"
Đà Lạt, Một Thời Hương Xa - Nguyễn Vĩnh Nguyên full prc pdf epub azw3 [Du Ký]
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Đà Lạt, Một Thời Hương Xa - Nguyễn Vĩnh Nguyên full prc pdf epub azw3 [Du Ký]
Ebooks
Nhóm Zalo
BIỂU GHI BIÊN MỤC TRƯỚC XUẤT BẢN DO THƯ VIỆN KHTH TP.HCM THỰC HIỆN General Sciences Library Cataloging-in-Publication Data
Nguyễn Vĩnh Nguyên, 1979-
Đà Lạt, một thời hương xa / Nguyễn Vĩnh Nguyên. - In lần thứ 1. - T.P. Hồ Chí Minh : Trẻ, 2016.
400tr. ; 23cm.
1. Đà Lạt (Việt Nam) -- Mô tả và du lịch. I. Ts.
1. Đà Lạt (Vietnam) -- Description and travel.
915.976904 -- ddc 23
N573-N57
NGUYỄN VĨNH NGUYÊN
DU KHẢO VĂN HÓA ĐÀ LẠT GIAI ĐOẠN 1954-1975
để tưởng nhớ ba tôi, người lạc thời, suy tưởng, cô đơn để tặng gia đình nhỏ yêu dấu của tôi
để chuyện trò với những người yêu Đà Lạt.
Vậy hành trình của anh thực ra là hành trình trong ký ức. — Italo Calvino
Nhiều năm sau, ta cố giải mã các bí ẩn mà vào thời điểm đó không còn là bí ẩn nữa và ta muốn hiểu được những ký tự đã bị xóa phân nửa của một ngôn ngữ quá cổ xưa, thứ ngôn ngữ thậm chí ta còn không biết bảng chữ cái.
— Patrick Modiano
Thời hoàng kim xa quá chìm trong phôi pha
Chờ đến bao giờ tái sinh cho người.
— Cung Tiến
MỤC LỤC
DẪN NHẬP 11
DU HÀNH THỜI GIAN 23 Rue des Roses – tháng ngày xa khuất 25 Tiếng hắc tiêu trên đồi thông 37 Cà phê thời không “son phấn” 59 Café Tùng, từ thăm thẳm lãng quên 71 Cỏ xanh đổi sắc theo nhân tình 87 Một “nhà-dân-ngữ”, một khối huyền thoại 97 Một thời “quá thơ mộng và giang hồ” 119 Loài củi mục trên miền xứ bỏ hoang 127 Của thiên đường, của mộng, của thơ 141
KHÔNG GIAN ĐÃ MẤT 167 Thiên đường của những kho sách 169 Chuyến tàu trên biển thời gian bát ngát 181 Hai câu chuyện về tự trị đại học 189 Người tình của hoa đào 203 Một bước, tới Sài Gòn 217
“Như một bóng ma trong sương mù” 225 Sầu ca về thành phố 237 Trắng đen ký vãng 263 Cây đàn trong lòng đất 277 Lê Uyên-Phương, một vài góc khuất 289 La Dalat: người đẹp đồng bằng, tuấn mã cao nguyên
hay giấc mơ Đà Lạt 301 Lối cũ, nhà xưa 313
PHỤ LỤC 325 Thời vàng son của đô thị giáo dục 327 Du lịch Đà Lạt đầu thập niên 1970 359 Hội hè thanh niên 365 7 công trình kiến trúc tiêu biểu được xây dựng
trong giai đoạn 1954 – 1975 371 9 Thị trưởng Đà Lạt giai đoạn 1954 đến 1975 372 Tài liệu tham khảo 373 Lời cám ơn 377 Ghi chú 380 Mục từ tra cứu 394
DẪN NHẬP
Gần nửa đầu thế kỷ XX, người Pháp xây dựng Đà Lạt như một đô thị nghỉ dưỡng, nơi tái hiện khung cảnh núi Alps giữa vùng cao nguyên xứ Đông Dương với khoảng 1.300 ngôi biệt thự kiến trúc châu Âu. Không gian thành phố cao nguyên với hệ thống hồ nước nhân tạo nối trung tâm với những vùng canh nông, rừng thông trong phố như bộ máy điều hòa khí hậu tự nhiên khổng lồ, núi đồi ven đô là nơi lý tưởng cho những chuyến picnic, săn bắn, khách sạn xa hoa cho giới quan chức, không gian nhà thờ, tu viện cổ kính tái hiện không gian Trung Cổ bên trời Âu và cả trường học dạy Pháp ngữ là vườn ươm của con em giới quan chức chính quyền thực dân.
Nhà nghiên cứu người Canada Eric T. Jennings không đưa ra con số chính xác, song có cơ sở khi nhận định rằng: “Một tỉ lệ lớn dân Pháp ở Đông Dương hoặc đã chào đời ở Đà Lạt, nghỉ mát ở Đà Lạt, hoặc vào một thời điểm nào đó học hành ở Đà Lạt, một nơi từ lâu được coi là vườn trẻ của thuộc địa này. Cho tới hôm nay, Đà Lạt vẫn ấp ủ hoài niệm và nuôi dưỡng niềm khát khao nào đó”1
Đúng là “yếu tố Pháp” ở Đà Lạt không chỉ nằm trong hoài niệm, mà còn ở chỗ, là đô thị từng “nuôi dưỡng một khát khao” về một hình mẫu xã hội đô thị Tây phương, một môi trường tận hưởng thiên nhiên hiền hòa,
ĐÀ LẠT, MỘT THỜI HƯƠNG XA ‒ 11
thụ hưởng không gian giáo dục tiến bộ và tiếp nhận lối sống văn minh, lịch lãm mà những gia đình thượng lưu trí thức miền Nam ngưỡng vọng. Cần đặt niềm khát khao đó vào bối cảnh hậu thuộc địa, sự ảnh hưởng sâu xa của tư duy châu Âu trung tâm – dĩ Âu vi trung – nếu muốn lý giải trên bình diện tâm lý.
Năm 1944, Đà Lạt có hơn 5.600 dân phương Tây cư trú. Nếp sống, văn hóa Âu, Pháp đậm đặc ở thành phố cao nguyên non trẻ này. Đến năm 1945, thực dân Pháp bắt đầu mất dần sức ảnh hưởng ở Đông Dương. Công cuộc vun đắp đô thị Đà Lạt như một thủ đô Liên bang Đông Dương của người Pháp khác nào một giấc mộng dang dở. Vị thế đó manh nha củng cố trong thời kỳ Hoàng triều cương thổ, khi biểu tượng Đà Lạt – trung tâm chính trị – gắn với sự trở lại ngắn ngủi, có gì đó khiên cưỡng và muộn màng của cựu hoàng Bảo Đại (từ 1950-1955), người đã trao ấn kiếm cho phía Việt Minh từ 1945. Ở vào mạt thời của chế độ phong kiến với những sức ép của cục diện chính trị mới – những chính sách của vị cựu hoàng nửa chủ nghĩa dân tộc phương Đông, nửa mang tinh thần xa hoa phương Tây trong lối sống và quản trị cộng với sự thiếu thực lực quân sự đã không đủ sức đưa thủ phủ Đà Lạt trở lại “đỉnh cao” (từ dùng của Eric T. Jennings) về địa chính trị như hy vọng được nữa. Nhưng thời kỳ này đánh dấu một giai đoạn chuyển tiếp quan trọng thuộc về cấu trúc dân số Đà Lạt. Sự “Việt Nam hóa” bắt đầu diễn ra tại đô thị quy mô nhỏ kiểu Pháp này. Năm 1952, Bảo Đại bỏ lệ lao động cưỡng bách trên toàn vùng Hoàng triều cương thổ và chấp nhận “nhập cư lao động” (dĩ nhiên, có qua sát hạch và được cấp căn cước gia nhập) để người Kinh có thể lên Đà Lạt nói riêng, lên “xứ Thượng Nam Đông Dương” nói chung2 – làm phu, thế dần bộ máy lao động của dân Thượng bản địa trước đó gánh vác, tạo ra một sự bình đẳng trong xã hội. Nhân sĩ, trí thức triều đình, người có gốc gác hoàng tộc ở Huế cũng chuyển đến Đà Lạt sống trong thời kỳ này, có nhiều đóng góp cho diện mạo văn hóa đô thị. Cuốn Địa chí Đà Lạt năm 1953 của Tòa Thị chính Đà Lạt có ghi chép mang tính tiên báo về một thời kỳ phát triển văn hóa rực rỡ của đô thị
12 ‒ NGUYỄN VĨNH NGUYÊN
này trong tương lai gần: “Đà Lạt phải trở thành trung tâm đại học của Việt Nam. Đà Lạt là một nơi vừa để nghỉ ngơi vừa để làm việc. Đà Lạt không ngừng phát triển và trong tương lai, trong một nước Việt Nam độc lập, Đà Lạt tràn đầy triển vọng”.
[Bưu thiếp Đà Lạt năm 1951. Ảnh tư liệu]
Khoảng đầu thập niên 1950 thì mỗi năm có khoảng 1.500 đến 2.000 người Kinh ở các vùng đồng bằng lên cao nguyên. Một số trường học: trường Huấn luyện Sĩ quan, trường Hành chánh Quốc gia và vài cơ sở giáo dục tiểu học của người Việt dần được thành lập vào giai đoạn này, trên thủ phủ của Hoàng triều cương thổ.
Về an ninh, Đà Lạt trong năm 1953 vẫn được một số tư liệu Văn khố Quốc gia về Lãnh thổ Hải ngoại thuộc Pháp xem như là một thành phố “sống trong sự yên bình tuyệt đối”. Dù thời bấy giờ, đã âm ỉ xảy ra những cuộc thanh toán kiểu du kích của lực lượng Việt Minh nằm vùng nhằm vào mật thám và cộng đồng quan chức, trưởng giả Pháp còn sót lại, những phản ứng lần khần của binh lính Bảo Đại, những tranh giành quyền lực khi chính quyền Quốc gia của Bảo Đại bắt đầu có chính sách gần Mỹ, xa dần ảnh hưởng của Pháp. Nội tình chính trị không còn yên bình như vẻ ngoài của phong cảnh.
ĐÀ LẠT, MỘT THỜI HƯƠNG XA ‒ 13
Hoàng triều cương thổ hết vai trò lịch sử, tiến trình “Việt Nam hóa” ở Đà Lạt diễn ra nhanh chóng và ồn ào hơn, với đợt di dân năm 1954, sau hiệp định Genève. Quy hoạch đô thị giai đoạn này, nói như Eric T. Jennings, “đồ án 1942 của Lagisquet3 thậm chí đã được phủ bụi và đem ra sử dụng dưới thời tổng thống Ngô Đình Diệm”4. Dòng dân cư một triệu người từ bên kia vĩ tuyến 17 – đặc biệt là người dân theo đạo Công giáo dưới sự bảo trợ của chính quyền Ngô Đình Diệm – thiên di đến các đô thị miền Nam. Nhiều gia đình, trí thức tư sản tinh hoa ở Hà Nội đã chọn Đà Lạt làm chốn nhập cư. Quá trình thúc đẩy sự đồng hóa dân Thượng bản địa diễn ra ở đô thị này nhanh chóng hơn sau những nghi lễ hồ hởi bề mặt do chính quyền Việt Nam Cộng hòa tổ chức đón tiếp người Kinh mới đến.
Phong trào khai hoang lập ấp ở các vùng ven Đà Lạt trong khoảng từ 1953-1956. Kết quả là gần 14.000 di dân đã định cư tại Đà Lạt vào năm 1956, và, theo đà đó, đến 1968, tức 5 năm sau khi chính quyền ông Ngô Đình Diệm sụp đổ, thì Đà Lạt căng mình đón 16.000 người Việt nhập cư mới.
[Thủy tạ Đà Lạt, 1955. Ảnh: Đặng Văn Thông]
14 ‒ NGUYỄN VĨNH NGUYÊN
Đặc biệt, chính sách lập ấp chiến lược của chính quyền Ngô Đình Diệm năm 1962 cũng đã khuyến khích người Thượng từ các vùng núi dồn về trung tâm. Không gian đô thị trở nên sầm uất hẳn so với thời Hoàng triều cương thổ. Việc trở thành cư dân Đà Lạt có vẻ dễ dàng hơn nhiều so với trước đó. Nhưng điều may mắn, đó là bởi đô thị này phát triển theo hướng đẩy mạnh chức năng giáo dục, theo đó là những dịch vụ vệ tinh phục vụ cho đời sống ăn học, tinh thần, cho nên, bầu khí quyển văn hóa chi phối lối sống cư dân nói chung trong lành, nề nếp. Chức năng giáo dục cũng tạo ra một màng lọc tự nhiên đối với thành phần dân cư, hình thành một không khí trí thức thuần nhất, hiếm đô thị nào có được.
Đà Lạt có nhà in Trí Hương5, Lâm Viên6, có tờ tuần báo riêng mang măng-sét Đà Lạt từ giữa thập niên 1950, in ronéo. Trước đó, cuối thập niên 1940, cũng tại Đà Lạt, nhà thơ Nguyễn Vỹ chủ trương tờ Dân Chủ, đưa ra quan điểm đối lập trực tiếp với chính quyền quân chủ Bảo Đại, ít lâu sau bị đình bản. Tiếp đó, ông mở báo Dân Ta, và cũng nhận cái kết không có hậu. Đáng kể, từ tháng Giêng năm 1952, với chủ trương báo chí là “tia sáng của văn hóa phải rọi khắp trong quốc dân”, Nguyễn Vỹ tiếp tục trong vai trò chủ bút, cho ấn hành tờ tạp chí Phổ Thông ra hàng tháng, công khai khẩu hiệu “Truyền bá trí thức – Nâng cao văn hóa”. Những số đầu của báo Phổ Thông được thực hiện tại Đà Lạt (tòa soạn đặt tại số 2 đường Khải Định) sau này thì dời về Sài Gòn, trở thành một trong những tờ nguyệt san uy tín hàng đầu trong làng báo chí miền Nam.
ĐÀ LẠT, MỘT THỜI HƯƠNG XA ‒ 15
Đà Lạt có đài phát thanh với những chương trình âm nhạc, trao đổi nghệ thuật, nơi nâng cánh cho những tài năng trẻ. Sự xuất hiện của nhóm nhạc Ngàn thông trên sóng radio, nơi xuất hiện một Từ Công Phụng, với chương trình Mây cao nguyên với sự tỏa sáng của Lê Uyên và Phương. Trước đó, cũng từ sóng radio, Sỹ Phú, Tôn Thất Niệm cũng được khán giả khắp nơi biết đến. Nhiều danh ca: Khánh Ly, Tuấn Ngọc, Thanh Tuyền,… các nhạc sĩ: Hoàng Nguyên, Nguyễn Ánh 9 cũng chọn Đà Lạt như điểm xuất phát trong sự nghiệp âm nhạc của mình.
Đà Lạt cũng có những quán cà phê tụ điểm trí thức, những thư viện, rạp chiếu bóng và phòng trà văn minh, lịch lãm, mang sắc thái riêng của văn hóa đô thị theo mô thức phương Tây mà giới tinh hoa và du khách đặt chân đến cảm thấy gắn bó, hài lòng, xem như “thiên đường”.
Đà Lạt đã chính thức trở thành một đặc khu văn hóa, giáo dục với sự ra đời của nhiều trường học từ tiểu học công, tư thục đến viện đại học. Từ yếu tố nền tảng là thành phần dân cư địa phương tương đối đồng nhất (Công giáo chiếm phần lớn; các phong trào Phật giáo theo xu hướng truyền thống, ôn hòa; dân cư làm nông theo mô hình quy hoạch thôn - ấp truyền thống có hương tục và tầng lớp hương thân; thành phần công chức, giáo viên vẫn duy trì lề lối làm việc kiểu công sở Tây; những người buôn bán trong môi trường thương mại tương đối nhỏ hẹp, ít áp lực cạnh tranh hay phải chụp giật, giẫm đạp lên tha nhân để tồn tại…) cộng với chức năng một đặc khu về giáo dục, với sự ra đời của Viện Đại học Đà Lạt, Giáo Hoàng Học viện thánh Piô X, trường Võ bị, Chiến tranh Chính trị và một hệ thống trường tiểu học, trung học có từ thời Pháp thuộc đến những trường dòng với chế độ giáo dục vừa nghiêm ngặt vừa khai phóng… đã tạo ra một môi trường xã hội đô thị yên ổn, ít cảnh bon chen; hướng đến những giá trị tinh thần; coi trọng người học thức và cổ súy cho những giá trị sáng tạo, tiến bộ. “Những di sản thuộc địa” hữu hình trong thời nọ thời kia có thể bị tìm cách tẩy xóa bằng cách này hay cách khác, nhưng sức sống văn hóa mạnh mẽ từ “mã gene” đô thị đó, trong lối ứng xử văn hóa thì vẫn âm
16 ‒ NGUYỄN VĨNH NGUYÊN
thầm được tiếp nối, cộng hưởng với khả năng hội tụ thành phần trí thức khắp nơi đến tiêu dao, tìm nguồn cảm hứng sáng tạo, giảng dạy, nghiên cứu đã tạo ra một “Đà Lạt tính”, một căn tính văn hóa đô thị không lẫn vào đâu.
Tôi đã nghĩ rằng, những người Pháp, Âu đầu tiên đến với phương Đông, trước hết bởi sự hấp dẫn bí ẩn thuộc về một xứ khác, kẻ khác, một thế giới ở ngoài mình. Một đô thị trên cao nguyên xứ Đông Dương được hình thành khác chi sự hiện thực hóa giấc mơ viễn du tìm kiếm hương xa (exotisme) của những nhà kiến tạo đô thị Pháp thực dân nhưng lại duy văn hóa. Hương xa, ở chiều kích khác, cũng là một mảnh cấu thành trong tâm thức “dĩ Âu vi trung” thời hậu thuộc địa theo chiều ngược lại (tiếp nhận, hồi đáp). Điều này lý giải cho việc chính những trí thức bản xứ ngưỡng vọng, tự nguyện mô phỏng một mô hình văn hóa nối tiếp giấc mơ dang dở mà những nhà sáng lập danh nghĩa thực dân vừa mới rời đi sau những đợt sóng vận động của lịch sử. Trí thức, nghệ sĩ miền Nam tìm đến, cống hiến sáng tạo hay chí ít trải nghiệm Đà Lạt, bởi trong sâu thẳm hình dung, họ tìm thấy ở đó hình bóng một “Paris”, phổ quát hơn, là một bối cảnh, hệ giá trị phương Tây để theo đuổi.
Như vậy, Đà Lạt là một biểu tượng đô thị hương xa xét từ cả hai chiều kích. Với lập luận trên, ta sẽ giải thích dễ dàng hơn những hiện tượng văn hóa diễn ra như việc một thời, các nghệ sĩ sống ở miền Nam, có những người từng du học tại Pháp (trong nhóm Trịnh Cung, Đinh Cường, Đặng Tiến, Trịnh Công Sơn, Vũ Khắc Khoan, Hoàng Anh Tuấn…) ưa thích tìm đến Đà Lạt sống và sáng tạo. Nguyễn Thị Hoàng đến Đà Lạt dạy học một thời gian để viết ra những tác phẩm về tình yêu thuở học trò gây tiếng vang. Ta lại thấy Phạm Công Thiện, Nguyễn Bạt Tụy chọn làm nơi náu mình để nghiên cứu, chiêm nghiệm, theo đuổi học thuật trong bối cảnh chiến tranh li loạn. Ở họ, có sự mê say vụng dại hồ hởi của tuổi trẻ, sự cực đoan đáng yêu của người hứng tâm với tri thức, nhưng cũng có những thứ được tạo nên từ sự trưởng thành rất đặc biệt trong một môi trường nhân văn lý tưởng; đóng góp cho văn hóa đất nước nói chung.
ĐÀ LẠT, MỘT THỜI HƯƠNG XA ‒ 17
[Khu Hòa Bình, Đà Lạt 1952. Ảnh: Bill Robie]
Nếu Paris từng là nơi lang bạt của những văn nhân nghệ sĩ Mỹ thuộc thế hệ “Lost Generation” (Thế hệ bỏ đi) như F. Scott Fitzgerald, E. Hemingway… vào những thập niên 1920 - 1930, thì với sự du hành văn hóa, dường như đã có một “Lost Generation”như thế ở những nghệ sĩ Việt Nam tuổi đôi mươi của Sài Gòn tìm đến Đà Lạt từ khoảng giữa thập niên 1950 đến cuối thập niên 1960 với những đầu óc chất đầy “chọn lựa”, “vấn đề”, “hiện sinh”, “dấn thân”, “tuổi trẻ băn khoăn”... Một kẻ hát rong trong gánh Đức Huy - Charlot Miều sớm nhận ra và gọi rất đúng cái tâm thế “vọng ngoại”, đúng hơn là “vọng Âu” đó trong một lần dừng chân ở Đà Lạt vào năm 1944: “Đã được đi nhiều nơi trên đất nước nhưng tôi không thấy phong cảnh ở đâu đẹp như ở đây. Mang tinh thần vọng ngoại như hầu hết thanh niên thời đó, tôi sung sướng được tới một thành phố giống như ở Âu châu. Tưởng mình đang ở Thụy Sỹ hay Đức quốc”. Kẻ hát rong đó là nhạc sĩ đa tình Phạm Duy, cũng là người có bản “tự thú” rất chân thành rằng, về sau ông đã trở lại Đà Lạt hơn chục lần, “lần nào cũng nằm tròn trong vòng tay ân ái của một người tình”7.
18 ‒ NGUYỄN VĨNH NGUYÊN
Trong một số bức ảnh tư liệu của Đinh Cường, Trịnh Công Sơn chụp tại Đà Lạt vào khoảng 1964 - 1965, có thể thấy những chàng trai tuổi đôi mươi thuộc “nhóm bạn nghệ sĩ đường Hoa Hồng” miệng ngậm pipe, mình khoác áo manteau, nét mặt thường trực nỗi suy tư xa vắng. Rất dễ dàng nhận ra trên con đường “thơ mộng và giang hồ” của họ luôn có cái bóng của ông Jean-Paul Sartre. Nói khác đi, Sartre phủ trùm lên tư tưởng lẫn hình thức, phong thái cuộc sống của họ.
Với những người đến Đà Lạt để học hành, nghiên cứu thì có dịp trải nghiệm một Đà Lạt tuy nhỏ, nhưng thấp thoáng bóng dáng thành phố quốc tế trong giáo dục. Những học trình, bằng cấp ở những trường Tây như Lycée Yersin, Collège d’Adran, Dalat School... đều được thế giới công nhận. Những sinh viên tốt nghiệp phân ngành Sư phạm tại Viện Đại học Đà Lạt khi ra trường có thể sang Pháp, Mỹ xin việc, theo đuổi nghề giáo dễ dàng. Những nhà nghiên cứu tại Giáo Hoàng Học viện Thánh Piô X có thể tiếp tục làm việc, giảng dạy tại những Viện nghiên cứu danh giá ở châu Âu… Đà Lạt từng là nơi hiện thực hóa giấc mơ theo đuổi học thuật của nhiều nhà nghiên cứu nổi tiếng thế giới mà tôi sẽ có dịp nhắc đến trong quyển sách này.
Ngắn ngủi, chóng vánh nhưng để lại những sắc thái sâu đậm – đó là những gì có thể nói về Đà Lạt – thành phố của tri thức, văn hóa và của những cuộc du hành, không gian ẩn dật thú vị cho những nhân vật được đề cập trong cuốn sách này. Trong đó, có hai nhân vật chính khách: Ngô Đình Nhu, Nguyễn Tường Tam. Tuy khuynh hướng chính trị khác nhau, nhưng hai ông ít nhất một lần, từng nuôi ý định sẽ gắn bó với thành phố yên bình này suốt phần đời còn lại.
Vậy thì tâm tính Đà Lạt là gì? Phải chăng đó còn là một tinh thần thư nhàn, phiêu du được diễn giải qua hình ảnh “tuấn mã cao nguyên” – La Dalat trong cuộc trở lại của nhà doanh nghiệp Pháp vào đầu thập niên 1970 hay là một đời sống phong lưu, một không gian sinh hoạt trí thức và một điều kiện văn hóa tinh lọc hướng đến hàn lâm hoặc là những ảo tưởng thoát ly mang sắc thái viễn mơ?
ĐÀ LẠT, MỘT THỜI HƯƠNG XA ‒ 19
Trong giấc mộng đẹp luôn thấp thoáng một nguy cơ của sự vỡ mộng. Nói theo lý thuyết về du hành và hồi đáp văn hóa của Edward Wadie Said8, thì Đà Lạt có thể xem là một case study (trường hợp tiêu biểu để nghiên cứu) khá thú vị.
Mong mỗi người đọc sau khi tiếp cận với những câu chuyện trong quyển sách này cũng sẽ bổ sung thêm những “gạch đầu dòng” về tâm tính Đà Lạt cùng với cảm nhận riêng. Dù rằng, bản sắc, căn tính hay kể cả tâm tính là những thứ mà ngôn từ của lý tính thường bất khả hàm chứa trọn vẹn. Làm sao phân chất một mùi hương?9
Với cá nhân người viết, việc du hành về một đô thị thuở vàng son ký ức để tìm cách tái hiện những câu chuyện và phần nào, nỗ lực giải mã chúng có thể xem là một cuộc phiêu lưu đầy kỳ thú, dĩ nhiên, không ít nhọc nhằn. Điều đó có ý nghĩa như cách thế trả món nợ hiểu biết với thành phố mà mình từng gắn bó suốt năm năm thời đẹp nhất của tuổi trẻ. Nhưng có lúc, đó lại có thể là một việc làm tự thấy quá sức. Hãy còn nhiều con người, sự việc còn chìm trong mù sương lịch sử, cần thời gian và sự hành trì sâu hơn về dĩ vãng.
Vì thế, mục tiêu của cuốn sách có tính du khảo này không kỳ vọng đạt đến tính khoa học nghiêm trang, nhưng phần nào minh định vài câu chuyện, đóng góp vài phát hiện nhỏ, kết nối một số tư liệu khảo cứu – kinh nghiệm thực địa với mục đích gần, đó là gợi mở một lối tiếp cận lịch sử đô thị nhân văn. Hy vọng điều này sẽ đem lại chút hữu ích cho những nhà nghiên cứu Đà Lạt đến sau. Giả như mục đích đó không mảy may đạt được, thì chí ít, cũng mong độc giả xem đây là một buổi cà phê tán gẫu không quá nhạt nhẽo với một người yêu Đà Lạt bằng một tình yêu quá lớn trong một năng lực hữu hạn.
Trong chuỗi truyện mà Marco Polo – nhà du hành vĩ đại đến từ phương Tây – với Hốt Tất Liệt, vị đại hãn thứ năm của Mông Cổ về các thành phố mà ông đã từng đi qua, thì tôi đặc biệt nhớ mẩu chuyện về thành phố có tên Zirma. Đó là một nơi chốn mà mỗi cảnh tượng diễn ra đều bị “chồng lặp”, chính vì thế, chúng nhắc nhớ, neo đọng lại trong tâm
20 ‒ NGUYỄN VĨNH NGUYÊN
tưởng con người ta lâu dài. Phải chăng sự sống ký ức về không gian văn hóa của chúng ta về một nơi chốn, hay cụ thể hơn, thời vang bóng của một đô thị thì cũng mang một cơ chế gần như thế? Những kỷ niệm, ấn tượng, sự kiện, con người, khí hậu… sẽ có lý để được “chồng lặp” lại mãi trong hồi ức, đôi khi chống lại cả một thực tại cuồng khấu, bạo tàn và phũ phàng đang diễn ra hằng ngày trên da thịt thành phố. Như thi nhân xao xuyến tìm má hồng của cố nhân thuở hoa đào năm cũ: Trước sau nào thấy bóng người/ hoa đào năm ngoái còn cười gió đông10. Italo Calvino, nhà văn dệt mộng người Ý, kẻ chuyên nhấn chìm thực tại vào trong cõi vô hình bằng phép thuật ngôn ngữ, đã diễn dịch cuộc trò chuyện của nhà du hành giàu có ký ức, tưởng tượng và trải đời với một vị đại hãn – biểu tượng vương quyền chóng qua (nhưng ít ra, còn biết đối thoại!) – về Zirma11, rằng: “Ký ức chồng lắp dư dôi, những ký hiệu được lặp lại để mà thành phố khởi sự tồn tại”.
Đà Lạt trong ký ức những người từng gắn bó ngày hôm qua, phải chăng, cũng thế? Vậy thì chiều kích thứ ba của cái gọi là tinh thần hương xa mà cuốn sách này mong muốn gợi mở là nằm ở nỗi hoài cảm về một “thời hoàng kim xa quá chìm trong phôi pha”, theo lối nói của Cung Tiến. Một mối u hoài đi cùng cảm giác mất mát khó giãi bày, có lẽ cũng là cảm trạng chung của những người từng gắn bó với Đà Lạt. Xin xem đây như là một sự chia sẻ.
Hành trình đi vào lịch sử nhân văn của một đô thị nhiều thăng trầm như Đà Lạt chắc chắn sẽ không dừng lại ở đây. Hy vọng quyển sách đơn sơ này sẽ là những nét phác thảo gợi được một chút xúc cảm và hứng thú để chặng tiếp theo của cuộc du hành về quá khứ, tác giả của nó sẽ bớt đi phần nào cảm giác đơn độc.
Xin mời độc giả đồng hành.
Tác giả
Saigon, đầu mùa mưa, 2016
ĐÀ LẠT, MỘT THỜI HƯƠNG XA ‒ 21
DU HÀNH THỜI GIAN
24 ‒ NGUYỄN VĨNH NGUYÊN
RUE DES ROSES,
THÁNG NGÀY XA KHUẤT
Đà Lạt quá bé nhỏ và khiêm cung. Nên nếu phải kể đến một con đường ôm mang trong nó đầy đủ nhất những cung bậc thăng trầm của lịch sử, là việc khó. Nhưng hãy nhìn sâu vào cốt cách văn hóa của đô thị này, như cách đi vào bên trong những cánh sóng trên một đóa hoa hồng, ta sẽ gặp ở đó câu chuyện thời gian, trong từng rực rỡ có màu tàn phai…
Thuở ban đầu
Đà Lạt được nhà thám hiểm A. Yersin phát hiện từ 1893. Thập niên đầu của thế kỷ XX, nơi đây đã là trạm nghỉ dưỡng của người Pháp. Qua lần quy hoạch thứ nhất (năm 1923, của kiến trúc sư Ernest Hébrard), sắc vóc đô thị dần hình thành. Nhưng mãi đến bản quy hoạch chỉnh trang năm 1933 của Louis Georges Pineau thì một mô hình đô thị “thức thời” và “chức năng” mới thực sự được biểu hiện rõ ràng hơn.
Eric T. Jennings, sử gia người Canada trong vai một hướng dẫn viên du lịch dẫn ta về Đà Lạt những năm 1930:
ĐÀ LẠT, MỘT THỜI HƯƠNG XA ‒ 25
“Sau khi đặt chân xuống sân nhà ga kiểu art deco, một du khách đến Đà Lạt vào cuối những năm 1930 sẽ đi ngang qua ngôi trường gạch đỏ Lycée Yersin lấy cảm hứng từ Thụy Điển đang trong giai đoạn hoàn thành, sau đó đi men theo bờ hồ trung tâm trung tâm dọc đại lộ Albert Sarraut. Họ liếc thấy nhà thủy tạ Grenouillère bên tay trái với quầy rượu và các cầu ván nhảy bơi lặn, và thưởng lãm dinh thự của toàn quyền nằm trên đỉnh đồi toàn cây thông bao phủ về bên tay trái. Giống như đến bây giờ vẫn thế, hương thơm của những loài cây thường xanh thoảng trong không khí, khơi gợi những ký ức mãnh liệt cho những kiều dân thuộc địa. Từ xa, du khách này sẽ dõi theo những núi đồi nhấp nhô dọc bình nguyên, trải dài ngút tầm mắt. Một vài chóp nhọn nhô lên trên những ngôi biệt thự trên cao hoặc các tu viện. Bên kia hồ về phía tay phải, du khách sẽ ra sân gôn của hoàng đế An Nam. Kế đó là ba khung cảnh hiện ra, phô trương một sự tương phản hoàn toàn: thẳng phía trước là khu hành chính, trong đó người ta có thể nhận ra lực lượng hiến binh, nhà thờ bằng gạch, những khách sạn trắng tinh và các phòng thuế vụ. Xa hơn phía trước là một trong những khu vực chính kề cận nhau của người Âu và những ngôi biệt thự ngẫu hứng, cũng nằm trên một triền dốc, dọc theo những tên đường gợi nhiều liên tưởng như Rue des Roses (đường Hoa Hồng) và Rue des Glaïeuls (đường Hoa Lay-ơn)”12.
[Con em một gia đình thượng lưu người Việt sống trong ngôi biệt thự trên đường Hoa Hồng vào thập niên 1950. Ảnh: Tư liệu gia đình bà Nguyễn Thị Phong]
26 ‒ NGUYỄN VĨNH NGUYÊN
Năm 1933, đường bộ Đà Lạt - Sài Gòn thông xe. Đường sắt Đà Lạt - Tháp Chàm thông tuyến năm 1932. Nhà ga Đà Lạt hoàn thành năm 1938. Nhiều cơ sở chính của thành phố được mở mang trong thời gian này.
“Sự phát triển của Đà Lạt hình như là hậu quả của sự cải tiến các phương tiện giao thông và sự dồi dào của vốn đầu tư” (…) “Nam Kỳ giàu có tiếp sức cho đà phát triển của Đà Lạt và cung cấp vốn sử dụng trong việc hình thành những khu phố đẹp.
Đà Lạt trở thành một thành phố giáo dục quan trọng. Trường trung học được quyết định xây dựng năm 1926 và kéo dài đến hết năm 1941. Trường Đức Bà Lang Bian - Notre Dame du Langbian (hay còn gọi là Couvent des Oiseaux, nay là trường Dân tộc nội trú Lâm Đồng) được thi công từ năm 1934 đến năm 1936 và Thánh Tâm (Sacré Coeur) được xây năm 1940.
Đồng thời, lục quân và hải quân cũng thiết lập những trại nghỉ hè. Doanh trại Courbet được quy hoạch năm 1930. Một doanh trại quân đội rộng 24 hec-ta sẽ mọc lên ở phía đông thành phố vào năm 1937. Về hướng Bắc, Trường Thiếu sinh quân (Ecole des Enfants de Troupe Eurasien, nằm ở khu đất ngày nay là Đại học Đà Lạt) chiếm 38 hec-ta từ năm 1939 dành cho trẻ em lai.
Các khu phố đường Hoa Lay-ơn, đường Hoa Hồng, cư xá Saint Benoît được xây dựng. Về phía Tây Bắc và phía Nam của thành phố, người Việt Nam thành lập các khu phố. Hồ được xây dựng xong năm 1935”13
Cuốn Địa chí Đà Lạt 1953 cũng ghi chú thêm, vào thời điểm Rue des Roses được xây dựng (khoảng cuối thập niên 1930), Đà Lạt có 13.000 người, trong đó có khoảng 10.000 người Việt Nam, nhưng hai năm sau, dân số đã vượt lên 20.000 người.
Đây là thời kỳ đồ án quy hoạch năm 1933 của kiến trúc sư Louis Georges Pineau được hiện thực hóa với mô hình một đô thị chức năng – “thành phố thư nhàn”, cấu trúc hài hòa với thiên nhiên, có hình rẻ quạt hướng về phía núi Lang Bian. Tư duy quy hoạch 1933 của Pineau về sau cũng được kiến trúc sư H. Mondet kế thừa trong đồ án về “Chương trình chỉnh trang và phát triển Đà Lạt” (1940) và được kiến trúc sư Jacques Lagisquet nghiên cứu trong “Chương trình chỉnh trang và phát triển Đà Lạt” (1943).
Rue des Roses được sinh ra trong điều kiện đó. Như thế, ngay từ ban
ĐÀ LẠT, MỘT THỜI HƯƠNG XA ‒ 27
đầu, nó đã là một con đường kiểu mẫu về sự hài hòa kiến trúc với khung cảnh, địa thế với tổng thể địa lý thành phố.
Đường Hoa Hồng
Những biệt thự kiến trúc châu Âu hoa mỹ trên con đường men theo sườn đồi, ẩn hiện dưới những tán thông, tùng cổ thụ một thời là nơi ở của đa số quan chức, công chức cấp cao người Pháp. Sau 1950, chúng bắt đầu dần dần thuộc sở hữu của giới trung lưu, thượng lưu và quan chức, công chức khá giả người Việt. Cao điểm nhất là vào đầu những năm 1960, Rue des Roses dưới tên gọi được Việt hóa – đường Hoa Hồng – chính là nơi chốn trọ của một nhóm nghệ sĩ trí thức chọn Đà Lạt làm đất sáng tạo. Họa sĩ Trịnh Cung đã từng thuê một gian trong căn biệt thự số 11 đường Hoa Hồng trong hai năm, 1962-1963. Đây là căn biệt thự của bà Nghiên, vợ một quan chức cấp cao trong chính quyền Bảo Đại. Ông bà Nghiên lấy nhau ở Paris, sau đó chuyển về Đà Lạt sinh sống trong thời Hoàng triều cương thổ. Cuộc hôn nhân đổ vỡ, khi ra tòa ly dị, người vợ được tòa phán quyết chia cho căn biệt thự này. Là một trí thức Tây học, bà Nghiên có lối sống như những người Pháp láng giềng, biết thụ hưởng những giá trị tinh thần cao nhã, mê tranh và khá sành nhạc cổ điển.
Sau Trịnh Cung, họa sĩ Đinh Cường cũng đến và lưu trú tại studio trong ngôi biệt thự này. Trong một bài hồi ức, họa sĩ Trịnh Cung kể: “Cuối năm 1962, tôi bỏ dạy vẽ, khăn gói lên Ðà Lạt theo đề nghị bảo trợ cho tôi một cuộc sống chỉ để vẽ, mọi thứ đều được anh bạn yêu tranh tôi, tên là Thọ, đài thọ. Anh Thọ có đồn điền ở Lâm Ðồng và có vài pharmacy ở Sài Gòn, dân du học ở Pháp về. Hồi đó dân chơi Sài Gòn đặt nick cho hai công tử, Lân Simca Ðỏ (Hoàng Kim Lân) và Thọ Florid Trắng, đó là chỉ hai chiếc xe mui trần nổi bật giữa Sài Gòn hoa lệ thời 60 của hai chàng. Anh Thọ lớn hơn tôi khoảng 5 tuổi, thuê cho tôi một căn hộ trong biệt thự nằm trên đường Hoa Hồng nay là đường Huỳnh Thúc Kháng, Ðà Lạt. Nơi mà Ðinh Cường thường đề cập khi anh viết về Ðà Lạt một thời. Việc cơm nước, anh Thọ giao cho bà chủ biệt thự này lo toan cho tôi mỗi ngày. Rong chơi và vẽ là nhiệm vụ mà tôi phải hoàn thành, anh Thọ muốn thế. Tôi thật quá may mắn! Và cũng nhờ chỗ ở này mà tôi đã đưa Trịnh Công Sơn và Ðinh Cường về ở chung mỗi khi hai bạn giang hồ lên Ðà Lạt và sau hai năm ở đó với bao kỷ niệm đẹp, tôi rời về Sài Gòn theo lệnh động viên vào quân trường Thủ Ðức. Từ đó Ðinh Cường tiếp tục
28 ‒ NGUYỄN VĨNH NGUYÊN
thuê căn phòng ở số 1014 đường Hoa Hồng này, cùng ở với Ðỗ Long Vân bỏ dạy Văn khoa Huế, lên làm thư viện tại Viện Ðại học Ðà Lạt từ năm 1963 đến 1965, ăn cơm tháng ở nhà phía sau của vợ chồng Hoàng Anh Tuấn. Trịnh Công Sơn hay từ Bảo Lộc về ở lại nơi này. Cũng là thời mà Trung úy Nguyễn Xuân Thiệp, Trưởng Đài phát thanh Quân đội Ðà Lạt, hay ghé mỗi đêm khi ở đài ra.”15
Trên báo Trẻ ở Dallas, Nguyễn Xuân Thiệp có đoạn hồi ký nhắc đến sinh hoạt văn nghệ năm 1964 của nhóm bạn nghệ sĩ sống trọ ở đường Hoa Hồng:
[Họa sĩ Đinh Cường trước ngôi biệt thự số 11 đường Hoa Hồng (ảnh chụp khoảng 1964). Ảnh: Tư liệu Đinh Trường Chinh]
“… Nguyễn (tức, Nguyễn Xuân Thiệp – NV) đã gặp các bạn Đinh Cường và Trịnh Công Sơn rồi Khánh Ly và bao nhiêu người nữa. Giáng sinh, kéo nhau đi uống bia, rồi về đàn hát ở studio Đinh Cuờng trên đường Roses. Có đêm uống rượu ở kiosque Dì Ba, hay vào Night Club dưới chân Đài phát thanh nghe Khánh Ly hát.”
ĐÀ LẠT, MỘT THỜI HƯƠNG XA ‒ 29
Đường Hoa Hồng xuất hiện nhiều trong thơ và hồi ký Đinh Cường. Với chàng trai duy mỹ của một thời, đây là con đường mang lại không gian tĩnh lặng, lý tưởng cho sáng tạo. Ông hồi tưởng: “Thời tuổi trẻ đã qua, sáng ở đầu sông nhớ núi, đêm nằm trong núi nhớ sông, những chuyến đi giang hồ chỉ để nhìn thấy cái diệu kỳ của thiên nhiên, nỗi hoang vu của trời đất… và luôn nuôi ngọn lửa sáng tạo. Thời ngồi vẽ suốt đêm, một căn phòng có ngọn đèn không tắt trong một biệt thự trên đường Roses – Đà Lạt”
Hay ở một tùy bút khác, họa sĩ Đinh Cường viết:
“Căn phòng thuê ở đường Roses, suốt mùa là những cánh hoa mong manh ấy, đủ màu, chen dưới những đốm lá xanh tròn. Căn phòng có cánh cửa không khóa, có ngọn đèn cháy cả đêm. Cả đêm, tôi say sưa vẽ, và Đỗ Long Vân say sưa dí mắt cận vào sách. Từng đống vỏ Bastos xanh. Từng khuôn mặt bè bạn: Thiệp, Sơn, Mai, Christan, Tường, Sâm,…”
Nhà 11 đường Hoa Hồng còn là nơi cư ngụ của vợ chồng nhà thơ, đạo diễn Hoàng Anh Tuấn16 – Ngô Thy Liên. Ông Hoàng Anh Tuấn là nhà điện ảnh gốc Hà Nội, du học tại Pháp, chọn Đà Lạt làm nơi phát triển sự nghiệp. Ông chính là quản đốc đài phát thanh Đà Lạt giai đoạn giữa thập niên 1960. Đà Lạt cũng đi qua thơ ông như một bức thủy mặc ngôn từ đầy diễm ảo khói sương:
Thơ về Đà Lạt
Mây đi lạc xuống ven hồ cẩm thạch
Là hoang vu tà áo gọi bâng khuâng
Em mong manh tay cầm nhánh hoa hồng
Bước hờ hững dưới pha lê mưa bụi.
Vuông cửa kính lạnh hoen mờ tiếc nuối
Bàn tay lau nghe giá buốt tâm hao
Nhưng thấy em, ta hái đóa chiêm bao
Bỗng nghe tiếng ta gọi em: Đà Lạt!
30 ‒ NGUYỄN VĨNH NGUYÊN
Có những buổi trăng về từ suối bạc
Đem phong lan trang điểm một trời hương
Đà Lạt của ta trong thần thoại hoang đường
Lang tình tứ đã gặp Bian e ấp.
Anh đã gặp em một lần duy nhất
Đà Lạt em, Đà Lạt vẫn của anh
Tình yêu đẹp như bức tranh thủy mặc.
[Biệt thự số 11 đường Hoa Hồng năm xưa, nay đã được xây mới hoàn toàn; là khách sạn Saigon Port, số 17 Huỳnh Thúc Kháng. Ảnh: NVN]
ĐÀ LẠT, MỘT THỜI HƯƠNG XA ‒ 31
Trong một tùy bút đăng trên blog, nhà văn Trần Thị Nguyệt Mai viết những dòng đầy hoài niệm về không gian bè bạn văn nghệ một thời nơi con đường đẹp nhất thành phố sương mù:
“Nhớ ngôi nhà ở đường Roses, nơi Hoàng Anh Tuấn và Ngô Thy Liên cùng các cháu cư ngụ . Ngôi nhà đó cũng là nơi quần tụ của Rừng, Đỗ Long Vân, Đinh Cường, Trịnh Công Sơn, Khánh Ly… nhớ bông phù dung trong vườn và bức tranh Khỏa thân nâu hồng của Đinh Cường”.
Nhưng cũng ở ngôi biệt thự sang trọng này, về sau đã xảy ra một biến cố gây kinh hoàng cho những nghệ sĩ trẻ từng trú ngụ. Khoảng 1964, bà Nghiên, chủ ngôi biệt thự đã bị người làm thuê đánh chết bằng một cán cuốc (theo lời kể của những người hàng xóm). Họa sĩ Trịnh Cung kể lại:
“Căn hộ này còn là một câu chuyện về người đàn bà đẹp, quyền quý, chủ căn hộ, người nấu và dọn cho tôi những bữa cơm theo kiểu Pháp và dạy tôi nghe nhạc cổ điển vào mỗi tối thứ Bảy. Thế rồi, một lần Ðinh Cường và Trịnh Công Sơn đã vào quân trường Thủ Ðức thăm tôi vào một sáng Chủ Nhật năm 1964 và báo cho tôi một tin dữ: ‘Bà Nghiên bị giết vào nửa đêm tại phòng khách của biệt thự, máu văng lên bức chân dung toa vẽ bà ấy’.”17
Đường Hoa Hồng dài chưa đến 2km quá nổi tiếng không chỉ là nơi tụ tập của nhóm bạn nghệ sĩ này. Cách căn biệt thự mà ông Cung, ông Cường từng lưu trú mươi bước chân, là ngôi biệt thự số 17 của gia đình đạo diễn Thái Thúc Nha (1920 -1986), chủ hãng phim Alpha lừng lẫy ở miền Nam trước 1975. Là một đạo diễn tài năng, vây quanh ông rất nhiều bóng hồng một thời. Con đường thơ mộng từng dập dìu hương sắc. Tài tử, giai nhân trong các đoàn làm phim thường xuyên lui tới ngôi biệt thự 17 đường Roses. Giới am hiểu điện ảnh trước 1975 có lẽ vẫn nhớ Thái Thúc Nha là người đã đưa Thanh Lan, cô cháu gái của mình, từ một ngôi sao sân khấu ca nhạc và kịch nghệ đến với hào quang nghệ thuật điện ảnh, một biểu tượng đầy gợi cảm của màn bạc một thời sau khi cô thủ vai chính trong phim Tiếng hát học trò (vai diễn đem đến cho cô giải nữ diễn viên triển vọng nhất của giải thưởng Văn học nghệ thuật 1971).
Trên đường Hoa Hồng còn có tư gia của giới lãnh đạo cao cấp của chính quyền và những công chức trí thức, quan chức lớn của thành phố.
32 ‒ NGUYỄN VĨNH NGUYÊN
Số 10 đường Hoa Hồng là ngôi nhà của tướng Lê Văn Kim. Ông Kim du học về quân sự tại Pháp, từng bị đưa lên Đà Lạt vì tình nghi “trung lập”. Nhưng thời gian ở Đà Lạt, ông là một trong những người có quyền lực: chỉ huy trưởng trường Võ bị giai đoạn khoảng 1959 - 1963. Ông Kim cũng là em rể của tướng Trần Văn Đôn, thuộc nhóm những tướng lĩnh “đình đám” của chế độ Việt Nam Cộng hòa. Vì thiên về học thuật quân sự, cùng với phát ngôn “trước sau tôi chỉ là một sĩ quan nhà trường chứ không phải là kẻ xông pha nơi hòn tên mũi đạn” cho nên ông Kim vẫn bị những tướng lĩnh cùng thời khác coi là người “vô vị”.
Khoảng những năm cuối thập niên 1960, gia đình ông Trần Văn Lắm, Ngoại trưởng dưới chế độ Việt Nam Cộng hòa cũng mua căn biệt thự số 12 trên đường Hoa Hồng và lưu lại ở đó một thời gian. Cách đó không xa, là ngôi biệt thự nhà tập thể số 6, nơi cư ngụ của nhóm giáo viên trường Lycée Yersin. Ông Chử Ngọc Liễn, một thời từng là Phó Thị trưởng Đà Lạt cũng có một căn biệt thự kiểu Pháp nằm trên con đường quý tộc này.
Nhưng những khách nổi tiếng từng ngụ tại Rue des Roses phải kể đến ông bà Ngô Đình Nhu. Cuốn Finding the Dragon Lady: the Mistery of Vietnam’s Madam Nhu của tác giả Monique Brinson Demery18 dành nguyên chương 7 nói về thời gian bà Nhu – Trần Lệ Xuân “tìm một nơi ẩn lánh trên núi” sau khi gia đình bà bị Việt Minh truy đuổi ở An Cựu, Huế do chồng bà hoạt động trong mạng lưới phong trào phi cộng sản và do trước đó, người anh cả của chồng bà (Ngô Đình Khôi) đã từng bị thủ tiêu cùng với quan thượng thư bộ lại Phạm Quỳnh do đưa quan điểm chống lại việc vua Bảo Đại trao quyền lực về tay chính quyền miền Bắc (1945). Bế con gái đầu (lúc bấy giờ mới một tuổi) chạy trốn khỏi miền Trung năm 1946, bà Nhu đã đến Đà Lạt sống ẩn dật. Lúc đó, ông Nhu đang hoạt động bí mật tại Sài Gòn. Cho đến năm 1947 thì ông Nhu mới thực sự đoàn tụ với vợ con tại thành phố cao nguyên. Ngôi nhà mà gia đình ông bà Nhu ở ban đầu là tại số 10, Rue des Roses, tức, nhà của ông Trần Văn Đôn (thân phụ của tướng André Đôn, cũng có tên Trần Văn Đôn). Ông Trần Văn Đôn (cha) – một bác sĩ từng quen biết ông Trần Văn Chương, thân phụ bà
ĐÀ LẠT, MỘT THỜI HƯƠNG XA ‒ 33
Nhu trong thời gian du học tại Pháp. Monique Brison Demery viết trong quyển Finding the Dragon Lady…:
“Ông bà Nhu ở trong ngôi nhà mượn tại số 10 đường Hoa Hồng (Rue des Roses). Nó thuộc về bác sĩ bạn của cha bà Nhu và mặc dù không phải là một biệt thự lớn, cha mẹ bà Nhu đã đến ở, và cả anh trai ông Nhu, Ngô Đình Diệm. Nhà văn Pháp viết về vùng Viễn Đông Lucien Bodard nói đây là một nơi “phô trương lòe loẹt”; bà Nhu chỉ nói rằng “bạn sẽ không muốn băng qua vườn để vào bếp sau khi trời tối vì bạn sẽ không muốn đâm sầm vào một con cọp”.
[Biệt thự số 10 đường Hoa Hồng của gia đình tướng Trần Văn Đôn, nơi vợ chồng ông Ngô Đình Nhu từng tá túc trong thời gian đầu đến Đà Lạt. Ảnh: NVN]
Thời kỳ này, bà Nhu lo việc nội trợ, sinh con, dạy con; còn ông Nhu, cũng như nhiều trí thức Tây học khác từng sống ở Đà Lạt (trong đó có nhà văn Nhất Linh) say sưa với thú tầm lan, nuôi lan.
Monique Brison Demery lột tả cái không khí chính trị âm ỉ của Đà Lạt đầy tinh tế vào thời kỳ này:
“Nhưng không có gì ở Đà Lạt là hoàn toàn giống với cái dường như là nó. Ngay chính tiền đề về nơi này như một hòn đảo cho sự nghỉ ngơi và yên tĩnh lành mạnh
34 ‒ NGUYỄN VĨNH NGUYÊN
của người da trắng là một điều đại dối trá. Vì một điều, số phận của nó không bao giờ cách ly khỏi người Việt được. (…) Đà Lạt không phải là nơi ẩn náu êm đềm khỏi chiến tranh. Nó đã trở thành đại bản doanh trên thực tế của những tham vọng chính trị và quân sự của Pháp ở Đông Dương”.
Và bằng chứng là chính thời gian ở Đà Lạt từ 1947 đến 1954, ông Ngô Đình Nhu ngoài việc ươm trồng lan thì cũng đã âm thầm gieo trồng một hạt mầm khác – hạt mầm có tên khoa học là Personalist Labor Party – Đảng Nhân Vị Cần Lao trên nền tảng triết học của Emmanuel Mounier và Jacques Maritain – hai triết gia Thiên Chúa giáo với tư tưởng chủ đạo cho rằng, việc xây dựng nhân vị, nhân cách con người sẽ quyết định thực tại xã hội. Nhân Vị là cơ sở triết lý chính trị của chính quyền Đệ nhất Cộng hòa Ngô Đình Diệm kéo dài 9 năm (1954 – 1963).
Sống tạm trong căn nhà số 10 đường Hoa Hồng một thời gian ngắn, gia đình Ngô Đình Nhu chuyển sang biệt thự số 2 Yết Kiêu, còn gọi là Biệt điện Trần Lệ Xuân, nơi mất đến 5 năm xây cất, một chốn rộng rãi xa hoa được ví ngang hàng với Dinh 3 của ông anh họ bà Xuân – vua Bảo Đại19.
Nhưng có lẽ thời gian sống êm đềm tại ngôi nhà số 10 đường Roses, bà Nhu được làm người đàn bà của gia đình đúng nghĩa trước khi trở thành một “Dragon Lady” của chính trường tương lai. Cũng từ thời gian hạnh phúc ngắn ngủi trong đời sống vợ chồng này, ông bà Nhu nhiều lần nói với nhau rằng khi về hưu họ sẽ cùng an hưởng tuổi già tại Đà Lạt. Viễn ảnh tốt lành và bình thường đó hóa ra lại là giấc mơ hoang đường bởi nó không ăn khớp được với lộ trình chính trị về sau mà họ sẽ chọn lựa đối mặt.
Bao lần thay tên
Như quyển Địa chí Đà Lạt 1953 đã viết, thuở ban đầu, người Pháp dùng tên gọi Rue des Roses, một trong những con đường biệt thự đẹp nhất của Đà Lạt. Người Việt sau đó đã Việt hóa tên gọi, đổi thành đường Hoa Hồng (từ 1953). Sau năm 1955 đường Hoa Hồng được đổi tên thành Ngô Đình Khôi – người anh cả trong gia đình Ngô Đình Diệm20. Sau đảo chánh Ngô Đình Diệm, đường lại đổi tên thành Nguyễn Tường Tam (từ
ĐÀ LẠT, MỘT THỜI HƯƠNG XA ‒ 35
1963 -1965) có lẽ để ghi dấu ấn về quãng thời gian nhà văn này chọn Đà Lạt làm chốn neo đậu hưởng thụ sự an nhàn (và có nhiều đóng góp cho phong trào chơi lan của thành phố?!). Sau 1965, đường lại đổi tên thành Huỳnh Thúc Kháng. Như vậy, qua các lần đổi tên đường phố Đà Lạt, cho thấy càng về sau hệ tiêu chí lấy tên đường càng coi trọng yếu tố nhân vật chính trị hơn là hướng đến tính đặc thù tự nhiên, văn hóa hay duy mỹ lãng mạn theo tư duy đặt tên đường của người Pháp thuở ban đầu.
Nhưng người dân lại có cách hồi tưởng của mình. Dù đã bao lần thay tên, thì với những người từng sống, gắn bó với con đường này, cái tên Hoa Hồng hay Rue des Roses vẫn được dùng phổ biến.
Ngày nay trở lại, tìm những ngôi biệt thự của tướng lĩnh, quan chức xưa, ngôi thì xuống cấp, được treo bảng rao bán, ngôi thì được tận dụng làm khu tập thể hay bỏ hoang dưới mưa nắng, thời gian. Biệt thự số 11, nơi nhóm bằng hữu văn nghệ như Đinh Cường, Trịnh Cung, Trịnh Công Sơn, Khánh Ly, Nguyễn Xuân Thiệp, Hoàng Anh Tuấn… tụ tập, lưu trú sáng tác ngày hôm qua nay đã được xây mới, là một khách sạn21 có mặt tiền bưng bít bằng rào lưới. Nhìn kỹ thì mới nhận ra cấu trúc ngôi biệt thự cổ phương Tây, khi nó bị “kẹp” giữa một sân tennis và một dãy phòng thuần túy công năng, thiếu thẩm mỹ. Nhưng những bậc tam cấp đi lên hàng hiên có bụi cây trạng nguyên vẫn còn đó. Họa sĩ Đinh Cường cũng có để lại một bức ảnh thời đôi mươi chụp ở góc này trông đầy vẻ phong trần, lãng tử.
Biệt thự số 10 nằm lọt thỏm dưới một triền đồi cỏ xanh um tùm, vài lần ghé chân qua đều thấy cảnh sắc đìu hiu. Trên một cửa sổ phất phơ tấm biển rao bán đã cũ bươm.
Cũng thế, ngôi biệt thự của gia đình đạo diễn Thái Thúc Nha nay nằm bên một quán cà phê, phòng trà dù xanh dù đỏ. Phía trước ngôi biệt thự có tạc hình ông Nha trên một khối cách điệu kết hợp giữa hình chiếc máy quay phim và chùa Một Cột. Nhưng phía trước trụ cổng phủ dây bìm bìm tím (giậu nào đổ, bìm nào leo?), biển số nhà đề trên tấm đá mới: Villa ROSE – MARIE, 17 Rue des Roses – Dalat.
36 ‒ NGUYỄN VĨNH NGUYÊN
TIẾNG HẮC TIÊU
TRÊN ĐỒI THÔNG
Khác với tâm thế lần đầu đến Đà Lạt dự Hội nghị Trù bị – trong tư cách Trưởng đoàn Việt Nam kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến – 9 năm về trước, Nguyễn Tường Tam, tức nhà văn Nhất Linh trở lại Đà Lạt vào 1955 với sự chán ngán tột cùng cuộc thế chính trường; muốn tìm nơi nhàn dật thực sự.
Đó là khoảng thời gian sau Hiệp định Genève (1954), thời tiết chính trị nhiều thay đổi bất lợi, Nhất Linh rơi vào tình trạng gần như bất đắc chí22. Sự sa sút thể hiện nhiều ở việc “không rượu chè, không thuốc sái, không trai gái, không cờ bạc, nhưng sau những thất bại chán chường trên trường chánh trị, Nguyễn Tường Tam đam mê chè rượu”23. Cũng theo nhà văn Vũ Bằng trong bài viết trên tạp chí Văn, những ngày trôi dạt trên đất Tàu, Nguyễn Tường Tam phải dùng rượu để “giết chết cái buồn vạn cổ”, thậm chí có giai thoại rằng, ông từng mua nguyên một thùng tonneau rượu, uống dần. Và vì rượu nhiều, rượu nặng nên ông đã phải bịt mũi, nhắm mắt lại để dốc vào cơ thể càng nhiều càng tốt. Ngoài rượu, ông còn hút thuốc lá đen. Cơ thể tiều tụy. Lạm dụng thuốc và rượu cộng với mất
ĐÀ LẠT, MỘT THỜI HƯƠNG XA ‒ 37
ngủ là những nguyên nhân sâu xa
dẫn đến căn bệnh đau dạ dày trầm
trọng. Ông không thể dùng cơm ta
nhà nấu mà phải đặt cơm tháng ở
một hiệu cơm Tây. Có thời gian,
ông một công đôi chuyện, sang
Pháp thăm Nguyễn Tường Việt,
tức người con trai đầu đang du học,
để thay đổi môi trường sống và tìm
cách chữa bệnh. Nhưng tình hình
không khả quan.
Cho tới khi vào Nam, chứng
thần kinh suy nhược (neurasthénie)
của ông đến thời kỳ trầm trọng với
các biểu hiện: nói năng lẫn lộn, “có
lúc như si, như dại”, theo Vũ Bằng.
Vào Nam như một cách thế chạy trốn thực tại bế tắc, khiến tâm thần lao dốc khủng hoảng. Nhà thơ Nguyễn Vỹ cũng từng kể về cuộc gặp kéo dài nửa giờ với Nhất Linh tại An Đông, Sài Gòn. Ghi chép cuộc hội ngộ vội vàng nhưng đủ thấy toát lên vẻ thất thường trong thần thái Nhất Linh ở giai đoạn này:
“– Anh để râu mép hồi nào? – Tôi nhìn mãi làn râu mép có duyên của ông bạn đen thui như một nếp tang-chế trên nụ cười dễ thương. Ông bạn đáp: – Tôi để râu từ hồi làm cách mạng.
Ông Tam năm nay chắc cũng chạc độ 50 tuổi, nhưng nụ cười hài-hước của ông vẫn còn nguyên nét như xưa. Có điều, tôi thấy ông có vẻ buồn nản, mặc dầu ông cố giấu, nó vẫn lộ ra khi ông hết cười. Tay ông đưa thuốc mời tôi lại run run và ông ngồi như không vững, cái đầu lắc qua lắc lại như muốn rớt, đôi mắt nháy lia nháy lịa, như muốn nhắm, và ông hay cười, nụ cười mỉa mai đau đớn lạ.”24
Nguyễn Tường Tam tìm được một căn nhà ở gần chợ An Đông để vợ buôn bán trầu cau, còn mình thì ngồi chơi hắc tiêu (clarinet) và thỉnh thoảng tiếp bạn bè trong văn giới.
38 ‒ NGUYỄN VĨNH NGUYÊN
Lại nói tới cái duyên Nhất Linh đến với cây hắc tiêu. Đây cũng là câu chuyện đặc biệt thú vị. Thời mới thành lập đảng Hưng Việt (sau đổi tên là Đại Việt Dân Chính) với khuynh hướng chống Pháp công khai, để che mắt giới mật thám, Nhất Linh đã học chơi hắc tiêu và tham gia vào một ban nhạc, qua đó, kết nối giao du với nhiều trí thức, nhân sĩ cùng thời. Ông làm nhạc công cho nhóm nhạc Tài tử (Orchestre Amateur) của giáo sư Lê Ngọc Huỳnh, do hai nhạc sĩ Thẩm Oánh, Vũ Khánh chủ trương. Nhóm nhạc này thời đó còn có Hoàng Gia Lịnh, Lê Ngọc Huỳnh, Vũ Khánh, Nguyễn Khắc Cung chơi violon, Nguyễn Thế Hiền, Nhất Linh thổi hắc tiêu, Vũ Thành chơi accordéon, Lê Huy Giáp chơi banjo, Lê Hữu Mục, Thẩm Oánh thổi saxophone, Vũ Khoa chơi violoncelle25.
[Số 12 đường Yersin (nay là đường Trần Phú), nơi Nhất Linh từng thuê ở trong những ngày mới đến Đà Lạt năm 1955. Ảnh: NVN]
Khi đã nếm mùi thất bại trong chính trường, hơn cả cây bút và trang giấy, cây hắc tiêu mở ra một thế giới âm nhạc tuyệt diệu, giúp Nhất Linh tìm được sự khuây khỏa tạm thời. Điều còn lại, là tìm một nơi vắng vẻ để ẩn dật, để trở về với đời sống tâm hồn thực thụ.
ĐÀ LẠT, MỘT THỜI HƯƠNG XA ‒ 39
Lúc bấy giờ, Đà Lạt là nơi Nguyễn Tường Tam chọn, có lẽ vì khí hậu tự nhiên hứa hẹn tốt cho sức khỏe, khí hậu chính trị cũng êm đềm, phần nào xa lánh thời cuộc đảo điên gây thêm khổ não.
Lúc mới đến Đà Lạt, Nhất Linh cùng cậu con trai út – Nguyễn Tường Thiết và con gái Nguyễn Kim Thoa thuê phòng ở số 12, đường Yersin, Đà Lạt, gần Hotel Du Parc.
Nguyễn Tường Thiết viết về tinh thần sống nhẹ nhõm của cha mình thời điểm này:
“Quả nhiên, qua năm 1955, ông xách kèn lên Đà Lạt và quyết định ở luôn trên ấy mấy năm. Thu xếp xong chỗ ở, ông nộp đơn để xin cho tôi thi nhập học vào một trường trung học công lập trên ấy, thế là một lần nữa tôi lại theo ông lên sống trên miền cao nguyên. Nhất Linh, sau thời gian chữa bệnh bên Pháp, lại rất thích hợp với khung cảnh nên thơ và khí hậu mát mẻ của Đà Lạt, dạo này rất khỏe mạnh. Ông thường đi bộ một ngày đến hơn cả chục cây số. Mỗi buổi sáng sớm, từ căn phòng thuê trên lầu hai nhà hàng Poinsard & Veyret, số 12 đường Yersin, ông thả bộ xuống khu chợ Hòa Bình, ăn điểm tâm tô phở Bình Dân đường Hàm Nghi, rồi đi vòng bên kia bờ hồ Xuân Hương, vượt mấy ngọn đồi phía cuối hồ, đến tận khu Chi Lăng gần hồ Than Thở. Lâu lâu ông rủ tôi đi thả bộ cùng với ông. Hai bố con lặng lẽ đi bên nhau, vì ông thường đắm mình trong những kỷ niệm và suy tưởng riêng tư, cho đến lúc tôi mệt nhoài, đòi về. Có lần, đi ngang qua sân cù, ông chỉ về cái tháp cao của khu trường trung học Yersin và khách sạn Palace thấp thoáng trong sương phía bên kia bờ hồ Xuân Hương nói với tôi là chính tại ngôi trường đó, gần mười năm trước, ông đã cầm đầu phái đoàn Việt Nam dự hội nghị sơ bộ Pháp Việt và cũng thời gian đó, trước nhà hàng Palace kia, nơi thềm xi-măng mặt tiền khách sạn, ông vẫn thường ngồi uống rượu để thưởng ngoạn khung cảnh Đà Lạt với bác Thụy26 tôi, hai người vẫn nhìn sang rặng đồi thông bên này, nơi chỗ chúng tôi tản bộ ngày nay. Cái khung cảnh thơ mộng đó, mười năm sau, đã trở về trong ký ức của ông; nhưng lần này khung cảnh đó ông đã thưởng ngoạn với sự bình thản hơn nhiều của tâm hồn. Nhất Linh hầu như không bao giờ tâm sự với con cái về chính cuộc đời của ông, nhất là cuộc đời chính trị, nhưng có một lần hiếm hoi ông đã tiết lộ với chúng tôi là thời gian khổ sở nhất trong cuộc đời của ông là lúc ông đảm nhận chức vụ Bộ trưởng Bộ Ngoại giao trong Chính phủ Liên hiệp.”27
Một điều khá thú vị. Nhất Linh, trong bốn năm ở Đà Lạt được coi là quãng thời gian phóng chiếu cuộc đời mình vào hành trình của chính
40 ‒ NGUYỄN VĨNH NGUYÊN
nhân vật mà mình đã tạo ra gần 20 năm trước đó. Truyện ngắn Lan rừng, Nhất Linh viết năm 193728 kể về nhân vật Quang, một chiều băng qua khu rừng già để đến nhà người bạn ở Bản Lang, đã bị hồn hoa khuyến dụ, lạc bước vào cõi khói sương liêu trai của một động hoa lan bên suối. Nơi thoáng qua đó đem đến cho chàng trai trẻ những trải nghiệm thanh thoát, tuyệt vời, một cảnh giới thoát tục. Quang, mô thức nhân vật của văn chương lãng mạn đã không nằm mộng trên trang giấy, mà bước ra đời, vận vào chính tác giả, dẫn dụ ông vào một hành trình lánh xa thời cuộc để đi tìm, chiêm ngắm cái đẹp thanh khiết, tĩnh tại của tự nhiên.
Giáo sư Nhật Thịnh cho việc Nhất Linh bỏ Sài Gòn huyên náo để lên Đà Lạt trồng lan là “trở về suối nguồn tinh thần siêu thoát của Đông phương”. Ông mô tả:
“Lan Bạch Ngọc, Thanh Ngọc, Lan Văn Bao, Tím Đồi Mồi, Nhất Điểm Hồng, Cô Dâu… , thứ treo trên vách, thứ nằm trong chậu, thứ bầy trên bàn, tất cả xúm lấy ông - con người ông như đang thoát tục để đi tu tiên. Đó là một ý nghĩ người ta tạo ra để bôi nhọ ông. Người ta vẫn phao tin ông mắc bệnh thần kinh vì uống quá nhiều rượu, ấy là thủ đoạn của những nhà chính trị vẫn sử dụng để hạ đối phương mà họ nói rằng nguy hiểm.”29
Thời kỳ này, Nhất Linh có vẻ như cố gắng bỏ ngoài tai tất cả mọi thị phi trong chính giới, học giới, văn giới, kể cả những luận điệu thị phi hạ bệ tầm thường của cỗ máy báo chí tuyên truyền của cả hai miền. Ông trở thành một người tầm lan, chơi lan thượng thặng ở đô thị cao nguyên. Ông bỏ nhiều ngày băng rừng, lội suối để sưu tập những giống lan mới. Ông đặt báo chí nước ngoài, nghiên cứu cách dưỡng lan tại gia. Rồi bằng sự nhạy cảm của một người yêu cái đẹp, ông khai sinh cho từng loại lan rừng vô danh những cái tên đầy kiêu sa, sau đó xếp chúng thành chi, họ một cách bài bản như một nhà sinh vật học thực thụ (giới chơi lan ở Đà Lạt cho đến nay vẫn còn sử dụng đến hệ thống tên gọi mà Nhất Linh từng đặt!).
Lối sống thanh đạm, tao nhã của một trí thức tiểu tư sản Hà Nội xem ra vô cùng phù hợp với không gian êm đềm của đô thị kiểu Pháp trên miền cao nguyên Trung phần.
ĐÀ LẠT, MỘT THỜI HƯƠNG XA ‒ 41
[Nhà văn Nhất Linh trong một chuyến tìm lan giữa rừng sâu Đà Lạt
vào khoảng 1956. Ảnh: Vũ Hà Tuệ sưu tập]
Nguyễn Tường Thiết nhớ lại:
“Cái thú tản bộ của ông không còn mang mục đích tập thể dục buổi sáng hoặc để giúp ông thả hồn trong dòng suy tưởng nữa mà lúc này đã mang một mục đích mới: ông đi tầm lan, có khi đi suốt ngày, băng rừng lội suối, ông đi một mình hay đi cùng với những người bạn cùng mê lan như ông, để rồi chiều chiều về đến nhà mệt nhoài nhưng hí hửng với một hay hai đóa hoa lạ trên tay. Hôm nào không đi tìm lan thì ông đi tìm những những khúc rễ cây lớn có hình thù lạ mắt về nhà gọt dũa để gắn hoa phong lan lên trên hoặc ông lui cui xếp và đóng những thanh gỗ với nhau để làm rổ treo lan, mỗi rổ có một kiểu cọ khác nhau, rồi ông treo lan lên tường, treo cùng khắp gần như kín cả phòng. Mẹ tôi rất bận rộn buôn bán ở Sài Gòn ông cũng gọi lên Đà Lạt sống với ông ít ngày để cùng thưởng lan với ông. Cái nhiệt tình của Nhất Linh đã lây sang rất nhiều người khác làm sống dậy phong trào chơi lan và tầm lan của dân Đà Lạt những năm 1956-1957. Riêng anh em chúng tôi thấy ông vui thì cũng tham dự với ông nhưng trong bụng không thấy hứng thú gì cho lắm, trái lại lắm lúc còn bực mình vì ông cứ hay sai chúng tôi đi gỡ từng mảnh rêu để mang về cho ông, một công việc mà chúng tôi rất ghét làm. Rêu đúng loại tiêu chuẩn mà
42 ‒ NGUYỄN VĨNH NGUYÊN
ông mong muốn thì chỉ có thể tìm thấy dễ dàng ở vệ đường gần cách ống cống; giữa phố xá đông đúc người qua lại mà lại ngồi bệt xuống vỉa hè tẩn mẩn bóc gỡ từng mảng rêu xanh bỏ vào trong một cái rổ thì nom có vẻ kỳ quặc, khó coi quá. Nhất Linh chơi lan công phu hơn những người khác vì ngoài việc tầm lan ông còn ra thư viện tra cứu hoặc đặt mua từ bên Pháp các sách ngoại quốc viết về hoa phong lan trên thế giới, rồi ông tỉ mỉ phân loại, so sánh với hoa ở địa phương; ông lại vẽ từng đóa hoa một, đặt tên hoa, ghi chú từng đặc tính, với dụng ý sau này làm tài liệu viết một cuốn sách về việc sưu tập hoa phong lan. Và chiều nào ông cũng thổi hắc tiêu, nói là thổi cho lan nghe. Ông thổi bản: “J’ai rêvé de vous”, vous đây chính là đám hoa quấn quýt xúm lấy ông, nào là Nhất Điểm Hồng, Huyết Nhung Lan, Bạch Hạc, Tím Đồi Mồi, Hoa Cô Dâu, Bạch Ngọc, Thanh Ngọc, Văn Bao... thứ treo trên vách, thứ cắm trong chậu, thứ bày trên bàn. Mỗi chiều thứ bảy, ông lại tổ chức hòa nhạc tại gia, ngoài tiếng hắc tiêu của ông, lại có sự phụ họa lục huyền cầm của giáo sư Vĩnh Tường, khiến khách đi đường phải dừng chân trước khách sạn Du Parc, kẻ ngừng xe hơi, người ghếch xe đạp, để lắng nghe tiếng nhạc hòa tấu vẳng ra từ căn lầu nơi góc đường Yersin trong bầu không khí êm ả yên tĩnh của buổi chiều Đà Lạt.”30
Trong một ghi chép hiếm hoi về thời gian này, Nhất Linh từng luận về lan và thú chơi lan cầu kỳ của mình:
“Chúng tôi đã chơi rất nhiều thứ lan nhưng sau cùng đều chỉ mê có thứ lan cổ điển: bởi vì lan ấy thanh nhã, sắc trong và có thoảng mùi hương tiên cách nhất và vì vậy tình yêu cũng lâu bền nhất.
Trong các loại này thì có lan Thanh Ngọc là thơm đứng đầu. Người chú ý trước tiên và làm cho chúng tôi xao lãng tìm kiếm lan cây, chỉ đi tìm kiếm lan cổ điển là cụ Lê Quang Biên. Ở Đà Lạt tôi có cái may là đã kiếm ra những cụm lan Thanh Ngọc trước mọi người và bạn Lê Đình Gioãn có cái may được ba giò lan Thanh Ngọc đầu tiên nở trong nhà (do tôi kiếm được và biết).
Hai câu thơ của bạn Gioãn:
Hai tên nghèo túng như nhau cả,
Anh kiếm được thì anh biếu tôi.
Chính ra là:
Ta mê lan đẹp như nhau cả,
Anh kiếm được thì anh biếu tôi.
Từ ngày được biết mặt hoa Thanh Ngọc thì tất cả chúng tôi đều cho việc vào rừng kiếm lan như đi kiếm tiên. Lan Thanh Ngọc lại rất khó kiếm, có lẽ khó hơn cả
ĐÀ LẠT, MỘT THỜI HƯƠNG XA ‒ 43
việc đi kiếm tiền nữa. Độ chúng tôi còn kiếm lan cây thì người nào cũng ngửng nhìn trời, đến khi đi kiếm lan Thanh Ngọc thì ai cũng nhìn xuống đất. Vì đẹp, vì khó kiếm nên chúng tôi mơ lan như “mơ tiên”.31
Nghệ nhân Nhất Linh – chính khách Nguyễn Tường Tam – trong thời gian này từng có những “bài giảng thuyết” mê say về thú chơi lan chốn điền viên khiến cho những bè bạn cũ của ông không khỏi sốt ruột. Nhà văn, ký giả, dịch giả Hiếu Chân (Nguyễn Hoạt) tìm đến gặp Nhất Linh ở Đà Lạt vào đúng đêm Giáng sinh 1957. Hiếu Chân ngơ ngác:
“Anh nói chuyện về phong lan cho chúng tôi nghe trong một gian phòng rộng bầy đầy những chậu lan quý – ông viết – Tôi vốn tính không ưa những trò tỉ mỉ như chơi hoa và nuôi chim, có lẽ do cái óc thực tế tạo ra do cuộc đời nghèo khổ của tôi từ tấm bé và do cả những tao ngộ bi đát trong những năm hoạt động cách mạng và kháng chiến. Hơn thế đối với tôi lan là một thứ hoa vương giả, phải mất nhiều công phu tìm kiếm, vun tưới chăm sóc thì mới đâm hoa được. Cho nên trong buổi tối đó tôi đã không chú ý lắm vào câu chuyện phong lan của anh. Và tôi lại lấy làm lạ sao một người như anh mà lại đi tiêu phí thì giờ vào một thú chơi vương giả đó. Nhưng sau này tôi mới biết là tôi đã xét đoán một cách vội vã, nông nổi.”32
Mặc cho thú chơi đó bị coi tiểu tư sản, xa lánh thời cuộc hay bị người khác nhân danh các phẩm tính “trí thức”, “dấn thân” để mai mỉa, Nhất Linh làm chủ nó như một liệu pháp tinh thần cần thiết cho sức khỏe thể chất và tinh thần của mình. Không cách nào khác.
Chỉ sau một thời gian ngắn, chỗ ở trên đường Yersin đã trở nên quá chật hẹp, không đủ thỏa mãn để mở rộng chỗ trồng lan, nơi phố xá cũng không tiện cho sự phát triển của loài địa lan (còn gọi thổ lan) cần lối chăm chút cầu kỳ, cha con Nhất Linh chuyển sang sống trong căn biệt thự số 19 đường Đặng Thái Thân – căn biệt thự của ông Lê Đình Gioãn – một chủ gara xe ở Sài Gòn và là bạn chơi lan rất thân của Nhất Linh để lại. Căn biệt thự hình chữ A nằm ẩn trong một khu rừng thông trùng điệp, phía tay phải cửa ngõ vào thành phố. Tại đây, lúc bấy giờ hãy còn là nơi âm u hoang vắng. Nhà văn chìm sâu hơn vào thế giới của lan, của thông, của tiếng chim rừng và âm nhạc. Nhiều ngày trời ông không buồn ra phố, không tiếp xúc một ai.
44 ‒ NGUYỄN VĨNH NGUYÊN
[Nhà văn Nhất Linh trồng lan trước ngôi biệt thự số 19 Đặng Thái Thân. Ảnh: Vũ Hà Tuệ sưu tập]
Những người bạn tìm thấy sự giao cảm với Nhất Linh qua thú chơi lan thảng hoặc đến giao du chuyện trò với ông thời kỳ này có thể kể: ông Lê Đình Gioãn, bác sĩ Nguyễn Hữu Phiếm từ Sài Gòn lên, bác sĩ Nguyễn Sỹ Dinh và ông Lê Văn Kiểm – người rất mê chụp ảnh (hầu hết những hình ảnh về Nhất Linh trong giai đoạn này đều do ông Kiểm chụp và lưu giữ).
Rất nhiều người trong giới văn bút, trí thức từ Sài Gòn cuối tuần lên Đà Lạt du hí, nghe tin đồn về “tịnh cốc” Nhất Linh, cũng tò mò tìm cách lai vãng. Các văn sĩ trẻ như Đỗ Tốn, Tô Kiều Ngân sau vài chuyến theo Nhất Linh băng rừng, rồi cũng đâm ra say mê với việc sưu tầm lan. Từ đó, mỗi cuối tuần, Đỗ Tốn và Nhất Linh thường xuôi đèo bằng chiếc xe
ĐÀ LẠT, MỘT THỜI HƯƠNG XA ‒ 45
hai ngựa NBH 476 để xuống suối Đa Mê ở Phi Nôm. Lâu dần, địa bàn tìm kiếm lan rừng ngày càng mở rộng, nghe nói có khi để có một nhành lan đẹp, cả nhóm phải đi xuống đến đèo Ngoạn Mục, đèo Bảo Lộc, Định Quán và xa hơn nữa, tới những cánh rừng xứ nắng Phan Rang.
Tô Kiều Ngân kể trong một bài ghi chép:
“Chúng tôi đến đón anh và chương trình ngày hôm đó bắt đầu bằng một chầu phở tại tiệm Bằng. Anh Tam ăn rất khỏe: hai bát phở, hai chai “la de”. Đó là bữa điểm tâm thường lệ của anh. Anh thường có thói quen đi bộ lên dốc, xuống dốc từ nhà anh đến hiệu phở quen thuộc mỗi buổi sáng từ lúc còn tinh sương. Đó là một điều đáng mến nơi nhà văn tuổi đã về già. Già nhưng lại trẻ hơn những người trẻ nhất. Anh Tam vui tính, hay pha trò một cách tế nhị và sống với tất cả nhiệt tình.
Chúng tôi mang theo la de, bánh chưng, bánh tây. Hành lý của tiểu tổ đi săn lan, ngoài dao, cuốc còn có một chiếc sáo và một chiếc kèn. Chiếc xe hai ngựa của Đỗ Tốn ngược đường về Phi Nôm, nơi cụ Nghị Biên, ông bạn già của Nhất Linh đang đợi anh để cùng vào rừng.
Trên đường, anh Tam lắp kèn và thổi một cách say sưa suốt buổi. Bài mà anh thích nhất là bài “A ton marriage”.
Mỗi lần vào rừng tìm lan, chúng tôi thường chia nhau đi mỗi người một ngả. Nếu cần gọi nhau thì anh Tam sẽ thổi kèn để cho chúng tôi biết nơi anh hiện ở tìm tới hoặc chúng tôi cần anh thì cứ ra hiệu bằng một đoạn sáo véo von chẳng hạn. Đó là những lúc gọi nhau ra bờ suối ăn trưa và nghỉ trưa hoặc một kẻ nào đó tìm được một khóm lan lạ nằm trên cành cây cao phải cần đến sự phụ lực của người khác trèo lên gỡ xuống.
Anh Tam đã để nhiều thì giờ nghiên cứu về lan. Mỗi lần nghe nói ở vùng nào có một thứ lan lạ là thế nào anh cũng tìm tới cho được dù xa xôi khó nhọc bao nhiêu. Nhiều lần anh rủ chúng tôi lên tận đèo Ngoạn Mục để tìm. Lan ở đó là thứ lan lạ mà vùng Phi Nôm không có. Tôi nhớ có lần bàn về một thứ lan gọi là Kim Xuân, một người bạn đã hỏi anh Tam:
- Thứ lan này không quý vì có nhiều, màu không đẹp mà chẳng có hương, coi thật tầm thường, sao gọi là Kim Xuân?
Anh Tam hóm hỉnh trả lời:
- Nếu không gọi là Kim Xuân thì các bạn gọi là Lệ Xuân33 cho tiện, gọi thế chắc đúng hơn.
46 ‒ NGUYỄN VĨNH NGUYÊN
Thường thường trong những dịp săn lan như vậy chúng tôi rất ít khi nói chuyện thời sự, chính trị dầu rằng trong đám người săn lan có cả một vị cựu bộ trưởng, một chính khách, một nhà cách mạng từng bôn ba hải ngoại. Chúng tôi tôn trọng cái không khí thanh bạch, cao quý, thần tiên của cuộc chơi kỳ thú, của khung cảnh núi rừng hùng vĩ, của những đóa hoa lan sơn dã, của giòng suối trong xanh và niềm vui hồn hậu của những tâm hồn bạn.
Tuy nhiên, có những lúc ngồi bên bờ suối nghe anh Tam thổi hắc tiêu, tôi không khỏi xót đau, thắc mắc. Anh Tam quên sứ mạng của anh rồi ư? Có thật anh yên lòng đi tu tiên
rồi chăng? Ngọn lửa Yên Bái, cái
không khí ‘Chi Bộ Hai Người’, ‘Giòng
Sông Thanh Thủy’ há không gợi trong
anh chút nào vang bóng của quãng
đời sóng gió trước kia?”34
Thế rồi khách tìm đến với
căn biệt thự số 19 Đặng Thái
Thân không chỉ vì lan.
Hẳn nhiên.
Một nhân vật lớn như Nhất
Linh, dù có trốn đến tận thâm
sơn cùng cốc, nhất cử nhất động
trong hành tung, đều sẽ không
dễ dầu gì được lãng quên trong
thời kỳ nhiễu loạn đó, thời kỳ
mà Đà Lạt là vùng đất bình yên
nhưng cũng là đô thị âm ỉ những
cuộc chiến gay gắt của mật vụ
của nhiều phe phái chính trị. Thời gian Nhất Linh sống tại đây, nhạc sĩ Hoàng Nguyên và nhóm giáo viên trường Tuệ Quang đã bị quân trấn theo dõi, vây bắt (1956) vì bị vu hoạt động cho đảng Đại Việt. Vậy thì câu chuyện những tướng lĩnh, chính trị gia (và có lẽ cả đám mật vụ nữa) tìm cách lui tới chốn nhàn dật của nhân vật chính trị sáng giá nhất thời buổi đó không phải là chuyện khó hiểu. Giao du qua thú chơi lan đã trở thành
ĐÀ LẠT, MỘT THỜI HƯƠNG XA ‒ 47
cái cớ của những cuộc thăm dò mờ ám với những mục đích hay âm mưu khó ngờ.
[Ngôi biệt thự 19 Đặng Thái Thân, nơi Nhất Linh sống và biến thành trại lan. Ảnh: Vũ Hà Tuệ sưu tập]
Vòi bạch tuộc chính trị đã không muốn tha cho chứng neurasthénie của văn sĩ – nghệ nhân yêu đời nhàn dật. Và vì thế, sự u uất, thất chí và phản kháng có khi cũng bị đi xới lại trong đầu óc Nguyễn Tường Tam. Và đây là một biểu hiện, bằng cú sốc rất rõ ràng, Nguyễn Tường Thiết kể trong hồi ký:
“Một bữa nọ, trong lúc đi thơ thẩn trong khu rừng thông gần nhà, tôi ngạc nhiên thấy có dăm ba người lính đứng gác ở bìa rừng xung quanh nhà tôi. Lúc tôi về nhà thì được biết tướng Dương Văn Minh cũng vừa lên xe ra về. Tướng Minh có mang đến biếu cha tôi một chậu hoa phong lan và nói chuyện với cha tôi khoảng tiếng đồng hồ trong phòng khách. Anh tôi kể lại với tôi tướng Minh là người cũng mê chơi lan, nhưng ông đến thăm cha tôi hẳn là còn có mục đích khác ngoài việc xem lan không thôi. Nhưng cha tôi cứ vờ coi như người khách đến thăm chỉ để
48 ‒ NGUYỄN VĨNH NGUYÊN
thưởng lan; trong một giờ đồng hồ ông cứ mải miết nói với tướng Minh về cách thức trồng hoa lan để hai người khỏi phải đả động đến các vấn đề khác. Một hôm khác chúng tôi đi săn lan ở đèo Bảo Lộc. Chúng tôi đi rất đông trên hai chiếc xe hơi. Trong đám người săn lan, ngoài các văn nghệ sĩ còn có một cựu bộ trưởng, một chính khách, một nhà cách mạng từng bôn ba hải ngoại, nhưng tất cả không ai nói chuyện thời sự, chính trị. Khi đoàn xe trở về Đà Lạt ngang Liên Khương thì bị chặn lại. Quốc lộ 20 bị kẹt xe đến cả cây số và chúng tôi phải đậu xe bên vệ đường chờ đợi đến cả hai tiếng đồng hồ. Không ai biết chuyện gì xẩy ra và đều rất bực mình vì phải chờ đợi quá lâu. Sau đó dò hỏi, chúng tôi được biết lý do kẹt xe vì tổng thống Ngô Đình Diệm đi kinh lý trên Đà Lạt, chuyến bay chở tổng thống bị trễ và vì không biết lúc nào phi cơ đáp xuống phi trường Liên Khương nên tốt nhất là chặn tất cả xe cộ lại, bắt chúng tôi phải chờ đợi không biết đến lúc nào. Khi biết chuyện này Nhất Linh nói đùa với đám chúng tôi: “Nếu trong số đây mai sau có ai lên làm tổng thống thì nhớ đến cái ngày hôm nay phải chờ đợi bực mình như thế này nhé!”35
[Ký họa của Nhất Linh đề ngày 15-12-1958. Tranh: Đinh Cường sưu tập và ký họa - đề thơ của Nhất Linh tặng bạn chơi lan Lê Đình Gioãn tại Suối Vàng ngày 15-12-1958. Tranh: Vũ Hà Tuệ sưu tập]
ĐÀ LẠT, MỘT THỜI HƯƠNG XA ‒ 49
Những sự việc như thế lý giải cho việc càng ngày, Nguyễn Tường Tam càng lùi sâu vào rừng. 1957 có thể nói là thời điểm mà Nhất Linh dấn xa nhất vào cuộc sống của một ẩn sĩ. Ông mua một lô đất nằm ở vùng suối Đa Mê (Phi Nôm, ngày nay thuộc huyện Đức Trọng) nằm giữa hai lô đất của ông Nghị Biên và bác sĩ Nguyễn Sỹ Dinh. Dự định của Nhất Linh là sẽ cắm rễ ở đây để viết tiểu thuyết. Ông tự thiết kế và dựng căn nhà gỗ có tên Thanh Ngọc Đình (lấy tên loài hoa lan mà ông yêu thích) và bắt đầu với cuộc đời của một nông dân. Lúc bấy giờ các con ông vẫn sống ở Đà Lạt, thi thoảng đón xe hàng về thăm cha. Cậu con trai út kể về cha mình trong những tháng năm tận hưởng niềm hạnh phúc được người đời lãng quên thực sự:
“Nhất Linh lúc này sống như trong thời trung cổ, đoạn tuyệt hẳn với đời sống văn minh, ông nói không đoạn tuyệt cũng chẳng được vì ở đây thiếu tất cả điện nước và các tiện nghi tối thiểu, cách tốt nhất là phải thích nghi với đời sống mới. Da ông rạm nắng trông ông càng phong sương hơn, ông mặc bộ đồ rừng bốn túi, đi ủng cao, hút thuốc lào, suốt ngày đôn đốc đám thợ khai quang rừng để làm một con lộ nhỏ đi từ quốc lộ vào đến suối Đa Mê. Ông nói với chúng tôi là bây giờ ông không cần đến cả đồng hồ để xem giờ giấc nữa vì ông đã tìm ra được một cách riêng để biết được đại khái thời gian trong ngày. Trong lúc chúng tôi ngồi ăn trong rừng, Nhất Linh nghếch tai nghe ngóng một tiếng chim lạ kêu rồi nói: ‘Thế mà đã bốn giờ trưa rồi!’. Chúng tôi so với đồng hồ thì thấy ông chỉ đoán sai có nửa tiếng. Sai xích nửa giờ là đủ chính xác rồi vì ở đây không cần chính xác hơn. Ông giải thích là từ ngày sống ở đây cứ mỗi sáng thức dậy cho đến lúc chiều tối là ông đều lắng nghe và quan sát tất cả các tiếng kêu của muông thú trong rừng rồi ghi vào một cuốn sổ tay. Sau một tuần lễ ông khám phá ra là mỗi tiếng kêu của muông thú thường ứng với một thời gian nhất định trong ngày, thế là ông tìm ra được một loại đồng hồ riêng cho mình mà không tốn kém gì cả.
Trước đây trong những giờ rảnh rỗi cha tôi thường dạy tôi thổi hắc tiêu và lúc này tôi cũng đã chơi được kha khá. Trong số các bản nhạc Việt thịnh hành hồi đó, Nhất Linh thích nhất là thổi bản Hẹn một ngày về của giáo sư Lê Hữu Mục. Một buổi sáng cuối tuần trong lúc tôi thổi hắc tiêu bản nhạc này thì có một người khách ghé Đà Lạt muốn đến gặp cha tôi, nhưng lúc ấy cha tôi lại ở dưới Fim-Nôm36 . Ông khách có vẻ ngạc nhiên thích thú nghe tôi thổi bản nhạc; sau này tôi mới biết ông ta chính là giáo sư Lê Hữu Mục, muốn gặp cha tôi để phỏng vấn và viết một cuốn sách “Thân
50 ‒ NGUYỄN VĨNH NGUYÊN
thế và sự nghiệp Nhất Linh”. Ông Mục và tôi đáp xe xuống Fim-Nômvà khi chúng tôi đến trại lan thì cha tôi đang nằm trên võng bên bờ suối Đa-Mê say sưa viết lại toàn bộ cuốn trường thiên tiểu thuyết Xóm Cầu Mới”.
[Thơ và ký họa của Nhất Linh đề tặng ông Lê Đình Gioãn, cạnh suối Đa Mê, 17-11-1957. Tranh: Vũ Hà Tuệ sưu tập]
ĐÀ LẠT, MỘT THỜI HƯƠNG XA ‒ 51
Cần hiểu thêm, việc Nhất Linh lùi sâu vào đời ẩn cư để viết tiểu thuyết Xóm Cầu Mới một phần là thôi thúc nội sinh của tư cách văn chương, nhận ra nơi nương náu tốt lành nhất đó chính là trang viết, nơi dấn thân xứng đáng nhất là nghệ thuật và tư tưởng; nhưng một phần quan trọng khác, quyết định đó cũng ít nhiều có sự tác động của người bạn đời, bà Phạm Thị Nguyên, tức, bà Tam. Lúc bấy giờ, bà Tam đã thấm thía chuyện người trí thức sống ngay thẳng và quyết liệt bị quăng quật giữa bão táp chính trị, bị đọa đày tinh thần ra sao, nên luôn lấy lời nhỏ nhẹ khuyên chồng hãy trở lại cuộc
sống đời thường của một
văn nhân.
Trong bức ảnh Lê
Văn Kiểm chụp được tại
một góc rừng Đa Mê, có
thể nhìn thấy nụ cười
hạnh phúc mãn nguyện
của vợ chồng Nhất Linh
trong một lần bà Tam
khăn gói từ An Đông
lên Đa Mê thăm chồng.
Trong một vài bức ký
họa của Nhất Linh thời
kỳ này, lại dễ thấy sau
nỗi buồn xa vắng quạnh
quẽ của thiên nhiên là sự
thanh tịnh của tâm hồn.
Hàng tuần, các con
Nhất Linh từ Đà Lạt về
suối Đa Mê, mang theo
những tập giấy trắng
không kẻ hàng và mỗi lần trở lại, thấy những tập giấy đã phủ kín những dòng chữ nhỏ li ti.
52 ‒ NGUYỄN VĨNH NGUYÊN
“Thời gian này cha tôi bắt đầu viết lại và viết rất hăng say. Ông sai tôi ra tiệm trên Đà Lạt đóng mấy cuốn sách bìa dày trong toàn là giấy trắng không kẻ hàng. Mỗi lần ghé Fim-Nôm thăm ông tôi thấy những trang giấy trắng đã chứa đầy những dòng chữ nhỏ li ti, viết bằng cây bút Parker 51; những dòng chữ bị dập xóa, viết chồng lên nhau chằng chịt như cuốn hút trong dòng tư tưởng dồn dập. Để theo kịp được những cảm xúc, hình ảnh, ý nghĩ xô dạt trong đầu, tay ông phải viết nhanh lắm; do đấy mà chữ viết cứ nhỏ dần đi như chân kiến. Đi xa hơn nữa, để cho viết được nhanh hơn hoặc để khỏi phải bận tâm đến cái mà ông cho là không cần thiết, ông đã bỏ hết những quy luật văn phạm, chính tả thông thường. Công việc sửa lỗi chính tả nhỏ nhặt đó thường là công việc của người khác khi bản thảo được đánh máy trước khi in thành sách”, Nguyễn Tường Thiết kể lại37.
[Nhất Linh trong những ngày sống nhàn dật ở suối Đa Mê. Ảnh: Vũ Hà Tuệ sưu tập]
ĐÀ LẠT, MỘT THỜI HƯƠNG XA ‒ 53
Nhưng dường như những gì con tạo vần xoay theo ngẫu hứng bất khả tư nghị, ý chí con người thật khó cưỡng. Một cơn bão lớn vào cuối 1958 thổi qua những cánh rừng Đa Mê, biến Thanh Ngọc Đình của tác giả Đoạn tuyệt hãy còn chưa hoàn thiện đã sụp đổ hoàn toàn. “Một điềm xấu”, nhà văn đã nghĩ như vậy (hay sự chộn rộn với cuộc thế lúc bấy giờ đã khiến ông tìm cách kiến giải về cơn bão cuộc đời mình theo chiều hướng đó), ông thẫn thờ nuối tiếc nhìn ngôi nhà chỉ còn trơ nền móng, gỗ đá ngổn ngang. Và rồi quay lưng, trở ngược về phía cuộc đời phố xá huyên náo. Tinh thần nhàn dật của ông đã không đủ mạnh để có thể tiếp tục “trùm chăn” với thế giới của lan, của rừng núi, của cái đẹp thiên nhiên, của sự đối diện bất trắc ở vùng lam sơn chướng khí.
Nhất Linh đã không còn được hưởng thụ sự lãng quên của người đời để tĩnh tại ngồi lại với văn chương lâu hơn.
Trường thiên tiểu thuyết (roman fleuve) Cầu Xóm Mới bị bỏ dở38. Nguyễn Tường Thiết gói lại thời kỳ Nhất Linh ở Đà Lạt bằng một tâm sự đầy nuối tiếc: “Thế rồi ông quyết định giã từ tất cả. Đà Lạt, Fim-Nôm, dòng Đa-Mê và cả trăm giỏ lan mà ông đã chăm sóc từ hai năm qua, để về ở luôn Sài Gòn, chấm dứt cái thời kỳ mà ông Lê Hữu Mục đã viết trong đoạn kết cuốn sách của ông là “một Nhất Linh nằm trùm chăn ở trên Đà Lạt”. Đối với tôi, thật bụng tôi chỉ mong ông được nằm trùm chăn lâu hơn vì đây chính là thời gian hạnh phúc nhất trong cuộc đời ông mà tôi được biết. Nhất Linh «xuống núi» lăn vào cuộc đời làm báo, tham gia đảo chính, thất bại, đi trốn, bị đưa ra tòa, đưa đến cái tự vẫn của ông mấy năm sau, mở đầu một thời kỳ cuối cùng của đời ông với nhiều não nề, nhiều chán chường hơn.
Như đoạn văn kết trong cuốn truyện Đôi bạn của ông, hai câu thơ sau đây của Nhất Linh, đâu đó, vẫn còn vẳng về Đà Lạt như «một nỗi nhớ xa xôi đương mờ dần»:
Người đi lâu chửa thấy về,
Nhớ người lòng suối Đa Mê gợn buồn...”39
54 ‒ NGUYỄN VĨNH NGUYÊN
[Bản thảo viết tay tiểu thuyết Xóm Cầu Mới. Ảnh tư liệu]
ĐÀ LẠT, MỘT THỜI HƯƠNG XA ‒ 55
Như vậy, Nhất Linh xuất hiện với Đà Lạt hai lần, trong Hội nghị trù bị Đà Lạt năm 1946, và, dài hơn (tuy vẫn quá ngắn ngủi) trong bốn năm kể trên. Ông trở lại sống cùng vợ con ở khu chợ An Đông, Sài Gòn, quay về với báo chí, văn chương trong tư cách cố vấn Trung tâm Văn Bút tại Việt Nam, tổ chức lại nhà xuất bản Phượng Giang (nơi sẽ in hai tập Xóm Cầu Mới về sau) và ra báo Văn hóa ngày nay…
Thời kỳ ở Sài Gòn, tham gia báo chí, văn chương và hoạt động xã hội, bày tỏ phản kháng chính trị trực tiếp, cũng đồng nghĩa với một lần nữa, chứng thần kinh suy nhược quay trở lại với Nhất Linh. Theo bác sĩ Nguyễn Hữu Phiếm40 thì Nhất Linh bị mắc chứng ám ảnh tự sát (obsession par le suicide) khá nặng. Có lần, ông đã uống thuốc ngủ để tìm đến cái chết khi chạy trốn chính quyền Ngô Đình Diệm trên đường Lê Thánh Tôn (sau cuộc đảo chánh bất thành ngày 11-11-1960). Chính bác sĩ Phiếm đã phải súc rửa dạ dày và tiêm thuốc Strychnine cứu sống ông. Nhưng cuộc tự sát vào ngày 7-7-1963 của Nhất Linh bằng cách uống rượu whisky pha thuốc ngủ nồng độ mạnh là một sự giải thoát quyết liệt cuối cùng, đưa ông khỏi vũng lầy cuộc sống mà nhiều lần ông những muốn rút chân ra song không thành.
Cuối cùng thì ông cũng làm được điều mình muốn: chọn cái chết như một diễn ngôn chính trị. Một ngày trước khi tòa án chính quyền Ngô Đình Diệm mở phiên xử tội đảo chánh, Nhất Linh lìa đời, để lại một di ngôn nổi tiếng: “Đời tôi để lịch sử xử, tôi không chịu để ai xử cả”
Chưa đầy 4 tháng sau cái chết của Nhất Linh, cuộc đảo chánh xảy ra; kết thúc 9 năm nắm quyền của anh em ông Ngô Đình Diệm. Tại Đà Lạt, sau khi chính quyền gia đình trị của anh em họ Ngô sụp đổ, con đường Ngô Đình Khôi (trước đó là đường Rue des Roses, Hoa Hồng)41 được đổi tên thành đường Nguyễn Tường Tam (giai đoạn từ 1963 đến 196542)
Bốn năm ở Đà Lạt như một chương nhạc đẹp và có không khí huyền bí trong bản hợp xướng cuộc đời phức tạp của nhà văn Nhất Linh – chính trị gia Nguyễn Tường Tam. Đó là một cuộc hóa thân, đi vào chính tác
56 ‒ NGUYỄN VĨNH NGUYÊN
phẩm của mình; cuộc trở về với phẩm giá của một kẻ sĩ Đông phương, nương náu, tìm mình trong thiên nhiên, nhưng cũng lại là thời kỳ giấu mình, tự thanh lọc để chọn lựa hành xử theo motif của một trí thức dấn thân kiểu phương Tây - tiếp tục quyết liệt đối diện với đời sống, thời cuộc dù phải đón nhận cái kết biết trước là bi thảm.
Đoạn đường Đặng Thái Thân, nơi một thời Nhất Linh từng gắn bó.
Đà Lạt, 7-2016. Ảnh: NVN]
ĐÀ LẠT, MỘT THỜI HƯƠNG XA ‒ 57
CÀ PHÊ
THỜI KHÔNG “SON PHẤN”
Cà phê Đà Lạt trước 1975 là chủ đề mà nhiều người có thể kể lể sa đà.
Vậy, những quán cà phê Đà Lạt từng có gì đặc biệt?
Trước hết, cũng cần phải lật lại lịch sử con đường du hành của ly cà phê thế giới vào Việt Nam. Năm 1475, quán cà phê đầu tiên trên thế giới ra đời ở thành đô Constantinople của đế quốc Ottoman (1453-1922), để rồi hơn một thế kỷ sau, từ Yemen, cà phê xuất khẩu sang châu Âu và khai sinh văn hóa cà phê tại các nước Anh, Pháp, Hà Lan… Chủ nghĩa thực dân, từ thế kỷ thứ 15 đến nửa đầu thế kỷ 20 kéo theo nhiều cuộc vật đổi sao dời. Nhưng hãy tạm gác lại những luận điệu quen thuộc, nghiêm trọng và định kiến để nhìn vào yếu tố du hành văn hóa, sẽ thấy, riêng trong chuyện ăn uống tiêu dao, văn minh cà phê là một thành tựu mà người Âu “truyền bá” trên đất Á một cách tuyệt vời theo cái gọi là “bước chân thực dân”.
Đi qua những gạch đầu dòng trong “phả hệ” cà phê thế giới để thấy rằng, trong ly cà phê hôm nay mà chúng ta tận hưởng tại Đà Lạt, hẳn
ĐÀ LẠT, MỘT THỜI HƯƠNG XA ‒ 59
không phải là thứ thuần chủng bản địa, mà đến từ những cuộc xê dịch. Người Pháp theo đạo Thiên Chúa đã đưa cà phê vào Việt Nam trong quá trình truyền đạo. Những người triển khai chủ nghĩa thực dân từ những năm giữa thập niên 1850 hẳn đã chọn các đô thị làm điểm dừng. Sau đó, tạo ra những đồn điền cung cấp cà phê và bên cạnh những thành phố – nơi tiêu thụ cà phê.
Đà Lạt, đô thị người Pháp khai sinh và xem là nơi nghỉ dưỡng, một “vườn ươm” nòi giống Pháp, chính vì vậy, có lẽ thú uống cà phê vào Đà Lạt là cuộc tiếp biến diễn ra sớm, tự nhiên và tất yếu so với các đô thị khác.
Tính hai giai đoạn chính: người Pháp buông bỏ Đông Dương từ 1954 sau hiệp định Genève, người Mỹ đến và cũng rời đi sau sự kiện tháng 4-1975, thì Đà Lạt trải qua nhiều cuộc chuyển biến chính trị, nhưng trên cả những chính biến lớn lao diễn ra nơi đô thị này, những gì được kiến tạo thuộc về cấu hình văn hóa thị dân thì mãi được bảo lưu sống động, không hề đứt đoạn. Cà phê Đà Lạt có thể tiêu biểu minh chứng cho điều đó.
Ngoài yếu tố lịch sử, thì tính cách tự nhiên và tâm lý, hành vi tiêu dùng sinh ra từ đó cũng là một đặc điểm cần nhắc tới. Một vùng khí hậu lạnh giá xem ra lý tưởng cho việc người ta theo một nhịp chuẩn (tempo giusto). Người xứ lạnh quen kiểu ngồi một góc quán sá hàng giờ, nghe nhạc và chờ phin cà phê ấm nóng rơi rớt từng giọt chậm chạp lúc thư nhàn. Thành phố có thành phần cư dân là giới trung lưu, công chức, trí thức chiếm tỉ lệ cao như Đà Lạt, nơi thị dân có nếp sống nhã nhặn, biết tận hưởng thời gian, sự tĩnh tại hay nhu cầu thường xuyên về những cuộc gặp gỡ giao du theo lối salon văn hóa cũng là lý do để những quán cà phê, phòng trà tồn tại với một sắc thái riêng.
Có nhiều chọn lựa không gian cà phê nếu ta trở về Đà Lạt của những năm thập niên 1960 – 1970.
Cà phê sang, có Night Club ở khu chợ Mới. Trong một đoạn hồi ức, danh ca từng viết rằng, lúc bấy giờ, những năm giữa thập niên 1960, đêm đến thường đi hát ở Night Club, với mức lương 2.500 đồng Việt Nam Cộng hòa mỗi tháng (ngang với lương bậc Trung úy thời bấy giờ).
60 ‒ NGUYỄN VĨNH NGUYÊN
[Hai mẩu quảng cáo cà phê, phòng trà Đà Lạt vào năm 1963
trên tờ Chiều hướng mới. Ảnh: NVN]
Trong bích chương quảng cáo của phòng trà này, có vẽ một anh lính ngồi trầm tư trên chiếc ghế cao, trước ly cà phê tỏa khói. Điều này trùng khớp với câu chuyện Khánh Ly nói về thành phần khách quen của không gian cả phê ở phòng trà này:
“Với khí hậu lành lạnh về đêm là nơi giải trí lý tưởng của thành phố du lịch, vậy mà khách khứa cũng không có bao nhiêu. Lính Mỹ, cấp cố vấn, mới được vào thị xã chơi chứ những cậu học trò vừa mới hết trung học, rời gia đình đến một đất nước xa lạ, nên có vẻ sợ sệt. Người của thành phố, muốn đi, sợ gặp người quen, khó chối tội với vợ, thế nên ban nhạc đêm đêm cứ chơi những bản nhạc trữ tình, chúng tôi vẫn hát, các chị ngồi uống nước tán gẫu hoặc nhảy với nhau. Mỗi đêm vài ba bàn khách. Mọi người bình thản nhìn nhau, chờ ngày cuối tuần. Có những đêm vũ trường gần đóng cửa, một băng không quân áo bay đen khăn quàng cổ màu tím hoa cà, bất ngờ xuất hiện đứng thành một hàng dài nơi cửa. Nhà hàng không chạy lại đón
ĐÀ LẠT, MỘT THỜI HƯƠNG XA ‒ 61
khách. Chúng tôi không ai ngạc nhiên. Chuyện này xảy ra thường. Tôi lặng lẽ lên sân khấu, ban nhạc hiểu ý chơi bài Gửi gió cho mây ngàn bay. Tôi hát xong, những chiếc khăn quàng màu tím hoa cà lặng lẽ quay ra, đi vào đêm tối, nơi các anh từ đó bước ra. Không bao giờ hỏi nhưng tôi biết một phi vụ vừa hoàn tất.”43
[Ca sĩ Khánh Ly thời đi hát ở Night Club Đà Lạt. Ảnh tư liệu]
Ngoài đến Night Club uống cà phê, thưởng thức vang và nghe hát ra thì café Tùng cũng là một quán lâu đời, nơi ưa thích của những trí thức, văn nghệ sĩ dừng chân ở Đà Lạt44. Lịch sử quán cà phê này gắn với
62 ‒ NGUYỄN VĨNH NGUYÊN
những giai đoạn quy hoạch trung tâm Đà Lạt. Khung cửa sổ kính mờ sương ở quán cà phê phố này đã là góc nhìn trầm tư trước phố xá của biết bao lữ khách đến và đi. Ở Tùng, thời gian như ngưng đọng với âm nhạc, tranh ảnh bài trí, với những vật dụng ghế bàn cũ, cung cách phục vụ cũ kiểu gia đình và phong thái tận hưởng cà phê kiểu người Đà Lạt cũ, chậm rãi, nhẹ nhàng, tinh tế.
[Một không gian cà phê trí thức nghệ sĩ Đà Lạt giữa thập niên 1960.
Ảnh: Tư liệu gia đình cố họa sĩ Đinh Cường]
Nhạc sĩ Lê Uyên Phương45 cũng kể về những quán cà phê trí thức Đà Lạt một thời. Với ông, quán cà phê là “ma túy” với những người trẻ – một nơi phản chiếu tâm thế bất an của tuổi trẻ trong thời chiến:
“Không thể nào quên được những đêm thật tuyệt vời của Đà Lạt vào những năm của thập niên 1960. Chúng tôi, như phần đông những người trẻ lúc đó, thường hay la cà khắp các quán cà phê ở Đà Lạt, nhất là cà phê Tùng ở gần chợ Hòa Bình.
ĐÀ LẠT, MỘT THỜI HƯƠNG XA ‒ 63
Cái phòng vuông vức với những hàng ghế liền bọc plastic đỏ, những chiếc bàn thật thấp, trên tường có bức tranh lớn vẽ một người chơi guitar theo lối nửa lập thể, nửa ấn tượng, và cái không gian đầy khói thuốc trộn lẫn với âm nhạc nhẹ phát ra từ chiếc loa thùng đã trở thành một thứ ma túy đối với chúng tôi.
Bấy giờ là thời kỳ mà cuộc chiến đang vô cùng sôi sục, quanh những ly cà phê đen, người ta nói nhiều về những bạn bè ở trên các mặt trận, người ta nói nhiều về cái sống và cái chết, về cái phải và cái không phải trong cuộc chiến đang xảy ra, người ta nói nhiều về những sự việc trong một quân trường hay trong một trại nhập ngũ nào đó và đôi lúc cả những nhà văn được giải Nobel lúc bấy giờ xen lẫn những mẩu chuyện về một cô gái xinh đẹp nào trong thành phố. Sự lo lắng về một tương lai bất định của thời chiến quả đã là một ám ảnh lớn cho tất cả chúng tôi lúc bấy giờ. Những giọt cà phê nhiều khi đã không được uống vì cái vị đắng của nó mà vì cái vị đắng của cuộc chiến kéo dài tưởng như vô tận so với cuộc đời hết sức ngắn ngủi của chúng ta – một người bạn vừa hy sinh ở góc rừng nào đó, không những để lại cho người thân của anh ta những nỗi buồn phiền bất tận mà còn thêm vào trong cái khói thuốc của căn phòng nhỏ bé vuông vức của những quán cà phê một sự u ám lạnh lẽo không cùng. Chúng tôi đã nhiều lần ngồi thở dài để đưa tiễn một người bạn lên đường, và trong những câu chuyện, chúng tôi đã luôn luôn cố gắng để giải thích cho chính mình mọi sự dấn thân của chúng tôi lúc đó. H. là một sinh viên ghiền ma túy. Một hôm trời khuya, chúng tôi đang lúc vui đùa ồn ào với nhau trong quán, H. bỗng ra dấu cho mọi người yên lặng, anh cầm cái thẻ sinh viên của anh đưa lên cao cho chúng tôi nhìn thấy rồi xé làm đôi, anh tuyên bố từ hôm nay anh chặt đứt mọi hệ lụy trong quá khứ của mình, ngày mai anh lên đường đi trình diện tình nguyện nhập ngũ – chiến tranh đôi lúc đã giải quyết cho chúng tôi một cách hữu hiệu những vấn đề cá nhân như thế.
Biết bao nhiêu chuyện đã xảy ra trong một quán cà phê, ở đó đôi lúc đã là nơi mà những khúc quanh của một đời người bỗng mở ra trước mắt. Một bài hát mà lúc bấy giờ chúng tôi ai cũng ưa thích, bài J’Entend Soufflet Le Train46, tôi không nhớ ai đã hát bài đó, nhưng cái âm hưởng vừa xa vắng của bài hát – như một tiếng còi tàu – đã thể hiện được đúng tâm trạng của chúng tôi lúc bấy giờ. Phải chăng trong sự thôi thúc của đời sống, trái tim ta đôi lúc bỗng bắt gặp được cái nhịp đập bất thường rất kỳ diệu của cuộc đời, và trong mỗi khối óc của chúng ta, một số tế bào não bộ đã hiểu biết được đôi điều về cái đẹp vô cùng của sự não nề trong kiếp sống. (…)
64 ‒ NGUYỄN VĨNH NGUYÊN
Những quán cà phê lúc bấy giờ đã thực sự trở thành cái nhà của chúng tôi, ngoài giờ đi làm, đi học ra, cà phê là nơi chúng tôi thường xuyên có mặt, bất kể ngày đêm, ở đó chúng tôi có thể tìm gặp những người hiểu được mình và có thể thổ lộ mọi điều riêng tư mà không ai phàn nàn gì cả.”47
Bấy giờ ở Đà Lạt, những quán cà phê kiểu gia đình, không gian gần gũi như Văn, Vui, Mây,… là các địa chỉ của thanh niên, trí thức, công chức. Nhìn rộng ra, mỗi quán cà phê Đà Lạt thời điểm 1960 – 1970 đều mang một nét đặc biệt: ở cà phê Kivini số 52 Minh Mạng là nơi nổi tiếng nhờ giọng ca Kim Vui, cà phê T2 đối diện trường Bùi Thị Xuân được học sinh sinh viên mệnh danh (theo cách diễn dịch tên quán T2) là nơi dành cho người thất tình, thiếu tiền và có thể là nơi tỏ tình lý tưởng. Một chút xa xỉ cho những ai quyến luyến phong vị Pháp, có cà phê Thủy Tạ, ban công, sảnh Dalat Palace hay Hotel Du Parc… Nhưng Đà Lạt cũng có những quán cóc lề đường rất duyên, gắn với ký ức biết bao người, như dãy ở góc bến xe Tùng Nghĩa với những quán “tứ chiếng” một thời: Long, Đôminô, Bà Năm,… hay có thể là những quán cà phê vô danh nằm dọc lối vào chợ, ga xe lửa phục vụ khách lữ hành dừng chân chốc lát…
Vào năm 1972, Đà Lạt có một địa chỉ mới cho giới sành cà phê và yêu nhạc, đó là Lục Huyền Cầm của vợ chồng Lê Uyên-Phương. Một bức ảnh tư liệu của gia đình có ghi lại cảnh vợ chồng nghệ sĩ này đang hát mộc tại quán cà phê bên những sinh viên và bạn bè nghệ sĩ. Lục Huyền Cầm được lập ra để làm nơi sáng tác, giao lưu bạn bè và giới thiệu những tình khúc mới. Nhạc sĩ Lê Uyên Phương có hai người bạn thân, hầu như hôm nào cũng có mặt ở đây, đó là Đỗ Đức Kim (giáo viên) và Nguyễn Văn Thuyết (họa sĩ). Nhiều tranh trang trí trong quán Lục Huyền Cầm là do Nguyễn Văn Thuyết vẽ. Về sau, một số tranh của ông Thuyết cũng được chọn in trên trang 4 của những tờ nhạc Lê Uyên Phương phát hành tại Sài Gòn.
Cần nhớ rằng, quán cà phê này được mở khi Lê Uyên-Phương đã nổi tiếng khắp Sài Gòn48. Vì thế, sự ra đời của nó gây một sự chú ý đáng kể trong thành phố yên bình. Về mặt nào đó, nó góp thêm cho đời sống văn hóa thành phố một tụ điểm sinh hoạt ý nghĩa. Lục Huyền Cầm, vào các tối thứ 7 và chủ nhật là nơi tập hợp giới văn chương, âm nhạc trong
ĐÀ LẠT, MỘT THỜI HƯƠNG XA ‒ 65
66 ‒ NGUYỄN VĨNH NGUYÊN
[Cà phê Bà Năm, một dạng quán cà phê bình dân Đà Lạt từ trước 1975 nay vẫn còn lưu giữ nét cũ, nằm trên đường Phan Bội Châu. Ảnh: NVN]
ĐÀ LẠT, MỘT THỜI HƯƠNG XA ‒ 67
thành phố để chuyện trò thời thế, nghệ thuật và tạo hứng thú cho nhau sáng tác. Hơn 10 ca khúc phổ thơ của Nguyễn Xuân Thiệp, Huy Tưởng, Hoàng Khởi Phong, Phạm Công Thiện… trong album Tình như mây cõi lạ được nhạc sĩ Lê
Uyên Phương viết tại Lục Huyền Cầm, sau những cuộc gặp gỡ, trao đổi sáng tác với các bằng hữu thi sĩ vào các đêm gặp gỡ văn nghệ.
Thế giới cà phê Đà Lạt thời bấy giờ, dù dành cho giới thượng lưu hay bình dân, thì mỗi không gian mang một nét thanh cảnh nhỏ nhẹ và lịch thiệp, không xô bồ hỗn tạp.
Thừa hưởng trực tiếp văn hóa cà phê từ người Pháp, thị dân Đà Lạt từng có một đời sống an nhàn, lịch lãm bên ly cà phê thường nhật. Một thế sống sang cả, tự nhiên, không chút “son phấn”.
Có lý khi nói rằng, chỉ cần hai thứ – cà phê và khí hậu – được bảo tồn, thì Đà Lạt thảy còn nguyên vẹn để quay về.
68 ‒ NGUYỄN VĨNH NGUYÊN
[Đường phố Đà Lạt trước quán café Tùng. Ảnh: Tư liệu gia đình ông Trần Đình Tùng]
70 ‒ NGUYỄN VĨNH NGUYÊN
CAFÉ TÙNG,
TỪ THĂM THẲM LÃNG QUÊN
Một góc đường phố trung tâm Đà Lạt đầu thập niên 1960. Có ba người đàn ông ăn vận thanh lịch, một người đóng thùng, áo manteau vắt khuỷu tay đang ngoái lại chờ bạn đồng hành. Một người tay thõng túi áo bước đi điềm nhiên, như đang kể câu chuyện vui nào đó và người cuối chậm rãi ngoái lại nhìn con phố sau lưng. Cả ba đều toát lên vẻ thong dong. Trên vỉa hè, có một cột điện treo bảng đường cấm (phương tiện cơ giới lưu thông theo hướng chiều ngược), dưới chân cột điện có vài thùng chai nước ngọt đã dùng xếp chồng lên nhau. Cạnh đó, người đàn ông vận áo khoác màu sậm, dáng thư sinh cùng với hai đứa trẻ đứng nhìn về phía ống kính. Một người đàn ông vận sơ-mi trắng quần đậm, đóng thùng, đi giày tây, đang di chuyển lướt qua trước mặt họ… Phông nền của cảnh sinh hoạt đó là ngôi nhà phố một tầng theo phong cách kiến trúc tân kỳ (modernism) có viền mái cách điệu mang đường nét tối giản, khỏe khoắn kéo thành lam ngang bên trên và một đường sổ chéo, lộng trong nó là khung cửa kính chia hai phần không đều,
ĐÀ LẠT, MỘT THỜI HƯƠNG XA ‒ 71
một làm cửa ra vào và một làm view để lấy ánh sáng tự nhiên tạo cảm giác kết nối nội thất với ngoại cảnh. Phần dưới của phông tường nhám là những đường kẻ ngang giả lam-ri tạo cảm giác thân thiện, đồng nhất với đặc điểm trang trí bên trong.
Thoạt nhìn bề ngoài, ngôi nhà phố đã toát lên vẻ đơn giản, gần gũi, ấm áp.
Đó chính là mặt tiền Café Tùng của thuở ban đầu.
Những người đàn ông lịch lãm trong bức ảnh đó có lẽ nay đã già, hoặc đã rời xa thế giới này. Đứa bé trai lớn trong bức ảnh, nay chắc đã ngoài 60, cũng trạc tuổi chủ quán Tùng hiện tại, người thừa hưởng một gia sản, hơn thế, một di sản quá lớn mà cha mình để lại – ngôi quán biểu tượng của thời hoàng kim trong lịch sử văn hóa đô thị Đà Lạt.
Lịch sử của Tùng gắn với một phần lịch sử di cư của người Việt lên miền cao nguyên Lang Bian lập nghiệp; đó cũng chính là một mảnh vi lịch sử về đời sống người phương Bắc nhập cư Đà Lạt ở giai đoạn sớm.
Chủ quán café Tùng đã tìm đến với thành phố cao nguyên này sớm hơn đợt di cư năm 1954. Ông thuộc trong nhóm người Hà Nội đến Đà Lạt quãng thập niên 1940.
Kinh doanh cà phê không phải là ngành nghề kiếm sống ban đầu của gia đình ông bà Trần Đình Tùng - Lê Thị Giác (đều sinh năm 1927). Trước năm 1955, những con phố ở trung tâm Đà Lạt hãy còn thoáng rộng, một vài chỗ còn đầm lầy, nhiều nếp nhà tranh của người Việt dựng lên tạm bợ dưới những tán thông. Thời này, ông Tùng làm công chức ở Nha Địa dư Quốc gia. Sau đó, rời việc công chức nhàm chán, ông đi làm thợ hớt tóc. Rồi nghề thợ hớt tóc đến lúc cũng không đủ sống, ông chuyển qua học chế biến, pha chế cà phê. Ông mày mò nghiên cứu văn hóa cà phê từ những tài liệu người Pháp để lại và nuôi mộng mở một quán cà phê nhà phố vừa mang tinh thần Pháp - Âu lại vừa thân thiện, công năng, thức thời kiểu Mỹ trong không khí chuyển giao lịch sử (giá trị Mỹ đang dần tạo ra ảnh hưởng cùng với sự xuất hiện ngày càng ồ ạt của người Bắc trong đợt di cư lớn của những ngày đầu thời tổng thống Ngô Đình Diệm).
72 ‒ NGUYỄN VĨNH NGUYÊN
Ban đầu, café Tùng không nằm ở địa điểm số 6 khu Hòa Bình như bây giờ.
Năm 1955, ông Trần Đình Tùng khai trương quán ở địa chỉ kiosque số 5 đường Thành Thái49, bên cạnh có nhà in, hiệu sách Đà Lạt khá nổi tiếng. Café Tùng thời điểm này trội hơn một số tiệm cà phê khác ở trung tâm, thứ nhất là bởi địa thế đẹp, nhà mặt phố khang trang có tầm nhìn từ đỉnh đồi ngó xuống bờ hồ (dù phố xá thời kỳ này thì còn hiu hắt lắm, chưa có nhiều cửa nhà hay công trình để ngắm nghía).
Ngoài ra, Tùng mang lại một không gian sang trọng khác biệt, nhất là với âm nhạc: giọng ca Edith Piaf, Yves Montand hay Dalida đã được cất lên từ bộ loa thùng nhỏ trong góc kiosque ấm áp nơi góc phố cao nguyên còn đậm sắc thái văn hóa Pháp. Dòng nhạc từ châu Âu xa xôi như gọi về giấc mơ về một tiểu Paris hay thủ phủ Liên bang Đông Dương vừa vụt qua trong chớp mắt của lịch sử.
[Café Tùng thời ở số 5 Thành Thái (nay là Nguyễn Chí Thanh).
Ảnh: Tư liệu gia đình ông Trần Đình Tùng]
ĐÀ LẠT, MỘT THỜI HƯƠNG XA ‒ 73
Trụ được ở kiosque số 5 Thành Thái trong vài ba năm, thì qua một đợt chỉnh trang trung tâm, quán café Tùng phải dời đi. Lần này thì chuyển đến một kiosque dãy nhà bên hông Chợ (Cũ) Đà Lạt, nay là rạp Hòa Bình. Thời kỳ này neo đậu không lâu. Là người từng làm Nha Địa dư, ông Tùng có lẽ cũng nắm một số phong thanh thông tin quy hoạch để biết rằng, đây chỉ là giai đoạn dừng chân tạm thời để duy trì hoạt động của quán trước khi kiếm được một địa điểm ổn định hơn.
[Chợ cũ Đà Lạt. Ảnh tư liệu]
Năm 1958 chợ Đà Lạt hiện nay (gọi là Chợ Mới) được bắt đầu xây dựng theo bản thiết kế của kiến trúc sư Nguyễn Duy Đức, nhà thầu Nguyễn Linh Chiểu thi công (về sau, kiến trúc sư Ngô Viết Thụ thiết kế “bổ sung” một lối đi bắc ngang qua khu Hòa Bình). Năm 1960 Chợ Mới khai trương, kéo theo cuộc giải tỏa dãy kiosque bên hông Chợ Cũ. Trung tâm Đà Lạt lại trải qua một đợt chỉnh trang lớn. Lần này, gia đình ông Trần Đình Tùng mới cho dời quán café sang tầng trệt nhà phố số 6 khu Hòa Bình và định vị ở đó cho đến bây giờ.
Như vậy, trước khi an cư ở địa chỉ hiện tại thì café Tùng đã hai lần di
74 ‒ NGUYỄN VĨNH NGUYÊN
dời trong vòng 5 năm, từ 1955 đến 1960. Trong hai lần đó, gia đình ông Tùng tạm gọi là bắt mạch được phong cách thưởng thức cà phê của người Đà Lạt, đặc biệt là giới trí thức, công chức tinh hoa. Vợ chồng ông tự tay rang, xay cà phê theo một công thức riêng, trung thành với kiểu cà phê pha phin – một lối thưởng thức cà phê của người ưa sống chậm, âm nhạc được chọn theo một gu riêng, đậm chất Pháp và thẩm mỹ không gian quán xá được thiết kế theo một phong cách riêng, ấm áp, thân thiện và lịch thiệp. Không gian của café Tùng có sự dung hòa những giá trị Pháp qua âm nhạc, tranh ảnh mang vẻ hoài niệm cùng phong thái phục vụ đậm tính chất gia đình nề nếp truyền thống Việt Nam trong một thiết kế đề cao tính tiện nghi, cởi mở kiểu Mỹ. Nơi Tùng, những giá trị có tính quốc tế được nuôi dưỡng từ một bối cảnh lịch sử đặc biệt của thành phố, mà hình thành bản sắc, nhất quán cho đến mãi về sau này…
[Ông Trần Đình Tùng tại quầy phục vụ quán cà phê của gia đình.
Ảnh: Tư liệu gia đình ông Trần Đình Tùng]
ĐÀ LẠT, MỘT THỜI HƯƠNG XA ‒ 75
Một bức ảnh đầu thập niên 1960 chụp cảnh ông Trần Đình Tùng đứng ở quần bar của quán, vận đồ veston, tóc rẽ ngôi giữa, khuôn mặt gầy nhưng vóc dáng thư sinh – đang chăm chú tính toán sổ sách. Cạnh ông là hai đầu đọc đĩa than, bộ amply và loa, trên tường có dán một mẫu quảng cáo thuốc Bastos (đây là loại thuốc nặng, phổ biến ở Đà Lạt có lẽ một phần bởi thời tiết lạnh lẽo, cũng có thể bản thân thương hiệu này gắn với gu thưởng thức thuốc lá của dân Tây công chức thời thuộc địa và có ảnh hưởng đến cư dân Đà Lạt về sau chăng?!)50 và bức ảnh một phụ nữ ăn vận rất “à la mode” có lẽ được cắt ra từ một mẩu bích chương quảng cáo hay trang tạp chí nào đó.
Café Tùng, ròng rã thập niên 1960 và nửa đầu 1970 có thể coi là một quán cà phê đô thị có sức hấp dẫn đặc biệt với giới tinh hoa, ưu tú của Đà Lạt và miền Nam. Đôi tình nhân nghệ sĩ Lê Uyên và Phương từng chọn Tùng làm nơi hò hẹn. Khi đã là vợ chồng, họ vẫn chọn một góc ở Tùng làm nơi bên nhau hằng ngày, tay trong tay nhìn ngày mới lên, nhìn màn đêm phủ tràn xuống thành phố và ước nguyện “có yêu nhau ngọt ngào tìm nhau”. Phía sau cánh cửa kính đón ánh sáng những ngày mùa đông mây xám, Nguyễn Thị Lệ Mai, với mảnh đời riêng đầy đa đoan từng ngồi đếm từng giọt cà phê rơi và nghĩ về một tương lai vô định. Hẳn lúc ấy cô không hình dung được rằng, một ngày nào đó giọng ca của mình sẽ cất lên trên chiếc loa thùng của quán cà phê này với thứ âm nhạc phản chiến của một chàng nhạc sĩ còn ủ dột u sầu ở xó núi B’lao mà làm xiêu đổ biết bao trái tim cư dân trong thành phố, con dân trên đất nước thời loạn li.
Về sau, Lệ Mai, tức ca sĩ Khánh Ly, nhớ lại:
“Một thời 20 rất bụi đời, rất vỉa hè. Đến như gió. Đi như gió. Từ đâu tới. Đi về đâu. Không biết. Không cần biết. Đáng yêu biết bao những ngày tháng sống lãng đãng như mây trời, biển khơi. Phà khói thuốc vào sương mù Đà Lạt. Buổi sáng thức dậy, ngửi mùi thơm của thông. Nghe thông reo nhè nhẹ. Mặc áo len cổ tròn, quàng cổ, quần jean, thế là… xuống phố. Có lúc đi giữa mưa vẫn nghe tiếng chân mình rộn rã reo vui trên mặt đường loang nước ở ngã tư. Xe đò, xe lam từ hướng Chi Lăng chạy ra. Bước lên xe ngồi xuống. Bao giờ tôi cũng ngồi ngoái lại trường tiểu học Phan Chu Trinh nằm bên kia đường. Tôi đã học ở đây năm 1956. Xe qua nhà vãng lai dành cho
76 ‒ NGUYỄN VĨNH NGUYÊN
các sĩ quan Không Quân nghỉ mát. Qua ga xe lửa. Tiệm phở ở ga ăn cũng khá. Đổ một con dốc. Rồi một con dốc nhỏ nữa, qua nhà thương Soyer, trường Yersin. Xe cứ chạy. Bên trái là sân vận động, sân tennis. Khách sạn Palace. Đường rẽ lên nhà thờ chính tòa Đà Lạt. Bên phải là Hồ Xuân Hương. Vòng theo một bùng binh. Ngang qua khu quân vụ thị trấn, xe đò lên dốc. Vào bến đậu ngay cạnh café Tùng. Vào làm một ly đã. Mọi chuyện tính sau. Ngày nào cũng thế, năm nào cũng thế. Không thay đổi.”51
Cũng nơi dãy ghế da liền cũ kỹ, trước những chiếc bàn gỗ bọc nhựa mica trắng im hơi, Phạm Công Thiện đã ngồi hàng giờ nhìn khói thuốc và trầm tư về thi ca, về thân phận và cách xoay chuyển tinh thần cá nhân trong một thực tại u ám bởi chiến tranh. Chàng trẻ tuổi đương triển khai trong đầu những gì là “ý thức mới trong văn nghệ và triết học”...
Cũng ở một chỗ nào đó của Tùng, một chiều sương xám của thuở phố phường còn tịch lặng, trung niên thi sĩ Bùi Giáng xé vỏ thuốc lá mà biên mấy câu thơ giã từ lộng lẫy buồn:
Buổi sớm hôm buồn tinh tú ai ngừa
Bàn chân bước vơi tay buông kể lể
Trời với đất để lòng em lạnh thế
Hoa hương ơi còn diễm lệ bao giờ
Những ân tình đầu liễu rũ lơ thơ
Còn hay mất trong trăng mờ khuya khoắt 52
Cũng tại đây, chắc Từ Công Phụng, chàng sinh viên gốc Chăm đến từ đất nắng Phan Rang cũng từng có nhiều buổi chiều băn khoăn về tình yêu để rồi vượt qua những bỡ ngỡ rụt rè với âm nhạc thuở ban đầu, chia sẻ với bạn bè những câu hát đẹp như kẻ mộng du đi chới với trong vùng khói sương hư thực, đánh rơi ý niệm về thời gian và không gian: “Bây giờ, tháng mấy rồi hỡi em/ Lênh đênh, ngàn mây trôi êm đềm…”
Nhiều trí thức danh nhân đã lặng lẽ bước trên nền gạch bông cũ để chọn cho mình một chỗ ngồi, nhưng nói đúng, là dọn cho mình một tâm thế sống, rồi thư thái nhìn cuộc đời lướt qua bên ngoài, nhìn thời
ĐÀ LẠT, MỘT THỜI HƯƠNG XA ‒ 77
gian lặng trôi, chiêm nghiệm nhân thế thời ly loạn bên ly cà phê. Họ gặp ở đó không gian mà mỗi hiện tại đều nhanh chóng kết tủa thành hoài niệm rồi cũng tự mình đắm đuối với thời gian đã mất. Họ gặp ở đó chút ấm cúng của một nhân quần nhỏ biết khắc khoải suy tư hay băn khoăn về thân phận mong manh của con người trong thời chiến, gặp ở đó cả những mảnh tình đa đoan trôi dạt trên quê hương thống khổ mà luôn thừa mứa mộng mơ. Vào mỗi tối thứ Năm hàng tuần, họ vẫn tiếp tục phiêu diêu trong khí quyển tinh thần của những bản pop mang đậm sắc thái Francophone53 với “Yé Yé”54 hậu chiến có màu tươi sáng và giễu cợt số phận, mà đại diện tiêu biểu là: Adamo, Johnny Hallyday, Sylvie Vartan, France Gall, Françoise Hardy, Claude François, Christophe hay Jacques Brel…
[Một góc café Tùng trước 1975. Ảnh: Tư liệu gia đình ông Trần Đình Tùng]
Trong tạp ghi về Đà Lạt của một lữ khách về giai đoạn này, có dành những dòng nâng niu dành cho Tùng:
78 ‒ NGUYỄN VĨNH NGUYÊN
"""