" Đại Nam Dị Truyện - Phan Cuồng full mobi pdf epub azw3 [Huyền Ảo] 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Đại Nam Dị Truyện - Phan Cuồng full mobi pdf epub azw3 [Huyền Ảo] Ebooks Nhóm Zalo Dành tặng mẹ, người luôn nuôi dưỡng tôi viết Dành tặng ba, người luôn muốn tôi viết Dành tặng chị, người chưa thể viết Và dành tặng em, người luôn đọc cái tôi viết TẢN MẠN VỀ VIẾT ĐẠI NAM DỊ TRUYỆN Tôi còn nhớ đêm rằm tháng bảy, đêm xá tội vong nhân năm 2013, lúc đó trời đã tối, tôi cùng một người bạn thân lượn quanh hồ Tây. Người bạn của tôi không biết nhiều về ý nghĩa của ngày này, tôi đã kể cho cậu nghe về niềm tin dân gian đối với câu chuyện của địa ngục được mở ra một lần trong năm vào rằm tháng bảy, để các vong hồn vất vưởng khắp nhân gian. Cậu ta hỏi làm sao tôi biết. Tôi trả lời rằng mẹ tôi kể. Từ trước đến giờ mẹ tôi đã dạy tôi rất nhiều điều liên quan đến tục thờ cúng ông bà cũng như những tín ngưỡng dân gian khác nhưng tôi chưa bao giờ hệ thống lại những điều đó. Khi kể cho bạn nghe, tôi manh nha hình thành ý nghĩ về việc thu nhặt những kiến thức đó thành một mảng có liên kết. Về nhà, trong khi đang vẩn vơ suy nghĩ, tôi thấy trên giá sách có cuốn Việt Nam Phong Tục của Phan Kế Bính. Đây là tủ sách cũ của ba tôi, cuốn nào cuốn nấy giấy thô ráp, vàng đen và cũ mốc. Nhưng cuốn sách này lại do mẹ tôi mua. Bà ít khi mua sách, và nếu mua thì thường là sách về hướng dẫn thờ cúng. Tôi không biết trong hoàn cảnh nào, bà lại mua cuốn sách ấy. Tôi lật đọc mấy trang. Trời xui đất khiến thế nào lại đọc được một đoạn tác giả viết về giới phù thủy: “Phù thủy có phép luyện âm binh, âm tường, thường đêm khuya đến những nơi tha ma mộ địa, đốt hương khấn khứa, luyện phù luyện phép, để cầu cho các âm hồn phải theo hiệu lệnh của mình…” Tôi lập tức cảm thấy có gì đó chấn động ở trong tôi, một trạng thái kiểu đã–đến–lúc. Tôi nghĩ: “Phải viết!” Cuốn sách bạn cầm trên tay không phải là cuốn sách đầu tiên tôi “phải viết”, nó chỉ là một câu chuyện đầy đủ nhất của tôi. Từ trước đến nay, tôi đã khá nhiều lần thử cầm bút. Trong những lần như thế, chữ viết ra thường xuôi theo cảm xúc mà không hề có cốt truyện hay định hướng. Những cảm xúc thời sinh viên, những tình cảm đối với gia đình. Đôi khi đó lại chỉ là mong muốn được cuốn theo dòng diễn biến tâm trạng của một nhân vật hư cấu nào đó. Tôi nhận ra mình chưa bao giờ thử viết về những thứ cảm giác mà tôi có rất nhiều: nỗi sợ hãi và sự tò mò. Ngay đêm rằm năm ấy, tôi đã viết một mạch xong hồi thứ nhất của cuốn sách. Và quan trọng hơn là tôi có tìm thấy một nguồn cảm hứng và một định hướng rộng rãi để tiến tiếp. Tôi tra cứu sách vở lẫn Internet để tìm thông tin về huyền thuật Việt Nam. Đa số các thông tin đều không chính thống, vụn vặt, đôi chỗ còn thiếu thống nhất. Lúc đầu tôi hơi hoang mang: với tư liệu ít ỏi thế này, viết thế nào? Rồi tôi nhận ra mình thật ngớ ngẩn. Tôi là người kể chuyện, không phải người giảng bài, tôi có quyền hư cấu theo trí tưởng tượng của tôi. Toàn bộ câu chuyện tôi viết ra đều không có thực. Đại Nam Dị Truyện là một sự tổng hợp những yếu tố tôi cảm thấy hứng thú, đó là: dã sử, tín ngưỡng dân gian và sự ly kỳ. Đại Nam Dị Truyện có mượn bối cảnh và các nhân vật lịch sử thời Lê Trung Hưng. Khi viết cuốn sách này, tôi vốn là một kẻ mù mờ về lịch sử (và bây giờ vẫn thế, tất nhiên), nhưng có một lần, khi tìm được cuốn Lịch sử nội chiến ở Việt Nam (1771–1802) của nhà sử học Tạ Chú Đại Trường, tôi đã bị hấp dẫn bởi từ “nội chiến” khá lạ lẫm và bị hút vào cuốn sách đó. Điểm tôi cảm thấy thú vị nhất là mức độ trung tính của tác phẩm, nó không hoàn toàn định hướng theo góc nhìn một chiều như nhiều tác phẩm liên quan đến sử mà tôi được đọc. Tôi hứng thú với ý nghĩ rằng đằng sau những sự kiện lịch sử là những con người bằng xương bằng thịt, cá tính, có hồn, có thiện có ác chứ không vô tri vô cảm. Tôi bị hấp dẫn bởi những điểm mờ của lịch sử. Chẳng hạn, nội tình vụ án của thái sư Lê Văn Thịnh thời Lý liệu có điều gì khác thường mà chỉ thấy ghi lại những lời lẽ hết sức hoang đường về việc ông mưu hại vua Lý Nhân Tông? Hoặc liệu Đặng Mậu Lân vì sao lại tàn ác và điên loạn như được kể lại, hoặc giả ông ta có điều gì bí ẩn? Các giả thuyết tưởng tượng liên tục đến với tôi mà không khiến tôi mất nhiều công sức. Tôi cảm thấy lịch sử hay hơn bất kỳ một kịch bản dàn dựng nào, chỉ cần nương theo kịch bản đó thì đã có một cốt truyện hấp dẫn. Tôi quyết định gắn câu chuyện của mình vào lịch sử, tôi sẽ viết một “dã sử”. Đại Nam không phải là tên gọi nước Việt Nam thời Lê Trung Hưng, mà là tên hiệu nước ta dưới thời vua Minh Mạng. Tôi biết điều này nhưng đây là cái tên tôi thích nhất. Tôi muốn dùng nó để gọi một nước Việt nói chung trong quá khứ, không nệ vào triều đại nào hay thời kỳ nào. Tôi viết truyện theo một định hướng lớn chứ không hề có các kịch bản chi tiết cho nó, không hiểu sao tôi không thể đưa ra (kể cả chỉ là các gạch đầu dòng) những định hướng ngắn hạn cho câu chuyện. Đa số các diễn biến đều nảy sinh trong lúc đang viết hoặc là đang cố viết. Và thật kỳ lạ, hồ Tây tiếp cho tôi một sự hứng khởi đến mức hầu hết các trường đoạn quan trọng đều được viết ở một quán cà phê quen thuộc nhìn ra hồ. Cái mảng nước mênh mông ấy lẽ ra cũng cần phải được nhắc đến trong lời cảm ơn, nhưng thôi, chắc “nàng” cũng sẽ thông cảm. Đại Nam Dị Truyện có thời gian chờ xuất bản khá lâu, và nhiều bạn đọc vẫn kiên nhẫn chờ đợi. Viết đến đây tôi muốn xin lỗi họ vì đã dừng việc đưa các hồi lên web một cách đột ngột. Tôi là một người thích sách, thường lang thang trên phố Nguyễn Xí ngắm nhìn các đầu sách mới ra. Từ lâu tôi đã quan niệm một tác phẩm muốn vượt ra khỏi cá nhân tác giả đã thai nghén ra nó khi và chỉ khi nó được xuất bản trên giấy. Đây là quan niệm của cá nhân tôi, lạc hậu và bảo thủ với thời đại, tôi biết. Và có lẽ bây giờ, tôi đã được thỏa mãn phần nào… Canada, ngày 2 tháng 1 năm 2016. HỒI DẪN BÙA HÀI NHI Bấy giờ đã nửa đêm, Cao Tiến vẫn thắp đèn. Đặt trước mặt gã là một cuốn sách nhỏ chi chít chữ. Cuốn sách này không lúc nào gã không mang theo bên mình. Gã đã đọc đi đọc lại hàng trăm, hàng nghìn lần. Nhưng hôm nay, gã vẫn muốn xem lại một lần nữa. Trong đó có ghi lại một bí thuật. Gã đã chuẩn bị cho việc luyện bí thuật này từ rất lâu. Hôm nay, chính là ngày quyết định. Sau lưng Cao Tiến là một chiếc giường gỗ được chạm khắc, trang trí rất cầu kỳ. Từ tám tháng trước, hắn đã khổ công tìm kiếm loại gỗ “tử ấn” cực kỳ quý hiếm để đóng chiếc giường này. Chiếc giường làm từ loại gỗ quý phảng phất hương thơm dịu ngọt mê mị. Trên giường, người thiếp yêu của hắn đang ngủ. Tiếng thở khẽ khàng của sản phụ đến tháng thứ tám khiến Cao Tiến hít một hơi thật mạnh để ngăn những tạp niệm. Gã nghe rõ tiếng thở của mình và người thiếp yêu hòa vào nhau trong chốc lát. Cao Tiến lấy ra một chiếc hộp nhỏ, gã lấy trong hộp ra bốn sợi dây, mỗi sợi dài chừng một thước được bện rất cầu kỳ, tỉ mỉ. Cao Tiến tiến đến bên giường. Hương tử ấn thoáng qua mũi, đọng lại nơi cổ họng một mùi vị dịu ngọt êm ái. Gã đứng đó nhìn chằm chằm vợ mình. Một lúc sau, người thiếp trở mình, cảm thấy chân tay vướng víu, nàng mở khẽ đôi mắt, nhìn thấy hắn, nàng khẽ cười âu yếm, hỏi nhỏ: – Chàng chưa ngủ ư? Cao Tiến cũng nhẹ nhàng đáp lại: – Xong việc này, ta sẽ đi ngủ thôi. Người thiếp thấy chừng đã khuya lắm rồi, liền nói: – Có việc gì để mai hẵng làm, muộn rồi. Lại đây với thiếp nào… Lần này Cao Tiến không trả lời. Gã vừa nhìn vợ, miệng lẩm nhẩm hát mấy câu: – Nhất dạ đồng sàng chung dạ ái, nhất nhất phu thê bá dạ ân… Vừa lẩm nhẩm hát, Cao Tiến vừa thận trọng thắp thêm mười ngọn nến lớn. Bây giờ, trong phòng mọi vật đều sáng tỏ. Cao Tiến lại đến trước cái hộp gỗ, lấy ra một vật sáng lạnh. Đó là một con dao. Con dao này mới nhìn đã biết là loại bảo vật hiếm có trên đời. Nó được chạm trổ cực kỳ tinh xảo, lại được làm từ loại thép cực tốt, ánh thép xanh biếc vẽ lên trần một vệt sáng xanh biếc. Người thiếp vẫn đang trong cơn mơ ngủ, chợt thấy ánh sáng lóe lên, giật mình tỉnh dậy, quay người về hướng Cao Tiến. Bỗng nàng thấy tay mình bị kéo mạnh lại. Thì ra, tay nàng đã bị trói chặt vào thành giường. Định thần lại, nàng nhận ra cả tứ chi đã bị khống chế, tựa như phạm nhân chờ án phanh thây. Thoáng có chút bất an, nàng hỏi gã: – Sao thế này, sao tay chân thiếp lại bị trói? Cao Tiến tay vẫn cầm con dao, tiến về phía nàng, nói rất nhỏ nhẹ: – Việc này rất hệ trọng, nàng phải giúp ta. Ta sẽ suốt đời tưởng nhớ nàng, chung tình không đổi thay. Mặt Cao Tiến lộ rõ vẻ ai sầu, ánh mắt gã nhìn nàng mang một ngụ ý rất khó đoán. Nó vừa luyến tiếc, vừa sợ hãi, vừa đam mê. Người thiếp thấy Cao Tiến ăn nói kỳ lạ, trong tay lại cầm hung khí, đột nhiên trong đầu thoáng qua ý nghĩ kinh hoàng. Nàng nhóm người dậy, nhưng tay chân đã bị trói chặt. Người thiếp giãy giụa mấy lần không sao thoát được, bèn hoảng hốt hỏi: – Chàng muốn làm gì thế? Cao Tiến lạnh lùng đáp: – Việc này ta cũng không muốn, chỉ là việc không thể không làm… Bấy giờ con dao của gã đã đặt lên bụng nàng, lưỡi dao sắc nhọn đến mức, chỉ khẽ chạm vào da thịt, máu đã tuôn chảy thành hàng. Người thiếp còn chưa hiểu chuyện gì xảy ra thì đã thấy Cao Tiến ấn tay, rạch một đường sắc ngọt, vết cắt sâu đến mấy phân. Người thiếp chưa cảm nhận được đau đớn, chỉ thấy thoáng chốc, bụng mình mát lạnh, rồi tất cả sự nặng nề mấy tháng thai sản mà gần đây nàng vốn đã quen thuộc vụt tan biến. Cơ thể nàng thoáng chốc nhẹ nhõm như thời con gái. Rồi cơm đau đớn quặn thắt ập đến. Nhưng người thiếp vẫn tỉnh táo. Nàng cảm thấy ướt át khắp cả thân thể. Nghiêng đầu nhìn xuống, qua làn nước mắt chứa chan, nàng mờ mờ thấy chăn gối đã nhuộm màu đỏ thắm. Cao Tiến đang cúi người, đôi tay mò mẫm trong bụng nàng. Nàng thậm chí có thể cảm thấy được mười ngón tay gã lạnh buốt. Kinh hãi, nàng muốn hét lên một tiếng thật lớn. Nào ngờ, sức lực của nàng đã cạn kiệt tự khi nào, thanh âm nghẹn lại trong cổ họng không sao thốt ra được. Nàng chỉ có thể rên khẽ mấy tiếng: – Chàng, chàng… Trong lúc còn chưa hiểu việc gì đang diễn ra, nàng nhìn thấy hai tay Cao Tiến cầm một vật từ trong bụng mình, thận trọng nhấc lên. Lúc này, một cơn đau dữ dội từ bụng khiến nàng không thở được. Nàng chết điếng khi nhìn thấy vật đó. Một hài nhi. Hài nhi nhỏ bé này, chỉ lớn hơn đôi bàn tay Cao Tiến đôi chút. Một sợi nhau nhỏ bé vẫn nối cơ thể nàng với nó. Đến tận bấy giờ người thiếp mới nhận ra việc Cao Tiến vừa làm. Cao Tiến đã mổ bụng nàng. Vừa hoảng loạn, vừa đau đớn, nàng vẫy vùng trong tuyệt vọng. Nhưng nàng càng giãy giụa, máu càng tràn ra nhiều. Khuôn mặt nàng nhanh chóng trở thành xám xanh, đôi môi mịn hồng hôm nào bây giờ khô khốc. Cơ mặt giật giật mấy hồi, nàng ngất lịm đi. Trong cơn mê man, nàng chợt cảm thấy như một thác nước đổ ập vào cơ thể mình, lạnh đến thấu tim gan. Thì ra Cao Tiến đã hắt nước lên mặt nàng. Trong cơn đau đớn, nàng vẫn nghe thấy tiếng gã: – Nàng phải tỉnh táo, nàng chưa thể đi được, chưa thể đi được. Hãy giúp ta, hãy giúp ta. Giọng Cao Tiến hơi run run, có lúc lại lạc đi, gã cũng đang trong con xúc động mạnh. Chờ cho người thiếp hơi tỉnh lại, Cao Tiến mới đưa dao cắt dây nhau. Gã đã làm xong bước thứ nhất: lấy thai nhi còn sống ra khỏi mình người mẹ. Thai phụ phải còn sống và tỉnh táo trong thời điểm cắt nhau, đó là bí quyết của thuật luyện này. Trên giường, thai phụ trợn mắt trừng trừng nhìn gã. Nàng co giật mấy đợt nữa rồi bất động. Mắt của nàng vẫn trợn trừng, vừa mang nỗi bàng hoàng, vừa ẩn chứa niềm kinh hãi, lại vừa tràn đầy căm hận. Cao Tiến không để ý đến ánh mắt đó. Gã đang ngắm hòn máu đỏ hỏn trên tay. Giữa hai chân bào thai này trồi ra một mẩu thịt nhỏ, đó là một đứa con trai. Bào thai này vừa được cắt nhau, cơ thể nhỏ bé đã có thể cử động. Bất ngờ, bào thai mở mắt trừng trừng, phần tròng đen chiếm gần hết con mắt, thành ra, ánh nhìn này trở nên cực kỳ quái dị. Cục thịt đỏ hon hỏn ấy lại cất tiếng khóc. Trong miệng hài nhi, răng đã mọc đủ tự bao giờ, chiếc nào chiếc nấy đều nhọn hoắt như răng mèo. Khuôn mặt bé xíu của hài nhi đầy vẻ ma quái. Cao Tiến nhìn thấy hàm răng nhọn lộ ra, lập tức mừng rỡ, hai tay run rẩy, miệng lẩm bẩm: – Quái thai, quái thai, thành công rồi, thành công rồi… Cao Tiến bấy lâu nay, cứ mỗi tuần trăng đều lén pha nước tiểu mèo vào nước cho người thiếp uống. Nước tiểu mèo vốn là thứ dễ gây quái thai cho sản phụ. Đó cũng là điều gã muốn. Bởi quái thai chết đi thường tạo ra quái vong. Cao Tiến thận trọng mang hài nhi, bước ra cửa, đi thẳng về phía bếp. Ở đây, gã đã nhóm sẵn một đống lửa từ khi nào, khói bốc lên mù mịt. Một giàn nứa đã được dựng lên, tạo thành tấm lưới chăng phía trên, cách xa ngọn lửa. Khói bốc lên từ ngọn lửa hun tấm lưới nứa từ màu trắng đục ngả sang đen. Cao Tiến đặt hài nhi lên tấm lưới nứa đó. Vì ở cách xa ngọn lửa, hài nhi không bị thiêu đốt mà chỉ bị khói hun dữ dội. Trong chốc lát, cơ thể đỏ hỏn đã bị hun đen đúa. Ban đầu hài nhi còn có thể giãy giụa, nhưng về sau nó chỉ cử động yếu ớt. Cuối cùng, nó ưỡn người lên một lần rồi bất động. Đoạn, Cao Tiến lại đặt lên trên hài nhi một cái thẻ bằng tre. Đây chính là loại bùa có tác dụng giam hãm linh hồn hài nhi trong chính thể xác đen đúa kia. Xong việc, Cao Tiến đứng nhìn ngọn lửa. Sáng hôm sau, Cao Tiến mang người thiếp yêu đi chôn cất, trong lòng cũng có đôi chút thương tâm. Một tháng sau, Cao Tiến đã luyện thành “bùa hài nhi”. HỒI THỨ NHẤT NGHIỆP HẦU MA Vào thời Lê Trung Hưng, những năm Cảnh Hưng, tại trấn Sơn Tây, phủ Tam Đái, ở thôn Thượng có nhà họ Phạm Đình lừng lẫy khắp nơi với nghề khâm liệm. Từ xưa đến nay, chẳng mấy ai coi khâm liệm là một nghề, bởi ngẫm lại, khâm liệm chỉ là cái việc lau rửa và đưa người đã khuất vào quan tài. Kể ra thì ở các làng xã cũng có những người hay được gọi mỗi khi có người chết, nhưng đó chỉ là làm thêm. Công việc chính của họ vẫn là trồng lúa, đánh cá hay đốn củi như người thường, khác chăng là họ có can đảm dám tiếp cận với tử thi mà thôi. Về cơ bản họ vẫn không thể lấy công việc đó mà nuôi sống gia đình và bản thân. Vậy nên chỉ gọi khâm liệm là việc, không gọi là nghề, càng chưa thấy ai dùng từ “nghiệp”. Bởi vậy, bảo rằng họ Phạm chuyên nghề khâm liệm có hơi quá chăng? Nhưng người ta có cái lý khi nói như thế, là vì họ Phạm khác biệt với những người làm khâm liệm thông thường. Họ Phạm không những sống nhờ vào việc hầu ma, mà còn sống dư dả. Hơn thế, cái nghề này vận vào gia tộc họ mà trở thành nghiệp, có muốn tránh cũng không được. Dòng họ Phạm đã làm nghề này được nhiều đời. Dân làng vẫn truyền tai nhau rằng cách đây tám đời, họ Phạm có một người tên là Phạm Đình Phong, chính là tổ nghiệp. Phong người nhỏ bé, gầy gò, lại vốn có bệnh hen suyễn từ nhỏ nên yếu ớt, đã vài lần tưởng như không thể chống đỡ được những cơn ho hen kéo dài, gia đình chỉ còn biết chờ quấn chiếu đem đi. Thuốc thang chạy chữa nhiều mà sức khỏe Phong cũng không khá lên là bao. Phong sống lay lắt, nhưng không chết, và người thôn Thương coi đó như một kỳ tích. Phong vốn ốm yếu nên làm nông không nổi, mà buôn bán thì nhà không có vốn, cha mẹ Phong rất buồn phiền vì nghĩ khi mình trăm tuổi không biết Phong sẽ sống ra sao. Việc mưu sinh đã khó, tất nhiên họ càng không dám màng tới việc lấy vợ sinh con của Phong. Hai vợ chồng nghĩ đến chuyện sau này của con mà lo ứa nước mắt. Họ ngày đêm cực nhọc làm lụng dành dụm cho con có chút vốn giắt lưng. Ngoài những việc đồng áng, họ còn làm thuê cho thiên hạ, ai nhờ gì làm nấy, nắng mưa không quản, khó nhọc không chùn. Cái đạo lý “nước mắt chảy xuôi” ấy âu cũng là điều dễ hiểu. Dân làng thấy hoàn cảnh như vậy rất thương, có việc gì cần lại gọi hai vợ chồng, thỉnh thoảng giúp đỡ thêm chút gạo, khoai, tôm, tép. Nhưng ở Phong có điều lạ lùng. Khi Phong lên năm, cứ mỗi lần mẹ Phong đi gánh phân tưới mảnh vườn sau nhà thì Phong lại đòi đi theo. Ban đầu mẹ Phong thấy vui vì có con đi cùng. Nhưng có hôm trời nực quá, thương con, mẹ bắt Phong ở nhà. Phong khóc toáng lên như đứa trẻ bị cướp mất kẹo, miệng kêu: – Cứt, thơm! Mẹ lấy làm lạ, bèn hỏi cho ra nhẽ, thì Phong nói là phân có mùi thơm, muốn đi theo để ngửi cho thỏa. Mẹ Phong nghĩ là con nói đùa, khi chồng về bà đem chuyện này nói lại. Cha Phong tức giận vô cùng, nghĩ con mình thích đi chơi mà không được đi nên mới ăn nói lung tung, bèn nọc ra đánh một trận. Một lần khác, trong nhà Phong có mùi hôi thối bốc lên nồng nặc, tìm mãi không biết từ đâu. Qua vài ngày sau, cha mẹ Phong mới biết là Phong đem con chuột chết gói vào trong lá chuối, giấu dưới gầm giường. Lúc lôi ra xác chuột đã trương phềnh lên, dòi bọ lúc nhúc. Hai vợ chồng bấy giờ mới cả kinh, tin rằng chuyện con mình có dị tính là thật. Cha mẹ Phong giấu kín không dám nói việc này với ai vì sợ dân làng biết được sẽ coi là Phong bị ma ám, có khi còn bị đuổi khỏi làng. Kể từ khi ấy, họ nơm nớp lo sợ, tuyệt đối không để Phong tiếp xúc với những thứ ô uế, đến nhà tiêu cũng phải làm thật xa, mỗi khi Phong đi tiểu đi tiêu đều có người kèm. Có điều, càng ngày cậu bé dường như càng không cưỡng lại được mùi hôi thối. Đối với Phong, chúng mê hoặc giống như á phiện. Cứ thấy ở đâu có mùi hôi là Phong lại nán lại nơi đó mãi không thôi. Chuyện này kéo dài đến khi Phong mười ba tuổi. Năm đó đê sông Thao vỡ, làng có lũ lớn, người chết đuối nhiều không kể xiết. Nhà Phong may mắn thoát nạn. Khi lũ rút đi, xác người và động vật la liệt khắp nơi. Qua mấy ngày ngâm trong nước, những cái xác này bắt đầu bốc mùi thối kinh người. Xem tình cảnh này, chỉ có Phong là thích thú. Không chỉ riêng làng ấy mà rất nhiều làng, xã khác nơi con sông Thao chảy qua đều bị lụt to. Quan trấn ty lo sợ dịch bệnh bùng phát, truyền lệnh hỏa tốc xuống tận các xã, hạn trong ba ngày các xã trưởng phải lo xong việc chôn cất xác chết, nếu không làm kịp sẽ bị khép tội nặng. Trong số các xã trưởng tại huyện Tam Dương có một người tên là Trần Đan Tốn. Cha ông sang xã bên từ trước hôm xảy ra lũ lụt và rồi mất tích luôn. Ông Tốn chắc mười mươi rằng cha mình đã chết trong trận lũ. Vốn là người con có hiếu, ông cho người nhà lùng tìm xác cha khắp nơi suốt mấy ngày mà không sao tìm ra. Thương cha, ông Tốn buồn rầu lo âu đến mất ăn mất ngủ. Sau khi xác chết được các xã chôn cất đâu vào đấy, ông Tốn vẫn có chủ ý tìm kiếm thi thể cha. Khoảng nửa tháng sau, có tin rằng cụ nhà bị nước cuốn trôi xuống mãi tận thôn Thượng. Ông đến tận nơi xem thực hư, hỏi han những người chôn cất. Nghe họ tả hình dáng béo mập dị thường của tử thi, ông Tốn biết đó đích thị là cụ nhà. Ông thương lắm, vật vã khóc bên mộ một lúc lâu. Khi ông toan quay về, định bụng sau ba năm nữa quay lại cải táng cụ thì có người ngăn lại. Người này vốn là thầy phong thủy, sau khi nhìn quanh khu đất, thầy chỉ vào mộ phần mà nói với ông Tốn rằng: – Cụ nhà được chôn nơi đồng không mông quạnh thế này thì làm sao mà tàng phong? Mạch nước cuồn cuộn mà thẳng thế kia, thì làm sao mà tụ khí? Huyệt táng vào nơi này, chỉ e rằng sau ba năm, ông không còn mạng mà quay lại thay áo cho cụ. Ông Tốn giật mình hỏi phải làm sao. Thầy đáp: – Lập tức đưa về chôn cất tại nơi khác. Ông Tốn lại hỏi: – Chôn xuống rồi, lẽ nào lại đưa lên? Đó chẳng phải đại kỵ sao? Thầy đáp: – Phép đó thì tôi hóa giải được, chỉ xin ông tin tôi, tôi ắt có cách. Ông Tốn nghe theo. Bèn bàn định tìm đất chôn mới, xong xuôi đâu đấy mới sai người chuẩn bị quan tài, tính chuyện quật mộ lên. Nhưng vốn dĩ nói thì dễ mà làm thì khó. Ông Tốn vốn định cậy người làm khâm liệm, bốc mộ trong làng giúp cho. Nào ngờ gã cũng đã mất mạng trong trận lụt vừa rồi, lại thêm việc quật mộ vốn là đại kỵ, mặc dù chủ nhà đồng ý nhưng chẳng ai dám làm. Ở đây ông Tốn chỉ có vài người bà con. Vừa nghe đến chuyện đào mồ, ai cũng lắc đầu quầy quậy. Họ hàng còn như thế, người ngoài làm sao chịu đứng ra cáng đáng? Ông Tốn treo thưởng rất cao, tìm mãi mới được ba người ăn mày bần cùng chịu giúp. Đêm đó, ông Tốn thắp hương, làm lễ, khấn vái đâu đấy, đợi đến giờ đẹp mới ra lệnh đào mộ. Người làng hay tin, kéo đến xem rất đông. Bởi vì, một là mộ chôn vội nên sơ sài và khá nông, hai là lụt vừa rút đi, đất còn nhão cho nên ba người ăn mày chỉ đào một lúc đã thấy manh chiếu rách lộ ra. Ông Tốn vừa nhìn thấy manh chiếu rách thì xót xa khóc lớn. Nào ngờ bỗng nghe “bụp” một tiếng. Tiếp đến, một mùi thối khủng khiếp bốc lên khiến người xem đứng xung quanh đều tối tăm mặt mũi. Một số người không chịu nổi phải gập người nôn ọe. Nguyên là xác cụ nhà ông Tốn vốn đã chết được đến nửa tháng, không thể tránh khỏi chuyện rữa nát, trương phềnh. Người chết vốn có thể hình to béo dị thường, thịt ít mỡ nhiều, vùng bụng người bình thường chết đi trương lên một phần thì cụ nhà ông Tốn phải trương to đến ba bốn phần. Những người ăn mày vốn được dặn dò cẩn thận để không cuốc vào tử thi, nhưng họ mới làm việc này lần đầu, tay chân luống cuống run rẩy, làm sao không sơ suất cho được. Vừa rồi một người ăn mày hạ cuốc sâu quá, trúng ngay bụng tử thi, khiến ổ bụng vỡ nát, nội tạng tung tóe nhầy nhụa bắn cả lên người mấy gã ăn mày. Ba người ăn mày thấy thế kinh hãi quá, vứt cuốc bỏ chạy một mạch. Người làng sợ quá cũng bỏ về, ai gan lì lắm mới dám đứng lại xem, nhưng chỉ đứng từ rất xa. Cuối cùng, chỉ có ông Tốn với ông thầy phong thủy đứng trở lại bên mộ. Dù là người thân nhưng ông Tốn cũng phải đứng cách xa đến mười trượng mới tránh được con nôn mửa đang chực dâng lên nơi cổ họng. Nói đến chuyện tự mình khâm liệm cho bố, e rằng quá sức ông. Thường thì người ta không sợ hãi khi ở cạnh thi thể người ruột thịt vì tin rằng vong của người ruột thịt không bao giờ làm hại mình. Ông Tốn cũng không sợ, mà đơn giản là không thể chịu nổi cái mùi khủng khiếp bốc lên từ thi thể cụ thân sinh. Mấy lần ông Tốn nhắm mắt muốn tiến lên nhưng đều không cất nổi bước nào. Ông lo lắng thắt ruột vì tình huống này không thể chần chừ được lâu, nếu để đến gà gáy, tử thi lộ dương thì tai hại thật không kể xiết. Đang lúc gay go ấy thì Phong đến. Nguyên là chuyện quật mộ này cả làng đều biết, duy chỉ có cha mẹ Phong giấu biệt không cho Phong hay, sợ cậu ngửi thấy mùi thối lại kích động, lộ ra dị tính thì không tránh khỏi bị làng nước hắt hủi. Về sau, mùi bốc lên nồng nặc cả một vùng rộng lớn, không thể qua được mũi Phong. Mùi thối càng nặng, cậu bé càng bị hấp dẫn, ý muốn đến gần nơi có mùi càng thôi thúc. Cậu chờ cha mẹ ngủ say rồi lẻn ra ngoài, vì thế lúc này mọi người mới thấy cậu bé ở đó. Khi ấy Phong tiến đến cách mộ có một trượng, mắt chăm chăm nhìn xác chết mà chẳng hề có dấu hiệu gì kinh tởm. Ông Tốn thấy thế, gọi cậu đến trước mặt rồi quỳ sụp xuống dưới chân cậu bé, van vỉ: – Cậu bé ơi, hãy giúp chôn cha tôi, tôi xin trả ơn hậu hĩ. Phong không hiểu sao người này lại làm vậy, liền hỏi lại: – Ông bảo gì cháu ạ? Ông Tốn thấy cậu bé ngây thơ thì cũng yên dạ phần nào, lúc này ông đã bớt kích động, không van xin nữa mà chuyển sang dỗ ngọt: – Cháu giúp ta đưa cụ nhà vào quan, ta cho cháu rất nhiều tiền, tha hồ mua kẹo. Phong hồn nhiên đáp: – Cháu không cần tiền, nhưng ông cần gì, cháu sẽ giúp ông. Ông Tốn mừng hơn bắt được vàng. Bèn quay sang nói với thầy đang đứng cạnh, bảo thầy hướng dẫn cậu cách khâm liệm. Thầy thấy thằng bé liệu chừng không làm nổi việc mang vác tử thi, nhưng ngoài nó ra, không ai dám đến gần mộ. Ông nghĩ hồi lâu, cuối cùng tìm ra một cách. Thầy nhờ người mang lại một tấm vải và một tấm ván lớn, dặn cậu bé đặt một tấm bùa vào trán người chết rồi luồn tấm vải qua lưng xác chết, quấn xác lại thật chặt. Sau đó, ông dặn cậu đặt tấm ván bên huyệt, một cạnh kề vào xác chết, cạnh kia kê lên miệng quan tài đã chuẩn bị sẵn. Kế đến, ông bảo cậu bé luồn năm cái dây qua xác chết, đóng mấy cái cọc cố định một đầu dây lại… tất cả các chi tiết nhỏ nhặt nhất đều được ông thầy dặn rất kỹ lưỡng, rành rọt. Sau đó ông bắt cậu bé nhắc lại. Cậu bé nghe vài lần mới nhớ hết. Phong sức yếu, vừa làm vừa thở hổn hển, phải mất mấy canh giờ mới xong chuyện thầy giao. Khi được tấm vải quấn quanh, mùi thối từ xác chết đã giảm bớt rất nhiều, ông thầy nhờ năm người thanh niên kéo các đầu dây. Dây vừa được kéo, cái thây lăn hai vòng trên tấm ván rồi chui vào quan tài. Ông thầy đã tính kỹ việc cái xác lăn thế nào để khi rơi vào quan tài thì vừa vặn nằm ngửa mặt lên, âu cũng là sự sắp xếp rất tài tình. Sau đó, ông cho đậy nắp áo quan lại, đóng chặt đinh, yểm đủ sáu tấm bùa lên sáu mặt quan tài rồi cho khiêng lên xe. Công việc vừa xong thì gà gáy. Ông Tốn và ông thầy nhìn nhau thở phào nhẹ nhõm. Riêng ông Tốn có phần xấu hổ vì không dám động vào thi thể bố. Nhưng ông nghĩ lại, thấy trời còn thương mình. Những người xem thấy mọi việc xong xuôi thì cũng vui chung với gia chủ, hoan hô ầm ĩ. Ông Tốn đi về phía Phong, lúc này cậu mệt quá đã ngồi bệt xuống đất. Ông cầm lấy tay Phong, run run xúc động: – Cảm ơn cháu, cảm ơn cháu… Nói được đến đó, đã nghe tiếng ông thầy giục, ông Tốn liền ra lệnh chở quan về nhà, chuẩn bị việc mai táng. Đoàn người đi không ngừng nghỉ, đến tối về đến nhà thì thấy trong nhà báo tin vui rằng ông Tốn được thăng quan, trát xuống từ sáng sớm, tính ra, chính là lúc vừa yểm xong mấy tấm bùa lên quan tài. Ông Tốn cả mừng, không ngờ trong một ngày lại làm được hai chuyện lớn, mà đều suôn sẻ thành công cả. Chỉ mấy ngày sau, câu chuyện đã đồn ra khắp cả trấn, ai cũng lấy làm kỳ lạ. Mọi người lại thêm mắm thêm muối vào khiến cho chuyện càng thêm ly kỳ. Ví như có người nói cậu bé chính là cụ cố nhập vào để tự liệm mình, có người lại nói thằng bé có bản năng thiên phú trong việc khâm liệm, có người lại nói ai mà được cậu bé khâm liệm cho thì dòng họ sẽ phát đạt, giàu có, thăng quan phát tài… Các tin đồn vốn lan đi rất nhanh, nhất là khi có chứng cứ rõ ràng, bao nhiêu người đều nhìn thấy tận mắt. Chuyện thăng quan là thật, Phong là thật, cái xác là thật, cho nên ai cũng tin. Tiện thể người ta tin luôn cả những mắm muối được thêm vào. Mẹ Phong ban đầu biết chuyện thì ngất xỉu tại trận. Bà tưởng mọi người đã biết chuyện con mình ưa mùi tanh hôi, sốc quá mà ngất lịm. Hai vợ chồng suy đi tính lại, thấy con mình rõ ràng là làm việc tốt, cũng không nỡ trách mắng. Nhưng họ lo ngay ngáy miệng lưỡi thế gian độc địa, vụ cho con mình bị ma ám, quỷ nhập thì chẳng còn đường sống. Nào ngờ, chẳng ai nghĩ đến chuyện cậu bé tại sao chịu được mùi hôi, mà chỉ khen cậu dũng cảm giúp người. Ngay sau khi an táng cho xong xuôi, ông Tốn bèn đích thân mang hậu lễ gồm có vàng, bạc, trâu, bò, vải vóc sang nhà Phong. Ông thấy nhà Phong xiêu vẹo ọp ẹp quá, lại mua gỗ, thuê thợ khéo làm một căn nhà lớn. Chẳng những thế, biết cha mẹ Phong lo con mình sau này ốm yếu không có tương lai, ông liền mua mấy khoảnh ruộng tốt để tạ ơn ân nhân. Từ đó nhà Phong trở thành khá giả trong làng. Lại nói, người chuyên làm việc khâm liệm của thôn Thượng trước đây đã chết trong trận lụt, cho nên làng bị khuyết mất chân này. Về sau, quanh làng nhà ai có việc hiếu lại đến nhờ cậu bé mát tay khâm liệm giúp. Phong bản tính ngây thơ, chất phác, cơ bản là người tốt, cũng không nề hà gì chuyện giúp đỡ mọi người. Dần dà, không chỉ trong làng, trong xã, mà đến huyện, đến trấn, ai cũng biết tiếng Phong. Qua biến cố này, Phong có cái nghề trong tay, sự nghiệp hầu ma ngày càng nổi trội. Nghề này về sau được truyền lại cho con cháu. Phạm Đình Phong được coi là tổ nghề khâm liệm dòng họ Phạm Đình. Trải qua mấy trăm năm, nhà họ Phạm Đình đã gây dựng được tiếng tăm lừng lẫy đồng thời cũng là dòng họ duy nhất chuyên làm nghề này. Đến thời Lê Trung Hưng, uy tín họ Phạm Đình rất cao, đến nỗi nhà chúa cũng biết tiếng, mấy lần sai bộ Lễ mời về làm quan nhưng họ đều từ chối. Tuy thế, mỗi khi triều đình có việc trọng hiếu nhờ đến họ Phạm khâm liệm, họ Phạm đều không nề hà. Tính ra họ Phạm đã ba lần khâm liệm vua, bốn lần khâm liệm chúa. Phàm là các quan từ tam phẩm trở lên, hầu như ai cũng cố gắng để được họ Phạm khâm liệm. Dòng họ này ngày càng giàu có nhờ nghiệp ấy. Về cơ bản, cái nghề khâm liệm này chỉ có một việc là đưa người chết vào trong quan tài. Nhưng quan niệm dân gian cực kỳ coi trọng chuyện sống chết, cho nên trong việc tang ma, có rất nhiều những quy củ cần phải nghiêm ngặt tuân thủ, chỉ cần sơ sẩy một chút thì linh hồn người chết sẽ không thể siêu thoát mà đầu thai được. Thông thường, khi có người chết đi, cần phải tắm rửa sạch sẽ cho người chết, cắt móng tay móng chân cẩn thận, nhưng phải gói chỗ móng tay này lại để sau đem chôn cùng. Nếu là người già mất đi thì phải được vuốt mắt rồi thay quần áo mới. Người ta lại bỏ cả gạo sống và tiền vào miệng người đã khuất, dùng làm thức ăn và lệ phí trên đường sang cõi khác. Kế đến, người ta dùng đũa ngáng miệng người chết, phủ một tờ giấy hoặc mảnh vải trắng lên mặt, rồi buông màn thắp đèn đặt cạnh giường. Sau đó là lập một bàn thờ có bài vị của người chết. Bấy giờ, người ta mới bắt đầu khâm liệm, dùng vải trắng cuốn thi thể người chết lại, không được để hở chỗ nào. Sau đó người chết được đặt vào quan tài, chân hướng ra ngoài cửa, gáy gối lên hai chiếc bát ăn cơm. Người ta còn bỏ thêm một bộ tổ tôm thiếu quân bát sách vào trong quan tài. Quan tài khi ấy được đặt ở nơi trang trọng nhất của ngôi nhà. Lúc khâm liệm như thế phải có thầy cúng làm lễ. Trên quan tài được thắp nến, nam bảy ngọn, nữ chín ngọn, giữa mặt ván nắp đặt một bát cơm đầy, trên có một quả trứng gà kẹp giữa đôi đũa bông. Những việc vừa nêu trên đây, càng kể chi tiết càng thấy chưa đủ. Nhưng người nhà họ Phạm vốn khâm liệm theo một cách riêng. Trong quá trình khâm liệm, học thêm vào năm lễ nhỏ gọi là “nhập quan ngũ lễ”, trong đó bao gồm lễ “phong nhãn”, lễ “hộ cốt”, lễ “thông lộ”, lễ “tịnh xú”, lễ “tiêu nhục”. Năm lễ này về cơ bản là giúp cho vong hồn người mới mất tránh được những nặng nề hoảng hốt khi thân thể lìa trần. Lễ phong nhãn để giúp vong tránh được thảm cảnh thấy cơ thể mình biến dạng phân hủy. Để làm lễ này người ta vuốt lên mắt người chết mỗi bên chín lần, niệm chú “Hướng thiên Vọng nguyệt”. Lễ hộ cốt thực ra rất đơn giản, chỉ là bọc quanh quan tài một lớp dược liệu cay, khi áo quan bị phân hủy, dược liệu này tan vào đất, khiến cho cá trê, chuột đồng hay các loại động vật khác sợ cay mà không dám đến “húc mả”. Lễ này không có chú. Dược liệu này bí truyền, chỉ có họ Phạm nắm được. Điểm đặc biệt là dược liệu chỉ có tác dụng với các động vật phá hoại mộ phần, đối với các loài vật được coi là linh vật như rắn vàng thì dược liệu không có tác dụng xua đuổi. Lễ thông lộ giúp cho vong hồn người đã khuất nhẹ nhàng hơn, di chuyển dễ dàng hơn. Khi thực hiện lễ thông lộ này, người ta dán hai tấm bùa nơi chân tử thi, niệm chú “Thiên lý đằng vân”. Lễ tịnh xá có lẽ là lễ kinh khủng nhất mà không kẻ khâm liệm nào khác ngoài người nhà họ Phạm dám làm. Lễ này thực ra là nhằm loại bỏ phân của người chết ra khỏi cơ thể để tránh những thứ xú uế còn lưu lại trong tử thi. Lễ này có lẽ ngoài cụ tổ Phạm Đình Phong ra, chắc con cháu đời sau theo lệ mà làm chứ không thích thú gì. Làm lễ này mà còn phải nhẩm chú thì quả là cực hình, cho nên lễ này không có chú. Người liệm dùng một dụng cụ đặc biệt hình ống lấy phân người đã khuất ra ngoài. Lễ tiêu nhục là lễ giúp cho thân thể phân hủy để quá trình cải táng thuận lợi hơn. Lễ này không thực hiện khi khâm liệm mà thực hiện khi hạ huyệt. Cũng giống như lễ hộ cốt, họ Phạm dùng dược liệu rải xuống huyệt trước khi đưa quan xuống, rồi niệm chú “Hoang địa bạch cốt”. Thuật này cao thâm ở chỗ nếu có hiện tượng tơ hồng khi chôn nơi đất kết thì đất xung quanh chuyển màu đỏ gạch, nếu huyệt khô ráo, nước đóng giọt thì đất xung quanh chuyển màu vàng. Nhờ vào màu sắc này có thể dự đoán tình trạng mộ phần phía dưới, nếu thuận lợi thì không phải cải táng. Năm lễ trên là năm lễ bắt buộc, đám nào cũng phải thực hiện. Ngoài ra, họ Phạm còn phát triển nhiều thuật khác cao thâm hơn, ví như thuật tính thời gian sập ván. Sập ván là khi quan tài mục nát, đất phía trên sụt xuống, nhà họ Phạm cũng có thể tính được thời điểm này dựa vào chất gỗ và chất đất. Thuật tính này rất phức tạp, áo quan làm từ các loại gỗ khác nhau như gỗ vàng tâm, gỗ ngọc am, có bề dày khác nhau thì thời gian sập ván khác nhau. Quan tài nhiều vùng lại có thể là tổ hợp của nhiều lớp gỗ khác nhau, đặt trên vô số loại đất khác nhau như đất đồi, đất sông, đất thượng du, đất đá… Cho nên khó mà biết trước được thời gian sập ván. Thuật tính sập ván vào thời điểm bấy giờ không ai làm được ngoài nhà họ Phạm. Trong nhiều trường hợp, các yêu cầu của gia chủ cũng rất khác nhau, ví dụ như có người chết không toàn thây, nay tìm được đủ các phần thân thể về trong một quan nhưng vẫn lo ngại vong linh không toàn thây đau đớn cùng cực, lại phải nhờ đến thuật “hợp thi”. Ngoài ra còn có vô số các thuật khác như sản phụ sinh con mà chết thì phải làm thế nào để vong hồn thôi quẩn quanh tưởng nhớ con khiến cho đứa trẻ sợ hãi mà vong cũng khó siêu thoát. Hoặc là khi có hiện tượng quỷ nhập tràng thì phải khâm liệm ra sao… Bao nhiêu thuật khâm liệm mà gia tộc họ Phạm mất mấy đời, trước sau hết mấy trăm năm mới tạo dựng nên, muốn kể ra cho hết e là quá cuồng vọng. Tuy nhiên, thuật quan trọng nhất của nhà họ Phạm được gọi là “liệm thuật”, dân gian vẫn gọi đơn giản là thuật “quấn xác”. Bao giờ họ Phạm cũng khâm liệm cho người chết bằng cách dùng vải trắng quấn quanh xác chết, lớp băng sau chồng lên lớp băng trước đúng bằng một phần ba chiều rộng bằng vải, sau đó mới đưa vào áo quan. Điều này tạo nên nét đặc biệt cho các thi thể được họ khâm liệm. Thuật này lại được phân ra làm nhiều phân thuật khác nhau như kiểu quấn từ trên xuống gọi là “thuận hành liệm thuật”, hay từ dưới lên trên gọi là “nghịch hành liệm thuật”. Nếu có đặt tiền vàng cùng tử thi trước khi quấn vải thì gọi là “giáp đồng nghịch hành liệm thuật” hoặc “giáp đồng thuận hành liệm thuật”. Có trường hợp vải phủ lên mắt người đã khuất, gọi là “khuất hải”, có khi lại thấy người liệm chừa ra ngón chân cái, gọi là “khai sơn”. Tên gọi các từ đó cũng dài ra theo từng cách liệm cụ thể mà cũng không mấy ai hiểu được ý nghĩa của chúng. Người ta khác nhau, cách quấn như vậy chính là một loại bùa chú tùy vào trường hợp khác nhau, bát tự khác nhau mà tiến hành. Tương truyền liệm thuật chính là một tuyệt học về huyền thuật của đất Đại Nam. Lại nói, họ Phạm không những là người khâm liệm trực tiếp mà dần dà trở người tổ chức đám tang một cách cực kỳ quy củ. Chẳng những không bao giờ người nhà họ Phạm phạm phải những điều cấm kỵ trong nghề, mà còn có thể giúp cho tang chủ trong những lễ như phục hồn, phát tang, phúng viếng, tế vong, quay cữu, cúng cơm, cất đám, hạ huyệt, rước vong… Dân gian vốn có câu “ma chê cưới trách” cũng một phần vì những điều cấm kỵ trong tang ma nhiều không kể xiết. Ví như nếu trẻ con dưới mười sáu tuổi chết đi, thì mẹ không được đưa tang, mà đám tang phải diễn ra vào chiều tối. Hoặc giả như những người chết ở ngoài nhà, như chết đuối, tai nạn, thì kiêng không được mang xác vào nhà mà làm đám ở nhà kho hay sân đình, rồi thì trùng tang, cưới chạy… Vì nhà họ Phạm làm nghề lâu đời nên những chuyện như vậy họ rất thông thạo, có thể giúp gia chủ tránh được trong lúc bối rối. Có một lời đồn làm cho nhà họ Phạm nổi danh như cồn, ấy là phàm những ai được họ khâm liệm thì con cháu về sau đều tốt lành cả, nhiều thì làm ăn phát đạt, thăng quan phát tài, ít thì mùa màng bội thu, tiền bạc dư dả, cơm no gạo nhiều. Dân gian đều tin đây chính là nhờ vào liệm thuật của họ Phạm. Thế nên, ai ai cũng muốn được người họ Phạm ra tay mỗi khi có việc tang ma. Nhà ấy trước sau ăn ở với làng xóm như bát nước đầy. Họ Phạm có tiền của cũng đem cúng cho làng rất nhiều, từ mua gạch lát đường, mời thầy mở lớp học chữ, đến cất đình, dựng điếm canh đê… Bất cứ việc gì làng cần đến tiền bạc, họ Phạm đều lo chu đáo cả. Lại thêm nhà ấy rất rộng rãi với bà con làng xóm, chuyện họ giúp người ta đóng thuế, cho vay không lấy lãi, hay đứng ra chôn cất người thân giúp những gia đình quá túng bấn chẳng có gì là lạ lẫm. Ai nhắc đến nhà họ Phạm cũng phải khen là rộng rãi, đức độ. Tiếng tốt về nhà họ Phạm vì thế ngày càng lan xa. Có điều, cái nghề cận kề với cái chết của họ Phạm không khỏi làm người ta cảm thấy ghê sợ. Gia đình này lại có những điều kỳ dị mà ai cũng có thể thấy, đó là qua tám đời, đời nào dòng Phạm Đình cũng chỉ sinh con độc đinh. Chỉ một con trai, không hơn. Dù đàn ông nhà ấy đủ tiền cưới vài vợ lẽ, nhưng kết cục qua tám đời vẫn là một cha một con, không hề có ngoại lệ nào. Phạm Đình Phong, ông tổ khai nghiệp, cơ thể vốn gầy gò, ốm yếu như thế, cho nên ngay cả khi lấy vợ cũng không thể sinh hạ được con cái. Thành ra mặc dù ngày càng khá giả nhưng gia đình vẫn không hạnh phúc, bởi ngẫm cho cùng thì tiền bạc có tích lũy nhiều đến mấy mà không có mụn con vui cửa vui nhà, và sau này không có người lo ma chay, thờ cúng thì cũng là không trọn vẹn. Phạm Đình Phong từ lâu đã nhận một đứa bé trai về làm con nuôi, ở nhà gọi là thằng Đen. Ai cũng đinh ninh rằng, đến hết đời Phong gia sản sẽ truyền cho đứa nhỏ này. Nào ngờ, đến năm Phong năm mươi tuổi, người ta thấy trong nhà Phong có tiếng trẻ con khóc. Chẳng thấy vợ Phong mang bầu, vậy thì đứa trẻ này ở đâu ra? Phong mở một bữa tiệc lớn, mời bà con họ hàng trong làng lại, tuyên bố nhận thêm một đứa bé trai con của một người ăn mày làm con nuôi, để sau này có thêm người thờ phụng, hương khói. Bà con đều chúc mừng cho Phong, nói con nào mà chẳng là con. Nhưng ai cũng lấy làm hoài nghi. Phong đã nhận thằng Đẻn làm con nuôi, cần gì phải nhận thêm nữa? Vả lại, nếu nhận con nuôi thì nhận cho sớm, chứ ai lại để đến cái tuổi xế chiều này, vừa vất vả mà đứa trẻ cũng có thể trở nên côi cút khi nào không hay. Điều quan trọng nhất là đứa bé giống Phong như đúc, từ đôi mắt, cái mũi đến cặp lông mày. Phải chăng Phong có con bên ngoài với người đàn bà khác? Nếu đúng vậy thì người làng cũng thông cảm bởi vợ chồng Phong hiếm muộn, song le, có người trong làng kể lại một chuyện dị thường khiến ai cũng giật mình thon thót. Đó là trước khi Phong nhận đứa trẻ này, hắn có khâm liệm cho một cô gái chết đuối, cô gái này tuổi mới mười sáu. Buổi tối hôm ấy, người hàng xóm bên cạnh nhà Phong nghe có tiếng chó sủa rất dữ. Nghĩ là có trộm, gã bèn một tay cầm gậy, một tay mở cửa, ra ngoài xem xét. Người hàng xóm nhìn quanh, thấy khoảnh sân vắng tanh không một bóng người, chỉ thấy chó nhà mình cứ chực hướng nhà Phong mà sủa. Chẳng riêng nhà gã mà chó các nhà xung quanh cũng lồng lộn sủa rất dữ. Người hàng xóm thấy lạ liền hướng mắt nhìn sang sân nhà Phong. Hàng rào giữa hai nhà chỉ là hàng cây râm bụt cao chưa quá đầu người, bình thường nhìn sang có thể thấy rõ cổng nhà bên, nhưng hôm ấy mùng một, trời đất tối đen. Người hàng xóm xem xét một lúc rồi nghĩ thầm: – Tối thế này, có thắp đèn cũng khó mà trông sang được nhà bên ấy. Thôi thì thân ai người nấy lo. Gã đang định đóng cửa vào ngủ tiếp thì chợt thấy thấp thoáng trước cửa nhà Phong có một bóng người. Người này rõ ràng là một cô gái mặc áo trắng toát từ đầu đến chân. Kỳ lạ ở chỗ, người con gái này dường như tự phát sáng trong đêm, thứ ánh sáng lờ mờ như của đom đóm. Nhờ ánh sáng ấy, từ xa cũng có thể thấy được vẻ mặt vô hồn của thị. Mái tóc thị ướt sũng như người vừa gội đầu. Gã hàng xóm tái mặt, nhận ra mình có biết người con gái kia. Đó chính là cô gái chết đuối! Người hàng xóm sợ quá, đóng vội cửa lại, chui lên giường trùm chăn trốn kỹ. Trước khi cửa khép chặt, gã vẫn kịp nhìn thấy một bóng đen từ trong nhà đi ra. Sau đó, gã còn quả quyết rằng bóng đen kia không ai khác, chính là Phạm Đình Phong. Tính từ khi người hàng xóm thấy cái bóng ấy, đến khi nhà Phong có đứa trẻ kia là chín tháng có lẻ. Bởi vậy nên trong làng đồn rằng Phong đã ăn nằm với hồn ma kia, rồi đến ngày đến tháng đứa trẻ ra đời thì hồn ma kia đem trả lại Phong. Thế là tin đồn Phong lấy vợ ma lan ra khắp nơi, khiến cho mọi người dù vì nể vẫn lảng tránh nhà họ Phạm, đứa trẻ lớn lên cũng không bao giờ có bạn, vì ai nấy đều sợ hãi không cho con cái chơi với con của mẹ ma. Trải qua nhiều đời, đời nào cũng vậy, người nhà họ Phạm cứ đến năm mươi tuổi mới sinh được con trai, mà đều đột ngột, không thấy con dâu nhà ấy mang thai bao giờ. Thành ra mọi người lại càng tin rằng những đứa con nhà họ Phạm là con của người với ma. HỒI THỨ HAI HỌ TRẦN TRÙNG TANG HỌ PHẠM NGHIỆP TÀN Mọi người đồn rằng, nhà họ Phạm chịu một lời nguyền. Lời nguyền này xuất phát từ việc họ Phạm giao phối với ma để tạo ra người nối dõi. Điều ấy là trái với đạo âm dương của trời đất. Bởi vậy cho nên họ Phạm phải chịu cái nợ kiếp kiếp làm nghề hầu ma. Chẳng những thế, bất cứ ai nhờ họ Phạm giúp, người nhà ấy đều phải nhận lời, không thể từ chối. Lại nói, cụ tổ Phạm Đình Phong khi sinh được đứa con nối dõi liền cho chặt hết hàng rào râm bụt, thay bằng cọc tre đóng xung quanh nhà. Kể chiều dày thì cọc ấy lớp trước lớp sau cách nhau một gang tay, tổng cộng có mấy chục lớp. Số cọc tre này chỉ cao ngang ngực người lớn, tạo thành hình chữ “khẩu” bao bọc ngôi nhà. Mỗi chiếc cọc đều được ngâm tẩm cẩn thận, trên đầu cọc lại trang trí hình thù rất quái gở bằng đất nung. Mỗi đầu cọc đều buộc một miếng vải sắc vàng. Mỗi lần gió thổi, miếng vải ấy lại phất phơ trước gió, khiến cho vẻ quái gở của hàng rào cọc này tăng thêm mấy lần. Xuất xứ của cái hàng rào ấy kể ra cũng thực dài dòng. Nó bắt nguồn từ việc trong vùng đôi khi xuất hiện cùng một lúc rất nhiều xác vô thừa nhận. Xác ấy hoặc là do lũ cuốn về, hoặc là do thiên tai dịch bệnh, hoặc là do mất mùa nạn đói gây ra. Thông thường rất ít khi có tình trạng xác vô chủ, nhưng nếu đã xảy ra thì lại xuất hiện nhiều vào cùng một thời điểm. Những vong này thường chết tức tưởi cho nên có oán khí cao, nếu không được an táng cẩn thận thì rất dễ thành vong vất vưởng nơi dương gian. Họ Phạm nói với làng nước rằng, đôi khi cần có chỗ trú tạm cho các vong linh vô thừa nhận ấy, cho nên mới phải dựng lên cái hàng rào kia. Mỗi cọc chính là một nơi trú ngụ cho vong, để chúng khỏi quấy nhiễu làng xóm. Làng nước thấy hàng rào này thì lại càng tin rằng họ Phạm chịu lời nguyền phải khâm liệm cho bất cứ ai nhờ đến mình. Bằng chứng là nhà ấy đã kỳ công dụng cả chỗ trú tạm cho các vong chưa kịp khâm liệm. Nếu không phải lo sợ tai họa đổ lên đầu mình, thì việc gì phải làm chuyện như thế? Thêm nữa, trước sau nhà ấy cũng chưa bao giờ khước từ một đám ma nào. Thành ra, từ trẻ con đến người già, ai ai cũng chắc mẩm chuyện về lời nguyền kia là thật, ai ai cũng tin rằng đời đời kiếp kiếp họ Phạm phải làm cái “nghiệp hầu ma” ấy. Thấm thoắt nhà họ Phạm đã trải được tám đời. Cho đến những năm Cảnh Hưng thì truyền đến Phạm Đình Sơn là đời thứ chín. Năm Phạm Đình Sơn sáu mươi hai tuổi, có tin đồn rằng lão không nhận khâm liệm đám ma nữa. Chuyện bắt đầu khi Sơn khâm liệm cho một tay phú gia bậc nhất chốn kinh kỳ. Nghe đồn nhà ấy giàu có không kém gì chúa Trịnh. Sau đó độ một tuần trăng, người làng bỗng thấy ở đâu nườm nượp xe bò chở cơ man là hòm lớn rương to đến nhà họ Phạm. Cứ nhìn vào vết hằn bánh xe thì biết xe ấy nặng lắm, nếu không phải vàng bạc châu báu thì còn là gì nữa? Người ta đồn rằng phú gia ấy sau khi được họ Phạm khâm liệm thì trúng được mối thầu muối rất lớn. Nghĩ rằng lộc ấy có được là nhờ họ Phạm khâm liệm, thành ra phú gia kia đãi đằng Phạm Đình Sơn rất hậu. Nhà họ Phạm vốn dĩ cũng là nhà khá giả, sau bận ấy lại càng giàu có hơn. Chuyện này ngẫm ra rất lại lên giống với cụ tổ nghề Phạm Đình Phong khi xưa, chỉ nhờ vào việc khâm liệm mà được lộc lớn. Có điều, khác với cụ tổ nghề, Phạm Đình Sơn từ ấy suốt mấy tháng trời không nhận thêm đám nào nữa. Ngẫm ra trong một làng quê nhỏ bé thì đám ma cũng không nhiều, chỉ là họ Phạm vốn được trọng vọng, tin tưởng trong nghề hiếu, nên khắp các vùng xung quanh đều muốn nhờ tới. Thường thì họ Phạm không có lúc nào ngơi tay ngơi chân, hết xuống mạn nam lại lên mạn bắc. Cả một vùng rộng lớn đã quen với việc nhờ nhà ấy, bây giờ họ không làm nữa, người ta cũng không khỏi bối rối khi nhà có tang. Ngặt một nỗi, trong mấy tháng Phạm Đình Sơn không khâm liệm lại toàn là những đám ma của nhà thường dân nghèo khó, hoặc là cô nhi quả phụ, hoặc là cùng đinh khố rách. Khi Phạm Đình Sơn từ chối, người ta thầm nghĩ họ Phạm vì có món lợi lớn cho nên những đám ma nhà nghèo không muốn động tới nữa. Mặc cho ai nói gì, Phạm Đình Sơn nhất quyết không nhận làm khâm liệm nữa. Ngày ngày lão chỉ quanh quẩn trong nhà với thú nuôi gà chọi, cuộc sống rất ung dung nhàn nhã. Ấy thế mà sau đó một tháng, nhiều người trong làng khác nhau rằng họ thấy Sơn mới tảng sáng giờ dần đã mang theo đồ nghề, một mình một ngựa rời khỏi làng. Từ ấy, lão vắng mặt luôn hai tháng mới trở về. Sơn về được vài hôm, lại thấy một đoàn ngựa xe chở lễ vật hậu hĩ tới nhà Sơn. Trong làng vốn ít có biến động, nay lại có chuyện náo nhiệt như thế, cả làng liền đổ ra xem, đông vui như hội. Xe ngựa đến tận cổng nhà Sơn, một tên bảo tiêu nhảy xuống ngựa, đĩnh đạc hô lớn: – Gia tộc Âu Dương đất Quảng Tây kính lễ! Nói đoạn, gã khom lưng hành lễ. Khẩu âm người này lơ lớ, mới nghe qua đã biết là không phải người Việt. Lại thêm họ Âu Dương là họ kép của người Tàu, người Việt không có ai mang họ này. Người làng nghe thấy thế thì không ai không chau mày, thầm rủa lão Phạm Đình Sơn này chắc chắn là tham vàng bạc, chỉ chăm chăm làm giàu, không thèm đếm xỉa đến những nhà nghèo khó nữa. Người Việt trước đây chịu ách đô hộ hơn nghìn năm của người phương Bắc nên vốn không ưa gì họ. Dưới thời Cảnh Hưng, người gốc Hoa ngụ tại Đại Việt rất đông, là do vào thời kỳ nhà Thanh diệt nhà Minh, một số lượng lớn Hoa kiều từ Trung Quốc chạy về phương Nam. Khi ấy nơi tập trung của người gốc Hoa ở Đàng Ngoài nhiều nhất là Kẻ Chợ và phố Hiến. Người Hoa vốn là dân ngụ cư, đất đai không có nhưng thạo việc buôn bán cho nên đa phần người Hoa là các thương nhân. Xét cho cùng, sự có mặt của họ cũng góp phần thúc đẩy mạnh mẽ thương nghiệp. Nhưng con buôn vốn là hạng bị coi rẻ, xếp cuối cùng trong bộ tứ “sĩ, nông, công, thương”. Vì thế trong tư tưởng, người bản địa vẫn có ý đề phòng tộc người đã áp bức họ, lại là loại con buôn hạ đẳng. Lại nói khi ấy, Phạm Đình Sơn ra mở cổng, lão nhìn chằm chằm vào tên bảo tiêu, mặt lộ vẻ tức giận, mắt long lên, quát lớn: – Về đi, ta không biết ngươi. Nói đoạn, lão vào nhà, khóa cổng. Người làng thấy lão xử sự như thế, trong lòng bán tín bán nghi. Rõ ràng là Phạm Đình Sơn vừa đi vắng hai tháng trời, sau đó lại có lễ vật của họ Âu Dương đất Quảng Tây dâng đến tận cửa. Chẳng phải đã quá rõ Sơn đi xa một chuyến là để khâm liệm cho người Tàu hay sao? Trong lúc đám đông đang im phăng phắc chờ xem diễn biến thì chợt có tiếng nói: – Hừ, giả vờ giả vịt. Tiếng nói vừa cất lên, như gãi trúng chỗ ngứa, trong đám đông lập tức có mấy người hùa theo: – Đồ ham tiền. – Hám lợi thế thì chẳng ra gì đâu. Dần dần, những tiếng nhiếc móc biến thành chửi bới: – Tiên sư quân thất đức! – Đ… m… đồ bất nhân! Tham vàng bỏ ngãi thì đời mạt. Cơn phẫn nộ lan ra rất nhanh. Tiếng chửi càng lúc càng tục tĩu, nặng nề. Nhiều kẻ còn ném đá vào cổng nhà Sơn. Chửi chán, mọi người bỏ ra về, ai cũng lắc đầu thất vọng cho một dòng họ có tiếng phúc đức, đến đời này lại sinh ra một đứa con tham lam như thế. Sau bận họ Âu Dương dâng lễ tới nhà họ Phạm, một con lũ lớn tràn qua làng. Đê vùng này vốn từ trước tới nay không kiên cố, cho nên cứ lâu lâu lại vỡ đê một lần. Làng vốn có địa thế thoai thoải, cuối làng là nơi thấp nhất, bị chặn bởi một con sông lớn. Dân chúng cũng quen với con đê yếu, cho nên hằng ngày đều treo đồ đạc quý giá trên cao, khi lũ tới thì chạy lên đầu làng nhờ nhà người quen, lũ rút lại trở về. Thường thì những ngày sau lũ mới là những ngày kinh hoàng. Xác chết từ thượng nguồn bị lũ cuốn xuống rải rác khắp nơi. Việc an táng những ngày ấy phải rất khẩn trương để tránh bệnh dịch. Bấy giờ nhà họ Phạm vốn rộng rãi khang trang lại ngụ ở chỗ đất cao, nhưng không hiểu sao Sơn không cho bất cứ ai ở nhờ trong mấy ngày lũ. Lại thêm, lão cũng không chịu an táng nạn dân chết vì lụt như xưa nay vẫn làm. Dân làng cũng vì thế mà càng ghét họ Phạm hơn. Một thời gian sau, thôn Thượng xuất hiện những chuyện lạ. Đầu tiên là mỗi khi đêm tối, dân làng không sao ngủ được bởi tiếng chó sủa râm ran khắp nơi. Ban đầu, nhà nào nhà nấy đều dậy suỵt chó. Nhưng dọa hay đánh thế nào lũ chó vẫn cứ ăng ẳng suốt cả đêm không dứt. Những tiếng của ngày càng dữ dội, điên dại hơn, dân làng không biết phải làm thế nào, đành chịu cảnh ấy suốt nửa tháng trời. Làng đang hoang mang chưa biết nguyên nhân vì sao thì xảy ra chuyện với anh mõ. Nguyên là hôm ấy anh mõ làng đi ăn cưới, lỡ quá chén nên anh chàng chui vào vườn gia chủ mà đánh một giấc đến tận đêm mới tỉnh dậy. Vợ anh mõ vốn có tính hay ghen, đi đâu về muộn là y như rằng đêm đó anh mõ lại phải nghe tiếng bấc tiếng chì. Cho nên khi thấy trên đầu trăng sáng vằng vặc, mõ ta hãi quá vội vàng về nhà ngay. Anh đoán chừng vợ mình ở nhà đang nổi cơn tam bành, nên càng rảo bước thật mau. Đi được một quãng, anh chợt nghe thấy tiếng khóc. Ban đầu, anh mõ không chú ý. Khi nhận ra tiếng ấy, lại nghe chó sủa khắp nơi, trong lòng anh mới có chút hoang mang. Anh mõ quay đầu nhìn lại, thấy sương mù dày đặc, thấp thoáng bóng mấy bụi tre đung đưa trong gió. Chợt một cơn gió lạnh buốt thổi tới. Anh mõ vừa quay đầu định chạy thì nghe có tiếng gọi: – Anh… mõ… ơi… Tiếng gọi ấy tuy rất khẽ nhưng lại rõ mồn một. Anh mõ thấy sống lưng lạnh toát, mồ hôi đầm đìa. Anh biết chỉ cần đáp lại thì sẽ chẳng có kết cục gì hay ho. Người ta thường nói khi đi trong đêm, nếu có ai gọi mình từ phía sau thì nhất định không được trả lời, nếu không hồn vía sẽ lập tức bị trục ra khỏi thân xác, ma quỷ cũng nhờ đó mà nhập vào cơ thể. Giọng kia vẫn không ngừng rên rỉ: – Anh… mõ… ơi… Anh mõ thấy giọng nói lần này dường như gần hơn, giống như thứ kia đang tiến về phía mình. Hoảng quá, anh cắm đầu cắm cổ chạy một mạch. – Anh… mõ… ơi… Giọng nói lần này gần lắm rồi, tưởng như chỉ cần quơ tay về phía sau là chạm tới được người kia. May mắn thay, khi ấy anh mõ đã chạy về tới gần nhà, đang vắt chân lên cổ phóng qua cổng thì bỗng có một bàn tay vỗ mạnh lên vai anh mõ. Anh mõ sợ quá hét lên một tiếng: – Á……… Trong cơn hoảng sợ, anh mõ đưa tay, xô người kia ngã dúi dụi. Phải mất một lúc định thần, nhìn kỹ lại, anh mõ mới nhận ra người kia chính là em trai cô dâu. Thằng bé khẳng khiu vừa bị anh xô ngã bệt trên mặt đất. Thức ăn vương vãi xung quanh nó. Thì ra khi tàn đám cỗ, không thấy anh mõ lấy phần về, gia chủ bèn sai con mang sang cho anh. Thằng bé thấy anh mõ đang đi phía trước nên đuổi theo, nào ngờ anh mõ lại sợ ma bỏ chạy cuống cuồng. Thằng bé nói: – Cha sai cháu đưa phần cho chú. Giọng thằng bé thì thào khản đặc. Thì ra mấy hôm nay nó bị viêm họng, nói không rõ tiếng. Vậy nên ban nãy anh mới nghe thành tiếng thì thào ma quái. Mõ ta biết mình thần hồn nát thần tính lo sợ linh tinh, liền thở phào, đỡ thằng bé dậy. Anh vừa cảm ơn vừa xin lỗi thằng bé rồi thu dọn thức ăn rơi trên đất. Anh mõ qua cơn hoảng sợ, cứ đần người ra. Thằng bé ra về được một lúc rồi mà anh còn đứng đó. Lúc ấy vợ anh chạy ra, thị thấy anh đang đứng thẫn thờ bèn hỏi: – Có chuyện gì thế? Anh mõ xấu hổ đáp: – Không có gì, không có gì, người ta mang phần cỗ sang cho nhà mình đây. Tôi say quá ngủ quên mất. Vợ anh mẽ nói khẽ: – Khuya lắm rồi, đi ngủ thôi. Anh mõ theo sau vợ. Thị vừa bước vào nhà vừa xõa mái tóc đang búi theo lệ thường trước khi đi ngủ. Mùi hoa bưởi lẫn với hương bồ kết từ tóc thị phảng phất nơi cánh mũi anh mõ. Sẵn men rượu vẫn còn trong người, lại bị mùi hương này kích động, sóng dục trong lòng anh mõ dâng cuồn cuộn. Anh bất giác ôm chầm lấy vợ, đoạn bế xốc thị lên. Thị thẹn quá đưa tay đấm anh mấy cái rồi ngượng ngùng: – Khẽ thôi không con nó dậy. Anh mõ nghe thấy thế thì tụt hứng tức thì. Nguyên là nhà anh bé con con mà vợ anh lại mắn đẻ, cứ ba năm hai đứa, thoắt cái đã có sáu đứa lăn lóc trong nhà. Con đông mà nhà lại chật, cho nên hai vợ chồng gần gũi cũng nhiều chỗ bất tiện. Bỗng anh mõ chợt nhớ ra, hôm nay bọn trẻ về nhà ngoại ở làng bên, không có nhà. Như thế là hai vợ chồng anh tha hồ thoải mái. Nghĩ đến đây, men rượu trong người anh mõ lại thúc đẩy sóng dục tuôn trào. Anh mõ cúi đầu hôn vợ một cái. Khi ấy cửa sổ vẫn mở, ánh trăng rằm soi rõ bóng anh mõ trải dài trên nền đất. Nhưng chỉ có bóng của một mình anh, không hề có bóng của người vợ anh đang bế trên tay. Anh mõ kinh hoàng nhìn bóng mình dưới đất rồi giật mình nhìn sang vợ. Không có ai cả, trên tay anh chỉ có một cục thịt đỏ hon hỏn còn đẫm máu. Sáng hôm sau người ta thấy anh mõ chết cứng, mặt mày xám ngắt, tay vẫn cầm cái gì đó trông như một cục thịt thối rữa. Vợ anh mõ sang ngoại với lũ trẻ, nghe tin chồng chết mới sấp ngửa chạy về. Chuyện của anh mõ làng chỉ là một trong số rất nhiều chuyện ma xuất hiện trong vùng ấy. Ví như còn có chuyện anh cu Bột đi tiểu đêm bị ma giấu, lại có chị Lụa nhìn thấy bóng trắng phất phơ trên cây gạo, hoặc ông Tâm cứ đêm đêm nghe tiếng trẻ con khóc trên mái nhà. Bấy giờ khắp làng đều rộn lên những chuyện ma hiện. Trong số những người gặp ma, mười người thì có đến bảy tám không giữ được mạng. Những chuyện ma như thế vốn dĩ được lưu truyền rất rộng rãi trong dân gian. Đó không phải là lần đầu tiên người ta được nghe chuyện về bóng trắng đu đưa trên ngọn cây, cái đầu nhũn như đất sét của người con gái đẹp, hay những đôi tay lôi kéo người xuống nước, nhưng điều đáng nói là những chuyện ấy lại tập trung vào thời điểm lũ vừa tràn qua làng. Người ta kháo nhau rằng họ Phạm bây giờ không nhận khâm liệm nữa, cho nên vong hồn người chết cứ quanh quẩn bên cọc tre ngoài nhà chờ tới lượt. Số vong này càng ngày càng nhiều mà cọc tre lại không tăng lên, dần dần không còn chỗ náu mình cho các vong linh nữa. Thành ra các vong ấy cứ đêm đến lại lang thang ngoài đường, gặp ai liền ám lấy người đó. Lại trùng hợp với cái sự chó không ngừng sủa về đêm, khiến câu chuyện hoang đường ấy càng đáng tin hơn. Trong số những người chết vì ma ám có một người tên là Trần Lâm, vợ gã là Thị Mướp. Người ta đồn Trần Lâm chết đuối là do ma nước níu chân. Trần Lâm vốn là trưởng họ Trần. Gã có ba đứa con trai nối dõi tên là Trần Thừa, Trần Túc và Trần Tâm. Trần Thừa năm nay mười chín, Trần Túc mười bảy và Trần Tâm lên hai. Thân thiết nhất với nhà họ Phạm chính là nhà họ Trần này. Họ Trần làng ấy vốn chẳng phải ai xa lạ, chính là con cháu cụ Trần Đan Tốn năm xưa giúp cho việc khởi nghiệp của cụ Phạm Đình Phong. Cụ Tốn về sau thăng quan phát tài lên đến hàm tam phẩm, kiêm chức coi kho lương trong triều đình, tiền bạc nhiều không kể xiết. Hậu duệ của cụ không có anh tài xuất sắc, lại trải qua bao biến động của lịch sử cho nên không còn ai làm quan, nhưng nhà ấy vẫn bảo toàn được gia sản của cha ông, tuy chỉ ở nơi thôn dã nhưng vẫn là có tài lực vững mạnh. Sau khi Trần Lâm chết đi, Thị Mướp nhờ Phạm Đình Sơn khâm liệm chồng nhưng Sơn một mực từ chối. Trong suốt tám thế hệ, việc ma chay của họ Trần đều được tin tưởng giao phó cho họ Phạm, mối thân tình năm xưa cũng nhờ thế mà càng ngày càng được củng cố vững chắc hơn. Ai cũng nghĩ họ Phạm không khâm liệm cho ai chứ không thể không làm giúp họ Trần. Thế mà Phạm Đình Sơn vẫn từ chối. Chuyện này khiến Sơn càng bị chê trách là ăn ở không có đạo nghĩa. Cuối cùng, họ Trần đành phải nhờ một ông chú họ xa làm việc ấy. Đám hiếu xong xuôi, Thị Mướp nhờ thầy cúng gọi hồn chồng. Hồn Trần Lâm nhập về chỉ lẩm nhẩm một từ: – Trùng tang. Trùng tang… Thị Mướp vừa mếu máo vừa hỏi lại: – Mình nói sao cơ? Vong lại đáp: – Trùng tang. Trùng tang… Người lên đồng chỉ nói đến đó rồi lăn ra giãy đành đạch, lịm dần đi. Sau đó có gọi thế nào hồn Trần Lâm cũng không về được nữa. Khi hỏi ông thầy cúng, ông này tính lại mới hay, Trần Lâm vốn tuổi tuất, mất phạm vào ngày hội là ngày kiếp sát, theo quan niệm dân gian sẽ có trùng tang. Họ Trần thấy thế thì lo lại càng thêm lo, bàn nhau gửi vong Trần Lâm lên một ngôi chùa trên núi gần đất ấy. Sư trụ trì vừa hỏi đến ngày sinh tháng để cùng giờ mất của vong thì lập tức lắc đầu, nói ngay: – Vong này sinh vào ngày giờ ấy mà chết thì đúng là đại kiếp sát, trùng tang này mạnh quá, e là nhà chùa không giữ được vong. May mà có họ Phạm khâm liệm, không thì… Chùa này vốn ở trên núi cao, tuy có tiếng là linh thiêng nhưng đường lên núi cheo leo, chiều rộng chỉ đủ một người đi, lại gập ghềnh khúc khuỷu, ngoài dịp lễ tết cũng ít có người lui tới. Vậy nên sư cụ không biết việc họ Phạm đã không còn làm việc khâm liệm nữa. Người nhà đi theo nghe sư cụ nói thế, ai cũng toát mồ hôi hột hỏi lại: – Không thì sao hả cụ? Sư cụ chậm rãi đáp: – Xin thí chủ tha lỗi cho tôi nói điều gở, không thì nhà ta rơi vào đúng nạn “cửu nhật trùng tang, tứ mạng liên hoàn”. Nghĩa là trong vòng chín ngày trong nhà sẽ có trùng tang, chết hết bốn mạng nam đinh nhà ấy mới dứt. May mà nhà họ Phạm có phép tránh trùng tang gọi là “hỉ tang chú”. Hễ ai nhờ được họ khâm liệm, trong lúc hạ huyệt họ đọc chú này thì người nhà sẽ được bình an vô sự. Thị Mướp nghe đến đây thì kinh hoàng, ngất ngay tại chỗ. Sư cụ thấy Thị Mướp như thế, lại thấy gia quyến lộ vẻ hoảng loạn, mới lờ mờ đoán được là họ Trần không được họ Phạm khâm liệm. Lúc đó Trần Thừa, con cả của Trần Lâm và Thị Mướp, một mặt nhờ người đưa mẹ ra ngoài, mặt khác lại hỏi sư trụ trì: – Có cách nào không thưa sư cụ? Sư nói: – May ra có chùa Hàm Long trấn Kinh Bắc giữ được vong này. Chùa Hàm Long được xây từ thời nhà Lý, vốn là nơi tu hành của cao tăng Dương Không Lộ. Đến thời Lê, có hòa thượng Trịnh Thập, pháp danh Như Trùng Lân Giác đến tu, ở đây, ông đã viết bộ kinh Thập nguyện cứu sinh để tụng trì giúp các vong hồn siêu linh. Từ đó Hàm Long trở thành ngôi chùa “nhốt trùng” nổi tiếng. Thường thường, nhà nào sợ trùng tang thì đem vong người nhà lên gửi trên ấy để tránh nạn. Trần Thừa liền đáp: – Vậy chúng con xin gửi vong lên chùa Hàm Long. Nói rồi vội vàng với tạ ra về ngay. Trần Thừa chỉ cử mấy người ở lại chăm nom Thị Mướp vì đường xuống núi rất khó đi. Trời lúc đó lại bất chợt đổ cơn mưa lớn nên không thể cáng Thị Mướp xuống cùng. Từ Sơn Tây đến trấn Kinh Bắc, đi nhanh cũng mất mấy ngày đường, việc thì đang gấp lắm, cho nên ai cũng hoang mang sốt ruột. Trần Thừa vốn là một thanh niên lực lưỡng, cao lớn, sức vóc hơn người. Trần Thừa vừa là con trưởng, vừa là tân trưởng họ, theo lệ, mọi việc trong họ từ ấy về sau nhất nhất đều do gã sắp đặt. Khi ấy là giờ dậu, trời đã tối lại mưa như trút nước. Trần Thừa nói với mấy người trong họ: – Việc của cha cháu gấp như thế, mẹ cháu trong lúc này bối rối có lẽ không lo được mọi việc. Bây giờ cháu và thằng Túc cùng mấy anh em nữa sẽ lên đường ngay đêm nay. Có lẽ cần độ mười người là đủ. Cháu nhờ nhánh chú Lân trông nom những việc ở nhà. Nếu có chuyện cần tiền xin chú giúp cho, khi về cháu xin gửi lại. – Chú Phàn và chú Lộc xem giúp cháu xem trong họ có anh em nào có thể đi cùng. Các chú nói anh em chuẩn bị mấy bộ quần áo, không cần mang theo đồ ăn. Ngựa nhà cháu đã có sẵn. – Nhà ta có bụi, sợ quán xá không chứa, vậy nên phải mang cơm đi đường. Cháu nhờ thím Tịnh, thím Xoan cùng với vợ cháu soạn giúp thức ăn trong mấy ngày cho anh em. – Cô Tầm quen với thầy cúng Làn bên thôn Hạ, nhờ cô sang mời thầy về làm lễ giúp cho mẹ cháu an tâm. Bây giờ là giờ dậu, đến giờ hơi chúng cháu sẽ đi ngay. Mọi người thấy Trần Thừa còn trẻ tuổi mà phân công rành rọt, tỉ mỉ, chu đáo thì mừng lắm, lấy làm yên tâm vì có trưởng họ mới tháo vát. Đang nghĩ đến đấy, bỗng mọi người thấy trời đất sáng lòa, một tia sét chạy ngoằn ngoèo rạch ngang bầu trời. Tiếp đến là một tiếng nổ đinh tai nhức óc khiến mấy người yếu bóng vía nhất giật thót mình. Khi mọi người định thần lại thì chợt nhận ra Trần Thừa đã biến mất tự lúc nào! Cả đoàn người nháo nhác cất tiếng gọi Trần Thừa nhưng không có ai đáp lại. Rõ ràng là gã mới ở trước mặt mọi người, chớp mắt một cái đã không thấy đâu. Cả bọn lo Trần Thừa sảy chân rơi xuống núi bèn vội vã xuống tìm phía dưới, lại cho người về làng gọi thêm người tới giúp. Đúng là Trần Thừa ngã xuống núi thật. Tảng sáng hôm sau, người ta mới tìm thấy thi thể gã bê bết máu trên một tảng đá lớn. Trần Thừa đã chết từ khi nào. Em Trần Thừa là Trần Túc thấy anh chỉ còn là một cái xác không hồn thì không cầm được òa lên khóc não nề mãi không thôi. Độ hơn một tuần hương, người ta thấy gã đuối dần. Giờ không nghe gã khóc nữa, chỉ còn nấc lên từng hồi. Ai chứng kiến cảnh này cũng cảm thấy thê lương. Người nhà thấy vậy đành tìm lời an ủi gã rồi dìu Trần Túc đứng dậy. Nào ngờ hai người họ hàng vừa xốc gã lên, đã thấy đầu Trần Túc gục xuống, mặt mũi tái ngắt, cả cơ thể rũ ra như tàu lá chuối. Trần Túc đã tắt thở. Chỉ qua mấy ngày, nhà Trần Lâm đã chết đến ba mạng. Nếu đúng như sư thầy nói, thì còn một mạng thứ tư của Trần Tâm nữa mới dứt nạn trùng tang này. Thị Mướp trong mấy ngày mất luôn ba người thân, lại lo lắng cho đứa con út, thành ra như điên như dại. Khi ấy có người mách cho thị một ông thầy bói tên Hậu. Người này Thị Mướp cũng biết vì gã vốn nổi danh khắp cả vùng. Nghe nói thầy Hậu tu đạo bên Tàu mấy năm, pháp lực cao thâm khó lường. Duy có một điều là gã dùng phép vừa cổ quái, vừa tàn độc, lại lấy giá cắt cổ, cho nên mọi người sợ nhiều hơn phục, chỉ khi nào vạn bất đắc dĩ họ mới phải nhờ đến. Thị Mướp khi ấy như người sắp chết đuối, tóm được gì liền bám chặt không buông. Thấy người ta mách, thị liền tìm tới thầy Hậu. Thầy Hậu vừa sai người nhà pha trà vừa mời Thị Mướp ngồi. Thị Mướp đang sốt ruột lo lắng chuyện con mình, chưa đợi nước pha xong đã toan đem chuyện ra thuật lại. Nào ngờ thầy Hậu nói ngay: – Cứ xem tử khí trên người ngươi còn vương nhiều như thế này, hẳn là trong nhà đang có trùng tang. Mà ta xem ra trùng tang này vẫn vượng lắm, cho nên ít thì còn nợ một mạng, nhiều thì thiếu ba bốn mạng. Thị Mướp nghe đến đây thì sợ hãi khóc lóc nói: – Thưa thầy, quả là nhà con đang trong cơn nguy nan quá, mong thầy giúp cho, chúng con xin muôn vàn đội ơn. Thầy Hậu khẽ gằn giọng: – Việc trùng tang thường thì phải giải ngay trong đám tang đầu tiên, càng để lâu, càng khó giải. Người đưa ta ngày giờ sinh và mất của người chết đầu tiên xem sao. Thị Mướp vốn đã chuẩn bị sẵn, bèn đưa ngày sinh tháng đẻ cùng ngày giờ mất của Trần Lâm cho thầy Hậu. Thầy vừa nhìn, mặt đã tối sầm, khẽ nói: – Chết vừa khéo, thời khắc cực độc này mấy chục năm mới có một lần, thế mà… Thầy Hậu lắc đầu ngao ngán rồi lại tiếp: – Trùng tang này kéo theo cả ba người con trai của vong nữa mới thôi. Thị Mướp và mấy người trong nhà tái mặt nhìn nhau. Lời gã nói quả trùng khớp với sư thầy trên chùa. Thầy Hậu bỗng đuổi hết người nhà Thị Mướp ra, nói riêng với thị: – Ngươi chắc biết tiếng ta, ta vốn thường dùng phép “dĩ độc trị độc”, lấy mạng đổi mạng. Trường hợp này cũng thế. Muốn giữ mạng của nam nhân còn lại thì ắt phải có một người chết thay. Thị Mướp nghe đến đây thì dập đầu khóc lớn: – Con xin đổi mạng cho cháu, con xin đổi mạng cho cháu. Thầy Hậu chờ Thị Mướp qua cơn xúc động, mới nói rành rọt từng từ: – Đâu phải muốn ai thế mạng cũng được. Người thế mạng trước hết phải cùng là nam giới, thứ hai nữa phải hợp tuổi với người được thế mạng. Nếu ngươi không muốn để người khác chết thay con mình thì ta cũng không dám ép uổng. Người có thể đi tìm thấy khác. Nếu cậy đến ta thì pháp lực của ta chỉ có thể làm đến thế, không có cách nào khác. Việc này là tùy ngươi quyết định, phải suy nghĩ cho kỹ. Sau này nếu có quả báo thì không phải là ta chịu. Thị Mướp ngẩn người một lúc, chưa biết nên làm thế nào, thị vừa thấy cắn rứt lương tâm vừa lo lắng cho tính mạng con mình. Thầy Hậu dường như đã quen với việc ngồi nhìn người ta suy tính xem có nên hại người khác để bảo vệ bản thân hay không, nên thản nhiên rót trà, nhâm nhi từng ngụm, rất là thư thái. Cuối cùng Thị Mướp gạt lệ nói: – Nhà con chỉ còn một mình cháu nó. Con xin làm theo lời thầy. Chỉ mong tội vạ đâu cứ đổ lên đầu con, cháu nó mới lên hai, không có tội tình gì… Thầy Hậu đoan chắc Thị Mướp sẽ đồng ý. Xưa nay gã đã gặp nhiều trường hợp thân nhân đắn đo thế này, trong mười người thì cả mười đều đồng ý để người khác chết thay cho người nhà mình, chưa từng thấy ngoại lệ. Gã thản nhiên nói: – Ngươi không đưa ta ngày sinh tháng đẻ của đứa trẻ thì ta biết làm sao mà xem? Thị Mướp vội vàng nói ra bát tự của Trần Tâm. Thầy Hậu bấm đốt tay một hồi, chau mày nói: – Người thế mạng phải là nam nhân đã qua tuổi năm ba, tuổi thân, hoặc tý, hoặc thìn, nhà ở hướng tây nam, cách nhà ta không quá một dặm, nếu xa quá thì không linh. Thị Mướp chưa nghĩ ra là ai, bèn xin thầy Hậu ra ngoài hỏi lại người trong nhà. Mấy người ngẫm nghĩ hồi lâu mới ra. Người như thế, chỉ có Phạm Đình Sơn. Thị Mướp nghe đến Phạm Đình Sơn, trong lòng lại thấy phẫn nộ, cho rằng việc chồng mình chết là do nhà ấy không chịu khâm liệm nên ma quỷ mới hoành hành khắp làng. Lại thêm việc Sơn không giúp nhập liệm, mọi chuyện trước sau đều do Sơn mà ra cả. Phút chốc, lòng oán hận của Thị Mướp với Phạm Đình Sơn trào lên, cảm giác tội lỗi biến mất, chỉ còn khát khao giữ lấy mạng con và báo thù cho người nhà. Thị liền hỏi lại thầy Hậu cụ thể xem phải làm gì kế tiếp. Thầy Hậu phán: – Quỷ dưới âm ty thường dựa vào số sinh của Nam Tào, sổ tử của Bắc Đẩu mà lấy mạng người ta. Khi xưa Quản Lộ xúi người ta sửa sổ Nam Tào mà thêm được thọ. Ta thì không làm được như thế nhưng có thể lừa quỷ âm ty để bắt người thế mạng thay vì con ngươi. Chỉ có điều, từ rày về sau, con ngươi phải lấy ngày sinh tháng đẻ của người thế mạng cho nó làm bát tự. Nói rồi thầy Hậu lấy ra một lá bùa, nói Thị Mướp đem giấu trong mình Trần Tâm. Gã nói lá bùa ấy chính là để quỷ không thấy được đứa bé. Gã dặn nhất nhất không được để thằng bé cất tiếng, nếu để nó nói thành lời hay khóc thành tiếng, quỷ sẽ nghe thấy mà tìm ra nơi nó ẩn náu. Thầy Hậu lại sai Thị Mướp mang hai cỗ quan tài của Trần Thừa, Trần Túc đem đặt trước cổng nhà Phạm Đình Sơn, lại dặn cả họ phải tới đó mà khóc lóc cho thật thảm thiết. Đến đầu giờ tý thì phải về hết, không chừa lại một ai. Một khi quỷ không tìm được Trần Tâm, sẽ theo tiếng khóc mà tưởng rằng Phạm Đình Sơn là người cần tìm. Thị Mướp biết việc xấu sẽ xảy ra trong ngày một ngày hai, không dám chần chừ, vội vã làm ngay. Trước khi đưa quan tài sang nhà họ Phạm, Thị Mướp dặn vú em phải giữ kỹ thằng nhỏ Tâm, bịt miệng không cho nó lên tiếng. Cẩn thận hơn, thị dặn vú em bế thằng nhỏ núp dưới bàn thờ, những mong có gì thì gia tiên ngự trên sẽ che chở cho. Xong xuôi đâu đấy, thị mới sai người nhà khiêng quan tài sang nhà Phạm Đình Sơn. Đến sẩm tối hôm ấy, người làng thấy trước cửa nhà Phạm Đình Sơn ầmĩ tiếng kèn trống đám ma, tiếng khóc gọi con, tiếng chửi bới nhà họ Phạm thậm tệ. Mọi người kéo ra xem rất đông, thấy ngay chính giữa cổng nhà họ Phạm đặt hai cỗ quan tài, nhà họ Trần thì cả họ lũ lượt kéo ra khóc lóc kêu gào rất thảm thiết. Phạm Đình Sơn ở trong nhà thấy thế, sợ có chuyện không hay, rủi mà người họ Trần trong cơn kích động kéo vào đập phá nhà cửa hay giết người cũng nên. Nghĩ vậy, lão lập tức cho vợ con theo cửa sau về nhà ngoại. Xong xuôi đâu đấy, Sơn xốc lại quần áo, bước ra khỏi cổng, tới bên quan tài. Lão chưa kịp nói gì, mấy chục người nhà họ Trần đã hè nhau xông vào đánh lão một trận thừa sống thiếu chết. Thì ra Thị Mướp đã được thầy Hậu dặn từ trước, nếu giữ được Phạm Đình Sơn gần bên quan tài là tốt nhất, như thế thì quỷ càng dễ bị mắc lừa. Mà đánh Sơn thì phải đánh bên ngoài nhà lão, đánh ở trong nhà có quan thần linh và gia tiên bảo hộ, sẽ không thế mạng được cho Tâm. Vậy nên Thị Mướp dặn trước người nhà, hễ Sơn ra khỏi cổng thì xông vào đánh lão ngất xỉu. Phạm Đình Sơn ngất đi không biết bao lâu mới tỉnh dậy, thấy trời tối đen như mực, xung quanh không một bóng người. Bên cạnh lão chỉ có hai cỗ quan tài, bài vị vẫn đặt trên bàn thờ. Mấy ngọn nến trên quan tài đã tắt từ bao giờ. Bấy giờ trời lất phất mưa khiến cảnh vật càng thêm hiu hắt. Phạm Đình Sơn nằm lâu ngoài trời, lại vừa ăn một trận đòn, mình mẩy đau nhức không sao cựa quậy được. Lão đoán mình đã bị đánh gãy hai chân, chỉ có thể cố lật mình nằm ngửa, thở dốc từng hồi. Lạo xạo, lạo xạo… Phạm Đình Sơn bỗng nghe thấy một tiếng động rất khẽ. Mắt lão bấy giờ đã dần quen với bóng tối, tai cũng đỡ ù sau trận đòn, có thể lờ mờ nhìn thấy cảnh vật và nghe được những âm thanh xung quanh. Có tiếng lạo xạo. Tiếng động này không phải tiếng gió thổi lá cây, cũng không phải tiếng cá quẫy dưới ao, lại càng không phải là tiếng bước chân người. Lạo xạo, lạo xạo… Âm thanh này, giống như tiếng người ta dùng móng tay cạo vào gỗ. Lạo xạo, lạo xạo… Đây không phải chỉ là một tiếng động. Đây là hai thứ âm thanh phát ra từ hai nơi khác nhau song lại giống hệt và quện vào nhau. Hai thứ âm thanh này vang lên trong đêm khuya tĩnh lặng càng rõ mồn một. Lạo xạo, lạo xạo… Phạm Đình Sơn cảm thấy rất rõ thứ âm thanh này phát ra từ hai cỗ quan tài. Âm vang như thế, hẳn là… Tiếng động phát ra từ phía trong quan tài! Bỗng nghe bộp một tiếng. Phạm Đình Sơn đưa mắt nhìn về phía tiếng động. Trên nền đất, có một cái đinh. Cái đinh rơi ngay bên cạnh quan tài Trần Thừa. Bộp. Lần này là một cái đinh nữa, rơi bên cạnh quan tài Trần Túc. Bộp. Bộp. Bộp. Liên tiếp mấy cái đinh rơi. Phạm Đình Sơn nhận ra đây chính là thứ đinh dùng để đóng quan tài. Bộp. Bộp. Bộp. Liên tiếp các âm thanh do đinh rơi tạo ra, qua khoảng thời gian uống cạn tuần tra thì không còn nghe thấy nữa. Ngay cả tiếng lạo xạo cũng không còn. Không gian im ắng đến nghẹt thở. Phạm Đình Sơn định gắng gượng ngồi dậy thì lại nghe một tiếng động khác. Két… Tiếng động lần này nghe chói tai hơn, tựa như âm thanh của một vật nặng được người ta đẩy trượt trên nền gạch. Két… Phạm Đình Sơn thấy rõ, nắp cả hai chiếc quan tài đang chuyển động. Chúng dịch chuyển từng phân từng phân một, trượt dần xuống dưới. Qua một lúc, nắp áo quan đã hé ra một khoảng trống lớn bằng nửa thân người. Nằm dưới đất, Phạm Đình Sơn bỗng thấy trên thành quan tài thấp thoáng một vật đen đúa. Đó chính là một bàn tay. Đột nhiên, từ phía trong hai chiếc quan tài, hàng tràng những tiếng chít chít vang lên, như thể có vô số con chuột đang bị mắc bẫy bên trong, phải cố vùng vẫy để thoát ra. Thứ âm thanh này cao vút, mỗi tiếng kêu đều khiến người ta đinh tai nhức óc. Vô số những tiếng kêu như thế, tạo nên một thứ tạp âm dị thường. Từ trong quan tài, thình lình có hai bóng đen vụt nhóm dậy. Hai cái bóng ấy từ từ quay về phía Phạm Đình Sơn, nhìn lão chằm chằm bằng hai con mắt trắng dã. Bỗng nhiên, trong quan tài tuôn ra vô số chuột, con to con bé, con béo con gầy. Số chuột này bò tán loạn ra khỏi quan tài, trong phút chốc đã đến cả trăm con. Bỗng lại nghe phừng một tiếng. Phạm Đình Sơn thấy mắt mình lóa đi trong chốc lát, thì ra có hai ngọn lửa lớn vụt bốc lên từ phía trong những chiếc quan tài, cao đến mấy trượng. Phút chốc, tiếng chuột kêu càng nhiều và dữ dội hơn. Từ trong quan tài, số chuột chạy ra ngày càng đông. Tất thảy đều bốc cháy dữ dội như những ngọn đuốc sống. Kỳ lạ thay, khi ngọn lửa bốc lên, đám chuột không chạy tán loạn nữa mà bâu cả về phía Phạm Đình Sơn. Lão bị bao bọc bởi bầy chuột, cả thân hình cũng bắt lửa, trong chốc lát lão đã trở thành ngọn đuốc sống. Phạm Đình Sơn quằn quại kêu la thảm thiết, nhưng một con chuột thình lình chui vào họng lão khiến tiếng thét của lão tắt lịm. Phạm Đình Sơn lăn lộn một hồi trên nền đất rồi bất động Bầy chuột vẫn không ngừng lao ra từ phía hai cỗ quan tài. Sau khi Phạm Đình Sơn cháy thành than, chúng chuyển hướng, chạy thẳng về phía nhà lão. Căn nhà của họ Phạm cũng bị thiêu rụi. Sáng hôm sau, người làng ấy biết tin trong một đêm có hai người chết. Một là Phạm Đình Sơn, hai là Trần Tâm, đứa con thứ ba của Trần Lâm. Tối qua, khi Thị Mướp về đến nhà mới hay tin con mình bị chết ngạt. Là bởi người vú em nghe theo lời dặn của thị, nhất quyết không để đứa bé khóc kêu thành tiếng, khi bịt miệng thằng bé lại vô ý bịt cả mũi nó, khiến thằng bé chết ngạt lúc nào không hay. Thị Mướp từ ấy phát điên. Dòng họ Phạm Đình bây giờ chỉ còn lại con của Sơn là Phạm Đình Quyết. Hôm xảy ra biến cố, hắn theo mẹ về nhà ngoại. Sau đó chỉ nửa tháng, mẹ hắn lấy chồng mới, đuổi hắn ra khỏi nhà. Thị quả quyết rằng Quyết không phải là con thị, hắn chỉ là con riêng của Phạm Đình Sơn với ma cho nên thị không cần phải nuôi hắn. Mọi người vốn cũng tin lời đồn về chuyện nhà họ Phạm có con với ma nên đa số đều nghĩ thị nói thật. Nhà ngoại Quyết không ai nhận nuôi hắn, nhà nội thì nhiều đời độc đinh nên cũng không có họ hàng nào, từ ấy Quyết trở thành tứ cố vô thân. Người trong làng từ sau việc Phạm Đình Sơn tham vàng phụ nghĩa cũng không ai muốn cưu mang Quyết nữa. Cuối cùng Quyết đành phải tha phương cầu thực. Ai cũng nghĩ nhà họ Phạm đến đây là dứt. HỒI THỨ BA PHÙ THỦY THU BINH Một năm sau khi Phạm Đình Sơn mất, nhằm vào năm Cảnh Hưng thứ bốn mươi ba, tại trấn Sơn Tây xảy ra hạn hán vào tháng tư kèm với nạn hoàng trùng. Nạn đói cũng theo đó mà tràn tới. Ban đầu, nồi cơm không còn trắng như thường nữa, mà độn lẫn những dong, những khoai, những chuối. Dần dà, cũng chẳng còn cơm. Hai bữa cơm một ngày dần thay bằng một bữa, rồi thì hai ngày một bữa. Trâu bò đều phải cầm cố cho nhà giàu, gà, vịt thưa dần vì được bán đi hoặc thịt ăn dần. Rồi đến mèo, chó, người ta không thể để nuôi nữa, cũng phải mang ra thịt ăn. Chỉ vài tháng sau, không còn lấy một con chó con mèo nào trong làng, vì nhà nào thương lắm, tiếc lắm cũng đành thịt ăn, nếu không sẽ bị trộm bắt mất. Người ta đổ ra sông đánh cá, bắt tép, mà những thứ ấy cũng lay lắt khi được khi không. Ruột sắt lại, người ta hè nhau ra đồng bắt chuột. Rồi chuột cũng cạn dần. Thường thì chẳng ai dám động đến cá trê gần bãi tha ma vì ghê cá trê ăn thịt người chết, nhưng vốn dĩ cơn đói mạnh hơn nỗi sợ, cá trê mả rốt lại cũng chui vào bụng. Cuộc sống của người dân lúc này chỉ xoay quanh chuyện ăn và ăn. Sáng dậy hỏi hôm nay có gì ăn, tối đi ngủ nghĩ mai có chết đói không. Chúa Trịnh cứu đói bằng cách bắt ép nhà giàu phải nộp thóc gạo để phát chẩn. Nhưng dân vẫn đói mà các quan được mùa to. Gạo phát chẩn được trích một phần trộn lẫn mùn cưa phát cho dân chúng, phần còn lại các quan giữ lại bán kiếm lời. Nhà giàu thì tha hồ thu về trâu, bò với giá chỉ bằng một nửa bình thường. Rốt lại, nước chảy chỗ trũng, chỉ có dân nghèo là khổ mà thôi. Thời buổi đó, mỗi ngày trong trấn có rất nhiều người chết, một phần là dân của trấn, phần khác là những người hành khất xin ăn từ các vùng nông thôn hẻo lánh hơn. Thực ra họ chỉ đi ngang qua đấy, vì mục đích của họ là kinh thành. Mặc dù kinh thành không dễ sống hơn, nhưng ở đó có lương thực, có lúa gạo, khoai sắn, may ra bòn được chút gì. Ngồi im thì đằng nào cũng chết, chi bằng tha phương mà tìm cơ hội sống mong manh. Người đói giống như nước chảy từ các khe nhỏ về khe lớn, từ khe lớn về suối, từ suối đổ về sông, từ sông đổ ra biển. Kinh thành chính là biển lớn mà họ trông chờ, Tam Dương cũng là một khe suối nhỏ trong dòng chảy ấy. Càng ngày, người đói tràn về càng nhiều, người chết dọc đường nhiều không kể xiết. Quan trong huyện ngay từ tháng năm đã cho đào một cái hố vuông mỗi cạnh ba trượng, sâu một trượng, lệnh cho tất cả mọi người phải tránh xa trong vòng một dặm. Dân chúng vốn đã trải qua nhiều trận đối đầu truyền tai nhau rằng cái hố đó dành để chôn người chết, quan cấm đến gần thứ nhất là nhằm tránh dịch, thứ hai là để lòng dân khỏi hoang mang. Huyện Tam Dương nổi tiếng vì mỗi khi xuất hiện người chết đói đều có những chuẩn bị chu đáo khiến cho dịch bệnh do tử thi gây ra chưa bao giờ bùng phát ở nơi đây. Cũng vì chuyện này mà quan huyện được triều đình khen thưởng nhiều lần. Khi ấy Phạm Đình Quyết đang lang thang xin ăn ở chợ huyện Cốc Dương. Cái hố chôn người cách Cốc Dương không đến năm dặm. Quyết năm ấy tròn mười ba tuổi, trước tình cảnh như vậy, hắn đã cầm chắc chết đói, điều đó cũng hiển nhiên như việc hắn là một kẻ ăn mày. Từ hơn một tháng nay, chẳng có ai cho Quyết một hào một cốc hay chút gì ăn được. Hắn buộc phải ăn đủ thứ. Ban đầu hắn bẻ trộm chuối, thêm chút rau tập tàng. Rồi thì cỏ, hoa, rễ cây, côn trùng, đôi khi cả giun đất hắn cũng phải cố nhét cho đầy bụng. Quyết còn rình ngựa quan lại hoặc nhà giàu đại tiện thì bới tìm những hạt ngô chưa tiêu hóa hết trong đống phân để cầm cự. Có hôm có gã lý trưởng đi uống rượu về, say quá, đứng ven đường vạch quần đái một bãi, rồi nôn thốc nôn tháo. Quyết trông thấy, mừng rỡ, chẳng kịp chờ tên kia đi, cứ thế lao vào bốc lấy bãi nôn mà ăn. Một người cứ nôn, còn một người cứ ăn. Hôm đó, hắn được một bữa no. Nhưng bữa no chua loét! Suốt cả ngày hắn đào, hắn bới, hắn ngó nghiêng. Bấy giờ hắn không còn đi thẳng được nữa, thường phải bò. Xương sườn bắt đầu nhô cao. Các khớp xương lồi ra, dường như chúng đang sưng tấy lên. – Chắc chắn mình sẽ chết! – Hắn tự nhủ. Những người chết không có ai thân thích, không nhà không cửa, không mồ mả, những người chết oan uổng, chết đuối, chết vì dã thú, chết trận… đều trở thành cô hồn vất vưởng trong nhân gian, không được siêu thoát, không được ai hương khói thờ phụng, mà đến cả mồ mả để nương náu cũng không có. Người chết đói chắc chắn trở thành cô hồn! Chết đói vốn là một trong những cái chết đáng sợ nhất bởi nó diễn ra từ từ, nếu chết đuối trong vài phút, chết khát trong vài ngày, thì chết đói diễn ra nhiều tuần, có khi đến cả tháng trời. Cảm giác đói khát sẽ giày vò người ta ngày này qua ngày khác, kéo dài nỗi đau đớn tuyệt vọng cho đến khi thân xác kiệt quệ. Chẳng những thế, người đói chết đi trở thành ma đói, là thứ ma ngày đêm bị dằn vặt bởi cơn đói khi còn sống. Chúng luôn lang thang, vất vưởng đi kiếm thức ăn, nhưng ngặt một nỗi không bao giờ cảm thấy no bụng. Chẳng thế mà trong lục đạo luân hồi, có một đạo được gọi là “ngạ quỷ”, dành riêng để chỉ những con ma đói khát. Con người bình thường tuân theo lễ giáo, gia phong, luân thường đạo lý, ngợi ca nhân, lễ, nghĩa, trí, tín. Nhưng tất cả những thứ thuộc phần người như thế chỉ có thể tồn tại khi người ta được no cái bụng. Càng đói, phần con càng mạnh mẽ hơn. Đói ít thì người ta gắt gỏng, khó tính. Đói nhiều, người ta phá bỏ luân lý, chỉ chăm chú việc tìm đủ thứ để thỏa mãn dạ dày. Đói quá, phần người biến mất, người ta trở thành con thú điện cuồng tìm cách sinh tồn. – Phải ăn thịt! – Quyết nghĩ đến cái hố chôn xác cuối làng. – Phải, trong vòng vài chục dặm quanh đây chắc có lẽ chỉ còn cái hố đó còn thức ăn. Ý nghĩ ấy không rời khỏi đầu Quyết. Thực ra đó cũng chẳng phải do hắn nghĩ ra, mà là mệnh lệnh của cơ thể đưa ra để bảo vệ mạng sống. Đối với người quân tử, ăn xác người để rồi phải chịu sự giày vò của tâm can thì thà rằng một gươm chết quách đi, nhưng Quyết là một gã ăn xin. Một gã ăn xin thì cần gì luân thường đạo lý. Hắn chỉ cần duy nhất một đạo lý của tạo hóa ban cho muôn vật: được sống. Thêm nữa, Quyết sinh ra trong nhà làm nghề khâm liệm, việc tiếp xúc với xác chết đối với hắn chẳng có gì đáng sợ. Vì trước khi sa sút, theo lệ nhà Quyết, con trai lên tám đã được cha dẫn theo để học nghề. Đêm đó nhằm vào ngày rằm tháng bảy. Quyết lết từng bước từng bước đến bãi chôn người với các hố lớn hố nhỏ. Hắn biết người chết quá nhiều, những tên lính theo lệnh thường lại làm quấy quá cho xong chuyện nên các hố chôn người này không mấy khi được lấp kín. Chả thế mà mùi bốc lên từ các hố ấy cách xa cả dặm vẫn ngửi thấy, đúng là xú khí xung thiên. Quyết định bụng sẽ tìm một cái xác nào mới để duy trì sự sống. Hắn mang sẵn bùi nhùi lửa, lửa sẽ xua đi mùi xú uế và hắn sẽ nướng qua thứ thức ăn đó – hắn cố không nghĩ đến hai tiếng xác chết – hắn sẽ được ăn và cuối cùng, hắn sẽ sống! Quyết lê người đến một cái hố, có lẽ là hố lớn nhất. Quả như hắn đoán, những tên lính thậm chí không hề lấp đất. Ngay khi thò đầu vào hố, hắn đã hít phải mùi tử khí nồng nặc bốc lên. Hắn lập tức nôn thốc nôn tháo ra một thứ nước vàng vọt, chua loét, tanh tưởi. Quyết cố trấn tĩnh: – Nếu không ăn thì chết. Quyết thử một lần nữa, vẫn còn đủ tỉnh táo để không lặp lại sai lầm ban nãy. Hắn nghiêng người, kê đầu bên miệng hố, thò tay với xuống mò mẫm tìm. Không khó khăn gì để tìm được những thi thể kia, vì chúng đã lấp gần đầy hố. Quyết quơ được một bàn tay. Hắn bặm môi kéo mạnh. Nào ngờ thứ ấy không hề nặng nề như hắn nghĩ mà nhẹ bẫng. Quyết hét lên một tiếng, hết hồn vì nghĩ người đó còn sống. Hắn ngã ngửa ra sau, lăn một vòng. Cú ngã làm hắn đau ê ẩm và sợ. Quyết định thần lại, nhìn kỹ thì thấy mình đang cầm một bàn tay. Một bàn tay nát rữa và tím tái. Thảo nào nó rời ra ngay khi hắn kéo. – Không thể ăn thứ này được. – Hắn nghĩ thầm và gượng quay người lại một lần nữa. Đột nhiên Quyết thấy nhiều tiếng động sột soạt. Hắn nhìn quanh và kinh hồn bạt vía. Trong bóng đêm, xung quanh cái hố này không chỉ có mình hắn, còn có rất nhiều bóng đen. Những bóng đen này, hoặc là bò như hắn hoặc là lết đi một cách khó nhọc. Tất thảy đều gầy gò, còm cõi, lẩn khuất trong bóng tối, nhìn kỹ mới thấy nhiều vô kể, và đang hướng tới cái hố này. Quyết hoảng hồn: – Đây liệu có phải là những hồn ma? Một vài bóng đen lúc này đã đến được miệng hố, bất chấp hôi thối mà lao hẳn xuống. Trước mắt Quyết, những bóng đen lúc nhúc dưới ấy đều đang tìm kiếm gì đó. Khi tìm được, chúng đều cắm cúi gí sát đầu vào vật đó. Chúng đang ăn! Quyết bây giờ mới vỡ lẽ ra, những bóng đen này đang ăn xác. Bọn chúng lao xuống hố tìm kiếm những cái xác mới chết để ăn. Thì ra, không phải chỉ có một mình Quyết nghĩ đến chuyện ăn xác người. Bỗng trong hố vang lên một tiếng hét làm tất cả các bóng đen và Quyết phải giật mình. Ra là có một bóng đen khi lao xuống thì bất tỉnh, một bóng đen khác thấy cơ thể người này chưa bị phân hủy, bèn cắn ngay một miếng vào bắp tay. Nào ngờ người này chưa chết, tỉnh dậy hét lên một tiếng rồi đạp người kia ra. Cuối cùng cả hai đều ngất đi. Rất nhanh, hai cái bóng đen ngã ra lại bị những bóng đen khác xâu xé lấy. Bây giờ không còn là người sống ăn xác chết nữa. Mà là người sống ăn thịt người sống! Phải đến ba bốn chục bóng đen tranh giành lẫn nhau dưới hố, tham gia vào trận hỗn chiến bằng chút sức tàn. Trận đấu tuy là của những kẻ sắp chết nhưng cực kỳ khốc liệt và man rợ. Quyết kinh hãi quá, nhưng không còn sức bỏ chạy nữa nên đành trân trân ngó vào hố mà không thể làm gì. Đột nhiên Quyết nhận ra có cái gì đó thúc sau lưng mình, tiếp đó là một cơn đau chói ở bắp chân. Một người sắp chết đói khác đang cố cắn vào bắp chân hắn. Quyết hét lên một tiếng, nhưng lực đã kiệt, hắn liền ngất đi. Mưa! Mưa làm hắn tỉnh. Chẳng biết đã qua bao nhiêu lâu, trời lúc này tối thẫm, cơn mưa lớn đã che khuất ánh trăng rằm. Xung quanh Quyết, mọi vật đều mềm nhũn và ướt sũng. Cảnh hỗn loạn lúc trước không còn nữa, nhưng mùi hôi thối khủng khiếp vẫn chưa tan. Hắn kinh hãi nhận ra: – Mình đang nằm dưới hố! Đang lúc vừa bàng hoàng, vừa hoảng sợ thì Quyết thấy có tiếng hú dài. Tiếp đến là mùi nhang phảng phất bay tới. Quyết hoảng hốt nghĩ: – Lẽ nào mình đã chết? Chết làm con ma đói, mình đã thành một cô hồn rồi sao? – Quyết tê tái nghĩ thầm. Trong lúc hắn chưa thể quen ngay với cái ý nghĩ mình đã thành một cô hồn thì bỗng có một tiếng thì thầm. Âm thanh này thoạt đầu thì ấm áp nhưng dần dần nghe ra ma quái rờn rợn. Tiếng nói lớn dần lên, lúc dịu dàng lúc mạnh mẽ, có khi khẩn khoản van xin, có khi nài nỉ ỉ ôi, có lúc mê hoặc lòng người, nhưng cũng có khi dứt khoát như ra lệnh, dữ dằn như quát nạt. Nghe những tiếng ấy người ta vừa cảm thấy mê mụ phải tuân theo, vừa sợ hãi không dám trái ý. Qua một hồi lâu Quyết mới đủ bình tĩnh để nghe từng câu từng chữ. Tiếng thì thào đó giống như một bài ca, nhưng nghe kỹ thì hóa ra giọng ca ấy ca lên nhiều bài, mỗi bài một vẻ, liên miên bất tận. Sau mỗi bài, lại có một tiếng hú dài. Quyết nghe thấy ca rằng: Hồn kia bất đường Không chốn dung thân Áo quần rách bươm Khớp sưng mặt lấm Cơm ăn không có Bụng đói tha hương Vất xưởng về đâu Hồn ơi hồn hỡi! Miệng ta khiển tướng Giọng ta điều binh Tập hợp đội hình Về đây quy tụ Ăn bát cơm trắng Ngậm miếng thịt to Uống bát rượu đầy Ngửi mùi hương quý Ta ban áo giáp Ta ban cơm canh Bạc vàng kim ngân Tha hồ thụ hưởng Hồn kia bất ngưởng Về với quân ta Có bạn âm binh Có trên có dưới Hồn hỡi, hồn ơi Không còn vất vưởng Về đây, về đây… Quyết vừa nghe đến hai từ “âm binh” thì giật nẩy người. Hắn từ nhỏ đã theo cha ông làm nghề khâm liệm, thường xuyên tiếp xúc với cái chết nên những chuyện về ma quỷ hắn cũng có đôi chút kiến thức. – Đây chẳng phải văn khấn âm binh sao? – Quyết kinh hãi nghĩ thầm. – Hôm nay lại là rằm tháng bảy! Hắn lạnh hết sống lưng. Ngày xá tội vong nhân, chính là ngày âm phủ mở cửa để các vong hồn được tự do đi lại trên dương thế, một số ít trong đó được siêu thoát, đầu thai, số khác thì chỉ được tự do vào duy nhất ngày đó trong năm. Đêm rằm tháng bảy là đêm mà dương thế nhiều vong hồn vất vưởng nhất. Các nhà đều thắp hương cúng bái để bố thí thức ăn cho các vong hồn. Lệ tục bố thí đó một phần vì lòng nhân đạo, cảm thương cho những kiếp lầm than chưa trót, nhưng phần khác là do người ta lo sợ bị vong quấy nhiễu. Đêm rằm tháng bảy cũng chính là cơ hội mỗi năm có một lần để các phù thủy thu binh. Binh ở đây chính là âm binh. Để thực hiện trận, thầy phù thủy trước hết phải yểm thân, nghĩa là phải tự bảo vệ mình không để cho ma quỷ xâm phạm. Muốn như thế, phù thủy có nhiều cách thực hiện tùy theo từng chi phái tu tập khác nhau. Thường thì các phù thủy dùng bùa yểm thân. Bùa yểm cũng có nhiều loại, có người phải dùng kiếm ấn của một vị tướng quân nào đó nhuốm máu đủ chín mươi chín người, có người dùng xác trinh nữ, có người lại chỉ dùng linh phù… Bùa mỗi loại mỗi khác nhưng đều có chung công dụng là giữ cho phù thủy hay vị tướng âm binh không bị chính âm binh của mình hoặc các vong hồn vất vưởng hãm hại. Tùy theo công lực và mức độ công phu của từng loại bùa mà hiệu quả mạnh yếu khác nhau. Ví dụ như vẽ bùa yểm quỷ thì người vẽ rất quan trọng. Nếu người vẽ đã hành nghề lâu năm, số lượng âm binh lớn thì bùa đó đủ sức trấn yểm đa số các loại linh hồn hay ma quỷ. Thế nhưng, nếu chẳng may gặp những vong hồn mạnh thì sẽ táng mạng hoặc bị chính vong hồn đó sử dụng, gọi là vong nhập, trở thành con rối trong tay vong hồn đó. Tiếp đó, các phù thủy lập trận thu binh. Trận pháp của chúng cũng đa dạng khó lường. Chưa xét về phương pháp điều binh khiển tướng, chỉ xét về cách thức dụ quân đã có hai cách chính là “chế” và “dụ”. Chế là áp chế vong bằng cách cưỡng ép linh hồn vào trận, dụ là phủ dụ vong bằng cách dỗ ngọt. Trận chế bao giờ cũng khó lập hơn nhưng thu được binh mạnh hơn vì linh hồn càng oan khuất thì càng mãnh liệt. Lập trận chế cần theo bát quái ngũ hành để ma quỷ đi vào đó thì lạc không thể thoát ra, từ đó các thầy phù thủy mới có thời gian áp chế. Những binh thu được từ trận chế có sức mạnh như thế nên một khi phản chủ thì phù thủy sẽ thê thảm vô cùng, không những bản thân mà con cháu đều bị liên lụy. Có phù thủy non tay bắt vong quá mạnh, bị vong nhập vào mình, đêm về lẻn vào phòng con ruột, làm chuyện đồi bại. Chẳng những thế, khi xong việc tự nhiên người ấy lại la hét om sòm, khiến cả làng chạy sang xem. Lúc đó, tay phù thủy ấy thật là sống dở chết dở, bị người người dè bỉu khinh miệt, không bỏ làng đi không được. Những nỗi oan như thế cực kỳ khó giải vì nghề phù thủy thường phải giấu kín, thành ra nhiều kẻ bị coi như loại cầm thú mà không sao thanh minh được. Đó mới chỉ là một ví dụ, chuyện trả thù của vong thật ra vô cùng đa dạng, bị vong nhập rồi cướp của giết người, phóng hỏa đốt nhà… đều là những chuyện người trong giới phù thủy vẫn truyền tai nhau, nhắc nhau phải cẩn trọng. Trận dụ dễ lập hơn, nhưng thường không thu được binh mạnh. Các thầy dùng trận dụ nhiều khi chỉ cần đặt linh vật như chín mươi chín đồng xu được ngậm trong miệng chín mươi chín người chết (dĩ nhiên những đồng xu này phải đào trộm mộ mới lấy được) để thu hồn người chết rồi dùng lời lẽ mê hoặc để phỉnh dụ. Loại trận pháp này giống như một loại giao dịch của thương nhân, không có ràng buộc chặt chẽ. Bởi thế, những âm binh thu được từ trận dụ thường không đủ sức làm các việc lớn như chữa bệnh, hại người hay bảo vệ phù thủy mà thường chỉ có thể tát nước, thám thính hay đi ném đá, gạch vào nhà người khác. Ngoài ra, phù thủy có thể lập “chế dụ hỗn trận”, là loại trận pháp kết hợp cả hai dạng trên. Mới nhìn qua, kể cả người trong nghề cũng khó nhận biết được ngay, chỉ khi nào pháp lực phát huy tác dụng mới có thể biết được trận lập ra thuộc dạng nào. Quyết hiểu rằng mình đang nằm ngay giữa trận đồ thu binh của một phù thủy nào đó. Trận thu binh mà được lập đúng ngày xá tội vong nhân tại nơi nhiều người chết đói thế này, thì số lượng vong hồn sẽ nhiều không kể xiết. Chỉ có phù thủy cao tay ấn mới dám lập trận lớn nơi có nhiều vong thế này. Quyết không khỏi kinh hãi, vì hắn biết, chỉ cần có mặt ở đây lúc này thì bất kể đã chết hay còn sống đều là chuyện chẳng lành. Nếu hắn đã chết mà nghe lời khấn này, quy thuận theo gã phù thủy kia thì khác nào bị giam cầm, mãi mãi vất vưởng không được đầu thai, nhưng nếu không nghe theo thì có thể bị đội âm binh sẵn có của gã phù thủy kia tiêu diệt. Còn như chưa chết thì phàm là người không có căn, lỡ chẳng may nhìn thấy thầy phù thủy bày trận, sớm muộn sẽ bị âm binh làm cho điên rồ ngẩn ngơ. Vậy mà Quyết đang ở đây, ngay giữa “trận thu binh”! Khi đó mưa đã dứt, gió thổi nhẹ, Quyết dần tỉnh táo hơn, nhưng cái lạnh thấu xương bắt đầu giày vò hắn. Quyết biết mình chưa chết vì hắn vẫn thở. Hắn cảm nhận rõ hơi thở nặng nhọc của mình hòa lẫn với mùi rữa nát từ các tử thi. Bỗng Quyết nấc lên, hắn vừa ngửi thấy mùi thịt lợn, mùi thịt gà, mùi giò lụa, mùi xôi. Người đói rất nhạy với mùi thức ăn, dù cho nó có quyện với những thứ hôi thối đến đâu chăng nữa. Chẳng qua khi nãy hắn mới tỉnh dậy, trời lại mưa lớn, tinh thần khiếp sợ nên đến giờ mới ngửi thấy mà thôi. Thịt gà! Dù hơn năm nay không được ăn thịt gà nhưng Quyết chưa từng quên được cái mùi thơm ngậy này. Nước miếng hắn tứa ra. Chợt có tiếng chuông, leng keng, leng keng. Gió thổi. Quyết ướt sũng và lạnh run rẩy. Gió càng mạnh hắn càng lạnh. Hắn biết, hoặc phải bò được lên miệng hố hoặc là sẽ chết ở đây. Mặc kệ tà ma hay quỷ thần, hắn cũng phải rời khỏi chỗ này. Biết đâu, chờ tay phù thủy làm phép xong hắn có thể xin được thụ lộc? Hắn biết, thầy phù thủy một khi nuôi âm binh, thường tự coi mình là tướng, không bao giờ thụ lộc của âm binh, tức người dưới của mình. Khi đó Quyết có thể được chén đẫy con gà kia. Quyết cố lật người lại. Dù đã quen hơn với cái mùi mục rữa của cơ thể người, nhưng mùi xú uế xộc thẳng vào mũi vẫn khiến hắn không tài nào thở được, bụng hắn quặn lên, lại nôn mửa thêm một chặp nữa. Hắn chỉ chực nằm ngửa để khỏi phải chịu đựng cái thứ kinh khiếp này. Nhưng hắn biết, nếu cứ ở đây, hắn sẽ chết, hoặc sớm hoặc muộn. Tiếng chuông lại leng keng, leng keng. Gió thổi mạnh hơn. Hắn đã bắt đầu bò được một đoạn. Thực ra nói là bò chứ hắn chỉ có thể trườn từng đoạn rất ngắn và lấy tay đẩy người nhích thêm đôi chút. Lúc này đôi chân hắn tê cóng không thể nhúc nhích được, việc di chuyển cực kỳ khó khăn. – Phải sống! Quyết lẩm nhẩm vì không muốn mình ngất đi lần nữa. Hắn hiểu rằng nhờ có cơn mưa ban nãy, cơn mưa đêm rằm tháng bảy mà hắn có thể tỉnh lại, nếu mưa đến chậm một chút, có lẽ hắn đã chết. Leng keng, leng keng, leng keng. Gió thổi rất mạnh. Sau một hồi cố gắng, Quyết chỉ còn cách miệng hố chừng nửa cánh tay. Leng keng, leng keng, leng keng. Gió mạnh dữ dội, cây cối vặn mình răng rắc. Những tán cây đen đúa lắc lư trên nền trời tối thẫm. Hắn thấy có gì đó không ổn. Có cái gì đó ngày càng gấp gáp. Bây giờ thì tiếng chuông vang lên liên hồi, không thể đếm được từng tiếng, tiếng nọ lẫn vào tiếng kia, tiếng kia nuốt mất tiếng nọ. Gió tự dưng ngừng bắt những cây cối vẫn tiếp tục ngả nghiêng. Rồi như có tiếng hát văng vẳng từ xa. Cũng không phải tiếng hát. Giống như tiếng nói chuyện mà cũng không hẳn là tiếng nói chuyện. Tiếng động này đang từ xa dần dần tiến lại. Bỗng cái giọng ma quái ban nãy quát lên một tiếng: – Tới! Tiếng quát khiến Quyết sởn gai ốc. Tiếng động kia dường như cảm ứng với tiếng quát, lại tiến nhanh hơn. Hắn kinh hoàng nhận ra: vong đang đến! Các vong đang vào trận! Lúc này, Quyết nằm sấp ngay sát miệng hố, ngẩng đầu lên có thể thấy cảnh tượng xung quanh. Hắn đoán chừng tên phù thủy kia đã giết hết các bóng đen ăn xác khi nãy, vô tình để sót lại mình hắn. Quyết nhất thời cũng không biết nên làm thế nào, bò tiếp ra khỏi hố thì sợ bị tay phù thủy phát hiện. Hắn đành nằm im nghe ngóng nhưng trong thâm tâm cũng tò mò, bèn tì cằm lên tay, ghé mắt ngó nhìn. Lúc này đã tạnh mưa, mây đen tan hết, trăng rằm soi rõ mọi vật như ban ngày. Quyết thấy ngay trên một bãi đất trống cạnh hố, có một bàn lớn được bày biện rất cẩn thận. Trên bàn có một lư hương bằng đồng nhỏ, một bát hương xanh biếc, cả hai đều được trang trí cầu kỳ hình rồng phượng. Khói hương từ bát và khói trầm từ lư bốc ra nghi ngút. Khói trầm có một màu đỏ tía. Vốn có hiểu biết về hương khói, Quyết biết ngay đây là tuyệt phẩm “tử khí trầm” quý hiếm thượng hạng. Thứ trầm này vốn từ mạn ngược chuyển về. Chữ “tử” ở đây không có nghĩa là chết mà là đỏ tía vì loại trầm hương này khi đốt lên cho khói màu đỏ tía đặc trưng. Mùi hương của tử khí trầm cực kỳ đậm, trong vòng mấy chục trượng đều ngửi thấy. Trầm hương vốn hình thành từ cây dó bầu, hương trời bay theo gió đáp vào chỗ bị thương trên thân cây, lâu ngày, cây thấm hương trời biến thành trầm hương. Những cây dó bầu có hương lực cao thường là những cây xơ xác, thân có u, bướu, bị sâu đục, gò mối đóng, bị giông gió làm gãy cành hay bị sét đánh. Loại tử khí trầm này, phải hội đủ hai yếu tố, một là bị huyết trùng đục, hai là bị sét đánh. Thứ tự đục trước đánh sau không được thay đổi. Tương truyền tử khí trầm một khi đã xuất hiện thì át hết các thứ hương khác. Vậy tại sao vẫn có mùi hôi thối nồng nặc của xác chết trong không khí? Chuyện này có hai nguyên nhân. Thứ nhất là, hương trong bát hương là loại “hồng diện hương”, cũng là tuyệt phẩm trong các loại hương. Xét về bản chất, trầm bao giờ cũng hơn hương một bậc bởi hương ngoài chất thơm còn có các tạp chất khác trộn lẫn như mùn cưa hay bột để tạo độ dẻo và chắc… Loại hương quý này dù không át được tử khí trầm nhưng tử khí trầm gặp hồng diện hương thì hai bên tương tranh khiến hương lực của trầm bị giảm đi một phần. Thứ hai là vì xú khí của tử thi cũng là thứ mùi thối hàng đầu trong thiên hạ nên tử khí trầm đã bị giảm hương lực do hồng diện hương lại gặp thứ cực phẩm hôi thối ấy, rốt lại, tuyệt phẩm tử khí trầm không phát huy được hết công hiệu. Tính ra vừa có một cuộc long tranh hổ đấu của ba loại mùi hương mà cuối cùng vẫn chưa phân thắng bại. Nên nhớ, đối với phù thủy lập trận, mùi hương cực kỳ quan trọng. Hồn theo hương mà tới, vì vậy mà mỗi khi cúng bái người ta thường thắp hương, một phần là coi đó như lễ vật để cung tiến, một phần cũng là để hồn dễ về. Trầm hương thầy cúng sử dụng càng quý thì càng dẫn dụ được nhiều vong. Nhưng thầy cũng phải cân nhắc năng lực của mình, Huyền thuật toàn thư có viết: “Trầm quý dẫn vong quý, vong quý trị được thì đại quý, không trị được thì đại họa.” Lúc này Quyết mới nhìn rõ, trên bàn bày biện đủ cả hương, hoa, đèn, trà, quả, thực, gọi là lục phẩm tiến đống. Giữa bàn bày nguyên một con lợn quay lớn, còn có đến năm con gà xếp xung quanh, rồi xôi, hoa quả, chè… toàn thứ đồ thượng hạng. Ngoài ra có hai ngọn đèn dầu bày hai bên, một ấm trà mạn nghi ngút khói, hai bình hoa cúc vạn thọ vàng rộ cùng nhiều thức cúng khác nữa. Quyết nhìn thấy thức ăn trước mặt, nước dãi túa ra nhiều không kể xiết. Nhưng trước tình thế này, hắn có gan bằng trời cũng không dám lao đến tranh ăn. Cạnh bàn, một người đàn ông cao mà gầy đét đang đứng, tay đặt trong một cái bát lớn. Người này tóc xõa dài đến tận thắt lưng, một phần trên đỉnh đầu được cạo bớt thành một vành tròn. Gã mặc một chiếc áo giao lĩnh, hai vạt đen bắt tréo trước ngực, thường người Việt khi ấy chỉ dùng vải trắng giản dị, những kẻ có danh vọng cao hoặc rất giàu có mới hay dùng vải đen. Dị nhân này đầu tóc dài xõa ra phủ gần như kín mặt, lấp ló dưới mái tóc đó là một đôi mắt dài như lá liễu và sáng như chớp. Ánh mắt ấy tựa hồ có thể phát sáng trong đêm tối. Quyết lúc này cách bàn tế có một trượng, hắn thấy miệng tay phù thủy liên tục lầm bầm niệm chú. Nguyên là sau khi phù thủy gọi hồn về quanh trận thu binh, hồn thường không vào trận ngay mà lảng vảng xung quanh, tựa như con thú thăm dò cái bẫy trước khi chui vào. Đây là thời khắc rất quan trọng cho việc thành bại của trận thu binh tối nay. Nếu không dùng uy lực áp chế vọng vào trận thì phù thủy không thể thu phục vong được. Lúc này nếu thầy dùng trận chế thì càng nguy hiểm hơn. Bởi vong bị thầy dùng uy lực thúc đẩy vào cũng giống như người ta thúc ép một con vật vào lồng, trở nên điên cuồng, phù thủy không đủ uy lực hoặc bùa hộ thân không mạnh sẽ bị vong hãm hại. Uy lực chính là cái thần thái tự có trong mỗi con người. Có người khi ta mới gặp lần đầu đã thấy quý mến, gần gũi, lại có người ta thấy sợ hãi. Uy lực này giống như năng khiếu của mỗi phù thủy, là cái trời cho, không bao giờ học được. Dụng bùa là việc có thể học được, nhưng công phu rèn luyện cực kỳ gian khổ. Phù thủy cao tay có thể không cần yểm thân mà chỉ dựa vào uy lực bản thân đã đủ quy phục vong, thậm chí có vong thấy uy lực ấy mà tự theo hầu. Phù thủy hạng ấy có thể coi như đã đạt được cảnh giới tối cao, cực kỳ hiếm gặp. Tay phù thủy cao gầy trước mặt Quyết đây không có được tố chất đó, uy lực của gã tuy thuộc dạng khó tìm nhưng chưa phải là tuyệt thế. Song dường như gã hành sự rất cẩn thận. Nghề nào có quy tắc nghề đó, nghề phù thủy tiếp xúc với âm giới, cũng như nghề khâm liệm, phải lấy thận trọng làm đầu, vì nếu chẳng may bị vong nhập thì hậu quả rất khó lường. Nhưng nghề phù thủy còn phải thận trọng hơn nghề khâm liệm một bậc, bởi một bên là khiển ma, một bên là hầu ma, tự nhiên thứ hạng đã phân rõ cao thấp. Những chuyện như thế này, con nhà nòi về khâm liệm như Phạm Đình Quyết vẫn thường được nghe cha và nhiều người trong đám ma nhắc đến nên khá am hiểu. Người trước mặt Quyết lúc này, thần tướng lộ rõ ràng trên mặt, ánh mắt sắc như dao mài, chưa ra lệnh mà người khác đã phải thuần phục, chưa lên tiếng người khác đã phải tuân theo. Con người dữ tướng như thế này, thì không những dụ ma, mà thôi miên người sống cũng chẳng khó gì, kể ra gã cũng là cao thủ trong giới huyền thuật. Lúc bấy giờ, trăng đã lên cao, trời quang mây tạnh. Ánh trăng vằng vặc soi mọi vật sáng rõ mồn một. Quyết giật mình kinh hãi vì nãy giờ hắn quá chú ý vào bàn lễ, khi nhìn xung quanh mới thấy vô số những bóng trắng là nhờ xếp thành một vòng dày đặc. Những cái bóng ấy chính là vong hiện Quyết nghe thấy những âm thanh thảm thiết phát ra ở khắp nơi, tựa như một mớ hỗn tạp của tiếng mẹ khóc con, tiếng la thét của những phạm nhân bị xử lăng trì, tiếng kêu gào của người ngã xuống vực… Gió rít liên tục mà cây cối vẫn lặng như tờ. Một bầu không khí ma quái bao trùm. Âm thanh này, cảnh tượng này quả làm người ta rợn tóc gáy. Gã cao gầy đứng trước bàn lễ quả tình là một phù thủy cao tay ấn, trước cảnh hồn về đông đúc hỗn loạn thế này mà gã không hề nao núng. Gã vẫn khấn khứa luôn miệng, không hề bối rối, như thể đây là chuyện diễn ra hằng ngày. Đột nhiên, gã thét một tiếng: – Vào! Tiếng quát này vừa to vừa đanh thép, tựa như tiếng tướng quân ra lệnh. Tiếng thét vừa dứt, tất cả các âm thanh đều im bặt, kể cả tiếng gió. Sau một hồi, Quyết thấy các bóng lần lượt đi theo một hướng, giống như sắp hàng đi qua trước bàn lễ. Hàng bóng trắng này diễu qua trước mặt Quyết. Nỗi tò mò còn thắng cả kinh hãi, hắn vẫn cố dòng tai, ghé mắt xem cho tường tận. Khi mỗi bóng cách nhau ừng nửa trượng, mỗi khi qua trước mặt thầy phù thủy thì đều dừng lại, tựa như để thầy nhìn cho kỹ. Thầy nhìn vong một lúc, rồi lại quát: – Qua! Lập tức bóng trắng này rời khỏi bàn lễ, thoắt cái đã biến mất. Cũng có lúc thầy hô: – Nhận! Lập tức bóng trắng đứng ra một bên, tụ lại một góc mé tả bàn lễ. Qua một hồi rất lâu mới có mấy cái bóng tụ lại gần thầy. Lúc này thầy bèn lấy một vật trong một cái bát và bỏ sang bát bên cạnh. Nguyên là tay phù thủy này không phải loại vong tầm thường nào cũng nhận, mà chọn lọc, nuôi những ma mạnh có thể làm được nhiều việc hơn, hữu dụng hơn. Nuôi những vong yếu nhiều khi vô dụng, vì ngoài việc nghe ngóng, làm do thám hay trêu ghẹo đàn bà, trẻ con, thì thường chúng không làm được việc khác. Những vong tụ lại bên cạnh thấy chính là những ma được thầy thu nhận. Còn vật trong bát là những hạt đậu đen, thầy yểm phép để vong ẩn vào hạt đậu, khi cần thì gọi ra, lúc không cần thì thu lại, đi đến đâu có thể đem đậu ra sử dụng đến đó, rất thuận tiện. Thông thường các phù thủy chỉ thờ âm binh trong các bàn thờ gần nhà, phù thủy có thể thu được vong vào hạt đậu cũng là hạng hiếm gặp. Những chuyện này, Quyết hiểu được sáu bảy phần nhờ nghe cha kể lại, nhưng hắn chưa bao giờ thấy tận mắt. Hôm nay, nếu không tính đến nguy hiểm đang rình rập thì kể ra hắn cũng được một lần mãn nhãn. Lúc này, Quyết quên cả mình sắp chết đói, quan sát rất cặn kẽ, suy đoán từng việc, từng việc một. Bấy giờ, trước mặt phù thủy là một dị vong. Gọi là dị vong vì bóng của vong này không nhờ nhờ như các bóng khác mà sáng dị thường, trong ánh sáng lộ sắc tía hồng, hình dạng cũng lớn hơn. Phù thủy nhìn chằm chằm hồi lâu, mặt không biến sắc, nhưng từ miệng gã, tiếng niệm dần to hơn. Bỗng thấy cái bóng tía lắc lư, tiếng đọc chú của thầy phù thủy cũng gấp gáp theo nhịp lắc lư đó. Trán gã toát mồ hôi nhưng giọng vẫn ổn định, không lộ vẻ gì khác thường, trừ việc tiếng niệm to và nhanh hơn. Nhưng dường như tiếng niệm này không khắc chế được vong. Vong này liên tục lắc lư thách thức. Đột nhiên, phù thủy ngừng niệm. Hai mắt gã mở to nhìn chòng chọc vào vong. Đột nhiên vong cất tiếng cười vang dội. Gã phù thủy giật mình, lùi lại một bước, miệng thốt lên: – Soái vong! HỒI THỨ TƯ SOÁI VONG Nguyên là ở cõi âm, các vong hồn cũng phân trên dưới như người trên trần gian, trong đó căn cứ quan trọng bậc nhất là dương khí còn nhiều hay ít, bởi vậy mới có chuyện ma nữ quyến rũ trai tráng để hút lấy dương khí của họ. Căn cứ thứ hai chính là thần khí của vong khi còn tại thế, người khi sống có thần khí cao thì khi chết đi vong càng mạnh. Chỉ dựa vào yếu tố thần khí này cũng có thể sơ bộ phân loại các vong. Trong các loại ấy, đứng đầu là “đế vong”. Đế vong có thể làm chuyện lấp bể dời non, đây là các hồn của vua chúa chết đi. Loại này cực hiếm gặp, vì các vua chúa thường được chôn cất trong lăng mộ cực kỳ kiên cố, không bao giờ phải lang thang không nhà không cửa. Thêm vào đó, vua chúa đều được ma chay cực kỳ trọng thể, đại lễ cầu siêu cực kỳ long trọng, lễ vật tuyệt phẩm thiên hạ, cho nên các bậc ấy siêu thoát nhanh chóng, còn đâu trên thế gian mà lưu lạc? Đế vong thường chỉ xuất hiện khi vua chúa bị lật đổ, lăng mộ bị tàn phá, thi thể bị trấn yểm. Khi ấy giống như vua mà bị truất ngôi, dù không còn trên đỉnh cao muôn trượng nhưng thần khí vẫn còn mang trong mình. Thế gian có thiên giới, âm giới và trần giới. Vua trần giới tuy thấp hơn diêm vương – vua chốn âm giới – một bậc, lại thấp hơn ngọc hoàng – vua thiên giới – hai bậc, nhưng nếu xét trong các vong hồn thì đây là loại mạnh nhất. Loại vong này có khả năng hiệu triệu được muôn vạn âm binh về hầu dưới trướng. Nếu có được một đế vong chẳng khác gì có được thiên binh vạn mã. Loại vong này đã cực kỳ hiếm thấy, lại chỉ có thể dùng trận dụ chứ không thể dùng trận chế bởi pháp lực của đế vong là vô cùng vô tận. Trong giới huyền thuật cũng chưa từng có ai trấn áp được đế vong. Loại vong được xếp thứ hai chính là “soái vong”. Soái vong thường là những vong hồn của các tướng cầm quân ra trận, chết trên sa trường. Không phải tướng nào cũng có thể thành soái vong, mà tướng ấy khi sống phải đủ oai dũng. Có những người vì gia thế mà được phong tướng, có những người vì nịnh nọt mà mua được danh. Có điều nếu tài lược, dũng khí không đủ, cũng không thể thành soái vong. Ngược lại, nhiều khi có những người tuy ở địa vị thấp kém nhưng hội đủ thần khí thì khi chết đi vẫn có thể trở thành soái vong. Tuy thế, những trường hợp ấy không nhiều. Thường thì khi dũng tướng chết đi, linh khí vẫn còn, lại bị chết tức tưởi nên ngàn thu di hận, hồn không siêu thoát được. Đây chính là loại vong mà các thầy phù thủy đều muốn thu nạp được, cũng chính là vong mà gã phù thủy cao gầy này đang gặp. Vì đế vong cực hiếm nên ít khi được đề cập. Thường thường người ta chỉ coi soái vong là đỉnh cao của âm binh. Có được một vùng như thế, sức mạnh như ngàn vạn âm binh. Có điều, để phục được một vong như vậy thực không dễ gì, vong mạnh thường không chịu quy phục thầy, phù thủy phải đem tính mạng ra đánh cuộc. Gã phù thủy cao gầy đang trong tình trạng đối mặt với soái vong. Gã biết để thắng soái vong có hai cách, một là dùng chính âm binh mình có, hai là phải có bảo bối thâu ma. Nếu dùng chính âm binh của mình thì cũng có hai cách, hoặc là số lượng phải đông đảo, bức soái vong vào thế “hổ dữ thua bầy chó”, hai là phải có một soái vong mạnh hơn soái vong đang muốn thu. Phù thủy cao gầy trông thấy ánh sáng tía phát ra từ vong trước mặt thì biết soái vong mình đang gặp mạnh mẽ vô cùng, pháp thuật cao thâm khó lường, nếu không thu được thì tính mạng chỉ còn trông chờ vào bùa yểm thân. Thành ra gã đã chuẩn bị một trận tử chiến. Gã đột nhiên thét: – Tan! Lập tức, các bóng sáng mờ nhạt xung quanh dần tản ra hết, sau thời gian uống cạn chén rượu, bên cạnh hố chôn xác chỉ còn lại thầy và soái vong kia. Soái vong vẫn lắc lư như chờ đợi, như thách thức. Hoặc giống như nó đang chờ đợi phù thủy dọn sạch sẽ sân bãi để chiến đấu một trận cho sảng khoái. Thực ra gã phù thủy lo rằng quanh mình quá nhiều vong lạ thì lúc giao đấu dễ bị vong nhập, thành ra mới phải giải tán đám vong đã thu nạp kia. Soái vong thừa biết chuyện đó, có điều, soái vong ấy cũng thực oanh liệt, tuyệt đối không thèm thừa cơ lấn lướt. Ngẫm ra thì đúng là chỉ có thể giết được tấm thân người uy dũng, chứ nào có thể diệt được thần oai kẻ anh hùng. Phù thủy thấy thế cũng ngấm ngầm cảm phục. Bèn lớn tiếng nói: – Tại hạ là Cao Tiến, ngụ tại Đông Kinh, hành nghề được hai mươi ba năm, binh tướng không nhiều, chỉ có năm trăm. Xin tướng quân cho biết tên. Nếu tướng quân đồng ý, hãy cùng tại hạ làm việc lớn, không dám phân cao thấp, không kể đến cách biệt âm dương, từ giờ coi nhau như bằng hữu. Về sau chúng ta có phúc cùng hưởng, có họa cùng chia. Khi thành việc lớn, tại hạ sẽ lập miếu, xây đền, không dám nuốt lời. Giọng nói của Cao Tiến mấy câu đầu cực kỳ đanh thép, mấy câu sau lại cực kỳ mềm mại, có lúc hơi uốn éo như đàn bà, đây chính là thuật mê vong của Cao Tiến. Trong câu nói này vừa có ý trọng vừa có ý đe. Đối với hạng vô danh tiểu tốt thì đời nào được thầy phù thủy hỏi đến xuất thân, sự nghiệp khi còn trên trần thế. Hơn thế nữa, phù thủy là tướng, âm binh là quân, đời nào có cái nhẽ không phân biệt chủ tớ? Đó chính là ý trọng. Ý đe ở đây là nói rõ cho đối phương biết trong tay mình có đến năm trăm tinh binh, cứ theo cái phép tuyển binh mà Tiến làm nãy giờ, có thể hiểu năm trăm âm binh này đều thuộc hạng ma lực cao cường. Ý Cao Tiến muốn kết hợp trận chế và dụ làm một, “tiên lễ hậu binh”, dụ được thì dụ, không dự được thì quyết chiến. Soái vong đáp: – Ta là Thuận Thiên Khải Vận Đại Nhân, tên Nguyễn Danh Phương, cái thứ mèo què như người mà cũng dám thu ta sao? Tiếng của vong phát ra không rõ ràng, giống như tiếng ừ hữ của người đang buồn ngủ, mỗi câu mỗi chữ đều khó khăn. Cao Tiến nghe nói thì giật mình kinh hãi, gã biết rất rõ thân thế người này. Nguyễn Danh Phương khi còn sống từng thống lĩnh mấy vạn quân nổi dậy, lập một triều đình ngay gần kinh sư, chúa Trịnh hao tổn bao tâm trí mới hàng phục được. Mặc dù Phương xuất thân giặc cỏ nhưng sự nghiệp lẫy lừng, uy chấn cả một vùng, âu cũng là bậc anh hùng trong thiên hạ. Không ngờ đến gần ba mươi năm sau, linh hồn y vẫn chưa siêu thoát, vất vưởng đến đây. Mặc dù Phương xưng vua nhưng danh không chính ngôn không thuận, thời gian quá ngắn, thành ra vong mới chỉ đạt mức “soái” chứ chưa được mức “đế”. Cao Tiến xem ra vong này mạnh lắm, nhưng một là đã cưỡi trên lưng hổ, không thể xuống giữa chừng, hai là bất cứ phù thủy nào cũng mong có được một vong mạnh như thế. Ngẫm ra, đây chẳng phải vận may trời cho gã sao? Nên nhớ rằng, các vong cực kỳ oán hận những trận chế, cũng như người ta sẽ oán hờn những kẻ khi không bắt mình về làm nô lệ. Lúc này, xem lời lẽ của Phương thì khó có thể dùng trận dụ được. Cao Tiến không nói nữa mà hú một tiếng dài, ném ra vật gì đó. Tiếng hú này làm cho Quyết nằm dưới hố ù cả tai, mắt tựa hồ cũng mờ đi. Trong tiếng hú vẫn nghe tiếng cười ha hả ma quái như nhạo báng của Phương. Qua một lúc, lại có tiếng gió. Quyết có cảm giác dường như một đám vong khác đang tụ đến. Chỉ khác là đám vong này không ồn ào như đám trước. Hắn đưa mắt nhìn quanh, lập tức thấy rất nhiều bóng trắng xung quanh Tiến. Đám vong này sáng hơn hẳn đám vong khi nãy, đi lại có hàng lối chỉnh tề, tuần tự, khoảng cách vong trước vong sau đều đặn, không sai lệch một tấc, giống như một đội quân được huấn luyện rất tinh nhuệ, thiện chiến. Đội quân này tiến đến gần Phương thì chia làm năm tốp, bốn tốp vây lấy Phương, một tốp lại tách ra tập trung bảo vệ Tiến. Phương vẫn cười ha hả, bóng tía tách ra một đốm nhỏ bằng nắm tay. Cái đốm này lóe sáng rồi lao về mé tây bắc. Đốm sáng vừa lao đến vòng vây, lập tức có vài bóng trắng tan mất. Rõ là năng lực của soái vong quá mạnh mẽ, chỉ trong chớp mắt, Phương đã hạ được bảy tám âm binh của Tiến. Cao Tiến vừa mừng vừa lo, biết mình gặp được một vong cực quý. Tiến vẫn giữ phong độ của một tay lão luyện. Mặt không biến sắc, giọng không rung động, gã liên tục tụng niệm để tăng cường ma lực cho binh lính. Đột nhiên, gã hô lớn: – Nhập! Lập tức, cứ năm bóng sáng dồn lại thành một. Đây chính là phép dụng binh rất đắc ý của Tiến, gã gọi là “hợp hồn trận pháp”. Trong trận này, cứ lấy sức năm binh hợp thành một bóng. Mỗi bóng như thế có sức mạnh bằng mười lần một âm binh. Như vậy, tuy quân số chỉ còn một phần năm nhưng thực ra, ma lực của toàn quân đã tăng lên gấp đôi so với bình thường. Lúc này cái đốm kia của Phương chỉ sáng hơn mỗi bóng của Tiến một chút. Tiếp đến, Cao Tiến lại lấy một cái bình nhỏ màu xanh lục trong người, rót ra sau cái chén. Gã ném chén ra thành hai hàng, mỗi hàng ba chén, nước trong chén vương vãi trên mặt đất, tạo thành hai đường thẳng cách nhau một trượng, vong của Phương bị kẹp ở giữa hai đường thẳng đó. Trong cái bình của Tiến nguyên là phân và nước tiểu của năm loại súc vật bao gồm dê, bò, lợn, trâu, ngựa, cùng với tiết của chúng. Thứ nước này vốn đã có tính trừ tà, lại được yểm thêm bùa của Tiến để tăng uy lực. Đối với soái vong, nếu chỉ riêng năm thứ phân, nước tiểu và máu của năm loại súc vật kia thì không chắc đã trấn được. Nhưng nước ấy lại được hòa thêm bùa của Tiến, thành ra soái vong không tài nào đến gần được hai đường song song đang vẽ trên đất. Giả như Tiến mà vẽ thành hình vuông hay tròn hoặc một hình đa giác kín thì vong sẽ bị nhốt trong đó. Nhưng khi ấy Tiến đang đứng đối diện vong, nếu gã vảy nước xuyên qua vong thì sợ vong bị tổn hại, hóa ra lại tự mình làm hỏng mất đồ quý. Nguyễn Danh Phương lúc này bị hai vạch nước xú uế dồn ép, sức nóng từ thứ nước này bốc ra đã khiến y bỏng rát. Y rất lấy làm kinh hãi vì thông thường những thứ kỵ ma làm từ máu và chất thải động vật không có tác dụng với một soái vong như y. Không ngờ thứ nước hôi thối này của Tiến lại lợi hại thế. Biết mình gặp phải tay cao thủ, không thể coi thường, y đành phải lùi về phía cách xa bàn lễ, định bụng từ đó thoát ra. Nào ngờ, ba tốp binh của Tiến đã nhanh như chớp chặn đường lui này. Đột nhiên một ánh sáng tía từ thể của Phương sáng lóe lên, bắn tới phía đám âm binh đang chặn đường rút lui. Nguyên là Phương vận lực muốn đẩy tung đám quân này ra để mở đường máu chạy thoát. Nào ngờ đám âm binh sau khi hợp nhau lại từng tốp năm binh một thì mạnh mẽ vô cùng. Khi Phương xuất chiêu, ánh sáng kia lao tới đụng vào bức tường âm binh thì chỉ có một vong đứng trực diện với Phương bị áp chế, tan biến mất. Số còn lại vẫn giữ nguyên đội hình, lấp kín cửa ra, lớp trước ken lớp sau dày đặc. Bấy giờ nếu như Phương muốn phá vòng vây thoát ra thì bắt buộc phải áp chế hết toán binh có đến sáu bảy chục hợp vong này, mà đến lúc vượt được hết vòng vây, e rằng ma lực của y cũng suy sút trầm trọng. Điều đáng lo hơn là bức tường âm binh này không đứng yên mà dần di động tiến về phía Phương. Tuy bức tường ấy tiến chậm nhưng rất vững vàng. Tựa như nó lấy thủ làm công, không cầu thắng ngay mà chỉ ép Phương về phía bàn lễ. Phương quay lại, thấy Tiến đang đứng giữa bàn, xung quanh có hai chục hợp binh bảo vệ. Lúc này Tiến đã lấy trong túi ra một cái túi đen rất nhỏ, trong túi có một viên tễ đen to bằng ngón tay cái. Bình thường, Tiến để cho mỗi âm binh trú ngụ trong một hạt đậu. Bởi vì vong không có thân, chỉ có thể, nên phải lấy hạt đậu làm nơi cho thể trú ngụ. Riêng viên tễ này là loại có ma dược rất mạnh, được điều chế cực kỳ công phu, chỉ dùng để chứa vong quý. Nó giống như một nhà ngục cho vong, có hấp lực rất lớn để triệu vong từ xa về quy phục, lại có thể giam vong không cho hiện ra. Theo như tình thế trước mắt thì Phương bị đẩy dần về phía Cao Tiến, sớm hay muộn cũng bị bức phải gieo thể vào viên tễ kia. Tiến vừa lấy viên tễ ra, Phương đã biết thứ ấy chẳng hay ho gì cho mình, tốt nhất là nên tránh xa. Nhưng khi ấy Phương bị bức tường vong dồn ép, đành liều mình đối mặt với Tiến. Xem tình thế bấy giờ, y thấy có điều kỳ lạ là phần lớn âm binh đều dồn vào một phía, còn phía có Tiến thì chỉ có một toán nhỏ âm binh bảo vệ. Nguyễn Danh Phương cũng không còn nhiều thời gian suy nghĩ, đành lao thẳng vào bàn lễ, định hất tung tất cả, tìm cách tháo thân. Nào ngờ, khi còn cách bàn chưa đến hai tấc thì y bị đẩy bật ngược lại, mạnh đến mức văng cả vào bức tường âm binh đối diện. Lúc này Quyết nằm dưới hố, thấy từ đầu đến cuối những chuyện ấy. Đang lúc hết sức căng thẳng, không gian chợt trở nên im ắng, Quyết muốn ho một tiếng cũng phải cố nín lại, sợ mình phát ra tiếng động thì hậu quả khó lường. Đột nhiên, có tiếng khóc sau lưng Tiến. Ban đầu tiếng khóc rất nhỏ, nhưng dần dần, tiếng khóc to lên, rõ ràng là tiếng khóc của một hài nhi. Từ sau lưng Tiến, xuất hiện một ánh sáng nhỏ. Cái ánh sáng này lơ lửng bay lên cao quá đầu Tiến rồi ngừng lại. Đây chính là báu vật hộ thân của Tiến. Bùa hài nhi. Loại bùa hài nhi này thuộc hàng cực mạnh trong các loại bùa. Bùa này được chế từ thai nhi còn đang trong bụng mẹ, mà thai nhi này phải được lấy ra khỏi mẹ khi người mẹ vẫn còn đang sống, hay nói cách khác là mổ sống người mẹ để lấy ra, người mẹ không được chết cho đến khi hài nhi được lấy ra hoàn toàn. Tiếp đến, hài nhi bị đem hong khô trên bếp lửa, cuối cùng teo quắt lại, đặt vừa trong một ống nứa. Ống nứa này thường được thầy phù thủy đeo bên mình. Vì hài nhi chưa biết những hành vi tàn độc của người cha ruột nên theo lẽ tự nhiên, rất quấn quýt với người cùng máu mủ. Hài nhi vốn chết oan ức khi chưa được thấy ánh mặt trời, nên sức mạnh rất đáng sợ, sẽ theo bản năng mà bảo vệ phù thủy. Thế nhưng loại bùa này chỉ có tác dụng bảo vệ, không thể sai bảo vì hài nhi vẫn còn vô tri, không hiểu được chủ nhân muốn gì. Rốt lại, oán vong của hài nhi cũng chỉ được xếp vào hạng bùa chú hộ thân, không phải âm binh. Vì cách chế bùa tàn độc như vậy, nên chế ra bùa hài nhi cực kỳ tổn hại âm đức, gần như có thể biết chắc khi chết đi sẽ bị quỷ dưới âm ty truy bắt ráo riết. Kẻ chế loại bùa còn dã man hơn cả loài thú vật, nếu không có chuẩn bị trước, sớm muộn sẽ bị đày ải vĩnh viễn dưới âm phủ. Không rõ Cao Tiến đã chuẩn bị hậu sự cho mình ra sao, nhưng trước mắt, trong tay gã có báu vật yểm thân là bùa hài nhi đủ mạnh mẽ để áp chế vong của Nguyễn Danh Phương. Cứ thế này, Phương sớm muộn sẽ bị bắt về làm nô tướng cho Tiến. Phương lúc này như con thú bị dồn vào chân tường. Biết rằng không thể nào thoát được ở mặt có Cao Tiến, y đành phải cố gắng phá vòng vây dày đặc để thoát ra. Có điều đám hợp binh này được rèn luyện cực kỳ kỹ lưỡng, Phương liên tiếp áp chế được gần chục hợp vong nhưng cứ hết lớp này đến lớp kia, áp sát vào, đẩy Phương tiến dần đến phía Tiến. Qua thời gian một tuần hương, Phương bị ép sát cách viên tễ kia không quá nửa trượng, phải vận hết ma lực mới không bị hút vào. Mà càng gần viên tễ, lực hút càng mãnh liệt. Thắng bại trận này đã rõ ràng, chỉ là hổ dữ bị dồn vào đường cùng vẫn xứng danh chúa sơn lâm, không đời nào cúp đuôi như giống chó, Phương vẫn cố gắng chống cự rất quyết liệt, lại có mấy vong nữa bị y tiêu diệt. Lúc này Tiến vừa mừng vừa lo, sốt ruột chờ đến khi thu được soái vong mạnh nhất trong đời gã. Đột nhiên Tiến thấy trên mặt mát lạnh. Đó là một hạt mưa. Lại một """