🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Đại chiến lược của Trung Quốc để vượt Mỹ
Ebooks
Nhóm Zalo
Tác giả Rush Doshi
VÀO ĐỀ
Đó là năm 1872, và Lý Hồng Chương đang viết vào thời điểm biến động lịch sử. Là một vị tướng và quan chức của triều đại nhà Thanh, người đã cống hiến phần lớn cuộc đời mình để cải cách một đế chế đang hấp hối, Lý thường được so sánh với Otto von Bismarck đương thời, kiến trúc sư của sự thống nhất nước Đức và sức mạnh quốc gia, người mà Lý lấy làm nguồn cảm hứng.
Lý Hồng Chương là một đại thần triều đình nhà Thanh trong lịch sử Trung Quốc. Ông là người tỉnh An Huy, xuất thân gia đình quan lại. Trong cuộc đời quan trường của mình ông đã thành lập Hoài quân thamgia cùng với Tăng Quốc Phiên, Tả Tông Đường trấn áp phong trào Thái Bình Thiên Quốc. Vì có công lao to lớn, ông được bổ nhiệm làm tổng đốc Hồ quảng, tổng đốc Trực Lệ kiêm Bắc Dương đại thần, Tổng đốc Lưỡng Quảng, Túc nghị nhất đẳng bá. Lý Hồng Chương tên tự là Thiếu Thuyên, đậu tiến sĩ đời Đạo Quang đã từng được bổ nhiệm chức Đạo đài tỉnh Phúc Kiến, Tăng Quốc Phiên nghe tiếng Chương đa tài, vời vào làm mạc khách, sau đó tiến cử về triều.
Nhận xét sau của Lương Khải Siêu đủ cho ta thấy tài năng của Lý Hồng Chương: “Lý Hồng Chương dũng cảm hơn Tăng Quốc Phiên, nhẫn nại hơn Tả Tông Đường. Trương Chi Động vốn có thể so với Lý nhưng rốt cuộc lại không bằng Lý.”
Tuy nhiên Lý Hồng Chương là một nhân vật gây nhiều tranh cãi, bởi ông sở hữu nhiều công lao, nhưng cũng gánh trên mình không ít tội.
Sau khi ông qua đời, Từ Hi Thái Hậu và vua Quang Tự đã khóc rất nhiều. Ông được truy tặng hàm ‘Thái phó’, tước ‘Nhất đẳng túc nghị hầu’, ban tên thụy ‘Văn Trung’ và cho phép cháu nội Lý Quốc Kiệt thừa tập. Ngoài ra, triều đình còn cho lập 10 đền thờ ông ở Bắc Kinh và các tỉnh ông từng giữ chức.
***
Otto Eduard Leopold von Bismarck (1/4/1815 – 30/7/1898) là một chính trị gia người Đức, ông là người lãnh đạo nước Đức và châu Âu từ năm 1862 đến năm 1890, khi bị vua Wilhelm II ép từ chức. Năm 1871, sau chiến thắng các cuộc chiến tranh với Đan Mạch (1864), Áo (1866) và Pháp (1870 – 1871), ông đã thống nhất các bang Đức (ngoại trừ Đế quốc Áo) thành một Đế quốc Đức hùng mạnh dưới sự lãnh đạo của Phổ. Sau đó, ông xây dựng cục diện cân bằng quyền lực, duy trì thành công nền hòa bình ở châu Âu từ năm1871 đến 1914. Trong cuốn tiểu sử Bismarck: A Life, sử gia Hoa Kỳ Jonathan Steinberg nhìn nhận ông là ‘thiên tài chính trị thế kỷ 19’.
Trên cương vị là Thủ tướng Phổ từ năm 1862 tới năm 1890, Bismarck đã khơi mào các cuộc chiến đưa thế lực của Phổ vượt lên Áo và Pháp; đồng thời biến Phổ thành nhà nước lãnh đạo, dẫn dắt các nhà nước khác thuộc dân tộc Đức. Thắng lợi của Phổ trong các chiến tranh do ông phát động cũng đè bẹp sự phản kháng của phe tự do trong Quốc hội Phổ đối với chính sách mở rộng quân đội của vua Wilhelm I. Vào năm 1867, ông cũng trở thành Thủ tướng Liên bang Bắc Đức. Otto von Bismarck trở thành vị Thủ tướng đầu tiên của một nước Đức thống nhất sau Hiệp ước Versailles (1871) và chèo lái hầu hết các vấn đề chính sự của đất
nước cho đến khi bị tân Hoàng đế Wilhelm II sa thải vào năm 1890.
Đường lối ngoại giao thực dụng (Realpolitik) và cai trị nghiêm khắc của Bismarck mang lại cho ông biệt danh ‘Thủ tướng Sắt’ (Eiserne Kanzler). Nhà ngoại giao Hoa Kỳ Henry Kissinger ghi nhận:
Con người của 'sắt và máu' đã viết nên áng văn sáng ngời về sự chính trực, sánh ngang với lối sử dụng tiếng Anh một cách súc tích của Churchill.
Ông thực hiện chính sách cân bằng quyền lực để duy trì sự ổn định của nước Đức và châu Âu trong các thập niên 1870 và 1880. Ông đã gây dựng một quốc gia dân tộc mới, đồng thời hình thành nhà nước phúc lợi đầu tiên trên thế giới thông qua đạo luật thiết lập chế độ lương hưu cho người lao động vào năm 1889. Mặc dù không thích chủ nghĩa thực dân, ông buộc phải miễn cưỡng xây dựng một đế quốc hải ngoại khi mà cả tầng lớp thống trị lẫn đại chúng đều yêu cầu thực hiện điều đó.
Giống như Bismarck, Lý có kinh nghiệm quân sự mà ông có tầm ảnh hưởng đáng kể, bao gồm cả chính sách đối ngoại và quân sự. Ông đã có công trong việc dập tắt cuộc nổi dậy Taiping (Thái Bình Thiên Quốc) kéo dài mười bốn năm — cuộc xung đột đẫm máu nhất trong cả thế kỷ 19 — đã chứng kiến một nhà nước Thiên chúa giáo thuộc phe quân sự trỗi dậy từ khoảng trống quyền lực ngày càng tăng của nhà Thanh để phát động một cuộc nội chiến cướp đi sinh mạng của hàng chục triệu người. Chiến dịch chống lại quân nổi dậy đã giúp Lý đánh giá cao vũ khí và công nghệ của phương Tây, nỗi sợ hãi trước những kẻ thù châu Âu và Nhật Bản, cam kết tự củng cố và hiện đại hóa Trung Quốc.
Vì vậy, vào năm 1872, trong một bức thư, Lý đã phản ánh về những chuyển đổi địa chính trị và công nghệ đột phá mà ông đã thấy trong cuộc sống của chính mình, mối đe dọa hiện hữu đối với nhà Thanh. Trong một bản ghi nhớ ủng hộ việc đầu tư nhiều hơn vào việc đóng tàu Trung Quốc, ông đã viết một dòng đã được nhắc đi nhắc lại trong nhiều thế hệ: Trung Quốc đang trải qua ‘những thay đổi lớn chưa từng thấy trong ba nghìn năm’.
Tuyên bố nổi tiếng và sâu rộng đó đối với nhiều người theo chủ nghĩa dân tộc Trung Quốc là một lời nhắc nhở về sự sỉ nhục của chính đất nước. Cuối cùng, Lý đã thất bại trong việc hiện đại hóa Trung Quốc, thua Nhật Bản trong một cuộc chiến và ký Hiệp ước Shimonoseki với Tokyo. Nhưng đối với nhiều người, đường lối của Lý vừa có tính dự đoán vừa chính xác - sự suy tàn của Trung Quốc là kết quả của việc Nhà Thanh không thể tính đến các lực lượng địa chính trị và công nghệ biến đổi chưa từng thấy trong suốt ba nghìn năm, những lực lượng đã thay đổi cán cân quyền lực quốc tế và mở ra ‘Thế kỷ sỉ nhục’ của Trung Quốc. Đây là những xu hướng mà tất cả những nỗ lực của Lý không thể đảo ngược.
Giờ đây, đường lối của Lý đã được nhà lãnh đạo Trung Quốc Tập Cận Bình thay thế để mở đầu một giai đoạn mới trong chiến lược lớn của Trung Quốc thời hậu Chiến tranh Lạnh. Kể từ năm 2017, ông Tập trong nhiều bài phát biểu quan trọng về chính sách đối ngoại của đất nước đã tuyên bố thế giới đang ở giữa “những thay đổi lớn chưa từng thấy trong một thế kỷ” [ ]. Nếu đường lối của Lý đánh dấu cao điểm về sự sỉ nhục của Trung Quốc, thì đường lối của ông Tập đánh dấu một cơ hội cho sự trẻ hóa. Nếu Lý gợi lên bi kịch, thì Tập gợi lên cơ hội. Nhưng cả hai đều nắm bắt được một điều gì đó thiết yếu: ý tưởng trật tự thế giới một lần nữa bị đe dọa do những thay đổi về địa chính trị và công nghệ chưa từng có, và điều này đòi hỏi sự điều chỉnh chiến lược.
Đối với ông Tập, nguồn gốc của những sự thay đổi này là sức mạnh ngày càng tăng của Trung Quốc và những gì họ coi là sự tự hủy diệt rõ ràng của phương Tây. Vào ngày 23 tháng 6 năm 2016, Vương quốc Anh đã bỏ phiếu rời Liên minh Châu Âu. Sau đó, hơn ba tháng một chút, một trào lưu dân túy đã đẩy Donald Trump lên nhậm chức tổng thống Hoa Kỳ. Từ quan điểm của Trung Quốc - vốn rất nhạy cảm với
những thay đổi trong nhận thức của họ về sức mạnh và mối đe dọa của Mỹ - hai sự kiện đã gây sốc. Bắc Kinh tin các nền dân chủ mạnh nhất thế giới đang rút khỏi trật tự quốc tế mà họ đã giúp xây dựng ở nước ngoài và đang đấu tranh để tự quản lý ở quê nhà. Phản ứng sau đó của phương Tây đối với đại dịch coronavirus vào năm 2020, và sau đó là vụ tấn công vào Điện Capitol của Mỹ bởi các phần tử cực đoan vào năm 2021, củng cố ý thức “thời gian và động lực đều đứng về phía chúng ta”, như ông Tập Cận Bình đã nói ngay sau những sự kiện đó. giới lãnh đạo và giới tinh hoa chính sách đối ngoại tuyên bố một “thời cơ lịch sử” [ ] đã xuất hiện để mở rộng trọng tâm chiến lược của đất nước từ châu Á sang toàn
cầu và hệ thống quản trị của nó.
Bây giờ chúng ta đang ở những năm đầu của những gì sắp tới — một Trung Quốc không chỉ tìm kiếm ảnh hưởng trong khu vực như nhiều cường quốc vẫn làm, mà như Evan Osnos đã lập luận, “đang chuẩn bị định hình thế kỷ XXI, giống như Hoa Kỳ. định hình thế kỷ hai mươi.” Cuộc cạnh tranh giành ảnh hưởng đó sẽ là một cuộc cạnh tranh toàn cầu, và Bắc Kinh tin tưởng với lý do chính đáng thập kỷ tới có thể sẽ quyết định kết quả.
Tập Cận Bình
Khi bước vào giai đoạn cạnh tranh gay gắt mới này, chúng ta thiếu câu trả lời cho những câu hỏi cơ bản quan trọng. Tham vọng của Trung Quốc là gì và nước này có chiến lược lớn để đạt được những tham vọng đó không? Nếu có thì chiến lược đó là gì, định hình ra sao và Hoa Kỳ nên làm gì với chiến lược đó? Đây là những câu hỏi cơ bản đối với các nhà hoạch định chính sách của Mỹ khi đối mặt với thách thức địa chính trị lớn nhất thế kỷ này, đặc biệt là bởi vì biết chiến lược của đối thủ là bước đầu tiên để đối phó.
Tuy nhiên, khi căng thẳng quyền lực lớn bùng phát, không có sự đồng thuận về các câu trả lời.
Cuốn sách này cố gắng cung cấp một câu trả lời. Về lập luận và cấu trúc, cuốn sách lấy cảm hứng một phần từ các nghiên cứu Chiến tranh Lạnh về chiến lược lớn của Hoa Kỳ. Trong đó các công trình phân tích lý thuyết và thực tiễn về ‘chiến lược ngăn chặn’ của Hoa Kỳ đối với Liên Xô trong Chiến tranh Lạnh, cuốn sách tìm kiếm để phân tích lý thuyết và thực tiễn về ‘chiến lược dịch chuyển’ của Trung Quốc đối với Hoa Kỳ sau Chiến tranh Lạnh.
Để làm như vậy, cuốn sách sử dụng cơ sở dữ liệu gốc gồm các tài liệu của Đảng Cộng sản Trung Quốc —hồi ký, tiểu sử và hồ sơ hàng ngày của các quan chức cấp cao — được thu thập một cách cẩn thận và sau đó được số hóa trong vài năm qua từ các thư viện, hiệu sách ở Đài Loan và Hồng Kông, và Các trang thương mại điện tử của Trung Quốc. Nhiều tài liệu đưa người đọc đến sau cánh cửa đóng kín của Đảng Cộng sản Trung Quốc, đưa họ vào các cuộc họp và thể chế chính sách đối ngoại cấp cao của Đảng, đồng thời giới thiệu với độc giả một loạt các nhà lãnh đạo chính trị, tướng lĩnh và nhà ngoại giao Trung Quốc chịu trách nhiệm xây dựng và thực hiện Đại chiến lược của Trung Quốc. Mặc dù không có một tài liệu tổng thể nào chứa đựng tất cả chiến lược vĩ đại của Trung Quốc, nhưng bạn có thể tìm thấy sơ lược của nó trên một kho tài liệu rộng lớn. Bên trong chúng, Đảng sử dụng các tuyên bố thứ bậc thể hiện sự đồng thuận nội bộ về các vấn đề quan trọng để định hướng cho con tàu nhà nước và những tuyên bố này có thể được ghi lại theo thời gian. Trong đó quan trọng nhất là đường lối của Đảng (), sau đó là kim chỉ nam (), và
cuối cùng là chính sách (), cùng các thuật ngữ khác. Đôi khi, việc hiểu chúng đòi hỏi sự thông thạo không chỉ tiếng Trung Quốc, mà còn về các khái niệm tư tưởng cổ xưa và dường như không thể xuyên thủng như ‘sự thống nhất biện chứng’ và ‘chủ nghĩa duy vật lịch sử’.
LẬP LUẬN SƠ LƯỢC
Cuốn sách cho cốt lõi của cạnh tranh Mỹ-Trung kể từ sau Chiến tranh Lạnh là vì trật tự khu vực và hiện nay là trật tự toàn cầu. Nó tập trung vào các chiến lược mà các cường quốc đang lên như Trung Quốc sử dụng để thay thế một bá chủ đã được thiết lập như Hoa Kỳ trong thời gian tham chiến. Vị thế bá chủ trong trật tự khu vực và toàn cầu xuất hiện từ ba ‘hình thức kiểm soát’ rộng được sử dụng để điều chỉnh hành vi của các quốc gia khác: khả năng cưỡng chế (buộc tuân thủ), khuyến khích đồng thuận và tính hợp pháp (để chỉ huy một cách hợp pháp). Đối với các quốc gia đang trỗi dậy, hành động thay thế bá quyền một cách hòa bình bao gồm hai chiến lược rộng rãi thường được theo đuổi theo trình tự. Chiến lược đầu tiên là ngăn chặn việc thực thi các hình thức kiểm soát đó của bá quyền, đặc biệt là những hình thức kiểm soát được mở rộng trên quốc gia đang trỗi dậy; xét cho cùng, không một trạng thái trỗi dậy nào có thể thay thế bá chủ nếu nó vẫn nằm dưới sự kiểm soát của bá chủ. Thứ hai là xây dựng các hình thức kiểm soát người khác; thực sự, không một quốc gia đang trỗi dậy nào có thể trở thành bá chủ nếu nó không thể đảm bảo sự tôn trọng của các quốc gia khác thông qua những lời đe dọa cưỡng bức, những lời dụ dỗ đồng thuận hoặc tính hợp pháp chính đáng. Trừ khi một cường quốc đang trỗi dậy lần đầu tiên làm mất quyền bá chủ, các nỗ lực xây dựng trật tự có thể trở nên vô ích và dễ bị phản đối. Và cho đến khi một cường quốc đang lên đã tiến hành thành công một mức độ cải thiện và xây dựng tốt trong khu vực quen thuộc của mình, thì nước đó vẫn còn quá dễ bị ảnh hưởng của bá chủ để tự tin chuyển sang chiến lược thứ ba, mở rộng toàn cầu, theo đuổi cả việc cắt giảm và xây dựng ở cấp độ toàn cầu để thay thế vị thế bá chủ. Cùng với nhau, những chiến lược này ở cấp khu vực và sau đó là toàn cầu cung cấp một phương tiện cho giới tinh hoa theo chủ nghĩa dân tộc của Đảng Cộng sản Trung Quốc, những người đang tìm cách khôi phục Trung Quốc về đúng vị trí của nó và khôi phục sự sai lệch lịch sử về ảnh hưởng toàn cầu quá lớn của phương Tây.
Đây là một khuôn mẫu Trung Quốc đã làm theo, và khi xem xét lại các chiến lược dịch chuyển của Trung Quốc, cuốn sách lập luận sự thay đổi từ chiến lược này sang chiến lược tiếp theo đã được kích hoạt bởi sự
gián đoạn rõ ràng trong biến số quan trọng nhất định hình chiến lược lớn của Trung Quốc: nhận thức về sức mạnh của Mỹ và mối đe dọa. Chiến lược dịch chuyển đầu tiên của Trung Quốc (1989–2008) là âmthầm làm giảm sức mạnh của Mỹ đối với Trung Quốc, đặc biệt là ở châu Á, và nó xuất hiện sau thảm họa Thiên An Môn, Chiến tranh Vùng Vịnh, và sự sụp đổ của Liên Xô khiến Bắc Kinh tăng cường nhận thức về Mối đe dọa của Hoa Kỳ. Chiến lược dịch chuyển thứ hai của Trung Quốc (2008–2016) tìm cách xây dựng nền tảng cho quyền bá chủ khu vực châu Á, và nó được đưa ra sau cuộc Khủng hoảng Tài chính Toàn cầu khiến Bắc Kinh thấy sức mạnh của Mỹ đang suy giảm và khuyến khích họ thực hiện một cách tiếp cận tự tin hơn. Giờ đây, với lời kêu gọi “những thay đổi lớn chưa từng thấy trong một thế kỷ” sau Brexit, cuộc bầu cử của Tổng thống Trump và đại dịch coronavirus, Trung Quốc đang tung ra một chiến lược dịch chuyển thứ ba, một chiến lược mở rộng nỗ lực thay thế và xây dựng trên toàn thế giới để thay thế Hoa Kỳ như nhà lãnh đạo toàn cầu. Trong các chương cuối cùng, cuốn sách sử dụng những hiểu biết sâu sắc về chiến lược của Trung Quốc để hình thành một chiến lược lớn bất đối xứng của Hoa Kỳ để đáp lại.
Cuốn sách cũng minh họa trật tự của Trung Quốc có thể trông như thế nào nếu Trung Quốc có thể đạt được mục tiêu ‘trẻ hóa quốc gia’ vào 100 năm ngày thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa vào năm2049. Ở cấp độ khu vực, Trung Quốc đã chiếm hơn một nửa GDP của Châu Á và một nửa chi tiêu quân sự của Châu Á, điều này đang đẩy khu vực ra khỏi sự cân bằng và hướng tới một phạm vi ảnh hưởng của Trung Quốc. Một trật tự được thực hiện đầy đủ của Trung Quốc cuối cùng có thể liên quan đến việc rút các lực lượng Mỹ khỏi Nhật Bản và Hàn Quốc, chấm dứt các liên minh khu vực của Mỹ, loại bỏ hiệu quả Hải quân Mỹ khỏi Tây Thái Bình Dương, sự khác biệt với các nước láng giềng trong khu vực của Trung Quốc, thống nhất với Đài Loan và giải pháp tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông và Biển Hoa Đông (với Nhật Bản). Trật tự của Trung Quốc có thể sẽ mang tính cưỡng chế hơn so với trật tự hiện tại. Trung Quốc sẽ triển khai trật tự này theo những cách làm tổn hại đến các giá trị tự do, với những luồng gió độc tài thổi mạnh hơn khắp khu vực. Trật tự ở nước ngoài thường phản ánh trật tự ở trong nước và việc xây dựng trật tự của Trung Quốc sẽ khác xa so với việc xây dựng trật tự của Hoa Kỳ.
Ở cấp độ toàn cầu, trật tự của Trung Quốc sẽ liên quan đến việc nắm bắt các cơ hội của “những thay đổi lớn chưa từng thấy trong một thế kỷ” và đưa Hoa Kỳ trở thành quốc gia hàng đầu thế giới. Điều này đòi hỏi phải quản lý thành công rủi ro chính đến từ “những thay đổi lớn” — Washington không sẵn sàng chấp nhận sự suy giảm một cách dễ dàng — bằng cách làm suy yếu các hình thức kiểm soát hỗ trợ trật tự toàn cầu của Mỹ trong khi củng cố các hình thức kiểm soát đó để hỗ trợ một sự thay thế của Trung Quốc. Trật tự đó sẽ kéo dài “khu vực ảnh hưởng lớn nhất” ở châu Á cũng như “quyền bá chủ một phần” trong các khu vực của thế giới đang phát triển, có thể dần dần mở rộng để bao trùm các trung tâm công nghiệp hóa của thế giới —một tầm nhìn mà một số nhà văn nổi tiếng Trung Quốc mô tả bằng cách sử dụng hướng dẫn cách mạng của Mao để “bao quanh các thành phố từ vùng nông thôn”. Các nguồn có thẩm quyền hơn đưa cách tiếp cận này vào những điều khoản ít sâu rộng hơn, cho thấy trật tự của Trung Quốc sẽ được gắn chặt trong Sáng kiến Vành đai và Con đường và Cộng đồng chung vận mệnh.
Sáng kiến Vành đai và Con đường
Một số chiến lược để đạt được trật tự toàn cầu này đã có thể thấy rõ trong các bài phát biểu của ông Tập. Về mặt chính trị, Bắc Kinh sẽ thể hiện vai trò lãnh đạo đối với quản trị toàn cầu và các thể chế quốc tế, chia rẽ các liên minh phương Tây, và thúc đẩy các chuẩn mực chuyên quyền gây thiệt hại cho các liên minh tự do. Về mặt kinh tế, nó sẽ làm suy yếu các lợi thế tài chính tạo nên quyền bá chủ của Hoa Kỳ và nắm bắt các đỉnh cao chỉ huy của ‘cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư’ từ trí tuệ nhân tạo đến điện toán lượng tử. Về mặt quân sự, Quân đội Giải phóng Nhân dân (PLA) sẽ triển khai một lực lượng tầm cỡ thế giới với các căn cứ trên khắp thế giới có thể bảo vệ lợi ích của Trung Quốc ở hầu hết các khu vực và thậm chí trong các lĩnh vực mới như không gian, các cực và biển sâu. Thực tế là các khía cạnh của tầm nhìn này có thể nhìn thấy trong các bài phát biểu cấp cao là bằng chứng mạnh mẽ cho thấy tham vọng của Trung Quốc không chỉ giới hạn ở Đài Loan hoặc thống trị Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương. “Cuộc đấu tranh giành quyền làm chủ” từng chỉ giới hạn ở châu Á, giờ đây đã vượt qua trật tự toàn cầu và tương lai của nó. Nếu có hai con đường dẫn đến bá chủ - một con đường khu vực và một con đường toàn cầu - thì Trung Quốc hiện đang theo đuổi cả hai.
Cái nhìn thoáng qua về trật tự của Trung Quốc có thể gây ấn tượng, nhưng không có gì đáng ngạc nhiên. Hơn một thập kỷ trước, Lý Quang Diệu - chính trị gia có tầm nhìn xa, người đã xây dựng Singapore hiện đại và đích thân hiểu rõ các nhà lãnh đạo hàng đầu của Trung Quốc - đã được một người phỏng vấn hỏi: “Các nhà lãnh đạo Trung Quốc có nghiêm túc trong việc thay thế Hoa Kỳ trở thành cường quốc số một ở châu Á và trên thế giới không?” Ông ấy trả lời bằng một câu đồng ý dứt khoát. “Tất nhiên. Tại sao không?” ông bắt đầu, “Họ đã biến đổi một xã hội nghèo bằng một phép màu kinh tế để ngày nay trở thành nền kinh tế lớn thứ hai trên thế giới — đang trên đà… trở thành nền kinh tế lớn nhất thế giới.” Ông nói tiếp, Trung Quốc tự hào về “một nền văn hóa 4.000 năm tuổi với 1.3 tỷ người, với một nguồn tài năng khổng lồ để thu hút từ đó. Làm sao mà họ không khao khát trở thành số một châu Á, và trong thời gian tới trên thế giới?” Ông nhận xét “Trung Quốc đang phát triển với tốc độ không thể tưởng tượng được, một sự chuyển biến mạnh mẽ không ai dự đoán trước được”, và “mọi người Trung Quốc đều muốn có một Trung Quốc giàu mạnh, một quốc gia thịnh vượng, tiên tiến và có năng lực công nghệ như Mỹ, Châu Âu và Nhật Bản.” Ông chốt lại câu trả lời của mình bằng một cái nhìn sâu sắc: “Ý thức về vận mệnh được đánh thức lại này là một thế lực chế ngự… Trung Quốc muốn là Trung Quốc và được chấp nhận như vậy, chứ không phải là một thành viên danh dự của phương Tây.” Ông lưu ý Trung Quốc có thể muốn ‘chia sẻ thế kỷ 20’ với Hoa Kỳ, có lẽ là ‘đồng sở hữu’, nhưng chắc chắn không phải với tư cách cấp dưới.
TẠI SAO CHIẾN LƯỢC LỚN LẠI QUAN TRỌNG
Nhu cầu hiểu biết có cơ sở về các ý định và chiến lược của Trung Quốc chưa bao giờ cấp thiết hơn thế. Trung Quốc hiện đặt ra một thách thức không giống bất kỳ thách thức nào mà Hoa Kỳ từng đối mặt. Trong hơn một thế kỷ, không có đối thủ hay liên minh nào đạt tới 60% GDP của Mỹ. Đức trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, sức mạnh tổng hợp của Đế quốc Nhật Bản và Đức Quốc xã trong Chiến tranh thế giới thứ hai, cũng như Liên Xô ở đỉnh cao sức mạnh kinh tế đều không bao giờ vượt qua ngưỡng này. Chưa hết, đây là một cột mốc mà chính Trung Quốc đã lặng lẽ đạt được vào đầu năm 2014. Tính theo sức mua tương đương, nền kinh tế Trung Quốc đã lớn hơn 25% so với nền kinh tế Mỹ. đối thủ cạnh tranh đáng kể nhất mà Hoa Kỳ phải đối mặt và cách Washington xử lý vấn đề sẽ định hình tiến trình của thế kỷ tới.
Sức mua tương đương (hay được viết tắt là PPP xuất phát từ purchasing power parity) là một kiểu tính tỷ giá hối đoái giữa đơn vị tiền tệ của hai nước. Các nhà kinh tế học tính xem cùng một lượng hàng của cùng một thứ hàng hóa khi bán ở hai nước khác nhau bằng đơn vị tiền tệ của hai nước đó thì số tiền phải bỏ ra sẽ ra sao, rồi từ đó so sánh sức mua của hai đơn vị tiền tệ.
Nếu tính toán tiêu chuẩn sống tại một quốc gia, bất kỳ thu nhập tiền tệ nào cũng phải được xem xét trong mối quan hệ tới số lượng hàng hóa và dịch vụ mà nó có thể mua ở địa phương. Cùng một loại hàng hóa sẽ có giá khác nhau phụ thuộc vào quốc gia mà nó được bán. Chỉ số này còn quan trọng hơn cả GDP khi tính toán về tiêu chuẩn sống tại một quốc gia. Ví dụ, 1 đô la khi tiêu ở Ấn Độ có thể mua được số hàng hóa tương đương 4 đô la khi tiêu ở Nhật Bản. Với cùng thu nhập 1.000 đô la Mỹ/tháng, người ta sẽ không đủ chi tiêu khi sống ở các nước có mức giá hàng hóa cao như Nhật Bản, nhưng nếu ở các nước có mức giá hàng hóa thấp như Ấn Độ thì người ta sẽ sống thoải mái. Vì lý do này, chúng ta cần xem xét sức mua tương đương khi so sánh tỷ lệ nghèo đói và mức sống của người dân giữa các quốc gia.
Điều ít rõ ràng hơn, ít nhất là ở Washington, là liệu Trung Quốc có một chiến lược lớn hay không và nó có thể là gì. Cuốn sách này định nghĩa chiến lược lớn là lý thuyết của một nhà nước về cách nó có thể đạt được các mục tiêu chiến lược có chủ đích, được phối hợp và thực hiện trên nhiều phương tiện pháp lý —quân sự, kinh tế và chính trị. Điều làm cho chiến lược lớn trở nên ‘quan trọng’ không chỉ đơn giản là quy mô của các mục tiêu chiến lược mà còn thực tế là các ‘phương tiện’ khác nhau được phối hợp để đạt được mục tiêu đó. Sự phối hợp kiểu đó là rất hiếm và do đó hầu hết các cường quốc không có một chiến lược
lớn.
Tuy nhiên, khi các quốc gia có những chiến lược lớn, họ có thể định hình lại lịch sử thế giới. Đức Quốc xã sử dụng một chiến lược lớn sử dụng các công cụ kinh tế để hạn chế các nước láng giềng, xây dựng quân đội để đe dọa các đối thủ và các liên kết chính trị để bao vây đối thủ của mình — cho phép nước này vượt mặt các đối thủ cường quốc trong một thời gian đáng kể mặc dù GDP của nước này thấp hơn 1/3. Trong Chiến tranh Lạnh, Washington theo đuổi một chiến lược lớn mà đôi khi sử dụng sức mạnh quân sự để ngăn chặn sự xâm lược của Liên Xô, viện trợ kinh tế để hạn chế ảnh hưởng của cộng sản và các thể chế chính trị để ràng buộc các quốc gia tự do với nhau — hạn chế ảnh hưởng của Liên Xô mà không xảy ra chiến tranh Mỹ-Xô. Cách thức Trung Quốc tích hợp tương tự các công cụ pháp chế nhằm theo đuổi các mục tiêu toàn cầu và khu vực bao trùm vẫn là một lĩnh vực nhận được nhiều đồn đoán nhưng ít được nghiên cứu chặt chẽ bất chấp những hậu quả to lớn của nó. Sự phối hợp và lập kế hoạch dài hạn liên quan đến chiến lược lớn cho phép một nhà nước vượt lên trên sức nặng của nó; vì Trung Quốc đã là một nước nặng ký, nếu nước này có một kế hoạch chặt chẽ điều phối nền kinh tế trị giá 14.000 tỷ đô la với lực lượng hải quân nước xanh và ảnh hưởng chính trị đang gia tăng trên toàn thế giới — và Hoa Kỳ có thể bỏ sót hoặc hiểu sai điều đó — thế kỷ 21 có thể diễn ra theo những cách bất lợi cho Hoa Kỳ và các giá trị tự do mà nước này đã vô địch từ lâu.
Hải quân nước xanh là lực lượng hải quân có khả năng hoạt động trên toàn cầu, về cơ bản là trên các vùng nước sâu của các đại dương mở. Trong khi các định nghĩa về những gì thực sự tạo thành một lực lượng như vậy khác nhau, có một yêu cầu đối với khả năng thực hiện quyền kiểm soát biển ở tầm xa.
Thuật ngữ ‘hải quân nước xanh’ là một thuật ngữ địa lý hàng hải trái ngược với ‘hải quân nước nâu’ (sông và gần bờ).
Cơ quan Phản gián Quốc phòng và An ninh Hoa Kỳ đã định nghĩa hải quân nước xanh là “lực lượng hải quân có khả năng hoạt động lâu dài trên các vùng nước sâu của đại dương mở. Hải quân nước xanh cho phép một quốc gia phát triển sức mạnh ở xa đất nước và thường bao gồm một hoặc nhiều hàng không mẫu hạm.”
Washington đang muộn màng đối mặt với thực tế, và kết quả là việc đánh giá lại chính sách đối với Trung Quốc của họ trong hơn một thế hệ. Tuy nhiên, giữa sự đánh giá lại này, có sự bất đồng rộng rãi về những gì Trung Quốc muốn và nơi họ sẽ đi. Một số người tin Bắc Kinh có tham vọng toàn cầu; những người khác cho trọng tâm của nó chủ yếu là khu vực. Một số cho nó có một kế hoạch phối hợp 100 năm; những người khác cho nó là cơ hội và dễ mắc lỗi. Một số người gán cho Bắc Kinh là một cường quốc theo chủ nghĩa xét lại táo bạo; những người khác xem nó như một bên liên quan tỉnh táo của trật tự hiện tại. Một số người nói Bắc Kinh muốn Hoa Kỳ ra khỏi châu Á; và những người khác cho nó chấp nhận một vai trò khiêm tốn của Hoa Kỳ. Nơi các nhà phân tích ngày càng đồng ý với ý kiến sự quyết đoán gần đây của Trung Quốc là sản phẩm từ tính cách của Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình - một quan niệm sai lầm bỏ qua sự đồng thuận lâu dài của Đảng mà hành vi của Trung Quốc thực sự bắt nguồn từ đó. Thực tế là các cuộc tranh luận đương thời vẫn còn chia rẽ về rất nhiều câu hỏi cơ bản liên quan đến chiến lược lớn của Trung Quốc — và không chính xác ngay cả trong các lĩnh vực chính của thỏa thuận — đang gây khó khăn, đặc biệt là vì mỗi câu hỏi có hàm ý chính sách cực kỳ khác nhau.
CUỘC TRANH LUẬN CHƯA ĐƯỢC GIẢI QUYẾT
Cuốn sách này đưa ra một cuộc tranh luận chủ yếu chưa được giải quyết về chiến lược của Trung Quốc được phân chia giữa ‘những người hoài nghi’ và ‘những người tin tưởng’. Những người hoài nghi vẫn chưa bị thuyết phục Trung Quốc có một chiến lược lớn để thay thế Hoa Kỳ ở khu vực hoặc toàn cầu.
Những người hoài nghi là một nhóm có kiến thức rộng và hiểu biết sâu sắc. “Trung Quốc vẫn chưa hình thành một ‘chiến lược lớn’ thực sự,” một thành viên lưu ý, “và câu hỏi đặt ra là liệu họ có muốn làm như vậy hay không”. Những người khác lập luận các mục tiêu của Trung Quốc là ‘thiếu sức mạnh’ và Bắc Kinh thiếu một chiến lược ‘được xác định rõ ràng’. Các tác giả Trung Quốc như Giáo sư Wang Jisi, nguyên chủ nhiệm Khoa Quan hệ Quốc tế của Đại học Bắc Kinh, cũng ở trong trại hoài nghi. Ông lưu ý: “Không có chiến lược nào mà chúng tôi có thể nghĩ ra bằng cách sử dụng bộ não của chúng tôi để có thể bao quát tất cả các khía cạnh của lợi ích quốc gia của chúng tôi.”
Những người hoài nghi khác tin mục tiêu của Trung Quốc là hạn chế, cho Trung Quốc không muốn thay thế Hoa Kỳ ở khu vực hoặc toàn cầu và vẫn tập trung chủ yếu vào phát triển và ổn định trong nước. Một quan chức Nhà Trắng có kinh nghiệm sâu sắc vẫn chưa bị thuyết phục về “mong muốn của ông Tập là hất cẳng Hoa Kỳ ra khỏi châu Á và phá hủy các liên minh khu vực của Hoa Kỳ”. Các học giả nổi tiếng khác đưa ra quan điểm mạnh mẽ hơn: “[Một] quan niệm bị bóp méo cực kỳ nghiêm trọng là giả định quá phổ biến hiện nay rằng Trung Quốc tìm cách loại bỏ Hoa Kỳ khỏi châu Á và chinh phục khu vực. Trên thực tế, không có bằng chứng thuyết phục nào về các mục tiêu như vậy của Trung Quốc.”
Đối lập với những người hoài nghi là những người tin tưởng. Nhóm này bị thuyết phục Trung Quốc có một chiến lược lớn để thay thế Hoa Kỳ ở khu vực và toàn cầu, nhưng họ đã không đưa ra được bằng chứng thuyết phục những người hoài nghi. Trong nội bộ chính phủ, một số quan chức tình báo hàng đầu - bao gồmcả cựu giám đốc tình báo quốc gia Dan Coates - đã tuyên bố công khai “về cơ bản Trung Quốc tìm cách thay thế Hoa Kỳ trở thành cường quốc hàng đầu trên thế giới” nhưng không (hoặc có lẽ không thể) nói rõ thêm, họ cũng không gợi ý mục tiêu này đi kèm với một chiến lược cụ thể.
Bên ngoài chính phủ, chỉ có một số công trình gần đây cố gắng làm cho vụ việc kéo dài. Nổi tiếng nhất là cuốn One Hundred Year Marathon (Cuộc đua 100 năm) của quan chức Lầu Năm Góc Michael Pillsbury, mặc dù nó lập luận hơi cường điệu Trung Quốc đã có một kế hoạch lớn bí mật cho vai trò bá chủ toàn cầu kể từ năm 1949. Nhiều cuốn sách khác đưa ra kết luận tương tự và đúng hơn nhiều, và lẽ ra có thể thuyết phục hơn với cách tiếp cận khoa học xã hội và cơ sở chứng minh phong phú hơn. Một số tác phẩm về đại chiến lược của Trung Quốc có góc nhìn rộng hơn nhấn mạnh quá khứ hoặc tương lai xa xôi, nhưng do đó chúng dành ít thời gian hơn cho khoảng thời gian quan trọng từ thời hậu Chiến tranh Lạnh đến hiện tại vốn là tâm điểm của cạnh tranh Mỹ-Trung. Cuối cùng, một số tác phẩm kết hợp cách tiếp cận thực nghiệm hơn với lập luận cẩn thận và chính xác về chiến lược lớn đương đại của Trung Quốc. Những tác phẩm này tạo nền tảng cho cách tiếp cận của cuốn sách.
Cuốn sách này, dựa trên nghiên cứu của rất nhiều người khác, cũng hy vọng sẽ khác biệt ở những khía cạnh quan trọng. Chúng bao gồm một cách tiếp cận khoa học-xã hội độc đáo để xác định và nghiên cứu chiến lược lớn; một lượng lớn các văn bản tiếng Trung hiếm khi được trích dẫn hoặc trước đây không thể tiếp cận được; một nghiên cứu có hệ thống về các câu đố then chốt trong hành vi quân sự, chính trị và kinh tế của Trung Quốc; và xem xét kỹ các biến định hình việc điều chỉnh chiến lược. Tổng hợp lại, người ta hy vọng cuốn sách sẽ đóng góp vào cuộc tranh luận về Trung Quốc đang nổi lên bằng một phương pháp độc đáo để khám phá một cách có hệ thống và chặt chẽ chiến lược lớn của Trung Quốc.
KHÁM PHÁ CHIẾN LƯỢC LỚN
Thách thức giải mã chiến lược lớn của đối thủ khỏi hành vi khác biệt của nó không phải là một thách thức mới. Trong những năm trước Chiến tranh thế giới thứ nhất, nhà ngoại giao người Anh Eyre Crowe đã viết một “Bản ghi nhớ quan trọng về tình trạng hiện tại của mối quan hệ giữa Anh với Pháp và Đức” dài 20.000 từ nhằm giải thích hành vi trên diện rộng của một nước Đức đang trỗi dậy. Crowe là một nhà quan sát nhạy
bén về quan hệ Anh-Đức. Sinh ra ở Leipzig và được giáo dục ở Berlin và Düsseldorf, Crowe mang dòng máu lai Đức, nói tiếng Anh có trọng âm tiếng Đức và gia nhập Văn phòng Ngoại giao Anh năm 21 tuổi. Trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, gia đình người Anh và người Đức của ông đã chiến tranh với nhau theo đúng nghĩa đen - cháu trai người Anh của ông đã bỏ mạng trên biển trong khi người anh họ người Đức của ông trở thành Tham mưu trưởng Hải quân Đức.
Eyre Crowe
Crowe, người đã viết bản ghi nhớ vào năm 1907, đã tìm cách phân tích một cách có hệ thống các hành vi đối ngoại khác nhau của người Đức, phức tạp và dường như không ăn khớp với nhau, để xác định xemBerlin có một ‘thiết kế vĩ đại’ chạy qua nó hay không và báo cáo với cấp trên của mình những gì có thể. Để “hình thành và chấp nhận một lý thuyết sẽ phù hợp với tất cả các thực tế đã được xác định về chính sách đối ngoại của Đức.”
Giả thuyết đầu tiên của Crowe là Đức không có chiến lược lớn, mà chỉ có cái mà ông gọi là “chính sách mơ hồ, bối rối và không thực tế”. Theo quan điểm này, Crowe đã viết, có thể là “Đức không thực sự biết họ đang lái xe ở đâu, và tất cả các chuyến du ngoạn, tất cả những âm mưu thâm độc của họ không tuân theo một hệ thống chính sách cụ thể.” Ngày nay, lập luận này phản ánh những người theo chủ nghĩa hoài nghi cho chính trị quan liêu của Trung Quốc, đấu đá nội bộ, ưu tiên kinh tế và phản ứng theo chủ nghĩa dân tộc, tất cả đều ngăn cản Bắc Kinh xây dựng hoặc thực hiện một chiến lược tổng thể.
Giả thuyết thứ hai của Crowe là các yếu tố quan trọng trong hành vi của người Đức đã được phối hợp với nhau thông qua một chiến lược lớn “nhằm mục đích thiết lập một quyền bá chủ của Đức, lúc đầu ở châu Âu
và cuối cùng là trên thế giới”. Crowe cuối cùng đã tán thành một phiên bản thận trọng hơn của giả thuyết này, và ông kết luận chiến lược của Đức “bắt nguồn từ vị trí tương đối của hai nước”, và Berlin không hài lòng trước viễn cảnh phải tiếp tục chịu sự phục tùng London. Lập luận này phản ánh vị trí của những người tin tưởng vào đại chiến lược của Trung Quốc. Nó cũng giống với lập luận của cuốn sách này: Trung Quốc đã theo đuổi nhiều chiến lược khác nhau để thay thế Hoa Kỳ ở cấp độ khu vực và toàn cầu, về cơ bản được thúc đẩy bởi vị trí thấp hơn của họ với Washington.
Thực tế là các câu hỏi mà bản ghi nhớ Crowe khám phá có một điểm tương đồng nổi bật với những câu hỏi mà chúng ta đang đối mặt ngày nay đã không bị các quan chức Hoa Kỳ đánh mất. Henry Kissinger trích dẫn nó trong On China (Bàn về Trung Quốc). Max Baucus, cựu đại sứ Hoa Kỳ tại Trung Quốc, thường xuyên đề cập đến bản ghi nhớ với những người đối thoại Trung Quốc của ông như một cách hỏi thăm về chiến lược của Trung Quốc.
Bản ghi nhớ của Crowe có một di sản hỗn hợp, với những đánh giá đương thời được phân chia về việc liệu ông có đúng về nước Đức hay không. Tuy nhiên, nhiệm vụ mà Crowe đặt ra vẫn rất quan trọng và không kém phần khó khăn cho đến ngày nay, đặc biệt vì Trung Quốc là ‘mục tiêu khó khăn’ cho việc thu thập thông tin. Người ta có thể hy vọng sẽ cải tiến phương pháp của Crowe với một cách tiếp cận chặt chẽ hơn và có thể dựa trên khoa học xã hội. Khi chương tiếp theo thảo luận chi tiết, cuốn sách này lập luận để xác định sự tồn tại, nội dung và sự điều chỉnh của chiến lược lớn của Trung Quốc, các nhà nghiên cứu phải tìm bằng chứng về (1) các khái niệm chiến lược lớn trong các văn bản có thẩm quyền; (2) khả năng chiến lược lớn trong các thể chế an ninh quốc gia; và (3) ứng xử chiến lược lớn trong hành vi của nhà nước. Nếu không có cách tiếp cận như vậy, bất kỳ phân tích nào cũng có nhiều khả năng trở thành nạn nhân của các loại thành kiến tự nhiên trong “nhận thức và nhận thức sai lầm” thường tái diễn trong các đánh giá về các quyền lực khác.
| 1 |
SỰ THỐNG NHẤT VỀ SUY NGHĨ VÀ HÀNH ĐỘNG
“Chúng ta là một quốc gia đặc biệt. Chúng ta có xu hướng nghĩ một vấn đề là kinh tế hoặc chính trị hoặc quân sự... Thật khó cho chúng ta hiểu chúng ta phải có khả năng thực hiện đồng thời cả quân sự và chính trị và kinh tế... ” Henry Kissinger, 1958.
CHIẾN LƯỢC VĨ ĐẠI VÀ MỆNH LỆNH BÁ CHỦ
Ba trăm năm trước, ‘chiến lược ngôn từ’ sẽ tạo ra những cái nhìn trống rỗng từ các chính khách trên khắp châu Âu và châu Mỹ vì một lý do đơn giản: nó không tồn tại. Từ tương tự gần nhất là từ ‘chiến lược’ bị lãng quên trong một vài văn bản cổ của Hy Lạp, và từ đó được gọi hẹp là “phương tiện mà tướng quân có thể bảo vệ vùng đất và đánh bại kẻ thù của mình.” Mãi cho đến khi một người lính và học giả người Pháp dịch một luận thuyết quân sự cũ của Byzantine vào thế kỷ mười tám, từ này mới xuất hiện trở lại và mang
một ý nghĩa rộng rãi hơn ở phương Tây. Giờ đây, chiến lược và người anh em họ của nó, đại chiến lược, đã trở nên không thể thiếu khi suy nghĩ về chính trị thế giới - ngay cả khi các định nghĩa vẫn còn khó nắmbắt.
Các khái niệm ‘đại chiến lược’ và ‘trật tự thế giới’ là trung tâm lập luận của cuốn sách này, đó là Trung Quốc đã sử dụng cái trước để thay thế vị trí lãnh đạo của Mỹ so với cái sau. Để đặt nền tảng cho lập luận, chương này khám phá cả hai khái niệm qua ba phần ngắn. Đầu tiên, nó tìm cách giải thích chiến lược lớn là gì và cách tìm ra nó. Thứ hai, nó khám phá trật tự thế giới là gì và tại sao nó lại là trung tâm của sự cạnh tranh giữa Mỹ và Trung Quốc. Cuối cùng, đặt câu hỏi những cường quốc đang lên có thể sử dụng những chiến lược lớn nào để định hình trật tự và những biến số nào có thể khiến họ chuyển từ chiến lược này sang chiến lược khác.
TÌM HIỂU CHIẾN LƯỢC LỚN
Chiến lược lớn là gì? Thuật ngữ này là “một trong những thuật ngữ trơn trượt nhất và bị lạm dụng rộng rãi nhất trong từ điển chính sách đối ngoại”, giáo sư Hal Brands của Johns Hopkins lưu ý. Người ta hạn chế chiến lược lớn chỉ tập trung vào các phương tiện quân sự, điều này là có vấn đề vì nó chuyển ‘đại chiến lược’ thành ‘chiến lược quân sự’ và bỏ qua các công cụ kinh tế và chính trị. Cách khác định nghĩa chiến lược lớn là việc sử dụng bất kỳ phương tiện nào để đạt được bất kỳ mục đích nào, nhưng điều này làm cho chiến lược lớn không khác gì chính chiến lược.
Một cách tiếp cận tốt hơn — một phương pháp giữ cho ‘chiến lược lớn’ trở thành một khái niệm đặc biệt — là xem nó như một lý thuyết bảo mật tích hợp. An ninh được định nghĩa ở đây là “chủ quyền [tức là tự do điều động hoặc tự chủ], an toàn, toàn vẹn lãnh thổ và vị thế quyền lực — phương tiện cuối cùng là cần thiết cho ba phương tiện đầu tiên.” Đại chiến lược là lý thuyết của một quốc gia về cách nó có thể đạt được những mục đích liên quan đến an ninh cho chính nó được cố ý phối hợp và thực hiện trên nhiều phương tiện, chẳng hạn như các công cụ quân sự, kinh tế và chính trị.
Định nghĩa này cũng bắt nguồn từ sự tiến hóa lịch sử của thuật ngữ trong hai thế kỷ qua. Khi các nhà chiến lược và học giả theo dõi sự xuất hiện của nhà nước công nghiệp hiện đại và bộ năng lực và công cụ nhân lên của nó — từ thời Napoléon cho đến thời đại của tàu hơi nước và trong các cuộc chiến tổng lực của thế kỷ XX — họ cũng dần dần mở rộng quan niệm của mình về các phương tiện của chiến lược lớn từ quân sự đến các công cụ khác ngay cả khi họ tiếp tục coi sự kết thúc của chiến lược lớn là nền tảng cho an ninh, đi đến một định nghĩa tương tự như định nghĩa được sử dụng ở đây.
Làm thế nào chúng ta có thể thần thánh hóa chiến lược lớn của Trung Quốc khỏi hành vi dường như rời rạc của nó? Như phần Vào Đề đã lưu ý, đây không phải là một thách thức hoàn toàn mới. Năm 1907, nhà ngoại giao người Anh Eyre Crowe đã viết một bản ghi nhớ dài và có ảnh hưởng nhằm cố gắng giải thích hành vi trên phạm vi rộng của một nước Đức đang trỗi dậy. Mặc dù bản ghi nhớ của Crowe vẫn còn được tranh luận cho đến ngày nay, nhưng nó đã cung cấp một nền tảng hữu ích để nghiên cứu chiến lược lớn mà chúng ta có thể cải tiến với một cách tiếp cận chặt chẽ hơn và có thể suy luận được dựa trên khoa học xã hội.
Crowe lập luận chiến lược của Đức có thể “được suy ra từ lịch sử của nó, từ những phát ngôn và thiết kế đã biết của những người cai trị và chính khách của nó” và từ “những sự kiện xác thực về hành vi của người Đức” - nghĩa là, văn bản và hành vi. Crowe nhấn mạnh vào hai yếu tố này, chúng tôi có thể thêm một yếu tố nữa — các thể chế an ninh quốc gia. Kết hợp các cách tiếp cận này lại với nhau sẽ tập trung vào ba yếu tố. Các nhà nước phải có một tập hợp:
(1) các khái niệm chiến lược lớn về các mục đích, cách thức và phương tiện của chiến lược phù hợp với nhau như thế nào;
(2) khả năng chiến lược lớn trong các thể chế an ninh quốc gia để phối hợp các công cụ pháp chế đa dạng nhằm theo đuổi lợi ích quốc gia đối với các cơ quan quốc gia; (3) hành vi chiến lược lớn cuối cùng phù hợp với các khái niệm chiến lược của một nhà nước.
Giải pháp thay thế cho các tiêu chí khắt khe này để xác định chiến lược lớn là áp dụng cách tiếp cận “biết ngay khi bạn thấy” phổ biến nhưng có nguy cơ chẩn đoán sai, có thể nguy hiểm nếu nó ảnh hưởng đến chính sách. Để xác định liệu các tiêu chí trước có được đáp ứng hay không, cần phải tập trung vào khoa học xã hội ở ba yếu tố: các văn bản chứa đựng các khái niệm chiến lược lớn; các thể chế chứng minh năng lực chiến lược lớn; và hành vi thuyết phục về chiến lược lớn.
Đối với các văn bản, nền tảng cốt lõi của cuốn sách là tập trung vào các tài liệu có thẩm quyền thông qua cơ sở dữ liệu gốc và được số hóa đầy đủ các tài liệu của Đảng Cộng sản bằng tiếng Trung Quốc được cá nhân khai quật trong ba năm qua từ các thư viện; hiệu sách ở Đài Loan, Hồng Kông và Trung Quốc đại lục; và các trang thương mại điện tử của Trung Quốc. Các văn bản này không chỉ cung cấp cái nhìn sâu sắc về các khái niệm chiến lược lớn, mà còn đề cập đến các khả năng chiến lược lớn bằng cách nêu bật cách thức hoạt động của các thể chế, cũng như về tiến hành chiến lược lớn bằng cách chỉ ra lý do tại sao các quyết định được thực hiện.
Điều này dẫn đến phương pháp chính thứ hai. Ngoài các văn bản, cuốn sách tập trung vào các thể chế an ninh quốc gia của Trung Quốc như bằng chứng về khả năng chiến lược lớn của Trung Quốc. Một số cơ quan chủ chốt của Đảng trong chính sách đối ngoại — Văn phòng Tổng Bí thư, Ban Thường vụ Bộ Chính trị, Các Nhóm nhỏ Lãnh đạo (nay gọi là Ủy ban Trung ương) và Quân ủy Trung ương — hầu như không công bố trực tiếp gì và rất khó để nghiên cứu. bí mật xung quanh hoạt động của họ. Đôi khi các văn bản khác nhau của Đảng — bao gồm hồi ký, tác phẩm chọn lọc, bản tóm tắt và tài liệu đọc — có thể cung cấp những hiểu biết quan trọng, hạn chế về các bài phát biểu, quyết định, các buổi nghiên cứu và tranh luận chính trong các cơ sở này. Và những điều này lại cung cấp cái nhìn sâu sắc về chiến lược lớn của Trung Quốc.
Cuối cùng, phương pháp thứ ba xem xét hành vi. Như Crowe đã quan sát, các cường quốc thực hiện một loạt các hoạt động trên mọi miền. Không phải lúc nào cũng dễ dàng tách tín hiệu và nhiễu và xác định đâu là động cơ chiến lược. Trước thách thức này, một cách tiếp cận khoa học-xã hội có thể hữu ích. Các học giả có thể xem xét hành vi quân sự, kinh tế và chính trị; xác định xem hành vi khó hiểu trong mỗi lĩnh vực có được giải thích tốt nhất thông qua logic chiến lược lớn hay không; tìm kiếm sự thay đổi đồng bộ giữa các lĩnh vực chính sách làm bằng chứng cho sự phối hợp; và tham khảo các văn bản của Đảng để hiểu tại sao Trung Quốc lại hành động theo cách họ đã làm. Những nỗ lực này làm sáng tỏ hành vi chiến lược lớn của Trung Quốc.
Tổng hợp lại, cách tiếp cận trước đây đưa ra một số câu hỏi chính quan trọng để xác định chiến lược lớn của Trung Quốc được liệt kê trong Bảng 1.1. Giáo sư Barry Posen của Học viện Công nghệ Massachusetts từng nói để tìm ra chiến lược lớn, chúng ta phải tìm kiếm “một hệ thống suy nghĩ và hành động thống nhất”, và các câu hỏi dưới đây cấu trúc việc tìm kiếm nó.
Bảng 1.1 Các câu hỏi để xác định chiến lược lớn:
1. Có quan điểm nhất quán về mối đe dọa an ninh nào, trong số tất cả những mối đe dọa mà một quốc gia phải đối mặt, là quan trọng nhất hoặc cơ bản nhất không?
2. Có một tập hợp các ý tưởng nhất quán về cách giải quyết những mối đe dọa cơ bản hoặc quan trọng đó trong các văn bản cốt lõi không?
3. Có lý thuyết nào về vai trò của mỗi phương tiện chính của quy chế trong việc giải quyết một mối đe dọa an ninh nhất định trong các văn bản cốt lõi không?
4. Chúng ta có bằng chứng cho thấy các nhà hoạch định chính sách có các thể chế quan liêu mà họ có thể sử dụng để phối hợp nhiều công cụ của quy chế không?
5. Các thể chế chính sách đối ngoại và nhà nước rộng hơn có mức độ tự chủ đối với xã hội và các lực lượng trong nước khác nhau có thể thay thế chiến lược lớn không?
6. Sự thay đổi bên trong Ý nghĩa: Liệu lý thuyết của chúng ta về chiến lược lớn của một quốc gia nhất định có giải thích sự thay đổi trong hành vi trong các lĩnh vực chính sách cụ thể tốt hơn các lý thuyết phổ biến về hành vi của nhà nước trong các lĩnh vực đó không?
7. Sự khác biệt giữa các phương tiện: Liệu lý thuyết của chúng ta về chiến lược lớn của một quốc gia nhất định không áp dụng cho một mà cho nhiều lĩnh vực chính sách, chẳng hạn như lĩnh vực quân sự, kinh tế và chính trị?
8. Khi chiến lược lớn thay đổi, chúng ta có thấy những thay đổi trong hành vi được đồng bộ hóa trên từng phương tiện trong ba phương tiện của statecraft (nghệ thuật quản lý nhà nước) không?
Hơn nữa, những câu hỏi này không chỉ hỗ trợ trong việc xác định liệu một chiến lược lớn có tồn tại hay không, mà còn giúp xác định nó là gì cũng như khi nào và tại sao nó thay đổi. Chiến lược lớn là rất hiếmvà những thay đổi trong chiến lược lớn còn hiếm hơn. Như học giả Daniel Drezner của Đại học Tufts lưu ý, thay đổi chiến lược lớn “giống như cố gắng bắt tàu sân bay quay đầu lại: tốt nhất là nó diễn ra từ từ”, để “chiến lược lớn là một hằng số thay vì một biến số.” “Tính kiên định” của chiến lược lớn của một quốc gia xuất phát từ cả yếu tố tâm lý và tổ chức. Nghiên cứu tâm lý học cho thấy “mọi người không dễ dàng thay đổi niềm tin của họ về thế giới và không dễ dàng đối mặt với những sai lầm của chính mình,” và “một khi họ đã cam kết với một quan điểm, nhận định hoặc hành động cụ thể, rất khó để họ thay đổi ý định.” Nghiên cứu về tổ chức cho thấy “những hạn chế về nguồn lực, chi phí giao dịch, chính trị nội bộ và môi trường trong nước mà tổ chức hoạt động”, kết hợp với các quy tắc chính thức và quy trình hoạt động tiêu chuẩn, cùng nhau giúp giải thích “tại sao các nhà ra quyết định thường sẽ cảm thấy áp lực để không đi lệch hoàn toàn khỏi hiện trạng.” Cùng với nhau, những yếu tố này đóng vai trò quan trọng trong chiến lược lớn.
Nếu các chiến lược lớn là ‘kết dính’, thì điều gì khiến chúng thay đổi? Cuốn sách này lập luận các chiến lược lớn phụ thuộc vào nhận thức về quyền lực và mối đe dọa, và sự thay đổi trong nhận thức này “được thúc đẩy nhiều hơn bởi các sự kiện, đặc biệt là các cú sốc, hơn là các biện pháp thống kê” như thay đổi dần tỷ lệ tăng trưởng GDP hoặc quy mô hạm đội. Bằng cách so sánh các mô tả về sức mạnh và mối đe dọa trong các văn bản của Trung Quốc trước và sau các cú sốc chính sách đối ngoại — chẳng hạn như Thảmsát Quảng trường Thiên An Môn, Chiến tranh vùng Vịnh, sự sụp đổ của Liên Xô và Khủng hoảng Tài chính Toàn cầu, cùng những thứ khác — người ta có thể xác định liệu nhận thức về quyền lực và mối đe dọa có thay đổi hay không và tạo ra sự điều chỉnh chiến lược.
TRANH LUẬN VỀ TRẬT TỰ
Khi sự cạnh tranh giữa Mỹ và Trung Quốc gia tăng trong vài năm qua, một số nhà hoạch định chính sách và học giả đã thường xuyên quay lại câu hỏi tương tự: “Sự cạnh tranh này là gì?” Cuốn sách này lập luận khi cạnh tranh Mỹ-Trung kết thúc, ai sẽ là người dẫn đầu trật tự khu vực và toàn cầu.
Mặc dù các học giả quan hệ quốc tế thường cho thế giới là hỗn loạn, nhưng thực tế là nó thường có thứ bậc, với một số quốc gia thực hiện quyền lực đối với các quốc gia khác. Số lượng, phạm vi và mật độ của các mối quan hệ thứ bậc tạo ra trật tự, hay “Các quy tắc và sự sắp xếp được dàn xếp giữa các nước” có
thể chi phối cả hành vi bên ngoài và bên trong của họ. Trong một trật tự bá quyền, nhà nước ưu việt “huy động sự lãnh đạo của mình” trên đầu hệ thống phân cấp để cấu trúc mối quan hệ giữa các nước và bên trong họ. Bá quyền liên quan đến những gì trước đây giáo sư Princeton Robert Gilpin đã gọi một số ‘hình thức kiểm soát’ của một nước thống trị để điều chỉnh cấp dưới của mình, và sự kiểm soát đó thường bao gồm sự kết hợp của khả năng cưỡng chế (buộc tuân thủ), sự đồng thuận (để khuyến khích nó) và tính hợp pháp (để chỉ huy nó một cách hợp pháp).
Sự ép buộc xuất hiện từ sự đe dọa trừng phạt. Khả năng cưỡng chế có thể xuất phát từ sức mạnh quân sự của một nước hoặc sức mạnh cấu trúc của nó đối với các nguyên tắc chính trong hệ thống, bao gồm tiền tệ, thương mại và công nghệ, v.v. Các thỏa thuận liên quan đến khả năng khuyến khích hoặc thậm chí ‘mua chuộc’ sự hợp tác thông qua các thỏa thuận hoặc dụ dỗ đôi bên cùng có lợi. Nó thường liên quan đến các cơ hội có tiếng nói, đảm bảo an ninh, cung cấp hàng hóa... Cuối cùng, tính hợp pháp là khả năng chỉ huy đơn giản nhờ vào bản sắc hoặc hệ tư tưởng của nhà nước thống trị. Tính hợp pháp có thể xuất phát từ mối quan hệ ý thức hệ, hoặc các nguồn khác và có thể hoạt động như một loại quyền lực. Ví dụ, nhiều thế kỷ trước, Vatican đã có thể chỉ huy các quốc gia chỉ đơn giản là do vai trò thần học của nó. Cùng với nhau, năng lực cưỡng chế, sự đồng thuận và tính hợp pháp bảo đảm sự tôn trọng của các quốc gia trong trật tự.
Sự kết hợp giữa ép buộc, đồng thuận và tính hợp pháp hầu như không đồng nhất và do đó, các mệnh lệnh bá quyền có thể khác nhau về nội dung và phạm vi địa lý của chúng. Một số hình thức trật tự, như đế chế, dựa nhiều hơn vào sự ép buộc; những cái khác, như trật tự tự do của Mỹ, nhấn mạnh đến sự đồng thuận và tính hợp pháp. Hầu hết các trật tự ở một số khu vực mạnh hơn những khu vực khác và cuối cùng hầu hết đều phải đối mặt với những thách thức cạnh tranh có thể khiến chúng thay đổi.
Câu hỏi làm thế nào để thay đổi trật tự là một câu hỏi lâu năm và có liên quan đến ngày nay. Các trật tự bá quyền như Hoa Kỳ dẫn đầu ngày nay được cho là sẽ thay đổi chủ yếu thông qua cuộc chiến tranh giữa các cường quốc quy mô lớn, với các cuộc xung đột như Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc một trật tự và khởi động một trật tự khác. Vì chiến tranh giữa các cường quốc hiện nay ít có khả năng xảy ra hơn so với cuộc cách mạng hạt nhân, một số người lầm tưởng trật tự hiện tại về cơ bản là ổn định. Quan điểm đó làm giảmbản chất của cạnh tranh cường quốc trong thời bình và khả năng chuyển đổi trật tự trong thời gian ngắn của chiến tranh. Các mệnh lệnh có thể thay đổi một cách hòa bình khi các hình thức kiểm soát của chúng — khả năng cưỡng chế, sự đồng thuận và tính hợp pháp — bị suy giảm và chúng có thể tăng cường khi các hình thức kiểm soát này được củng cố. Các quá trình này có thể xảy ra dần dần hoặc tất cả cùng một lúc, nhưng giống như sự sụp đổ tương đối hòa bình của Liên Xô, chúng không cần phải có chiến tranh.
CÁC CHIẾN LƯỢC DỊCH CHUYỂN
Làm thế nào mà một cường quốc đang lên như Trung Quốc lại có thể tìm cách thay thế một siêu cường đã được thiết lập như Hoa Kỳ trong thời gian thiếu chiến tranh? để củng cố và làm suy yếu các hình thức kiểmsoát này. Theo đó, các quốc gia đang trỗi dậy như Trung Quốc có thể thay thế các cường quốc bá quyền như Hoa Kỳ một cách hòa bình thông qua hai chiến lược rộng rãi thường được theo đuổi theo trình tự:
I. Đầu tiên là làm giảm việc thực thi các hình thức kiểm soát của bá quyền, đặc biệt là những hình thức kiểm soát được mở rộng trên trạng thái đang trỗi dậy; xét cho cùng, không một quốc gia trỗi dậy nào có thể thay thế bá chủ nếu phần lớn vẫn nằm trong sự kiểm soát của bá chủ.
II. Thứ hai là xây dựng các hình thức kiểm soát đối với những người khác, cũng như nền tảng cho các thỏa thuận đồng thuận và tính hợp pháp; thực sự, không một quốc gia đang trỗi dậy nào có thể trở thành bá chủ nếu nó không thể hạn chế quyền tự quyết của những người khác hoặc lôi kéo họ bằng những thỏa thuận đồng thuận và tính hợp pháp để đảm bảo họ tuân theo sở thích của quốc gia đang trỗi dậy.
Đối với các cường quốc đang lên, quyết định triển khai các chiến lược lớn này diễn ra dưới bóng dáng của quyền lực và ảnh hưởng của bá quyền, điều này mang lại rủi ro đáng kể. Một cường quốc đang lên công khai theo đuổi việc xây dựng trật tự quá sớm có thể khiến bá chủ can thiệp vào khu vực của cường quốc đang lên, tập hợp các nước láng giềng của cường quốc đang lên để bao vây hoặc cắt đứt sức mạnh đang lên. Vì những lý do này, các chiến lược cắt giảm nhằm tìm cách làm suy yếu trật tự của bá chủ thường thực hiện trước khi xây dựng trật tự của một cường quốc đang lên. Hơn nữa, cả hai chiến lược thường được theo đuổi ở cấp khu vực trước khi một cường quốc đang trỗi dậy chuyển sang chiến lược thứ ba, mở rộng toàn cầu, bao gồm cả việc cắt giảm và xây dựng ở cấp độ toàn cầu để thay thế trật tự cũ.
Khi nào một quyền lực có thể theo đuổi sự bành trướng? Trong khi một số học giả như giáo sư John Mearsheimer của Đại học Chicago cho một cường quốc đang trỗi dậy như Trung Quốc trước tiên phải đạt được quyền bá chủ trong khu vực trước khi theo đuổi tham vọng toàn cầu rộng lớn hơn, tiêu chí này có lẽ quá hẹp. Như các học giả khác như cựu giáo sư Princeton Robert Gilpin sẽ tranh luận, một sự trỗi dậy quyền lực thiếu quyền bá chủ khu vực vẫn có thể thách thức bá chủ toàn cầu thông qua các ‘hình thức kiểmsoát’ xuyên suốt để duy trì trật tự bá chủ toàn cầu của nó, chẳng hạn như kinh tế, tài chính, công nghệ và thông tin. Đức đã thách thức sự thống trị toàn cầu của Anh trong các lĩnh vực này trước Chiến tranh thế giới thứ nhất mặc dù không có quyền bá chủ khu vực ở châu Âu, và Trung Quốc dường như cũng đang làmnhư vậy ngày nay.
Một số người có thể nghi ngờ một quốc gia đang trỗi dậy như Trung Quốc sẽ làm bất kỳ điều gì trong số này, nhưng các cường quốc đang lên — giống như hầu hết các quốc gia — nói chung là theo chủ nghĩa xét lại. Một số người có thể coi đây là một tuyên bố gây tranh cãi, nhưng giả định khá khiêm tốn rằng hầu hết các quốc gia đều có suy nghĩ riêng của họ về cách thức hoạt động của trật tự khu vực và toàn cầu và sẽ hành động để hiện thực hóa chúng nếu chi phí làm như vậy thấp không có gì đáng ngạc nhiên. Thật vậy, khi chi phí thấp, các cường quốc thể hiện cái mà chúng ta có thể gọi là ‘sự trôi dạt bá chủ’ để xây dựng trật tự trong khu vực lân cận của một người hoặc nơi khác. Ngay cả khi Hoa Kỳ miễn cưỡng hoạt động như một cường quốc ở nước ngoài vào thế kỷ 19, nước này vẫn tiến tới việc thực hiện quyền bá chủ ở Tây Bán cầu. Câu hỏi quan trọng không phải là liệu các quốc gia đang trỗi dậy có sở thích thay thế đối với trật tự hay không mà thay vào đó là liệu họ chọn hành động như thế nào, khi nào và như thế nào.
Bởi vì bá quyền chiếm ưu thế lớn nhất trong các tính toán chiến lược của một cường quốc đang lên, cuốn sách này lập luận lựa chọn ‘sửa đổi’ trật tự dựa trên nhận thức về bá chủ. Hai biến số cực kỳ quan trọng: (1) quy mô của khoảng cách quyền lực tương đối được nhận thức với một bá quyền bên ngoài, nói chung về năng lực của bá chủ trong việc làm tổn hại đến lợi ích của cường quốc đang lên; và (2) mối đe dọa nhận thức được từ bá quyền bên ngoài. Việc xác định các biến số này một cách trực quan là rất quan trọng vì những gì liên quan nhất đến việc xây dựng chiến lược không phải là thước đo khách quan của quyền lực và mối đe dọa (khó nắm bắt trong mọi trường hợp) mà thay vào đó là đánh giá của chính nhà nước về sức mạnh và mối đe dọa của đối thủ. Để đơn giản, cả hai biến này được hiển thị trong Bảng 1.2 là cao hoặc thấp. Cuối cùng, trong khi cắt giảm và xây dựng các chiến lược để sửa đổi trật tự, các cường quốc cũng có thể theo đuổi các chiến lược khác, các định nghĩa sẽ theo sau.
Bảng 1.2 Các chiến lược lớn của các cường quốc đối với Trật tự bá chủ:
Thứ nhất, khi cường quốc xem bá chủ mạnh hơn nhiều nhưng không đe dọa đặc biệt, thì cường quốc có xu hướng phù hợp với trật tự bá chủ ngay cả khi sở thích của chính nó khác với sở thích của bá chủ bên ngoài. Nó có thể được thúc đẩy bởi mong muốn tránh biến bá chủ bên ngoài thành một thế lực thù địch hoặc thu lợi từ quan hệ đối tác với bá chủ chống lại bên thứ ba. Theo đó, một cường quốc đang lên có thể dung túng hoặc thậm chí hỗ trợ sự hiện diện quân sự trong khu vực của một bá chủ, lãnh đạo các tổ chức khu vực và
tài trợ cho các sáng kiến kinh tế khu vực. Một ví dụ của chiến lược này là việc Ấn Độ tiếp cận Hoa Kỳ ở Nam Á vì nước này coi Hoa Kỳ là mạnh mẽ, không đe dọa đặc biệt và hữu ích đối với Trung Quốc. Một nguyên nhân khác có thể là chính sách của Trung Quốc đối với Hoa Kỳ trong những năm 1980.
Thứ hai, khi một cường quốc đang lên nghĩ bá chủ mạnh hơn nhiều và đe dọa, thì cường quốc đang lên sẽ theo đuổi một chiến lược phản công nhắm vào các hình thức kiểm soát của bá quyền — ép buộc, đồng ý và hợp pháp — ở khu vực hoặc toàn cầu. Trong kịch bản này, quốc gia đang trỗi dậy không thể chống lại một bá chủ mà nó coi là đe dọa cũng như không thể chống lại một cách công khai một bá chủ mà nó coi là mạnh mẽ, buộc cường quốc đang lên phải dùng đến ‘vũ khí của kẻ yếu’ để làm mất đi đòn bẩy của bá chủ. Nó có thể theo đuổi các khả năng quân sự phòng thủ để ngăn chặn bá chủ can thiệp vào khu vực trong khi tránh né các khả năng có thể báo động các nước láng giềng đang trỗi dậy và kích hoạt bao vây; về mặt chính trị, nó có thể tìm cách giảm bớt vai trò bá chủ bên ngoài trong các cơ quan khu vực; và về mặt kinh tế, nó có thể tìm cách bảo vệ mình khỏi việc sử dụng quy chế kinh tế của bá chủ. Trung Quốc đã theo đuổi một phiên bản của chiến lược này trong suốt những năm 1990 cho đến khoảng năm 2008.
Thứ ba, khi một cường quốc đang lên nghĩ bá chủ bên ngoài chỉ mạnh hơn mình một cách khiêm tốn nhưng vẫn rất đe dọa, cường quốc đang lên sẽ theo đuổi chiến lược xây dựng để tạo nền tảng cho trật tự của chính mình bằng cách đầu tư vào các hình thức kiểm soát của riêng mình - khả năng cưỡng chế, sự đồng thuận và tính hợp pháp. Cường quốc đang trỗi dậy đủ mạnh để chấp nhận nguy cơ chống đối bá chủ nhưng không mạnh đến mức có thể tự do thống trị khu vực của mình vì làm như vậy có thể tạo ra sơ hở cho bá chủ bên ngoài. Ở cấp độ quân sự, nó có thể theo đuổi các khả năng cho phép cưỡng chế, can thiệp, phóng chiếu quyền lực và kiểm soát (thay vì từ chối) trên bộ, trên không và trên biển; về mặt chính trị, nó có thể thiết lập các thể chế mới để điều hành khu vực và gạt bỏ quyền bá chủ; và về mặt kinh tế, nó có thể cố tình nuôi dưỡng sự phụ thuộc lẫn nhau không đối xứng có vẻ có lợi nhưng thực tế lại hạn chế những người khác. Những nỗ lực này thậm chí có thể giống với các loại chiến lược xây dựng trật tự tự do mà các học giả như giáo sư John Ikenberry của Princeton tin rằng đảm bảo sự đồng ý của các quốc gia yếu hơn và tránh sự cân bằng. Và khi được thực hiện thành công ở khu vực quen thuộc của một nước, họ có thể cho phép cường quốc đang lên theo đuổi việc mở rộng ở cấp độ toàn cầu. Trung Quốc đã theo đuổi chiến lược này từ năm2008 trở đi và nó đã hình thành nền tảng cho chiến lược mở rộng mà họ theo đuổi sau năm 2016.
Thứ tư, khi một cường quốc đang lên nghĩ bá chủ bên ngoài chỉ mạnh hơn một chút và không có tính chất đe dọa đặc biệt, thì cường quốc đang lên có quyền tự do hơn trong việc theo đuổi sự thống trị đối với những người khác trong trật tự vì họ không quan tâm đến những nỗ lực xây dựng trật tự của đối thủ hoặc sự can thiệp của bá quyền. Mặc dù việc xây dựng có thể bao gồm sự kết hợp giữa cưỡng chế và sự đồng thuận, nhưng sự thống trị có thể làm quá tải các công cụ cưỡng chế do thiếu thách thức hoặc có thể có liên minh cân bằng. Về mặt quân sự, một quốc gia đang trỗi dậy có thể triển khai lực lượng thường xuyên hơn; về mặt chính trị, nó có thể tạo ra các quy tắc và chuẩn mực để ‘khóa chặt’ các lợi ích của quốc gia đang lên và làm suy yếu tất cả các thể chế cạnh tranh; và về mặt kinh tế, nó có thể theo đuổi việc khai thác ngoài việc nuôi dưỡng sự phụ thuộc lẫn nhau không đối xứng. Chiến lược của Hoa Kỳ ở Mỹ Latinh trong cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, khi sức mạnh tương đối của châu Âu còn thấp và khi các mối đe dọa của châu Âu ở Mỹ Latinh ít nghiêm trọng hơn so với những thập kỷ trước, có thể là một ví dụ cho chiến lược này.
Bốn chiến lược này thường xảy ra tuần tự để tiến tới vị trí thống trị, nhưng vẫn có những ngoại lệ: một nước có thể chuyển từ đối đầu đến nhượng bộ khi hợp nhất với bá quyền bên ngoài; hoặc ngược lại nếu một bá chủ lành tính được coi là đã suy yếu.
Trong trường hợp của Trung Quốc, trình tự thông thường dường như đã hoạt động hiệu quả: Trung Quốc ban đầu chấp nhận một Hoa Kỳ hùng mạnh nhưng không đe dọa sau khi bình thường hóa; tìm cách bác bỏ
điều này sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc khiến nước này thấy Hoa Kỳ là mối đe dọa nhiều hơn; bắt đầu xây dựng trật tự của riêng mình sau cuộc Khủng hoảng Tài chính Toàn cầu khi nước này thấy Hoa Kỳ đang suy yếu; và có thể theo đuổi sự thống trị trong khu vực nếu Hoa Kỳ chấp nhận hoặc bị đánh bại trong một cuộc xung đột khu vực. Phần lớn lý thuyết, thực tiễn và bằng chứng thực nghiệm về đại chiến lược này của Trung Quốc gắn liền với Đảng Cộng sản Trung Quốc cùng thế giới quan và tổ chức của Đảng. Giờ đây, chúng ta hướng tới thể chế đó và vai trò của chủ nghĩa dân tộc và chủ nghĩa Lenin trong việc định hình Đảng, và đến lượt nó, chiến lược lớn của Trung Quốc.
| 2 |
ĐẢNG LÃNH ĐẠO MỌI THỨ
“Liên Xô có thể làm được điều gì đó chỉ sau một cuộc họp Bộ Chính trị. Người Mỹ có thể làm được điều đó không?” Đặng Tiểu Bình, nói với Bộ Chính trị Trung Quốc, đầu những năm 1980.
CHỦ NGHĨA DÂN TỘC, LENIN VÀ ĐẢNG CỘNG SẢN TRUNG QUỐC
Vào tháng 6 năm 1987, nhà lãnh đạo trên thực tế của Trung Quốc là Đặng Tiểu Bình đang họp với các quan chức Nam Tư, và ông ấy đã rất lo lắng. Trung Quốc đang trong giai đoạn ‘cải cách và mở cửa’, một loạt các cải cách thị trường thúc đẩy nền kinh tế Trung Quốc tiến lên và cuối cùng đặt nền tảng cho sự vươn lên vị thế siêu cường. Nhưng cuộc hành trình còn lâu mới suôn sẻ. Một vài tháng trước đó, Trung Quốc đã phải đối mặt với một số bất ổn chính trị và tình trạng bất ổn tồi tệ nhất kể từ Cách mạng Văn hóa.
Cách mạng Văn hóa là một phong trào chính trị xã hội tại Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa diễn ra trong 10 năm từ tháng 5 năm 1966 tới tháng 10 năm 1976, gây tác động rộng lớn và sâu sắc lên mọi mặt của cuộc sống chính trị, văn hóa, xã hội ở Hoa lục. Ngoài ra, cuộc cách mạng đã làm thay đổi quan niệm xã hội, chính trị, và đạo đức của quốc gia một cách sâu sắc và toàn diện. Tuy nhiên, phong trào cũng gây ra những vụ bạo động, sự hỗn loạn và tổn thất lớn, nên nó cũng được gọi là ‘10 năm hỗn loạn’, ‘10 năm thảm họa’; Thập niên động loạn, thập niên hạo kiếp.
Cuộc cách mạng được Mao Trạch Đông khởi xướng và lãnh đạo từ ngày 16 tháng 5 năm 1966, với mục tiêu chính thức là “đấu tranh với giai cấp tư sản trong lĩnh vực tư tưởng và sử dụng những tư tưởng và lề thói mới của giai cấp vô sản để thay đổi diện mạo tinh thần của toàn bộ xã hội.” Tuy nhiên, mục đích chính
của cách mạng được một số người cho là một cách để Mao Trạch Đông lấy lại quyền kiểm soát Đảng Cộng sản Trung Quốc sau cuộc Đại nhảy vọt thất bại dẫn đến sự tổn thất uy tín đáng kể của Mao Trạch Đông trước những lãnh đạo bất đồng ý kiến như Lưu Thiếu Kỳ, Đặng Tiểu Bình, Bành Đức Hoài...
Trong cuộc họp của mình, tâm trí của Đặng liên tục hướng về tình hình chính trị của Trung Quốc, và ông thường rời xa cuộc nói chuyện về cải cách kinh tế và thay vào đó đề cập đến lợi ích của nhà nước theo chủ nghĩa Lenin đối với việc hoạch định chính sách. “Một trong những ưu điểm lớn nhất của các hệ thống theo chủ nghĩa Lenin,” ông nói với các vị khách của mình, “đó là, điều gì đó đã được quyết định và một giải pháp đã được đưa ra, nó có thể được thực hiện ngay lập tức mà không có bất kỳ hạn chế nào.” Không giống như người Mỹ, ông tuyên bố, “hiệu quả của chúng tôi cao hơn; chúng tôi thực hiện mọi thứ ngay khi chúng tôi đã quyết định... Đó là sức mạnh của chúng tôi, và chúng tôi phải giữ được lợi thế này.” Cố vấn khéo léo của Đặng, Triệu Tử Dương, lưu ý nhiều năm sau ông Đặng sẽ trở lại thời điểm này trong suốt quá trình lãnh đạo của mình: “Ông Đặng coi một hệ thống không có hạn chế hoặc kiểm tra và cân bằng, và tập trung quyền lực tuyệt đối, là lợi thế tổng thể của chúng tôi... ông ấy tôn thờ sự tập trung cao độ của quyền lực và chế độ độc tài.”
Mối tình của Đặng với chủ nghĩa Lenin đã bắt đầu khoảng sáu mươi năm trước đó. Giống như rất nhiều người cộng sản Trung Quốc cùng thế hệ, Đặng đã tham gia chính trường thông qua chủ nghĩa dân tộc. Ông đã tham gia vào phong trào sôi nổi ngày 4 tháng 5 và đi đến Pháp để tìm hiểu, theo cách nói của ông, cách ‘cứu Trung Quốc’. với chủ nghĩa Lenin. Sau khi gia nhập tổ chức cộng sản ở Pháp, Đặng nhập học ở những năm đầu hai mươi tại Đại học Tôn Trung Sơn ở Moscow, nơi ông học lý thuyết và thực hành về xây dựng và tổ chức đảng theo chủ nghĩa Lenin. “Quyền lực tập trung chảy từ trên xuống,” ông viết trong một bài luận vào thời điểm đó về lý do tại sao nền dân chủ không phù hợp với Trung Quốc và Nga; “Nhất thiết phải tuân theo các chỉ thị của lãnh đạo.” Như nhà khoa học chính trị Lucian Pye của MIT đã nhận xét, thông qua những kinh nghiệm này và những kinh nghiệm khác, “Đặng đã được xã hội hóa để trở thành một người theo chủ nghĩa Lenin thực sự” nhằm duy trì “sự toàn vẹn của tổ chức, và do đó độc quyền về quyền lực của Đảng.” Và Đặng hầu như không đơn độc trong việc ‘tôn thờ’ chủ nghĩa Lenin, như cố vấn Triệu của ông đã nói. Những người theo chủ nghĩa dân tộc hàng đầu khác, bao gồm cả Tôn Trung Sơn và người kế nhiệm ông là Tưởng Giới Thạch, cũng áp dụng các giới luật tương tự của chủ nghĩa Lenin. Đối với ông Đặng, chủ nghĩa Lenin là phương tiện để họ đạt được tầm nhìn về một Trung Quốc giàu có và hùng mạnh.
Đặng Tiểu Bình
Sự phối hợp, hội nhập và thực hiện hoạch định chính sách ở cấp cao mà Đặng và những người cộng sản Trung Quốc khác coi trọng chắc chắn có lợi cho chiến lược lớn của Trung Quốc. Đảng đứng trên nhà nước và thâm nhập vào mọi cấp độ của nó. Theo cách này, nó đóng vai trò như một công cụ để điều phối chiến lược lớn và trao cho các nhà hoạch định chính sách quyền tự chủ tương đối khỏi các lợi ích quốc gia trong các vấn đề chính sách đối ngoại để họ có thể theo đuổi những chiến lược lớn. Như Mao đã từng nói, và ông Tập gần đây đã nhắc lại, “Đảng, chính phủ, quân đội, dân sự và học thuật, bắc, nam, đông, tây và trung tâm, Đảng lãnh đạo mọi thứ.”
Chương này tập trung vào ý nghĩa sự lãnh đạo của Đảng đối với chiến lược lớn của Trung Quốc. Khi làmnhư vậy, nó rút ra từ một bộ sưu tập ban đầu gồm các bản tóm tắt của Đảng, hồi ký, các tác phẩm, bài báo được chọn và các tài liệu khác.
Đôi khi, sự tập trung vào Đảng có thể cảm thấy không giống với một số báo chí hoặc phương tiện truyền thông, nhưng cách đây không lâu, người ta đã hiểu rộng rãi sự tập trung như vậy sẽ rất quan trọng. Nhà báo Richard McGregor nhận xét: “Giới tinh hoa phương Tây đã từng quen thuộc với trật tự trận chiến trong chính trị cộng sản” trong cuộc đấu tranh với Liên Xô, và họ được hưởng lợi và đầu tư vào “ngành công nghiệp nhỏ trong học thuật, các tổ chức tư vấn và báo chí nổi tiếng như Kremlinology.” Nhưng “sự sụp đổ của Liên Xô vào đầu những năm 1990 đã kéo theo nó phần lớn kiến thức sâu sắc về các hệ thống cộng sản”, với số lượng ngày càng giảm dần các chuyên gia từ giới học thuật và cộng đồng tình báo để truyền lại kiến thức đó với Trung Quốc, trong một thời gian, sự đi lên của nền kinh tế Trung Quốc cũng che lấp sự
quan tâm của công chúng đối với hoạt động bên trong của Đảng, mặc dù tất cả điều này đã bắt đầu thay đổi. Giờ đây, người ta mới nhận ra, như học giả David Shambaugh từng nhận xét, “Rất ít, nếu có, các vấn đề ảnh hưởng đến tương lai của Trung Quốc — và do đó tất cả các quốc gia tương tác với nó — nhiều hơn bản chất của đảng cầm quyền và chính phủ của họ.”
Kremlinology là nghiên cứu và phân tích chính trị và chính sách của Liên Xô.
Khi khám phá mối quan hệ của Đảng đối với chiến lược lớn, chương này đảm nhận ba nhiệm vụ lớn. Đầu tiên, nó tập trung vào Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) với tư cách là một đảng theo chủ nghĩa dân tộc, một đảng nổi lên từ sự lên men yêu nước của cuối thời nhà Thanh và đã tìm cách khôi phục đất nước về đúng vị trí của nó. Thứ hai, nó tập trung vào ĐCSTQ với tư cách là một đảng theo chủ nghĩa Lenin, một đảng đã xây dựng các thể chế tập trung để điều hành đất nước và đạt được sứ mệnh dân tộc của mình. Cùng với nhau, định hướng dân tộc chủ nghĩa của Đảng giúp đặt mục tiêu cho chiến lược lớn của Trung Quốc, trong khi chủ nghĩa Lenin cung cấp một công cụ để hiện thực hóa chúng. Cuối cùng, cuốn sách tập trung vào ĐCSTQ với tư cách là đối tượng nghiên cứu, lưu ý việc nghiên cứu kỹ lưỡng các ấn phẩm đồ sộ của Đảng có thể cung cấp cái nhìn sâu sắc về các khái niệm chiến lược lớn của Đảng như thế nào. Phần đó phác thảo phần lớn chiến lược nghiên cứu văn bản được sử dụng trong phần còn lại của cuốn sách.
MỘT ĐẢNG QUỐC GIA
Có thể gây tranh cãi khi cho Đảng Cộng sản Trung Quốc là một đảng theo chủ nghĩa dân tộc. Nhiều người coi sự tập trung của công chúng vào các chứng chỉ chủ nghĩa dân tộc là công cụ, một phần của cuộc tìmkiếm rộng rãi hơn để tìm kiếm các nguồn hợp pháp mới sau khi ý thức hệ cộng sản bị hoen ố. Thực tế phức tạp hơn. Trong khi Trung Quốc thực sự đã phát động một chiến dịch ‘giáo dục lòng yêu nước’ sau Thảm sát Quảng trường Thiên An Môn và sự sụp đổ của Liên Xô để quảng bá chủ nghĩa dân tộc một cách công khai, các học giả khác lưu ý chủ nghĩa dân tộc từ lâu đã ăn sâu vào hệ tư tưởng và bản sắc của Đảng, với một dòng lịch sử lâu dài nối liền Đảng. của ngày nay với sự lên men theo chủ nghĩa dân tộc của cuối triều đại nhà Thanh.
Cuộc biểu tình tại Quảng trường Thiên An Môn, ở Trung Quốc được gọi là Sự cố ngày 4 tháng 6 () , là các cuộc biểu tình do sinh viên lãnh đạo được tổ chức tại Quảng trường Thiên An Môn, Bắc Kinh trong năm 1989.
Các cuộc biểu tình bắt đầu vào ngày 15 tháng 4 và bị đàn áp vào ngày 4 tháng 6 khi chính phủ tuyên bố thiết quân luật và cử quân Giải phóng Nhân dân chiếm đóng các khu vực của trung tâm thủ đô Bắc Kinh. Quân đội được trang bị súng trường tấn công và xe tăng đã tấn công những người biểu tình đang cố gắng ngăn chặn cuộc tiến công của quân đội vào Quảng trường Thiên An Môn. Ước tính số người chết từ vài trăm đến vài nghìn, với hàng nghìn người bị thương. Các cuộc biểu tình đôi khi được gọi là Phong trào Dân chủ 89 hoặc Thảm sát Quảng trường Thiên An Môn.
Các cuộc biểu tình bắt đầu sau cái chết của tổng bí thư ủng hộ cải cách Hồ Diệu Bang vào tháng 4 năm1989 trong bối cảnh kinh tế phát triển nhanh chóng và biến động xã hội ở Trung Quốc thời hậu Mao, phản ánh sự lo lắng của người dân và giới tinh hoa chính trị về tương lai của đất nước. Những cải cách trong những năm 1980 đã dẫn đến một nền kinh tế thị trường non trẻ mang lại lợi ích cho một số người nhưng lại gây bất lợi nghiêm trọng cho những người khác, hệ thống chính trị đơn đảng cũng phải đối mặt với nhiều thách thức. Những bất bình phổ biến vào thời điểm đó bao gồm lạm phát, tham nhũng, sự chuẩn bị hạn chế của sinh viên tốt nghiệp cho nền kinh tế mới và hạn chế tham gia chính trị. Mặc dù rất vô tổ chức và có mục tiêu khác nhau, các sinh viên đều kêu gọi trách nhiệm giải trình cao hơn, quy trình hợp hiến, dân chủ, tự do báo chí và tự do ngôn luận. Vào đỉnh điểm của cuộc biểu tình, khoảng một triệu người đã tập trung
tại Quảng trường.
Khi các cuộc biểu tình bùng nổ, các nhà chức trách phản ứng bằng cả biện pháp hòa giải và cứng rắn, làmlộ rõ sự chia rẽ sâu sắc trong giới lãnh đạo. Đến tháng 5, một cuộc tuyệt thực do sinh viên thực hiện đã thu hút sự ủng hộ trên khắp cả nước và các cuộc biểu tình đã lan ra khoảng 400 thành phố.
Chủ đề cốt lõi làm sinh động Đảng trong suốt khoảng thời gian đó là việc tìm kiếm thứ gì đó có thể khôi phục Trung Quốc trở lại sự vĩ đại trước đây và sẽ giúp nước này đạt được mục tiêu ‘trẻ hóa quốc gia’. Ngày nay, cụm từ đó là trung tâm của dự án chính trị của Tập Cận Bình, nhưng nó có một lịch sử sâu sắc đã lan tỏa các nỗ lực chính trị của Trung Quốc trong gần hai thế kỷ. Như Zhen Wang lưu ý, khái niệm “ít nhất đã trở lại xa như Tôn Trung Sơn, và đã được hầu hết mọi nhà lãnh đạo Trung Quốc hiện đại từ Tưởng Giới Thạch đến Giang Trạch Dân và Hồ Cẩm Đào đề xướng.” Sự trẻ hóa mang lại ý thức về sứ mệnh không chỉ cho các cải cách trong nước của Trung Quốc mà còn cho cả chiến lược lớn của nước này.
SỰ GIÀU CÓ VÀ QUYỀN LỰC
Vào những năm 1790, khi George Washington đang ổn định nhiệm kỳ đầu tiên của mình tại Hoa Kỳ, thì triều đại nhà Thanh đang ở thời kỳ đỉnh cao. Nhưng trong vài thập kỷ tiếp theo, tình trạng bất ổn liên tục của các tỉnh, sự trục xuất người nước ngoài và chính quyền xơ cứng khiến một số quan chức cảm thấy Trung Quốc đang đi vào suy thoái.
Ngụy Nguyên là một trong những quan chức đó, và ông đã làm sống lại một truyền thống trong lịch sử trí thức Trung Quốc, đó là tập trung vào việc nhà nước theo đuổi ‘sự giàu có và quyền lực’ () trái ngược với truyền thống điển hình hơn của Nho giáo là ‘cai trị nhân đức’ (). Khi sự suy tàn trong nước của Trung Quốc va chạm với tham vọng của đế quốc châu Âu trong cuộc Chiến tranh nha phiến lần thứ nhất thảm khốc, cái mà Trung Quốc gọi là ‘Thế kỷ sỉ nhục’ bắt đầu. Khi đất nước suy tàn, trí tuệ ngày càng tập trung vào việc làm thế nào để đạt được sức mạnh để giành lại vinh quang trong quá khứ. Như Orville Schell và John Delury đã lưu ý trong lịch sử tri thức sâu rộng của họ về nỗi ám ảnh của Trung Quốc về ‘sự giàu có và quyền lực’, việc Ngụy Nguyên hồi sinh cụm từ 2.000 năm tuổi đến vào đúng thời điểm và nó “vẫn là một cái gì đó của một ngôi sao phương bắc đối với Các nhà lãnh đạo trí thức và chính trị Trung Quốc” kể từ đó.
Cuộc chiến tranh nha phiến lần thứ nhất (; First Opium War), còn được gọi là Chiến tranh thuốc phiện lần 1 hay Chiến tranh Anh-Thanh, là một loạt các cuộc giao tranh quân sự giữa Đế quốc Anh và nhà Thanh Trung Quốc. Nguyên nhân chính là do triều đình Trung Hoa bắt đầu triệt phá các đường dây buôn bán thuốc phiện và đe dọa tử hình với những kẻ phạm tội. Điều này trực tiếp gây tổn hại đến sự thống trị về thương mại của người Anh, khiến họ chống lại việc cấm thuốc phiện của Trung Hoa. Kết quả, quân đội nhà Thanh bị đánh bại, và buộc phải chấp nhận trao cho các cường quốc phương Tây những đặc quyền giao thương với Trung Quốc.
Hải chiến với người Anh và mối hận trăm năm trong lịch sử Trung Quốc
Trong thế kỷ sau Chiến tranh nha phiến lần thứ nhất, Trung Quốc đã phải hứng chịu một loạt thất bại nhục nhã làm rạn nứt thành trì của nhà Thanh và làm nảy sinh nhiều thế hệ học giả và nhà hoạt động, những người đã xây dựng trên “nền tảng quyền lực và sự giàu có” của Ngụy Nguyên. Feng Guifen, một người kế thừa trí tuệ của Ngụy Nguyên, đã theo dõi Chiến tranh Thuốc phiện lần thứ hai và Cuộc nổi dậy Thái Bình gần như lật đổ nhà Thanh và giúp khởi động Phong trào Tự cường. Ông đã ảnh hưởng đến một thế hệ học giả cũng như Lý Hồng Chương, vị tướng và chính khách đã thảo luận trong phần Vào Đề của cuốn sách.
Hai thập kỷ sau cái chết của Feng Guifen, tình hình hầu như không được cải thiện, và sau đó Nhật Bản đã
gây sốc cho Trung Quốc khi đánh bại nước này trong Chiến tranh Trung-Nhật lần thứ nhất. Thất bại đó chứng tỏ đau thương cho các học giả như Kang Youwei và Liang Qichao, cũng như các nhà cách mạng dân tộc chủ nghĩa như Tôn Trung Sơn, những người được khuyến khích đưa ra con đường riêng của họ để Trung Quốc theo đuổi, tất cả với mục đích cuối cùng là tự cường.
Những cá nhân này và bài diễn thuyết về chủ nghĩa dân tộc rộng lớn hơn mà họ tham gia đã được dành để làm trẻ hóa Trung Quốc và bắt kịp phương Tây, và lời nói và việc làm của họ đã tạo nên mảnh đất mà Đảng Cộng sản Trung Quốc sẽ phát triển. Nhiều nhà lãnh đạo ban đầu của ĐCSTQ là những thanh niên yêu nước bị lôi cuốn vào những gì về cơ bản là một dự án phục hồi chủ nghĩa dân tộc. Một số người, giống như Đặng Tiểu Bình, đã tham gia vào các sự kiện dân tộc chủ nghĩa như phong trào ngày 4 tháng 5 và được lôi kéo vào “nỗ lực quốc gia để thoát khỏi sự sỉ nhục mà Trung Quốc đã phải chịu đựng” và “làm cho nước này giàu mạnh.” Giống như nhiều người cộng sản tương lai, Đặng đã đi du học, và ông ấy giải thích lý do của mình bằng một câu trả lời ngay từ việc Wei Yuan tập trung vào ‘sự giàu có và quyền lực’: “Trung Quốc yếu và chúng tôi muốn làm cho nó mạnh hơn, Trung Quốc còn nghèo và chúng tôi muốn làm cho nó giàu hơn. Chúng tôi đến phương Tây để nghiên cứu và tìm cách cứu Trung Quốc.”
Ngoài việc đi lại và biểu tình, nhiều nhân vật cộng sản hàng đầu, bao gồm Trần Độc Tú, Chu Ân Lai và Mao Trạch Đông, đã tìm thấy con đường đến với chủ nghĩa dân tộc thông qua các tác giả như Khang Hữu Vi và Lương Khải Siêu. Mao sau đó kể lại ông ấy “tôn thờ Khang Hữu Vi và Lương Khải Siêu” và “đọc đi đọc lại chúng” cho đến khi ông ấy thuộc lòng các tác phẩm của họ, và khi còn trẻ, ông ấy đã treo những tấm áp phích ủng hộ việc Tôn Trung Sơn trở thành chủ tịch Trung Quốc, Khang là thủ tướng, và Lương là ngoại trưởng của chính phủ đó. Cha của Đặng Tiểu Bình được cho là một thành viên của đảng chính trị của Lương Khải Siêu, chắc chắn đã định hình thế giới quan dân tộc chủ nghĩa ban đầu của Đặng. của ĐCSTQ. Thật vậy, những người theo chủ nghĩa dân tộc của Tôn Trung Sơn đã thành lập một chính phủ và học viện quân sự ở Quảng Châu để “thu hút những thanh niên yêu nước có triển vọng” đến thành phố, trong đó có nhiều người nổi tiếng như Chu Ân Lai, Diệp Kiếm Anh, Lâm Bưu và Mao Trạch Đông.
Mao Trạch Đông
Khi đã nắm quyền, và ngay cả khi họ theo đuổi các chính sách phù hợp với hệ tư tưởng cộng sản của mình, Đảng vẫn được thúc đẩy bởi sứ mệnh dân tộc không thể nhầm lẫn, và thu hẹp khoảng cách giàu có và quyền lực với phương Tây là trung tâm. Hiện đại hóa công nghiệp thời Mao, Đại nhảy vọt thất bại, mong muốn có “hai quả bom, một vệ tinh” và động thái cực kỳ nguy hiểm để thoát ra khỏi trật tự Liên Xô và giành lấy lớp vỏ lãnh đạo tư tưởng từ Moscow đều được thúc đẩy bởi những thôi thúc chủ nghĩa dân tộc. Cải cách và mở cửa của Đặng Tiểu Bình cũng như sự nhấn mạnh của ông về tiến bộ kinh tế và công nghệ, đã mô phỏng rõ ràng ngôn ngữ của một thế hệ những người tự cường trước đó. Những người kế nhiệm ông, bao gồm Giang, Hồ và Tập, đã thực hiện dự án dân tộc chủ nghĩa và tập trung vào việc trẻ hóa Trung Quốc và khôi phục nước này về vị trí hợp lý trong trật tự khu vực và toàn cầu.
TRẺ HÓA ĐẤT NƯỚC
“Tôn Trung Sơn,” Giang Trạch Dân từng lưu ý, “là người đầu tiên đưa ra khẩu hiệu ‘trẻ hóa Trung Quốc’.” Và thực sự từ Tôn Trung Sơn, ĐCSTQ đã sử dụng thuật ngữ trẻ hóa [] như một trụ cột kể từ đó.
Tôn Trung Sơn
Năm 1894, khi Trung Quốc và Nhật Bản xảy ra chiến tranh, Tôn Trung Sơn thành lập Xingzhonghui, tạmdịch là Hội phục hưng Trung Quốc, và tuyên bố là sứ mệnh làm trẻ hóa Trung Quốc. Ngay cả trong Chiến tranh Trung-Nhật lần thứ hai, Đặng và các đảng viên khác đã khuyến khích cán bộ tập trung vào ‘con đường trẻ hóa’, và khi những người Cộng sản chiến thắng, Mao đã tuyên bố “chỉ có ĐCSTQ mới có thể cứu được Trung Quốc”. Khi Trung Quốc bắt đầu cải cách và mở cửa vào năm 1978, Đặng cùng các cấp phó của ông là Hồ Diệu Bang và Triệu Tử Dương liên tục nói rõ mục đích là “trẻ hóa Trung Quốc” [
] và đảm bảo nước này đạt được “sự giàu có và quyền lực”. Năm 1988, Giang Trạch Dân tuyên bố sứ mệnh của Đảng là “thực hiện sự trẻ hóa vĩ đại đất nước Trung Quốc.”
Vị trí trung tâm của những tình cảm này đối với Đảng được khẳng định bởi thực tế là chúng xuất hiện trong hầu như mọi bài diễn văn của Đại hội Đảng, như chúng ta sẽ sớm thấy, là một trong những văn bản có thẩmquyền nhất của Đảng. Bài phát biểu tại Đại hội Đảng lần thứ 12 của Hồ Diệu Bang năm 1982 đã ca ngợi
“thế kỷ sau Chiến tranh Nha Phiến và sự giải phóng” và cam kết Trung Quốc sẽ “không bao giờ để mình bị làm nhục một lần nữa.” Người kế nhiệm ông, Triệu Tử Dương, đã phát biểu tại Đại hội Đảng lần thứ 13 vào năm 1987 sử dụng ngôn ngữ của “sự giàu có và quyền lực” và cho “cải cách là cách duy nhất để Trung Quốc có thể đạt được sự trẻ hóa.” vì đã “đặt dấu chấm hết cho lịch sử bi thảm của dân tộc Trung Quốc” và nhắc nhở mọi người “Đảng Cộng sản Trung Quốc ăn sâu vào đất nước Trung Quốc” và đã “gánh vác sứ mệnh to lớn và trọng thể là trẻ hóa đất nước kể từ ngày nó được thành lập.” Bài phát biểu của Đại hội Đảng lần thứ 17 và 18 của Hồ đã lặp lại những chủ đề này và nói thêm Đảng đang “phấn đấu cho sự trẻ hóa vĩ đại đất nước Trung Quốc mà vô số những người yêu nước và liệt sĩ cách mạng mong muốn.” Gần đây nhất, Đại hội Đảng lần thứ 19 với Tập Cận Bình vào năm 2017 đã đặt sự trẻ hóa vào trung tâm của “Giấc mơ Trung Hoa” và “kỷ nguyên mới” của ông đối với Trung Quốc. Ông đề cập đến thảm kịch của các cuộc chiến tranh nha phiến, và tuyên bố trẻ hóa là “khát vọng và sứ mệnh ban đầu của những người Cộng sản Trung Quốc” — mà chỉ có Đảng mới có thể đạt được.
Đảng ngay từ khi thành lập đã bao trùm trong sự nỗ lực của những người theo chủ nghĩa dân tộc đi trước. Các nhà lãnh đạo hàng đầu đã tuyên bố trong gần một thế kỷ “Đảng Cộng sản Trung Quốc đã kế thừa và phát triển tinh thần của phong trào ngày 4 tháng 5” và đang nỗ lực “học hỏi và tiếp nối” di sản của Tôn Trung Sơn. Như Hồ Cẩm Đào đã lưu ý vào dịp một trăm năm ngày sinh của Mao, Đảng đang trong một cuộc chạy đua tiếp sức theo hướng trẻ hóa. Ông tuyên bố: “Lịch sử là một con sông dài. Ngày hôm nay phát triển từ hôm qua, và ngày mai là sự tiếp nối của ngày hôm nay.” “Sự trẻ hóa vĩ đại của dân tộc Trung Quốc là lý tưởng vĩ đại của Mao Trạch Đông, Đặng Tiểu Bình, các đồng chí của họ, và hàng triệu liệt sĩ cách mạng... Hôm nay, cơ hội lịch sử đã đến tay chúng ta.”
“Dấu ấn lịch sử” phải được thực hiện bởi các nhà lãnh đạo kế tiếp cho đến giữa thế kỷ, hoặc một trăm nămđảm nhận quyền lực của Đảng. Trong ít nhất bốn mươi năm, các nhà lãnh đạo hàng đầu của Trung Quốc đều chỉ ra đây là ngày mục tiêu để đạt được sự trẻ hóa, một mục tiêu thường liên quan đến việc thu hẹp khoảng cách với phương Tây và trong một số trường hợp, định hình hệ thống toàn cầu. Trọng tâm của thế kỷ nổi lên vào giữa những năm 1980 khi Đặng và các đồng chí của ông đặt nó là ngày để đạt đến trình độ của “các nước phát triển vừa phải” hoặc hoàn thành “hiện đại hóa xã hội chủ nghĩa”.
Thành công trong mục tiêu này sẽ có ý nghĩa to lớn. Năm 1985, trong một bài phát biểu quan trọng trước “Đại hội toàn quốc” ( ) lần thứ hai của Trung Quốc được triệu tập để điều chỉnh chính sách quốc gia, Đặng tuyên bố: “Vào giữa thế kỷ tới, khi chúng ta tiếp cận trình độ của các nước phát triển, sau đó sẽ có những thay đổi thực sự lớn. Vào thời điểm đó sức mạnh của Trung Quốc và vai trò của nước này trên thế giới sẽ hoàn toàn khác.” Mốc thời gian này đã trở thành mốc trẻ hóa của Trung Quốc ngay sau đó. Như người kế nhiệm của Đặng, Giang đã nói, “mục tiêu của chúng ta ở thế kỷ này là... hiện thực hóa sự trẻ hóa vĩ đại đất nước Trung Quốc.” Trong một bài phát biểu quan trọng kỷ niệm tám mươi năm thành lập Đảng, Giang đã giải thích rõ hơn về mốc thời gian: “Trong 100 năm từ giữa thế kỷ 20 đến giữa thế kỷ 21, tất cả các cuộc đấu tranh của người dân Trung Quốc đều nhằm đạt được sự giàu có và quyền lực cho quê hương… và sự trẻ hóa lớn của dân tộc. Trong sự nghiệp lịch sử [trẻ hóa] này, Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân cả nước 50 năm và có những bước phát triển vượt bậc; sau 50 năm làm việc chăm chỉ nữa, nó sẽ được hoàn thành xuất sắc.”
Giang Trạch Dân
Trong điều kiện thực tế, việc hoàn thành có thể có ý nghĩa gì? Đặng đã gợi ý nó sẽ thay đổi mối quan hệ của Trung Quốc với thế giới, và sau đó nó sẽ có những nhà phê bình “hoàn toàn bị thuyết phục” về tính ưu việt của hệ thống xã hội chủ nghĩa của Trung Quốc. Giang đồng ý và nhấn mạnh đó là một kiểu khôi phục so với phương Tây. Trước khi rơi vào tay nhà Thanh, Giang đã lưu ý “Trình độ kinh tế của Trung Quốc dẫn đầu thế giới” và “Tổng GDP của Trung Quốc đứng đầu thế giới.” Theo đó, trẻ hóa sẽ liên quan đến việc “thu hẹp khoảng cách với trình độ tiên tiến của thế giới” và làm cho Trung Quốc lại “giàu có và hùng mạnh”.
Việc khôi phục cũng sẽ liên quan đến một vai trò toàn cầu hơn. Sau khi đạt được sự trẻ hóa vào giữa thế kỷ, ông Giang lưu ý, “một Trung Quốc xã hội chủ nghĩa hiện đại giàu có và hùng mạnh, dân chủ và văn minh sẽ đứng ở phía đông thế giới, và người dân Trung Quốc sẽ có những đóng góp mới và to lớn hơn cho nhân loại.” Tôn Trung Sơn xác định tầm vóc toàn cầu của trẻ hóa: “Nếu Trung Quốc trở nên hùng mạnh, chúng ta không chỉ khôi phục địa vị quốc gia mà còn phải chịu trách nhiệm lớn đối với thế giới,” nói thêmđiều này sẽ liên quan đến nỗ lực “thúc đẩy sự phát triển của chính trị quốc tế và trật tự kinh tế theo một hướng công bằng và hợp lý hơn.” Việc trẻ hóa, ông Hồ nói rõ, sẽ cho phép Trung Quốc “sẽ có vị thế quốc gia với một phong cách hoàn toàn mới.” Tại Đại hội Đảng lần thứ 19, Tập Cận Bình là người cụ thể nhất.
của bất kỳ nhà lãnh đạo Trung Quốc nào về sự trẻ hóa vào giữa thế kỷ 21 có nghĩa là: “Trung Quốc sẽ trở thành nhà lãnh đạo toàn cầu về sức mạnh quốc gia tổng hợp và ảnh hưởng quốc tế,” xây dựng một “quân đội đẳng cấp thế giới”, tích cực trong tập trung vào “quản trị toàn cầu” và thúc đẩy “một kiểu quan hệ quốc tế mới và xây dựng một cộng đồng với một tương lai chung cho nhân loại.”
Đại hội Đảng lần thứ 19: “Bước vào một kỷ nguyên mới”
Tầm nhìn xa của Tập Cận Bình về sự trẻ hóa giữa thế kỷ không chỉ là sản phẩm của cá tính hay chủ nghĩa phân biệt mà còn là một thứ gì đó mạnh mẽ hơn: một sự đồng thuận của Đảng theo chủ nghĩa dân tộc kéo dài qua thời gian với trọng tâm tự cường của những người cải cách cuối nhà Thanh. ĐCSTQ đã có những bất đồng nội bộ, các cuộc đấu tranh, chủ nghĩa bè phái và mở rộng khuynh hướng thành chủ nghĩa cực đoan về ý thức hệ, nhưng những người sáng lập và những người kế nhiệm luôn hiểu đó là phương tiện để trẻ hóa Trung Quốc. Những bất đồng về cách thức và phương tiện đã xuất hiện đôi khi, nhưng mục tiêu cuối cùng là tương đối rõ ràng và đã tạo ra sự đồng thuận đối với chiến lược lớn thời hậu Chiến tranh Lạnh của Trung Quốc.
Mục tiêu đó giờ đã nằm trong tầm tay. Chính một Bên không yên tâm trong trật tự Liên Xô cũng không có khả năng sẵn sàng trì hoãn trật tự của Mỹ. Việc theo đuổi sự trẻ hóa của Trung Quốc và động cơ dân tộc chủ nghĩa thúc đẩy khiến nước này đối nghịch với hệ thống phân cấp của Hoa Kỳ, ở châu Á và trên toàn thế giới. Như các chương sau sẽ thảo luận chi tiết hơn, Trung Quốc đã tìm cách loại bỏ Hoa Kỳ khỏi các trật tự này và tạo ra sự tương đương của riêng mình. Nó tin một trong những tài sản quan trọng trong quá trình theo đuổi này là cấu trúc theo chủ nghĩa Lenin, và chúng ta hãy xem xét nó ngay bây giờ.
ĐẢNG THEO CHỦ NGHĨA LENIN
Đảng Cộng sản Trung Quốc được thành lập dưới ảnh hưởng của Liên Xô và được xây dựng dựa trên các nguyên tắc của chủ nghĩa Lenin về cấu trúc nhà nước và quản lý xã hội. Học giả tiên phong của Đảng Franz Schurmann lưu ý chủ nghĩa Marx có thể đã cung cấp lý thuyết, nhưng chủ nghĩa Lenin đã cung cấp thực tiễn — các nguyên tắc tổ chức liên quan đến việc giành và sử dụng quyền lực vẫn tồn tại ngay cả khi chủ nghĩa Marx đã tàn lụi.
Đảng Cộng sản Trung Quốc là một đảng theo chủ nghĩa Lenin. Tên gọi của cách tiếp cận chính trị này, Vladimir Lenin, tin đội tiên phong gồm những nhà cách mạng chuyên nghiệp với quyền lực chính trị tập trung chặt chẽ có thể định hình lại lịch sử. Ông cam kết tập trung quyền lực, và ông nhiều lần nhấn mạnh “nguyên tắc quan trọng của mọi tổ chức Đảng và mọi hoạt động của Đảng” là “sự tập trung hóa quyền lực lớn nhất có thể”. Những người Bolshevik của Lenin đã cấu trúc đảng của họ theo cách này, và khi nắmchính quyền sau Cách mạng Nga, họ đã xây dựng sự hợp nhất giữa đảng và nhà nước theo chủ nghĩa Lenin mà Trung Quốc nhập khẩu gần như hoàn toàn. “Tên của các cơ quan mà Đảng [Cộng sản Trung Quốc] thực thi quyền lực, Bộ Chính trị, Ủy ban Trung ương, Praesidium và những cơ quan tương tự,” Richard McGregor lưu ý, “tất cả đều phơi bày một trong những sự thật bị bỏ qua nhiều nhất về nhà nước Trung Quốc hiện đại—nó vẫn chạy trên phần cứng của Liên Xô.”
Praesidium: Chủ tịch đoàn (xô viết tối cao Liên Xô).
Phần cứng đó là điều cần thiết để hiểu được khả năng chiến lược lớn của Trung Quốc. Để thực hiện một chiến lược lớn, cuốn sách này lập luận các quốc gia phải có các thể chế chính sách đối ngoại có khả năng (1) phối hợp nhiều công cụ của quy chế phục vụ cho chiến lược lớn và (2) thực hiện quyền tự chủ bằng cách vượt qua các lợi ích quốc gia có thể gây trở ngại cho chiến lược quốc gia. các mục tiêu. Có khả năng các thể chế của Đảng cung cấp cả sự phối hợp và quyền tự chủ tốt hơn so với các thể chế ở hầu hết các nước khác, đặc biệt là trong lĩnh vực chính sách đối ngoại.
Vladimir Ilyich Lenin
SỰ PHỐI HỢP
Một “chiếc điện thoại màu đỏ” nằm trên bàn làm việc của khoảng 3.000 đảng viên cấp cao nhất của Đảng, một dấu hiệu kỳ lạ nhưng cụ thể về khả năng phối hợp nhiều công cụ trong quy chế của Đảng. Được điều hành bởi một đơn vị quân đội bí ẩn sáu mươi tuổi, mạng ‘điện thoại đỏ’ đặc biệt kết nối trực tiếp các cán bộ cao cấp nhất của Đảng trong chính phủ, quân đội, học viện, doanh nghiệp nhà nước, cơ quan truyền thông nhà nước và các lĩnh vực khác với nhau mà không cần bất kỳ số điện thoại nào. Hệ thống điện thoại đỏ không chỉ biểu thị một quan chức “đã đủ điều kiện trở thành thành viên của câu lạc bộ chặt chẽ” điều hành đất nước; nó cũng cung cấp cho Đảng một “đường dây nóng trực tiếp” trong vòng tay của nhà nước và các thành phần khác nhau của xã hội có thể được sử dụng cho cả việc thu thập thông tin và cung cấp các chỉ thị. Và giống như rất nhiều hệ thống của Trung Quốc, nó cũng được vay mượn từ Liên Xô.
“Điện thoại đỏ” cung cấp một phép ẩn dụ hữu hình về quản trị của chủ nghĩa Lenin, nhưng nỗ lực đó vượt xa nó bao gồm các tổ chức, cuộc họp và tài liệu cùng phối hợp chiến lược.
“Điện thoại đỏ”
Về thể chế, các cơ quan ra quyết định chính sách đối ngoại quan trọng của Trung Quốc đều thuộc Đảng Cộng sản và đứng trên nhà nước, cung cấp sự điều phối và chỉ đạo tập trung. Cơ quan cao nhất là Tổng Bí thư và văn phòng của cơ quan này. Tiếp theo là bảy đến chín thành viên của Ủy ban Thường vụ Bộ Chính trị, những người được chọn trên danh nghĩa từ Bộ Chính trị gồm 25 thành viên, lần lượt được chọn từ 370 thành viên của Ban chấp hành Trung ương ĐCSTQ. Các tổ chức này được cung cấp thông tin bởi nhiều nhóm được cho là có nhiệm vụ xây dựng chiến lược dài hạn, chẳng hạn như Văn phòng Nghiên cứu Chính sách Trung ương của Ban chấp hành Trung ương ĐCSTQ. Về quân sự, Quân ủy Trung ương do Tổng Bí thư làm Chủ tịch là cơ quan lãnh đạo. Ngoài ra còn có Ủy ban An ninh Quốc gia, mặc dù Ủy ban này “đã phải vật lộn để tìm chỗ đứng của mình” và có thể tập trung vào an ninh trong nước hơn là an ninh quốc tế.
Có tầm quan trọng trong chính sách đối ngoại là một loạt các cơ quan Đảng thường được gọi là “các nhómnhỏ lãnh đạo” hoặc trong một số trường hợp là “các ủy ban trung ương” được thể chế hóa hơn, chẳng hạn như Ủy ban Đối ngoại Trung ương. Bao gồm các quan chức cấp cao của Đảng — và thường do Tổng Bí thư hoặc các ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị chủ trì — các cơ quan này đứng trên các bộ nhà nước và ban hành các hướng dẫn chính sách trong hầu hết các lĩnh vực quan trọng. Như học giả hàng đầu về Trung Quốc Alice Miller lưu ý, các thể chế này tham gia vào cả “việc xây dựng chính sách và thực thi chính sách” trong toàn Đảng, nhà nước và xã hội. Họ thường phối hợp “các ban của Ủy ban Trung ương, các bộ và cơ quan của Quốc vụ viện, các thành phần của Hội nghị Hiệp thương Chính trị Nhân dân Trung Quốc và các tổ chức khác.” Các cơ quan này cũng ngày càng được thể chế hóa khi Đảng tiếp nhận nhiều quyền lực
hơn từ nhà nước, và kết quả là là sự tập trung nhiều hơn trong việc xây dựng và thực hiện chính sách.
Cùng với nhau, các cơ quan này - Tổng Bí thư, Thường vụ Bộ Chính trị, Ban Đối ngoại Trung ương và Quân ủy Trung ương - điều hành chính sách đối ngoại. Điều đáng chú ý về cấu trúc này là nó phù hợp như thế nào để ra quyết định phối hợp từ trên xuống. Mọi thể chế chủ chốt, đặc biệt là đối với chính sách đối ngoại, đều nằm trong Đảng, với Tổng Bí thư làm trung tâm và đứng trên nhà nước. Cùng với nhau, các yếu tố này cung cấp cho các thể chế khả năng và thẩm quyền để phối hợp các công cụ quân sự, chính trị và kinh tế với nhau.
Một số chuyên gia tranh luận một hệ thống dường như tập trung như thế có thể không phối hợp đúng cách. Học giả Ken Lieberthal cho Trung Quốc thể hiện “chủ nghĩa chuyên chế phân tán” giữa các thể chế và tác nhân cạnh tranh. Một học giả khác, David Lampton, lưu ý các nhóm nhỏ lãnh đạo có thể xung đột với nhau và có thể “tương tự như các cuộc họp hiệu trưởng” và “cấp phó” của Hội đồng An ninh Quốc gia Hoa Kỳ, mà đôi khi không phối hợp đúng cách.
Những người khác như Wang Zhou, một trong những chuyên gia hàng đầu của Trung Quốc về các nhóm nhỏ hàng đầu vẫn còn khá mờ nhạt, lại có quan điểm ngược lại. Viết với học giả Đài Loan Wen-Hsuan Tsai, Wang Zhou sử dụng các nghiên cứu điển hình, các nguồn tin mới về cơ cấu tổ chức của các nhóm nhỏ lãnh đạo. Tsai và Zhou cho các nhóm này hoàn toàn nằm trong Đảng, cho phép người đứng đầu nhóm lãnh đạo tận dụng quyền lực của Đảng — chẳng hạn như ảnh hưởng chính thức hoặc không chính thức đối với việc thăng chức. Điều này đặc biệt đúng trong chính sách đối ngoại, nơi người đứng đầu hầu như luôn là Tập Cận Bình hoặc thành viên Bộ Chính trị, và nơi có ít nhóm liên quan hơn so với chính sách đối nội. Hơn nữa, Tsai và Zhou lưu ý các nhóm nhỏ lãnh đạo thường có một văn phòng chuyên trách và giám đốc văn phòng làm việc với người đứng đầu nhóm để điều phối nội bộ và bên ngoài, làm cho các cơ quan này được thể chế hóa nhiều hơn so với việc triệu tập các cuộc họp cá nhân “hiệu trưởng” và “cấp phó”.
Mặc dù các cơ quan này có thể gạt bỏ nhà nước hoặc thiếu nhân sự chuyên nghiệp đầy đủ, nhưng họ vẫn có thể hoạt động như những công cụ của chủ nghĩa Lenin cho chính sách phối hợp từ trên xuống. Như Zeng Peiyuan, cựu Phó Thủ tướng Quốc vụ viện Trung Quốc, lưu ý, các nhóm này là “một phương pháp hiệu quả mà Đảng và chính phủ của chúng tôi đã phát triển trong một thời gian dài” và được sử dụng để “thực hiện các nhiệm vụ chiến lược lớn.” Thay vì “chủ nghĩa chuyên chế manh mún”, Một số người xem đó là một loại “phân mảnh tích hợp” để Đảng kiểm soát cấp dưới của mình - và điều này có thể giúp điều phối chiến lược lớn.
Công cụ chính thứ hai áp đặt sự phối hợp và kỷ luật đối với chính sách là các cuộc họp của Đảng và các văn bản xuất hiện từ chúng. Để chèo lái con tàu nhà nước, như chương này sẽ thảo luận chi tiết hơn ở phần sau, Đảng dựa trên một hệ thống tôn chỉ thứ bậc cứng nhắc — chẳng hạn như đường lối, phương châm và chính sách của Đảng (, , ) — mà cán bộ phải tuân theo. Những hướng dẫn được lặp lại hoặc sửa đổi trong các bài phát biểu hoặc bài đọc có thẩm quyền từ các cuộc họp và mật nghị lớn, và chúng cũng được thực hiện một cách nghiêm túc. Trong lĩnh vực chính sách đối ngoại, đường lối, chủ trương và chính sách thường được vạch ra trong các thông báo chính, chẳng hạn như tại cuộc họp quan trọng nhất của Đảng, Đại hội Đảng, được tổ chức 5 năm một lần; Các Hội nghị Đại sứ, được tổ chức trung bình sáu nămmột lần (và bây giờ thường xuyên hơn nhiều dưới thời ông Tập); các Hội nghị Công tác Đối ngoại Trung ương từ trước đến nay chỉ được tổ chức từ năm đến sáu lần; và các mật nghị đặc biệt khác.
Học giả Suisheng Zhao lưu ý các cuộc họp chính sách đối ngoại kiểu này “xây dựng sự đồng thuận chính sách về chiến lược an ninh quốc gia và chương trình chính sách đối ngoại của Trung Quốc trong khi tổng hợp các phân tích chính thức của Trung Quốc về các xu hướng quốc tế.” Các bài phát biểu và văn bản mà
chúng tạo ra là cách Đảng chỉ đạo cán bộ và nhà nước, và họ thường chỉ ra các nhận định của họ xuất phát từ sự nhất trí cao của Đảng ở cấp Trung ương hoặc Thường vụ Bộ Chính trị. Một dấu hiệu cho thấy tầmquan trọng của các hướng dẫn cấp cao của Đảng, đặc biệt là các hướng dẫn do Tập Cận Bình công bố, là các quan chức được yêu cầu thường xuyên kiểm tra và phản ánh chúng trong các ‘buổi học tập’ có tổ chức hiện chiếm tới 30% thời gian của họ.
QUYỀN TỰ TRỊ
Tất nhiên Đảng không chỉ đơn thuần phối hợp và phát đi chính sách; nó cũng phải có khả năng đảm bảo việc thực hiện. Như Lenin đã viết trong cuộc thảo luận về tổ chức chính trị của mình, “Để trung tâm... thực sự chỉ đạo dàn nhạc, nó cần biết ai chơi violin và ở đâu, ai chơi sai nốt và tại sao, làm thế nào và ở đâu. chuyển một người nào đó để sửa chữa sự bất hòa.”
Điều này Đảng thực hiện một phần bằng cách thâm nhập một cách triệt để vào cả nhà nước và xã hội. Đảng đứng trên nhà nước, điều hành song song với nhà nước, và có mặt ở mọi cấp độ của nhà nước. Hầu như tất cả các quan chức quan trọng trong nước đều là đảng viên: bộ trưởng và thứ trưởng, lãnh đạo tỉnh và thị trưởng, tướng lĩnh và nhà ngoại giao, chủ tịch các công ty nhà nước và hiệu trưởng các trường đại học, v.v. Hàng triệu cán bộ cấp dưới làm việc bên dưới họ cũng vậy. Hơn 90 triệu đảng viên của Đảng trải rộng khắp xã hội và là công cụ để thực hiện chính sách. Bên ngoài nhà nước, các chi bộ của Đảng có thể được tìm thấy ở hầu hết các tổ chức — rộng khắp như các công ty luật, công ty tư nhân và các tổ chức phi lợi nhuận. Cùng với sự lãnh đạo ở cấp cao nhất và sự thâm nhập của thể chế hầu như xuyên suốt đến tận dưới cùng, Đảng không chỉ có khả năng điều phối và chỉ đạo hành vi của nhà nước mà trong nhiều trường hợp có thể giám sát hành vi đó. Đây là do thiết kế.
Ngoài việc chỉ đạo và giám sát các Đảng viên, Đảng còn có các cơ chế để thực thi việc tuân thủ. Cuối cùng, điều này liên quan đến việc sử dụng cơ sở hạ tầng kỷ luật của Đảng để trừng phạt những cán bộ sai lầm. Nhưng nó cũng liên quan đến các công cụ cưỡng chế ít công khai hơn cũng được vay mượn Liên Xô và cung cấp quyền lực đối với sự nghiệp, thăng chức và đăng tuyển thông qua hệ thống nhân sự. Cơ quan quan trọng trong hệ thống này là Ban Tổ chức Trung ương bí mật và cực kỳ quyền lực của Đảng. Ban Tổ chức xác định ai sẽ đảm nhiệm hàng chục triệu vị trí, và bằng cách này có thể định hình một cách mạnh mẽ cuộc sống của cán bộ và cung cấp thêm một lý do nữa để họ tuân theo các chủ trương của Đảng, nếu không sẽ phải mạo hiểm sự nghiệp của mình.
Không có nhà nước nào được tự chủ hoàn toàn khỏi xã hội, nhưng ở Trung Quốc, chính sách đối ngoại có lẽ được tập trung chỉ đạo và bảo vệ khỏi các lợi ích được trao và từ các lực lượng xã hội hơn là chính sách đối nội. Chính sách đối nội là rất lớn và chuyển từ các bộ và tỉnh ở cấp cao nhất đến các làng và xã ở cấp dưới cùng. Vì liên quan đến nhiều đối tượng và tác động trực tiếp đến lợi ích và quan điểm của công chúng theo những cách hữu hình, nên quyền tự chủ đôi khi có thể bị giảm đi. Ngược lại, chính sách đối ngoại tương đối tập trung hơn, phạm vi hẹp hơn và liên quan đến ít tác nhân hơn. Ngoài các vấn đề nổi bật, nó cũng có khả năng thu hút ít sự quan tâm bền vững hơn các vấn đề khó hiểu liên quan đến chính sách đối nội và nhận thức về những gì có thể được định hình bởi sự kiểm duyệt của Đảng và trên phương tiện truyền thông.
Các ngoại lệ quan trọng cho vấn đề này liên quan đến tính nhạy cảm của chủ nghĩa dân tộc. Tuy nhiên, nghiên cứu cho thấy những lời phản đối chủ nghĩa dân tộc không nhất thiết có tính quyết định. Đảng sẵn sàng bắt giữ những người chỉ trích chủ nghĩa dân tộc và trấn áp những người bất đồng quan điểm của họ
trong một số trường hợp, đồng thời khuếch đại chúng trong những trường hợp khác để gửi tín hiệu đến bên ngoài. Điều này không có nghĩa là Dư luận theo chủ nghĩa dân tộc là không phù hợp — thay vào đó, như học giả Joseph Smith lập luận, nó có thể quan trọng nhất vào những thời điểm khi sự đồng thuận của giới tinh hoa chùn bước. Thay vào đó, lập luận là thay vì bị chủ nghĩa dân tộc phổ biến kiểm soát, Đảng thường có thể sử dụng nó như một công cụ - cung cấp cho nhà nước quyền tự chủ đầy đủ trong hầu hết các trường hợp để theo đuổi chiến lược lớn ngay cả khi nó mâu thuẫn với tình cảm của công chúng.
Bất chấp những điểm mạnh này, khả năng duy trì quyền tự chủ của nhà nước trong một hệ thống theo chủ nghĩa Lenin vẫn có những giới hạn. Các học giả như Thomas Christensen và Linda Jakobson lập luận một cách thuyết phục sự gia tăng của các chủ thể chính sách đối ngoại bên trong Trung Quốc và sự phức tạp của hành vi quốc tế bên ngoài Trung Quốc cùng nhau tạo ra một số không gian cho hành động tự chủ giữa các quan chức và các cơ quan. Các nhà nghiên cứu khác như David Shambaugh lưu ý sự teo đi của các thể chế Đảng, trong khi Minxin Pei nhấn mạnh cách những người đứng đầu các tỉnh, bộ hoặc doanh nghiệp nhà nước tham nhũng có thể theo đuổi các chương trình nghị sự của riêng họ thay vì các chương trình của nhà nước.
Những lời phê bình này nắm bắt được điều gì đó quan trọng và có giá trị về Đảng, nhưng chúng không loại trừ khả năng của chiến lược lớn. Phối hợp và tự chủ không phải là một hệ nhị phân mà là một phổ, và chúng có khả năng cao nhất ở cấp chiến lược và yếu hơn ở cấp chiến thuật trong hoạch định chính sách (ví dụ: triển khai dọc theo biên giới Trung-Ấn hoặc đầu tư cơ sở hạ tầng cụ thể). Ở các cấp thấp nhất của hoạch định chính sách, sự phối hợp giữa các công cụ có thể còn ít, việc giám sát gặp nhiều thách thức, thiếu hướng dẫn và việc chống lại các chỉ thị của chính quyền trung ương có thể không bị phát hiện và có thể không được giải đáp. Cuốn sách này không tranh luận một lý thuyết có thể giải thích tất cả các hành vi của người Trung Quốc ở mức độ chi tiết nhất; thay vào đó, nó hy vọng sẽ giải thích những nỗ lực chiến lược tốn kém như đầu tư quân sự lớn, các sáng kiến kinh tế và tham gia vào các tổ chức quốc tế - cho chúng thường được thực hiện như một phần của một chiến lược lớn hơn. Câu hỏi về việc liệu một người có nhìn thấy sự hỗn loạn hay mục đích trong chính sách đối ngoại đôi khi có thể nằm ở mức độ phân tích. Và như học giả Suisheng Zhao lập luận, mặc dù “số lượng các bên liên quan ngày càng tăng và yêu cầu về kiến thức chuyên môn”, cũng như vai trò của dư luận, các nhà lãnh đạo cao nhất của Trung Quốc “đã giữ vững vị trí tuyệt đối trong việc định hướng chính sách đối ngoại tổng thể của Trung Quốc.” Điều phối và tự chủ có thể có ở những nơi quan trọng nhất và như phần tiếp theo trình bày, sự kiểm soát không nghi ngờ của Đảng đối với chính sách đối ngoại là chủ đề chính trong thông điệp nội bộ của Đảng.
ĐẢNG LÃNH ĐẠO CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI
Trong nhiều thập kỷ, các bài phát biểu về chính sách đối ngoại có thẩm quyền nhất của Trung Quốc do nhà lãnh đạo cấp cao nhất của nước này - thường là cho bộ máy chính sách đối ngoại tổng hợp - đã liên tục nhấn mạnh một đặc điểm chung: đó là chiến lược lớn của Trung Quốc được đặt ở các cấp cao nhất của Đảng. Điều này đã xảy ra từ lâu, mặc dù sự tập trung hóa đã tăng cường dưới thời ông Tập.
Trong bài phát biểu trước Hội nghị Đại sứ Trung Quốc lần thứ 6 năm 1986, Thủ tướng Triệu Tử Dương khi đó đã tuyên bố “Việc điều chỉnh chính sách đối ngoại phải mang tính tập trung cao độ và phải do Ủy ban Thường vụ Bộ Chính trị quyết định.” Phát biểu của ông Triệu cho thấy rõ chiến lược lớn và điều chỉnh chiến lược là lĩnh vực của Đảng, không phải của nhà nước. Đối với các nhà ngoại giao đã tập hợp, ông tuyên bố họ có thể “đưa ra các đề xuất, nhưng tất nhiên họ phải hành động phù hợp với các quyết định của trung ương. Điều quan trọng nhất bây giờ là hiểu và thực hiện ý định chung của trung ương và thực hiện công việc.”
Tại Hội nghị Đại sứ thường niên lần thứ 8, nhà lãnh đạo Trung Quốc Giang Trạch Dân đã đưa ra quan điểm tương tự với bộ máy chính sách đối ngoại. “Trong công tác đối ngoại, các chủ trương, chính sách do trung ương xây dựng cần được thực hiện với quyết tâm và kiên định; Không thể có một chút mơ hồ nào về điều này.” Thật vậy, “ngoại giao mang tính tập trung và thống nhất cao” và phải diễn ra “dưới sự hướng dẫn của phương châm ngoại giao từ trung ương [ ]. Các đồng chí cũng nên thấy Ngoại giao không phải là vấn đề nhỏ và thẩm quyền ngoại giao có hạn”, Giang nói với các quan chức tập hợp, và “tất cả các bộ phận phải kiên quyết thực hiện phương châm ngoại giao của chính quyền trung ương [ ] , họ không thể đi theo con đường riêng của mình. Nếu không, có thể có một vấn đề lớn, ảnh hưởng đến danh tiếng của chúng ta.”
Người kế nhiệm của Giang cũng nhấn mạnh những chủ đề này. Trong bài phát biểu năm 2003 tại một hội nghị chuyên đề lớn của Bộ Ngoại giao, Hồ Cẩm Đào lập luận, “Các đồng chí ở mặt trận ngoại giao phải kiên trì... thực hiện toàn diện các nguyên tắc và chính sách của đường lối trung ương. Để trở thành cố vấn tốt về chính sách đối ngoại của chính phủ trung ương,” Hồ tiếp tục, “trong mọi trường hợp cần phải kiên định trong việc thực hiện đường lối (), chủ trương () , chính sách () và công việc của chính quyền trung ương.” Ở đây, Hồ nói rõ đường lối, chủ trương, chính sách mà các tổ chức Đảng đưa ra phải định hướng hành vi của nhà nước.
Hồ Cẩm Đào
Người kế nhiệm của Hồ Cẩm Đào, Tổng Bí thư Tập, đã tăng cường hơn nữa sự kiểm soát của Đảng đối với nhà nước và nhấn mạnh lại vai trò trung tâm của Đảng trong công tác chính sách đối ngoại của Trung Quốc. Trong bài phát biểu tại Diễn đàn Công tác Ngoại giao năm 2013, ông Tập tuyên bố “các chính sách và chiến thuật được chỉ đạo tập trung là sinh mệnh của đảng và là sinh mệnh của công việc ngoại giao.” Ông Tập nêu rõ: “Để đẩy mạnh toàn diện công tác đối ngoại trong tình hình mới, chúng ta phải tăng cường sự lãnh đạo thống nhất và tập trung của Đảng” đối với công tác đối ngoại. Ủy viên Quốc vụ Dương Khiết
Trì nêu rõ suy nghĩ của ông Tập trên một tạp chí lớn của Đảng, lưu ý chiến lược lớn của Trung Quốc được Ban Chấp hành Trung ương Đảng hoạch định ở cấp cao trong thời gian dài và thực hiện một cách tập trung. Ông nói: “Đồng chí Tập Cận Bình đã nhiều lần nhấn mạnh cần phải hoạch định chiến lược cho công tác đối ngoại trung và dài hạn từ quan điểm cấp cao nhất”, ông nói, với các hoạt động ‘lồng ghép’ của Đảng liên quan đến “các cường quốc, các nước láng giềng, các nước đang phát triển và các tổ chức đa phương.”
Năm năm sau, tại Hội nghị Công tác Đối ngoại lần thứ sáu của Trung Quốc, ông Tập đã mở rộng các chủ đề này với độ dài đáng ngạc nhiên, và những nhận xét của ông đáng được xem xét kỹ lưỡng. Ông tuyên bố: “Ngoại giao là sự đại diện tập trung cho ý chí của nhà nước, và cơ quan ngoại giao phải tuân theo Ban chấp hành Trung ương ĐCSTQ” và “sự lãnh đạo tập trung và thống nhất của nó.” Trên tất cả các lĩnh vực chính sách đối ngoại, ông lưu ý, “tất cả phải có ý thức duy trì sự thống nhất với Ban Chấp hành Trung ương ĐCSTQ, đảm bảo thực thi nghiêm ngặt các mệnh lệnh và điều cấm [] , và tất cả các cuộc họp trong khóa [ ] .” Đảng đã vạch ra một chiến lược có hệ thống lâu dài mà những người khác dự kiến sẽ thực hiện. “Công tác đối ngoại là một dự án có hệ thống [] ” liên quan đến sự phối hợp giữa “các đảng phái chính trị, chính phủ, đại hội nhân dân, quân đội, địa phương, cộng đồng, v.v.” Thông qua sự lao động đồng bộ của các nhóm này “đảng thực hiện trách nhiệm chung và điều phối công việc đối ngoại của từng nhóm để đảm bảo các chủ trương, chính sách và chiến lược và kế hoạch đối ngoại của Trung ương ĐCSTQ được thực hiện.” Ở đây, ông Tập đã liệt kê một hệ thống phân cấp sơ bộ về các mệnh lệnh chính sách của ĐCSTQ và các phần khác nhau của nhà nước, xã hội và Đảng dự kiến sẽ thúc đẩy họ. Cuối cùng, ông Tập cũng tập trung vào những người liên quan đến chính sách đối ngoại. Ông lưu ý: “Sau khi đường lối chính trị được xác định, cán bộ là yếu tố quyết định, vì vậy chúng ta phải xây dựng một đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại vững mạnh, trung thành với CPC - ĐCSTQ, với đất nước và nhân dân.” Bài phát biểu của ông nhấn mạnh sự kiểm soát của Đảng thông qua các thể chế chính sách đối ngoại và xây dựng Đảng.
Những văn bản này cho thấy các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã rất coi trọng vai trò chỉ đạo của Đảng trong chính sách đối ngoại trong nhiều thập kỷ. Họ cũng chỉ ra chính sách đối ngoại được chỉ đạo tập trung, được xây dựng ở cấp cao, được phối hợp giữa các khu vực nhà nước và xã hội, và thường là dài hạn. Việc các quan chức Đảng chống lại hoặc đổi mới trong chính sách đối ngoại là rất hiếm, và nhiều thế hệ lãnh đạo đã chỉ ra những hình phạt nghiêm khắc nếu họ làm vậy. Cùng với nhau, những thuộc tính này cho thấy sự tồn tại của chiến lược lớn.
CÁC KHÁI NIỆM CHIẾN LƯỢC LỚN
Để có được cái nhìn sâu sắc về quan diểm của ĐCSTQ, điểm khởi đầu thường phải là các văn bản có thẩm quyền. Đảng tin các bài phát biểu và văn bản chính thức của họ có tầm quan trọng lớn, và vì lý do đó, nhiều nhà quan sát sắc sảo nhất của Trung Quốc từ lâu đã coi trọng chúng một cách nghiêm túc.
Một trong những người tiên phong của phương pháp này là Cha Lazlow Ladany. Ladany là một linh mục Dòng Tên sinh ra ở Hungary và là “nhà tư tưởng duy nhất”, người đã dành cả đời để nghiên cứu các nguồn chính thức của Đảng, các tờ báo trung ương và tỉnh, chương trình phát thanh và nhiều loại tài liệu nguồn mở khác. Ông là con trai của một bác sĩ, nhận bằng tiến sĩ luật, và học vĩ cầm trong nhạc viện trước khi gia nhập Dòng Tên và bị đưa sang Trung Quốc năm 1940. Bị trục xuất khỏi Trung Quốc khi Cộng sản nắmquyền, ông rút về Hồng Kông. Bốn năm sau, ông cho ra mắt “Phân tích Tin tức Trung Quốc”, một bản tin hàng tuần mà ông đã dành ba mươi năm tiếp theo để xuất bản từ một vài căn phòng dưới tầng hầm trong ký túc xá do Dòng Tên điều hành tại Đại học Hồng Kông. Bản tin huyền thoại của ông gồm hơn 1.200 số báo, mỗi số dài khoảng sáu đến tám trang và thường được sắp xếp theo một chủ đề riêng, đã được phổ biến cho các chuyên gia về Trung Quốc trên khắp thế giới cũng như các đồng minh của Hoa Kỳ và các nước Liên Xô. Chúng cũng đã đến CIA. Không ai khác ngoài James Lilley - một nhà phân tích CIA ba mươi năm đã
vươn lên trở thành sĩ quan tình báo cấp cao nhất về Trung Quốc và sau đó là đại sứ Hoa Kỳ tại Bắc Kinh - Phân tích Tin tức Trung Quốc cung cấp thông tin tình báo tốt nhất cho Hoa Kỳ trước khi bình thường hóa.
Thành công của Cha Ladany là sản phẩm của sự tập trung duy nhất gần như hoàn toàn vào cách Đảng giao tiếp với chính mình và với những người khác. Cách tiếp cận này về nguyên tắc là khắc khổ nhưng khó khăn trong thực tế, và nó đòi hỏi sự phân tích tài liệu về Đảng một cách tỉ mỉ. Nhà ngôn ngữ học Simon Ley lập luận kiểu đọc kỹ các văn bản của Đảng này “giống như nhai xúc xích tê giác, hoặc nuốt mùn cưa bằng xô” và nó đòi hỏi một người không chỉ học tiếng Trung Quốc mà còn phải “bẻ khóa mật mã của chính trị Cộng sản. biệt ngữ và dịch sang cách hiểu thông thường thứ ngôn ngữ bí mật này chứa đầy các ký hiệu, câu đố, mật mã, gợi ý, bẫy, ám chỉ đen tối và những lời nói màu đỏ.” Trong khi Cha Ladany là một trong những người thực hành sớm nhất và giàu kinh nghiệm nhất về phương pháp này, những người khác đã thực hiện nó. Trong CIA, Cơ quan Thông tin Phát thanh Nước ngoài (FBIS) đã tiếp thu một lượng lớn các nguồn mở của Trung Quốc, dịch chúng và cung cấp cho những người khác. Trong quá trình này, nó đã xây dựng kinh nghiệm thể chế để hiểu ĐCSTQ và đào tạo một thế hệ học giả về các phương pháp này.
Một trong những học giả đó là Alice Miller, chuyên gia hàng đầu về nguồn mở của ĐCSTQ, người bảo vệ việc đọc kỹ các văn bản của Đảng mặc dù cách tiếp cận ngày càng phức tạp. Miller lưu ý đã có một sự bùng nổ trên các phương tiện in ấn của Trung Quốc từ 300 khi Cha Ladany bắt đầu xuất bản lần đầu tiên vào năm 1952 lên đến khoảng 2.000 ngày nay; các chương trình phát thanh và truyền hình cũng đã tăng lên đáng kể, lấn át khả năng theo dõi tất cả các chương trình của các cá nhân. Việc tiếp cận các học giả, nhà ngoại giao, nhà nghiên cứu, quan chức, nhà báo, nhà lãnh đạo và cơ quan chính phủ của Trung Quốc cũng mang lại nhiều cơ hội hơn cho thông tin. Và các nhà báo nước ngoài - với những hạn chế đáng kể - có thể khám phá nhiều câu chuyện. Chúng ta còn rất xa so với thời đại của Cha Ladany và FBIS, khi Trung Quốc bị cô lập với thế giới. Thật hợp lý khi đặt câu hỏi tại sao việc tập trung vào các văn bản của Đảng vẫn hữu ích.
Alice Miller
Đảng vẫn là thể chế quan trọng ở Trung Quốc và đường lối, chủ trương và chính sách của Đảng tiếp tục
định hình hành vi của Trung Quốc. Thực sự đã có một sự bùng nổ trên các phương tiện truyền thông, nhưng không nhất thiết phải là một sự phát triển tương đương trong các phương tiện truyền thông có thẩm quyền nhất và Đảng tiếp tục sử dụng các bài phát biểu, tuyên bố và bình luận quan trọng — cũng như các cuộc họp quan trọng — để truyền đạt các ưu tiên chính sách của mình cho chính mình và những người khác. Và trong một số lĩnh vực mà tài liệu có thẩm quyền đã tăng lên, nó thường có phạm vi đủ hẹp để tránh các nhà phân tích áp đảo. Không giống như thời của Cha Ladany và FBIS, khi cơ sở văn bản còn hạn hẹp và các kết luận còn rộng, thì sự xuất hiện của các nguồn mới (ví dụ, sách hoặc tạp chí từ các bộ chủ chốt của nhà nước) có nghĩa là các nguồn bây giờ quá rộng.
Đồng thời, ngay cả khi một số tài liệu phát triển, bản thân Trung Quốc rõ ràng đang rút lui khỏi sự cởi mở mà họ đã cho phép gần đây: các nhà báo bị trục xuất, các cơ quan lưu trữ đóng cửa và nhiều cuộc gặp trực tiếp giờ đây quá nhạy cảm để mang lại cái nhìn sâu sắc. Kết quả của những xu hướng này, nhà Hán học người Úc Geremie R. Barmé lưu ý, “những kỹ năng lâu nay bị bỏ qua, hoặc bị đánh giá thấp, để có thể đọc, nghe và hiểu sự bùng nổ của đảng-nhà nước Trung Quốc, có lẽ đang thịnh hành. “Giao tiếp chính trị là một loạt các hành vi chính trị có chủ ý,” Miller lập luận một cách thuyết phục và “tất cả các hành vi chính trị đều nói lên điều gì đó về các tác nhân tham gia vào nó.”
Khi được áp dụng cho chính sách đối ngoại - một lĩnh vực vẫn được kiểm soát tập trung và trong đó các lợi ích của đảng phái dường như có ảnh hưởng tương đối hạn chế - những hiểu biết này thậm chí còn chân thực hơn. Chính sách đối ngoại chủ yếu được truyền đạt ở một loạt địa chỉ chính. Những điều mà các nhà lãnh đạo cấp cao đã phát biểu tại Đại hội Đảng, tại Diễn đàn Công tác Đối ngoại Trung ương, tại các Hội nghị Đại sứ, trong các cuộc họp của Quân ủy Trung ương và trong một loạt các dịp khác được sử dụng để thiết lập hoặc điều chỉnh chính sách đối ngoại đến nay vẫn còn rất quan trọng. như nó đã từng. Các bài bình luận về những bài phát biểu đôi khi không đầy đủ hoặc khó hiểu này, thường được các quan chức cấp cao đăng trên các tạp chí chủ chốt của Đảng, là xác thực và có thẩm quyền - như chúng đã có trong nhiều thập kỷ. Và những nhận định quan trọng trong các văn bản này về “cán cân lực lượng quốc tế” hay “kim chỉ nam chiến lược” tiếp tục có liên quan nhiều đến chiến lược lớn. Trong khi đó, bên dưới tầng bậc cao của các văn bản có thẩm quyền nhất này là một đại dương tài liệu với các mức độ thẩm quyền khác nhau. Khi được phân tích kỹ lưỡng, các tài liệu đó vẫn có thể mang lại cái nhìn sâu sắc hơn về chiến lược lớn của Trung Quốc. Bây giờ chúng ta chuyển sang các loại nghiên cứu có thể được thực hiện.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Tài liệu cụ thể nào tạo nền tảng cho việc tìm hiểu của cuốn sách này về chiến lược lớn của Trung Quốc? Một cách tiếp cận văn bản đối với chiến lược lớn của Trung Quốc dựa vào việc thiết lập một hệ thống phân cấp nguồn mở và các nguồn của Trung Quốc được phân loại theo thứ tự thẩm quyền và rút ra từ chúng cho phù hợp. Có thẩm quyền nhất trong số này là hồi ký cấp lãnh đạo, văn bản lý luận, nguồn lưu trữ, bài phát biểu chính thức, tài liệu được phân loại và bài luận của các nhà lãnh đạo cấp cao. Chúng phản ánh tư duy của Đảng tốt hơn so với các nguồn được trích dẫn thường xuyên hơn nhưng thường ít đáng tin cậy hơn như các bài báo trên tạp chí Trung Quốc và các báo cáo của think tank.
Think tank hay Viện chính sách, Viện nghiên cứu là một tổ chức hoặc nhóm các cá nhân hoạt động nghiên cứu đưa ra các tư vấn về chính sách, chiến lược trong các lĩnh vực, ban đầu là quân sự, sau đó mở rộng sang các lĩnh vực khác như chính trị, kinh tế, giáo dục, khoa học – kĩ thuật, văn hóa và xã hội.
Điều này đặt ra một câu hỏi quan trọng: làm thế nào một học giả phân biệt giữa các nguồn được cho là có thẩm quyền? Vì không phải tất cả các tài liệu có thẩm quyền đều thuộc cùng một loại, cho phép chúng tôi phân chia chúng thành nhiều loại khác nhau, như Bảng 2.1 trình bày.
Bảng 2.1 Thứ bậc của các nguồn chính:
Các bài phát biểu của nhà lãnh đạo
Các thông báo chính sách đối ngoại chính
Các tài liệu về chính sách đối ngoại
Sách trắng của chính phủ
Phương tiện truyền thông của Đảng
Các bài xã luận và bình luận có bút danh
Bình luận của Qiushi và Xuexi Shibao
Tài liệu và Tuyên bố của Bộ và Quân đội
Tư liệu từ Nhà xuất bản Bộ và Quân đội
Viện chính sách và Nhận xét bình luận học thuật từ các học giả có mối quan hệ tốt Nhận xét từ các Chương trình liên kết của Chính phủ
Các nguồn có thể được chia thành năm loại thô, theo thứ tự thẩm quyền giảm dần. Đầu tiên là các bài phát biểu của cấp lãnh đạo đề ra đường lối, chủ trương và chính sách về các vấn đề lớn — đặc biệt là các bài phát biểu tại Đại hội Đảng, tại các Hội nghị Công tác Đối ngoại, và tại Hội nghị Đại sứ, cùng các thông báo khác trong và ngoài nước. Loại thứ hai là các tài liệu và bài phát biểu của chính phủ Trung Quốc, chẳng hạn như Sách trắng về chính sách đối ngoại hoặc quốc phòng hoặc ngoại giao, dành cho khán giả nước ngoài. Loại thứ ba là các tờ báo có thẩm quyền của Đảng như Nhân dân nhật báo và các tạp chí như Đi tìm sự thật, do Trung ương Đảng xuất bản và Thời báo nghiên cứu, do Trường Đảng Trung ương xuất bản. Các ấn phẩm thể hiện quan điểm chính thức của Đảng, phát sóng một số cuộc tranh luận của Đảng và cũng chứa các bình luận chi tiết có thẩm quyền về các bài phát biểu chính thức. Loại thứ tư là các nguồn chức năng, chẳng hạn như các tác phẩm và hồi ký được chọn lọc và các ấn phẩm khác do các cơ quan báo chí liên kết với các cơ quan chủ chốt hoặc quân đội. Cuốn sách này lấy nội dung quan trọng từ hồi ký của các tướng lĩnh, nhà ngoại giao và các quan chức cấp cao khác. Loại thứ năm là các suy nghĩ và bình luận học thuật ở các mức độ có thẩm quyền khác nhau. Những nguồn này đôi khi minh họa phạm vi của các cuộc tranh luận quan trọng có thể định hướng cho quy trình lập pháp.
Cuốn sách này dựa trên cơ sở dữ liệu gốc của các loại tài liệu này. Cốt lõi của cơ sở dữ liệu bao gồm các bộ sưu tập tài liệu Đảng được xuất bản thường xuyên, chẳng hạn như các ấn phẩm chính thức của các tác phẩm được chọn lọc của tất cả các nhà lãnh đạo lớn sau Mao cũng như các bộ sưu tập các văn kiện Đảng được xuất bản thành ba tập giữa các kỳ Đại hội Đảng, trong số những bộ khác. Các nguồn này được sử dụng để thiết lập các so sánh theo chiều dọc vì chúng được xuất bản thường xuyên và thể hiện sự nhất quán trong việc lựa chọn tài liệu. Ngoài ra, một số nguồn khác không được công bố thường xuyên cũng được lấy ý kiến tùy từng trường hợp cụ thể. Hầu hết trong số này được rút ra từ các biên soạn chuyên đề khác của Đảng do Nhà xuất bản Tư liệu Trung ương xuất bản; Ngoài ra, Sách trắng của nhà nước, nhận xét của bộ trưởng, phương tiện truyền thông của Đảng, các nguồn chức năng từ các bộ hoặc báo chí của bộ, hồi ký, và bình luận của các nhà nghiên cứu và học thuật cũng được tham khảo. Một số tài liệu bị rò rỉ cũng được bao gồm.
Làm sao chúng ta biết được liệu các văn kiện của Đảng có thiên vị hay không? Xét cho cùng, các tài liệu của Đảng và nhà nước có thẩm quyền do báo chí chính thức biên soạn đều được chỉnh sửa và chế tác theo
những cách mà các tài liệu bị rò rỉ không phải là như vậy. Nhưng thay vì cường điệu hóa tham vọng hoặc nhận thức về mối đe dọa của Trung Quốc, những tài liệu này nên được coi là cung cấp ‘bài kiểm tra khó’ cho các lập luận của cuốn sách. Những văn bản này ít có khả năng chứa những diễn giải có thẩm quyền về những nỗ lực của Trung Quốc nhằm làm giảm sức mạnh của Mỹ hoặc xây dựng quyền bá chủ trong khu vực vì đây là những mục tiêu mà Trung Quốc thường không nhấn mạnh một cách công khai. Hơn nữa, Trung Quốc thường sàng lọc các ấn phẩm của mình để tìm các thuật ngữ có khả năng được các nhà quan sát phương Tây chọn ra sẽ góp phần gây lo lắng về sự trỗi dậy của Trung Quốc. Ví dụ, sau cuộc chiến thương mại của Hoa Kỳ với Trung Quốc một phần do sự ủng hộ của Trung Quốc đối với sáng kiến chính sách công nghiệp “Made in China 2025”, Bộ Truyền thông đã ra lệnh không sử dụng thuật ngữ này nữa và những đề cập của nó trên Tân Hoa xã đã nhanh chóng giảm mạnh. Các cụm từ như “Tao Guang Yang Hui ”(tức là lời khuyên của Đặng rằng Trung Quốc phải “che giấu khả năng và chờ thời”) cũng được coi là nhạy cảm. Ngoài ra, những văn bản này không có khả năng thể hiện tham vọng của Trung Quốc đối với khán giả theo chủ nghĩa dân tộc bởi vì chúng không được đọc rộng rãi bên ngoài Đảng và chúng bị hạn chế so với các bài bình luận hay phương tiện truyền thông. Cuối cùng, các tài liệu bị rò rỉ dường như thẳng thắn hơn nhiều về mối đe dọa của Mỹ và về tham vọng của Trung Quốc so với những tài liệu được công bố chính thức.
Mặc dù những tài liệu gây khó khăn cho việc phát hiện chiến lược của Trung Quốc, nhưng chúng vẫn đóng một vai trò điều phối hữu ích trong bộ máy Đảng-nhà nước. Do đó, ‘tín hiệu’ của chiến lược Trung Quốc vẫn có thể được phát hiện thông qua ‘nhiễu’ của các chỉnh sửa chính thức, đặc biệt là khi các tài liệu được so sánh dọc theo thời gian. Ví dụ, người ta có thể xem xét sự khác biệt trong cáo công tác Đại hội Đảng, thông cáo Hội nghị đại sứ, Diễn đàn công tác đối ngoại trung ương — cũng như trong các khái niệm chính như phương châm chiến lược hoặc đánh giá tính đa cực — để phát hiện những thay đổi trong chiến lược.
Cách tiếp cận phân tích được mô tả ở đây để sàng lọc tài liệu về Đảng không dễ thực hiện và nó không phải lúc nào cũng được thực hiện một cách hoàn hảo, nhưng nó vẫn cần thiết vì hiểu rõ chính sách đối ngoại của Trung Quốc đòi hỏi Đảng phải coi trọng. Tuy nhiên, kể từ khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, việc các nhà quan sát phương Tây tập trung nhiều vào Đảng đã là một thách thức. Tổ chức này là xa lạ, các tổ chức của nó có vẻ lỗi thời, và các văn bản của nó thường cũ. Chưa hết, những thể chế đó là một phương tiện cực kỳ mạnh mẽ cho chủ nghĩa dân tộc Trung Quốc và để điều phối chiến lược lớn và cung cấp cho nhà nước một số quyền tự chủ khỏi xã hội. Những văn bản đó cũng cung cấp một cửa sổ duy nhất vào một tổ chức bí mật khác. Và xem xét cả hai có thể giúp minh họa các đường nét trong chiến lược lớn của Trung Quốc. Bây giờ chúng ta chuyển sang chương đầu tiên áp dụng cách tiếp cận này và xem xét cách thức mà bộ ba sự kiện ở Quảng trường Thiên An Môn, Chiến tranh vùng Vịnh và sự sụp đổ của Liên Xô đã làm nảy sinh chiến lược dịch chuyển đầu tiên của Trung Quốc: một chiến lược lớn nhằm hủy hoại trật tự của Mỹ.
ẨN MÌNH CHỜ THỜI
CHIẾN LƯỢC DỊCH CHUYỂN ĐẦU TIÊN CỦA TRUNG QUỐC (1989–2008)
| 3 |
CHIẾN TRANH LẠNH MỚI
“Tôi mong đợi Chiến tranh Lạnh kết thúc, nhưng giờ tôi cảm thấy thất vọng. Có vẻ như một cuộc Chiến tranh Lạnh đã kết thúc nhưng hai cuộc chiến khác đã bắt đầu.” Đặng Tiểu Bình, 1989.
Bốn thập kỷ trước, một mối quan hệ đối tác không thể tin được đã được hình thành. Với sự chấp thuận của Bắc Kinh, Hoa Kỳ đã xây dựng và vận hành hai cơ sở tình báo tín hiệu tại Korla và Qitai, đặt trên các tuyến đường lữ hành cũ của Con đường Tơ lụa ở miền Tây Trung Quốc. Các trạm này được sử dụng để giám sát việc thử tên lửa của Liên Xô ở Kazakhstan và trong các bức tường của họ, các chuyên gia tình báo Mỹ đã sát cánh cùng các đồng nghiệp của họ trong Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLA) để theo dõi mối đe dọa từ Liên Xô.
Các trạm tại Korla và Qitai là bằng chứng vật lý cho một điều mà bây giờ có vẻ khó tin: Hoa Kỳ và Trung Quốc đã từng là đồng minh. Trong suốt những năm 1980, Washington đã làm việc với Bắc Kinh để chống lại sự xâm lược của Liên Xô ở Afghanistan và ảnh hưởng của Liên Xô ở Đông Nam Á. Nó đã bán cho Trung Quốc vũ khí, bao gồm “thiết bị pháo và đạn dược, ngư lôi chống tàu ngầm, radar định vị pháo, hệ thống điện tử hàng không tiên tiến và trực thăng Blackhawk.” Và thậm chí nó còn cho phép các đồng minh của mình bán cho Trung Quốc một thân tàu sân bay cũ để nghiên cứu. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc hoan nghênh các mối quan hệ này. Trong các cuộc họp với Quân ủy Trung ương Trung Quốc, Đặng đã tuyên bố “mối đe dọa của chủ nghĩa bá quyền Liên Xô” đã khiến nước này hình thành ‘một’ tuyến “phòng thủ chiến lược - một tuyến kéo dài từ Nhật Bản đến châu Âu đến Hoa Kỳ” về an ninh, hợp tác kinh tế và chính trị với phương Tây ngày càng sâu rộng và một số người ở Bắc Kinh cũng hy vọng Washington sẽ can thiệp vào một cuộc chiến tranh Trung-Xô.
Tất cả những điều này đã thay đổi đột ngột sau cái mà cuốn sách này gọi là “bộ ba đau thương” là Quảng trường Thiên An Môn (1989), Chiến tranh vùng Vịnh (1990–1991), và Sự sụp đổ của Liên Xô (1991). Ba năm ngắn ngủi nhưng lịch sử này đã định hình lại Hoa Kỳ, Trung Quốc và hệ thống quốc tế, và mỗi nămđều làm tăng thêm sự lo lắng của Bắc Kinh về Hoa Kỳ. Các cuộc biểu tình ở Quảng trường Thiên An Môn nhắc nhở Bắc Kinh về mối đe dọa ý thức hệ của Mỹ, chiến thắng nhanh chóng trong Chiến tranh Vùng Vịnh nhắc nhở họ về mối đe dọa quân sự của Mỹ, và việc mất đi đối thủ chung Liên Xô nhắc nhở họ về mối đe dọa địa chính trị của Mỹ. Trong ngắn hạn, Hoa Kỳ nhanh chóng thay thế Liên Xô trở thành mối quan tâm an ninh hàng đầu của Trung Quốc, từ đó dẫn đến một chiến lược lớn mới và cuộc đấu tranh kéo dài ba mươi năm nhằm thay thế quyền lực của Hoa Kỳ đã ra đời.
Khi thế giới xã hội chủ nghĩa sụp đổ vào cuối những năm 1980 và một trật tự mới ra đời, Đặng Tiểu Bình đã đưa ra “phương châm chiến lược” [ ] để giảm nguy cơ ngăn chặn do Mỹ dẫn đầu, nhằm giảm bớt đòn bẩy của Mỹ đối với Trung Quốc, và từ đó bảo đảm các điều kiện cho sự phát triển và tự chủ của Trung Quốc. Hướng dẫn cuối cùng được gói gọn trong một hướng dẫn gồm hai mươi bốn ký tự thường được tómgọn trong một chỉ dẫn bốn ký tự: Trung Quốc cần “che giấu khả năng và chờ thời,” hoặc “Tao Guang Yang
Hui” []. Hướng dẫn này đóng vai trò là nguyên tắc tổ chức cấp cao cho chính sách đối ngoại của Trung Quốc. Theo cách đó, nó hoạt động như một khái niệm chiến lược lớn và đặt ra cho Trung Quốc một chiến lược lớn nhằm làm giảm nhẹ đòn bẩy quân sự, chính trị và kinh tế của Mỹ, tất cả với mục tiêu tăng cường quyền tự do điều động của chính Bắc Kinh.
Chương này khám phá quan điểm thay đổi của Trung Quốc về Hoa Kỳ vào cuối Chiến tranh Lạnh. Nó lập luận mặc dù một số người tin cụm từ "Tao Guang Yang Hui" nhận được sự chú ý quá mức của khán giả nước ngoài, nhưng quan điểm như vậy là sai lầm. Cụm từ này xuất hiện trên một loạt các bài phát biểu, hồi ký và bài bình luận chính thức của cấp lãnh đạo làm cho tầm quan trọng và đường nét của nó trở nên rõ ràng. “Tao Guang Yang Hui” được gắn với đánh giá của Trung Quốc về “cán cân quyền lực quốc tế” [
] . Khi cán cân quyền lực đó thay đổi, chiến lược cũng thay đổi theo.
Tao Guang Yang Hui (Thao Quang Dưỡng Hối) Người Trung Quốc biết họ cần từ 30 tới 40 năm hòa bình nữa thì mới bắt kịp với phần còn lại của thế giới. Họ đã đi đến kết luận nếu họ vẫn giữ nguyên lộ trình, tránh làm phật lòng các cường quốc hiện tại và kết bạn với mọi nước, họ sẽ chỉ càng ngày càng mạnh hơn. Việc này sẽ cho họ không gian để giải quyết các vấn đề nội bộ và tiếp tục phát triển kinh tế.
Theo chiến lược, Trung Quốc đã chọn không xây dựng nền tảng cho quyền bá chủ châu Á vì họ sợ làm như vậy sẽ gây bất an cho Hoa Kỳ và các nước láng giềng của mình. Nó tránh các khoản đầu tư lớn vào hàng không mẫu hạm, các tổ chức quốc tế đầy tham vọng và các kế hoạch kinh tế khu vực và thay vào đó - như ba chương tiếp theo sẽ trình bày - theo đuổi việc cắt giảm. Ở cấp độ quân sự, Bắc Kinh chuyển từ chiến lược “kiểm soát biển” ngày càng tập trung vào việc nắm giữ lãnh thổ biển xa sang “chiến lược từ chối biển”, tập trung vào việc hạn chế khả năng quân đội Mỹ đi qua, kiểm soát hoặc can thiệp vào các vùng biển gần Trung Quốc. Ở cấp độ chính trị, Bắc Kinh quyết định tham gia và sau đó đình trệ các thể chế khu vực, làm giảm khả năng của Washington trong việc sử dụng chúng để thúc đẩy hệ tư tưởng phương Tây hoặc tổ chức một NATO châu Á. Và ở cấp độ kinh tế, không bị ảnh hưởng bởi các lệnh trừng phạt thời Thiên An Môn, Bắc Kinh đã chiến đấu để duy trì khả năng tiếp cận thị trường, vốn và công nghệ của Mỹ thông qua các thỏa thuận song phương và đa phương nhằm loại bỏ việc tùy tiện sử dụng các biện pháp ép buộc kinh tế của Mỹ. Cùng với nhau, chiến lược cắt giảm của Trung Quốc rất đáng chú ý cả về khả năng và sự khôn khéo của nó trên nhiều công cụ. Như Đặng đã từng tuyên bố, các nhà lãnh đạo Trung Quốc biết Chiến tranh Lạnh đã kết thúc, nhưng họ lo sợ một cuộc chiến khác đã bắt đầu. Họ đã chuẩn bị cho phù hợp.
CHUYỂN ĐỔI TRẠNG THÁI GIỮA BẠN & THÙ
Dưới màn che của bóng tối vào một buổi sáng thứ Sáu mát mẻ vào tháng 6 năm 1989, Cố vấn An ninh Quốc gia Brent Scowcroft đã lên chiếc máy bay chở hàng quân sự C-141 lúc 5 giờ sáng. và cất cánh từ Căn cứ Không quân Andrews cho một nhiệm vụ bí mật tới Bắc Kinh. Chuyến đi nhằm mục đích ổn định mối quan hệ song phương khoảng ba tuần sau khi Quân đội Giải phóng Nhân dân nổ súng vào những người biểu tình sinh viên ở Quảng trường Thiên An Môn, và điều này là bất thường. Để giữ bí mật, Scowcroft cần một chiếc máy bay như C-141 có thể tiếp nhiên liệu trên không và không cần hạ cánh. Để chở Scowcroft và hai người bạn đồng hành, chiếc C-141 cần được trang bị đặc biệt như một chiếc ‘pallet tiện nghi’ với giường và ghế ngồi. Và để giảm nguy cơ xảy ra sự cố quân sự, chiếc máy bay cần được gỡ bỏ dấu hiệu Không quân và phi hành đoàn quân sự của nó mặc trang phục dân sự. Biện pháp cuối cùng đó chỉ thành công ở mức khiêm tốn. Nhiệm vụ bí mật đến mức các đơn vị phòng không địa phương của Trung Quốc không hề hay biết và suýt nữa đã bắn vào máy bay của Scowcroft, nhưng quyết định gọi điện trước cho văn phòng của Chủ tịch Dương Thượng Côn. “Thật may mắn cho chúng tôi,” Scowcroft sau đó kể lại, “cuộc gọi đã thành công.”
Khi máy bay hạ cánh vào chiều ngày 1 tháng 7, nó nằm khuất sau một nhà ga cũ tránh xa những con mắt tò mò. Sáng hôm sau, Scowcroft gặp Đặng Tiểu Bình, Lý Bằng, và các quan chức khác, cùng một nhiếp ảnh gia tình cờ là con trai của Chủ tịch Dương. Trước chuyến thăm của Scowcroft, Tổng thống George H. W. Bush đã gửi một bức thư bí mật cho Đặng Tiểu Bình về tầm quan trọng của quan hệ song phương; bây giờ, Scowcroft sẽ đích thân mang một thông điệp tương tự để trấn an nhà lãnh đạo tối cao của Trung Quốc rằng bất chấp những biện pháp cứng rắn mà Hoa Kỳ buộc phải thực hiện để đáp trả lại sự đàn áp của Trung Quốc, Washington sẽ hạn chế các hành động của mình để duy trì mối quan hệ.
Cuối cùng, nỗ lực đã tạo ra một chút khác biệt. Đặng ban đầu ca ngợi chính quyền Bush vì ‘thái độ lạnh lùng’ nhưng sau đó chuyển sang chỉ trích mạnh mẽ, lập luận “Hoa Kỳ với Chính sách đối ngoại đã thực sự dồn Trung Quốc vào chân tường.” Quảng trường Thiên An Môn “là một sự kiện chấn động trái đất”, ông nói, “và rất đáng tiếc là Hoa Kỳ đã tham gia quá sâu vào nó.” Ông Đặng lập luận các lệnh trừng phạt và chỉ trích của Hoa Kỳ từ Quốc hội và các phương tiện truyền thông đã “dẫn đến sự tan vỡ của mối quan hệ”, và việc “tháo gỡ nút thắt” là tùy thuộc vào Washington. một mối đe dọa hiện hữu đối với Đảng. Ông nói: “Mục đích của cuộc nổi dậy phản cách mạng là lật đổ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và hệ thống xã hội chủ nghĩa của chúng tôi, và Washington dường như sẵn sàng “đổ thêm dầu vào lửa”. Scowcroft lại cố gắng nhấn mạnh quan điểm của Mỹ, nhưng ông Đặng rõ ràng đã quyết định. “Tôi không có nhiều thời gian,” ông ấy trả lời mặc dù có sự tiếp đón nồng nhiệt đối với Scowcroft, và nhấn mạnh ông không đồng ý với “một phần đáng kể” trong nhận xét của cố vấn an ninh quốc gia.
Một thập kỷ sau, Scowcroft phản ánh về những cuộc họp này và ghi nhận thách thức mà ông phải đối mặt
trong việc trấn an Bắc Kinh. “Tôi đã giải thích nhiều lần... cách hệ thống của chúng tôi hoạt động, nhưng tôi nghĩ họ không bao giờ thực sự tin vào điều đó,” ông nói về nỗ lực giải thích sự chia rẽ giữa Quốc hội và chính quyền Bush về các lệnh trừng phạt Thiên An Môn. Sự khác biệt trong văn hóa và Scowcroft nhận xét: “chúng tôi quan tâm đến tự do và nhân quyền.” Chính xác là khoảng cách ý thức hệ này - với các giá trị tự do được đặt ra. một mối nguy hiểm đối với ĐCSTQ - điều đã khiến Hoa Kỳ trở nên quá đe dọa đối với Bắc Kinh và điều đó khiến Bắc Kinh quá khó để trấn an.
Tuy nhiên, chỉ vài tháng trước Thiên An Môn, tình hình đã hoàn toàn khác. Trong cuộc gặp tháng 2 năm1989 với Tổng thống Bush, Đặng đã tập trung chăm chú vào mối đe dọa từ Liên Xô. Các cuộc đụng độ biên giới, vũ khí hạt nhân và sự hiện diện của ba mươi sư đoàn Liên Xô ở biên giới Trung Quốc đã khiến chiến tranh quy mô lớn có thể xảy ra. Ông đã gói mối quan tâm của mình vào lịch sử. Đặng kể lại với Bush: “Nhật Bản đã gây thiệt hại lớn nhất cho Trung Quốc, nhưng Liên Xô mới chiếm ‘ba triệu km vuông’ lãnh thổ Trung Quốc. Những người trên 50 tuổi ở Trung Quốc nhớ hình dạng của Trung Quốc giống như một cây phong. Bây giờ, nếu bạn nhìn vào bản đồ,” ông Đặng giải thích, “bạn sẽ thấy một phần lớn phía bắc bị cắt đứt” bởi Liên Xô. Mặc dù vậy, ông nhận thấy nhà lãnh đạo Liên Xô Joseph Stalin là một người bạn của Trung Quốc, người đã ủng hộ quá trình hiện đại hóa nước này, nhưng người kế nhiệm là Nikita Khrushchev đã “hủy bỏ hàng trăm hợp đồng Trung-Xô trong một đêm” và tìm cách bao vây Trung Quốc. Ông Đặng nói: “Suốt dọc biên giới Trung-Xô, ở phía tây và phía đông, Liên Xô đồn trú một triệu người và triển khai khoảng một phần ba tổng số tên lửa hạt nhân của mình. đã được thêm vào và sau đó là Việt Nam[cũng như Afghanistan và Campuchia]. Giờ đây, Liên Xô có quyền vận chuyển đường hàng không quân sự qua Triều Tiên, cho phép họ kết nối với Vịnh Cam Ranh [ở Việt Nam]. Máy bay của họ hiện có thể tiến hành trinh sát không phận Trung Quốc.” Đặng nói rõ đánh giá này đòi hỏi “sự phát triển quan hệ của họ với Hoa Kỳ”. Sau đó, ông đưa ra điểm mấu chốt: “Làm thế nào để Trung Quốc không cảm thấy mối đe dọa lớn nhất đến từ Liên Xô?” Đánh giá về mối đe dọa của Liên Xô không chỉ vì lợi ích của Bush. Khi nhà lãnh đạo Liên Xô Mikhail Gorbachev đến thăm Bắc Kinh vài tháng sau đó, Đặng đã trực tiếp chuyển tải đánh giá tương tự về mối đe dọa của Liên Xô cho Gorbachev.
Tổng thống George H. W. Bush và Đặng Tiểu Bình
Mặc dù Bắc Kinh đôi khi tìm cách cải thiện quan hệ với Liên Xô và nhấn mạnh lợi ích của họ đối với một chính sách đối ngoại ‘độc lập’ vào đầu những năm 1980, nhưng rõ ràng là họ nghiêng hẳn về phía Washington. Trung Quốc hợp tác chặt chẽ với Hoa Kỳ trong các vấn đề an ninh, quân sự và Các văn bản học thuyết vẫn chủ yếu tập trung vào khả năng xảy ra chiến tranh với Liên Xô chứ không phải Hoa Kỳ. Khi nhà báo Mỹ Mike Wallace hỏi Đặng trong một cuộc phỏng vấn vào năm 1986 tại sao mối quan hệ của Trung Quốc với nước Mỹ tư bản chủ nghĩa hơn mối quan hệ của họ với những người cộng sản Liên Xô, Đặng không phản đối đánh giá của Wallace. Ông giải thích: “Trung Quốc không coi các hệ thống xã hội là tiêu chí trong cách tiếp cận các vấn đề, mà thay vào đó tập trung vào ‘các điều kiện cụ thể’ của những vấn đề đó.” Trong suốt những năm 1980, nguy cơ chiến tranh với Liên Xô vẫn là một vấn đề đáng kể. cho Bắc Kinh.
Khi những năm 1980 kết thúc, và khi cuộc họp với Scowcroft được tiết lộ, đánh giá của Trung Quốc đang thay đổi. Quảng trường Thiên An Môn năm 1989, Chiến tranh vùng Vịnh 1990-1991 và sau đó là sự sụp đổ của Liên Xô năm 1991 đã khiến Trung Quốc coi Hoa Kỳ chứ không phải Liên Xô là mối đe dọa chính của Trung Quốc, như các tài liệu có thẩm quyền cho thấy rõ.
Bất chấp những nỗ lực của chính quyền Bush, những nhận xét của Đặng về Hoa Kỳ đã thay đổi đáng kể bắt đầu từ năm 1989. Trong suốt hầu hết những năm 1980, khi một bài đánh giá về các Tác phẩm được chọn
của ông cho thấy rõ ràng, Đặng thỉnh thoảng chế nhạo Hoa Kỳ vì sự kiêu ngạo dân chủ hoặc vì sự can thiệp vào Đài Loan, tuy nhiên ông không coi Hoa Kỳ là một mối đe dọa. Sau năm 1989, ông thường xuyên tố cáo Hoa Kỳ về mặt ý thức hệ. Ví dụ, trong một cuộc nói chuyện riêng với một số thành viên của Ủy ban Trung ương ĐCSTQ chỉ hai tháng sau cuộc gặp với Scowcroft, Đặng nói “không còn nghi ngờ gì nữa, những kẻ đế quốc muốn các nước xã hội chủ nghĩa thay đổi bản chất của họ. Vấn đề bây giờ không phải là ngọn cờ của Liên Xô có sụp đổ hay không - ở đó chắc chắn sẽ có bất ổn - mà là ngọn cờ của Trung Quốc có sụp đổ hay không.”
Tình cảm đã trở thành đặc điểm chung trong các nhận xét của Đặng, thậm chí cả những nhận xét công khai của ông ấy. “Phương Tây thực sự muốn bất ổn ở Trung Quốc,” Đặng tuyên bố vào cuối tháng đó, “họ muốn bất ổn không chỉ ở Trung Quốc mà còn ở Liên Xô và Đông Âu. Hoa Kỳ và một số nước phương Tây khác đang cố gắng thực hiện diễn biến hòa bình theo hướng chủ nghĩa tư bản ở các nước xã hội chủ nghĩa.” Trong suy nghĩ của Đặng, mối đe dọa với Trung Quốc là một hình thức chiến tranh. Ông lập luận: “Hoa Kỳ đã đặt ra một cách diễn đạt: tiến hành một cuộc chiến tranh thế giới mà không có súng đạn. Chúng ta nên đề phòng điều này. Các nhà tư bản muốn đánh bại những người xã hội chủ nghĩa về lâu dài. Trước đây họ sử dụng vũ khí, bom nguyên tử, bom khinh khí nhưng bị các dân tộc trên thế giới phản đối. Vì vậy, bây giờ họ đang cố gắng dùng diễn biến hòa bình.”
Diễn biến hòa bình là khái niệm được một số nước xã hội chủ nghĩa sử dụng để nói về một chiến lược chính trị - ý thức hệ và xã hội của chủ nghĩa tư bản và chính trị cánh hữu nhằm chống lại chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa Marx-Lenin và chủ nghĩa cộng sản.
Trong cuộc gặp với Richard Nixon sau Thiên An Môn, Đặng tuyên bố “Hoa Kỳ đã tham gia sâu sắc” vào “những xáo trộn gần đây và cuộc nổi dậy phản cách mạng” của sinh viên và “một số người phương Tây”. Đang cố gắng lật đổ hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Trung Quốc. Trong một bài phát biểu vào tháng 11 năm1989, ông cảnh báo, “Các nước phương Tây đang dàn dựng một cuộc chiến tranh thế giới thứ ba mà không có tiếng súng.” Trách nhiệm của phương Tây về sự cố Thiên An Môn. Ông lập luận: “Các nước phương Tây, đặc biệt là Hoa Kỳ, thiết lập tất cả các bộ máy tuyên truyền của họ để thổi bùng ngọn lửa, khuyến khích và ủng hộ cái gọi là các nhà dân chủ hoặc phe đối lập ở Trung Quốc, những người thực chất là cặn bã của đất nước Trung Quốc. Đó là lý do khiến tình trạng hỗn loạn xảy ra.” Theo quan điểm của Đặng, không chỉ Hoa Kỳ phải chịu trách nhiệm, mà các mục tiêu của nước này đều mang tính thù địch: “Khi kích động tình trạng bất ổn ở nhiều quốc gia, họ thực sự đang chơi quyền lực chính trị và tìm kiếm bá quyền. Họ đang cố gắng đưa vào phạm vi ảnh hưởng của họ với các quốc gia mà trước đây họ không thể kiểm soát. Một khi điểm này được làm rõ ràng, nó sẽ giúp chúng ta hiểu được bản chất của vấn đề.”
Giữa những lo ngại, cuộc biểu dương vũ lực của Hoa Kỳ trong Chiến tranh Vùng Vịnh vào đầu năm 1991 - như chương sau sẽ nói rõ hơn - đã khiến Bắc Kinh lo ngại. Khi bắt đầu cuộc chiến, các nhà phân tích và lãnh đạo Trung Quốc vẫn tin Hoa Kỳ sẽ chịu thương vong cao và thậm chí có thể không đảm bảo được các mục tiêu của mình. Họ lưu ý ‘sự gây hấn’ của Hoa Kỳ đối với Iraq sẽ kém hiệu quả hơn so với chống lại Grenada, Libya và Panama; Iraq, với trang thiết bị tương tự và trong một số trường hợp vượt trội hơn so với Trung Quốc, sẽ tiến hành một hình thức “Chiến tranh nhân dân trong điều kiện hiện đại” thành công; và Hoa Kỳ sẽ bị kéo vào một cuộc chiến trên bộ lâu dài dẫn đến thất bại chính trị.
Chiến tranh Vùng Vịnh năm 1991 (cũng gọi là Chiến tranh vịnh Ba Tư hay Chiến dịch Bão táp Sa mạc) là một cuộc xung đột giữa Iraq và liên minh 38 quốc gia do Hoa Kỳ lãnh đạo và được Liên Hợp Quốc phê chuẩn để giải phóng Kuwait.
Sự kiện dẫn tới chiến tranh là việc Iraq xâm chiếm Kuwait ngày 2 tháng 8 năm 1990, sau khi Iraq cho rằng (nhưng không chứng minh được) Kuwait đã ‘khoan nghiêng’ giếng dầu của họ vào biên giới Iraq. Hậu quả của cuộc xâm lược là Iraq ngay lập tức bị Liên Hợp Quốc áp đặt trừng phạt kinh tế. Những hành động quân sự bắt đầu từ tháng 1 năm 1991, dẫn tới thắng lợi hoàn toàn của các lực lượng đồng minh, buộc quân đội Iraq phải rút khỏi Kuwait với tổn thất nhân mạng ở mức tối thiểu cho lực lượng đồng minh. Những trận đánh chính là trên không và trên bộ bên trong Iraq, Kuwait và những vùng giáp biên giới Ả Rập Xê Út. Cuộc chiến không mở rộng ra ngoài vùng biên giới Iraq/Kuwait/Ả Rập Xê Út, dù Iraq đã bắn tên lửa vào các thành phố của Israel.
Tất cả những điều này đã được phóng đại một cách phi thường, và khi Hoa Kỳ thắng lợi một cách ngoạn mục trong cuộc xung đột, một ban lãnh đạo sửng sốt của Trung Quốc đã nhìn thấy sự tương đồng đáng sợ giữa thất bại của Iraq và số phận có thể có của Trung Quốc trong cuộc xung đột với Hoa Kỳ. Một số nhân vật Trung Quốc đã viết công khai Chiến tranh vùng Vịnh là một ví dụ về “chủ nghĩa bá quyền toàn cầu” của Hoa Kỳ và “Hoa Kỳ có ý định thống trị thế giới,” bao gồm cả Trung Quốc. Cuộc xung đột không chỉ làmTrung Quốc tăng cường nỗi sợ hãi Hoa Kỳ mà còn dẫn đến Quân ủy Trung ương đưa ra một sáng kiến lớn nhằm nghiên cứu cuộc xung đột và cách chế tạo vũ khí phi đối xứng để đối phó với quân đội Mỹ, những nỗ lực tối cao của nhà lãnh đạo Đặng đã được thảo luận và trong đó người kế nhiệm ông là Giang Trạch Dân
trực tiếp tham gia.
Sự sụp đổ của Liên Xô vào năm sau đó đánh dấu chặng cuối cùng của cuộc tam hùng. Vào lúc đó, phần lớn thế giới xã hội chủ nghĩa đã biến mất, và Trung Quốc ngày càng đứng đơn độc. Như giáo sư David Shambaugh của Đại học George Washington đã ghi lại, sự sụp đổ của Liên Xô đã có tác động sâu sắc đến Đảng, truyền cảm hứng cho một cách nghiên cứu về những gì đã xảy ra và nhiều bài viết về sự lật đổ của Hoa Kỳ. Thập kỷ sau, các nhà lãnh đạo Trung Quốc vẫn bị ảnh hưởng bởi sự kiện này, với việc nhà lãnh đạo tối cao Tập Cận Bình tiếp tục hỗ trợ nghiên cứu về sự kiện và đưa ra những suy nghĩ của riêng mình về nó — đặc biệt là tầm quan trọng của việc chống lại chủ nghĩa tự do phương Tây.
Cùng với nhau, những đoạn trích này chứng minh sự điều chỉnh đáng chú ý trong nhận thức về mối đe dọa của Trung Quốc. Những nhận định của Đặng về mối đe dọa của Hoa Kỳ là những phán quyết chính thức của Đảng và chúng được nhắc lại trong vô số tài liệu quân sự, kinh tế và chính trị hẹp hơn. Nhận thức về mối đe dọa này đã hình thành nên yếu tố then chốt trong đó một chiến lược lớn mới của Trung Quốc sẽ được hình thành — một chiến lược tập trung vào việc tồn tại trước mối đe dọa Hoa Kỳ.
SỐNG SÓT TRƯỚC MỐI ĐE DỌA HOA KỲ
Vào năm 780 sau Công Nguyên, nhà thơ gầy gò và ốm yếu với “tài năng quỷ dị” Lý Hạ () được sinh ra “trong một nhánh nhỏ của hoàng gia nhà Đường”, vận may đã sa sút từ lâu. Lý là một nhà thơ xuất sắc ở tuổi lên bảy, nhưng cuộc sống gặp nhiều khó khăn. Cha qua đời khi còn nhỏ, và Lý sau đó bị loại khỏi Kỳ thi Hoàng gia, ngăn ông có được một chức vụ để hỗ trợ gia đình và cơ ngơi đổ nát của họ và đẩy ông vào một sự nghiệp quân sự dẫn đến cái chết không đúng lúc ở tuổi 20. Những bài thơ sống động và thường bi quan của Lý có thể đã bị lưu vào lịch sử nếu ông không thu hút được sự chú ý của nhà thơ và quan chức lỗi lạc Han Yun, người gặp Lý lúc mười chín tuổi, đọc dòng đầu tiên của một trong những bài thơ của ông, ngay lập tức nhận ra thiên tài của ông, và rất có thể đã giúp bảo quản công việc của ông ấy.
Nhiều thế kỷ sau, tác phẩm đó đã truyền cảm hứng cho Mao Trạch Đông. Và có thể chính sự liên kết chính xác đó với Mao đã khiến nhà lãnh đạo Trung Quốc Giang Trạch Dân trong bài phát biểu năm 1998 trước Quân ủy Trung ương, Giang cảnh báo các lực lượng phương Tây đang tìm kiếm sự sụp đổ của Trung Quốc. Bằng sự trùng hợp thuần túy, Giang đã chọn đúng dòng chữ được cho là đã làm lóa mắt Han Yun từ nhiều thế kỷ trước. “Những đám mây đen đè nặng lên thành phố,” Giang nói, “và thành phố đang trên bờ vực sụp đổ.”
Cảnh báo của Giang hầu như không có gì bất thường. Niềm tin Hoa Kỳ là mối đe dọa chính của Trung Quốc và chiến lược lớn của Trung Quốc nên tập trung vào việc tồn tại trước mối đe dọa đó, đã được khẳng định trong gần hai thập kỷ trong các bài phát biểu của cấp lãnh đạo được tìm thấy trong các bản tómtắt của Đảng. Phần này khám phá một số điều có thẩm quyền nhất trong số này, đặc biệt là các Hội nghị Đại sứ quan trọng và không thường xuyên được tổ chức định kỳ sáu năm một lần để nhắc lại hoặc thay đổi các nhận định về chính sách đối ngoại.
Hội nghị Đại sứ đầu tiên sau cuộc tam tai đau thương (ba sự kiện lớn) được tổ chức vào năm 1993 và đây chỉ là lần thứ tám trong lịch sử Trung Quốc. Trong bài phát biểu của mình, Giang Trạch Dân đã đưa ra một tình cảm khác hẳn với các bài phát biểu trước đó trước các Đại sứ vào năm 1986 của Triệu Tử Dương và Hồ Diệu Bang. “Kể từ bây giờ và trong một khoảng thời gian tương đối dài, Hoa Kỳ sẽ là đối thủ ngoại giao chính của chúng ta... Vị thế và vai trò của Hoa Kỳ trong thế giới ngày nay xác định nó là đối thủ chính trong các giao dịch quốc tế của chúng ta.” Giang lập luận. Hoa Kỳ, ông ấy làm rõ, có ý định thù địch:
Chính sách của Hoa Kỳ đối với Trung Quốc luôn có hai mặt. Diễn biến hòa bình ở nước ta là mục tiêu chiến lược lâu dài của Mỹ. Về bản chất, họ miễn cưỡng nhìn thấy sự thống nhất, phát triển và củng cố của
Trung Quốc. Họ sẽ tiếp tục gây áp lực lên đất nước chúng ta về các vấn đề nhân quyền, thương mại, mua bán vũ khí, Đài Loan và Đức Đạt Lai Lạt Ma. Hoa Kỳ độc đoán trong các giao dịch với đất nước chúng ta và sở hữu tư thế của chủ nghĩa bá quyền và quyền lực chính trị.
Tuy nhiên, Giang lập luận trước các nhà ngoại giao tập hợp, có một mặt thứ hai trong chính sách của Hoa Kỳ đối với Trung Quốc. “Mặt khác, Hoa Kỳ cân nhắc đến chiến lược toàn cầu và các lợi ích kinh tế cơ bản của mình, sẽ phải tập trung vào thị trường rộng lớn của đất nước chúng ta và không có lựa chọn nào khác ngoài tìm kiếm hợp tác với chúng ta trong các vấn đề quốc tế.” Nói cách khác Giang lập luận, Washington “cần duy trì quan hệ bình thường với chúng ta”. Mặc dù vậy, Trung Quốc không thể áp dụng chiến lược đối đầu công khai bởi vì, như Giang đã nhận xét, “Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu chính của chúng ta và là nguồn cung cấp hàng nhập khẩu quan trọng của chúng ta. vốn, công nghệ và kinh nghiệmquản lý tiên tiến.” Thay vào đó, “bảo vệ và phát triển quan hệ Trung-Mỹ có ý nghĩa chiến lược” đối với Trung Quốc. Bằng cách hợp tác với Hoa Kỳ trong một số lĩnh vực và tránh đối đầu ở những lĩnh vực khác, Trung Quốc có thể giảm thiểu ác cảm với Hoa Kỳ, tiếp tục phát triển kinh tế và gia tăng sức mạnh tương đối của mình.
Năm năm sau, tại Hội nghị Đại sứ tiếp theo vào năm 1998, Giang tiếp tục nhấn mạnh mối đe dọa của Hoa Kỳ. Ông tuyên bố: “Một số người ở Hoa Kỳ và các nước phương Tây khác sẽ không từ bỏ âm mưu chính trị của họ để phương Tây hóa và chia rẽ đất nước chúng ta. Không quan trọng là nó đang áp dụng ‘chính sách ngăn chặn’ hay cái gọi là ‘chính sách cam kết’, tất cả đều có thể khác nhau theo 10.000 cách khác nhau mà cuối cùng không rời khỏi mục tiêu trung tâm của họ, đó là cố gắng với những động cơ thầm kín để thay đổi hệ thống xã hội chủ nghĩa của đất nước chúng ta và cuối cùng đưa đất nước chúng ta vào hệ thống tư bản phương Tây.” Cuộc cạnh tranh với Washington sẽ là một cuộc đấu lâu dài. “Cuộc đấu tranh này là lâu dài và phức tạp,” Giang tuyên bố, và “về vấn đề này, chúng ta phải luôn giữ một cái đầu tỉnh táo và không bao giờ được mất cảnh giác.” Trong tâm trí của ông ấy, cũng có một nỗi sợ Washington có thể làmviệc với Các nước láng giềng của Trung Quốc, và ông nói thêm, giống như Hoa Kỳ, “một số cường quốc láng giềng của chúng ta cũng muốn kiềm chế chúng ta theo những cách khác nhau.” Sau đó, Giang đề nghị các nhà ngoại giao đánh giá những bất thường về quan hệ Trung-Mỹ, nhấn mạnh trước sự thù địch và mối đe dọa do Hoa Kỳ gây ra:
Vào tháng 11 và tháng 12 năm 1989, cựu Ngoại trưởng Hoa Kỳ và Cố vấn An ninh Quốc gia của Tổng thống, Brent Scowcroft đã liên tiếp đến thăm Trung Quốc và đồng chí Đặng Tiểu Bình đã gặp cả hai người và đưa ra một kế hoạch khôi phục quan hệ Trung-Mỹ. Kế hoạch cuối cùng đã thành hiện thực trong chuyến thăm cấp nhà nước của tôi [Giang] tới Hoa Kỳ. Vào thời điểm đó, chuyến thăm đã nhận được sự đồng ý của phía Hoa Kỳ, nhưng sau đó Hoa Kỳ thay đổi quyết định và từ chối. Do những thay đổi mạnh mẽ ở Đông Âu, một số người ở Hoa Kỳ đã đặt hy vọng vào việc chúng ta ‘thay đổi’. Năm 1991, một trận lụt nghiêm trọng ở Hoa Đông, và một số người ở Hoa Kỳ đã nghĩ chúng ta đang hỗn loạn. Vào tháng 12 nămđó khi Liên Xô sụp đổ, một số người ở Hoa Kỳ nghĩ chúng ta sẽ ‘sụp đổ’. Năm 1992, Mỹ bán máy bay chiến đấu F-16 cho Đài Loan, năm 1995 họ cho phép lãnh đạo Đài Loan thăm Mỹ. Một số người ở Hoa Kỳ liên quan đến cái gọi là “Trung Quốc thời hậu Đặng” đã đưa ra đủ loại suy đoán và gây áp lực nhằm cố gắng áp đảo và hạ gục chúng ta.
Mặc dù nhiều người ở Washington tin quan hệ đã được cải thiện trong những năm 1990, nhưng Bắc Kinh lại nhìn nhận mọi thứ theo hướng khác và ông Giang nhấn mạnh sự hoài nghi của ông về ý định của Mỹ đối với việc thiết lập chính sách đối ngoại đã được lắp ráp. “Khi tôi ở New York với Clinton, ông ấy nói rõ với tôi rằng chính sách của Hoa Kỳ đối với Trung Quốc không phải là cô lập, răn đe hay đối đầu, mà là sự can dự đầy đủ,” Giang nói. cam đoan: “Chúng ta phải nhận ra chính sách của Hoa Kỳ đối với Trung Quốc
vẫn là hai mặt. Nỗ lực của các lực lượng chống Trung Quốc sẽ không thay đổi.” Hơn nữa, Giang lập luận “Hoa Kỳ đang cố gắng xây dựng một thế giới đơn cực... và thống trị các vấn đề quốc tế” và điều đó, “trong một thời gian dài, Hoa Kỳ sẽ duy trì những lợi thế đáng kể về chính trị, kinh tế, khoa học kỹ thuật và quân sự.”
Sự liên tục của những quan điểm này trong hai bài phát biểu về chính sách đối ngoại quan trọng nhất của Trung Quốc là đáng chú ý. Sau đó, trong một bài phát biểu trước Quân ủy Trung ương khoảng mười nămsau Thiên An Môn, Giang nhấn mạnh những chủ đề này không hề giảm đi sự quan tâm. Ông nhận xét: “Sau khi trải qua những thay đổi mạnh mẽ ở Đông Âu, sự tan rã của Liên bang Xô Viết và sự kết thúc lưỡng cực vào cuối những năm 1980 và đầu những năm 1990, những trở ngại trong quá trình phát triển chủ nghĩa xã hội trên toàn thế giới đã khiến chúng ta phải đối mặt với áp lực chưa từng có.” Đặc biệt, “các thế lực quốc tế thù địch đã đe dọa chôn vùi chủ nghĩa cộng sản trên thế giới, cho Trung Quốc sẽ nối gót Liên Xô và các nước Đông Âu và sẽ sớm sụp đổ. Họ đã gây sức ép toàn diện đối với Trung Quốc và công khai ủng hộ các lực lượng chống cộng, chống chủ nghĩa xã hội và lực lượng ly khai trong nước của chúng ta khi họ thamgia vào các hoạt động phá hoại và lật đổ.” Ông nói tiếp, các thế lực thù địch nước ngoài đang “tăng cường mọi hình thức xâm nhập và phá hoại các hoạt động nhằm vào việc phương Tây hóa và chia cắt đất nước của chúng ta, và tiếp tục sử dụng cái gọi là ‘nhân quyền’, ‘dân chủ’, ‘tôn giáo’, Đức Đạt Lai Lạt Ma, Đài Loan, các công cụ kinh tế và thương mại, và bán vũ khí để khuấy động.” Khi tổng kết tình hình, ông tuyên bố “an ninh và sự ổn định xã hội và chính trị của Trung Quốc đang phải đối mặt với những mối đe dọa nghiêm trọng” từ Hoa Kỳ.
Trong một bài phát biểu khác của Quân ủy Trung ương hai năm sau đó, Giang nói rõ hơn nguyên nhân gây ra rắc rối của Trung Quốc là do Hoa Kỳ, và ông xác nhận các mối quan hệ cứng rắn với Hoa Kỳ được coi là bắt đầu từ ba bên: “Sau khi kết thúc Chiến tranh Lạnh, quan hệ Trung-Mỹ liên tục chông chênh, có lúc tốt, có lúc xấu.”
Người kế nhiệm Giang, Chủ tịch Hồ Cẩm Đào, tiếp tục nhấn mạnh mối đe dọa của Hoa Kỳ. Trong bài phát biểu trước Bộ Ngoại giao năm 2003, ông Hồ cho mặc dù “Hoa Kỳ và các nước phương Tây lớn khác cần tìm kiếm sự hợp tác của Trung Quốc trong các vấn đề quốc tế và khu vực lớn, chúng ta cũng phải nhận ra một thực tế nghiệt ngã là các thế lực thù địch phương Tây vẫn đang thực hiện phương Tây hóa và các thiết kế chính trị chia rẽ Trung Quốc.”
Trong một đánh giá tổng thể về những gì có vẻ như bị rò rỉ tài liệu từ Đại hội Đảng lần thứ 16 của Trung Quốc được tổ chức vào năm trước, Andrew Nathan và Bruce Gilley kết luận “quản lý quan hệ với Hoa Kỳ được coi là một mối đe dọa hiện hữu” đối với an ninh của Trung Quốc. Toàn văn của các tài liệu tiết lộ, với việc Hồ Cẩm Đào và giới tinh hoa hàng đầu khác của Trung Quốc và các ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị vô cùng lo lắng về quyền lực và ý định của Hoa Kỳ. Hồ Cẩm Đào đã xác định Hoa Kỳ là “tuyến chính [tức là sợi dây trung tâm] trong chiến lược chính sách đối ngoại của Trung Quốc.” Ông cũng cho Hoa Kỳ đang tìm cách bao vây Trung Quốc:
Nhiều người ở Mỹ luôn coi Trung Quốc là một đối thủ chiến lược tiềm ẩn, và từ góc độ địa chính trị đã áp dụng cách tiếp cận can dự và kiềm chế hai mặt... Mỹ đã tăng cường triển khai quân sự ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương, tăng cường liên minh quân sự Mỹ-Nhật, tăng cường hợp tác chiến lược với Ấn Độ, cải thiện quan hệ với Việt Nam, thu hút Pakistan, thành lập chính phủ thân Mỹ ở Afghanistan, tăng cường bán vũ khí cho Đài Loan, v.v. Họ đã mở rộng các tiền đồn và gây áp lực lên chúng ta từ phía đông, nam và tây. Điều này tạo ra một sự thay đổi lớn trong môi trường địa chính trị của chúng ta.
Trong cùng những hồ sơ đó, Thủ tướng Ôn Gia Bảo thấy Hoa Kỳ đang tìm cách kiềm chế Trung Quốc:
Hoa Kỳ đang cố gắng duy trì vị thế là siêu cường duy nhất của thế giới và sẽ không cho phép bất kỳ quốc gia nào có cơ hội gây ra thách thức cho mình. Mỹ sẽ duy trì chiến lược toàn cầu của mình dựa trên châu Âu và châu Á, và trọng tâm sẽ là kiềm chế Nga và Trung Quốc, đồng thời kiểm soát châu Âu và Nhật Bản. Cốt lõi của chính sách đối ngoại của Mỹ đối với Trung Quốc vẫn là “can dự và kiềm chế”. Một số lực lượng bảo thủ ở Mỹ vẫn kiên định với tư duy Chiến tranh Lạnh của họ, nhấn mạnh sự trỗi dậy của Trung Quốc sẽ làm tổn hại đến lợi ích của Mỹ. Quân đội Mỹ đang có kế hoạch chuyển trọng tâm kế hoạch quân sự từ châu Âu sang khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Mỹ sẽ tiếp tục gây áp lực [lên chúng ta] đối với Đài Loan, nhân quyền, an ninh, kinh tế và thương mại.
Các nhân vật nổi tiếng khác, như cố vấn cánh tay phải của Giang Trạch Dân, Tăng Khánh Hồng, cũng tuyên bố tương tự “người Mỹ liên tục lo lắng một Trung Quốc mạnh sẽ đe dọa vị thế đứng đầu của họ. Vì vậy, Mỹ vừa muốn thống trị thị trường Trung Quốc vừa tìm mọi cách có thể để kìm hãm sự phát triển của nó.” Ngay cả Lý Thụy Hoàn, một thành viên Ủy ban Thường vụ, người từng ủng hộ tự do hóa chính trị khiêmtốn, cũng coi ý định của Mỹ là thù địch:
Nói thật, Hoa Kỳ rất rõ ràng về sức mạnh của chúng ta. Họ biết Trung Quốc ngày nay không phải là một mối đe dọa trực tiếp đối với Hoa Kỳ. Nhưng đối với chiến lược phát triển dài hạn của Mỹ, khi nhìn vào sức mạnh phát triển tiềm ẩn của chúng ta, nếu nền kinh tế Trung Quốc tiếp tục phát triển trong vài thập kỷ nữa, nó sẽ đủ lớn để có thể cân bằng với họ. Vì vậy, họ muốn kiềm chế chúng ta, họ muốn thực hiện chính sách ‘cây gậy và củ cà rốt’. Sẽ vô ích nếu chúng ta dùng nhiều từ để bác bỏ ‘lý thuyết về mối đe dọa Trung Quốc’ của họ. Người Mỹ sẽ không lắng nghe.
Trong những năm sau Đại hội Đảng lần thứ 16, khi Washington ngày càng bận tâm đến Trung Đông, Trung Quốc tiếp tục lo ngại về mối đe dọa từ Mỹ. Năm 2006, Hồ Cẩm Đào chủ trì Hội nghị Công tác Đối ngoại Trung ương — đây chỉ là lần thứ ba trong toàn bộ lịch sử của CHND Trung Hoa mà loại hội nghị này được triệu tập. Tại đó, ông nhấn mạnh mối đe dọa của Hoa Kỳ và thảo luận về nỗi sợ hãi của Trung Quốc bị Hoa Kỳ bao vây cùng với các đồng minh của mình: “Hoa Kỳ và các nước phương Tây khác đã thúc đẩy mạnh mẽ việc thành lập một 'liên minh các quốc gia dân chủ',” ông cảnh báo. Sau đó, lặp lại ngôn từ của các Tổng Bí thư trước đó trong bối cảnh tương tự, ông Hồ nhấn mạnh “Hoa Kỳ vẫn là đối thủ chính mà chúng ta cần đối phó trên trường quốc tế.”
Cùng với nhau, tất cả các tài khoản này cho thấy Hoa Kỳ là trọng tâm xác định trong kế hoạch chiến lược của Trung Quốc. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc nhất quán coi Hoa Kỳ là đối thủ chính của Trung Quốc, xác định rõ ràng đây là mối đe dọa chính của Trung Quốc và nêu lên lo ngại về sự cần thiết phải quản lý các mối quan hệ của Hoa Kỳ. Bây giờ chúng ta chuyển sang những cách mà Trung Quốc đã thực hiện để tránh sự ngăn cản và làm giảm sức mạnh của Mỹ.
“ẨN MÌNH CHỜ THỜI” CỦA ĐẶNG TIỂU BÌNH
Vào khoảng năm 494 trước Công nguyên ở vùng đất ngày nay là tỉnh Chiết Giang và Giang Tô, các cường quốc Việt và Ngô đã tranh giành lợi thế. Khi Việt vương Câu Tiễn quá tự tin quyết định tấn công Vua Phù Sai của Ngô, kết quả là một thất bại thảm hại. Để cứu nước Việt khỏi nguy cơ tuyệt chủng, Việt vương Câu Tiễn bị sỉ nhục đã tự đặt mình vào tù và phục dịch tại triều đình của Phù Sai, nơi ông sống như một thường dân và dọn dẹp chuồng ngựa. Trong khi nuôi dưỡng hy vọng trả thù, Câu Tiễn bị đánh bại không bao giờ tỏ ra bực bội, và phẩm giá trầm lặng cùng những biểu hiện phô trương lòng trung thành đã giúp ông được ân xá từ vua Phù Sai.
Việt vương Câu Tiễn
Khi Câu Tiễn trở về nhà để dẫn dắt nước Việt, ông ngủ trên gai và liếm túi mật của một con vật bị giết thịt hàng ngày để ghi nhớ sự sỉ nhục và củng cố quyết tâm [từ đó có câu thành ngữ ‘nếm mật nằm gai’ (, ‘ngọa tân thường đảm’). Trong khi vẫn tỏ ra tuân phục công khai Vua Phù Sai, ông lặng lẽ bắt đầu xây dựng sức mạnh và lật đổ vương quốc suy tàn của Phù Sai bằng cách hối lộ các quan chức nước Ngô, khuyến khích Phù Sai chơi bời, làm rỗng kho thóc và đánh lạc hướng bằng phụ nữ và rượu (Tây Thi). Khoảng một thập kỷ sau, một nước Việt mạnh hơn rất nhiều xâm chiếm và chinh phục nước Ngô đang suy tàn.
Nhà sử học Paul A. Cohen cho câu chuyện này mang tính ngụ ngôn hơn là lịch sử và có tác động lâu dài về mặt văn hóa. Nó đã tạo ra những thành ngữ tích cực như ‘nếm mật nằm gai’ để khuyến khích làm việc chămchỉ và kỷ luật trong trường học hoặc kinh doanh, cũng như các cách diễn đạt đen tối hơn như ‘quân tử trả thù mười năm chưa muộn’. Câu chuyện ngụ ngôn thường xuyên được trích dẫn bởi những người theo chủ nghĩa dân tộc Trung Quốc trong Thế kỷ nhục nhã, phong trào tự cường sau đó, và — một cách phê phán —trong các bài diễn văn của Trung Quốc về phương châm chiến lược sau Chiến tranh Lạnh của Đặng Tiểu Bình rằng Trung Quốc phải ‘ẩn mình chờ thời’ (Tao Guang Yang Hui), với câu chuyện ngụ ngôn hình thành nên một phần của ‘kiến thức văn hóa’ mà từ đó, hướng dẫn này xuất hiện trong nhiều cuộc thảo luận học thuật. Sự liên tưởng đó sẽ không có gì đáng ngạc nhiên. Những người theo chủ nghĩa dân tộc Nhật Bản và Việt Nam đôi khi cũng lật lại câu chuyện với mục đích tương tự. Cũng không nên coi mối liên hệ này như
một bằng chứng rằng bằng cách nào đó Trung Quốc đã che giấu những thiết kế tàn bạo và lừa đảo như Việt vương Câu Tiển. Câu chuyện ngụ ngôn gợi ý gì về điều này. phương châm của Đặng phải được thực hiện một cách nghiêm túc, được hiểu trong bối cảnh chủ nghĩa dân tộc rộng lớn hơn, và không bị bác bỏ như một đảng phái đơn thuần.
‘Ẩn mình chờ thời’ là cách viết tắt đề cập đến lời khuyên dài hơn hai mươi bốn ký tự của Đặng: Trung Quốc nên “quan sát một cách bình tĩnh, đảm bảo vị trí của chúng ta, đối phó với công việc một cách bình tĩnh, che giấu khả năng của chúng ta và chờ thời, duy trì một tư cách thấp, không bao giờ tuyên bố quyền lãnh đạo.” Đây là một chiến lược. Trung Quốc đã không theo đuổi các hành động khu vực có thể làm Hoa Kỳ lo lắng; thay vào đó, nó tập trung vào việc làm mất đi nền tảng quyền lực của Hoa Kỳ một cách từ từ.
‘Ẩn mình chờ thời’ xuất hiện sau thảm họa Thiên An Môn, Chiến tranh Vùng Vịnh và sự sụp đổ của Liên Xô. Một số nguồn tin của Trung Quốc, bao gồm cả các bài báo trên trang web của tờ Nhân dân Nhật báo của Đảng, kể lại lịch sử của nó:
[‘Ẩn mình chờ thời’] được Đặng Tiểu Bình đưa ra trong ‘thời kỳ đặc biệt’ với những thay đổi mạnh mẽ ở Đông Âu và sự tan rã của phe xã hội chủ nghĩa ở đó vào cuối những năm 1980 và đầu những năm 1990. Vào thời điểm đó, Trung Quốc phải đối mặt với những câu hỏi về ‘phải làm gì’ và ‘đi theo hướng nào’ cũng như những câu hỏi khác mà nước này cần khẩn cấp trả lời, và Đặng Tiểu Bình đã đưa ra một loạt suy nghĩ/hệ tư tưởng và biện pháp đối phó.
Một bài báo khác trên trang Nhân dân Nhật báo cũng nói như vậy, có từ sau Thiên An Môn: “Vào đầu Chiến tranh Lạnh kết thúc, khi Trung Quốc bị các nước phương Tây trừng phạt, đồng chí Đặng Tiểu Bình đã đưa ra... ‘Ẩn mình chờ thời’.” quan chức của Đảng, từ các nhà lãnh đạo tối cao như Hồ Cẩm Đào đến các ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị như Lưu Hoa Thanh đã lặp lại điều này.
Tài liệu tham khảo chính thức sớm nhất về các nguyên lý cốt lõi của ‘Ẩn mình chờ thời’ được đưa ra sau Thảm sát Thiên An Môn. Trong bài phát biểu năm 1989 trước Ủy ban Trung ương ĐCSTQ, Đặng đã trình bày phần lớn nội dung: “Nói tóm lại, quan điểm của tôi về tình hình quốc tế có thể được tóm gọn trong ba câu. Đầu tiên, chúng ta nên quan sát tình hình một cách lạnh lùng. Thứ hai, chúng ta nên giữ vững lập trường của mình. Thứ ba, chúng ta nên hành động một cách bình tĩnh. Đừng nóng vội; không có gì tốt nếu thiếu kiên nhẫn. Chúng ta nên bình tĩnh, và lặng lẽ đắm mình vào công việc thực tế để hoàn thành một điều gì đó - điều gì đó cho Trung Quốc.” Cùng nhau, những điều này tạo thành Tao Guang Yang Hui (‘Ẩn mình chờ thời’). Như các học giả Trung Quốc Chen Dingding của Đại học Tế Nam và Wang Jianwei của Đại học Macao viết trong một bài phân tích về bài phát biểu này, “Mặc dù ông Đặng không sử dụng cụm từ TGYH [Tao Guang Yang Hui] chính xác, nhưng tinh thần của TGYH rất rõ ràng trong các bài nói của ông ấy.”
Thời gian trôi qua, Đặng đã có một số bài phát biểu làm sáng tỏ Tao Guang Yang Hui và đặt nó vào vị trí trung tâm trong chính sách đối ngoại của Trung Quốc bằng ngôn ngữ gợi ý mạnh mẽ rằng khái niệm này nhằm khuyến khích sự tự kiềm chế của người Trung Quốc vào thời điểm mà sức mạnh tương đối của họ còn thấp. Ví dụ, trong một bài phát biểu được tóm tắt trong biên niên sử chính thức của Đặng Tiểu Bình, Đặng đã tuyên bố Tao Guang Yang Hui là thành phần trung tâm trong tầm nhìn chiến lược của ông đối với chính sách đối ngoại của Trung Quốc và nói nó được hình thành bởi nhận thức về sức mạnh tương đối của Trung Quốc: “Chỉ bằng cách làm theo Tao Guang Yang Hui trong một số năm, chúng ta có thể thực sự trở thành một cường quốc chính trị tương đối lớn, và sau đó khi Trung Quốc lên tiếng trên trường quốc tế, điều đó sẽ tạo ra sự khác biệt. Khi chúng ta có khả năng, chúng ta sẽ chế tạo vũ khí công nghệ cao tinh vi.” Ở đây, Đặng liên kết hoạt động ngoại giao hạn chế của Trung Quốc và trì hoãn đầu tư quân sự với chiến lược
Tao Guang Yang Hui của ông, và cụ thể là điểm yếu tạm thời của Trung Quốc.
Tao Guang Yang Hui tiếp tục là chiến lược chính thức của Trung Quốc ngay cả khi lãnh đạo cao nhất thay đổi. Không lâu sau khi lên nắm quyền, Giang Trạch Dân đã có bài phát biểu về chống “diễn biến hòa bình” tại một cuộc họp mở rộng của Ủy ban Thường vụ Bộ Chính trị năm 1991 nhằm củng cố Tao Quang Yang Hui. “Trước tình hình quốc tế liên tục thay đổi hiện nay, chúng ta phải kiên định thực hiện phương châmchiến lược của đồng chí Đặng Tiểu Bình là ‘bình tĩnh quan sát, ổn định vị trí, bình tĩnh đối phó, ẩn nấp, tranh thủ thời gian [Tao Guang Yang Hui]’.” Giang tuyên bố. “Thực tiễn đã cho thấy đây là chủ trương đúng đắn. Thực hiện hướng dẫn này hoàn toàn không phải là dấu hiệu của sự yếu kém hay chúng ta đang nhượng bộ, chứ chưa nói đến việc từ bỏ các nguyên tắc của mình,” ông cảnh báo, “thay vào đó, chúng ta phải nhận ra chúng ta phải đối mặt với một cấu trúc quốc tế phức tạp và chúng ta không thể nuôi dưỡng kẻ thù ở khắp mọi nơi.” Tương tự như vậy, vài năm sau tại một cuộc họp nhỏ hơn với các đại sứ, Giang nhắc lại những quan điểm này: “Chúng ta phải thực hiện chính sách Tao Quang Yang Hui của đồng chí Đặng Tiểu Bình và không bao giờ nắm quyền lãnh đạo — điều này không còn nghi ngờ gì nữa.” Ông nhấn mạnh thêm, “Tôi nói với Quân ủy Trung ương vào năm 1993 không thể vượt quá thực tế của chúng ta” trên trường quốc tế. “Mục tiêu cuối cùng là tăng cường quyền tự chủ của Trung Quốc,” Giang tuyên bố, “Trong cuộc đấu tranh chống lại chủ nghĩa bá quyền và chính trị cường quyền... Chúng ta sử dụng tất cả những mâu thuẫn có thể có để mở rộng quyền tự do điều động của mình.” Nỗ lực đó sẽ là dài hạn, ông nhấn mạnh trong một thông cáo khác. Ông nhận xét: “Trong việc giải quyết các mối quan hệ quốc tế và tiến hành đấu tranh quốc tế, có một câu hỏi về mối quan hệ giữa lợi ích dài hạn và ngắn hạn. Đôi khi có sự xung đột giữa những lợi ích ngắn hạn và dài hạn, và chúng ta sẽ không ngần ngại xếp lợi ích ngắn hạn sau lợi ích dài hạn.”
Trong một bài phát biểu quan trọng về đối ngoại do Chủ tịch Giang Trạch Dân đưa ra năm 1998 tại Hội nghị Đại sứ lần thứ 9, ông tiếp tục cam kết về chính sách đối ngoại của Đặng vì Trung Quốc yếu hơn các đối thủ cạnh tranh, nhắc lại - như Đặng đã làm - việc tuân thủ nguyên tắc này bắt nguồn từ Sức mạnh tương đối thấp của Trung Quốc.
Vào giai đoạn lịch sử quan trọng bước sang thế kỷ 21, chúng ta nhất định phải thực hiện tư duy ngoại giao của Đặng Tiểu Bình... trước tiên, chúng ta nên tiếp tục tuân thủ “chủ trương chiến lược” là “bình tĩnh quan sát, bình tĩnh đối phó với tình hình, đừng bao giờ nắm quyền lãnh đạo, và hoàn thành một việc gì đó.” Chúng ta nên che giấu khả năng và sử dụng thời gian của chúng ta, rút ra bài học, giữ gìn bản thân và lập kế hoạch phát triển một cách có ý thức. Sự tương phản giữa điều kiện của đất nước chúng ta và điều kiện quốc tế xác định chúng ta phải làm điều này.
Người kế nhiệm của Giang, Hồ Cẩm Đào, cũng tiếp tục nhấn mạnh Tao Guang Yang Hui trong nhiều bài phát biểu. Ví dụ, trong một bài phát biểu quan trọng năm 2003 với Bộ Ngoại giao, ông đã dành hẳn một phần để nói về tầm quan trọng cơ bản của nó: “Chúng ta phải xử lý chính xác mối quan hệ giữa Tao Guang Yang Hui và việc đạt được điều gì đó,” ám chỉ đến việc tích cực hơn. Tao Guang Yang Hui, cùng với việc “bình tĩnh quan sát, bình tĩnh đương đầu với thách thức, không dẫn đầu, tạo ra sự khác biệt”, ông Hồ nhắc nhở, “là bản tóm tắt cấp cao về một loạt chính sách chiến lược quan trọng của đồng chí Đặng Tiểu Bình đối với ngoại giao Trung Quốc sau sự thay đổi đột ngột của chính trị quốc tế vào cuối những năm 1980 và đầu những năm 1990.” Thực hiện theo hướng dẫn này có nghĩa là cho Trung Quốc thời gian để phát triển thông qua không đối đầu, và ông cảnh báo bộ máy chính sách đối ngoại, Trung Quốc không được trì hoãn sự phát triển “bằng cách lún sâu vào vòng xoáy của xung đột quốc tế.” Ông kết luận “chúng ta phải tuân thủ nguyên tắc [Tao Guang Yang Hui] mà không dao động.” Thật vậy, quyết định đó dựa trên nhận thức về sức mạnh tương đối của Trung Quốc. Như ông Hồ đã lập luận, “Xem xét tình hình hiện tại và xu hướng phát
triển của các điều kiện quốc gia của Trung Quốc, cũng như cán cân quyền lực quốc tế, đây là một chiến lược lâu dài.”
Tương tự, trong các tài liệu bị rò rỉ chuẩn bị cho Đại hội Đảng lần thứ 16, Hồ đã nói rõ sự kiềm chế của Trung Quốc bị ảnh hưởng bởi sức mạnh của nước này. “Giữ lại sự khác biệt” là lợi ích chung của cả Trung Quốc và Hoa Kỳ,” ông Hồ nói, nhưng điều này chỉ vì Trung Quốc yếu. “Với sự phát triển của nền kinh tế Trung Quốc và sự nâng cao sức mạnh quốc gia toàn diện của chúng ta,” ông Hồ nhấn mạnh, “chúng ta sẽ linh hoạt và tự tin hơn trong việc xử lý các mối quan hệ Trung-Mỹ.”
Có lẽ các cuộc thảo luận kỹ lưỡng và mang tính hệ quả nhất về khái niệm này diễn ra vào năm 2006 tại Hội nghị Công tác Đối ngoại Trung ương. Đây là một cuộc họp về chính sách đối ngoại quan trọng đến mức trước đây nó chỉ được tổ chức hai lần. Trung Quốc phải “tuân thủ phương châm chiến lược của Tao Guang Yang Hui và hoàn thành một việc gì đó,” Ông Hồ nói tại hội nghị và ông nói rõ thêm “nguyên tắc này không thể bị lãng quên bất cứ lúc nào.” Ông cảnh báo sự phát triển của Trung Quốc có thể tạo ra chú ý mới và làm phức tạp chiến lược. “Bây giờ, một số quốc gia lạc quan về chúng ta và hy vọng chúng ta có thể đóng vai trò lớn hơn và gánh nhiều trách nhiệm hơn... Vì lý do này, chúng ta phải giữ một cái đầu tỉnh táo, chúng ta không thể để đầu óc nóng lên vì chúng ta đang sống tốt hơn một chút. Chúng ta phải kiên quyết không nói quá và không làm quá, và cho dù đất nước chúng ta có phát triển hơn nữa thì chúng ta cũng phải kiên định quan điểm này.”
Bài phát biểu của Hồ nói rõ mặc dù Trung Quốc cần phải cúi đầu, nhưng trong chừng mực nước này cố gắng “hoàn thành một điều gì đó”, thì Trung Quốc sẽ tập trung chủ yếu vào việc giảm nhẹ. “Chúng ta phải đặt cơ sở cho việc ‘hoàn thành điều gì đó’ trên việc duy trì và phát triển các lợi ích của chúng ta, vào việc nâng cao sức mạnh của chúng ta... và giảm thiểu và loại bỏ các lực cản và áp lực bên ngoài.” Ông cũng đưa ra một cách rõ ràng về việc nói thẳng: “Phải thấy đất nước càng phát triển thì càng dễ gặp phải sự chống phá, thách thức rủi ro từ bên ngoài... cần phải sử dụng các biện pháp khác nhau để kiểm tra việc ngăn chặn chiến lược của các thế lực thù địch bên ngoài đối với Trung Quốc và giảm thiểu sức ép chiến lược của các lực lượng bên ngoài với Trung Quốc.”
Cuối cùng, ông Hồ lập luận thêm Tao Guang Yang Hồi yêu cầu thỏa hiệp về các lợi ích chính, sử dụng ngôn ngữ gợi ý sự cởi mở đối với các câu hỏi về lãnh thổ mà ông sẽ đảo ngược một vài năm sau đó. “Đặc biệt,” ông Hồ tuyên bố, “chúng ta phải chú ý đến việc phân biệt và nắm bắt các lợi ích cốt lõi, lợi ích quan trọng và lợi ích chung. Chúng ta phải đặt thứ tự ưu tiên, tập trung và làm những gì có thể... Đối với những vấn đề không ảnh hưởng đến tình hình chung, chúng ta phải thể hiện sự hiểu biết lẫn nhau và chung sức để chúng ta có thể tập trung nỗ lực vào việc bảo vệ và phát triển lâu dài và quan trọng hơn của quốc gia. lợi ích.” Là một phần của Tao Guang Yang Hui, Trung Quốc sẽ không theo đuổi kiểu ép buộc hoặc xây dựng trật tự có thể cho phép Trung Quốc đạt được những lợi ích này.
SỰ HOÀI NGHI VỀ ‘ẨN MÌNH CHỜ THỜI’
Từ các trích đoạn cấp lãnh đạo trước đó, cần rõ ràng ‘Ẩn mình chờ thời’ là một chiến lược lớn của Trung Quốc nhằm làm cho Trung Quốc ít bị đe dọa hơn và tránh bị bao vây dựa trên sức mạnh tương đối của Trung Quốc so với Hoa Kỳ. Một số nhà văn không đồng ý với quan điểm này: một số có lẽ vì lý do chính trị, và một số khác vì lý do thực chất. Bất đồng có hai dạng: thứ nhất, cụm từ này không ám chỉ chiến lược tạm thời dựa trên sức mạnh của Trung Quốc; thứ hai, nó không liên quan đến việc từ chối Hoa Kỳ.
Đối với lập luận đầu tiên, một số tác giả Trung Quốc cho ‘Ẩn mình chờ thời’ không phải là một chiến lược chiến thuật hoặc chiến lược công cụ có thời hạn mà là một chiến lược lâu dài. Cuộc tranh luận nổi lên từ việc sử dụng hỗn hợp ‘Ẩn mình chờ thời’ trong giáo luật cổ điển và chiến lược của riêng Trung Quốc.
Trong nhiều trường hợp, việc sử dụng các cụm từ “Ẩn mình” và “Chờ thời”, dù riêng biệt hay được kết hợp thành một thành ngữ thường ám chỉ quyết định của các ẩn sĩ rút lui vào cuộc sống ẩn dật để phát triển bản thân về mặt đạo đức hoặc trí tuệ. Yang Wengchang, một thứ trưởng bộ ngoại giao đã nghỉ hưu, lập luận trong một bài luận nổi bật được trích đăng bởi tờ China Daily của phương Tây sau này: “Dựa trên cách sử dụng của ‘Ẩn mình chờ thời’ là phản ánh chiến lược và không phải là một ‘chiến thuật ngắn hạn.” Theo quan điểm này, ông lập luận, ‘Ẩn mình chờ thời’ “có thể áp dụng cho cả thời điểm tốt và thời điểm xấu” và cho một người dù yếu hay mạnh vì nó không được xác định bởi các yếu tố bên ngoài.
Chưa hết, như câu chuyện ngụ ngôn của Việt vương Câu Tiển cho thấy, một dòng văn học khác mà ‘Ẩn mình chờ thời’ đã đến có thể mang tính chiến thuật hơn nhiều và rõ ràng đặt ‘Ẩn mình chờ thời’ như một chiến lược công cụ gắn liền với những câu hỏi về quyền lực và mối đe dọa. Ngay cả khi việc liên kết ‘Ẩn mình chờ thời’ với câu chuyện này là phóng đại, nguồn gốc cuối cùng của cụm từ không phải là trọng tài duy nhất cho ý nghĩa chính trị hiện tại của nó. Thật vậy, như các đoạn trích trước từ các bài phát biểu của cấp lãnh đạo đã chứng minh, Đặng, Giang và Hồ đều nói rõ ‘Ẩn mình chờ thời’ là một chiến lược mà Trung Quốc phải tuân thủ chính vì sự kém cỏi về vật chất so với “tiêu chuẩn quốc tế” và cân bằng quyền lực quốc tế, khái niệm đứng vững với phương Tây và bá quyền phương Tây, tương ứng. Bản thân Đặng cho biết đó không phải là một chiến lược cố định. Bối cảnh này chứng tỏ ‘Ẩn mình chờ thời’ không phải là một chiến lược lớn vĩnh viễn mà là một chiến lược mang tính công cụ và có thời hạn, trái ngược với tuyên bố của Yang Wengchang.
Thứ hai, một số người hoài nghi đồng ý chiến lược là công cụ và có điều kiện thay vì vĩnh viễn, nhưng hãy chú ý đến quan điểm nó tập trung vào Hoa Kỳ hoặc tạo thành một số nguyên tắc tổ chức rộng lớn hơn. Như Michael Swaine lập luận khi thảo luận về ‘Ẩn mình chờ thời’:
Khái niệm này thường bị hiểu sai ở phương Tây có nghĩa là Trung Quốc nên giữ thái độ khiêm tốn và trì hoãn thời gian cho đến khi sẵn sàng thách thức sự thống trị toàn cầu của Hoa Kỳ. Trên thực tế, khái niệmcó liên quan chặt chẽ nhất với chiến lược ngoại giao (không phải quân sự) và thường được các nhà phân tích Trung Quốc xem như một lời cảnh báo cho Trung Quốc rằng hãy duy trì sự khiêm tốn trong khi xây dựng một hình ảnh tích cực trên trường quốc tế và đạt được những lợi ích cụ thể (mặc dù có giới hạn), để tránh những nghi ngờ, thách thức hoặc cam kết có thể làm suy yếu sự chú trọng lâu nay của Bắc Kinh vào phát triển trong nước.
Swaine có lý khi cho các nhà quan sát nên xem ‘Ẩn mình chờ thời’ là một chiến lược phòng thủ hơn là tấn công. Mặc dù khái niệm nhằm mục đích cho phép Trung Quốc trỗi dậy mà không tạo ra một liên minh cân bằng đối kháng, nhưng về cơ bản, nó vẫn là để giải quyết xung đột với Hoa Kỳ. Đầu tiên, hầu như tất cả các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã nghiên cứu kỹ về nó đều nói rõ sức mạnh của Trung Quốc, mặc nhiên là tương đối so với Hoa Kỳ, đặt ra các điều kiện về thời gian ‘Ẩn mình chờ thời’ phải tuân theo. Hồ sơ thực nghiệm cho thấy ‘Ẩn mình chờ thời’ xuất hiện khi mối đe dọa của Mỹ ngày càng tăng sau sự sụp đổ của Liên Xô và nó đã được chính thức sửa đổi lần đầu tiên sau Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, khi tính đơn cực xuất hiện đối với các nhà phân tích Trung Quốc. Thứ hai, trái ngược với lập luận của Swaine rằng ‘Ẩn mình chờ thời’ là một nguyên tắc ngoại giao, các nhà lãnh đạo Trung Quốc nói khá rõ ‘Ẩn mình chờ thời’ không chỉ đơn thuần là một “phương châm ngoại giao” mà còn là một “phương châm chiến lược” rộng hơn nhiều. nằm trên tất cả các cấp độ của nghệ thuật quản lý nhà nước. Thứ ba, một số học giả và nhà bình luận nổi tiếng của Trung Quốc chia sẻ quan điểm hoài nghi về ‘Ẩn mình chờ thời’ hơn là Swaine. Ví dụ: Giáo sư Yan Xuetong - một trong những học giả hiếu chiến và có mối quan hệ tốt hơn của Trung Quốc - phân tích nhiều cụm từ của lời khuyên và lập luận về cơ bản họ tập trung vào mối đe dọa của Hoa Kỳ:
Các cụm từ “không lãnh đạo” và “không giơ cao biểu ngữ” gợi ý Trung Quốc sẽ không thách thức vai trò
lãnh đạo toàn cầu của Mỹ để tránh trò chơi có tổng bằng không giữa nỗ lực trẻ hóa quốc gia của Trung Quốc và sự thống trị toàn cầu không bị thách thức của Mỹ kể từ khi Chiến tranh Lạnh kết thúc. Điều này sẽ giúp ngăn Hoa Kỳ tập trung vào việc kiềm chế sự trỗi dậy của Trung Quốc như một siêu cường toàn cầu.
Nhiều nhà quan sát phương Tây đôi khi chỉ ra bài phát biểu của nhà ngoại giao hàng đầu Trung Quốc Đới Bỉnh Quốc hạ thấp sự ra đi của ‘Ẩn mình chờ thời’ vào năm 2010, nhưng ông Yan không đồng ý và lưu ý khái niệm này là về Hoa Kỳ. Ông công khai thừa nhận bài phát biểu của ông Đới và nhiều phản đối khác. đã nói về ý nghĩa thực sự của ‘Ẩn mình chờ thời’ là “vì mục đích giảm bớt ý nghĩa tiêu cực của việc “giữ một vị trí thấp” và không nên được coi là chân thành.
Tóm lại, ‘Ẩn mình chờ thời’ là một nguyên tắc tổ chức có thẩm quyền cho chiến lược lớn của Trung Quốc. Sự xuất hiện của nó kéo theo sự gia tăng về mối đe dọa mà Trung Quốc nhận thấy từ Hoa Kỳ và sự tuân thủ của quốc gia này đối với nó được biện minh một cách rõ ràng là có điều kiện dựa trên khoảng cách quyền lực tương đối được nhận thức với Hoa Kỳ. Trong các văn bản có thẩm quyền, chẳng hạn như các tờ báo của Đảng phổ biến học thuyết hệ tư tưởng cũng như các bài phát biểu của cấp lãnh đạo đề ra nó, lời khuyên có hai mươi bốn ký tự đã được coi là “phương châm chiến lược” chứ không chỉ là “ngoại giao hướng dẫn”, nâng cao nó lên trên chính sách đơn thuần trong thuật ngữ của Đảng và mang lại cho cụm từ một mức độ thẩm quyền cao. Cuối cùng, trong một số bài phát biểu, chiến lược được giải thích là một nỗ lực để giảm nguy cơ đối đầu với Hoa Kỳ và các nước láng giềng của Trung Quốc đồng thời hạn chế các áp lực bên ngoài đối với Trung Quốc và mở rộng quyền tự do điều động của Trung Quốc.
PHƯƠNG TIỆN
Nếu ‘Ẩn mình chờ thời’ thực sự là một chiến lược lớn, thì nó sẽ có ý nghĩa đối với nhiều loại công cụ chế tác của Trung Quốc. Như đã thảo luận trước đó, Giang và Hồ đã mô tả chiến lược liên quan đến việc giảmbớt các ràng buộc bên ngoài phù hợp với việc cắt giảm.
Bộ ba chiến lược này cũng tạo ra những thay đổi đồng bộ, có liên quan trong hành vi quân sự, chính trị và kinh tế của Trung Quốc.
Thứ nhất, ở cấp độ quân sự, tam tai và sự điều chỉnh lại chiến lược sau đó đã buộc Trung Quốc phải thay đổi chiến lược quân sự của mình sang một chiến lược tập trung vào đánh bại. Vào cuối những năm 1980, các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã chuyển sự chú ý của họ đến các cuộc chiến tranh cục bộ và tranh chấp lãnh thổ - và Trung Quốc bắt đầu các kế hoạch dài hạn cho một cấu trúc hải quân và không quân tập trung vào “quyền kiểm soát biển” được thiết kế để nắm giữ các vùng lãnh thổ xa xôi. Nhưng một khi Hoa Kỳ trở thành một mối đe dọa, Bắc Kinh đã từ bỏ chiến lược đó để ủng hộ một chiến lược tập trung vào “từ chối trên biển” để ngăn quân đội Hoa Kỳ đi ngang qua hoặc kiểm soát các vùng biển gần Trung Quốc. Đặng và Giang đã tham gia cá nhân vào sự thay đổi này, và vào năm 1993, nó đã được đưa vào “hướng dẫn chiến lược quân sự” mới năm 1993 của Trung Quốc. Chiến lược phản công này gọi là vũ khí “shashoujian” hoặc “chùy sát thủ”, được Trung Quốc định nghĩa là công cụ bất đối xứng chống lại Hoa Kỳ thông thường vượt trội, tên lửa đạn đạo chống hạm đầu tiên làm nản lòng sự can thiệp của Hoa Kỳ, và thậm chí được cấu hình như chiến binh mặt nước cho chiến tranh chống tàu chiến với chi phí cho các nhiệm vụ khác. Tất cả những điều này được thực hiện theo nguyên tắc rõ ràng “bất cứ điều gì kẻ thù sợ, chúng ta phát triển điều đó”. Nó trì hoãn các khoản đầu tư vào tàu sân bay cũng như khả năng đổ bộ, các biện pháp đối phó thủy lôi, tác chiến chống tàu ngầm và tác chiến phòng không. Điều này cũng theo một nguyên tắc chính thức - để “bắt kịp ở một số nơi nhưng không bắt kịp ở những nơi khác.” Những nỗ lực này có liên quan đến ‘Ẩn mình chờ thời’. Bản thân Đặng cũng nhận thấy Trung Quốc nên làm theo ‘Ẩn mình chờ thời’ trong việc sản xuất vũ khí cho đến khi sức mạnh của nó tăng lên. Và một thập kỷ sau, khi Phó Chủ tịch Quân ủy Trung ương Trương Vạn Niên phải đối mặt với bóng ma khó chịu về cuộc chiến tranh của Mỹ ở Kosovo, ông đã nhắc lại “những gì PLA nên làm” để đáp lại “sự gia tăng của chủ nghĩa can thiệp quân sự” của Hoa Kỳ là điều đáng ghi nhớ. rằng “cách tiếp cận của chúng ta là ‘Ẩn mình chờ thời’.” Ông nói rõ, “Là một quân nhân, điều này có nghĩa là... phát triển mạnh mẽ thiết bị ‘sát thủ’, [và tuân theo nguyên tắc] bất cứ điều gì kẻ thù sợ nhất, chúng ta phát triển điều đó.”
The People's Liberation Army (PLA) - Quân Giải phóng Nhân dân là lực lượng vũ trang chính quy của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (CHND Trung Hoa) và là cánh vũ trang của đảng chính trị được thành lập và cầm quyền của CHND Trung Hoa, Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ). Bên cạnh Quân ủy Trung ương và một số đơn vị nhỏ trực thuộc, PLA có 5 nhánh phục vụ chính: Lực lượng Mặt đất (PLAGF), Hải
quân (PLAN), Không quân (PLAAF), Lực lượng Tên lửa (PLARF), và Lực lượng Hỗ trợ Chiến lược (PLASSF). Phần lớn các đơn vị quân đội trên khắp đất nước được giao cho một trong năm bộ chỉ huy theo vị trí địa lý.
Số lượng quân nhân trong PLA
PLA là lực lượng quân sự lớn nhất thế giới (không bao gồm lực lượng bán quân sự hoặc lực lượng dự bị) và tạo thành ngân sách quốc phòng lớn thứ hai trên thế giới. Đây cũng là một trong những quân đội hiện đại hóa nhanh nhất trên thế giới và được coi là siêu cường quân sự tiềm năng, với khả năng phòng thủ khu vực đáng kể và khả năng tăng cường sức mạnh toàn cầu. Theo Business Insider vào năm 2018, PLA là quân đội mạnh thứ hai thế giới.
Ngân sách quân sự của một số nước đứng đầu
Thứ hai, ở cấp độ chính trị, sự điều chỉnh chiến lược sau Tam Tai đã khiến Bắc Kinh đảo ngược quan điểm của mình trong việc gia nhập các thể chế khu vực. Hồi ký của các đại sứ Trung Quốc cho thấy rõ ràng Trung Quốc cần phải tham gia vào các thể chế để làm suy giảm sức mạnh của Mỹ theo ba cách: (1) đình trệ các thể chế để chúng không thể hoạt động; (2) sử dụng chúng để hạn chế quyền tự do điều động của Hoa Kỳ; và (3) sử dụng chúng để trấn an các nước láng giềng để họ không tham gia liên minh cân bằng do Hoa Kỳ dẫn đầu. Bắc Kinh lo ngại tổ chức kinh tế xuyên Thái Bình Dương APEC sẽ trở thành một nền tảng của Mỹ, thúc đẩy các giá trị phương Tây gây tổn hại cho Trung Quốc và thậm chí có thể trở thành một NATO châu Á. Một logic tương tự được áp dụng cho Hiệp hội Diễn đàn khu vực các quốc gia Đông NamÁ (ARF), nơi các cố vấn đa phương hàng đầu lo ngại tổ chức sẽ bị lợi dụng để kiểm tra hoặc kiềm chế Trung Quốc. Họ phản đối việc thể chế hóa cả hai nhóm về mọi vấn đề và cũng cố gắng định hình lại một số định mức của nó theo những cách có thể hạn chế các hoạt động quân sự của Mỹ. Mặc dù vậy, những nỗ lực này đã được thực hiện phù hợp với nguyên tắc của ‘Ẩn mình chờ thời’ là tránh tuyên bố về quyền lãnh đạo, điều này có nghĩa là Trung Quốc hạn chế đưa ra các thể chế mới; hơn nữa, chính Đặng đã cho tiếng nói ngoại giao của Trung Quốc sẽ lớn hơn một khi ‘Ẩn mình chờ thời’ đã hoàn thành.
Cuối cùng, Tam Tai (ba sự kiện lớn) cũng định hình chính sách kinh tế quốc tế của Trung Quốc. Việc
Washington sử dụng các biện pháp trừng phạt, đe dọa thu hồi quy chế tối huệ quốc (MFN - sẽ làm tê liệt nền kinh tế Trung Quốc) và việc sử dụng thuế quan thương mại Mục 301 đối với Trung Quốc đã làm dấy lên những lo ngại mới ở Bắc Kinh về tính dễ bị tổn thương trước đòn bẩy của Mỹ và làm giảm bớt những điều này. trở thành tâm điểm trong các nỗ lực của Trung Quốc. Trung Quốc không chỉ tập trung vào việc phá bỏ các lệnh trừng phạt kinh tế, mà còn tìm cách đảm bảo MFN trên cơ sở lâu dài, hay còn gọi là quan hệ thương mại bình thường vĩnh viễn (PNTR). Mục tiêu không phải là để hạn chế sự phụ thuộc của Trung Quốc vào Hoa Kỳ mà là để giảm bớt việc tùy nghi thực thi sức mạnh kinh tế của Hoa Kỳ. Trung Quốc đã thúc đẩy PNTR song phương và bằng cách tận dụng các cuộc đàm phán trong APEC và WTO. Nó cũng thúc đẩy việc trở thành thành viên của WTO, hy vọng nó sẽ ràng buộc Washington hơn nữa.
Bây giờ chúng ta chuyển sang từng công cụ này để thảo luận về những nỗ lực của Trung Quốc trên ba lĩnh vực, cách mỗi công cụ được điều chỉnh để làm giảm sức mạnh của Mỹ, và những thay đổi dường như đã được đồng bộ hóa như thế nào — cho thấy rõ ràng về mặt chiến lược sự điều chỉnh của các nhà lãnh đạo Trung Quốc.
| 4 |
NẮM CHẶT CHÙY SÁT THỦ
“Bất cứ điều gì kẻ thù sợ nhất, chúng ta phát triển điều đó.” Trương Vạn Niên, Phó Chủ tịch Quân ủy Trung ương, 1999.
THỰC HIỆN CÁC CUỘC PHẢN CÔNG QUÂN SỰ
Vào ngày 27 tháng 3 năm 1999, Trung tá Không quân Hoa Kỳ Darrell Zelko vừa tấn công một mục tiêu bên ngoài Belgrade trong khuôn khổ chiến dịch của NATO nhằm chấm dứt việc Serbia thanh lọc người Albania ở Kosovo. Khi Zelko quay chiếc F-117A tàng hình của mình trở lại Căn cứ Không quân Aviano ở miền bắc nước Ý, anh nhận thấy hai chấm sáng nhô lên ở những đám mây bên dưới. Mỗi chấm là một tên lửa bay với tốc độ gấp ba lần tốc độ âm thanh và chúng được phóng đi từ một đơn vị phòng không của Serbia do Zoltan Dani chỉ huy.
Lockheed F-117A Chim ưng đêm, là chiếc máy bay đầu tiên trên thế giới được thiết kế hoàn toàn theo công nghệ tàng hình. Không lực Hoa Kỳ là lực lượng duy nhất sử dụng loại máy bay này, nó là hậu duệ trực tiếp của chương trình tàng hình Have Blue.
Đơn vị của Dani được trang bị những thiết bị lỗi thời từ đầu những năm 1960 của Liên Xô, nhưng anh ấy đã bù đắp nó bằng các chiến thuật sáng tạo. Anh ấy biết đơn vị của mình cực kỳ dễ bị tấn công bởi các tên lửa chống bức xạ của Hoa Kỳ sẽ tấn công các khẩu đội nếu anh ấy để các radar điều khiển hỏa lực của mình hoạt động quá lâu dù chỉ một giây - một bài học mà các đơn vị phòng không Iraq đã không học được trong Trận đầu Chiến tranh vùng Vịnh. Vì vậy, Dani đã huấn luyện đơn vị của mình kích hoạt radar điều khiển hỏa lực của nó trong vòng hai mươi giây, di chuyển vị trí trong vòng 90 phút để tránh bị tấn công, tạo mồi nhử radar để hấp thụ tên lửa của Mỹ, sử dụng radar tần số thấp để thu nhận mục tiêu, và chỉ giao chiến với máy bay Mỹ sau khi chúng hoàn thành nhiệm vụ tấn công mặt đất. Những chiến thuật đó đã đảm bảo sự sống sót của đơn vị anh ta trước hai chục tên lửa của NATO trong suốt cuộc chiến, và vào đêm đó, chúng đã làm nên lịch sử.
Tên lửa của Dani đã làm tê liệt Nighthawk (Chim ưng đêm). Cuộc tấn công đã khiến cả thế giới sửng sốt: một trong những chiếc máy bay tàng hình tốt nhất thế giới từ lâu được coi là hầu như không nhìn thấy đã bị một trong những hệ thống phòng không cũ nhất thế giới bắn hạ — một hệ thống hoàn toàn không khác với Trung Quốc vào thời điểm đó.
Cách đó gần 5.000 dặm, quân đội Trung Quốc đã theo dõi sự kiện với sự quan tâm đặc biệt. Trong vòng ba ngày, Trương Vạn Niên, khi đó là Phó Chủ tịch Quân ủy Trung ương, đã lập một bản báo cáo được
chuẩn bị nhanh chóng về chiến dịch của NATO và cuộc kháng chiến đổi mới của Serbia lên Chủ tịch Giang Trạch Dân. Trong báo cáo, Trương lưu ý “các lực lượng của Nam Tư đã cung cấp một điểm tham chiếu hữu ích cho quân đội của chúng ta về câu hỏi làm thế nào một lực lượng được trang bị kém hơn có thể đánh bại một lực lượng được trang bị vượt trội trong điều kiện công nghệ cao.” Như một dấu hiệu không chỉ Về việc Trung Quốc tập trung vào vũ khí không đối xứng mà còn mối quan tâm cơ bản của họ với việc làm giảm khả năng của Mỹ nói riêng, Trương đã đánh dấu báo cáo là khẩn cấp đối với Giang và thậm chí đính kèm một ghi chú cá nhân kêu gọi Giang đọc nó. nói rõ tại sao việc nghiên cứu về Serbia lại có liên quan đến việc bảo vệ Trung Quốc, và sau đó ông đã phổ biến thông điệp này cho toàn thể Quân đội Giải phóng Nhân dân. “Các cuộc không kích của NATO phản ánh các đặc điểm và quy tắc của vũ khí công nghệ cao,” nhưng “Sự kháng cự của người Serbia... mang lại cho chúng ta rất nhiều cảm hứng. Chúng ta nên áp dụng điều này vào việc chuẩn bị cho cuộc đấu tranh quân sự” với các đối thủ cao hơn, theo ý ông là Hoa Kỳ”
Bản ghi nhớ khẩn cấp của Trương về ‘nguồn cảm hứng’ mà Serbia đưa ra trong việc đánh bại khả năng của Mỹ được đưa ra mười năm sau khi Trung Quốc - được thúc đẩy bởi vụ nổ từ Quảng trường Thiên An Môn và sau đó là Chiến tranh vùng Vịnh và Sự sụp đổ của Liên Xô - bắt đầu tìm kiếm một chiến lược quân sự mới có thể làm suy giảm sức mạnh quân sự của Mỹ. Chương này khám phá nỗ lực đó. Nó lập luận, trước thời kỳ trifecta (ba sự kiện lớn ở trên – Tam Tai), các nhà lãnh đạo Trung Quốc vào cuối những năm 1980 đã hướng sự chú ý của họ đến các cuộc chiến tranh cục bộ và tranh chấp lãnh thổ, và Trung Quốc đã bắt đầu các kế hoạch dài hạn cho một cấu trúc hải quân và không quân tập trung vào kiểm soát biển được thiết kế để giữ các vùng biển xa. lãnh thổ. Nhưng một khi Hoa Kỳ trở thành một mối đe dọa, Bắc Kinh đã từ bỏ chiến lược đó theo hướng tập trung vào việc từ chối trên biển để ngăn quân đội Hoa Kỳ đi ngang qua hoặc kiểm soát các vùng biển gần Trung Quốc. Các ông Đặng và Giang đã tham gia cá nhân vào sự thay đổi này, và vào năm 1993, nó đã được đưa vào “các hướng dẫn chiến lược quân sự” mới của Trung Quốc. Chiến lược phản công này gọi là vũ khí “shashoujian” hay “chùy sát thủ”, được Trung Quốc xác định là công cụ bất đối xứng chống lại Hoa Kỳ thường vượt trội. Trung Quốc đầu tư mạnh vào đường biển: bắt đầu xây dựng hạm đội tàu ngầm lớn nhất thế giới, kho vũ khí gần biển lớn nhất, tên lửa đạn đạo chống hạm đầu tiên (chủ yếu để đe dọa các tàu sân bay của Hoa Kỳ), và thậm chí được cấu hình hầu như chiến binh mặt nước cho chiến tranh chống tàu chiến — xây dựng một hải quân phi đối xứng và một tổ hợp có khả năng như nhiều nhà phân tích quân sự gọi là “chống xâm nhập/từ chối khu vực” (A2/AD). Tất cả những điều này được thực hiện theo nguyên tắc rõ ràng “bất cứ điều gì kẻ thù sợ, chúng ta phát triển nó”. Đồng thời, Trung Quốc trì hoãn các khoản đầu tư vào kiểm soát biển, vốn là lợi thế của Hoa Kỳ. Nó trì hoãn các khoản đầu tư vào tàu sân bay cũng như khả năng đổ bộ, các biện pháp đối phó thủy lôi, tác chiến chống tàu ngầm và tác chiến phòng không. Điều này cũng theo một nguyên tắc chính thức — để “bắt kịp ở một số nơi nhưng không bắt kịp ở những nơi khác”.
Về mặt chiến lược, những nỗ lực này có liên quan đến ‘Ẩn mình chờ thời’. Đặng nhận thấy Trung Quốc nên học theo ‘Ẩn mình chờ thời’ trong việc sản xuất vũ khí cho đến khi sức mạnh của họ tăng lên. Và khi Trương Vạn Niên quan sát cuộc chiến của Hoa Kỳ ở Kosovo, ông cũng nhắc lại “những gì PLA nên làm” để đối phó với “sự gia tăng của chủ nghĩa can thiệp quân sự” của Hoa Kỳ là hãy nhớ “cách tiếp cận của chúng ta là ‘Ẩn mình chờ thời’.” Ông ấy tiếp tục, “Là một quân nhân, điều này có nghĩa là… phát triển mạnh mẽ thiết bị ‘shashoujian’, [và tuân theo nguyên tắc] ‘bất cứ điều gì kẻ thù sợ nhất, chúng ta phát triển thứ đó’.”
Chương này tiếp tục với ba phần. Đầu tiên, nó liệt kê các giải thích thay thế có thể có cho hành vi quân sự của Trung Quốc được thử nghiệm so với hành vi được đề xuất ở đây. Thứ hai, nó sử dụng hồi ký, tác phẩm, tiểu luận và nguồn học thuyết được chọn lọc của Trung Quốc để chứng minh chiến lược quân sự của
Trung Quốc sau cuộc tam tai tập trung vào việc làm suy yếu sức mạnh quân sự của Mỹ. Thứ ba, nó phân tích hành vi của Trung Quốc để chứng minh việc tập trung vào cắt giảm các khoản đầu tư quân sự của Trung Quốc trong giai đoạn này.
GIẢI THÍCH CHIẾN LƯỢC QUÂN SỰ
Chúng ta có thể hiểu rõ lý do tại sao Trung Quốc đầu tư quân sự theo hai cách: (1) bằng cách phân tích quá trình ra quyết định của họ bằng các văn bản có thẩm quyền; và (2) bằng cách phân tích các mô hình trong các hoạt động và đầu tư quân sự của Trung Quốc để kiểm tra xem điều gì giải thích tốt nhất cho hành vi đó.
Khi chúng tôi nghiên cứu các khoản đầu tư quân sự, có ít nhất bốn chỉ số quan trọng và sự thay đổi bên trong chúng, giữa chúng cũng như so sánh với các quốc gia khác có thể được tận dụng để bác bỏ một số lý thuyết về hành vi của Trung Quốc và xác nhận những lý thuyết khác. Chúng bao gồm (1) mua lại, hoặc những gì Trung Quốc mua và khi nào; (2) học thuyết, hoặc bộ nguyên tắc được thể chế hóa về cách chống lại Trung Quốc đã được thông qua; (3) thế lực, hoặc cách thức và địa điểm Trung Quốc triển khai quân đội của mình; và (4) đào tạo, hoặc cách thức và loại xung đột nào mà Trung Quốc chuẩn bị lực lượng để chiến đấu. Tập trung vào các yếu tố này, cũng như các văn bản chính của Trung Quốc, có thể giúp chúng ta kiểmtra các lý thuyết cạnh tranh giải thích các khoản đầu tư quân sự của Trung Quốc.
Những lý thuyết cạnh tranh này là gì? Giải thích đối thủ đầu tiên là sự khuếch tán, điều này cho thấy các quốc gia sẽ mô phỏng khả năng của các quốc gia mạnh nhất thế giới và quân đội Trung Quốc sẽ sao chép phần lớn cấu trúc và thực tiễn lực lượng của Mỹ. Các thông lệ của Hoa Kỳ vì một số chi phí quá đắt hoặc phức tạp về mặt tổ chức, vì vậy các khoản đầu tư của nó sẽ được định hình theo những gì nó có thể áp dụng. Hai lý thuyết này tập trung vào những gì có thể cung cấp cho các quốc gia, nhưng các khoản đầu tư quân sự thường chỉ dựa trên nhu cầu hoặc những gì nhà nước cần. Giải thích thứ ba, một lý thuyết tập trung vào nhu cầu, đó là chính trị quan liêu - xung đột nội bộ ở Trung Quốc giữa Các quan chức đảng và quân đội, lục quân và hải quân, hoặc sĩ quan tác chiến mặt nước và tàu ngầm - giải thích các khoản đầu tư quân sự của Bắc Kinh. Ngược lại, một tập hợp các lý thuyết tập trung vào nhu cầu khác nâng cao lợi ích quốc gia hơn các lý thuyết thuộc quyền sở hữu. Như giáo sư Kimberly Marten Zisk của Đại học Barnard, quân đội “thường quan tâm không chỉ đến lợi ích thể chế của chính họ của chính trị trong nước, mà còn về việc bảo vệ các lợi ích an ninh quốc gia khỏi các mối đe dọa từ nước ngoài.” Được áp dụng cho Trung Quốc, cách tiếp cận này dẫn chúng ta đến giải thích thứ tư và thứ năm cho các khoản đầu tư quân sự của Trung Quốc, cả hai đều tập trung vào nhận thức của Trung Quốc về môi trường an ninh. Lý thuyết thứ tư — một lý thuyết được đề xuất và bảo vệ trong chương này — là các khoản đầu tư quân sự của Trung Quốc được giải thích tốt nhất bằng mối đe dọa can thiệp quân sự của Hoa Kỳ trong khu vực và nhằm mục đích làm giảmmối đe dọa đó thông qua các khả năng chống tiếp cận/từ chối khu vực. Một giả thuyết thứ năm, được đề xuất bởi giáo sư Taylor Fravel của MIT và giáo sư Christopher Twomey của Trường Sau đại học Hải quân, đó là các khoản đầu tư quân sự của Trung Quốc hướng đến một số hoạt động địa phương tập trung vào Đài Loan, Biển Đông và Hoa Đông, và thậm chí là xung đột với Nga, Ấn Độ, và bán đảo Triều Tiên. Theo quan điểm, bản thân khu vực này là trọng tâm chính của Trung Quốc, chứ không phải Hoa Kỳ.
Chương này cũng như Chương 8 tán thành lý thuyết thứ tư và thứ năm và chỉ ra câu hỏi không phải là lý thuyết nào là đúng mà là khi nào mỗi lý thuyết là đúng. Lý thuyết thứ tư, tương ứng với việc giải thích chiến lược của Trung Quốc sau cuộc tam tai; lý thuyết thứ năm, thực sự phù hợp với việc xây dựng, áp dụng tốt nhất sau cuộc Khủng hoảng Tài chính Toàn cầu 2008, khi một Trung Quốc tự tin hơn đã theo đuổi một cách công khai các khả năng cho các trường hợp dự phòng trong khu vực.
Để kiểm tra các lý thuyết khác nhau này, giờ đây chúng ta chuyển sang tập trung vào diễn ngôn của chính
Trung Quốc về các khoản đầu tư quân sự của nước này.
KHẢ NĂNG QUÂN SỰ CỦA TRUNG QUỐC
Các nguồn hồi ký, tiểu luận và học thuyết quân sự của Trung Quốc chứng minh từ cuối năm 1989, Trung Quốc đã xác định xung đột với Hoa Kỳ là thách thức quân sự quan trọng nhất của họ. Phần này (1) cho thấy sự thay đổi chiến lược của Trung Quốc theo sau sự kiện Thiên An Môn, Chiến tranh vùng Vịnh, và sự sụp đổ của Liên Xô; (2) giải thích sự xuất hiện của chiến lược cắt giảm bất đối xứng của Trung Quốc tập trung vào Hoa Kỳ bằng cách phân tích diễn ngôn của họ về vũ khí “sát thủ” hoặc “shashoujian”, một thuật ngữ gây tranh cãi được chứng minh ở đây là chỗ đứng cho các khoản đầu tư vũ khí bất đối xứng; và (3) xem xét ngắn gọn các giải thích thay thế.
SỰ THAY ĐỔI TRONG CHIẾN LƯỢC
Trong những năm 1980, Liên Xô đã trở thành một mối đe dọa hiện hữu đối với Trung Quốc đã chiếm hết sự chú ý của các nhà hoạch định quốc phòng của nước này. Nhưng đến cuối những năm 1980, căng thẳng giảm dần khiến các nhà lãnh đạo Trung Quốc chuyển sự chú ý cụ thể hơn sang các cuộc chiến tranh cục bộ. Ví dụ, vào năm 1985, Đặng Tiểu Bình chính thức thay đổi quan điểm chiến lược của Trung Quốc và tuyên bố không còn mối đe dọa về chiến tranh hạt nhân hoặc mặt đất sắp xảy ra với Liên Xô. Sau sự thay đổi trong tư duy chiến lược, và là một phần của việc tập trung dần dần vào các vấn đề hải quân và xung đột lãnh thổ trên biển, hải quân Trung Quốc đã chuyển chiến lược của mình vào năm 1986 từ “Phòng thủ bờ biển” sang “Phòng thủ ngoài khơi.”
Quỹ đạo đổi mới trong chính sách an ninh của Trung Quốc đã không kéo dài, và tam tai Quảng trường Thiên An Môn, Chiến tranh vùng Vịnh và sự sụp đổ của Liên Xô sau đó đã thay đổi triển vọng an ninh của Trung Quốc và tập trung vào mối đe dọa của Mỹ hơn là các xung đột cục bộ (đặc biệt là hàng hải) với các nước láng giềng. Các cuốn hồi ký, tiểu sử, các tác phẩm chọn lọc và bài luận của Phó Chủ tịch Quân ủy Trung ương Trung Quốc (Bộ trưởng Quốc Phòng) — vị trí quân sự cao nhất trong hệ thống của Trung Quốc dưới Tổng Bí thư — cung cấp thông tin chi tiết về cả lý do và cách chiến lược quân sự của Trung Quốc thay đổi. Hầu như tất cả các phó chủ tịch Quân ủy Trung ương đều cho sự thay đổi trong chiến lược quân sự của Trung Quốc là do ba sự kiện lớn – Tam Tai.
Năm 1993, Lưu Hoa Thanh - người khi đó không chỉ là quan chức quân sự hàng đầu của Trung Quốc mà còn là thành viên quân đội cuối cùng phục vụ trong Ủy ban Thường vụ Bộ Chính trị cầm quyền - đã xuất bản một bài luận có thẩm quyền giải thích việc Trung Quốc áp dụng Hướng dẫn Chiến lược Quân sự mới vào năm đó. Nhất quán với tài khoản trên, Lưu đã liệt kê rõ ràng hai lý do chính cho việc thay đổi chiến lược quân sự của Trung Quốc: (1) sự sụp đổ của Liên Xô; và (2) Chiến tranh vùng Vịnh. Về điều thứ nhất, Lưu lập luận “cấu trúc lưỡng cực đã kết thúc... [nhưng] chủ nghĩa bá quyền và chính trị quyền lực,” ám chỉ Hoa Kỳ trong trường hợp này, “vẫn chưa bước xuống khỏi giai đoạn lịch sử” và vẫn phải bị phản đối. Sẽ không có cổ tức hòa bình, bởi vì “các xung đột và tranh chấp được che đậy trong Chiến tranh Lạnh [giờ] đã trở nên gay gắt”, ám chỉ các tranh chấp Trung-Mỹ về các vấn đề như Đài Loan đã phần nào giảm nhẹ bởi Chiến tranh Lạnh tập trung vào Liên Xô. Vì những lý do này, “chúng ta không thể nói bây giờ là thời bình để chúng ta có thể thả ngựa gặm cỏ ở vùng núi phía nam, cất kiếm và súng vào kho, và bắt đầu hiện đại hóa quân đội sau khi nền kinh tế phát triển,” Lưu lập luận. Sự biện minh rõ ràng thứ hai của Lưu cho sự thay đổi quân sự là Chiến tranh vùng Vịnh. Ông viết: “Chúng tôi [ban lãnh đạo trung ương] đã coi trọng nghiên cứu về Chiến tranh vùng Vịnh. Các cuộc chiến tranh giới hạn trong vài năm gần đây, đặc biệt là
Chiến tranh vùng Vịnh, đã cho thấy nhiều đặc điểm nổi bật,” và về vấn đề này, ông lưu ý, “chúng ta nên chỉ ra Chiến tranh vùng Vịnh là một cuộc xung đột đặc biệt” đòi hỏi phải điều chỉnh chiến lược quân sự. Theo quan điểm của Bắc Kinh, Chiến tranh Vùng Vịnh là một viễn cảnh về một tương lai đáng sợ, nơi vũ khí công nghệ cao của Mỹ có thể được sử dụng để chống lại các lực lượng lạc hậu của Trung Quốc, và do đó là chất xúc tác để thay đổi chiến lược, như các phần tiếp theo sẽ thảo luận chi tiết hơn.
Ba phó chủ tịch khác của Quân ủy Trung ương — Trương Chân, Trương Vạn Niên và Trì Hạo Điền — đều xác nhận sự sụp đổ của Liên Xô, Chiến tranh vùng Vịnh và những nguy cơ của chủ nghĩa bá quyền Hoa Kỳ đã gây ra một sự thay đổi lớn trong chiến lược quân sự của Trung Quốc và họ kể lại đây là chủ đề của một số cuộc họp của Quân ủy Trung ương vào đầu những năm 1990. Trương Chân lưu ý “sự kết thúc của cấu trúc Chiến tranh Lạnh” và “sự phát triển của [vũ khí] công nghệ cao” là “những thay đổi lớn trong tình hình và yêu cầu các đường lối chiến lược quân sự của Trung Quốc phải được điều chỉnh cho phù hợp.” Trương Vạn Niên cũng lặp lại điều này, cho “sự tan rã của cấu trúc thế giới lưỡng cực” và “những thay đổi mới trong chiến tranh do vũ khí công nghệ cao mang lại” đã hình thành nên “nền tảng chiến lược mà Trung ương ĐCSTQ và Quân ủy Trung ương quyết định thiết lập các chủ trương chiến lược mới”. Trì Hạo Điền bao gồm những yếu tố này nhưng cũng tập trung vào mối đe dọa ý thức hệ của Hoa Kỳ thời hậu Thiên An Môn cũng như các biện pháp trừng phạt và ngăn chặn trong một bài phát biểu năm 1991: “Với môi trường chính trị quốc tế đầy bão tố và bất ổn, trong một tình huống mà trao đổi và phong tỏa quốc tế cũng như hợp tác và việc ngăn chặn cùng tồn tại, chúng ta cần phải nhất trí thực hiện chiến lược quân sự của thời kỳ mới này.” Tất cả các tướng lĩnh này đều đồng ý mặc dù Chiến tranh Lạnh đã kết thúc, “chiến lược mới bá quyền đã nổi lên,” và những điều này cũng có thể gây nguy hiểm cho sự thống nhất của Trung Quốc với Đài Loan. Bên ngoài quân đội, một số chủ đề này cũng được tìm thấy. Bầu không khí sau ba sự kiện lớn đủ căng thẳng đến mức một bản ghi nhớ có phần kỳ quặc được viết bởi nhà báo bảo thủ He Xin - người đã thăng tiến nhanh chóng trong thời điểm này để trở thành cố vấn chính sách đối ngoại cho Thủ tướng Lý Bằng và làmviệc trong văn phòng của Nhóm nhỏ hàng đầu về ngoại giao - luân chuyển vào Bộ Chính trị. Nó cho Trung Quốc đại lục có thể phải hứng chịu các cuộc tấn công quân sự của Mỹ và “cô lập Trung Quốc, phong tỏa Trung Quốc, làm tan rã Trung Quốc do [xúi giục] rối loạn nội bộ, và cuối cùng khiến Trung Quốc trở nên rối loạn thông qua việc dân chủ hóa đã và sẽ là một mục tiêu chiến lược mà Mỹ sẽ kiên định tiếp tục thực hiện.” Sự trỗi dậy ngắn ngủi của tác giả trong việc hoạch định chính sách là một dấu hiệu của thời đại.
Cùng với nhau, những văn bản này cho thấy chiến lược quân sự của Trung Quốc đã thay đổi. Bây giờ chúng ta quay lại để xem xét nó sẽ sớm trở thành gì.
Trong những năm sau ba sự kiện lớn, chiến lược của Trung Quốc tập trung vào nỗ lực phát triển vũ khí phi đối xứng để làm giảm sức mạnh của Mỹ. Theo đó, lịch sử điều chỉnh chiến lược của Trung Quốc có thể được tái hiện thông qua các văn bản và hồ sơ cấp cao về các cuộc họp, tất cả đều cho thấy (1) Trung Quốc tin họ đang đối mặt với mối đe dọa từ vũ khí công nghệ cao của Mỹ; và (2) Trung Quốc cần một cách tiếp cận bất đối xứng sử dụng vũ khí “shashoujian” hoặc “chùy sát thủ” để đối phó với mối đe dọa đó.
Thuật ngữ gợi liên tưởng này - “shashoujian” - đôi khi bị loại bỏ như một phép tu từ đơn thuần vì nó cũng xuất hiện trong các chuyên mục thể thao hoặc phim ảnh và do đó dường như có nghĩa hơi tương tự với ‘viên đạn bạc’ trong thành ngữ tiếng Anh. Nhưng trong bối cảnh lịch sử, “thuật ngữ shashoujian” ban đầu xuất phát từ những câu chuyện dân gian cổ đại của Trung Quốc, nơi người anh hùng sử dụng vật ma thuật này để đánh bại một kẻ thù dường như vô cùng mạnh mẽ và độc ác. đồng nghĩa với vũ khí và khả năng phi đối xứng có thể đánh bại các đối thủ công nghệ cao.
Trong một bài phát biểu về hiện đại hóa quân đội, nhà lãnh đạo tối cao Giang Trạch Dân nói Trung Quốc cần phát triển thiết bị vũ khí “shashoujian” tinh vi của riêng mình nhằm vào các nước phát triển... phù hợp
để “chiến thắng” càng nhanh càng tốt. Tương tự, Tướng Phó Toàn Hữu - người đứng đầu Bộ Tổng thammưu PLA và một thành viên Quân ủy Trung ương - đã viết “để đánh bại kẻ thù được trang bị tốt hơn với thiết bị kém hơn trong bối cảnh công nghệ cao, chúng ta nên dựa vào... vũ khí shashoujian chất lượng cao.” Gần đây hơn, ông Tập Cận Bình đã định nghĩa rõ ràng thuật ngữ “shashoujian” là không đối xứng trong một bài phát biểu về công nghệ. Và mặc dù các học giả như cựu quan chức Lầu Năm Góc Michael Pillsbury cho thuật ngữ này xuất hiện vào cuối những năm 1990, các nguồn tin của Trung Quốc hiện đã chứng minh điều đó — và chiến lược bất đối xứng gắn liền với nó — đã xuất hiện vào đầu những năm1990.
CHIẾN TRANH VÙNG VỊNH, CHIẾN LƯỢC QUÂN SỰ VÀ SHASHOUJIAN
Sự tập trung vào một chiến lược bất đối xứng bắt đầu ngay sau ba sự kiện. Chiến tranh vùng Vịnh đặc biệt làm rõ những công nghệ quân sự nào đang đe dọa Trung Quốc và những công nghệ nào có thể hữu ích để chống lại Hoa Kỳ. Những bài học này đã được đưa vào Hướng dẫn Chiến lược Quân sự năm 1993 của Trung Quốc và như các phần tiếp theo cho thấy, vào các khoản đầu tư quân sự của Trung Quốc. Là một phần của chiến lược, Trung Quốc đã nỗ lực phát triển các loại vũ khí cho phép kẻ “kém hơn có thể đánh bại kẻ vượt trội”, được coi là “thứ mà kẻ thù sợ nhất”, có chức năng như “quân bài tẩy và nước cờ khôn ngoan” và “có khả năng răn đe một kẻ thù hùng mạnh.” Để chế tạo những vũ khí này, Trung Quốc đã phải hoãn các khoản đầu tư quân sự nhất định vào các tàu sân bay và hạm tàu dễ bị tổn thương, thay vào đó, Bắc Kinh quyết định “bắt kịp ở một số nơi, nhưng không bắt kịp những nơi khác”.
Khi bắt đầu Chiến tranh vùng Vịnh, các nhà lãnh đạo Trung Quốc biết Iraq có trang thiết bị tương tự và trong một số trường hợp vượt trội hơn so với Trung Quốc. Họ kỳ vọng người Iraq có thể tiến hành một hình thức “Chiến tranh nhân dân trong điều kiện hiện đại” của chính Trung Quốc, sẽ kéo Washington vào một cuộc chiến trên bộ lâu dài và khiến nước này thất bại về mặt chính trị, trái ngược với những can thiệp trơn tru hơn của Mỹ ở Grenada, Libya và Panama. Thay vào đó, Hoa Kỳ đã thắng thế một cách ngoạn mục trong cuộc xung đột, một ban lãnh đạo sửng sốt của Trung Quốc đã nhìn thấy sự tương đồng đáng sợ giữa thất bại của Iraq và số phận có thể có của Trung Quốc trong một cuộc xung đột hạn chế với Hoa Kỳ. Trong một phiên nghiên cứu cấp cao được gọi là để khám phá Chiến tranh vùng Vịnh, Trì Hạo Điền đã viết “các lực lượng Iraq không chỉ hoàn toàn bị động khi đối mặt với các cuộc không kích, trên bộ mà họ còn thua rất nhanh và thảm hại”, ông thừa nhận là “bất ngờ” ông đã viết công khai Chiến tranh vùng Vịnh là một ví dụ về “chủ nghĩa bá quyền toàn cầu” của Hoa Kỳ và “Hoa Kỳ có ý định thống trị thế giới,” bao gồm cả Trung Quốc. Như Trương Vạn Niên đã nói, “sau Chiến tranh Vùng Vịnh, chiến tranh cục bộ công nghệ cao lên ngôi, [và] mọi quốc gia lớn đều phải điều chỉnh chiến lược quân sự của mình,” bao gồm cả Trung Quốc.
Để điều chỉnh chiến lược quân sự của mình, Trung Quốc đã khởi động một loạt các nghiên cứu để xem xét Chiến tranh vùng Vịnh ngay sau khi nó kết thúc. Tháng 3 năm 1991, Quân ủy Trung ương họp để giải quyết xung đột và Giang Trạch Dân - lúc đó là Tổng Bí thư kiêm Bí thư Quân ủy Trung ương - đã trực tiếp thamgia. Sự tham gia của nhà lãnh đạo tối cao trong một cuộc nghiên cứu về Chiến tranh vùng Vịnh, đặc biệt là ở cấp độ tác chiến, là một điều đáng chú ý. Nó cho thấy việc điều chỉnh chiến lược quân sự của Trung Quốc đã diễn ra ở cấp độ cao nhất có thể và các tài khoản khác xác nhận Giang có liên quan sâu sắc. Tiểu sử của Trì Hạo Điền ghi lại cá nhân Giang “rất chú ý đến Chiến tranh vùng Vịnh, và đã chỉ đạo Bộ Tổng tham mưu nghiên cứu các đặc điểm và quy luật của chiến tranh, khám phá các mô hình tác chiến mới và đưa ra các biện pháp đối phó tương ứng” để đối phó với các loại Chiến tranh công nghệ Hoa Kỳ thể hiện ở cấp độ thực tiễn. Trương Chân, người đã làm việc chặt chẽ với Giang trong thời kỳ này, đã viết trong hồi ký của mình, “Sau khi Chiến tranh vùng Vịnh bùng nổ, [Giang] rất quan tâm đến diễn biến của cuộc chiến,
đặc biệt là sự phát triển của chiến tranh hiện đại được thể hiện qua nó, và cá nhân tham gia một số hội thảo quân sự.” Giang thậm chí còn thường xuyên đưa ra “hướng dẫn về nghiên cứu các vấn đề hoạt động trong điều kiện công nghệ cao” và về “chuẩn bị cho việc xây dựng chủ trương chiến lược quân sự trong thời kỳ mới.”
Bộ Tổng tham mưu cũng tổ chức một phiên nghiên cứu về Chiến tranh vùng Vịnh vào đầu năm 1991, và bài phát biểu của Trì Hạo Điền tại đó chỉ ra những kết luận chính của phiên họp đó. Ông lưu ý Chiến tranh vùng Vịnh dường như đã bộc lộ sức mạnh của Mỹ và chỉ ra “cán cân quyền lực thế giới” không quá thuận lợi. Thất bại của Iraq có nghĩa là Trung Quốc cần phải “nghiên cứu một cách tận tâm các bài học và kinh nghiệm của Chiến tranh vùng Vịnh” và “rút kinh nghiệm từ nó”. Ông Trì đề nghị xem “nó là nguồn cảmhứng hữu ích để củng cố quốc phòng và xây dựng quân đội của Trung Quốc.” Nhiệm vụ này là cấp bách, vì Trung Quốc đang phải đối mặt với một mối đe dọa nghiêm trọng. Trích dẫn sự thất bại của các quốc gia như Argentina và Iraq trước các lực lượng phương Tây với vũ khí công nghệ cao hơn, Trì Hạo Điền liên hệ trực tiếp những cuộc xung đột này với điều mà ông coi là tình hình thảm khốc của chính Trung Quốc: “kết quả của những cuộc xung đột này chứng tỏ... các nước yếu hơn đã phải chịu thiệt hại.” Ông Trì tiếp tục, “Đây là một bài học mà lịch sử đã chứng minh vô số lần, nhưng thực tế cay đắng [tức là Chiến tranh vùng Vịnh] lại một lần nữa đặt ra bài học ngay trước mắt chúng ta. Kết nối điều này với hoàn cảnh của chúng ta, chúng ta không thể làm mà không có cảm giác cấp bách.”
Để đối phó với tình trạng liên quan này, bài phát biểu của ông Trì khuyến nghị Trung Quốc nên tìm cách đánh bại một đối thủ mạnh hơn trong điều kiện công nghệ cao. Ông Trì lưu ý Iraq đã thất bại trong việc áp dụng các chiến lược phi đối xứng và “điều này khiến chúng ta một lần nữa cảm thấy sâu sắc rằng nếu các nước có vũ khí kém hơn muốn đánh bại các nước mạnh hơn một cách hiệu quả” thì họ cần phải lập kế hoạch phù hợp. Ông tiếp tục: “Cách hiệu quả thực sự [để đối phó với một đối thủ cao hơn] vẫn là những gì Mao Chủ tịch đã nói, bạn chiến đấu theo cách của bạn, tôi chiến đấu theo cách của tôi. Nói cách khác, bạn có công nghệ tiên tiến của bạn, tôi có thiết bị kém hơn của riêng tôi để đối phó với cách tiếp cận của bạn.” Khái niệm Maoist (chủ nghĩa Mao) cũ này thường được thảo luận cùng với “Chiến tranh nhân dân” cần được thay thế cho các điều kiện công nghệ cao và hợp nhất vào các hướng dẫn quân sự của Trung Quốc, Trì lưu ý:
Về chiến thuật, bao gồm cả việc sử dụng cụ thể là Chiến tranh nhân dân, đối với việc sử dụng trang bị kémhơn để đánh bại chiến thuật của kẻ thù, chúng ta nên nỗ lực nghiên cứu và thăm dò. Từ điều kiện quốc gia và tình hình quân sự của chúng ta, chúng ta phải tạo ra một phương pháp có đặc điểm riêng để che giấu điểm yếu của chúng ta và chỉ ra điểm mạnh của chúng ta, hạn chế để lộ điểm yếu của chúng ta và [và] đánh vào điểm yếu của đối thủ. Đây là điều mà chỉ đạo quân sự thông thường của chúng ta cần tập trung toàn tâm và nghiên cứu để giải quyết vấn đề chiến lược trước mắt.
Trì Hạo Điền
Như Trì đã tóm tắt, mục tiêu là “phát triển thiết bị công nghệ cao của chúng ta, vì vậy trong tay chúng ta, nó sẽ đảm bảo đối thủ sẽ không làm những điều hấp tấp và chúng ta sẽ không bị ép buộc” từ một đối thủ công nghệ cao ( như Hoa Kỳ). Vài tháng sau cuộc họp đầu tiên của nhóm Nghiên cứu Chiến tranh Vùng Vịnh, Bộ Tổng Tham mưu đã công bố Báo cáo Nghiên cứu Chiến tranh Vùng Vịnh tóm tắt những phát hiện của mình. Theo Trì Hạo Điền, báo cáo có “nghiên cứu sâu rộng về cách sử dụng các thiết bị hiện có để đối phó với kẻ thù với lợi thế công nghệ cao”, trong đó tất nhiên Hoa Kỳ là ứng viên duy nhất. sau đó, Bộ Tổng Thammưu đã công bố một báo cáo với các khuyến nghị về các hướng dẫn chiến lược quân sự mới của Trung Quốc.
Khi chiến lược của Trung Quốc bắt đầu được chú trọng vào năm 1991 và 1992, thuật ngữ “shashoujian” đã xuất hiện trong các cuộc thảo luận ở cấp cao nhất trong hệ thống chính trị Trung Quốc. Theo Trương Chân, bản thân Đặng Tiểu Bình được cho là đã kêu gọi phát triển vũ khí shashoujian trong giai đoạn này trong bối cảnh “vượt qua lợi thế của kẻ thù mạnh hơn.” Trong một bài phát biểu cấp cao năm 1992 về Hướng dẫn chiến lược quân sự mới của Trung Quốc trước cả Quân ủy Trung ương và Ủy ban Thường vụ Bộ Chính trị, Trương Vạn Niên kêu gọi vũ khí shashoujian để “đối phó với các cuộc chiến tranh cục bộ và xung đột vũ trang trong điều kiện công nghệ cao”, một kiểu chiến tranh chỉ có Hoa Kỳ mới có thể tiến hành.
Vào tháng 12 năm 1992, Giang Trạch Dân đã tích cực tham gia “hội nghị chuyên đề chiến lược quân sự” với các thành viên Quân ủy Trung ương trong hai ngày để hoàn thiện các chủ trương chiến lược quân sự mới. Trương Chân tóm tắt cuộc thảo luận về chiến lược mới trong một bài phát biểu có vẻ như ám chỉ nguy cơ Mỹ. Ông “lần theo lịch sử của Trung Quốc hiện đại hứng chịu các cuộc xâm lược của kẻ thù nước ngoài” và liên kết nó với “các đặc điểm mới của quyền bá chủ [sự thống trị của Hoa Kỳ], gợi ý đây là trọng tâm cho công tác quốc phòng.” Cuộc chiến vùng Vịnh cho thấy “sự chính xác của Khả năng tấn công tầm xa rõ ràng đã được tăng cường” và “cuộc tấn công chính xác tầm xa được kỳ vọng sẽ tiêu diệt các mục tiêu dọc theo chiều sâu [của không gian chiến đấu].” Ở cấp độ tác chiến, ông ám chỉ chiến lược phi đối xứng bằng cách lập luận “Chiến lược và chiến thuật của Chiến tranh Nhân dân cần được đổi mới” và trong chiến lược sửa đổi, Trung Quốc phải “tập trung vào những điểm yếu và điểm chính trong toàn bộ hệ thống của kẻ thù.” Sau một vài cuộc họp cuối cùng của Quân ủy Trung ương và các báo cáo do Bộ Tổng Thammưu, các hướng dẫn mới đã được thông qua vào tháng 1 năm 1993, với trọng tâm cốt lõi là chuẩn bị cho “chiến tranh cục bộ trong điều kiện công nghệ cao.” Cuối cùng, chiến lược của Trung Quốc đã được chính thức điều chỉnh.
Việc công khai các hướng dẫn mới vào năm 1993 đã chứng minh sự tập trung bất đối xứng vào các đối thủ công nghệ cao như Hoa Kỳ trong các cuộc họp lập kế hoạch đã trở thành chính sách cuối cùng. Trong một bài luận dài giải thích những hướng dẫn này, Lưu Hoa Thanh nhắc lại kết luận của lãnh đạo trung ương: “quan điểm của chúng tôi là... bất kỳ hệ thống vũ khí công nghệ cao nào cũng có điểm yếu riêng và chúng tôi luôn có thể tìm cách khắc chế nó” và “quân đội của chúng tôi, được trang bị kém như trước đây [trong các cuộc xung đột trước đây], được sử dụng để chiến thắng kẻ thù được trang bị tốt hơn. Truyền thống tốt đẹp này sẽ vẫn đóng một vai trò quan trọng trong các cuộc chiến tranh công nghệ cao trong tương lai.” Trong một đề cập không thể nhầm lẫn về Hoa Kỳ, ông viết, “Việc hiện đại hóa quân đội ở các quốc gia theo đuổi bá quyền chủ yếu dựa trên sự phát triển của vũ khí tấn công tầm xa và nhằm thực hiện các hoạt động tác chiến toàn cầu.” Lưu nói rõ Chiến tranh vùng Vịnh không chỉ cho thấy mức độ nguy hiểm của những loại vũ khí công nghệ cao mà còn là cách đánh bại chúng. Và Lưu cũng nhấn mạnh sự cần thiết phải có một sự thay đổi ‘mới’ với các phương pháp tiếp cận Maoist bất đối xứng cũ: “Đặc biệt, phải nỗ lực nghiên cứu các chiến thuật mới sử dụng thiết bị kém hơn để đánh bại kẻ thù với trang bị vượt trội.” Lưu lo lắng “khoảng cách giữa Trung Quốc và các tiêu chuẩn tiên tiến trên thế giới sẽ ngày càng lớn hơn” nếu những nỗ lực này không được thực hiện.
ĐÁNH ĐỔI CHIẾN LƯỢC VÀ SHASHOUJIAN
Để đảm bảo chiến lược mới được thực hiện đúng cách, bài luận của Lưu đã nói rõ Trung Quốc sẽ đánh đổi. Ông lưu ý Hướng dẫn Chiến lược Quân sự năm 1993 đã xác định các cuộc xung đột trên bộ (ví dụ, với Ấn Độ, Việt Nam, Nga hoặc các quốc gia Trung Á mới độc lập) không phải là trọng tâm của các khoản đầu tư quốc phòng. Mặc dù Lưu đã cam kết với một đội quân 3 triệu người, nhưng có lẽ để trấn an các lực lượng trên bộ, các dịch vụ khác cần được chú ý nhiều hơn: “ưu tiên cho sự phát triển của Hải quân và Không quân và tăng cường xây dựng vũ khí kỹ thuật... phải đặt việc hiện đại hóa Hải quân và Không quân
lên vị trí ưu tiên.” Các tranh chấp lãnh thổ lớn của Trung Quốc — và trọng tâm là Đài Loan — tất cả đều có các thành phần trên biển liên quan đến Hoa Kỳ, do đó tập trung vào hướng hàng hải. Các tài liệu tiếp theo làm cho sự tập trung vào Hoa Kỳ rõ ràng hơn nhiều, và như chính Trương Vạn Niên đã tuyên bố, “các chủ trương chiến lược mới đặt ra phương hướng chiến lược và các đối thủ chiến đấu” mà Trung Quốc sẽ phải đối mặt. Một lần nữa, bối cảnh gợi ý rõ ràng sự tập trung vào Hoa Kỳ.
Việc chuẩn bị sẽ rất tốn kém, và cuộc thảo luận của Lưu về Hướng dẫn chiến lược quân sự của Trung Quốc nhấn mạnh Trung Quốc không thể hiện đại hóa mọi thứ: “Vì nguồn tiền sử dụng cho quân sự là có hạn nên tiền mua thiết bị, xây dựng cơ bản… trên thực tế là rất nhỏ. Trong tình hình này, chúng ta phải sử dụng tốt nhất có thể số tiền có hạn.” Điều này đòi hỏi phải có một hình thức ưu tiên: “Chúng ta phải tiến hành từ điều kiện của đất nước mình và không thể so sánh mọi thứ với các tiêu chuẩn quốc tế tiên tiến.” Lãnh đạo tối cao của Trung Quốc đã tham gia vào các quyết định này, với các tướng lĩnh lưu ý các nỗ lực của shashoujian là “dưới sự giám sát trực tiếp của Giang Trạch Dân.” Giang Trạch Dân đưa ra các hướng dẫn về ưu tiên sau đó được các quan chức quân sự cấp cao lặp lại trong nhiều bài phát biểu hơn một thập kỷ. Những điều này bao gồm “tách công việc chính khỏi thứ hai, giải quyết mọi thứ theo thứ tự ưu tiên” cũng như “làm một số việc nhưng không làm những việc khác, bắt kịp ở một số nơi nhưng không phải nơi khác”.
Những cụm từ này được liên kết nhiều lần và rõ ràng với việc ưu tiên chế tạo vũ khí shashoujian. Ví dụ, trong một bài phát biểu trước Ủy ban Khoa học và Công nghệ Quốc phòng Quốc gia, Trương Vạn Niên, người đã giúp lãnh đạo các nỗ lực của shashoujian đã lập luận: “Việc xây dựng Shashoujian đòi hỏi rất nhiều kinh phí,” có nghĩa là “đối với những chương trình liên quan đến công nghệ lạc hậu, chúng ta phải loại bỏ chúng, và chúng ta không được cho phép chúng vắt kiệt nguồn vốn hạn hẹp của chúng ta.” Ông ấy viện dẫn hướng dẫn của Trung Quốc cần phải “bắt kịp ở một số nơi chứ không phải tất cả” và “làm một số thứ chứ không phải tất cả” để xây dựng shashoujian. Tại một hội nghị làm việc được tổ chức để đẩy nhanh quá trình xây dựng shashoujian, Trương lập luận họ nên ở “vị trí hàng đầu” để hiện đại hóa so với các lĩnh vực khác. Và trong một cuộc họp Quân ủy Trung ương, Trương Vạn Niên một lần nữa nhắc lại lời của Giang Trạch Dân về những điểm này: “Nguồn vốn của chúng ta có hạn, thời gian của chúng ta bị hạn chế, và chúng ta không thể làm tất cả mọi thứ. Nếu chúng ta làm tất cả mọi thứ, thì chúng ta sẽ làm mọi thứ tồi tệ, vì vậy chúng ta phải ưu tiên, phân biệt giữa [đầu tư] chính và thứ cấp, và ưu tiên những thứ cần gấp và phát triển chúng.” Nói cách khác, ông tiếp tục, “Ý tưởng chung là kẻ thù sợ điều gì, chúng ta phát triển điều đó.”
SỰ CẤP THIẾT NGÀY CÀNG TĂNG CỦA SHASHOUJIAN
Trong những năm sau khi các hướng dẫn được công bố, Trung Quốc đã tăng cường tập trung vào các hệ thống vũ khí shashoujian ở cấp độ cao nhất, đặc biệt là khi Mỹ liên tục chứng tỏ sức mạnh.
Trong một cuộc họp năm 1994 với các quan chức cấp cao, Trương Chân đã vạch ra một kế hoạch ba bước để đánh bại các đối thủ công nghệ cao như Hoa Kỳ. Đầu tiên, “trong trường hợp xảy ra các cuộc chiến tranh cục bộ công nghệ cao”, ông ấy nói với khán giả của mình, “chúng ta vẫn phải dựa trên [chiến lược của mình] trên nguyên tắc sử dụng thiết bị kém hơn để đánh bại thiết bị vượt trội của đối phương.” Ông ấy tiếp tục, “Tiến hành chiến tranh trong điều kiện công nghệ cao, trước hết chúng ta phải làm chủ bản thân trang bị công nghệ cao, chia thành hai bộ phận để nghiên cứu: cần hiểu rõ điểm mạnh và cũng phải hiểu điểm yếu của nó.” Thứ hai, về chiến thuật, thay vì bắt chước kẻ thù, Trung Quốc sẽ tuân theo đường lối “bạn chiến đấu theo cách của bạn, tôi chiến đấu theo cách của tôi” trong tư tưởng quân sự của Mao được hiện đại hóa cho các điều kiện mới. Trương sau đó lưu ý “bước thứ ba, cũng là một bước quan trọng, là đưa ra các biện pháp đối phó của riêng mình, mỗi người đều có điểm mạnh và điểm yếu, vũ khí công nghệ cao có những hạn chế và chúng ta luôn có thể tìm cách đối phó với chúng.” Cùng nhau, tập trung vào việc
sử dụng thiết bị kém hơn để đánh bại thiết bị vượt trội, sử dụng các chiến thuật độc đáo để làm như vậy, và dựa trên những hạn chế của vũ khí công nghệ cao cho thấy chiến lược chống tiếp cận của Trung Quốc. Như Trương Vạn Niên giải thích, tấn công tầm xa là rất quan trọng và ông ấy nhấn mạnh tầm quan trọng của việc giải quyết vấn đề ‘nhìn xa, tấn công xa, tấn công chính xác’... đặc biệt là ưu tiên phát triển shashoujian hiệu quả.
Trương Vạn Niên
Khi căng thẳng với Hoa Kỳ về Đài Loan bắt đầu gia tăng, mối liên hệ giữa shashoujian và quyền lực của Hoa Kỳ đã rõ ràng hơn. Trong một cuộc họp, Trương Vạn Niên tuyên bố Trung Quốc cần vũ khí shashoujian với “sức mạnh răn đe mạnh mẽ” vào năm 2000 để đối phó với “hướng chính của cuộc đấu tranh quân sự”, ám chỉ đến eo biển Đài Loan, nơi sẽ có sự can thiệp của Mỹ. một cuộc họp về kế hoạch nghiên cứu vũ khí shashoujian vào năm 1999, Trương lại liên kết chúng với Đài Loan: “Chủ tịch Giang Trạch Dân đã nhiều lần nhấn mạnh chúng ta nên phát triển shashoujian, đây là chìa khóa để... hoàn thành thống nhất. Chỉ sau khi phát triển shashoujian của riêng chúng ta ... thì Trung Quốc mới có khả năng chủ động về chiến lược.” Trương cũng thường nhấn mạnh tầm quan trọng của chúng đối với “chiến tranh chống chia rẽ”, một tham chiếu khác về Đài Loan. Một lần nữa, những điều này được coi là bất đối xứng. Như Trương đã nói trong một cuộc họp về phát triển vũ khí cho Kế hoạch 5 năm lần thứ 9, “Trong chiến tranh công nghệ cao, thực sự cần phải có một ‘mẹo hay nước cờ khôn ngoan’ hiệu quả, để có một ‘shashoujian’, để đáp ứng yêu cầu răn đe và đánh thắng kẻ thù.”
Sự thúc đẩy của Trung Quốc đối với “nước cờ gian xảo hoặc khôn ngoan” này ngày càng gay gắt hơn khi có thêm các cuộc biểu dương lực lượng của Hoa Kỳ vào cuối những năm 1990. Sau các cuộc tấn công của Mỹ vào Iraq năm 1998, Tổng cục Vũ khí của PLA bày tỏ quan ngại và tuyên bố Bắc Kinh cần “làm mọi thứ càng sớm càng tốt để sản xuất vũ khí shashoujian. Một khi chúng ta có một vài vũ khí shashoujian, chỉ khi đó đất nước chúng ta mới có thể đứng thẳng.” Sau chiến dịch của Mỹ ở Kosovo năm 1999, như phần giới thiệu đã thảo luận, PLA tập trung vào cách một số trao đổi cho thấy “Lực lượng được trang bị kém hơn có thể đánh bại một lực lượng được trang bị vượt trội trong điều kiện công nghệ cao,” với các báo cáo được