🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Cuộc Tình Buồn - François Mauriac & Nguyễn Bích Như (dịch) & Thu Uyên (dịch) full mobi pdf epub azw3 [Giải Nobel]
Ebooks
Nhóm Zalo
Cuộc Tình Buồn
François Mauriac & Nguyễn Bích Như (dịch) & Thu Uyên (dịch)
Từ khóa: Giải Nobel, Tiểu Thuyết, Lãng mạn
CUỘC TÌNH BUỒN
François Mauriac
Making Ebook Project
BOOKAHOLIC CLUB
Tên tác phẩm: CUỘC TÌNH BUỒN
Nguyên tác: Thérèse Desqueyroux
Tác giả: François Mauriac
Dịch giả: Nguyễn Bích Như, Thu Uyên
Nhà xuất bản: Tổng hợp Bình Định
Năm xuất bản: 1990
Số trang: 231
Khổ sách: 13 x 19 cm
Giá bìa: 4.000 đồng
Đánh máy: Trang Phạm, Thái Thanh, Hoàng Kim, Ngọc Anh Kiểm tra: Hạ Uyên
Chế bản ebook: Thảo Đoàn
Ngày thực hiện: 18/9/2011
Making Ebook Project #176 - www.BookaholicClub.com
Bạn đang đọc ebook CUỘC TÌNH BUỒN của tác giả François Mauriac do Bookaholic Club chế bản theo Dự án chế bản Ebook (Making Ebook Project).
Mong rằng ebook này sẽ mang đến cho bạn một tác phẩm Văn học hay, giàu giá trị biểu cảm và nhân văn, với chất lượng cao. Chúng tôi luôn cố gắng mang đến những chế bản ebook tốt nhất, nếu trong quá trình chế bản có lỗi sai sót nào mong bạn góp ý và cho chúng tôi biết những ebook mà đang mong muốn.
Making Ebook Project của Bookaholic Club là một hoạt động phi lợi nhuận, nhằm mục đích mang đến những chế bản ebook hay, có giá trị với chất lượng tốt nhất mà chúng tôi có thể với Cộng đồng đọc - người Việt. Tuy nhiên, nếu bạn có khả năng xin hãy đọc tác phẩm này bằng sách trước hết vì lợi ích cho Nhà xuất bản, bản quyền tác giả và góp phần phát triển xây dựng nền Văn hóa đọc.
Hãy chỉ đọc chế bản này trong điều kiện bạn không thể tìm đến ấn phẩm sách.
Mục lục
GIỚI THIỆU TÁC GIẢ GIỚI THIỆU TÁC PHẨM Lời đầu sách
I
II
III
IV
V
VI
VII
VIII
IX
X
XI
XII
XIII
GIỚI THIỆU TÁC GIẢ
Mauriac không đòi cái tuyệt đối; ông biết rằng cái tuyệt đối không tồn tại với đức hạnh trong trạng thái thuần khiết...
FRANÇOIS MAURIAC (11/10/1885 - 01/9/1970)
Giải Nobel Văn học 1952
* Nhà văn, nhà thơ Pháp
* Nơi sinh: Bordeaux (Pháp)
* Nơi mất: Paris (Pháp)
François Mauriac được trao giải Nobel vì những tác phẩm phản ánh bi-hài kịch đời người với một tinh thần thấu suốt và nghệ thuật thuyết phục. Chủ đề chính trong sáng tác của ông là cuộc đấu tranh giữa cái Thiện và cái
Ác, giữa Xác thịt và Linh hồn của “những con người sa ngã” và “nỗi cơ cực của con người không có Thượng đế”.
François Mauriac sinh trong một gia đình buôn rượu vang giàu có theo Công giáo, mồ côi bố khi chưa đầy hai tuổi, đến sống ở trang trại ông bà ngoại; bảy tuổi đi học, suốt đời mang ấn tượng về phong cảnh miền quê.
Tốt nghiệp trung học, F. Mauriac vào học khoa văn chương tại Đại học Bordeaux, sau chuyển đến Paris, làm báo và sớm trở thành nhà văn độc lập. Năm 1909, theo lời khuyến khích của tòa soạn báo Thời đại chúng ta, F. Mauriac xuất bản tập thơ đầu tiên Những bàn tay gắn kết; nhưng phải đến năm 1922 ông mới nổi tiếng là nhà viết tiểu thuyết có tài với cuốn Nụ hôn cho người hủi.
Trong Thế chiến I, tuy không phải nhập ngũ vì lí do sức khỏe, F. Mauriac vẫn tình nguyện tham gia tổ chức Hồng thập tự, phục vụ trong quân y viện hai năm ở Balkans, năm 1918 mới giải ngũ. Trong những năm 1920 ông viết hàng loạt tiểu thuyết, trong đó có cuốn Sa mạc tình yêu được tặng giải thưởng cao nhất của Viện Hàn lâm Pháp.
Thérèse Desqueyroux (1927) cũng là tác phẩm thành công, được giới phê bình coi là tiểu thuyết Pháp hay nhất đầu thế kỉ XX. Ổ rắn độc (1932) kể về một bi kịch gia đình với nghệ thuật phân tích tâm lí sâu sắc được coi là đỉnh điểm trong sáng tác của F. Mauriac. Năm 1933, nhà văn được bầu vào Viện Hàn lâm Pháp.
Trong Thế chiến II, F. Mauriac tham gia chống phát xít Đức chiếm đóng Pháp, ủng hộ De Gaulle. Tiểu thuyết Cuốn sổ đen được trao tặng huy chương Bắc Đẩu Bội Tinh. Sau năm 1945 F. Mauriac làm đại diện Pháp trong tổ chức Liên Hiệp quốc (UNESCO). Lần đầu tiên ông được đề cử tặng giải Nobel vào năm 1946, nhưng phải 6 năm sau mới được trao giải. Từ đó đến cuối đời F. Mauriac xuất bản thêm 2 cuốn tiểu thuyết, hàng loạt hồi kí (chủ yếu về De Gaulle) và làm báo (giữ những chuyên mục rất nổi tiếng thời bấy giờ). Nhà văn mất năm 85 tuổi, một năm sau khi xuất bản cuốn tiểu thuyết cuối cùng.
Có thời kì F. Mauriac được đánh giá là nhà văn Pháp lớn thứ hai trong thế kỉ XX (sau M. Proust), nhưng dần dần uy tín của ông bị giảm sút, theo các nhà phê bình thì chủ yếu là do đề tài và văn phong của ông hơi đơn điệu.
* Tác phẩm:
Những bàn tay gắn kết (Les mains jointes, 1909), thơ.
Đứa con dưới gánh nặng xích xiềng (L’enfant chargé de chaines, 1911), tiểu thuyết.
Thịt và máu (La chair et le sang, 1920), tiểu thuyết.
Nụ hôn cho người hủi (Le baiser aux lepreux, 1922), tiểu thuyết. Sông lửa (Le fleuve de feu, 1923), tiểu thuyết.
Bà cụ tổ (Genitrix, 1923), tiểu thuyết.
Giông tố (Orages, 1925), thơ.
Sa mạc tình yêu (Le désert de l’amour, 1925), tiểu thuyết. Điều đã mất (Ce qui était perdu, 1926), kí.
Thérèse Desqueyroux (Thérèse Desqueyroux, 1927), tiểu thuyết.
Những đau khổ của một tín đồ Kitô giáo (Souf rances du Chrétien, 1928), tiểu luận.
Chúa và Mammon (Dieu et Mammon, 1929), tiểu luận.
Đau khổ và niềm vui của một tín đồ Kitô giáo (Souf rances et bonheur du chrétien, 1931), [Anguish and Joy of the Christian Life], tiểu luận.
Ổ rắn độc (Le noeud de vipère, 1932), tiểu thuyết.
Bí ẩn nhà Frontenac (Le Mystère Frontenac, 1933), tiểu thuyết [The Frontenac mystery].
Đêm tàn (La fin de la nuit, 1935), tiểu thuyết.
Các thiên thần đen (Anges noirs, 1936), truyện.
Đời Jésus (La vie de Jésus, 1936), tiểu luận.
Lặn dưới nước (Plongées, 1938), tập truyện.
Asmodée (Asmodée, 1938), kịch.
Những con đường của biển (Les chemins de la mer, 1939), truyện. Máu Atys (Sang d’Atys, 1940), thơ.
Người đàn bà đạo đức giả (La pharisienne, 1941), kịch.
Cuốn sổ đen (Le cahier noir, 1943), tiểu thuyết.
Nhật kí (Journal, 1934-1950), hồi kí.
Con cừu non (L’Agneau, 1954), tiểu thuyết.
Hồi kí nội tâm (Mémoires intérieurs, 1959), luận văn.
Điều tôi tin (Ce que je crois, 1962), hồi kí.
Nghiên cứu về Charles de Gaulle (1964).
Một đứa trẻ ngày nào (Un adolessent d’autrefois, 1969), tiểu thuyết. Ba câu chuyện (Trois récits), tập truyện ngắn.
* Tác phẩm đã dịch ra tiếng Việt:
Cuộc tình buồn, Nguyễn Bích Như - Thu Uyên dịch, NXB Tổng hợp Bình Định, 1990.
Người vợ cô đơn (tiểu thuyết), Mặc Đỗ dịch, NXB Hội Nhà Văn, 1997. Bí ẩn nhà Frontenac, Dương Linh dịch, NXB Thế Giới, 1999.
GIỚI THIỆU TÁC PHẨM
Tiểu thuyết lấy bối cảnh ở Landes, một vùng dân cư thưa thớt ở tây nam nước Pháp, được bao phủ rộng bởi những cánh rừng thông. Khi thiên tiểu thuyết bắt đầu, một vụ kiện đang bị bác bỏ. Người tường thuật, Thérèse có địa vị, bị xét xử tội đầu độc chồng mình Bernard bằng cách cho ông uống Fowler’s Solution quá liều, một thứ thuốc chứa thạch tín. Tuy có những bằng chứng vững vàng chống lại mình, bao gồm cả những toa thuốc cô giả mạo, vụ kiện bị ngừng lại; gia đình kết thúc các địa vị xã hội để tránh tai tiếng và bản thân Bernard cũng làm chứng cho lời biện hộ của cô. Trên đường từ tòa án về nhà, Thérèse nhìn lại cuộc sống của mình, cố gắng hiểu được điều gì đã khiến cô tiếp tục đầu độc chồng mình sau khi cô quan sát ông tình cờ uống thuốc quá liều. Cô giả thuyết rằng những hành động của cô là một phần của một “con dốc không thể nhìn thấy”, tạo nên từ những áp lực khi làm mẹ và hôn nhân và cuộc sống ngột ngạt khi làm vợ một địa chủ đạo Thiên Chúa những năm 1920 của nước Pháp thôn dã. Tuy vậy, Thérèse và cả người tường thuật không cung cấp một lời giải thích rõ ràng cho hành vi của cô.
Thérèse cho rằng cô có thể âm thầm rời bỏ chồng bây giờ khi vụ kiện đã kết thúc. Thay vào đó, Bernard thông báo rằng cô sẽ sống tại nhà của gia đình ông, Argeluose, một vị trí biệt lập trong rừng thông. Ông thực sự giam cầm cô ở đó, lấy lý do rằng cô đang mắc phải bệnh thần kinh, và thường xuyên xuất hiện trước công chúng với cô để dập tắt mọi lời xầm xì. Mối quan tâm của ông là cuộc hôn nhân sắp tới của em gái ông Anne với một chàng rể được duyệt bởi gia đình, không bị ngăn cản bởi vụ tai tiếng nào hết. Ông chỉ cho phép Thérèse bầu bạn với những người hầu dễ ghét, tách cô khỏi con gái mình, và đe dọa tống cô vào ngục vì tội đầu độc nếu không hợp tác. Thérèse sống chủ yếu nhờ rượu và thuốc lá, rơi vào trạng thái ngẩn ngơ thụ động và mất ngủ. Khi cô được yêu cầu tham dự một bữa dạ yến tổ chức cho Anne, chồng chưa cưới và gia đình anh, cô đã tham dự, nhưng vẻ ngoài hốc hác khiến cho các vị khách bị sốc. Bernard quyết định, không phải bàn cãi nữa, rằng vụ bê bối sẽ không bao giờ hoàn toàn được quên lãng trừ khi Thérèse được phép biến mất. Ông hứa cô có thể rời đi sau đám cưới
của Anne, và chuyển cô về Argelous để theo dõi sự hồi phục của cô. Đám cưới trôi qua, ông đưa Thérèse tới Paris và chào tạm biệt. Không có sự ly thân và li dị chính thức, và ông sẽ chu cấp cho cô để tiếp tục sống. Cô được tự do.
Thùy An dịch
Lời đầu sách
Yêu nhau, cả hai cũng nhìn về một hướng. Trong tình yêu chân chính không thể có sự áp đặt bởi một mãnh lực nào, càng không thể đòi hỏi trong tình yêu phải có sự trả giá bằng sự hẹp hòi, ích kỷ, quyền lợi và danh vọng... Thế nhưng, quan niệm “môn đăng hộ đối” của xã hội phong kiến đã khiến cho tình yêu chân chính bị lệch ngả, sai đường. Thérèse, một cô gái sống trong một tỉnh lẻ, có phẩm hạnh và có học thức, đã chấp nhận thành hôn với chàng trai láng giềng không phải vì tình yêu, mà vì sự gán ghép của họ hàng làng xóm theo quan niệm “môn đăng hộ đối” vô cũng nghiệt ngã, và cũng vì cha cô, một người đàn ông góa vợ muốn khỏi vướng bận vì có con gái. Bản thân cô muốn cơ nghiệp bền vững và gia tăng gấp bội... Và cũng do chính mình biếng lười đấu tranh, chấp nhận số phận như một an bài cho cuộc đời xuôi chèo mát mái, Thérèse đã phải sai lầm.
Ngay sau ngày cưới, Thérèse thất vọng vì cảnh sống khuôn phép, gò bó nơi gia đình chồng, và nàng đã phải chịu đựng những tháng ngày tẻ nhạt và vô vị bên người mình không yêu. Trớ trên thay, Thérèse lại được cha mẹ chồng tin cẩn, giao cho nhiệm vụ lôi kéo cô em chồng “về với lẽ phải”, nghĩa là “phải chấp nhận sự xếp đặt hôn nhân do chính gia đình lựa chọn”! Cô em chồng buộc phải từ bỏ người mà có ấy yêu say mê tha thiết, Jean Azévédo, để lấy con trai nhà Deguzlhem. Cô gái thề bảo vệ tình yêu cho đến chết, và cô tuyên bố nhận chịu sự phán xử của chị dâu mình.
Thérèse bị đặt trước tình huống nan giải: lẽ nào bắt cô em chồng đáng thương kia phải đi theo con đường buồn chán khổ đau như hiện thân của mình trong gia đình chồng hiện tại. Chính hàng đang khao khát có được mối tình say mê nồng nhiệt như cô em chồng mà không sao có được! Cuối cùng, bởi nhiệm vụ nặng nề thúc bách, Thérèse buộc phải tìm đến gặp chàng trai đề mong thuyết phục anh ta buông thả, trả em mình về với gia đình. Ðiều bất ngờ đến thảng thốt, nàng đã khám phá ra rằng, chàng trai nọ không hề có tình yêu chân chính với em mình, và... hạnh phúc là điều không có thật! Thérèse hoàn toàn thất vọng và nàng muốn thoát khỏi kiếp
sống vô vị, ảo vọng đã ràng buộc nàng bởi quan niệm gia đình không tạo bằng tình yêu chân chính.
Không biết vô tình hay cố ý, Thérèse đã cho chồng uống thuốc quá liều, nhưng may thay chồng nàng thoát chết. “Vụ đầu độc” rốt cuộc được chính gia đình bên chồng dàn xếp ổn thỏa, và ngay cả cha nàng cũng đã làm như vậy. Tất cả chỉ vì muốn bảo vệ danh dự gia đình bên chồng, cũng như để khỏi ảnh hưởng đến việc thăng quan tiến chức của cha nàng đối với xã hội... Nói chung, Thérèse cũng như những người trẻ tuổi của xã hội phong kiến, bởi ràng buộc quan niệm gia đình khắt khe, vụ lợi... đã không thể sống cho chính mình bằng một tình yêu chân chính. Phải chăng, bản thân con người thiếu sự đấu tranh, dễ dàng chấp nhận sự an bài số phận, để phải trả giá đắng cay cho chính mình, và có nên cho đó là “cuộc tình buồn”?
Trong tác phẩm THÉRÈSE DESQUEYROUX, Françoise Mauriac sẽ trả lời cho chúng ta câu hỏi đó.
4-1990
NHỮNG NGƯỜI DỊCH
Thượng đế ơi! Hãy rũ lòng thương xót, thương xót cho những thằng khùng và những con điên. Ôi! Đấng tạo hóa! Có thể nào tồn tại trước mắt Người lũ yêu quái, mà chỉ Người mới biết tại sao chúng tồn tại, chúng đã được tạo ra như thế nào và như thế nào lẽ ra chúng đã chẳng hình thành.
CHARLES BAUDELAIRE
Thérèse, nhiều người bảo rằng em không có thật. Nhưng anh biết là có em, anh là kẻ từ nhiều năm qua đã theo dõi em và thường chặn em lại giữa lối đi, đề nhìn tận mặt em.
Thời niên thiếu, anh nhớ có lần trông thấy trong phòng xử án ngột ngạt, gương một nhỏ nhắn trắng bệch và làn môi mỏng dính của em. Lúc đó, em đang phó mặc sinh mạng mỏng manh cho bọn luật sư, chẳng hung tợn gì mấy so với đám phu nhân kênh kiệu.
Sau này, trong một phòng khách ở miền quê, em hiện ra dưới dáng vẻ một thiếu phụ ngơ ngác, mà sự chăm sóc của những bậc trưởng thượng già nua và anh chồng khờ khạo chỉ khiến em phản uất: “Nó sao thế nhỉ? Họ bảo nhau. Chúng tôi cung phụng nó đủ điều cơ mà”.
Từ đó, đã bao lần, anh nhìn ngắm bàn tay hơi quá khổ của em đặt trên vầng trán rộng và thanh tú. Đã bao lần, qua những chấn song di động của gia đình, anh thấy em quay vòng, rón rén với ánh mát dữ tợn và buồn bã, em nhìn anh đăm đăm.
Nhiều người ngạc nhiên sao anh có thể tưởng tượng ra một con người, còn khả ố hơn tất cả những nhân vật khác của anh nữa. Chẳng lẽ anh chỉ nói đến những người tròn trịa đức hạnh và cởi mở? Những kẻ cởi mở thì đâu có chuyện; nhưng anh trót biết câu chuyện của những con tim giấu kín, lẫn trong một thể xác nhuốc nhơ.
Anh đã muốn rằng nỗi đau khổ, Thérèse ơi! sẽ dâng em cho Chúa và từ lâu, anh mong ước em xứng đáng với tên tuổi thánh Locuste. Nhưng lắm kẻ, dù tin vào sự sa ngã và sự chuộc tội của những tâm hồn đày đọa, lại hô hoán lên là phạm thượng.
Ít ra, trên cái vỉa hè mà anh bỏ rơi em đây, anh hy vọng em sẽ không cô đơn.
I
Viên luật sư mở cánh cửa. Nơi hành lang khuất vắng của pháp đình, Thérèse Desqueyroux cảm thấy sương mù phả vào mặt, nàng lặng hít một hơi dài. Sợ người nhà chờ lâu, nàng ngần ngừ dợm bước ra. Một người đàn ông, cổ áo bẻ ngược, vội vã rời khỏi cây ngô đồng, nàng nhận ra cha mình. Viên luật sư nói to: “Miễn tố” rồi quay sang Thérèse:
- Chẳng có ai, bà có thể ra được rồi.
Nàng bước xuống bậc tam cấp ẩm ướt. Thật vậy, quảng trường nhỏ hầu như hoang vắng. Cha nàng không hôn hàng, cũng chẳng buồn nhìn đến nàng, ông hỏi han luật sư Duros, hai người xầm xì cứ như bị ai rình rập. Nàng thoáng nghe câu chuyện của họ:
- Ngày mai, tôi sẽ nhận được giấy báo chính thức miễn tố. - Không còn đột biến gì chứ?
- Không, củ cà-rốt đã chín, như người ta vẫn nói.
- Sau lời khai của thằng rể tôi, mọi việc đều êm xuôi?
- Êm xuôi, êm xuôi... Biết sao được.
- Từ khi tự nó thú nhận, nó không hề đếm giọt.
- Thưa ông Larroque, trong những vụ loại này, lời chứng của nạn nhân... Giọng Thérèse chợt cất lên:
- Làm gì có nạn nhân.
- Thưa bà, tôi chỉ muốn nói nạn nhân của tính khinh suất.
Trong một thoáng, hai người đàn ông quay nhìn thiếu phụ, quấn chặt trong chiếc áo choàng, với bộ mặt xanh xao, không biểu lộ một tình cảm nào. Nàng hỏi xe đâu, cha nàng bảo đã dặn họ chờ trên đường đến Budos, ngoài thành phố, để thiên hạ khỏi tò mò.
Họ băng qua quảng trường, lá ngô đồng dán chặt trên những chiếc băng, ướt đẫm nước mưa. May thay, ngày như ngắn hơn. Vả lại, để ra đường Budos, người ta có thể men theo các ngõ phố vắng của thị trấn. Thérèse lặng lẽ đi giữa hai người đàn ông, đầu thấp hơn nàng cái trán, và một lần nữa họ lại bàn cãi như không có nàng ở đó, nhưng vướng víu vì cứ bị ngăn cách bởi tấm thân phụ nữ ấy, thỉnh thoảng họ lại thúc cùi chỏ vào người nàng. Thế là nàng bước chậm lại, tháo găng tay trái ra, để gỡ rêu trên những vách đá cũ kỹ, dọc theo lối đi. Ðôi khi, một anh thợ cưỡi xe đạp hay một chiếc xe bò vượt qua, bùn văng tung tóe, khiến nàng phải nép sát vào tường. Nhưng bóng hoàng hôn đã che khuất Thérèse, khiến người ta không còn nhận ra nàng. Mùi lò bánh và sa mù đối với nàng, không chỉ là thứ hương ngây ngất ban chiều, nơi phố nhỏ, mà nàng còn tìm thấy ở đó hương vị cuộc sống, cuối cùng, đã được trả lại cho nàng. Nàng khép mắt, trước hơi thở mơn man của đất cỏ đìu hiu, ẩm ướt, cố không nghe các câu nói của con người nhỏ thó, với đôi chân cong ngắn ngủn, đã không một lần ngoái lại nhìn con gái mình, tưởng chừng nàng có thể ngã vật xuống vệ đường, mà cả ông ta lẫn Duros, đều chẳng ai hay biết. Họ không còn ngại nói to nữa.
- Lời khai của ông Desqueyroux tuyệt thật. Nhưng còn cái toa thuốc kia, kể ra, đó là giả mạo... Và chính bác sĩ Pédemy đã khiếu nại.
- Ông ta đã rút đơn...
- Khổ nỗi, bà ấy đã khai: một kẻ lạ mặt đã trao cho bà ấy cái toa thuốc.
Muốn khỏi phải nghe những câu nói từng khiến nàng điên đầu từ mấy tuần qua, chớ không phải vì mệt mỏi, Thérèse cố tình bước chậm lại, nhưng giọng rít của người cha vẫn lọt vào tai nàng:
- Tôi đã bảo nó nhiều lần: “Con khốn, hãy tìm điều gì khác, tìm điều gì khác kia...”
*
* *
Ông đã dặn nàng nhiều lần, đúng vậy, và đã bảo vệ được quyền lợi mình. Sao ông vẫn còn chộn rộn thế? Cái mà ông gọi là thanh danh gia đình, thực ra có hề hấn gì đâu, bây giờ cho đến khi diễn ra cuộc bầu cử thượng viện, chẳng ai còn nhớ đến chuyện nàng nữa. Thérèse thầm nghĩ và không muốn theo kịp hai người đàn ông, nhưng đang lúc hăng say tranh luận, họ bỗng dừng lại giữa đường, vừa nói vừa hoa chân múa tay.
- Cứ tin tôi, thưa ông, Larroque, hãy mạnh đạn đương đầu, mình mở cuộc tấn công trên tờ “Người gieo hạt” chúa nhật, ông muốn tôi đảm trách việc này không? Cần cái tựa như “Tiếng đồn bỉ ổi”.
- Không, không, thôi đi, ông bạn. Vã lại, còn nói gì nữa? Rõ ràng là họ chỉ thầm cứu qua loa, họ cũng chẳng cần giám định chữ viết, im lặng, dìm đi, tôi chỉ muốn có thế. Lẽ ra tôi phải kiện đòi bồi thường nữa đấy, nhưng vì gia đình, phải giấu kín mọi chuyện phải giấu kín...
Thérèse không nghe câu đáp của Duros vì họ đã bước đi. Như kẻ sắp nghẹt thở, nàng lại hít thật sâu làn không khí ẩm ướt của đêm mưa, và đột nhiên gương mặt xa lạ của bà ngoại Julie Bollande, vụt hiện về trong trí nàng - Xa lạ: vì rằng không thể tìm thấy trong các gia đình Larroque hay Desqueyroux một bức chân dung hay một tấm ảnh nào của người phụ nữ, chẳng ai một biết tí gì về bà, ngoại trừ việc bà đã bỏ đi vào một ngày xa xưa nọ. Thérèse hình dung có thể chính nàng cũng sẽ bị loại trừ, lãng quên như thế và sau này, người ta cũng sẽ không cho phép con gái nàng, cô Marie bé bỏng, được thấy trong quyển an-bom, khuôn mặt kẻ đã sinh ra nó. Giờ này, Marie đang ngủ say trong một căn phòng ấm cúng ở Argelouse, nơi Thérèse sẽ về tới rất muộn, trong đêm này; lúc đó, nàng sẽ nghe thấy trong bóng tối giấc ngủ trẻ thơ ấy và sẽ cúi xuống, đôi môi khát khao sẽ tìm đến với cuộc sống non tơ đang thiêm thiếp giấc nồng kia, như tìm nước uống.
Bên bờ rãnh, ánh đèn lồng của một chiếc xe đã hạ mui, soi rõ hai mông ngựa gầy nhom. Phía xa, khu rừng tăm tối vươn dài hai bên đường. Từ bờ
dốc này sang bờ dốc bên kia, lác đác mấy ngọn thông đầu tiên, giao nhau và dưới vòng cung ấy, con đường bí ẩn mất hút. Qua những cành lá chằng chịt, nhìn thấy bầu trời thấp thoáng trên cao.
Lão xà ích nhìn Thérèse với đôi mắt cú vọ. Nàng hỏi, để đáp chuyển xe lửa cuối cũng, liệu họ có đến ga Nizan quá sớm không? Lão khuyên nàng yên tâm và đừng nên chậm trễ.
- Lần cuối, ông phải khó nhọc vì tôi đấy, Gardère ạ!
- Bà không còn việc gì ở đây à?
Nàng lắc đầu và ông lão vẫn ngó nàng chăm bẳm. Có phải, suốt đời, nàng sẽ bị nhìn chòng chọc vào mặt như thể?
- Sao, con vừa lòng rồi chứ?
Hình như cuối cũng người cha mới nhận ra sự hiện diện của nàng. Thérèse vụt liếc nhìn bộ mặt cau có, đôi gò má xù xì những sợi lông bạc cứng, vàng hực dưới ánh đèn xe.
Nàng khẽ nói:
- Con đã đau khổ nhiều… con quá mệt mỏi…
Rồi im bặt. Nói ra ích gì? Ông không hề nghe nàng, ông không còn trông thấy nàng nữa. Sự chịu đựng của Thérèse có dính dáng gì đến ông đâu? Chỉ có một điều đáng kể: đường vào Thượng viện của ông bị trở ngại, vì liên lụy đến con cô gái (tất cả, nếu không ngu xuẩn, cũng mắc bệnh cuồng trí). Cũng may mà nàng không còn mang tên Larroqe, nàng đã thuộc dòng họ Desqueyroux. Thoát được phiên tòa đại hình, ông thở phào nhẹ nhõm. Làm sao ngăn cản đối thủ khơi lại vết thương? Ngay ngày mai, ông sẽ đến gặp viên quận trưởng. Nhờ trời, ta nắm được tay chủ nhiệm tờ “Lande[1]bảo thủ”. Chuyện vớ vẩn của bọn con gái… Ông nắm cánh tay Thérèse:
- Lên nhanh đi, đến giờ rồi.
Lúc đó, viên luật sư, tò mò một cách nham hiểm, hoặc chả lẽ để nàng đi, mà chẳng ngỏ lời nào đã, hỏi nàng có gặp Bernard Desqueyroux ngay đêm nay không.
Nàng đáp:
- Ô! Đương nhiên, anh ấy chờ tôi mà...
Lần đầu tiên kề từ khi rời viên dự thẩm, nàng nghĩ dù thể nào thì trong vài giờ nữa, nàng cũng sẽ bước qua ngưỡng cửa căn phòng, nơi chồng nàng còn chưa khỏi hẳn, đang nằm dưỡng bệnh và một chuỗi dài kế tiếp những ngày, những đêm, dằng dặc trôi qua, nàng phải sống bên cạnh con người ấy.
Về ngụ ở nhà cha mình, ngay cổng vào thị trấn, từ khi bắt đầu cuộc thẫm vấn, cố nhiên nàng vẫn thường đi xe như đêm nay. Nhưng bấy giờ, nàng không có mối bận tâm nào khác hơn, là báo cho chồng biết chính xác tình hình; nàng lắng nghe, trước khi lên xe, lời đầu dò cuối cùng của Duros, quanh những câu mà ông Desqueyroux buộc phải trả lời, nếu bị tái thẩm. Dạo đó Thérèse chẳng thấy âu lo gì, cũng chẳng ngượng nghịu khi phải đối mặt với con người bệnh hoạn ấy, bấy giờ vấn đề giữa họ không phải là việc gì đã thật sự xảy ra, mà là những điều cần nói hay không nên nói ra. Trong cuộc biện hộ đã qua, hai vợ chồng cảm thấy gắn bó nhau hơn bao giờ hết. Gắn bó trong cùng một máu thịt - máu thịt của Marie con gái của họ. Ðể đối phó với viên dự thẩm họ cũng sắp xếp một câu chuyện đơn giản, mạch lạc, để có thể thuyết phục nhà chức trách. Dạo đó, Thérèse cũng bước lên chiếc xe ngựa đón chờ nàng như đêm nay - với sự nôn nóng muốn kết thúc chuyến đi ban đêm, mà lúc này nàng ao ước đừng bao giờ đến đích. Nàng nhớ, lúc vừa lên xe, nàng đã muốn có mặt ngay trong căn buồng ở Argelouse và nhẩm lại những điều Bernard chờ nghe (miễn anh đừng ngại xác nhận), nàng có nói với anh chiều nọ về cái toa thuốc mà một kẻ lạ mặt đã van nài nàng mua hộ, viện lẽ hắn ta còn nợ hiệu thuốc quá nhiều tiền bạc nên không dám chường mặt ở đó... Nhưng Duros không tin là Bernard lại có thể nhận là mình nhớ đã có lần trách cứ vợ về một sự khinh suất như vậy...
Cơn ác mộng qua đi, đêm nay Bernard và Therèse sẽ nói gì với nhau. Nàng nhìn thấy trong tâm tưởng, ngôi nhà hẻo lánh, nơi anh chờ đợi nàng, nàng mường tượng cái giường, đặt giữa căn phòng lát gạch vuông, ngọn đèn thấp, chong trên chiếc bàn ngủ, cạnh những tờ báo và chai lọ, bầy chó giữ nhà, bị chiếc xe về đánh thức, sủa ầm lên một lát rồi im bặt, sự tĩnh mịch thâm nghiêm bao phủ như suốt những đêm nàng ngồi nhìn Bernard lăn lộn nôn mửa. Thérèse cố hình dung ánh mắt đầu tiên, lát nữa đây họ sẽ trao nhau, rồi đêm nay và, ngày mai, ngày kia tiếp nối những tuần, những tháng trong ngôi nhà ở Argelouse, nơi họ không còn phải cùng nhau thêu dệt tấm bi kịch họ vừa trải qua, theo cách có thể thổ lộ được. Giữa họ, giờ đây chỉ còn lại những gì là thật... rất thật...
Thốt nhiên hoảng sợ, Thérèse quay sang viên luật sự, ấp úng, (kỳ thực là qua ông ta nàng muốn ngỏ ý với cha mình):
- Tôi định lưu lại vài hôm bên anh Desqueyroux. Sau đó; nếu tình hình khả quan, tôi sẽ quay về với cha tôi.
- À không, không được đâu!
Và bởi Gardère cứ nhấp nhổm trên ghế ngồi, ông Larroque hạ giọng nhắc lại:
- Con điên mất rồi? Lìa bỏ chồng con trong lúc này ư? Các con phải khắng khít nhau như hai ngón tay... như hai ngón tay, nghe chưa? Cho đến chết...
- Cha nói đúng, thưa cha, chẳng biết đầu óc con để đâu? Vậy thì cha sẽ đến Argelouse chứ?
- Ờ! Thérèse, cha sẽ chờ con ở nhà, những ngày thứ năm lễ hội như thường lệ. Các con sẽ đến, như xưa nay vẫn đến!
Khó thể tưởng tượng là nàng lại không hiểu rằng bất cứ điều cỏn con nào trái với lệ thường cũng mang đến cho họ tan nát, khổ đau. Dĩ nhiên thôi. Ông có thể tin cậy nơi Thérèse? Nàng đã gây cho gia đình bao phiền muộn...
- Con phải làm tất cả những gì chồng con muốn. Cha không thể nói nhiều hơn.
Đoạn ông đẩy nàng lên xe.
Thérèse thấy bàn tay có những móng đen cứng của viên luật sự, chìa về phía nàng: “Việc gì xong xuôi là tốt”, hắn ta nói, và tự đáy lòng hắn biết, nếu vụ này tiến triển bình thường, hắn ta chẳng được lợi lộc gì, bởi gia đình hắn phải cậy nhờ đến luật sư Peyrecave, trên Bordeaux. Vâng, tất cả đã êm xuôi...
II
Thérèse vốn ưa mùi da ẩm mốc của những chiếc xe cổ lỗ. Nàng bỏ quên gói thuốc, nhưng tự an ủi: mình không thích hút trong bóng tối. Ngọn đèn lồng soi rõ bờ dốc, rặng dương xỉ đìu hiu và những góc thông to tướng. Mấy đống sỏi làm bóng cỗ xe trở nên đi động. Thỉnh thoảng, một chiếc xe bò lọc cọc đi qua, mấy con la tự động nép sang phải, trong khi người đánh xe ngủ gà ngủ gật, chẳng buồn nhúc nhích. Thérèse tưởng như mình chẳng bao giờ đến Argelouse, bởi nàng đang ao ước con đường này hãy thành vô tận, không phải còn một giờ ngồi xe về tận ga Nízan và chuyến xe lửa cứ ngừng mãi ở mỗi ga xép. Cả từ Saint Clair nữa, nơi nàng sẽ xuống, cho đến Argelouse, còn phải vượt mươi cây số bằng xe bò có mui (đấy, con đường chẳng một chiếc ô tô nào đám chạy ban đêm).
Ðịnh mệnh, còn có thể hiện ra ở bất cứ chặng đường nào, để giải thoát cho nàng. Trước ngày có phán quyết, Thérèse không sao xua đuổi khỏi tâm trí nỗi ám ảnh huyền hoặc: một trận động đất sẽ xảy ra, nếu họ vẫn buộc tội nàng. Nàng giở nón ra, mái đầu nhỏ nhắn, rũ rượi tựa trên ghế da thoảng mùi mốc, mặc nó bồng bềnh và xác thân dằn xốc. Cho đến đêm này, nàng đã sống như kẻ bị truy nã; giờ tai nạn qua khỏi, nàng cảm thấy mỏi mòn. Má hóp sâu, môi héo hắt, với vầng trán rộng kiêu kỳ, tạo thành bộ mặt kẻ bị kết án – đúng thế, dù rằng người ta đã công nhận nàng vô tội - kết án lưu đày vào cõi trăm năm cô đơn. Vẻ quyến rũ khó lòng cưỡng nổi của nàng trước kia, như ấp ủ một nỗi niềm u ẩn, một vết thương đau thầm kín, nàng chắc tất cả đều biết vậy, nếu họ không cố tình tự lừa dối.
Ngồi sâu trong chiếc xe lắc lư, trên con đường xuyên qua bóng tối dày đặc của rừng thông, người thiếu phụ trẻ, chẳng cần phải đóng kịch nữa, đưa tay dịu dàng mơn trớn gương mặt ủ ê của mình. Bernard, kẻ đã ngụy chứng để cứu nàng, sẽ nói những lời đầu tiên ra sao? Có thể anh ấy sẽ chẳng hỏi gì đêm nay... còn ngày mai? Thérèse nhắm nghiền mắt lại, đoạn mở hé ra, và thấy đầu ngựa đang lê từng bước khó nhọc, nàng cố nhận ra con dốc. A! Đừng nghĩ gì trước cả. Có lẽ mọi sự sẽ đơn giản hơn là mình tưởng. Ðừng nghĩ ngợi gì hết. Ngủ đi.
Sao hàng không còn ngồi trong xe nữa nhỉ? Còn cái người bệ vệ sau tấm thảm xanh kia, ồ! viện dự thẩm... lại vẫn ông ta! Ông ta thừa biết nội vụ đã được dàn xếp rồi mà. Đầu ông ta nghiêng từ trái sang phải: có sự kiện mới, không thể ký lệnh miễn tố. Một sự kiện mới ư? Thérèse quay đi, để địch thủ khỏi nhìn thấy gương mặt thất sắc của mình.
- Hãy cố nhớ lại xem, thưa bà. Chỗ túi trong của chiếc áo choàng cũ kỹ này. Chiếc áo mà bà chỉ dùng tới vào tháng Mười, trong mùa săn chim Cu, bà có để quên cái gì, có giấu giếm cái gì không?
Không thể chối cãi, nàng nghẹn thở.
Dán mắt vào con mồi của mình, viên thẩm phán đặt lên bàn một gói nhỏ có đóng khằng đỏ - Thérèse có thể đọc vanh vách cái công thức ghi trên bao bì và người kia sẵng giọng:
- Chloroforme[2]: 30 gam, Aconitine[3]viên nhỏ số 20, Digitaline[4]: 20 gam.
Viên thẩm phán cười phá lên... Thắng rít kèn kẹt dưới bánh xe. Thérèse choàng thức; ngực căng phồng, đầy ắp sương mù (chắc là xe đang xuống con suối trắng). Thuở mới lớn, nàng cũng mơ như thế, khi một nhầm lẫn buộc nàng phải thi lại bằng Trung học. Ðêm nay, khi sực tỉnh, nàng cũng thấy lâng lâng nhẹ nhõm như hồi ấy: tuy có hơi bồn chồn bởi chưa chính thức có lệnh miễn tố. “Nhưng con thừa biết, còn phải tống đạt trước cho luật sư đã”.
*
Tự do... còn mơ ước gì hơn. Trở lại cuộc sống bình thường bên cạnh Bernard, đối với nàng chỉ là trò đùa. Bộc bạch hết với anh ấy, đừng để vương vấn thoáng nghi ngờ nào: đó là lối thoát. Tất thảy những gì khuất lấp, phải được phơi bày ra ánh sáng và ngay trong đêm nay. Giải pháp ấy khiến Thérèse rào rạt niềm vui. Trước khi về tới Argelouse, nàng còn chán thì giờ để “dọn mình xưng tội”, theo cách mà Anne de la Trave, cô bạn gái
sùng đạo, vẫn lập luận, mỗi thứ bảy, trong những kỳ hè vui vẻ. Anne bé bỏng, hồn nhiên, em giữ vai trò nào trong chuyện này? Những đứa trẻ trong trắng nhất đâu biết hàng ngày, hàng đêm chúng can dự những gì. Và điều gì nảy mầm độc, dưới gót chân thơ dại của chúng.
Tất nhiên, cô bé ấy có lý, khi nó nhắc nhở Thérèse, cô nữ sinh trung học hay lý sự và ưa cợt đùa: “Chị không thể tưởng tượng nổi đâu, mình cảm thấy như được giải thoát, sau mỗi lần thú tội và được tha thứ. Khi thanh thản, không còn vướng mắc, ta lại có thể bắt đầu cuộc sống với những lầm lỡ mới. Chỉ cần quyết định nói hết là Thérèse đã cảm thấy nhẹ lòng: “ Bernard biết cả rồi, mình phải nói...”
Nàng sẽ nói gì với anh ấy? Thú nhận từ đầu? Liệu lời nói có đủ diễn tả một chuỗi dài lẫn lộn những ước muốn, những ý định, những hành vi không thể biết trước? Những kẻ ý thức rõ tội lỗi của mình, họ xử sự ra sao nhỉ?... “Tôi lại không biết rõ tội lỗi của tôi. Tôi đâu muốn làm cái điều mà người ta gán cho tôi. Tôi không biết tôi muốn gì. Tôi chưa bao giờ hiểu thấu sức mạnh điên cuồng, không thể kềm chế trong tôi, sẽ đưa tôi tới đâu: những gì nó hủy hoại dọc đường đi của nó, chính tôi đây cũng khiếp hãi...”
Một ngọn đèn dầu bốc khói mù mịt, soi sáng bức tường vôi xù xì của nhà ga Nizan và chiếc xe bò đậu gần đó. (Bóng tối hãy nhanh chóng vây bủa chung quanh). Từ một con tàu ngừng bến, vẳng lại những tiếng bò rống; dê kêu buồn bã. Gardère cầm lấy túi xách của Thérèse và một lần nữa, lại nhìn nàng chằm chằm. Chắc mụ vợ lão ta đã căn dặn: “Ông cố mà nhìn cho kỹ, xem người ngợm bà ấy thế nào, đầu óc bà ấy ra sao nhé...” Về người xà ích của ông Larroque, tự dưng Thérèse nhớ lại nụ cười như phân trần với mọi người: “Chẳng hiểu bà ấy xấu hay đẹp, chỉ biết bà ấy quyến rũ vô cùng...” Ngại phải băng qua phòng đợi, nơi có hai chị tá điền ngồi đan, đầu luôn ngúc ngắc với cái thúng đặt trên gối, nàng nhờ lão ta đến phòng vé giữ chỗ.
Khi lão mang vé lại, nàng bảo lão giữ luôn tiền lẽ. Lão đưa tay chạm khẽ vành mũ cát-kết ra dấu cảm ơn, đoạn túm lấy dây cương, quay lại, nhìn chòng chọc vào mặt ái nữ của chủ mình lần cuối.
Các toa tàu chưa được nối lại. Mới đây, mỗi lần bãi trường hay nhập học, Thérèse Larroque và Anne de la Trave rất thích dừng lại ga Nizan. Hai cô vào quán ăn trứng chiên với dăm-bông, rồi quàng tay nhau, tung tăng trên con đường mà đêm nay đã trở nên u tối, kỳ quặc dưới mắt nàng, nhưng vào những năm tháng tuyệt vời đó, Thérèse thấy nó luôn tràn ngập ánh trăng. Bấy giờ, họ cười đùa nhìn đôi bóng mình chụm lại. Cố nhiên, họ ríu rít với nhau về mấy cô giáo, và đám bạn bè - đứa bênh vực tu viện, đứa bảo vệ trường trung học: “Anne...”Trong đêm tối, Thérèse gọi to cái tên đó. Trước tiên phải nói với Bernard về cô ấy... Bernard, con người rất mực đứng đắn; anh xếp hạng mọi tình cảm để tách biệt chúng ra, đâu biết rằng giữa chúng; có những nẻo quanh đường tắt, đan quyện nhau như tấm lưới. Làm sao đưa anh vào những vùng mông lung, vô định, mà Thérèse đã trải qua, đã sầu khổ? Tuy nhiên, cần phải thế. Lát nữa đây, khi bước vào phòng, không thể làm gì khác hơn, là đến ngồi bên mép giường, lần lượt kể cho Bernard nghe hết đoạn này qua đoạn khác, cho đến khi anh bảo Thérèse ngừng lại: “Bây giờ anh đã hiểu, em hãy đứng lên. Anh đã tha thứ cho em”
Nàng lần mò băng qua vườn nhà ông sếp ga, hoa cúc ở đâu chẳng thấy, thoảng hương ngào ngạt. Không có ai trên toa hạng nhất, vả lại ngọn đèn hiu hắt không đủ sáng để soi rõ mặt nàng. Không thể đọc sách được, nhưng quyển truyện nào chẳng trở nên nhạt nhẽo đối với Thérèse, so với cuộc đời kinh khiếp của nàng? Có thể nàng sẽ chết vì xấu hổ, vì âu lo, vì ăn năn, hay mệt mỏi - nhưng nàng sẽ không chết vì phiền muộn.
Nàng ngồi nép vào một góc, nhắm mắt lại. Lẽ nào một người đàn bà thông minh như nàng, lại không thể khiến người ta hiểu ra tấn bí kịch này?
Vâng, khi nàng thú tội xong, Bernard sẽ đỡ nàng đứng lên: “Em yên tâm, Thérèse, đừng băn khoăn gì nữa. Trong ngôi nhà ở Argelouse này, chúng ta sẽ sống bên nhau cho đến chết, chẳng bao giờ để việc đã qua ngăn cách chúng ta nữa. Anh khát lắm, em hãy đích thân xuống bếp, vắt cho anh ly cam. Anh sẽ uống liền một hơi, dù nó có vẩn đục. Dù mùi vị nó gợi anh nhớ đến cốc chocolat ngày nọ, cũng mặc! Em còn nhớ không, hỡi em yêu dấu, những lần nôn mửa ấy? Bàn tay thân thiết của em nâng đầu anh dậy, em không rời mắt khỏi cái chất nước màu lục nhạt: những cơn ngất của anh không hề làm em hoảng sợ. Thế mà, em lại tái nhợt mặt mũi, cả đêm anh nhận thấy đôi chân mình bất động, không còn cảm giác. Em run lập cập, em
có nhớ không? Và cái lão bác sĩ Pedamay u mê, lại hoảng kinh vì nhiệt độ anh xuống quá thấp và mạch của anh nhảy loạn xạ…”
“A! Thérèse nghĩ, anh ấy không hiểu, phải kể lại hết từ đầu...” Hành động của chúng ta bắt đầu từ đâu? Ðịnh mệnh mình, khi ta muốn tách riêng nó ra cũng giống như những cây kia, không thể nào nhổ bật lên với cả gốc lẫn rễ. Thérèse sẽ quay ngược về thời thơ ấu chăng? Nhưng thời thơ ấu tự nó đã là một kết thúc, một chung cục.
Tuổi ẩu thơ của Thérèse: từ tuyết giá đến nguồn con sông nhơ bẩn nhất. Ở trường trung học, nàng sống hờ hững và như lánh xa những bi kịch vụn vặt, từng làm nát lòng những cô bạn. Các cô giáo thường đem nàng ra làm gương trước bọn họ:
- Thérèse không đòi hỏi phần thưởng nào khác hơn là niềm vui được thể hiện nơi em, một điển hình của tình người cao cả. Lương tri của em thôi cũng đủ soi sáng cho em. Niềm tự hào được đứng vào lớp người ưu tú, gìn giữ và nâng đỡ em nhiều hơn là nỗi lo sợ bị trừng phạt...
Một cô giáo đã phát biểu như thể.
Thérèse tự hỏi: “Mình có hạnh phúc thế không? Mình có trong trắng thế không? Những gì xảy ra trước cuộc hôn nhân đều mang vẻ thanh khiết, trong ký ức mình, cố nhiên là trái ngược, với sự hoen ố không thể tầy xóa của đêm tân hôn. Ngôi trường trung học, cái thuở xa xăm khi chưa làm vợ và làm mẹ, hiện ra như một thiên đàng. Bấy giờ, tôi đâu có biết. Làm sao tôi có thể hiểu được, trong những năm tháng trước khi vào đời, tôi đã thực sự sống cuộc đời mình. Trong sạch ư? Tôi đã rất trong sạch: một thiên thần ư? Vâng! Nhưng là một thiên thần tràn đầy dục vọng. Dù các cô giáo của tôi có nói gì đi nữa, tôi vẫn đau khổ, và làm người khác đau khổ. Tôi thích thú trước nỗi khổ tôi gây ra hay do các bạn đem tới – đó là niềm đau đơn thuần, chẳng hối hận nào xoa dịu nổi: đau thương và hoan lạc đều từ những thú vui ngây dại nhất mà ra.”
Niềm an ủi của Thérèse là, đừng cảm thấy mình không xứng đáng với Anne, khi gặp lại cô ấy, dưới những gốc sồi ở Argelouse vào mùa hạ. Sao cho nàng có thể nói với cô bé, được nuôi dạy trong tu viện Thánh Tâm: “Ðể
được trinh khiết như em, chị không cần đến những thứ huy chương, cũng như bao điều lặp đi lặp lại đến nhàm tai kia...” Lại nữa, phải chăng sự trinh khiết của Anne de la Trave là do khờ dại. Các sơ trong tu viện Thánh Tâm giăng trăm nghìn bức màn che giấu sự thật, trước mắt các cô bé ngây thơ. Thérèse khinh thường họ đã lầm lẫn đức hạnh với sự khờ dại. “Em yêu quý ạ, em chưa biết đời là gì, nàng lẩm bẩm nhắc lại nhiều lần, vào Những mùa hè xa xưa ở Argelouse. Ôi! Những mùa hè tươi đẹp ấy... Trên chuyến xe lửa cuối cùng đã lăn bánh, Thérèse tự nhủ phải nghĩ về họ, nếu nàng muốn nhìn cho rõ. Thật khó mà tin là chính trong buổi bình minh rạng rỡ của đời ta, bao cơn giông ác liệt đã chực chờ. Buổi sáng trời xanh: là điềm chẳng lành của xế trưa và chiều tối. Nó dự báo những vườn hoa xơ xác, những cành cây gãy đổ và bùn nhơ lầy lội. Thérèse không nghĩ ngợi, chẳng suy tính vào bất cứ lúc nào trong đời không một chỗ ngoặt bất ngờ: nàng xuống dốc mà không nhận ra, thoạt tiên rất chậm, rồi càng về sau càng nhanh hơn. Người đàn bà vô hạnh đêm nay, chính là cô thiếu nữ vui tươi hớn hở suốt những mùa hè qua ở Argelouse, nơi giờ đây nàng trở về, một cách lén lút và phải nhờ bóng đêm che chở.
Mệt mỏi biết chừng nào. Phơi trần bí ẩn của một việc đã qua, liệu có ích gì? Người thiếu phụ trẻ, qua khung cửa kính chẳng nhìn thấy gì, ngoài ánh phản chiếu gương mặt sầu thảm của mình. Ðoàn tàu chậm lại, đầu máy rít một hơi dài, từ từ tiến vào sân ga. Một cánh tay đung đưa ngọn đèn lồng, nhiều tiếng gọi quê mùa, tiếng kêu eng éc của những chú heo con vừa đỗ bến. Ðã tới Uzeste rồi. Thêm một ga xép nữa là đến Saint Clair, từ đây phải vượt chặng cuối cùng bằng xe bò về Argelouse. Thời gian để Thérèse chuẩn bị đối phó chẳng còn bao lâu nữa!
III
Argelouse quả là nơi cuối đất cùng trời, tới đó thì chẳng còn đi đâu được nữa, người ở đấy gọi là thôn ổ: không giáo đường, xã sảnh, cũng chẳng nghĩa trang, lơ thơ vài trang trại nằm rải rác quanh cánh đồng lúa mạch, nối liền với thị trấn Saint Clair cách đó mười cây số bằng con đường độc đạo gồ ghề lồi lõm. Con đường đầy vết bánh xe lún và hang lỗ, qua khỏi Argelouse một đỗi, đã biến thành những lối mòn ngập cát; và suốt tám mươi cây số vươn tay với biển, chỉ thấy mênh mông những đầm lầy, những vũng nước mặn, những rừng thông khẳng khiu, những đồng hoang cỏ cháy, nơi mỗi độ đông tàn, bầy chiên cái đều nhuộm màu tro. Những thế gia vọng tộc ở Saint Clair, hầu hết xuất thân từ thôn ổ hẻo lánh này.Vào giữa thế kỷ qua, khi mà nhựa thông và củi rừng bắt đầu bù đắp cho nguồn huê lợi ít ỏi do đàn gia súc mang lại, cha ông những kẻ hiện sống, đều đi lập nghiệp ở Saint Clair, và nhà ở của họ ở Argelouse đã trở thành trang trại. Biểu hiện cho danh giá ngày xưa của họ là những xà nhà chạm trổ trước hiên hoặc đôi khi là cả lò sưởi bằng cẩm thạch. Mỗi năm, chúng lún sâu thêm một ít và một bên chái nhà rệu rã, quằn xuống đến gần chạm đất. Hai trong những ngôi nhà cồ xưa ấy vẫn còn là những gia trang quyền thế. Con cháu dòng họ Larroque và Desqueyroux vẫn giữ nguyên trạng ngôi nhà như khi họ thừa hưởng của tổ tiên. Jérome Larroque, thị trưởng và nghị viên ở B., có nhà riêng ở ngoại vi quận ấy, chẳng muốn thay đổi gì cái tài sản ở Argelouse do vợ để lại (bà đã chết vì hậu sản, khi Thérèse còn nằm nôi) và ông chẳng chút ngạc nhiên thấy con gái thích về đó nghỉ hè. Cứ đến tháng bảy là nàng về, có bà chị cả của cha mình theo chăm sóc, cô Clara, gái lỡ thì lại lảng tai, cũng ưa thích cảnh cô quạnh, bởi ở đó, theo lời cô nói, cô không phải nhìn thấy môi người khác mấp máy và cố biết người ta chỉ có thể nghe tiếng gió rì rào trong rừng thông. Ông Larroque rất mừng, vì Argelouse vừa giúp ông khỏi vướng bận đứa con gái, vừa đẩy nó đền gần gã Bernard Desqueyroux, mà một ngày nào đó, nó phải lấy chồng theo ước nguyện của hai gia đình, dù rằng sự thỏa thuận của họ chưa phải là chính thức.
Bernard Desqueyroux được cha để lại một ngôi nhà ở Argelouse, gần bên nhà Larroque. Chưa bao giờ người ta thấy chàng ở đó, trước mùa săn và
chàng chỉ nghỉ lại đó vào tháng mười, khi lưới bẫy chim cu đã giăng xong cách đó không xa. Mùa đông, chàng trai hiền hậu đó theo học ngành luật ở Paris, mùa hè, chàng sống bên gia đình chẳng bao lâu. Chàng căm hận Victor de la Trave, người đã lấy mẹ chàng, một góa phụ, chẳng tốn đồng xu ten và sự hoang phí của ông ta đã khiến cả Saint Clair đàm tiếu. Anne, cô em cùng mẹ khác cha, lúc ấy còn quả trẻ, nên không được chàng để mắt tới. Chàng nghĩ đến Thérèse nhiều hơn chăng? Cả xứ cáp đôi họ với nhau, cơ hồ gia sản của họ được tạo ra là để sáp nhập vào nhau. Về điểm này, gã thiếu niên đôn hậu hoàn toàn đồng tình với thiên hạ. Nhưng chàng không muốn phó mặc bất cứ điều gì cho định mệnh; chàng luôn tự hào về cách sắp xếp cuộc sống: “Người ta thường chỉ khốn khổ vì lỗi lầm của chính mình...” Chàng trai mập mạp ấy vẫn nói thế. Cho đến khi cưới vợ, chàng vẫn chia đều thời gian cho công việc và hưởng thụ, nếu chàng không chê ăn ngon uống say, nhất là thú săn bắn, thì chàng cũng làm việc không ngơi nghỉ, theo cách nói của mẹ chàng. Học thức của chồng phải hơn vợ, mà Thérèse thì quá thông minh, một đầu óc phóng khoáng, hẵn thế... nhưng Bernard biết phải nhượng bộ phụ nữ những gì, Vả lại, mẹ chàng vẫn nhắc nhở: “Bắt cá hai tay” có gì là xấu, ông nhạc Larroque có thể ủng hộ anh. Vào năm hai mươi sáu tuổi, Bernard Desqueyroux, sau vài chuyến du lịch “học hỏi kinh nghiệm” bên Ý, bên Tây Ban Nha và Hà Lan, đã cưới cô gái giàu sang và thông minh nhất miền đầm lầy, có lẽ không phải đẹp nhất, nhưng “người ta chẳng thắc mắc nàng đẹp hay xấu, chỉ biết nàng vô cùng quyến rũ”
Thérèse mỉm cười trước bức biếm họa về Bernard, mà nàng vừa vẽ trong trí “Thật ra, anh ấy sắc sảo hơn phần đông những thanh niên mà mình có thể lấy làm chồng”.
Phụ nữ ở vùng đầm lầy tài giỏi hơn đàn ông nhiều, ngay thời trung học, bọn đàn ông đã bộc lộ nhược điểm của mình, đầm lầy đã níu giữ tình cảm họ, và trong tâm trí họ vẫn sống ở đó, đối với họ, chỉ có những niềm vui do đầm lầy ban phát là đáng kể thôi. Sẽ là phản bội hoặc xa rời đầm lầy nếu không còn giữ chút dáng dấp tá điền, từ bỏ giọng nói quê mùa, những cử chỉ thô lỗ, cục mịch. Dưới lớp vỏ cứng cáp, Bernard có chút lòng nhân hậu nào không? Khi anh cận kề cái chết, bọn tá điền kháo nhau: “Sau ông ấy, sẽ chẳng còn ông chủ nào ở đây nữa” Vâng, với lòng nhân hậu, sự thành tâm và một trí óc sáng suốt, anh ít khi nói về điều mình không biết; anh chấp nhận giới hạn của mình. Hồi trẻ, anh không đến nỗi xấu trai, cái gã
Hippolite[5]quê kệch, thích rượt theo đàn thỏ trong đầm lầy, hơn là theo đuôi bọn con gái.
Thế nhưng, tựa đầu vào cửa kính toa tàu, mì mắt khép hờ, Thérèse nhìn thấy chẳng phải anh, vị hôn phu lạnh lùng, hiện ra trên chiếc xe đạp những buổi sáng xa xưa, trên con đường từ Saint Clair đến Argelouse, khoảng chín giờ, trước khi ánh nắng trở nên gay gắt, mà là cô em gái Anne, gương mặt nóng bừng rạng rỡ - đâu đó loài ve đã ra rả đều khắp những cây thông, ngoài trời, lửa hè bắt đầu âm ỉ thiêu đốt đầm lầy và hàng triệu con ruồi từ những bãi hoang túa ra.
- Khoác áo choàng vào, phòng khách lạnh như hầm nước đá ấy... Cô Clara nói thêm:
- Cô bé ơi, đợi ráo mồ hôi, rồi hãy uống nước...
Anne rối rít hét vào tai người điếc vài câu chào hỏi.
- Khỏi phải gào đến khản cổ như vậy em ạ! Nhìn môi em có ấy hiểu hết...
Mặc cô gái uổng công chu môi múa mỏ nhấn giọng từng tiếng, người cô cứ đáp bâng quơ, chẳng dính đâu vào đâu, khiến hai đứa phải kéo nhau ra chỗ khác ôm bụng mà cười.
Trong một góc khuất tối tăm, Thérèse nhìn lại chuỗi ngày trong trắng của đời mình. Trong trắng nhưng xôn xao một hạnh phúc mỏng manh, mơ hồ và thoáng vui mờ ảo ấy. Nàng không hề biết thuở đó, nàng đã hưởng xong cái phần đẹp đẻ duy nhất tạo hóa dành cho nàng trên thế gian này. Ðâu có gì báo trước cho nàng hay là số phận nàng được an bài trọn vẹn trong căn phòng khách âm u, giữa mùa hè gay gắt - trên chiếc ghế dài bọc len đỏ này, bên cạnh cô bé Anne với tập an-bom đặt trên cặp đùi khép chặt. Hạnh phúc ấy đến từ đâu? Anne có sở thích nào giống Thérèse không? Cô bé ghét đọc sách, chỉ ham thiêu thùa may vá, đấu hót như sáo và cười cợt. Chẳng bận tâm bất cứ điều gì; trong lúc Thérèse lại đọc ngấu nghiến những tiểu
thuyết của Paul de Kock, Cuộc trò chuyện ngày thứ hai, Lịch Sử Tổng tài Chế, tất cả những gì vứt bừa bãi trong các ngăn tủ của một ngôi nhà miền quê. Chẳng một sở thích chung nào, ngoài cái việc ngồi kề bên nhau, suốt những trưa hè, bị ngọn lửa ngùn ngụt của đất trời vây bủa khiến con người phải rút vào khoảng mờ tối. Thỉnh thoảng, Anne đứng dậy, xem ngoài kia đã dịu nắng chưa. Nhưng cửa vừa mở hé, ánh sáng, như một luồng kim loại nóng chảy, đột ngột phun vào tưởng chừng ngún cháy cả đêm, thế là phải đóng khi cửa lại mà thu mình ẩn náu.
Kề cả lúc hoàng hôn, khi mặt trời chỉ còn rựng đỏ dưới rặng thông và gần như sát đất, con ve cuối cùng còn kêu rỉ rả; cái nóng như tù đọng dưới những gốc sồi. Đôi bạn nằm lăn vẹn cảnh đồng mà tưởng như ngồi bên hồ. Nhiều đám mây dông, tượng thành những hình ảnh phù du trôi nổi, nhưng trước khi Thérèse kịp nhận ra người đàn bà có cánh Anne vừa nhìn thấy trên nền trời, thì, phút chốc chỉ còn là một con vật kỳ quái nằm sóng soãi.
Tháng chín, họ có thể ra khỏi nhà sau bữa ăn chiều và đến viếng xứ sở của cái khát: chẳng còn một lạch nước nào ở Argelouse; phải đi thật lâu trên cát trước khi gặp được nguồn con suối mang tên Hure. Nó len lỏi nhiều nơi trong vùng đất trũng của vài đồng cỏ lơ thơn giữa những rễ trăn. Ðôi chân trần của cô gái không còn cảm giác trong dòng nước lạnh buốt, nhưng khi vừa khô ráo, lại trở nên nóng bỏng. Một túp lều dùng làm nơi trú chân cho những thợ săn chim cu trong tháng mười, đón họ y như căn phòng khách âm u mới đây. Chẳng có gì để nói với nhau, chẳng một lời thốt ra, thời khắc mải miết trôi trong những lần dừng chân hồn nhiên ấy, các cô gái ngồi im thin thít cho đến khi một con chim vụt bay qua, gã thợ săn giơ tay ra hiệu bảo im lặng.
Như thế, tưởng chừng một cử động nhỏ đủ khiến thứ hạnh phúc mông lung và trong sáng của họ tan biến. Anne vươn vai trước tiên, cô bé nôn nao muốn bắn hạ bầy sơn ca vào buổi chiều; Thérèse tuy ghét trò chơi đó, cũng lẽo đẽo theo sau, không biết chán sự hiện diện của cô bé. Anne với lấy khầu súng nòng 24 không giật ở gian trước, trong khi Thérèse ngồi trên bờ dốc, lặng nhìn bạn đứng giữa đồng lúa mạch, ngắm bắn mặt trời như muốn cho nó rụng xuống để nắng tắt đi. Thésèse bịt hai tai lại, một tiếng kêu nghẹn tắt giữa trời xanh, và có thợ săn chạy đến nhặt con chim trúng thương, thận
trọng giữ chặt nó trên tay, rồi đưa môi vừa mơn trớn bộ lông hãy còn nóng hổi, vừa bóp chết nó.
- Mai em đến chứ?
- Ồ! Không! Ðâu phải ngày nào ta cũng cần nhau.
Cả nàng cũng chẳng mong gặp cô ấy hằng ngày. Câu nói hợp lý không bắt bẻ vào đâu được, mọi lời phản đối đều có vẻ khó hiểu, cả đối với Thérèse. Anne không thích trở lại; tất nhiên, - chẳng có gì ngăn cản cô; nhưng tại sao cứ phải gặp mỗi ngày? Cô ấy nói:
- Cuối cùng, rồi mình sẽ ác cảm với nhau mất.
Thérèse đáp:
- Vâng, đúng thế, nhất là chớ xem như bị bó buộc: hãy đến khi nào cảm thấy thích... khi em chẳng có gì khác vui hơn.
Vừa rung chuông leng keng cô gái và chiếc xe đạp thoắt đó đã mất hút trên con đường chập choạng tối.
Thérèse quay về nhà, những người tá điền chào nàng từ xa, lũ trẻ con không dám đến gần nàng. Ðó là giờ đàn chiên tràn ra lũ lượt, dưới những rặng sồi, đột nhiên, chúng hùa nhau chạy rầm rập và gã mục đồng la hét inh tai. Người cô chờ nàng bên thềm và như mọi kẻ điếc, bà nói huyên thuyên để Thérèse chẳng nói được gì. Vì sao có nỗi buồn này? Nàng không thiết đọc sách, cũng chẳng muốn làm gì cả, nàng lại đi thơ thẫn: “Ðừng đi xa; họ sắp dọn ăn rồi đấy”. Nàng ra đứng bên vệ đường. Con đường im vắng và trống trải đến hút tầm mắt. Tiếng chuông từ nhà bếp vẳng gọi. Ðêm nay, có lẽ phải thắp đèn. Nàng nhìn thấy bà cô mình ngồi bất động, hai bàn tay đan nhau đặt trên khăn trải bàn, tự dưng nàng thấy sự cô quạnh của nàng còn thấm thía hơn nỗi buồn của con người bất hạnh đó.
*
Bernard, Bernard, làm sao dẫn dắt anh vào cái thế giới mơ hồ của nàng, anh thuộc loại người mù quáng, cái hạng người ngay thẳng đến khắt khe. “Nhưng, Thérèse nghỉ, anh ấy sẽ ngắt lời mình, ngay những tiếng đầu tiên: “Vì sao cô lấy tôi?” Tôi có “đeo đuổi cô”... đâu.” Vì sao mình lấy anh ấy?
Quả thực, anh ấy không hề tỏ ra vội vàng. Thérèse nhớ lại rằng bà Victor de la Trave, mẹ Bernard, bạ ai cũng kể lể:
- Lẽ ra cậu ấy còn chờ, nhưng con đó muốn, nó muốn, nó muốn. Khổ nỗi, nó đâu có khuôn phép như nhà mình, chẳng hạn nó hút thuốc lá liên miên, một kiểu cách riêng của nó đấy, nhưng đó là một mẫu người thẳng thắn, thực thà như đếm. Chúng tôi sẽ nhanh chóng kéo nó về với những tư tưởng chính đáng. Tất nhiên, trong cuộc hôn nhân này, chẳng phải mọi cái đều hợp ý chúng tôi. Ðúng thế, bà cụ Bellade... tôi biết lắm chứ... nhưng thiên hạ đã quên bẵng phải không nào? Có thể nói vụ ấy suýt gây tai tiếng nếu nó không bị ỉm kỹ. Ông bà tin có sự di truyền à? Người cha quan niệm sai, đồng ý rồi, nhưng ông toàn nêu gương tốt cho con gái, đó là một bực thánh thế tục. Và ông ta có thế lực. Ta luôn cần đến mọi người. Tóm lại, cũng phải bỏ qua đôi điều chứ. Hơn nữa, ông bà tin tôi hay không thì tùy; chứ nó giàu hơn chúng tôi đấy. Thật khó tưởng nổi, nhưng đúng thế đấy! Lại yêu Bernard tha thiết, vậy là chẳng mất đi đâu cả.
Vâng, nàng đã yêu anh ấy tha thiết: chẳng có biểu hiện tình cảm nào lại đòi hỏi ít cố gắng hơn. Trong phòng khách ở Argelouse hay dưới rặng sồi ven cánh đồng, nàng chỉ cần ngước nhìn chàng với ánh mắt chan chứa một tình yêu thơ ngây và trong trắng. Một con mồi hấp dẫn như thể dưới chân mình, chỉ làm chàng trai thích thú chứ không khiến chàng ngạc nhiên. “Đừng đùa bỡn với con bé, bà mẹ nhắc nhở, nó sẽ héo mòn.”
*
“Tôi lấy anh ấy bởi vì…”
Thérèse nhíu mày, một tay đưa lên mắt, cố nhớ lại. Có cả niềm vui thơ trẻ được trở thành chị dâu của Anne, sau đám cưới. Nhưng đối với Thérèse, mối liên hệ ấy không đáng kể mấy, chỉ có Anne là cảm thấy thích thú. Thực
ra thì, tại sao phải đỏ mặt kia chứ? Hai ngàn hec-ta của Bernard đâu thể khiến nàng dửng dưng? Nàng luôn có ý thức về “sở hữu trong máu”.
Sau những bữa ăn kéo dài, người ta mang rượu, đặt lên chiếc bàn đã dọn hết bát dĩa, Thérèse thường ngồi nán lại bên bọn đàn ông, lắng nghe họ bàn tán về những tá điền, những cọc mỏ, đá quý, nhựa thông. Sự lượng giá tài sản khiến nàng say mê. Chắc chắn sự cai quản cả một vùng rừng mênh mông đã cám dỗ nàng.
“Vả lại, anh ấy cũng mê những rặng thông của mình vậy.”
Nhưng có thể Thérèse đã chiều theo một tình cảm mông lung, mà nàng cố gắng hiểu cho tận tường. Có thể nàng chỉ tìm trong hôn nhân một nơi ẩn náu, hơn là quyền ngự trị hay sở hữu. Cái điều xô đẩy nàng buông xuôi phải chăng là một sự khủng hoảng? Từ một đứa bé thiết thực, đến cô gái đảm đang, nàng đã vội vã chiếm lấy ngôi thứ của mình, giành cho mình một địa vị chắc chắn, nàng muốn được an toàn trước một nguy cơ nào đó, chính nàng cũng chẳng rõ. Chưa bao giờ nàng tỏ ra biết điều, như trong thời kỳ đính hôn; nàng gắn chặt mình vào khối gia đình. Nàng “xếp chỗ” cho mình, tự đặt mình vào một đẳng cấp. Nàng chạy trốn chính mình.
*
Vào mùa xuân của thời kỳ đính hôn, họ men theo con đường cát từ Argelouse đi Vilméja. Những lá sồi héo úa còn che phủ bầu trời, ảm đạm, dương xỉ khô rải rác trên mặt đất, vừa nhú bao chồi mới, một màu xanh acide.
Bernard khẽ bảo:
- Coi chừng điếu thuốc của em, còn có thể cháy đấy, đầm lầy đã khô kiệt nước.
Nàng đã hỏi lại:
- Có đúng là cây dương xỉ chứa acide prussique không?
Bernard chẳng biết nó có chứa đủ liều lượng có thể đầu độc con người không. Anh đã âu yếm hỏi nàng:
- Em muốn chết sao?
Nàng khúc khích cười. Anh tỏ ý mong nàng phải thành thực hơn. Thérèse nhớ là mình đã nhắm mắt lại, khi hai bàn tay hộ pháp ôm chặt mái đầu nhỏ nhắn của nàng, và một giọng nói rót nhẹ vào tai:
- Trong này, còn vài ý nghĩ nhảm nhí đây.
Nàng đã trả lời:
- Chính anh phải xóa bỏ chúng đấy, Bernard ạ.
Họ đã quan sát công việc của những thợ nề, đang xây thêm một phòng nơi trang trại Vilméja. Các nghiệp chủ ở Bordeaux muốn đưa về đây đứa con cuối cùng của họ “đã phải ra đi vì bệnh phổi”. Cô chị chết cũng vì bệnh ấy. Bernard có vẻ khinh miệt thậm tệ những người Azévédo đó:
- Họ thề trước thánh thần của họ, là họ chẳng phải gốc gác Do Thái… ấy thế mà chỉ cần nhìn cũng đủ biết. Còn gì nữa, ho lao, đủ mọi thứ bệnh…
Thérèse rất trầm tĩnh. Anne sẽ từ tu viện Thánh Sébastien về dự lễ cưới. Cô ấy có phải cầu xin với con trai Deguilhem không nhỉ? Cô đòi Thérèse phải mô tả cho cô biết “qua thư hồi âm” trang phục của những cô phù dâu khác:
- Cô có thể nhận được mẫu không? Vì lợi ích của cả bọn, nên chọn những màu phù hợp với nhau.
Chưa bao giờ Thérèse cảm thấy bình yên đến thế - Nhưng điều nàng tưởng là sự bình yên, thật ra chỉ là giấc ngủ chập chờn, khoảnh khắc đờ đẫn của con rắn ủ trong lòng nàng.
IV
Ngày cưới diễn ra ngột ngạt trong ngôi nhà thờ chật hẹp ở Saint Clair. Giọng cười nói lao xao của các mệnh phụ át hẳn tiếng đàn harmonium. Mùi nước hoa sực nức pha lẫn hương trầm, Chính trong ngày đó, Thérèse cảm thấy tuyệt vọng.
Như người mộng du, nàng đã bước vào phòng và qua tiếng rổn rảng của cánh cửa nặng nề vừa khép lại, cô bé đáng thương ngày xưa bỗng choàng thức. Chẳng có gì thay đổi cả, nhưng nàng có cảm tưởng từ nay, không thể chỉ mỗi mình nàng thua thiệt. Giữa chốn thâm nghiêm của gia đình, lòng nàng âm ỉ như ngọn lửa quái ác tràn lan dưới bãi hoang, ngún cháy một cây thông, rồi một cây khác, dần dần tạo ra cả một rừng đuốc. Giữa đám đông ồn ào, ánh mắt nàng chẳng thể đậu lại trên trên gương mặt nào cả, ngoại trừ bé Anne, nhưng nỗi vui trẻ thơ của cô bé càng khiến nó cách biệt với Thérèse: Vui ư? Tưởng như cô không biết là ngay đêm nay, họ sẽ xa nhau, và không chỉ trong không gian. Lại nữa Thérèse đang lúc đau khổ. Thể xác trong trắng của nàng sắp phải chịu đựng điều không thể hàn gắn. Anne ở lại bên này bờ mong đợi của những kẻ trinh nguyên. Thérèse sắp nhập vào đám người đã trao thân. Nàng nhớ ở kho đồ thánh, lúc nàng cúi xuống hôn lên khuôn mặt nhỏ nhắn, hí hửng ngước nhìn nàng, đột nhiên nàng bắt gặp cái hư không lạnh lẽo, quanh đó nàng đã dựng lên một vũ trụ họa phúc mơ hồ, phút chốc nàng nhận ra, sự mắt cân xứng khôn cùng giữa sức mạnh kỳ bí của lòng nàng với khuôn mặt xinh xắn, nhem nhuốc phấn kia.
Lâu về sau, ở Saint Clair và ở B., khi bàn tán về đám cưới ở Gamache (có hơn một trăm tá điền và gia nhân ăn uống no say dưới những gốc sồi) người ta thường nhắc đến cô dâu “cố nhiên không xinh đẹp gì lắm, nhưng vô cùng quyến rũ”, bỗng xấu xí và đáng sợ nữa trong ngày hôm ấy.
“Chẳng phải nàng, đó là một người nào khác…”
Thấy nàng khác xa với vẻ mặt thường ngày, thiên hạ đổ lỗi cho bộ lễ phục màu trắng, cơn nắng gắt, khiến họ không còn nhận ra bộ mặt thật của
nàng.
Buổi chiều của cuộc hôn lễ nửa quê mùa, nửa trưởng giả ấy, vài đám đông, trong đó có mấy cô gái áo màu sặc sỡ, buộc ô-tô của đôi tân hôn phải chạy chậm lại, để họ hò reo chúc mừng. Trên con đường ngập tràn hoa keo, hai vợ chồng vượt qua những cỗ xe bò, do những người hay tếu, mặt đỏ gay vì rượu lái chạy ngoằn ngoèo. Nghĩ tới lúc đêm về, Thérèse thầm thì: “Khủng khiếp quá”.
Rồi lại tự nhủ:
- Không, không khủng khiếp lắm đâu.
Suốt cuộc hành trình trăng mật ghé qua các hồ bên Ý nàng có đau đớn nhiều không? Không, không; nàng còn thầm thích thú với trò chơi: không để lộ tình cảm của mình. Phỉnh phờ vi hôn phu thì còn dễ, chứ lừa dối một ông chồng thì...
Bất cứ ai cũng thốt ra được những lời dối trá nhưng sự giả dối của cơ thể đòi hỏi một tài nghệ riêng biệt. Giả đò sung sướng, thích thú, đê mê rời rã, chẳng phải ai cũng sở trường. Thérèse biết cách uốn mình vờ vĩnh và qua đó nàng nếm trải một lạc thú cay đắng. Cái thế giới xa lạ của cảm giác mà người đàn ông đẩy nàng vào, trí tưởng tượng giúp nàng hiểu rằng ở đó, có thể có hạnh phúc, cho cả với nàng, nhưng hạnh phúc nào nhỉ? Như trước một phong cảnh nhạt nhòa trong mưa, ta lại hình dung những gì hiện ra dưới nắng, Thérèse đã đến với khoái lạc như thế đó.
Bernard, chàng thanh niên có ánh mắt xa vắng, cứ mãi lo ngại các bức tranh không tưởng ứng với thứ tự trong cuốn Baedeker[6]đã xem trong thời gian ngắn nhất những gì cần xem. Người đâu mà nông nổi! Anh ta bị giam hãm trong khoái cảm của mình, như những con heo núng nính sau chấn song, nom thật buồn cười, khi chúng hể hả vọc mỏ vào máng.
- Mình là cái máng ư!
Thérèrse nghĩ.
- Anh có cái vẻ hấp tấp, chộn rộn, quan trọng của chúng: anh biết cách thức.
- Có thật anh nghĩ thế này là đứng đắn?
Ðôi lần quá sững sờ, Thérèse buột miệng hỏi.
Anh cười hề hề bảo nàng yên tâm. Anh học ở đâu cái thói xếp hạng những gì dính dáng tới xác thịt và phân biệt cử chỉ âu yếm của người tao nhã với kẻ loạn dâm? Chẳng hề đắn đo.
Một đêm, trên đường về, họ ghé lại Paris, Bernard đã ngang nhiên rời khỏi rạp chỉ vì một cảnh diễn chướng mắt của nhà hát ca vũ nhạc.
- Nếu người ngoại quốc mà trông thấy! Thật xấu hổ! Khổ nổi chính ở đấy họ xét đoán chúng ta...
Thérèse lấy làm lạ sao con người đạo mạo đó, lại chính là kẻ chưa đầy một giờ trước đây, đã bắt nàng phải chịu đựng bao trò lẩm cẩm trong bóng tối.
Bernard đáng thương, cũng chẳng tệ lậu hơn ai! Nhưng quả là dục vọng đã biến đổi kẻ gần gũi ta thành con vật dị hợm, chẳng thể nào nhận ra nổi. Chẳng có gì ngăn cách ta với người bạn tình cho bằng vẻ si dại của người ấy. Tôi luôn thấy Bernard lặn ngụp miệt mài trong thú yêu đương. Còn tôi, tôi như cái xác không hồn, tưởng chừng một cử động nhỏ cũng đủ khiến tên điên, gã bị động kinh kia, bóp chết tôi ngay. Thường thì, khi sắp đến phút giây tuyệt đỉnh, anh mới đột ngột khám phá ra sự đơn độc của mình, sự vồ vập bỗng ngưng ngang, bẽ bàng. Bernard như bất chợt quay lại nhìn và bắt gặp tôi, mím môi lạnh lùng, nơi bãi biển hoang vắng mà tôi vừa bị ném vào.”
*
Chỉ có mỗi lá thư của Anne: cô bé không mấy ưa viết thư, may sao, dòng nào cũng khiến Thérèse thích thú cả, một lá thư không hề nói hết như
mong muốn, những tình cảm chân thực, đủ cho người đọc cảm thấy hào hứng. Anne than phiền không thể về Vilméja từ khi có gã Azévédo: từ xa cô đã thấy thấp thoáng chiếc ghế dài của gã, giữa khóm dương xỉ: những kẻ mắc bệnh lao vẫn khiến cô ghê sợ.
Thérèse thường đọc lại những trang giấy đó và không hề trông chờ cánh thư nào khác. Cho nên vào giờ phát thư buổi sang (ngay sau cái đêm ở nhà hát bỏ về nửa chừng) nàng vô cùng sửng sốt khi nhận ra nét chữ của Anne de la Trave trên ba phong bì liền. Hòm hư lưu trữ đã chuyển tiếp về Paris cho họ xấp thư này, bởi họ đã bỏ qua nhiều trạm, không ghé: “để hối hả tìm về tổ ấm” như Bernard nói, nhưng kỳ thực, chính vì họ không thể đi chung với nhau được nữa: anh buồn chán vì phải xa mấy khẩu súng, đàn chó, cái quán trọ, với thứ nước lựu Picon đậm đà một hương vị chẳng nơi nào có, hơn nữa người đàn bà kia quá lạnh lùng, quá khinh mạn, chẳng chịu hối lộ khoái cảm của mình, không thích bàn những chuyện lý thú hay ho!...
Đối với Thérèse, nàng ước mong được về Saint Clair, như kẻ bị lưu đày, chán ngán nhà ngục tạm giam, nôn óng muốn đến ngay cái hòn đảo sẽ chôn vùi những gì còn lại của đời mình. Thérèse xem kỹ ngày tháng ghi trên mỗi phong bì. Đang xé phong thư cũ nhất, thì Bernard chợt reo lên, lắp bắp đôi câu, nàng không nghe rõ nghĩa, bởi cửa sổ mở toang, mà những chiếc xe buýt lại hay đổi vận tốc ở ngã tư này. Anh ngừng cạo râu để đọc lá thư của mẹ. Thérèse còn nhìn thấy cái áo gi-lê bằng vải tổ ong, đôi tay trần cuồn cuộn bắp thịt; làn da tái, sượng đỏ ở cổ và mặt. Vào buổi sang tháng bảy đó, cái nóng oi bức đã âm ỉ, ánh sang gay gắt khiến những mặt nhà tiêu điều phía bên kia bao lơn thêm nhớp nhúa.
Anh đến gần Thérèse, nói oang oang:
- Vụ này gay go quá! A! Cô bạn Anne của em, quả là táo tợn. Có ai ngờ đứa em gái nhỏ thân yêu của tôi…
Và bởi Thèrése đưa mắt dò hỏi, anh tiếp:
- Em có tin là cô bé phải lòng con trai nhà Azévédo không? Ấy vậy mà đúng đó: cái gã ho lao đã khiến họ phải nới rộng trang trại ở Vilméja. Chuyện này có vè nghiêm trọng đấy. Cô bé tuyên bố sẽ bảo vệ tình yêu cho
đến tuổi trưởng thành… Mẹ bảo con bé khùng rồi. Ồ! Miễn sao nhà Deguilhem đừng hay biết gì! Cu cậu Deguilhem có thể không thèm cầu hôn. Em có thư của cô bé à? Để rồi xem… kìa, em mở thư đi chứ.
- Em muốn đọc theo thứ tự thời gian. Vả lại, em không thể đưa anh xem đâu.
Điểm này thì anh hiểu nàng rất rõ, nàng luôn rắc rối mọi việc. Dù vậy, chủ yếu là nàng lôi được con bé về với lẽ phải:
- Họ hàng rất tin tưởng nơi em. Em thừa khả năng thuyết phục con bé, nếu…! Họ trông vào em như một vị cứu tinh.
Trong lúc nàng thay quần áo, anh sẽ đi đánh điện tín và giữ hai chỗ trên chuyến tốc hành xuôi Nam. Nàng có thể bắt đầu dồn hành lý vào rương:
- Em còn chờ gì mà chưa chịu đọc thư con bé?
- Đợi anh rời khỏi đây đã.
*
Lâu sau khi anh đã khép cửa lại, Thèrése ngả mình nằm dài trên nệm hút thuốc, mắt lơ đãng nhìn những con chữ tơ lớn màu vàng đã ố đen, gắn trên bao lơn trước mặt; đoạn nàng xé phong bì thứ nhất. Không, không, không phải cô bé ngốc ngếch thân yêu đó, không phải cô nữ sinh tu viện, ngây ngô nông nổi đó đã nghĩ ra lời lẽ táo bạo này. Không thể nào từ trái tim khô khan kia – bởi cô bé có trái tim khô, Thèrése hẳn đã biết điều đó – lại tuôn ra được bài nhã ca này, tiếng rên rỉ đê mê của một phụ nữ được yêu, của một thể xác chết lịm trong hoan lạc, ngay phút đầu gần gũi… Khi gặp chàng, em không thể tin đó chính là chàng, chàng chạy loanh quanh vừa la hét vừa đùa giỡn với con chó. Làm sao em có thể tưởng tượng nổi đó là kẻ bệnh nặng… mà chàng có bệnh đâu: người ta chỉ phòng ngừa thôi, do những nỗi bất hạnh đã xảy ra trong gia đình. Chàng chẳng đến nỗi gầy yếu – đúng ra là hơi mảnh khảnh; lại quen được cưng chiều, nâng niu quá trớn… Chị sẽ không nhận ra em đâu: chính em đi tìm áo khoác cho chàng, khi trời vừa dịu nắng.
Nếu Bernard quay về phòng lúc này, hẳn anh sẽ nhận thấy người đàn bà ngồi trên giường không phải là vợ anh, mà là một người anh chưa hề quen biết, một nhân vật xa lạ, không tên tuổi, tình cảm của Anne như đã biến đổi nàng thành một người khác. Nàng vứt điếu thuốc xe phong bì thứ hai:
Em chờ thời cơ thuận lợi, chẳng có sự phản đối nào khiến em sợ hãi cả, tình yêu của em cũng thế, chẳng gợn chút lo âu. Họ giữ chặt em ở Saint Clair, nhưng Argelouse cách đấy cũng chẳng xa, đến nỗi Jean và em không thể gặp nhau. Chị còn nhớ cái lưới bẫy chim cu chứ? Chị thân yêu, chính chị đã chọn trước những nơi sẽ đem đến cho em nỗi vui chất ngất này! Ồ! Đừng bao giờ nghĩ là chúng em đã làm điều gì xằng bậy nhé! Chàng tế nhị vô cùng! Chị không thể quan niệm có một chàng trai như thế. Chàng học rộng, đọc nhiều, như chị vậy, nhưng đối với đàn ông, điều đó không hề khiến em khó chịu, và em chưa bao giờ nghĩ đến việc trêu chọc chàng cả. Sao em lại không giỏi được như chị nhỉ? Chị thân yêu, thế nó ra sao, cái hạnh phúc hiện nay chị đang có và em chưa biết, - mà chỉ thoáng gần nhau, đã ngay ngất dường ấy? Trong lều chim cu, nơi bao giờ chị cũng muốn chúng mình mang theo bữa quà chiều, khi ngồi bên chàng, em cảm thấy hạnh phúc, tựa hồ thứ gì có thể cầm nó trên tay được. Thế nhưng em biết rằng còn có một niềm vui hơn cả mọi niềm vui, và khi Jean thờ thẫn rời xa, thì bao kỉ niệm mơn trớn vuốt ve, nỗi mong đợi những gì ngày mai hứa hẹn, tất cả khiến em dửng dưng trước những lời oán trách, van lơn, nguyền rủa của những kẻ đáng thương, chưa từng biết… chẳng bao giờ được biết… Chị thân yêu, hãy tha thứ cho em: em nói với chị về hanh phúc, như thể cả chị nữa, chị cũng chưa hề biết đến nó, dù bên chị em chỉ là kẻ tập sự non nớt. Thế nhưng em tin chắc là chị sẽ đứng về phía chúng em, để chống lại những kẻ định làm hại chúng em…
Thérèse xé phong bì thứ ba, chỉ có vài dòng nguệch ngoạc:
Chị thân yêu ơi, về ngay đi: họ đã ngăn cách chúng em: họ luôn canh chừng em. Họ ngỡ đâu chị đứng về phía họ. Em tuyên bố sẵn sàng nhận chịu sự phán xét của chị. Em sẽ giải bày tất cả để chị hiểu: chàng không hề bệnh… Em sung sướng, đồng thời em cũng đau khổ nữa. Em sung sướng được đau khổ vì chàng và em yêu nỗi đau khổ của chàng, như là dấu hiệu tình yêu của chàng đối với em…
Thérèse không đọc thêm nữa. Khi nhét lá thư vào bao nàng thấy rơi ra một tấm ảnh, trước đó nàng không để ý. Bên cửa sổ, nàng ngắm nhìn khuôn mặt ấy, đó là một chàng trai, trông bướng bỉnh qua mớ tóc bồng bềnh. Thérèse nhận ra ngay địa điểm trong ảnh: Jean Azévédo đứng tựa bờ dốc, như David (phía sau có cánh đồng hoang với đàn cừu gặm cỏ). Áp khoác trên tay, sơ mi hở ngực…
Đó là điều mà anh chàng gọi là “giới hạn cho phép cuối cùng của sự âu yếm”.
Thérèse ngước mắt lên và ngạc nhiên trước khuôn mặt mình trong gương. Cố gắng lắm nàng mới hé được môi, miệng khô đắng. Nàng bôi nước hoa lên trán và hai bên thái dương.
“Cô ấy đã biết thế nào là hạnh phúc, còn mình, mình thì sao? Vì sao không phải là mình nhỉ?”
Tấm ảnh vẫn nằm im trên bàn, cạnh đó, lóng lánh một cây kim găm…
“Mình làm thế. Chính mình đã làm thế…” Bây giờ trên chuyến xe lửa lắc lư, đang lao xuống dốc, Thèrése lẩm bẩm: “Cách đây hai năm, trong căn phòng khách sạn ấy, tôi đã nhặt cây kim găm, xuyên thủng tấm ảnh chàng trai kia, ngay chỗ trái tim – không phải một cách giận dữ, mà trầm tĩnh thờ ơ, như là một việc bình thường – tôi đã ném tấm ảnh bị ghim nát đó vào lavabo; và kéo cần dội nước”.
*
Khi Bernard trở lại, anh kinh ngạc trước vẻ mặt nghiêm trang của nàng, giống như một kẻ vừa suy nghĩ xong mọi lẽ và sắp sửa dấn thân. Nhưng nàng cũng cho thấy là đã hút thuốc quá nhiều: nàng sẽ bị ngộ độc mất. Theo Thérèse, không nên quan trọng hóa tính khí thấy thường của một cô gái. Nàng cho là mình có thể nói cô ấy hiểu… Thérèse khiến anh yên long, Bernard chẳng mong gì hơn, - anh sung sướng đã có hai chiếc vé trong túi, và khoái nhất ở chỗ thân tộc đã phải cậy nhờ đến vợ mình. Anh bảo nàng dù
gì đi nữa, họ cũng phải vào một nhà hàng nào đó trong rừng để dùng bữa cơm cuối cùng của chuyến du ngoạn.
Trên xe taxi anh nói lan man về những dự định của mình trong mùa săn sắp tới, anh nóng lòng muốn thử con chó, mà Balion đã luyện tập cho anh. Mẹ anh biên thư cho hay, nhờ châm lửa mà con ngựa cái không còn đi khập khiễng nữa…
Nhà hàng hãy còn vắng khách, đám hầu bàn lăng xăng khiến họ e ngại. Thérèse còn nhớ mùi hương phong lữ và nước muối. Bernard chưa bao giờ được uống rượu vang vùng Rhin:
- Mẹ kiếp, họ không dọn thứ đó.
Đâu phải ngày nào cũng được vui thú. Đôi vai rộng của Bernard án mất căn phòng trước tầm mắt Thérèse. Phía sau mấy tấm kính lớn, những chiếc ô-tô lướt qua, dừng lại, lặng lẽ. Nàng thấy cơ thái dương dưới tai Bernard động đậy. Sau vài ngụm rượu, mặt anh đã đỏ lự, chàng trai làng tốt tướng, từ vài tuần nay, chỉ thiếu mỗi nơi giải tỏa khẩu phần ăn uống hàng ngày. Nàng không căm ghét anh, nhưng xiết bao mong ước được ngồi một mình suy gẫm về nỗi khổ của nàng, tìm hiểu vì đâu nàng khổ? Chỉ cần anh không còn ở đó, để nàng khỏi phải gượng ăn, gượng cười, không cần đăm chiêu ánh mắt làm duyên làm dáng, mặc cho tâm trí đắm chìm trong nỗi tuyệt vọng bí ẩn. Có người vừa thoát khỏi hòn đảo hoang vu, nơi anh tưởng cô ta sẽ sống bên anh đến cuối đời, cô ta vượt qua cái vực thẳm ngăn cách anh với những người khác, gặp lại họ - cuối cùng dời qua hành tinh khác… mà không, có ai thay đổi được hành tinh bao giờ! Anne vẫn mãi mãi thuộc về thế giới của những người bình thường, cô bé xưa kia vẫn ngả đầu lên đùi Thérèse dưới đôi mắt trìu mến của nàng, trong những ngày hè quạnh quẽ, giờ đây chỉ là một bóng ma: cô Anne de la Trave đích thực nàng chưa quen biết bao giờ: cái cô Anne ngày nay hẹn hò gặp gỡ Jean Azévesdo chỗ lưới bẫy chim cu chơ vơ giữa Saint Clair và Argelouse.
- Em sao thế? Em không ăn à? Đừng bỏ mứa đấy, giá đắt là thế, bỏ tiếc lắm. Hay tại trời nóng? Em sẽ không ngất xỉu đấy chứ? Trừ phi em đã… cảm thấy khó chịu.
Nàng mỉm cười, chỉ có miệng nàng là cười thôi. Nàng bảo mình đang nghĩ tới chuyện Anne (phải nói về Anne thôi). Và bởi Bernard cho biết anh rất yên tâm, một khi nàng đã chịu nhúng tay vào, người vợ trẻ bèn hỏi vì sao họ hàng nhà anh lại phản đối cuộc hôn nhân ấy. Anh cho là nàng chế giễu mình, van nàng chớ nêu ra những ý kiến ngược đời như vậy.
- Trước hết, em thừa hiểu họ là người Do Thái, mẹ biết rõ ông nội của Azévédo, lão ta khước từ lễ rửa tội.
Nhưng Thérèse cả quyết là những người Bồ Đào Nha gốc Do Thái ấy, đã có tên tuổi lâu đời ở Bordeaux.
- Dòng họ Azévédo đã giữ địa vị cao sang khi tổ tiên ta, những mục đống khốn khổ, còn bị sốt rét run lập cập, ven đầm lầy của họ.
- Coi kìa, Thérèse, không nên cãi cho sướng miệng: bọn Do Thái đều rặt một phường như nhau cả… hơn nữa, đó là một gia đình thoái hóa – lao đến tận xương tủy, thiên hạ còn lạ gì.
Nàng đốt một điếu thuốc, điệu bộ luôn khiến Bernard gai mắt.
- Anh thử nhớ lại xem ông nội, ông cố anh vì sao mà chết? Khi cưới em, anh lo lắng khi biết căn bệnh đã cướp mất mẹ em. Anh tưởng trong hàng cha ông mình, ta không tìm ra số người mắc bệnh lao và giang mai đủ để truyền nhiễm cho cả nhân loại sao?
- Em đi quá xa rồi, Thérèse ạ, cho anh nhắc em điều này: dù chỉ là bỡn cợt hay muốn chọc tức anh, em cũng không nên đụng đến dòng họ.
Anh ưỡn ngực ra bộ phật ý – vừa muốn tỏ vẻ cao ngạo, lại e lố bịch trước mắt Thérèse. Nhưng nàng nhấn giọng:
- Họ nhà ta khiến em buồn cười với cái thận trọng của loài chuột nhủi. Họ kinh sợ những chứng tật bề ngoài bao nhiêu thì lại thờ ơ bấy nhiêu đối với vô số bệnh tật không được biết. Chính anh, anh vẫn tùng từ ngữ: bệnh kín… kia mà? Những bệnh nguy hại nhất cho dòng giống, phải chăng theo định nghĩa đều kín? Gia đình ta không bao giờ nghĩ tới, thế mà, họ lại đồng
tình với nhau trong việc che đậy, vùi lấp những điều nhơ nhuốc, mà nếu không có đám gia nhân, người ta sẽ chẳng bao giờ biết được gì. May thay, lại có những gia nhân…
- Anh không nói chuyện với em nữa: khi em lên cơn, tốt nhất nên chờ cho qua. Với anh, đây chỉ là chuyện nhỏ: anh biết là em đùa thôi. Nhưng về nhà, em biết đấy, như thế không được đâu, về cái khoản gia tộc chúng ta không thể đùa bỡn được.
Gia tộc! Thérèse bỏ mặc điếu thuốc tắt ngấm; nàng nhìn đăm đăm cái lồng kín bưng, với lớp lớp những thanh chắn di động, cái lồng bủa vây bởi vô số tai và mắt, trong đó, nàng ngồi xổm, cằm tì lên gối, tay quấn quanh chân, bất động, mỏi mòn chờ chết.
- Nào, Thérèse, đừng xụ mặt thế kia, nếu em thấy mình… Nàng mỉm cười, lại vờ đóng kịch:
- Em đùa mà… Ồ! Anh yêu, anh ngốc quá đấy!
Nhưng trên xe taxi, khi Bernard vừa nhích lại gần, nàng đã đưa tay đẩy anh ra.
Đêm cuối cùng trước khi về quê nhà, chín giờ họ đã đi ngủ, Thérèse uống một viên thuốc, nhưng nàng mỏi mắt trông chờ mà giấc ngủ chẳng tới. Rồi nàng thiếp đi một lúc, cho đến khi Bernard vụt trở mình, miệng lẩm bẩm mấy tiếng khó hiểu, thế là nàng cảm thấy cái thân xác hừng hực áp sát vào người nàng, nàng đẩy ra, và để khỏi phải chịu đựng hơi nóng ấy, nàng nhoài ra sát mí giường, nhưng chỉ vài phút sau, anh lại lăn qua phía nàng hồ như dù hồn đã phiêu diêu tận đâu, phần xác vẫn sống mãnh liệt và cả trong giấc ngủ, nó vẫn mò mẫm tìm đến với con mồi quen thuộc. Một cách phũ phàng, vậy mà chưa đánh thức nổi anh, nàng lại đẩy anh ra lần nữa… Chao ôi! Tách xa anh ra, một lần thôi và mãi mãi! Đạp anh ra khỏi giường, xô anh vào cõi tối tăm.
Xuyên qua đêm Paris, tiếng còi ô-tô réo inh ỏi như tiếng chó sủa, gà gáy ở Argelouse mỗi khi trăng sáng. Chẳng một thoáng mát nào từ mặt đường
phả lên. Thérèse châm một ngọn đèn, và chống khuỷu tay trên gối, nàng ngắm nhìn gã đàn ông nằm im lìm bên cạnh – gã đàn ông trong tuổi hai mươi bảy, hất tung chăn mền, hơi thở nhẹ đến không nghe thấy, mái tóc bù xù phủ vầng trán còn vô tư lự, thái dương không một nếp nhăn, một Adam trần truồng và tội nghiệp, chìm trong giấc ngủ say sưa tưởng chừng nghìn thu. Người thiếu phụ vứt chăn đậy che tấm thân ấy, đứng dậy tìm lá thư đọc dở dang ban nãy, rồi cúi đầu bên ánh đèn:
Nếu chàng bảo em theo chàng, em sẽ lìa bỏ tất cả, không buồn ngoái đầu nhìn lại. Chúng em đã kịp dừng lại bên bờ, tận cùng mí bờ của sự sa ngã, nhưng nhờ ý chí của chàng, chứ không phải do em kháng cự - đúng ra chính chàng đã chống cự sự cám dỗ, còn em thì luôn ước mong đạt đến tột đỉnh cái lạc thú chưa hề biết, mà chàng cứ thủ thỉ với em là chỉ chạm nhẹ vào nhau, cũng đủ gây một cảm giác vượt mọi khoái cảm trên đời, nhưng theo chàng bao giờ cũng phải dừng lại phía bên này, chàng tự hào đã kiềm chế được, trên con dốc mà chàng bảo là một khi tới đó, bao kẻ đã buông xuôi, khó ai có thể cưỡng nổi.
Thérèse mở cửa kính, xé vụn mấy lá thư, nghiêng mình nhìn xuống cái vực thẳm mênh mông bằng đá, có chiếc xe bò lẻ loi, lộc cộc đi qua trước lúc bình minh. Những mảnh giấy lượn vòng rồi đậu trên các bao lơn tầng dưới. Thiếu phụ nghe thoang thoảng mùi hương thảo mộc chẳng biết từ miền quê nào lạc tới chốn sa mạc nhựa đường này? Nàng hình dung thân thể mình nát nhừ trên đường phố với đám cảnh binh chộn rộn và những kẻ lang thang bu quanh. Chỉ khéo tưởng tượng. Mày mà tự vẫn ư, Thérèse? Thực ra, nàng đâu có mong được chết, một việc khẩn cấp đang réo gọi nàng, chẳng phải trả thù, hay rửa hận: chả là cô bé ngu muội chốn xa kia, ở Saint Clair, cữ ngỡ rằng hạnh phúc có thể có, phải cho cô ấy biết, như Thérèse, là hạnh phúc không hề có thật. Nếu họ chẳng có chung điều gì, ít ra cũng còn: nỗi buồn chán, sự thiếu vắng một nhiệm vụ cao cả, một bổn phận thiêng liêng, không biết làm gì khác, ngoài việc cứ lập lại những thói quen thấp hèn thường nhật – một trạng thái cô đơn không nguồn an ủi.
Bình minh đã soi sáng những mái nhà, nàng quay lại với gã đàn ông vẫn ngủ yên trên giường, và ngay khi nàng vừa đặt mình nằm xuống gã đã nhoài người chồm tới.
Nàng thức dậy, tỉnh táo và dễ chịu. Còn tìm gì xa xôi nữa? Gia đình kêu gọi nàng trợ giúp, nàng sẽ hành động theo yêu cầu của gia đình, như thế chắc nàng sẽ không chệch hướng. Thérèse tán đồng Bernard, khi anh nhấn mạnh nhiều lần là nếu Anne làm hỏng chuyện cầu hôn của Deguilhem, thì quả thật là một tai họa. Dòng họ Deguilhem không cùng trong một giới: người ông xưa kia là mục đồng… Đúng thế, nhưng họ có những rừng thông đẹp nhất xứ. Và Anne, dù sao, đâu giàu có gì… Chẳng thể mong đợi gì nơi người cha, ngoài mấy vườn nho trên đất phù sa, gần Langon – cứ cách năm lại ngập lụt một lần. Bất cứ giá nào, Anne cũng không thể bỏ lỡ việc kết thân với nhà Deguilhem. Mùi chocolat trong phòng khiến Thérèse buồn nôn; cơn khó chịu thoáng qua lại xác nhận các triệu chứng khác; mình có mang ư. “Tốt hơn nên có con ngay, Bernard nói, sau đó, khỏi phải nghĩ đến chuyện ấy nữa”. Và anh nhìn với vẻ trân trọng, người đàn bà đang mang trong bụng, vị chúa tể độc nhất của những rừng thông bạt ngàn.
V
Saint Clair, sắp đến Saint Clair rồi. Thérèse đưa mắt ước chừng quãng đường mà trí tưởng tượng của nàng vừa lướt qua. Biết Bernard có chịu theo nàng tới đó? Nàng chẳng dám mong anh đồng ý, lần mò từng bước chậm rãi trên con đường quanh co ấy, mà chưa đá động gì tới điều chủ yếu:
“Khi mình đưa anh tới được chỗ uẩn khúc này, thì chỉ còn mỗi việc thổ lộ hết”.
Nàng cố soi rọi niềm bí ẩn của mình, tra vấn vị phu nhân đài các, được mọi người tán tụng là phúc hậu đoan trang, dạo mới về ngụ ở Saint Clair, hồi tưởng những ngày đầu tiên sống trong ngôi nhà thoáng đãng và thâm nghiêm của cha mẹ chồng. Phía quảng trường lớn, những cửa tò vò bao giờ cũng đóng kín im ỉm, nhưng bên trái, ngoài chấn song là một khu vườn rực rỡ những đóa hướng nhật quỳ, phong lữ và dã yên. Thérèse, vừa là bạn tâm tình, vừa là kẻ đồng lõa, lăng xăng lui tới, lúc bên ông bà La Trave, ngồi nép phía trong cùng một phòng khách nhỏ tăm tối ở tầng dưới, khi cùng Anne thơ thẩn trong vườn, bởi cô ấy bị cấm ra ngoài.
Nàng nói với ông bà La Trave:
- Hãy chủ động nhượng bộ thêm một tí, tạo dịp cho cô ấy đi du lịch đây đó, trước khi có bất cứ quyết định nào, con chỉ có thể bắt cô ấy tùng phục đến mức đó thôi, lúc ba mẹ đi vắng con sẽ hành động.
Cách nào? Ông bà La Trave đoán lờ mờ nàng sẽ liên lạc với gã Azévédo:
- Không thể tấn công trực tiếp được đâu, mẹ ạ.
Theo lời bà La Trave thì nhớ Trời, cũng chưa lộ chuyện gì. Cô thu ngân Monod, là kẻ duy nhất biết rõ mọi điều, cô đã nhận nhiều thư của Anne:
“Mà con bé, như cái xác không hồn. Dù sao, ta giữ được nó… nó sẽ chẳng bép xép gì đâu”.
- Đừng để nó phải khổ nhiều.
Hector de la Trave luôn miệng nhắc nhở, vừa qua ông quá nuông chiều Anne, cả những ý thích thất thường phi lý nhất, giờ cũng đành đồng tình với vợ mà nói:
- Muốn ăn trứng phải đập vỏ thôi.
Và thêm:
- Sẽ có ngày, nó biết ơn mình.
Đúng thế, nhưng từ đây đến lúc đó, biết nó có sinh bệnh không? Hai vợ chồng lặng thinh, đăm chiêu, chắc họ vừa thoáng thấy trong đầu, đứa con gái héo hon tàn tạ, vì bỏ ăn biếng ngủ, thất thểu đi dọc rào sắt, giẫm nát những cánh hoa mà chẳng thấy. Như con hươu cái, ngơ ngác tìm một lối ra…
Bà de la Trave lắc đầu ngao ngán:
- Dù sao, tôi đâu thế uống nước thịt ép thay cho nó? Nó cứ ních đầy bụng mớ trái cây trong vườn, để đến bữa ăn, lại bỏ cái đĩa trống không.
Ông Hector de la Trave đẩy đưa:
- Nếu mình ưng thuận, sau này nó lại trách. Có khi chỉ vì mấy đứa bé khốn khổ mà nó sẽ cho ra đời…
Cái giọng điều tìm cách bào chữa của ông khiến bà giận:
- May sao, họ Deguilhem chưa về. Cũng mừng là họ hết sức coi trọng cuộc hôn nhân này…
Đợi khi Thérèse rời khỏi phòng, ông bà mới bảo nhau:
- Chẳng biết trong tu viện, họ nhồi nhét những gì vào đầu con nhỏ? Chứ ở đây thì chỉ có toàn gương tốt; sách nó đọc thì mình vẫn kiểm tra kỹ. Thérèse nói rằng, muốn đầu độc tâm hồn các cô gái, chẳng có gì tệ hại cho bằng mấy quyển tiểu thuyết ái tình thuộc “mảng sách tốt”… thật quá nghịch lý. Vả lại, nhờ Trời, Anne có mê đọc sách đâu, về điểm này tôi chưa bao giờ phải phiền trách nó cả. Vì vậy, nó đúng là con nhà tông. Thực ra, nếu mình có thể thay đổi không khí cho nó… Bà có nhớ sau khi lên sởi, rồi biến chứng thành viêm phế quản đó, Salies có lợi cho nó biết bao? Nó muốn đi đâu mình theo đó, em không thể nói gì hơn. Nó là đứa con thật đáng phàn nàn.
Ông de la Trave thở dài lẩm bẩm:
- Ồ! một chuyến du lịch với mình… chả là gì cả!
Ông đáp lời vợ. Bà hơi lảng tai, nên hỏi lại:
- Ông lải nhải gì thế? Giữa lòng cái cơ nghiệp mà ông đã chiếm cho mình một địa vị, ông đột nhiên nhớ lại cuộc phiêu lưu tình ái nào? Những giờ phút thần tiên nào của một thời trai trẻ đắm say?
*
Ngoài vườn, Thérèse gặp lại cô thiếu nữ gầy gõ trong bộ áo năm trước giờ đã trở nên quá rộng:
- Thế nào?
Anne kêu lên khi nàng vừa tới gần. Màu tro của lối đi, những cánh đồng cỏ khô xào xạc, hương phong lữ úa tàn, và cô gái héo hắt hơn bất cứ hoa cỏ nào, trong buổi chiều tháng tám lại hiện ra trong tâm tưởng Thérèse. Đôi lần, vài cơn mưa dông, buộc họ phải nấp trong nhà kính: những hạt mưa đá rơi lộp độp lên cửa kính.
- Việc gì em phải ra đi, bởi em có gặp được cậu ấy đâu?
- Em không gặp chàng, nhưng em biết chàng sống cách đây mười cây số. Khi gió thổi từ hướng đông, em biết chàng nghe chuông đổ cùng lúc với em. Chả lẽ Bernard ở Argelouse hay ở Paris lại chẳng can hệ gì đến chị sao? Em không thấy Jean nhưng em biết chàng không xa đây. Chúa nhật,
trong giờ lễ, em không buồn ngoái đầu lại, vì từ chỗ gia đình ta ngồi, chỉ thấy có mỗi bàn thờ, một cây cột ngăn cách ta với những người khác. Nhưng khi ra ngoài…
- Chúa nhật, cậu ấy không đến đó sao?
Thérèse biết chuyện này, nàng biết Anne bị mẹ lôi đi, đã tìm kiếm mỏi mòn trong đám đông, một gương mặt thiếu vắng.
- Có lẽ chàng ốm. Họ chặn hết thư từ của chàng, em chẳng còn biết gì. - Cũng lạ là sao cậu ấy không tìm ra cách nhắn em một tiếng. - Tùy chị thôi, Thérèse… Vâng, em biết rõ tình thế khó xử của chị… - Đồng ý du lịch đi, trong lúc vắng em, có thể…
- Em không thể xa chàng.
- Dù thế nào cậu ấy cũng ra đi, em ạ. Vài tuần nữa, cậu ấy sẽ rời khỏi Argelouse.
- Thôi! Chị im đi. Đó là ý nghĩ không sao chịu nổi. Nếu muốn em sống, đừng nói lời nào về chàng nữa. Em đang chết dần, chết mòn đây, nên từng lúc em cứ phải nhớ lại những lời nói đã làm em vui sướng, nhưng càng nhắc lại, em càng không còn tin là chính chàng đã thốt ra những lời ấy nữa. Đây, câu này, trong lần gặp cuối cùng, em ngỡ như còn văng vẳng bên tai: “Trong đời anh chẳng có ai ngoài em…” Chàng đã nói thế, hay ít ra cũng là: “Em là cái gì thân thiết nhất đời anh…” Em không thể nào nhớ cho chính xác.
Cô nhíu mày, chờ nghe phản ứng của câu nói mang đầy ý nghĩa tự an ủi: - Tóm lại, chàng trai ấy thế nào?
- Chị không thể hình dung đâu.
- Cậu ấy không giống những người khác à?
- Em muốn mô tả về chàng… nhưng chàng vượt xa những gì em có thể nói. Dù sao có lẽ chị cho chàng cũng bình thường thôi… Nhưng em tin chắc là không phải thế.
Cô ấy không còn phân biệt được nét riêng biệt nào ở chàng thanh niên, vì đã lóa mắt bởi tình yêu mà chính cô bao phủ quanh chàng.
“Còn mình”, Thérèse, thầm nghĩ, “tình yêu chỉ khiến mình thêm sáng suốt, chẳng có gì nơi người mình mơ ước, lại thoát khỏi mắt mình”.
- Thérèse, nếu em chấp nhận đi du ngoạn, chị sẽ gặp chàng, chị sẽ chuyển lời chàng nói cho em nghe chứ? Chị trao thư em cho chàng nhé? Nếu em đi, nếu em can đảm ra đi…
Thérèse rời vương quốc của lửa nóng và ánh sáng, để lại, như con ong vàng ủ rũ, chui vào phòng, nơi bà mẹ đang chờ trời dịu nắng và con gái thuyên giảm. Phải bao lần đi đi lại lại thế ấy, cuối cùng Anne mới chịu lên đường. Hẳn Thérèse cũng đành bó tay, nếu không có tin họ Deguilhem sắp về đến nơi. Cô ấy run sợ trước nguy cơ mới. Thérèse lặp lại nhiều lần rằng một công tử giàu có mà “được như con trai nhà Deguilhem thì đâu phải tệ”.
- Nhưng, chị Thérèse ạ, em chỉ thoáng thấy mặt gã thôi: gã đeo kính mũi, sói đầu, đó là một cụ già.
- Anh ta mới hai mươi chín kia mà…
-Đúng như em nói, đó là một cụ già: vả lại, già hay trẻ cũng thế thôi...
*
Trong bữa cơm tối, gia đình de la Trave nói đến Biarritz, băn khoăn về việc tìm một khách sạn ở đó. Thérèse lặng lẽ quan sát Anne, cái thân xác bất động và vô hồn. “Gắng lên con… phải cố gắng”. Bà La Trave nhắc nhở. Như người máy, Anne đưa muỗng lên miệng. Chẳng một tia sáng trong mắt. Đối với cô, chẳng có cái gì tồn tại, cũng không có ai hiện hữu, ngoại trừ kẻ vắng mặt ấy. Thỉnh thoảng một nụ cười thoáng hiện, lạc lõng trên môi, khi chợt nhớ một lời nói đã nghe, một cử chỉ âu yếm được nhận, thuở hẹn hò nhau trong túp lều giữa bụi rậm, bàn tay thô bạo của Jean Azévédo đã dằn
tuột áo cô. Thérèse nhìn bộ ngực vạm vỡ của Bernard cúi nghiêng trên dĩa thức ăn, nàng không nhìn thấy mặt anh vì anh ngồi quay lưng về phí ánh sáng, nhưng nghe rõ tiếng nhai nhóp nhép, chậm rãi và ngon lành. Nàng rời khỏi bàn. Mẹ chồng nàng cất tiếng: “Nó không muốn ai trông thấy. Tôi muốn chiều chuộng nó, nhưng nó không thích ai chăm sóc cả. Nhưng cơn khó chịu, tình trạng của nó, thế là ít đấy. Nhưng có nói cũng bằng thừa: nó hút quá nhiều”. Và bà ta nhắc đến thời bụng mang dạ chửa: “Mẹ nhớ khi chờ sinh ra con, mẹ phải thở bằng quả bóng cao su: có thế mới ổn định được vị thế bao tử”.
*
- Thérèse, chị đâu rồi?
- Đây, trên băng này.
- A! Kia rồi, em vừa thấy điếu thuốc của chị.
Anne ngồi xuống, tựa đầu vào một bờ vai bất động, nhìn trời khẽ nói: “Chàng cũng nhìn thấy những ngôi sao kia, chàng cũng nghe chuông cầu kinh đổ..” Cô lại nói: “Ôm em đi nào, chị Thérèse”. Nhưng Thérèse không buông cúi xuống với mái đầu tin cẩn ấy. Nàng chỉ hỏi:
- Em khổ lắm à?
- Không, chiều nay, em không khổ nữa, em biết bằng cách này hay cách khác, thế nào em cũng được gặp chàng. Bây giờ, em rất bình thản. Cái chính là chàng phải biết điều đó, và qua chị, rồi chàng sẽ hiểu; em quyết định đi du ngoạn. Nhưng khi trở về, em sẽ vượt xuyên tường, sớm hay muộn, em sẽ ngả vào lòng chàng, em tin chắc điều đó như tin chính bản thân em… Không, Thérèse, không, ít ra thì chị cũng đừng khuyên bảo gì em cả, đừng nói đến gia đình…
- Chị không nghĩ đến gia đình đâu, em ạ, mà nghĩ đến cậu ấy. Người ta không thế tự dưng nhảy bừa vào đời một người đàn ông như thế: cậu ấy có gia đình của cậu ấy chứ, những quyền lợi riêng, công việc làm ăn, một mối liên hệ nào đó, biết đâu…
- Không, chàng nói với em: “Anh chỉ có mình em trong đời”. Và một lần khác: “Lúc này, chỉ có tình yêu của đôi ra là đáng kể…”
- Lúc này ư?
- Chị nghĩ gì thế? Chị cho là chàng chỉ nói đến giây phút hiện tại thôi sao?
Thérèse không cần hỏi cô ấy có đau khổ không nữa, nàng biết cô ấy đang âm thầm đau khổ, nhưng không cảm thấy xót thương. Sao nàng phải xót thương chứ? Được gọi tên, người mình thiết tha gắn bó, chắc là thích thú xiết bao. Chỉ cần nghĩ là người ấy gối đầu lên tay mà ngủ, buổi sáng, người ấy thức dậy, tấm thân trai trẻ khuấy động sương mù.
- Chị khóc à, Thérèse? Vì em mà chị khóc à? Chị thương em lắm sao?
Cô bé đã quỳ xuống, tựa đầu vào hông Thérèse và thốt nhiên đứng bật dậy:
- Em cảm giác có cái gì chẳng biết, động đậy trong người em. Đúng thế, từ vài ngày nay, nó bắt đầu cựa quậy.
- Đứa bé?
- Ừ, nó đang sống.
Họ đã quay vào nhà, quàng tay nhau như cách đây chưa bao lâu, trên đường Nizan, hay lối về Argelouse. Thérèse nhớ là mình đã sợ hãi cái gánh nặng biết run rẩy ấy. Từ tận cùng cơ thế, bao say mê, đắm đuối đã dồn vào khối xương thịt chưa thành hình kia! Nàng thấy lại mình, đêm ấy, ngồi trong phòng trước khung cửa sổ mở. (Bernard hét to với nàng từ ngoài vườn: “Chớ đốt lửa vì muỗi đấy”). Nàng đếm từng tháng, cho đến ngày sinh, nàng muốn biết đến một thần linh để khẩn cầu, sao cho cái sinh vật xa lạ, hãy còn lẫn trong núm ruột của nàng, đừng bao giờ chào đời.
VI
Thật kỳ lạ, Thérèse chỉ nhớ lại những ngày tiếp sau hôm Anne và ông bà La Trave ra đi như một thời kỳ hôn mê. Ở Argelouse, coi như mặc nhiên nàng phải tìm cách giải quyết thỏa đáng việc buộc anh chàng Azévédo buông tha cô bé, lại chỉ thấy nàng thong dong hết ăn rồi ngủ. Bernard đồng ý không ở nhà mình mà qua nhà Thérèse, tiên nghi hơn, lại có bà cô Clara, khiến họ khỏi phải lo những việc lặt vặt. Người khác thì dính líu gì đến Thérèse? Họ cứ lo liệu lấy. Chẳng có gì khiến nàng thích thú hơn là cứ giữ trạng thái ngây dại này cho đến khi được giải thoát. Sáng nào, Bernard cũng nhắc việc nàng hứa gặp Jean Azévédo, khiến nàng nổi xung. Thérèse sừng sộ với anh, nàng bắt đầu cảm thấy khó mà chịu đựng nổi anh. Có thể do tình trạng thai nghén, như Bernard vẫn tưởng, nên sự cáu gắt chẳng có gì lạ. Chính anh lúc đó cũng chớm bị tác động bởi nỗi ám ảnh chung của cả dòng họ, dù rằng ít khi nó hiện ra trước năm ba mươi tuổi: nỗi sợ chết nơi một thanh niên vạm vỡ cường tráng thoạt tiên khiến người ta kinh ngạc. Nhưng nói thế nào khi anh cả quyết:
- Mấy người không biết tôi cảm thấy điều gì đâu…? Thân thể những kẻ ăn nhiều, thuộc tầng lớp nhàn rỗi và quá dư thừa, chỉ có bề ngoài là khỏe mạnh. Cây thông trồng trên đất màu mỡ tất nhiên tăng trưởng nhanh, nhưng ruột cây mục ruỗng rất sớm, tuy đang lúc tươi xanh, vẫn phải đốn bỏ.
- Bực thật!
Người ta nói với Bernard, nhưng anh cảm thấy rõ cái tì vết ngay ở bản chất của sự rạn nứt đó.
Thế rồi thật không tưởng tượng nổi, anh không ăn nữa, anh không biết đói.
- Sao anh không thử đi khám xem?
Anh nhún vai, làm ra vẻ dửng dưng. Thực ra, sự mơ hồ dù sao cũng không đáng sợ bằng một phán quyết tử hình, có lẽ vậy. Ban đêm, đôi khi một tiếng rên khò khè khiến Thérèse giật mình tỉnh dậy. Bernard nắm lấy tay nàng, áp lên ngực trái mình cho nàng nghe hơi thở anh ngắt quãng từng
cơn. Nàng đốt ngọn nến, đứng lên, rót một ít valérinate[7] vào ly nước. Tình cờ nào xui khiến thứ thuốc trộn này công hiệu! Sao nó không gây chết người? Chẳng có gì xoa dịu, ru ngủ thực sự bằng một giấc ngủ ngàn thu. Kẻ hay kêu rên kia, sao anh lại quá sợ hãi cái điều giúp mình mãi mãi nguôi đau?
Anh ngủ lại trước nàng. Làm sao nằm chờ giấc ngủ bên cái thân xác to lớn, mà tiếng ngáy đôi khi gợn nỗi kinh hoàng? Nhờ Trời, anh không gần nàng nữa. Hình như đối với anh, trong mọi thao tác, làm tình là nguy hiểm cho tim anh hơn cả. Gà gáy sáng đánh thức các trang trại. Trong gió đông, chuông cầu kinh từ nhà thờ Saint Clair đổ liên hồi, cuối cùng Thérèse cũng thiếp đi. Một lần nữa, gã đàn ông trở dậy. Anh mặc vội quần áo, theo lối nhà quê, chỉ vục đầu cho qua loa trong nước lạnh. Rồi như con chó, anh lẩn nhanh xuống bếp, vốn khoái thức ăn thừa trong chạn, anh đứng thẳng lưng ăn vội mẩu đùi gà, lát thịt chín giầm mỡ, thêm chùm nho và miếng bánh mì xát tỏi, đấy là bữa ăn ngon duy nhất trong ngày của anh. Anh vứt xương cho Flambeau và Diane nhai trèo trẹo. Sương mù phảng phất hương mùa thu. Giờ này, Bernard không còn đau nữa, mà cơ thể anh lại như tràn trề nhựa sống thanh xuân. Lát nữa đàn chim cu sẽ bay qua, phải lo mấy con chim mồi, làm mờ mắt chúng. Đến mười một giờ, anh về, lúc đó Thérèse vẫn còn ngủ.
- Thế nào? Còn gã Azévédo kia? Em biết là ở Biarritz, mẹ đang mong ngóng tin tức qua hòm thư lưu trữ chứ?
- Thế còn tim anh thì sao?
- Đừng nhắc đến tim anh. Chỉ nghe nói tới là anh lại cảm thấy nhói đau. Tất nhiên, như thế là quá kích động. Em cũng nghĩ là anh bị kích động phải không?
Chưa bao giờ nàng đáp đúng ý anh:
- Ai biết được. Chỉ có anh mới rõ mình cảm thấy thế nào thôi. Đâu phải vì lẽ cha anh chết do viêm phổi… nhất là vào tuổi anh… Cố nhiên bệnh tim là điểm yếu của dòng họ Desqueyroux. Điệu bộ sợ chết của anh nom buồn cười quá! Bernard ạ! Có bao giờ anh cảm thấy thấm thía như em về cái vô
tích sự của mình không? Không à? Anh không nghĩ rằng cuộc sống của những người như chúng ta, chẳng đã giống cái chết một cách kinh khủng rồi sao?
Anh nhún vai. Nàng làm anh nghẹn họng bởi mớ ý tưởng ngược đời của nàng. Ra vẻ tài trí thì có khó gì: cứ vơ hết những gì trái với lẽ thường. Nhưng nàng sai lầm to, anh tiếp, với anh cần chi phải lắm lời, tốt hơn nên dành đến lúc gặp mặt gã Azévédo.
- Em biết là gã sẽ rời khỏi Vilméja vào giữa tháng mười chứ?
*
Ở Villandraut, ga xép cuối cùng trước khi đến Saint Clair, Thérèse nghĩ: “Nói sao cho Bernard hiểu mình không hề yêu gã thanh niên đó? Chắc tại anh tưởng là mình say mê gã. Như tất cả những ai chưa từng yêu tha thiết, anh nghĩ rằng tội ác mà người ta gán cho nàng, chỉ có thể là vì tình mà thôi”. Bernard phải hiểu, là dạo đó, nàng không hề ghét bỏ anh, dẫu cho anh thường quấy rầy nàng, nàng không tin là một người đàn ông khác có thể giúp được nàng điều gì. Xét cho cùng Bernard đâu đến nỗi tệ. Nàng ghét cay ghét đắng những nhân vật khác thường được mô tả trong tiểu thuyết, mà ta chẳng bao giờ gặp ngoài đời.
Người đàn ông cừ khôi duy nhất mà nàng được biết, đó là cha nàng, dù nàng có tô vẻ thêm đôi nét cao quý cho người đảng viên cấp tiến bướng bỉnh và đa nghi đó. Ông hoạt động trên nhiều lãnh vực: là nhà công nghiệp, ngoài một trại cưa ở B, ông còn tự khai thác nhựa của mình và của phần đông họ hàng trong một cơ xưởng ở Saint Clair. Là kẻ đầu cơ chính trị, đối với những ai bị thiệt hại vì thái độ đanh thép của ông; nhưng rất được lòng ở tỉnh. Và hết sức khinh thường phụ nữ! Kể cả Thérèse, vào cái thuở ai cũng khen nàng thông minh sắc sảo. Nhất là từ khi xảy ra thảm kịch.
- Tất cả nếu không ngu xuẩn, cũng đều mắc bệnh cuồng trí.
Ông nói với viên luật sư. Kẻ chóng giáo hội đó, lại rất dễ cả thẹn. Dù đôi khi cũng ngâm nga một điệp khúc của Béranger, ông không chịu nổi việc người ta động đến một số vấn đề kín đáo, lúc đó, mặt ông đỏ rần như cậu bé mới lớn. Qua ông de la Trave, Bernard được biết rằng ông Larroque lúc cưới vợ hãy còn tân!
Từ khi góa vợ, vẫn mấy vị ấy bảo, chưa thấy ông có tình nhân bao giờ. “Cha em đúng là một người kỳ dị!
Vâng, đó là một kẻ kỳ dị. Nếu ở xa, nàng tạo ra cho mình một hình ảnh tươi đẹp về ông, thì khi đến gần, Thérèse lại chán ngán cho sự hèn hạ của ông. Ông ít khi về Saint Clair, thường ghé Argelouse hơn, vì ông không thích gặp ông bà La Trave. Trước mặt họ, dù bị cấm bàn chuyện chính trị, cuộc tranh luận ngớ ngẩn ấy vẫn nổ ra lúc ăn cháo và chẳng mấy chốc đã trở thành gay gắt. Thérèse thấy xấu hổ nếu phải xen vào, nàng tự hào đã không hé môi, trừ phi người ta đụng đến vấn đề tôn giáo. Lúc đó, nàng xông vào tiếp cứu ông Larroque. Ai cũng lớn tiếng, đến nỗi cả bà cô Clara cũng nghe ra vài câu lõm bõm, thế là bà lao vào cuộc cãi vã. Và với thứ giọng ghê rợn của người điếc, bà tha hồ biểu lộ nhiệt tình của một bà già cấp tiến “biết rõ những gì xảy ra trong các tu viện”. Kỳ thực, Thérèse nghĩ, bà mộ đạo hơn bất kỳ ai trong dòng họ La Trave, nhưng luôn khai chiến với đấng chí tôn đã bắt bà phải điếc và xấu xí, để bà chết mà chưa hề được yêu, chưa một lần ân ái.
Từ lúc bà La Trave đứng dậy rời khỏi bàn ăn, người ta nhất trí nhau nên tránh những lý luận trừu tượng, Vả lại, chính trị không thôi cũng đủ khiến người ta nổi khủng, dù tả hay hữu họ đều đồng ý cái nguyên tắc cơ bản: quyền sở hữu ruộng đất. Nhưng có nên hay không, khoanh đám cháy lại? Và nếu người ta cam chịu, thì trong chừng mực nào? Thérèse, người “có ý thức sở hữu trong máu” muốn rằng vấn đề phải được đặt ra, nhưng nàng ghét cái thói giả dối bề ngoài, mà hai gia đình Larroque và La Trave khoác lên tham vọng chung của họ. Khi cha nàng tuyên bố:
- Mãi mãi trung thành với nền dân chủ!
Nàng ngắt ngang:
- Bà ơi! Không cần đâu, ở đây chỉ có hai cha con mình thôi mà.
Nàng nói rằng trong chính trị cái cao cả nhất cũng khiến nàng ghê tởm, nàng không thể hiểu nổi cái bi thảm của cuộc xung đột giai cấp, trong một xứ sở mà kẻ nghèo nhất cũng là nghiệp chủ, chỉ mong được giàu thêm, nơi mà sở thích chung về đất đai, săn bắn, cái ăn uống, đã tạo ra giữa mọi người, dù tư sản hay nông dân, một tình nghĩa anh em gắn bó. Hơn nữa Bernard có học thức, thiên hạ nói là anh đã chui ra khỏi hang. Cả Thérèse cũng lấy làm sung sướng thấy anh là người có thể chuyện vãn được:
- Tóm lại, khá hơn đồng bạn nhiều…
Nàng nhận xét anh thế đó, cho đến ngày gặp gỡ Jean Azévédo.
*
Đó là khoảng thời gian mà cái mát mẻ ban đêm còn đọng lại dến suốt buổi sáng hôm sau. Và ngay lúc dùng bữa ăn nhẹ, dù trời nóng bức thế nào, từ xa, một chút sương mù đã báo hiệu hoàng hôn. Những con chim cu đầu tiên bay qua. Và Bernard chỉ trở về lúc chiều tối. Tuy nhiên, ngày hôm ấy, sau một đêm khó ngủ, anh đi thẳng một mạch lên Bordeaux, để khám bệnh.
“Bấy giờ, tôi không ước ao gì cả - Thérèse nghĩ. – Tôi đi dạo trên đường khoảng một giờ, vì một phụ nữ có mang cần phải đi lại đôi chút. Tôi tránh các khu rừng, cứ mỗi lúc lại phải dừng chân vì các bẫy lưới chim cu, huýt gió, chờ đến khi gã thợ săn lên tiếng cho phép mình đi tiếp. Nhưng có khi, một tiếng huýt dài đáp lại: Một bầy chim vừa sà xuống rặng sồi; buộc mình phải ẩn núp. Rồi tôi quay về nhà; ngồi mơ màng trước lò sưởi hay bên bếp lửa, tất cả đều do bà cô Clara phục dịch. Như một vị thần không thèm nhìn kẻ phục sự mình, tôi không mảy may chú ý đến cô gái già lúc nào cũng lải nhải bằng giọng mũi, hết chuyện bếp núc đến điền trang; bà nói, nói mãi để khỏi phải nghe. Hầu như bao giờ cũng là những giai thoại đau thương liên quan đến những tá điền bà săn sóc, chăm lo với sự tận tâm sáng suốt, các cụ già lâm cảnh đói khát, suốt đời lam lũ, người tàn tật bị bỏ rơi, phụ nữ ở đợ phải làm việc nặng nhọc quá mức. Với vẻ hân hoan, bà cô Clara kể lại, qua thứ thổ ngữ ngây ngô, những lời nói hung ác nhất của họ. Thực ra bà chỉ thương mình tôi, thế mà tôi chẳng buồn nhìn thấy bà quì dưới chân, tháo giày ra, cởi vớ, xoa nắn, sưởi ấm bàn chân tôi trong đôi tay nhăn nheo của bà.
“Balion đến nhận lệnh mỗi khi có việc phải đi Saint Clait vào ngày hôm sau.
“Bà cô Clara lập danh sách những thức cần mua, gom các toa thuốc của các bệnh nhân ở Argelouse.
“Trước tiên, hãy đến hiệu thuốc, Barquey không có nhiều thì giờ để bào chế thuốc trong ngày đâu…”
*
Lần đầu tiên tôi gặp Jean… Tôi phải nhớ lại từng tình tiết. Đến đó, tôi chọn chỗ lưới bẫy chim cu bỏ phế, nơi cách đây chưa bao lâu, tôi cùng Anne ăn bữa quà chiều và tôi biết cũng chốn này, từ dạo đó, cô thường hẹn
gặp Jean Azévédo. Không, trong tâm trí tôi, đây chẳng phải là một cuộc hành hương, Nhưng những cây thông phía này phía này, quá cao lớn nên người ta khổng thể ngồi rình lũ chim cu: tôi sẽ không quấy rầy các thợ săn. Cái bẫy lưới đó không còn sử dụng được nữa, vì khu rừng chung quanh che khuất chân trời, những ngọn thông cao vút, cách xa nhau không còn chừa khoảng trời thênh thang để người rình nhìn thấy đàn chim xuất hiện. Em có nhớ, mặt trời tháng mười vẫn còn gay gắt, tôi lê từng bước khó nhọc trên lối đi ngập cát, ruồi cứ vo ve bên tôi. Cái bụng sao mà nặng nề! Tôi ước mong được ngồi trên cái băng mục nát trong lều. Tôi vừa mở cánh cửa, một thanh niên đầu trần bước ra; nhác thấy, tôi đã nhận ran gay Jean Azévédo. Thoạt tiên, tôi ngỡ mình vừa phá đám một cuộc hẹn hò, bởi mặt anh có vẻ ngượng nghịu. Nhưng tôi muốn tháo lui mà không xong, cũng lạ là anh ta cứ muốn cầm giữ tôi lại.
- Ồ không, mời bà vào, thưa bà. Tôi xin thề là bà chẳng làm phiền gì tôi cả.
Tôi ngạc nhiên chẳng thấy ai trong túp lều tôi vừa vào, theo lời khẩn khoản của anh ta. Có thể cô mục đồng đã lẻn trốn ngõ khác chăng? Nhưng không một cành cây lay động. Anh ta đã nhận ra tôi, và cái tên Anne de la Trave được nhắc đến đầu tiên. Tôi ngắm nhìn, qua lớp áo tussor, cái chỗ tôi đã xuyên thủng bằng kim găm: đó là sự tò mò tự nhiên chẳng gợn chút đam mê nào. Anh ta có đẹp trai không? Một vầng trán phẳng. Đôi mắt nhung của dòng giống anh. Đôi má bầu bĩnh mà điều tôi vẫn gớm nơi những thanh niên lứa tuổi anh là mụn, dấu hiệu biến động của máu, tất cả những gì mưng mủ, và gan bàn tay hâm hấp, mà anh ta vừa lấy khăn lau trước khi bắt tay tôi. Nhưng cái nhìn nóng bỏng, tôi thích cái miệng rộng lúc nào cũng hé ra, để lộ hàm răng nhọn: mõm của con chó nhỏ hứng tình. Thế còn tôi thì sao? Thân thiết như người nhà vậy. Tôi còn nhớ chưa chi tôi đã lên giọng kẻ cả với điệu bộ trịnh trọng, tố cáo anh ta “đã mang đến sự xáo trộn và chia rẽ giữa một nơi tôn nghiêm”. A! Hãy nhớ lại vẻ sửng sốt không hề giả vờ, giọng cười trẻ trung của anh ta:
- Thế ra bà ngỡ tôi muốn cưới cô ấy sao? Bà ngỡ là tôi khao khát cái hạnh phúc đó ư?
Trong một thoáng, tôi kinh hãi nhận ra cái vực thẳm ngăn cách không cùng giữa nỗi đam mê của Anne và sự hờ hững của chàng trai. Anh ta bào chữa quyết liệt, dĩ nhiên làm sao anh khỏi bị quyến rũ trước một cô gái
tuyệt vời như thế? Anh có bị cấm vui chơi đâu, và chính vấn đề hôn nhân không thể đặt ra giữa họ, nên trò chơi đối với anh vô hại. Có thể là anh đã vờ chia sẻ những mơ ước của Anne… chỉ đến khi tôi giận dữ cắt ngang, anh ta mới thành khẩn phân bua rằng chính Anne có thể làm chứng là anh đã biết tự đè nén không dám đi quá xa. Ngoài ra, anh tin chắc là nhờ anh mà tiểu thư de la Trave được biết những phút yêu đương chân thật duy nhất trong cuộc đời buồn tẻ của mình.
- Bà nói cô ấy đau khổ ư? Nhưng thưa bà, thử hỏi nàng còn có gì đẹp hơn để mà chờ đợi nơi số phận mình, ngoài nỗi đau khổ ấy? Tôi đã nghe tiếng tăm bà, tôi biết có thể trao đổi với bà chuyện này vì bà không giống những người ở đây. Trước khi nàng sang ngang, dấn thân vào quãng đời sầu thảm làm dâu một gia đình cố cựu nào đó ở Saint Clair, tôi đã trang bị cho Anne chút vốn cảm giác và mộng mơ – những gì có thể giúp nàng thoát khỏi tuyệt vọng, và dù thế nào đi nữa, khỏi u mê! Tôi không còn nhớ vẻ tự phụ quá mức và tình cảm lai láng đó, có khiến mình bực dọc không, hay tôi lại vì thế mà bàng hoàng?
Thực ra, anh ta nói nhanh đến nỗi lúc đầu tôi không kịp hiểu ra, nhưng sau đó, trí óc tôi quen dần với sự liến thoắng đó:
- Có thể tin rằng tôi mơ ước một cuộc hôn nhân như vậy sao? Neo chân trong vũng cát lầy này, hay đèo bồng một cô gái giữa Paris? Tất nhiên tôi gìn giữ và tôn thờ hình ảnh Anne mãi mãi. Và bà bắt gặp tôi ở đây, đúng vào lúc tôi đang nghĩ đến nàng đấy. Nhưng làm sao người ta có thể tự ràng buộc mình được, thưa bà? Mỗi phút đem đến một niềm vui riêng – một niềm vui khác hẳn mọi niềm vui đã qua.
Vẻ háo hức của con thú non, sự hiểu biết của một người, điều ấy lạ lùng quá khiến tôi chăm chú lắng nghe, không dám ngắt lời. Vâng, đúng là tôi bị mê hoặc rồi! Trời ơi! Sao mà dễ dàng! Nhưng quả là tôi đã bị mê hoặc. Tôi còn nhớ tiếng giậm chân, tiếng lục lạc leng keng, tiếng la hét cộc cằn của bọn mục đồng, từ xa báo hiệu đàn cừu sắp đến gần. Tôi nói với chàng trai rằng, ngồi với nhau thế này trong lều chắc trông dị hợm lắm nhỉ, tôi mong anh đáp là miễn mình đừng gây tiếng động, cho đến khi đến đàn cừu qua hết, tôi sẽ vui hưởng phút yên lặng bên nhau, sự đồng lõa vô tình này (cả tôi nữa, tôi cũng khao khát, và mong ước mỗi phút giây phải mang đến cho tôi cái gì để sống). Nhưng Jean Azévédo lẳng lặng đến mở cửa lều, rồi lẩn ra ngoài, điệu bộ hết sức kiểu cách. Chỉ đến lúc biết chắc tôi chẳng còn thấy gì
trở ngại anh mới dừng bước không đưa tôi về tận Argelouse. Chuyến về, có vẻ quá nhanh đối với tôi, dù người bạn đồng hành vẫn có đủ thời gian đề cập đến bao nhiêu là chuyện. Anh đổi mới một cách kỳ lạ nhiều điều tôi ngỡ có biết qua chút ít. Thí dụ về vấn đề tôn giáo, khi tôi lặp lại những gì tôi vẫn quen nói trong gia đình, anh liền cắt ngang:
- Vâng, có thể là thế… nhưng rắc rối hơn nhiều…
Quả nhiên, trong cuộc tranh biện, anh làm sáng tỏ nhiều điềm thật kỳ diệu. Nhưng chúng có thật kỳ diệu đến thế không?... Tôi tin là bây giờ, tôi đã chán mứa cái giọng cầu kỳ ấy: anh nói đã từ lâu, anh tin tưởng chẳng có gì đáng kể, ngoài sự kiếm tìm, lần theo dấu vết Thượng đế:
- Xuống tàu, ra khơi, trốn biệt như trốn thần chết, những kẻ tin chắc đã tìm thấy, rồi yên vị, dựng thành trì để ru ngủ mình trong đó; đã từ lâu, tôi khinh bỉ bọn họ…
Anh hỏi tôi có đọc quyển “Cuộc đời của cha Foulcauld” của René Bazin không và vì tôi giả bộ cười, anh bảo rằng quyển sách ấy đã đảo lộn tâm trí anh:
- Sống nguy hiểm liều lĩnh theo cái nghĩa sâu xa, anh tiếp, có lẽ chẳng phải là tìm kiếm hay bắt gặp Thương đế, và khi đã tìm thấy, lại nằm mãi trong quỹ đạo của người.
Anh mô tả:
“Cuộc phiêu lưu bi tráng của những kẻ thần bí” than vãn rằng thể chất mình không cho phép anh thử dấn thân.
Nhưng kỷ niệm dù trôi xa, anh không nhớ là mình đã rất trong sạch… “Thật khiếm nhã biết bao cái lỗi thổ lộ tâm tình đó, nó biến đổi cái tính e dè của tỉnh lẻ, sự kín tiếng mà mỗi người ở đây gìn giữ cho cuộc sống riêng tư”. Chuyện soi mói ở Saint Clair chỉ mới đụng chạm bên ngoài: những cõi lòng chẳng bao giờ chịu phơi mở. Thực ra, tôi biết gì về Bernard? Nơi anh, mãi mãi chẳng có gì khác hơn bức ký họa mà tôi rất hài lòng khi cần hình dung ra anh? Jean nói, còn tôi lặng thinh, chỉ ậm ừ vài câu tranh luận quen thuộc trong gia đình. Cũng như ở đây, những chiếc xe đều “rập khuôn”, có nghĩa là khá rộng để bánh xe khớp với vết lún của xe
bò. Mọi tư tưởng của tôi, cho đến nay, đều “rập khuôn” với cha tôi và bố mẹ chồng.
Jean Azévédo để đầu trần, tôi thấy lại, qua chiếc áo hở khuy, một bộ ngực trẻ con, cái cổ no đầy. Tôi có bị quyển rũ bởi vẻ đẹp thể xác không? A! Lạy Chúa, không! Nhưng anh là người đàn ông đầu tiên tôi được gặp và với anh, trên hết, chỉ có đời sống tinh thần là đáng kể. Những mẩu chuyện hay sách vở của thầy anh, bạn bè anh ở Paris, mà anh luôn nhắc đến, khiến tôi không thể xem anh như một người lập dị. Anh là thành viên của một tầng lớp ưu tú, “những kẻ đang tồn tại”? Anh nói. Anh kể ra những tên tuổi, không hề nghĩ là tôi có thể chưa biết và tôi giả vờ như chẳng phải nghe lần đầu.
Khi cánh đồng Argelouse hiện ra ở khúc quanh con đường. - Đến rồi ư?
Tôi kêu lên. Khói cỏ chay vương vất trên mặt đất khô cằn, từng nuôi sống lúa mạch đen, qua một khe hở bên bờ dốc, đàn cừu lừ lừ trôi đi như dòng sữa bẩn và có vẻ như chúng đang gặm cát. Jean phải băng qua cánh đồng để về Vilméja. Tôi nói với anh:
- Tôi sẽ đưa anh đi; những vấn đề này làm tôi say mê.
Nhưng chúng tôi chẳng tìm ra điều gì để nói với nhau nữa. Những cọng lúa bị cắt len qua giày, đâm vào gót chân khiến tôi nhột nhạt. Tôi có cảm giác anh muốn về một mình, để có thể nhởn nhơ theo đuổi một ý nghĩ vừa đến với anh. Tôi lưu ý anh là chúng tôi chưa bàn gì về Anne cả. Anh cho rằng chúng ta đâu thể tự do chọn lựa đề tại mạn đàm, hay thậm chí trầm tư mặc tưởng:
- Nếu không, anh tiếp, giọng kiêu kỳ, ta phải khép mình tuân theo phương pháp do những kẻ thần bí bày ra. Những người như chúng ta luôn luôn bị cuốn theo những trào lưu, tuột heo những cơn lốc…
Thế là anh lại qui hết vào những gì anh đọc được hồi ấy. Chúng tôi hẹn gặp lại nhau để quyết định một kế hoạch hành động về chuyện Anne. Anh nói với vẻ lơ đãng. Và không trả lời một câu hỏi của tôi, anh cúi xuống, bằng một cử chỉ thơ dại, anh trỏ tôi xem chiếc nấm vừa ngắt được và đưa lên môi hôn.
VII
Bernard, bên ngưỡng cửa, chờ Thérèse về.
- Anh không sao cả! Anh không sao cả!
Anh reo lên, ngay khi thấy áo nàng hiện ra trong bóng tối.
- Em có tin là, vạm vỡ như anh mà lại thiếu máu không? Thật khó ngờ, thế mà đúng đó, nhìn bề ngoài mà lầm chết, anh sẽ được điều trị… theo phương pháp Fowler, ấy là arsenic[8]; điều quan trọng là anh ăn biết ngon.
Thérèse nhớ là thoạt tiên nàng không hề giận, những gì đến từ Bernard ít tác động tới nàng hơn lệ thường (như chuyện từ đâu rất xa). Nàng không nghe anh nói, tâm hồn và thể xác nàng hướng về một vũ trụ khác, nơi đó những con người đầy khát vọng đang sống, và chỉ mong được hiểu, được biết – và theo một câu Jean vẫn hay nhắc lại với vẻ vô cùng tâm đắc; “trở thành chính họ”.
Cuối cùng khi ngồi vào bàn ăn, nàng mới nói đến cuộc tiếp xúc của mình.
Bernard gắt ầm lên:
- Sao nãy giờ em không nói? Em thiệt lạ lùng! Thế nào? Em và gã quyết định ra sao?
Nàng vẽ ngay cái chương trình dù sao cũng được thực hiện. Jean Azévédo nhận viết một lá thư cho Anne với lời lẽ dịu dàng để xóa tan mọi hy vọng của cô. Bernard cười ồ khi Thérèse quả quyết là gã thanh niên không hề nghĩ đến chuyện cưới xin. Một kẻ thuộc dòng họ Argelouse mà không thiết cưới xin Anne de la Trave ư?
- Kìa, em có điên không? Chỉ vì gã chẳng làm nên trò trống gì, hạng người đó chẳng bao giờ dám liều khi biết chắc sẽ thất bại. Em còn ngây thơ lắm, cô bé ạ.
Vì bầy muỗi, Bernard không muốn châm đèn, bởi thế anh không trông thấy ánh mắt Thérèse “Anh đã biết thèm trở lại” như anh nói. Vị bác sĩ ở Bordeaux đã trả lại sự sống cho anh.
*
“Tôi có thường gặp Jean Azévédo không? Anh đã rời Argelouse vào cuối tháng mười… Chúng tôi đã dạo chơi với nhau năm hoặc sáu lần gì đó; tôi chỉ nhắc riêng cái lần chúng tôi cùng soạn thảo lá thư cho Anne. Chàng ngây ngô tin vào những lời an ủi mà đọc thoáng qua tôi đã thấy hãi hùng, song chẳng nói gì với anh hết. Những lần rong chơi cuối cùng nhòa lẫn trong tôi thành một kỷ niệm chung. Jean Azévédo miêu tả tôi nghe về Paris, về tình bằng hữu, và tôi hình dung một vương quốc mà qui luật là “trở thành chính mình”.
- Ở đây bà buộc phải dối trá suốt đời.
Những lời như thế, anh thốt ra với dụng ý gì? Anh nghi ngờ gì tôi? Cứ theo lời anh, không thể nào tôi chịu đựng nổi cái tình trạng ngột ngạt này.
- Bà hãy nhìn kia, anh nói với tôi, mặt băng bao la ảm đạm níu giữ bao sinh linh nơi đây; thỉnh thoảng một khe nứt hé lộ dòng nước đen ngòm; ai đó vùng vẫy rồi biến mất tăm; mặt băng hững hờ khép lại... bởi mỗi người, ở đây cũng như nơi khác, đều sinh ra với nghĩa vụ riêng. Ở đây cũng như nơi khác, mỗi số kiếp đều cá biệt, vậy mà vẫn phải phục tùng cái vận mệnh chung buồn thảm ấy. Vài kẻ chống đối, từ đó gây ra những thảm kịch mà các dòng họ bao giờ cũng ỉm đi. Như người ta thường nói ở đây: Cần phải im lặng
- A! Ðúng thế.
Tôi kêu lên. Ðôi khi tôi có thắc mắc về một ông chú, một bà cô mà hình ảnh đã biến khỏi mọi tập an-bom, nhưng không bao giờ nhận được câu trả lời, trừ một lần, tôi nghe thú nhận: “Ông ấy đã mất tích..., người ta muốn cho ông ấy mất tích”.
Có phải Jean Azévédo lo ngại cho số phận của tôi. Anh cam đoan là với Anne anh chưa bao giờ nảy ra ý nghĩ bàn về những vấn đề này, bởi chưng, dù có mê đắm đến đâu, cô ấy vẫn là một tâm hồn dung dị, hơi bướng bỉnh một chút, nhưng sẽ bị khuất phục ngay.
- Còn bà! Tôi cảm nhận trong những lời nói của bà một nỗi khát khao thành thực…
Nên kể hết những chuyện ấy cho Bernard nghe không? Có điên mới mong anh hiểu được gì! Dù thể nào đi nữa, anh phải biết là tôi không ngoan ngoãn đầu hàng đâu. Tôi nhớ đã phản đối chàng trai, rằng anh ta chỉ khéo tô vẽ cho cái kiểu suy đồi hèn hạ nhất. Tôi đã phải viện dẫn đến những bài học luân lý mà người ta giảng trong trường trung học “Là chính mình?” Tôi lặp lại, “nhưng chúng ta chỉ tồn tại trong chừng mực mà chúng ta tự tạo” (Không cần khai triển, nhưng có lẽ nên khai triển cho Bernard). Azévédo cho rằng tự chối bỏ mình là một kiểu suy đồi tệ hại nhất. Anh khẳng định không một vị anh hùng hay bậc thánh nào lại chẳng hơn một lần nhìn ngắm lại chính mình, chẳng đạt tới mọi giới hạn của mình trước tiên.
- Phải tự vượt mình để tìm thấy Thượng đế.
Anh nhấn mạnh. Và nói thêm:
- Chấp nhận mình, điều đó buộc những kẻ tài hoa nhất ta phải đương đầu với chính họ, nhưng trực diện, trong một trận đấu minh bạch. Bởi thế cho nên thường xảy ra việc những kẻ phóng túng lại hay tìm đến một tôn giáo nghiêm ngặt nhất.
Đừng tranh cãi với Bernard về cái lý vững chắc của thứ đạo đức ấy - mà thừa nhận với anh đó là những lời ngụy biện vụng về. Miễn anh hiểu. Anh cố gắng hiểu một phụ nữ như tôi có thể bị xúc phạm đến đâu và điều gì tôi cảm thấy, buổi chiều trong phòng ăn Argelouse. Bernard trong góc bếp cạnh đó, tháo giày ra, nói lăng nhăng đặc sệt giọng quê mùa về số chim hạ được trong ngày. Những con chim cu giãy giụa làm căng phồng cái bị quẳng trên bàn. Bernard ăn thong thả, sung sướng đã ăn biết ngon trở lại, say mê đếm từng giọt nước “Fowler”:
- Sức khỏe đấy.
Anh nói. Lửa cháy ngùn ngụt và vào lúc ăn tráng miệng, anh chỉ cần xoay chiếc phô tơi, duỗi thẳng đôi chân mang giày dạ ra hơ. Đôi mắt lim dim khép lại trước tờ “Gironde[9]nhỏ”. Đôi lúc anh ngáy, nhưng cũng lắm khi, tôi không nghe cả tiếng thở của anh nữa. Đôi giày cà tàng của Balionte còn lê lết dưới bếp; sau đó bà mang nến lên. Rồi thì im lặng, cái im lặng của
Argelouse! Những người chưa đến vùng đầm lầy hẻo lánh này, không thể biết thể nào là im lặng, nó bao trùm ngôi nhà, như đông cứng trong cái khối dày đặc của rừng, nơi chẳng còn sự sống, ngoài tiếng khi thảng thốt của một con cú mèo (tưởng chừng chúng tôi nghe, trong đêm tối, tiếng nấc từ lâu nén lại của mình).
Nhất là sau ngày Azévédo lên đường, tôi mới càng thấm thía sự im lặng đó. Ngày nào tôi biết sáng ra mình còn gặp lại hắn, sự hiện diện của anh khiến cho bóng tối bên ngoài không còn đáng sợ. Giấc ngủ gần gũi của anh làm đêm tối, rừng cây hết cô quạnh, trống trải. Ngay khi anh chẳng còn ở Argelouse, sau lần gặp cuối cùng anh hẹn năm tới sẽ về.
Anh nói. Hy vọng là lúc đó tôi đã biết tự giải thoát (đến bây giờ tôi vẫn chưa biết anh nói bâng quơ hay là có dụng ý nữa. Tôi nghĩ là gã dân Paris này, hết chịu đựng nổi sự im lặng, cái im lặng của Argelouse, và anh quý mến tôi chỉ vì tôi là kẻ duy nhất chịu khó nghe anh nói).
Ngay khi từ biết anh, tôi ngỡ như mình chui vào con đường hầm vô tận, tiến sâu vào bóng tối ngày càng thêm mịt mờ và đôi lúc tôi tự hỏi biết rồi cuối cùng mình có kịp hít thở không khí tự do nước khi chết ngạt không. Cho đến ngày sinh nở, vào tháng giêng, đã chẳng có gì xảy ra.
*
Tới đây, Thérèse ngập ngừng, nàng cố gắng xua đi những ý tưởng quẩn quanh về những gì xảy ra trong ngôi nhà ở Argelouse, mấy hôm sau, ngày Jean ra đi: “Không, không, nàng nghĩ, việc đó chẳng dính líu đến những gì lát nữa đây mình phải giãi bày với Bernard. Tôi không thể mất thời giờ vì những điều vớ vẫn, chẳng đưa tới đâu cả. Nhưng dòng ý nghĩ cứ ngang bướng, nó rẽ ngả nào làm sao ngăn được: Kỷ niệm buổi chiều tháng mười ấy sẽ không nhạt nhòa trong tâm trí Thérèse.
Trên tầng gác, Bernard thay quần áo.Thérèse đợi đến khi củi đã cháy hết mới ra gặp anh - sung sướng được ngồi một mình trong giây lát. Giờ này Jean Azévédo đang làm gì nhỉ? Có thể anh đến uống rượu trong cái quán nhỏ mà anh đã kể với nàng; có thể (bởi đêm yên ả xiết bao), anh ngồi xe dạo chơi với người bạn trong rừng Boulogne hoang vắng. Có thể anh đang
làm việc trước bàn và Paris gầm gừ phía xa. Sự im lặng, chính anh tạo ra nó, chinh phục nó từ cái huyên náo của thiên hạ, anh không bị nó đề nặng từ bên ngoài như cái im lặng đang làm Thérèse ngộp thở, sự im lặng đó là công trình của anh, không lan xa hơn ánh sáng ngọn đèn, hay những ngăn kệ đầy sách...
Thérèse miên man nghĩ ngợi và rồi tiếng chó bỗng sủa ầm lên, kêu hừ hừ, và một giọng nói thân quen một giọng nói mệt mỏi, từ phòng ngoài, khiến nàng yên lòng. Anne de la Trave đẩy cửa vào. Cô đi bộ từ Saint Clair về trong đêm, giày vớ bết đầy bùn. Trên gương mặt ủ ê, đôi mắt cô long lanh. Cô quẳng chiếc nón lên ghế, hỏi ngay:
- Anh ấy đâu?
Lá thư viết xong và đem bỏ bưu điện Thérèse và Jean tưởng rằng sự việc đã kết thúc, không hề nghĩ rằng Anne có thể không bỏ cuộc - làm như người ta dễ dàng nhượng bộ lẽ phải, nghe theo những lập luận khi vấn đề liên quan đến chính cuộc đời mình. Cô ấy đã tìm cách thoát khỏi sự canh chừng của mẹ, để leo lên một toa tàu. Trên con đường Argelouse tối mịt, khoảng trời sáng giữa những ngọn cây dẫn lối cho cô đi. “Tất cả chỉ để gặp lại chàng, nếu cô gặp được chàng, chàng sẽ bị chinh phục lại, nhất định phải gặp lại chàng.” Cô loạng choạng, lê chân theo vết bánh xe, vì quá vội về Angelouse. Thế mà bây giờ Thérèse nói với cô là Jean đã ra đi, anh ấy hiện ở Paris. Anne lắc đầu nói không, cô không tin, cô cần không tin nàng để khỏi phải quị xuống vì mòn mỏi và tuyệt vọng.
- Chị nói dối như vẫn từng nói dối.
Và bởi Thérèse cãi lại, cô tiếp:
- Phải rồi chị có tinh thần gia tộc. Chị làm ra vẻ là người phóng khoáng... Nhưng từ khi thành hôn, tức khắc chị trở nên một phụ nữ nề nếp con nhà... Vâng, vâng, đồng ý: chị ngỡ làm như thế là phải, chị cứu vớt tôi bằng cách phản bội tôi hả? Chị khỏi phải phân trần gì cả.
Có ấy bước lại mở của. Thérèse hỏi cô định đi đâu.
- Sang Vilméja, đến chỗ anh ấy.
- Chị nhắc lại, từ hai ngày này, anh ta không còn ở đó nữa. - Em không tin chị.
Cô ấy đi ra. Thérèse bèn châm ngọn đèn lồng treo ở phòng ngoài và đến gần cô.
- Em lạc đường rồi, cô bé Anne ơi. Em đi về hướng Biourse. Vílmeja ở lối này.
Họ băng qua vùng sương mù từ đồng cỏ tỏa ra. Bầy chó vụt thức dậy. Kia là rặng sồi Vilméia, ngôi nhà chẳng phải đìu hiu mà như hoang phế. Anne đi vòng quanh cái nhà mồ trống vắng ấy, giơ nắm tay đập vào cửa liên hồi. Thérèse đặt ngọn đèn lồng lên cỏ, đứng im lìm. Nàng nhìn cái bóng mờ ảo của cô bạn áp sát vào mãi cửa sổ tầng dưới. Chắc hẳn, Anne gọi mãi một cái tên, nhưng không réo to lên, biết rằng cũng vô ích thôi. Có lúc, ngôi nhà che khuất cô, rồi cô hiện ra, quay lại cửa chính, ngồi bẹp xuống thềm, đôi cánh tay ôm quanh đầu gối, giấu mặt vào trong đó. Thérèse nâng cô đứng dậy, dìu cô đi.
Anne lảo đảo, thầm thì:
- Sáng mai, em sẽ lên Paris. Paris chẳng rộng lớn gì mấy, em sẽ tìm thấy chàng giữa Paris...
Nhưng với giọng của một cô bé không còn đủ sức chống cự và đã buông xuôi. Bernard tỉnh giấc do những tiếng nói lao xao, khoác áo ngủ ngồi chờ họ ở phòng khách. Thérèse đã lầm to khi gạt khỏi ký ức cảnh tượng xảy ra giữa ông anh và cô em gái. Người đàn ông có thể phũ phàng nắm chặt cổ tay cô gái nhỏ rũ rượi mệt lả, lôi xềnh xệch đến tận một căn phòng trên tầng hai, khóa trái cửa lại, chính là chồng mày đó Thérèse ơi, cái gã Bernard, hai giờ tới đây, sẽ là quan tòa xét xử mày. Tinh thần gia tộc thôi thúc anh ta, nên anh ta sẽ không do dự. Trong mọi trường hợp, anh ta luôn biết phải làm gì để phục vụ cho lợi ích của dòng họ. Dằn vặt, âu lo, nàng chuẩn bị những lời biện hộ dài dòng, tiếc thay chỉ những người vô nguyên tắc mới bị thuyết
phục bởi lý lẽ xa lạ ấy. Bernard sẽ chế giễu những luận cứ của mày: “Tôi biết tự phải làm gì”. Anh luôn luôn biết anh phải làm gì. Thảng hoặc, cô dụ dự anh nói: “Chúng tôi đã bàn luận kỹ trong thân tộc và chúng tôi xét thấy..." Sao mày có thể nghĩ là anh ta chưa sẵn sàng một bản án? Số phận mày đã được định đoạt vĩnh viễn. Tốt hơn là hãy cứ đi ngủ.
VIII
Sau khi ông bà La Trave mang cô Anne đã thua cuộc về Saint Clair, Thérèse, cho đến gần ngày sinh nở, không hề rời khỏi Argelouse. Nàng đã thực sự biết thế nào là im lặng, suốt những đêm dài khác thường của tháng mười một. Một lá thư gửi cho Jean Azévédo không có hồi âm. Chắc anh cho rằng người đàn bà tỉnh lẽ này không đáng cho anh bõ công trao đổi thư từ. Trước tiên, một phụ nữ có mang làm sao lưu lại một kỷ niệm đẹp được. Có lẽ, ở xa, anh nhận thấy Thérèse nhạt nhẽo, vô duyên, cái gã ngờ nghệch đã bị mê hoặc bởi dáng điệu và cung cách phức tạp giả tạo. Nhưng liệu anh có thể hiểu được gì qua vẻ bình dị phỉnh phờ, qua cái nhìn thẳng thắn, qua những cử chỉ đường hoàng? Kỳ thực, anh ngỡ nàng cũng như cô bé Anne kia, chỉ cần một lời đường mật là có thể bỏ hết để theo anh. Jean Azévédo e ngại những phụ nữ đầu hàng quá sớm, trước cả khi kẻ tấn công kịp phá vòng vây. Anh không e ngại gì cả, sự chiến thắng cũng như thành quả của chiến thắng. Dù thế, Thérèse cố sống trong vũ trụ của chàng trai ấy, nhưng mấy quyển sách mà Jean ca ngợi và nàng nhờ mua từ Bordeaux, đều có vẻ khó hiểu đối với hàng. Quả là nhàn rỗi đến chán chường!
- Không nên bắt nó may tã lót, chẳng phải việc nó.
Bà de 1a Trave nhắc nhở. Ở nông thôn, nhiều bà chết lúc sinh nở. Thérèse làm bà cô Clara khóc ngất, khi quả quyết là cuối cũng nàng cũng sẽ như mẹ thôi, nàng biết chắc không thể nào thoát khỏi. Nàng không quên nói thêm:
- Dẫu có chết cũng chẳng sao.
Dối trá! Chưa bao giờ nàng thèm sống đến thế, cũng như chưa bao giờ Bernard lại tỏ ra ân cần với nàng đến thế! Chẳng phải anh lo lắng cho mình đâu mà cho giọt máu mình đang mang trong bụng. Mặc cho anh lải nhải với cái giọng dễ sợ:
- Thử dùng lại món khoai nghiền đi... Em đừng ăn cá. Hôm nay, em đi khá nhiều rồi đấy...
Tôi chẳng vì thế mà xúc động hơn một chị vú nuôi xa lạ bị người ta hành hạ chỉ vì phẩm chất sữa của mình. Ông bà La Trave trân trọng nâng niu tôi như cái bình thánh, kẻ cưu mang cháu đích tôn của họ mà, chắc chắn nếu có xảy ra bất trắc, họ chẳng ngại ngùng gì mà không hy sinh nàng cho cái bào thai đó. Tôi đã mất đi cảm giác về một đời sống riêng. Tôi chỉ còn là một dây leo. Trước mắt gia đình, chỉ có một núm ruột trong lòng tôi là đáng kể.
*
Cho đến cuối tháng chạp, tôi phải sống trong cảnh tăm tối ấy. Tưởng chừng điệp trùng những cây thông vẫn chưa đủ, cơn mưa triền miên bất tận còn giăng quanh ngôi nhà âm u triệu triệu thanh chắn lấp lánh di động khi con đường độc đạo về Saint Clair có nguy cơ không còn đi lại được. Họ đưa tôi lên thị trấn, ngụ trong một ngôi nhà tương đối sáng sủa hơn ở Argelouse. Những cây ngô đồng già cỗi trên quảng trường còn giành giật từng chiếc lá với gió mưa. Không thể sống ở đâu khác ngoài Argelouse, bà cô Clara không muốn lẩn quẩn bên giường tôi, mà luôn chịu khó đi về, bất kể thời tiết nào trong chiếc xe độc mã. Bà đem đến cho tôi những kẹo bánh mà thuở xưa khi còn nhỏ, tôi ưa thích biết bao. Và bà ngỡ bây giờ tôi vẫn còn thích, những nắm xôi lúa mạch màu xám trộn mật, gọi là miques; chiếc bánh nướng hay roumadiade. Tôi chỉ gặp Anne trong bữa ăn, và cô ấy không trò chuyện với tôi nữa, cô có vẻ nhẫn nhục, hình như thể thu mình lại, một lúc cô ấy đã đánh mất tất cả vẻ tươi mát của mình. Tóc chải ngược để lộ đôi vành tai xấu xí xanh xao. Không ai nhắc đến tên của Deguilhem, nhưng bà de la Trave khẳng định tuy Anne chưa chịu ừ nhưng chẳng còn nói không nữa. A! Jean đã nhận xét đúng về cô, anh đâu phải mất nhiều thời giờ để xỏ mũi cô dẫn đi. Bernard không khỏe mấy vì anh lại bắt đầu uống rượu khai vị. Những người xung quanh xầm xì gì với nhau thế? Họ nói nhiều về cha xứ, tôi còn nhớ (chúng tôi ngụ ngay trước nhà vị giáo sĩ), chẳng hạn người ta hỏi nhau, “tại sao ông ta băng qua quảng trường bốn lần trong ngày, và mỗi lần, chắc là ông ta về qua ngõ khác...”
Nhờ vài mẫu chuyện của Jean Azévédo, Thérèse, lưu ý đến vị giáo sĩ còn trẻ tuổi ấy nhiều hơn, ông không giao tiếp với người trong giáo khu, nên họ cho là ông kiêu hãnh: “Chẳng phải loại ta cần ở đây...” Qua mấy lần hiếm hoi ông đến viếng ông bà La Trave, Thérèse nhìn thấy, vầng trán cao ấy với hai bên thái dương tái xanh. Không một người bạn. Đêm đến ông làm gì? Sao ông lại chọn cuộc sống này?
- Ông ấy rất đứng đắn - bà de la Trave nói, chiều nào ông ấy cũng cầu kinh; nhưng ông ấy thiếu sự thâm trầm, tôi chẳng thấy nơi ông ấy cái gì có thể gọi là thành kính cả. Còn công việc thì ông buông lơi hết.
Bà than phiền ông ấy đã hủy bỏ đội kèn đồng của hội bảo trợ; các bậc phụ huynh phàn nàn ông ấy không theo bọn trẻ ra sân bóng nữa:
- Luôn chúi mũi vào sách vở thì cũng hay thôi nhưng rồi xứ đạo chẳng mấy chốc mà tan rã.
Thérèse chăm đi nhà thờ đề nghe ông ấy giảng.
- Cô bé thân mến, cô quyết định đến đây, đúng vào lúc cô được miễn vì tình trạng sức khỏe.
Bài giảng của cha xứ liên quan đến giáo lý hay đạo đức, đều khách quan. Nhưng Thérèse lưu ý đến cách chuyển giọng, đến điệu bộ, đôi khi một chữ cơ hồ trầm hơn… A! Biết đâu ông ta có thể giúp nàng khám phá cái thế giới mông lung trong nàng, khác hẳn mọi người, ông ấy đã có một quyết định bi thảm, ông đã đem vẻ cách biệt tạo ra bởi chiếc áo dòng chung quanh người mặc nó, cộng với mỗi cô đơn trong lòng. Ông tìm thấy nguồn an ủi nào trong các nghi lễ thường nhật đó? Thérèse muốn dự lễ ngay trong tuần, khi chẳng còn ai hiện diện ngoài cậu lễ sinh, ông cúi xuống mẩu bánh mì thầm vài câu nguyện. Nhưng cung cách ấy có vẻ quá xa lạ với gia đình nàng và những cư dân nơi thị trấn, hẳn họ sẽ đòi cải đổi.
*
Dạo đó, Thérèse đau đớn nhiều lúc gần ngày sinh nở. Nàng bắt đầu thực sự không chịu đựng nổi cuộc sống. Chẳng có gì lộ ra ngoài; cũng chẳng có
gì hục hặc gì giữa nàng và Bernard vì nàng tỏ vẻ kính trọng cha mẹ chồng hơn chính chồng mình nữa. Bi kịch là ở đấy, dù không một lý do đưa đến đổ vỡ, tình hình khó thể biết trước ai sẽ ngăn chặn đừng để mọi việc cứ thế mà tiến dần đến cái chết. Phải có một lĩnh vực gặp nhau nào đó, mới sinh va chạm, bất hòa. Đằng này chưa bao giờ Thérèse gặp Bernard ở điểm nào cả, với cha mẹ chồng lại càng tệ hơn; lời nói của họ chẳng mấy tác động tới nàng; nàng không nghĩ là cần thiết phải trả lời họ. Chả biết họ có cùng một ngôn ngữ với nàng không nữa? Họ gán cho những từ thiết yếu một ý nghĩa khác. Nếu Thérèse thốt ra một lời chân thật bao giờ cũng vậy, gia đình cho là cô vợ trẻ thích hợm hĩnh. “Tôi vờ như không hề nghe, bà de La Trave: nói, hoặc chẳng mấy quan tâm, nếu nó nhắc lại, nó phải biết đối với chúng ta điều đó thật không nên”.
Thế nhưng, bà de la Trave: không chịu nổi cái thái độ làm ra vẻ khó chịu của Thérèse, khi người ta trầm trồ sự giống nhau giữa nàng và bé Marie. Những tiếng suýt soa thường lệ: “Cái này thì có không thể cãi chối...” Mấy người đàn bà ở vào những tình cảnh trái ngược chẳng phải lúc nào nàng cũng che giấu được. “Ðứa bé chẳng có gì của tôi cả, nàng nhấn mạnh. Hãy nhìn làn da nâu vàng ấy đôi mắt hạt huyền ấy. Xem ảnh tôi kìa: tôi là một đứa trẻ gầy gò nhợt nhạt”.
Nàng không muốn bé Marie giống mình. Nàng không muốn có chung bất cứ thứ gì với khối thịt nàng rứt một đẻ ra đó. Người ta bắt đầu xầm xì là nàng quá lạnh nhạt với tình mẫu tử. Nhưng bà de la Trave đảm bảo là nàng yêu con gái theo cách riêng của nàng: “Dĩ nhiên không thể bắt nó lo tắm rửa hay thay tã lót: đâu phải việc của nó; nhưng tôi từng thấy nó ngồi hằng đêm tròn bên chiếc nôi, nhịn hút thuốc mà nhìn con bé ngủ. Vả chăng, ta có một có vú em thật siêng năng, hơn nữa, còn Anne kia chi, à, cái cô này tôi quả quyết nó sẽ là một bà mẹ trẻ tuyệt vời...» Từ khi có sự hiện diện của đứa bé trong nhà, rõ ràng là Anne đã bắt đầu sống lại. Phụ nữ bao giờ cũng mê chiếc nôi; nhưng Anne, hơn ai hết, bồng bế đứa bé với một niềm vui sâu xa. Ðể có thể tự do ra vào chỗ đứa bé, cô đã làm lành với Thérèse, nhưng thâm tình cũ giữa hai người chẳng còn gì, ngoài những cử chỉ và tiếng gọi nhau thân mật. Quyến luyến con bé, cô gái ngại nhất là sự ganh tị của Thérèse:
- Đứa bé chịu tôi hơn mẹ nó nhiều. Nhác thấy tôi là nó cười liền. Hôm nọ, tôi đang bồng nó trên tay, nó khóc ré lên khi Thérèse định ôm lấy nó.
Nó thích tôi đến nỗi đôi khi tôi đâm ngượng...
Anne ngượng là sai. Thérèse, vào thời gian đó của đời mình cảm thấy tách biệt với con gái, như mọi thứ khác. Nàng nhìn con người, sự vật, bản thân nàng và cả tâm hồn nàng nữa tựa một ảo ảnh, một đám khói sương lãng đãng bên ngoài nàng. Một mình trong cõi trống không, Bernard là một thực tế thảm hại: tấm thân vạm vỡ, giọng nói ồm ồm, thái độ kiên quyết và sự thỏa thuê ấy lìa bỏ mọi người... Nhưng bằng cách nào? đi về đầu? Cơn nắng gắt đầu tiên khiến Thérèse rã rời. Chẳng có gì báo nước cái điều nàng sắp sửa gây ra. Năm ấy, việc gì đã xảy đến. Nàng không nhớ bất cứ sự kiện nào, bất cứ cuộc gây gổ nào, nàng chỉ mang máng đã ghê tởm chồng hơn bao giờ hết, hôm lễ Thánh thể, khi qua ô cửa nhỏ mở hé, nàng ngóng nhìn đám rước. Bernard hầu như là người đàn ông duy nhất đi sau cái lộng. Ngôi làng, thoáng chốc, trở nên hoang vắng, như người ra vừa thả ra đường một con sư tử, chứ không phải con cừu. Thiên hạ lần vào nhà để khỏi phải bỏ mũ hay quì gối. Khi qua cơn nguy, các cánh cửa lần lượt mở. Thérèse nhìn chằm chằm vào mặt cha xứ, ông bước đi hai mắt cơ hồ nhắm lại, hai tay bưng cái vật kỳ lạ ấy. Môi ông mấp máy: ông nói với ai với về khổ đau dường ấy? Và ngay sau lưng ông, Bernard đang “làm tròn nghĩa vụ mình”.
*
Nhiều tuần trôi qua, chẳng có lấy một giọt mưa. Bernard sống trong nỗi ám ảnh kinh hoàng của một trận hỏa hoạn, và tim anh lại trở cơn đau. Phía Louchats, đã cháy năm trăm hecta: “Nếu gió thổi từ hướng bắc, rừng thông Balisac của mình đã bị thiêu rụi.” Chẳng hiểu Thérèse chờ mong gì nơi khoảng trời im sững đó. Sẽ không còn mưa nữa... Một ngày kia, cả khu rừng xung quanh nổ lẹt đẹt, và thị trấn cũng không thoát khỏỉ. Tại sao những ngôi làng ở Landes không bao giờ bốc cháy? Nàng nhận thấy trời đất quả bất công, sao lửa cứ mãi tìm những cây thông, mà không bao giờ đụng tới con người. Trong nhà, thiên hạ không ngớt xôn xao bàn tán về nguyên nhân gây ra tai họa: một điếu thuốc vứt đi? hay sự ác ý? Thérèse mơ một đêm nào thức dậy, lẻn ra khỏi nhà, vào cánh rừng chằng chịt bụi rậm, ném điếu thuốc, cho đến khi đám khói khổng lồ phủ mờ bầu trời rạng đông... Nhưng nàng xua đuổi ngay ý tưởng đó, nàng vốn quí mến rừng thông từ trong máu, mối hận thù của nàng đâu phải nhắm vào cây cối.
*
Giờ đã đến lúc nàng phải nhìn thẳng hành vi của mình. Giải thích thế nào với Bernard đây? Chỉ còn cách tuần tự nhắc lại từng điểm một diễn tiến sự việc. Ðó là ngày xảy ra trận hỏa hoạn khủng khiếp ở Mano. Nhiều người đâm bổ vào phòng lúc gia đình hối hả ăn sáng. Kẻ cho rằng ngọn lửa còn cách xa Saint Clair, người đòi kéo chuông báo động ngay. Cái ngày nóng bức như thiêu ấy thấm đẫm mùi nhựa cháy và mặt trời như vẫn đục. Thérèse thấy lại Bernard đang nghiêng đầu, nghe Balion báo cáo, quên lửng bàn tay lông lá trên miệng cốc và những giọt thuốc Fowler nhỏ xuống nước. Anh nốc cạn cốc thuốc mà Thérèse, đờ đẫn bởi cái nắng oi nồng chẳng hề nghĩ tới chuyện bảo anh biết anh đã chế gấp đôi liều thuốc thường lệ. Mọi người đã rời khỏi bàn - trừ nàng đang bóc vỏ những quả hạnh tươi, thờ ơ, xa lạ với sự nhốn nháo kia, vô tư trước thảm kịch, như đối với mọi thảm kịch không phải của nàng. Họ không kéo chuông báo động. Sau đó Bernard quay vào:
- Lần này, em không buồn nhúc nhích là phải, cháy tận bên Mano kia… Anh hỏi:
- Anh uống thuốc chưa nhỉ?
Và không đợi trả lời, một lần nữa anh lại chế thuốc và cốc nước. Nàng nín lặng vì lười biếng cố nhiên, vì mệt mỏi không chừng. Nàng hy vọng gì ở giây phút ấy? “Chẳng lẽ tôi suy tính cả việc lặng thinh.”
Thế mà, đêm ấy, khi Bernard vật vã nôn mửa trên giường, bác sĩ Pademay hỏi han về những việc xảy ra trong ngày, nàng chẳng hề hé môi về những gì nàng đã thấy trên bàn ăn. Để khỏi liên lụy dù sao cũng dễ dàng lưu ý bác sĩ về chất thạch tính mà Bernard sử dụng. Nàng có thể tìm ra một câu đại khái như: “Lúc đó tôi chẳng hay biết gì. Tất cả chúng tôi đang hốt hoảng cuống cuồng vì đám cháy… Nhưng bây giờ, tôi thề quyết là anh ấy đã uống một liều gấp đôi…” Nàng đã câm lặng, chả biết nàng có cảm thấy cần mở miệng hay không? Cái hành vi, đã ngấm ngầm manh nha trong buổi điểm tâm, mà nàng không hay, bây giờ bắt đầu trổi dậy từ sâu thẳm lòng nàng - tuy còn mơ hồ, nhưng đã len chút ý thức.
Khi bác sĩ đi khỏi, nhìn Bernard thiếp ngủ nàng nghĩ: “Chẳng có gì chứng tỏ là cái ấy, có lẽ chỉ là cơn đau ruột thừa, dù chẳng có triệu chứng nào khác... hay một trường hợp cúm nhiễm trùng.” Nhưng ngày hôm sau, Bernard đã khỏi. “Có nhiều khả năng chính là cái ấy”. Thérèse không tin như thế, nàng muốn biết chắc hơn. “Vâng, tôi không hề có cảm tưởng bị dằn xé bởi một mưu toan khủng khiếp, chỉ là một chút hiếu kỳ hơi nguy hiểm khi thỏa mãn. Ngày đầu tiên, tôi chế những giọt thuốc Fowler vào ly của Bernard trước khi anh bước vào phòng, tôi nhớ mình đã lẩm bẩm: “Một lần thôi, đề biết cho đích xác... xem có đúng cái ấy đã khiến anh ngã bệnh. Chỉ một lần, rồi thôi.”
*
Đoàn tàu chậm dần, rúc còi rền rĩ một hơi dài rồi lại lên đường. Dăm ba ánh đèn trong đêm: ga Saint Clair. Nhưng Thérèse chẳng còn gì để mà nghĩ suy, nàng đã chìm xuống vực thẳm của tội ác; nàng bị tội ác lôi cuốn; những gì tiếp theo đó, Bernard cũng biết rõ như nàng: sự trở bệnh đột ngột; và Thérèse ngày đêm ngồi canh chừng anh bên giường, dù nàng cơ hồ đã kiệt sức và không buồn ăn uống gì (đến nỗi anh khuyên nàng thử dùng thuốc Fowler và nàng đã nhận toa của bác sĩ Pédemay). Tội nghiệp ông bác sĩ! Ông ta sửng sốt trước chất nước màu lục nhạt mà Bernard mửa thốc ra, ông không thể tin một sự mâu thuẫn như thế giữa mạch và nhiệt độ của bệnh nhân lại có thể xảy ra; ông đã nhiều lần ghi nhận trong chứng phó thương hàn, một mạch nhẹ bất chấp cơn sốt ác liệt - nhưng mạch cứ đập dồn dập và nhiệt độ lại dưới mức bình thường là nghĩa làm sao? Cúm nhiễm trùng à, chắc thế: bệnh cúm, điều này giải thích tất cả.
Bà de la Trave nghĩ đến việc mời một thầy thuốc tham vấn nổi tiếng, nhưng không muốn làm mếch lòng vị bác sĩ, người bạn thâm giao, vả lại Thérèse sợ gây hoang mang cho Bernard. Thế nhưng, vào giữa tháng tám, sau một bệnh biến nguy ngập hơn, chính Pédemay đề nghị mời thêm một bạn đồng nghiệp; may mắn thay, ngay hôm sau, tình trạng Bernard thuyên giảm đều, ba tuần sau, người ta tính chuyện dưỡng sức. “Tôi đã thoát nạn, Pédemay thổ lộ. Nếu bậc thầy kia kịp đến đây, ông ấy sẽ hưởng trọn vinh quang của việc chữa trị này.”