương mà sau khi mất di vẫn có thể chống dược tai hoạ. Phàm gặp phải nạn hạn lụt, cầu khẩn dầu có linh ứng, Bà Trưng em cũng như vậy, có lẽ người con gái có dức hạnh cùa kẻ sỉ, khí hùng dũng ở trong trời dát không vì bản thăn mất di mà sút kém dấy. Bậc dại trượng phu hả lại khổng nuôi dưỡng chí khí cương trực chính dại hay sao?. Giáp Tuất [74] (Hán Minh Đế, Vĩnh Bình thứ 17), Đạm Nhĩ đến cống nhà Hán, (người Đạm Nhĩ sinh ra thường xăm ở mật xuống đến tai làm vài giòng thành hỉnh như lòng gà loàn quăn rủ xuống đến vai). Giáp Thân [84] (Hán Chương Đế, Nguyên Hoà nặm thứ 1), Nhật Nam dâng tê sống và trĩ trắng cho nhà Hán. 1. CÀ Xâm: Tỗn động ỏ phía nan) Chau Khâm gần bién giói nước ta. 2. Hải Dững nay là tình Quàng Ninh. 3. Núi Phân Mao: Theo Đại Thanh nhđi thống chí thì núi Phân Mao i động cổ Xâm. cách Châu Kham 3 dạm vè phía tây. Tục truyèn trên dinh núi cỏ tranh mọc san sát. ngọn cò tự nhién rẽ ra hai hướng hắc và nam cho nẽn gọi là núi Phan Mao. 4. Thành Kiìn Giang : Mậ Viện xây đ Phong Khô. cỏ lẻ la nhạn địa điém thành c ò Loa cũ mà xây lân. 78 DẠI VIỆT SỬ KÝ TIỀN BIÊN Canh Tý [100] (Hán Hoà Đế, vinh Nguyẻn năm thứ 12), mùa hạ, tháng 4, Man Di d Nhật Nam, Tượng Lâm làm phản, quân của quận đến đánh dẹp được. Tân Sửu [101] (Hán Vĩnh Nguyên năm thứ 13). vua nhà Hán ban chiếu phát chẩn và cho người nghèo vay ở Nhật Nam. Lại ban chiếu <10a> cho dân ở Tượng Lâm ai làm ruộng và trồng dâu thỉ cấp cho thổc giống và cho ngưbi quá nghèo thóc ăn. Nhâm Dần [102] (Hán Vĩnh Nguyên năm thứ 14), Hán bát đầu dặt chức quan tướng binh trưởng sử (Tướng binh trưởng sử ở quận Nhật Nam còn gọi Tướng binh tư mã). Tháng 7, nhà Hán ban chiếu miễn cho huyện Tượng Lâm thuế canh tô ruộng và cỏ khố 2 năm. Giáp Dàn [114] (Hán An Đế, Nguyên Sơ năm thứ 1), tháng 3 năm Kỷ Mão, đất Nhật Nam bị rạn tới 182 dặm (theo sử cũ, nước Việt ta nội thuộc từ năm Hán Kiến Vũ trải đến Minh, Chương, Hoà, Thương, An đế gồm 5 đời cộng 82 năm. Riêng thời Minh đế người Nam Dương là Lý Thiệu làm thái thú Nhật Nam thi hành chính sách ban ơn, đưa tục lạ đến, đổi thái thú Cửu Chân. Quan lại có nảng lực là như vậy, bởi vậy chép lại tất cả để tham khảo cho đầy đủ). Bỉnh Tý [136] (Hán Thuận Đế, Vĩnh Hoà năm thứ 1), thái thú Giao Chỉ là. Chu Xưởng cho ràng Giao Châu ở ngoài 9 châu, ngoài đất Bách Việt, bèn dâng biểu xin đặt chức quan Phương bá^1 2'. Nhà vua chơ Xưởng làm thứ sử đô giám quận huyện. <10b> Đinh Sửu [137] (Hán Vĩnh Hoà năm thứ 3), người Man ở Tượng Lâm, Nhật Nạm, là bọia Khu Liên đánh quận huyện, giết trưởng lại. Thứ sử Giao Châu là Phàn Diễn đem quân ở châu và ở quận Cửu Chân hơn 1 vạn người đến cứu, quân sĩ sợ đi xa. Mùa thu, tháng 7, quân ỏ 32 quận làm phẻp, đánh phủ trị. Diễn tuy đánh tan kẻ làm phản, nhưng thế của Man lại mạnh lên (theo 'Hán sử , huyện Tượng Lâm'quận Nhật Nam xưa kia là t địa giới Việt Thưòng tức là Lâm Ấp. Từ khi Mã Viện mở rộng cảnh thổ phía nam của nhà Hán, đặt ra huyện này. Đất ở huyện này bề rộng tới 600 dặm, cách biên giới Nhật Nam hơn 400 dặm, phía bác sát Với Cửu Đức, cho nên nó đến xâm lược bất thường. Cuối thòi Hán đại loạn, con của Công Tào là Khu Liên giết huyện lệnh tự lập làm vua. Cđ bản chép là Khu Đạt ( lwi iễ ) bản này chú là Khu Liận ( ÌỊ i#f ) có lẽ là đồng âm mà đọc sai đấy). Mậu Dàn [138] (Hán Vĩnh Hoà năm thứ 3)(3) Mùa hạ, tháng 5, thị ngự sử là Giả Xương cùng với châu quận đánh bọn Khu Liên không được, bị quân Khu Liên vây đánh. Hơn một nàm quân lương không tiếp tục chuyển được, vua Hán triệu tập công khanh trăm quan, và các thuộc lại 4 phủ để hỏi phương lược, mọi người đều bàn nên Sãi tướng đưa 4 vạn người ở 4 châu Kinh, Dương, Duyên, Dự tới đđ. Lý Cả bác đi nói rầng: "Kinh Dương giặc giã tụ tập. Trường Sa ", Quế Dương đã nhiều lần bị điều động, nếu nay lại huy động thl tất sinh hoạ. Người Châu Duyên, Châu Dự phải đi Xã hàng vạn dặm, chiếu thư thúc giục tất họ sẽ chạy trốn làm phản. Phía nam châu ẩm thấp nđng nực lại thêm chướng khí, cơ bị bại vong 10 phần chác đốn 4, 5. Đi xa hàng vạn dặm, quân lính mỏi mệt, khí giới Lỉnh Nam khống thể chiến đấu được, quân đi mỗi ngày được 30 dặm 1. Phương Bá : Chúc đủng dầu chư hầu một phưdng. 2. Công Tào : Chúc quan ỏ quận giữ viịc xét chọn ngưòi có cổng lao. 3. DVSKTT chép lả Hán Hoàn Dế Nguyên Gia năm thứ 2. NGOẠI KỶ, QUYỂN III - KỶ NỘI THUỘC ĐÔNG HÁN 79 mà Châu Duyên, Châu Dự cách Nhật Nam, hơn chín nghìn dặm, đi 300 ngày mới tới. Tính ra mỗi người lương ãn mỗi ngày phải 5 thăng, gạo phải dùng tới 60 vạn hộc, chưa kể đến lương thực của tướng lại ngựa lừa. Đóng quân ở đó bị chết ắt nhiều. Đã không đủ sức chống giặc, lại còn phải bắt thêm. Như vậy là cắt lòng ruột để vá chân tay. Cửu Chân, Nhật Nam cách nhau nghìn dặm, đến lại dân nơi ấy họ còn không chịu, huống chi lại làm khổ quân ở 4 châu để cứu nạn cách hàng vạn dặm. Trước kia trung lang tướng là Doan Tựu đánh họ Khương làm phản ở ích Châu. Người ích Châu có câu rằng: "Giặc đến còn khá, họ Doãn đến thì ta chết". Sau đến vời về, đem quân giao cho < llb > thứ sử là Trương Kiều. Kiều sẵn tướng lại ấy, chỉ trong 10 hôm diệt được hết bọn cướp. Như vậy kết quả là sai tướng đi cũng vô ích, và kỉnh nghiệm về châu quận có thể dùng được đấy. VI thế lại chọn những người dũng lược nhân huệ, cđ thể làm tướng suý được cho làm thái sử, thái thú. Di chuyển những lại dân ở Nhật Nam về phía bắc dựa vào Giao Chỉ. Lại mộ người Man Di khiến họ đánh lẫn nhau, chuyên chở vàng lụa cho làm của riêng, kẻ nào làm kế phản gián gọi đến, đàu hàng thì hứa cắt đất trước kia phong cho. Thứ sử Tính Châu là Chúc Lương, tính dũng cảm cương quyết; Trương Kiều trước kia ở ích Châu cđ công đánh giặc, đều nên bổ dụng. Bốn phủ đều theo lời bàn của Lý Cố. Cho Lương làm thái thú Cửu Chân, Kiều làm thứ sử Giao Châu. Kiều đến với lòng thành thực an cư, dụ dỗ mọi người đều hàng phục. Lương một mình đi xe đến Cửu Chân nói rõ uy tín, người ra hàng có tới hàng vạn, rồi xây dựng phủ trị cho Lương. Lĩnh Ngoại lại được dẹp yên. Giáp Thân [144] (Hán Kiến Khang năm thứ 1), mùa thu, tháng 8, vua Hán mất. Mùa đông, tháng 10, Nhật Nam lại đánh phá <12a> đốt quận ấp. Thái thú Cửu Chân là Hạ Phương gọi người đàu hàng mà vỗ về yên ủi, liền chuyển làm Thái thú Quế Dương, lấy Lưu Tảo thay chức của Phương. Đinh Dậu [157] (Hán Hoàn đế Vĩnh Thọ năm thứ 3), mùa hạ, tháng 4, quận Cửu Chân nổi lên bị người Hán đánh tan. Canh Tý [160} (Hán Diên Hy năm thứ 3), mùa đông, tháng 11, người quận Cửu Chân lại đóng đồn chiếm cứ quận Nhật Nam, chúng trở thành mạnh mẽ. Lúc đó Hạ Phương đã đổi làm Thái thú Quế Dương, nhân lại cho làm Thứ sử Nhật Nam, uy thế ơn huệ của Phương vốn nổi tiếng, khi đến quận, chúng lại tụ họp hơn vạn người đem nhau đến đầu hàng Phương. Ất Tỵ [165] (Hán Diên Hy năm thứ 8), bọn giặc Quế Dương chạy sang Thương Ngô, bị thứ sử Giaò Chỉ là Trương Bàn đánh tan. Mậu Ngo [168] (Hán Linh Đế Quang Hoà năm thứ 1), mùa hạ, tháng 4, người Giao Châu và Ô Hử Man ở Hợp Phố làm phản (xét theo Đường sử Ô Man ở đất cu của Tây Di, chia làm 7 bộ lạc. Kết hôn vớỉ người Nam Chiếu, cđ lẽ là Tây Di đáy. Nam Di có hai loại Di, một loại là Đông Di Ô Man, <12b> một loại là Tây Di Bạch Man). 'Tân Dậu [181] (Hán Quang Hoà năm thứ 4), mùa hạ, người Ô Man làm loạn đă lâu. Quan thú mục là Chu Ngung không chống cự được. Người ỡ châu là Lương Long nhân đó dấy binh đánh phá quận huyện, 00 tới vài vạn quân: Vua Hán cho Chu Tuấn làm thứ sử Giao Châu đánh dẹp. Tuấn là người Thương Ngổ Cối Kê. Đi đường qua quê nhà, mộ """