🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Cuồng Vọng - Clive Cussler & Phạm Đăng Phụng full mobi pdf epub azw3 [Best Seller]
Ebooks
Nhóm Zalo
CLIVE CUSSLER
CUỒNGVỌNG
Dịch giả: Phạm Đăng Phụng Thực hiện ebook: page Duyên sách
Nhà xuất bản Hồng Đức
Contents
SỰ VA CHẠM KHỦNG KHIẾP 2
CHIẾC TÀU MA 8
CỨ ĐẾN GẦN ĐỊA NGỤC NẾU BẠN CÓ THỂ 24 NHỮNG DẤU VẾT CỦA NGƯỜI CỔ ĐẠI 90 CHIẾC TÀU CỨU NẠN THẾ KỶ HAI MUƠI MỐT 191 THÀNH PHỐ DƯỚI BĂNG 310
TRO TAN, TRO TÀN, TẤT CẢ ĐỀU RƠI XUỐNG 430 PHÚC LÀNH SAU CÙNG 440
TÁI BÚT 446
SỰ VA CHẠM KHỦNG KHIẾP
Năm 7.120 trước Công nguyên sự va chạm đã tạo ra Vịnh Hudson tại Canada ngày nay.
Vật lạ đến từ một nơi nào đó trong không gian. Đó là một khối tinh vân rắn - một đám mây khổng lồ do nhiều khối băng, đá, bụi bặm và các loại khí kết tụ lại - có mặt cùng lúc với sự hình thành của vũ trụ, khi những hành tinh trong hệ thống mặt trời xuất hiện từ bốn tỉ sáu trăm triệu năm trước. Ngay sau khi những hạt li ti rời rạc của nó đông lại thành một khối cứng rắn có đường kính rộng một dặm, nó bắt đầu lặng lẽ di chuyển cực nhanh qua không gian trống trải, mênh mông, trên một quĩ đạo quanh mặt trời và những ngôi sao gần nhất, một hành tinh kéo dàỉ nhiều ngàn năm từ lúc khởi đầu đến khi chấm dứt.
Phần lõi của sao chổi, còn gọi là hạt nhân, là một khối kết hợp gồm hơi nước đông đặc, carbon monoxỉde, khí mê tan và những tảng đá kim loại vỡ nát. Có thể mô tả chính xác nó là một quả bóng tuyết bẩn thỉu bị ném mạnh qua không gian của hệ thống mặt trời, hoặc sự bức xạ của mặt trời phản ứng lại với nhân của nó và xảy ra sự biến đổi hình dạng. Một con vịt con xấu xí nhanh chóng trở thành một vật xinh đẹp.
Khi nó bắt đầu hấp thụ nhiệt lượng và tia tử ngoại của mặt trời, một vệt dài hình thành và chậm chạp phát triển thành một cái đuôi lóng lánh khổng lồ, cong và trải rộng ra phía sau cái lõi với một chiều dài đến chín mươi triệu dặm. Một cái đuôi ngắn hơn, màu trắng, do bụi tạo thành rộng hơn một triệu dặm cũng hình thành và nằm cong theo cái đuôi lớn giống như những cái vây trên mình một con cá.
Mỗi lần sao chổi đi qua mặt trời, nó mất đi một phần khối băng của nó và lõi cũng giảm bớt. Sau cùng, trong một thời gian hai trăm triệu năm, nó mất hết khối băng và vỡ vụn thành một khối mây bụi gồm vô số thiên thạch nhỏ. Tuy nhiên, sao chổi này không bao giờ lệch khỏi quĩ đạo của nó trong hệ thống mặt trời hoặc đi qua quanh mặt trời một lần nữa. Nó không được phép chết một cách chậm chạp và lạnh lẽo tại một nơi xa thẳm nào đó trong không gian tối tăm. Chỉ trong vài phút ngắn ngủi, sự sống của nó vụt tắt. Nhưng trên quĩ đạo cuối cùng của nó, sao chổi vẫn đi qua chín trăm
ngàn dặm của sao Mộc, và trọng lực rất lớn của sao này làm nó đổi chiều sang một hành trình khác và chạm mạnh vào một hành tinh thứ ba trong hệ thống mặt trời, một hành tinh mà cư dân của nó gọi là Trái Đất.
Lao vào bầu khí quyển của Trái Đất với vận tốc một trăm ba mươi ngàn dặm mỗi giờ theo một góc bốn mươi lăm độ, vận tốc của nó càng tăng thêm vì sức hút của trọng lực, sao chổi gây ra sự va chạm khủng khiếp và phát sáng với kích thước rộng mười dặm, và sức nặng bốn tỉ tấn của nó vỡ vụn vào lúc đó. Bảy giây sau, khối sao chổi méo mó trở thành một quả cầu lửa sáng rực, đập vỡ bề mặt Trái Đất với một sức công phá không thể tưởng tượng. Hậu quả tức thì từ vụ nổ làm thoát ra những năng lượng phá hủy khoét sâu vào vỏ Trái Đất tạo thành một lòng chảo rộng bằng hai lần diện tích đảo Hawaii khi nó bốc hơi và chiếm chỗ một khối khổng lồ gồm nước và đất đá.
Toàn bộ Trái Đất rung chuyển do sự va chạm, tạo ra một vụ động đất lên tới mười hai độ rít-te. Hàng triệu tấn nước các loại trầm tích và các thứ đổ nát bị tống vào bầu khí quyển phía trên chỗ va chạm và xâm nhập vào tầng bình lưu, cùng với khối bụi nước khổng lồ bị phá hủy, khối đá bị cháy đỏ thoát ra và lao vào những quĩ đạo chung quanh trước khi rơi xuống lại trên mặt đất như những thiên thạch cháy sáng. Những trận bão lửa thiêu rụi những khu rừng trên khắp mặt đất. Những núi lửa đã ngủ yên hàng ngàn năm đột nhiên hoạt động trở lại, tống vào các đại dương những dung nham lỏng lan rộng trên một triệu dặm vuông, phủ lên mặt đất một lớp dày đến trên một ngàn bộ. Vô số khói và bụi bị tống vào tầng khí quyển, sau đó bị những trận gió khủng khiếp từ mặt trời thổi đến từng ngõ ngách trên Trái Đất và biến nó thành một nơi tối tăm kéo dài gần một năm. Khí hậu của Trái Đất đột ngột thay đổi khủng khiếp. Nhiệt độ trên những vùng băng tuyết mênh mông và những băng hà hoặc băng trôi ở phía bắc tăng lên cho tới khi chúng đạt đến chín mươi và một trăm độ Fahrenheit, gây ra sự bốc hơi nhanh chóng. Các chủng động vật từng quen với khí hậu nhiệt đới và những vùng ôn đới trở nên bị tuyệt chủng chỉ trong một đêm. Nhiều chủng loại như loài voi ma-mút có lông chết nhanh chóng đến nỗi cỏ và hoa trong dạ dày chúng vẫn chưa tiêu hóa kịp. Cây cối cùng với lá và trái của chúng nhanh chóng chín muồi. Chỉ vài ngày, cá trong các sông ngòi hồ ao đều nằm phơi bụng.
Những đợt sóng cao từ năm đến mười dặm tràn lên các lục địa, tàn phá tất cả những gì cản đường chúng. Nước tràn qua những bình nguyên
thấp dọc bờ biển, cuốn đi hàng trăm dặm vào trong đất liền. Vô số những trầm tích và các thứ cặn bã từ đáy những đại dương trải rộng trên những vùng đất thấp. Chỉ đến khi đợt trào dâng kinh khủng này đập vào chân những ngọn núi, dội lại và bắt đầu chậm chạp rút lui sau khi đã làm thay đổi dòng chảy những con sông, lấp đầy những chỗ trũng trên mặt đất - nơi trước kia không có sự sống - biến đổi những hồ ao rộng lớn thành những sa mạc.
Chuỗi phản ứng này có vẻ kéo dài bất tận.
Với những tiếng động ì ầm phát triển thành tiếng gầm rú liên tục như tiếng sấm, những ngọn núi bắt đầu lắc lư như những cây cọ dưới một làn gió nhẹ. Những sa mạc và những đồng cỏ nhấp nhô khi những đợt tấn công dữ dội từ các đại dương lại tràn lên đất liền. Sự chấn động từ vụ va chạm của sao chổi đã tạo ra sự thay đổi vị trí hoàn toàn và nhanh chóng trên lớp vỏ mỏng của Trái Đất. Lớp ngoài cùng, dày chưa tới bốn mươi dặm, và mặt đất bao bọc cái lõi nóng chảy của Trái Đất trở nên vặn vẹo như lớp vỏ của một trái táo bị bóc ra rồi ráp lại để nó có thể chuyển động quanh cái lõi của trái táo bên trong. Như được kiểm soát bởi một bàn tay vô hình, toàn bộ lớp vỏ Trái Đất chuyển động như một bộ phận duy nhất.
Toàn bộ các lục địa trôi nổi đến những vị trí mới. Những ngọn đồi nhô cao thành núi hoa. Những hòn đảo khắp Thái Bình Dương biến mất, trong lúc những đảo khác trồi lên lần đầu tiên. Nam Cực, về phía tây Chi Lê, trượt dài hơn hai ngàn dặm về phía nam, tại đây nó nhanh chóng bị chôn vùi dưới những lớp băng mới thành hình. Khối băng khổng lồ từng trôi nổi trên Ấn Độ Dương và phía tây Úc châu giờ đây lạc lõng tại vùng ôn đới và nhanh chóng bắt đầu bốc hơi. Tình trạng đó cũng xảy ra tại nơi trước kia là Bắc Cực, lan rộng tới vùng bắc Canada. Địa cực mới nhanh chóng sản xuất ra một khối băng dày giữa một nơi trước kia là một đại dương rộng lớn.
Sự tàn phá thật khắc nghiệt. Sự chấn động và đổ nát tiếp tục xảy ra như thể chúng sẽ không bao giờ chấm dứt. Đó là lúc lớp vỏ mỏng của Trái Đất chồng chất hết biến động này tới biến động khác. Sự bốc hơi đột ngột của những khối băng trước kia kết hợp với các băng hà và băng trôi bao phủ khắp các đại dương đột ngột trôi vào hoặc gần những vùng nhiệt đới, làm cho các đại dương dâng cao tới bốn trăm bộ, nhấn chìm những vùng đất đã bị tàn phá với những đợt sóng thủy triều khổng lồ phát sinh từ vụ va chạm của sao chổi. Chỉ trong một ngày, nước Anh, từng nối liền với phần
còn lại của lục địa châu Âu bởi một bình nguyên khô ráo, lúc này biến thành một hòn đảo, trong lúc một sa mạc bị nhận chìm trở thành vịnh Ba Tư. Sông Nil từng chảy vào một thung lũng phì nhiêu mênh mông rồi đổ ra một đại dương ở phía tây lúc này lại kết thúc dòng chảy của nó tại một nơi đột ngột biến thành Địa Trung Hải.
Kỷ nguyên băng hà rộng lớn cuối cùng chấm dứt về mặt địa chất chỉ trong nháy mắt.
Sự thay đổi ngoạn mục trong các đại dương và sự lưu thông của chúng quanh Trái Đất làm cho các địa cực di chuyển, quấy nhiễu dữ dội sự quân bình cố hữu của Trái Đất. Trục Trái Đất tạm thời bị lệch hai độ, khi Bắc Cực và Nam Cực bị đổi chỗ đến những vùng địa lý mới, làm biến đổi lực hướng tâm quanh mặt ngoài của địa cầu. Vì chúng là lưu chất, các đại dương thay hình đổi dạng trước khi các địa cực ngừng rung lắc và trở nên ổn định quanh cái trục mới của chúng. Trong thời gian đó, mực nước biển cũng trở nên ổn định, cho phép nhiều bờ biển mới được hình thành trong khi những điều kiện khí hậu kỳ quặc tiếp tục được điều chỉnh dần. Những thay đổi trở nên thường xuyên. Thời gian nối tiếp giữa ngày và đêm thay đổi khi số ngày trong một năm giảm còn một nửa. Từ trường của Trái Đất cùng bị ảnh hưởng và di chuyển về hướng tây bắc hơn một trăm dặm.
Hàng trăm, có lẽ hàng ngàn những loài động vật và cá khác nhau nhanh chóng bị tuyệt chủng. Tại châu Mỹ, loài lạc đà một bướu, loài voi ma-mút, loài ngựa của kỷ nguyên băng hà và loài cu-li khổng lồ, tất cả đều biến mất. Loài cọp răng kiếm, loài chim khổng lồ với sải cánh dài đến hai mươi lăm bộ và nhiều loài thú khác có trọng lượng nặng cả trăm cân Anh hoặc hơn, phần lớn chết ngạt vì khói và các loại khí độc từ núi lửa thoát ra.
Các chủng loại thực vật trên mặt đất cũng không thoát khỏi thảm họa. Đời sống của thảo mộc nếu không biến thành tro thì cũng chết vì thiếu ánh sáng mặt trời, kể cả các loài rong tảo trong nước. Cuôi cùng, trên tám mươi lăm phần trăm sự sống trên Trái Đất đều chết vì lụt lội, lửa, bão táp, tuyết lở, chất độc từ bầu khí quyển và thậm chí vì nạn đói.
Các xã hội loài người, đa số đã hoàn toàn tiến triển và vô số nền văn hoá đang trên ngưỡng cửa của một thời đại tiến hóa vàng son bỗng chốc đã bị tiêu hủy chỉ trong một ngày đêm. Hàng triệu đàn ông, phụ nữ và trẻ con trên Trái Đất đã chết một cách khủng khiếp. Mọi dấu vết về những nền văn minh đều tuyệt tích, và một số ít những kẻ sống sót sau thảm họa chẳng còn gì ngoài mớ ký ức u ám về quá khứ. Cỗ quan tài đã nằm trên sự
tiến hóa to lớn nhất và không hề gián đoạn của nhân loại, kết thúc một chuyến hành trình dài mười ngàn năm từ những người Cro-Magnon hoang dã cho đến các bậc vua chúa, các kiến trúc sư, những thợ điêu khắc đá, những nghệ sĩ và chiến sĩ. Những công trình của họ và những tồn tại chết chóc của họ đều bị chôn sâu dưới các đại dương và những biển mới, chỉ còn lưu lại một ít mẫu vật và những mảnh vụn của một nền văn hóa tiến bộ cổ đại. Nhiều quốc gia và thành phố chỉ đứng được vài giờ trước khi biến mất không để lại một dấu vết. Biến cố khủng khiếp này hầu như không lưu lại một bằng chứng nào về những nền văn minh ưu việt trước đó.
Trong số rất ít những người sống sót, hầu hết đều sống tại những vùng núi cao, họ có thể trú ẩn trong những hang động để trốn tránh những cơn giận của sự hỗn loạn. Không giống những người trong thời kỳ Đồ Đồng tiến hóa hơn, có khuynh hướng tập trung lại và xây dựng trên những bình nguyên thấp gần những con sông và bờ biển, những cư dân sống tại những vùng núi cao đều là dân du mục trong thời kỳ Đồ Đá. Những người tài giỏi nhất của họ về những ngành khác nhau trong kỷ nguyên của họ - những Leonardo da Vinci, những Picasso và những Einstein - đều bốc hơi không lưu lại vết tích. Chỉ còn lại trên mặt đất những kẻ săn bắn du mục, một hiện tượng tương tự như những gì đã xảy ra dành cho sự vinh quang của Hy Lạp và La Mã sau khi sự vinh quang đó bị ném sang một bên, trải qua những thế kỷ chỉ có sự ngu dốt và mê muội. Một thời kỳ Đồ Đá mới đen tối đã che giấu những nền văn minh có văn hóa cao từng có mặt trên Trái Đất, kỷ nguyên đen tối này kéo dài đến hai ngàn năm. Rất chậm chạp, sau cùng nhân loại cũng bước ra khỏi tình trạng đen tối đó để bắt đầu xây dựng và kiến tạo lại những thành phố và những nền văn minh tại Mesopotamia và Ai Cập.
Đáng tiếc, rất ít những nhà xây dựng có thực tài và những người có đâu óc sáng tạo còn sống sót từ những nền văn hóa bị thất lạc đạt tới trình độ cao. Nhận thấy nền văn minh của mình đã mất và không bao giờ phục hồi được, họ bắt đầu tìm tòi trong nhiều thế kỷ, để xây dựng những lăng mộ và những ngôi mộ đá huyền bí với những khối đá đồ sộ dựng đứng được tìm thấy trong nhiều vùng tại châu Âu, châu Á, tại quần đảo Pacific đến tận phía nam châu Mỹ. Về sau, ký ức về những ưu thế rực rỡ do tiền nhân để lại trở nên lu mờ dần và trở thành huyền thoại, những kỷ niệm về sự tàn phá và chết chóc vẫn là những cảnh báo về sự hủy diệt các thế hệ trong tương lai. Nhưng trong một thiên niên kỷ, con cháu họ dần dà quên
hết những hoạt động xưa kia của tổ tiên để dung nạp kiểu sống của những bộ lạc du mục và chẳng còn biết gì về quá khứ văn minh của họ. Nhiều thế kỷ sau vụ va chạm khủng khiếp đó, nhân loại vẫn còn sợ hãi, không dám mạo hiểm lìa bỏ vùng núi non để xuống sinh sống tại những vùng đất thấp và dọc bờ biển. Những xứ sở có kỹ thuật vượt trội về chuyện đi lại trên biển chỉ còn những ý niệm mơ hồ về quá khứ gần của họ. Kỹ thuật đóng tàu và vượt biển đã thất lạc, và phải đợi đến nhiều thế hệ sau đó mới xuất hiện trở lại.
Sự chết chóc và tàn phá này phát sinh do một khối băng bẩn thỉu không lớn hơn một thảo nguyên trung bình. Sao chổi đã tàn phá mọi thứ không chút xót thương. Trái Đất chưa từng bị tàn phá dữ dội như thế từ khi một thiên thạch đâm vào nó sáu mươi lăm triệu năm trước đó trong một thảm họa đã hủy diệt loài khủng long.
Nhiều ngàn năm sau vụ va chạm, sao chổi được gắn kết với mê tín dị đoan về những sự cố gây tai họa và được xem như những điềm xấu báo trước những thảm kịch trong tương lai. Chúng bị kết tội đã gây ra chiến tranh và những đại dịch gây chết chóc và hủy diệt. Mãi cho tới lịch sử cận đại, sao chổi mới được xem như những hiện tượng lạ của thiên nhiên, như vẻ đẹp chói lọi của cầu vồng hoặc những đám mây được mạ vàng lúc mặt trời lặn.
Sự kiện đại hồng thủy được ghi lại trong Kinh Thánh và những truyền thuyết về các tai họa khác, tất cả đều gắn liền vào thảm kịch này. Những nền văn minh cổ đại của người Olmac, Maya và Aztec tại Trung Mỹ có nhiều truyền thống liên hệ tới một sự cố thảm họa xa xưa. Những bộ lạc người Da Đỏ Indian khắp Hoa Kỳ có truyền thuyết với những câu chuyện về nước lụt tràn ngập xứ sở của họ. Người Trung Hoa, người Polynesian và người Phi châu, tất cả đều nói về một thảm họa đã tàn sát phần lớn tổ tiên của họ.
Nhưng một truyền thuyết đã xuất hiện và phát triển qua nhiều thế kỷ, gợi ra sự huyền bí và gây ảnh hưởng nhiều nhất, đó là sự biến mất của lục địa và nền văn minh Atlantis.
CHIẾC TÀU MA
Ngày 30 Tháng Chín, 1858
Vịnh Stefansson, Nam Cực
Rosanna Mender biết nếu bà không tiếp tục đi tới, bà sẽ chết. Bà hầu như hoàn toàn kiệt sức và chỉ di chuyển với sức mạnh của ý chí. Nhiệt độ xuống rất thấp dưới số không. Nhưng chính những cơn gió lạnh buốt mới thực sự là những hàm răng khủng khiếp cắn xé da thịt bà. Cơn buồn ngủ chết người nhẹ nhàng len lỏi qua thân thể và chậm chạp gặm mòn ý chí cầu sinh của bà. Rosanna vẫn bước tới, một bàn chân nặng nề rớt xuống phía trước bàn chân kia, loạng choạng khi mất thăng bằng vì sự vỡ vụn bất chợt của lớp băng dưới chân. Hơi thở trở nên dồn dập, hổn hển như một người leo núi đang tranh đấu với một chóp đỉnh trên rặng núi Hy mã Lạp Sơn mà không được trang bị bình dưỡng khí.
Tầm nhìn của bà không còn nữa khi những cơn gió giá buốt xoáy từ trước mặt, được bảo vệ bởi một khăn quàng dày bằng len quấn quanh cổ bên trong cái áo da thú có lông của người Eskimo. Dù Rosanna chỉ thỉnh thoảng nhìn qua kẽ hở của cái khăn quàng, đôi mắt bà cũng đau nhức và đỏ vì sự tấn công của những hạt tuyết li ti. Sự thất vọng cấu xé Rosanna khi bà nhìn lên và thấy bầu trời xanh lóng lánh và mặt trời chói lọi bên trên cơn bão tuyết. Những trận bão tuyết làm tối tăm mặt mũi dưới bầu trời quang đãng không phải là một hiện tượng bất thường tại Nam Cực.
Điều đáng ngạc nhiên là ít khi có tuyết rơi trong vùng Nam Cực. Thời tiết lạnh đến nỗi bầu khí quyển không thể chấp nhận hơi nước, vì vậy những hạt tuyết rơi xuống rất nhỏ. Mỗi năm lớp tuyết dày thêm không tới năm inch trên khắp bề mặt lục địa.
Một phần tuyết đã tích tụ trên mặt đất đã được nhiều ngàn tuổi. Mặt trời khô khan chiếu nghiêng lên mặt tuyết thành một góc lệch, và sức nóng của nó phản chiếu trở lại không gian làm tăng thêm sự lạnh lẽo khác thường của vùng địa cực.
Rosanna đã gặp may. Không khí lạnh không xâm nhập qua quần áo của bà. Thay vì mặc y phục chống lạnh của âu châu, bà lại mặc những quần áo chồng bà đã mua khi giao dịch thương mại với người Eskimo trong những ngày đầu ông săn cá voi tại Bắc Cực. Y phục lót bên trong gồm một
áo chẽn, một quần soóc dài tới đầu gối và một đôi bít tất làm bằng lông thú mềm giữ ấm hai bàn chân. Nhiều lớp áo quần bên ngoài ngăn chận khí hậu buốt giá thái quá. Cái áo khoác bằng da vừa khít cho phép thân nhiệt lưu chuyển và thoát ra ngoài không gây đổ mồ hôi. Nó được may bằng da chó sói, trong lúc cái quần dài bằng da tuần lộc. Đôi ủng cao và thẳng lót lông thú bên trong ôm sát đôi bít tất.
Nguy hiểm đáng sợ nhất của bà lúc này là để cho bị thương tại mắt cá hoặc ống chân trên lớp băng lởm chởm; và nếu bà sống sót vì một lý do nào đó, vẫn còn sự đe dọa của hiện tượng tê cóng. Dù thân thể được che chở, nhưng gương mặt vẫn làm bà lo lắng. Nếu hai bên má hoặc mũi bị ngứa, dù ít nhất, bà phải gãi mạnh lên da để máu lưu thông lại, và điều đó thật nguy hiểm. Bà đã quan sát sáu người trong đoàn thủy thủ của chồng bà bị tê cóng vì ngứa, hai trong số những người này bị mất những ngón chân và một người mất tai chỉ vì gãi.
Thật may mắn khi những cơn gió giá buốt đã chấm dứt và chấm dứt luôn sự hung dữ của nó, và sự di chuyển của Rosanna trở nên dễ dàng hơn một giờ trước đó, khi bà bắt đầu bị lạc vì ham đi dạo. Tiếng gió gào thét yếu dần trong tai bà và bà đã có thể nghe những âm thanh cót két của những tinh thể băng dưới bàn chân mình.
Bà đến gần một ngọn đồi cao khoảng mười lăm bộ được tạo thành bởi những khối băng vĩnh cửu trên biển cọ xát nhau và đẩy những tảng băng nhô lên cao được gọi là gò hoặc đồi. Hầu hết tạo thành một bề mặt lởm chởm. Những cái gò này đã bị thời tiết bào mòn cho tới khi những góc cạnh của nó trở nên nhẵn thín. Khuỵu xuống trên hai bàn tay và đầu gối, bà bò lên gò băng, duỗi hai chân ra mỗi khi leo được một quãng ngắn.
Sự cố gắng làm mất đi chút sức khỏe của Rosanna. Bà không biết bằng cách nào, cũng không nhớ đã tranh đấu như thế nào, nhưng bà đã lên tới đỉnh gò. Rã rời vì kiệt sức, tim đập loạn xạ, hơi thở đứt đoạn. Bà không biết mình đã nằm đó bao lâu, chỉ có cảm giác đầy biết ơn vì đôi mắt không còn nhức buốt bởi những cơn gió lạnh giá. Sau mấy phút, khi tim đã đập chậm lại và hơi thở bắt đầu ổn định, Rosanna tự nguyền rủa mình vì tình huống hiểm nghèo bà đã điên rồ gây ra. Bà không biết lúc này là mấy giờ. Không có đồng hồ đeo tay, bà không thể xác định bao nhiêu thời gian đã trôi qua từ lúc bà rời khỏi chiếc tàu săn cá voi của chồng, chiếc Paloverde.
Gần sáu tháng trước, chiếc tàu đã bị khóa chặt trong khối băng, và vì phải chịu đựng sự buồn chán, bà đã đi dạo hàng ngày, nhưng luôn giữ
khoảng cách để nhìn rõ chiếc tàu và đoàn thủy thủ của nó, những người luôn theo dõi bà. Sáng nay, bầu trời quang đãng khi bà rời chiếc tàu, nhưng sau đó, nó nhanh chóng trở nên xám xịt khi trận bão tuyết quét qua lớp băng, chỉ trong vài phút, chiếc tàu mất dạng, và bà Rosanna thấy mình bị lạc trên khối băng.
Theo tập quán, những tàu săn cá voi không bao giờ rời cảng khi có phụ nữ trên tàu. Nhưng nhiều bà vợ từ chối ngồi yên tại nhà trong ba hoặc bốn năm chồng họ vắng mặt. Bà Rosanna Mender không muốn trải qua hàng ngàn giờ cô đơn, một mình. Bà là một phụ nữ vững vàng, dù cơ thể nhỏ nhắn, chỉ đạt năm feet chiều cao và cân nặng không tới một trăm pound. Với đôi mắt màu nâu sáng và nụ cười cởi mở, bà là một phụ nữ xinh đẹp ít khi than phiền về những khó khăn buồn chán và rất ít khi bị say sóng. Trong cabin chật hẹp của mình, bà đã hạ sinh một cậu con trai và bà đặt tên là Samuel. Và dù chưa nói với chồng, bà đang mang thai khoảng hai tháng đứa con thứ nhì. Đoàn thủy thủ chấp nhận sự có mặt của bà trên tàu, dạy một số người học đọc, viết giúp những lá thư để họ gởi về nhà cho vợ con và gia đình, và hoạt động như một nữ y tá mỗi khi có ai bị thương hoặc đau ốm trên tàu.
Tàu Paloverde là một trong những tàu đánh bắt cá voi từ San Francisso trên bờ biển phía tây của đất nước. Đó là một chiếc tàu chắc khỏe, đặc biệt được thiết kế cho những chuyến đi đến địa cực trong mùa săn cá voi. Với một chiều dài một trăm ba mươi hai bộ, rộng ba mươi bộ, mớn nước mười bảy bộ, trọng tải của nó gần ba trăm ba chục tấn. Kích thước chiếc tàu cho phép nó vận chuyển một lượng dầu cá lớn và thích hợp với một thủy thủ đoàn gồm sĩ quan và nhân viên cho những chuyến đi có thể kéo dài đến ba năm. Sống tàu, khung và sườn ngang của nó đều làm bằng gỗ thông lấy từ những cánh rừng trong rặng núi Sierra Nevada. Khi tất cả những thứ đó đã vào đúng vị trí, những tấm ván dày 60 inch được đặt lên và gắn chặt bằng một loại đinh gỗ thường lấy từ những cây sồi.
Nó được trang bị với ba lớp vỏ tàu, những đường nét của nó rõ ràng, sống động và huênh hoang. Các phòng ốc trên tàu được trang trí thật gọn gàng với những đồ gỗ và panô bằng gỗ vân sam mua từ Washington. Cabin của thuyền trưởng được trang bị đặc biệt vì bà vợ ông nhất quyết cùng đi với chồng trong chuyến đi dài ngày. Hình chạm ở mũi tàu là một tác phẩm điêu khắc rất đẹp trên một loại cây chỉ có ở vùng tây nam, cây paloverde. Tên chiếc tàu trải rộng ngang qua thân sau của nó với những chữ cái chạm
trổ và mạ vàng. Cũng tại thân sau tàu còn được trang hoàng với hình ảnh một con chim ưng sải cánh chạm trên thân tàu.
Thay vì đi về hướng bắc, qua biển Bering tới Bắc Cực - nơi có nhiều mặt biển hơn — để săn cá voi, chồng bà Rosanna, thuyền trưởng Bradford Mender lại đưa chiếc Paloverde tiến về phía nam để đến Nam Cực. Ông tin rằng từ lúc vùng này không còn được lưu ý và ít được những người săn cá voi dũng cảm từ New England thăm viếng, nơi đây sẽ là một cơ hội bằng vàng để tìm thấy những ngư trường săn cá voi lý tưởng.
Ngay sau khi đến gần vành đai Nam Cực, đoàn thủy thủ đã bắn hạ sáu con cá mập lúc chiếc tàu đi qua vùng nước chưa có băng trôi. Sau đó, trong tuần lễ cuối cùng của Tháng Ba, nhằm vào mùa thu tại Nam Cực, họ bắt đầu vào một vùng có nhiều băng trôi, càng lúc càng dày đặc hơn cho đến lúc lớp băng cao đến gần bốn bộ. Chiếc tàu Paloverde vẫn còn có thể thoát ra vùng biển trống trải, nhưng một trận gió đột ngột gầm rú kéo tới, đẩy chiếc tàu vào sâu trong vùng băng trôi dày đặc. Không còn khả năng nào để thoát ra vì băng càng lúc càng vây chặt chiếc tàu, đoàn thủy thủ tàu Paloverde chỉ có thể bất lực đứng yên và ngắm cái bẫy lạnh lẽo khép dần lại.
Khối băng nhanh chóng tấn công quanh chiếc tàu săn cá voi với một sức mạnh thô bạo, đẩy nó về phía địa cực như thể nó bị bóp chặt trong một nắm tay khổng lồ. Mặt biển còn trống trải quanh địa cực nhanh chóng bị băng trôi tràn ngập. Thuyền trưởng Mender và đoàn thủy thủ của ông bất lực chống chọi và sau cùng đành thả neo, giữ chiếc tàu cách bờ địa cực gần hai dặm. Nhưng trong nhiều giờ, chiếc tàu kẹt cứng trong khối băng tiếp tục dày thêm, và chẳng bao lâu, mọi dấu vết của mặt nước đều bị thay thế bởi khối băng trắng xóa. Mùa đông Nam Cực phủ chụp lên họ và thời gian của ban ngày bắt đầu rút ngắn lại. Chẳng còn hy vọng thoát khỏi, và thời tiết dịu dàng với nhiệt độ ấm áp hơn là những gì còn cách xa họ đến bảy tháng nữa.
Những cánh buồm đã khô, được kéo lên và tháo xuống sẽ lại được kéo lên vào mùa xuân, nếu định mệnh cho phép thời tiết trở nên ấm áp hơn và gia ơn cho chiếc tàu di chuyển tự do. Lúc này, biết trước sẽ bị cầm tù lâu ngày, nên mọi thực phẩm đều được thận trọng dè sẻn để cầm cự trong những tháng dài mùa đông. Thực phẩm trong các hầm chứa có thể duy trì đến lúc khối băng bắt đầu tan vào mùa xuân như mọi người suy đoán. Nhưng việc thả dây câu qua những lỗ trống trong khối băng đã cung cấp
nhiều hơn mong mỏi của họ, và nhiều loài cá ngon được nhanh chóng đông cứng trong những thùng chứa trên boong. Và bầy chim cánh cụt vui nhộn với hàng triệu con cũng làm họ khuây khỏa. Chỉ có điều đáng buồn là, dù đã tìm đủ mọi cách để sửa soạn bữa ăn, đầu bếp của chiếc tàu cũng bất lực trước những món ăn không hợp khẩu vị.
Nhưng nỗi sợ chính đoàn thủy thủ phải đối mặt là tình trạng giá buốt khủng khiếp và những chuyển động bất chợt của những tảng băng trôi. Nguy hiểm bị đông cứng giảm đi nhiều bằng cách đốt dầu cá voi chảy ra từ vết thương do phóng lao trước khi bị đông trong băng. Dầu cá họ lấy được lên tới hơn một trăm thùng lớn, quá đủ để giữ cho những lò sưởi đốt qua mùa đông tệ hại nhất tại Nam Cực.
Cho tới lúc này, những tảng băng trôi tương đối không quấy nhiễu họ. Nhưng thuyền trưởng Mender biết đó chỉ là vấn đề thời gian trước khi băng oằn xuống và trôi đi. Sau đó, tàu Paloverde dễ dàng nhận ra thân thể nó bị nhốt chặt trong khối băng vụn và nhọn, như thể cái khung bằng gỗ của nó có thể bị ép cho tới khi nó trở nên phẳng như một tờ giấy bởi sự dồn nén của khối băng khổng lồ. Thuyền trưởng Mender không thể cảm thấy thích thú khi nghĩ đến vợ ông và cái bào thai đứa bé đang tranh đấu để sống sót cho tới khi một chiếc tàu khác xuất hiện vào mùa hè. Và phép lạ đó chỉ có một phần ngàn khả năng xảy ra.
Lại còn sự đe dọa chết chóc do bệnh hoạn. Bảy người trong số đoàn thủy thủ đã có triệu chứng thiếu vitamin. Một số gián, bọ và chuột trên tàu đã chết vì không chịu nổi cái lạnh khắc nghiệt. Những đêm dài dằng dặc tại Nam Cực, những cơn gió lạnh buốt và đơn độc càng làm tình trạng của họ trở nên buồn tẻ đến độ lạnh lùng. Ông Mender chống lại tình trạng bức bối đó bằng cách tạo không khí bận rộn cho người của ông với đủ thứ công việc để đầu óc và cơ thể họ luôn hoạt động.
Ông đã ngồi tại bàn giấy trong cabin của mình để tính toán cả trăm lần mong tìm cách thoát khỏi tình huống kỳ quặc này. Nhưng ông bất lực không thể tìm ra giải pháp hoặc khả năng nào, bao giờ ông cũng bị đẩy vào ngõ cụt. Mọi cơ hội may mắn để thoát khỏi tình huống khốn đốn đến rõ ràng thật xa vời.
***
Trận bão tuyết chấm dứt cũng đột ngột như khi nó xảy ra. Và mặt trời đã trở lại. Nheo mắt nhìn xuống trên bề mặt lấp lánh của khối băng, bà Rosanna trông thấy cái bóng của mình thay vì sự hoang vắng bất tận vây quanh. Nhưng tim bà chỉ trở nên rộn ràng khi bà đưa mắt nhìn ra đường chân trời và bắt gặp hình dáng chiếc tàu Paloverde cách đó khoảng một dặm rưỡi. Thân tàu màu đen hầu như bị che kín bởi khối băng, nhưng bà có thể trông thấy lá cờ Mỹ đang tung bay giữa bầu không khí giá buốt chết chóc và nhận ra ông chồng đang lo sợ của mình đã treo cao nó trên cột buồm chính để làm tín hiệu cho bà dễ dàng nhận ra nó. Rosanna chợt thấy mình khó có thể tin được bà đã lạc xa đến thế. Trong đầu óc lộn xộn của mình, Rosanna đã nghĩ bà đang tiến gần đến chiếc tàu nhưng thực ra bà đã lạc xa nó.
Khối băng không hoàn toàn trống trải, Rosanna có thể nhìn thấy những đốm nhỏ chuyên động trên bề mặt của nó và bà nhận ra đó là chồng bà và những thủy thủ của ông đang đi tìm bà. Rosanna vừa nhổm đứng lên để vẫy họ thì bất chợt bà thoáng thấy một thứ không hề chờ đợi - những cột buồm của một chiếc tàu khác lờ mờ hiện ra giữa hai khối băng đồ sộ nối liền nhau bên mép địa cực.
Ba cột buồm và xà néo buồm cùng với những dây chão, dây thừng để cột buồm có vẻ còn nguyên vẹn với những lá buồm cuộn lại. Một cơn gió mang theo không khí không lạnh lắm, bà tháo cái khăn quàng khỏi mặt và đôi mắt, và có thể nhìn thấy hầu hết thân chiếc tàu bị vây trong trong khối băng. Thân phụ bà Rosanna đã từng là thuyền trưởng chỉ huy những chiếc tàu buồm lớn buôn bán trà đến tận Trung Hoa; và lúc còn là một cô gái trẻ, bà đã từng thấy hàng ngàn chiếc tàu với đủ loại thiết bị đến và rời khỏi Boston, nhưng đây là lần đầu tiên bà trông thấy một chiếc tàu như con tàu này, bị đóng khung trong khối băng giống như một bức tranh treo trong nhà ông nội bà.
Chiếc tàu ma đã cũ, cũ lắm rồi, với phần thân sau đồ sộ của nó có nhiều cửa sổ và hành lang nằm ló khỏi mặt nước. Chiếc tàu dài, hẹp và sâu. Chiều dài của nó đến một trăm bốn mươi bộ, rộng ba mươi lăm bộ, bà phỏng đoán. Giống như chiếc tàu bà đã thấy trong bức tranh, chiếc tàu này hẳn phải là tàu loại tám trăm tấn của Công ty Anh An cuối thế kỷ mười tám.
Bà quay khỏi chiếc tàu và vung vẩy cái khăn quàng để lôi kéo sự chú ý của chồng và đoàn thủy thủ. Một người trông thấy động tác đó trên mặt
băng qua khóe mắt, và báo động cho những người khác. Họ bắt đầu nhanh chóng chạy qua lớp băng vỡ về phía Rosanna, với thuyền trưởng Mender dẫn đầu. Hai mươi phút sau, cả đoàn thủy thủ của tàu Paloverde đã tới chỗ bà, vui vẻ hò reo khi nhận ra bà vẫn còn sống và an lành.
Vốn là một người trầm tĩnh và ít nói, nhưng ông Mender vẫn bộc lộ một xúc động sâu sắc khi ôm bà trong hai cánh tay, những giọt nước mắt đông lại trên hai gò má ông. Ông hôn bà thật lâu với tất cả thương yêu. “Ồ, lạy Chúa!” ông thì thầm, “Anh nghĩ em đã chết rồi. Em sống sót được quả là một phép lạ”.
Là một bậc thầy trong nghề săn cá voi ở lứa tuổi ba mươi sáu, Bradford Mender thực hiện chuyến đi săn lần thứ mười này, và tàu của ông bị vây hãm trong khối băng tại Nam Cực. Là một người Anh cứng cỏi, tháo vát, ông cao đến sáu feet và trông đẫy đà, cân nặng đến hai trăm hai mươi lăm cân Anh. Ông có một đôi mắt màu xanh sắc bén, mái tóc màu đen, bộ râu chạy dài từ thái dương đến cằm. Nghiêm khắc nhưng công bằng, ông chưa bao giờ có vấn đề với các sĩ quan và đoàn thủy thủ khiến ông phải xử sự thiếu hiệu quả và thành thật. Là một người săn cá voi vừa là một hoa tiêu lịch lãm, ông Mender còn là một doanh nhân sắc sảo, nên ông không những là chủ nhân chiếc tàu mà còn là chủ nhân của những người trên tàu.
“Nếu anh đã không khẩn khoản yêu cầu em mặc những quần áo của người Eskimo anh đã tặng em, chắc chắn em đã đông cứng và chết từ nhiều giờ trước”.
Ông buông bà ra và quay sang sáu người thủy thủ đang vây quanh họ và hét mừng vợ ông thuyền trưởng đã được tìm thấy còn sống. “Chúng ta hãy đưa bà Mender trở lại tàu thật nhanh và ăn một ít súp nóng”.
“Không, chưa được”, bà nói, vừa chộp cánh tay ông và chỉ. “Em mới phát hiện một chiếc tàu khác”.
Mọi người đàn ông đều quay nhìn, mắt họ dõi theo cánh tay duỗi ra của bà.
“Một chiếc tàu Anh, tôi nhận ra những đường nét của nó từ một bức tranh trong phòng khách nhà ông nội tôi tại Boston. Nó có vẻ là một chiếc tàu vô chủ”.
Ông Mender chăm chú nhìn vật vừa phát hiện, nó trắng một cách ma quái dưới nấm mồ băng tuyết của mình. “Anh hoàn toàn tin em nói đúng.
Rõ ràng nó có những đường nét của một chiếc tàu buôn rất cũ từ những năm 1770”.
“Tôi đề nghị chúng ta tìm hiểu nó, thưa Thuyền trưởng”, sĩ quan thứ nhất của tàu Paloverde, Nathan Bigelow, nói. “Có thể nó còn chứa lương thực đủ giúp chúng ta sống sót tới mùa xuân”.
“Số lương thực đó ít ra cũng đã trải qua tám mươi năm”, giọng ông Mender thật nặng nề.
“Nhưng chúng được bảo quản trong băng giá mà”, Rosanna nhắc ông.
Ông dịu dàng nhìn bà, “Em vừa trải qua những khó khăn, em thân yêu. Anh sẽ nhờ một trong các thủy thủ của anh giúp đưa em trở lại tàu Paloverde”.
“Không, anh yêu”, Rosanna nói với giọng quả quyết, vẻ mệt nhọc của bà biến đâu mất. “Em có ý định sẽ xem những gì phải xem”. Trước khi ông thuyền trưởng có thể ngăn cản, bà đã leo lên con dốc của ngọn đồi dẫn tới khối băng và hướng về phía chiếc tàu bị bỏ rơi.
Ông Mender nhìn toán thủy thủ của mình và nhún vai. “Tôi không muốn nhọc công hơn thua với một phụ nữ tò mò”.
“Một con tàu ma”, Bigelow thì thầm. “Thật đáng thương khi nó bị nhốt kín vĩnh viễn trong khối băng, hoặc chúng ta có thể đưa nó về và yêu cầu được hưởng quyền lợi dành cho người trục vớt nó”.
“Nó quá cũ, chẳng đáng giá mấy”, ông Mender nói.
“Tại sao các ông còn đứng đó trong giá rét và nói vớ vẩn chứ?” Rosanna nói, giọng hối thúc của bà có vẻ mất kiên nhẫn. “Chúng ta phải nhanh lên trước khi một cơn bão khác kéo tới”.
Leo lên gò băng thật nhanh cho đến khi tới chỗ chiếc tàu bỏ hoang, họ nhận ra khối băng đã dồn cao dựa vào thân tàu, giúp họ dễ dàng leo lên thành tàu phía trên và leo qua lan can tàu. Rosanna, ông thuyền trưởng và toán thủy thủ nhận ra họ đang đứng trên sàn lái tại boong trên cùng, đã bị phủ một lớp băng mỏng.
Ông Mender nhìn quanh, ngắm cảnh hoang vắng rồi lắc đầu với vẻ bối rối. “Tôi lấy làm lạ tại sao thân tàu không bị băng ép và làm nó vỡ”. “Tôi chưa bao giờ nghĩ mình sẽ đứng trên boong một chiếc tàu Anh và Đông An Công ty”, một trong các thủy thủ nói khẽ, đôi mắt anh ta tỏ ra e dè. “Chắc chắn không có chiếc nào được đóng trước khi ông nội tôi chào đời”.
“Nó có một kích thước thật tuyệt”, ông Mender chậm rãi nói. “Trọng tải của nó khoảng chín trăm tấn, tôi đoán thế. Dài một trăm năm mươi bộ và rộng bốn mươi bộ”.
Hạ thủy từ một xưởng đóng tàu trên sông Thames, chiếc tàu buôn của Anh quốc cuối thế kỷ mười tám này được bán cho Công ty Anh và Đông An. Nó được đóng theo tiêu chuẩn một tàu chở hàng, nhưng vì lúc đó vẫn là thời điểm hoạt động của bọn cướp biển và những tàu chiến chuyên việc cướp bóc của những kẻ thù của nước Anh, vì vậy nó được trang bị với hai mươi tám khẩu đại liên nặng mười tám cân Anh. Ngoài ra nó còn được đóng để vận tải hàng hóa và thích hợp với những cabin dành cho hành khách. Vì thế, nó là một chiếc tàu lai căn. Mọi thứ trên boong vẫn nằm đúng chỗ, đều bị tuyết phủ, như thể nó đang đợi chờ một đoàn thủy thủ ma. Những khẩu súng đứng im lặng trên những giá đỡ, những phao cứu sinh vẫn còn buộc vào những thanh lan can tàu và những cửa sập vẫn còn đủ.
Có một vẻ kỳ lạ gì đó đầy dọa nạt và quái đản nơi những chiếc tàu cũ kỹ, một sự tò mò nham hiểm không thuộc Trái Đất này mà thuộc về một thế giới khác. Một cảm giác sợ hãi vô cớ xâm chiếm các thủy thủ đang đứng trên boong tàu như thể có một sinh vật gớm ghiếc, già cỗi đang chờ đợi để chào đón họ. Thủy thủ là những kẻ rất mê tín, và không một người nào - trừ Rosanna đang phấn khích bằng nhiệt tình của một phụ nữ - lại không cảm thấy sợ hãi sâu sắc và mơ hồ.
“Lạ thật”, Bigelow nói. “Có vẻ như đoàn thủy thủ đã bỏ tàu trước khi nó bị giam hãm trong khối băng”.
“Tôi không nghĩ thế”, ông Mender nói. “Phao cứu sinh vẫn còn đủ”. “Chỉ có Chúa biết chúng ta sẽ thấy gì tại những boong bên dưới”. “Vậy hãy xuống xem đi”, giọng bà Rosanna xôn xao.
“Không có em đâu, em yêu. Anh nghĩ tốt nhất em nên ở lại đây”. Rosanna ném cho chồng một cái nhìn kiêu hãnh, và chậm chạp lắc đầu. “Em sẽ không chờ đợi một mình trong lúc có những con ma đi loanh quanh”.
“Nếu có con ma nào”, Bigelow nói, “thì tới lúc này chúng cũng đã đông cứng rồi”.
Ông Mender ra lệnh cho người của mình. “Chúng ta sẽ chia thành hai nhóm tìm kiếm. Bigelow, cậu hãy đem theo ba người và xem xét khu dành cho thủy thủ và hầm chứa hàng. Nhóm còn lại chúng tôi sẽ lục soát khu hành khách và sĩ quan tàu”.
Bigelow gật đầu, “Vâng, thưa Thuyền trưởng”.
Tuyết và băng đã tụ cao thành một ngọn núi nhỏ quanh cánh cửa dẫn vào những cabin ở đuôi tàu, vì vậy ông Mender đẩy Rosanna và người của mình đi về phía đuôi cao của boong tàu; tai đây họ tìm cách nâng cái nắp đậy hầm tàu bị tuyết lấp kín. Đẩy nó sang một bên, họ thận trọng leo xuống cầu thang dẫn vào bên trong. Rosanna bám sát phía sau ông Mender, bấu chặt dây thắt lưng quanh cái áo khoác dày cộm. Màu da mặt trắng trẻo bình thường của bà trở nên đỏ hồng vì phấn khích và hồi hộp.
Bà không ngờ mình sắp đi vào một cơn ác mộng đông cứng. Tại cánh cửa cabin thuyền trưởng, họ trông thấy một con chó Đức, loại chó chăn cừu cao lớn, nằm cuộn mình trên một tấm thảm nhỏ. Đối với Rosanna, con chó có vẻ đang ngủ. Nhưng ông Mender lấy mũi giày đẩy nhẹ nó, và sự chạm nhẹ đó cho ông biết con vật đã chết cứng. “Nó cứng như một tảng đá”, ông Mender nói.
“Con vật đáng thương”, Rosanna buồn bã thì thầm.
Ông Mender gật đầu về phía cánh cửa đóng dẫn tới cuối hành lang. “Cabin của thuyền trưởng. Tôi rùng mình khi nghĩ đến chuyện chúng ta có thể tìm thấy cái gì trong căn phòng đó”.
“Có thể chẳng tìm thấy gì”, một thủy thủ nói, giọng căng thẳng. “Mọi người đều có thể rời bỏ chiếc tàu và lội bộ dọc bờ biển đi về phía bắc”. Rosanna lắc đầu. “Tôi không thể tưởng tượng ai đó có thể bỏ lại một con vật xinh đẹp như thể để nó chết cô độc trên tàu”.
Những người đàn ông dùng sức mạnh mở toang cánh cửa phòng thuyền trưởng và bước vào một khung cảnh ghê rợn. Một phụ nữ, với bộ trang phục trong thời kỳ giữa đến cuối thế kỷ mười bảy, ngồi trong một cái ghế, đôi mắt màu đen của bà ta mở rộng và buồn bã nhìn cái hình dáng của một đứa bé nhỏ nhắn nằm trong cái giường cũi của trẻ con. Bà ta bị đông cứng cho đến chết trong lúc đau buồn sâu sắc vì mất mát một thứ có vẻ là con gái bé bỏng của mình. Trong lòng bà là một cuốn Thánh Kỉnh mở rộng tại chương Psalms.
Cảnh tượng thê lương làm tê cóng Rosanna và nhóm thủy thủ tàu Paloverde. Sự hào hứng của bà phút chốc tan biến trong cảm giác đau đớn. Bà đứng đó, im lặng cùng với những người khác, hơi thở dồn dập của họ làm mờ căn phòng giống như một nấm mồ đó.
Ông Mender trở ra, và bước vào một cabin khác kế đó và tìm thấy người thuyền trưởng của chiếc tàu, và ông biết ngay đó là chồng của
người đàn bà đã chết. Người đàn ông này đang ngồi tại bàn làm việc, lọt thỏm vào một cái ghế. Mái tóc màu đỏ của ông ta phủ đầy băng, và gương mặt trắng bệch. Một bàn tay vẫn nắm chặt một cây bút làm bằng lông ngỗng. Một tờ giấy nằm trên bàn trước mặt ông ta. ông Mender phủi lớp giá trên tờ giấy và đọc những dòng chữ:
Ngày 26 Tháng Tám, 1779
Đã trải qua năm tháng từ khi chúng tôi bị vướng vào nơi đáng nguyền rủa này sau khi cơn bão đã đẩy chúng tôi lạc khỏi hành trình về phía nam của chúng tôi. Lương thực cạn sạch. Không ai được ăn gì từ mười ngày qua. Phần lớn thủy thủ đoàn và hành khách đã chết. Con gái bé bỏng của tôi chết hôm qua, người vợ đáng thương của tôi chỉ một giờ trước. Nếu ai đó tìm thấy xác chúng tôi, xin vui lòng báo cho các giám đốc của Công ty Thương mại Skylar Croft tại Liverpool về số mệnh của chúng tôi. Tất cả đã tới lúc kết thúc. Tôi sẽ sớm gặp lại vợ và con gái yêu dấu của mình.
Leigh Hunt Thuyền trưởng tàu Madras
Cuốn nhật ký bọc da của tàu Madras nằm một bên bàn giấy của thuyền trưởng Hunt. Ông Mender thận trọng gạt lớp băng phủ trên bìa cuốn nhật ký xuống sàn tàu và nhét cuốn sổ vào trong áo khoác. Sau đó ông rời khỏi cabin thuyền trưởng và đóng cửa lại.
“Anh tìm thấy gì?” Rosanna hỏi.
“Xác ông thuyền trưởng”.
“Tất cả đều khủng khiếp quá”.
“Anh tưởng tượng sẽ còn những chuyện tệ hơn”.
Câu nói đã trở thành lời tiên tri. Họ chia nhau vào các phòng, từ nơi này đến nơi khác. Khu vực dành cho hành khách rõ ràng tế nhị và đầy đủ phương tiện hơn. Hành khách được đáp ứng nhu cầu bài trí nơi ở của họ với đi-văng, giường, ghế và những phương tiện chống lại thời tiết khắc nghiệt. Những hành khách giàu có thường đem theo những đồ dùng cá nhân như bàn viết, kệ sách và nhạc cụ, kể cả piano và đàn harp. Tại đây, những người tìm kiếm phát hiện gần ba chục thi thể trong các tư thế chết khác nhau. Một số chết ngồi, một số nằm trên giường trong lúc những người khác nằm sóng soài trên sàn tàu. Có vẻ như tất cả đều chết trong lúc họ đang lơ mơ ngủ trong trạng thái thanh thản.
Rosanna thực sự bị sốc trước những xác chết với đôi mắt mở lớn. Màu sắc của tròng đen trong mắt họ có vẻ như được tăng cường bởi gương
mặt trắng trẻo bao quanh chúng. Bà co rúm lại khi một thủy thủ của tàu Paloverde bước lại gần và đưa tay vuốt mái tóc của một trong những phụ nữ. Mái tóc đông cứng phát ra một tiếng động khô khan kỳ lạ và vỡ rời ra trong bàn tay người thủy thủ.
Căn phòng lớn sang trọng hơn trên boong phía dưới trông càng giống một nhà xác sau một thảm họa. Ông Mender thấy có rất nhiều xác chết, hầu hết là đàn ông, nhiều người trong số họ là sĩ quan quân đội Anh trong bộ đồng phục. Cuối cùng là khu hành khách bình dân, cũng có rất nhiều những xác chết đã đông cứng nằm trên những cái võng treo lủng lẳng cùng những hành lý của họ.
Tất cả những người có mặt trên tàu Madras ngày đó đều chết an lành. Không hề có tình trạng lộn xộn. Không một đồ vật nào bừa bãi. Tất cả mọi thứ đều ngăn nắp, gọn gàng. Nhưng, theo những ghi chép cuối cùng của thuyền trưởng Hunt, có vẻ như thời gian đã ngừng lại và tất cả đều chết bình an như lúc họ còn sống. Những gì Rosanna và ông Mender trông thấy đều không bị vặn vẹo hoặc tỏ ra kinh hoàng mà chỉ đơn thuần là một bất hạnh không chống lại được. Những người này đã chết bảy mươi chín năm và đã bị thế giới quên lãng. Thậm chí những người đã thắc mắc về số phận của họ và đau buồn về sự mất tích của họ cũng đã chết từ lâu rồi.
“Em không hiểu”, Rosanna nói, “Bằng cách nào tất cả bon họ đã chết?”
“Những người không chết vì đói thì cũng chết lạnh”, chồng bà trả lời.
“Nhưng họ có thể bắt cá qua lớp băng và săn bắn chim cánh cụt như chúng ta đã làm, và đốt dần từng phần của chiếc tàu để giữ ấm”. “Những ghi chép cuối cùng của ông thuyền trưởng cho thấy chiếc tàu của ông ta trôi giạt quá xa lộ trình xuôi về phía nam của họ. Anh đoán là họ bị kẹt vào khối băng khi còn cách bờ xa hơn chúng ta lúc này, và ông thuyền trưởng vì tin họ cuối cùng sẽ thoát được nên đã tuân thủ luật hàng hải, cấm đốt lửa trên tàu vì sợ hỏa hoạn, cho đến khi mọi sự trở nên quá trễ”.
“Vì vậy, người này nối tiếp người kia, tất cả đều chết”.
“Sau đó, khi mùa xuân đến và băng tan, thay vì được dòng chảy mang ra khỏi nơi đó để vào vùng nam Thái Bình Dương như một chiếc tàu vô chủ, những trận gió nghịch lại đẩy chiếc tàu vào bờ và nó nằm yên ở đó từ đầu thế kỷ trước”.
“Tôi nghĩ ngài nói đúng, thưa Thuyền trưởng”, sĩ quan thứ nhất Bigelow nói, từ mũi tàu tiến lại. “Phán đoán qua quần áo trên những xác chết, những kẻ đáng thương đó không hề nghĩ chuyến đi sẽ đưa họ vào những vùng nước lạnh lẽo. Hầu hết bọn họ đều mặc quần áo dành cho khí hậu nhiệt đới. Chắc chắn họ đã rời Ấn độ để tới Anh quốc”.
“Đúng là một thảm kịch khủng khiếp”, Rosanna thở dài, “Không một thứ gì có thể cứu sống những kẻ bất hạnh này”.
“Chỉ có Thượng đế”, ông Mender thì thầm, “chỉ có Chúa”. Rồi ông quay sang Bigelow. “Họ đã chở loại hàng hóa gì?”
“Tôi không tìm thấy vàng hoặc bạc mà chỉ thấy một lượng trà lớn, những đồ sứ Trung Hoa lèn chặt trong những thùng gỗ, và những súc lụa cùng với đủ loại cây mây, gia vị và long não. Và, ồ vâng, tôi còn tìm thấy một kho chứa hàng nhỏ, được khóa bằng dây xích lớn, nằm ngay bên dưới cabin thuyền trưởng”.
“Cậu đã xem qua chưa?” ông Mender hỏi.
Bigelow lắc đầu. “Chưa, thưa ngài. Tôi nghĩ chỉ ngài mới thích hợp cho công việc đó. Tôi đã để lại những người của tôi để tháo xích”. “Có thể nơi đó chứa những thứ quí giá”, Rosanna nói, màu hồng hiện ra trên hai gò má.
Viên sĩ quan thứ nhất dẫn họ xuống một cái thang dẫn tới phòng chứa hàng hóa đặc biệt. Căn phòng nằm đối diện với một khẩu đại pháo nặng mười tám cân Anh phủ kín băng. Hai trong số các thủy thủ tàu Paloverde đang tấn công cái khóa kếch sù nối hai đầu sợi xích hàn dính vào cánh cửa và vách tàu. Họ dùng một cái búa chẻ và một cái đục tìm thấy trong kho dành cho thợ mộc để tấn công cái khóa cho tới lúc nó bung ra, và đẩy cánh cửa vào phía trong.
Căn phòng hiện ra lờ mờ qua những tia sáng đến từ một cửa thông gió trên thành tàu. Những thùng gỗ trong phòng vẫn năm ngăn nắp trên những kệ gắn liền nhau. Ông Mender bước tới một thùng gỗ lớn và dễ dàng nâng một mép nắp thùng lên.
“Những thùng này không được đóng hàng cẩn thận và được đưa lên tàu tại cảng bởi các thương gia”, ông điềm tĩnh nói. “Theo tôi, hình như các thủy thủ cũng đã cẩu thả xếp chúng vào kho vào một lúc nào đó trong chuyến đi, rồi căn phòng được khóa lại theo lệnh của thuyền trưởng”.
“Đừng đứng đó nữa, ông chồng yêu quí”, Rosanna ra lệnh, bốn chồn vì tò mò. “Mở chúng đi nào”.
Trong lúc toán thủy thủ đứng bên ngoài căn phòng chứa hàng, ông Mender và Bigelow bắt đầu mở những thùng gỗ. Hầu như không ai còn quan tâm đến cái lạnh khủng khiếp. Họ đều không thể chống lại cảm giác nôn nóng chờ đợi sẽ tìm thấy một kho tàng lớn với vàng bạc và đá quí. Nhưng khi ông Mender cầm lên một trong những món hàng chứa trong một thùng gỗ, những hy vọng của họ nhanh chóng tan vỡ.
“Một bình trà bằng đồng đỏ”, ông nói và đưa nó cho Rosanna, bà đưa cao nó lên tới chỗ có nhiều ánh sáng hơn trong phòng. “Nó được chạm trổ thật đẹp. Có lẽ là phong cách Hy Lạp hoặc La Mã, nếu em nhận xét đúng về đồ cổ”.
Bigelow lấy ra nhiều vật dụng điêu khắc và đưa chúng qua cánh cửa mở. Hầu hết là những vật chạm trổ nhỏ bằng đồng đỏ mang hình thù những con thú trông có vẻ lạ lùng với những cặp mắt gắn bằng đá opal màu đen.
“Những con thú đẹp thật”, Rosanna thì thầm, vừa chiêm ngưỡng những thiết kế được chạm khắc bằng đục hoặc bằng a-xít ân sâu vào khối đồng. “Chúng hoàn toàn không giống bất kỳ loại vật nào chúng ta thấy trong sách”.
“Chúng hoàn toàn lạ lùng đối với chúng ta ngày nay”, ông Mender đồng ý.
“Liệu chúng có giá trị gì không?” Bigelow hỏi.
“Đối với một người sưu tầm đồ cổ hoặc với một viện bảo tàng thì có đấy”, ông Mender trả lời. “Nhưng tôi thực sự không tin bất kỳ ai trong chúng ta có thể giàu có với những thứ này”. Ông dừng lại khi cầm lên một vật có hình dạng và kích thước giống như một xương sọ người màu đen, lấp lánh trong thứ ánh sáng lờ mờ. “Lạy Chúa, cái gì thế này?”
“Nó có vẻ đe dọa...”, Bigelow nói khẽ.
“Như thể nó được điêu khắc bởi bàn tay của quỉ Satan vậy”, một thủy thủ lắp bắp với vẻ sợ sệt.
Hoàn toàn bình thản, Rosanna nhận vật đó từ tay ông chồng và chăm chú nhìn vào hai hốc mắt trông rỗng của cái sọ. “Nó có vẻ được tạo ra từ thủy tinh đen. Nhìn con rồng ló ra giữa hai hàm răng nó xem”.
“Tôi đoán nó được làm từ đá dung nham”, ông Mender nói, vừa ngắm nghía cái sọ, “nhưng tôi không thể hiểu nó được chạm trổ bằng cách nào...”
Câu nói bị bỏ lửng vì một âm thanh răng rắc thật lớn khi khối băng quanh phần đuôi tàu trồi lên và vỡ ra.
Một trong các thủy thủ nhảy xuống từ cầu thang boong trên và hét lớn, giọng anh ta lanh lảnh rất khó nghe. “Thuyền trưởng, chúng ta phải rời tàu thật nhanh! Một vụ vỡ băng lớn đang lan rộng khắp khối băng và tạo ra nhiều hố nước! Tôi sợ nếu không thoát thật gấp, chúng ta sẽ bị kẹt tại đây!”
Ông Mender không phí thì giờ để hỏi thêm. “Trở lại tàu Paloverde ngay!” Ông ra lệnh. “Nhanh lên!”
Rosanna bọc cái sọ người vào khăn quàng của bà và kẹp nó dưới một cánh tay.
“Không còn thì giờ cho những vật kỷ niệm đâu”, ông Mender càu nhàu vợ. Nhưng bà phớt lờ ông chồng và không chịu bỏ cái xương sọ lại. Đẩy Rosanna đi trước, nhóm đàn ông vội vã leo lên cầu thang dẫn tới boong chính rồi nhảy xuống khối băng. Họ hoảng hốt khi nhìn thấy cả một cánh đồng băng cứng rắn lúc này đã rạn nứt và vỡ thành như ao nước. Những vết nứt biến thành những dòng chảy ngoằn ngoèo và những sông nhỏ, khi nước biển tràn qua lớp băng trên những khối băng trôi. Không ai trong số họ có ý nghĩ khối băng lại có thể tan rã nhanh như vậy. Chạy dọc theo mép những khối băng vỡ, một số cao tới bốn chục bộ, và nhảy qua những khe nứt trước khi chúng mở rộng đến mức độ không thể nhảy qua. Đoàn thủy thủ và Rosanna chạy như thể lũ quỉ đói ở địa ngục đang đuổi theo sau lưng họ. Những âm thanh rùng rợn không thể tả của những khối băng nghiến vào nhau làm tăng cảm giác khủng khiếp trong đầu họ. Sự di chuyển làm hao tổn rất nhiều sức lực. Mỗi bước chân họ đều ngập dưới lớp tuyết đến sáu inch cho tới khi bàn chân chạm lên khối băng bên dưới.
Gió bắt đầu nổi lên trở lại, và thật không ngờ, nó gây cảm giác ấm áp, thứ không khí ấm áp nhất họ được cảm nhận từ lúc chiếc tàu bị kẹt trong khối băng. Sau khi chạy được một dặm rưỡi, mọi người đã sẵn sàng sụp đổ vì kiệt sức. Những tiếng hét lớn của các thủy thủ trên tàu Paloverde nài nỉ họ nhanh hơn, thúc giục họ cố gắng nhiều hơn. Rồi, thật bất ngờ, có vẻ như sự phấn đấu của họ để về tới chiếc tàu cuối cùng đã trở nên vô ích. Sự rạn vỡ lần chót của khối băng trước khi họ được an toàn trên tàu Paloverde gần như đã đánh gục họ. Nó mở rộng đến hai mươi bộ, quá xa
để họ có thể nhảy qua, và nó càng rộng thêm với tốc độ một bộ trong ba mươi giây.
Nhận thấy tình huống khó khăn của họ, viên sĩ quan thứ hai của tàu Paloverde, Asa Knight, ra lệnh những thủy thủ trên tàu hạ thủy một chiếc xuồng dùng để gom cá voi săn được, về một bên hông tàu và họ chèo bằng tay vượt qua chỗ nứt lúc này đã rộng tới gần ba chục bộ. Tận lực chèo chiếc xuồng nặng nề, nhóm thủy thủ tranh đấu để cứu sống vị thuyền trưởng, vợ ông ta và những đồng nghiệp của họ trước khi quá trễ. Sau một nỗ lực hết sức vất vả, họ tới được mép bên kia của đường rãnh. Cho tới lúc đó, ông Mender, Rosanna và những người khác đang đứng trong nước sâu đến đầu gối do nước biển trào lên khối băng.
Chiếc xuồng nhanh chóng được đẩy ra ngoài, và những người đàn ông chèo nó vượt qua con sông đang nhanh chóng mở rộng. Rosanna được kéo lên qua lan can tàu đầu tiên, tiếp theo là những thủy thủ và ông Mender lên sau cùng.
“Chúng tôi nợ cậu rất nhiều, Asa”, ông Mender nói, vừa bắt tay người sĩ quan thứ hai của ông ta. “Cậu dám táo bạo cứu sống chúng tôi. Tôi đặc biệt cám ơn cậu, nhân danh vợ tôi”.
“Nhân danh đứa bé nữa chứ”, Rosanna thêm vào, trong lúc hai thủy thủ bọc bà trong một cái chăn.
Ông nhìn bà. “Con của chúng ta đang an toàn trên tàu mà”. “Em đâu có nói về bé Samuel”, bà nói qua hai hàm răng đang run cầm cập.
Ông Mender nhìn bà chăm chú hơn. “Em sắp nói với anh là em lại sắp có con à, cô vợ yêu quí?”
“Em nghĩ có lẽ khoảng hai tháng”.
Ông Mender thật sự bị sốc. “Em ra ngoài trên khối băng trong một cơn bão khi biết mình đang mang thai?”
“Lúc em ra ngoài đâu có bão”, bà nói và cười gượng gạo. “Lạy Chúa”, ông thở dài, “anh phải làm gì với em đây?”
“Nếu ông không cần bà ấy, thưa Thuyền trưởng”, Bigelow vui vẻ nói, “tôi sẽ rất hạnh phúc được nhận bà”.
Bất chấp sự kiện đang buốt thấu xương, ông Mender phì cười và ôm siết bà vợ, chặt đến nỗi bà gần tắt thở. “Chớ có xúi dại, Bigelow, chớ xúi dại tôi”.
***
Nửa giờ sau khi lên tàu Paloverde, trong những trang phục khô ráo, Rosanna ngồi trước cái lò sưởi lớn xây băng gạch và kim loại dùng để thắng mỡ cá voi. Chồng bà và đoàn thủy thủ không phí chút thì giờ nào dành cho những tiện nghi đối với bản thân họ. Những lá buồm nhanh chóng được đem ra khỏi kho chứa, nơi chúng được xếp đặt gọn ghẽ và nhanh chóng được buộc vào dây kéo buồm. Sau khi buồm được giương, những chiếc neo cũng được kéo từ đáy biển lên, và, với ông Mender đứng trước bánh lái, chiếc tàu Paloverde bắt đầu mở đường xuyên qua vùng nước biển vừa tan giữa những khối băng trôi khổng lồ, hướng về phía đại dương mênh mông.
Sau khi phải chịu đựng sáu tháng lạnh lẽo và suýt bị chết đói, ông thuyền trưởng và đoàn thủy thủ thoát khỏi những khối băng và hướng về nhà, nhưng trước khi đó, họ đã chứa đầy một ngàn tám trăm cái thùng lớn của họ với dầu cá voi.
Cái xương sọ lạ lùng bằng đá dung nham bà Rosanna đã lấy từ chiếc tàu bị đông cứng Madras được đặt trên mặt lò sưởi của gia đình tại San Fancisco. Ông Mender bận rộn giao dịch thư từ với những chủ nhân lúc đó của Công ty Thương mại Skylar Croft tại Liverpool được điều hành dưới một cái tên mới, và ông gởi cuốn nhật ký của tàu Madras cho họ, thông báo vị trí nơi ông tìm thấy chiếc tàu vô chủ trên bờ biển Dellingshausen.
Di tích chết chóc và khủng khiếp của quá khứ còn lại trong sự cô độc lạnh lẽo. Một cuộc thám hiểm với hai chiếc tàu đã lên đường từ Liverpool năm 1862 để thu hồi chiếc tàu chở hàng Madras, nhưng chẳng ai trông thấy chiếc tàu nào trở lại, và người ta cho rằng chúng đã bị lạc trong vùng băng trôi khổng lồ quanh Nam Cực.
Một trăm bốn mươi bốn năm nữa trôi qua trước khi có những người lại phát hiện một lần nữa chiếc tàu Madras và đặt chân lên những boong của nó.
CỨ ĐẾN GẦN ĐỊA NGỤC NẾU BẠN CÓ THỂ
Ngày 22 Tháng Ba, 2001
Thị trấn Pandora, bang Colorado
Những ngôi sao yếu ớt trong bầu trời lúc sáng sớm giống như một cái lều lớn dùng làm rạp hát được nhìn từ độ cao chín ngàn bộ so với mặt biển. Nhưng chỉ có mặt trăng ngắm nhìn quang cảnh đó lúc ông Luis Marquez bước ra khỏi căn nhà nhỏ bằng gỗ của mình. Quanh mặt trăng xuất hiện một vòng tròn lạ lùng mà ông chưa bao giờ trông thấy trước đây. Marquez ngắm hiện tượng kỳ lạ đó một lúc trước khi đi qua sân đến cái xe tải nhỏ không mui hiệu Chevy Cheyenne 4x4 của mình.
Ông ta mặc bộ quần áo làm việc và im lặng ra khỏi nhà để không làm bà vợ và hai cô con gái thức giấc. Vợ ông, Lisa, cảm thấy vui thích khi dậy sớm để chuẩn bị bữa ăn sáng cho chồng và làm sẵn bánh mì sandwich cho bữa ăn trưa của ông. Nhưng Marquez bảo, bốn giờ sáng là quá sớm với bất kỳ ai phải thức dậy lo chuyện ăn uống.
Ông Marquez và gia đình sống rất giản dị. Với hai bàn tay, ông đã sửa sang lại căn nhà được xây dựng từ năm 1882. Các con ông học tại trường Telluride gần nhà, và những gì ông và Lisa không thể mua được tại thị trấn nghỉ dưỡng và trượt tuyết trù phú, họ sẽ mang về nhà từ những lần đi mua sắm hàng tháng tại Montrose, một cộng đồng lớn hơn cách đó sáu mươi bảy dặm về hướng bắc.
Thói quen hằng ngày của ông không bao giờ chấm dứt cho tới lúc ông nấn ná ngồi uống cà phê ngoài quán và nhìn quanh quất ngắm mọi thứ đang diễn ra như những hình ảnh ma quái. Dưới ánh sáng quang phổ của quầng mặt trăng, những tòa nhà cao tầng lẻ loi đứng lặng lẽ trông chẳng khác gì những nấm mộ trong một nghĩa địa.
Sau khi phát hiện những khối đá có mạch vàng từ năm 1874, những người thợ mỏ đổ về Thung lũng San Miguel và xây dựng thị trấn mà họ gọi là Pandora, dựa theo huyền thoại về một cô gái xinh đẹp và cái hộp của cô chứa đầy những linh hồn bí ẩn. Một ngân hàng tại Boston đã mua lại quyền khai thác mỏ, cấp vốn cho việc khai mỏ và xây dựng một nhà máy lọc quặng to lớn cách thị trấn mỏ nổi tiếng Telluride hai dặm.
ẳ
Họ gọi nơi này là mỏ Paradise (Vườn Địa đàng), và chẳng mấy chốc, Pandora trở thành một thị trấn nhỏ gồm hai trăm công dân với trạm bưu điện của nó. Mọi căn nhà đều được sơn phết, với những bãi cỏ cắt xén gọn ghẽ và những hàng rào gỗ sơn trắng. Và dù Pandora được dựng lên trong một hẻm núi chỉ có một con đường duy nhất để ra vào, nó vẫn không bị cô lập. Con đường dẫn tới Telluride được bảo vệ tốt và Công ty Đường sắt phía nam Rio Grande đã thành lập một đường nhánh dẫn vào thị trấn để chở hành khách và các thiết bị cho khu mỏ và chở quặng đã tinh lọc qua vùng Continental Divide để tới Denver.
Có người bảo khu mỏ đã bị nguyền rủa. Cái giá sinh mạng con người phải trả để có được năm mươi triệu đô la từ số vàng khai thác được trong thời gian hơn bốn mươi năm là quá cao. Tổng cộng có hai mươi tám thợ mỏ kiên cường đã chết trong những hầm mỏ tối tăm - mười bốn người trong một thảm họa duy nhất - và gần một trăm người bị thương tật suốt đời vì những tai nạn bất thường và những vụ sập hầm.
Trước khi những người ngày xưa tạo ra con đường và đến định cư tại Telluride chết, họ tuyên bố là họ có thể nghe tiếng rên rĩ của hồn ma một người thợ mỏ đã chết vang xa đến mười dặm trong những hầm mỏ bỏ trống chằng chịt như tổ ong trải dài gần mười ba ngàn bộ đến tận Colorado.
Cho đến năm 1931, tất cả số vàng có thể tạo lợi nhuận từ quặng mỏ đã cạn kiệt. Vì vậy mỏ Paradise ngưng hoạt động. Hơn sáu mươi lăm năm sau, nó chỉ còn là một ký ức và là một vết sẹo đã lành một cách chậm chạp trong toàn khu vực. Và mãi tới năm 1996, những đường hầm và hầm mỏ hoang phế của nó mới được nghe lại tiếng bước chân và tiếng cuốc chim lanh lảnh.
Ông Marquez đưa mắt nhìn lên những ngọn núi. Trận bão kéo dài bốn ngày đã đến rồi đi trong tuần lễ trước, tăng thêm bốn bộ trên lớp tuyết đã bao phủ những sườn núi. Hiện tượng nhiệt độ không khí tăng lên trong mùa xuân biến đổi tuyết thành một thứ bùn lỏng giống như bột khoai tây hầm nhừ. Đây là thời điểm khởi đầu mùa tuyết lở. Tại những vùng cao, việc di chuyển trở thành hành động liều lĩnh và những người trượt tuyết được cảnh báo chớ đi lang thang bên ngoài những đường băng đã được thành lập. Theo chỗ ông Marquez biết, chưa có vụ tuyết lở nào xâm phạm tới thị trấn Pandora. Ông an tâm khi biết gia đình vẫn bình yên, nhưng lại phớt lờ chuyện an nguy bản thân mỗi lần ông lái xe lên con đường dốc phủ
tuyết trong mùa đông và làm việc một mình trong những hang sâu trong lòng núi. Cùng với những ngày ấm áp bắt đầu, một vụ tuyết lở là một sự kiện người ta chờ đợi sẽ xảy ra.
Ông Marquez đã một lần thấy cảnh tuyết lở trong những năm ông ở trên núi. Sức mạnh và vẻ đẹp thực sự lớn lao của nó chính là lúc nó quét sạch những tảng đá, cây cối và tuyết xuống thung lũng, cùng với những thứ đó là âm thanh ầm ĩ của sấm, là một thứ gì đó ông không bao giờ quên được.
Sau cùng, ông đội cái nón cứng lên đầu, ngồi vào sau tay lái của chiếc xe tải không mui Chevy và khởi động máy, để máy nổ khoảng hai phút chờ động cơ nóng lên. Rồi ông bắt đầu thận trọng lái xe lên con đường hẹp không có lề đường, dẫn tới khu mỏ đã có lần là nơi sản xuất dẫn đầu về số vàng của bang Colorado. Những vỏ bánh xe tạo những đường rãnh sâu trên lớp tuyết sau cơn bão vừa qua. Ông càng thận trọng lái khi con đường ngoằn ngoèo cao hơn về phía đỉnh núi. Tuyết lở thật nhanh dọc theo mép đường kéo dài vài trăm bộ đến chân núi. Một vụ tuyết lở không kiểm soát được và những nhân viên cứu hộ có thể sẽ tìm thấy thân thể ông Marquez dập nát vì những mảnh kim loại của chiếc xe tải trên đống đá lởm chởm nằm tít dưới kia.
Những người dân địa phương nghĩ ông đã điên khùng khi mua lại khu mỏ Paradise. Còn chút vàng nào đáng công khai thác thì cũng đã cạn sạch từ lâu. Và, ngoại trừ một chủ nhà hàng tại Telluride, không ai có thể mơ tưởng hành động đầu tư của ông Marquez đã đem lại sự giàu có cho ông. Lợi tức từ khu mỏ nói lên sự đầu tư khôn ngoan vào các bất động sản tại địa phương. Và với sự bùng nổ của khu nghỉ mát và trượt tuyết, ông đã kiếm được gần hai triệu đô la.
Ông Marquez không quan tâm đến vàng. Suốt mười năm, ông đã lang bạt khắp nơi để tìm kiếm đá quí. Tại các bang Montana, Nevada và Colorado, ông đã tìm kiếm những mỏ vàng và bạc bị bỏ phế để gom góp các tinh thể khoáng sản có thể cắt thành những viên đá quí. Trong đường hầm của khu mỏ Paradise, ông phát hiện một mạch tinh thể hồng ngọc tại những nơi mà các thợ mỏ xưa kia đã xem là loại đá không có giá trị. Thứ đá quí này đang trong tình trạng tự nhiên của nó, ông Marquez biết rõ điều đó, là một tinh thể đẹp mắt được tìm thấy tại nhiều nơi trên thế giới trong dạng màu hồng và đỏ sậm.
Loại đá quí này ít khi được thấy bị cắt hoặc mài thành nhiều mặt. Những tinh thể lớn được những nhà sưu tập rất ưa chuộng, và họ không muốn thấy chúng bị cắt thành từng mẫu nhỏ. Những viên đá sáng và tinh khiết được khai thác từ mỏ Paradise đã được cắt thành những viên ngọc không tì vết nặng đến mười tám ca ra đều có giá rất cao. Ông Marquez biết đã tới lúc ông có thể rút lui và dành quãng đời còn lại cho cuộc sống mẫu mực, nhưng chừng nào mạch máu còn tiếp tục chảy, ông quyết định vẫn góp nhặt những quặng đá quí từ loài đá granite cho đến lúc chúng cạn kiệt.
Ông đậu chiếc xe tải cũ với những thanh cản trầy trụa và móp mép, bước xuống xe, đến một cánh cửa sắt lớn rỉ sét có bốn sợi xích gắn liền với bốn ổ khóa khác nhau. Với những chìa khóa lớn cỡ lòng bàn tay, ông mở các ổ khóa và tháo những sợi dây xích. Rồi ông dùng cả hai bàn tay đẩy cánh cửa đồ sộ mở ra. Những tia sáng từ mặt trăng, tràn qua một khoảng trống ngắn, đổ xuống một hầm mỏ thoai thoải làm lộ ra hai đường ray nằm song song chạy sâu vào trong bóng tối.
Ông khởi động cái máy phát điện xách tay rồi kéo cái cần gạt trên hộp phát điện. Hầm mỏ bất chợt sáng lên dưới một dãy những bóng đèn, xuyên qua căn hầm đến cả trăm mét trước khi thu hẹp lại dần cho đến lúc chúng chỉ còn là một chùm sáng nhỏ. Một cái xe chở quặng nằm trên hai đường ray được buộc dính vào một sợi cáp dẫn tới một trục cuộn. Chiếc xe được lắp đặt để sử dụng lâu dài, chỉ có một dấu hiệu khó sử dụng đó là cái thùng chứa của nó đã rỉ sét nhiều.
Ông Marquez leo vào bên trong cái thùng chứa rồi bấm một cái nút trên bộ điều khiển từ xa. Cái trục cuộn bắt đầu kêu vo ve và nhả sợi cáp ra, cho phép chiếc xe chở quặng chạy xuống dưới sâu trên hai đường ray; nó chuyến động chỉ nhờ vào sức hút của trọng lực, không do một lực nào khác. Đi xuống lòng đất không phải là một công việc dành cho những ai nhát gan hoặc yếu tim, hoặc bị ám ảnh bởi nỗi sợ hãi nào đó. Căn hầm hạn chế, chỉ đủ chỗ trống cho chiếc xe chở quặng hoạt động. Những thanh xà rầm bằng gỗ và các thanh, chống gạn kết nhau giống như những khung cửa, được sắp đặt cách nhau vài feet để chống đỡ mái hầm tránh sụp lở. Nhiều thanh gỗ đã mục nát, nhưng những thanh khác vẫn còn chắc chắn và có âm thanh giống như ngày chúng được những người thợ mỏ đặt vào chỗ, và những thợ mỏ đó đều đã chết từ lâu. Chiếc xe đi xuống đường hầm dốc thoai thoải với một tốc độ nhanh, tới một nơi sâu đến một ngàn hai trăm bộ Ở
thì dừng lại. Ở độ cao này lúc nào cũng có nước chảy nhỏ giọt từ mái đường hầm xuống.
Lấy một cái túi đeo lưng và một cái xô, ông Marquez leo ra khỏi chiếc xe và đi vào một đường hầm khác rất dốc dẫn xuống những khoang rộng hơn phía dưới khu mỏ Paradise cho tới khi nó đạt tới độ sâu hai ngàn hai trăm bộ. Tại đây, lộ trình chính và nơi những đường hầm gặp nhau, mở rộng vào lớp đá granite trông như những nan hoa trên một bánh xe. Theo những ghi chép cũ và những bản đồ dưới lòng đất, hầu như có đến một trăm dặm đường hầm bên dưới và quanh thị trấn Pandora.
Ông Marquez thả một hòn đá xuống bóng tối tỏa rộng. Hai giây sau, một tiếng động do va chạm vọng lại.
Ngay sau khi khu mỏ đóng cửa và những cái bơm từ trạm bơm dưới chân núi được tháo ra, những độ cao bên dưới đều ngập nước. Theo thời gian, nước dâng cao tới mười lăm bộ tại độ cao một ngàn hai trăm bộ. Ông Marquez làm việc tại độ cao ướt át này. Mực nước dâng chậm, và không khí quá ẩm ướt cho ông biết chỉ còn vài tuần lễ nữa, mực nước sẽ dâng tới nóc căn hầm cũ này rồi bắt đầu tràn vào đường hầm chính và chấm dứt chương trình khai thác mỏ đá quí của ông.
Ông Marquez đổ hết tâm trí vào việc góp nhặt tối đa những viên đá trong thời gian ngắn còn lại dành cho ông. Những ngày của ông trở nên dài hơn trong lúc ông phấn đấu khai thác những tinh thể đó chỉ với cây cuốc chim của thợ mỏ và một cái xe cút- kít để chở quặng tới cái thùng chứa đặt trên chiếc xe chở quặng rồi dùng trục cuộn kéo nó lên và đưa tới tận lối vào mỏ.
Lúc vượt qua đường hầm, ông đi quanh những chiếc xe chở quặng rỉ sét và những máy khoan do các thợ mỏ bỏ lại khi họ rời khỏi khu mỏ. Không thấy có chuyện mang đi những thiết bị còn lại, vì những khu mỏ sát nhau này nối nhau đóng cửa trong cùng một thời gian. Vì vậy, người ta chỉ việc vứt bỏ tất cả những thứ đã dùng sang một bên rồi bỏ đi.
Vượt qua được khoảng bảy chục mét trong đường hầm, ông tới một khe nứt hẹp trên vách đá, vừa đủ chỗ cho ông lách qua. Cách chỗ đó gần hai chục bộ là nơi ông đang khai thác mỏ. Một bóng đèn đã đứt dây tóc còn lủng lẳng từ trên nóc khe hở được ông thay thế bằng một bóng đèn khác lấy từ cái túi đeo lưng. Rồi ông cầm cái cuốc chim lên và bắt đầu tấn công mạch quặng có đá quí. Trong trạng thái tự nhiên, những tinh thể đá có màu đỏ mờ đục, trông giống những trái dâu khô trên cái bánh xốp.
Một khối đá nằm lơ lửng ngay trên đỉnh khe nứt có vẻ rất nguy hiểm. Nếu muốn tiếp tục làm việc an toàn không bị đá rơi trúng, ông Marquez không còn lựa chọn nào khác ngoài việc phải tống khứ nó đi nơi khác. Dùng một cái máy khoan bằng khí nén xách tay, ông khoét một cái lỗ vào lớp đá. Sau đó ông chèn một lượng nhỏ thuốc nổ vào lỗ khoan, nối bằng dây dẫn điện tới một kíp nổ. Sau khi đi quanh góc khe nứt vào trong đường hầm chính để ẩn nấp, ông bấm nút kích hoạt kíp nổ. Một tiếng nổ trầm đục dội lại qua đường hầm, theo sau là tiếng đá rơi và một màn bụi cuốn vào đường hầm chính.
Ông Marquez đợi vài phút cho bụi lắng lại trước khi thận trọng đi vào khe nứt tự nhiên. Khối đá lơ lửng đã biến mất. Trên mặt sàn chật hẹp là một đống đất đá ngổn ngang. Ông sửa chữa lại cái trục cuộn và bắt đầu chuyển đống đố nát ra ngoài đường hầm chỉ cách đó một quãng. Khi khe nứt đã quang đãng, ông ngước nhìn lên để tin chắc không sự đe dọa nào còn sót lại.
Ông ngạc nhiên nhìn chăm chú vào một lỗ thủng bất chợt mới hiện ra trên mái khe nứt. Ông hướng chùm tia sáng trên cái nón bảo hộ của mình về phía lỗ thủng. Chùm ánh sáng tiếp tục lọt qua cái lỗ vào nơi có vẻ là một hang động. Thật đột ngột, bị thôi thúc vì tò mò, ông Marquez chạy trở lại đường hầm chính khoảng năm mươi mét, tại đây ông tìm thấy một cái thang sắt rỉ sét dài khoảng sáu bộ còn sót lại trong đám những thứ trang bị. Quay lại chỗ khe nứt, ông dựng cái thang và leo lên, rồi moi những viên đá từ mép lỗ thủng cho tới khi cái lỗ đủ rộng để ông chui qua. Ông chui nửa thân trên qua lỗ thủng rồi quay đầu từ vai này sang vai kia, quét chùm tia sáng từ cái nón bảo hộ trên đầu vào bóng tối trong hang.
Ông Marquez nhận ra mình đang quan sát một căn phòng được khoét sâu vào trong đá. Căn phòng có vẻ là một khối hình hộp, đáy vuông vức hoàn chỉnh, mỗi bề xấp xỉ mười lăm bộ, chiều cao từ sàn lên trần căn phòng cũng chừng đó. Những dấu hiệu được khắc sâu vào các vách đá thẳng đứng, trơn láng. Đây rõ ràng không phải là công việc của những thợ mỏ trong thế kỷ mười chín. Và, thật đột ngột, chùm tia sáng trên cái nón bảo hộ của ông chiếu lên một cái bệ bằng đá và soi sáng món đồ vật được cái bệ nâng đỡ.
Ông Marquez đông cứng vì sửng sốt trước hình ảnh khủng khiếp của một cái xương sọ màu đen, hai hốc mắt sâu hoắm, trống rỗng đang trừng trừng chiếu thẳng vào ông.
***
Viên phi công nghiêng cánh chiếc máy bay hai động cơ Beechcraft của hãng Hàng Không Hoa Kỳ quanh hai đám mây trắng nõn như bống và bắt đầu chuẩn bị đáp xuống đường bay ngắn trên một sườn dốc phía thượng nguồn sông San Miguel. Dù đã bay vào và ra phi trường nhỏ Telluride hàng trăm lần, nhưng anh ta vẫn hết sức tập trung lúc hạ cánh chiếc máy bay để không đáp nhầm chỗ trên rặng núi tuyết phủ San Juan. Vẻ đẹp sắc sảo của những ngọn núi và sườn núi, lởm chởm như răng cưa, bị tuyết phủ kín dưới bầu trời xanh ngắt sống động, làm người ta nghẹt thở.
Lúc chiếc máy bay xuống thấp hơn về phía thung lũng, những sườn núi, về cả hai mặt, trồi lên thật đường bệ. Chúng có vẻ gần đến nỗi hành khách có cảm giác như thể cánh máy bay chạm vào những cây phi lao mọc trên vách núi. Rồi những càng đáp hạ xuống, và một phút sau, các bánh xe ló ra và rít lên khi chúng chạm đường băng hẹp trải nhựa.
Chiếc Beechcraft chỉ chở mười chín hành khách, và họ nhanh chóng rời khỏi máy bay. Patricia O’Connell là người cuối cùng đặt chân lên nền đất. Tuân thủ lời khuyên của bạn bè đà từng bay đến thị trấn nghĩ dưỡng để trượt tuyết, cô đã yêu cầu được ngồi tại dãy ghế sau đuôi máy bay để có thể hứng thú ngắm nhìn cảnh đẹp mà không bị cản trở tầm mắt bởi một trong hai cánh máy bay.
Ở độ cao chín ngàn bộ, không khí trở nên loãng nhưng tinh khiết và mát mẻ đến độ khó tin. Patricia hít vào thật sâu khi cô đi từ máy bay đến tòa nhà đón đưa hành khách. Lúc cô bước qua cánh cửa, một người đàn ông - thấp, to bè, râu cằm cạo sạch sẽ, chỉ còn hàng ria mép màu nâu sẫm — đi thẳng tới chỗ cô.
“Tiến sĩ Patricia O’Connell?”
“Vui lòng gọi tôi là Pat”, cô trả lời. “Chắc ông là Tiến sĩ Thomas Ambrose”.
“Xin gọi tôi là Tom”, ông ta nói với một nụ cười ấm áp. “Chuyến bay từ Denver tốt đẹp chứ?”
“Rất tuyệt. Những ngọn núi có vẻ hơi hỗn độn, nhưng quang cảnh xinh đẹp dễ dàng bù lại bất kỳ sự thiếu tiện nghi nào”.
“Thị trấn Telluride là một địa phương đáng yêu”, ông ta nói với vẻ tiếc rẻ. “Nhiều lần tôi đã có ý định sẽ sống tại đây”.
“Tôi không tưởng tượng được là có nhiều khu khảo cổ để cho một người giàu kinh nghiệm như ông nghiên cứu”.
“Trên độ cao này không có đâu”, ông ta nói. “Những di tích đổ nát của người Da đỏ Indian nằm tại những cao độ thấp hơn nhiều”. Tiến sĩ Thomas Ambrose có thể không hợp với khuôn mẫu một nhà nhân loại học lỗi lạc, nhưng ông ta là một trong những người được kính trọng nhất trong phạm trù này. Một giáo sư đã về hưu tại đại học Arizona State, là một nhà nghiên cứu có kỹ năng, rất quan tâm đến những phúc trình viết tay về những nghiên cứu của Tiến sĩ Ambrose. Lúc này, vào lứa tuổi gần năm mươi - Pat đoán ông ta trẻ hơn mười tuổi - ông ta có thể tự hào về ba mươi năm dành cho việc theo đuổi dấu vết những người cổ đại và nền văn hóa của họ trải rộng khắp miền Tây Nam Hoa Kỳ. “Tiến sĩ Kidd tỏ ra rất bí ẩn trên điện thoại. Hầu như ông ta chẳng tiết lộ thông tin nào về chuyện phát hiện”.
“Và tôi cũng sẽ như thế”, Ambrose nói. “Tốt nhất là bà nên đích thân chờ xem”.
“Bằng cách nào ông dính vào việc phát hiện này?” Cô hỏi. “Chỉ là do đúng nơi và đúng lúc. Trong khi tôi đang nghỉ ngơi và trượt tuyết với một cô bạn gái cũ thì nhận được một cú điện thoại từ một đồng nghiệp tại Đại học Colorado, yêu cầu tôi xem qua những cổ vật nhân tạo được một thợ mỏ tìm thấy. Sau khi khảo sát nhanh tại chỗ, tôi nhận ra những thứ đó vượt khỏi chuyên môn của mình”.
“Tôi không tin một chuyên gia tên tuổi như ông lại cảm thấy khó khăn trong chuyện này”.
“Thật không may, phạm trù chuyên môn của tôi không bao gồm Khoa nghiên cứu chữ chạm khắc. Và thế là bà phải tới đây. Người duy nhất tôi biết, với tư cách cá nhân, có chuyên môn đặc biệt trong việc giải mã những chữ chạm khắc cổ là Tiến sĩ Jerry Kidd tại Stanford. Không phải bất tài, nhưng ông ấy đã hết lòng đề nghị bà thế chỗ ông ấy”.
Ambrose quay lại khi những cánh cửa bên ngoài dẫn tới khu nhận hành lý mở ra và những nhân viên giao hành lý bắt đầu đưa những chiếc va ly lên đường băng dốc bằng kim loại. “Cái va ly lớn màu xanh lục là của tôi”, Pat nói với người đàn ông khuân vác. Anh ta nhấc lên vai cái va ly nặng năm mươi cân Anh chứa toàn những sách tham khảo.
Ambrose lẩm bẩm gì đó nhưng không nói gì khi nhận cái va ly nặng từ người phu khuân vác và đi về phía chiếc xe jeep hiệu Chero Kee của ông ta tại bãi đậu xe bên ngoài phòng hành khách. Pat có vẻ chần chừ trước khi vào chiếc xe để dành thì giờ ngắm những rừng thông và phi lao chạy dài xuống sườn núi Wilson và Sunshine xuyên qua thung lũng. Trong lúc Pat đứng và bị mê hoặc trước cảnh đẹp hùng vĩ, Ambrose nhân cơ hội đó ngắm nhìn cô.
Mái tóc Pat màu đỏ sáng và buông thõng xuống tận eo lưng. Đôi mắt cô màu xanh lục với nét tinh tế, sắc sảo. Cô đứng như một pho tượng được điêu khắc bởi một nghệ nhân tài hoa, trọng lượng thân thể dồn lên chân bên phải trong lúc đầu gối chân trái hơi xoay vào phía trong. Hai vai và cánh tay gợi cảm giác về một thân hình có nhiều cơ bắp săn chắc hơn phần đông các phụ nữ khác, chứng tỏ Pat đã dành nhiều giờ dài để luyện tập tại một phòng thể dục thẩm mỹ. Ambrose đoán cô phải cao tới năm feet tám inch và cân nặng cỡ một trăm ba mươi lăm cân Anh. Pat là một phụ nữ xinh đẹp, không sôi nổi và kích thích, nhưng ông ta tưởng tượng cô trông rất gợi cảm khi mặc những trang phục quyến rũ hơn những quần jean và áo khoác da này.
Tiến sĩ Kidd tuyên bố không có nhân vật nào tuyệt hơn Patricia O’Connell để giải mã những loại chữ viết cổ. Ông ta đã gởi fax về tiểu sử của cô, và Ambrose bị gây ấn tượng mạnh mẽ. Ba mươi lăm tuổi, với một bằng tiến sĩ về các ngôn ngữ cổ đại tại Đại học Pennsylvania. Pat đã viết ba cuốn sách rất được hâm mộ về những loại chữ viết cô đã giải mã trên đá được tìm thấy tại nhiều địa điểm khác nhau trên thế giới. Kết hôn với một luật sư rồi ly dị, cô lãnh phần nuôi dưỡng đứa con gái của họ, mười bốn tuổi. Là một người kiên định, cô chấp nhận lý thuyết cho rằng các nền văn hóa lan truyền từ nền văn hóa này đến nền văn hóa khác không phát sinh một cách lệ thuộc; cô cũng kiên trì tin rằng những người đi biển đã viếng thăm các bờ biển của châu Mỹ nhiều trăm năm trước Columbus.
“Tôi sẽ đưa bà đến một chỗ trọ tốt trong thị trấn”, Ambrose nói. “Nếu bà muốn, tôi sẽ đợi một giờ hoặc hơn để bà săn sóc bản thân”. “Không, cám ơn ông”, Pat nói và mỉm cười. “Nếu ông không ngại, tôi thích đi thẳng tới nơi đó”.
Ambrose gật đầu, rút cái điện thoại cầm tay từ túi áo khoác ra và bấm số. “Tôi sẽ báo cho ông Luis marquez, chủ nhân khu mỏ và cũng là người đã phát hiện căn phòng đó, là chúng ta đang tới”.
Họ im lặng trong lúc lái xe qua trung tâm thị trấn Telluride. Pat đưa mắt nhìn lên sườn núi phủ tuyết của ngọn Mountain Village chạy dài về phía nam và trông thấy những người trượt tuyết đang lao xuống đường băng rất dốc dẫn xuống vành đai thị trấn. Họ đi qua những tòa nhà cổ được bảo quản suốt thế kỷ trước, được tu sửa và nay là các cửa hiệu bán lẻ thay vì là những quán rượu. Ambrose chỉ về phía một tòa nhà bên trái ông ta. “Đó là noi Butch Cassidy cướp ngân hàng đầu tiên của hắn”.
“Thị trấn Telluride chắc hẳn phải có một lịch sử rất phong phú*. “Đúng vậy”, Ambrose trả lời. “Ngay trước mặt khách sạn Sheridan là nơi William Jennings Bryan đã phát biểu bài diễn thuyết “thánh giá vàng” nổi tiếng của ông ta. Và xa hơn về phía Thung lũng South Fork là nhà máy phát điện đầu tiên của thế giới để cung cấp luân phiên các dòng điện cho những khu mỏ. Những thiết bị của nhà máy được Nikola Tesla thiết kế”. Ambrose tiếp tục lái xe qua Thị trấn Telluride lúc nào cũng bận rộn với sự xâm lược của những người trượt tuyết, rồi hướng về hẻm núi nơi có con đường có vỉa hè, kết thúc tại khu mỏ Pandora. Pat tò mò ngắm những vách đá dựng đứng bao quanh thị trấn mỏ cổ, tạo nên những thác nước Bridal Veil với dòng chảy từ lượng nước do tuyết tan, khởi đầu một mùa xuân ấm áp.
Họ đến một con đường nhánh dẫn tới nơi đổ nát của nhiều tòa nhà cũ. Một chiếc xe van và một xe jeep sơn màu ngọc lam đậu gần đó. Hai người đàn ông mặc những quần áo ướt đẫm và đang cởi lớp áo - mà theo Pat - là thứ trang bị dành cho thợ lặn. “Những thợ lặn thì có chuyện gì để làm tại nơi trung tâm những rặng núi của bang Colorado nhỉ?” Cô hỏi vu vơ.
“Tôi đã dừng lại và nói chuyện với họ hôm qua”, Ambrose trả lời. “Họ là những người của NUMA, Bộ phận Hàng hải và Hoạt động Dưới Nước của Quốc gia”.
“Từ biển tới đây quá xa, phải không?”.
“Tôi được họ báo cho biết là họ đang thám hiểm một hệ thống đường thủy cũ phức tạp đã có lần lấy nước từ sườn phía tây của rặng núi San Juan. Có một mê cung gồm những hang động lớn nối liền với những đường hầm trong khu mỏ cũ”.
Lúc con đường dẫn lên cao chừng nửa dặm, Ambrose đi qua một vỉa quặng khổng lồ bị bỏ hoang, tại đây một xe tải và một xe rơmoóc đậu bên bờ sông San Miguel, dưới miệng một hầm mỏ cũ bỏ hoang khác. Những
căn lều đã được dựng lều quanh những chiếc xe, và họ có thể trông thấy nhiều đàn ông đang đi đạo quanh đó. Hai bên hông xe rơmoóc được sơn những chữ quảng cáo cho Tổ hợp Khoa học Địa lý Dưới Mặt Đất, có văn phòng đặt tại Phoenix, bang Arizona.
“Đó là một nhóm những nhà khoa học khác”, Ambrose giải thích, không cần được hỏi. “Một đội các nhà địa lý học địa chất, nghiên cứu khắp những hầm mỏ với những thiết bị hiệu quả để xâm nhập lòng đất nhằm phát hiện bất cứ mạch vàng nào bị những thợ mỏ trước kia bỏ sót”.
“Họ sẽ tìm thấy cái gì chứ?” Pat hỏi.
Ambrose nhún vai. “Tôi không tin. Những núi này đã bị đào bới kỹ lắm rồi”.
Một lúc sau, Ambrose đến trước một ngôi nhà nhỏ xinh xắn và đậu xe cạnh một xe tải nhỏ không mui. Ông Marquez và vợ, Lisa, được báo cho biết họ đã tới, bước ra chào đón họ và được Ambrose giới thiệu với Pat.
“Tôi ganh tị với ông bà đấy”, Pat nói. “Hai người sống trong một khung cảnh quá đẹp như thế này mà”.
“Tôi rất buồn nói rằng”, Lisa trả lời, “chỉ sau một năm cô sẽ không quan tâm tới nó nữa”.
“Tôi không nghĩ một ngày nào đó tôi sẽ dửng dưng với quang cảnh ở đây”.
“Tôi có thể mời hai vị uống cái gì nhĩ? Một tách cà phê hoặc một vại bia?”
“Không ạ”, Pat trả lời. “Tôi muốn xem phát hiện của ông Marquez càng sớm càng tốt”.
“Không thành vấn đề”, ông Marquez nói. “Chúng ta còn những năm tiếng đồng hồ trước khi mặt trời lặn. Quá đủ thời gian để cô đến xem căn phòng đó và trở về trước lúc sập tối”.
“Tôi sẽ chờ các vị về dùng bữa tối”, Lisa nói. “Tôi nghĩ các vị sẽ thích thú với món thịt nai nướng”.
“Nghe có vẻ tuyệt lắm”, Pat trầm trồ với cảm giác đói bụng. Ông Marquez gật đầu về phía chiếc xe tải cũ. “Có lẽ chúng ta sẽ dễ dàng hơn nếu lên khu mỏ với chiếc xe jeep của ông, thưa tiến sĩ”. Mười lăm phút sau, họ đã ngồi trong cái xe chở quặng bắt đầu đi xuống cửa hầm dẫn vào khu mỏ Paradise. Đây là một kinh nghiệm mới dành cho Pat. Cô chưa bao giờ đặt chân vào một hầm mỏ.
“Trong này ấm hơn nhiều”, ông Marquez nói, “nhiệt độ tăng lên năm độ mỗi khi ta xuống sâu hơn một trăm bộ. Tại những cao độ thấp hơn trong khi mỏ hiện đang ngập nước, nhiệt độ đã có lúc lên tới trên một trăm độ”.
Chiếc xe chở quặng đến một chỗ dừng. Ông Marquez bò ra và lục lọi trong một cái rương gỗ chứa dụng cụ. Ông trao cho Pat và Ambrose mỗi người một cái nón bảo hộ.
“Để phòng vệ đá rơi?” Pat hỏi.
Ông Marquez phì cười. “Hầu như để bảo vệ đầu cô khi va đụng những cột gỗ chống sụp hầm”.
Những bóng đèn sáng tù mù gắn trên những thanh xà rầm trên đầu, lúc họ đi qua đường hầm ẩm thấp với ông Marquez dẫn đầu. Khi một người nào đó trong nhóm nói, giọng nói dội vào những chỗ lõm trên các vách đá đường hầm. Hơn một lần, Pat vấp chân trên những thanh tà vẹt nối hai đường ray rỉ sét của chiếc xe chở quặng, nhưng cô giữ thăng bằng lại được. Cô đã không nhận ra, lúc thay đổi y phục sáng sớm hôm nay trước khi bay tới Telluride, cô đã khôn ngoan quyết định mang một đôi giày loại dùng để đi dã ngoại. Sau một lúc tưởng như một giờ nhưng thực ra chỉ mười phút, họ tới một khe nứt dẫn vào căn phòng, và theo sau ông Marquez đi qua cái hành lang hẹp.
Ông ta dừng lại chỗ cái thang rồi leo lên tới chỗ cái bóng đèn sáng lờ mờ gắn trên trần hầm trống. “Tôi đã kéo dây điện tới đây sau khi ông đến vào hôm qua. Những vách tường nhẵn thín hoạt động chẳng khác gì những gương phản xạ, vì vậy các vị sẽ không gặp trở ngại khi khảo sát những chữ khắc”. Rồi ông đứng sang một bên và giúp Pat leo lên thang.
Không được báo trước sẽ gặp điều gì nên Pat thực sự choáng váng. Cô có cảm giác giống như Howard Carter khi lần đầu tiên ông trông thấy ngôi mộ của Vua Tuts. Ngay lập tức, đôi mắt cô dán chặt vào cái sọ người màu đen, và cô cung kính đến gần cái bệ đặt nó, chăm chú nhìn bề mặt bóng loáng của nó lấp lánh dưới ánh sáng đèn.
“Nó đẹp sắc sảo lạ lùng”, cô thầm thì nói với giọng ngưỡng mộ trong lúc Ambrose vừa lọt vào căn phòng và đứng bên cạnh cô. “Một tác phẩm bậc thầy”, ông ta nói, “được điêu khắc từ nham thạch”.
“Tôi đã thấy cái sọ người bằng đá của người Maya được tìm thấy ở Belize. Nhưng cái sọ này thú vị hơn nhiều. Cái kia quá thô nếu so sánh với
nó. Họ bảo cái xương sọ Maya tỏa ra một vầng hào quang, và người ta nghe những âm thanh lạ từ vật đó phát ra”.
“Tôi chẳng có cảm giác gì lúc khảo sát nó”, Pat nói, và mỉm cười. “Nó chỉ ngồi im và trừng mắt nhìn”.
“Tôi không thể tưởng tượng sau bao nhiêu năm - hầu như bao nhiêu thế hệ, hoàn toàn không có những dụng cụ hiện đại - để đánh bóng một tác phẩm mỹ thuật như thế từ một khoáng sản rất dễ vỡ. Chỉ với một cái gõ nhẹ bằng búa, nó có thể bị vỡ vụn thành hàng ngàn mảnh”.
“Bề mặt của nó rất mịn, và nó không có một tì vết nào”, Pat nhẹ nhàng nói.
Ambrose quét một bàn tay quanh phòng. “Toàn bộ căn phòng này cũng thật lạ lùng. Những chữ viết trên các bức tường và trần phòng đòi hỏi ít nhất phải có năm người dành trọn cả đời để khắc chúng lên đá, chưa nói đến những nỗ lực phi thường được dùng để đánh bóng các mặt tường và trên trần. Chỉ căn phòng thôi cũng phải mất nhiều năm để đục và chuyển loại đá granit quá cứng ở đây đến nơi khác tại một độ sâu như nơi này. Tôi đã đo căn phòng. Bốn vách tường, trần và sàn phòng là một khối vuông vức hoàn hảo. Nếu các mặt bên trong không thẳng hàng và lệch đường dây dọi, thì sự chênh lệch đó cũng ít hơn một milimét. Giống như trong tiểu thuyết huyền bí cổ xưa, chúng ta cũng có một sự kiện đầy kịch tính diễn ra trong một căn phòng không có cửa và cửa sổ”.
“Vậy chỗ mở ra trên sàn phòng?” Pat hỏi.
“Được ông Luis Marquez khai thông trong thời gian tìm kiếm đá quí”, Ambrose trả lời.
“Vậy bằng cách nào họ đã tạo ra căn phòng này nếu không có cửa để ra vào?”
Ambrose chỉ lên trần.
“Gợi ý duy nhất tôi có thể tìm thấy là một vết nứt rất nhỏ quanh các mép trên trần. Tôi chỉ có thể thú nhận là bất cứ ai đã dựng nên căn phòng hình khối vuông vức này cũng đã đào từ trên cao xuống rồi sau đó khắc chữ lên đá”.
“Vì mục đích gì?”
Ambrose mỉm cười. “Đó là lý do tại sao bà có mặt tại đây để tìm ra câu trả lời”.
Pat lấy một sổ ghi chép, một cây cọ nhỏ và một kính phóng đại từ cái túi đeo ngang thắt lưng. Cô bước lại gần một bức tường, nhẹ nhàng quét
sạch lớp bụi phủ trên vách đá qua nhiều thế kỷ, và chăm chú nhìn những chữ khắc qua cái kính lúp. Cô miệt mài khảo sát những chữ chạm khắc khá lâu trước khi ngước lên nhìn trần phòng. Rồi cô quay lại nhìn Ambrose, trên nét mặt không biểu lộ dấu hiệu gì. “Hình ảnh trên trần có vẻ là một bản đồ vị trí các ngôi sao. Những biểu tượng...”, cô ngần ngừ rồi dửng dưng nhìn Ambrose. “Đây chắc hẳn là một sự lừa đảo do những thợ mỏ đã đào đường hầm tạo ra”.
“Điều gì khiến bà nghĩ như vậy?” Ambrose hỏi.
“Những biểu tượng này không có dấu hiệu gì trông giống bất kỳ thứ chữ viết cổ nào tôi từng nghiên cứu”.
“Bà có thể giải mã ký hiệu nào trong những chữ viết này không?” “Tất cả những gì tôi có thể nói với ông là ở đây không có chữ tượng hình hoặc những ký hiệu tốc ký diễn tả ngôn ngữ con người. Cũng chẳng có ký hiệu nào gợi ý ngôn ngữ hoặc âm tiết do lời nói thốt ra. Có vẻ như đây chỉ là những chứ cái”.
“Vậy thì chúng là một kết hợp những âm thanh đơn độc”, Ambrose gợi ý.
Pat gật đầu đồng ý. “Đây có thể là một loại mật mã viết tay hoặc một hệ thống chữ viết của một nền văn minh rất cao”.
Ambrose nhìn cô chăm chú. “Tại sao bà nghĩ tất cả những thứ này là một trò lừa đảo?”
“Những chữ viết không khớp với bất kỳ mô hình nào đã được con người biết tới và truyền lại qua lịch sử”, Pat nói với giọng bình tĩnh và đầy uy lực.
“Bà vừa nói đến một nền văn minh rất cao”.
Pat đưa cho Ambrose cái kính phóng đại. “Ông tự tìm hiểu xem. Những biểu tượng ở đây có vẻ đơn giản rất đáng lưu ý. Việc sử dụng những hình ảnh có tính hình học trong sự so sánh với những đường nét đơn độc là một hệ thống rất hiệu quả của sự thông tin bằng chữ viết. Điều đó giải thích tại sao tôi không thể tin bất kỳ cái gì ở đây đến từ một nền văn hóa cổ đại”.
“Có thể mã hóa các biểu tượng này không?”
“Tôi đã biết sau khi tôi sao chép chúng và xử lý qua phòng thí nghiệm vi tính tại đại học. Hầu hết những chữ viết cổ hầu như không rõ ràng và khác biệt như những thứ ở đây. Những biểu tượng có vẻ có một cấu trúc được xác định rõ mục đích. Vấn đề chính là chúng ta không có
một địa điểm có chữ khắc tương ứng tại một nơi nào khác trên thế giới để hướng dẫn chúng ta hành động. Tôi đang giẫm chân trên một vũng nước xa lạ cho đến khi máy tính có thể tạo ra sự đột phá”.
“Các vị đang làm gì trên đó?” ông Marquez hỏi lớn từ kẽ nứt bên dưới.
“Đã xem tất cả”, Pat trả lời. “Trong thị trấn có cửa hàng văn phòng phẩm nào không?”
“Có hai cửa hàng”.
“Tốt. Tôi cần mua một ram giấy mờ đục để đồ lại những chữ viết này và một cuộn băng giấy...”. Cô chợt im lặng khi một tiếng động ì ầm từ đường hầm yếu ớt vọng lại, và sàn hầm vuông vức rung nhẹ dưới chân họ. “Một vụ động đất?” Pat gọi xuống ông Marquez.
“Không”, ông ta trả lời qua lỗ trống. “Tôi đoán là một vụ tuyết lở ở đâu đó trên núi. Bà và tiến sĩ Ambrose cứ tiếp tục công việc của mình. Tôi sẽ chạy lên trên đó kiểm tra xem”.
Lại một chấn động nữa làm rung chuyển căn hầm với cường độ lớn hơn lần trước.
“Có lẽ chúng tôi nên đi với ông”, Pat nói với vẻ lo lắng.
“Những thanh gỗ chống đỡ trong đường hầm đã quá cũ và đa số đã mục”, ông Marquez cảnh báo. “Chuyển động quá mạnh của đá có thể làm gãy những thanh gỗ và làm sập hầm. Sẽ an toàn hơn nếu hai vị đợi ở đây”. “Đừng đi lâu đấy”, Pat nói. “Tôi sợ bị nhốt ở đây lắm”.
“Tôi sẽ quay lại trong mười phút”, ông Marquez trấn an cô. Ngay sau khi tiếng bước chân của ông Marquez lặng bặt từ căn hầm bên dưới, Pat quay sang Ambrose. “Ông đã không cho tôi biết sự đánh giá của ông về cái xương sọ. Ông nghĩ nó là một cổ vật hoặc vật mới được làm ra?”
Ambrose chăm chú nhìn cái hộp sọ, một tia nhìn mơ hồ hiện ra trong mắt ông ta. “Phải cần đến phòng thí nghiệm để xác định xem nó được điêu khắc và đánh bóng bằng tay hoặc bằng những dụng cụ hiện đại. Sự kiện duy nhất chúng ta biết chắc chắn là căn phòng này không được khai quật và tạo ra bởi các thợ mỏ. Phải có một giải thích nào đó về một dự án lớn như thế này chứ. Ông Marquez bảo đảm với tôi rằng những phúc trình về khu mỏ Paradise và những bản đồ đường hầm chẳng cho thấy đỉều gì cho biết có một đường hầm thẳng đứng dẫn xuống một căn phòng dưới lòng
đất trong khu vực đặc biệt này. Vì vậy, chắc chắn nó phải được tạo ra trước năm 1850”.
“Hoặc trễ hơn nhiều”.
Ambrose nhún vai. “Tất cả những vụ khai thác mỏ đều chấm dứt trong năm 1931. Một chiến dịch khai thác quan trọng như khu mỏ này không thể kết thúc mà không gây chú ý từ lúc đó. Tôi rất không muốn đặt tiếng tăm của mình lên vụ này, nhưng tôi sẽ tuyên bố không chút ngần ngại rằng tôi thực sự tin căn phòng này và cái hộp sọ kia đã có trên một ngàn tuổi, có thể còn lâu hơn”.
“Có lẽ những người Indian có liên quan”, Pat tỏ ra kiên trì. Ambrose lắc đầu. “Không thể. Nhưng những người Mỹ sơ khai đã xây dựng một số công trình kiến trúc phức tạp bằng đá, nhưng một công việc khó khăn có tầm vóc lớn như thế này thì vượt quá khả năng của họ. Và còn những chữ khắc dành cho bà nữa. Đó là một công việc hết sức khó khăn đối với những người không có một ngôn ngữ viết”. “Chắc chắn đây là bằng chứng xác nhận về một trình độ vãn minh cực cao”, cô dịu dàng nói, mấy đầu ngón tay vuốt nhẹ lên những biểu tượng trên mặt đá granit.
Với Ambrose bên cạnh, Pat bắt đầu sao chép những ký hiệu bất thường vào một cuốn sổ ghi chép nhỏ cho đến khi cô có thể đếm tất cả là bốn mươi hai ký hiệu. Sau đó, cô đo chiều sâu của những chữ khắc và khoảng cách giữa những hàng với các ký hiệu. Càng quan sát những chữ khắc, cô càng thấy rối óc. Có một logic bí ẩn về những chữ viết mà chỉ có sự phiên dịch tỉ mỉ mới có thể giải quyết được. Cô đang bận bịu với việc chụp ảnh bằng flash những ký hiệu chữ viết và ngôi sao trên trần thì ông Marquez bò vào qua lỗ hổng trên sàn.
“Có vẻ như chúng ta phải ở đây một lúc”, ông ta thông báo. “Một vụ tuyết lở đã lấp lối vào khu mỏ”.
“Ô, lạy Chúa”, Pat lắp bắp.
“Xin đừng quá lo lắng”, ông Marquez nói với một nụ cười gượng gạo. “Trước đây vợ tôi đã đi qua nơi này. Cô ấy sẽ rõ tình huống khó khăn của chúng ta và sẽ kêu gọi sự giúp đỡ. Một toán cứu hộ từ thị trấn sẽ sớm lên đường với những trang bị nặng để đưa chúng ta ra ngoài”.
“Chúng ta sẽ kẹt ở đây bao lâu?” Ambrose hỏi. 1
“Khó nói, nếu không biết khối tuyết lấp miệng hầm nhiều hay ít. Có thể chỉ vài giờ. Có thể phải mất một ngày. Nhưng họ sẽ làm việc cật lực
cho tới khi dọn sạch tuyết. Ông có thể cá điều đó”.
Một cảm giác nhẹ nhõm xâm chiếm Pat. “Tốt, vậy thì chừng nào những bóng đèn còn hoạt động, tôi đề nghị tiến sĩ Ambrose và tôi dùng thời gian để ghi lại những chữ viết này”.
Những tiếng nói vừa rời khỏi môi Pat thì một chuỗi tiếng động khủng khiếp dội lại từ một nơi nào đó rất sâu phía dưới căn phòng. Kế đó là âm thanh răng rắc của những thanh gỗ chống bị gãy, và tiếp theo là những tiếng thình thịch của những tảng đá rơi dội lại từ đường hầm. Một luồng không khí hung dữ với những âm thanh gầm rú tràn qua đường hầm vào căn phòng đẩy cả bọn họ lăn xuống sàn.
Rồi tất cả những bóng đèn tắt ngấm.
Những âm thanh đỗ vỡ trong núi vọng tới chỗ họ như báo hiệu những bất trắc. Chúng lan khắp những đường hầm rồi yếu dần và sau cùng dứt hẳn, trong lúc từ những nơi tối tăm không thấy được, bụi bặm do vụ sụp đất đá khuấy động tràn qua đường hầm, qua khe nứt rồi lọt vào căn phòng qua lỗ trống như được dẫn dắt bởi một bàn tay vô hình. Tiếp theo là những tiếng ho sặc sụa do bụi lọt vào mũi và miệng; đất, cát nhanh chóng bám vào răng và lưỡi họ.
Ambrose là người đầu tiên thốt ra một câu mạch lạc. “Nhân danh Chúa, cái gì đã xảy ra thế này?”
“Hầm mỏ bị sập”, ông Marquez trả lời. “Mái đường hầm đổ xuống”. “Pat!” Ambrose hét lớn, quờ quạng trong bóng tôi. “Bà bị thương phải không?”
“Không”, cô cố dằn lại giữa hai cơn ho, “tôi chỉ khó thở, nhưng không sao cả”.
Ông ta chạm được bàn tay Pat và giúp cô đứng lên. “Đây, bà hãy dùng khăn tay của tôi che mặt”.
Pat đứng im lặng cố lấy lại một hơi thở trong lành. “Tôi có cảm giác như thể quả đất nổ tung dưới chân”.
“Tại sao bỗng nhiên đá lại rơi?” Ông tiến sĩ hỏi ông Marquez dù không nhìn thấy ông này.
“Tôi cũng không biết, nhưng tôi nghe hình như có tiếng mìn nổ”. “Không phải đây là dư hưởng của vụ tuyết lở làm sập hầm mỏ chứ?” Ambrose lại hỏi.
“Thề có Chúa, đúng là chất nổ”, ông Marquez nói: “Tôi biết rõ chuyện đó. Tôi đã dùng chất nổ trong nhiều năm đủ để nhận ra âm thanh.
Tôi luôn luôn dùng chất nổ có dây dẫn cháy chậm để giảm tối đa hiện tượng nền đất bị rung chuyển mạnh. Có ai đó đã dùng chất nổ để phá sập một trong những đường hầm dưới căn phòng này, nếu phán đoán theo những gì vừa xảy ra”.
“Nhưng khu mỏ này đã bị bỏ hoang mà”.
“Đúng thế. Trừ vợ tôi và tôi, không ai khác đặt chân vào đây từ nhiều năm nay”.
“Nhưng bằng cách nào..”
“Không phải bằng cách nào, mà tại sao?” Ông Marquez chạm phải cẳng chân nhà nhân loại học lúc ông bò bốn chân để tìm cáỉ nón bảo hộ của mình.
“Ông bảo có kẻ nào đó đã dùng chất nổ với mục đích phá sập hầm mỏ à?” Pat hỏi, không giấu được sự bàng hoàng qua giọng nói. “Chắc chắn tôi sẽ tìm ra nơi đó nếu chúng ta thoát khỏi nơi này”, ông Marquez đã tìm thấy cái nón, đội lên mái tóc phủ đầy bụi rồi bật sáng cái bóng đèn nhỏ trên nón. “Đấy, có vẻ khá hơn rồi”.
Chùm ánh sáng nhỏ chỉ làm căn hầm đủ sáng tù mù. Bụi còn chưa lắng xuống, tạo cho căn hầm như chìm trong một màn sương mù. Mọi người trông chẳng khác gì những pho tượng bị phủ bụi, mặt mũi quần áo họ trở nên xám xịt như màu đá granit.
“Tôi không quan tâm cái lối nói “nếu” của ông”.
“Tùy thuộc vào sự việc đường hầm bị sập ở mặt nào. Nếu nó nghiêng về phía trong mỏ, chúng ta sẽ thoát ra dễ dàng. Nhưng nếu mái đường hầm rơi xuống tại một nơi nào đó giữa khu này và đường hầm dẫn ra ngoài là chúng ta có vấn đề đấy. Để tôi đi xem thử”.
Trước khi Pat có thể nói thêm, ông thợ mỏ đã chui qua lỗ trống, và căn hầm lại trở nên hoàn toàn tối tăm. Ambrose và Pat đứng im lặng trong bóng tối, những cảm giác ban đầu về sự khủng khiếp và kinh hoàng đang thấm vào đầu óc họ. Không đầy năm phút sau thì ông Marquez quay lại. Họ không thể nhìn thấy gương mặt ông ta vì ánh sáng từ cái nón của ông này làm chói mắt họ, nhưng họ cảm nhận được ông ta vừa nhìn thấy và chạm phải sự chết chóc.
“Tôi e rằng mọi tin tức đều rất xấu”, ông Marquez chậm rãi nói. “Vụ tuyết lở chỉ xảy ra tại một khoảng cách ngắn dưới đường hầm về phía lò mỏ. Tôi phán đoán vụ tuyết lở chỉ xảy ra trong một chiều dài chừng ba
chục mét hoặc hơn chút đỉnh. Phải mất nhiều ngày, có thể vài tuần để những người cứu họ dọn sạch những thứ đổ nát”.
Ambrose nhìn người thợ mỏ chăm chú, cố tìm một tia hy vọng. Khi chẳng thấy gì, ông ta nói, “Nhưng họ sẽ đưa chúng ta ra ngoài trước khi chúng ta chết đói chứ?”.
“Vấn đề của chúng ta không phải là chuyện chết đói”, ông Marquez nói, giọng ông không giấu được sự thất vọng sâu sắc. “Nước đang dâng lên trong đường hầm. Nó đã bị ngập đến ba bộ rồi”.
Pat nhìn thấy ống quần ông Marquez bị ướt đẫm tới đầu gối. “Vậy chúng ta bị nhốt trong cái địa ngục này không có đường ra?” “Tôi không nói thế!” người thợ mỏ nhấn mạnh. “Có thể có một may mắn là nước sẽ đổ vào một đường hầm khác tại nơi những đường hầm gặp nhau trước khi nước tràn vào căn phòng này”.
“Nhưng ông không tin chắc chắn mà”, Ambrose nói.
“Chúng ta sẽ biết rõ trong vài giờ nữa”, ông Marquez thoái thác trả lời.
Gương mặt Pat trắng bệch và hơi thở trở nên chậm lại qua cặp môi đầy bụi. Cô trở nên bị vây phủ bởi cảm giác sợ hãi lạnh lẽo khi nghe những âm thanh đầu tiên của nước xoáy tròn bên ngoài căn hầm. Lúc đầu tiếng động không lớn, nhưng nó tăng lên nhanh chóng. Đôi mắt cô bắt gặp tia nhìn của Ambrose. Ông ta cũng không thể che giấu sự sợ hãi hiện rõ trên nét mặt.
“Tôi có cảm giác”, cô thì thầm, “như bị nhận nước”.
***
Những phút trôi qua như những năm, và hai giờ đồng hồ sau đó bò chậm như hàng thế kỷ trước khi nước dâng lên cho đến lúc nó trào lên qua lỗ trống chảy vào căn hầm và đọng lại quanh chân họ. Tê liệt vì khủng khiếp, Pat đứng dựa lưng và vai vào bức tường, cố gắng một cách vô ích như muốn làm chậm lại sự công phá khắc nghiệt của nước. Cô im lặng cầu mong có một phép lạ làm mực nước dừng lại trước khi nó bò lên quá vai họ.
Nỗi khủng khiếp sẽ chết trong lòng đất sâu hàng ngàn bộ, ngạt thở trong bóng tối phiền muộn, là một cơn ác mộng quá rùng rợn không thể chấp nhận. Cô nhớ đã đọc những mô tả về những thân thể của những
người thợ lặn bị lạc trong các hang động ngập nước được tìm thấy với những ngón tay mất hết thịt, lòi xương vì họ đã cào cấu vào lớp đá cứng rắn để tìm đường thoát ra.
Hai người đàn ông đứng im lặng với tâm trạng u ám vì bị chôn vùi trong đơn độc. Ông Marquez không thể tin có một nhóm vô danh nào đó đã tìm cách giết họ. Không có lý do gì để gây ra hành động đó, cũng không có động cơ nào. Những ý nghĩ đen tối về sự đau khổ chẳng bao lâu nữa sẽ chụp xuống gia đình ông.
Pat nghĩ đến con gái và cảm nhận được ý nghĩa sâu sắc của sự cô độc, biết rằng cô sẽ không có mặt ở đó để nhìn thấy đứa con duy nhất của mình khôn lớn và trưởng thành. Thật không công bằng chút nào nếu cô phải chết ở dưới sâu, trong lòng đất tại căn hầm lạnh lẽo, ma quái này, sẽ không bao giờ thân xác cô được tìm thấy. Cô muốn khóc, nhưng nước mắt không chịu trào ra.
Mọi trao đổi bằng lời nói chấm dứt khi nước lên tới đầu gối họ. Nó tiếp tục dâng cao cho đến hông. Nước lạnh cóng và châm chích da thịt họ như hàng ngàn móng vuốt nhỏ. Pat bắt đầu rùng mình, hai hàm răng liên tục va đập nhau không sao kiểm soát được. Ambrose cảm nhận thân nhiệt của cô có dấu hiệu giảm xuống nên choàng hai cánh tay quanh người cô. Đó là một hành động đầy thiện chí và có suy nghĩ, và cô cảm thấy được an ủi. Cô nhìn trừng trừng trong cơn kinh hãi vào làn nước đen ngòm gớm ghiếc đang quay cuồng dưới chùm ánh sáng vàng ệch từ cây đèn của ông Marquez hắt ra, phản chiếu lại trên mặt nước lạnh lẽo tối tăm. Nhưng bất chợt Pat nghĩ cô đã nhìn thấy một thứ gì đó, rõ ràng nó hoạt động. “Tắt đèn đi”, cô nói khẽ với ông Marquez.
“Cái gì?”
“Tắt đèn đi. Tôi nghĩ có cái gì đó dưới nước”.
Hai người đàn ông tin rằng sự sợ hãi đã gây ra ảo giác nơi cô, nhưng ông Marquez vẫn gật đầu và tắt ngọn đèn trên cái nón bảo hộ. Ngay lập tức căn phòng chìm trong bóng tối ma quái.
“Bà nghĩ bà đã nhìn thấy gì?” Ambrose nhẹ nhàng hỏi.
“Một ánh sáng đỏ”, cô thều thào.
“Tôi chẳng thấy gì cả”, ông Marquez nói.
“Ông phải thấy chứ”, cô có vẻ kích động. “Một ánh sáng đỏ yếu ớt trong nước”.
Tiến sĩ Ambrose và ông Marquez nhìn chăm chú vào khối nước đang dâng lên nhưng chẳng thấy gì ngoài một màu đen mê muội. “Tôi đã thấy nó. Thề có Chúa, tôi đã thấy ánh sáng lóe lên trong lỗ hổng dưới hầm”.
Ambrose giữ cô chặt hơn. “Chỉ có chúng ta thôi”, ông ta nói yếu ớt. “Có ai khác đâu”.
“Kìa!” cô hổn hển. “Các ông không thấy sao?”
Ông Marquez úp mặt xuống dưới mặt nước và mở mắt ra. Và rồi, ông cũng thấy nó. Một ánh sáng đỏ yếu ớt từ hướng đường hầm chiếu lại. Lúc ông nín hơi chăm chú nhìn, nó bắt đầu sáng lên như thể nó đang tới gần ông hơn. Ông ngóc đầu lên khỏi mặt nước và hét lớn, giọng ông có pha lẫn sự khủng khiếp. “Có cái gì dưới đó. Con ma. Nó chỉ có thể là con ma người ta đã nói nó đi lang thang trong các hầm mỏ. Không một người nào có thể di chuyển qua một đường hầm ngập nước”.
Chút sức mạnh còn lại trong người họ chợt tan biến. Họ kinh hoàng nhìn xuống trong lúc thứ ánh sáng đó hình như trồi cao lên qua lỗ trống dẫn vào căn hầm. Ông Marquez lại bật sáng bóng đèn trên nón bảo hộ trong lúc họ đứng như đông cứng, đôi mắt trừng trừng nhìn con ma chập chờn trồi lên khỏi mặt nước, đội một cái nón trùm đầu màu đen.
Rồi một bàn tay từ dưới nước ló lên, tháo cái khóa điều chỉnh không khí rồi đẩy cái mặt nạ thợ lặn lên trán. Một cặp mắt màu xanh lục sinh động lóng lánh lộ ra dưới ánh sáng đèn của người thợ mỏ, trong lúc đôi môi mở rộng thành một nụ cười tươi tắn để lộ hai hàm răng trắng bóng.
“Có vẻ như”, một giọng nói thân mật thốt lên, “tôi đã đến đúng lúc”. Pat không thể không tự hỏi liệu đầu óc cô, đã tê cóng vì sợ hãi và sự đau đớn thể xác vì thứ nước giá buốt, có lừa dối cô không. Tiến sĩ Ambrose và ông Marquez chỉ trơ mắt nhìn, không thể nói gì. Cơn sốc của họ dần dà được thay thế bởi một cảm giác tin tưởng đầy thuyết phục bất chợt xâm chiếm họ, và cùng lúc, họ hiểu kẻ xa lạ mới đến là gạch nối giữa họ và thế giới trên kia. Cơn sợ hãi lạnh buốt bỗng chốc tan biến, thay vào đó là niềm hy vọng đầy phấn khởi.
“Nhân danh Chúa, ông đến từ đâu thế?” ông Marquez phấn khích thốt lên.
“Từ khu mỏ Buccaneer bên cạnh”, người lạ trả lời, chiếu cây đèn lặn của anh lên các bức tường căn phòng trước khi hướng chùm ánh sáng lên cái hộp sọ bằng nham thạch. “Nơi này là gì thế, một lăng tẩm à?” “Không”, Pat trả lời, “một nơi bí ẩn”.
“Tôi nhận ra ông”, Tiến sĩ Ambrose nói. “Chúng ta đã nói chuyện với nhau sáng sớm hôm nay. Ông là người của NUMA”.
“Tiến sĩ Ambrose phải không? Tôi muốn nói thật thích thú lại được gặp ông”. Người lạ nhìn ông thợ mỏ. “Chắc đây là ông Luis Marquez, chủ nhân khu mỏ. Tôi đã hứa với bà nhà sẽ trả ông về cho bà ấy đúng lúc ăn tối”. Rồi nhìn Pat, anh ngoác miệng cười ranh mãnh. “Và phu nhân lộng lẫy này là Tiến sĩ O’Connell phải không?”
“Ông biết tên tôi?”
“Bà Mary có nói về cô”, người thợ lặn chỉ nói đơn giản.
“Bằng cách ma quỉ nào ông đã đến đây thế?” Pat hỏi, vẫn còn bàng hoàng.
“Sau khi được ông Cảnh sát trưởng thị trấn báo lối vào khu mỏ của quí vị bị tuyết lở bao phủ, đội các kỹ sư NUMA của tôi quyết định tìm cách đến chỗ các vị qua một trong các đường hầm dẫn từ khu mỏ Buccaneer đến khu mỏ Paradise. Chúng tôi chỉ mới vượt qua vài trăm mét thì một tiếng nổ làm rung chuyển hòn núi. Khi thấy mực nước dâng lên trong các hầm và ngập cả hai khu mỏ, chúng tôi biết chỉ còn một cách để tới chỗ các vị là lặn qua các đường hầm”.
“Ông bơi tới đây từ khu mỏ Buccaneer à?” ông Marquez ngờ vực hỏi. “Quãng đường này gần nửa dặm đấy”.
“Đúng thế. Tôi có thể đi bộ nhiều đoạn trước khi vào trong nước “, người lạ giải thích. “Thật không may, tai họa nặng nề hơn tôi chờ đợi. Tôi kéo theo sau tôi trên đường đi một cái túi không thấm nước chứa thực phẩm và một số thuốc men, nhưng cái túi bị cuốn đi sau khi dòng nước ném tôi vào một giàn khoan”.
“Ông có bị thương không?” Pat hỏi với vẻ lo âu.
“Chỉ những vết bầm không đáng quan tâm”.
“Thật kỳ diệu khi ông tìm ra được lối đi trong một mê cung chằng chịt những đường hầm để tới đúng chỗ chúng tôi”, ông Marquez nói. Người lạ đưa ra một cái máy định vị nhỏ, màn hình của nó lấp lánh một màu xanh lục. “Một máy điện toán dùng dưới nước, được lập trình từng hầm mỏ, những chỗ giao nhau và đường hầm trong hẻm núi Telluride. Vì đường hầm của các vị bị phủ kín do đất sập, tôi phải đi vòng xuống một độ cao dưới thấp và đi từ hướng ngược lại. Trong lúc bơi qua đường hầm, tôi bắt gặp chùm tia sáng tù mù từ cây đèn thợ mỏ của ông. Và tôi có mặt ở đây”.
“Vậy không ai trên mặt đất biết chúng tôi bị dính vào một vụ sụp hầm”, ông Marquez nhận xét.
“Họ biết chứ”, người thợ lặn trả lời. “Đội NUMA của tôi gọi ông Cảnh sát trưởng ngay sau khi chúng tôi biết chuyện gì xảy ra”. Trên nét mặt Tiến sĩ Ambrose hiện ra một màu xanh bệnh hoạn. Ông ta không sao bày tỏ được nhiệt tình như những người kia. “Có một thành viên khác trong đội lặn của ông theo sau ông à?” ông ta chậm rãi hỏi. Người thợ lặn khẽ lắc đầu. “Chỉ một mình tôi. Chúng tôi chỉ còn hai bình hơi cuối cùng. Tôi nghĩ thật quá liều lĩnh nếu có thêm một người nữa tìm cách đến chỗ các vị”.
“Có vẻ như ông đã phí thời giờ và cố gắng để thực hiện chuyến đi. Tôi thấy quá ít khả năng ông có thể cứu chúng tôi”.
“Tôi có thể làm ông ngạc nhiên đấy”, người thợ lặn bình thản nói. “Cái bình dưỡng khí của ông không chứa đủ khí để đưa cả bốn người chúng ta trở lại qua mê cung những đường hầm ngập nước đến với thế giới trên kia. Và vì chúng ta hoặc sẽ chết vì thân nhiệt bị giảm đi trong một giờ nữa, hoặc ông sẽ không có đủ thời gian để đi gọi người quay lại cứu chúng tôi”.
“Ông rất sắc sảo, thưa tiến sĩ. Hai người có thể quay lại khu mỏ Buccaneer, nhưng chỉ hai người thôi”.
“Vậy ông phải đem quí bà này đi”.
Người thợ lặn mỉm cười châm biếm. “Ông tỏ ra rất cao thượng, ông bạn, nhưng trên tàu Titanic không có phao ''hi sinh”.
“Xin vui lòng”, ông Marquez nài nỉ. “Nước vẫn đang dâng lên. Xin hãy đưa bà Tiến sĩ O’Connell đến nơi an toàn.
“Nếu điều đó khiến ông cảm thấy hạnh phúc”, người thợ lặn lạnh lùng nói. Anh ta nắm tay Pat. “Cô đã sử dụng bình khí nén của thợ lặn bao giờ chưa?”
Cô lắc đầu.
Anh ta hướng ngọn đèn lặn về phía hai người đàn ông. “Còn hai ông?”
“Điều đó có quan trọng không?” Ambrose hỏi.
“Với tôi thì có đấy”.
“Tôi là một thợ lặn có hạng”.
“Tôi đoán thế. Còn ông?”
Ông Marquez nhún vai. “Tôi chỉ biết bơi thôi”.
Người thợ lặn quay sang Pat đang thận trọng gói cái máy ảnh và cuốn sổ ghi chép trong một tấm nylông. “Cô bơi bên cạnh tôi và chúng ta sẽ thở chung cái bình dưỡng khí bằng cách chuyển qua chuyển lại cái che miệng của bình khí cho người kia. Tôi hít một hơi thở rồi chuyển nó cho cô. Cô sẽ hít một hơi thở rồi trả nó lại cho tôi. Ngay sau khi chúng ta rời khỏi căn hầm này, cô hãy nắm chặt dây thắt lưng của tôi và thả lỏng người”.
Rồi anh ta quay sang Ambrose và ông Marquez. “Rất tiếc phải để các ông chờ đợi. Nhưng nếu các ông nghĩ mình sẽ chết thì quên ý nghĩ đó đi. Tôi sẽ quay lại với các ông trong mười lăm phút nữa”. “Mong ông giữ lời”.
Nắm bàn tay Pat, người đàn ông của NUMA thả mình xuống nước rồi mất hút trong khối nước đen ngòm.
***
Giữ cho chùm sáng của cây đèn lặn hướng thẳng về phía trước mặt trong đường hầm, người thợ lặn theo dõi một trong những đường chiếu sáng trên màn hình cái máy tính định vị nhỏ của mình. Ngước mắt nhìn lên, anh hướng chùm ánh sáng thẳng vào đường hầm và bơi về phía bóng tối gớm ghiếc trước mặt. Nước đã dâng tới nóc đường hầm, và những kinh nghiệm anh đã trải qua trong lúc tìm tới căn hầm của những người bị nạn trở nên vô dụng. Anh vừa phải đối phó với dòng nước, vừa phải kéo Pat bám sát phía sau.
Liếc nhanh ra sau, anh bắt gặp đôi mắt cô nhắm kín, hai bàn tay bám chặt đai lưng của anh. Đôi mắt không hề mở ra ngay cả lúc họ chuyển cho nhau cái chụp miệng nối với bình dưỡng khí.
Quyết định của anh khi chọn cái mặt nạ dành cho thợ lặn của Công ty u. s. Divers Aquarius, thay vì dùng cái mặt nạ Mark II đã lỗi thời, tỏ ra là một quyết định khôn ngoan. Chùm ánh sáng từ cái nón lặn giúp anh dễ dàng hơn trong việc bơi gần nửa dặm qua một mê cung những đường hầm từ khu mỏ Buccaneer với nhiều chỗ bị nghẽn vì đá và những thanh gỗ chống rơi xuống. Cũng có những hành lang khô ráo mà nước không tràn tới được, tại những nơi này anh đã bò hoặc đi bộ qua. Rõ là một công việc nhọc nhằn khi phải vượt qua những đường ray, những thanh nối và những đống đá rơi trong lúc phải đeo cái bình khí cồng kềnh với những phụ tùng
của nó, cái máy định vị, con dao bấm và một đai lưng bằng chì để dò độ sâu quả thật không dễ dàng chút nào. Nước lạnh thấu xương, nhưng anh vẫn ấm trong bộ quần áo khô ráo hiệu OUI của Na Uy khi phải bơi qua những hành lang ngập nước. Anh đã chọn quần áo lặn của Na Uy vì nó giúp cho những cử động được dễ dàng hơn nhiều khi anh ra khỏi nước.
Nước đục ngầu và chùm sáng từ ngọn đèn lặn — cắt một đường thẳng ngang qua thứ chất lỏng bẩn thỉu - chỉ thâm nhập khoảng mười bộ vào khối nước đen kịt. Anh đếm những thanh gỗ chống lúc họ bơi, cố đo xem chiều dài quãng đường họ đã vượt qua được bao nhiêu. Sau cùng, đường hầm tới một chỗ rẽ ngoặc và chấm dứt trong một hành lang dẫn vào một hầm mỏ dốc đứng. Anh bơi vào căn hầm và có cảm giác như bị nuốt chửng bởi một con quỉ từ một thế giới khác ở dưới sâu kia. Hai phút sau, họ trồi lên khỏi mặt nước, và anh hướng chùm sáng của ngọn đèn vào phía bóng tối trên đầu. Một đường hầm nằm ngang dẫn tới một độ cao khác gần đó trong khu mỏ Paradise cao tới bốn chục bộ.
Pat vuốt những sợi tóc vướng trên mặt và nhìn anh với đôi mắt mở lớn. Lúc này anh mới nhìn thấy đó là một đôi mắt màu xanh ôliu nhạt thật đẹp. “Chúng ta thoát rồi”, cô hổn hển, ho và phun nước trong miệng ra. “Ông biết căn hầm này à?”
Đưa cái máy tính định vị lên, anh nói. "Vật nhỏ quí giá đã dẫn đường đấy”. Anh đặt hai bàn tay cô lên những thanh ngang của cái thang rỉ sét dẫn lên trên cao. "Cô có thể tự lên trên đó chứ?”
“Tôi sẽ cố nếu phải làm điều đó”, Pat trả lời, cô thấy vui vì đã thoát khỏi căn hầm ma ám đó và biết mình vẫn còn sống với may mắn, dù là sự may mắn ít ỏi, nhưng cuối cùng cô vẫn còn sống.
“Trong lúc leo lên thang, cô hãy đu người dọc theo hai trụ đứng và nhớ đừng giẫm lên những thanh ngang của cái thang ngay chính giữa. Chúng đã quá cũ và có thể mục một nửa vì rỉ sét. Vì vậy, hãy rất thận trọng”.
“Tôi sẽ nhớ làm theo lời ông. Ông đã mang tôi tới đây mà”. Anh đưa cho cô một cái bật lửa nhỏ đốt bằng khí hóa lỏng. “Giữ lấy cái này, cô tìm một ít gỗ khô từ những thanh chống và gây lửa. Cô đã ngâm mình trong nước lạnh quá lâu rồi*.
Lúc anh kéo cái mặt nạ lặn phủ lên gương mặt trở lại và chuẩn bị thả người vào khối nước, bàn tay cô bất chợt nắm chặt quanh cổ tay anh. Đôi
mắt màu xanh ôliu lộ ra vẻ lo lắng. “Ông sẽ quay lại đây sau những người kia phải không?”
Anh gật đầu và mỉm cười để khích lệ cô thêm can đảm. “Tôi sẽ đưa họ ra khỏi nơi đó. Chớ lo lắng, vẫn còn đủ thì giờ”.
“Ông chưa bao giờ cho tôi biết ông là ai”.
“Tên tôi là Dirk Pitt”, anh nói. Rồi chụp cái che miệng lên mặt, vẫy tay và mất hút trong khối nước tối tăm.
***
Nước đã lên tới vai hai người đàn ông trong căn hầm cổ. Nỗi khủng khiếp vì sợ bị nhốt dường như tăng lên theo mực nước. Rồi sự hoảng loạn giảm dần khi ông Marquez và Ambrose bình thản chấp nhận số phận trong cái địa ngục sâu hút dưới lòng đất này. Trong lúc Tiến sĩ Ambrose im lặng chờ đợi cái chết ngoan cố thì ông Marquez chọn sự phấn đấu cho đến hơi thở cuối cùng. Ông quyết định sẽ bơi qua khe nứt vào đường hầm và tiếp tục bơi cho đến khi hai buồng phổi ông vỡ ra.
“Anh ta sẽ không quay lại phải không?” ông Marquez lắp bắp. “Có vẻ anh ta sẽ không quay lại đâu, hoặc anh ta sẽ quay lại trễ. Có thể anh ta nghĩ tốt nhất là mặc chúng ta hy vọng hão huyền”. “Không đúng. Tôi có một cảm giác thuộc loại bản năng, là chúng ta có thể tin tưởng anh chàng này”.
“Có lẽ thế”, Ambrose nói, vừa chăm chú nhìn một vật giống như một con đom đóm dưới nước đang đến gần họ.
“Tạ ơn Chúa!” ông Marquez thở hào hển khi chùm ánh sáng từ ngọn đèn lặn khúc xạ và nhảy múa trên trần và những bức tường căn hầm, ngay trước khi đầu Pitt trồi lên mặt nước. “Ông đã quay lại!”
“Đã nghi ngờ phải không?” Pitt nhẹ nhàng hỏi.
“Pat đang ở đâu?” Ambrose hỏi, trong lúc mắt Pitt bắt gặp mắt ông ta qua tấm gương của chiếc mặt nạ lặn.
“An toàn rồi”, Pitt nói nhanh. “Có một căn hầm khô ráo khoảng tám mươi bộ bên trên đường hầm”.
“Tôi biết chỗ đó”, ông Marquez nói, tỏ ra nắm vững sự việc, “Nó dẫn tới một nơi cao hơn trong khu mỏ Paradise”.
Nhận ra những dấu hiệu rõ ràng thân nhiệt bị giảm cùng với trạng thái ngủ gật và rối loạn của người thợ mỏ, Pitt quyết định sẽ đưa ông này
đi thay vì Ambrose còn đang có vẻ khá hơn trong hai người. Anh phải thật nhanh chóng, vì cái lạnh khủng khiếp đang siết chặt móng vuốt của nó và đang lôi kéo sự sống ra khỏi thân thể họ. “Ông là người tiếp theo, ông Marquez”.
“Tôi có thể trở nên hoảng loạn và hôn mê khi ở trong nước”, ông Marquez rên rỉ.
Pitt bấu chặt vai ông ta, “Hãy tưởng tượng ông đang bơi trên bãi biển Waikiki”.
“Chúc may mắn”, Ambrose nói.
Pitt bật cười và thân mật vỗ vai nhà nhân loại học. “Đừng đi lung tung nhé”.
“Tôi sẽ ở yên tại đây”.
Pitt gật đầu với ông Marquez. “Được rồi, ta đi”.
Chuyến đi sẽ trót lọt, Pitt nghĩ. Anh dùng hết sức lực đế tới cái hầm mỏ càng nhanh càng tốt. Anh có thể thấy điều đó, trừ phi người thợ mỏ bị hôn mê. Đối với một người vốn sợ nước, ông Marquez trở nên tê liệt. Ông hít vào một hơi thật sâu từ bộ phận điều chỉnh khí rồi trả nó lại cho Pitt, không để lỡ một nhịp.
Khi họ tới chỗ cái thang, Pitt giúp ông Marquez leo lên những nấc thang đầu tiên cho tới khi ông ta hoàn toàn ra khỏi khối nước lạnh. “Ông có thể tự mình lên tới đường hầm kế cận chứ?”
“Tôi tin có thể được”, ông Marquez lập bập trả lời, cố chống lại cái lạnh đang len lỏi vào gân cốt. “Tôi sẽ không bỏ cuộc đâu”. Pitt để mặc ông ta và quay lại với Ambrose, lúc này bắt đầu tái nhợt như một xác chết sau thời gian nỗ lực chống chọi với khối nước lạnh buốt. Cái lạnh khủng khiếp làm thân nhiệt ông ta hạ thấp chỉ còn hơn ba mươi lăm độ C. Chẳng mấy chốc ông ta sẽ hôn mê. Chỉ khoảng hơn năm phút nữa, và lúc đó sẽ trở nên quá trễ, mực nước sẽ ngập quá đầu ông ta, lúc này nó chỉ còn cách trần căn hầm chừng vài inch. Pitt không phí thì giờ để trao đổi, anh ấn cái nắp che miệng lên miệng nhà nhân loại học và kéo ông ta xuống nước, qua lỗ trống, lọt vào đường hầm.
Mười lăm phút sau, tất cả bọn họ quây quần quanh một đống lửa Pat đã tạo nên từ mớ gỗ vụn cô tìm thấy trong một lối đi gần chỗ những đường hầm giao nhau cách đó một quãng ngắn. Nhìn quanh, Pitt nhanh chóng nhận ra nhiều thanh gỗ đã sập xuống còn khô sau nhiều năm khu mỏ bị bỏ hoang. Sự kiện này xảy ra chưa lâu trước khi đường hầm biến thành một
nơi sưởi ấm sáng sủa và những người sống sót từ căn hầm ngập nước bắt đầu cảm thấy ấm áp. Ông Marquez đã trông có vẻ là một con người trở lại. Pat đã phản ứng nhanh nhẹn và đã lấy lại bản chất lạc quan khi cô xoa bóp hai chân tê cóng của Tiến sĩ Ambrose.
Trong lúc họ thưởng thức sự ấm áp của đống lửa, Pitt bận bịu với cái máy vi tính lập trình một lối đi vòng qua khu mỏ lên tới mặt đất trên kia. Thung lũng Telluride thực sự là một cấu trúc như hình tổ ong với những khu mỏ cũ. Những hầm mỏ, những chỗ đường hầm giao nhau, những đống đổ nát và những đường hầm cộng lại đến hơn ba trám sáu mươi dặm. Pitt không khỏi tự hỏi tại sao thung lũng không đổ sập xuống như một miếng bọt biển đẫm nước. Anh để mọi người nghỉ ngơi và sưởi khô quần áo gần một tiếng đồng hồ trước khi nhắc nhở là họ vẫn chưa thoát khỏi nguy hiểm.
“Nếu chúng ta muốn nhìn thấy lại bầu trời xanh, chúng ta phải tuân theo một kế hoạch tẩu thoát”.
“Gấp gáp làm gì?” ông Marquez nhún vai. “Tất cả những gì chúng ta phải làm là đi theo đường hầm này đến một căn hầm là lối vào, và sau đó chờ những người cứu hộ phá thủng lớp tuyết lở”.
“Tôi không thích là người phải báo những tin tức xấu”, Pitt lạnh lùng nói, “nhưng, không những nhóm người cứu hộ đã bất lực trong việc đưa những trang bị nặng nề của họ qua khối tuyết dày hai mươi bộ lên khỏi miệng khu mỏ trên một lối đi hẹp, họ còn bất lực tìm kiếm vì nhiệt độ ngoài trời tăng lên tạo điều kiện thích hợp cho những vụ tuyết lở khác tiếp theo. Không thể nói phải mất bao nhiêu ngày hoặc bao nhiêu tuần lễ để họ dọn sạch con đường dẫn tới lối vào khu mỏ”.
Ông Marquez nhìn đống lửa trừng trừng, tưởng tượng trong đầu những tình huống đang xảy ra trên kia. “Mọi thứ đều có vẻ bất lợi đối với chúng ta”, ông điềm tĩnh nói.
“Chúng ta được sưởi ấm và có nước uống, duy chỉ phải chịu đựng sự dơ bẩn”, Pat nói. “Chắc chắn chúng ta có thể tồn tại một thời gian dù không có thực phẩm”.
Ambrose mỉm cười yếu ớt. “Sáu mươi đến bảy mươi ngày là thời gian người ta có thể nhịn đói cho tới lúc chết”.
“Hoặc là chúng ta có thể đi bộ ra ngoài trong lúc vẫn còn khỏe”, Pitt nói.
Ông Marquez lắc đầu. “Ông biết rõ hơn ai hết, đường hầm duy nhất dẫn từ khu mỏ Buccaneer đến Pandora đã ngập nước. Chúng ta không thể đi qua con đường ông đã tới đây”.
“Chắc chắn không thể nếu không có những dụng cụ lặn thích hợp”, Ambrose nói thêm.
“Đúng”, Pitt thừa nhận. “Nhưng dựa vào bản đồ đường đi được lập trình trên máy tính, tôi phỏng đoán ít nhất có hai tá đường hầm và hầm mỏ khô ráo khác tại những độ cao bên trên mà chúng ta có thể sử dụng để lên tới mặt đất”.
“Nghe được đấy”, ông Marquez nói. “Trừ trường hợp phần lớn những đường hầm này bị sập đổ sau chín mươi năm đã qua”. “Chưa hết đâu”, Ambrose nói, “còn bao chuyện khác không ai đoán được đang chờ đợi chúng ta”.
“Tôi đứng về phía ông”, Pat nói. “Chỉ trong một ngày, căn hầm của chúng ta chẳng đầy ắp nước là gì”.
Câu nói của cô khiến Pitt bước nhanh tới mép căn hầm và nhìn xuống. Những ngọn lửa chập chờn từ đống lửa phản chiếu trên mặt nước lúc này đã dâng cao lên ba bộ so với mặt sàn đường hầm. “Chúng ta không còn chọn lựa nào khác. Nước sẽ tràn ngập căn hầm này trong hai mươi phút nữa”.
Ông Marquez bước đến bên anh và đưa mắt nhìn xuống mặt nước đục ngầu. “Thật quái gở”, ông lẩm bẩm. “Sau chừng đó năm mới thấy nước dâng ngập lên tới độ cao này. Có lẽ những ngày săn lùng đá quí của tôi đã tới lúc chấm dứt rồi”.
“Một trong những đường đi của dòng nước dưới dãy núi chắc chắn đã vỡ, và nước tràn vào khu mỏ trong lúc động đất”.
“Không có chuyện động đất”, ông Marquez giận dữ nói. “Đó là một vụ đặt chất nổ”.
“Ông bảo chất nổ đã gây ngập nước và làm sập hầm mỏ?” Pitt hỏi. “Tôi chắc chắn”, ông ta nhìn Pitt rồi bất chợt đôi mắt nhíu lại. “Tôi dám cá có ai đó đang có mặt trong khu mỏ”.
Pitt nhìn vào khối nước đầy đe dọa. “Nếu đúng như thế”, anh nói, giọng trầm xuống, “thì có kẻ nào đó đã muốn cả ba vị đều chết”. “Ông dẫn đường”, Pitt nói với ông Marquez. “Chúng tôi sẽ đi theo chùm ánh sáng ngọn đèn thợ mỏ của ông cho tới khi nó hết sáng. Sau đó chúng ta sẽ đi theo ánh sáng ngọn đèn lặn của tôi”.
“Leo lên những độ cao bên trên qua những căn hầm là một công việc rất vất vả”, người thợ mỏ nói. “Chúng ta đã may mắn cho tới lúc này. Chỉ vài căn hầm có thang. Tại hầu hết những hầm khác, người ta phải dùng dây hoặc ròng rọc để vận chuyển thợ mỏ và quặng”.
“Chúng ta sẽ giải quyết chuyện đó khi sự việc xảy ra”, Pitt nói. Đồng hồ chỉ năm giờ chiều khi họ ra khỏi đường hầm, rẽ về bên trái theo hướng dẫn từ máy vi tính định vị của Pitt. Trông anh thật kỳ cục lúc đi qua đường hầm với bộ quần áo khô ráo, găng tay và đôi giày lặn Servus với chân vịt bằng thép. Anh chỉ đem theo cái máy vi tính, một la bàn, một đèn lặn dưới nước và con dao bấm bên ống chân phải. Anh bỏ lại những thứ khác bên đống lửa đang tàn lụi.
Đường hầm không có đất đá đổ xuống và họ di chuyển dễ dàng trong một trăm mét đầu tiên. Ông Marquez dẫn đường, theo sau là Pat và Ambrose, sau cùng là Pitt. Có đủ khoảng trống để đi bộ giữa cái xe chở quặng và vách đường hầm, nên họ không cần phải bước lên hoặc nhảy qua những thanh nối hai đường ray. Họ vượt qua một căn hầm, rồi hai căn, cả hai đều trống trơn, không có bất kỳ phương tiện gì giúp họ leo lên độ cao bên trên. Sau đó, họ đến một hành lang nhỏ mở ra ba đường hầm chìm trong bóng tối.
Pitt tìm chỉ dẫn từ cái vi tính đáng tin cậy của anh. “Đi thẳng đường hầm giữa”.
Được năm chục mét, họ gặp một đống đá sập. Số lượng những tảng đá không nhiều, và những người đàn ông dọn dẹp để lấy khoảng trống bò qua. Sau một giờ mười lăm phút đổ mồ hôi, họ khoét được một lốì đi đủ rộng để mọi người bò qua như những con rắn. Đường hầm dẫn vào một căn hầm khác có một khe nứt dẫn tới một cái ròng rọc cũ. Pitt chiếu ngọn đèn của anh vào đường hầm dốc đứng. Trông nó giống một ống thông gió. Đỉnh của nó ở xa hơn chùm ánh sáng có thể chiếu tới. Nhưng xem ra lối đi này có vẻ hứa hẹn. Một cái thang còn dính vào một vách đá, và những sợi cáp từng hạ thấp và nâng cao những cái lồng chứa người và quặng vẫn còn nằm đúng chỗ.
“Thứ này xem ra còn tốt chán”, Pitt nói.
“Tôi hy vọng cái thang còn tốt”, Ambrose nói và nắm một bên thang, lắc thử. Nó rung một lúc rồi đứng im. “Những ngày leo dây bằng hai tay của tôi đã qua lâu rồi”.
“Tôi sẽ lên đầu tiên”, Pitt nói, vừa điều chỉnh cái đèn lặn.
“Hãy cẩn thận bước chân đầu tiên”, Pat nói với một nụ cười yếu ớt. Pitt nhìn vào mắt cô và thấy rõ sự quan tâm chân thành. “Bước chân cuối cùng mới làm tôi lo lắng nhất”.
Anh bấu chặt cái thang, leo lên vài nấc rồi chần chừ vì cái thang lắc dữ dội. Anh hít sâu vào, đưa mắt nhìn những sợi dây cáp treo lủng lẳng cách anh chỉ một cánh tay. Nếu cái thang bị gãy, ít nhất anh cũng có thể với tay chộp lấy một trong những sợi cáp để không bị rơi xuống. Anh chậm rãi leo lên, mỗi lúc một nấc thang, kiểm tra cẩn thận trước khi giẫm lên một nấc mới với toàn bộ sức nặng của mình. Pitt có thể di chuyển nhanh hơn nhiều, nhưng anh phải an tâm về chuyện an toàn của những người nối gót anh.
Khi cách những người đang hồi hộp ngước mắt nhìn anh khoảng năm mươi bộ, Pitt dừng lại và chiếu ngọn đèn lên căn hầm phía trên. Cái thang đột ngột chấm dứt khi anh còn cách đỉnh của nó khoảng sáu bộ và cách sàn hầm phía trên khoảng mười tám bộ. Leo thêm hai nấc thang, Pitt duỗi một cánh tay ra chộp lấy một trong những sợi cáp. Đường kính sợi cáp dày khoảng năm phần tám inch nên rất dễ bám. Anh buông mình khỏi cái thang và, tay này sau tay kia, leo lên sợi cáp cho tới khi vượt khỏi sàn đường hầm phía trên chừng bốn bộ. Sau đó, anh đu đưa qua lại theo một hình đường vòng cung dài khoảng hai bộ mỗi lần đong đưa, trước khi nhảy xuống sàn đường hầm vững chắc.
“Thế nào?” ông Marquez hỏi vọng lên.
“Cái thang bị gãy tại dưới đường hầm, nhưng tôi có thể kéo mọi người lên từ chỗ thang gãy. Để Tiến sĩ O’Connell lên trước”. Lúc Pat leo lên về phía ánh đèn của Pitt, vì anh chiếu chùm ánh sáng xuống căn hầm, cô có thể nghe anh đập một hòn đá lên một vật gì đó. Cho đến khi cô lên tới nấc thang cuối cùng, Pitt đã khoét được hai chỗ để bám bàn tay trên một thanh gỗ và hạ thấp thanh gỗ xuống mép hầm. “Cô bám chặt hai bàn tay vào thanh gỗ để tôi kéo lên”.
Cô làm theo yêu cầu không chút ngần ngại và nhanh chóng được kéo lên căn hầm. Mấy phút sau, ông Marquez và Ambrose đã đứng trong hầm bên cạnh cô. Pitt chiếu ngọn đèn của anh lên đường hầm tới chỗ chùm tia sáng có thể xâm nhập tới và nhìn thấy có nhiều tảng đá sập. Rồi Pitt tắt đèn để tiết kiệm năng lượng.
“Tôi theo ông, ông Marquez”, anh nói.
“Tôi đã thăm dò căn hầm này ba năm trước. Nếu tôi nhớ chính xác thì nó dẫn thẳng tới lối vào hầm khu mỏ Paradise”.
“Không thể ra bằng lối này vì tuyết lở”, Ambrose nói.
“Chúng ta có thể đi bên cạnh nó”, Pitt nói, mắt nhìn màn hình máy định vị. “Nếu chúng ta theo giao lộ kế bên và đi chừng một trăm năm mươi mét, chúng ta sẽ gặp một đường hầm dẫn tới một khu mỏ có tên Sao Phương Bắc”.
“Giao lộ là cái gì?” Pat hỏi.
“Là chỗ những đường hầm gặp nhau theo những hướng thẳng góc tới một đường hầm đang hoạt động. Chúng được dùng để thông gió và liên lạc giữa những hầm mỏ đang khai thác”, ông Marquez giải thích, vừa nhìn Pitt với ánh mắt ngờ vực. “Tôi chưa bao giờ thấy một lối đi như vậy, không có nghĩa là nó không có, nhưng có thể nó đã bị lấp hoàn toàn”.
“Vậy ông hãy nhìn kỹ dọc theo vách đá đường hầm phía bên trái ông”, Pitt khuyến cáo.
Ông Marquez im lặng gật đầu và đi vào bóng tối, chùm ánh sáng từ cây đèn thợ mỏ của ông soi rõ lối đi. Đường hầm mở rộng và có vẻ kéo dài vô tận. Tới một điểm, ông dừng lại và yêu cầu Pitt chiếu ngọn đèn sáng hơn của anh vào một đống đá bít kín giữa những thanh gỗ chống.
“Nơi này trông có vẻ giống thứ chúng ta muốn tìm”, ông ta nói, và chỉ vào một mái vòm bằng đá granit bên trên đống đá.
Ngay lập tức, những người đàn ông bắt tay dọn dẹp đống đổ nát. Sau vài phút, họ xong việc. Pitt nghiêng đầu vào và chiếu chùm ánh sáng vào một hành lang vừa đủ rộng để họ đi qua. Sau đó, anh kiểm tra cái la bàn. “Nó hướng về bên phải. Chúng ta cứ tiếp tục đi tới”.
Đường hầm này hẹp hơn những đường khác, và họ phải bước trên những thanh nối hai đường ray của xe chở quặng, nên di chuyển rất chậm và vất vả. Sau một giờ đi liên tục không nghỉ trong bóng tối tù mù, chỉ với một ngọn đèn thợ mỏ lấp lánh, làm họ cạn kiệt sức lực còn sót lại. Mọi người đặt chân trên những thanh tà vẹt không bằng phẳng và phải nhảy bước một mỗi khi gặp một thanh gãy.
Một đống đổ nát khác có vẻ không thể dễ dàng dọn sạch làm tiêu tốn của họ đến hai giờ đồng hồ. Sau cùng, họ có thể đi qua một đường hầm thoai thoải dốc hướng lên trên trước khi chấm dứt tại một hành lang rộng.
Sự nỗ lực trong những giờ vừa qua bắt đầu tác động lên ông Marquez. Ông ta trông vẫn còn vẻ vạm vỡ với lứa tuổi của mình, nhưng ẳ
vẫn không chịu đựng nổi sự nhọc mệt và căng thẳng sau nhiều giờ qua. Tiến sĩ Ambrose trông có vẻ khá hơn như vừa đi dạo trên một lối đi trong công viên. Ông ta có vẻ bình thản lạ lùng và vững vàng như một giáo sư đang giảng bài. Riêng Pat không để lộ điều gì, vẫn lầm lũi bước tới.
Vì đi sau cùng nên Pitt không thể thấy nét mặt họ trong bóng tối tù mù, nhưng anh biết mỗi người trong bọn họ rất bình tĩnh, và điều đó giúp họ tiếp tục đi tới chừng nào ngã xuống mới thôi, và họ cũng không muốn là người đầu tiên đề nghị dừng lại nghỉ ngơi. Anh nhận thấy hơi thở của họ đã trở nên nặng nề hơn nhiều. Dù vẫn còn cảm thấy khỏe khoắn, anh bắt đầu thở hổn hển khá to đủ để những người kia có thể nghe rõ.
“Tôi đuối lắm rồi. Dừng lại nghỉ một lúc nhé?”
“Nghe được đấy”, ông Marquez nói, nhẹ nhõm vì có người khác đã đề nghị điều đó.
Ambrose dựa vào một vách đá. “Tôi đề nghị chúng ta đi tiếp cho đến khi ra khỏi nơi này”.
“Ông sẽ không được lá phiếu ủng hộ của tôi đâu”, Pat nói. “Hai chân tôi đang kêu gào đình công đây này. Chúng ta đã phải bước lên hàng ngàn thanh tà vẹt rồi”.
Mãi cho tới lúc cả bọn họ ngồi bệt xuống sàn hầm trong lúc Pitt vẫn bình thản đứng vững, họ mới biết mình đã bị lừa. Không ai trong nhóm họ phàn nàn, ai cũng thích thú thư giãn, xoa bóp cổ chân và đầu gối mỏi nhừ của họ.
“Có ai biết còn xa chừng nào không?” Pat hỏi.
Pitt đã quan sát màn hình cái máy tính hàng trăm lần. “Tôi không thể xác định một cách tuyệt đối, nhưng nếu chúng ta có thể bò lên hai độ cao nữa và không bị nhốt bởi một căn hầm bị sập khác thì chúng ta có thể ra khỏi chỗ này trong một giờ nữa”.
“Ông ước tính chúng ta sẽ thoát ra tại nơi nào?” ông Marquez hỏi. “Theo tôi, đó là một vị trí ngay bên dưới thị trấn Telluride”. “Có thể nơi đó là khu OReilly Claim. Đó là một hầm mỏ đã sập
không xa trạm xe được kéo bằng dây cáp chở du khách lên núi để trượt tuyết tại dốc Mountain village. Tuy vậy, ông có vấn đề đấy”. “Sao ?”
“Khách sạn New Sheridan và nhà hàng của nó nằm ngay trên nóc lối vào khu mỏ”.
Pitt ngoác miệng cười. “Nếu ông nói đúng thì hôm nay chúng ta sẽ không được ăn tối”.
Họ im lặng suốt hai phút sau đó, chìm trong ý nghĩ của mình. Chỉ có những âm thanh do hơi thở của họ tạo ra và tiếng những giọt nước do hơi ẩm đọng lại và rơi xuống từ trên nóc đường hầm. Sự nản lòng khiến họ mất hết hy vọng. Khi biết sự kết thúc có lẽ chỉ là chuyện trước mắt, họ càng cảm thấy mệt mỏi hơn bao giờ hết.
Pitt luôn nghĩ rằng phụ nữ luôn nghe chính xác hơn đàn ông nhiều, vì nhiều lần những cô bạn đã viếng thăm căn hộ của anh thường phàn nàn âm thanh phát ra từ cái TV quá ồn ào. Và ý nghĩ đó càng được củng cố khi Pat nói, “Tôi nghĩ tôi có nghe tiếng động cơ xe mô tô”.
“Một chiếc Harley-Davidson hay một chiếc Honda?”, ông Marquez hỏi và lần đầu tiên từ lúc rời khỏi nhà, ông phì cười.
“Không, tôi nói nghiêm chỉnh đấy”, Pat khẳng định. “Tôi thề đó là những âm thanh giống như tiếng động cơ xe mô tô”.
Rồi Pitt cũng nghe có âm thanh lạ. Anh quay lại và nhìn về phía đường hầm họ vừa đi qua và khum hai bàn tay quanh hai vành tai. Anh nhận ra đúng là tiếng động cơ nổ tối đa của xe mô tô. Anh quay sang ông Marquez, “Dân địa phương thường chạy mô tô loanh quanh trong những hầm mỏ cũ để tìm cảm giác mạnh à?”.
Ông Marquez lắc đầu, “Không bao giờ. Họ sẽ bị lạc trong mê cung đường hầm nếu không đâm đầu xuống những hang động sâu cả ngàn bộ. Chưa nói đến tiếng động cơ còn gây sập hầm chôn vùi họ. Không, ông bạn, theo tôi biết thì không ai điên khùng đến mức làm chuyện đó đâu”.
“Vậy những tiếng động này từ đâu đến chứ?” Pat hỏi, không đặc biệt nhắm vào người nào.
“Từ một khu mỏ khác có thể vẫn còn tới được. Chỉ có Chúa mới biết bằng cách nào những âm thanh đó lại lọt vào tới đây?”
“Một sự trùng khớp thật lạ lùng”, Pitt nói và nhìn lên đường hầm. Anh có một cảm giác thật nặng nề. Tại sao? Anh không rõ. Anh đứng im, không một cơ bắp nào cử động, lắng nghe những âm thanh lụp bụp của những ống xả khói khi chúng vang lớn hơn. Đó là những tiếng động lạ trong khu mỏ chằng chịt. Anh vẫn đứng im khi chùm tia sáng đầu tiên lóe lên từ xa chiếu xuống đường hầm.
Pitt chưa thể nói chỉ có một chiếc mô tô hoặc nhiều hơn đang tới đường hầm. Hình như chỉ có một giả thuyết hợp lý là anh sẽ phải giải thích
một hay nhiều, gã lái mô tô này là một đe dọa dành cho bọn anh. An toàn bao giờ cũng tốt hơn hốì tiếc. Câu tục ngữ này xưa và nhàm chán thật, nhưng nó đầy ý nghĩa, và bản chất thận trọng của Pitt đã hơn một lần cứu anh thoát khỏi hiểm nghèo.
Anh xoay người và thong thả đi qua Ambrose và ông Marquez. Bị lôi cuốn bởi những tiếng động và ánh sáng đang tới gần, họ đứng im và không chú ý lúc Pitt men theo một vách đá đường hầm, đi về phía những kẻ lái xe. Chỉ có Pat chăm chú theo dõi Pitt lúc anh kín đáo lẻn vào bóng tối đến một hốc đá hẹp giữa những thanh gỗ chống rồi mất dạng như một bóng ma.
Có đến ba gã lái mô tô. Trước đầu xe của chúng là một mạng với vô số bóng đèn cháy sáng làm lóa mắt những kẻ sống sót đang lấy bàn tay che mắt và quay nơi khác khi những động cơ chậm lại và hộp số lui về số không. Hai trong ba kẻ xâm nhập xuống xe và đến gần họ. Thân hình chúng in bóng trên sàn vì những tia sáng hắt lại từ sau lưng chúng. Cả hai trông giống như những sinh vật lạ từ những hành tinh khác trong những cái nón trùm đầu đen đúa, bóng loáng và những áo chẽn hai mảnh dưới cái áo giáp bảo vệ ngực. Những đôi giày bốt cao đến đầu gối và những bàn tay trong những găng tay màu đen. Gã thứ ba còn ngồi yên trên chiếc mô tô của hắn trong lúc hai gã kia đến gần những người sống sót vừa nâng những tấm kính che mắt từ những nón bảo hộ lên.
“Các ông không biết chúng tôi hạnh phúc như thế nào khi được nhìn thấy các ông đâu”, Pat nói với giọng phấn khích.
“Chúng tôi lẽ ra đã có thể được các ông giúp đỡ sớm hơn”, Ambrose mệt mỏi nói.
“Tôi có lời khen các người đã đến tận căn hầm này”, cái bóng bên phải nói, giọng hắn trầm và nham hiểm. “Bọn này tưởng các người đã phải chết chìm trong căn hầm Amenes rồi chứ?”.
“Amenes?” Pat lặp lại với vẻ bối rối.
“Các ông đến từ đâu?” ông Marquez hỏi.
“Không thành vấn đề”, gã cưỡi mô tô nói, như thể một giảng viên từ chối trả lời một câu hỏi vô nghĩa của sinh viên tại giảng đường đại học. “Các ông biết chúng tôi bị nhốt trong căn hầm đó sau vụ sập hầm và nước dâng à?”.
“Đúng thế”, hắn lạnh lùng trả lời.
ẳ
“Vậy mà các ông chẳng làm gì cả?” ông Marquez nói, có vẻ không tin. “Các ông không tìm cách cứu chúng tôi hoặc gọi người giúp đỡ?”. “Không”.
Rõ là một tay ăn nói lôi cuốn, Pitt nghĩ. Nếu như anh đã có một chút nghi ngờ sớm hơn, thì lúc này anh đã hoàn toàn bị thuyết phục là ba gã đàn ông này không phải là những tay liều lĩnh ngông cuồng trong chuyến phiêu lưu cuối tuần của chúng. Bọn này là những tên giết người, và chúng được trang bị kỹ. Anh không biết lý do tại sao, nhưng anh biết rõ bọn chúng không tới đây để giúp đỡ họ sống và thoát khỏi khu hầm mỏ này. Đã tới lúc hành động, và tính bất ngờ là ưu thế của a Pitt rút con dao bấm ra khỏi vỏ bọc và nắm chặt cán dao. Đó là thứ vũ khí duy nhất anh có, và nó phải tạo tác dụng. Anh nhẹ nhàng và chậm rãi hít vào vài hơi thở sâu rồi co duỗi những ngón tay. Lúc này hoặc không bao giờ.
“Chúng tôi đến căn phòng đó được vài phút thì xảy ra vụ sập hầm”, Pat nói. Cô tự hỏi không biết Pitt đang tính toán chuyện gì. Cô bắt đầu thắc mắc, không biết anh có phải là một gã hèn nhát đang tìm cách trốn tránh nguy hiểm không.
“Bọn này biết cả. Đó là một âm mưu”.
“Âm mưu? Âm mưu gì chứ? “
“Tất cả các người đều phải chết”, gã cưỡi mô tô bình thản nói. Câu nói của hắn được tiếp nhận trong sự im lặng bàng hoàng sửng sốt của ba người sống sót. “Thật không may, các người đã thoát được vụ sập hầm và nước ngập”, gã lái mô tô nói tiếp. “Bọn này không tiên liệu được sự kiên trì của các người. Nhưng điều đó cũng không thành vấn đề. Các người chỉ đâm đầu vào một kết thúc không thể tránh”. “Vụ nổ mìn”, ông Marquez lẩm bẩm trong cơn sốc. “Các ông làm chuyện đó phải không?”
Câu trả lời thật dứt khoát, “Đúng, chính bọn này đã đặt chất nổ”. Pat bắt đầu trông giống một con nai đang chăm chú nhìn những chùm ánh sáng trước đầu một chiếc xe tải đang tới gần. Cô biết những gã lái mô tô này không nhận ra sự có mặt của Pitt, vì vậy, cô hành động như thể anh không tồn tại trên đời này. Ông Marquez và Ambrose đều biết Pitt đang đứng im lặng phía sau họ, và có lẽ cũng đang sửng sốt như họ. “Tại sao các ông muốn giết chúng tôi?” cô hỏi, giọng run rẩy. “Tại sao những kẻ xa lạ nào đó lại muốn sát hại chúng tôi? “.
“Các người đã nhìn thấy cái xương sọ đó và những chữ khắc”.
Trông ông Marquez giống như một người bị xâu xé giữa sợ hãi và giận dữ. “Nếu thế thì sao?”, ông gầm gừ.
“Những phát hiện của các người không được phép phổ biến ra ngoài phạm vi khu mỏ này”.
“Chúng tôi chẳng làm gì sai trái”, Ambrose nói, điềm tĩnh, một cách lạ lùng. “Chúng tôi là những nhà khoa học đang nghiên cứu những hiện tượng lịch sử. Chúng tôi không quan tâm đến những kho tàng mà chỉ chuyên chú vào những cổ vật. Nếu vì vậy mà bị mưu hại thì quả là điên rồ”.
Gã lái mô tô nhún vai “Đó là điều không may mắn, nhưng các người đã dính vào những sự việc vượt quá hiểu biết của mình”.
“Làm sao các ông có thể biết chuyện chúng tôi vào căn hầm đó?” ông Marquez hỏi.
“Chúng tôi được thông tin. Đó là tất cả những gì các người cần biết”.
“Ai thông tin? Không có hơn năm người biết chúng tôi đến căn hầm đó”.
“Chúng ta đang phí phạm thì giờ”, gã thứ hai càu nhàu, “Chúng ta hãy kết thúc nhiệm vụ và ném chúng xuống lò hầm gần nhất”. “Đây là một hành động điên rồ”, Ambrose lẩm bẩm, giọng nói không để lộ điều gì.
Pitt im lặng di chuyển ra khỏi hốc đá. Không một âm thanh nào của những bước chân nào bị phát giác vì chúng lẩn vào tiếng động cơ xe và anh tiến lại gần sau lưng gã còn ngồi trên mô tô đang bị phân tâm bởi câu chuyện giữa những người kia. Pitt chẳng lạ lùng gì với chuyện giết chóc, nhưng chưa bao giờ anh phải đâm sau lưng một người khác, dù đó là một tên đại ác. Anh trở cán con dao bấm và dùng hết sức mạnh nện cán dao lên gáy tên lái mô tô ngay dưới cái nón bảo hộ. Cú đánh không phải là một đòn chí tử nhưng vẫn là một cú làm chết người. Gã lái mô tô đổ xuống tại chỗ ngồi, ngã ngửa ra sau vào thân hình Pitt, không kịp thốt ra một tiếng rên nhỏ. Pitt thu mình thấp xuống, nhanh chóng vươn hai cánh tay quanh thân thể gã lái mô tô, giữ yên cái xác một lúc rồi hạ thấp cái xác cùng chiếc mô tô xuống, dựa vào cái xe chở quặng trong lúc động cơ chiếc mô tô vẫn hoạt động.
Thật nhanh, anh đẩy cái áo giáp che ngực của hắn sang một bên, tháo cái túi bao súng dưới nách hắn, rút khẩu súng lục tự động P.10 nòng 45 ra.
Anh hướng nòng súng về phía tên đứng bên tay phải anh và kéo cái búa kích hỏa của khẩu súng về phía sau. Anh chưa từng sử dụng loại súng P10 này, nhưng do cảm nhận, anh biết băng đạn đã lắp đầy đạn và khẩu súng có hầu hết đặc điểm của khẩu Colt 45 cũ kỹ đáng tin cậy của anh, đang nằm trong chiếc xe của NUMA mà anh đã lái tới Colorado từ thủ đô Washington.
Ánh sáng những ngọn đèn chiếu của những chiếc mô tô lấp loáng trên thân thể hai kẻ giết người hoàn toàn không nhận biết cái bóng đang giấu mình ngay sau lưng chúng. Nhưng lúc Pitt đến gần hơn, anh phải đi qua trước ánh đèn của tên thứ ba đang nằm dựa trên cái xe chở quặng. Và Ambrose đã nhận ra anh.
Nhà nhân loại học nhìn Pitt vừa hiện ra, lén đến sau lưng hai gã lái mô tô nên buột miệng hỏi “Vì sao ông quay lại? “.
Khi câu nói thốt ra, Pitt thận trọng nhắm và ngón tay trỏ anh vuốt lên cò súng.
“Anh nói với ai thế?”, gã lái mô tô thứ nhất hỏi.
“Với tôi”, Pitt bình tĩnh lên tiếng.
Những gã này đều là những tên giết người chuyên nghiệp. Chúng không hề có dấu hiệu ngạc nhiên đột ngột. Không tranh luận vô ích. Không một câu hỏi thừa. Không chần chừ hoặc làm một cử động thừa thãi. Giác quan thứ sáu của chúng cùng lúc hoạt động. Phản ứng của chúng nhanh như một tia chớp. Với một động tác thuần thục, chúng rút những khẩu P.10 tự động từ những bao da và vung tay ra chỉ trong một giây, nét mặt chúng đanh lại, vẻ lạnh lùng không thể lay chuyển.
Pitt không hoàn toàn đối mặt với hai gã giết người theo kiểu đầu gối gập xuống, khẩu súng nắm chắc trong lòng hai bàn tay, chĩa thẳng ra trước mặt, theo cách họ dạy trong trường đào tạo cảnh sát hoặc thường thấy trên phim ảnh. Anh thích thế đứng cổ điển hơn, thân mình nghiêng sang một bên, cặp mắt liếc nhìn qua vai, một bàn tay chỉa thẳng khẩu súng ra. Như thế, không những anh đã không bỏ sót đối tượng mà đường nhắm càng chính xác hơn. Anh biết những tay súng miền Tây có thể sống đến già không phải vì họ là những kẻ rút súng nhanh nhất mà vì họ là những người bắn chính xác nhất, họ đã có đủ thời gian để nhắm trước khi siết cò.
Phát đạn đầu tiên của Pitt xuyên qua gáy tên lái mô tô đứng bên phải. Khẩu P.10 chuyển động nhẹ, hầu như không thể nhận ra, lúc anh bóp cò lần thứ nhì, và gã lái mô tô đứng bên trái nhận một viên đạn vào ngực hầu như
cùng lúc khẩu súng của hắn lóe sáng trên cái bóng của Pitt. Anh không thể tin hai gã này có thể phản ứng cùng lúc và chỉ trong một nháy mắt như thế. Nếu chỉ chậm hai giây, chắc chắn cái xác Pitt đã đổ sập xuống sàn đá granit của đường hầm.
Những tiếng súng chát chúa chẳng khác gì đạn súng cối nổ dội lại những vách đá trong đường hầm. Trong mười giây, có lẽ hai mươi, có vẻ dài như một giờ, Pat, Ambrose và ông Marquez nhìn những xác chết dưới chân họ, mắt họ mở lớn và đờ ra. Sau cùng, niềm hy vọng lại bắt đầu mong manh xuất hiện khi họ nhận ra mình vẫn còn sống.
“Nhân danh Chúa, điều gì đang xảy ra thế? “, Pat hỏi, giọng cô thấp và mơ hồ. Rồi cô ngước nhìn Pitt. “Ông đã giết họ?” Đó là một nhận xét hơn là một câu hỏi.
“Bọn họ đáng chết hơn các bạn chứ”, Pitt nói và choàng cánh tay quanh vai cô. “Chúng ta vừa trải qua một cơn ác mộng, nhưng bây giờ hầu như nó đã kết thúc”.
Ông Marquez bước qua những thanh ray và cúi xuống những xác chết. “Bọn này là ai nhỉ?”
“Một bí ẩn dành cho các cấp có thẩm quyền bên tư pháp giải quyết”. Ambrose trả lời. Ông ta đưa một bàn tay ra, “Tôi muốn bắt tay ông, thưa ông...”, ông ta dừng lại và có vẻ bỡ ngỡ. “Thậm chí tôi còn không biết tên người đã cứu sống tôi”.
“Đó là Dirk Pitt”, Pat nói.
“Tôi nợ ông sâu sắc”, Ambrose tiếp tục. Ông ta có vẻ kích động hơn là nhẹ nhõm.
“Tôi cũng vậy”, ông Marquez thêm vào và vỗ lưng Pitt.
“Ông nghĩ bọn chúng từ hầm mỏ nào vào đây?” Pitt hỏi ông Marquez.
Người thợ mỏ nghĩ ngợi một lúc. “Chắc chắn là khu mỏ Paradise”. “Nghĩa là chúng cố ý để bị kẹt lại sau khi đặt chất nổ làm tuyết lở”, Ambrose nhận xét.
Pitt lắc đầu. “Không có chủ ý đâu. Chúng biết có thể lên lại mặt đất từ một lối đi khác. Nhầm lẫn lớn của chúng là đã dùng một lượng chất nổ quá lớn. Chúng không dự trù hiện tượng động đất, chuyện đường hầm bị sập và những khe nứt dưới lòng đất mở ra, dẫn đường cho nước dâng lên và tràn ngập đường hầm”.
“Có vẻ như vậy”, ông Marquez đồng ý. “Vì chúng có mặt tại phía đối diện nơi hầm lò sập, nên chúng có thể dễ dàng cỡi mô tô lên hầm lò thoai thoải dốc cho tới lối vào. Khi nhận ra nơi đó đã bị tuyết lở bít kín, chúng bắt đầu dò dẫm những đường hầm để tìm lối ra...”.
“Và sau khi bị lạc nhiều giờ trong những hầm lò, sau cùng chúng đã tới đây”, Ambrose kết luận.
Pitt gật đầu. “Từ lối vào khu mỏ Paradise lái mô tô tới độ cao ở đây, chúng tránh được chuyện phải bò qua những đường hầm dốc đứng mà chúng ta đã vất vả nỗ lực vượt qua”.
“Có vẻ như chúng tìm đến chúng ta”, ông Marquez lẩm bẩm. Pitt không nói ý nghĩ của anh cho những người kia, nhưng anh biết chắc chắn một khi những tên lái mô tô lên được tầng trên để thoát khỏi nước ngập, rõ ràng chúng phải lần theo dấu chân bốn người bọn họ. “Tất cả đều điên rồ”, Pat nói, mắt nhìn những xác chết. “Người đàn ông kia ngụ ý gì khi nói “dính đến những vấn đề vượt quá sự hiểu biết của chúng ta”?”.
Pitt nhún vai. “Chuyện đó để những người khác giải quyết. Câu hỏi trong đầu tôi là ai đã phái chúng tới? Chúng đại diện cho ai? Vượt khỏi những câu hỏi đó thì tôi chỉ là một kỹ sư hàng hải đang ướt và lạnh nên chỉ muốn một miếng sườn nướng hơi tái kiểu Colorado và một cốc rượu tequilla của Mexico”.
“Là kỹ sư hàng hải”, tiến sĩ Ambrose nói vừa phì cười, “vậy mà ông sử dụng súng thật khéo”.
“Có gì đáng nói khi bắn một người từ sau lưng”, Pitt thản nhiên. “Chúng ta làm gì với gã đó”, ông Marquez hỏi, chỉ vào tên lái mô tô bị Pitt nện bất tỉnh.
“Chúng ta không có dây để trói hắn lại, vì vậy phải lột đôi bốt của hắn. Hắn không thể đi xa với đôi chân trần qua những đường hầm nham nhở này”.
“Ông muốn bỏ hắn lại? “.
“Chẳng ý nghĩa gì khi lôi theo một cái xác trơ lì. Chỉ mong là cho tới lúc chúng ta báo cho ông Cảnh sát trưởng và ông ta phái các phụ tá tới đây, tên giết mướn kia vẫn còn bất tỉnh”. Rồi Pitt dừng lại và hỏi, “Ai trong các vị biết lái mô tô? “.
“Tôi đã có một chiếc Harley trong mười năm”, ông Marquez nói. “Còn tôi có một chiếc Honda CBX Super sport của cha tôi”, Pat nói. “Cô có bao giờ lái nó chưa?”
“Mỗi lần đến trường đại học. Ngoài ra tôi còn thả rông trên đường trong những ngày cuối tuần”.
Pitt nhìn Pat với cảm giác khâm phục mới tìm thấy. “Vậy thì cô là một phụ nữ có đôi-mông-cứng-trên-yên-da rồi còn gì”.
“Ấy là ông nói thế”, cô vui vẻ trả lời.
Rồi anh quay sang Ambrose, “Còn ông, ông tiến sĩ?”
“Cả đời chưa đặt mông lên một chiếc xe hai bánh. Tại sao ông hỏi?” “Vì chúng ta sẽ sử dụng ba chiếc Suzuki RM 125 hoàn hảo này, và tôi thấy không có lý do gì chúng ta không mượn và cỡi chúng ra khỏi khu mỏ”.
Hai hàm răng ông Marquez lộ ra qua nụ cười. “Tôi đứng về phía ông”.
“Tôi sẽ đợi ở đây cho tới khi ông Cảnh sát trưởng tới”, Ambrose nói. “Các vị cứ đi trước. Tôi không muốn có mặt quá lâu bên cạnh một gã giết người và hai cái xác chết”.
“Tôi không muốn để ông ở lại một mình với gã giết mướn này, Tiến sĩ ạ. Tôi chỉ muốn ông ngồi sau lưng tôi cho tới khi chúng ta thoát khỏi nơi này”.
Ambrose vẫn khăng khăng. “Những chiếc mô tô này chẳng có vẻ gì là muốn chở hành khách. Tôi không chịu được nếu ngồi lên một chiếc. Vả lại, ông phải lái xe qua những đường ray, nó xóc không khác gì địa ngục đâu”.
“Tùy ông vậy”, Pitt nói với nhà nhân loại học bướng bỉnh. Pitt cúi xuống, lấy những khẩu P10 tự động khỏi những xác chết. Dù là một kẻ sẵn sàng giết người lúc cần, Pitt vẫn không tránh được cảm giác bứt rứt, dù chỉ một phút trước, những kẻ này đã định giết hai ba người vô tội chúng chưa hề biết, một hành động anh không bao giờ cho phép xảy ra trong bất kỳ tình huống nào.
Anh đưa một khẩu súng cho Ambrose. “Ông hãy đứng xa gã đó ít nhất hai chục bộ”. Anh cũng đưa cho ông ta cây đèn lặn. “Những cục pin có thể cung cấp ánh sáng cho tới khi ông Cảnh sát trưởng đến”.
“Tôi nghĩ tôi không thể nổ súng vào một người nào khác”, Ambrose chống chế, nhưng giọng nói của ông ta nghe thật lạnh.
“Chớ xem những gã này là những con người. Chúng là những tên giết mướn có máu lạnh, có thể cắt đứt cổ họng phụ nữ rồi ngay sau đó ngồi ăn kem. Tôi cảnh báo ông, Tiến sĩ, nếu hắn liếc mắt nhìn ông, hãy nện cái sọ hắn với một hòn đá”.
Những chiếc Suzuki vẫn còn nổ máy, và họ mất không đầy một phút để làm quen với hộp số, thắng, kiểm soát độ cứng bánh xe. Vẫy tay tạm biệt Ambrose, Pitt rú ga vọt lên đầu tiên. Vì không có đủ khoảng trống giữa đường ray bên ngoài và vách đường hầm để phóng xe qua mà không va phải những chỗ lồi ra trên vách đá granit nham nhở, Pitt phải lái xe trên những thanh nối giữa hai đường ray. Pat và ông Marquez bám sát phía sau. Bị nẩy mạnh trên những thanh tà vẹt, hai hàm răng họ đánh vào nhau và rất khó khăn trong việc điều khiển chiếc xe. Pat có cảm giác như thể các cơ quan nội tạng của cô rối tung lên như quần áo trong cái máy giặt đang hoạt động. Pitt khám phá ra một trò là nếu chạy đúng tốc độ thích hợp, sự rung động sẽ giảm nhiều. Nếu chạy xe với vận tốc hai mươi lăm dặm — giờ, một vận tốc có vẻ chậm và an toàn trên một đường đất nhưng lại rất nguy hiểm trong một hầm mỏ chật hẹp.
Những tiếng động dội lại từ vách đá cứng tạo những tiếng vang trong tai họ như những đợt sóng. Những chùm ánh sáng từ những đèn chiếu trước đầu xe trồi lên hụp xuống, quét lên những đường ray và những xà gỗ trên cao giống như những ánh chớp. Pitt suýt đâm vào một chiếc xe chở quặng một phần nằm trên đường ray một phần nằm lọt ra ngoài gần vách đá. Sau khi lái xe lên một hầm lò thoai thoải dốc, họ đến một nơi cao hơn dẫn vào một hầm mỏ có tên “The Citizen” (Công dân) trên màn hình máy vi tính định vị của Pitt. Anh tiếp tục lên tới đỉnh dốc, tại đây đường hầm gặp một đường hầm khác, và Pitt lại tham khảo cái máy vi tính.
“Chúng ta bị lạc à?” Pat hỏi.
“Cách đây khoảng hai trăm mét về bên trái đường hầm có lẽ là điểm kết thúc, ông bảo nơi đó nằm ngang dưới khách sạn New Sheridan phải không?”
“Đúng. Đó là lối vào khu mỏ OReilly Claim đã bị lấp”, ông Marquez nói. “Chúng ta không thể thoát ra theo con đường đó”.
“Cứ xem thử, có sao đâu”, Pitt nói, rồi gài số và phóng chiếc Suzuki tới. Chỉ hai phút sau, anh lại thắng gấp chiếc xe khi bất thình lình bị chận ngang bởi một bức tường gạch vững chắc bít kín lối vào khu mỏ. Chiếc xe dừng lại đột ngột và trượt vào một thanh chống. Pitt nhìn bức tường qua ánh sáng ngọn đèn chiếu.
“Chúng ta phải tìm một lối đi khác”, ông Marquez nói, vừa giữ chiếc xe còn tiếp tục chạy tới cuối dốc, rồi đặt hai chân xuống sàn hầm để giữ thăng bằng. “Chúng ta đang ở dưới móng bức tường khách sạn”.
Có vẻ như Pitt không nghe người thợ mỏ nói. Như thể đầu óc anh đang ở một nơi nào đó cách xa hàng ngàn dặm. Anh chậm rãi bước đến bức tường và rà bàn tay trên những viên gạch nung khô màu đỏ. Anh quay lại lúc Pat dừng chiếc xe của cô và tắt động cơ.
“Bây giờ ta đi đâu?” cô hỏi, giọng nói cho thấy cô rất mỏi mệt. Pítt nói, không nhìn cô. “Chỗ kia”, anh trả lời mà không chuẩn bị trước và chỉ tay về phía bức tường gạch. “Đề nghị hai bạn đưa những chiếc xe của mình sát hai bên vách đường hầm”.
Cả Pat và ông Marquez đều không hiểu Pitt muốn gì. Họ vẫn đứng im sau khi Pitt lại ngồi lên chiếc Suz, khởi động động cơ, quay đầu xe chạy ngược về phía đường hầm. Một phút sau họ nghe tiếng động cơ nổ lớn hơn và trông thấy chùm ánh sáng ngọn đèn chiếu của chiếc Suz nhảy múa điên cuồng trên những xà rầm và cột chống.
Tới lúc này thì ông Marquez đã biết Pitt định làm gì, khi anh lao chiếc xe tới với vận tốc ba mươi dặm - giờ, hai chân duỗi ra và gót chân trượt trên hai thanh ray nằm song song. Và khi chỉ còn cách bức tường gạch chừng mười mét, Pitt buông tay khỏi tay lái xe, đứng thẳng lên, để mặc chiếc Suz bên dưới anh tiếp tục lao tới. Ngửa người về phía sau để giữ thăng bằng với đà lao tới nên anh vẫn ổn định bước tới khoảng hai mươi bộ trước khi trượt chân khỏi hai đường ray và ngã xuống sàn hầm như một quả bóng.
Chiếc mô tô vẫn lao tới trên hai bánh của nó rồi đâm sầm vào bức tường gạch. Anh đứng im lấy lại hơi thở và chờ đợi cơn đau từ vết bầm tím trên xương sườn và cái vai trật khớp lắng dịu lại, trong lúc ông Marquez bắt đầu gỡ những viên gạch lung lay trên mép lỗ thủng do chiếc mô tô tạo ra, để mở rộng lối đi.
Ông Marquez nhìn quanh bức tường vỡ rồi chiếu ngọn đèn thợ mỏ của mình vào bên trong. Sau mấy giây, ông quay đầu lại và nói, “Tôi nghĩ chúng ta gặp rắc rối to rồi”.
“Sao?” Pat hỏi. “Chúng ta không thể thoát ra bằng lối đó à?” “Có thể thoát”, ông thợ mỏ đáp, “nhưng phải mất rất nhiều thì giờ?” “Lý do?”
Pitt bước lại lỗ thủng trong cơn đau và nhìn vào trong. “Ồ, không”, anh rên rỉ.
“Cái gì thế?” Pat hỏi với vẻ bực tức.
“Cái xe mô tô”, Pitt nói. “Nó đâm vào hầm rượu của nhà hàng khách sạn. Hàng trăm chai rượu vang vỡ chảy lai láng khắp sàn phòng”.
***
Cảnh sát trưởng James Eagan J.R. đang chỉ huy đội cứu hộ tại khu mỏ Paradise thì ông nhận được cú gọi từ nhân viên văn thư thông báo ông Marquez đang bị giam giữ theo lệnh ông phó quận trưởng tại khách sạn New Sheridan vì đã gây đổ vỡ và xâm nhập nơi này. Ông Eagan không tin có chuyện đó. Làm sao có thể như thế chứ? Bà vợ ông Marquez đã quả quyết báo tin chồng mình và hai người nữa đều bị kẹt trong khu mỏ sau vụ tuyết lở.
Sau khi ngẫm nghĩ, ông Eagan chấm dứt chiến dịch cứu hộ và lái xe xuống núi, về phía khách sạn.
Điều cuối cùng ông chờ đợi là nhìn thấy một chiếc xe mô tô F1 nhàu nát nằm giữa một đống những chai rượu vỡ, và rượu vang lênh láng khắp nơi. Sự ngạc nhiên của ông ta càng lớn khi bước vào phòng họp khách sạn để đối mặt những kẻ bị buộc tội và nhận ra ba con người ướt nhẹp, bẩn thỉu và lôi thôi lếch thếch gồm hai đàn ông và một phụ nữ. Một người trong bọn họ mặc bộ quần áo thợ lặn rách nham hhở. Cả ba đều bị còng và bị hai nhân viên của thị trấn giám sát với nét mặt nghiêm nghị đến lạnh lùng. Một trong hai người hất đầu về phía Pitt.
“Gã này đang mang cả một khẩu súng”.
“Anh thu vũ khí của anh ta chưa?” ông Eagan hỏi với giọng nghề nghiệp.
Người phụ tá gật đầu và đưa ra ba khẩu Para — Ordance nòng 45 ly tự động.
Hài lòng, ông Eagan dồn sự chú ý vào ông Luis Marquez, “Bằng cách ma quỉ nào ông thoát khỏi khu mỏ và bị gió thổi tới đây?” ông ta hỏi, không giấu được ngạc nhiên cao độ.
“Chuyện đó không thành vấn đề”, ông Marquez trả lời nhát gừng. “Ông và các phụ tá của ông phải xuống đường hầm. Các ông sẽ thấy có hai xác chết và một ông giáo sư đại học, Tiến sĩ Ambrose, mà chúng tôi để lại để canh giữ một gã sát nhân”.
Một cảm giác thật sự chán ngán, hầu như hoàn toàn nghi ngờ, xâm chiếm ông Cảnh sát trưởng khi ông ta ngồi xuống cái ghế, hai chân duỗi thẳng và rút ra một cuốn sổ ghi chép từ túi ngực áo sơmi. “Đề nghị ông thuật lại đúng những gì đang xảy ra ở đây”.
Ông Marquez gượng gạo vắn tắt thuật lại vụ tuyết lở, hầm mỏ bị sập và bị nước ngập, sự xuất hiện ngẫu nhiên của Pitt, việc họ thoát khỏi căn hầm bí ẩn, sự xâm nhập của ba tên giết mướn và sau cùng là vụ phá vỡ bức tường gạch rồi lọt vào hầm rượu khách sạn.
Lúc đầu, những chi tiết được tường thuật chậm chạp, vì ông Marquez còn dành thì giờ để lấy lại sức sau những nỗ lực quá độ. Sau đó ông nói nhanh hơn khi cảm nhận được sự ngờ vực rõ ràng của người Cảnh sát trưởng. Sự thất vọng giảm dần và được thay thế bằng lời nài nỉ khi ông Marquez khẩn cầu ông Eagan giải cứu Tiến sĩ Ambrose. “Nào, Jim, đừng bướng bỉnh nữa. Hãy chấm dứt vặn hỏi và đích thân đến đó”.
Cảnh sát trưởng Eagan biết rõ và kính trọng ông Marquez là một người liêm chính, nhưng câu chuyện của ông này quá hoang đường và
không có chứng cứ rõ ràng. “Những cái xương sọ nham thạch màu đen, những chữ viết không thể giải mã trong một căn hầm được khoét sâu hàng ngàn bộ dưới lòng núi, những gã sát nhân lao xe mô tô trong những hầm mỏ. Nếu những gì ông nói với tôi đều là sự thực, thì chính ba người các ông có lẽ đã bị giết rồi”.
“Ông Marquez đã nói với ông sự thật trung thực nhất”, Pat thong thả nói, lần đầu tiên cô lên tiếng. “Tại sao ông không tin ông ấy chứ?” “Còn cô là ai?”
“Patricia O’Connell”, cô mệt mỏi trả lời. “Tôi làm việc tại Đại học Pennsylvania”.
“Lý do khiến cô có mặt trong khu mỏ?”.
“Phạm trù của tôi là môn cổ ngữ. Tôi được yêu cầu đến Telluride để giải mã những chữ viết lạ mà ông Marquez đã phát hiện trong mỏ của ông ấy”.
Ông Eagan nhìn người phụ nữ một lúc. Chắc hẳn cô ta cũng xinh đẹp khi ăn mặc chỉnh tề và trang điểm. Ông ta không dễ dàng tin cô là một Tiến sĩ Khoa cổ ngữ. Cô ngồi đó với mái tóc ướt rối beng và gương mặt loang lổ bùn sình, trông giống một mụ ăn xin vô gia cư.
“Tất cả những gì tôi biết rõ”, ông Eagan chậm rãi nói, “là các người đã phá hỏng một xe mô tô có lẽ là vật ăn cắp và phá hoại một hầm rượu của khách sạn”.
“Quên chuyện đó đi”, ông Marquez nài nỉ. “Hãy cứu Tiến sĩ Ambrose ngay”.
“Chỉ khi nào tôi biết rõ sự việc sau khi người của tôi vào khu mỏ”.
***
Jim Eagan trở thành Cảnh sát trưởng quận San Miguel được tám năm và làm việc rất hòa hợp với những quan chức trong thị trấn Telluride. Những chuyện giết người rất hiếm khi xảy ra trong quận này. Những vụ có dính líu tới luật pháp thường chỉ xảy ra liên quan đến những vụ tai nạn giao thông, những vụ ăn cắp vặt, say rượu đánh nhau, phá hoại và những vụ bán thuốc kích thích lẻ tẻ và thường do những du khách ghé qua Telluride gây ra trong mùa nghỉ hè và trong những dịp có lễ hội. Ông Eagan được dân chúng trong địa phương nhỏ bé nhưng xinh đẹp này nể trọng. Ông ta là một người xởi lởi, nghiêm chỉnh trong công việc, nhưng lại dễ dàng nói cười
ồn ào mỗi khi có một ly bia. Với chiều cao và một trọng lượng trung bình, ông ta thường mang một vẻ mặt có thể làm người khác sợ sệt. Một ánh mắt thường làm co rúm những kẻ khả nghi bị ông ta bắt giữ.
“Ông cho phép tôi nhận một ân huệ nhỏ được không?” Người đàn ông tiều tụy và mệt nhọc trong bộ đồ lặn rách rưới, như thể anh ta vừa bị kéo lêqua những vòi nước của một máy bơm, lên tiếng hỏi.
Qua cái nhìn đầu tiên, ông Eagan nhận thấy anh ta khoảng bốn mươi lăm tuổi, nhưng có thể anh ta trẻ hơn năm tuổi nếu gương mặt không rám nắng và hốc hác như thế. Ông Cảnh sát trưởng đoán anh ta cao khoảng một mét chín mươi, nặng chừng một trăm tám mươi lăm cân Anh. Tóc anh ta đen và dợn sóng, những sợi hai bên thái dương màu trắng xám. Cặp lông mày rậm và sẫm màu phủ trùm đôi mắt sinh động màu xanh lục. Một sống mũi thẳng và hẹp nằm trên cặp môi mím chặt với những khóe miệng nhếch lên trên trông như lúc nào cũng tươi cười. Điều làm ông Eagan e ngại hoàn toàn không phải là thái độ dửng dưng của anh ta — ông biết có nhiều tên phạm tội ác thường tỏ ra lãnh đạm - nhưng là vẻ bất cần, gây sửng sốt cho người khác toát ra từ anh. Rõ ràng gã đàn ông bên kia cái bàn chẳng quan tâm gì đến chiến thuật đánh phủ đầu của ông Eagan.
“Còn tùy”, sau cùng ông Cảnh sát trưởng trả lời, cây viết bi của ông ta lơ lửng trên trang giấy cuốn sổ ghi chép, “Tên ông?”
“Dirk Pitt”.
“Vì sao ông dính đến vụ này, ông Pitt?”
“Tôi là giám đốc dự án đặc biệt của NUMA thuộc Bộ Hải quân. Tôi vừa đi qua vùng này và có ý nghĩ người ta có thể khai thác vàng ở đây”. Là người thâm trầm, ông Eagan không dễ dàng bị kích động trước tình thế bất lợi. “Chúng ta có thể làm việc mà không cần sự hài hước, ông Pitt”.
“Nếu tôi cho ông một số điện thoại, ông sẽ dành ưu đãi cho tôi được gọi chứ?” Giọng Pitt lễ độ, không một dấu hiệu thù địch.
“Ông muốn nói chuyện với một luật sư?”
Pitt lắc đầu. “Không, không có chuyện đó đâu. Tôi nghĩ một cú điện thoại đơn giản để xác định vị trí và sự có mặt của tôi có thể có ích đấy”. Ông Eagan suy nghĩ một lúc, rồi đẩy cây bút và cuốn sổ qua bên kia bàn. “Okay, ông ghi con số đi”.
Pitt viết vào cuốn sổ và trả lại. “Điện thoại đường dài. Ông có thể yêu cầu người nghe trả tiền, nếu muốn”.
“Ông có thể trả cho khách sạn”, ông Eagan nói với một nụ cười nhẹ. “Ông sẽ nói chuyện với Đô đốc Sandecker”, Pitt nói. “Con số đó là đường dây riêng của ông ấy. Nói tên tôi với ông ấy và giải thích tình huống”.
Ông Eagan nhấc cái điện thoại trên cái bàn gần đó, yêu cầu được gọi điện thoại đường dài, rồi bấm số. Sau một lúc ngắn im lặng, ông Eagan nói. “Thưa Đô đốc Sandecker, tôi là Cảnh sát trưởng Jim Eagan của quận San Miguel, bang Colorado. Tôi có một vấn đề ở đây liên quan tới một người đàn ông tuyên bố đang làm việc cho ông. Tên ông ta là Dirk Pitt”. Rồi ông Eagan nhanh chóng thuật vắn tắt sự việc, cho biết có thể bị bắt giam và bị buộc tội xâm phạm, ăn cắp và phá hoại. Từ điểm này, câu chuyện trao đổi trở nên bớt căng thẳng dần, khi nét mặt ông ta có vẻ bàng hoàng và kéo dài gần mười phút. Như thể đang nói chuyện với Thượng đế, ông ta lặp lại. “Vâng, thưa ngài”, rất nhiều lần. Cuối cùng, ông ta đặt cái ống liên hợp xuống và chăm chú nhìn Pitt. “Chủ của ông là một người nóng tính dễ sợ”.
Pitt phì cười. “Ông ấy hù dọa hầu hết mọi người bằng cách đó*. “Ông có một tiểu sử thật ấn tượng”.
“Ông ấy có chịu bồi thường tất cả những thiệt hại này không?” ông Eagan cũng ngoác miệng cười. “Ông ấy bảo sẽ trừ lương ông để bồi thường”.
Tò mò, Pitt hỏi, “Ông Đô đốc có nói chuyện gì khác không?” “Ông ấy nói, giữa những chuyện khác”, ông Eagan thốt ra từng tiếng, “thì nếu ông Pitt tuyên bố Miền Nam chiến thắng trong Cuộc nội chiến thì tôi phải tin ông ta”. (Cuộc Nội chiến của Hoa Kỳ còn gọi là Cuộc Chiến tranh Ly khai (1861-1865): 11 bang nông nghiệp miền Nam muốn duy trì chế độ nô lệ, trong lúc 23 bang công nghiệp miền Bắc muốn châm dứt chế độ này. Do đó xảy ra nội chiến. Sau cùng, miền Nam thất trận. Cuộc chiến làm chết 618. 000 người - ND) Pitt và ông Marquez, với ông Eagan và một phụ tá của ông ta đi sau, bước qua bức tường gạch bị phá thủng của hầm rượu và bắt đầu chạy chầm chạp qua hầm mỏ cũ. Họ nhanh chóng chạy qua chiếc xe chở quặng cũ nằm bất động và tiếp tục đi sâu vào trong.
Pitt không tài nào phán đoán khoảng cách trong bóng tối. Anh chỉ có thể đoán là nơi anh để Tiến sĩ Ambrose và gã sát nhân bị bắt giữ lại nằm cách khách sạn khoảng ba phần tư dặm. Anh cầm cây đèn bấm mượn từ một phụ tá quận trưởng và tắt đèn mỗi khi chạy được chừng một trăm bộ,
chăm chú nhìn vào bóng tối trước mặt để tìm một dấu hiệu từ ánh sáng đèn thợ lặn anh đã để lại cho Ambrose.
Sau khi nhận ra khoảng cách chính xác, Pitt dừng lại và hướng chùm tia sáng cây đèn bấm lên đường hầm đến chỗ xa nhất ánh sáng có thể xâm nhập. Rồi anh tắt đèn. Chỉ có bóng tối trước mặt.
“Chúng ta đến đúng nơi rồi”, Pitt nói với ông Marquez.
“Không thể”, ông thợ mỏ trả lời, “Tiến sĩ Ambrose phải nghe giọng nói của chúng ta dội trên vách đá và nhìn thấy ánh sáng của chúng ta chứ, và ông ta phải kêu lớn hoặc làm dấu hiệu cho chúng ta biết chứ”.
“Có chuyện gì không ổn rồi”. Pitt chiếu ngọn đèn bấm vào một khe hở trên một vách đá đường hầm. “Có một lối vào chỗ cái hốc tôi đã ẩn nấp lúc những gã lái mô tô đến gần”.
Ông Eagan bước lại gần anh. “Tại sao chúng ta dừng lại?” “Nghe có vẻ điên rồ”, Pitt trả lời, “nhưng họ đã biến mất”. Viên Cảnh sát trưởng chiếu ngọn đèn lên mặt Pitt, cố tìm điều gì đó
trong mắt anh. “Ông chắc chắn họ không phải là sản phẩm của óc tưởng tượng của ông chứ?”
“Thề có Chúa!” ông Marquez lẩm bẩm. “Chúng tôi để lại hai xác chết, một tên giết mướn đang bất tỉnh và Tiến sĩ Ambrose với một cây súng để canh giữ hắn”.
Pitt phớt lờ ông Cảnh sát trưởng, quì xuống trên một đầu gối. Anh quét thật chậm chùm ánh sáng từ cây đèn quanh đường hầm theo một vòng cung một trăm tám mươi độ, đôi mắt quan sát từng inch trên mặt đất và chiếc xe chở quặng.
Ông Marquez vừa lên tiếng, “ông đang...?” nhưng Pitt đã đưa bàn tay lên, ra dấu cho ông im lặng.
Trong đầu Pitt, nếu Ambrose và gã sát nhân đã rời nơi đó, họ phải lưu lại một chỉ dẫn, dù nhỏ, nào đó về sự có mặt của họ. Ý nghĩ đầu tiên của anh là phải tìm thấy những vỏ đạn khẩu P.10 anh đã bắn những tên giết mướn. Nhưng không có chỉ dẫn nào, dù yếu ớt, về những vỏ đạn bằng đồng. Gáy anh bắt đầu ngứa ran. Chỗ này đúng là nơi đó, anh chắc chắn như thế. Rồi anh cảm nhận, hơn là nhìn thấy, một sợi dây kim loại màu đen cực nhỏ nằm cách đó không đến mười tám inch, nó nhỏ đến nỗi không tạo ra cái bóng dưới ánh sáng ngọn đèn của anh. Anh rà chùm tia sáng dọc theo sợi dây kim loại nằm trên đường ray rồi dẫn lên vách đá đến một tấm vải bạt màu đen cuộn tròn gắn vào một trong những xà gỗ trên cao.
“Hãy cho tôi biết, ông Cảnh sát trưởng”, Pitt nói với giọng điềm tĩnh lạ lùng, “ông có được huấn luyện cách thức gài bom không?” “Tôi đang dạy một lớp về môn này”, ông Eagan trả lời, cặp lông mày nhướng lên. “Tôi từng là một chuyên gia đánh bom trong quân đội. Tại sao ông hỏi?”
“Tôi tin chúng ta đang bị gài bẫy để vào một thế giới khác với những thân thể nát bét”. Anh chỉ vào sợi dây kim loại từ những đường ray dẫn đến những xà gỗ. “Trừ phi tôi đoán sai, chỗ đó là một cái bẫy chất nổ thật dở hơi”.
Ông Eagan đến gần cho tới khi hầu như mũi ông chỉ còn cách sợi dây màu đen vài phân. Ông nhìn theo nó cho đến tận cuộn vải bạt và chăm chú quan sát tấm bạt. Rồi quay nhìn Pitt với ánh mắt thêm phần nể nang. “Tôi thật sự tin ông có lý, ông Pitt. Có kẻ nào đó không ưa ông”.
“Chúng cũng không ưa ông đâu, ông Cảnh sát trưởng. Chúng phải biết rõ ông và người của ông sẽ đưa chúng tôi quay lại chỗ Tiến sĩ Ambrose chứ”.
“Ông giáo sư đâu rồi?” ông Marquez hỏi lớn. “Ông ta và gã giết mướn đi đâu?”
“Có hai khả năng”, Pitt nói. “Thứ nhất, tên sát nhân tỉnh lại, khuất phục Tiến sĩ Ambrose rồi giết ông ta và ném cái xác xuống một hầm mỏ gần nhất. Sau đó hắn gài bom rồi trốn thoát qua một đường hầm khác dẫn tới lối ra”.
“Ông nên viết những truyện thần tiên, sẽ hái ra tiền đấy”, ông Eagan nói.
“Vậy ông hãy giải thích về cái bẫy ngớ ngẩn này đi”.
“Làm sao tôi biết ông đã không gài cái bẫy đó chứ?”
“Tôi chẳng có động cơ nào cả”.
“Dẹp chuyện đó đi, Jim”, ông Marquez nói. “Ông Pitt không hề thoát khỏi tai mắt tôi suốt năm tiếng đồng hồ vừa qua. Chính ông ấy đã cứu sống chúng tôi. Nếu vụ nổ mìn đó không giết chết chúng tôi thì vụ sập hầm mỏ cũng làm chuyện đó”.
“Nhưng chúng ta đâu có biết chắc chắn cuộn vải bạt kia có chứa chất nổ”, ông Eagan vẫn tỏ ra bướng bỉnh.
“Vậy, ông cứ lần theo sợi dây kim loại và xem chuyện gì xảy ra”, Pitt bật cười. “Phần mình, tôi sẽ không loay hoay ở đây nữa. Tôi đi đây”. Anh đứng lên và bắt đầu đi dọc theo đường ray để trở lại khách sạn.
“Chờ chút, ông Pitt”, ông Eagan gọi.
Pitt đứng lại và quay đầu nhìn lui. “Ông toan tính gì thế, ông Cảnh sát trưởng?”
“Kiểm tra bộ vải bạt, nếu có chất nổ thì tháo ra”.
Pitt bước lui vài bước, nét mặt thật nghiêm trọng. “Nếu là ông, tôi sẽ không làm chuyện đó đâu. Đây không phải loại bom mang sau lưng một tên khủng bố liều chết. Tôi dám cá một tháng lương, rằng loại bom này được một chuyên gia lắp ráp và nó sẽ nổ tung khi bị chạm nhẹ nhất”.
Ông Eagan nhìn Pitt. “Nếu ông có ý tưởng nào hay hơn. Tôi mong được nghe đây”.
“Cái xe goòng chở quặng đang nằm trên hai đường ray dài khoảng hai trăm mét”, Pitt trả lời. “Chúng ta đẩy mạnh và để nó tiếp tục chạy khỏi nơi này, nó sẽ kéo theo sợi dây kim loại và kích hoạt khối thuốc nổ”.
“Mái hầm sẽ sập xuống”, ông Marquez nói, “và bít kín đường hầm vĩnh viễn”.
Pitt nhún vai, “Không phải chúng ta phá sập đường hầm là để bảo vệ những thế hệ tương lai sao. Chúng ta là những người đầu tiên đi qua khu vực này kể từ năm 1930, chẳng phải sao?”
“Nghe có lý đấy”, sau cùng ông Eagan cũng đồng ý. “Chúng ta không thể bỏ mặc chất nổ nằm tại đây đế chờ những nhà thám hiểm dưới lòng đất sẽ đi qua nơi này”.
Mười lăm phút sau, Pitt, các ông Eagan, Marquez và người phụ tá đẩy cái xe goòng trên đường ray khoảng ba chục mét. Những bánh sắt nặng nề kêu cót két phản đối trong hai chục mét đầu tiên rồi nhanh chóng long rỉ sét và bắt đầu lăn nhẹ nhàng trên những đường ray. Sau cùng, bốn người đàn ông ướt đẫm mồ hôi cũng lên tới được đầu quãng đường dốc dẫn xuống phía dưới.
“Cuối đường rồi”, Pitt cảnh báo. “Đẩy mạnh đi, và cái xe goòng sẽ chạy tiếp một dặm nữa đấy”.
“Hoặc cho tới lúc nó rơi xuống một lò hầm khác”, ông Marquez nói. Cả bốn người cùng buông tay ra một lúc, đà chạy đẩy họ một quãng theo cái xe cho tới lúc nó tăng tốc và bắt đầu bỏ xa họ. Họ loạng choạng đứng lại và lấy lại hơi thở và nhịp tim. Rồi họ chiếu những cây đèn bấm theo chiếc xe goòng chạy trên đường ray rồi mất hút sau một khúc quanh của đường hầm.
Không đầy một phút sau, một tiếng nổ vang dội xuyên qua đường hầm. Sức ép của tiếng nổ như muốn nhấc bổng họ lên. Tiếp theo là một đám mây bụi cuốn tròn chung quanh và vượt qua họ, theo sau là những âm thanh ầm ĩ của hàng tấn đất đá từ nóc hầm rơi xuống.
Tiếng ầm ĩ vẫn gầm rú trong tai bốn người, những tiếng dội tiếp tục kéo dài không ngớt trong khu mỏ cũ lúc ông Marquez hét lớn với ông Eagan. “Cái này khiến ông hết nghi ngờ chưa?”
“Trong lúc cố chứng tỏ quan điểm của mình, ông đã bỏ qua một điều”, ông Eagan nói lớn, âm điệu giọng nói khô khan và trêu chọc. Pitt nhìn ông ta, “Điều gì?”
“Tiến sĩ Ambrose. Có thể ông ta vẫn còn sống tại một nơi nào đó không nằm trong khu hầm bị sập. Thậm chí dù ông ta chết, cũng chẳng còn cách nào tìm thấy thi thể ông ta”.
“Chuyện đó chỉ làm phí thì giờ vô ích”, Pitt nói gọn.
“Vừa rồi ông mới chỉ cho chúng tôi một khả năng”, ông Eagan nói. “Vậy khả năng thứ hai là gì?”
Pitt gật nhẹ đầu. “Tiến sĩ Ambrose”, anh kiên nhẫn nói, “không chết đâu”.
“Ông bảo gã sát nhân thứ ba không giết ông ta?” ông Marquez hỏi. “Hắn không thể giết ông chủ của mình”.
“Ông chủ?”
Pitt mỉm cười và khẳng định, “Tiến sĩ Tom Ambrose cũng là một trong những tên sát nhân”.
***
“Tôi xin lỗi vì đã đến ăn tối trễ”, Pat nói lúc bước qua cửa trước nhà ông Marquez. “Nhưng tôi thực sự cần được tắm nước nóng và tôi e rằng tôi đã ngâm mình trong bồn tắm quá lâu”.
Bà Lisa Marquez vui vẻ ôm hôn Pat, “Cô không biết chúng tôi sung sướng đến chừng nào khi được thấy lại cô đâu”. Bà bước lùi và gương mặt sáng lên như một thiên thần nhỏ khi nhìn thấy Pitt bước vào theo sau Pat. Bà hôn anh cả hai má. “Làm cách nào tôi có thể cám ơn ông vì đã đem ông chồng tôi còn sống và khỏe mạnh trở về nhà?”
“Tôi đánh lừa đấy”, Pitt nói với miệng cười toe toét. “Để cứu Luis là tôi đã tự cứu mình mà”.
“Ông thực sự là một người khiêm tốn”.
Pat không khỏi ngạc nhiên khi thấy Pitt để lộ sự lúng túng chân thật lúc anh nhìn xuống tấm thảm. Cô thêm thắt, “'Đâu phải chỉ có chồng chị là người duy nhất được Dirk cứu sống”.
“Luis chẳng chịu hé miệng về những sự cố gay go của quí vị. Các bạn phải cho tôi biết mọi chi tiết trong lúc ăn tối đấy”. Lisa tỏ ra tế nhị trong việc tạo ra không khí thân mật. “Nào, cho phép tôi treo những áo khoác của các bạn lên”.
“Có phải tôi đang đánh hơi mùi thịt nai cháy xèo xèo trên cái vỉ nướng thịt không nhỉ?” Pitt nói để tháo gỡ cơn bối rối.
“Luis đang ở trong gara với cái lò nướng thịt”, bà Lisa nói. “Trời quá lạnh nên không thể ăn ngoài sân, vì vậy tôi đặt bàn ăn trong phòng kính có mái vòm nằm phía sau nhà. Luis đã bố trí lò sưởi nên nơi đó ấm áp lắm. Các bạn có thể khui những lon bia lúc đi ngang qua nhà bếp?
Pitt mở một hộp bia Pacifico lấy từ tủ lạnh nhà bếp và đi vào gara nơi ông Marquez đang có mặt. Ông này đang cúi xuống trên một cái thùng hình trụ có dung tích năm mươi galông mà ông ta đã cải biến thành một lò nướng thịt. “Thơm quá”, Pitt nói. “Ông không dùng vỉ nướng bằng than củi à?”
“Với cái lò cải biến này, mùi vị thịt bò, thịt gà và cá sẽ ngon hơn nhiều”, ông Marquez nói. “Tôi bắn được một con nai sừng tấm trong mùa săn vừa qua trong khu núi Montrose và ướp lạnh nó. Chúng ta chờ cho tới lúc ông nếm thứ này với món nước sốt Mornay đặc biệt của Lisa”.
Chỉ một lúc sau, tất cả bọn họ đã ngồi quanh cái bàn bằng thân gỗ thông ông Marquez tự đóng lấy, đặt trong phòng kính có mái vòm, thưởng thức món thịt nai nướng và món nước sốt ngon tuyệt của bà Lisa. Món rau Spinach trộn kem, khoai tây nướng và một bát lớn rau xàlách càng làm tăng mùi vị món thịt nướng. Ông Marquez đã yêu cầu Pat và Pitt chớ nói gì nhiều về vụ nguy hiểm họ vừa trải qua. Ông không muốn làm bà vợ thêm lo lắng sau những gì ông đã làm. Bà đã chịu đựng quá đủ những đau khổ dằn vặt trong thời gian chờ đợi cho tới lúc họ đến báo tin ông chồng đã thoát khỏi khu mỏ an toàn và khỏe mạnh. Họ đã mô tả là sự thử thách không gay go lắm, giấu chuyện những kẻ giết mướn và bảo bà rằng Tiến sĩ Ambrose đã đi gặp bạn bè nên không thể mời ông ta dùng bữa tối với họ.
Bất chấp sự việc họ thuật lại như thế nào, chẳng khác như họ vừa trở về sau một chuyến đi dạo trong công viên, Lisa biết rõ hơn nhiều, nhưng
bà không nói gì. Sau bữa ăn, Pat giúp dọn bàn rồi quay lại phòng khách, trong lúc bà Lisa bận rộn cho những bé gái của bà ăn và pha càphê trước khi mang ra một ổ bánh càrốt.
- “Tôi xin lỗi vắng mặt một lúc”, Pitt nói. Anh bước ra sau nhà và nói gì đó với bà Lisa trước khi quay lại với hai người kia.
Hài lòng vì bà vợ ở ngoài tầm nghe, ông Marquez nhìn thẳng vào Pitt và nói, “Tôi không thể chấp nhận giả thuyết của ông về Tiến sĩ Ambrose. Tôi cảm thấy chắc chắn ông ta đã bị giết ngay sau khi chúng ta rời khỏi nơi đó”.
“Tôi đồng ý với Luis”, Pat nói. “Giả định Tom là một cái gì đó ngoài tư cách một nhà nhân loại học khả kính là một điều rất buồn cười”. “Cô đã bao giờ gặp Ambrose trước đây chưa?” Pitt hỏi.
Pat lắc đầu. “Chưa, nhưng tôi biết danh tiếng ông ta”.
“Nhưng chưa bao giờ thấy mặt, phải không?”
“Chưa bao giờ”.
“Thế thì làm sao cô biết gã Tom Ambrose đó không phải là một kẻ mạo danh?”
“Đúng rồi”, ông Marquez nói. “Giả sử hắn là một kẻ giả danh và cùng làm việc với những tên giết mướn điên rồ đó. Nhưng làm sao ông có thể giải thích sự việc hắn gây ngập lụt nếu ông không có bằng chứng?”
“Phải đấy”, Pat bình tĩnh xen vào. “Không có cách nào để buộc tội ông ta dính vào một âm mưu tội ác nếu những tên giết mướn cũng đã tìm cách sát hại ông ta”.
“Những đồng sự của hắn buộc phải làm chuyện đó”, giọng nói của Pitt có vẻ gì đó được xác định một cách lạnh lùng. “Chúng có thể là những chuyên gia phá hoại, nhưng không phải là thợ mỏ chuyên nghiệp như ông Marquez. Chúng đã dùng một lượng chất nổ quá mạnh đối với công việc đó. Thay vì chỉ tạo ra một vụ sập hầm mỏ và làm bít lối đi, chúng đã phá vỡ cả những khối đá chắn giữ dòng sông ngầm dưới đất, làm lệch hướng chảy của nó vào những nơi thấp hơn trong khu mỏ. Một tính toán sai lầm đã làm đảo lộn những kế hoạch của chúng. Hầm lò và căn phòng có cái hộp sọ bị ngập nước trước khi chúng có thể đi vòng qua nơi bị sập trên những chiếc mô tô để cứu ông sếp của chúng”.
Ông Marquez nhìn lên những đỉnh núi bao quanh Thị trấn Telluride nổi bật vì ánh sáng của những ngôi sao buối tối. “Tại sao chúng phá sập mái đường hầm? Chúng được gì từ hành động đó?”