🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Cuộc Thanh Trừng Mùa Đông - John Sandford & Lê Phương Hà My (dịch) full mobi pdf epub azw3 [Trinh Thám]
Ebooks
Nhóm Zalo
CUỘC THANH TRỪNG MÙA ĐÔNG Tác giả: John Sandford
Người dịch: Lê Phương Hà My Phát hành: Bách Việt
Nhà xuất bản Lao Động 01/2019 —★—
ebook©vctvegroup
GIỚI THIỆU
T
rong số mười chín tiểu thuyết trong series Săn mồi tôi đã viết tính đến giờ, có một vài cuốn có cốt truyện đơn giản hơn, và thực lòng mà nói, cũng có một vài cuốn hay hơn những cuốn khác. Tôi không muốn kể tên chúng ra - thế lại làm giảm doanh thu bán sách của tôi mất - những những người đã theo dõi cả bộ tiểu thuyết nói với tôi rằng “Cuộc thanh trừng mùa đông” là một trong những cuốn xuất sắc hơn hẳn.
Tôi cũng đồng ý với những nhận xét này.
Và thường những tác phẩm hay lại là những cuốn truyện không tốn quá nhiều công sức của tác giả. Một câu chuyện với những nhân vật hay ho cùng tính cách phong phú, và với cốt truyện liền mạch ngay từ khi vừa chắp bút sẽ tự khai triển trong tâm trí tác giả như một cuốn phim vậy - ta gần như có thể xem được bộ phim đó khi ngồi viết bên bàn máy tính. Viết nên cuốn tiểu thuyết này giống như chép lại những câu chuyện trong đầu tôi vậy.
Cũng có những cuốn kiểu như thế này. Bạn dự định viết một cuốn dài một trăm nghìn từ nhưng khi mới viết được năm mươi nghìn thì bạn lại nghĩ rằng câu chuyện chỉ có thể dừng ở mức năm mươi lăm nghìn từ. Sau cùng, thay vì viết tiểu thuyết, bạn lại viết nó thành một truyện ngắn. Và khi chuyện đó xảy ra, bạn cố tình tạo ra những bất ngờ hay những nút thắt thay đổi cốt truyện mà ngay từ
đầu không hề dự định. Và điều này khiến nó trở thành một cuốn tiểu thuyết không xuất sắc.
(Những ví dụ điển hình nhất cho thể loại này là những cuốn tiểu thuyết viễn tưởng chỉ dài có hai trăm năm mươi nghìn từ, loại tiểu thuyết bạn có thể đọc trên xe buýt trong vòng hai tuần. Đó là cái kiểu chuyện nói về một anh hùng cưỡi rồng tới Khu Rừng Hắc Ám để chiến đấu với đồ đệ của một phù thủy nào đó. Rồi sau cuộc chiến, anh ta lại tiếp tục đi sâu hơn vào khu rừng để chiến đấu với một tên đồ đệ phù thủy lợi hại hơn, vân vân… Khuấy các tình tiết lên cho đến khi chúng trộn lẫn vào nhau và thành một món dở sống dở chín).
Khác với những tiểu thuyết này, cuộc THANH TRỪNG MÙA ĐÔNG được dựng cốt truyện ngay từ khi chắp bút.
Ngay trước khi cầm bút, tôi đã có cơ hội được trải nghiệm mùa đông khắc nghiệt ở khu rừng North Woods. Mùa đông ấy vẫn hằn sâu trong tâm trí tôi, và nó đã trở thành một nhân vật trong cuốn sách, với những con hươu, con sói đói khát và những hiện trường vụ án lạnh lẽo đến thấu xương. Một người bạn của tôi nói rằng vợ anh ấy chưa từng đọc hết cuốn truyện vì nó quá rùng rợn. Cô ấy sống ở vùng nông thôn, và trong suốt mùa đông, khi mà anh bạn của tôi thường xuyên vắng nhà, cô ấy không muốn có bất kì ý niệm nào về những sinh vật hoạt động trong những đêm đông, cho dù đã nhét khẩu súng săn dưới giường…
Đồng thời, trong Cuộc thanh trừng mùa đông, tôi cũng đem đến một nhân vật mới, Weather Karkinnen. Cô là một bác sĩ, và không chỉ sưởi ấm cho Lucas Davenport trong cuốn sách này, cô sẽ trở
thành tình yêu của đời anh trong những cuốn tiếp theo. Tôi đã từng thắc mắc mình sẽ làm gì với Weather sau khi cuốn truyện này kết thúc. Thực ra, tôi đã liên tục nhắc đến cô dưới cái tên “Harkinnen” ở những cuốn tiểu thuyết sau này.
Tôi tin rằng Weather được khắc họa đậm nét nhất trong Cuộc thanh trừng mùa đông hơn bất kì một cuốn nào khác, dù trong một cuốn truyện, cô ấy trở thành nhân vật chính, và trong các cuốn tiểu thuyết khác cũng xuất hiện nhân vật này.
MỘT ĐIỀU KHIẾN Cuộc thanh trừng mùa đông trở nên thành công chính là khi tôi viết cuốn sách này, tôi vẫn khá gần gũi với công tác báo chí. Ví dụ, cảnh hỏa hoạn ở phần mở đầu của cuốn sách thực ra được mô phỏng dựa trên hai vụ hỏa hoạn mà tôi đã đưa tin vào mùa đông ở Minnesota, một vụ cháy căn nhà di động và một vụ ở tòa nhà ở trung tâm Minneapolis.
Vụ cháy tòa nhà ở Minneapolis diễn ra khi nhiệt độ xuống tới âm hai mươi bảy độ c với sức gió lên đến gần năm mươi km/h. Khi làm thử phép tính, sẽ cho ra “yếu tố gió lạnh”* tầm âm một trăm nghìn độ. Các anh lính cứu hỏa phải được “đục” ra theo đúng nghĩa đen khỏi những bộ đồng phục bị băng đá thổi ngược lại từ cái vòi cứu hỏa làm cho nặng trịch.
Đó là những mẩu chuyện khá hay ho. Theo cá nhân tôi, những câu chuyện viễn tưởng “thực nhất” phải bao gồm những sự kiện được quan sát tận mắt chứ không phải chi được vẽ ra trong trí tưởng tượng của tác giả.
Dù sao đi chăng nữa thì mùa đông (ở Hayward, Wisconsin, nơi
tôi có một ngôi nhà gỗ để nghỉ hè) vẫn là một trong những nguồn cảm hứng dồi dào nhất của tôi. Một tên loạn trí cưỡi xe trượt tuyết, cùng một cô người yêu tuổi mới lớn lệch lạc tư tưởng và một đống xác chết - thảy hết chúng vào câu chuyện này, và ta chẳng còn cần gì hơn thế nữa.
SAU KHI KẾT THÚC cuốn truyện và chỉnh sửa những chương đầu cùng chương cuối, tôi ngồi ngẫm lại và nhận ra rằng có lẽ mình đã trở thành một nhà văn chuyên nghiệp của dòng tiểu thuyết trinh thám rồi. Không chỉ không gặp nhiều khó khăn với cuốn này, mà sau sáu cuốn tiểu thuyết tôi đã từng chắp bút, có lẽ đây là lần đầu tiên tôi cảm thấy rằng tôi có thể điều khiển dòng chảy của câu chuyện từ đầu cho tới cuối. Không như những cuốn tôi đã viết trước đó, tôi không phải dừng lại giữa chừng để đọc lại và bỏ đi một nửa những gì mình đã viết, vì tôi đã dẫn dắt câu chuyện đi sai hướng, hoặc vì tôi đã phạm phải một lỗi cơ bản mà không nhận ra.
Tôi có thể thấy được cái kết cho Cuộc thanh trừng mùa đông ngay từ khi bắt tay vào viết…
Sau Cuộc thanh trừng mùa đông, tôi nghĩ rằng mình có thể viết đến cả trăm cuốn nữa cho bộ tiểu thuyết này, và chúng cũng sẽ xuất sắc, cô đọng và đầy chuyên nghiệp như thế này. Và rồi nghiệp viết văn của tôi sẽ trở nên dễ dàng hơn. Mọi chuyện chưa được như ý tôi muốn nhưng ít nhất đó là những gì tôi cảm nhận sau khi hoàn thành cuốn này.
Mong bạn đọc sẽ yêu thích câu chuyện.
JOHN SANDFORD
1
G
IÓ RÍT TỪNG CƠN dọc những lạch nước đã đóng băng của sông Shasta, giữa những bức tường đen kịt được tạo nên bởi rừng thông. Những rặng trăn trần trụi khẳng khiu nơi đầm lầy và những cây bạch dương mới nhú rủ xuống trước gió. Những bông tuyết nhọn hoắt như mũi kim cưỡi gió, tựa như hạt sạn trên tờ giấy nhám, tạc nên những đường xoắn ốc kiểu Ả Rập trên lớp tuyết đang lất phất bay.
Người Băng men theo con sông dẫn tới hồ. Hắn ta định hướng chủ yếu dựa vào cảm tính và thời gian cũng tốt như bằng thị giác vậy. Khi sáu phút đã trôi qua trên cái mặt phát sáng của chiếc đồng hồ lặn, hắn bắt đầu đi tìm cây thông chết. Hai mươi giây sau, cái thân bị thời tiết mài cho trắng phớ của cây thông hiện ra dưới ánh đèn pha của chiếc xe máy tuyết, treo mình ở đó một lúc, rồi biến mất như một con ma vẫy xe xin quá giang.
Chín ki lô mét, góc phương vị* hai trăm bảy mươi độ… Tích tắc tích tắc… Vấn đề duy nhất bây giờ là thời gian… Hắn suýt chút nữa đâm sầm vào bờ hồ phía tây nơi chân con dốc
đổ xuống từ phía ngôi nhà. Ngôi nhà bị tuyết phủ tọa lạc trên tầng tầng tuyết trắng, hiện ra lù lù trước mắt. Hắn quẹo xe, giảm tốc rồi men theo bờ hồ. Thứ ánh sáng màu xanh nhân tạo phát ra từ đèn hiên xuyên rọi qua màn tuyết. Hắn chầm chậm nhích xe lên trên bờ
hồ rồi tắt máy.
Gạt cái kính mũ bảo hiểm lên, Người Băng ngồi xuống và lắng nghe. Hắn chẳng nghe thấy gì ngoài tiếng tuyết khẽ táp vào bộ quần áo đang mặc và chiếc mũ bảo hiểm, những âm thanh thật khẽ của động cơ xe đang nguội dần, hơi thở của chính hắn và tiếng gió. Hắn đeo một chiếc mặt nạ trượt tuyết bằng len che kín cả mặt, chỉ còn chừa lại đôi mắt và miệng. Những bông tuyết len lỏi vào từng thớ len, rồi dần dần tan ra, nhỏ thành từng giọt từ khoảng hở chỗ đôi mắt xuống mặt dọc theo sống mũi hắn. Hắn ăn vận thật kĩ lưỡng cho chuyến đi trong cái thời tiết này, mặc trên người bộ đồ đi tuyết chống gió và cách nhiệt, chân mang đôi giày đi tuyết nặng trịch và tay thì xỏ găng trượt tuyết. Cái áo cao cổ làm bằng sợi PP dày cộp chờm lên cái mặt nạ và cổ áo của bộ đồ hắn mặc trên người thì được cài liền với chiếc mũ bảo hiểm màu đen. Hắn gần như được bao bọc bởi len và nylon, vậy mà hơi lạnh vẫn luồn vào từng kẽ hở, rút lấy từng hơi thở của hắn…
Trên giá để đồ, đôi giày đi tuyết được cột sau ghế ngồi, bên cạnh con dao chặt ngô bọc trong một tờ báo. Xoay người ngồi nghiêng một bên, hắn tựa hẳn mình vào chiếc xe, tay lục tung túi áo parka để tìm chiếc đèn pin nhỏ bằng nhôm và soi về hướng giá để đồ. Đôi găng tay dày cộp lúc này trở nên thật vướng víu. Hắn tháo găng ra, mặc nó lủng lẳng trên nẹp cổ tay áo.
Ngọn gió như một lưỡi rìu phá băng cứa sâu vào những ngón tay không đeo găng của hắn khi hắn rút đôi giày đi tuyết ra. Hắn ta bỏ đôi giày xuống nền tuyết trắng, xỏ chân vào cái nẹp nối thao tác nhanh, cài dây buộc rồi ngay lập tức lại luồn tay vào đôi găng. Mới
có một phút mà tay hắn đã lạnh cóng, đông cứng lại. Sau khi xỏ lại đôi găng, hắn đứng dậy, kiểm tra bề mặt tuyết bên dưới. Lớp tuyết bên trên khá xốp nhưng cái lạnh cắt da cắt thịt đã làm lớp tuyết bên dưới cứng lại. Chân hắn chỉ bị lún xuống sáu đến tám xen ti mét. Tình hình khá khả quan.
Tiếng chuông báo hiệu thời gian lại vang lên trong tâm trí hắn. Hắn dừng lại, tự trấn an mình. Cái bộ máy phức tạp vận hành sự tồn tại của hắn giờ đây đang trong hiểm nguy. Hắn đã từng ra tay hạ sát trước đây, nhưng đó gần như chỉ là một tai nạn. Hắn đã phải tạo hiện trường giả một vụ tự sát quanh tử thi của nạn nhân. Và nó gần như quá hoàn hảo.
Ít nhất cũng đủ để cảnh sát không có lấy một cơ hội để bắt hắn. Ngày hôm đó đã thay đổi hắn hoàn toàn. Hắn đã được nếm mùi máu và hương vị thứ thiệt của quyền lực.
Hắn ngửa đầu ra sau như một con chó đang lần theo mùi. Ngôi nhà cách bờ sông hơn ba trăm mét. Hắn bị bóng tối bao trùm, không thể nhìn thấy ngôi nhà ngoại trừ ánh sáng le lói rọi từ đèn sân. Hắn lôi con dao ra khỏi giá đựng đồ và bắt đầu leo lên dốc. Con dao chặt ngô là một vũ khí đơn giản nhưng hoàn hảo để phục kích trong một đêm đầy tuyết, nếu cơ may xuất hiện.
Trong cơn bão, và đặc biệt về đêm, căn nhà của Claudia LaCourt dường như trôi ra nơi rìa thế giới. Tuyết rơi càng dày thì những ngọn đèn rọi từ hiên nhà qua dòng sông đóng băng càng mờ dần rồi từng ngọn, từng ngọn lụi tắt hẳn.
Cùng lúc đó, khu rừng như tiến sát lại. Những cây thông và cây tùng khẽ nhón chân lại gần, đè hẳn mình lên ngôi nhà. Những cây
trắc bách diệp như đang cạo vào cửa sổ, và những cành bạch dương trơ trụi thì như muốn cào nát diềm mái nhà. Tất thảy nghe như thể một sinh vật ác độc đang tiến lại gần, một con quái vật với vuốt nhọn và răng nanh, đập vào tấm ván che kêu rầm rầm hòng tìm kiếm một chỗ để bám vào. Nó dường như có thể thổi bay cả ngôi nhà.
Khi ở nhà một mình hoặc ở cùng cô con gái Lisa, Claudia thường nghe những album cũ của Tammy Wynee hay xem các chương trình truyền hình giải trí. Nhưng cơn bão vẫn chứng minh sự hiện diện của mình bằng những cú sập cửa hoặc những tiếng gào rú trong đêm. Hoặc một đường dây dẫn điện có thể hỏng ở đâu đó. Lúc đó, những ngọn đèn chập chờn rồi vụt mất, nhạc tắt lịm, ai nấy đều nín thở lắng nghe cơn bão gầm gừ như muốn xé nát tất cả. Ánh nến càng làm cho mọi thứ trở nên tệ hại hơn và đèn bão thì cũng chẳng hữu ích là bao. Thứ duy nhất có thể chiến đấu với những điều xấu xa được tạo ra bởi trí tưởng tượng của con người trong một cơn bão đêm là sự hiện diện của khoa học hiện đại -truyền hình vệ tinh, radio, đĩa CD, điện thoại và trò chơi điện tử. Hoặc máy khoan. Những thứ tạo ra âm thanh của máy móc và xua đi những móng vuốt của thời kỳ tăm tối đang chực chờ lật tung ngôi nhà.
Claudia đứng cạnh bồn, rửa cốc cà phê và treo chúng lên giá. Cửa sổ cạnh bồn rửa phản chiếu hình ảnh của cô như một tấm gương, nhưng đôi mắt và những đường nét trên gương mặt có vẻ tối hơn giống như trong những bức hình được chụp theo phương pháp Daguerre* vậy.
Nhìn từ bên ngoài, Claudia trông như nàng thánh mẫu trong một
bức vẽ, là dấu hiệu duy nhất của ánh sáng và sự sống trong cơn bão, nhưng cô chưa từng nghĩ mình như vậy. Claudia là một bà mẹ với vòng ba săn chắc, mái tóc mang sắc đỏ, có khiếu hài hước và rất có gu uống bia. Cô có thể lái tàu đánh cá và chơi bóng mềm. Vào mùa đông, thỉnh thoảng, khi Lisa ngủ ở nhà bạn, cô và Frank lái xe tới Grant và thuê một phòng ở nhà nghỉ Holiday Inn, nơi có những tấm gương lớn, cao từ sàn tới tận trần nhà, được đặt trên cánh cửa tủ quần áo cạnh giường. Cô thích cái cảm giác ngồi trên hông của anh ngắm thân hình mình trong cơn khoái lạc, đầu ngả ra sau và ngực thì ửng hồng.
Claudia cậy mảng vỏ bánh cháy cuối cùng ra khỏi khay nướng bánh, rửa sạch rồi cho nó vào giá đĩa để ráo nước.
Cô nhìn ra ngoài, nơi một cành cây cào vào cửa sổ, nhưng không hề sợ hãi. Cô ngân nga một bài hát cũ rích nào đó, một bài hát từ thời trung học. Đêm nay ít ra thì không chỉ có mình cô và Lisa. Frank đang ở đây. Anh bước lên trên cầu thang và cũng đang ngân nga một bài hát nào đó. Họ thường hay cùng lúc làm một việc như vậy.
“Ừm,” cô quay lại khi nghe thấy tiếng anh. Mái tóc đen mỏng của anh loà xoà trên đôi mắt đen. Anh trông như một chàng cao bồi với gò má cao và đôi bốt cao cổ cũ kĩ ló ra ngoài chiếc quần bò côn, Claudia nghĩ. Anh đang mặc một cái tạp dề làm bằng vải bò rách tả tơi bên ngoài chiếc áo phông, và tay thì cầm chiếc chổi sơn lấm lem nước sơn đỏ như máu.
“Sao vậy, anh yêu?”cô lên tiếng. Đây là cuộc hôn nhân thứ hai của cả hai người. Họ đều đã trải qua nhiều chuyện và thực sự dành
tình cảm cho nhau.
Anh rầu rĩ, “Anh vừa mới bắt đầu sơn cái giá sách nhưng anh đã để cái lò sưởi cháy hết mất rồi.” Anh vung vẩy cái chổi sơn trước mặt cô. “Chắc anh sẽ mất cả tiếng đồng hồ để sơn xong cái giá sách mất. Anh thực sự rất thích việc này.”
“Lạy Chúa, Frank…,” cô đảo mắt.
“Anh xin lỗi,” anh ăn năn theo đúng kiểu một chàng cao bồi bảnh bao.
“Thế về chuyện với cảnh sát trưởng thì sao?” Cô chuyển chủ đề. “Anh vẫn sẽ tiếp tục chuyện này sao?”
“Anh sẽ gặp ông ấy vào ngày mai,” anh quay mặt đi, tránh ánh mắt của cô
“Chỉ thêm rắc rối thôi.” Cuộc tranh luận vẫn đang âm ỉ giữa hai người họ. Cô bước ra xa khỏi bồn rửa và nghiêng người ra sau, đưa mắt về phía hành lang hướng phòng Lisa. Căn phòng vẫn đóng kín và tiếng nhạc của Guns ‘N Roses khe khẽ vọng ra. Giọng của Claudia trở nên gay gắt, đầy lo lắng. “Anh có thể im đi được không? Đó không phải việc của anh. Anh đã nói cho Harper nghe rồi. Jim là con trai của anh ta. Nếu đó là Jim.”
“Chắc chắn là Jim, được chứ. Anh đã kể cho em cái cách mà Harper cư xử rồi mà.” Frank bặm chặt môi lại. Claudia nhận ra cái biểu cảm này và biết rằng anh sẽ không thay đổi quyết định của mình, cũng giống như cái gã trong bộ phim “High Noon.” Hắn tên gì nhỉ? Phải rồi, Gary Cooper.
“Em ước là mình chưa bao giờ thấy bức hình đó,” cô cúi đầu, tay phải day thái dương. Lisa đã đưa lại bức hình cho mẹ mình trong
phòng ngủ. Cô bé không muốn Frank thấy nó.
“Chúng ta không thể để mọi chuyện cứ như thế được.” Frank năn nỉ. “Anh đã bảo với Harper rồi.”
“Sẽ có rắc rối đó, Frank,” Claudia nói.
“Pháp luật có thể giải quyết được mà. Chúng ta sẽ không bị liên lụy gì cả,” anh đoan chắc. Sau một hồi, Frank lên tiếng “Em bật cái lò sưởi lên nhé?”
“Thôi được rồi. Em sẽ lo chuyện cái lò sưởi”.
Claudia hướng mắt ra ngoài cửa sổ nơi ánh đèn thuỷ ngân ngoài hiên rọi xuống garage. Những bông tuyết dường như bắt đầu rơi từ một điểm ngay bên dưới ánh đèn, như thể được đổ xuống từ một cái phễu phía trên phía cửa sổ, chiếu thẳng vào đôi mắt cô như một viên đạn nhỏ. “Trông có vẻ như tuyết sẽ ngớt.”
“Đáng nhẽ không có tuyết mới đúng.” Frank chửi tên dự báo thời tiết, “Mẹ kiếp.”
Dự báo thời tiết nói rằng trời sẽ lạnh và quang quẻ ở hạt Ojibway, nhưng bây giờ thì tuyết đang rơi như trút.
“Anh thử suy nghĩ về việc buông xuôi nó đi” cô nài xin “Hãy suy nghĩ lại một chút thôi.”
“Anh sẽ suy nghĩ lại,” anh nói rồi quay lưng đi xuống hầm. Frank có thể nghĩ về nó, nhưng anh sẽ không bao giờ thay đổi quyết định của mình. Claudia ngẫm lại mọi chuyện, tròng mình vào chiếc áo len rồi bước ra gian ngoài. Đôi găng lái xe ướt nhẹp của Frank phơi trên lỗ thông hơi của lò sưởi khiến cả căn phòng có mùi như len sấy khô.
Cô khoác lên người chiếc áo parka và chiếc mũ len với quả bông treo lủng lẳng phía sau. Claudia đeo găng rồi với tay tìm công tắc trong gian ngoài, bật đèn hiên và bước ra ngoài, hòa mình vào cơn bão.
Bức ảnh đó. Bọn họ đáng lẽ có thể là bất cứ ai, từ Los Angeles đến Miami, nơi mà họ làm những việc như vậy. Nhưng không. Họ đến từ hạt Lincoln. Chất lượng in ấn thì tệ hại, giấy thì tồi đến mức có thể bở nát ra ngay khi cầm trong tay. Nhưng đó đúng là con trai của Harper. Nhìn kĩ bức ảnh, cô có thể thấy đốt tay cụt bên bàn tay trái bị gây ra bởi rìu chặt củi và đôi khuyên tai vòng của cậu bé. Trong bức ảnh, cậu ta đang khỏa thân trên giường, hông hướng về phía máy ảnh và ánh mắt thì đờ đẫn pha lẫn chút hoang mang. Cậu ta có gương mặt đang dần trưởng thành của một thanh niên trẻ tuổi, nhưng đâu đó vẫn ẩn chứa hình bóng của một cậu bé làm việc ở trạm xăng của cha. Cậu bé mà cô đã biết từ lâu.
Phía trước bức ảnh là thân hình của một gã đàn ông ục ịch, ngực đầy lông. Hình ảnh đó nhanh chóng lướt qua tâm trí Qaudia. Cô đủ quen thuộc với đàn ông và cơ thể của họ, nhưng có một điều gì đó trong bức ảnh, một điều vô cùng tồi tệ… Mắt của cậu bé tối sầm lại trước đèn flash. Khi nhìn gần hơn nữa, đồng tử của cậu bé trông như thể ai đó ở tòa soạn của tờ tạp chí đã vẽ nó vào mắt cậu bằng một cây bút dạ.
Claudia khẽ rùng mình nhưng hoàn toàn không phải vì lạnh. Cô nhanh chóng bước xuống đường hào bị phủ đầy tuyết dẫn tới garage và kho để gỗ. Mới đó mà tuyết rơi trong hầm đã dày tới mười centimet. Rồi sáng mai cô sẽ lại phải thổi tuyết ra.
Cửa garage ở phía cuối đường hào. Cô đẩy mạnh cánh cửa rồi bước vào, bật đèn sáng choang và giậm mạnh chân theo quán tính. Garage được cách nhiệt và sưởi ấm bằng lò sưởi. Bốn khúc gỗ sồi cháy âm ỉ và tản ra đủ nhiệt để giữ nhiệt độ trong garage luôn trên mức đóng băng kể cả vào những đêm lạnh giá nhất, và cũng đủ để khởi động xe. Ở cái xứ Chequamegon này thì khởi động xe đúng là vấn đề sống còn.
Lò sưởi vẫn còn ấm. Than đã cháy hết, nhưng Frank đã dọn lò tối hôm trước. Dù sao thì đó cũng không phải là việc của cô. Cô quay lại nhìn về phía đống gỗ gần cánh cửa. Chỉ còn đủ cho đêm nay. Cô ném vài thanh gỗ thông còn đầy nhựa to bằng cổ tay vào lò cùng với bốn khúc gỗ sồi để giữ lửa cháy.
Cô thở dài nhìn về nơi mà đống gỗ đáng lẽ phải ở và quyết định mang thêm mấy thanh gỗ để tuyết bám trên chúng có thể tan ra trước sáng hôm sau. Rồi cô bước ra ngoài, đóng cửa lại nhưng không khóa, lần dọc về phía chái nhà để củi ở bên hông garage. Cô nhặt thêm bốn khúc gỗ sồi rồi loạng choạng quay về cửa garage, đẩy cửa bằng chân và thảy mấy khúc gỗ sồi xuống cạnh lò sưởi. Cô sẽ chỉ đi một lượt nữa thôi và phần còn lại sáng hôm sau là của Frank.
Cô quay về phía hông garage, đi vào nhà kho đựng gỗ tối om lấy thêm hai khúc gỗ sồi.
Đột nhiên tóc gáy cô dựng đứng…
Không chỉ có cô, ai đó cũng đang ở đây.
Claudia run rẩy đánh rơi những khúc gỗ, tay đưa lên cổ tự trấn an mình. Khu đất phía sau của garage tối đen như mực. Cô không
thể nhìn thấy ai cả nhưng trực giác của cô thì mách bảo điều ngược lại. Tim cô đập dội vang trong lồng ngực và những bông tuyết rơi trên mũ trùm tạo thành từng tiếng đồm độp thật nhỏ. Không còn gì khác nữa, nhưng cô có linh cảm không lành.
Cô lùi lại, nhưng chẳng có gì khác ngoài tuyết và ánh sáng xanh của đèn hiên. Bước đi trong đường hào đầy tuyết, cô bỗng khựng lại, chú mục vào bóng tối… rồi bỏ chạy thật nhanh về phía căn nhà.
Ngay cả khi tới nơi, cô vẫn có cảm giác ai đó đang ở phía sau lưng mình. Hắn dường như sắp chạm tới cô. Cô túm lấy nắm tay cửa, giật thật mạnh, đẩy cửa bằng mu bàn tay rồi bước vào gian ngoài sáng choang và ấm áp.
“Claudia?” Frank lên tiếng.
Cô hét lên.
Frank đứng thần ra ở đó với chiếc giẻ lau sơn, và đôi mắt mở to đầy ngạc nhiên “Xảy ra chuyện gì vậy?”
“Chúa ơi!” Claudia kéo khóa áo bộ đồ đi tuyết xuống, vật lộn với cái khóa mũ trùm đầu. Mồm cô mấp máy nhưng không thể phát ra một lời nào. “Lạy Chúa, Frank, có ai đó ngoài garage.”
“Gì cơ?” Frank khẽ nhíu mày và tiến về phía cửa sổ trong bếp. “Em có thấy hắn ta không?”
“Không, nhưng em thề có Chúa là có ai đó ngoài kia. Em có thể cảm thấy hắn.” Cô bám lấy tay anh, đôi mắt hướng ra ngoài cửa sổ. “Gọi 911 đi!”
“Anh không thấy gì cả,” Anh đi qua bếp, nghiêng người trên bồn rửa, nhìn chằm chằm về phía đèn hiên.
“Anh không thể thấy được gì đâu,” Cô khóa chặt cửa lại rồi bước vào căn bếp, “Frank, em thề có Chúa đấy, chắc chắn là có ai đó ngoài kia…”
“Thôi được rồi,” Anh trả lời một cách nghiêm túc “Anh sẽ đi kiểm tra xem sao.”
“Tại sao chúng ta không gọi…”
“Anh sẽ xem thử xem thế nào.” Anh nhắc lại. Rồi tiếp lời, “Cảnh sát sẽ không tới đây lúc trời bão thế này đâu. Khi mà thậm chí em còn không nhìn thấy ai cả.”
Anh nói đúng. Claudia theo anh ra gian ngoài, mồm lắp bắp, “Em đã cho gỗ vào bếp sưởi, sau đó em vòng sang hông garage để lấy thêm vài khúc gỗ cho sáng mai.Vào lúc đó, cô tự nhủ rằng, đây không phải là cô của thường ngày.
Frank ngồi trên chiếc ghế dài ở gian ngoài, kéo đôi bốt Tony Lamas ra khỏi chân. Mặc xong bộ đồ đi tuyết, Frank ngồi xuống, xỏ chân vào đôi ủng rồi buộc dây giày. Xong xuôi, anh kéo khóa áo khoác lên và với lấy đôi găng tay. “Anh sẽ quay lại ngay.” Anh tỏ vẻ tức giận nhưng anh biết rõ cô không phải là người dễ dàng hoảng sợ.
Cô bật thốt lên, “Em sẽ đi cùng anh”
“Không, em sẽ ở lại đây.” anh nói chắc nịch.
Cô vội vã vòng ra sau bàn bếp và kéo mạnh cái ngăn kéo “Frank, mang súng theo đi.” Một khẩu Smith Wesson 357 cỡ lớn đã được nạp sẵn đạn nằm sâu trong hộc tủ, phía sau bức vách ngăn. “Đó có thể là Harper… Có thể…”
“Lạy Chúa tôi,” anh lắc đầu nguây nguẩy. Anh gượng cười với cô một cách buồn bã rồi bước ra ngoài cửa, xỏ tay vào đôi găng. Những bông tuyết quất vào mặt anh như những viên đạn nhỏ khi anh ra đến bậu cửa. Anh quay nghiêng mặt về phía màn tuyết. Miễn là không nhìn thẳng về phía gió quật, bộ đồ đi tuyết sẽ giữ cho anh được thoải mái. Nhưng điều đó cũng đồng nghĩa với việc anh không thể nhìn cũng như không thể nghe thấy bất cứ thứ gì trừ âm thanh của gió thổi vào cái mũ trùm đầu bằng nilon. Giữ tư thế nghiêng đầu, anh bước xuống những bậc cầu thang dẫn đến con đường tuyết phủ tới garage.
Gã Người Băng ở đó, ngay cạnh đống gỗ, vai của hắn ta lấp ló nơi góc nhà kho, lưng quay về phía gió. Hắn đã ở khoảng đất rừng khi Claudia ra ngoài. Hắn cố chạm tới cô, nhưng lại không dám dùng đèn pin, và trong bóng tối hắn bị vướng vào những bụi rậm nên phải ngưng ý định đó lại. Khi cô chạy vào trong nhà, hắn đã định quay trở lại chỗ chiếc xe máy tuyết. Hắn tự nhủ rằng cơ hội đã qua. Bằng cách nào đó, cô ta đã được cảnh báo. Và hắn cũng không còn nhiều thời gian nữa. Hắn liếc cái đồng hồ và nhận ra mình chỉ còn vỏn vẹn nửa giờ.
Tuy nhiên, sau một hồi suy nghĩ, hắn cẩn thận gỡ những cành nhánh bám vào đôi giày đi tuyết ra và lẩn vào mé tối cạnh sườn garage. Hắn phải bắt cho bằng được cả gia đình nhà LaCourt ở trong bếp, nơi mà hắn có thể giải quyết tất cả một cách nhanh gọn. Họ có súng nên hắn ta phải thật nhanh chóng.
Người Băng kẹp dưới nách một khẩu Colt Anaconda ăn trộm được mà thậm chí chủ nhân của nó còn không biết là nó đã bị ăn
trộm. Hắn đã từng trộm cắp rất nhiều trong quá khứ và đã thu được khá nhiều chiến lợi phẩm đáng giá. Khẩu Anaconda này đúng là một báu vật. Nó là một tuyệt phẩm, mọi đường cong, mọi khấc nối đều có công dụng.
Mặt khác, con dao chặt ngô lại thật trang nhã mặc dù vẻ ngoài thô kệch. Hắn đã tự tay làm nó. Với cán bằng gỗ thô, nhìn nó trông như một con dao rựa, nhưng lưỡi mỏng hơn và phần cuối lưỡi dao có hình vuông. Ngày xưa, nó được dùng để chặt ngô nên bề mặt lưỡi dao bị bao phủ bởi một lớp gỉ sét, nhưng hắn đã mang lưỡi dao tới xưởng mài dao. Lưỡi dao mới lóng lánh như bạc và sắc bén đủ để có thể cạo râu.
Con dao đó có thể làm hung khí, nhưng hắn không mang nó đi vì mục đích này. Đơn giản chỉ là nó trông rất ghê rợn. Nếu hắn cần đe doạ cô bé để lấy bức ảnh, nếu hắn cần làm cô bé bị trọng thương nhưng không muốn giết hại cô thì con dao này là hoàn hảo.
Tên Người Băng cảm thấy mình giống như một gã khổng lồ khi đứng trên tuyết. Đầu hắn gần chạm tới mái hiên khi hắn bước đi dọc chiều dài garage. Nhác trông thấy Frank ngó đầu ra ngoài cửa sổ, hắn liền đứng sững lại. Vậy là Claudia đã thấy hắn rồi ư? Không thể nào. Cô quay lại rồi bỏ chạy, nhưng đến chính hắn ta còn không thể nhìn rõ cô kể cả khi có ánh đèn garage và đèn hiên. Hắn đã quay lại vào góc tối và hắn lại còn mặc đồ đen. Cô không thể nhìn thấy hắn được.
Gã Người Băng đang toát mồ hôi vì phải trèo lên con dốc và vật lộn với mấy bụi cây. Hắn bật mở khóa nẹp, nới lỏng nẹp nối, nhưng vẫn đứng trên đôi giày đi tuyết. Hắn ta phải thật cẩn thận trèo vào
đường hào. Hắn liếc nhìn đồng hồ. Tích tắc, tích tắc… Thời gian không còn nhiều.
Hắn kéo mở khóa chiếc áo parka, cởi găng ra và để sẵn tay trên báng súng bằng gỗ của khẩu Anaconda trong túi áo. Hắn đã sẵn sàng. Hắn quay đầu lại bước vào đường hào khi cửa sau bật mở và một quầng sáng chiếu rọi hiên nhà. Hắn giật ngửa ra sau, kéo đôi giày đi tuyết bằng đôi bốt của mình vào góc tối phía bên ngoài nhà kho chứa gỗ, lưng tựa vào bức tường garage làm bằng kim loại lượn sóng.
Dưới ánh sáng rọi ra từ cánh cửa để mở, Frank trông như một cái bóng. Dần dần, hình ảnh của anh trở nên rõ ràng hơn khi anh lê chân vào đường hào phủ tuyết dẫn tới garage. Một tay anh cầm đèn pin và rọi về phía sườn garage. Người Băng lùi về đằng sau khi ánh đèn rọi tới bức tường bên sườn garage, cố dụ Frank tiến gần hơn nữa, rồi liếc nhìn về phía góc garage. Frank mở cửa garage. Hắn ngay lập tức trượt mình về phía góc garage với súng bên tay trái, dao bên tay phải, và cái lạnh thì đang bám riết lấy đôi bàn tay trần của hắn ta.
Frank bật đèn garage rồi bước vào. Một lúc sau, đèn vụt tắt, Frank bước ra ngoài, đóng chặt cửa sau lưng làm cái tay nắm cửa kêu lạch cạch. Anh bước về phía trước, rọi đèn pin vào khoảng sân nơi có thùng đựng ga.
Anh bước thêm một bước nữa, đến đúng nơi Người Băng đang ẩn mình. Con dao vung xuống. “Vút.” Frank nhìn thấy nó nhưng thời gian chỉ đủ để anh khẽ rùng mình chứ không thể né tránh. Con dao xuyên qua chiếc áo parka của Frank, cắm vào sọ. Lực phản lại
làm tay Người Băng giật lên, nhưng đối với hắn điều đó cũng không có gì lạ lẫm, chỉ như chặt con dao vào cái hàng rào. Lưỡi dao rơi ra cùng lúc Frank gục ngã. Anh đã chết, nhưng cơ thể vẫn tạo nên những tiếng động gừ gừ như hơi thở rít lại của một con rắn bị giẫm phải. Máu của anh chảy xuống nền tuyết trắng xóa. Vào giây phút đó, gió bỗng nhiên ngừng thổi, như thể mẹ thiên nhiên đã nín lại hơi thở của mình. Tuyết dường như cũng ngừng theo gió, và có cái gì đó nhấp nháy ở phía bìa rừng nơi góc mắt tên sát nhân. Có gì đó ngoài kia chăng? Hay chỉ là do hắn quá lo lắng? Hắn chú mục vào màn đêm nhưng không có bất cứ động tĩnh nào. Gió và tuyết lại bắt đầu thổi, vội vã như lúc chúng biến mất. Người Băng bước xuống đường hào, hướng về phía căn nhà. Gương mặt của Claudia xuất hiện bên cửa sổ, lơ lửng trong cơn bão. Hắn khựng lại, ngỡ rằng mình đã bị phát hiện. Nhưng không, Claudia dí sát mặt về phía cửa sổ hơn nữa để ngó ra phía ngoài. Hắn nhận ra rằng mình vẫn vô hình. Sau một hồi, gương mặt cô lùi xa dần khỏi ô cửa sổ. Người Băng lại tiến gần hơn về phía ngôi nhà, trèo lên hiên nhà hết sức khẽ khàng, xoay nắm tay và đẩy cửa bước vào.
“Frank đó à?” Claudia đang ở đó ngay chỗ cửa bếp. Nơi bàn tay cô phát ra một thứ ánh sáng phản chiếu của cờ rôm. Hắn biết thứ ánh sáng này. Hắn nhanh chóng phản ứng và lôi khẩu .44 Mag cỡ lớn ra.
“Frank!” Claudia bắt đầu hét lên. Khẩu .357 treo trên tay cô ở bên hông, chưa hề sẵn sàng, chẳng hề được đoái hoài, một biểu tượng vô dụng của sự tự vệ. Khẩu .44 nhắm thẳng vào mặt cô rồi giật mạnh
trên tay tên sát nhân. Hắn ta đã tốn hàng tiếng đồng hồ ở hầm đá để tập thứ này với những đích treo. Hắn biết mình đã bắn trúng. Hắn có thể cảm nhận được độ chính xác từ trong xương của mình. Một phát đạn chính xác đã hạ gục mục tiêu.
Viên đạn nhắm trúng trán Claudia, và thời gian lúc đó như ngừng lại. Không còn Lisa, không còn Frank, không còn những đêm ở Holiday Inn cùng những cái gương, không còn những kí ức, không còn chút nuối tiếc… Chẳng còn gì cả. Cô không bắn ra đằng sau như trong phim cũng không ngã sầm xuống đất mà chỉ khuỵu xuống, mồm vẫn mở to. Tên sát nhân cầm khẩu Colt lên nhắm bắn lại, trong lòng có chút thất vọng. Khẩu súng lớn này đáng nhẽ có thể quật ngã và thổi tung bọn chúng. Khẩu súng lớn này là một thế lực toàn năng.
Từ gian phòng bên trong, giọng nói của một cô bé vang lên, phá tan sự tĩnh lặng sau phát súng. “Cái gì vậy mẹ?” Cô bé vẫn chưa hay biết gì.
Tên Người Băng vớ lấy cái mũ trùm đầu parka của Claudia, kéo cái xác vào trong bếp và vứt cô nằm trên sàn như một con rối bị cắt hết dây. Đôi mắt cô mở to, vô hồn. Hắn bỏ mặc cô ở đó, chú mục vào căn phòng phía trong. Hắn ta cần bức ảnh đó. Hắn nhấc con dao lên và quay trở lại.
Cô bé lại lên tiếng, nhưng lần này đã bắt đầu run rẩy và lo sợ “Mẹ ơi…”
L
2
ucas Davenport trèo xuống khỏi chiếc xe tải. Ngôi nhà của gia đình LaCourt sáng choang. Bầu không khí trong trẻo một cách tuyệt đối. Mỗi vết nứt, mỗi lỗ hổng, mỗi mảnh vỡ của thủy tinh đều sắc nét như một sợi tóc dưới kính hiển vi. Mùi của cái chết - mùi món thịt heo nướng - phảng phất lướt qua Lucas. Anh hướng mặt về phía đó và lần theo mùi hương như một gã thợ săn thời kì đồ đá.
Ngôi nhà trông giống cái hộp sọ một cách kỳ lạ, với những cánh cửa sổ không kính nhìn thẳng ra cảnh tuyết phủ. Cửa trước đã bị phá nát bởi rìu cứu hỏa, cửa phụ trong nhà treo lủng lẳng trên một bản lề thì đã bị lửa bóp méo và thiêu rụi. Vách nhà làm bằng vinyl đã bị nung chảy và cháy thành than. Một nửa phần mái nhà đã bị cháy rụi, để lộ ngôi nhà hoang tàn giữa không gian. Những mảnh vụn màu hồng của tấm cách nhiệt làm bằng sợi thủy tinh vung vãi khắp nơi. Chúng dính trên bức tường bao quanh ngôi nhà, rải rác trên nền tuyết trắng và bay lên cả những cành cây bạch đàn trụi lá trông như những sợi tóc nẫn thịt đầy ghê tởm. Băng đá từ vòi cứu hỏa, trộn với bồ hóng và tro, chảy quanh ngôi nhà và tràn ra ngoài cửa như một dòng sông băng thu nhỏ.
Ba hàng đèn chiếu sân vận động được đặt trên khoảng đất trống cạnh ngôi nhà. Chúng được nối với máy phát điện quân đội loại cũ chạy bằng ga và tuôn một luồng ánh sáng màu xanh trắng với
cường độ một trăm triệu sức nến* xuống khung cảnh. Tiếng máy phát điện ầm ầm dữ dội như búa tạ tôn lên tiếng hét của lính cứu hỏa và những âm thanh đều khe khẽ của những chiếc máy bơm chữa cháy.
Cả ngôi nhà toát lên một cái mùi khó chịu.
Cái mùi của xăng, dầu diesel, tấm cách nhiệt bị thiêu đốt trộn với mùi của thạch cao ngấm nước và thi thể bị cháy rụi. Ngọn lửa đã lan đi nhanh chóng, thiêu đốt dữ dội, và được dập tắt một cách vội vã. Những thi thể đã cháy thành than thay vì thành tro.
Có đến hai mươi người trong ngôi nhà nhỏ, một số là lính cứu hỏa; một số khác là cảnh sát; ba, bốn người còn lại là thường dân. Tuyết đã tạm ngớt nhưng gió vẫn sắc như dao, lạnh đến cắt da cắt thịt.
Lucas có thân hình cao lớn với sắc da tối, đôi mắt màu xanh khiến người ta sửng sốt nằm sâu dưới cặp lông mày rậm. Anh có mái tóc đen hơi dài pha chút sắc xám. Lucas khẽ hất một lọn tóc rủ xuống mắt khi ngước nhìn ngôi nhà.
Người anh bỗng rung lên như một con chó săn chuyên nghiệp. Khuôn mặt vuông vức khớp với thân hình, đôi vai nặng nề và cánh tay lực lưỡng của Lucas. Nhưng đó là trước đây, khi anh chưa giảm tận năm cân thịt. Gương mặt anh bây giờ thật gầy guộc, da chảy xuống hai bên gò má. Trông anh như một võ sĩ quyền Anh đang khắc khổ luyện tập. Mỗi ngày trong vòng một tháng, anh hoặc đeo tấm ván trượt hoặc xỏ đôi giày đi tuyết vào và băng qua những ngọn đồi quanh cabin của anh trong vùng rừng North Woods. Chiều nào anh cũng mang theo búa và nêm vào trong khu rừng để
chặt gỗ sồi.
Lucas bước về phía ngôi nhà sau cơn hỏa hoạn như thể bị thôi miên. Anh nhớ tới một căn nhà nằm ở phía nam vùng xoắn ốc thuộc thành phố Minneapolis vào một đêm đông lạnh giá của tháng Hai. Một tên trùm băng đảng xã hội đen sống trong căn hộ ở tầng dưới ngôi nhà. Băng đảng đối đầu muốn loại trừ tên này. Sống ở tầng trên cùng là một phụ nữ tên Shirleen gì đó. Bà ta mở một trung tâm trông giữ trẻ bất hợp pháp qua đêm cho các bà mẹ trong khu phố.
Khi bom xăng Molotov được ném vào các cửa sổ ở tầng dưới, có sáu đứa trẻ đang ngủ trên lầu. Trong cơn hỏa hoạn, Shirleen đã ném tất cả sáu đứa trẻ ra ngoài cửa sổ. Hai đứa bị gãy chân. Hai đứa gãy xương sườn. Một người hàng xóm cũng bị gãy tay khi cố gắng đỡ những đứa trẻ từ trên cao rơi xuống. Thân hình của người phụ nữ đó quá đồ sộ để nhảy ra cửa sổ và cuối cùng bà ta chết cháy khi đang cố leo xuống cầu thang. Có những điểm tương đồng nhất định giữa hai vụ hỏa hoạn này, ngôi nhà trông như một hộp sọ, băng đá từ vòi cứu hỏa, mùi thịt heo quay,…
Lucas vô thức lắc đầu và mỉm cười. Anh có mối quan hệ hữu dụng dẫn anh vào ổ nhóm của lũ buôn bán ma túy, và đã giao nộp tên của bọn thủ ác cho cảnh sát hình sự. Những tên này đã phải ngồi bóc lịch trong nhà tù Stillwater, và sẽ còn ngồi trong đó thêm tám năm nữa. Chỉ trong hai ngày, anh đã bắt được tất cả lũ giết người và chúng vẫn không tài nào tin nổi.
Bây giờ lại đến vụ này. Anh quay lại phía cánh cửa đang mở của chiếc xe tải, nghiêng người lấy chiếc mũ trùm đầu màu đen làm bằng len cashmere ở ghế sau và đội lên đầu. Anh mặc một chiếc áo
parka màu xanh, quần jeans và một chiếc áo len với những mũi đan chéo lớn. Chân anh mang đôi giày đi tuyết và mặc trên người bộ đồ lót dài chuyên dụng cho thời tiết lạnh làm bằng sợi PP. Một viên cảnh sát đi vòng quanh chiếc Chevy Suburban mới tiến vào sân ngay trước chiếc Ford của Lucas. Henry Lacey vận trên người bộ đồng phục cảnh sát với chiếc áo parka màu vỏ cây và quần cách nhiệt.
“Shelly ở phía đó,” Lacey lên tiếng gọi Lucas, chỉ ngón cái về hướng ngôi nhà. “Đi nào. Tôi sẽ giới thiệu anh cho… Anh đang nhìn ngôi nhà sao? Có gì buồn cười à?”
“Không có gì.”
“Tôi cứ tưởng anh đang cười cơ đấy,” Lacey nói với cái nhìn ẩn chứa lo âu mơ hồ.
“Không… Tôi chỉ lạnh thôi”. Lucas phịa bừa một cái cớ nhưng lạy Chúa, anh thích những vụ thảm sát như thế này. “Vậy thì… Tới chỗ Shelly thôi…”
“Vâng” Lucas bước theo sau Lacey. Tay kéo đôi găng đi tuyết, mắt anh vẫn chú mục vào căn nhà. Ngôi nhà trông như thể được kéo lên từ một vùng ngoại ô giá lạnh dưới địa ngục vậy. Nó đem lại một cảm giác thoải mái cho Lucas.
Sheldon Carr đứng trên một phiến băng nằm giữa đường đi, phía sau xe xitec và xe cứu hỏa. Ông mặc trên người bộ đồ cảnh sát trưởng chuyên dụng cho thời tiết lạnh y hệt của Lacey, nhưng nó có màu đen thay vì màu kaki, với ngôi sao vàng của cảnh sát trưởng thay vì huy hiệu bạc của phó cảnh sát. Một cái ống nước màu đen đã đóng băng uốn khúc dưới chân ông và cắm thẳng xuống hồ.
Lính cứu hỏa đã phải khoan gần một mét băng mới có thể thấy được nước hồ, và giờ họ lại phải dùng đuốc làm tan băng để rút ống. Ngọn lửa xanh bập bùng nơi khóe mắt Sheldon.
Carr choáng váng. Ông đã làm tất cả những gì có thể, và rồi ông chẳng làm gì được nữa. Ông đứng thần người giữa lối đi và theo dõi các nhân viên cứu hỏa. Và Carr đang lạnh cóng. Bộ đồ chuyên dụng cho thời tiết lạnh của ông không đủ để chống chọi lại cái thời tiết này. Chân ông cứng lại và bàn chân thì tê dại, nhưng ông lại không thể vào garage. Ông không thể dứt mình khỏi đó. Ông đứng như một người tuyết u ám, hơi béo, không động đậy, tay xuôi xuống hai bên hông, mắt nhìn chằm chằm vào ngôi nhà.
“Chết tiệt…” một lính cứu hỏa bị trượt ngã. Carr xoay hẳn người về phía anh ta. Người lính cứu hỏa lem nhem tro bụi và nửa người anh bị bao phủ bởi băng giá. Khi họ cố phun nước vào ngôi nhà, những ngọn gió đã biến nước thành mưa tuyết và quật lại phía họ. Những người lính cứu hỏa trông giống như các tảng băng di động, lấp lánh phản chiếu lại ánh sáng mạnh mẽ chiếu xuống họ trong lúc làm việc ngang qua khoảng sân. Anh lính cứu hỏa ngã ngửa ra sau, ngước nhìn lên Carr. Ria mép của anh ta bị phủ bởi sương giá từ chính hơi thở của mình, mặt đỏ lừ vì gió và gắng sức. Carr tiến tới, đưa tay về phía người lính cứu hỏa nhưng anh ta chỉ xua tay, “Tôi sẽ kéo anh ngã mất.” Nói rồi anh ta tự lồm cồm bò dậy, vật lộn với cái vòi chữa cháy đã bị đông cứng lại. Anh ta đang cố gắng để chất nó lên chiếc xe tải còn nó thì cứ trườn đi trườn lại như một con trăn vậy. “Khốn kiếp…”
Carr quay trở lại phía căn nhà. Một lính cứu hỏa mặc đồ bảo hộ
bằng cao su đang giúp bác sĩ leo qua cửa trước đã bị phá vỡ. Carr nhìn theo khi họ bắt đầu lần từng bước về phía phòng ngủ ở phía sau. Cô bé ở đó. Chết cháy. Và chỉ có Chúa mới biết chuyện gì đã xảy ra với cô. Cái chết của bà mẹ và ông bố đã quá rõ ràng. Khuôn mặt của Claudia được bảo vệ một phần bởi cái rèm cửa chống cháy rơi xuống người cô. Một lỗ đạn to lù lù giữa trán cô trông như con mắt thứ ba, mở trừng trừng. Còn Frank…
“Bên Madison nói sao?” Carr gọi viên cảnh sát đang ngồi trên chiếc xe Jeep. Ông này quay xe lại, bật hệ thống sưởi, khẽ hạ cửa sổ xuống để nói chuyện.
“Vẫn chưa có gì. Tuyết vẫn đang rơi. Chắc họ đang chờ trời ngưng tuyết.”
“Chờ? Chờ sao?” Sheldon Carr đột nhiên hét lên, đôi mắt như dại đi vì tức giận. “Gọi mấy tên khốn đấy xách mông đến đây ngay lập tức. Họ biết cái thứ gọi là xe hai cầu* đúng không? Gọi lại đi.”
“Ngay bây giờ đây,” ông cảnh sát đó sửng sốt đáp. Cảnh sát trưởng chưa bao giờ nói cái gì nặng nề hơn chết tiệt cả. Carr quay đi, quai hàm của ông bắt đầu cử động, quên đi cái lạnh. Chờ? Henry Lacey bước về phía ông trong lúc cố giữ thăng bằng trên những phiến băng đầy nguy hiểm đã tan ra và chảy vào sân. Anh ta đi cùng một người đàn ông mặc áo parka. Lacey gật đầu khi tiến gần tới Carr, “Đây là Davenport.”
“Cảm… ơn… anh đã… đến.” Carr gật đầu, đột nhiên không thể nói thành lời.
Lacey huých Carr bằng cùi chỏ, “Anh vẫn ở đây từ lúc đấy à?” Carr khẽ gật đầu. Lacey kéo Carr về phía garage. “Chúa ơi,
Shelly! Anh đang tự sát đấy.”
“Tôi ổn.” Carr gằn giọng, kéo tay Lacey ra, quay sang Lucas, “Tôi nghe nói anh đến từ Thành phố đôi*. Tôi nghĩ anh sẽ có kinh nghiệm về những thứ này hơn tôi. Tôi nghĩ cũng đáng để thử đấy. Hi vọng anh có thể giúp chúng tôi.”
“Henry nói với tôi đây là một mớ hỗn độn,” Lucas nói. Anh vừa nói vừa cười. Một nụ cười hơi thô thiển, Carr nghĩ. Davenport có một cái răng bị sứt không được trám lại, có lẽ là thương tích từ một cuộc ẩu đả, và một vết sẹo cắt dọc lông mày. “Đó là…”, Carr lắc đầu, tìm từ để diễn tả, “Chết tiệt! Đó là một bi kịch.” Cuối cùng ông cũng nói thành lời.
Lucas liếc nhìn Carr. Anh chưa bao giờ nghe cảnh sát gọi một vụ án là bi kịch, cũng như chưa bao giờ nghe thấy một cảnh sát nói “Chết tiệt.” Anh không thể nhìn cả gương mặt của Carr, nhưng viên cảnh sát trưởng có vẻ là một người đàn ông to lớn với cái bụng phệ. Trong bộ đồ đi tuyết màu đen, ông ta trông giống như anh chàng lốp xe Michelin* đang khóc than vậy.
Lucas hỏi “Bộ phận Dịch vụ Thi hành Pháp luật đâu?” Thường thì họ sẽ cử đội khám nghiệm hiện trường đến các vụ án lớn. “Họ chưa thể rời khỏi Madison,” Carr cau mày. Ông vẫy tay lên trời. “Vì cơn bão…”
“Họ không có xe hai cầu sao? Từ đó đến đây toàn đường cao tốc mà.”
“Tôi cũng đang tìm hiểu chuyện đó đây,” Carr cáu kỉnh đáp “Xin lỗi, vấn đề này hơi nhạy cảm. Có lẽ là giờ họ cũng đi được nửa đường tới đây rồi.” Ông nhìn về phía ngôi nhà, dường như không
thể ngăn mình lại được, “Lạy Chúa tôi.”
“Ba người chết?” Lucas hỏi.
“Ba người đã chết,” Carr trả lời. “Một bị bắn. Một bị chém bởi rìu hay cái gì đó tương tự thế. Còn con bé… bị bắn hoặc… không thể nói chắc chắn được. Nó còn quá bé.”
“Thi thể vẫn còn trong nhà chứ?”
“Đi nào,” Carr nghiêm nghị. Ông đột nhiên bắt đầu run rẩy không thể kiểm soát được, rồi sau đó cố bình tĩnh lại. “Chúng tôi đã phủ bạt lên thi thể. Có cái gì đó rất lạ…Chết tiệt. Nhìn thi thể họ đi và anh sẽ thấy. “
“Shelly, anh ổn chứ?” Lacey hỏi lại.
“Không. Tôi không sao… Tôi sẽ cho anh Davenport - à Lucas phải không? Tôi sẽ vào trong sau khi dẫn Lucas đi xem một vòng. Lạy Chúa, trời lạnh quá.”
THI THỂ CỦA FRANK LACOURT NẰM trên con đường nhỏ dẫn từ nhà tới garage. Carr ra lệnh cho một cảnh sát nhấc tấm bạt che phủ thi thể. Lucas ngồi xổm xuống.
“Lạy Chúa tôi.” Lucas ngước nhìn Carr, còn ông thì quay mặt đi. “Chuyện gì đã xảy ra với mặt anh ta vậy?”
“Có thể là một con chó,” Carr nói, liếc nhìn nửa bên khuôn mặt bị biến dạng. “Cũng có thể là loài sói đồng cỏ… Tôi không chắc nữa.” “Cũng có thể là một con sói,” Lacey nói vọng từ phía sau lưng viên cảnh sát trưởng.
“Chúng tôi có một vài báo cáo. Tôi nghĩ rằng có một vài con mò từ rừng xuống.”
“Nó đã cắn nát mặt anh ta,” Lucas nói.
Carr nhìn về phía khu rừng quanh nhà, “Đang là mùa đông mà. Tất cả mọi loài trong khu rừng này đều đang chết đói. Chúng tôi đang cho vài con hươu ăn nhưng rồi phần lớn cũng sẽ chết hết thôi. Hừ, phần lớn đã chết rồi ấy chứ. Bọn sói đồng cỏ mò vào tận các quán pizza trong thành phố để tìm thức ăn thừa trong thùng rác.”
Lucas cởi bỏ một bên găng tay, lục túi áo parka tìm chiếc đèn pin và rọi sáng phần còn sót lại trên khuôn mặt của người đàn ông. LaCourt là một người Ấn Độ tầm bốn mươi lăm tuổi. Tóc anh cứng lại, dính đầy máu đông. Một con thú đã gặm nhấm gần hết phía trái gương mặt của Frank, mắt trái không còn và mũi đã bị nhai nát.
“Tên sát nhân ra tay từ phía bên cạnh anh ta. Đầu anh ta gần như bị chém lìa khỏi cổ, xuyên qua cả mũ trùm đầu.” Carr giải thích. Lucas gật đầu, chạm vào cái mũ trùm đầu bằng bên tay đeo găng, nhìn vào vết cắt trên vải. “Các bác sĩ khám nghiệm nói hung khí là một con dao hoặc dao phay,” Carr tiếp tục giải thích.
Lucas đứng dậy. “Henry nói có dấu vết của một đôi giày đi tuyết…”
“Bên đó.” Lacey chỉ tay.
Lucas chĩa đèn pin về phía màn đêm dọc theo nhà kho để gỗ. Dấu giày trên tuyết vẫn có thể nhìn thấy dù đã bị tuyết che phủ mất một nửa.
“Những dấu chân này hướng đến đâu vậy?” Lucas hỏi, nhìn chằm chằm vào rặng cây trong bóng tối.
“Chúng chạy lên từ hồ, qua rừng, rồi lại ra hồ,” Carr chỉ vào một
góc rừng rậm rạp. “Phía bên đó có một lối đi cho xe trượt tuyết. Lúc nào cũng có xe cộ đi qua đi lại. Frank cũng có vài cái nên dấu xe cũng có thể là của anh ta. Chúng tôi không chắc nữa.”
“Dấu vết dẫn đến đúng chỗ anh ta bị chém,” Lucas nói. “Phải, nhưng chúng ta không thể chắc chắn liệu đây là dấu giày của Frank khi bước xuống hồ để nhìn cái gì đó rồi sau đó trở lại và bị giết, hay là dấu vết của kẻ sát nhân đi lên đây rồi trở xuống.” “Nếu đó là giày đi tuyết của anh ta thì giờ nó đang ở đâu?” “Có một đôi giày ở gian ngoài nhưng nó đã bị phá hỏng bởi các vòi chữa cháy. Chúng tôi không biết liệu nó có vừa được sử dụng hay không… Không thể chắc chắn được,” Lacey nói. ‘Tuy nhiên, đó đúng là giày đi tuyết. Giày kiểu “móng gấu” (bear paw), không có đuôi giày.”
“Được rồi.”
“Chúng ta vẫn chưa xong đâu.” Carr nhìn chằm chằm vào thi thể một cách miễn cưỡng. “Nhìn lớp tuyết trên người anh ta mà xem. Lính cứu hỏa đã phủ bạt lên thi thể ngay khi họ đến đây, nhưng người anh ta cứ như bị phủ bởi hẳn một xen ti mét tuyết ấy.”
“Thì sao?”
Carr nhìn chằm chằm vào thi thể một lúc, rồi hạ giọng, “Tôi đang lạnh cóng đây. Vả lại còn rất nhiều thứ để nói đó. Anh có muốn xem các thi thể khác bây giờ không? Người phụ nữ bị bắn trúng trán và cô bé bị chết cháy. Hay chúng ta cứ đi đâu đó trao đổi tiếp thôi.”
“Tôi ngó qua một chút xem sao,” Lucas nói.
“Đi nào,” Carr nói.
Lacey rẽ theo hướng khác, “Shelly, tôi phải đi kiểm tra mấy thiết bị truyền tin.”
Lucas và Carr phải lê bước qua một lớp băng đã biến sắc để tiến về ngôi nhà, luồn người qua cửa trước. Bên trong, các bức tường bằng thạch cao và tấm lợp trần đã bị lửa vặn xoắn và uốn cong, rơi lả tả xuống đồ nội thất và thảm bị thiêu cháy. Bát đĩa, nồi niêu, xoong chảo, đồ thủy tinh rải rác trên sàn cùng với bộ sưu tập búp bê gốm. Khung ảnh tan tác ở mọi nơi. Một số đã bị cháy rụi, nhưng cứ một, hai bước chân lại có những tấm ảnh còn rất rõ nét, Một gương mặt hạnh phúc, mắt mở to, sáng bừng kí ức về những ngày tươi đẹp.
Phía bên kia ngôi nhà có hai cảnh sát đang chụp ảnh, một người cầm máy quay có dây điện chạy xuống từ cổ áo dưới chiếc áo khoác parka, người còn lại đang cầm trên tay chiếc Nikon 35mm.
“Tay tôi đóng băng mất,” viên cảnh sát cầm máy quay lắp bắp. “Xuống garage đi,” Carr nói. “Giữ gìn sức khỏe đi.” “Có một bình cà phê nóng và cốc giấy trong xe tải của tôi đấy.
Chiếc Explorer màu trắng trong bãi đậu xe ấy,” Lucas nói. “Cửa để mở sẵn rồi.”
“Ca… Cảm… ơn.”
“Để dành một ít cho tôi nhé,” Carr nói với viên cảnh sát rồi quay sang Lucas, “Anh kiếm đâu ra cà phê vậy?”
“Tôi đã vắt kiệt máy pha cà phê ở Dow’s Comers đấy. Tôi từng đi tuần tra suốt sáu năm và chắc đã tê cóng ở tầm một trăm chỗ như thế này rồi.”
“Quán Dow’s sao?” Carr nheo mắt, lục lọi trí nhớ của mình. “Quán của Phil và Vickie đúng không?”
“Phải rồi. Anh biết họ à?”
“Tôi quen tất cả mọi người trên quốc lộ 77 từ Hayward ở hạt Sawyer đến quốc lộ 13 ở hạt Ashland,” Carr trả lời một cách hiển nhiên. “Đi nào, đường này.”
Carr dẫn đường qua tiền sảnh bị cháy rụi, qua cánh cửa phòng tắm, đến một phòng ngủ nhỏ. Bức tường hướng ra hồ đã bị đốt thành tro, và tuyết lấm tấm rơi xuyên qua đống đổ nát. Thi thể của cô bé ở phía bên dưới khung giường đen thui. Lõi lò xo của tấm nệm nằm trên ngực cô bé. Một ngọn đèn nằm ngay bên ngoài cửa sổ rọi ánh sáng nhàn nhạt đầy soi mói về phía đống đổ nát sau vụ hỏa hoạn, nhưng khuôn mặt của cô bé thì gần như chìm hoàn toàn trong bóng tối. Không hẳn hoàn toàn. Lucas có thể nhìn thấy những chiếc răng trắng của cô bé. Cô bé dường như đang mỉm cười dưới lớp tro.
Lucas ngồi xổm xuống, bật đèn pin, càu nhàu rồi tắt đèn và đứng lên.
“Nó làm tôi thấy ớn lạnh,” Carr nói. “Tôi từng đi tuần tra đường cao tốc trước khi làm cảnh sát trưởng. Tôi đã chứng kiến những vụ tai nạn xe kinh hoàng, nhưng nó không làm tôi ớn lạnh như thế này.”
Lucas nhất trí, “Tai nạn thì không như thế này.” Anh nhìn xung quanh căn phòng. “Còn một thi thể nữa ở đâu?”
“Nhà bếp,” Carr trả lời. Họ vòng lại tiền sảnh ngôi nhà. “Tại sao hắn lại phóng hỏa?” Carr hỏi với tông giọng cao vút. “Chắc chắn không phải để bịt đầu mối vụ thảm sát. Hắn ta vẫn để nguyên xác
Frank trong sân. Nếu hắn ta cứ thế chuồn đi, chắc phải một hoặc hai ngày sau mới có người phát hiện. Hắn ta đang cố tình khoe khoang chiến tích sao?”
“Có lẽ hắn muốn hủy dấu vân tay chăng? Anh LaCourt làm nghề gì vậy?”
“Anh ta làm ở khu của thổ dân, là bảo vệ ở sòng bài Eagle.” “Sòng bạc có rất nhiều tiền,” Lucas nói. “Anh ta có gặp trục trặc gì ở đó không?”
“Tôi không biết,” Carr trả lời đơn giản.
“Còn vợ anh ta thế nào?”
“Cô ấy là trợ giảng.”
“Có bất đồng trong hôn nhân hay anh chồng cũ nào quanh quẩn đâu đây không?” Lucas hỏi.
“Cả hai đều đã từng kết hôn trước đây rồi. Tôi biết vợ cũ của Frank. Jean Hansen sẽ không làm tổn thương dẫu là một con ruồi đâu. Chồng cũ của Claudia là Jimmy Wilson. Jimmy đã chuyển tới Phoenix ba, bốn năm trước rồi, và anh ta cũng không làm điều này đâu. Tôi vẫn sẽ điều tra anh ta, nhưng họ đều không tan vỡ theo kiểu thù hằn đâu. Họ đơn giản là hết tình cảm với nhau thôi. Anh biết mà.”
“Tôi hiểu mà. Còn cô bé thì sao? Có bạn trai không?” “Tôi cũng sẽ điều tra xem,” Carr nói. “Nhưng…Tôi không biết nữa. Tôi sẽ điều tra. Cô bé còn nhỏ quá.”
“Dạo này có rất nhiều thanh thiếu niên đã giết hại chính gia đình và bạn bè của chúng.”
“Phải rồi. Một lũ hèn nhát.”
“Các cậu trai tuổi teen đôi khi nhầm lẫn giữa lửa và tình dục. Có rất nhiều kẻ phạm tội phóng hỏa ở tuổi vị thành niên. Nếu có chàng trai nào có ý với cô bé thì chúng ta phải cảnh giác.”
“Anh có thể nói chuyện với hiệu trưởng Bob Jones ở trường trung học cơ sở. Anh ta chuyên tư vấn tâm lí nên anh ta có thể biết gì đó.” “Ừm,” Lucas ậm ừ trong lúc phủi cái tay áo quệt vào một bức tường cháy đen thui.
“Tôi hy vọng anh có thể ở lại một thời gian,” Carr bỗng lên tiếng. Lucas chưa kịp trả lời thì Carr đã tiếp tục dẫn đường, “Đường này.” Họ đi đến đầu kia của căn nhà, qua phòng khách, vào trong bếp bằng cửa sau. Hai bác sĩ khám nghiệm tử thi mặc đồ bảo hộ đang lụi cụi bên cạnh thi thể thứ ba.
Người đàn ông có vóc dáng cao lớn đứng lên, gật đầu với Carr. Anh ta đội một chiếc mũ kiểu Nga có vành mũ rủ xuống và huy hiệu phó cảnh sát trưởng gắn ở mặt trước. Người phụ nữ còn lại đang cầm một cái túi và dùng một dụng cụ kim loại để xoay đầu nạn nhân.
“Không thể chịu nổi cái thời tiết này,” anh ta lên tiếng. “Tôi sắp chết cóng rồi đây. Chết ti…”
“Anh muốn nói là ‘chết tiệt’ chứ gì,” người phụ nữ đang cúi mình trước thi thể lên tiếng. Giọng cô ấy thật trầm và tỉnh bơ, nghe rất bác học. “Tôi thực sự không để ý đến lời ăn tiếng nói đâu, nhất là khi trời lạnh như thế này.”
“Anh ta không ngại cô đâu, mà ngại tôi kìa,” Carr thẳng thừng.
“Weather, cô có phát hiện ra gì không hay nãy giờ chỉ đang chơi thôi vậy?”
Người phụ nữ ngước lên, “Chúng tôi phải đưa mấy cái xác xuống Milwaukee để tìm chuyên gia. Không có cửa cho đám nghiệp dư ở nhà tang lễ khoa tay múa chân đâu.”
“Cô có phát hiện ra gì không?” Lucas hỏi.
Nữ bác sĩ đưa mắt nhìn xuống thi thể, “Claudia rõ ràng đã bị bắn với một thứ vũ khí khá có lực, có thể là một khẩu súng trường. Toàn bộ phần sau đầu đã vỡ nát và một phần của bộ não đã văng ra. Viên đạn xuyên thẳng qua đầu cô ta nên giờ chúng ta chỉ có thể mong rằng người ở phòng thí nghiệm có thể tìm lại được viên đạn. Nó không ở trong đầu cô ta.”
“Thi thể của cô bé thì sao?” Lucas hỏi.
“Phải khám nghiệm tử thi mới có kết quả chính xác được. Có dấu vết của quần áo bị cháy quanh thắt lưng và giữa hai chân, cô bé chắc đã mặc quần lót hoặc là cái gì đó giống như… ừm… Cái quần lông cừu gọi là gì nhỉ?…”
“Quần thể thao,” Carr lên tiếng.
“Phải rồi. Claudia cũng mặc đầy đủ quần áo, quần jean và đồ lót dài.”
“Ý cô là cả hai mẹ con đều không bị cưỡng bức,” Lucas tiếp lời. Người phụ nữ đứng dậy và gật đầu. Mũ áo parka được thắt chặt, che gần hết khuôn mặt của cô chỉ để lộ khoảng da hình bầu dục quanh mắt và mũi. “Tôi không thể nói một cách chắc chắn, nhưng trước mắt thì là như vậy. Không có dấu hiệu của một vụ hãm hiếp.
Nhưng những gì đã xảy ra với cô bé có thể còn kinh khủng hơn thế.”
“Kinh khủng hơn?” Carr giật nảy mình.
“Đúng.” Cô cúi xuống, mở chiếc túi của mình. Người đàn ông đứng bên cạnh thốt lên, “Tôi không muốn nhìn cái thứ này đâu.” Cô đứng dậy và đưa cho Carr một chiếc túi Ziploc. Bên trong túi có một cái gì đó giống như một quả mơ khô bị cháy trên bếp nướng. Carr nhìn chằm chằm vào nó rồi đưa cho Lucas.
“Cái gì đây?” Carr hỏi người phụ nữ.
“Một cái tai,” người phụ nữ và Lucas gần như đồng thanh. Lucas đưa nó lại cho cô.
“Tai? Hai người đang đùa đấy à?” Carr nói như hét lên. “Cái tai bị cắt trước hay sau khi cô bé bị giết?” Lucas hỏi, giọng nhẹ nhàng, đầy quan tâm. Carr quay sang nhìn anh đầy kinh hoàng. “Phải xét nghiệm thì mới biết được,” Weather nói với tông giọng chuyên nghiệp giống như Lucas vậy. “Có vài mẩu vụn cháy trông như máu vậy. Tôi không chắc nhưng có lẽ cô bé vẫn còn sống khi cái tai bị cắt.”
Vị cảnh sát trưởng liếc nhìn cái túi trong tay nữ bác sĩ rồi quay đi, bước hai bước, cúi xuống và nôn khan. Một dòng nước bọt trào ra từ miệng ông. Một lúc sau, ông ta đứng thẳng dậy, lau miệng bằng chiếc găng trên tay, “Tôi phải ra khỏi đây.”
“Frank bị chém bởi một cái rìu,” Lucas lên tiếng.
“Không, tôi không nghĩ thế. Không phải một cái rìu,” người phụ nữ vừa nói vừa lắc đâu. Lucas nhìn chằm chằm, nhưng hầu như
không thể thấy được đường nét gì của gương mặt cô. “Một con dao phát, một con dao phát rất sắc hoặc một cái gì đó mỏng hơn. Cái gì đó như… ừm… một thanh mã tấu ấy.”
“Cái gì cơ?” Viên cảnh sát trưởng nhìn cô với vẻ tò mò. “Tôi không chắc chắn,” cô nói với vẻ thủ thế. “Bất kể nó là gì thì lưỡi dao cũng rất mỏng và sắc. Giống như một con dao phát nặng tầm hai ki lô gram. Nó cắt ngang qua xương, chứ không phải làm vỡ xương như những vũ khí có lưỡi khác. Nó cũng có trọng lượng không nhẹ đâu.”
“Đừng nói gì với tờ Register nhé,” Carr càu nhàu. “Họ sẽ phát rồ lên mất.”
“Dù gì thì họ chẳng nổi điên,” nữ bác sĩ đáp.
“Vậy thì đừng làm họ điên tiết hơn nữa.”
“Vậy còn mặt của người đàn ông thì sao?” Lucas hỏi. “Mấy vết cắn ấy?”
“Chó,” cô trả lời. “Hoặc sói đồng cỏ. Tôi đã nhìn thấy quá nhiều vết chó cắn quanh đây rồi, và có vẻ như là một con chó đã cắn nát mặt anh ta.”
“Anh có thể nghe thấy tiếng hú vào ban đêm của lũ sói đồng cỏ. Quanh đây có rất nhiều,” viên cảnh sát lên tiếng.
“Ở chỗ tôi cũng có,” Lucas nói.
“Anh là cảnh sát liên bang à?” Người phụ nữ ngạc nhiên hỏi. “Không. Tôi từng là một cảnh sát ở Minneapolis. Tôi có một cabin nhỏ ở hạt Sawyer. Cảnh sát trưởng đề nghị tôi tới đây và xem xét tình hình.”
“Lucas Davenport”, cảnh sát trưởng Carr bỗng lên tiếng, gật đầu với Lucas. “Tôi xin lỗi. Lucas, đây là Weather Karkinnen.” “Tôi đã nghe nói nhiều về anh,” người phụ nữ gật đầu. “Weather là bác sĩ phẫu thuật ở các Thành phố đôi trước khi cô ấy trở về quê nhà,” Carr tiếp tục giới thiệu.
“Tên cô ấy là Weather? Có nghĩa là thời tiết? Giống như ‘trời bão’ ấy hả?” Lucas hỏi.
“Chính xác,” nữ bác sĩ trả lời.
“Tôi hy vọng những gì mà cô được nghe về Davenport đều tốt đẹp,” Carr nói với cô.
Bác sĩ nghiêng đầu nhìn Lucas. Ánh sáng chiếu lên gương mặt cô thay đổi và giờ Lucas có thể thấy rõ đôi mắt xanh và cái mũi hơi vẹo. “Tôi nhớ là anh ta đã từng giết rất nhiều người,” cô trả lời.
Nữ bác sĩ lạnh cóng. Cô dẫn đường về phía cửa trước, viên cảnh sát theo sau, Carr vấp ngã trong lúc vội vàng bước theo. Lucas nán ánh nhìn trên thi thể người phụ nữ. Khi quay mặt bước đi, anh bỗng phát hiện thấy một miếng niken dưới một tấm ván đen thui đã vỡ vụn. Nhìn đường cong của miếng kim loại, anh nhận ra ngay, đó là phần trước của cái vòng cản cò súng.
“Đợi đã,” anh gọi với theo những người khác. “Anh chàng chụp ảnh còn ở trong nhà không?”
Carr đáp lại, “Người quay video đang ở trong garage, còn người chụp ảnh thì vẫn ở đây.”
“Gọi anh ta tới đây. Ở đây có dấu hiệu của vũ khí.”
Carr, Weather và viên cảnh sát cầm theo máy ảnh quay lại bên
cạnh thi thể Claudia. Lucas chỉ ra rằng đó là cái vòng cản cò súng.Viên cảnh sát liền chụp hai bức ảnh xung quanh khu vực. Di chuyển một cách cẩn thận, Lucas nhấc tấm ván lên. Một khẩu súng lục. Một khẩu Smith and Wesson khá nặng bằng niken có phần tay cầm bằng gỗ hồ đào. Anh dẹp tấm ván ra khỏi đường đi rồi lùi lại phía sau để viên cảnh sát chụp hình khẩu súng có liên quan đến thi thể.
“Anh có phấn hay bút chì dầu không?” Lucas hỏi.
“Có. Tôi có cả thước dây đây.” Viên cảnh sát đang cầm máy ảnh nhíu mày tìm trong túi rồi đưa cho Lucas một cây bút chì dầu. “Không phải là ta nên để bên phòng xét nghiệm xử lí cái này à?” Carr hỏi một cách lo lắng.
“Vũ khí giết người có thể là một khẩu súng lớn,” Lucas trả lời. Anh vẽ một đường viền xung quanh vũ khí, sau đó đo khoảng cách từ khẩu súng tới tường, đầu và tay của nạn nhân. Trong khi đó, viên cảnh sát cầm máy ảnh cặm cụi ghi chép lại. Sau khi đo đạc xong, Lucas trả cây bút chì dầu lại, nhìn quanh căn phòng, nhặt một mảnh gỗ, đặt nó vào giữa cái vòng cản ngay sau cò súng, và nhấc khẩu súng từ sàn nhà lên. Anh quay sang nhìn nữ bác sĩ. “Cô còn cái túi ziploc nào không?”
“Có.” Cô đặt túi lên chân, mở nó ra, lục lọi và đưa cho Lucas một cái túi bảo quản thực phẩm. Anh đặt khẩu súng vào cái túi, chúc nòng súng xuống dưới. Qua cái túi nhựa, anh ấn cái cần gạt hất vỏ đạn và xoay ổ đạn.
“Còn nguyên sáu viên. Súng này chưa bắn,” Lucas kết luận. “Chết tiệt thật.”
“Chưa bắn?” Carr hỏi.
“Đúng. Có vẻ đây không phải là hung khí. Tên sát nhân sẽ không nạp lại đạn rồi vứt khẩu súng xuống sàn… ít nhất thì tôi không nghĩ ra được lí do gì để hắn làm vậy.”
“Có nghĩa là?” Weather nhìn anh tò mò.
“Có lẽ người phụ nữ đã lấy khẩu súng ra. Khẩu súng chỉ cách thi thể của cô ấy có một bước chân. Cô ấy có thể đã lường trước là hắn sẽ đến. Có vẻ là đang tồn tại một mối thâm thù nào đó. Cô ấy biết là mình đang gặp rắc rối,” Lucas phán đoán. Anh đọc số sê ri súng cho viên cảnh sát cầm máy ảnh, “Anh vẫn nên thử đi tìm hiểu cái số sê ri này ở các cửa hàng súng địa phương xem sao.”
“Tôi sẽ bảo người kiểm tra xem,” Carr trả lời, “Tôi… cần một ít cà phê.”
“Shelly, tôi nghĩ anh cũng lạnh cóng rồi đấy,” Weather nói. “Anh cần ngâm mình trong bồn nước nóng đấy.”
“Phải, phải.”
Bước ra từ cửa trước, Lucas mang theo khẩu súng lục. Một viên cảnh sát đang bước tới, “Cảnh sát trưởng, tôi tìm được mấy tấm bạt rồi. Chúng để ở phía sau tôi trên xe tuần tra.”
“Tốt. Gọi thêm người che kín chỗ này lại,” Carr vẫy tay về phía ngôi nhà. “Trong garage có vài người đấy.” Cảnh sát trưởng quay sang Lucas, “Tôi lấy được một số tấm vải bạt từ Lực lượng Bảo vệ Quốc gia, và chúng tôi sẽ phủ kín cả ngôi nhà này cho đến khi Bộ phận Dịch vụ Thi hành Pháp luật cử người ở Madison đến đây.”
“Tốt,” Lucas gật đầu. “Anh thực sự cần tới người ở phòng thí
nghiệm đấy. Đừng để ai chạm vào bất cứ thứ gì, kể cả mấy thi thể.” Garage thật ấm áp. Cảnh sát và lính cứu hỏa đang đứng xung quanh một cái lò sưởi bằng sắt đã cũ chất đầy những khúc gỗ sồi. Viên cảnh sát cầm máy quay nhìn thấy họ và tiến đến với một trong những cái bình giữ nhiệt của Lucas.
“Tôi để dành một ít cho anh đây.”
“Cảm ơn Tommy,” cảnh sát trưởng gật đầu, tay run run rót một cốc đưa cho Lucas, rồi lấy một tách cho mình, “Đi vào trong góc nói chuyện đi.” Carr đi vòng qua mũi chiếc Chevy cũ kĩ có thùng sau của LaCourt, tránh xa khỏi đám đông cảnh sát và lính cứu hỏa. Ông quay ra, nhâm nhi tách cà phê, “Chúng ta có chút vấn đề,” ông ngừng lại, rồi hỏi, “Anh không theo Công giáo, đúng không?”
“Chúa ở bên anh*” Lucas bỗng tuôn ra một tràng tiếng La tinh. “Nhưng vậy thì sao?”
“Anh theo Công giáo à? Tôi chưa đến nhà thờ đủ lâu để nhớ được cái vụ tiếng La tinh này.” Cảnh sát trưởng dường như suy nghĩ về điều đó một lúc, nhấp một ngụm cà phê, rồi tiếp, “Tôi đã cải đạo được vài năm. Trước đây, tôi theo đạo Tin Lành, cho đến khi tôi gặp Cha Phil. Ông ấy là linh mục giáo xứ ở Grant.”
“Vâng. Tôi hết hứng thú với mấy thứ ở nhà thờ từ lâu rồi.” “Ừm, vậy thì anh nên xem xét…”
“Nói thẳng vào vấn đề đi,” Lucas sốt ruột.
“Tôi đang cố nói đây, nhưng nó khá là phức tạp,” Carr nói. “Thôi được rồi. Kẻ sát nhân chắc chắn là người đã phóng hỏa. Lớp tuyết rơi cả buổi chiều có lẽ đã dày hơn mười xen ti mét rồi. Khi lính cứu
hỏa đến đây thì tuyết đã gần như ngớt hẳn. Nhưng thi thể của Frank lại bị phủ bởi hơn một xen ti mét tuyết. Đó là lý do tại sao tôi phải phủ bạt trên mọi thứ. Tôi nghĩ rằng chúng ta có thể ước lượng khoảng thời gian chính xác mà vụ án đã diễn ra. Ngôi nhà có thể đã bị phóng hỏa không lâu sau khi Frank bị giết, nhưng khoảng thời gian cũng không quá ngắn. Đó mới là điều quan trọng. Khoảng thời gian đó. Và bây giờ anh nói với tôi là cô bé có thể đã bị tra tấn… Tức là khoảng thời gian đó còn dài hơn.”
“Vâng,” Lucas gật gù trước lời nhấn nhá của Carr.
“Chắc chắn hắn đã dùng xăng để phóng hỏa,” Carr tiếp lời. “Vẫn còn có thể ngửi được mùi xăng. Còn ngôi nhà thì bắt lửa cháy như một ngọn đuốc vậy. Có lẽ kẻ giết người mang theo xăng hoặc có thể hắn ta đã lấy xăng của Frank. Có hai chiếc thuyền và một chiếc xe trượt tuyết ở nhà kho phía sau nhưng không có can xăng nào gần đó, cũng không có can xăng nào ở đây cả. Khả năng cao là Frank dự trữ xăng ở trong các can.”
“Dù sao thì ngôi nhà cũng bắt lửa rất nhanh,” Lucas thêm vào. “Phải. Các hộ dân ở bên kia hồ nói họ đang xem ti vi vào lúc đó. Họ nói rằng bên ngoài chẳng có gì ngoài tuyết, nhưng chỉ một phút sau thì họ thấy một đám cháy to nên họ đã gọi cứu hỏa.” “Chỗ mà tôi đã đi qua á? Ở góc phố à?”
“Phải. Có hai người lính cứu hỏa ở đó. Lúc ấy họ đang chuẩn bị bữa ăn nhẹ. Một người đã nhìn thấy chiếc xe Jeep đen đi qua. Chỉ vài giây sau thì có cuộc gọi báo cháy. Họ nghĩ rằng đó là chiếc xe Jeep của Phil… Linh mục Phil mà tôi vừa kể với anh. Cha Philip Bergen, mục sư ở All Souls.”
“Thật sao?” Lucas sốt sắng hỏi.
“Phải. Họ nói Phil hình như đi ra từ phía con đường quanh hồ. Vì vậy, tôi đã gọi cho Phil và hỏi xem ông ấy có nhìn thấy bất cứ điều gì bất thường không, một ngọn lửa hoặc ai đó trên đường. Ông ấy nói không. Nhưng tôi chưa kịp nói thêm điều gì thì ông ấy nói tiếp là ông ấy đã ở đây, tại ngôi nhà của gia đình LaCourt.”
“Ở đây?” Lucas nhướng mày hoài nghi.
“Phải. Ở đây. Ông ấy nói mọi thứ đều ổn khi ông rời khỏi căn nhà.”
‘Hừm’ Lucas ra chiều ngẫm nghĩ. “Thời gian trùng hợp chứ?” “Chính xác. Một trong hai người đang đứng bên lò vi sóng chờ bánh sandwich kẹp thịt nguội. Họ mất hai phút để chờ bánh và nó đã gần chín rồi. Người còn lại thốt lên, “Cha Phil kìa. Thời tiết này mà còn phải ra đường.” Sau đó, tiếng chuông báo của lò vi sóng kêu, người lính cứu hỏa định lấy bánh mì ra, nhưng trước khi anh ta kịp lấy nó ra thì điện thoại báo động reo.”
“Thời gian rất sát.”
“Phải. Thời gian là không đủ để tuyết có thể chất đống trên thi thể của Frank. Không đủ, nếu Phil nói sự thật.”
“Thật kỳ quặc,” Lucas nói. “Đặc biệt là trong trường hợp khẩn cấp, nếu thời gian không chỉ là một phút mà là năm phút, Phil có thể…”
“Đó cũng là những gì tôi nghĩ… Nhưng có vẻ không phải vậy.” Carr lắc đầu nguây nguẩy, lắc lắc để cà phê xoay tròn trong cốc, rồi đặt nó lên nắp ca pô chiếc Chevy và duỗi các ngón tay, cố gắng làm
chúng ấm lại. “Tôi đã liên lạc với mấy người lính cứu hỏa đó và đã xem xét kỹ càng nhiều lần rồi. Không đủ thời gian.” “Vậy linh mục đó…”
“Ông ấy nói đã rời nhà và lái xe thẳng ra đường cao tốc để đi vào thị trấn. Tôi hỏi ông ấy mất bao lâu để đi từ nhà tới đây và tới xa lộ. Ông ấy trả lời là khoảng ba hoặc bốn phút. Quãng đường khoảng một dặm, lúc đó tuyết đang rơi nữa. Thời gian khá hợp lí.”
“Ừm.”
“Nhưng nếu ông ấy thực sự là hung thủ thì tại sao lại thú nhận đã ở đây? Vô lí thế quái nào ấy?” Cảnh sát trưởng nói. “Ông đã cho ông ta biết chưa? Gọi ông ta đến và điều tra ấy?” “Chưa. Tôi chưa thực sự có kinh nghiệm với việc thẩm vấn. Tôi có thể cho mấy đứa trẻ trộm cắp xe hơi hoặc tháo biển quảng cáo của quán bia nào đấy ngồi trong phòng tạm giam rồi dọa cho bọn chúng sợ vãi tè. Nhưng thứ này… hoàn toàn khác. Tôi không biết mấy cái vụ giết người như thế này.”
“Anh đã nói với ông ta tí nào về khoảng thời gian eo hẹp chưa?” Lucas hỏi.
“Chưa.”
“Tốt.”
“Tôi đang rối đây,” Carr nói trong lúc quay lại nhìn chằm chằm vào bức tường garage, có vẻ như đang hồi tưởng điều gì đó, “Khi ông ấy thú nhận đã ở đây, tôi thật sự không biết phải nói gì cả, nên tôi chỉ nói là ‘Được rồi, chúng tôi sẽ liên lạc với ông sau’. Khi chúng tôi thông báo rằng gia đình LaCourt đã bị giết hại, ông ấy muốn
được ra khỏi thị trấn để cử hành những nghi thức tiễn đưa cuối cùng. Nhưng chúng tôi bảo ông ấy nên ở lại thị trấn. Chúng tôi không muốn…”
“… Không muốn làm ô uế kí ức của ông ấy,” Lucas tiếp lời. “Phải,” Carr gật đầu, cầm cốc cà phê lên và uống cạn nó. “Thế còn mấy người lính cứu hỏa thì sao? Liệu họ có động cơ nào để nói dối không?”
Carr lắc đầu. “Tôi biết cả hai bọn họ. Họ không thân thiết lắm nên có vẻ sẽ khó mà ủ mưu với nhau được.”
“Được rồi.”
Đúng lúc đó, hai người lính cứu hỏa đi ngang qua. Người đi trước mặc đồ bảo hộ bằng cao su và vải bạt cùng với một lớp băng dày tới hơn hai xen ti mét trên người.
“Anh vừa ngã xuống hồ đấy à?” Carr hỏi. “Chắc anh sắp chết cóng rồi.”
“Nước từ vòi phun đấy. Lạnh thì không lạnh, nhưng tôi không cử động được,” người lính cứu hỏa trả lời. Người đi sau lên tiếng, “Đứng yên nào,” Anh lính cứu hỏa đi sau đứng thẳng như một một con bù nhìn béo tốt làm bằng cao su, và bắt đầu phá băng bằng một cái vồ bằng gỗ và một cái đục lạnh lẽo.
Cả Lucas và cảnh sát trưởng ngồi ngắm vụn băng bay tứ tung một lúc, rồi Carr lên tiếng, “Còn nữa. Khi Phil đi ngang qua trạm cứu hỏa, ông ấy còn kéo theo một chiếc xe trượt tuyết. Ông ấy là chủ tịch một câu lạc bộ xe trượt tuyết năm nay hay năm ngoái gì đó. Họ có một cuộc đua ngày hôm nay phía ngoài một quán bar ở bên kia hồ nên ông ấy đã ở chỗ hồ cùng xe trượt tuyết.”
“Và những dấu vết đó xuất hiện từ phía hồ.”
“Nơi mà ai cũng đi xe trượt tuyết.”
“Hừm. Vậy anh nghĩ linh mục đó có dính dáng gì đến chuyện này à?”
Carr trông có vẻ lo lắng, “Không. Tuyệt đối không. Tôi biết ông ấy. Ông ấy là bạn của tôi. Nhưng tôi lại không thể tìm được cách lí giải khác. Ông ấy chưa từng nói dối về bất cứ điều gì. Ông ấy là một người luôn tuân theo các nguyên tắc đạo đức.”
“Nếu một người bị ép vào đường cùng…”
Carr lắc đầu. Ông kể chuyện cả hai đều là những đối thủ gai góc ra sao khi chơi golf. Họ đã đánh qua lỗ thứ mười bảy rồi mà vẫn bất phân thắng bại. Bergen đánh từ vùng Tee* vào một rặng thông ở bên phải vùng Fairway*, rồi đánh một cú recovery* cực đỉnh và đưa bóng vào vùng Green* sau hai cú đánh. Ông ấy đã hoàn thành một par* bằng hai cú pu* trong khi đó Carr đánh một cú bogie* và thất bại.
“Tôi đã khoe về cú recovery của ông ấy với những người khác trong phòng thay đồ, còn ông ấy trông lại rất buồn. Khi chúng tôi đi xuống quầy bar, ông ấy túm lấy tôi và trông như thể sắp khóc vậy. Ông ấy nói với tôi rằng trong cú đánh thứ hai, bóng của ông ấy bị vướng vào một cái cây và ông ấy đã đá nó ra. Ông ấy rất muốn thắng. Nhưng chơi gian lận làm ông ấy cảm thấy vô cùng áy náy. Ông ấy không thể chịu đựng được nó. Ông ấy là người như vậy đấy. Ông ấy sẽ không bao giờ ăn cắp lấy một đồng xu hay một cú đánh golf. Ông ấy là người thẳng thắn. Không thể khác được.”
Người lính cứu hỏa đặt các dụng cụ xuống sàn nhà, chộp lấy
thân trước của bộ đồ bảo hộ bằng cao su của người còn lại và cởi khóa kéo ra.
“Thế này là được rồi,” anh chàng trong bộ đồ bảo hộ lên tiếng, “Tôi có thể tự làm từ đây,” anh ta quay sang nhìn Carr “Niềm vui nơi miền quê đây ha?”
Nữ bác sĩ lượn lờ giữa bức tường và chiếc Chevy, theo sau là một người đàn ông cao lớn mặc trên người một chiếc áo parka dày cộp. Cô có mái tóc màu sáng điểm vài sợi trắng, cắt ngắn, dáng người nhỏ nhắn nhưng khỏe mạnh với bờ vai rộng, mũi hơi to và vẹo sang trái, xương gò má cao và đôi mắt màu xanh đậm, miệng rộng và linh động. Cô ta đem đến cảm giác như một người chiến binh, Lucas nghĩ, với sắc thái phương Đông nhàn nhạt mà người Slav thường mang. Cô ta không đẹp nhưng rất quyến rũ. “Đây là một cuộc trò chuyện bí mật à?” Cô hỏi, tay cầm một tách cà phê.
“Không có gì bí mật cả,” Carr nói, liếc nhìn Lucas, khẽ lắc đầu như muốn nói, Đừng nói gì về linh mục.
Người đàn ông cao lớn theo sau Weather lúc này mới lên tiếng, “Tôi đã đi hỏi mọi người trên đoạn đường này rồi. Không ai thấy bất cứ điều gì khả nghi nhưng có ba người mất tích. Tôi đang cố gắng tìm họ.”
“Cảm ơn Gene nhé,” Carr nói. Người đàn ông cao lớn liền hướng về phía cửa. Carr quay sang Lucas, “Điều tra viên chính của tôi lần này.”
Lucas gật đầu và nhìn về phía Weather, “Tôi nghĩ không cần phải đo thân nhiệt mấy thi thể đâu.”
Nữ bác sĩ lắc đầu, nhấp một ngụm cà phê. Lucas nhận ra cô
không hề đeo nhẫn. “Tôi không đo thân nhiệt của bà mẹ và cô bé. Lửa, nước, băng và tuyết đã làm rối tung mọi thứ lên rồi. Thi thể của Frank thì được trùm khá kĩ nên tôi đã đo thân nhiệt của anh ta. Khoảng sáu mươi tư độ F*. Anh ấy chết chưa lâu lắm.”
“Hừm,” Carr liếc nhìn Lucas.
Weather nhận ra ngay cái nhìn của Lucas và Carr, “Điều này có quan trọng không?”
“Tôi nghĩ cô nên ghi chép nó lại đấy,” Carr nói.
“Chúng tôi đang thắc mắc là anh ta đã chết bao lâu trước vụ hỏa hoạn,” Lucas nói.
Weather nhìn Lucas một cách kỳ quặc, “Maddog, phải không?” “Gì cơ?”
“Anh là người đã giết Maddog sau khi hắn ta giết những người phụ nữ đó. Anh đã chiến đấu với mấy tên Ấn Độ.”
Lucas gật đầu, “Phải.” Băng Crow ra khỏi nhà lúc trời đã tối với khẩu .45 trên tay…Tại sao cô ta lại lôi chuyện đó ra để nói không biết? “Tôi có một người bạn phẫu thuật cho một cảnh sát ở New York, người phụ nữ bị bắn vào ngực ấy. Tôi không nhớ tên cô ấy nhưng tại thời điểm đó cô ấy khá là nổi tiếng.”
“Lily Rothenburg.” Chết tiệt. Sloan đứng trên bậu cửa của Trung tâm Y tế Hennepin, mặt trắng bệch, “Tỉnh táo ra chưa?… Lily bị bắn rồi.” Lily đáng yêu.
“À, đúng rồi,” Weather vừa nói vừa gật đầu, “Tôi nhớ là tên một loài hoa. Cô ấy quay lại New York rồi chứ?”
“Phải. Giờ đây cô ấy là đội trưởng. Bạn của cô chắc hẳn là một
bác sĩ phẫu thuật tóc đỏ phải không? Tôi nhớ mang máng thế.” “Đúng cô ấy đấy. Cô ấy đã chứng kiến vụ nổ súng. Có vẻ như đó là đêm thú vị nhất trong sự nghiệp của cô ấy. Cô ấy phải chạy qua chạy lại giữa các phòng để thực hiện hai ca phẫu thuật cùng một lúc.”
“Chúa ơi! Và bây giờ nó đang xảy ra ở đây.” Sự kinh hoàng xen lẫn trong giọng nói của Carr. Viên cảnh sát trưởng quay sang nhìn Lucas, “Tôi đã đi tuần tra năm năm trước khi tôi lên làm cảnh sát trưởng. Cũng hai mươi năm trước rồi. Người của tôi không còn làm việc trong lực lượng tuần tra hoặc lực lượng cảnh sát địa phương nữa. Chúng tôi thực sự không biết tí gì về mấy vụ giết người đâu. Anh sẽ giúp chúng tôi chứ?”
“Anh muốn tôi phải làm gì?” Lucas xua tan những kí ức đen tối ra khỏi đầu.
“Điều hành cuộc điều tra. Tôi sẽ cung cấp cho anh tất cả những gì tôi có thể, điều động tám hay mười người, giải quyết với luật sư của hạt, bất cứ điều gì anh cần.”
“Tôi sẽ có quyền hạn gì?”
Carr lên tiếng cùng lúc thò tay vào túi áo, “Anh có thề với Chúa sẽ tuân theo luật lệ của bang Wisconsin không?”
“Chắc chắn rồi,” Lucas gật đầu.
Carr ném cho Lucas một cái huy hiệu, “Giờ anh là cảnh sát. Chúng ta có thể giải quyết mấy thứ vặt vãnh sau vụ này.” Lucas nhìn cái huy hiệu trong lòng bàn tay của mình. “Cố gắng đừng bắn ai nhé,” Weather nói.
T
3
ay tên Người Băng đông cứng lại. Hắn vụng về vặn cái dụng cụ mở đồ hộp hai lần, để hộp súp sang một bên rồi vặn vòi nước nóng trong bồn rửa chén. Hắn thả lỏng đôi bàn tay và để mặc tâm trí cuốn theo dòng nước…
Hắn vẫn chưa tìm thấy bức ảnh. Con bé không biết nó ở đâu, chắc chắn nó không nói dối. Hắn gần như đã chặt lìa đầu con bé trước khi nó chết. Hắn tra tấn con bé, cắt lìa mũi và tai của nó dù nó đã khai rằng chính mẹ nó mới là người giữ bức ảnh. Hắn tin con bé nhưng đã quá muộn để hỏi Claudia nơi cô ta giấu bức ảnh. Cô ta chết rồi.
Vậy là hắn đã chặt đầu con bé bằng con dao chặt ngô và thiêu rụi toàn bộ ngôi nhà. Cảnh sát không hề biết đến sự tồn tại của tấm ảnh. Nó chỉ là một tấm ảnh được in trên một tờ giấy báo rẻ tiền mỏng dính mà thôi. Hắn đã phóng hỏa rồi, cộng thêm vòi rồng của cứu hỏa nữa, chắc nó cũng tiêu rồi.
Tuy nhiên, hắn vẫn chưa tận mắt chứng kiến bức ảnh bị tiêu hủy. Nếu cảnh sát tìm thấy, hắn sẽ chết chắc.
Hắn đứng đó, để mặc vòi nước nóng xối vào bàn tay. Ngón tay hắn dần chuyển màu từ trắng sang hồng, không còn bị đông cứng do cái lạnh thấu xương nữa. Hắn nhắm mắt lại trong giây lát. Tâm trí hắn choáng ngợp bởi bao việc chưa hoàn thành, mà thời gian thì
cứ thế trôi qua. Một giọng nói vang lên trong đâu hắn, Chạy đi. Không còn nhiều thời gian nữa.
Nhưng hắn chưa bao giờ chạy trốn cả, kể cả khi bị bố mẹ đánh, kể cả khi bị đám bạn cô lập. Hắn học được cách ra tay trước một cách lén lút để che giấu sự hung hãn của bản thân. Ngay từ lúc còn nhỏ đã vậy, hắn luôn lạnh lùng, vô cảm. Cưỡng đoạt vẫn luôn là cách hắn vận hành. Con không cướp của nó, nó đưa cho con mà. Bọn con chỉ đang chơi thôi. Nó tự ngã đấy. Đúng là đồ mít ướt. Con không làm gì hết.
Năm lên lớp mười hắn đã có một bài học nhớ đời. Những học sinh thích dùng bạo lực như hắn không hiếm. Lũ du côn ở lớp mười đô con hơn, với cơ bắp rắn chắc hơn, và những chấn thương là hậu quả tất yếu sau mỗi trận ẩu đả. Gãy mũi hay trật khớp vai là chuyện xảy ra hàng tuần sau mỗi trận chiến lúc chiều buông. Quan trọng là, hắn không thể che giấu những hành động bạo lực của mình. Nếu có đứa bị thương, thì không thể nào chối tội được.
Và quả là có đứa đã bị thương. Tên nó là Darrell Wynan. Một thằng khó xơi. Nó cà khịa Người Băng với đủ lý do trên trời dưới biển mà chỉ bọn chuyên đi cà khịa mới hiểu được. Tuy nhiên, tên Người Băng đã lường trước được chuyện này. Hắn thủ một hòn đá sa thạch nhẵn thín to bằng quả bóng golf trong túi vào đúng cái ngày vụ đánh nhau xảy ra.
Thằng nhóc Wynan bắt gặp hắn đang ở cạnh sân bóng. Ba bốn đứa lâu la ôm sách chạy theo phía sau. Trông chúng rất vui vẻ. Thế rồi chúng xông vào đánh nhau.
Vụ đánh nhau chỉ diễn ra vỏn vẹn trong năm giây. Wynan xông
trận trong tư thế của một kẻ đánh nhau tay không đã thành lọc lõi, tay thủ thế. Tên Người Băng ném thẳng hòn đá vào giữa trán thằng nhóc Wynan. Chúng chỉ đứng cách nhau có chưa đầy nửa mét. Tỉ lệ trượt gần như bằng không.
Wynan ngã gục, hộp sọ bị rạn. Nó suýt chết.
Và rồi hắn khai báo với cảnh sát, Cháu đã rất sợ hãi. Nó cùng với lũ bạn vây cháu lại. Bọn nó chuyên bắt nạt những bạn khác trong trường. Cháu chỉ nhặt lấy một viên đá và ném.
Rồi mẹ hắn đến đón hắn ở đồn cảnh sát. Cha hắn thì đã biệt tăm biệt tích từ lâu rồi. Bà ta tức giận, rủa xả hắn trong xe, Cứ về nhà mà xem. Mày liệu hồn đấy.
Hắn chỉ thẳng tay vào mặt bà già, Bà mà dám động đến một sợi tóc của tôi, thì tôi sẽ đợi đến lúc bà ngủ rồi lấy búa đập nát đầu bà ra. Bà mà động đến tôi thì tốt hơn hết đừng có mà ngủ nữa.
Bà ta tin những gì hắn nói. Cũng tốt. Vậy nên tới giờ bà ta vẫn giữ được tính mạng.
Hắn vặn vòi nước lại, lấy giẻ lau bát dĩa lau khô tay. Hắn phải suy nghĩ. Còn quá nhiều thứ phải làm. Hắn quên luôn hộp súp vừa được khui, ngồi xuống ghế và nhìn chằm chằm vào màn hình tivi đen kịt.
Hắn chưa bao giờ thấy bức ảnh được in lại trên tạp chí. Hắn mới chỉ thấy bản gốc chụp bởi máy ảnh Polaroid thôi. Thật ngu ngốc khi để thằng bé giữ bức ảnh. Nó lại còn gửi ảnh cho tạp chí nữa chứ…
“Chúng ta sẽ nổi tiếng,” Jim hào hứng.
“Cái gì?” Jim cùng tên Người Băng đang hút thuốc trong phòng ngủ
phía sau căn nhà di động. Cậu bé thì nằm nhoài ra trên đống gối, còn hắn ta thì đang ngồi trên giường, hai chân để dưới sàn, hai khuỷu tay chống trên đầu gối.
Thằng bé lăn người tới, lục lọi dưới giường rồi đưa cho hắn xem một tờ báo hay tạp chí gì đó. Nó lật giở tạp chí trước mặt Người Băng. Bên trong tạp chí có hàng tá bức ảnh chụp hình các cậu trai trẻ và những gã đàn ông.
“Em đã làm gì vậy?” Tên Người Băng hỏi, nhưng tự trong thâm tâm hắn đã hiểu, và nỗi giận dữ sục sôi trong lồng ngực.
“Em gửi bức ảnh của em với anh để đăng lên tạp chí. Bức anh với em nằm trên giường ấy.”
“Mẹ kiếp.”
Hắn loạng choạng bước đến bên thằng bé. Jim vẫn rúc rích cười. Nó không hề phản kháng, cũng không nhận thức được chuyện gì đang diễn ra. Hắn áp lên ngực thằng bé, kẹp chặt người nó bằng hai chân, siết hai ngón cái quanh cổ nó… Lúc đó thằng nhóc Jim Harper mới hiểu được chuyện đang xảy ra. Mắt thằng bé trợn ngược, miệng há hốc và tên Người Băng…
Đã làm gì? Hắn nhớ rằng hắn đã lùi lại, nhìn chằm chằm vào cái xác. Chúa ơi! Hắn đã giết thằng nhóc.
Người Băng đứng bật dậy khi hồi tưởng lại ngày hôm đó. Hắn cần tìm một chỗ để giấu cái xác. Ban đầu, hắn nghĩ đến việc ném nó xuống đầm lầy. Sau đó hắn lại nghĩ tới chuyện bắn thằng bé rồi vứt khẩu súng lại để giả tạo một tai nạn khi đi săn. Nhưng Jim không hề đi săn. Bố thằng bé biết điều đó. Ông ta còn là một kẻ điên nữa chứ. Cuối cùng hắn nhớ ra mấy thứ mà thằng bé đọc được trong một tạp chí nào đó. Cái gì mà khi dùng giá treo khăn tắm thì sự kích thích
đạt được còn đỉnh hơn cả cocaine…
Tên Người Băng, vẫn được an toàn dưới mái nhà của mình, gầm gừ vắt óc nghĩ. Mọi sự thực quá khó khăn. Hắn đã cố tìm lại bức ảnh nhưng quyển tạp chí không cung cấp bất cứ manh mối nào về tung tích của nó. Không gì cả, ngoại trừ một địa chỉ bưu cục ở thành phố Milwaukee. Hắn cũng không nghĩ ra được cách nào để lần thấy nó mà không phải lộ mặt. Một lúc lâu sau, hắn bình tĩnh lại. Khả năng tấm ảnh được in ra là rất thấp, và cho dù nó có được in đi chăng nữa, thì dân địa phương ở đây cũng khó có thể thấy nó.
Cái lúc hắn gần như đã quên đi chuyện bức ảnh, thì lão điên Russ, bố của Jim gọi tới. Gia đình LaCourt đang cầm bức ảnh. Hắn nhớ tới cô bác sĩ.
Phải rồi. Bác sĩ Weather…
Không một ai có thể nhận ra hắn trong tấm ảnh trừ cô ta. Có lẽ rồi thì họ cũng sẽ nhận dạng được hắn thôi, nhưng nếu cô ta không ở đây, thì hắn vẫn sẽ biết là họ đang tìm kiếm, và sẽ tranh thủ được khối thời gian.
Hắn đứng dậy, tiến đến chỗ cái móc treo tường, nơi bộ đồ trượt tuyết đang được hong khô trên cái máy tản nhiệt. Trong một đêm như thế này thì bộ đồ trượt tuyết chỉ vừa đủ để giữ ấm thôi. Kể cả khi mặc nó, hắn cũng không muốn ở bên ngoài quá lâu. Hắn mặc đồ, xỏ chân vào đôi bốt, buộc chặt dây giày, rồi lục tìm khẩu .44 trong rương. Nó được bọc trong một chiếc giẻ đầy dầu, nép mình dưới đáy rương cùng với vài khẩu súng khác. Hắn lấy khẩu súng ra khỏi rương. Đây là lần thứ hai trong ngày hắn phải dùng đến nó. Khẩu súng khá nặng, cứng cáp, trông có vẻ phức tạp nhưng bách
phát bách trúng.
Hắn chậm rãi lắp ráp súng, từng mảnh, từng mảnh một. Weather Karkinnen lái một chiếc xe Jeep màu đỏ, chiếc Jeep màu đỏ duy nhất đỗ trước cửa gia đình LaCourt. Cô ta sẽ lái men theo đường hồ để ra đến đường cao tốc 77, rồi rẽ vào một con đường hẹp đầy gió để vào trong thị trấn. Cô ta không thể di chuyển nhanh được… nếu cô ta vẫn đang ở chỗ nhà LaCourt.
Công việc của Weather đã xong. Các tử thi sẽ được phủ kín cho tới khi người từ phòng khám nghiệm ở Madison đến. Cô đã hoàn thành mọi nhiệm vụ của mình. Năm nay, cô đảm nhận vai trò hỗ trợ điều tra những vụ chết bất thường của hạt. Công việc chẳng mấy dễ chịu này được luân phiên giao cho tất cả bác sĩ trong thị trấn. Cô đã ghi chép lại tất cả những điều cần lưu ý cho một vụ án mạng chưa rõ hung thủ, viết chúng thành một bài báo cáo hoàn chỉnh trình lên luật sư của hạt, và giờ nhân viên giám định của thành phố Milwaukee sẽ làm nốt phần việc còn lại.
Weather chẳng còn việc gì ở đây cả. Nhưng cô vẫn muốn nán lại trong garage, uống cà phê và lắng nghe những cuộc trò chuyện của cảnh sát, kể cả của những tay cảnh sát đến tán tỉnh cô theo đúng cái kiểu nhẹ nhàng của dân xứ Scandinavia*.
Nói chuyện với anh chàng Davenport đó lần nữa vui chứ nhỉ? Anh ta đâu rồi? Cô nghển cổ tìm kiếm. Chắc anh ta ra ngoài rồi. Cô đội mũ áo lên, thắt chặt nó lại, xỏ tay vào găng. Mọi thứ bên ngoài đều ngăn nắp, gọn gàng hơn. Các thiết bị cứu hỏa đều đã được dọn dẹp, mấy người hàng xóm cũng đã bị đuổi đi. vẫn có mùi hôi thối. Cô nhăn mũi, nhìn xung quanh. Một viên cảnh sát đang
kéo cuộn dây thừng to chừng hơn hai phân tiến về phía ngôi nhà. Weather cất tiếng hỏi, “Anh có thấy, ờm, Shelly hay cái anh chàng đến từ Minneapolis đâu không?”
“Chắc Shelly đi lên nhà rồi. Cái anh chàng kia vừa đi cùng mấy người xuống xem đường cho xe trượt tuyết cạnh hồ. Họ đang nói chuyện với mấy người đi xe trượt đấy.”
“Cảm ơn nhé!”
Cô nhìn xuống phía hồ. Hay là xuống dưới đó nhỉ? Tuyết rất dày và cô cũng lại dần lạnh cóng rồi. Mà xuống đấy cũng có giúp được gì đâu?
Cô quay lại garage lấy một cốc cà phê nữa nhưng hết mất rồi. Cái bình giữ nhiệt của Davenport trống rỗng.
Davenport. Chúa ơi, cô đột nhiên hành động như một thiếu nữ vậy. Cô có thể “tranh thủ” một chút… tình bạn mà. Lần cuối cô có một mối quan hệ là lúc nào nhỉ? Một năm trước? Cô nhớ lại. Đợi đã, ôi, hơn hai năm rồi. Trời ơi, gần ba năm rồi. Cái gã cô từng hẹn hò trước đây đã kết hôn, mặc dù, như anh ta nói một cách quyến rũ, cũng không hẳn là kết hôn, và mối quan hệ này ngay từ đầu đã hứa hẹn sẽ chẳng thành. Anh ta rất giỏi chuyện giường chiếu, nhưng lại nghiện xem truyền hình cáp. Khó mà nhìn nhận anh ta như cái gì khác hơn một khối u đang dần thối rữa ườn mình trên ghế sofa.
Weather thở dài. Hết cà phê rồi. Cô lại đeo găng, lê từng bước thật chậm về phía chiếc Jeep. Cô vẫn chưa muốn về. Đây là nơi mà người ta phải ở vào đêm nay, trong cả hạt này. Đây là trung tâm của tất cả mọi thứ.
Nhưng trời ngày càng lạnh. Mặc dù đang đi ủng, những ngón
chân của cô như đông cứng lại. Ánh đèn của mấy chiếc xe trượt tuyết ở phía hồ cứ rọi thẳng về phía ngôi nhà. Họ đã bị thu hút bởi vụ cháy và sự hiện diện của cảnh sát, và giờ đây hiển nhiên là bởi vụ án mạng của nhà LaCourt. Grant là một thị trấn nhỏ, một nơi vốn dĩ chẳng có mấy sự kiện đặc sắc.
Tên Người Băng vút ngang qua hồ. Có đến nửa tá xe trượt tụ tập gần nhà LaCourt, quan sát cảnh sát làm việc. Hai chiếc nữa đang men theo con đường từ rìa hồ để hướng tới ngôi nhà. Trời mà không lạnh thế này thì chắc có đến cả trăm cái xe đậu ở đây trong lúc nhiều xe nữa vẫn ùn ùn kéo đến mất.
Đi được nửa đường thì hắn lái ra khỏi con đường mòn, rẽ sang một lối khác rồi dừng lại. Ngôi nhà của gia đình LaCourt chỉ cách đó nửa cây số. Căn nhà sáng choang. Qua ống nhòm, hắn có thể thấy chiếc Jeep của Weather vẫn đỗ trước nhà.
Hắn càu nhàu, cất ống nhòm vào cái túi bên, nơi nó sẽ cứ lạnh toát như vậy, rồi rón rén trèo xuống xe, kiểm tra tuyết. Hắn lún xuống gần ba mươi phân. Tốt rồi. Hắn giẫm xuống đất tạo thành một cái hố và ngồi im trong đó, trốn sau chiếc xe trượt tuyết để tránh gió. Trong những đêm như thế này, một cơn gió nhỏ thôi cũng đủ làm người ta chết cóng rồi.
Ngồi trong hố, hắn vẫn có thể nghe được tiếng đập của máy phát điện, tiếng hét từng đợt của những người đang trùm ngôi nhà lại bằng một thứ gì đó trông như vải bạt. Tiếng họ văng vẳng nghe như tiếng nổ pháo giấy, những tiếng gọi và tiếng hét the thé đơn độc trong màn đêm. Thế rồi, sự chú ý của hắn chuyển dời, và đó là lần đầu tiên hắn nghe thấy những âm thanh khác. Chúng vẫn luôn
quanh quất đâu đây, như một dàn hợp xướng Hi Lạp. Hắn chậm rãi quay người lại cho đến khi đối diện với màn đêm chạy dọc nơi con sông sau lưng. Thứ âm thanh như không thuộc về cõi trần. Thứ âm thanh của đói khát. Nó không giống tiếng thét của một con mèo, mà giống như tiếng của con bé Lisa trước lúc đầu lìa khỏi cổ - tiếng khóc than vừa run rẩy vừa cao vút.
Là tiếng của lũ sói đồng cỏ.
Chúng cùng nhau hát những bản nhạc thấm đượm mùi máu sau cơn bão. Hắn rùng mình, nhưng không phải vì lạnh. Nhưng cái lạnh gần như đã đánh gục hắn chỉ hai mươi phút sau. Đúng lúc đó, hắn thấy một cái bóng nhỏ nhắn bước một mình về phía chiếc Jeep đỏ. Là cô ta. Là Weather.
Khi cô ta bắt đầu leo lên xe, hắn phủi hết tuyết khỏi người, trèo lên chiếc xe trượt tuyết và khởi động máy. Hắn ở đó, quan sát cho đến lúc đèn pha bật sáng và chiếc xe lùi dần khỏi điểm đỗ. Cô ta phải đi một chặng đường dài hơn hắn nhiều, nên hắn ung dung ngồi quan sát cho đến khi chắc chắn là Weather đã rẽ trái ra khỏi con đường. Cô ta có lẽ vẫn sẽ dừng lại ở trạm cứu hỏa nhưng ở đó cũng chẳng có gì nhiều ngoài công tác bảo trì thiết bị.
Hắn quay lại con đường mòn, đi được tầm hơn hai trăm mét rồi rẽ phải. Khu nghỉ dưỡng Stackpole ở phía đó. Khu nghỉ dưỡng đang tạm đóng cửa nhưng một ngọn đèn hiên vẫn chiếu sáng. Hắn có thể ra bãi tắm của khu nghỉ dưỡng từ đường hồ rồi men theo đường xe chạy để ra đường cao tốc. Hắn sẽ chờ Weather ở đó.
Hắn nghĩ đến việc mai phục. Weather sẽ lái xe thật chậm trên con đường cao tốc đầy tuyết. Hắn sẽ lái song song với chiếc Jeep.
Khoảng cách giữa hai xe chỉ từ hai đến ba mét, hắn không thế bắn trượt được. Khẩu Magnum .44 có thể bắn xuyên qua kính cửa sổ như thể cái cửa sổ là giấy vệ sinh vậy. Cô ta sẽ chệch khỏi con đường và rồi hắn dừng xe ngay bên cạnh, nã đạn liên tục vào cô ta. Kể cả có người nhìn thấy thì cũng chẳng sao. Trong cái thời tiết như thế này, xe trượt là một phương tiện hoàn hảo để tẩu thoát. Xe phải gắn ván trượt ở đầu xe thì mới mong đuổi kịp hắn được. Ở nơi này, chiếc xe trượt sẽ không đời nào bị phát hiện.
Chẳng mấy chốc bãi tắm bị tuyết phủ trắng hiện ra trước mắt hắn. Tên Người Băng phanh lại. Thấy động cơ giật giật, hắn bèn chậm rãi lái ra bãi cỏ bên bờ hồ của khu nghỉ dưỡng, qua những đống tuyết giữa hai căn nhà gỗ nhỏ. Lối xe chạy đã được dọn sạch tuyết sau cơn bão lần trước, nhưng lần này thì chưa. Hắn cẩn thận lái xe qua đống tuyết tiến vào con đường đó. Hắn dừng lại ngay bên cạnh đường cao tốc, giấu mình đằng sau một rặng cây linh sam chắn gió màu lam. Hắn cảm thấy mình như một tay cảnh sát cưỡi xe mô tô chờ đợi đằng sau tấm biển quảng cáo vậy.
Hắn chờ đợi. Cô ta đâu rồi?
Có thứ gì đó chuyển động phía bên trái hắn. Nó chuyển động rất nhanh đồng thời cũng rất lén lút. Tên Người Băng vội vã quay đầu về phía đó. Không có gì. Nhưng chắc chắn phải có thứ gì đó… Kia rồi. Một con chó, giống béc giê Đức, được soi sáng bởi ánh đèn hiên lờ mờ. Nhưng không. Không phải là một con chó béc giê, mà là một con sói đồng cỏ đang rình hắn phía sau bụi rậm. Rồi một con khác xuất hiện. Chúng gầm gừ. Chúng không bao giờ như thế này. Lũ sói đồng cỏ không bao giờ để bị nhìn thấy.
Hắn kéo phéc mơ tuya xuống, lôi khẩu .44 ra và lo sợ nhìn về phía bụi rậm. Chắc chúng đi rồi.
Có ánh đèn pha rọi sáng. Một chiếc xe nào đó rẽ ra từ con đường hồ. Là Weather. Hắn chuyển khẩu súng qua tay bóp phanh của mình. Lúc này hắn mới cố gắng mường tượng ra những gì hắn cần làm để tấn công Weather. Một tay giữ ga, tay còn lại giữ phanh… Chết tiệt, hắn không thể vừa lái vừa bắn được. Hắn phải tự ứng biến thôi. Hắn phải dùng đến tay bóp phanh. Nhưng…
Hắn cất lại súng vào bao súng đeo đùi khi chiếc xe tiến lại gần. Chiếc xe lướt ngang qua hắn và ngay lập tức hắn có thể thấy Weather từ phía cửa sổ. Cô ta không đội mũ.
Hắn khởi động xe trượt tuyết và bắt đầu bám theo cô. Tên Người Băng lách xuống rãnh mương nông chạy song song phía bên trái đường cao tốc. Chiếc xe Jeep tăng tốc. Lốp xe mài xuống đường, tạo ra một đám bụi tuyết. Tuyết bắn ra rả vào người và mũ bảo hiểm của hắn như đạn bi.
Cô ta chạy nhanh hơn hắn tưởng. Đã từng có những chiếc xe trượt đi trên đường mương này, nên nó cũng tương tự như một con đường mòn, bị màn tuyết lúc ban ngày làm che khuất. Nhưng dù sao thì nó cũng không thực sự là một con đường mòn. Hắn đâm phải một mô đất bị phủ kín bởi cỏ ở đầm lầy. Cái xe giật nảy lên khỏi mặt đất. Hắn giữ chặt lấy tay lái.
Nếu như khi tầm nhìn quang quẻ thì cái trò bay bổng này có lẽ sẽ khá thú vị, nhưng lần này hắn suýt nữa đã mất kiểm soát. Hắn tiếp đất cái rầm. Chiếc xe trượt cứ giật liên hồi, chao đảo. Hắn cố giữ thăng bằng, tiến về phía trước. Hắn cách chiếc xe độ năm mươi mét.
Hắn vặn ga, tăng tốc. Bánh xe nghiến lạo xạo trên tuyết, trên những bụi cây nhỏ, trên những ổ gà ẩn dưới đất… Răng hắn đánh lập cập. Thật không dễ gì để lái trong cái thời tiết này.
Đường cao tốc dường như vừa mới được ủi tuyết tối nay. Tuyết được vun thành từng đống lớn hình dạng bất thường bên tay phải của hắn. Hắn chếch mũi xe sang bên trái, tránh xa mấy đống tuyết cứng hình dạng bất phân. Nếu đâm vào mấy thứ đó thì xe trượt chắc chắn sẽ bị hất văng. Đèn hậu xe của Weather đang ở ngay kia. Hắn tiến lại gần hơn. Hắn phóng rất nhanh, quá nhanh để có thể phanh lại trong tầm chiếu sáng của đèn xe. Nếu có một cái cây chắn ngang đường mương, hắn chắc chắn sẽ tông vào nó.
Vừa mới nghĩ tới thì một gò cao xuất hiện ngay trước mắt hắn. Hắn biết đó là cái gì - một bó cỏ khô được đóng cọc dưới đáy mương để làm chậm quá trình xói mòn vào mùa xuân. Tuyết phủ dày đã biến nó thành một chướng ngại vật khổng lồ. Hắn phải nhảy qua nó. Nhưng hắn không muốn. Hắn cũng không có thời gian để đi vòng qua. Hắn không có thời gian làm bất cứ điều gì khác ngoài chuẩn bị tinh thần, và chiếc xe lại bay lên không trung.
Chiếc xe đáp thẳng xuống tuyết như một quả bom. Nó nảy lên và trượt qua lớp tuyết mỏng phía bờ bên trái. Hắn cố vật lộn vòng xe sang bên phải, rồi nổi khùng. Hắn đánh xe lên bờ bên phải, về phía đống tuyết ủi, rồi lại ngoặt sang bên trái tạo thành một đường cong dài về lại lòng mương.
Được rồi.
Người Băng trở nên mất bình tĩnh, trong thoáng chốc hắn đã nghĩ đến việc từ bỏ. Nhưng cô ta ở ngay đấy, rất gần. Hắn nghiến
răng và tăng tốc, tiến lại gần hơn. Chỉ còn khoảng ba mươi mét nữa. Hai mươi mét…
Weather liếc nhìn qua gương chiếu hậu phía bên xe. Cô có thể nhìn thấy ánh đèn pha của chiếc xe trượt tuyết. Tên đó đang phóng rất nhanh. Quá nhanh. Đúng là tên ngốc. Cô bật cười khi nhớ đến cơn thịnh nộ trải rộng toàn hạt hồi năm ngoái. Các điểm giao nhau giữa đường dành cho xe trượt tuyết và đường dành cho phương tiện giao thông thường được đánh dấu bằng những tấm biển hình thoi. Trên biển có in hình của một chiếc xe trượt. Nó giống biển báo hiệu đoạn đường có hươu, nhưng lại không có chữ. Năm ngoái, một kẻ nào đó đã dùng sơn đen viết lên biển dòng chữ GIAO LỘ CỦA LŨ ĐẦN trên phân nửa những tấm biển báo khắp hạt Ojibway. Hắn làm việc này khá cẩn thận, với một cái khuôn tô. Cái trò chơi khăm đó xuất hiện đầy trên các báo.
Davenport.
Cô đột nhiên nghĩ về anh ta, gương mặt đó, bờ vai đó, đôi bàn tay của anh ta… Anh ta trông rã rời, đầy cẩn trọng, như thể đã từng bị tổn thương và cần ai đó để hàn gắn. Nhưng anh cũng lại cứng cỏi cứ như một chiếc đinh ốc đường ray vậy. Cô thấy bối rối khi ở gần anh ta. Bản thân Weather cũng nhận ra rằng cô đang cố gắng để gây ấn tượng với Lucas. Vậy nhưng những lời cô nói ra cứ như đang cố nhục mạ anh ta vậy. Cố gắng đừng bắn ai nhé.
Chúa ơi, cô đã nói vậy ư? Cô cắn nhẹ lưỡi. Tại sao chứ? Cố gắng gây ấn tượng với anh ta bằng cách đó sao? Khi anh ta nhìn Weather, ánh mắt đó dường như có thể nhìn thấu cô vậy. Weather thích điều
đó.
Đèn pha của chiếc xe trượt nơi gương chiếu hậu lần nữa thu hút ánh mắt cô. Tên đần trên chiếc xe trượt vẫn đang đi trong mương. Hắn suýt chút nữa đã rẽ lên bên cạnh cô. Cô liếc nhìn qua vai. Nếu cô nhớ không nhầm, thì trước mặt là đường Forest Drive. Có một cái cống ngay trước mặt và tên liều lĩnh kia sẽ bay thẳng sang hạt Price nếu hắn cứ cố phóng qua bờ kè với vận tốc như vậy. Hắn đang đua với cô sao? Có lẽ cô nên đi chậm lại.
Tên Người Băng bị cái cách mà vụ ám sát này đang vận hành làm cho rối trí. Nếu hắn có chút khiếu hài hước thì hắn có lẽ đã cười. Hắn không thể thả tay ga mà vẫn bắt kịp cô ta. Nếu hắn thả phanh… Chỉ là hắn không cảm thấy an toàn khi không đặt tay trên cái phanh. Nhưng hắn không có lựa chọn nào khác. Hắn thả tay phanh, mở túi quần, nắm chặt khẩu súng lục và lấy nó ra. Hắn chỉ còn cách xe của Weather chừng năm mét, rồi ba mét. Hắn có thể thấy cô ta quay lại nhìn hắn…
Hắn chỉ ở sau cô ta chưa đầy hai mét và cách bên trái cô ta có năm mét, phía dưới con đường mương… Chiếc Jeep vẫn khiến tuyết bắn loạn xạ vào tên Người Băng, kêu lạo xạo trên chiếc mũ của hắn. Đèn hậu của cô ta sáng lên. Một lần, hai lần rồi ba lần. Phanh lại ư? Tại sao? Có gì đó chắn đường sao? Hắn chẳng thể nhìn thấy gì ở phía trước. Hắn nhấc khẩu súng lên. Hắn nhận ra rằng mình không thể nhắm vào cửa sổ, hay thậm chí là buồng lái, chứ đừng nói đến đầu cô ta. Hắn ta thấy cô ngoái nhìn lại, đèn hậu của xe cô vẫn cứ nhấp nháy… Cái gì? Cô ta đang làm gì vậy?
Hắn tiến lại gần hơn. Tay trái hắn nảy liên hồi khi hắn lóng
ngóng cầm khẩu súng. Đường ngày càng khó đi. Hắn cố giữ chặt tay súng. Hai chiếc xe đang chạy song song với tốc độ tám mươi km/h, giảm xuống còn bảy mươi km/h rồi chỉ còn sáu mươi km/h. Đèn hậu của xe Weather nháy liên tục…
Cuối cùng, hắn rít lên như một chiếc lốp xì hơi, thả súng xuống và giảm tốc lại. Toàn bộ vụ này là một ý tưởng tồi tệ. Hắn đi chậm lại, bỏ khẩu súng vào trong túi và đặt tay lên phanh. Nếu hắn có một khẩu súng đạn ghém, và nếu giờ đang là ban ngày, thì có lẽ hắn đã thành công.
Hắn ngước nhìn lên chiếc xe Jeep và thấy gương mặt cô bác sĩ với mái tóc vàng hoe. Chỉ còn chút nữa thôi mà.
Hắn dần dần giảm tốc. Weather nhả chân phanh. Hắn quay đầu lại, để xem có xe cộ gì không. Và đột nhiên một bức tường xuất hiện, chắn trước mặt hắn. Hắn giật mạnh chiếc xe tuyết qua bên phải, bóp chặt phanh, nghiêng hẳn người sang phải, và lao thẳng chiếc xe lên bờ mương. Một khối tuyết rơi trúng hắn. Chiếc xe trượt từ từ quay trở lại con đường rồi dừng lại.
Hắn dừng lại trong im lặng đột ngột. Tên Người Băng thở không ra hơi, tim đập thình thịch. Hắn quên mất đây là đoạn giao với đường Forest Road. Nếu tiếp tục đuổi theo cô ta, hắn sẽ đâm vào mấy ống cống làm bằng thép. Hắn có thể sẽ phải bỏ mạng ở đó. Hắn nhìn xuống bờ kè. Cái lạnh bắt đầu len lỏi vào cơ thể hắn. Chỉ chút nữa thôi. Gã Người Băng lắc đầu, khởi động xe và lái về nhà. Hắn ngoái lại nhìn một lần cuối trước khi quay về, đèn hậu của xe Weather biến mất chỗ khúc cua. Hắn sẽ quay lại tìm cô ta. Sớm thôi. Lần tới, hắn sẽ lên kế hoạch. Hắn sẽ lên kế hoạch thật chi tiết.
Weather thấy chiếc xe trượt giảm tốc và tụt lại phía sau. Cô nhanh chóng đi qua đường Forest Road và ra đến đường cao tốc. Chắc hắn hiểu được tín hiệu của cô. Cô thấy tấm biển báo đường giao nhau nhưng không kịp dừng lại để cảnh báo hắn. Vậy nên cô đã liên tục giẫm phanh ra hiệu.
Có vẻ như hắn đã hiểu.
Tốt rồi. Cô thấy ánh đèn hậu của xe hắn, một ánh sáng đỏ leo lắt trong màn đêm. Cô bật cái nút chọn kênh định sẵn trên chiếc radio lên. Đài phát thanh Duluth đang phát bản Eine kleine Nachtmusik của Mozart.
Giờ đến lượt Davenport.
Cô thực sự cần phải trò chuyện một lần nữa. Lần này cô phải lên kế hoạch trước mới được.
Cô tự cười, với mình. Đã lâu rồi cô chưa cảm thấy như thế này.
L
4
ucas đi theo Carr trên con đường cao tốc tối tăm bị tuyết bao phủ. Một chiếc xe tải chở sáu thanh gỗ khổng lồ phóng qua họ và thổi một cơn lốc tuyết về phía họ. Bên phải xe của Carr bị tuyết chất đống, ngập đến hơn nửa xe. Chiếc xe gần như không thể di chuyển được. Một phút sau, xe ủi tuyết mới chậm chạp đi tới cùng với một đám xe trượt.
Lucas tựa mình vào bánh lái, căng thẳng nhìn vào màn đêm. Bóng tối như nuốt chửng cả ánh đèn pha. Họ đi qua chiếc xe ủi và con đường thông thoáng hơn được một lúc. Anh mò trong ngăn để đồ dưới chỗ gác tay và tìm thấy một cuộn băng, nhét nó vào đầu phát. Nhạc nổi lên. Là bài “Black-Eyed Blues” của Joe Cocker.
Lucas cảm thấy như mình vừa tỉnh sau cơn phê thuốc, cảm thấy mạng nhện và bụi tứ tung trong đầu. Anh vừa trở về sau một cuộc truy đuổi tội phạm đầy khốc liệt ở New York. Lúc còn ở Minneapolis, anh… không có việc gì để làm cả. Không có gì để làm ngoại trừ kiếm tiền và hưởng thụ.
Tháng Chín vừa rồi, Lucas đã rời Thành phố đôi để đi câu cá trong hai tuần ở căn nhà gỗ nhỏ thuộc bang Wisconsin, phía đông Hayward. Và anh đã không bao giờ quay trở lại nữa. Anh vẫn gọi điện và giữ liên lạc với các lập trình viên nhưng không thể trở về
văn phòng mới. Chiếc máy tính bàn tối tân nhất, cùng với chiếc ghế xoay sáu trăm đô la và một bức tranh nghệ thuật treo trên tường cạnh con cá được đóng khung… Tất cả đều đang chờ đợi anh.
Anh tiếp tục ở phía Bắc, chống chọi với mùa đông nơi đây. Tháng Mười thật lạnh. Đúng ngày lễ Halloween, một cơn bão từ phía nam dãy Rockies thổi vào. Trước khi bão tan, tuyết rơi dày chừng năm mươi centimet, những đống tuyết ủi thì cao tới mét rưỡi, gần hai mét.
Cái lạnh kéo dài tới tận tháng Mười một, cùng những trận mưa tuyết nhẹ bất chợt và thỉnh thoảng có gió giật mạnh. Cứ qua một tuần là tuyết lại dày thêm năm tới tám xen ti mét. Vào ngày thứ Sáu, một tuần sau lễ Tạ ơn, một cơn bão mạnh khác quét qua, bồi thêm hơn hai phân tuyết nữa. Các tờ báo địa phương gọi đó là lễ Halloween thứ hai và thông báo rằng một nửa ngân sách dành cho dịch vụ dọn tuyết vào mùa đông đã bốc hơi. Vậy mà còn những bốn tuần nữa mùa đông mới kết thúc.
Tháng Mười hai lạnh lẽo với những cơn mưa tuyết luân phiên. Vào ngày mồng 2, mồng 3 tháng 1, một trận bão tuyết quét qua North Woods. Lại là lễ Halloween thứ ba. Hậu cơn bão, hơn tám mươi xen ti mét tuyết chất đống lên lớp cũ. Những ụ tuyết phủ đầy mái hiên của những căn nhà gỗ ven hồ.
Dân địa phương giải thích rằng, “Anh phải nhìn nơi này năm…” Họ bỏ dở câu nói. Chưa từng có hiện tượng như vậy, chưa bao giờ. Sau khi cơn bão tuyết đi qua, trời cũng bắt đầu ấm dần lên. Đêm ngày mồng ba, nhiệt độ bên ngoài căn nhà gỗ của Lucas là âm hai chín độ. Ngày hôm sau, nhiệt độ tăng lên âm hai mươi độ.
Tất cả các trường học đều đóng cửa, đài phát thanh khuyến cáo người dân tuyệt đối không nên ra đường trừ khi cần thiết. Đêm nay, nhiệt độ ở hạt Ojibway giảm mạnh xuống âm ba hai độ.
Chẳng có phương tiện nào di chuyển trên đường ngoại trừ những chiếc xe tải chở gỗ khổng lồ, chiếc xe ủi tuyết, xe cảnh sát và mấy tên dở trong câu lạc bộ xe trượt tuyết. Bên ngoài rất nguy hiểm. Trời lạnh không tưởng.
Lucas đang chợp mắt trên chiếc ghế dài đặt trước lò sưởi thì nghe thấy những tiếng đập. Anh ngồi dậy, nhanh chóng cảnh giác. Có phải tiếng lò sưởi không nhỉ? Rồi tiếng đập biến mất. Anh cau mày, tự hỏi liệu có phải do mình tưởng tượng ra không. Anh đứng dậy, đến bên cầu thang tầng hầm và lắng nghe. Không có gì cả. Anh bước đến cửa sổ nhà bếp, thấy một chiếc xe tải đỗ ngay trước nhà và chỉ một giây sau chuông cửa reo lên. Người đang bấm chuông là người đã đập cửa garage đây.
Anh tiến đến cửa chính, tò mò. Nhiệt độ lúc đó tầm âm hai mươi độ. Anh nhìn qua khe cửa. Là một viên cảnh sát đội chiếc mũ lông Nga với phần tai mũ rủ xuống.
“Vâng?” Lucas không nhận ra chiếc áo đồng phục parka. “Chúng tôi có một vụ rắc rối ở hạt Ojibway. Cảnh sát trưởng cử tôi đến xem liệu anh có thể quay về và xem sơ qua tình hình không. Có ít nhất ba người đã bị sát hại.”
“Vào nhà đi. Làm sao anh biết tôi ở đây?”
Lacey bước vào, nhìn quanh ngôi nhà. Cũng không có gì nhiều, toàn là sách, một bức tranh màu nước vẽ cảnh thiên nhiên trên tường, một chiếc tivi và đài cát sét, đống than đã tàn trong lò sưởi
và mùi gỗ thông cháy. “Cảnh sát trưởng đã đọc được những mẩu tin về anh lúc còn ở New York trên tờ Nhật báo Milwaukee, và về việc anh đã nói sẽ lên đây sống. Ông ấy đã gọi đến Minneapolis và họ bảo anh đang ở đây, rồi ông ấy gọi cho cảnh sát trưởng của hạt Sawyer tìm ra được nhà của anh. Và rồi tôi đến đây.”
“Có vẻ như các anh đã có một đêm tồi tệ nhỉ.”
“Anh chưa biết hết đâu. Lạnh quá.”
Đèn hậu của Carr nhấp nháy, rồi sáng hẳn lên. Cảnh sát trưởng lái chậm lại rồi dừng hẳn, bật đèn tín hiệu phía sau lên. Lucas dừng lại ngay phía sau. Carr đang ở trên đường cao tốc, bước về phía đầu xe.
Lucas mở cửa xe, bước ra ngoài, “Ông có sao không?” “Có một cái cây bị đổ,” Carr hét lên.
Lucas vẫn để động cơ chạy, đóng cửa lại và vội chạy đến bên xe tải của Carr. Cái lạnh đã làm gãy một cành cây phong, rơi xuống chắn ngang con mương bên lề đường và một nửa làn cao tốc bên phải. Carr nắm lấy chỗ cành rậm rạp nhất, kéo nó đi được gần nửa mét. Lucas cũng tới giúp. Hai người họ kéo cái cây ra khỏi đường đi.
“Lạnh quá,” Carr nói, rồi họ nhanh chóng quay lại xe. Weather. Hình ảnh của cô hiện lên trong đầu anh ngay khi anh tiếp tục bám theo xe của Carr. Có vẻ như đó có thể là một cách hữu hiệu để làm ấm người. Đã lâu rồi anh không biết đến cái cảm giác khi ở cùng với một người phụ nữ. Lucas bỗng dưng cảm thấy có gì đó thiếu sót.
Thị trấn Grant hiện ra trước mắt như một bộ sưu tập những cây đèn đường màu vàng cam. Đi thêm một chút nữa sẽ thấy tấm biển của Nhà nghỉ Cây Thông, tiếp đó là một nhà hàng của chuỗi Hardee’s và một trạm xăng Unocal, một công ty bán khí dầu mỏ hóa lỏng và một cửa hàng cho thuê băng đĩa có mái nhà màu vàng nhạt. Viên cảnh sát trưởng rẽ phải ở cột đèn giao thông duy nhất trong thị trấn, đi qua ba dãy nhà dài toàn các công ty, rồi rẽ trái ngay dưới tấm biển báo dừng bị tuyết phủ lấp gần nửa và đi lên một ngọn đồi thấp. Phía bên tay trái có một rặng thông, chắc là của công viên.
Phía trên đỉnh đồi là một nhà thờ lợp ván trắng được bao bọc bởi một khu rừng thông đỏ, phía sau lưng nhà thờ là một nghĩa trang nhỏ. Cảnh sát trưởng lái xe qua nhà thờ và dừng lại ngay trước một ngôi nhà gạch sáng đèn.
Dưới ánh đèn xe, Lucas nhìn thấy một tấm biển ghi, NHÀ LINH MỤC. Phía bên dưới là dòng chữ uốn lượn REV. PHILIP BERGEN. Anh tấp xe vào lề ngay đằng sau xe của Carr, tắt máy và bước xuống chiếc xe tải. Không khí lạnh và khô đến mức anh cảm thấy như da mình như vừa bị đánh bằng giấy ráp vậy. Anh có thể thấy hơi thở của mình bị đóng băng lại trên cằm và mũi.
“Cái xe tải chở gỗ ấy suýt nữa thì giết anh với tôi rồi,” Lucas lên tiếng khi Carr vừa vừa bước ra khỏi chiếc Subur-ban. Từng luồng hơi phả ra từ miệng và mũi họ.
“Cái tên ngốc nghếch liều lĩnh đó. Tôi đã gọi điện cho cảnh sát dừng xe của anh ta lại rồi. Tôi có dặn họ kiểm tra nồng độ cồn và bắt anh ta đi chậm lại rồi.” Khi cả hai bắt đầu băng qua đường, Carr lại lên tiếng,” Đúng là chuyện ngoài ý muốn.”
Họ lội qua lớp tuyết dày trước cửa nhà linh mục đến cửa vòm. Carr nhấn chuông cửa rồi cúi đầu xuống, nhấp nhổm trên chân. Một người đàn ông đi ra. Ông ta nhìn qua cửa sổ trước rồi mở cửa.
“Shelly, có chuyện gì xảy ra vậy?” Bergen đứng giữ cửa mở, tò mò liếc nhìn Lucas, “Họ chết rồi sao?”
“Ừ… Tháo giày ra đi, chúng ta cần nói chuyện một chút,” Carr đáp. “Đây là thanh tra mới của hạt, Lucas Davenport.” Bergen gật đầu, nhìn chằm chằm vào Lucas. Một nếp nhăn xuất hiện trên trán và giữa hai mắt ông. “Rất vui vì được gặp anh.” Vị linh mục xấp xỉ năm mươi tuổi, thân hình vuông vắn, có hơi đậm người. Trông ông ấy có vẻ là người ở vùng Scandinavy với mái tóc vàng hoe cùng một ánh nhìn tỏ rõ sự hoài nghi trên gương mặt xanh xao. Ông mặc một chiếc áo len dài tay của người Iceland, quần đen và chân chỉ đi mỗi tất. Giọng nói của linh mục nhẹ nhàng tròn trịa không giống một nhà thuyết giáo hùng hồn, quyết liệt mà lại dịu dàng như mẹ hiền vậy.
Lucas và Carr để đôi ủng tuyết ở ngoài và đi tất vào nhà. Hai người đi qua một đoạn sảnh ngắn treo một cây thập ác theo kiểu của người Ý tạc hình Chúa Jesus bằng đồng và ra đến phòng khách. Carr cởi bỏ bộ đồ đi tuyết còn Lucas thì cởi chiếc áo parka, đặt nó cạnh một chiếc ghế gỗ rồi ngồi xuống.
“Đã xảy ra chuyện gì vậy?” Bergen cất tiếng hỏi. Ông tựa người vào cái bệ của lò sưởi bằng đá, bên trong có ba khúc gỗ phong đang cháy âm ỉ phía sau tấm cửa kính. Phía sau linh mục là bức tranh Trái tim Đức Mẹ Mary.
“Có một vụ rất kì quái.” Carr thả bộ đồ trên sàn nhà, rồi ngồi
xuống mép một chiếc ghế bị bọc quá nhiều. Ông đặt khuỷu tay lên đầu gối, các ngón tay đan vào nhau, mắt hướng về phía vị linh mục. “Cái gì vậy?” Bergen cau mày.
“Lúc tôi gọi điện, anh đã nói là nhà LaCourt vẫn ổn khi anh rời đi phải không?”
“Đúng vậy. Họ vẫn bình thường mà,” đầu Bergen gật nhẹ. Ông trả lời chắc nịch, trông có vẻ vô tội. “Họ có vẻ không lo lắng gì cả. Họ bị giết hại như thế nào vậy? Không phải là ai đó trong…” Bergen bỏ lửng câu nói rồi lại tự trả lời câu hỏi của chính mình, “Không, không phải họ.” Ông lắc đầu nguây nguẩy.
“Một người lính cứu hỏa đã trông thấy chiếc xe Jeep của anh đi qua trạm,” Carr tiếp tục. “Một vài giây sau đó thì có cuộc gọi báo cháy. Khoảng năm, sáu phút sau lính cứu hỏa đến nơi, lúc ấy cả gia đình LaCourt đã chết được một lúc rồi. Nửa giờ trước đó, có lẽ hơn.”
“Điều đó là không thể,” Bergen đáp lại ngay tức khắc. Ông thẳng người dậy, nhìn Lucas rồi lại nhìn Carr. Mắt ông tối sầm lại, đầy nghi ngờ. “Shelly… anh không nghi ngờ là tôi có dính líu đến vụ này đấy chứ?”
“Không, không, chúng tôi chỉ đang cố làm sáng tỏ mọi việc thôi.” “Vậy họ đang làm gì lúc Cha rời đi?” Lucas hỏi.
Bergen nhìn chằm chằm vào anh, rồi nói, “Anh là anh cảnh sát chuyên điều tra mấy vụ giết người sống ở hạt Sawyer đúng không? Cái người bị đuổi khỏi Minneapolis.”
“Lúc đó họ đang làm gì?” Lucas lặp lại câu hỏi.
“Shelly?” Vị linh mục quay sang nhìn viên cảnh sát trưởng nhưng Carr chỉ biết quay mặt đi.
“Chúng ta cần làm rõ chuyện này, Phil.”
“Anh Davenport đây là một tên lính đánh thuê phỏng?” Bergen tiếp tục hỏi, mắt nhìn thẳng về phía Lucas.
“Chúng ta cần anh ấy, Phil,” giọng Carr nghe gần như là khẩn nài. “Không ai khác có thể làm việc này đâu. Và anh ấy cũng là một con chiên theo Công giáo đấy.”
“Họ đang làm gì lúc đó?” Lucas hỏi lần thứ ba. Giọng anh sắc lại như một lưỡi dao.
Vị linh mục mím chặt môi, cứ định há miệng rồi thôi. Ông suy nghĩ về cả Lucas lẫn câu hỏi của anh rồi thở dài, “Khi tôi rời đi, họ vẫn ổn. Không có bất cứ dấu hiệu khác lạ gì. Sau đó tôi về thẳng nhà, và tôi vẫn ở nhà cho đến khi Shelly gọi điện.”
“Hai người lính cứu hỏa đều nói họ nhớ rất đúng thời gian. Họ rất chắc chắn đấy.”
“Tôi cũng rất chắc chắn,” Bergen bật thốt.
“Cha ở lại ngôi nhà trong bao lâu?”
“Mười lăm phút, đại loại thế,” Bergen quay người đối mặt với Lucas.
“Cha có ăn gì không?”
“Bánh cupcake. Một cốc sữa.”
“Bánh cupcake có nóng không?”
“Không. Lúc chúng tôi nói chuyện thì cô ấy đang phun kem lên bánh.”
“Sau khi rời khỏi, cha có dừng lại chỗ nào trên đường về không? Dừng lại một lát thôi ấy?”
“Không.”
“Vậy là cha đi thẳng ra xe rồi phóng nhanh nhất có thể ra đường cái.”
“Xem nào… tôi có loay hoay trong xe tầm một hoặc hai phút gì đó trước khi rời khỏi.” Ông biết mình sẽ bị nghi ngờ bởi câu trả lời đó. Bergen bắt đầu dông dài, “Nhưng tôi không thấy có chuyện gì kì lạ xảy ra trước khi rời khỏi căn nhà.”
“Ti Vi có đang bật không?” Lucas tiếp tục hỏi.
“Hừm, không, hình như là không.”
“Thế còn đài phát thanh?”
“Không. Lúc ấy chúng tôi đang nói chuyện.”
“Có tờ báo nào trên bàn không?”
“Tôi không thể nhớ nổi.” Bergen bỗng cao giọng, “Mấy câu hỏi này là sao vậy?”
“Cha nhớ xem có vật gì đặc biệt trong căn nhà vào ngày hôm đấy không? Thứ gì đó có thể vẫn còn ở đó, hoặc vẫn còn sau đám cháy ấy. Một quyển sách trên bàn chẳng hạn. Bất cứ thứ gì đó?”
“Xem nào…” Vị linh mục đưa tay lên gãi mũi ra chiều suy nghĩ, “Không, không có gì đặc biệt cả. Tôi sẽ nhớ lại. Chắc hẳn phải có thứ gì đó.”
“Cha có xem giờ lúc về nhà không?”
“Không. Nhưng tôi về nhà chưa được bao lâu thì Shelly gọi tới.” Lucas quay sang Carr, “Shelly, anh có thể gọi điện cho ai đó trực
ở nhà LaCourt rồi bảo họ vào trong nhà bếp kiểm tra xem có bát kem nào không?”
Nói rồi anh lại quay qua Bergen, “Kem để trong bát hay trong hộp?”
“Trong bát.”
Anh lại quay qua Carr, “…kiểm tra xem có bát kem hay khay đựng bánh cupcake nào trong bồn rửa bát hay xung quanh bàn không.”
“Tôi gọi đây.”
“Cô ấy rửa rồi thì sao?” Bergen nhắc nhở.
“Không có nhiều thời gian như vậy đâu.”
“Dùng điện thoại ở trong văn phòng ấy, Shelly,” vị linh mục nói với Carr.
Bergen và Lucas cùng nhìn theo cảnh sát trưởng khi ông đi ra ngoài sảnh. Lucas lại tiếp tục những câu hỏi, “Frank Lacourt có ra ngoài khi Cha rời đi không?”
“Không. Anh ấy chỉ đứng ở cửa vẫy chào tôi thôi. Chính xác là ở bàn ăn trong bếp. Claudia thì tiễn tôi ra tận cửa. Anh học trường dòng của Công giáo sao?”
“Hồi cấp ba,” Lucas đáp gọn.
“Đây là những gì họ đã dạy anh sao? Thẩm vấn linh mục?” “Cha là linh mục chẳng ảnh hưởng gì đến tôi cả. Cha cũng đã nghe tới những vụ lùm xùm trong mấy năm qua rồi đấy. Mấy chuyện như vậy diễn ra suốt bao năm và các vị giấu tiệt chúng đi. Trường tôi có nửa tá đồng tính nam và tất cả mọi người đều biết
điều đó. Họ ảnh hưởng đến rất nhiều đứa trẻ khác.” Bergen nhìn chằm chằm vào anh một lúc, rồi quay người sang bên, lắc đầu.
“Lúc cha ra về, Frank LaCourt có đang mặc đồ để đi ra ngoài, hoặc có vẻ như đang chuẩn bị để đi ra ngoài không?” Lucas vẫn tiếp tục.
“Không,” Bergen bình tĩnh lại, hạ giọng xuống.
“Cha có thấy ai khác ở đó không?”
“Không.”
“Frank có để đôi giày đi tuyết nào trong nhà không?” “Tôi không thấy.”
“Cha có thấy dấu giày tuyết nào ngoài cửa không?” “Không,” Bergen lắc đầu. “Tôi không thấy nhưng lúc đó trời đang có tuyết.”
“Cha có đi qua chiếc xe nào lúc về nhà không?”
“Không. Quãng đường từ trạm cứu hỏa chỗ góc đường đến nhà LaCourt bao xa nhỉ?”
“Tầm hơn một cây,” Lucas đáp.
Bergen lắc đầu, “Tôi lái xe rất cẩn thận. Tôi đã nói rằng tôi mất khoảng một hai phút để ra đến góc đường, nhưng nếu đi mất hai phút thì tôi phải đi với vận tốc gần năm mươi km/h. Tôi không phóng nhanh tới vậy. Tôi đi chậm hơn thế nhiều. Tôi còn kéo theo một chiếc xe trượt nữa.”
“Xe trượt tuyết sao?”
“Ừ. Tôi đi với câu lạc bộ Grant Scramblers, anh có thể hỏi họ.”
Carr quay lại, “Họ đang tìm rồi. Họ sẽ gọi lại.”
Lucas nhìn Carr, “Nếu có ai đó đợi Cha Bergen rời khỏi rồi bằng cách nào đó dụ Frank LaCourt ra ngoài ngay lập tức và giết anh ta, sau đó giết hai người còn lại, phóng hỏa ngôi nhà liền sau đó và thoát ra ngoài, cực kỳ vội vã, và nếu tính thêm thời gian giữa lúc lính cứu hỏa đến hiện trường và lúc tìm ra thi thể thì mọi thứ gần như hoàn toàn hợp lý.”
Carr nhìn Bergen. Vị linh mục dường như đang suy ngẫm những gì Lucas vừa nói. Mới đây thôi ông đã coi Lucas là kẻ thù, nhưng giờ như có vẻ suy nghĩ của Lucas đang đổi hướng.
“Được rồi,” Carr gật đầu nói. Ông nói với Bergen, “Tôi ghét phải chất vấn anh như thế này, Phil, nhưng thực sự đã có chút vấn đề. Chúng tôi cần phải làm rõ chuyện này. Anh đã nói chuyện gì với nhà LaCourt vậy? Không phải là về chuyện thú tội hay gì đó đúng không? Tôi…”
“Chúng tôi đã bàn về buổi lễ sẽ diễn ra vào thứ Ba và việc giao lưu với Hội Thánh Baptist*. Tôi muốn làm rõ một số luật lệ cơ bản.” “Ồ, vậy sao,” Carr trông không thoải mái chút nào. “Chúng ta có thể nói về chuyện này sau vậy.”
“Hai người đang nói về cái gì vậy?” Lucas hỏi.
“Mấy chuyện tôn giáo ấy mà. Các tôn giáo khác nhau vẫn có chút bất đồng.” Carr trả lời.
“Có ai bị sát hại vì lí do đó không?”
Bergen giật nảy người, “Trời, không! Anh có thể không được mời đến buổi lễ chứ không có chuyện anh bị giết đâu.”
Carr nhăn mặt liếc nhìn vị linh mục. Có tiếng điện thoại reo ngoài sảnh. Vị linh mục nhanh nhạy, “Để tôi nghe điện.” Một lúc sau Bergen quay lại với cái tay cầm điện thoại rồi đưa nó cho Carr, “Của anh đấy.”
Carr nhấc máy, “Cảnh sát trưởng nghe đây. Vâng,” ông nghe điện một hồi lâu. “Được rồi, được rồi, lát nữa tôi sẽ gặp anh… Được.” Ông gác máy và quay sang Lucas, “Trong bồn rửa có một cái bát có lẽ đã được dùng để đánh kem. Không có kem trong bát, nhưng nó đúng là loại bát chuyên dụng.”
“Tôi đã nói rồi mà,” Bergen nói.
“Được rồi,” Lucas đáp gọn.
“Nếu xong việc ở đây rồi thì tôi phải quay lại nhà LaCourt đây,” Carr nhặt bộ đồ đi tuyết lên và mặc nó lại. “Xin lỗi vì đã làm phiền anh, Phil, nhưng chúng tôi cần phải hỏi.”
“Mấy chuyện giết chóc này… thật kì quái,” vị linh mục lắc đầu. “Thật kinh tởm. Tôi sẽ nghĩ về tang lễ. Cần phải nói gì đó với thị trấn.”
“Việc đó thì chắc phải một thời gian nữa. Chúng tôi phải gửi thi thể xuống Milwaukee để khám nghiệm tử thi. Tôi sẽ liên lạc với anh sau.”
Khi Lucas và Carr vừa ra ngoài, cảnh sát trưởng cất tiếng hỏi, “Anh có quay lại chỗ gia đình LaCourt không?”
Lucas lắc đầu. “Không. Chẳng có gì để tôi làm ở đấy cả. Tôi nghĩ rằng anh nên phong tỏa căn nhà. Điều một vài người đuổi những kẻ tò mò và mấy con sói đồng cỏ đi, và đợi người từ Madison đến.”