"Đại Đường Nê Lê Ngục - Trần Tiệm & Losedow (dịch) full mobi pdf epub azw3 [Trinh Thám] 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Đại Đường Nê Lê Ngục - Trần Tiệm & Losedow (dịch) full mobi pdf epub azw3 [Trinh Thám] Ebooks Nhóm Zalo ebook©vctvegroup LỜI DẪN 1 Đại Đường, năm Vũ Đức thứ tư, Ích Châu, chùa Không Tuệ. Vạt tăng bào của hòa thượng quét qua thềm đá phủ rêu xanh, thanh giới đao dài ba xích cọ lên nền đá xanh phát ra âm thanh chói tai. Ánh nắng rực rỡ, bên trong thiền phòng dường như vắng vẻ không người, chỉ có tiếng chim hót từ xa xa vọng lại. Giới đao là đao của tăng nhân, một trong những dụng cụ được mang theo bên người sau khi xuất gia. Theo giới luật chỉ cho phép dùng để cắt quần áo, không được dùng để sát sinh. Do sử dụng hạn chế, nên gọi là “giới đao”. Một xích bằng mười thốn, xấp xỉ 33,33 centimet. Tuy nhiên khi hòa thượng bước lên thềm đá, bên trong thiền phòng lại vang lên một tiếng thở dài già nua: “Trường Tiệp, tuy là gây chuyện giết người, mặc dầu cũng là mở tâm bồ đề, nhưng nếu giữ niệm sát nhân, con sẽ phải chịu đọa sinh vào cõi thấp.” Hòa thượng khẽ run lên, tay cầm giới đao, chậm rãi mở cửa bước vào. “Cuối cùng con vẫn nhất định phải xuống tay sao?” Lão tăng ngồi xếp bằng trên bồ đoàn, mỉm cười nhìn hắn. Nước trào qua khóe mắt, hòa thượng nâng giới đao trong tay lên, đờ đẫn nói: “Thanh đao này, đệ tử đã ngâm dưới suối sâu ba đêm, mặt đao bọc ba ngàn phù du, lại phơi nắng ba ngày, trên phủ thêm phật quang trăm thước. Nay đến để đưa tiễn sư phụ.” Lão tăng chỉ mỉm cười nhìn hắn, nét mặt tỏ rõ nỗi niềm thương tâm không kìm nén được: “Sau hôm nay, đối với lão nạp mà nói, không ngoài một cái chết mà thôi, công đức toàn vẹn, mọi ác nghiệp đều được tịnh trừ. Ba cõi giới trong trần đời thế tục cũng coi nhẹ như không, không để lọt vào trong mắt nữa. Nhưng con, sau hôm nay, thần phật chư thiên sẽ không còn ban phúc cho con, người đời và thân hữu sẽ không còn tán tụng con, thiên hạ Đại Đường này sẽ không còn nơi sống yên ổn cho con. Giới luật trong lòng con cũng theo đó mà sụp đổ, cả đời con sẽ phải ẩn nấp trong bóng tối, trốn tránh nội tâm của chính mình. Đường tu hành của con sẽ vĩnh viễn không thể viên mãn, sau khi chết bị đày xuống Nê Lê đại địa ngục A Tì, chịu ức vạn kiếp khổ, vô cùng vô tận… Những điều này con có thể chịu đựng được không?” Trong “Thập Bát Nê Lê kinh”, đại địa ngục A Tì là ngục thứ mười ba - Huyết Trì địa ngục là ngục nặng nhất. Đối chiếu với “Bát đại địa ngục/ Bát nhiệt địa ngục” thì đại địa ngục A Tì được xét là một khám lớn, phân tách thành mười sáu địa ngục nhỏ hơn, trực thuộc Vô gián địa ngục. A Tỳ nghĩa là không xen hở, không gián đoạn. Đây chỉ cho cảnh giới địa ngục đau khổ nhất, trong ấy tội nhân bị hành hạ liên tục. “Đệ tử…” Mồ hôi lạnh chảy ròng ròng trên trán, nhưng hòa thượng vẫn cắn răng nói: “Đệ tử dù chết chín lần cũng không hối hận.” “Chết là chuyện đơn giản nhất!” Lão tăng lắc đầu, thở dài một tiếng: “Có lẽ đây chính là đường tu hành của con! Tay không, cầm cán cuốc. Đi bộ, ngồi lưng trâu. Trên cầu người đi lại. Cầu trôi, nước chẳng trôi*. Ôi…!” Trích “Cảnh Đức truyền đăng lục - Quyển 27 - Đại sĩ Thiện Tuệ”. Toàn bộ bài thơ này, kỳ thực là điều hòa mâu thuẫn, hướng tới “Tính Không”, chỉ cần thuyết minh một chữ “không” thôi, cũng đã bao hàm toàn bộ vũ trụ vạn hữu rồi. Nghĩa là “không tức thị sắc, sắc tức thị không”. Hát xong bài kệ, lão tăng từ từ nhắm mắt lại, tựa như nhập định. Hòa thượng đột nhiên không cầm được nước mắt, quỳ rạp xuống khóc lớn, sau đó giới đao trong tay vung lên, máu bắn cao ba thước, đầu lão tăng đã rơi xuống đất. Giới đao rơi xuống đất kêu leng keng. Trong một khoảnh khắc này, trên mặt hòa thượng dính đầy máu tươi, lại thoáng lộ ra vẻ nanh ác. Hắn dùng vạt tăng bào bọc lấy đầu lão tăng, loạng choạng đứng dậy, lê từng bước rời khỏi thiền đường. Thiền đường cổ ngàn năm, bậc đá xanh trăm tuổi, xuất hiện một vệt máu tươi chạy dài… LỜI DẪN 2 Đại Đường, năm Vũ Đức thứ sáu, đạo Hà Đông, huyện Hoắc Ấp. Đạo là một đơn vị hành chính cổ dùng để phân chia địa giới, tương đương với tỉnh ngày nay. Huyện nha nằm ở phía đông thành, trước mặt là đường cái quan, lúc nào cũng đông đúc, huyên náo. Cửa nha môn dựng ở hướng nam, hai bên tường xây mở chéo theo hình chữ bát, trên tường dán đủ các loại thông cáo, theo thời gian dầm mưa dãi nắng, chất giấy cũng mục nát, nhòe mực nhìn không ra chữ, một cơn gió thổi qua, mảnh giấy nát bung ra khỏi mặt tường, bị gió cuốn bay đi mất. Hoắc Ấp là trọng trấn của Hà Đông, muốn một đường vượt sông Hoàng Hà, theo từ bến Bồ Châu đến Thái Nguyên, nhất định phải đi qua chốn này, nơi đây dân ngụ cư đông đúc, khách buôn tấp nập, huyện thành náo nhiệt vô cùng. Hoàng hôn hôm đó, trong dòng người đông vui tấp nập trên đường cái, một hòa thượng đi giày rơm, mặc sa y màu xám từ xa đi tới. Trong tay hòa thượng cầm một chiếc mõ bằng gỗ đàn hương đỏ, tay kia cầm dùi gỗ gõ mõ theo nhịp tụng, tiếng mõ phát ra nhàn nhã, xa xăm, rất không hài hòa với sự huyên náo trên phố lớn. Hòa thượng này đi đến bên ngoài bức tường kè theo hình chữ bát của huyện nha, liếc nhìn chiếc trống kêu oan kê trên bậc thềm, nhưng không tới gõ trống mà bỗng mỉm cười, có phần kỳ quái, vừa gõ mõ vừa cất bước đi lên bậc thềm. Trên công đường, huyện lệnh Hoắc Ấp - Thôi Giác, ngồi nghiêng người trên tấm thảm lông cừu nền đỏ thêu hoa, lật xem chỗ công văn đặt trên án kỷ. Bỗng dưng nghe thấy có tiếng ồn ào ngoài cửa, cùng tiếng gõ mõ đều đều bên tai. “Có chuyện gì thế?” Thôi Giác bực mình hỏi. Vị huyện lệnh này tuổi mới hai mươi tám, tướng mạo nho nhã, trên mặt thoáng ý cười cười nhàn nhạt. Dù mặc áo quan màu xanh, đội mũ cánh chuồn cũng không có vẻ uy nghiêm khí phách mà có phần phiêu dật, rất ra dáng danh sĩ thời Ngụy - Tấn. Ngoài cửa có một gã tư lại chạy vào báo: “Khởi bẩm đại nhân, bên ngoài nha môn có một gã hòa thượng muốn xông vào, nhất quyết đòi gặp ngài. Hạ quan nói đại nhân đang xử lý công vụ, sẽ vào báo lại sau, nhưng hắn lại gõ mõ rất to.” Danh từ cổ chỉ chức quan coi việc bắt giặc cướp. Sau chỉ chức quan nhỏ. Còn gọi là thư lại. Tư lại này còn chưa nói xong, trong tiếng mõ, một tiếng phật kệ vang lên: “Một bát cơm ngàn nhà, thân vượt vạn dặm xa. Chỉ vì chuyện sinh tử, xin độ pháp ngày qua.* Tri phủ đại nhân anh minh, bần tăng vượt vạn dặm xa xôi đến đây, cốt chỉ mong được gặp đại nhân để hóa duyên.” Bài thơ ca ngợi Đức Phật Thế Tôn, qua hình ảnh người khoác y áo đơn sơ, tay chỉ cầm một chiếc bát mộc, nhưng dáng vẻ lại thanh thoát, vân du tự tại đi hóa độ chúng sinh. Thôi Giác cười: “Vị hòa thượng này xem chừng cũng thú vị đây, mời vào!” Hòa thượng được sai dịch dẫn lối, vẻ mặt bình thản đi vào công đường, cũng không cần mời đã khoanh chân ngồi xuống đối diện với Thôi Giác. “Đại sư pháp hiệu xưng hô thế nào?” Thấy hòa thượng này ngông cuồng, Thôi Giác cũng không đứng lên, chỉ lạnh nhạt hỏi. “Pháp hiệu là gì?” Hòa thượng trợn mắt, lạnh lùng nói: “Lòng chỉ cầu một cơ duyên đối trước Phật, cần chi đến danh hiệu chốn trần gian nhơ nháp này đây.” “Ơ?” Lúc này Thiền tông còn chưa phát triển rộng rãi, Tịnh độ tông vẫn là tông phái tu chính ở Đại Đường, chưa có nhiều hòa thượng nói chuyện kiểu này. Thôi Giác cảm thấy rất mới lạ, mỉm cười hỏi tiếp: “Đại sư từ đâu đến? Định đi tới nơi đâu?” Tịnh độ tông là một pháp môn quyền khai của Phật giáo, do Cao tăng Trung Quốc Huệ Viên sáng lập. Mục đích của Tịnh độ tông là tu học nhằm được tái sinh tại Tây phương Cực lạc Tịnh độ của Phật A Di Đà. Thiền tông là tông phái Phật giáo Đại thừa, sinh ra trong khoảng thế kỉ thứ VI, thứ VII, khi Bồ Đề Đạt Ma đưa phép Thiền của đạo Phật vào Trung Quốc cùng với sự hấp thụ một phần nào đạo Lão. Thiền tông quan tâm đến kinh nghiệm chứng ngộ, đả phá mạnh nhất mọi nghi thức tôn giáo và mọi lý luận về giáo pháp. “Từ trong thai mẹ đến, đi tới bình bát của Phật.” Hòa thượng đáp. Thôi Giác ngán ngẩm: “Vậy… đại sư đến tìm hạ quan có chuyện gì? Cần hóa duyên gì đây?” “Thứ bần tăng cần hóa, chỉ đại nhân mới có. Nên mới vượt đường xa vạn dặm mà đến, chỉ có điều không biết đại nhân chịu cho hay không thôi.” Hòa thượng nói, có phần ngạo mạn. Thôi Giác khẽ cười: “Hạ quan có thứ gì mà người khác không có?” “Cái mạng này của đại nhân!” Hòa thượng vừa cười vừa nói, nét mặt cổ quái: “Cái đầu trên cổ, túi da ngoài thân.” Thôi Giác mặt biến sắc, ngồi thẳng lên, dùng bộ dáng âm trầm lặng lẽ quan sát, đánh giá vị hòa thượng đang mỉm cười như trêu ngươi người khác kia: “Đại sư hẳn đang đùa ta thì phải?” “Trên đường tới đây, sương gió đã mài rách của bần tăng ba tấm sa y, đất vàng cào nát của bần tăng chín đôi giày cỏ.” Hòa thượng chậm rãi nói: “Chỉ có chiếc mõ trong tay bần tăng càng mài càng sáng, có thể chiếu rõ tâm bần tăng. Có phải là thật hay không, bản thân bần tăng nhìn thấy rất rõ.” Thôi Giác cẩn thận quan sát cho kỹ, thấy hòa thượng này tuổi áng chừng khoảng ngoài ba mươi, da mặt sạm đen, thô ráp, lộ rõ vẻ phong sương, sa y mặc trên người vá chằng vá đụp, rách nát như tàu lá chuối gặp mưa rào. Đôi giày cỏ đi dưới chân đã thủng cả đế, gót chân trực tiếp giẫm trên mặt đất. Đôi bàn tay với khớp xương to dài, vết chai sạn dày cộp. Xem ra quả thật đã đi vạn dặm đường, không phải đến đây nói đùa với mình. “Cái mạng này của hạ quan tại sao lại khiến đại sư cảm thấy hứng thú?” Tâm tình Thôi Giác dần ổn định lại, trên mặt thậm chí còn mang ý cười. “Đại nhân sinh năm Khai Hoàng Tiền Tùy thứ mười bốn, ba tuổi có thể đọc hiểu sách “Luận Ngữ”, bảy tuổi có thể làm văn thơ, tuổi tròn nhược quán đã nổi danh khắp Tam Tấn, văn chương thi phú được xưng tụng đệ nhất Tiền Tùy, người đương thời khen là con của phượng hoàng, vì vậy đại nhân lấy Phượng Tử làm hiệu. Có điều đại nhân số mệnh trái ngang, đường làm quan không được như ý. Sau khi thành danh, còn chưa kịp thi triển tài năng đã gặp lúc Tùy Dạng Đế ba lần viễn chinh Cao Ly, thiên hạ rối ren, dân chúng lầm than, đành phải vào núi lánh nạn, lánh một mạch năm năm. Đại nhân có cảm thấy chua xót vì chí hướng cao xa khó có thể thực hiện hay không?” Thời xưa đàn ông hai mươi tuổi đều làm lễ đội mũ (quán), xem như thành niên, nhưng cơ thể còn chưa có tráng kiện, tương đối niên thiếu, nên xưng là “nhược”. Năm 595 TCN, thời kỳ sơ khai của nhà Tùy, dưới sự cai trị của Tùy Văn Đế - Dương Kiên - Niên hiệu: Khai Hoàng (581 - 600), Nhân Thọ (601 - 604). Lời nói của hòa thượng gây nên sóng gió ngập trời trong lòng Thôi Giác, vẻ mặt bình thản dần chuyển sắc, nhợt nhạt hẳn đi, một hồi lâu sau mới lẩm bẩm nói: “Quả thật đúng như đại sư nói.” Hòa thượng cũng không để ý, tiếp tục nói: “Năm năm sau, đương kim hoàng thượng* dời Thái Nguyên, nghe nói đến tài danh của đại nhân nên mời làm quân sư ở lại trấn phủ. Đại nhân vốn cho rằng có thể tiếp tục thăng quan, thực hiện hoài bão của mình, không ngờ năm sau hoàng thượng đã khởi binh phản Tùy. Sau đó hoàng thượng lập nên Đại Đường, nếu không ngoài dự liệu, đại nhân theo hoàng thượng tiến vào Trường An, đến nay dù thế nào cũng là trọng thần trong triều. Nhưng đại quân tiến đánh xuống phía nam, phải qua Hoắc Ấp, đại nhân lập được công lớn, công này lại thay đổi cả cuộc đời đại nhân. Hoàng thượng bị ngăn trở, Thôi đại nhân ngài hiến kế bao vây dụ địch, đánh tan quân Tùy của Tống Lão Sinh. Thế là hoàng thượng lệnh đại nhân làm huyện lệnh Hoắc Ấp, trấn giữ vùng yếu địa. Đại quân của Tống Kim Cương áp sát dưới thành, đại nhân chỉ có ba trăm dân quân mà dám đánh úp ban đêm. Tướng phòng thủ Hoắc Ấp là Tầm Tương định đầu hàng địch, đại nhân liền dẫn theo hai gia nhân chạy tới phủ của hắn hành thích. Hoắc Ấp bị phá, đại nhân dẫn bách tính toàn thành chạy vào núi Hoắc tị nạn, ngay cả một hạt lương thực cũng không để lại cho quân địch. Sau khi Lưu Vũ Chu, Tống Kim Cương bị diệt, đại nhân cai trị Hoắc Ấp, người người không nhặt của rơi, đêm đêm không cần đóng cửa, bách tính ai ai cũng an cư lạc nghiệp. Ta muốn hỏi đại nhân, công lớn như thế, vì sao hoàng thượng đã trị vì bao nhiêu năm mà ngài vẫn chỉ là một huyện lệnh?” Tống Kim Cương vốn là thủ lĩnh một đội nghĩa quân hơn vạn người ở Dị Châu (nay là Dị Huyện, Hà Bắc) sau quy hàng theo Lưu Vũ Chu (một thủ lĩnh quân phản Tùy) dấy binh đánh nhà Đường. Danh tướng nhà Tùy, trấn thủ Hoắc Ấp khi quân nhà Lý tiến đánh xuống phía nam. Vốn ỷ thành cao, muốn tính kế dài chờ nhà Lý cạn lương thực mới diệt, nhưng bị Lý Uyên lừa, giả đánh thua rồi chạy, quân Tùy mắc bẫy bị bao vây, nhà Lý cho đồn Tống Lão Sinh đã chết, quân Tùy vì thế mà đầu hàng, Lão Sinh để mất thành nên tự sát. Tức Đường Cao Tổ Lý Uyên, niên hiệu Vũ Đức. Nghe hòa thượng này nói tỉ mỉ những chuyện mình đã trải qua suốt nửa cuộc đời, Thôi Giác không khỏi ngây ra như phỗng, tay nắm chặt một cuộn công văn, đến độ đốt ngón tay chuyển sắc trắng bệch: “Xin đại sư chỉ điểm!” Hòa thượng đột nhiên quát lên: “Bản tâm như lửa địa ngục thiêu đốt, dục vọng không mời gọi cũng tự đó mà khởi sinh. Ba ngàn cõi giới đầy phiền não, tựu trung lại cũng chỉ là một hố lửa hung hiểm mà thôi! Ngài mặc dù tướng mạo thư sinh, nhưng mắt ngài lại bùng cháy dã tâm và dục vọng trần trụi không hề che giấu. Trên đời này, không có cái gọi là mục đích cuối cùng, ngài vĩnh viễn không biết tự thỏa mãn, không biết điểm dừng. Thân là kẻ ngồi ở ngôi cao, nếu không biết mục tiêu mà ngài đeo đuổi là gì, sao hoàng thượng dám tin dùng ngài đây?” Thôi Giác chấn động, nhất thời rơi vào trầm tư. “Ha ha, bần tăng sẽ chỉ cho ngài một con đường sáng.” Hòa thượng cười một tiếng quái dị: “Đại nhân chắc cũng biết, thế giới quỷ ma phương Tây tồn tại một cõi địa ngục Nê Lê?” “Địa ngục Nê Lê?” Thôi Giác thoáng lộ vẻ kinh ngạc. Hắn đã đọc qua kinh điển của các giáo, đương nhiên không cảm thấy xa lạ, vì thế gật đầu: “Theo cách nói của nhà Phật, địa ngục Nê Lê là một trong sáu đạo dục giới. Đạo Phật có ‘Thập Bát Nê Lê kinh’, nói con người sau khi chết, người làm nhiều việc thiện lên trời, người làm nhiều việc ác vào cõi Nê Lê. Nê Lê tổng cộng có mười tám tầng, tám nóng, tám lạnh, du tăng, cô độc. Có người gọi là Nê Lê, có người gọi là Nại Lạc Ca, cũng có người gọi nó là địa ngục.” Địa ngục, tiếng Hồ gọi là Nê Lê, tiếng Phạn gọi là Nại La Ca. “Nại Lạc” có nghĩa là người. “Ca” có nghĩa là ác. Người ác sinh ra ở nơi đó nên gọi nơi đó là Nại Lạc Ca. Do những con người ác đó lúc sinh thời đã gây ra những hành động cực kỳ tàn ác về thân, khẩu, ý cho nên phải tái sinh và tiếp tục ở cõi đó. Bởi vậy mới gọi là Nại Lạc Ca. Hòa thượng bấm ngón tay mỉm cười: “Cái danh Phượng Tử quả không phải ngoa truyền. Bần tăng nguyện đưa ngài tới Nê Lê một chuyến, đại nhân có chịu hay không?” Thôi Giác bàng hoàng kinh ngạc. “Có vua Nê Lê tên là Viêm Ma La muốn mở ngục Nê Lê ở Đông Thổ, quản lý luân hồi của Nê Lê, xét xử thiện ác của lục đạo, bây giờ còn thiếu một phán quan. Trí tuệ của đại nhân có thể coi là có một không hai ở Đông Thổ, đôi mắt có thể nhìn thấu lòng người, trăm họ ở Hoắc Ấp đồn rằng đại nhân tra xét thiện ác chưa từng sai lầm, tâm của mười vạn bách tính Hoắc Ấp xét ra vẫn còn thua, thua xa trái tim có bảy lỗ* của đại nhân đây. Nê Lê dơ bẩn, là nơi quy tập tội ác của nhân gian, vừa lúc có thể mượn nghiệp hỏa vô minh ngàn trượng của đại nhân để đè ép tà uế. Không biết ý đại nhân thế nào?” Ý chỉ người thông tuệ, có lương tâm thuần chất. Tương tự với Tỷ Can trong “Phong thần diễn nghĩa” sở hữu “thất khiếu linh lung tâm”. Hòa thượng cười nhạt, trong mắt rực lên tia sáng quái dị. “Bản quan… ta… “ Thôi Giác nghẹn lời, mồ hôi trên trán chảy xuống như mưa, lại không biết trả lời thế nào. “Uổng mang tài cao, tham vọng khó đạt. Nhân gian này đã không có duyên với đại nhân, ngục Nê Lê có lẽ là nơi để đại nhân thi triển khát vọng.” Hòa thượng cười ha hả: “Bần tăng dừng lời tại đây, duyên này có hóa hay không, đại nhân cứ tự mình suy nghĩ.” Dứt lời, hòa thượng cười to rồi rời khỏi huyện nha. Trời đã vào đêm, trong nha môn âm trầm u ám, chỉ còn tiếng mõ khoan thai xa dần. Đêm đó, huyện lệnh Hoắc Ấp Thôi Giác dùng một dải lụa trắng tự vẫn dưới gốc cây trước sân. CHƯƠNG 1 Tăng sĩ nhà Đường, đào phạm Thiên Trúc Đại Đường, năm Trinh Quán thứ ba, mùa xuân, vào độ tháng ba. Đường cái quan thuộc Hoắc Ấp trải dài mười dặm, náo nhiệt phồn hoa, quán rượu san sát, đám khách buôn bước đi vội vã, người bán hàng rong qua lại, rao hàng không ngừng. Muốn đi từ Trường An đến phủ Thái Nguyên buộc phải qua chốn đây. Từ năm Vũ Đức thứ bảy, Đại Đường tiêu diệt thế lực chống đối cuối cùng của Phụ Công Hữu, nhà Đường thống nhất giang sơn, kết thúc thời kỳ chiến loạn, Đại Đường bỗng tỏa ra sức sống mạnh mẽ đến khó tin. Năm Vũ Đức thứ chín, sau khi Lý Thế Dân kết minh với Đột Quyết trên cầu tạm Vị Thủy, mối đe dọa từ biên giới phía bắc cũng dần suy yếu, thương nhân từ đạo Hà Đông kéo đến biên giới phía bắc cũng ngày một nhiều lên, Hoắc Ấp dần trở nên trù phú. Hôm đó có một hòa thượng men theo đường cái quan trước huyện nha mà tiến tới. Vị hòa thượng này tuổi chừng ba mươi, khuôn mặt hiền từ, cử chỉ ung dung, da mặt dù đen sạm đi vì nắng gió, nhưng thần thái toát ra lại dễ khiến người ta sinh hảo cảm. Bộ sa y màu xám mặc trên người tuy có vẻ cũ nát, nhiều chỗ đã sờn chỉ, tưa cả viền vải dệt, nhưng được giặt giũ rất sạch sẽ. Trên lưng hòa thượng đeo một hòm sách bằng gỗ hồ đào rất lớn, nhìn qua xem chừng có vẻ rất nặng, dù sợi dây đeo trên vai thít sâu vào da thịt, vị hòa thượng đó vẫn giữ thẳng sống lưng, bước đi ung dung, trên mặt lúc nào cũng hàm chứa ý cười vui vẻ, dường như mọi thứ thu vào trong tầm mắt đều khiến ngài cảm thấy lòng mình ngập tràn vui sướng. Đi theo phía sau hòa thượng này là một người Hồ Tây Vực, râu rậm đầy mặt, mũi cao mắt sâu, nước da đen sạm, đội khăn trùm đầu màu trắng. Người Hồ này thân hình cao lớn, trên lưng đeo một túi hành lý to, trên đường đi cứ nhìn ngang ngó dọc, thu hút sự chú ý của rất nhiều người. Lúc này tuy đã có nhiều người Hồ Tây Vực đến Đại Đường nhưng phần lớn đều quy tụ về Trường An và Lạc Dương, tiếp nữa là Quảng Châu, Giao Châu, Triều Châu và Tuyền Châu ở vùng duyên hải phía nam, còn xuất hiện ở huyện đạo Hà Đông như thế này vẫn là chuyện hiếm gặp. Kéo theo sau là một đám trẻ nhỏ vừa chạy theo vừa nhảy nhót vỗ tay trêu đùa, hai kẻ quái dị này tiến đến kè tường xây theo lối chữ bát ở trước cửa huyện nha. Sai dịch đứng canh ngoài cửa nha môn cũng kinh ngạc một hồi lâu, thấy vị hòa thượng đó dợm bước tiến lên bậc thềm mới hỏi: “Đại sư đến huyện nha có việc gì không?” Vị hòa thượng thi lễ rồi nói: “Bần tăng gọi là Huyền Trang, từ Trường An tới đây, hy vọng được bái yết minh phủ đại nhân của quý huyện.” “Ôi chao!” Sai dịch giật mình: “Ra là cao tăng từ Trường An đến! Nhưng thật không may, huyện lệnh đại nhân của chúng tôi mấy hôm trước đã lên đường đi tuần tra, thị sát tình hình phòng chống lũ của đê Phần Thủy, cũng không biết bao giờ mới quay về. Ngài ở đây chờ, tôi sẽ vào trong tìm tư lại hỏi thử xem sao.” Huyền Trang chắp tay đa tạ. Sai dịch này chạy nhanh như gió, thoáng cái đã mất dạng, một sai dịch khác thì ân cần giúp ngài đỡ hòm sách trên lưng xuống: “Đại sư, ngài cứ nghỉ ngơi một chút đã.” Hòm sách đột nhiên trĩu xuống, sai dịch suýt nữa không giữ được: “Ôi, hòm sách này nặng thế… Ngài cứ đeo đi suốt dọc đường sao?” Từ bên cạnh, một đôi tay giơ ra phía trước, nhẹ nhàng đỡ lấy chiếc hòm. Gã người Hồ đặt hòm sách xuống dưới đất, cười nói: “Đây là bảo bối, của Huyền Trang đại sư, mấy chục quyển sách, kinh thư, cõng theo từ Trường An đến đây.” Huyền Trang chỉ cười ha ha, không nói gì thêm. Sai dịch để ý đánh giá gã người Hồ, thấy cách hắn nói tiếng Hán dù vẫn còn vấp váp đôi chỗ, nhưng phát âm lại rất chuẩn, không khỏi cảm thấy lạ, bèn cười hỏi: “Ngươi là người nước nào? Đột Quyết? Hồi Hột? Hay là Sa Đà?” Mấy năm nay hết Tùy lại Đường chinh chiến không ngừng, ngay đến một kẻ quê mùa vùng ngoại thành xa xôi cũng có thể biết tên vài nước Tây Vực. “Ta…” Người Hồ xoa xoa ngực mình, nói lớn tiếng: “Người Thiên Trúc, Trung Thiên Trúc, Ba La Diệp.” “Thiên Trúc…” Sai dịch gãi đầu, hiển nhiên hắn chưa từng nghe qua cái tên này. Ba La Diệp lẩm bẩm vài câu, tỏ vẻ buồn bực như thể chó nhà có tang. Huyền Trang nói: “Các nước chung quanh nhiều như cát sông Hằng, có xa có gần, có thân có sơ, không phải ai ai cũng biết hết được.” Ba La Diệp tỏ rõ vẻ tôn kính, khom người nói phải. Gã Ba La Diệp người Thiên Trúc này là Huyền Trang “nhặt” được trên đường rời khỏi Trường An. Hắn vốn là quản tượng của Giới Nhật Vương ở Trung Thiên Trúc, trong bốn tầng lớp chính ở Thiên Trúc, hắn thuộc tầng lớp tiện dân - Thủ đà la. Mùa đông năm Vũ Đức thứ chín, danh tăng Trung Thiên Trúc là Ba Pha Mật Đa La theo sứ giả nhà Đường là Cao Bình Vương Lý Đạo Lập vượt biển tới Đại Đường, ở lại chùa Đại Hưng Thiện. Cùng đi với Ba Pha Mật Đa La là hai con voi mà Giới Nhật Vương tiến cống cho hoàng đế lúc bấy giờ, nay đã là thái thượng hoàng Lý Uyên. Đi kèm với hai con voi đương nhiên là gã quản tượng Thiên Trúc này. Nhưng số Ba La Diệp quá là xui xẻo, hai con voi lênh đênh trên biển mấy tháng trời, tới lúc đặt chân lên lãnh thổ nhà Đường thì lăn ra chết mất một con do không hợp thủy thổ. Đây được xem là trọng tội, vừa đến Trường An, hắn đã bị trưởng sứ đoàn giam lại, định mang về Trung Thiên Trúc giao cho Giới Nhật Vương trị tội. Ba La Diệp biết rõ, với bản tính ưa dùng trọng hình của Giới Nhật Vương, mình gây chuyện làm ảnh hưởng tới thể diện của lão ở Đại Đường, nếu không bị thiêu sống cũng sẽ bị chém đứt tay chân. Hắn suy nghĩ một hồi, cuối cùng thì quyết định chạy trốn, ít nhất Đại Đường này cũng trù phú hơn Trung Thiên Trúc, cũng không lo chết đói. Ba La Diệp am hiểu thuật Du Già (Yoga), mà lính coi ngục Đại Đường còn chưa từng nghĩ tới chuyện đề phòng người biết dị thuật này. Thế là Ba La Diệp uốn gập thân mình, luồn lách trốn thoát khỏi phòng giam đơn sơ của Hồng Lô Tự, bắt đầu lang bạt trên đất Đại Đường. Hồng Lô Tự là một trong sáu tự trong quan chế Lục tự. Hồng Lô Tự là cơ quan phụ trách việc tiếp đón và thể thức lễ nghi với những sứ đoàn từ các triều hoặc nước khác đến. Lần lang bạt này kéo dài suốt hai năm, đến tận mùa đông năm ngoái mới gặp được Huyền Trang. Huyền Trang xét một mặt là thấy tình cảnh của hắn cũng đáng thương, một mặt ngài cũng đang nghiên cứu Phật pháp, cần học tiếng Phạn, hiểu rõ phong tục tập quán con người Thiên Trúc, bèn giữ hắn lại theo hầu bên người. Ba La Diệp cho rằng đi theo hòa thượng dù sao cũng tốt hơn phiêu bạt một mình, ít nhất ăn ở không cần phải tự chi tiền, huống hồ vị hòa thượng này Phật pháp tinh thâm, lòng dạ từ bi, vì thế không đi đâu nữa mà chỉ đi theo Huyền Trang. Ba La Diệp thân hình cao lớn, tiếng Hán cũng không trôi chảy nhưng lại rất lắm lời, lập tức bắt đầu chuyện trò với sai dịch đó. Hai người nói chuyện hăng say, gần như có thể kết nghĩa huynh đệ đến nơi. Đúng lúc này, sai dịch vừa rồi vội vã chạy từ trong nha môn ra, phía sau còn có một tư lại đầu đội khăn vấn màu xanh. Tư lại chắp tay thi lễ từ rất xa: “Đại sư, thất lễ, thất lễ, tại hạ là điển lại của huyện nha, họ Mã.” Quan chức cấp bậc thấp tại huyện phủ, phụ trách việc trông coi, quản lý sự vụ trong huyện nha. “A, Mã đại nhân!” Huyền Trang chắp tay cúi người: “Xin hỏi minh phủ đại nhân khi nào mới quay lại?” “Ấy chết, không dám xưng đại nhân.” Mã điển lại tươi cười: “Sắp đến mùa lũ, Quách đại nhân lo lắng cho đê điều Phần Thủy nên đi tuần sát. Cũng đã được mấy ngày rồi, áng chừng nếu nhanh thì giờ Thân giờ Dậu hôm nay sẽ về, chậm thì sáng ngày mai về tới nơi. Đại sư tìm Quách đại nhân có việc gì?” “Có chút chuyện xưa muốn tìm minh phủ đại nhân hỏi thăm một chút” Huyền Trang nói: “Minh phủ quý huyện họ Quách sao?” Mã điển lại hơi ngớ ra, thầm nghĩ, thì ra vị đạo sư này còn không biết đại nhân tên họ là gì: “Vâng, họ Quách, tên húy là Tể, tự là Tử Dư. Năm Vũ Đức thứ bảy được điều chuyển từ huyện thừa huyện Định Hồ về Hoắc Ấp.” “Đã như vậy thì bần tăng sẽ tìm một ngôi chùa tá túc, đợi minh phủ đại nhân về sẽ lại tới thăm” Huyền Trang nói: “Nghe nói gần Hoắc Ấp có chùa Hưng Đường, là chùa lớn ở đạo Hà Đông, không biết đường đi thế nào?” “À, chùa Hưng Đường nằm dưới chân núi Hoắc cách huyện lị hai mươi dặm về phía đông.” Mã điển lại cười hỏi: “Còn không biết pháp hiệu của đại sư xưng hô thế nào?” “Bần tăng Huyền Trang, chính là tham học tăng, thọ giới Cụ Túc tại chùa Không Tuệ ở Ích Châu.” Huyền Trang nói. Một người xuất gia đầu tiên phải thọ giới Sa Di, sau một thời gian mới thọ giới Cụ Túc, phát nguyện tuân theo giới luật để trở thành Tì Kheo. Theo quy định của đời Đường, tăng sĩ chính thức, cũng chính là hòa thượng đã thọ giới Cụ Túc, có đặc quyền miễn trừ lao dịch, đồng thời trao tặng ba mươi mẫu ruộng. Tham học tăng chính là tăng sĩ vân du, lấy việc tham khảo học vấn khắp nơi làm mục đích, đi khắp bốn phương. Dạng tăng sĩ này bình thường không có chùa chiền cố định, tới nơi nào liền tá túc ở đó, chỉ cần đưa ra độ điệp do cơ quan triều đình phát cho sau khi thọ giới Cụ Túc là được. Huyền Trang cho rằng vị đại nhân này đang kiểm tra tư chất của mình nên trả lời rất cẩn thận, đầy đủ, không ngờ Mã điển lại vừa nghe vậy đã ngây ra: “Ngài… Ngài là đại sư Huyền Trang? Đại sư Huyền Trang, người đã biện luận Phật pháp khiến chúng tăng Giang Hán á khẩu không tranh cãi được gì sao? À, nghe nói Trí Diễm đại sư ở Tô Châu biện luận thua ngài còn bật khóc vì đau lòng! Có thật như vậy không?” Huyền Trang cũng cảm thấy ngạc nhiên, không ngờ danh tiếng của mình đã lan tới cả Tam Tấn. Ngài hai mươi mốt tuổi rời đất Xuyên đi vân du, từ Kinh Tương đến Ngô, Dương, lại đến Hà Bắc, như một cơn lốc xoáy quét qua. Trước đó kinh luận của các Phật gia, tâm đắc của các đại sư, ngài đều đã tìm hiểu thấu đáo, cho đến cuối cùng biện luận, ngay cả sư phụ của ngài cũng không thể trả lời được, thế là mới giữ mối nghi hoặc trong lòng mà đi. Xét về tương quan, đại sư Trí Diễm tổ chức cho quần tăng Giang Hán biện luận với ngài chẳng qua chỉ là một gợn sóng nhỏ mà Huyền Trang đã trải qua thôi. Có điều một hòa thượng trẻ tuổi đối phó với mười mấy cao tăng thành danh đã lâu, ép cho quần tăng cùng đường đuối lý, đối với người ngoài chính là một cảnh tượng xưa nay khó gặp. Huyền Trang lắc đầu: “Trí Diễm đại sư than khóc không phải vì không bằng bần tăng mà bởi vì đạo không toàn, pháp lý khó hiểu.” Mã điển lại không quan tâm lắm đến ba cái mớ pháp lý gì đó, hắn chỉ biết vị hòa thượng trước mặt này là người có danh tiếng, Phật pháp uyên thâm, thần thông quảng đại. Thế nên hắn nhanh chóng đổi thái độ, tỏ ra nhiệt tình hơn: “Khoan, đại sư đừng đi vội, tại hạ đưa ngài đến một nơi xem đã.” Huyền Trang rất kinh ngạc, Mã điển lại không nói không rằng, lệnh hai sai dịch khiêng hòm sách, dẫn ngài ra đường lớn. Thấy Mã điển lại nhiệt tình quá, Huyền Trang cũng không tiện từ chối, đành phải đi theo hắn. Đường đi cũng không xa mấy, vòng qua huyện nha hướng về phía bắc, rẽ vào một phố nhỏ, đi tiếp năm sáu trăm bước thì dừng lại trước một tòa nhà. Cổng nhà không lớn, cũng không treo biển, nhưng hai chiếc trống đá dựng hai bên cổng đã chỉ rõ chủ nhân của ngôi nhà này là người có công danh. “Đại sư!” Mã điển lại giới thiệu: “Đây chính là nơi ở của huyện lệnh đại nhân, phần đất phía trước là nha môn, phía sau này là khu nhà ở, gia quyến của đại nhân cũng sống ở đây. Bên trái là nhà của huyện thừa đại nhân, bên phải là nhà của chủ bộ đại nhân. Ngài chờ một lát, ta đi vào bẩm với phu nhân một tiếng.” Chủ bộ là tên một chức quan, có từ đời nhà Hán, trông coi việc sổ sách văn thư bộ tịch một cơ quan ở trung ương hoặc một địa phương. Huyện thừa là chức quan cửu phẩm trong hệ thống quan lại thời phong kiến, phụ giúp cho Tri huyện. Huyền Trang không khỏi ngơ ngác, rõ ràng bản thân đã nói sẽ đến chùa Hưng Đường xin tá túc, tại sao Mã điển lại này lại đưa mình đến nhà huyện lệnh? Tuy nói nhà giàu có đối đãi đặc biệt với Phật tăng là chuyện thường tình, chỉ cần có tiền, mời tăng sư ở lại mấy tháng, một năm cũng không thành vấn đề, nhưng huyện lệnh đi vắng, chẳng lẽ còn có thể ở lại nhà hắn hay sao? Mã điển lại gõ vòng cổng, một nô bộc mở cửa ngách, thấy là hắn liền vội vàng mời vào. Mã điển lại rảo bước vào trong, dặn dò nô bộc đó phải chăm sóc đại sư chu đáo. Nô bộc tò mò nhìn hai người này. Hắn còn chưa kịp nói gì đã bị Ba La Diệp quấn lấy: “Tiểu đệ, năm nay bao lớn rồi? Tên gọi là gì? Trong nhà có, mấy người? Tía với u làm, nghề gì?” Một loạt câu hỏi làm gã nô bộc cứng họng. Huyền Trang cũng không biết nên làm thế nào cho phải, trong hai năm lang thang trên đất Đại Đường, gã Ba La Diệp này học gì không vào, chứ học ngôn ngữ địa phương khắp các vùng trời nam đất bắc lại nhớ rất nhanh, hơn nữa còn thích dùng lẫn lộn với nhau… Lúc này một tì nữ mặt mũi trông cũng bình thường từ trong nhà đi ra, đến cửa ngách thò đầu ra nhìn Huyền Trang, vẻ mặt hồ nghi: “Ngài chính là hòa thượng từ Trường An đến? Ngài có biết thuật xua ma trừ tà không?” Nghe xong câu đầu, Huyền Trang vừa mới gật đầu thì câu sau đã khiến ngài hối hận, đành phải cười khổ nói: “Bần tăng tu là Như Lai đại đạo, xua ma trừ tà chính là tiểu thuật, bần tăng tu đạo không tu thuật.” “Trời đất ơi!” Ngoài dự liệu của ngài, tì nữ kia lại sáng mắt lên, gương mặt không có điểm gì đáng chú ý cũng biến đổi ít nhiều, kêu một tiếng kinh ngạc: “Xua ma trừ tà cũng chỉ là tiểu thuật? Ai da, đúng là tìm được cao tăng rồi! Đại sư, mời, mau mời vào! Cầu Nhi chết tiệt kia, còn không mau mở cổng chính?” Huyền Trang nhìn cô tì nữ trân trối, không biết phải nói gì. Không đợi ngài mở miệng, tên nô bộc được gọi là “Cầu Nhi Chết Tiệt” đã vội vàng chạy ra mở cổng. Lúc này Mã điển lại cũng đi ra, vẻ mặt tươi cười: “Đại sư, phu nhân có lời mời, mau mau theo ta đi vào.” Huyền Trang không biết làm sao, đành phải cùng với Mã điển lại đi vào trong nhà. Phía sau, Ba La Diệp sớm đã rất thân thiết với nô bộc, cười hì hì nhìn hắn: “Ta nói mà, cả tên ông bà, ngươi cũng nói với, ta rồi. Tại sao lại, không nói với ta, ngươi tên là gì. Thì ra, ngươi tên là, Cầu Nhi Chết Tiệt.” Nô bộc đó đỏ mặt, tức giận nói: “Ta không phải là Cầu Nhi Chết Tiệt.” “Thế ngươi, tên là gì?” Ba La Diệp ngạc nhiên hỏi. “Cầu Nhi!” Nô bộc trợn mắt nhìn hắn. Tòa nhà này thực ra chính là hậu viện của huyện nha, thông ra công đường phía trước. Huyện lệnh từ nhà mình đi qua cửa nhỏ có thể đến công đường làm việc, không cần phải ra phố. Bên trong cũng rất rộng rãi, trước mặt là một sảnh đường ba gian thoáng đãng, hai bên trái phải là phòng của đám đầy tớ phục dịch, đằng sau sảnh đường là nội viện, là nơi ở của gia quyến huyện lệnh. Mặt bên sảnh đường còn có cửa tròn dẫn tới hậu hoa viên. Mã điển lại và tì nữ Mạc Lan cùng Huyền Trang vào phòng tiếp khách, dưới đất trải thảm lông cừu in hoa, Mạc Lan mời mọi người ngồi xuống. Mã điển lại lệnh cho hai sai dịch đặt hòm sách xuống, nói mình còn có việc công, không thể ở lại lâu, cáo lỗi một tiếng rồi cùng sai dịch rời đi. Huyền Trang muốn ngăn lại nhưng Mạc Lan hình như lại chỉ mong hắn đi, liên tục xua tay, sai Cầu Nhi mang một chiếc án đến, bày mấy thứ trà bánh, nói: “Đại sư chờ một lát, phu nhân nhà ta sẽ tới ngay đây.” Huyền Trang thắc mắc: “Nữ thí chủ, không biết Mã đại nhân dẫn bần tăng đến đây rốt cuộc có chuyện gì?” Mạc Lan do dự một lát, nói: “Mã đại nhân được ta nhờ vả, tìm một vị cao tăng đến trừ tà ma, tình hình cụ thể thế nào, Mã đại nhân cũng không biết được. Liên quan đến gia quyến của huyện lệnh, Mã đại nhân cũng không tiện nghe, vì vậy… mong đại sư chớ trách.” “Trừ tà ma?” Huyền Trang bật cười: “Bần tăng đã nói rồi, bần tăng tu theo lời Phật truyền giảng chứ không tu phép thuật. Kinh chú Phật pháp là nhằm hướng con người tới bờ giác, tu thành chính quả, bần tăng hành pháp với mục đích làm lợi lạc cho chúng sinh hữu tình. Những thứ xua quỷ thần, trừ tà ma, hô phong hoán vũ, vẽ bùa niệm chú không phải là chính pháp của Phật gia. Thí chủ vẫn nên đi tìm chùa miếu, thậm chí tìm một đạo sĩ cũng tốt hơn.” Cô tì nữ này rõ ràng không tin, cũng vì Mã điển lại đã khen ngợi Huyền Trang quá tài giỏi. Cao tăng từ Trường An đến! Cao tăng mười năm vân du thiên hạ, biện luận chưa từng thua, làm sao có thể không hiểu phép thuật được chứ? “Đại sư, ta đã hầu hạ phu nhân rất nhiều năm, thấy nhiều biết rộng, phần lớn đám đạo sĩ đều là hạng lừa đảo.” Mạc Lan lộ ra vẻ mặt hơi khó xử: “Chùa Hưng Đường ở Hoắc Ấp chúng ta mặc dù linh nghiệm, nhưng ở gần trong gang tấc, có một số chuyện không tiện để bọn họ biết được… Đại sư đến từ Trường An, vân du thiên hạ…” Mạc Lan còn chưa nói dứt lời, Huyền Trang đã hiểu được vấn đề. Thì ra bởi vì mình là tăng sĩ nơi khác, cho dù biết chuyện riêng tư của phu nhân hay tiểu thư thì xong chuyện cũng sẽ rời đi ngay, hiếm dịp gặp lại, sẽ không khiến đôi bên khó xử. Ngài cười khổ một tiếng: “Thôi được, thí chủ thử nói xem.” Mạc Lan nhìn quanh trong phòng, ngoài gã mọi rợ hải ngoại thô kệch Ba La Diệp này không còn có người ngoài nào khác, bèn hạ thấp giọng, nói: “Khoảng từ mùa xuân năm ngoái, thỉnh thoảng phu nhân nhà ta thức dậy, trên người xuất hiện một số vệt đỏ. Phu nhân cũng rất nghi hoặc, sau đó một thời gian thì biến mất. Nhưng vài ngày sau nó lại xuất hiện. Phu nhân còn tưởng là phát ban, tìm đại phu dùng thuốc nhưng không có hiệu quả gì. Bởi vì vệt đỏ này xuất hiện không hề có dấu hiệu báo trước, có lúc hơn một tháng không xuất hiện, có lúc vài ngày liền, càng ngày càng nhiều. Ta và phu nhân, tiểu thư đều rất nghi hoặc, càng ngày càng cảm thấy huyện nha này dày đặc quỷ khí…” Mạc Lan nói đến đây, chính mình cũng cảm thấy sợ, lén nhìn quanh như thể có ma quỷ đang nghe trộm: “Huyện nha âm khí nặng, chẳng lẽ là thật sự có yêu tà nào đó gây chuyện?” Huyền Trang nhíu chặt lông mày: “Vệt đỏ này rốt cuộc trông thế nào?” “Rất khác nhau. Có vệt dài, có khối ban đỏ, thậm chí có vết xanh tím. Thoạt nhìn…” Tì nữ Mạc Lan nói, trong mắt ánh lên nỗi sợ hãi: “Thoạt nhìn giống như có ma dùng tay cào cấu ấy.” “Trên ban đỏ có hạt nhỏ nổi lên như hạt gạo không?” Huyền Trang trầm tư một lát, hỏi. Mạc Lan do dự lắc đầu: “Cái này thì không có.” “Vậy thì không phải là bệnh sởi.” Huyền Trang lẩm bẩm nói. Ngài cũng cảm thấy bực dọc, bản thân là một hòa thượng nghiên cứu Phật pháp, lại bị người ta kéo đến trừ tà: “Vậy những vệt đỏ này xuất hiện ở những vị trí nào?” “Chúng xuất hiện ở…” Mạc Lan đang định trả lời, đột nhiên phía sau bình phong có tiếng bước chân vang lên, ngọc bội leng keng, một mùi thơm nhẹ theo gió đưa vào. “A, phu nhân đến rồi!” Mạc Lan kêu lên. Một thiếu phụ ăn mặc hoa lệ thướt tha bước ra. Thiếu phụ này tóc búi cao, trên cài trâm ngọc bích, dải rua trâm rung khẽ theo từng nhịp bước, y phục màu tím nhạt, viền áo phủ trên bộ ngực trắng muốt còn cài hoa bằng vàng khảm trai, tư thái nhàn nhã, cao quý. Nhìn sơ cũng biết là một mỹ nhân mắt ngọc mày ngài, đặc biệt là dáng người thắt đáy lưng ong, mọi đường nét hài hòa trên cơ thể đều được tôn lên thấy rõ. Cho dù hòa thượng Huyền Trang nhìn vào cũng có thể cảm nhận được một vẻ đẹp rạng ngời dồi dào sinh lực, không kém gì cây cối hoa cỏ tràn trề nhựa sống khoe sắc tỏa hương khắp núi đồi. Ba La Diệp dù sao cũng chỉ là một quản tượng, đã không biết ngần ngại quay mặt đi thì thôi, đằng này còn trợn tròn cặp mắt đặc trưng vùng Tây Vực lên nhìn chằm chằm vào phu nhân nhà người ta. Quả thực trên cần cổ trắng muốt như ngọc ấy hằn lên dấu ban đỏ, diềm ngực cài hoa vàng cũng có một đường ban đỏ chạy dài. “Vị này chính là cao tăng từ Trường An đến sao?” Lý Phu nhân không để ý đến người Thiên Trúc này, vừa nhìn thấy Huyền Trang thì sững người lại, mặt mày biến sắc. “A Di Đà Phật!” Huyền Trang đứng lên khom người chắp tay. Lý phu nhân ngơ ngác nhìn Huyền Trang, ánh mắt tràn ngập sự sợ hãi, nhất thời quên cả đáp lễ, một hồi lâu sau mới lấy lại tinh thần, hoang mang lo sợ ngồi xuống tấm thảm bên cạnh, trên trán rịn mồ hôi lạnh. Huyền Trang không hiểu vì sao, đành phải ngồi xếp bằng, không nói một lời. “Đại sư đến đây có việc gì vậy?” Lý phu nhân định thần lại, gượng cười, hỏi. “Ơ…” Huyền Trang càng nghĩ càng thấy rối trí, rõ ràng điển lại nhà các ngươi kéo ta đến đây, tì nữ nhà các ngươi lôi ta vào đây, bây giờ lại hỏi ta có việc gì? Nhưng lại không thể không đáp: “Bần tăng từ Trường An đến, vốn là để cầu kiến Quách đại nhân, hỏi thăm một vài chuyện xưa. Nào ngờ minh phủ đại nhân đã đi tuần sát đê điều Phần Thủy, thế là Mã điển lại và Mạc Lan cô nương tìm đến bần tăng hỏi một chút về chuyện tà ma.” “Tà ma?” Lý phu nhân ngẩn ra, quay sang nhìn Mạc Lan: “Tà ma gì?” Huyền Trang và Ba La Diệp không khỏi đưa mắt nhìn nhau, hai người đều thấy ngạc nhiên. “Thưa phu nhân,” tì nữ Mạc Lan vội vàng nói: “Chính là chuyện vết đỏ trên người phu nhân ấy. Phu nhân thường nói trong mơ nhìn thấy một số ma quỷ, sợ là trong huyện nha không sạch sẽ, chúng ta đã định đến chùa Hưng Đường thỉnh đại sư mà? Nhưng phu nhân lại lo lắng nọ kia, thế nên nô tì mới mời đại sư đây đến nhà ta…” Nghe Mạc Lan nói như vậy, mặt Lý phu nhân chợt tái dại đi, trợn mắt nhìn Mạc Lan, tỏ rõ ý giận. Huyền Trang cũng đã hiểu được, thì ra đều là cô tì nữ này tự mình đưa ra chủ ý. “Mạc Lan…” Lý phu nhân vô cùng tức giận, lại không tiện trách cứ trước mặt Huyền Trang, bèn vỗ án một cái thật mạnh: “Ngươi lui ra ngoài cho ta!” Mạc Lan ngơ ngác không biết vì sao phu nhân tức giận như thế, nhưng lại không dám trái lời, đành phải mếu máo chạy vào hậu trạch. Gương mặt Lý phu nhân ửng đỏ, càng tỏ ra xinh đẹp như hoa, rực rỡ khó tả, lúng túng nhìn Huyền Trang: “Để đại sư phải chê cười. Đứa tì nữ này hầu hạ thiếp thân từ nhỏ, dạy bảo không nghiêm, chuyện đùa vui chốn khuê phòng lại đem ra quấy nhiễu người ngoài.” “A Di Đà Phật!” Huyền Trang cũng có chút khó xử: “Là bần tăng lỗ mãng!” Lý phu nhân thở dài một tiếng, nhìn Huyền Trang chằm chằm, không biết sau đó lại ngẩn ngơ nghĩ gì. Huyền Trang là hòa thượng, từ nhỏ đã tu hành, trái tim đã tu thành hạt bụi giữa tam thiên đại thiên thế giới, không còn vương vấn, vị phu nhân xinh đẹp trước mặt này trong mắt ngài cũng chỉ là một cỗ da xương được tô son điểm phấn, đương nhiên sẽ không động lòng, tuy nhiên lại cảm thấy có chút kỳ dị: Vị phu nhân này nhìn chằm chằm vào bần tăng làm gì? “Đại sư là người ở đâu?” Lý phu nhân hỏi. “Bần tăng là người huyện Câu Thị ở Lạc Châu.” Huyền Trang chắp tay nói. Hai người đối đáp gượng gạo, như thể đang cố tìm chuyện để nói. Lý phu nhân hỏi: “Trong nhà đại sư còn có người nào?” “Phụ mẫu mất sớm, có ba vị huynh trưởng và một vị tỷ tỷ.” “Ngài có huynh trưởng à?” Lý phu nhân lộ vẻ trầm tư: “Ba vị huynh trưởng của ngài bây giờ làm sinh kế gì?” “Bần tăng mười tuổi xuất gia, đến nay chưa từng về thăm nhà. Trước khi xuất gia, đại ca là tiến sĩ ở huyện học, lúc ấy thiên hạ vẫn còn là con dân dưới thời Tiền Tùy. Giờ đây Đại Đường ta quy định, huyện ở gần phủ thành, đã có phủ học nên không còn lập huyện học nữa. Câu Thị ở gần Lạc Châu, sợ rằng sớm đã xoá huyện học rồi. Đại ca bây giờ ở nơi nào, bần tăng cũng không rõ.” Nhắc tới thân nhân, Huyền Trang không tránh được trầm sắc mặt buồn bã, viền mắt hơi ướt: “Tam ca làm nghề nông, có trăm khoảnh ruộng. Tỷ tỷ gả tới Trương thị ở Doanh Châu. Thoắt cái đã mười bảy năm trôi qua, Tùy chuyển thành Đường, từ loạn thế đến thịnh trị, vùng Lạc Dương bị loạn binh cướp bóc nhiều năm, người nhà giờ cũng không hay biết tin tức ra sao nữa rồi.” Lý phu nhân nhớ tới thời loạn thế đáng sợ kéo dài suốt hơn mười năm, cũng không khỏi xúc động, thở dài không thôi: “Vậy còn nhị ca của ngài?” “Nhị ca gọi Trần Tố, lớn hơn bần tăng mười tuổi, từ nhỏ đã xuất gia tại chùa Tịnh Thổ ở Lạc Dương, pháp danh Trường Tiệp.” Huyền Trang nói. “Trường Tiệp…” Lý phu nhân lẩm bẩm nhắc lại. “Bần tăng năm năm tuổi thân mẫu qua đời, năm mười tuổi thân phụ cũng tạ thế. Chính nhị ca đã dẫn bần tăng tới chùa Tịnh Thổ. Lúc đầu là theo huynh học đạo, năm mười ba tuổi mới xuống tóc làm tiểu sa di.” Huyền Trang lộ ra vẻ hoài niệm, hiển nhiên có tình cảm rất sâu sắc với nhị ca của mình: “Sau khi thái thượng hoàng diệt Tùy lập Đường, Vương Thế Sung ở Lạc Dương chống lại thiên quân, loạn lạc nổi lên. Nhị huynh dẫn bần tăng chạy nạn đến Trường An, sau đó lại qua Tử Ngọ Cốc đến Ích Châu, rồi quyết ở lại nơi này.” Mắt Lý phu nhân chợt sáng lên, vội vàng hỏi: “Vậy bây giờ nhị ca của ngài ra sao? Hiện đang ở nơi nào?” Huyền Trang ngẩn ra, có chút do dự, nói chậm rãi: “Năm Vũ Đức thứ tư, bần tăng muốn rời đất Xuyên đi tham học, vân du thiên hạ nhưng nhị ca không đồng ý. Bần tăng liền để lại một bức thư, rồi rời khỏi Ích Châu, từ đó không còn gặp lại.” “Thì ra là thế…” Phu nhân cảm khái không thôi: “Cao tăng cũng là một người đáng thương!” Huyền Trang im lặng không nói. “Đại sư!” Lý phu nhân cắn môi, hiển nhiên có tâm sự khó mà quyết được, một hồi lâu mới nói tiếp: “Thiếp thân có lời muốn khuyên.” “A Di Đà Phật, mời phu nhân nói!” Lý phu nhân nói gằn từng chữ, trong đôi mắt đẹp thoáng hiện biểu tình nghiêm trọng: “Đại sư có thể lập tức đi khỏi Hoắc Ấp, rời khỏi đạo Hà Đông hay không?” Huyền Trang kinh ngạc: “Phu nhân nói vậy là có ý gì?” Lý phu nhân không trả lời, đôi mắt tỏ lộ sự mông lung, như thể bị sương mờ bao phủ, chỉ ngẩn người nhìn về phía bức tranh vẽ người cung nữ đang treo trên khoảng tường đối diện, bên cạnh có đề một bài thơ. Bức tranh này nét vẽ tinh tế, vô cùng sinh động, thiếu nữ trong tranh cười tươi như hoa, tà váy phất lên như muốn từ trong tranh đi ra. Gương mặt trong tranh cùng Lý phu nhân đang đứng trước mặt Huyền Trang giống nhau như đúc. Lý phu nhân nhìn say mê, dường như quên mất Huyền Trang đang ở đây, lẩm bẩm đọc bài thơ đề trên tranh: Mạc đạo trang thành đoạn khách tràng, phấn hung miên thủ bạch liên hương. Yên phân đỉnh thượng tam tằng lục, kiếm tiệt mâu trung nhất thốn quang. Vũ thắng liễu chi yêu canh nhuyễn, ca hiềm châu quán khúc do trường. Tuy nhiên bất tự Vương Tôn nữ, giải ái Lâm Cùng mại phú lang. Cẩm lý phân phương thiếu bội lan, phong lưu toàn chiêm tự quân nan. Tâm mê hiểu mộng song do ám, phấn lạc hương cơ hãn vị can. Lưỡng kiểm yêu đào tòng kính phát, nhất mâu xuân thủy chiếu nhân hàn. Tự ta thử địa phi ngô thổ, bất đắc như hoa tuế tuế khán. [Tạm giải nghĩa] Chẳng cần điểm trang cũng đủ làm say lòng người, ngực phấn, tay thon, thân quyện hương sen trắng. Tay người cầm kiếm, dùng sát ý mà phân định thành hay bại. Mỹ mạo tư dung, dựa vào phong thái tôn lên vẻ yêu kiều. Ngắm người múa uyển chuyển như nhành liễu, eo ngọc so ra mềm mại hơn, lòng chỉ hờn giọng ngọc hoài ngân mãi, khúc ca kia sao vẫn còn dài. Tiếc lòng người chẳng được như ái nữ của Vương Tôn, nguyện ý mở lòng, trao tình cho tài tử chốn Lâm Cùng.* Dựa trên tích truyện Trác Văn Quân, con gái Trác Vương Tôn, vốn là góa phụ, khép mình nơi khuê phòng, vì một khúc “Phượng cầu Hoàng” của tài tử Tư Mã Tương Như mà động lòng, quyết bỏ vành khăn thờ chồng cũ mà đi theo tiếng gọi con tim. Mặc phụ thân ngăn cấm, vẫn nguyện một lòng bỏ nhà trốn khỏi đất Lâm Cùng, đi theo Tư Mã Tương Như. Lụa gấm khoác lên người càng thêm phần xuân sắc, chỉ tiếc nỗi thiếu tư vị thanh thuần, động lòng mê đắm chuyện phong tình, trách sao quân tử khó giữ mình. Say đắm đến khi tỉnh mộng, thấy bên ngoài song cửa sắc trời vẫn còn tối, phấn nhạt mùi hương, mồ hôi trên người vẫn chưa khô. Liếc thấy trong gương má đà hồng như hoa đào chớm nở, mắt hạnh long lanh tựa như nước hồ xuân, thoáng nhìn đã khiến người chạnh lòng thương xót. Thương lòng ở mãi sao nổi nơi đất khách, chẳng thể thưởng hoa suốt tháng năm dài. Huyền Trang im lặng nghe, mặc dù ngài một lòng tham thiền nhưng cũng chẳng lấy gì làm xa lạ với Nho học và văn thơ. Nghe kỹ ra thì, bài thơ này mặc dù có phần ướt át nhưng câu từ đúng là tuyệt đỉnh, như lông loan đuôi phượng, hoa mỹ dị thường. Chỉ riêng câu “Yên phân đỉnh thượng tam tằng lục, kiếm tiệt mâu trung nhất thốn quang”, về âm luật, về từ ngữ đều khiến người ta phải tán thán. Đặt ở bất cứ một thời đại nào, so sánh với bất cứ một thi nhân nào đều có thể xếp vào hàng thượng phẩm. Đã là thơ đề họa, xem ra là viết tặng cho vị Lý phu nhân này. Với sắc đẹp của Lý phu nhân, quả thật rất xứng với bài thơ đó. Vậy thơ là do ai đề? Tài hoa của người này quả không phải dạng thường. Huyền Trang thầm nghĩ, mặc dù ý thơ có phần ướt át nhưng ngài hoàn toàn không cảm thấy sự dung tục trong đó, chỉ giống như nhìn một đóa hoa trên triền núi, ca ngợi vẻ đẹp của sinh mệnh mà thôi, hoàn toàn không có nửa phần suy nghĩ không thuần khiết. “Bất đắc như hoa tuế tuế khán…” Lý phu nhân cười buồn, lúc này mới bừng tỉnh, trên mặt lộ ra ráng đỏ thẹn thùng: “Thiếp thân đắm chìm vào chuyện cũ, quên cả tiếp đãi đại sư, xin đại sư đừng trách.” Huyền Trang cười khoan dung: “Có nhân ắt có quả. Đến chính bản thân bần tăng còn thấy ngỡ ngàng trong lục đạo hồng trần này, làm sao dám trách phu nhân được.” Phu nhân gật đầu buồn bã, sau đó lấy lại tinh thần: “Sắc trời đã tối, vốn nên mời đại sư dùng bữa cơm chay, có điều lão gia không có nhà, thiếp thân không tiện bồi tiếp. Thiếp thân đã nhờ Mã điển lại sắp xếp phòng nghỉ và cơm nước cho đại sư ở dịch xá, mời Mã điển lại thay mặt tiếp đãi đại sư!” Huyền Trang vội vàng đứng dậy: “Không dám, bần tăng sao dám quấy quả chốn quan phủ. Ngoài thành có chùa Hưng Đường, bần tăng đến đó tá túc là được.” Lý phu nhân gật đầu, hai mắt lấp lánh, lại dặn dò một câu: “Đại sư xin hãy nhớ lấy, lập tức rời khỏi Hoắc Ấp. Thiên hạ rộng lớn, đại sư tài cao học rộng, sớm muộn cũng vang danh Đại Đường, cao quý vô ngần, Hoắc Ấp này…” Lý phu nhân cắn răng, nhưng không nói tiếp. Huyền Trang chắp tay không nói, cáo từ đi ra ngoài. Lý phu nhân dựa cửa nhìn theo, đến lúc bóng dáng Huyền Trang biến mất sau tường mới mệt mỏi vịn khung cửa, nhắm mắt lại, lẩm bẩm nói: “Thật sự rất giống…” Hai người rời khỏi hậu nha, bước ra đường lớn trong bóng chiều chạng vạng. Vừa rồi Ba La Diệp suýt chết vì bí bức. Huyền Trang và Lý phu nhân nói chuyện với nhau, có những chỗ hắn không hiểu, mà dù có hiểu cũng không dám xen vào, khiến gã lắm mồm này bứt rứt, khó chịu vô cùng. May mà trà bánh bày trên bàn hợp khẩu vị của hắn, từ ngày theo hòa thượng Huyền Trang này hắn chưa bao giờ được ăn đồ ngon như vậy. Hắn vốn quen ăn bốc, thế là không ngừng nhét bánh vào miệng, đến giờ cơm cũng không cảm thấy đói, chỉ thấy mồm miệng ngứa ngáy không nói không được. “Đại sư, đại sư!” Ba La Diệp một tay xách bao hành lý, tay kia cầm hòm sách của Huyền Trang, chạy vượt lên, nói với giọng điệu phấn khích: “Ta biết, vị phu nhân, tôn quý, kia bị bệnh, gì rồi.” “Sao cơ?” Huyền Trang đang trầm tư suy nghĩ nên nhất thời chưa hiểu hắn nói gì. “Nữ…” Ba La Diệp sốt ruột, đeo hòm sách lên trên vai, dùng một tay ra dấu: “Nữ tì, đó, chẳng phải đã nói, ban đỏ, trên người phu nhân, nghi là, ma quỷ cào cấu hay sao?” Lúc này Huyền Trang mới nhớ ra, sứ mệnh ban đầu của mình là đến trừ tà cho Lý phu nhân, không ngờ lại làm mọi người khó xử, tất cả đều là do cô tì nữ kia tự làm theo ý mình, phu nhân nhà người ta hoàn toàn không biết gì chứ đừng nói đến việc thấy cảm kích. Ngài cười khổ một tiếng: “À, thế ngươi biết cái gì?” “Phu nhân đó, không phải bệnh. Là…” Ba La Diệp đột nhiên không biết diễn đạt thế nào. Vốn từ ngữ tiếng Hán của hắn có hạn, ấp a ấp úng một hồi lâu: “Là… vết dao cưa.” “Vết dao cưa?” Từ này nghe có vẻ lạ, Huyền Trang cười hỏi: “Có nghĩa là gì?” “Vết dao cưa, cái cưa…” Ba La Diệp dùng tay phải làm động tác đang cưa, nói tiếp: “Tiếng Phạn. Nghĩa tiếng Hán, chính là, vết dao, cưa.” Huyền Trang gật đầu: “Cưa và dao bần tăng đương nhiên biết, nhưng từ này có nghĩa gì?” “Chính là…” Ba La Diệp suy nghĩ một lát, sau đó nhếch miệng cười: “Chính là, nam nữ hoan ái, tình nồng, lúc, vui sướng, co giật, si mê, dùng tay và miệng, để lại dấu vết, trên người đối phương. Chụt…” Hắn dùng năm ngón tay cào, lại chu miệng ra mút mạnh một cái: “Ngài xem, vết màu đỏ, trên da, như là vết, dao cắt qua, lưỡi cưa, cưa qua.” Huyền Trang ngẩn cả người khi nghe được những lời này. Kỳ thực chuyện này không trách được Huyền Trang. Ngài xuất gia từ nhỏ, ngoài thiền lý Phật pháp, căn bản vốn không để tâm gì đến chuyện thế tục, thiền tâm vững chắc như một tảng đá, phụ nữ có đẹp đến mấy cũng không thể làm thiền tâm của ngài dao động. Còn người gây họa là tì nữ Mạc Lan cũng chưa thành hôn, thấy vết đỏ trên người phu nhân thì kinh ngạc. Sợ là phu nhân cũng xấu hổ không dám nói ra, vì thế mới lấy lý do có tà ma, ai ngờ cô tì nữ kia lại tưởng thật… “Ngươi… còn biết gì nữa?” Huyền Trang không dám coi thường gã Ba La Diệp này nữa, dù sao thì ngài cũng là người xuất gia không màng thế sự, về khía cạnh nhân tình thế thái này, căn bản vốn không hề tiếp xúc qua. “Còn biết.” Ba La Diệp gãi đầu: “Nhà huyện lệnh, một phu nhân, một tiểu thư, còn nữa, huyện lệnh, sùng thê.” Huyền Trang không nhịn được bật cười ha hả. Gã thô kệch này đúng là quá thú vị, không mất nhiều thời gian đã hỏi thăm được những tin tức này rồi. “Đại sư!” Ba La Diệp ngập ngừng: “Vị phu nhân đó, dặn ngài, mau rời khỏi, Hoắc Ấp. Nghe giọng bà ấy, thì sợ là, có nguy hiểm gì lớn, ngài vẫn…” Huyền Trang im lặng một lát, lắc đầu: “Lần này đến Hoắc Ấp, bần tăng có một tâm nguyện cần cắt đứt. Đường tu hành vốn đã đầy gai góc, nếu thật sự có nguy hiểm cũng coi như là một nghiệp quả của bần tăng mà thôi. Nói muốn tránh là có thể dễ dàng tránh được sao?” “Nhưng mà, sợ nguy hiểm cho tính mạng, của ngài.” Ba La Diệp vội nói. Huyền Trang không nói nữa. Tính ngài vốn hiền lành nhưng khi gặp chuyện lại rất cố chấp, đã quyết định rồi sẽ không bao giờ chịu khuất phục. Ba La Diệp liên tục thở dài, nhưng cũng chẳng biết làm gì hơn. Hai người ra đến đường cái quan, vừa đi được vài chục bước trên phố chiều đột nhiên có người ở phía sau gọi: “Đại sư! Đại sư! Huyền Trang đại sư!” Hai người quay đầu lại, thấy Mã điển lại vừa gọi vừa chạy đuổi theo, vẻ mặt phấn khích. Phía sau hắn còn có một gã thân hình vạm vỡ, cao chừng sáu thước có lẻ. Gã này dáng người to lớn đã đành, thế nhưng lại mặc áo bào cổ tròn màu xanh đậm, đầu chít khăn, đội mũ ô sa, đai lưng cũng là đai bạc chín khoen. Đây rõ ràng là phục sức của quan chức lục phẩm. Thời Đường một thước nhỏ là 30 cm, một thước lớn là 36 cm. Thước nhỏ dùng trong công việc đặc thù, còn dân gian đa số dùng thước lớn. Chiều cao của Quách Tể quy ra số đo hiện nay tương đương với 2m16. Quả nhiên, Mã điển lại chạy đến trước mặt Huyền Trang, liên tục chắp tay, vẫn còn thở hổn hển: “Đại… đại sư, may mà tìm được ngài rồi. Huyện lệnh đại nhân nhà ta vừa trở về huyện nha, nghe nói ngài đến, không kịp thay quần áo đã đuổi theo…” Huyền Trang lấy làm lạ, không ngờ huyện lệnh lại là một người to lớn, oai dũng như một vị thần. Nếu khoác lên người bộ áo giáp, hẳn cũng sẽ là một viên mãnh tướng trên sa trường. Lúc này vị huyện lệnh Quách Tể kia đã đi tới nơi, nhìn thấy Huyền Trang thì tỏ rõ sự vui mừng, cúi người vái lạy: “Đại sư, Ta đã nghe quý danh của đại sư từ lâu, không ngờ hôm nay đại sư lại đến bỉ huyện, đúng là rồng đến nhà tôm. Ta bận chút việc công, suýt nữa mất cơ hội được gặp đại sư.” Vị Quách Tể đại nhân này dù khom người vẫn cao hơn Huyền Trang nửa cái đầu, ngài đành phải giơ cao tay lên đỡ: “Đại nhân khách khí quá, bần tăng chỉ là một tham học tăng, đâu dám nhận đại lễ của đại nhân như thế.” “Nhận được, nhận được.” Quách Tể mặt mày rạng rỡ. Vị đại nhân này mặc dù thân hình to lớn nhưng tướng mạo lại không thô kệch, lời ăn tiếng nói cũng có vài phần văn vẻ: “Sắc trời đã tối, nếu cao tăng không chê, xin mời đến nhà hạ quan, hạ quan cũng tiện nghe Phật pháp giáo hóa.” Huyền Trang mới từ nhà ông ta đi ra, nghĩ tới thái độ của Lý phu nhân, vốn không muốn quay lại, nhưng cũng không thể từ chối sự khẩn nài của Quách Tể. Ngài vốn mềm lòng, tính tình lại hiền hậu, đành phải theo về đến hậu trạch huyện nha một lần nữa. Ba La Diệp một tay xách bao hành lý, vai đeo hòm sách. Quách Tể nhìn thấy, bất chấp thân phận của mình, đưa một tay nhấc hòm sách trên lưng Ba La Diệp lên, xách trên tay nhẹ nhàng như xách một con gà con. “Thật, là khỏe!” Ba La Diệp khen. “Ha ha!” Mã điển lại đắc ý nói: “Đại nhân nhà ta đã từng chiến đấu chống Đột Quyết, chém giết mười mấy năm ở mạn Sóc Châu đó! Làm huyện úy Định Hồ sáu năm, người Đột Quyết và Lương Sư đều không dám bén mảng tới huyện Định Hồ dù chỉ một bước chân.” Huyền Trang gật đầu: “Đúng là mãnh tướng sa trường, đại nhân văn võ toàn tài, quả là thần nhân hiếm gặp!” “Đâu có, đâu có.” Quách Tể lộ vẻ ngượng ngùng: “Hạ quan là một kẻ thô lỗ, chỉ biết báo đáp quốc gia, bất kể là quan văn hay là quan võ, triều đình ban cho trọng trách gì thì biết nhận làm việc đó.” Huyền Trang cười: “Nhìn tên và tự của đại nhân đều rất có phong phạm của tiên hiền Nho gia. Xem ra đại nhân chí hướng cao xa, tại chốn triều đình mới phải!” Huyền Trang đã nghe Mã điển lại nói, Quách Tể, tự là Tử Dư. Khổng Tử có một học trò gọi là Tể Dư, tự là Tử Ngã, có tài biện luận vô song, còn xếp hạng phía trên Tử Cống, là một trong Khổng môn thập triết. Vì vậy Huyền Trang mới nói lời này. Mười vị hiền triết, đồng thời cũng là mười học trò tài hoa nhất của Khổng Tử. Xét về đức hành có Nhan Hồi, Mẫn Tổn, Nhiễm Canh, Nhiễm Ung. Bàn về ngôn ngữ, biện luận có Đoan Mộc Tứ, Tế Dư. Về chính sự có Nhiễm Cầu, Tử Lộ. Về văn chương thi phú có Ngôn Yển, Tử Hạ. Cả mười người đều có tên trong danh sách “thất thập nhị hiền” nhưng xét về tài cao thì “thập triết” vẫn đứng trên 62 vị kia một bậc. Khuôn mặt hơi đen của Quách Tể đỏ lên, lúng túng nói: “Đại sư chê cười rồi. Hạ quan chỉ biết chút ít chữ nghĩa, nào có phong phạm Nho gia gì. Hạ quan vốn là người vùng biên cương, từ khi còn nhỏ gia quyến đã bị người Đột Quyết sát hại, trong lòng hận người Đột Quyết nên đặt tên cho chính mình là Tể, ý là muốn làm thịt đám người Đột Quyết…” Huyền Trang không nhịn được mà nhoẻn miệng cười, Mã điển lại cũng cười ha hả. “Không nghĩ tới sau khi làm quan, các đồng liêu đều nói tên ta rất hay. Ta thỉnh giáo một vị tiên sinh mới biết còn có chuyện này.” Quách Tể ngượng ngùng nói: “Sau đó tiên sinh mới đặt tên tự giúp ta, gọi là Tử Dư. Nói ngươi đã làm quan rồi, nên xua bớt mùi máu tanh trong tên gọi. Ta ngẫm nghĩ, tên tự mà tiên sinh đặt cho ta tất nhiên phải mang ý tốt rồi, sau đó trước khi biết Tử Dư có nghĩa là gì còn thấy rất khó hiểu, tại sao đang từ làm thịt đám người Đột Quyết lại hóa thành làm thịt chính bản thân mình* rồi?” Tử (⼦) và Tể (宰) gần âm, cách đọc na ná, dễ nghe nhầm. Dư (予) là đại từ chỉ ta/tôi, một cách tự xưng khi nói chuyện với người khác. Mọi người đồng loạt ôm bụng cười, Huyền Trang cũng không nhịn được mà bật cười, cảm thấy vị huyện lệnh đại nhân này thật sự ngây thơ chất phác, trong lòng lại cảm thấy kính nể. Lăn lộn hàng chục năm từ sa trường đến quan trường mà vẫn có thể giữ được tấm lòng trong sáng, là người có phật tính cao. Đoàn người vừa đi vừa nói chuyện, cuối cùng cũng quay về đến nhà Quách Tể. Lý phu nhân không ngờ Huyền Trang lại quay lại, nhưng biết là Quách Tể mời về nên cũng không làm gì được. “Ưu Nương, Lục La đâu?” Quách Tể hỏi: “Mau gọi Lục La ra chào đại sư!” Lý phu nhân khuê danh là Ưu Nương, thấy trượng phu hỏi liền đáp: “Lục La đến nhà Chu phu nhân học đàn từ giờ Thân, còn chưa về.” Thấy ái nữ không có nhà, Quách Tể đành phải sai Mạc Lan đi làm đồ chay, mọi người ăn cơm trước rồi nói tiếp. Thời kỳ Đường sơ cả quan lại lẫn chúng dân đều không mấy dư dả, thứ gọi là yến tiệc thực chất cũng rất đơn giản. Bao gồm hai loại bánh là bánh hồ và bánh bột hấp, bốn loại bánh điểm tâm là bánh mứt quả hỗn hợp, bánh bảy tầng mây, bánh thủy tinh long phượng, bánh nếp viên, cùng vài món ăn thanh đạm, bày ở trên bàn ăn, được gia nhân bưng vào, kê ở giữa phòng khách, mọi người ngồi xuống xung quanh. Quách Tể thích rượu nhưng không dám uống trước mặt Huyền Trang, chỉ dám uống một vò rượu trái cây, xem như là có rượu. Rượu trái cây này mặc dù rất nhạt nhưng vẫn có chất men, Huyền Trang đương nhiên không uống nhưng cũng không ngại người khác chung bàn uống. Ba người đàn ông còn lại thấy vậy thì cũng thoải mái hơn, nhanh chóng đổi thành ta một bát ngươi một bát, uống không ngừng. Bánh thủy tinh long phượng, hay còn gọi là bánh nồi đất, loại bánh này là đặc sản của vùng Thiểm Tây, được làm từ gạo nếp, táo đỏ, đậu đỏ, hấp chín. Bánh phân làm nhiều tầng, một tầng gạo nếp, một tầng táo đỏ đậu đỏ trộn lẫn, cứ thế xếp tầng mà hấp chín. Thất phản cao hay bánh bảy tầng mây, loại bánh này tương tự với món bánh da lợn ở Việt Nam. Hồ bính hay bánh Hồ là một loại bánh của người Hồ. Thành phần chính là: bột, mè, hành tây, trứng, bơ, sữa, dầu ăn, đường, muối. Lý phu nhân ngồi bên cạnh hầu rượu, cử chỉ mặc dù nhàn nhã, nhưng nét mặt lại tỏ rõ u sầu. Bà không ở lại lâu, sau khi rót rượu cho khách khứa lấy lệ liền quay trở vào nội viện. Ăn cơm chay xong, sắc trời đã tối, Mã điển lại cáo từ, Huyền Trang cũng đứng dậy xin cáo lui, định đi tìm một nhà trọ nghỉ ngơi. Không ngờ Quách Tể không đồng ý: “Đại sư, ngài sao có thể đi được? Hạ quan còn muốn giữ ngài lại thêm vài ngày để mở một tràng pháp sự.” “Xin hỏi là pháp sự gì đây?” Huyền Trang hỏi. “Trừ tà xua ma.” Quách Tể thở dài nói: “Nha môn âm khí nặng, một năm qua nội trạch không yên, ban đêm phu nhân khó mà ngủ ngon, mỗi buổi sáng thức dậy trên người lại xuất hiện một số vệt đỏ. Hạ quan nghĩ là trong nhà không sạch sẽ, đại sư đã đến, không bằng tiện thể ra tay giúp đỡ hạ quan xua ma trừ tà!” Huyền Trang ngây người, rồi nhanh chóng quay sang phía Ba La Diệp, bốn mắt nhìn nhau, trong ánh nhìn của cả hai người đều lộ rõ sự nghi hoặc. CHƯƠNG 2 Vết dao cưa, chuyện khuê phòng Trong lòng Huyền Trang đúng là kêu khổ không ngừng. Theo cách nói của Ba La Diệp, “vết dao cưa” trên người Lý phu nhân xuất hiện là do việc cùng phu quân hoan ái chốn khuê phòng, nhưng có một vấn đề là… Tướng công của bà lại cho chuyện đó là do ma làm, vậy chuyện này là thế nào? Cũng phải nói thêm là, địa vị của phụ nữ đời Đường rất cao, quan niệm trinh tiết tương đối mờ nhạt. Phụ nữ không còn trinh tiết trước hôn nhân không hiếm thấy, chuyện yêu đương vụng trộm sau hôn nhân hoặc sau khi chồng mất lại càng phổ biến. Nhưng vấn đề mình là một hòa thượng, vô duyên vô cớ xen vào chuyện này làm cái gì? Huyền Trang không ngừng từ chối, nhưng Quách Tể rất kiên quyết, đã nhận định ngài là cao tăng nên dù thế nào cũng không chịu cho đi. Ông ta mặt trước thì tiễn Mã điển lại ra về, sau khi đóng cửa lại đã sắp xếp chỗ ở cho Huyền Trang và Ba La Diệp. Huyền Trang thật sự không thể làm gì được. Ngài rất mến mộ sự chất phác của vị huyện lệnh thân hình vạm vỡ, to khỏe này, thầm nghĩ cũng nên dùng Phật pháp điểm hóa cho ông ta, chỉ mong sau này ông ta biết được chân tướng sự việc vẫn có thể giữ được tâm khí bình hòa, thái độ bình tĩnh mà giải quyết sự vụ thì đó âu cũng là tạo công đức, vì vậy cũng không tiếp tục từ chối nữa. Quách Tể vui mừng khôn xiết, vội vàng lệnh cho Cầu Nhi dọn dẹp hai phòng ngủ cho Huyền Trang và Ba La Diệp. Lúc này là giờ Tuất, nhà nhà cũng chỉ vừa mới lên đèn, còn lâu mới đến giờ ngủ. Hai người lại bày trà thơm trong đại sảnh, ngồi đối diện nhau chuyện trò. Quách Tể bắt đầu kể lại tỉ mỉ “chuyện lạ” xảy ra trên người phu nhân của mình, nội dung cơ bản cũng giống như những gì Mạc Lan kể. Huyền Trang cảm thấy xót xa trong lòng, nhìn ông ta đầy thương cảm, cũng không biết nên nói gì cho phải. “Ôi, có thể lấy được Ưu Nương chính là may mắn cả đời của Quách Tể ta.” Nhắc tới phu nhân nhà mình, Quách Tể mặt mày tỏ rõ sự vui vẻ: “Sắc đẹp của Ưu Nương hẳn không cần phải bàn cãi thêm nữa, ngài xem bức tranh tả người cung nữ trên tường này đi, đó chính là Ưu Nương trước khi xuất giá. Còn có bài thơ đó nữa, tả Ưu Nương không khác gì tiên nữ, đúng thế, chính là tiên nữ.” Huyền Trang nhìn theo hướng chỉ của Quách Tể, vẫn là bức tranh ngài đã nhìn thấy ban ngày, không khỏi ngạc nhiên, bèn thăm dò: “Đại nhân, ngài có hiểu rõ hàm ý của bài thơ này không?” “Đương nhiên!” Quách Tể khẳng định: “Chính là khen Ưu Nương xinh đẹp mà.” Huyền Trang cũng cạn lời, chịu thua không biết đáp sao nữa. “Ưu Nương chẳng những xinh đẹp mà còn có học, cầm kì thi họa, không gì không tinh thông, đáng quý hơn là, tay nghề thêu thùa may vá của nàng ấy cũng rất tốt.” Quách Tể tỏ rõ vẻ tự mãn khi vuốt bộ quan phục của mình: “Chiếc áo bào này của ta chính là do Ưu Nương may. Đường may tinh tế, rất vừa người, dù là kẻ vóc người thô kệch như hạ quan mặc vào cũng thấy thoải mái hơn rất nhiều.” Huyền Trang nhất thời không biết nên nói chuyện với vị đại nhân này thế nào, đành phải ngồi im nghe hắn khoe khoang. Quách Tể hào hứng tự biên tự diễn một thôi một hồi lâu, lúc để ý thấy Huyền Trang không nói gì, mới tự trách: “Ôi chao, đúng đúng, hạ quan nhớ ra rồi. Đại sư ngài ngàn dặm xa xôi từ Trường An đi tới Hoắc Ấp là tìm hạ quan có việc, khi trở về đã nghe Mã điển lại nói rồi, nãy giờ kích động lại quên mất.” Nói đến việc này, trong lòng Huyền Trang trở nên nặng nề, sắc mặt dần biến thành nghiêm nghị: “A Di Đà Phật, bần tăng tới thăm đại nhân đích thực là có việc muốn bàn.” “Có việc gì, ngài cứ việc nói.” Quách Tể vỗ ngực: “Chỉ cần hạ quan có thể làm được thì nhất định sẽ không để đại sư phải thất vọng.” “Bần tăng đến là để hỏi thăm một vụ án cũ.” Huyền Trang nói chậm rãi: “Năm Vũ Đức thứ sáu, huyện lệnh khi đó tên là Thôi Giác đúng không?” Vừa nghe đến Thôi Giác, Quách Tể khá bất ngờ, nhưng nhanh chóng gật đầu, có vẻ hơi khó xử: “Không sai, Thôi Giác là huyện lệnh tiền nhiệm, hạ quan chính là người kế nhiệm hắn.” “Nghe nói Thôi Giác chết khi đang làm huyện lệnh Hoắc Ấp?” Huyền Trang nhìn sắc mặt Quách Tể, lòng không khỏi cảm thấy băn khoăn do dự, không biết chuyện này có uẩn tình gì đáng kiêng kị hay không, nhưng việc ngài cần làm rất quan trọng, không thể không hỏi được: “Khi đó có một hòa thượng đã đến huyện nha tìm Thôi huyện lệnh, đêm đó sau khi hai người họ bàn chuyện xong, Thôi huyện lệnh đã treo cổ tự vẫn?” Quách Tể nâng chén trà đặt trước mặt lên, chậm rãi nhấp một ngụm, khẽ liếc mắt ra ngoài sảnh, cặp mắt tựa hồ như hơi nheo lại: “Quả thực là có chuyện như vậy. Khi đó hạ quan còn đang làm huyện úy ở huyện Định Hồ, sau khi Thôi đại nhân qua đời mới chuyển đến đây, nên không được tận mắt chứng kiến chuyện xảy ra khi đó. Có điều, sau khi hạ quan nhậm chức có nghe các đồng liêu trong nha môn nói chuyện, cũng chính miệng hai người Cao chủ bạ, Hứa huyện thừa đã nói lại với ta, nên chắc không sai được đâu. Mời đại sư xem!” Quách Tể đứng dậy chỉ vào một cây ngô đồng ở ngoài sân: “Thôi đại nhân đã tự vẫn ngay tại cái cây này!” Huyền Trang kinh ngạc, đứng dậy đi ra hiên nhà quan sát, quả nhiên phía tây của cái sân có một cây ngô đồng, tán cây rộng rãi, gần như bao trùm non nửa chiếc sân. “Cành ngang đâm về phía đông đó chính là chỗ buộc dải lụa trắng.” Quách Tể đứng sau lưng ngài, giọng nói nặng nề. Nghĩ đến việc bảy năm trước, một huyện lệnh đã treo cổ chết trên cây ngô đồng trước mặt mình, ấy vậy mà giờ nơi này trở thành nhà mình, ghế quan của hắn cũng là mình ngồi lên thay thế, hẳn Quách Tể ít nhiều gì cũng bị ám ảnh bởi chuyện này. Huyền Trang lẳng lặng đứng nhìn cây ngô đồng, không quay đầu lại, thấp giọng hỏi: “Có ai biết được khi ấy Thôi huyện lệnh và vị hòa thượng kia đã nói về chuyện gì không?” Quách Tể suy nghĩ một lát: “Cái này hạ quan không rõ lắm, cũng chưa từng nghe ai nói qua. Việc quan huyện lệnh chính lục phẩm thắt cổ tự vẫn là chuyện hệ trọng, giả như có người biết khi ấy hai người họ đã nói những gì thì hẳn chuyện đã được đồn đãi khắp nha huyện này rồi. Nghe nói thứ sử đại nhân lúc bấy giờ đã phái người xuống tra xử vụ Thôi huyện lệnh thắt cổ tự vẫn, lấy lời khai của không ít người. Nếu có người biết thì hẳn đã khai báo luôn rồi. Từ châu phủ đến huyện đều không nghe ai báo bẩm lại bất kỳ điều gì, có lẽ là không ai biết thật.” Theo quy định nhà Đường, huyện Hoắc Ấp là thượng huyện, huyện lệnh thượng huyện là chính lục phẩm. Phẩm hàm được chia làm chín phẩm, mỗi phẩm chia làm hai bậc chính và tòng. Phẩm hàm cao nhất là chính nhất phẩm, thấp nhất là tòng cửu phẩm. Phẩm hàm dành phong tặng cho các quan lại của triều đình. “Vậy tình hình của vị hòa thượng kia sau đó ra sao?” Trong lòng Huyền Trang dấy lên nỗi lo sợ. “Hòa thượng đó sao?” Quách Tể ngạc nhiên, suy nghĩ một hồi lâu, cuối cùng lắc đầu nói: “Gã hòa thượng quỷ quái ấy lai lịch bất thường, sau khi rời huyện nha ngày hôm ấy xong thì chẳng còn ai nhìn thấy bóng dáng hắn đâu cả. Thứ sử đại nhân còn đã từng phái người truy bắt, nhưng yêu tăng đó không biết từ đâu tới, cũng không biết sẽ đi tới nơi đâu, cuối cùng đành bỏ cuộc, không thu được kết quả gì.” Huyền Trang nói nhỏ, vẻ mặt buồn bã: “Ngay cả pháp hiệu của hắn cũng không biết sao?” “Không biết!” Quách Tể quả quyết lắc đầu: “Nếu biết thì làm gì đến nỗi không bắt được? Hạ quan làm huyện úy nhiều năm, không biết đã bắt bao nhiêu đạo tặc, nhưng sợ nhất chính là loại nghi phạm không rõ lai lịch, không có tên họ này.” “Khi đó trong huyện nha chắc hẳn phải có người từng nhìn thấy hắn chứ?” Huyền Trang vẫn chưa từ bỏ ý định, gặng hỏi. Quách Tể gật đầu: “Đương nhiên rồi. Lúc gã hòa thượng đó đến, ngoài cửa có hai sai dịch đứng gác, còn có một tư lại cũng đã nhìn thấy hắn. Có điều tư lại đó đã có tuổi rồi, năm Vũ Đức thứ chín đã cáo lão về quê. Hai sai dịch, một người ốm chết, người còn lại… tại sao đã rất nhiều năm không gặp hắn nhỉ?” Quách Tể gãi đầu, đột nhiên vỗ tay đánh tét một cái rõ vang, nói: “Đúng rồi, đại sư! Hạ quan chợt nhớ ra. Để truy bắt gã hòa thượng quỷ quái đó, châu phủ khi ấy còn cho vẽ hình hắn. Dù đã lâu lắm rồi nhưng chắc vẫn tìm được. Hạ quan sẽ đi tìm cho ngài xem.” Quách Tể là người nhiệt tình, cũng không hỏi nguyên do đã vội dặn Huyền Trang ngồi trong sảnh chờ, chính mình thì chạy đến khu nha môn phía đằng trước. Huyện nha ban đêm đương nhiên không làm việc, nhưng vẫn có người canh gác. Quách Tể cũng không ngại phiền phức, lập tức đến khu nghỉ ngơi của đám thư điển lại ở phía tây tìm thư lại trực ban. Thấy là huyện thái gia đích thân tìm đến đây, mặc dù trời đã về khuya nhưng thư lại cũng không dám thờ ơ, sau khi nghe yêu cầu của Quách Tể đã nhanh chóng lục lọi kho trữ văn thư, án quyển để tìm đồ. Văn kiện lưu trữ từ nhiều năm trước, không phải cứ muốn là tìm được ngay. Huyền Trang ngồi xếp bằng một mình trong phòng khách, nhắm mắt buông mày, lần chuỗi tràng hạt trên tay, trong miệng thầm niệm “Vãng Sanh Tịnh Độ Thần Chú”. Nghe nói chỉ cần niệm chú này đủ ba mươi vạn lần sẽ có cơ duyên được tận mắt diện kiến Đức Phật A Di Đà. Lúc Huyền Trang niệm đến lần thứ chín mươi bảy, chợt nghe thấy tiếng bước chân ở phía ngoài sân, sau đó là tiếng Mạc Lan vang lên: “Tiểu thư, cuối cùng tiểu thư cũng về rồi. Phu nhân đã nhắc nhiều lần lắm rồi. Nếu tiểu thư còn không về, phu nhân sẽ sai nô tì đến nhà Chu phu nhân đón tiểu thư đấy.” Một giọng nói mệt mỏi của thiếu nữ đáp lời: “Học hơi mệt nên ta ở lại đó nghỉ một lát. Công tử nhà họ Chu mới kiếm được một món đồ chơi tinh xảo của người Hồ, lần sau ta sẽ dẫn ngươi đi xem.” Tiếng bước chân tiến gần đến bên ngoài sảnh đường, thiếu nữ nhìn thấy trong phòng có người, mới ngạc nhiên hỏi: “Ai đang ở trong phòng khách đấy? Đại nhân đâu?” “Hôm nay có một cao tăng từ Trường An tới, đại nhân mời đến nhà phụng dưỡng.” Mạc Lan nói: “Vừa rồi cũng không biết có việc gấp gì, đại nhân lại đi ra nha môn rồi.” “Ừ.” Thiếu nữ có vẻ không mấy quan tâm đến chuyện này, nhưng cũng giữ ý không đi thẳng qua phòng khách mà vòng qua cửa bên để đi vào hậu trạch. Thiếu nữ này chắc hẳn là con gái Lục La của Quách huyện lệnh. Huyền Trang không để ý thêm nữa, tiếp tục niệm chú. Lúc niệm đến lần thứ một trăm năm mươi ba lại có tiếng bước chân khác, nặng nề hơn, vang lên, vừa nghe đã biết là Quách Tể. Người khác không có khả năng bước đi mà như nện trống trên mặt đất kiểu này được. “Ha ha, đại sư, đại sư!” Quách Tể hết sức phấn khởi đi vào, giơ cuộn giấy ố vàng trong tay lên, cười nói: “Tìm được rồi, không ngờ lại tìm được thật rồi.” Huyền Trang nghe vậy vội vàng mở mắt ra, nhận lấy cuộn giấy từ trong tay Quách Tể, tay hơi run run. Quách Tể thấy vậy trong lòng cũng lấy làm kinh ngạc, nên không nói gì thêm, chỉ lặng lẽ nhìn ngài. Huyền Trang cố lấy bình tĩnh, ổn định thiền tâm, tựa như ánh trăng soi mình trên sông lớn, lấy đá thảy xuống cũng chỉ khiến mặt nước dao động thành từng gợn sóng nhè nhẹ, rồi lại nhanh chóng tan biến như chưa từng có gì xảy ra. Ngài ung dung mở cuộn giấy ra, bên trong là bức phác họa chân dung của một hòa thượng. Tay nghề của họa sư không tốt, lại vẽ theo lời miêu tả của người khác nên không giống người thật là mấy, nhưng vẫn có vài phần tương tự với người mà ngài đang nghĩ tới. Ấn tượng để lại cho người xem chính là cặp mắt dài mà có thần, trán rộng, mũi cao, miệng vuông. Từ tướng thuật mà nói, đặc trưng của những chỗ này là dễ nhận diện nhất, xem ra quan phủ vẽ như vậy cũng có cái lý của họ. Huyền Trang ngơ ngác nhìn bức tranh này, hai mắt dần dần đỏ lên, thiền tâm vững vàng bỗng chốc sụp đổ, trong lòng tràn ngập sự hoang mang. “Đại sư!” Quách Tể vô cùng kinh ngạc, nghiêng đầu nhìn bức tranh đó, rồi cũng sửng sốt mà rằng: “Đúng là có nét giống đại sư.” Nói xong cũng tự biết mình đã lỡ lời. Ai lại đánh đồng Huyền Trang đại sư danh tiếng vang dội khắp Trường An với một gã hòa thượng âm tà ma quỷ cơ chứ? Nào ngờ Huyền Trang lại khẽ than một tiếng, bình tĩnh nói: “Đại nhân nói không sai, vị hòa thượng bị truy bắt này rất giống nhị ca của bần tăng, Trường Tiệp.” Quách Tể kinh hãi, hai mắt trợn trừng, một hồi lâu mới lẩm bẩm: “Đại sư, chuyện này không thể đùa được.” Ông ta dừng lại một lát, trầm giọng nói: “Chắc chắn là ngài nhận sai người rồi, tên hòa thượng này là nghi phạm bị quan phủ truy bắt, ngài là ‘Thiên Lý mã của Phật môn’ danh lừng Trường An, sao có thể vơ đũa cả nắm được. Ngài đức cao vọng trọng, ngàn vạn lần đừng để bị người khác gièm pha vì một vài tì vết nhỏ nhặt!” Lời này của Quách Tể nói ra cũng là có ý tốt khuyên ngài. Khoan bàn đến chuyện người đó có phải nhị ca của Huyền Trang hay không, vì ngài cũng chỉ là đang suy đoán mà thôi, mà kể có đúng là nhị ca đi chăng nữa thì Huyền Trang cũng đã vào cửa Phật, tứ đại giai không, tình thân chốn tục gia so ra thì vẫn kém xa tầm quan trọng của việc tu thiền. Tội gì lại vì một nghi phạm không rõ thân phận mà hủy mất đại đạo tu hành của mình? Huyền Trang lại chậm rãi lắc đầu: “Khi bần tăng là sa di, thấy núi chỉ là núi, thấy nước chỉ là nước, thế giới Đại Thiên không hề có gì bất đồng. Khi tu thiền tại chùa Không Tuệ, đến một ngày nọ bỗng chợt nhận thấy núi không phải núi, thấy nước không phải nước. Sau đó tham học thiên hạ, hành tẩu mười năm, kết cục lại phát hiện thấy núi vẫn là núi, thấy nước vẫn là nước, mấy vị ca ca ở tục gia không hề có gì khác so với khi còn nhỏ.” Quách Tể thấy Huyền Trang bắt đầu nói thiền, vội vàng khom người ngồi, vẻ mặt trang nghiêm. “Người đời đều cho rằng, tu hành đại đạo, lấy từ bên ngoài, mỗi ngày mỗi đêm tụng niệm ‘Chú Vãng Sanh’ hai mươi mốt lần có thể diệt ngũ nghịch, thập ác, báng pháp, niệm ba mươi vạn lần có thể diện kiến Đức Phật A Di Đà. Dựng chùa xây tháp, trai tăng cứu tế, viết kinh tạc tượng, mặc dù có thể tích được nghiệp đức, nhưng làm sao có thể so được với minh tính gặp Phật? Tu thiền tức là tu tâm.” Huyền Trang nói: “Đường tu hành của mỗi người mỗi khác, như cát sỏi dưới đáy sông Hằng, như lá trên cây bồ đề, không có hạt nào chiếc nào giống hệt như nhau, nhưng thành tựu quả vị lại nhiều không đếm xuể, từ đó luận ra, mỗi con đường đều có thể chứng đạo. Ai biết chắc được hành trình đến Hoắc Ấp này của ta có phải là một chặng bắt buộc phải qua trên con đường chứng đạo hay không? Ai có thể biết tội nghiệt nhị ca Trường Tiệp đã phạm này có phải cũng là ma chướng mà nhị huynh nhất định phải chiến thắng được hay không?” “Cho nên…” Huyền Trang cười: “Nhìn thấy người thân đang lội nước sâu mà không dám nhận, ấy không phải không thấy rõ người, ấy căn bản là không thấy rõ lòng mình.” Quách Tể nghe như mê như say, hai mắt rớm lệ, nghẹn ngào dập đầu: “Hạ quan… à không, đệ tử đã hiểu rồi.” Huyền Trang không giấu vị huyện lệnh chân chất này điều gì, ngài kể lại từ đầu chí cuối mục đích của mình khi đến Hoắc Ấp: Tìm nhị ca Trường Tiệp. Từ năm mười tuổi, Huyền Trang được nhị ca dẫn tới chùa Tịnh Thổ xuất gia, hai huynh đệ nương tựa vào nhau mà sống, thân nhau như hình với bóng. Thứ nhất, sống trong thời loạn lạc, một khi tách ra sẽ rất khó gặp lại nhau. Thứ hai, đệ đệ còn nhỏ tuổi, thân làm ca ca cũng nên ở bên chăm sóc. Sau khi Lạc Dương xảy ra chiến loạn, hai huynh đệ chạy nạn đến Trường An, rồi dắt díu nhau tìm đến Ích Châu và ở lại đó năm năm. Mùa xuân năm Vũ Đức thứ tư, Huyền Trang cảm thấy những vị cao tăng ở Ích Châu không thể giải đáp các nghi hoặc trong lòng mình khi tu thiền nữa, nên đã ngỏ ý xin nhị ca cùng nhau đi vân du thiên hạ, thăm viếng danh sư, đặc biệt phải đến Triệu Châu tìm đại sư Đạo Thâm học tập “Thành Thực Luận”. Nhưng thời gian đó Trường Tiệp bận bịu luôn tay, cũng không biết đang làm gì mà thà chết cũng không chịu rời khỏi Ích Châu. Ngoài ra Trường Tiệp cũng lo lắng cho sự an toàn của Huyền Trang, bởi khi đó vẫn là thời buổi loạn lạc, Đại Đường thực hiện chính sách cấm quan, người đi đường qua quan ải sẽ phải kiểm tra quá sở, cũng chính là giấy thông hành. Không có quá sở mà dám tự ý qua quan ải là hành vi phạm pháp, sẽ bị phạt tù một năm. Trường Tiệp nhiều lần can ngăn nhưng Huyền Trang đã hạ quyết tâm, ngài buộc phải để lại một phong thư, một thân một mình lên đường, tự ý vượt quan ải rời khỏi đất Xuyên. Chuyến đi này kéo dài mấy năm. Cùng với quá trình tham học, danh vọng của ngài ngày càng cao, những nơi ngài đi qua dân chúng đều truyền tụng về một vị cao tăng tài đức. Năm Vũ Đức thứ tám, Huyền Trang đến Trường An, giao vãng với các cao tăng cửa Phật như Pháp Nhã, Pháp Lâm, Đạo Nhạc, Tăng Biện, Huyền Hội, đặc biệt là nhận lời mời thuyết giảng “Tạp Tâm Luận”, thanh danh vang dội. Sau khi được coi là “Thiên Lý mã của Phật môn”, ngài chợt nghe được tin tức về nhị ca của mình. Lúc đó ngài mới biết nhị ca đã gây huyết án động trời, trở thành trọng phạm bị quan phủ truy nã! Năm Vũ Đức thứ tư, tại chùa Không Tuệ ở Ích Châu, nhị ca đã chém đầu sư phụ mình là đại sư Huyền Thành, sau đó sợ tội bỏ trốn! Huyền Trang vừa kinh hãi, đồng thời cũng cảm thấy rất đau lòng. Đại sư Huyền Thành là vị cao tăng mà ngài vô cùng kính trọng, hai huynh đệ ngài vừa đến Ích Châu đã nhập tu tại chùa Không Tuệ, được đại sư Huyền Thành dạy bảo. Vị cao tăng này lòng dạ lương thiện, khi đó Trung Nguyên loạn lạc, chỉ có Ích Châu là còn yên ổn, có không ít hòa thượng chạy nạn đến nơi đây, mặc dù chùa Không Tuệ cũng chẳng dư dả gì nhưng đại sư Huyền Thành vẫn mở rộng cửa tiếp đón, ai tới cũng nhận, che chở cho tăng lữ. Đại sư Huyền Thành rất yêu quý Trường Tiệp và Huyền Trang, thậm chí còn xác định Trường Tiệp sẽ là người kế thừa y bát của mình, còn khen ngợi hai anh em là Trần môn song ký*. Ý chỉ gia đình nhà Trần có hai anh em, đều là bậc kỳ tài. Thậm chí bản thân Huyền Trang cũng từng có suy nghĩ, việc nhị ca nhất định không theo mình đi vân du tham học, phần nào cũng là vì nghĩ muốn kế thừa y bát của đại sư Huyền Thành nên mới không đành lòng bỏ đi. Chẳng ngờ chỉ vẻn vẹn có bốn năm đã lại xảy ra thảm kịch lớn như vậy! Huyền Trang đã từng lùng khắp thành Trường An, hỏi thăm kỹ càng, nhưng tăng chúng nơi đây đều chỉ được nghe chuyện người ta kể lại, chứ không nắm rõ tình hình chi tiết ra sao. Sau đó ngài gặp một vị hòa thượng mình từng quen biết hồi còn ở Ích Châu, khi ấy mới hỏi được đầu đuôi cụ thể. Cái gọi là cụ thể ở đây cũng chỉ là quá trình sau khi quan phủ can thiệp, còn vì sao Trường Tiệp giết sư phụ, sau đó trốn đi đâu, trong đó có ẩn tình gì hay không thì chẳng thể nào biết rõ được. Huyền Trang lập tức quay về Ích Châu, hỏi thăm người quen ngày xưa. Giới tăng lữ cửa Phật ở vùng này tuy vô cùng căm hận Trường Tiệp, nhưng cũng không trút giận vô cớ lên đầu Huyền Trang, chỉ có điều ngài chẳng thể tìm hiểu thêm được chút gì hơn cả. Thậm chí ngài còn tới gặp quan phủ, mới hay rằng quan phủ cũng không có manh mối gì về vụ án Trường Tiệp ra tay sát hại sư phụ, hoàn toàn không tìm được bất kỳ manh mối nào. Y bát của đại sư Huyền Thành không có người nào tranh giành với Trường Tiệp, mấy năm đó đại sư Huyền Thành cũng đã già yếu đi nhiều, mọi sự vụ lớn nhỏ của chùa Không Tuệ đều do Trường Tiệp quyết định. Tổng quản một vùng Ích Châu rộng lớn khi ấy là Toản Quốc công Đậu Quỹ cũng tán thưởng Trường Tiệp. Trường Tiệp địa vị hiển hách phú quý, tại sao lại làm ra hành động điên cuồng này? Huyền Trang cảm thấy rất khó hiểu, mang theo nỗi băn khoăn trong lòng mà quay về Trường An. Nhưng năm ngoái lại vô tình nghe được chuyện người ta kháo nhau về một vụ án cũ xảy ra ở đạo Hà Đông, nói là một hòa thượng không tên không họ, không biết lai lịch ra sao xông vào huyện nha Hoắc Ấp, nói chuyện với huyện lệnh một buổi, không ngờ lại khiến huyện lệnh đương nhiệm lúc bấy giờ thắt cổ tự vẫn. Đáng nói ở đây là, nếu vị huyện lệnh kia đương thời tham ô phạm pháp thì chuyện đã chẳng có gì đáng bàn, nhưng sau khi thứ sử Tấn Châu điều tra, thì nhận thấy vị huyện lệnh này làm quan thanh liêm công chính, xét xử minh bạch, dân chúng đạo Hà Đông người người ca tụng. Một huyện lệnh tiền đồ rộng mở, tương lai sáng lạn là thế, hà cớ gì lại bị một hòa thượng nói ép đến độ phải thắt cổ tự sát như vậy, ấy quả là chuyện lạ. Huyền Trang hỏi thăm cặn kẽ, phát hiện ra vị hòa thượng này tuổi tác xấp xỉ nhị ca của mình, chiều cao cũng tương đương, ngài mới sinh nghi, không biết đó có phải nhị huynh Trường Tiệp của mình hay không. Từ những năm Trinh Quán đầu tiên, sau khi Huyền Trang có cơ hội được tiếp xúc với cao tăng đến từ Thiên Trúc là Ba Pha Mật Đa La tại Trường An, ngài đã có ý định tây du Thiên Trúc. Ba Pha Mật Đa La chỉ là đệ tử của cao tăng Trung Thiên Trúc là đại sư Giới Hiền, mà Phật pháp thiền lý đã thấm nhuần, tinh thông cao siêu đến như vậy thì sư phụ của ông ta phải là một vị cao tăng như thế nào? Nếu mình đến Thiên Trúc, có thể được vị cao tăng này đích thân chỉ điểm cho, đó chẳng phải là một sự may mắn lớn hay sao? Nhiều năm nay Huyền Trang vân du thiên hạ, danh tiếng lan truyền ngày một xa, đối với thiền lý lại vẫn thấy còn nhiều điểm mông lung chưa tường tỏ, vì vậy liền đặt ra quyết tâm tây du. Tuy nhiên đường đi Tây Thiên mịt mờ, xa mấy vạn dặm, phải vượt qua biết bao hoang mạc rộng lớn, núi cao tuyết phủ quanh năm, thông qua biết bao làng mạc, quốc gia khác biệt, chuyến đi này tám chín phần mười khả năng sẽ chết trên đường, cơ hội đi tới đích vốn đã rất nhỏ, cơ hội trở lại Đại Đường có thể coi gần như là không có. Nhưng nhị ca lại đang mang tội nghiệt giết sư phụ, bị quan phủ truy nã, đến nay không rõ tung tích, nếu không thể tra được rõ ràng, chỉ sợ sẽ biến thành tâm ma phiền não, vĩnh viễn ủ trong lòng, không có ngày nào giải thoát được. Thế nên Huyền Trang phát nguyện nhất định phải tìm được nhị ca, tra rõ nội tình, sau đó sẽ lên đường đi Tây Thiên, bước lên con đường cầu Phật không hẹn ngày về. Nghe Huyền Trang nói xong, Quách Tể rơi vào trầm tư. Ông ta nhìn Huyền Trang với vẻ mặt rất phức tạp, một hồi lâu mới nói nhỏ: “Tâm nguyện của đại sư, hạ quan vô cùng khâm phục. Nếu có thể giúp đỡ được gì, hạ quan nhất định sẽ dùng toàn lực. Có điều…” Ông ta do dự một lát, buồn nói: “Đối với chuyện về vị hòa thượng này, thật sự không có một manh mối nào. Nói một câu bất kính thế này, hạ quan vốn xuất thân huyện úy, nếu có tung tích của hòa thượng này, hạ quan sớm đã truy bắt hắn về quy án rồi.” “Bần tăng đương nhiên hiểu tâm tư của đại nhân.” Huyền Trang nói: “Bần tăng đến tìm nhị ca không phải là vì muốn tẩy sạch tội danh của huynh ấy. Trên đời tự có pháp lí, giết người ắt phải đền mạng, đây vừa là lẽ trời vừa là đạo người, bần tăng sao dám làm trái. Bần tăng chỉ muốn tìm được nhị huynh để hỏi rõ nguyên nhân trong đó thôi.” Quách Tể gật đầu, cau mày suy nghĩ một lát: “Đại sư, hạ quan không rõ về hòa thượng này, nhưng đối với huyện lệnh tiền nhiệm Thôi Giác, hạ quan có nghe nói vài chuyện, hết sức kỳ dị.” “Kỳ dị?” Huyền Trang kinh ngạc hỏi: “Sao đại nhân lại nói như vậy?” “Huyện lệnh Thôi Giác, tự là Mộng Chi, biệt hiệu Phượng Tử. Nghe nói cây ngô đồng ngoài sân này là tự tay ông ta trồng, có thể mang hàm ý là phượng chỉ đậu cây ngô đồng! Người này từ những năm Vũ Đức đầu tiên đã đảm nhiệm chức vụ huyện lệnh Hoắc Ấp, tài hoa xuất chúng, dù hạ quan nhiều đời cư trú ở Tân Bắc cũng đã nghe thấy đại danh Thôi Giác từ rất sớm. Người này chẳng những có tài văn chương mà còn thông thạo binh pháp chiến lược. Nghe nói năm đó thái thượng hoàng phản Tùy, bị Tống Lão Sinh chặn lại ở Hoắc Ấp, chính là Thôi Giác đã hiến kế đánh tan quân của Tống Lão Sinh. Sau đó Tống Kim Cương xâm phạm biên giới, Thôi Giác dẫn theo một số dân binh dám nhân đêm tối đánh úp đại doanh của Tống Kim Cương. Tướng phòng thủ Tâm Tương hàng địch, Thôi Giác lại giấu dao găm chạy đến phủ của Tâm Tương ám sát. Người này có văn lược, có võ lược, có đảm lược, còn có chính lược, từ khi lên làm huyện lệnh đã quản lý Hoắc Ấp đâu vào đấy, được trăm họ yêu quý. Năm Vũ Đức thứ sáu, sau khi ông ta thắt cổ tự sát, dân chúng trong vùng liền kháo nhau về một truyền thuyết, rất là quỷ dị.” “A, quỷ dị thế nào?” “Trăm họ ở Hoắc Ấp này đều đồn đại, Thôi huyện lệnh sau khi chết đã vào ngục Nê Lê.” Quách Tể trầm giọng nói: “Làm phán quan thủ hạ của Viêm Ma La Vương, quản lý sinh tử luân hồi, xét xử thiện ác nhân gian ở ngục Nê Lê.” “Ngục Nê Lê?” Huyền Trang kinh ngạc. Thân là tăng sư quy y nơi cửa Phật, đương nhiên ngài không lạ gì ngục Nê Lê. Khái niệm ngục Nê Lê này đã có từ khi Phật giáo Tây Hán truyền vào Trung Quốc. Thời Đông Hán, cao tăng An Thế từng là thái tử nước An Tức đi tới Trung Quốc, phiên dịch kinh Phật, liền dịch ra “Phật thuyết Thập Bát Nê Lê kinh”. Có điều cách nói của Phật gia đối với ngục Nê Lê vẫn bất đồng, truyền thuyết dân gian lại càng đa dạng, tên gọi khác nhau, cụ thể ngục Nê Lê rốt cuộc thế nào, hình thù ra sao, tám tầng hay mười tám tầng, chính bản thân các Phật tăng cũng nói không rõ. Đạo sư Tăng Hựu thời Nam Triều viết một bộ “Xuất Tam Tạng ký tập”, ghi lại hơn mười loại cách dịch “Nê Lê kinh”. “Đúng thế.” Quách Tể cười khổ gật đầu: “Truyền thuyết… Khụ khụ, mới bảy năm mà đã thành truyền thuyết rồi… Thôi huyện lệnh ‘ban ngày quản chuyện dương gian, ban đêm xử án âm ti, phán quyết cả người lẫn ma, còn hơn cả bậc thần linh’. Trong huyện này đồn thổi không ít chuyện Thôi huyện lệnh xử án, có một vụ ‘Xử án hổ dữ ăn người’ rất ly kỳ. Nói là trên núi Hoắc thường có hổ ẩn nấp. Có ngày, một tiều phu lên núi đốn củi bị mãnh hổ ăn thịt, quả phụ nhà hắn đau khổ tột cùng bèn đến nha huyện kêu oan, Thôi huyện lệnh lập tức lệnh cho nha dịch cầm phù điệp lên núi bắt hổ. Sai dịch đến trước miếu sơn thần đọc phù điệp rồi đặt lên án thờ, lập tức có một con mãnh hổ từ sau miếu nhảy ra, ngậm phù điệp đi đến trước mặt sai dịch, mặc cho họ dùng xích sắt trói lại. Hổ dữ bị bắt tới huyện nha, Thôi huyện lệnh lập tức thăng đường xét xử. Trên công đường, Thôi huyện lệnh liệt kê những vụ hổ dữ ăn người, hổ dữ liên tục gật đầu. Cuối cùng phán quyết: ‘Làm hại đến mạng người, tội không thể tha.’ Con hổ đó liền lao đầu vào bậc thềm mà chết.” “Quả đúng là chuyện lạ.” Huyền Trang thở dài không thôi: “Chuyện cũ như mưa bụi, ngoảnh lại đều đã hóa hư không, trở thành truyền thuyết được dân gian truyền tụng.” “Đây không phải truyền thuyết”, sắc mặt Quách Tể trông rất khó coi: “Trong nha môn… có văn án ghi chép lại về vụ án này!” “Cái gì?” Huyền Trang sửng sốt. “Đúng thực là có lưu lại.” Quách Tể hít sâu một hơi: “Sau khi tiếp nhận chức huyện lệnh, trong lòng hạ quan cũng rất tò mò về vị Thôi huyện lệnh này. Hạ quan chinh chiến sa trường đã quen, nghe thấy những truyền thuyết này thì cảm thấy hoang đường không tin được, nên đã hỏi thăm đồng liêu, xem xét văn thư lưu trữ. Không ngờ lại thấy có thực. Vụ ‘Xử án hổ dữ ăn người’ này được ghi chép tỉ mỉ trong án quyển, thậm chí sai dịch đi đến núi Hoắc bắt hổ cũng có tên họ, gọi là Mạnh Hiến, quả đúng là sai dịch trong nha môn, sau đó được sai xử xuống vùng nông thôn đốc thúc nộp lương, đúng thời điểm nước sông dâng cao, bị ngã xuống sông chết đuối. Đây là chuyện năm Vũ Đức thứ tư. Bây giờ một số người ghi chép án quyển, tham dự xử án khi ấy vẫn còn, họ đều tận mắt chứng kiến!” Lần này Huyền Trang thật sự ngạc nhiên, mặc dù ngài tin Phật nhưng một lòng truy cầu Như Lai đại đạo, đối với phép thuật, bói toán, dị thuật lại không hề để ý, cho rằng đó là tiểu thuật thấp kém, sùng bái quá sẽ dao động thiền tâm. Không nghĩ tới hôm nay lại được nghe thấy chuyện lạ thế này. “Không chỉ có vậy.” Quách Tể nói: “Sau khi Thôi huyện lệnh chết, có lời truyền tụng rằng ông ta đã vào ngục Nê Lê làm phán quan. Bách tính bản địa nhớ ân huệ của ông ta, liền xây một ngôi từ đường trên núi Hoắc gọi là miếu phán quan, ngày ngày hương khói không ngừng. Dân chúng có oan khuất và bất hạnh gì liền đến đó dâng hương cầu nguyện. Kết quả là… Thôi huyện lệnh… À không, nên gọi là Thôi phán quan…” Quách Tể cười khổ nói tiếp: “Lại cực kỳ linh nghiệm!” “Cụ thể là linh nghiệm ra làm sao?” Huyền Trang hỏi. “Hạ quan lấy mấy ví dụ.” Quách Tể nói: “Năm Vũ Đức thứ tám, vợ chồng lão Kim ở thôn Đông Câu, tuổi quá bảy mươi, trong nhà chỉ có một con trai, đi theo một đám thương nhân buôn trà đến Giang Tây thu mua trà, nhưng có đi mà không có về. Nhiều năm trôi qua, không biết con trai còn sống hay chết, lão Kim quá thương nhớ con trai khóc mù hai mắt. Sau đó hai vợ chồng già nghe nói miếu phán quan linh nghiệm liền bôn ba vài chục dặm trèo lên núi Hoắc, đến miếu phán quan cầu nguyện. Nói với Thôi phán quan, nếu đứa con này của tôi đã chết, ngài sai nó về báo mộng cho tôi, để vợ chồng lão không phải nhớ mong không thôi cho tới tận lúc chết nữa. Nếu nó chưa chết, xin ngài bảo nó mau về nhà. Để một vài năm nữa, chỉ sợ hai vợ chồng chúng tôi nhỡ may có nằm xuống đột ngột, trong nhà lại chẳng có ai để ý chôn cất cho…” Huyền Trang yên lặng lắng nghe. Quách Tể nói tiếp: “Kể cũng lạ, đêm đó họ về đến nhà, Thôi phán quan liền hiển linh, xuất hiện trong mơ của họ, nói con trai của ông bà không chết, bây giờ đang phiêu bạt ở Lĩnh Nam. Ta đã báo cho nó, bảo nó ngay lập tức về nhà. Hôm sau hai vợ chồng tỉnh lại cũng chỉ nửa tin nửa ngờ, không ngờ bốn tháng sau con trai họ quả nhiên từ Lĩnh Nam về. Nói mình đến Giang Tây mua trà bị người ta lừa hết sạch cả vốn liếng, không có mặt mũi nào về quê, liền theo một đám thương nhân đến Lĩnh Nam buôn trà. Bốn tháng trước bỗng mơ thấy một người đàn ông mặc quan phục tự xưng Thôi phán quan nói phụ mẫu mong nhớ, bảo hãy mau mau về nhà…” “A Di Đà Phật!” Huyền Trang chắp tay cảm khái: “Tình thân nhân gian có thể cảm động phán quan, đúng là quá chân thành.” “Đúng vậy! Còn có rất nhiều chuyện thần bí.” Quách Tể nói: “Sự thần bí của Thôi phán quan không dừng lại ở Hoắc Ấp mà còn truyền khắp cả đạo Hà Đông. Vài năm trước, huyện Bình Dao ở Phần Châu thường xuyên có người mất tích, trong đó có một nhà họ Triệu, trong nhà chỉ có một con trai độc nhất, cũng bị mất tích mấy năm không có tin tức gì. Nghe nói miếu phán quan linh nghiệm, mẫu thân của hắn là Triệu thị, bôn ba vài trăm dặm đến quỳ trong miếu đau khổ cầu khẩn, cầu xin phán quan cho biết tin tức về con trai bà. Kết quả là sau khi bà về nhà liền mơ thấy Thôi phán quan, Thôi phán quan nói con trai của bà đã chết từ lâu, xác chôn ở chỗ đó chỗ đó. Triệu thị chạy tới chỗ này đào lên, quả nhiên thấy có một bộ xương khô, mặc dù không thể phân biệt được nhưng trên cổ bộ xương khô đó lại đeo một chiếc khóa trường mệnh, chính là khóa của con trai bà.” Trong đêm tĩnh mịch, trạch viện trăm năm, nghe Quách Tể kể về sự thần bí của vị huyện lệnh tiền nhiệm sau khi chết, cảm giác này đúng là rất khó diễn tả. Đặc biệt là khi vị huyện lệnh đó đã treo cổ trên cây ngô đồng trồng ngay ngoài sân kia… Đúng lúc này hai người đột nhiên nghe thấy tiếng bước chân khe khẽ tiến lại gần. Hai người bọn họ đang đàm luận chuyện ma quỷ, tiếng bước chân đột ngột xuất hiện này lập tức khiến cả hai đều thấy sởn gai ốc. Quách Tể đang định quát hỏi, chợt nghe thấy phía sau bình phong vang lên một tiếng kêu sợ hãi: “Á!” Ngay sau đó có tiếng đồ vật rơi xuống đất vỡ tan, nghe rất rõ ràng trong đêm khuya yên tĩnh. “Ai?” Quách Tể vội vàng đứng lên quát hỏi. Lúc này tì nữ Mạc Lan vội vã từ phía sau bình phong đi ra, đỏ mặt nói: “Là tiểu thư. Phu nhân sai tiểu thư mang đồ ăn khuya tới, không ngờ lỡ tay làm rơi vỡ bát.” “À.” Quách Tể cười cười cho qua. Không ngờ vừa ngồi xuống lại nghe thấy có tiếng đổ vỡ phát ra từ hậu viện. Quách Tể cau mày: “Lại làm sao nữa thế?” Mạc Lan vội vã chạy vào, nhanh chóng quay về nói: “Là… Là một con mèo làm vỡ chiếc bình cổ bằng vàng nạm ngọc hoa văn tím của ngài…” Mặt Quách Tể nhăn lại, miễn cưỡng cười nói: “Không có việc gì, làm vỡ rồi thì thôi.” Được thêm một lúc, hậu viện lại vang lên tiếng đổ vỡ, Quách Tể sốt ruột: “Giờ lại là cái gì?” Tì nữ Mạc Lan mặt như đưa đám đi vào, một hồi lâu sau mới nơm nớp lo sợ quay ra: “Là… là con mèo… ơ…” Có lẽ tự bản thân cô ta cũng cảm thấy nói dối như vậy không ổn, đành phải nói đúng sự thật: “Là tiểu thư lỡ tay làm vỡ viên ngói cổ thời Tây Hán của ngài…” Mặt Quách Tể tái dại đi, một hồi lâu sau mới trở lại bình thường, cười nói: “Không có việc gì, không có việc gì, nói tiểu thư cẩn thận một chút.” Quách Tể đương nhiên biết tiểu thư nhà mình đang tức giận, ông ta không biết nguyên do, nhưng có Huyền Trang ở đây lại không tiện hỏi. Không ngờ còn chưa nói xong đã lại nghe thấy tiếng động lạ. Tì nữ Mạc Lan lần này không đợi đại nhân hỏi đã tự mình chạy vào, một hồi lâu sau mới lấm lét ló đầu ra nhìn. Quách Tể thở dài: “Lần này lại làm vỡ cái gì?” “Không… không làm vỡ…” Tì nữ Mạc Lan đã sắp khóc: “Là xé rách… bức Vân Khê Hành Ngâm Đồ của Cố Khải Chi…” “Hả…?” Quách Tể ngã bệt xuống đất, không nói được gì nữa, cả người gần như nhũn ra. “Sau đó… Sau đó tiểu thư bất cẩn, va đầu vào chiếc bình gốm thời Đông Hán của ngài…” Tì nữ nói tiếp. “Ôi chao!” Quách Tể lập tức kêu một tiếng sợ hãi, bật người dậy: “Tiểu thư thế nào? Có làm sao không?” Nói xong liền chạy vào nội viện, chạy được vài bước bỗng dừng lại, lúng túng nói với Huyền Trang: “Xin lỗi đại sư, tiểu nữ có thể bị thương, hạ quan tạm cáo lui một lát.” Huyền Trang bật cười, gật đầu. Quách Tể cũng không có tâm tư giữ ý thêm nữa, vội vã chạy đi. Huyền Trang cảm khái không thôi. Một người khổng lồ cao lớn vụng về như vậy lại yêu quý ái nữ đến mức này, kể cũng hiếm thấy. Đêm đó Huyền Trang liền ngủ lại trong nhà Quách Tể. Hai phía đông tây sân đều là sương phòng, ngài và Ba La Diệp ngủ ở sương phòng phía đông, ngồi nhập định trên giường một lúc lâu, suy nghĩ vẫn còn hỗn loạn. Rốt cuộc vì sao nhị ca lại giết sư phụ là đại sư Huyền Thành? Bây giờ nhị ca ở đâu? Vì sao nhị ca lại tới huyện Hoắc Ấp, bức tử Thôi huyện lệnh? Kỳ quái hơn là Thôi huyện lệnh này sau khi chết tại sao lại thành phán quan dưới ngục Nê Lê? Trăng sáng giữa trời chiếu xuống cây ngô đồng, in bóng vào cửa sổ, cành cây giống như sừng rồng. Có lẽ ngày xưa Thôi phán quan đã treo cổ trên chính cành cây này. Bóng cành cây trên cửa sổ lay động trong gió, giống như phía dưới có người treo cổ tự sát, thi thể đung đưa, lắc qua, lắc lại… Mấy ngày sau đó Huyền Trang vẫn ở lại trong nhà Quách Tể. Quách Tể nhờ ngài làm một tràng pháp sự trừ tà cho Ưu Nương. Huyền Trang đã biết “vết dao cưa” trên người Lý phu nhân là chuyện gì, đâu thể chấp nhận việc làm pháp sự, như vậy chẳng phải là lừa gạt người hay sao? Thế là ngài tìm mọi cách từ chối, chỉ nói huyện nha đã được xây dựng mấy trăm năm, tụ âm khí, chỉ cần sớm chiều tụng kinh niệm phật một chút là được. Quách Tể cũng không tiện nài ép quá mức nên đành phải đồng ý, nhưng yêu cầu được phụng dưỡng Huyền Trang thêm mấy ngày để tỏ lòng kính Phật. Phụng dưỡng Phật tăng là chuyện quá mức bình thường, Huyền Trang không đành lòng từ chối thịnh tình của Quách Tể, đành phải ở lại trong nhà ông ta. Quách Tể còn có việc công ở nha môn, không thể lúc nào cũng ở bên nên bảo phu nhân ra tiếp đãi ngài. Thái độ của Lý Ưu Nương đối với Huyền Trang rất lạnh nhạt, luôn luôn giữ ý tứ, hạn chế tiếp xúc, trừ lúc cần thiết còn lại đều không thấy bóng người. Huyền Trang cũng không để tâm, mỗi ngày ngoài việc ngồi nhập định niệm kinh, thời gian còn lại đều lấy kinh Phật trong hòm sách của mình ra nghiên cứu. Chỉ có Ba La Diệp là sung sướng nhất, gã này xem như đã tìm được đất dụng võ. Hắn đi theo Huyền Trang mấy tháng, phần lớn là ăn bờ ngủ bụi, màn trời chiếu đất, bây giờ cuộc sống đã “ổn định” lại, khiến hắn cảm thấy thật thỏa mãn. Gã này bắt đầu phát huy khả năng mồm mép, thường xuyên đấu võ mồm với Mạc Lan và cả Cầu Nhi, sau mấy ngày đã rất thân thiết với nhau, ngay cả chuyện phụ mẫu Cầu Nhi đính thân từ khi còn bé cũng hỏi dò ra được. Một buổi trưa nọ, Huyền Trang đang nghiên cứu quyển “Thành Thực Luận” được đại sư Đạo Thâm chú giải, Ba La Diệp lấm lét đi vào với vẻ mặt khác lạ. Huyền Trang nhìn hắn một chút rồi lại cúi đầu tiếp tục đọc sách. Ba La Diệp ngồi lên giường của Huyền Trang, nói với vẻ mặt bí hiểm: “Đại sư! Đệ tử, hỏi thăm được một, bí mật. Một bí mật, rất trọng đại.” “Sao?” Huyền Trang ngước mắt lên: “Bí mật gì?” Ba La Diệp liếc nhìn ra ngoài cửa một cái, rồi nói nhỏ: “Ngài biết, tiểu thư nhà huyện lệnh, tên là gì, không?” Huyền Trang suy nghĩ một lát: “Hình như gọi là Lục La. Đã từng nghe Quách minh phủ nói đến một lần rồi.” “Ơ… Không phải, tên.” Ba La Diệp vỗ vỗ đầu: “Là họ?” Gã người Thiên Trúc này vẫn chưa biết hết được vô số dòng họ ở Đại Đường, cũng khó mà tưởng tượng vì sao ngay cả dân nghèo cũng có họ của mình, chuyện này ở Thiên Trúc là rất khó tin. “Họ?” Huyền Trang cười: “Tất nhiên là họ Quách.” “Không phải, không phải.” Ba La Diệp lộ vẻ đắc ý: “Tiểu thư lại không, phải họ Quách, mà là, họ Thôi!” Huyền Trang chợt ngây người ra. Sao có thể như vậy được? Con gái không theo họ thân phụ? Trừ khi Quách Tể đến ở rể nhà vợ, có điều xem ra cũng không giống! Đường đường là một huyện lệnh… Trước kia là huyện úy, dù là huyện úy thì việc ở rể cũng rất khó tin! Ba La Diệp cũng không ra vẻ cao thâm nữa: “Đại sư, ta đã hỏi thăm, được rồi. Vị tiểu thư này, đích xác mang họ Thôi. Tiểu thư, không phải, con đẻ, của Quách huyện lệnh. Phu nhân và, nhi tử, của Quách huyện lệnh, rất nhiều năm trước, đã bị, người Đột Quyết, giết chết. Lý phu nhân, ở góa, nuôi nữ nhi, sau đó mới lấy, Quách huyện lệnh.” “À.” Huyền Trang gật đầu, không mấy để tâm lắm. Dù sao cuối thời Tùy đại loạn, vô số gia đình ly tán, bây giờ loạn thế đã bình định, các gia đình xây dựng lại cũng là chuyện bình thường: “Đây là chuyện riêng tư của người khác, không được tùy tiện hỏi thăm. Biết không?” Ba La Diệp không đồng ý: “Người trong huyện, đều biết, không phải, chuyện riêng tư.” Rồi hắn tỏ vẻ nghiêm trọng hơn: “Nhưng mà, đại sư, ngài biết, cố phu, của Lý phu nhân, là ai, không?” “Là ai?” Huyền Trang bỗng thấy hắn nghiêm mặt như thế cũng hơi tò mò. “Huyện lệnh, tiền nhiệm, Thôi Giác!” Ba La Diệp chỉ ra ngoài cửa sổ: “Người treo cổ, trên cây, đó.” CHƯƠNG 3 Cần sa và mạn đà la Một câu nói này đã khiến cho lòng dạ Huyền Trang rối bời. Cố phu của Lý phu nhân là Thôi Giác? Sau khi Thôi Giác chết, bà ta lại tái giá với huyện lệnh kế nhiệm? Cũng có nghĩa là, vị huyện lệnh Quách Tể này không chỉ tiếp nhận chức quan của Thôi Giác, tiếp nhận viện trạch của Thôi Giác, mà còn nhận luôn cả thê tử và nữ nhi của Thôi Giác hay sao? Cũng có nghĩa là, vị Lý phu nhân này, cố phu của bà ta từng treo cổ tự sát tại tòa viện này, sau khi tái giá bà ta lại vẫn ở đây, thậm chí còn ngủ trên chính chiếc giường mình từng ngủ cùng với chồng cũ, dùng những đồ chồng cũ từng dùng, mỗi ngày đều đi qua gốc cây mà chồng cũ đã treo cổ… Huyền Trang bất chợt cảm thấy sởn gai ốc. Thảo nào hôm đó nhắc tới Thôi Giác, vẻ mặt Quách Tể lại khó coi, khó xử đến như vậy. Thảo nào ông ta lại điều tra tỉ mỉ về những chuyện thần bí của Thôi Giác, xem hết từng chồng văn án. Quách Tể khi đó có nói rằng ông ta không biết nhiều về tình hình của Thôi Giác, chỉ sợ là vì ông ta không muốn nói. Có điều nghĩ lại thì như vậy cũng là lẽ thường, chẳng lẽ ngài đến điều tra về chồng cũ của phu nhân nhà người ta, người ta còn gọi phu nhân ra cho ngài vặn hỏi? Nếu như lúc trước chuyện giữa nhị ca và Thôi Giác khiến Huyền Trang cảm thấy thật mơ hồ và nan giải thì từ thời khắc này trở đi ngài lại như người đang đi lạc giữa màn sương mù dày trăm trượng, bỗng dưng mất hết cảm nhận về phương hướng. Ngài khẽ nhắm hai mắt lại, cẩn thận suy nghĩ về chuyện này, bất chợt hiểu được lý do Lý phu nhân lại có thái độ hờ hững, lạnh nhạt đối với mình như thế. Căn bản trông ngài và nhị ca có nhiều nét giống nhau, Lý phu nhân vừa thấy mặt ngài đã lộ rõ vẻ kinh ngạc và có điểm quái dị, chưa gì đã gặng hỏi tỉ mỉ về lai lịch của mình. Như vậy thì có khả năng là năm xưa bà ấy đã nhìn thấy nhị ca Trường Tiệp của ngài. Trường Tiệp bức tử chồng bà ấy, bảy năm sau một hòa thượng tướng mạo hao hao Trường Tiệp lại xuất hiện trước mặt mình, chỉ e là không chỉ mình bà ấy, mà bất kỳ ai liên quan cũng đều sẽ phải vặn hỏi, chất vấn ngài một chặp mới chịu được. Vậy thì bà ấy lạnh nhạt với ngài cũng không lấy gì làm lạ. Dù sao thì nhị ca nhà mình đã bức tử phu quân người ta, người ta không trút giận lên người mình đã là chuyện hiếm thấy rồi. “Ba La Diệp.” Huyền Trang mở mắt ra, trầm giọng nói: “Ngươi đi bẩm báo với Lý phu nhân, nói là Huyền Trang cầu kiến.” “Sao, ngài phải, gặp bà ta?” Ba La Diệp chợt hiểu ra ý định, hắn ngây ra một lát, rồi vội vàng nghe lời sai bảo, nhảy xuống giường chạy ra ngoài. Huyền Trang chậm rãi đặt cuốn “Thành Thực Luận” xuống, âm thầm sắp xếp lại các suy nghĩ trong lòng, nhất thời rơi vào trạng thái trầm mặc. Sau một lúc lâu, Ba La Diệp chạy tới nói: “Đại sư, Lý phu nhân, đợi ngài, ở tiền sảnh.” Từ sương phòng đến tiền sảnh chỉ có vài bước đường, vừa ra cửa đã nhìn thấy Lý Ưu Nương đứng trên bậc thềm. Khuôn mặt bà bình thản, thân hình mảnh dẻ như một đóa hoa sen cô độc. Thấy Huyền Trang đi tới, bà gật đầu: “Mời đại sư đi cùng thiếp thân.” Hai người một trước một sau chậm rãi đi qua cửa tròn ở phía tây đến hậu hoa viên của huyện nha. Vườn hoa rộng chừng năm mẫu, ở giữa là một hồ nước áng chừng khoảng hai mẫu, hoa súng nở đầy trên mặt hồ, một con ếch nhỏ mới từ dưới bùn chui lên, hưởng thụ không khí sau một mùa đông dài, nó ngồi yên trên lá súng, không hề nhúc nhích. Giữa hồ có đảo, trên đảo có đình, cùng một cây cầu đá bắc từ bờ hồ ra đảo. Lý Ưu Nương vừa bước lên cầu đá, đột nhiên dừng lại, nhìn khung cảnh xanh biếc xung quanh, lẩm bẩm nói: “Thiếp thân ở tòa huyện nha này đã được mười hai năm. Mỗi một gốc cây một ngọn cỏ nơi đây đều giống như một phần thân thể của thiếp thân. Đại sư, ngài nói xem, giờ khắc này thiếp thân bước lên cầu đá sẽ cảm thấy thân thuộc hay là xa lạ?” “A Di Đà Phật!” Huyền Trang nhất thời không biết nên trả lời thế nào. “Tay trái ngài sờ tay phải của ngài sẽ có cảm giác gì?” Lý Ưu Nương cười buồn bã: “Không có cảm giác. Không có gì lạ cả, cũng chẳng thấy vui vẻ gì, ngài chỉ biết được là chúng đang tồn tại vậy thôi. Nơi này giống như tay trái của thiếp thân, là một bộ phận trên người thiếp thân. Ngài cắt một nhát dao, thiếp thân sẽ thấy đau. Ngài chặt đứt nó, thiếp thân sẽ đau đến ngất đi. Nhưng bình thường khi nhìn bằng mắt, sờ bằng tay, thiếp thân lại chẳng cảm thấy gì hết.” Huyền Trang thở dài nói: “Phàm là người càng để tâm suy nghĩ, càng nghĩ càng thấy loạn. Nói vòng vo thì mệt, nói thẳng mới nhẹ lòng. Phu nhân đây vốn là để tâm quá nhiều, nên mới chẳng thể nghĩ thông. Một chuyện thật, mọi chuyện tất thảy đều là thật; một chuyện giả, tất thảy đều là giả. Thứ ám ảnh phu nhân là hư hay là thực, đến tự bản thân người còn chẳng phân biệt nổi, vậy sao có thể cảm nhận được gì đây?” “Đại sư quả nhiên thiên lý thâm hậu, khó trách sao danh tiếng lại vang dội như thế.” Lý Ưu Nương ngạc nhiên nhìn ngài, rồi lại trầm giọng nói: “Thiếp thân biết rõ mục đích đại sư tìm mình. Từ hôm nhìn thấy đại sư, thiếp thân đã biết một ngày nào đó đại sư sẽ đến tìm mình.” “Có nhân ắt có quả. Bần tăng cũng như phu nhân, dù là ai cũng không trốn tránh được nhân quả tuần hoàn.” Huyền Trang nói. “Đúng vậy!” Lý Ưu Nương thở dài: “Đại sư có nghi hoặc gì cứ việc hỏi.” “Bần tăng chỉ muốn biết nhị ca Trường Tiệp của mình và Thôi huyện lệnh rốt cuộc có quan hệ thế nào? Bây giờ nhị ca của bần tăng đang ở đâu?” Đã trút bỏ gánh nặng tâm lý, Lý Ưu Nương cũng không giấu giếm nữa, thản nhiên nói: “Hai người họ chẳng có quan hệ gì cả. Năm xưa khi Thôi lang ẩn cư trong núi, thiếp thân và Thôi lang đã thành hôn. Khi đó thiên hạ đại loạn, cuộc sống trong núi cô quạnh, gần như không qua lại với người khác. Sau đó đến huyện Hoắc Ấp này, Thôi lang hầu như chỉ kết giao với người của triều đình. Khi đó Thôi lang chuẩn bị xây dựng chùa Hưng Đường, chuyện tiếp xúc với các tăng lữ Phật gia cũng không có gì lạ, nhưng đại đa số đều là hòa thượng của chùa Hưng Đường, rất hiếm thấy các tăng lữ từ nơi xa đến. Nhị ca Trường Tiệp của đại sư cũng coi như là tăng sĩ có danh vọng, nếu họ có kết tình giao hảo, thiếp thân nhất định phải biết. Chỉ có đêm hôm đó, Trường Tiệp đi tới huyện nha, đến vội vàng, đi cũng vội vàng, mang theo tính mạng của phu quân thiếp thân. Khi đó thiếp thân nghe nói có một hòa thượng đến đàm thiền với phu quân mình, liền mang theo nữ nhi đến phía sau bình phong nhìn lén. Hình dáng tướng mạo của người đó…” Lý Ưu Nương cắn cắn môi: “Thiếp thân vẫn khắc cốt ghi tâm. Mấy ngày trước nhìn thấy đại sư mới phát hiện hai người rất giống nhau.” Huyền Trang im lặng một lát rồi hỏi: “Phu nhân có biết những chuyện lạ sau khi Thôi huyện lệnh qua đời không?” “Sao có thể không biết được.” Lý Ưu Nương nói nhỏ: “Thiếp thân cũng không đến nỗi ngu ngốc. Từ khi tình cờ gặp nhau tại Ích Châu, thiếp thân đã quyết định đi theo Thôi lang tới Hà Đông. Thành hôn mười năm, trừ thời gian chung sống sớm chiều ở trong núi, sau khi trở thành huyện lệnh, Thôi lang thức khuya dậy sớm, vất vả việc công, thời gian ở cùng đồng liêu còn nhiều hơn thời gian ở bên thiếp thân, lo lắng cho bách tính trong huyện còn nhiều hơn lo lắng cho thiếp thân và nữ nhi. Ngài có thể tưởng tượng được không? Từ nội trạch đến nha môn chỉ có vài bước chân, vậy mà Thôi lang có lúc ba ngày ba đêm không về nhà, ở công đường phê duyệt công văn. Thậm chí sau khi qua đời, Thôi lang cũng vẫn lo cho cuộc sống của bách tính. Chàng có thể xuất hiện trong giấc mơ của rất nhiều bách tính, nhưng lại chưa từng xuất hiện trong giấc mơ của thiếp thân…” Huyền Trang đương nhiên không thể hiểu được những lời oán thán chốn khuê phòng này. Ngài nhíu mày: “Phu nhân đã từng đến miếu phán quan trên núi Hoắc chưa?” “Thiếp thân đến chỗ đó làm gì?” Lý Ưu Nương lạnh lùng đáp: “Chàng không tự tìm đến trong giấc mơ của thiếp thân, thiếp thân lại phải đến thăm chàng hay sao?” Huyền Trang hoàn toàn không hiểu gì về tâm sự của phụ nữ, lòng bỗng dấy lên cảm giác nghi hoặc: “Phu nhân đã oán hận Thôi huyện lệnh như vậy, tại sao vẫn còn ở lại trong ngôi nhà này?” Lý Ưu Nương yên lặng một hồi lâu, đi tới ngồi xuống bên cạnh chiếc trống đá trong đình nghỉ mát, dựa người vào lan can, buồn bã nói: “Người hỏi trong núi có gì đây? Đáp rằng đỉnh núi nhiều mây trắng. Chỉ có thể tự mình vui ngắm. Chẳng thể gom tặng được cho người*.” Tên bài thơ “Chiếu vấn sơn trung hà sở hữu phú thi dĩ đáp” (tạm dịch: Làm thơ hồi đáp việc chiếu vua ban xuống hỏi trong núi có gì) của Đào Hoằng Cảnh. Đây là thơ của Đào Hoằng Cảnh thời Nam Triều, người được dân gian gọi là “Tể tướng trong núi”. Tề Cao Đế hạ chiếu chỉ mời ngài rời núi, hỏi ngài trong núi có gì đáng lưu luyến. Ngài đã trả lời lại bằng bài thơ này. Ý của Lý Ưu Nương muốn nói, chính là cảm giác ở đây tự ta nhìn rõ, tự ta thấy thích, lại không có cách nào để cho người khác hiểu được. Thấy Huyền Trang im lặng, Lý Ưu Nương lắc đầu, thở dài nói: “Thôi lang vẫn mang chí hướng vì thiên hạ, tiền bạc vốn chẳng dư dả gì. Sau khi làm huyện lệnh Hoắc Ấp, lương tháng hai quan một trăm tiền cũng chỉ đủ sống qua ngày, sau khi chàng mất, cuộc sống lại càng khó khăn, may mà quan phủ phân cho ba mươi mẫu ruộng vĩnh nghiệp nên hai mẹ con thiếp thân mới có thể qua ngày. Quách tướng công thấy thiếp thân đáng thương, không chê thiếp thân là quả phụ mà vẫn lấy làm vợ, nên thiếp thân lại ở trong hậu trạch của tòa huyện nha này. Bình thường nhìn cảnh nhớ người, lẽ nào lại không thương cảm. Có điều mỗi một tấc ở đây đều lưu giữ bóng dáng Thôi lang, có lúc thiếp thân đi trong vườn vẫn cảm thấy dường như Thôi lang vẫn như đang ở bên cạnh mình…” Nói tới đây, trên mặt Lý Ưu Nương lại thoáng lộ vẻ hạnh phúc, khiến Huyền Trang nhìn thấy mà lòng thầm kinh hãi. Nghe bà gọi người chồng hiện tại là Quách tướng công*, chỉ sợ trong lòng cũng chẳng có mấy phần tình nghĩa phu thê sâu đậm với Quách Tể. Huyền Trang không khỏi cảm thấy xót xa thay cho Quách Tể. Quách Tể là người cao lớn dũng mãnh như vậy, luôn chiều chuộng vị phu nhân này hết mực, nói gì nghe nấy, thậm chí đối với con gái riêng của phu nhân cùng chồng cũ cũng cực kỳ nuông chiều. Ông ta làm sao biết thân hình to cao bảy thước của mình, kỳ thực trong mắt vị phu nhân này cũng chẳng khác gì không khí, còn bóng hình người chồng đã chết kia lại vẫn quanh quẩn trước mắt bà ấy mãi không tiêu tan. Nếu từ “lang - 郞” là cách người phụ nữ gọi chồng hoặc tình nhân một cách tình cảm, thì từ “tướng công - 相公” mang hàm ý kính trọng, có phần xa cách hơn, bản thân danh từ “tướng công” còn thường được hiểu theo nghĩa là tiếng tôn xưng với bậc niên trưởng hoặc người có địa vị. “Phu nhân treo bức cung nữ đồ đó trên tường, không sợ Quách đại nhân khó chịu trong lòng hay sao?” Huyền Trang hỏi nhỏ. Học vấn của ngài thâm sâu, đương nhiên biết bài thơ đi cùng bức cung nữ đồ này không chỉ khen ngợi sắc đẹp của Lý Ưu Nương. “Tâm mê hiểu mộng song do ám, phấn lạc hương cơ hãn vị can”, câu này rõ ràng là tả cảnh sau trận hoan ái. Còn câu “Tự ta thử địa phi ngô thổ, bất đắc như hoa tuế tuế khán” rõ ràng là viết cho một mối tình vụng trộm. Lý Ưu Nương đỏ mặt, trong mắt lộ vẻ ngỡ ngàng: “Tướng công của thiếp thân bây giờ là một người thành thật, lại không được học hành nhiều, ngày ngày chém giết với người Đột Quyết ở biên cương phía bắc, sau khi làm huyện lệnh mới bắt đầu học phong nhã. Tướng công là người rất tốt, lòng dạ rộng rãi, đối xử rất tốt với mẹ con thiếp thân, cũng tán thưởng tài học của Thôi lang, bình thường thiếp thân cũng không cần kiêng kị. Thực ra tướng công cũng hiểu được, ở trong lòng thiếp thân, tướng công không so được với Thôi lang.” Thấy Lý phu nhân nói như vậy, Huyền Trang cũng khó mà nói được gì nữa. Ngài khẽ lắc đầu, thầm nghĩ: “Biết rõ Quách Tể là người tốt, vậy mà phu nhân còn tư thông người khác, làm nhục Quách Tể! Xem ra không thể nói lí lẽ với con người này được rồi.” Nhưng mà lời này không tiện nói ra, một hồi lâu sau ngài mới hỏi: “Trong lòng phu nhân không oán hận bần tăng sao?” Lý Ưu Nương nhìn ngài, hờ hững đáp: “Mọi việc trên đời đều có thiên mệnh. Nếu như Thôi lang không muốn chết thì ai có thể ép chàng chết được? Chính chàng muốn chết, bỏ lại hai mẹ con thiếp thân, thiếp thân sao có thể trách cứ người khác? Huống hồ ngài chỉ là đệ đệ của Trường Tiệp.” “A Di Đà Phật, đa tạ phu nhân khoan hồng độ lượng.” Huyền Trang chắp tay cảm ơn. Chính vào lúc này đột nhiên nghe thấy một tiếng động lạ. Hai người ngẩng đầu lên nhìn, trước mắt chợt có ánh sáng lóe lên. Một mũi tên lao vút qua hồ nước, bắn thẳng về phía Huyền Trang với uy thế như sấm sét. “Đại sư cẩn thận!” Lý Ưu Nương sợ đến tái mặt. Mũi tên này bay tới quá nhanh, Huyền Trang chỉ kịp nghiêng người đã nghe thấy bên tai có tiếng gió rít. “Phập” một tiếng, đầu mũi tên bay sượt qua tai ngài, cắm thẳng vào cây cột gỗ của đình nghỉ mát. Cán tên rung lên một hồi lâu mới dừng lại, có thể dễ dàng thấy mũi tên này được bắn ra với lực lớn thế nào. Trên trán Huyền Trang rịn đẫm mồ hôi lạnh. Hai người ngây ra một hồi lâu mới nhận thức được chuyện vừa xảy ra, vội quay đầu nhìn về phía mũi tên vừa bay tới. Bên kia hồ thông ra con phố nằm ngoài cổng hậu trạch, trên phố có một hàng cây hòe cành lá rậm rạp, một cành cây còn đang rung lắc không ngừng. Xem ra vừa rồi có người trốn ở trên cây này bắn tên vào trong hậu hoa viên. Hai người không dám ở lại vườn hoa nữa, vội vàng quay trở vào trong viện. Lý Ưu Nương lập tức sai Cầu Nhi đi mời Quách Tể tới. Ba La Diệp nghe nói Huyền Trang bị ám sát cũng rất kinh hãi, lập tức chạy đến hậu hoa viên rút mũi tên ra, lật qua lật lại xem xét. Quách Tể vừa nghe thấy tin tức lập tức gác lại công việc đang dang dở, dẫn hai vị huyện úy* vội vàng chạy tới, thấy Huyền Trang bình yên vô sự mới thở phào một hơi, rồi lại nhanh chóng phát giận, lệnh cho một huyện úy họ Chu lập tức truy tìm hung thủ. Hoắc Ấp là thượng huyện, theo lệ có hai vị huyện úy theo phò tá quan huyện lệnh. “Đại nhân!” Huyện úy họ Lưu bên cạnh nói với giọng run run, cầm mũi tên đó đi tới, sắc mặt rất khó coi: “Đại nhân, mũi tên này… là binh tiễn!” Huyền Trang và Lý Ưu Nương không có phản ứng gì lạ, nhưng sắc mặt Quách Tể lập tức thay đổi: “Binh tiễn?” Ông ta đưa tay cầm lấy, lật qua lật lại xem xét. Mũi tên này dài hai thước, thân tên làm bằng gỗ bạch lạp, đuôi tên là ba cánh lông ngỗng màu trắng, đầu mũi tên vừa dài vừa dày, không nghĩ nó lại được làm bằng thép, lực đâm xuyên rất mạnh, có thể bắn thủng áo giáp. Quách Tể chinh chiến trong quân đội rất nhiều năm nên đã quá quen với loại mũi tên này. Đây là binh tiễn, mũi tên tiêu chuẩn dùng trong quân đội Đại Đường! Ông ta không nói một lời, chạy vào đình nghỉ mát trong hậu hoa viên quan sát kỹ lưỡng dấu vết trên cây cột, lại ước lượng khoảng cách đến cây hòe ngoài tường bao, nói nhỏ: “Nếu bản quan đoán không sai thì mũi tên này được bắn ra từ một cây cung sừng trâu.” “Không sai!” Lưu huyện úy cũng hạ thấp giọng nói: “Từ chiếc cột này đến cây hòe kia là khoảng một trăm hai mươi bộ. Khoảng cách xa như vậy chỉ có trường cung bộ binh và cung sừng của kỵ binh trong quân đội mới có thể bắn tới, hơn nữa còn cắm vào cột sâu một tấc.” Một bộ đời Đường là 1,514 m, tục truyền là đơn vị độ dài do Lý Thế Dân định ra, đúng bằng hai bước chân của chính mình. Ba trăm bộ là một dặm, tương đương với 454,2 m hiện nay. Quách Tể lắc đầu: “Cây hòe đó cành lá rậm rạp, trường cung rất lớn, mang lên cây cũng không thể kéo ra hết tầm được. Cung sừng trâu nhỏ mới có thể sử dụng linh hoạt, hơn nữa nhất định là cung sừng trâu loại lắp ghép. Có điều binh tiễn bắn ra từ cung sừng trâu lắp ghép có thể bắn xuyên áo giáp từ khoảng cách một trăm năm mươi bộ, nhưng lực độ của mũi tên này không hề mạnh. Xem ra nếu không phải vì vướng cành cây không thể kéo hết tầm được thì chính là do lực cánh tay của người bắn không đủ.” Sắc mặt Lưu huyện úy vẫn tái nhợt như cũ, vội nói: “Đại nhân, ý của ti chức không phải thảo luận về người bắn cung… Đây là cung tên tiêu chuẩn trong quân đội! Nếu sát thủ này dính dáng đến quân đội thì…” Quách Tể trừng mắt: “Ngươi phải nhớ, thứ nhất là sau nhiều năm loạn lạc, trong dân gian không biết tàng trữ bao nhiêu cung tên tiêu chuẩn như thế này, trong nhà bản quan cũng có, vì thế chưa chắc đã dính dáng đến quân đội. Thứ hai, dù có dính dáng đến quân đội, bản quan cũng phải tra xét đến cùng. Đại sư Huyền Trang chính là một vị cao tăng, bản quan tuyệt đối không cho phép ngài bị ám sát ngay trước mắt mình! Hiểu chưa?” Thân hình Quách Tể giống như người khổng lồ, trước mặt phu nhân và con gái thì vâng vâng dạ dạ, trước mặt Huyền Trang thì khúm na khúm núm, nhưng trước mặt thuộc hạ lại oai nghiêm lừng lững. Ông chinh chiến sa trường nhiều năm, chỉ cần thẳng lưng nghiêm mặt, uy thế dũng mãnh lập tức khiến huyện úy cảm nhận được áp lực to lớn, đành phải cúi đầu vâng dạ. “Ngươi nhớ cho rõ, chuyện cung tên và đại sư Huyền Trang bị ám sát không cho phép truyền ra ngoài.” Quách Tể căn dặn lại. “Tuân lệnh!”, Lưu huyện úy lần này đáp lại rất nhanh và rõ. Thầm nghĩ ngài có cho ta cũng không dám nói, ai biết sẽ chọc phải họa lớn đến mức nào? Dù không phải người trong quân đội phái tới ám sát nhưng đó là cung tên tiêu chuẩn của quân đội, ngài cho rằng nhà nào cũng có chắc? Nếu có thì cũng chỉ những nhà quyền quý mới có thôi. Lúc này Chu huyện úy được phái ra ngoài truy tìm thích khách đã quay về. Hắn đã xem xét tỉ mỉ, thích khách đó quả thực đã bắn tên từ trên cây hòe ngoài tường bao, nhưng không để lại bất cứ dấu vết nào. Chỗ đó ở ngay bên hè phố, chỉ trong nháy mắt thích khách đã có thể chạy xuống phố, biến mất trong dòng người tấp nập. Quách Tể sai hai người này điều động sáu nhân lực thân thủ tốt trong số các sai dịch của huyện nha đến chia ra canh gác cổng chính, cổng sau. Hai người còn lại thì thay thường phục ra phố theo dõi, bảo vệ cả tòa nhà rất chu đáo. Nhưng Lý Ưu Nương vẫn không yên tâm: “Tướng công, thích khách này có cung tên, có thể giết người từ xa. Tướng công sắp xếp như vậy có ổn không? Ngộ nhỡ đại sư xảy ra chuyện gì không hay thì…” “Phu nhân yên tâm!” Quách Tể biết hôm nay Lý Ưu Nương bị kinh động nên rất thương thê tử, dịu dàng nhìn bà: “Ta tự có tính toán. Tất cả những nơi cao ráo, thuận tiện cho việc bắn tên ở phía ngoài nhà đều đã được ta phái người giám sát chặt chẽ, hễ có động tĩnh gì thì cung thủ bên ta sẽ lập tức bắn chết hắn.” Thấy Lý Ưu Nương vẫn không tin, ông ta giải thích: “Hoắc Ấp chúng ta là một thành trì trọng yếu, trong nha môn có năm mươi chiếc nỏ bắn tầm xa, trong vòng ba trăm bộ có thể bắn thủng hai lớp da trâu dày. Ta đã bố trí bốn chiếc nỏ trên tháp canh ở nha môn, thích khách dám liều xông vào đây, đảm bảo không còn sống trở ra.” Lý Ưu Nương biết phu quân tinh thông chiến trận, nghe vậy cũng yên tâm phần nào, hạ giọng nói nhỏ: “Tuyệt đối không thể để đại sư Huyền Trang chết trong nhà chúng ta, nếu không Phật Tổ trách tội, đó sẽ là một tai họa cực lớn. Tướng công vẫn nên khuyên nhủ đại sư, cố gắng đưa đại sư rời khỏi Hoắc Ấp sớm một chút!” “Đại sư Huyền Trang có chuyện quan trọng cần làm ở Hoắc Ấp, ngài ấy sẽ không đi. Không sao, ta sẽ bảo vệ ngài ấy cẩn thận.” Quách Tể thở dài, ông ta cho rằng Lý Ưu Nương không biết mục đích Huyền Trang đến đây nên cũng không nói rõ hơn. Ngoài miệng dù cứng nhưng trong lòng ông ta vẫn rất lo lắng. Tại sao lại có người ám sát đại sư Huyền Trang? Vị hòa thượng này vân du khắp thiên hạ, không thù không oán với ai, tại sao lại có người dùng thủ đoạn ám sát cực đoan này để đối phó ngài chứ? Đêm hôm đó ánh trăng vẫn in rõ bóng cây ngô đồng trên cửa sổ, Huyền Trang cũng không ngừng suy nghĩ về vấn đề này. Cuộc đời ngài bình lặng không có tranh chấp gì, về cơ bản ngài không ở lại nơi nào lâu quá một năm trừ Ích Châu và Trường An, đi qua nơi đâu cũng chỉ giống như khách lạ tiện đường nghỉ chân. Tại sao mới đi tới Hoắc Ấp vài ngày đã có người muốn giết mình rồi? Huyền Trang cũng không sợ chết, vụ ám sát hụt ban ngày không khiến ngài cảm thấy hoang mang lo sợ, tinh thần hoảng loạn. Nhưng ngài có một tật xấu là không giữ được những mối nghi hoặc ở trong lòng, gặp vấn đề gì không hiểu sẽ luôn tìm cách tra hỏi tường tận gốc rễ, nhất định phải nghiên cứu đến cùng mới thôi. Đối với Phật pháp ra sao thì đối với chuyện hàng ngày cũng như vậy. Cũng chính vì ngài có quá nhiều chỗ không hiểu khi nghiên cứu thiền lý nên mới làm một tham học tăng ngao du thiên hạ, tới thăm hỏi các vị danh sư. Danh sư cũng không giải được nhiều chỗ nghi hoặc, ngài lại phát nguyện đến Thiên Trúc cầu pháp. Có lẽ trong lòng ngài, vạn sự vạn vật đều ẩn chứa thiền lý, từng li từng tí một đều chẳng nằm ngoài giáo pháp, Phật pháp thật sự không nằm ở việc cần mẫn nghiên cứu kinh phật, mà bản thân người tu hành phải nắm được cái gọi là quy luật vận hành của đạo trời, đạo đời và đạo người. “Giết ta, chỉ có một nguyên nhân.” Huyền Trang thầm nghĩ: “Tung tích của Trường Tiệp. Tung tích của Trường Tiệp hẳn phải có mối liên hệ chặt chẽ với chuyện này, ta tới tìm Trường Tiệp sẽ khiến một số người lo lắng. Để xảy ra chuyện như bây giờ, hẳn là do ta đã đánh động đến bọn chúng, vì e sợ ta sẽ tiếp tục điều tra ra chuyện nên mới phải ám sát ta. Vậy rốt cuộc thì ta đã đánh động đến bọn chúng ở điểm nào?” Huyền Trang dùng đến tư duy của một vị cao tăng nghiên cứu kinh luận, nhanh chóng tìm được điểm đáng ngờ xuất phát từ đâu, hay nói cho đúng ra là từ ai: Lý phu nhân! Ngài đến huyện Hoắc Ấp chưa được vài ngày, ngoài Mã điển lại ở huyện nha và người nhà Quách Tể, gần như không có ai biết ngài đã đến Hoắc Ấp. Mà ngài cũng mới chỉ hỏi Quách Tể và Lý phu nhân về tung tích của Trường Tiệp, còn Mã điển lại thì rõ ràng là không hề hay biết gì. Quách Tể tính tình chất phác, nếu đã có ý muốn ngăn cản thì tội gì phải rước mình về nhà, cho mình cơ hội tiếp xúc với Lý Ưu Nương, người có liên quan mật thiết đến Trường Tiệp? Ông ta càng không cần phải đến nha môn giữa đêm hôm khuya khoắt để tìm lại tranh truy nã Trường Tiệp bảy năm trước. Người khả nghi chỉ có Lý Ưu Nương. Trường Tiệp bức tử Thôi Giác, Thôi Giác là chồng cũ của bà ta. Nếu Trường Tiệp dính líu tới bí mật nào đó, rất có khả năng Lý Ưu Nương cũng là một trong những người biết chuyện. Vì thế nếu thật có người theo dõi khi mình nói chuyện với bà ta ở hậu hoa viên, người này có thể sẽ cho rằng hai người đang bí mật bàn chuyện, Lý Ưu Nương đã tiết lộ chuyện cơ mật, vì thế mới không từ thủ đoạn tìm cách giết chết mình. Người phụ nữ này nắm giữ vô số bí mật. Bà ta tư thông với người khác, vậy người này là ai? Rốt cuộc có có quan hệ gì với cái chết của Thôi Giác và sự mất tích của Trường Tiệp? Huyền Trang ngồi trên giường suy nghĩ rất lâu, đầu óc trở nên nặng nề. Ba La Diệp thì đang ngủ say ở gian ngoài, tiếng ngáy làm đất rung núi chuyển. Trong không khí có mùi thơm thoang thoảng, không biết là của loài hoa nào nở về đêm, có cảm giác xa xăm vô cùng. Lúc này Huyền Trang đột nhiên cảm thấy cả người tê dại, thân thể rã rời không còn chút sức lực nào. Ngài giật mình kinh hãi, muốn mở mắt ra nhưng mí mắt lúc này dường như nặng đến ngàn vạn cân. Vừa gắng gượng hé mắt ra, đầu óc ngài như muốn nổ tung, những suy tính trong đầu tan ra như sao trời, mọi thứ đều trở nên trống rỗng. Tiếng ngáy của Ba La Diệp ngủ bên ngoài cũng đột ngột chấm dứt. Tám trăm dặm cát lún, ba ngàn dặm tuyết sơn đều đã lùi lại phía sau. Cảnh trí trước mắt biến đổi, một ngọn Thánh Sơn hùng vĩ nguy nga đứng sừng sững phía trước. Đó chính là chùa Cổ Lôi Âm, bảo điện Linh Sơn! Chỉ thấy tòa chùa cổ Lôi Âm đó: Đỉnh hòa giữa trời mây, chân sát núi Tu Di. Đỉnh non xếp tầng tầng, đá lạ xen loạn tạp. Kỳ hoa dị thảo chen vách núi, sắc tím hương huệ ngát đường quanh. Điện Thiên Vương tỏa rạng hào quang, trước điện hộ pháp phun lửa tím. Tháp phù đồ hiển hiện, hoa ưu bát tỏa hương, ngờ chi nữa đất chánh riêng một cõi, mây đà nương giấc thưởng ngày dài. Duyên cõi trần đến nay chừng đã tận, vạn kiếp chẳng đi chệch khỏi đường tu. Huyền Trang kích động trong lòng, đi đến trước Đại Hùng bảo điện, quỳ xuống vái lạy Như Lai, bẩm: “Đệ tử Huyền Trang, phụng ý chỉ của hoàng đế Đông Thổ Đại Đường, đi tới bảo sơn bái cầu chân kinh, một lòng mong mỏi tế độ chúng sinh. Xin Phật Tổ ban ân, ban phát chân kinh, cho đệ tử sớm ngày mang về nước.” Như Lai mở miệng nói: “Đông Thổ đó của ngươi là Nam Thiệm Bộ Châu, trời cao đất dày, đất chật người đông, sinh nhiều tham nhiều sát, nhiều dâm nhiều dối, nhiều gian nhiều trá, không tuân Phật giáo, không hướng thiện duyên, không kính tam quang, không trọng ngũ cốc, bất trung bất hiếu, bất nghĩa bất nhân, lừa người dối mình, đong to cân nhỏ, giết hại sinh linh. Tạo ra vô vàn tội nghiệt, tội ác ngập tràn, nên mới gặp tai họa bị đọa đày nơi địa ngục, bởi lẽ ấy mà vĩnh viễn rơi vào cõi u minh. Ta nay có ba tạng kinh, có thể siêu thoát khổ não, giải trừ tai ương. Ba tạng kinh ấy gồm một tạng Pháp giảng về trời, một tạng Luận giảng về đất, một tạng Kinh dẫn độ sinh linh. Tổng cộng ba mươi lăm bộ, gần một vạn năm ngàn một trăm bốn mươi tư quyển. Đó mới thực là con đường tu chân, cánh cửa hướng thiện, phàm là chuyện trên khắp bốn đại bộ châu này, từ thiên văn, địa lí, người và vật, chim thú, hoa cỏ cây cối, đồ vật, việc đời việc người… đều được ghi chép đủ đầy trong đó, không gì không có.”* Đoạn văn này được tác giả trích dẫn từ chương hồi thứ chín mươi tám: “Vượn ngựa thục thuần nay thoát xác - Công quả viên mãn gặp Như Lai” của cuốn tiểu thuyết trăm hồi “Tây Du Ký”. Gọi chung mặt trời, mặt trăng và các ngôi sao là tam quang. Trời có ba đạo ánh sáng: mặt trời, mặt trăng và sao, đất có ba hình: cao, thấp và bằng. Huyền Trang thực hiện được chí hướng cả đời, hài lòng thoả dạ, đang chuẩn bị tạ ơn Như Lai thì đột nhiên thấy cả người lạnh toát, một mùi chua cay xộc vào mũi, sau đó thì nhịp thở bị chặn lại đột ngột, khó thở tưởng chết. Ngài bỗng dưng bị dọa sợ, mở choàng mắt tỉnh dậy, bỗng nhận thấy người mình lạnh toát, không nghĩ tới lúc này ngài đang hòa mình nơi đáy nước, vẫn đang từ từ chìm xuống. Mượn ánh trăng trên mặt nước, ngài nhìn thấy hoa cỏ, đình nghỉ mát, cây cầu… Thì ra ngài đang ở dưới đáy hồ nước trong hậu hoa viên của huyện nha. Bên trên mặt nước, một bóng người màu trắng đang đứng trên bờ như ẩn như hiện, dường như đang cười lạnh nhìn ngài. Huyền Trang hoảng hốt, muốn kêu gào cứu mạng, nhưng không tài nào mở miệng ra được, muốn quẫy nước, vùng vẫy hòng nổi lên, nhưng cả người bải hoải, chỉ có thể để mặc nước hồ xộc qua mũi, qua miệng tràn vào trong ruột, trong phổi. Ngài ho sặc sụa vì sặc nước, nhưng cũng chỉ có những bọt bong bóng từ từ nổi lên trên mặt hồ. Trong những suy nghĩ cuối cùng trước khi chết, Huyền Trang đột nhiên hiểu được chuyện gì đang xảy ra, ngài ấy vậy mà lại bị ám sát lần thứ hai! Tên thích khách này không biết làm thế nào lại lẻn được vào hậu trạch, có lẽ hắn đã dùng một loại mê hương nào đó làm ngài ngất đi, sau đó kéo ngài từ trên giường ra hậu hoa viên rồi ném xuống dưới hồ. Theo lý thuyết, khi gặp nước lạnh, thần trí của ngài phải tỉnh táo lại, """