🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Cuộc Phiêu Lưu Kỳ Diệu Của Colombo - Paolo Emilio Taviani full mobi pdf epub azw3 [Lịch Sử] Ebooks Nhóm Zalo Paolo Emilio Taviani CUỘC PHIÊU LƯU KỲ DIỆU CỦA COLOMBO NGUYÊN PHƯƠNG và MINH VĂN dịch NGUYỄN VĂN HOÀN giới thiệu NHÀ XUẤT BẢN VĂN HÓA - THÔNG TIN HÀ NỘI - 1996 Tham gia làm eBook: justbenice, tranminator, Dr. No, amylee Trong ba học giả nổi tiếng thế giới về nghiên cứu sự nghiệp Colombo hiện đang còn sống thì một là người Tây Ban Nha, đất nước đã có vinh dự tài trợ cho kế hoạch thám hiểm, một là người Mỹ, đất nước đã được Colombo phát hiện, một là người Ý, đất nước đã có vinh dự là cái nôi sinh ra nhà thám hiểm. Người Ý đó là Paolo Emilio Taviani, tác giả của tập sách này, một tác phẩm trình bày một sự kiện lịch sử, nhưng vẫn hấp dẫn, lôi cuốn... Paolo Emilio Taviani Thượng Nghị sĩ suốt đời Kính tặng các bạn đọc của dân tộc Việt Nam giàu truyền thống vinh quang, cuốn sách kể lại cuộc phiêu lưu vĩ đại của nhà hàng hải Ý, người đã mở rộng địa bàn của thế giới. PAOLO EMILIO TAVIANI Dịch từ bản tiếng Anh “COLUMBUS, THE GREAT ADVENTURE” New York, Orion Books, 1991 Đối chiếu với nguyên bản tiếng Ý “LA MERAVIGLIOSA AVVENTURA DI CRISTOFORO COLOMBO” Novara, Istituto Geograco de Agostini, 1989. LỜI GIỚI THIỆU Ngày 12 tháng 10 năm 1492, lần đầu tiên đặt chân lên bãi cát trắng mịn của đảo nhỏ Guanahani, nay là đảo San Salvador, thuộc quần đảo Bahamas ở Trung Mỹ, Cristoforo Colombo, nhà hàng hải người Genova ngỡ ngàng trước một thiên nhiên hùng vĩ và một cộng đồng thổ dân khác lạ: Tất cả - đàn bà cũng như đàn ông - đều ở truồng. Thân thể của họ được sơn màu xám, màu trắng, màu đỏ, hoặc các màu khác. Sơn toàn thân, hoặc chỉ sơn mặt, có người sơn cả hai mắt, hoặc chỉ sơn mũi. Colombo đã ghi như vậy trong Nhật ký hành trình của ông, với một thái độ ngạc nhiên. Tiếp đó, đoàn thám hiểm đặt chân lên các đảo khác lân cận, lớn hơn, như: Haiti, Cuba, Jamaica, Puerto Rico... Một thế giới kỳ lạ tiếp tục mở ra trước mắt họ, nhưng họ vẫn không thể nào hiểu ra rằng: đây là một lục địa mới, một lục địa thứ tư, sau ba lục địa cũ - châu Âu, châu Phi và châu Á - mà “Thế giới Cũ” đã biết. Giong thuyền đi thẳng về hướng tây, nơi mặt trời lặn, trong suốt thời gian vượt Đại Tây Dương, đầu óc Colombo chỉ chăm chăm một điều tin tưởng là có thể tới được phương Đông, nơi mặt trời mọc, để tiếp cận với Cataio (Trung Quốc) và Cipango (Nhật Bản). Tình cờ đụng phải các đảo miền biển Trung Mỹ, Colombo đã tưởng ngay rằng ông đã tới gần India (Ấn Độ) và ông đã gọi chung các thổ dân khác nhau của vùng này là Indiani; từ này ngày nay chỉ những thổ dân da đỏ. Và cho đến tận cuối đời Colombo vẫn yên trí như vậy. Điều đó rất dễ hiểu. Với vốn tri thức học được từ các nhà địa lý học, các nhà vũ trụ học, các nhà vẽ bản đồ ở thời đại ông, cộng thêm kinh nghiệm hàng hải, dù là phong phú của bản thân ông, Colombo vẫn không thể nào hình dung được rằng “Biển cả đen tối” từng làm khiếp sợ những nhà hàng hải dũng cảm nhất, còn che dấu một lục địa rộng mênh mông, trải dài từ Bắc cực đến Nam cực. Chỉ nội một điểm ấy, phần quả đất mới được phát hiện cũng đã xứng đáng với cái tên “Thế giới Mới”. Ở phương Đông từ xa xưa đã lưu hành truyền thuyết “Bồng lai tiên cảnh”. Sách Thuật dị ký chép đó là ba hòn đảo, có hình ba chiếc bầu rượu, Bồng lai, Phương trượng, Doanh châu, nơi các tiên ở, trường sinh bất lão. Từ thế kỷ III trước Công nguyên, Từ Phúc, người Trung Quốc, vì muốn trốn tránh hành động tàn bạo “phần thư khanh nho[*]” của Tần Thủy Hoàng đã tình nguyện xin đi tìm thuốc trường sinh. Tần Thủy Hoàng đồng ý, cấp cho thuyền bè cùng mấy nghìn nam nữ đồng trinh. Từ Phúc tếch thẳng sang Nhật Bản sinh sống. Ở châu Âu từ xa xưa cũng lưu hành rộng rãi truyền thuyết về một “Thời đại Hoàng kim” ở thời Thượng cổ. Kinh Thánh nói đến “Vườn Địa đàng”. Nhà triết gia Hy lạp Platon (428-347 trước CN) trong cuốn Fedone nói về sự bất diệt của linh hồn, đã tưởng tượng có một thế giới rộng lớn và hùng mạnh ở bên kia Địa Trung Hải. Nhà thơ Latin Orazio (65-8 trước CN), trong cuốn Epodi, đã khuyên những người yêu nước hãy sớm rời bỏ thành La Mã, nơi dân chúng đang bị điêu đứng vì nội chiến và tranh giành quyền lực, để đi xây dựng một “La Mã mới” tại xứ sở Hoàng kim mà Tạo hóa, từ thuở khai thiên lập địa, đã “dành riêng cho các dân tộc sùng đạo”. Những truyền thuyết, những linh cảm mang tính tiên tri trên đây của các nhà thơ và triết gia, chủ yếu vẫn thuộc lĩnh vực huyền thoại, hư hư thực thực. Mặc dù vậy, dàn đồng ca trong vở kịch Medea của nhà văn Latin Seneca (4 trước CN - 65 sau CN) vẫn trang trọng hát lên lời bố cáo sau đây, như một lời tiên tri sẽ sớm trở thành hiện thực: “Sau đây một ít năm, sẽ đến ngày đại dương mở những hàng rào chắn và người ta sẽ khám phá ra một dải đất mênh mông... và Thule[*] sẽ không còn là ranh giới cuối cùng của đất nổi”. Về sau con trai của Colombo đã hãnh diện ghi vào bên lề cuốn Medea của mình “Điều tiên đoán này đã được chứng minh bởi cha tôi, Đô đốc Cristoforo Colombo, vào năm 1492”. Thế là một “Thế giới Mới” đã được phát hiện! Tùy theo chỗ đứng của mình, các nhà sử học đời sau sẽ gọi sự kiện quan trọng này của lịch sử nhân loại bằng những thuật ngữ khác nhau: một cuộc phát kiến vĩ đại, hoặc một cuộc ăn cướp tàn bạo nhất trong lịch sử, sự khai hóa và xây dựng những quốc gia mới giàu có, hoặc là chiến tranh thực dân, nạn buôn bán nô lệ da đen, nạn diệt chủng thổ dân da đỏ. Họ có tất cả bao nhiêu người vào thời thám hiểm của Colombo? Thật khó mà biết được chính xác, con số ước đoán nhiều khi quá cao, nhưng đến nay, năm thế kỷ sau, bốn mươi triệu người dòng dõi thổ dân da đỏ, đối tượng của sự phân biệt đối xử, phân biệt chủng tộc, vẫn đang phải đấu tranh gian khổ để bảo vệ phần đất của mình, bảo vệ ngôn ngữ và bản sắc văn hóa của chủng tộc mình. Nhấn mạnh mặt phải hay mặt trái của tấm huân chương là quan điểm riêng của từng nhà nghiên cứu, nhưng lịch sử diễn biến không chiều lòng một ai. Tốt hơn là nên tìm hiểu nó, nhận thức được vì sao nó đã diễn ra như thế trong thực tế, với những điều kỳ diệu và cả với những nỗi đắng cay. Ca ngợi hay chỉ trích chỉ có ý nghĩa khi giúp hàn gắn nhanh hơn những vết thương mà lịch sử đã gây ra và đem lại sớm hơn những điều tốt lành cho hiện tại và tương lai. Sau cuộc kỳ ngộ đầu tiên năm 1492, hai nửa trái đất - Thế giới Cũ và Thế giới Mới - đã nhập lại với nhau. Lần đầu tiên con người nhận biết hành tinh của mình một cách hoàn chỉnh. Tiếp sau cuộc gặp gỡ là những luồng di cư thường xuyên, khi ồ ạt, khi lẻ tẻ, là những tiếp xúc và đụng độ, là sự chung sống hội nhập. Thế giới Mới trở thành nơi hội tụ và hỗn phối chủng tộc và văn hóa giữa các thổ dân bản địa với những người nhập cư, mới đến từ bán đảo Iberia, từ châu Âu, châu Phi, cả từ Ả-rập và châu Á. Những con người thuộc những chủng tộc khác nhau, đến từ các chân trời văn hóa khác nhau, sẽ chung sống bên nhau dưới mái nhà mới, cùng chung sức sáng tạo ra một nền văn hóa mới, nền văn hóa chung của châu Mỹ, mang một phong cách thống nhất, nhưng đồng thời vẫn đa dạng một cách khác thường, dựa trên cơ sở ý thức bảo vệ bản sắc văn hóa và ngôn ngữ riêng của chủng tộc mình. Đó là hệ quả có ý nghĩa lịch sử lâu dài của cuộc kỳ ngộ năm 1492. Đó cũng là một thông điệp báo hiệu hình thái tương lai của văn hóa thế giới nếu như các dân tộc bảo đảm được sự chung sống trong Hòa bình và Hữu nghị. Lịch sử trước năm 1492 còn phát triển rời rạc và có tính chất địa phương, khu vực. Sự gặp gỡ giữa hai Thế giới Cũ và Mới - đã tạo ra một quá trình thống nhất, trong đó các dân tộc sống trên hành tinh hiểu biết lẫn nhau ngày một nhiều hơn, liên quan và lệ thuộc vào nhau ngày một nhiều hơn. Sự bùng nổ của khoa học kỹ thuật, đặc biệt là kỹ thuật thông tin và những vấn đề môi trường đang liên kết vận mệnh các dân tộc sống trên hành tinh lại với nhau, vượt lên trên những khác biệt văn hóa và văn minh. Ngày nay thế giới là một, dù chúng ta muốn hay không. Quá trình này đang được thể nghiệm ngày một sâu sắc hơn. Ý nghĩa thời đại của sự gặp gỡ giữa hai thế giới chính là đã mở đầu và báo hiệu sự ra đời của một thời đại mới, thời Hiện đại. Tác giả của cuốn sách mà chúng ta sắp đọc là Paolo Emilio Taviani, một người Ý, quê ở Genova, cùng quê hương với nhà phát kiến vĩ đại Cristoforo Colombo. Ông là một trong ba nhà nghiên cứu nổi tiếng nhất trên thế giới về vấn đề Colombo, hiện đang còn sống. Một nhà nghiên cứu về Colombo đã từng viết: không phải ngẫu nhiên mà trong ba học giả nổi tiếng thế giới trong việc nghiên cứu về sự nghiệp của Colombo thì một là người Tây Ban Nha, quốc gia có vinh dự lịch sử tài trợ cho chương trình thám hiểm của Colombo; một là người Mỹ, xứ sở được Colombo phát hiện và một nữa là người Ý, đất nước có vinh dự là cái nôi sinh ra nhà thám hiểm. Người Tây Ban Nha đó là Salvatore de Madariaga, một nhà văn, một học giả, tác giả một cuốn sách tuyệt vời về Colombo. Người Mỹ đó là Samuel Eliot Morison, một Đô đốc Hải quân, người đã đi thăm tất cả các địa điểm mà Colombo đã đặt chân đến trong quá trình thám hiểm. Và người Ý đó là Paolo Emilio Taviani. Năm 1992 nhân dịp kỷ niệm 500 năm sự kiện phát kiến ra châu Mỹ, bạn đọc nước ta đã được đọc một tác phẩm nhỏ của Taviari: Cristoforo Colombo, thiên tài biển cả do Hội Hữu nghị Việt Nam - Italia và Nhà xuất bản Kim Đồng xuất bản. Cuốn sách mà chúng ta sắp đọc thuộc vào những tác phẩm chủ yếu, quan trọng nhất mà Taviani đã viết về cuộc phát kiến của Colombo. Một sự kiện lịch sử, một sự kiện khoa học nhưng lại được trình bày một cách hấp dẫn, lôi cuốn, mặt khác vẫn dựa một cách nghiêm ngặt trên những tài liệu chính xác, đã được thẩm tra, giám định kỹ càng. Taviani sẽ cho chúng ta biết kế hoạch táo bạo, phi thường đã được nhen nhóm hình thành như thế nào trong đầu óc Colombo, có liên hệ như thế nào với cội nguồn văn hóa của quê hương Genova độc đáo. Colombo đã trải qua những ngày tháng kiên nhẫn chờ đợi, vận động, vừa vất vả vừa may mắn như thế nào ở Triều đình Tây Ban Nha, một đất nước đặc biệt của thế giới, từ cuối thế kỷ XV đến đầu thế kỷ XVI đã mở rộng cánh tay đón nhận nhiều nhân tài ưu tú, lỗi lạc, người ngoại quốc đến cư trú, sinh sống và sáng tạo. Một thái độ cởi mở, linh hoạt, hào hiệp mà ngày nay chúng ta không khỏi kinh ngạc. Chỉ riêng trong kỳ tích chinh phục biển cả, Tây Ban Nha đã dang rộng cánh tay đón nhận ba nhà thám hiểm nổi tiếng nhất trong lịch sử thế giới. Đó là Magellan (1480-1521) người Bồ Đào Nha, năm 1519, đã khám phá ra eo biển sẽ mang tên ông, mở con đường vào biển lớn phía Nam mà người ta đã gọi nhầm tên là Thái Bình Dương. Đó là Amerigo Vespucci (1454-1512) người Ý, gốc Firenze, nhập quốc tịch Castiglia, năm 1499 đã thám hiểm bờ Đại Tây Dương của Colombia và từ năm 1507, tên của ông đã được đặt cho Thế giới Mới: America. Và cuối cùng là Cristoforo Colombo (1451-1506). Quả thực các quốc vương Thiên Chúa giáo Tây Ban Nha đã là những con người có con mắt tinh đời, cởi mở, dám mở rộng tầm nhìn ra toàn thế giới, những con người mang trong mình bản lĩnh phi thường của nước Tây Ban Nha thời Phục hưng. Và sự sáng suốt của họ đã được tuyên dương xứng đáng. Trong giờ phút đầu tiên đặt chân lên đảo Guanahani, hoạt động đầu tiên của Colombo là mở tung hai lá cờ hoàng gia Tây Ban Nha, một mang chữ F (Ferdinando: tên Vua Tây Ban Nha) một mang chữ Y (Ysabel: tên của Hoàng hậu Tây Ban Nha) cắm lên Đất Mới. Taviani sinh năm 1912 ở Genova (Italia). Ông đã tốt nghiệp về Luật học, Văn học và Khoa học Xã hội tại trường Cao đẳng Sư phạm Pisa, nơi có ngọn tháp nghiêng nổi tiếng của Italia. Ngoài ra ông còn tốt nghiệp về khoa Cổ văn tự và ngoại giao. Từ năm 1943 đến năm 1945, ông là một trong những nhà lãnh đạo phong trào du kích kháng chiến chống phát xít ở miền Bắc Italia. Từ năm 1945 đến 1982, trong gần 40 năm, ông là giáo sư môn Lịch sử kinh tế tại trường Đại học của quê hương ông: Trường Đại học Genova. Từ 1946, ông được bầu làm Hạ nghị sĩ và từ 1976 được bầu làm Thượng nghị sĩ suốt đời của Nghị viện Italia. Ông đã nhiều lần tham gia Chính phủ Italia với cương vị Bộ trưởng. Hiện nay ông là Phó Chủ tịch Thượng nghị viện nước Cộng hòa Italia. Taviani là tác giả của nhiều công trình nghiên cứu về các chuyến đi thám hiểm của Colombo. Hai cuốn Xứ Liguria và Cốt cách Genova của Colombo trình bày những đặc điểm lịch sử, địa lý của quê hương Colombo và bản lĩnh, tính cách của nhà phát kiến; Cuốn Chiếc thuyền buồm, cùng thực hiện với Paolo Revelli và Samuel Eliot Morison giới thiệu và phân tích nội dung cuốn Nhật ký hành trình đi biển của Colombo. Năm 1974, ông đã xuất bản công trình lớn, hai tập: Colombo và sự hình thành cuộc phát kiến vĩ đại. Năm 1984 xuất bản công trình lớn thứ hai, hai tập, bổ sung cho công trình trên, nhan đề là Những cuộc du hành của Colombo, một phát kiến vĩ đại. Năm 1989 xuất bản cuốn Cuộc phiêu lưu kỳ diệu của Colombo. Các công trình trên đây là kết quả của 40 năm miệt mài nghiên cứu, kiên trì đi sâu vào một đề tài, do đó đã đạt đến một trình độ khoa học cao. Nhiều công trình của Taviani đã được dịch ra tiếng nước ngoài, chủ yếu là tiếng Anh và bản thân ông đã được nhiều trường Đại học trên thế giới tặng bằng Tiến sĩ danh dự. Chúng ta chân thành cảm ơn Giáo sư Taviani đã trân trọng đề tặng cuốn sách này cho bạn đọc nước ta, đất nước mà ông cảm phục về những kỳ tích mới trong thời Hiện đại. Hà Nội, tháng 10 – 1995 Nguyễn Văn Hoàn (Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia) CRISTOFORO COLOMBO 1451-1506 1 GENOVA, SỰ QUYẾN RŨ CỦA BIỂN CẢ Antonio và Giovanni Colombo, cụ và ông nội của Cristoforo Colombo là những nông dân thuộc Moconesi, nước Italia, một làng ở bên trên Chiavari; nơi đây thóc lúa được la chở đến, từ Piacenza, trong thung lũng Po. Tại Moconesi và những làng lân cận, những cối xay lúa mì chạy bằng nước một con sông khá lớn. Rồi bột được la chở tới Quinto[*], ngày nay là một quận của thành phố Genova, nhưng hồi đó là một làng cạnh bờ biển, cách thành phố năm dặm về phía đông. Có lẽ tổ tiên của Colombo, đã từ Piacenza đến Moconesi, dọc theo con đường mòn được gọi là “Con đường bánh mỳ”, vì con đường này dùng để chuyên chở lúa mì. Theo con đường đó Giovanni đến Quinto, ở đây ông tiếp tục làm nghề nông. Cũng ở đây con trai ông là Domenico ra đời. Domenico học nghề dệt len và sau này chuyển đến Genova. Từ 1439 đến 1447 Domenico làm nghề của ông ở Genova. Tại Genova đang có cuộc đấu tranh gay gắt giữa những người ủng hộ Adorno và những người ủng hộ Fregoso. Sau đây là lời kể lại của sử gia Giustiniani, nổi tiếng ở đương thời. Ngày 4 tháng giêng năm 1447, Barnaba Adorno được bầu làm tổng trấn, và mọi thứ đều đi theo ý muốn của phái Adorno. Nhưng sự thống trị của Barnaba rất ngắn vì ngày 30 tháng Giêng Giano da Campo Regoso làm một cuộc đảo chính; trong bốn năm Fregoso không ngừng quấy rối phái Adorno. Tổng trấn Barnaba Adorno có một số lớn binh lính, trong đó có sáu trăm chiến sĩ được tuyển chọn cẩn thận do Vua Alfonso thuộc Aragon gửi đến cho ông. Giano tới vào ban đêm, trên một chiếc thuyền Galley[*] đơn độc, đi vào thành phố, tấn công chớp nhoáng, chiếm cung điện của quận công bằng tám mươi nhăm người. Ông đã gặp sự chống cự quyết liệt, một trận chiến đẫm máu. Trong trận này, tất cả người của ông đều bị thương. Tuy nhiên khả năng xuất sắc và sức mạnh của ông lớn đến nỗi ông đã thắng và trở thành tổng trấn. Domenico Colombo thuộc trong số nhiều người trong thành phố đứng về phía Fregoso. Như chúng ta nói ngày nay, Domenico là một nhà hoạt động đã được thử thách đến mức chỉ năm ngày sau, Tổng trấn Giano đã cử “Domenico Colombo yêu dấu” của ông làm nhiệm vụ canh tháp Olivella và cổng thành phố. Cương vị tế nhị và có lợi là làm gác cổng thường được thay thế mười tháng một lần. Ngày 5 tháng 11 năm 1448 tháp Olivella không được giao cho Domenico Colombo nữa. Nhưng mùa hè 1450 Pietro Fregoso trở thành tổng trấn, và ngày 1 tháng 10 năm 1450 ông ban cho người ủng hộ trung thành của ông, Domenico Colombo, chức việc gác cổng. Trong lúc đó, Domenico đã kết hôn với Susanna Fontanarossa. Của hồi môn của bà này gồm có một ngôi nhà và đất ở Quezzi. Năm 1451 Cristoforo Colombo ra đời, hoặc tại ngôi nhà trên đường Olivella cạnh cổng, hoặc ở Quinto, nếu mẹ ông đã đến đó để sinh tại nhà bà con bên chồng theo phong tục. Năm 1455 Domenico chuyển đến một ngôi nhà trên đường Diritto, tại giáo khu Thánh Stefano, trong quận Thánh Andrea tại Ponticello. Trải qua năm thế kỷ ngôi nhà đã được sửa chữa và xây lại, nhưng ngôi nhà vẫn ở đúng nơi cũ - cách cổng thành phố Thánh Andrea năm mươi yard[*] cổng này vẫn như hồi đó. Tầng một là cửa hàng len của Domenico, và ở những tầng trên là nhà ở. Ngôi nhà tối và bị kẹp giữa những nhà cao tầng dọc phố hẹp. Đằng sau ngôi nhà, giữa những dãy nhà liên tục nhau và những bức tường thành phố là một khoảng nhỏ để trồng rau, gọi là “vườn”, mặc dù chưa đủ rộng để xứng với tên gọi đó. Đất thuộc gia đình Colombo sau này trở thành một phần tu viện Thánh Andrea cổ, từ hồi đó tu viện này đã được xây dựng lại. Trí tưởng tượng của một cậu bé thông minh chắc đã phải khổ sở trong khoảng không hạn chế của cửa hàng và nơi ở, tại đây mẹ cậu cũng nuôi những đứa em là Bartolomeo và Diego. Chuyện này tạo thành hình ảnh đầu tiên mà chúng ta có được về Colombo, một hình ảnh trong đó cậu học mơ ước viển vông. Trong thời niên thiếu Colombo đã mơ ước những khoảng không rộng mở vô tận từ góc của một căn buồng tối, giống như một người Ý vĩ đại khác, nhà thơ Leopardi[*], đã mơ tưởng những chân trời xa rộng từ góc thửa vườn rào kín của ông. Bên ngoài những bức tường nhà, bên ngoài thửa vườn là thành phố Genova, những người dân ở đó gọi là Zena và vì thế Colombo cũng gọi như vậy. Genova xinh đẹp, được sắp xếp một cách nguy nga, tạo sự kinh ngạc cho những ai trông thấy thành phố đó lần đầu tiên nhìn vào từ ngoài biển. Thành Genova đồ sộ, gây cảm giác kinh sợ với những nhà thờ và ngôi nhà, những cung điện hình thành như những bậc thang khổng lồ, đỉnh cao là pháo đài Castelletto, một cảnh lộng lẫy đối với thời đó cũng như hiện nay. Genova ma thuật, làm say mê và quyến rũ mà không cho nhiều, không phải vì thành phố đó keo kiệt mà vì bị kẹt giữa những ngọn núi và không có đất, chỉ được ban phát những bụi cây xấu xí sản lượng thấp, bị gió biển hủy hoại. Genova không thể cho những đứa con bất cứ cái gì, mà chỉ ném họ vào biển cả, đó là tất cả đối với thành phố, và từ đó, thành phố nhận mọi thứ và chỉ cho lại tinh thần phục vụ, tính nhẫn nại, sự tận tình và tháo vát riêng của những người con Genova. Genova thần tiên, với những người phụ nữ ý tứ nhưng biết phân biệt và biết yêu. Biển cả gần như không có bãi, mạnh mẽ rút về những chiều sâu thần bí, những bầu trời rạng rỡ và trong sáng khi gió bấc thổi, với những nhà thờ và thánh đường nhỏ bé trên đỉnh núi. Ngày nay Genova vẫn còn tất cả như thế, mặc dù những nhà máy và một số công trình kiến trúc quái dị làm cho xấu đi. Thành phố đại thể vẫn còn như trước đây vì những ngọn núi bảo vệ nó khỏi những thay đổi lớn và biển cả thì không thay đổi. Từ ngoài biển Genova trông nguy nga với những lâu đài đồ sộ, những nhà thờ, những con đường và những quảng trường thoáng đãng - nhưng thật là một hệ thống rối mù những ngõ hẹp và những phố nhỏ được bảo quản tồi tệ và bị cản trở bởi những vòm, những cầu, những cầu thang, nhà ngân hàng, thậm chí những trụ ốp bằng gỗ tới tầng ba bên ngoài những tòa nhà, giống như những quán trọ thời La Mã tiền Augusto. Tính chất của những người dân Genova cũng tự mâu thuẫn qua nhiều thế kỷ: ngạo mạn và kiêu hãnh về những kho tàng của họ, những bức tường, những tháp, những cổng, những cung điện, những nhà thờ và bến cảng; nhỏ nhen và có tinh thần ti tiện về những vấn đề hàng ngày, giống như những ngõ tối tăm, dốc thẳng đứng và quanh co của họ. Đó là Genova, tại đó Colombo đã được sinh ra và được nuôi dưỡng. Trong những phố nhỏ hẹp của Genova, Colombo đã đi những bước đầu tiên với bố mẹ ông; trong những phố này ông đã trải qua tuổi thơ ấu đầu tiên. Từ đường Diritto - ngay giữa cổng Thánh Andrea và đồi Molcento - cậu bé Colombo thường đi bộ đến nhà thờ giáo khu Thánh Stefano, đến Cung Điện Quận công, nơi những thủ lĩnh thuộc các gia đình Fregoso, Adorno, Spinola và Fieschi tới, ngồi trên lưng ngựa; và đến Via Regia để xem những chiếc kiệu có những bà quý tộc xinh đẹp ngồi trên. Rõ ràng Colombo không thỏa mãn với những chuyện này, hoặc đặc biệt thích thú về những chuyện đó, Colombo học trường sơ cấp của Phường Buôn Len, được dạy về tôn giáo, toán học, địa lý và những nguyên tắc cơ bản đầu tiên về đi biển, bằng tiếng địa phương Genova. Tiếng Latin mà ông viết rất khác tiếng Latin của Cesare và Cicerone; tiếng Latin đó có đặc trưng thời Trung cổ, ngôn ngữ chính thống của Nhà Thờ và những văn bản pháp lý của nước Cộng Hòa Genova. Ở tuổi trẻ còn non nớt, như sau này ông thường viết, Colombo bắt đầu bơi thuyền, nhưng có lẽ, thật ra là chắc chắn, ông đã gặp biển cả sớm hơn. Ở đâu? Trên bến cảng và trên bãi biển. Ở bến cảng không khó để một cậu con trai lẩn đi, không ai để ý và không ai biết, trong đám đông nhiều màu sắc. Có nhiều tàu, nhiều thủy thủ nói nhiều thứ tiếng khác nhau, đến từ mọi nước. Họ đến từ tất cả các miền của Địa Trung Hải, từ đông sang tây, cũng như từ Bồ Đào Nha, Flandres và nước Anh. Nhiều cánh buồm biết bao! Biết bao thân tàu cuộn trôi dập dềnh đi lại! Và khắp nơi, mùi biển sực nức, một mùi kích động, và lôi cuốn. Điều này cho ta một hình ảnh thứ hai về Colombo, một cậu con trai bảy tuổi đi lang thang khắp kho cảng; dừng lại nhiều giờ để ngắm nhìn những hoạt động của tàu biển, việc xử lý những cánh buồm, bánh lái và mỏ neo - đó là chỉ nêu một ít yếu tố có liên quan đến việc rời cảng, hoặc đưa tàu vào vùng kho dọc theo cảng. Chắc chắn Colombo mơ tưởng một ngày nào đó sẽ ở trên những boong tàu ấy và ra khơi, tại nơi này mùi muối không bị pha loãng; rồi đi tới những hải cảng khác, những thành phố khác, hàng trăm thành phố, nơi mà rất nhiều dân tộc kỳ lạ đã tới. Có lẽ Colombo không đi xuống biển tại Albaro, hay thậm chí ở cửa sông Bisagno, gần hơn. Có thể không xảy ra vì làm như vậy trong thời Colombo sẽ cần phải rời khỏi thành phố và vượt qua nhiều dặm đường trong một vùng đồng quê quang đãng. Rời khỏi thành phố trong thời ấy là một vấn đề.... đối với người lớn còn như vậy, ta có thể tưởng tượng đối với một cậu bé thì sẽ khó khăn hơn biết chừng nào. Hầu hết những phụ nữ và không ít nam giới thành Genova đã sinh ra, sống và chết trong phạm vi những bức tường thành phố. Tình hình là như vậy ở Genova và nhiều thành phố khác ở Italia, ở Provence, Pháp và Flandres. Chắc chắn đó không phải là trường hợp của Domenico Colombo, một người thợ thủ công và nhà buôn, cũng như nhà hoạt động chính trị và cũng không phải là trường hợp của Susanna Fontanarossa Colombo, sinh tại Quezzi. Tuy nhiên nếu Colombo đi ra ngoài những bức tường thành, ông ta phải đi cùng bố, hoặc mẹ, hoặc cả hai. Họ đã đi đâu? Tới Quinto. Tại Quinto có nhà của ông nội Colombo, một ngôi nhà điển hình của những người nông dân Liguria: bốn bức tường trơ trụi với một buồng ngay dưới nóc nhà, xây bằng những tấm ván nhỏ và một cầu thang bằng gỗ hẹp để rời căn buồng đó. Trên tầng hai là ô khung cửa, lò sưởi. Và một đôi khi còn một con bò cái, một con bê, con lừa, một số dụng cụ và những đồ tiếp tế cho một khẩu phần đơn sơ và khắc khổ. Ở đây người mẹ vừa nuôi nấng con cái, vừa quay sợi, hoặc dệt, những khi bà không phải giúp chồng công việc đồng áng. Những đứa con lớn vây quanh bà, làm việc với bà hoặc trông xoong trên bếp lửa, đầy rau do nhà trồng, thêm gia vị bằng dầu và muối. Trên gác bố mẹ, hai con gái cùng ngủ, ngăn cách bằng những vách sậy. Chắc chắn Colombo lưu lại ở ngôi nhà tại Quinto khi ông còn rất trẻ và, khi ông lớn hơn, trong những ngày hè, hoặc vụ thu hoạch nho của gia đình trong mùa thu. Từ ngôi nhà này đi xuống biển không khó, hoặc qua những cánh đồng cỏ, hoặc qua ít vùng có đá. Ngày nay toàn bộ vùng này đầy những lâu đài, với những con đường lớn rải nhựa, nhưng biển cả vẫn vỗ vào những núi đá màu xám thẫm, như bao giờ vẫn thế. Ta có thể ngồi trên những tảng đá này và suy nghĩ, bỏ qua sự rối loạn về kiến trúc và những tiếng ồn của thành phố, sống lại những cảm giác mà Colombo phải có khi còn nhỏ, cảm thụ chân trời vô tận của một biển cả ít khi yên lặng, màu sắc thay đổi, lúc thì có những vệt xanh sáng, lúc thì màu xanh đậm nước biển, một đôi khi màu tím, hay gần như đen. Những cảm giác không phải luôn luôn thú vị, ngay cả khi bầu trời yên lặng và nước yên tĩnh. Môi trường xung quanh gây ra những cảm giác mạnh, tốt cho việc tôi luyện tính tình, buộc người ta suy nghĩ một cách sâu sắc, vượt qua sự hời hợt và nhẹ dạ. Chính trên những tảng đá này, bên ngoài cảng Genova, Colombo lần đầu tiên có kinh nghiệm về biển cả. Đây là hình ảnh thứ ba của Colombo: Ông đã học bơi ở biển, một biển cả nguy hiểm cho người không biết bơi, vì rất ít bãi biển an toàn. Ông đã có biển và yêu biển, trố mắt nhìn biển một cách trìu mến, từ một tảng đá. Ông không còn chỉ đơn thuần mơ tưởng chân trời; chân trời ngay trước mặt ông; ông đang nhìn về chân trời, mơ ước một ngày nào đó sẽ đi tới chân trời. 2 CỘI NGUỒN VĂN HÓA CỦA COLOMBO Việc Colombo sinh tại Genova không phải là một thực tế không liên quan gì đến thành tựu của ông như ý kiến của một số người. Như chúng ta sẽ thấy, không có nghi ngờ gì là kế hoạch lớn của ông đến phương Đông bằng cách đi tàu biển về hướng Tây đã phát sinh trên Đại Tây Dương, không phải ở Genova hay Liguria. Nhưng thiên tài đã sinh ra ở đâu để nghĩ ra và thực hiện kế hoạch lớn ấy? Nhân vật gần như siêu nhiên ấy, với tính bền bỉ lớn đến mức ám ảnh và tính kiên gan bướng bỉnh, sự kiên định không thể lay chuyển nổi ấy đã hình thành ở đâu? Những nguồn gốc của đặc tính đó ở đâu? Lòng tin của Colombo - không phải là sự mê tín, mà phần tinh túy của nó là luôn luôn quan tâm tới sự thần bí của Đấng Tối Thượng, của Kinh Thánh, một lòng tin dành cho những sự sùng bái cao quý nhất, sự sùng bái quan hệ đến nhu cầu của tinh thần con người, là sùng bái Đức Mẹ Đồng Trinh và Thánh Francesco. Lòng tin ấy đã bắt đầu nảy nở như thế nào? Khi còn là đứa trẻ, Colombo đã tiếp thu lòng tin đó ở đâu? Genova và Liguria là quan trọng trong những lĩnh vực này. Samuel Eliot Morison, đô đốc hải quân Mỹ và là một trong những học giả lớn nhất về Colombo, viết: “Chắc chắn Genova là một nơi cho bất cứ chàng trai tích cực nào có lòng mong muốn mạnh mẽ về phiêu lưu trên biển cả”. Người Anh Ernle Bradford một thủy thủ lão luyện nói thêm: “Một trong những thủy thủ vĩ đại nhất của thế giới đến từ Genova thì đó là một sự kiện hết sức tự nhiên”. Genova và Liguria là loại nơi chốn như thế nào? Đó là một dải đất hẹp nằm giữa núi và biển, một bờ biển liên tiếp những núi đá, những vịnh, những đảo con, những vịnh nhỏ, những chỗ tàu biển bốc dỡ hàng, những cảng lớn cảng nhỏ, những bãi biển ngắn bao phủ bởi núi đá, hoặc cát vàng bị ngắt ra bởi những mũi đất nhô ra biển, một số đầy đá, một số có những cây thông tuyệt đẹp phủ kín. Sự độc đáo của Liguria bắt nguồn từ biển Liguria. Trong nhiều thiên niên kỷ, nền thương mại của Liguria chỉ bằng đường biển: từ Lerici ở miền Đông đến Nice ở miền tây, có một dòng liên tục người và hàng hóa đến bằng đường biển. Tất cả, hoặc gần như tất cả thương mại của Liguria đến bằng đường biển. Những mối quan hệ kinh tế, văn hóa và tình cảm giữa những gia đình thuộc các dân tộc khác nhau, những cuộc hôn nhân đã được thực hiện bằng đường biển và trong nhiều thế kỷ, những cuộc hôn nhân đó đã ràng buộc nhân dân Liguria với nhau, việc ngăn ngừa những cuộc hôn nhân gần gũi về huyết thống đã không thể tránh được tại những làng xa xôi hẻo lánh bên trong. Những mối quan hệ mạnh mẽ về kinh tế lẫn chính trị trong những mối liên hệ yếu ớt của nước Cộng hòa Genova được cấu trúc lỏng lẻo, đã phát triển bằng đường biển. Những quan hệ tôn giáo dọc theo miền Liguria hình lưỡi liềm, với Genova, nơi có trụ sở của Tòa Tổng giám mục, cũng đã hình thành bằng đường biển. Quả thật tác động của biển đối với dân Liguria đã được kể lại trong lịch sử của mọi thế kỷ, trong biên niên sử của mọi năm và mọi mùa. Nói chung người ta cho rằng nhân cách Liguria chịu ảnh hưởng của sự hiếm đất và buộc phải dựa vào biển cả. Những người Liguria liên hệ việc hiếm đất đai này với tính khí hướng về nội tâm và sự tằn tiện đã thành ca dao của họ - thực sự đó chỉ là một sự đạm bạc thật thà. Ảnh hưởng của vùng biển không có bãi và những chỗ nước nông, nhưng lại luôn luôn mở ra một chân trời rộng lớn, đã giúp hun đúc nên trí thông minh phân tích, tính nghiêm túc và sự tận tình về đạo đức. Một ảnh hưởng lan tỏa về lịch sử và xã hội như thế được thấy rõ một cách kỳ diệu trong kinh tế, tài chính và thương mại; trong những lĩnh vực này hai đặc tính Genova thật hiển nhiên: trung thực, bao hàm sự tin cậy, và nghi ngờ, ngăn chặn sự lừa dối. Cũng có tính bền bỉ, con đẻ của tính điều độ, cũng không thể thiếu được như trí thông minh; ý thức tôn giáo sâu sắc của những người Liguria liên hệ cuộc sống với Chúa Trời, trong khi ý thức về tận tình đạo đức của họ bảo đảm sự thẳng thắn không bị đạo đức giả hoặc thỏa hiệp làm nhơ. Kết quả trong những quan hệ xã hội và chính trị thì lại khác. Việc người Genova thiếu lòng tin, và có sự dè dặt, thậm chí đố kỵ, đối với chính trị xuất phát từ khả năng lớn lao của họ về đi biển và từ sự bất lực của họ theo đuổi nông nghiệp. Ở biển cả - từ những ngày đi thuyền buồm cho đến những ngày chạy tàu hơi nước, cho tới đầu thế kỷ này - thông qua sự dũng cảm của mình, một người chỉ huy giành được sự đánh giá cao, tôn trọng và dốc lòng phục vụ của những người dưới quyền mình. Người chỉ huy đó chọn hướng đi, tránh hàng nghìn trắc trở của thời tiết, sương mù, dòng nước và những bãi cạn, thoát khỏi những cơn bão, đi vào những con kênh không bị tổn thương, chạy dọc theo những kho bãi. Tất cả những điều này là khó, như bất cứ ai đã đi biển bằng thuyền buồm đều biết, vì phải luôn luôn chờ đợi sự hỏng tàu mỗi ngày, mỗi đêm, trong thực tế là mỗi giờ. Có sao đâu nếu người thuyền trưởng khắt khe, cứng cỏi, lạnh lùng, nếu người đó hay chê trách và không bao giờ hài lòng, không bao giờ ban cho bạn một lời khen? Bằng cách đưa tàu vào bến an toàn, ông ta bảo đảm cuộc sống của bạn. Một người thuyền trưởng trên biển không cần đến những thủ thuật của một nhà chính trị. Sự tóm lược này về tính cách, thái độ, khuyết điểm và sự xuất sắc của những người Liguria là áp dụng được cho người con vĩ đại nhất của họ, Cristoforo Colombo. Colombo sinh ra và sống thời thanh niên của ông vào nửa sau thế kỷ XV, khi Genova trở thành như Fernand Braudel nói “trung tâm của chủ nghĩa tư bản châu Âu”. Trong nhiều thế kỷ Genova đã là một trong những thủ đô hải quân của Địa Trung Hải. Từ Genova những đội quân và những hạm đội đã ra đi trong những cuộc Thập tự chinh đầu tiên. May mắn có được một hải cảng thiên nhiên hoàn hảo và ở vào một vị trí ở đầu của một vịnh sâu gần trung tâm Địa Trung Hải, Genova đã đoạt được sự kiểm soát biển Tirreno từ những người Saracen, Pisa, Provence và Catalogna. Tự do đi lại và kiểm soát những con đường hàng hải tới biển Liguria là tối quan trọng đối với người và tàu biển để khảo sát Địa Trung Hải, tìm những nơi đổ bộ và những hải cảng phát triển nhất, và người Genova dùng những nơi và những hải cảng đó để thâm nhập vào đất liền, tìm hàng hóa và thị trường. Một nhà sử học đặc biệt giỏi tổng hợp, Giovanna Petti Balbi, nói với chúng ta rằng từ đầu thiên niên kỷ thứ II người Genova đã ở Sardegna và Corsica, rồi ở dọc bờ biển Tunisia và Tây Ban Nha, rồi miền tây Địa Trung Hải, trước khi kiểm soát miền đông, từ đây họ đã đến với cuộc Thập tự chinh thứ nhất. Họ đã tạo ra một đế quốc thực dân thực sự, về kinh tế hơn là về chính trị, vì những nhân vật như Zaccaria, Vignoso, Ghisol, Adorno, Lomellini và Centurione - đã kiểm soát việc triển khai vốn, tàu biển, người và những kinh doanh thương mại ở vùng này, hoặc vùng khác của Địa Trung Hải, nhiều khi làm trái với những chính sách và liên minh chính trị của quê hương họ. Những cộng đồng người Genova được thiết lập tại Tây Ban Nha, trên những đảo, tại Bắc Phi, trong biển Egeo, trong Hắc Hải, tạo ra một mạng lưới lớn bao gồm cả Đại Tây Dương (Bồ Đào Nha, Anh và Flandre) lẫn phương Đông (Ba Tư, Ấn Độ, và Trung Quốc). Trong thế kỷ thứ XV, Genova đã được hưởng một chế độ kinh tế có thể gọi là mang tính chất thương mại. Genova đã vượt qua thời Trung cổ phong kiến, thời này không phải là thời tự do buôn bán, trừ buôn bán rải rác, lúc có, lúc không, và bí mật. Chính trong thế giới mang tính chất thương mại này, người thanh niên Colombo đã lớn lên: Bảy mươi bảy tài liệu đã được công chứng, trong đó cha ông là nhân vật trung tâm, hay được nói đến, là một chứng cớ rõ ràng. Mua và bán, lợi tức - những tỷ lệ phần trăm, những cổ phần và những lợi nhuận - đây là những thuật ngữ mà trong thời Trung Cổ người ta chưa hề biết. Thừa kế được nền văn hóa, kinh tế này, Colombo đã rời Genova, vượt hải phận nước Anh nhiều lần, buôn bán tại những đảo thuộc Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha, ở Đại Tây Dương và châu Phi và sống tại Bồ Đào Nha, nơi đây ông đã thương lượng với nhà vua trước khi đến Seviglia và Cordova. Tại Tây Ban Nha ông thấy khu định cư người Genova rõ rệt nhất với những gia đình Adorno, Doria, Centurione, Grimaldi, Pinelli, Spinola, de Maria và di Negro, những họ tên ưu việt nhất thuộc giai cấp thương nhân giàu có của một Genova trù phú. Và tại Andalusia này, trong thế giới những người Genova hoạt động ngân hàng, thương nhân, người buôn bán đồ phụ tùng tàu biển, Colombo đã phát triển sự nghiệp vĩ đại của ông. Nguồn gốc văn hóa Genova của Colombo, hiển nhiên một cách rõ rệt và không thể nghi ngờ được trong thương mại và kinh tế, cũng hiển nhiên trong một lĩnh vực khác có liên quan: địa lý. Genova trong thế kỷ thứ XV đã là một trong những thủ đô của ngành vẽ bản đồ đi biển, có lẽ thủ đô quan trọng nhất, cạnh tranh với Venezia, Majorca, và những trường phái Ả-rập. Là một cậu bé tại nhà trường thuộc phường các nhà buôn len, Colombo đã học được những yếu tố đầu tiên về địa lý và đi biển tại trung tâm của thế giới Công Giáo với sự hiểu biết sâu sắc nhất về những môn học đó. Kết luận: Genova không những là sinh quán của Nhà Phát hiện ra lục địa châu Mỹ, mà Genova còn có nhiều tài liệu lưu trữ về ông và là quê hương văn hóa của ông. Tại Genova Colombo đã thừa kế tính chất cơ bản và lòng tin của ông, tích luỹ kiến thức của ông về biển cả, cũng như tính tò mò khoa học và sáng kiến kinh tế của ông. 3 CHIO[*], SỰ QUYẾN RŨ CỦA PHƯƠNG ÐÔNG Năm 1459, khi Colombo tám hay chín tuổi, của cải của phái Fregoso đã bắt đầu suy sụp. Pietro Fregoso chết một cách bi thảm sau một cuộc xung đột nhỏ đầy bi kịch gần cổng thành phố của Thánh Andrea. Một người khác thuộc phái Fregoso, Tổng Giám mục Phaolô, lãnh đạo phái ông trong cuộc nội chiến tiếp theo và đã giành được chức tổng trấn, nhưng năm 1464 bị lật đổ và phải trốn sang Corsica. Genova chuyển sang sự kiểm soát của phái Sforza, những quận công Milano. Từ 1466 đến 1470, vì của cải lớn hơn của phái Fregoso đã được định đoạt, của cải nhỏ của Colombo cũng được định đoạt, dẫn đến việc ông quyết định chuyển đến Savona. Với việc phái của ông bị thất thế, hy vọng của ông về việc nhận được sự bảo trợ cũng hết và ông đã quyết định phải thay đổi nơi chốn mới có lợi hơn. Savona là một thành phố vẽ tranh của Genova và có nhiều cơ hội hoạt động thương mại hơn là những nhà sử học thường thừa nhận. Tuy nhiên, Savona bị Genova lợi dụng và khinh miệt, người ủng hộ các phái khác nhau và quân đội của một số nhà vua Angio, Pháp, Milano và Aragon - dùng Savona làm căn cứ tiền tiêu để tấn công Genova, hoặc làm nơi lánh nạn sau một cuộc tấn công thất bại, hay sau khi bị đuổi ra khỏi thành phố. Trong thời Colombo số phận của Savona vẫn còn bị cột chặt vào số phận của Genova như trong nhiều thế kỷ trước. Tại Savona, Domenico theo đuổi nghề buôn len của ông, nhưng ông cũng điều hành một quán trọ. Còn Colombo thì sao? Lúc này mười lăm tuổi, cậu đã bắt đầu đi thuyền trong hải phận của Liguria, Provence và Corsica. Giữa những cuộc đi biển, Colombo ở lại trên bờ, làm việc trong cửa hàng của cha tại Savona trên phố San Giuliano, ngày nay là phố Dei Cassari. Giả thiết nếu ông đi biển liên tục, cuộc sống của một thủy thủ có thể đã không cho ông có thời gian mơ tưởng về những chân trời mới rộng hơn. Thay vào đó, trong những tháng ở trên bờ, niềm vui lớn lao mà ông đã trải qua trên biển cả đã thấm sâu vào tham vọng của ông, làm cho ông nhìn xa về tương lai, để cho ông mong mỏi ngày ông có thể lại chăm chú nhìn vào cõi vô tận. Số phận đi biển của con người sẽ trở thành nhà phát hiện nổi tiếng nhất của tất cả các thời đại, như vậy là đã được hình thành lần đầu tiên ở Savona. Chúng ta không biết do sự tình cờ, hay do ý của Colombo muốn làm vinh dự cho Savona đã dẫn đến việc lấy tên thành phố này làm tên duy nhất của Liguria có trong vùng biển Caribe: ông đặt tên Savona cho một đảo nhỏ xinh đẹp ở tây nam Hispaniola, tên này đến nay vẫn còn. Chuyến đi biển dài đầu tiên của Colombo chuyến đi quyết định cho tương lai của ông là tới đảo Chio, trong biển Egeo; từ Savona ông ra đi đến Chio ngày 25 tháng 5 năm 1474. Từ thời Trung cổ cho đến thế kỷ XIX, người ta biết đảo này với cái tên do những người định cư Ionici cổ đại đặt cho nó: Chio. Đảo rộng 355 dặm vuông, hoặc gấp bốn lần đảo Elba, bằng một phần tư đảo Majorca. Ngày nay đảo này có năm vạn dân, nhưng thời trước đã có lần đông dân cư hơn. Chio là một bộ phận của quần đảo Sporadi, một dãy đảo dọc theo cạnh phía tây của Tiểu Á. Một eo biển hợp tách Chio khỏi bán đảo hình thành Vịnh Smirne. Tự hào về quá khứ vinh quang Chio tuyên bố là sinh quán của Omero[*]; trong thời Colombo, Chio là một trong những cột trụ kháng cự của những tàn quân thế giới La Mã - Byzantine chống lại cuộc tiến quân quyết liệt của những người Thổ Nhĩ Kỳ. Genova và Venezia tranh giành hòn đảo này trong thời Trung cổ cho đến đầu thế kỷ thứ XIV, người Genova đã chiếm đảo này gần như liên tục, trước hết bởi gia đình Zaccaria (1304 - 1329) và rồi bởi Moana (1346 - 1566), một hội những người buôn bán đồ phụ tùng tàu biển mà những thành viên sau này mang họ Giustiniani. Trên đảo Chio, Colombo đem lòng yêu Phương Đông. Đảo Chio là cửa ngõ đi vào Phương Đông, một thị trường giàu có, buôn bán nhộn nhịp. Hải cảng, khu buôn bán và những cửa hàng tấp nập những nhà buôn từ Phương Đông tới, với những bộ y phục nước ngoài, nhiều màu sắc, hòa trộn với những nhà buôn từ phương Tây, chuẩn bị ra đi tới những miền thần bí có lụa, có ngọc trai và đá quý. Chio đã và hiện là hòn đảo rất đẹp. Những ngọn núi trơ trụi nhưng nguy nga và hùng vĩ, vì chúng cao và sát biển, như những ngọn núi Alpes thuộc dãy Rivier ở Liguria. Những sườn núi thấp hơn, những quả đồi và cánh đồng cỏ bao phủ bởi cây cỏ xanh tốt, cung cấp cho ta những viễn cảnh hoàn toàn khác những viễn cảnh của Liguria. Cây xô thơm, cỏ xạ hương và kinh giới tỏa đầy không khí mùi thơm sục nức, và bao trùm lên những mùi đó là mùi thơm cây nhũ hương. Dân đảo Chio gọi là Mirovolos, có nghĩa là “Một nghìn mùi thơm”. Mùi tinh dầu nhũ hương, lấy từ cây nhũ hương, thấm vào mọi vật và không thể nhầm lẫn. Cây nhũ hương mà Colombo nói đến nhiều lần, khi ông nghĩ rằng ông đã tìm thấy cây đó tại Cuba, mọc khắp mọi nơi ở Địa Trung Hải, nhưng chỉ ở miền nam đảo Chio mới sản sinh ra tinh dầu nhũ hương quý và thơm. Là một loại nhựa, tinh dầu nhũ hương vẫn là chỗ dựa cho nền kinh tế của đảo Chio. Trong thời Trung cổ người Venezia, rồi người Genova kiên quyết bảo vệ việc sản xuất tinh dầu nhũ hương không để cho người khác sản xuất. Vua Hồi giáo Thổ Nhĩ Kỳ sử dụng nhiều tinh dầu nhũ hương thỏa mãn thói kiêu căng của những phụ nữ mà ông ưa thích. Tinh dầu nhũ hương vẫn còn được dùng ở Trung Đông để làm nước hoa, đồ uống, kẹo, chất hàn răng và làm dễ dàng việc tiêu hóa. Việc sản xuất tinh dầu nhũ hương và của cải do việc sản xuất đó sinh ra - năm mươi nghìn duca hàng năm - đã kích thích những ý nghĩ của Colombo. Xét sự thay đổi lớn trong tỷ lệ trao đổi tiền từ hồi đó, con số đó xấp xỉ tương đương 7 triệu đô la ngày nay. Nhưng trước hết là những mùi thơm của đảo Chio đã kích thích Colombo. Khứu giác đặc biệt của ông đáng chú ý. Mọi người thừa nhận cảm quan của ông về biển, gần như giác quan thứ sáu. Có sự đồng ý chung là một điều kiện, chưa phải là đủ nhưng cần có để hiểu biển là khứu giác tốt, nó cho phép chúng ta cảm thụ được hoạt động của gió và những dòng nước. Mùi thơm của tinh dầu nhũ hương đề cao bản năng, thúc đẩy tưởng tượng và gây ra những giấc mơ. Những phụ nữ cấm cung Hồi giáo rất thích mùi thơm đó, mùi thơm nhũ hương rất gần với mùi trầm, mùi thơm đó kích thích những cảm giác thần bí và chuẩn bị cho người ta đi vào sự ngưỡng mộ tôn giáo. Những mùi thơm của đảo Chio đã bỏ bùa chàng thanh niên Cristoforo. Ông say sưa vì cảm giác này, một phần của ma thuật phương Đông, và sẽ say sưa như vậy trong phần còn lại của cuộc đời ông. 4 BỒ ÐÀO NHA Ngoài chuyến đi tới đảo Chio, Colombo đã thực hiện nhiều chuyến đi khác trong Địa Trung Hải. Qua những bản viết của ông, chúng ta biết ông đã biết tất cả bờ biển phía tây Genova tới tận Catalogna. Ông cũng đã biết Corsica, Sardegna, Napoli và Sicilia và bờ biển Barberia. Ông không bao giờ nói về Roma, và do đó chúng ta tin rằng ông không bao giờ có dịp lên bờ tại Civitavecchia, hoặc trên bờ sông Tevere. Cuốn Lịch sử mà người ta cho là do con trai ông, don Fernando, viết, nói về một cuộc tấn công do Renato d’Angio ra lệnh chống một chiếc tàu trong vịnh Tunisie, nhưng một số người bảo lưu sự kiện này. Mặc dù có thể có sự nói quá hay huênh hoang đã xuyên tạc sự kiện, nhưng không có lý do để sự kiện đó không thể xảy ra. Từ 1470 đến 1480, Genova thường xuyên có chiến tranh với Aragon và liên minh với Angio. Bằng cách phục vụ Angio, Colombo đi theo chính sách của thành phố Angio và phái của cha ông này. Mùa hè năm 1476, Colombo rời Địa Trung Hải lần đầu tiên, đi vào Đại Tây Dương. Một cuộc khảo sát thương mại đến nước Anh đã được tổ chức tại Genova vào mùa xuân; có một đoàn tàu nhỏ, gồm một tàu galley thuộc Gioredo Spinola một tàu săn cá voi thuộc Nicolo Spinola, một tàu galley thuộc Teramo Squarciaco và tàu galley Bettinella do Gian Antonio di Negro chỉ huy. Cũng có một chiếc tàu nguồn gốc Flandres, gọi là chiếc Bechalla, được trang bị tại vịnh Noli, thuyền viên chủ yếu là những thủy thủ Savona, do Cristoforo Salvago chỉ huy. Ta có thể tưởng tượng sự xúc động của Colombo khi tàu qua eo Gibraltar trong chuyến đi đầu tiên của ông vào Đại Tây Dương. Biển khơi nằm ở bên kia, không phải là một trong những đại dương mà chỉ là Đại Dương - vì ba đại dương kia, Thái Bình Dương, Ấn Độ Dương và Bắc Băng Dương, chưa được biết đến - Đại Dương mà Colombo một ngày kia trở thành Đô Đốc. Những chiếc tàu đi theo hướng tây bắc đến mũi St. Vincent, mũi cực nam của Bồ Đào Nha. Đó là ngày 13 tháng 8 năm 1476. Giữa mũi Santa Maria và mũi St. Vincent bất ngờ đoàn tàu bị một đội tàu của hải tặc Pháp tấn công. Genova vẫn hòa bình với Bồ Đào Nha và Pháp, nhưng hoặc vì họ hiểu nhầm ý định của đoàn tàu Genova, hay đơn thuần bị lôi cuốn bởi một phần thưởng có giá trị, nên người Pháp đã khai chiến. Những người Genova đã chống cự một cách kiên quyết. Khi màn đêm buông xuống, trận chiến đã kết thúc một cách thê thảm cho cả đôi bên. Trong số năm tàu của Genova chỉ có hai chiếc trốn được đến Candice ở Castiglia; ba chiếc kia bị cháy và chìm và nhiều người trong đoàn thủy thủ bị chết đuối. Bốn chiếc tàu của đoàn tàu hải tặc (theo một tài liệu khác là năm chiếc) bị chìm và hàng trăm người bị chết. Một số người trên tàu bị nạn trong đó có Colombo, đã được những ngư dân từ làng Lagos của Bồ Đào Nha cứu. Sau này trong một bức thư gửi vua Ferdinando của Tây Ban Nha tháng 5 năm 1505, Colombo đã viết về việc ông may mắn đến bờ biển Bồ Đào Nha: “Chúa đã đưa tôi đến đây một cách kỳ diệu để tôi có thể phục vụ Bệ Hạ; tôi nói kỳ diệu, vì tôi đã đổ bộ lên bờ biển Bồ Đào Nha”. Kỳ diệu và đổ bộ - chữ thứ nhất dùng hai lần - nói rõ ràng và không thể nhầm lẫn việc viên Đô đốc tương lai đã đến bờ biển Bồ Đào Nha một cách bất ngờ trong hoàn cảnh may mắn như thế nào. Như vậy, ngày 13 tháng 8 năm 1476 là một ngày đáng ghi nhớ trong cuộc đời của Colombo. Người tín ngưỡng thấy bàn tay của Chúa Thánh Thần trong tai nạn tàu biển của nhà thủy thủ Genova trên bờ biển Lagos. Người hoài nghi thấy trong tai nạn ấy vai trò đáng ngạc nhiên và có một không hai của sự tình cờ trong lịch sử. Lagos là một làng đánh cá tại cửa một con sông nhỏ. Ngư dân cột thuyền của họ ở sông, nước sông chảy nhẹ nhàng vào vịnh. Nhưng ngôi nhà thì nghèo nàn, như những ngôi nhà của những làng chài khác trên bờ Địa Trung Hải. Vịnh rộng và yên tĩnh. Có vẻ vịnh không mở vào đại dương, nhưng vịnh đã bị cột vào lịch sử của Đại Tây Dương: từ đây đã xuất phát nhiều cuộc khảo sát do Henry, Nhà đi Biển, tổ chức. Henry, Nhà đi biển, Hoàng tử Henry của Bồ Đào Nha - Colombo có biết gì về ông ta hay không? Colombo có thể đã biết về ông, vì những thủy thủ của Đại Tây Dương đã nói về ông. Henry là một phần của lịch sử và hơn nữa, Ông ta là của huyền thoại và truyền thuyết. Nhưng nếu Colombo chưa biết gì về ông trước đó, chắc chắn ông đã nghe thấy tên Henry và những câu chuyện về những công việc của Henry từ miệng ngư dân Lagos. Không quá mười lăm dặm cách làng Lagos là Sagres và mũi Vincent, nơi đây Henry đã sống nhiều năm cuộc đời mình và đã thiết lập trụ sở để tiến hành nghiên cứu và tổ chức những cuộc phát kiến của ông. Cuộc đời và những công trình của Henry, Nhà đi biển, phản ánh sự nghiệp của ông và lịch sử của Bồ Đào Nha. Ông đã tập hợp những hoa tiêu, những thuyền trưởng đi biển, những nhà chuyên vẽ bản đồ, những nhà thiên văn và những thủy thủ thuộc mọi nguồn gốc: Bồ Đào Nha, Catalogua, Genova, Venezia, người Do Thái và người Saracen. Ông có những thông tin viên từ những nơi xa như Abyssinia và vịnh Ba-tư. Triều đình của ông trở thành một trung tâm phát triển hàng hải và kinh nghiệm thuộc địa. Mặc dù không phải là nhà hàng hải hay nhà thám hiểm, Henry đã nổi tiếng vì đã đưa ra một loại tàu mới, loại tàu nhỏ; loại tàu này nhẹ và nhanh, thích hợp cho việc đi biển khơi. Ông cũng là người đầu tiên lập ra và hệ thống hóa những phương pháp thương mại thực dân hóa mới, thay cho những phương pháp phong kiến: đồn trú, chuyển nhượng, công ty và độc quyền. Henry đã cho những nhà vẽ bản đồ một phương hướng mới, một thích thú mới về những bờ biển châu Phi mé Đại Tây Dương. Vào cuối thời Trung cổ, những người Amala, Pisa, Venezia và Genova và sau này những người Firenze đã dốc tâm trí vào việc vẽ bản đồ. Từ thế kỷ XIII đến thế kỷ XV, những người Genova là những người đi đầu trong khoa vẽ bản đồ. Những nhà vẽ bản đồ người Do Thái của Majorca đã học tập và phổ biến nghệ thuật của họ từ Genova. Trường phái Genova cũng làm nảy sinh ra trường phái Catalan của Barcelona, trường phái Bồ Đào Nha của Lisbon, trường phái Ả-rập, và sau này trường phái Flandres. Tôi đã nói rằng không phải ngẫu nhiên mà nhà phát kiến vĩ đại trong lịch sử đã sinh ra và lớn lên tại Genova, vì Genova đã là thủ đô của khoa vẽ bản đồ và khoa vũ trụ học từ đầu thời Trung cổ. Và không phải chỉ là sự trùng hợp mà chúng ta thấy người anh em của Colombo, Bartolomeo, cùng với ông tại Lisbon. Nghệ thuật vũ trụ học và nghệ thuật vẽ bản đồ hàng hải đã hình thành một mối quan hệ chặt chẽ giữa Genova và Bồ Đào Nha, quan trọng hơn mối quan hệ do thương mại và tài chính tạo ra. Henry còn làm cho mối quan hệ này chặt chẽ hơn nữa; mối quan hệ ấy lên tới đỉnh cao nhất trong việc thai nghén sự nghiệp vĩ đại của Colombo: điều chắc chắn là ở bên kia sa mạc, ở bên kia vùng khô nóng là vùng đất phì nhiêu, có thể ở được và biển có thể đi lại được bằng tàu biển. Không may trong nhiều thế kỷ, những người ngoài giới học giả đã nghĩ rằng Colombo là người đầu tiên, hay trong số những người đầu tiên, cảm thấy quả đất tròn. Lòng tin đó là sai. Những nhà địa lý học cổ điển biết hoàn toàn rõ ràng, rằng quả đất tròn. Trong thời Trung cổ, khái niệm đó đã bị bỏ quên, nhưng vào giữa thế kỷ XV, khái niệm đó là một nguyên tắc đã được xác lập trong số các nhà địa lý học và các học giả nói chung. Vậy thì bằng cách giả thiết rằng quả đất tròn, Colombo không làm gì hơn là liên kết mình với tư tưởng chiếm ưu thế đó. Sau này, chúng ta sẽ thấy rằng Colombo tự đặt mình một cách dũng cảm chống lại những quan niệm địa lý học của Tolemeo và Trung cổ trong niềm tin của ông cho rằng vùng đất đối chân[*] là có thể ở được và có thể tới được. Ở đây tôi sẽ chỉ đơn thuần nhấn mạnh ba nguyên tắc chính của địa lý học cổ điển: trái đất là một khối tròn, nam bán cầu là không thể ở được, và những điểm đối chân cũng như vậy. Những người Fenici, người Hy Lạp, người La Mã và người Công giáo chỉ biết rằng một biển cát mênh mông nằm ở phương nam. Những bờ biển về phía Đại dương là cát - khi chúng không phải là mũi đá hoặc không có một tí cây cỏ nào. Ở phía nam của Mauritania: Cát. Phía nam của Namibia: cát. Phía nam của Libya: cát. Phía nam Ai cập: Nubia, tất cả là cát, ở cả hai bên dải hẹp dọc theo sông Nile. Từ thời Cổ đại cho đến năm 1400 sau Công nguyên, miền đất duy nhất ở miền nam sa mạc Nubia được biết có cây cỏ và cuộc sống là Ethiopia, một vùng đất được coi gần như huyền thoại. Trong những thập kỷ đầu tiên của thế kỷ XV, chưa ai biết gì về Guinée. Sa mạc mênh mông đã làm cho những thế giới thuộc nền văn minh Hy Lạp - La Mã - Công giáo và châu Phi đen không biết nhau. Bằng đường bộ, Marco Polo đã tới được Trung Quốc và Nhật Bản. Bằng đường bộ và đường biển, người Hy Lạp đã tới Ấn Độ. Bằng đường bộ, những nhà truyền đạo Gia tô đã tới Vùng Bắc cực và những đồng cỏ xa hơn nữa của nước Nga. Bằng đường biển, những hải tặc bán đảo Scandinave đã tới Greenland và những bờ biển băng giá Bắc Mỹ. Bằng cách đi ngược dòng sông Nile và vượt qua Hồng Hải, những nhà truyền đạo Thiên chúa giáo đã truyền đạo tại Ethiopia. Nhưng không một ai đã đến những vùng đất phì nhiêu ở miền trung và miền tây Phi và những con sông lớn ở miền Nam Sahara. Những sông lớn ở châu Á và châu Âu thì nhiều, nhưng người ta chỉ biết một con sông duy nhất, sông Nile được biết ở châu Phi. Vì có vẻ kỳ lạ là một lục địa mà chỉ có một con sông, và logic hơn là lục địa đó không có con sông nào, nên đã xuất hiện lòng tin cho rằng Ai Cập là một phần của Châu Á. Châu Phi được coi là bắt đầu từ miền tây của đồng bằng sông Nile phì nhiêu, với sa mạc Libya, nơi bắt đầu của Sahara mênh mông. Địa Trung Hải, Hồng Hải, vịnh Ba Tư, eo biển nước Anh, Bắc Hải, biển Baltic và chính Bắc Đại Tây Dương, những vùng nước này là những con kênh thông tin liên lạc mở cho các chủng tộc và các nền văn minh. Trong khi biển có thể đi lại được bằng tàu biển, còn biển cát và sa mạc thì không. Giả thiết nếu những nhà buôn Carthage thế kỷ thứ V trước Công nguyên, những nhà truyền đạo Công giáo đương thời với Thánh Augustino, những hiệp sĩ Ả-rập của những vua Hồi giáo, hoặc những người thừa kế của nhà Tiên tri đã tìm thấy biển ở miền nam Mauritania, Numidia, hoặc Libya, tất cả sẽ khác. Biển sẽ không cản trở họ như sa mạc. Và như vậy sự hiểu biết của những thế giới Công giáo và Ả rập đã không đi qua những vùng có nước trên sa mạc ở miền bắc. Những vùng đất sa mạc hoang vu cằn cỗi, hoang vu hơn ở về phía nam và sự thiếu cây cỏ đã thuyết phục những nhà triết học Hy Lạp rằng toàn bộ vùng đất khô nóng là không thể ở được. Aristote và nhà địa lý học vĩ đại Tolomeo nói như vậy. Những người Ả-rập, là những tín đồ trung thành của Aristote, và thậm chí cả Alberto Magno, đã chấp nhận những tin tưởng của các nhà triết học ấy, trong thế kỷ thứ XIII, Alberto Magno vẫn nghi ngờ cuộc sống liệu có thể tồn tại trên những bờ biển và đảo của vùng đất khô nóng hay không. Hậu quả là khi những nhà hàng hải Bồ Đào Nha tới cửa sông Senegal, đó là một phát hiện lớn đối với họ. Việc đó còn cho một sự tương phản rõ ràng, một trong những tương phản sắc bén nhất trong thiên nhiên. Hãy tưởng tượng điều gì phải xảy ra đối với những nhà phát hiện đầu tiên khi trông thấy cây cỏ xanh tốt tại những cửa sông Senegal và Gambia sau những núi đá ở Maroc và cát ở Sahara mà họ đã cho là vô tận. Họ có cảm giác giống những người man di từ trên núi Alpes xuống hay không? Không, vì những người man di đã biết rằng tại nước Ý, họ sẽ thấy một vùng đất có mặt trời và những bầu trời xanh. Họ có cảm giác giống như những con người đầu tiên trên mặt trăng hay không? Không, vì những nhà du hành vũ trụ đã có một ý nghĩ tốt về những gì họ sẽ tìm thấy ở đó. Tương phản lại, những người Cổ đại và Trung cổ tin rằng về phương nam, trái đất đã kết thúc bằng vùng khô nóng. Lòng tin đó vẫn vững vàng trong số những thủy thủ của Thế giới Công giáo cho đến thời điểm lớn năm 1444, khi Dinis Dias, một ông tổ của họ Bartolomeo, được nhiều người biết đến, đã đến cửa sông Senegal ở Cape Verde. Chiếc thuyền buồm của ông là một vật kỳ diệu đối với những người châu Phi. Bốn trong số những người dũng cảm nhất đã đến gần con quái vật đi được trên mặt nước; họ không hiểu đó là một con cá, một con chim, hay một con ma, và khi họ trông thấy người trên thuyền họ quay lại và chạy trốn một cách cấp tập đến nỗi những người Bồ Đào Nha không thể nào đuổi bắt được họ. Những người châu Âu đã đến trên đất của những người da đen, nhưng tầm quan trọng của cuộc phát hiện phần chính là ở cây cọ nhiệt đới mọc xanh tốt mà người ta không ngờ và cho đến lúc đó không ai tưởng tượng được đã tồn tại ở châu Phi. Chỉ cách đường xích đạo mười lăm độ, trong vùng khô nóng, cây cỏ phong phú đã nuôi dưỡng nhiều động vật lớn và những con người khỏe đẹp. Gặp phải thực tế ở Cape Verde (ngày nay là Dakar), những học thuyết của Aristote và Tolomeo liệu còn có giá trị gì? Như Ruge, nhà địa lý học vĩ đại người Đức thế kỷ XIX, đã bình luận một cách ngắn gọn và đầy ý nghĩa, những học thuyết đó đã tan vỡ trên núi đá của Cape Verde. Không những địa lý học Trung cổ, mà cả giáo điều cổ điển Hy Lạp cho rằng Nam bán cầu là không thể ở được đã bị chôn vùi dưới bóng những cây cọ đó. Những phát hiện của Henry, nhà Hàng hải, và trực giác của Colombo gặp nhau ở đây: với hành trang của thời Cổ đại bị chôn vùi, một chân trời mới đã mở ra cho sự phát triển của địa lý học khoa học. Con người đã bắt đầu tin vào chính mắt mình hơn là những lý thuyết của người Cổ đại. 5 BĂNG ÐẢO VÀ CUỘC PHÁT KIẾN KHÔNG THÀNH CÔNG CỦA NGƯỜI SCANDINAVE CỔ ÐẠI Từ Lagos, Colombo đã đến Lisbon một thời gian ngắn, và sau này ông lại trở về đấy. Giờ đây ông phải tiếp tục các cuộc hành trình. Tại Genova cuộc thám hiểm lần thứ hai tới nước Anh đã được chuẩn bị. Trong chuyến đi này, hoặc có thể vào một chuyến đi trước, trên một số chiếc tàu tới Candice và Lisbon, người thủy thủ trẻ tuổi đã đến London, từ đó ông đi Bristol. Thành phố Bristol cổ kính nằm dưới chân một ngọn đồi. Cảng Bristol không hơn gì một con lạch, do dòng sông Avon tạo thành. Avon là một dòng sông trung bình chảy xuống khe núi dưới chân thành phố, rồi đổ ra cửa sông lớn của Severn, nơi thực sự là cái vịnh nước mặn nhiều hơn nước ngọt. Tại Lisbon, Colombo cũng thấy những điều tương tự, tuy ở quy mô rất khác biệt. Điều mà Colombo không thấy được ở Lisbon và cũng là lần đầu tiên ông ta mục kích, là những đợt thủy triều cực lớn. Vào tuần trăng tròn tháng giêng - có lẽ vào thời gian Colombo đang ở Anh - thủy triều ở cảng Bristol là ba mươi sáu thước (Anh), trong khi tại Avonmouth, nơi dòng sông Avon đổ ra vịnh Severn, thủy triều lên cao bốn mươi bảy thước (thước Anh). Đó là một trong những mức thủy triều cao nhất thế giới và là mức cao nhất thời Colombo, khi thủy triều cao tới sáu mươi hai thước Anh tại Vova Scozia chưa được người ta biết đến. Hiện tượng này đã gây ra những hậu quả nặng nề cho sự an toàn của cảng Bristol, vì tàu bè không cập bến cảng được khi thủy triều xuống, khi sông Avon không đủ nước cho tàu đi. Những đợt thủy triều này, vốn là một điều mới lạ đối với các thủy thủ vùng Địa Trung Hải, cố nhiên đã gây ấn tượng mạnh mẽ đối với Colombo vì ông luôn nhạy cảm với những hiện tượng tự nhiên. Colombo còn bị ấn tượng về những bến tàu sôi động nằm dọc con lạch. Những bến tàu đầy ắp hàng hóa, như muối, lúa mì, rượu, nhung... cập bến; hoặc len và những thùng cá khô xuất đi. Colombo đã từng biết đến len Anh. Ông đã thấy len Anh nhập cảng đến Genova, và ông đã đi London để tìm mua một khối lượng lớn mặt hàng này. Mặt khác, việc xuất khẩu cá lại là công việc còn mới mẻ đối với ông. Colombo đã nghe nói đến cá trích; giờ đây ông đã trông thấy chúng rất nhiều, có đến hàng tấn. Ở Địa Trung Hải, người ta không biết đến cá trích, vì không thể nào tìm được loại cá này ở đây. Colombo, vốn chỉ quen với cá Sardine và cá trồng, đã thần người ra khi lần đầu tiên trông thấy cá trích cùng các loại cá khác. Giờ đây ông đã nhận thấy thị trường cá ở Genova là quá nhỏ bé so với những đống cá khổng lồ này và hết sức kinh ngạc, không hiểu được chúng từ đâu đến. Cũng vậy, Colombo đã trông thấy cá thu khô ướp muối nhập khẩu tại Genova và Lisbon, nhưng ở đây thì nhiều vô kể. Còn có cả loại cá hồi mà ông chưa hề thấy ở Luguria, hoặc Corsica. Cá hồi từ đâu đến? Từ những con sông Scotland, nghĩa là từ phương Bắc. Còn cá thu? Chúng đến từ Biển Đen ở miền Bắc xa xôi. Và cá trồng? Từ cả hai nơi, từ vùng biển khơi Ireland và Scotland, cũng như từ biển Ultima Thule (miền cực Bắc của thế giới). Đặc biệt nhạy cảm với thiên nhiên, Colombo thích thú những vùng xa xôi ấy về nhiều mặt: đất đai, tuy sản xuất thu hoạch còn ít vì thiếu ánh nắng mặt trời, khí hậu ẩm ướt và bầu trời u ám; các cửa sông mở ra những bến cảng tuyệt vời; cá vô cùng phong phú và khác với các loại cá vùng Địa Trung Hải. Colombo quan sát mọi thứ, tìm hiểu mọi mặt của thiên nhiên bằng ý thức địa lý bẩm sinh của ông. Mặc dù không được đào tạo một cách chính quy, Colombo vẫn là một nhà địa lý. Địa lý học lôi cuốn ông, những bí ẩn của nó hấp dẫn ông. Ở đây, tại Bristol, ông được biết đến sự bí ẩn của Ultima Thule, bí ẩn đơn thuần, vì không có gì ngoài Ultima Thule cả. Và vì nó bí ẩn, Colombo càng muốn đến đấy. Colombo đã đi thuyền đến Galway, trên bờ biển phía Tây Ireland và từ đó ông đi thuyền buồm đến Băng Đảo, (Iceland). Vào thời Colombo, Băng Đảo, về mặt pháp lý thuộc về vua Đan Mạch, nhưng trên thực tế, người Anh giữ độc quyền buôn bán với hòn đảo này. Có thể, Colombo đã không biết Băng Đảo thuộc về Đan Mạch và có lẽ ông ta nghĩ rằng đó là hòn đảo của Anh, giống như Madera thuộc Bồ Đào Nha, Canaria thuộc Tây Ban Nha và Chio thuộc Genova, vì lẽ những hòn đảo thường thuộc về những ai nắm độc quyền thương mại với chúng. Dẫu sao, những người Băng Đảo cũng không phải là người Anh, mà là người Scandinave cổ đại. Trong quá trình tìm kiếm những người ngoại đạo để truyền giáo, các giáo sĩ Ireland có thể đã đến Băng Đảo trước những người Scandinave cổ, nhưng chính những người này đã phát hiện, hoặc tái phát hiện đảo này vào năm 874 và đã thông tin về hòn đảo này cho thế giới Công giáo. Những người Scandinave cổ đại đã định cư tại Băng Đảo, kết hôn với những người Celte, từ Ireland đến, sau đó thành từng đợt liên tiếp. Hòn đảo tỏ ra không mến khách đối với những người từ phương Nam đến, nhưng lại có thái độ khác đối với những người từ những vùng đất băng giá, đầy sương mù và núi đá của Na-uy. Ở đây, không có rừng, trừ một số ít cây phong thu thấp nhỏ và nhanh chóng bị đốn hạ, nhưng khắp đảo đều có nước trong lành, cả những mạch cung cấp nước sôi tự nhiên. Một vùng mênh mông rộng bằng cả nước Anh như Colombo đã viết sau này, nơi đây, mặc dù có những núi đá băng, dung nham, tro tàn và đầm lầy, vẫn có những cánh đồng đầy cỏ về mùa hè, rất thuận lợi cho việc nuôi cừu. Và ngoài khơi thì cá nhiều vô kể. Việc những người Scandinave cổ đại đến Băng Đảo như thế nào là một trong những trang sử hấp dẫn, gần như khó tin, vì đã đạt đến giới hạn tột cùng về sự chịu đựng của con người. Nếu những người Fenici là những thủy thủ vĩ đại nhất trong thế giới cổ đại thì những người Scandinave cổ đại là những người đi biển vô địch, duy nhất dưới thời Trung cổ. Họ thô lỗ và tàn bạo. Đi đến đâu, họ cướp bóc tàn phá và giết chóc đến đó. Sự khủng bố gắn liền với hoạt động của họ trên đất liền, nhưng biển cả không bị khống chế bởi sự tàn ác của họ. Tuy nhiên, những người Scandinave cổ đại này đã dũng cảm chống lại nỗi sợ hãi chung dưới thời Trung cổ, đối với biển Đen tối, hay biển Độc, như họ thường gọi bằng ngôn ngữ thô sơ của mình. Hoạt động trên biển của họ có cái gì đó thật kỳ diệu. Tàu của họ nhẹ và nhanh, luôn gây sợ hãi khi phải đương đầu với những cơn bão tố dữ dội miền Bắc Đại Tây dương, một đại dương chưa ai biết tới và lúc đó vẫn chưa được khám phá. Và họ đã làm như vậy mà không có dụng cụ đi biển nào. Floki, một trong những người phát hiện ra Băng Đảo, đã rời Na-uy với ba con quạ. Con đầu tiên ông ta để sổ và nó lập tức bay về Na-uy. Con thứ hai lượn mấy vòng trên bầu trời rồi lại hạ cánh xuống boong tàu. Mấy ngày sau, con thứ ba được thả và bay thẳng về phía trước, tới đảo lớn. Như vậy Floki đã đặt chân lên đảo và đặt biệt hiệu cho đảo là Quạ. Những người Scandinave cổ đại là người đầu tiên - trước Colombo - giong buồm ra biển khơi. Một số người còn cho rằng những người Ireland đã làm như vậy trước cả người Scandinave cổ đại. Chắc chắn những thủy thủ Ireland tài giỏi hơn người Anh vào thế kỷ đầu sau Công Nguyên, nhưng lòng dũng cảm và sự gan dạ của họ chỉ còn là một ký ức. Những việc làm của họ, phục vụ cho các tu sĩ muốn truyền bá Kinh Thánh trong dân chúng trên những hòn đảo Đại Tây Dương, vẫn còn là truyền thuyết, vì thiếu cứ liệu lịch sử. Những cuộc thám hiểm của những người Scandinave cổ đại không phải là những hoạt động đơn lẻ cô độc của một số ít thủy thủ dũng cảm; những cuộc thám hiểm đó đã gồm nhiều tàu và người tham gia; từng loạt của đội tàu đã được huy động vào những cuộc hành trình, mà người ta không biết mục tiêu cuối cùng. Không phải chỉ có một hay hai Ulysses, mà là cả một dân tộc Ulysses. Những người Scandinave cổ đại là một trong những dân tộc vĩ đại nhất và đáng chú ý nhất trong lịch sử nhân loại. Họ cải đạo Cơ đốc giáo, nhưng một số nghi lễ ma thuật và tà giáo vẫn tồn tại trong nhiều thế kỷ giống như sự tàn bạo của họ vậy; những tập tục nghiêm ngặt của họ không hề thay đổi, lòng dũng cảm ngoài biển khơi mang tính anh hùng ca của họ cũng không hề suy giảm. Việc những người Scandinave cổ đại thay đổi đức tin đã đưa họ tới thế giới Cơ đốc, và trở thành những người đi tiên phong trong việc truyền bá đạo Cơ đốc ở vùng xung quanh Bắc cực. Vào khoảng năm 1000 sau Công nguyên, Nghị viện Băng Đảo - nghị viện đầu tiên của châu Âu, họp ngoài trời, giữa những tảng đá ở hẻm núi Thingvellia - đã thông qua nghị quyết công nhận Cơ đốc giáo là quốc giáo. Trong vòng một năm, đã có hai giáo khu được thành lập trên đảo. Trong khi đó, những người Scandinave cổ đại tiếp tục những cuộc hành trình trên biển. Mùa xuân 982, Eric Đỏ, bị trục xuất vì tội giết một người đầy tớ, đã từ Băng Đảo vượt biển sang Mỹ. Như vậy biển này được gọi là eo biển Đan Mạch, nhưng đó là một đại dương thực sự, hết sức nguy hiểm vì sương mù, bão tố và những tảng băng khổng lồ. Bjarni và những người Scandinave cổ đại khác đã theo gót Eric Đỏ. Họ vốn quá quen với núi đá, với băng và những vùng hoang vu đầy nham thạch nên đã gọi vùng đất mới là Greenland vì thấy những sườn đồi đều có rêu bao phủ. Họ định cư trên bờ biển Tây - Nam, nơi khí hậu ôn hòa nhờ có dòng Gulf Stream chạy qua, và nằm đối diện với Hoa Kỳ. Những người Scandinave cổ đại đã mang tin tức về vùng đất mới cho thế giới Cơ đốc. Dấu vết của việc này đã được tìm thấy trong các bản đồ đầu thời Trung cổ của Genova, Venezia, Đức, Ả-rập và Catalan. Vào khoảng năm 1120, một giáo khu đã được thành lập tại Greenland. Những người Scandinave cổ đại không dừng tại đó. Khoảng năm 1000 sau Công nguyên, họ tới một vùng đất không cây cỏ, nhiều đá và lạnh giá đến mức “ma chê quỷ khóc”, mà họ đặt tên là Helluland. Đây là đảo Terranova (Newfoundland) hay còn gọi là Labrador. Đi xa hơn nữa về phía nam, họ đến một vùng đất bằng phẳng, có rừng bao phủ, phần ven biển không có núi đá, hay vách đá và mấp mô những cồn cát trắng. Họ gọi vùng đất này là Markland (“Đất của những khu rừng”). Đó hầu như chắc chắn là vùng Nova Scozia, nằm ở phía Đông - Nam Canada. Ngoài Markland, truyền thuyết Băng Đảo còn nói về vùng đất Vinland (“Đất của những cây nho”). Công cuộc nghiên cứu khoa học tiến hành cách đây một thế kỷ rưỡi từ Rafn tới công trình nghiên cứu gần đây nhất của Helge Ingstad - được hỗ trợ bằng sự phân tích hóa học các vật chứng lịch sử - đã cho thấy sự phù hợp đáng ngạc nhiên giữa các số liệu địa lý trong những truyền thuyết Bắc Âu với kết quả của những cuộc khai quật khảo cổ học. Vì vậy Vinland dường như không phải là một vùng đất tưởng tượng mà là một bộ phận nào đó của vùng ven biển Bắc Mỹ. Cố nhiên những người Scandinave cổ đại đã biết những vùng đất khác ngoài Greenland. Sắc lệnh của Giáo hoàng bổ nhiệm Eric Gnupson làm Giám mục địa phận đầu tiên của Greenland đã phong ông ta là giám mục địa phận “Greenland và những vùng lân cận”. Điều này chứng tỏ rằng những người Scandinave cổ đại đã biết đến những vùng đất như thế trên lục địa châu Mỹ, đồng thời nó cũng là một bằng chứng cho thấy rằng Vinland - chỉ một thế kỷ sau khi Leif Ericsson đặt chân lên đấy - chỉ còn là một ký ức, không còn ai biết rõ về vùng này hoặc về những đất phì nhiêu, mến khách kia nữa. Các dân tộc Cựu thế giới đều không biết gì về miền đất nói trên. Người Scandinave cổ đại đã biết đến châu Mỹ, nhưng họ không phát kiến ra châu lục đó. Trong địa lý học, thuật ngữ phát kiến không đơn thuần chỉ việc người đầu tiên đặt chân lên một nơi nào đó, nó còn có nghĩa là đi đến đó rồi quay trở về, và nói lại việc của mình cho bất cứ ai muốn, có thể lặp lại việc làm của người phát hiện. Nhưng kinh nghiệm đáng kể của người Scandinave cổ đại ở châu Mỹ đã không đưa lại kết quả. Những vùng đất Vinland, Markland, và Helluland, tức là đại lục châu Mỹ đều khác với Greenland, họa hoằn mới có người lai vãng và chưa bao giờ bị thực dân hóa. Không rõ rệt như ở Greenland, những dấu vết mà người ta cho là của người Scandinave cổ đại ở Bắc Mỹ đều không được chứng minh một cách rõ rệt. Di vật khảo cổ gây nhiều tranh luận nhất, rõ ràng một trò đùa, là hòn đá Kensington, có khắc chữ run của người Scandinave cổ đại được phát hiện trong gia sản của một nông gia Thụy Điển ở Kensington Minnesota, vào năm 1898. Dòng chữ đó như sau: “8 người Gotland và 22 người Na Uy bắt đầu cuộc hành trình từ Vinland sang phía tây. Chúng tôi cắm trại gần hai đảo nhỏ, sau một ngày đi bộ từ hòn đá này về phía bắc, chúng tôi nghỉ lại và đi câu cá một ngày. Khi quay về, chúng tôi phát hiện mười xác chết, người đẫm máu. Lạy Đức Mẹ Đồng Trinh: Hãy giải thoát chúng con khỏi tai họa”. Bên cạnh có chú thích sau đây: “Chúng tôi để lại mười người ngoài biển để trông nom những chiếc tàu của chúng tôi, một cuộc hành trình nửa tháng xuất phát từ đảo này, năm 1362”. Giới phê bình hiện đại nổi tiếng nhất đều phủ nhận tính xác thực của đá Kensington. Nhà nghiên cứu người Đức về tự mẫu Scandinave cổ đại (chữ run) W. Krauss coi đó là chuyện bịa của người đương thời. Erich Moltke, một chuyên gia về chữ run nổi tiếng khác, người Đan Mạch, đã tuyên bố rằng bản khắc đó là không thật. Moltke cũng như các nhà nghiên cứu nổi tiếng khác về chữ run sau ông ta đều cho rằng không thể có chữ run trên bản Kensington vào nửa sau thế kỷ XIV vì những tự mẫu cổ đại này không còn được sử dụng ở Scandinave từ trước năm 1300. Theo ông, bản khắc có lẽ đã phỏng theo một cuốn niên lịch cổ nào đó của Thụy Điển viết bằng chữ run, vẫn tồn tại vào thế kỷ thứ XVIII. Kho lưu trữ của Hội Khoa học lịch sử Minnesota có một tư liệu có vẻ như là bản phác thảo của dòng chữ sau này được khắc trên đá. Samuel Eliot Morison nói: “Người có lương tri bình thường, phải coi đó là một sự bịa đặt. Những người Scandinave cổ đại là những nhà phát kiến biển cả, chứ không phải là những nhà thăm dò trên đất liền... Các chuyên gia hàng đầu về chữ run đã bỏ công tìm hiểu bản khắc này đều cho rằng đó là một sự bịa đặt vụng về”. Một di tích khác cũng gây nên tranh luận là ngọn tháp Newport, trên đảo Rhode, một cấu trúc bằng đá đồ sộ hình ống. Về một số phương diện, hình thể và những chi tiết kiến trúc của tháp này giống như các kiểu kiến trúc điển hình của Scandinave thời Trung cổ. Năm 1948 - 1949 tiến sĩ W.S.Godfrey đã khai quật đáy tháp và đã có cơ sở để chứng minh rằng Benedict Arnold, thống đốc đảo Rhode, đã xây tháp vào khoảng 1675, có thể là một pháo đài nhằm chống lại cuộc tấn công của người Indians. Các cuộc khai quật đã phát hiện những đồng tiền, đá xây, những mảnh thùng thuốc lá... tất cả những thứ đó, không nghi ngờ gì nữa, đều có thể là vết tích thời thuộc địa. Tháp Newport chắc chắn được xây dựng khá lâu sau những phát kiến của Colombo và Caboto. Bản đồ Vinland, còn gọi là bản đồ Yale, đáng được thảo luận riêng, vừa do việc phát hiện bản đồ đó đã gây nên những cuộc tranh cãi, vừa do dư luận gần đây đã cho rằng bản đồ đó là giả. Phần phía tây - tức Bắc Đại Tây Dương - của bản đồ thế giới này do trường đại Yale xuất bản năm 1965, có những chi tiết địa lý không thấy trong các bản đồ xuất hiện từ giữa thế kỷ thứ XVI trở về trước, trong khi đó phần phía đông thì hoàn toàn lẫn lộn và tùy tiện. Đặc biệt Greenland đã xuất hiện với những đường nét bờ biển hoàn chỉnh. Cuốn sách Bản đồ Vinland và quan hệ Tartar do trường đại học Yale xuất bản, khẳng định rằng bản đồ này là xác thực, có từ năm 1440, hoặc khoảng nửa thế kỷ trước cuộc phát kiến của Colombo và có thể, nó dựa trên cơ sở một bản đồ có từ thế kỷ thứ XII. Một số nhà sử học bảo vệ tính chân thật của tài liệu này và cho rằng thời gian xác định cho tài liệu đó là có thể tin được. Những người khác lập tức bác bỏ lập luận đó. Trong số này có Giuseppe C.Caraci, người có công lớn là đã lập tức tuyên bố tài liệu ấy là “sự lừa đảo của thế kỷ”. Tháng Giêng năm 1974, sau hai năm thận trọng và tỉ mỉ phân tích trong phòng thí nghiệm theo sự ủy nhiệm của trường đại học Yale, Walter ủy nhiệm của trường đại học Yale, Walter MacCrone, viện sĩ thông tấn Chicago, đã khẳng định bản đồ này là giả và có lẽ đã được làm ra trong thế kỷ này. Việc công bố các chi tiết công trình của họ cho thấy thành phần kết tinh của mực dùng trên bản đồ chứa bột màu có hợp chất peroxide titanium, chỉ mới được sử dụng từ năm 1920. Năm 1903, J. Fisher đã tóm lược những việc làm của người Scandinave cổ đại ở Bắc Mỹ trong thế kỷ thứ XI. Theo Fisher, người Scandinave cổ đại đã chiếm giữ những thuộc địa thịnh vượng trên đảo Greenland trong nhiều thế kỷ. Điều đó, đã được xác định qua các bằng chứng lịch sử, địa lý và bản đồ dựa trên những chỉ dụ của Giáo hoàng và những báo cáo của các đại sứ của Giáo hoàng ở nước ngoài. Ngoài ra, còn nhiều tàn tích của các nhà thờ, các ngôi nhà, các cơ sở xây dựng cùng một số di vật của người Scandinave cổ đại để lại. Mặt khác, Vinland, Markland và Helluland - tức lục địa Bắc Mỹ - đều có người lui tới nhưng không bị thực dân hóa như một số người quan niệm. Mọi luận điểm cho rằng Vinland đã trở thành thuộc địa đều không có cơ sở; điều quan trọng hơn là công cuộc nghiên cứu đã không hề cho thấy một bằng chứng thuyết phục nào về việc định cư lâu dài của người Scandinave cổ đại. Công cuộc nghiên cứu sau đó, kể cả các công trình nghiên cứu gần đây nhất của Frederick J. Pohl và đặc biệt là của Helge Ingstad, đều không có gì mâu thuẫn với nhận định của Fisher. Điều rõ ràng kỳ lạ là dân tộc này, một dân tộc đã góp phần chủ yếu vào sự hình thành ba nền văn minh vĩ đại của thế giới hiện đại là Anh, Nga và Ý và đã lập ra bốn nước đi tiên phong trong thế giới hiện đại về tổ chức xã hội, chính trị và kinh tế, Na Uy, Đan Mạch, Thụy Điển và Băng Đảo, một khi đã tiếp xúc với Eldorado, tức Bắc Mỹ, lại không có ý đồ biến nơi này thành thuộc địa của mình. Sở dĩ như vậy, lý do thứ nhất là vì, trong chuyến viếng thăm của họ vào thế kỷ thứ XI như truyền thuyết đã nói, những vùng đất họ trông thấy chắc chắn cách khá xa Eldorado. Họ đã thăm Labrador và Terranova[*] (Helluland), những vùng bờ biển và đất liền của Băng Đảo và cả Greenland họ đều không thèm muốn. Họ cũng đã đến Nova Scozia (Markland) phong phú hơn Băng Đảo về rừng rú và do đó là một nguồn cung cấp gỗ xẻ, ngoài ra không còn gì khác. Một số đã thấy, hoặc đến Vinland, vì điều đó đã được nói trong truyền thuyết, nhưng không hề có trong biên niên. Lý do thứ hai là những người Scandinave cổ đại ở Băng Đảo không phải là một dân tộc có học. Thậm chí những thủ lĩnh của họ cũng mù chữ. Họ không có kiến thức thực tế về địa lý và họ cũng không quan tâm gì đến quy mô và hình thù trái đất. Nếu có chăng, họ lại cho rằng trái đất là phẳng. Lý do thứ ba là người Scandinave cổ đại đã không tìm thấy ở Bắc Mỹ một nền văn minh tiến bộ hơn nền văn minh của mình, họ không thấy ở đó những vua chúa giàu có, mà họ có thể tàn sát và chiếm đoạt tài sản, hoặc của cải trong kho, hay đang dùng, có thể cưỡng đoạt. Ở Bắc Mỹ họ thấy có nhiều rừng thật, nhưng đưa gỗ từ Na-uy - quê hương của họ, nơi mà họ vui sướng trở về gặp ông bà, chú bác và anh em - đến Băng Đảo thì dễ dàng và thuận tiện hơn. Họ cũng thấy những đồng cỏ bao la, nhưng lại phải đương đầu với một dân tộc khát máu và kém văn minh hơn mình, một dân tộc không sợ sự xâm lược của họ như người châu Âu, một dân tộc không có gì để mất và lại còn có lợi khi quấy rối và tấn công họ. Người Scandinave cổ đại đã gây nên nỗi lo sợ cho người Frank, người Saxon, người Byzantine, người Ả-rập, người Slave và người La Mã, nhưng không làm cho người bản xứ ở Bắc Mỹ sợ hãi. Ở đây tình hình là không đáng bỏ công chinh phục những người bản xứ nghèo nàn mà cuộc sống quá ư đơn giản, cũng không đáng cố gắng ở lại những vùng đất đầy rẫy những kẻ đối địch như thế. Vì tất cả những lý do này, người Scandinave cổ đại đã không biến Bắc Mỹ thành thuộc địa của họ, và như vậy, cuộc phát hiện đã thất bại. Vào khoảng năm 1477, tàu bè không còn từ các con lạch ở Băng Đảo đi đến những thuộc địa ở Greenland nữa. Chiếc tàu cuối cùng từ Băng Đảo đi Greenland là vào năm 1408. Tuy nhiên, chắc chắn Colombo đã nghe những thủy thủ Anh và Băng Đảo nói về Greenland, các hòn đảo rộng lớn, băng giá, nằm ở phía tây Băng Đảo này. Cũng không loại trừ trường hợp là có ai đó đã nói cho Colombo biết về Vinland, miền đất ở tây nam Ultima Thule tắm mình trong Biển đen tối, ở bên kia Galway, từ những người cũng như ông, đã tin rằng trái đất không dẹt mà tròn. Và như vậy, ý tưởng đầu tiên về châu Á nằm ở bên kia đại dương bắt đầu chớm nở và thường xuyên ám ảnh tâm trí ông. Vậy là kinh nghiệm kỳ diệu của người Scandinave cổ đại đã tỏ ra có ích; một phần kinh nghiệm đó là có ảnh hưởng tới người thủy thủ thành Genova đã tới bờ biển Băng Đảo trên một chiếc tàu Anh. Cũng trên những bờ biển này, sáu thế kỷ trước đó, người Scandinave cổ đại đã cập bến, phát hiện ra Ultima Thule của thế giới Cơ đốc. Từ những bờ biển này, năm thế kỷ trước đây, người Scandinave cổ đại đã lên đường tìm Greenland và những vùng đất khác xa hơn về phía tây. Đây là mắt xích gắn liền những phát hiện cụ thể (Băng Đảo và Greenland) và cuộc phát hiện thất bại (lục địa Bắc Mỹ) của người Scandinave cổ đại với cuộc phát hiện huy hoàng của Colombo. Cuộc hành trình tới Băng Đảo đã gợi lên trong tâm trí Colombo mảng đầu tiên của bức tranh mà sau đó thành ý đồ lớn của ông. Nhưng không chỉ có thế. Giữa Anh và Băng Đảo là khoảng cách hàng trăm, hàng trăm dặm biển cả; đi sang đó trên một chiếc thuyền buồm thật khó khăn và nguy hiểm. Cuộc hành trình lên phía Bắc đã tôi luyện bản lĩnh của Colombo, và cũng là cơ bản vì cuộc hành trình đó đã dẫn đến khái niệm về một công việc đã làm cho ông nổi tiếng. Sau khi thăm Chio và sau cuộc đổ bộ may mắn tại Lagos, cuộc đi của Colombo đến Băng Đảo chỉ là một chặng dừng chân thêm nữa dọc theo con đường dài trong sự tiến triển của cuộc phát kiến lớn của ông. Đó là một chặng dừng chân đầy những phỏng đoán, lý thuyết, tưởng tượng và những ý nghĩ kỳ lạ. Nếu những vùng đất khác nằm ở phía Tây Băng Đảo, tại sao người ta không thể tìm thấy những đảo khác ở phía Nam? Chiếc tàu mà Colombo đi, đã đến Băng Đảo thường xuyên, xa về phía Tây và bắc lục địa châu Âu và từ đây người ta có thể đi thuyền xa hơn nữa về phía tây. Về phía bắc, đất đai không biến đi trong sương mù và không khí, như nhiều người cổ đại đã tin và nhiều người ở Địa Trung Hải vẫn còn tin. Về phía tây không có vực thẳm mà vẫn còn đất đai nữa. Tại sao những cuộc hành trình tương tự lại không thể tiến hành xa hơn về phía nam, trong một biển khơi ít bão tố và ít sương mù hơn? Những câu hỏi như thế, chắc chắn Colombo đã có trong chuyến đi của ông đến Băng Đảo. Hoàn toàn bình thường là những người tự cảm thấy sinh ra là để làm những sự việc lớn hay bận tâm về một ý nghĩ duy nhất trong nhiều thời gian của cuộc đời họ. Mọi hành động, mọi ý nghĩ trở thành một phương tiện để đạt đến mục tiêu ấy. Như vậy Colombo, được tôi luyện bởi biển khơi miền bắc, không ở lại trên bờ lâu dài. Chẳng bao lâu ông lại đi ra biển tại vùng biển Băng Đảo - như một ngư dân chăng? - nhưng ông đã hành động như một nhà thám hiểm. Vào lúc ông trở lại Bồ Đào Nha và định cư ở đó, ông đã bước thêm một bước khổng lồ vào con đường đi đến kế hoạch lớn của ông: ông đã có được lòng tin về Đại Tây Dương. 6 LISBON, KẾT HÔN, VÀ PORTO SANTO Từ Băng Đảo và nước Anh trở về, Colombo đã định cư tại Lisbon. Nhiều người Genova sống tại đó, trong đó có những đại lý cho những chủ tàu của ông ta, Spinola và di Negro. Trong kho lưu trữ quốc gia Genova có một lời khai ngày 25 tháng 8 năm 1479 trước tòa án Genova của Cristoforo Colombo với tư cách là một đại lý do Paolo di Negro thuê. Lời khai này liên quan đến một vụ án dân sự về thỏa thuận tháng 7 năm trước về chuyên chở đường, bằng tàu biển từ Madera. Cuộc buôn bán xấu đi vì di Negro đã không gửi cho Colombo tiền chi phí thuê tàu và tiền hàng hóa. Những chi tiết của vụ kiện này không làm chúng ta quan tâm. Tuy nhiên chúng ta quan tâm đến những lời nói rằng nhân chứng “Columbus Christophorus”[*] khoảng hai mươi bảy tuổi và là một công dân thành Genova sống ở Lisbon. Lời nói rằng ông phải trở về Lisbon “sáng ngày hôm sau” cũng đáng lưu ý. Colombo đáng lẽ đã có thể khai ở Lisbon. Thay vì làm như vậy, ông đã đến Genova, chắc chắn ông đã thăm bố mẹ và anh em ở chính Genova hoặc Savona. Một số người đã gợi ý rằng Colombo đã hình thành trong tâm trí một cuộc phiêu lưu nào đó ở Đại Tây Dương và đã lợi dụng chuyến đi này để nói về những ý nghĩ đó với những chủ tàu của ông ta, hay thậm chí với các quan chức của nước cộng hòa. Giả thuyết đó không thể loại trừ, ngay cả trong trường hợp không có tài liệu để hỗ trợ. Lẽ ra việc triển khai kế hoạch lớn đã có thể hoàn thành năm 1479. Tuy nhiên có thể Colombo đã nói với những chủ tàu của ông và những nhân viên ở Genova một cách chung chung về những cuộc phát kiến mới ở Đại Tây Dương khả dĩ có thể có và tầm quan trọng của những đảo đã biết (như Madera). Dù sao chăng nữa, ông đã không tìm được một thính giả chăm chú lắng nghe ông. Hành động dũng cảm của Vivaldis đã là một thảm họa, hành động dũng cảm của Lanzarotto Marocello chỉ làm lợi cho Tây Ban Nha. Vẫn còn một số người Genova mạnh dạn, và Colombo là một trong số họ. Những nước cộng hòa, nhà băng San Giorgio, những người chủ tàu, và những nhà buôn cảm thấy mặc dù Genova rất giàu có, đó là một quốc gia quá nhỏ bé để mở rộng mãi vào Đại Tây Dương. Giả thiết Colombo đã phát hiện ra châu Mỹ dưới lá cờ Genova, lá cờ ấy sẽ không phấp phới bay lâu đài trên những vùng đất mới. Chẳng bao lâu lá cờ ấy sẽ được thay bằng cờ Tây Ban Nha, Pháp, Bồ Đào Nha, hoặc Anh. Điều đó đúng là điều đã xảy ra với đảo Lanzarote và những đảo khác ở Đại Tây Dương. Như thế, dù những thủy thủ sinh ra và lớn lên ở Genova mạnh dạn bằng cách này hoặc cách khác, những cố gắng của họ đã kết thúc làm lợi cho những người khác, và như vậy, để cho họ xúc tiến những công việc của họ để phục vụ những quốc gia khác, chỉ là một điều hợp logic. Nếu Colombo nói chuyện với bất cứ người nào về Đại Tây Dương, về những kế hoạch của ông trên Đại Tây Dương cho đến lúc đó, chắc chắn ông sẽ nhận được câu trả lời theo hướng đó. Ngày 26 tháng 8 năm 1479, Colombo đã rời Genova không bao giờ trở lại. Ông đã ra đi với một niềm tin dù cay đắng nhưng có tính chất thực tế, vì những người Genova là những người thực tế cay đắng. Ông tin rằng ông phải đảm nhận những chuyến đi trên Đại Tây Dương, nếu ông phải tìm những vùng đất mới ở đấy, ông sẽ phải tìm sự hỗ trợ và việc tổ chức cho công việc của ông từ những quốc gia Đại Tây Dương, từ những quốc gia đã có quyền lực và đã thiết lập những lợi ích ở Đại Tây Dương và rất có thể đã cảm thấy nhu cầu bành trướng đó. Cuối mùa xuân, hoặc đầu mùa thu 1479, Colombo kết hôn với Felipa Moniz Perestrello. Theo don Ferdinand và Las Casas, ông đã yêu trong nhà thờ như nhiều người Ý, người Tây Ban Nha và người Bồ Đào Nha thời đó. Chỉ có trong ánh sáng lờ mờ của nhà thờ người ta mới có thể trố mắt nhìn một người con gái xinh đẹp mà không gây ra một chuyện bê bối nào. Colombo đã kết hôn vì tình yêu, nhưng trong khi Colombo thực sự yêu Felipa, chúng ta không thể loại bỏ một điều mà Colombo đã kết hôn với Felipa vì những lý do khác nữa, trong đó có hai lý do chính. Thứ nhất Felipa Moniz Perestrello là một người quý tộc, có lẽ đã bị bần cùng hóa, nhưng là một người có dòng máu quý tộc đầy đủ cả về bên cha của nàng, dòng máu quý tộc Perestrello, lẫn bên mẹ nàng, vì gia đình Moniz là một trong những gia đình quý tộc cổ nhất ở Bồ Đào Nha. Suốt cả cuộc đời mình, Colombo đã tìm cách để đạt được địa vị quý tộc, hoặc được thừa nhận danh tước ông đã được ban. Địa vị quý tộc là yêu cầu thứ nhất - thậm chí trên cả phần thưởng tiền tài - cho một cuộc hành trình thành công trên biển. Gia đình của Felipa là quý tộc đã suy tàn, giống như trường hợp gia đình bố Colombo. Lý do thứ hai của cuộc hôn nhân ngày nay dễ hiểu hơn. Theo don Ferdinando và Las Casas, Bartolomeo Perestrello, bố của Felipa, là “một người đi biển lớn”. Những nhà sử học coi đây là điều nói quá sự thật. Chắc chắn là lớn, nhưng không phải lớn như người ta tưởng tượng. Bartolomeo Perestrello, con trai của Filippo Pallastrelli từ Piacenza và Caterina Sforza, sinh ở Bồ Đào Nha vào đầu thế kỷ thứ XV. Họ đã đổi thành hình thức Bồ Đào Nha của Perestrello, và nhà vua đã khẳng định chức quý tộc của họ. Vợ thứ hai, hoặc thứ ba của Bartolomeo là Isabella Moniz, con gái một trong những gia đình rạng rỡ nhất thuộc quý tộc Bồ Đào Nha, Felipa đã sinh ra từ cuộc hôn phối ấy. Khi bà kết hôn với Colombo, cha bà đã chết khoảng hai mươi năm trước. Bartolomeo Perestrello không phải là một nhà đi biển lớn, càng không phải là một nhà phát kiến. Tuy nhiên ông là thống sứ đảo Porto Santo. Nếu Hoàng tử Henry, một nhà tổ chức và một người phán đoán con người vĩ đại như vậy, đã ban thưởng cho Bartolomeo một hòn đảo quan trọng đối với việc khảo sát Đại Tây Dương, thì có nghĩa Bartolomeo là một con người có một tầm vóc nào đó, không những vì ông ta là dòng dõi quý tộc cấp cao Italia, mà còn vì sự hiểu biết của ông ta về biển cả. Sau khi Bartolomeo chết, chồng của một trong những người con gái khác của ông ta, rể tương lai của Colombo, Pedro Correa de Cunha, được cử làm thống sứ Porto Santo. Không thể nghi ngờ là Colombo quan tâm đến việc duy trì quan hệ với Pedro Correa de Cunha. Như thế là có hai điều kết hợp với câu chuyện tình lãng mạn: quý tộc truyền thống và sự hiểu biết về Đại Tây Dương mà gia đình Felipa đã có. Colombo gặp Felipa Moniz Perestrello và cuộc hôn nhân tiếp theo của họ đã có tác động lớn đối với việc mở đầu cuộc phát kiến vĩ đại. Con đường từ Lisbon đến Funchal, hoặc Machico - những cảng của Madera ở thế kỷ thứ XV - đi vòng đảo Porto Santo ở chặng cuối cùng. Không những Colombo đã được biết rõ về sự tồn tại của đảo này mà đã viếng thăm đảo ấy trước khi lấy Felipa. Sau khi kết hôn, ông đã quen với Porto Santo. Porto Santo nằm cách Madera 27 dặm về phía Đông Bắc và chỉ rộng 16,4 dặm vuông. Porto Santo là một vệ tinh của Madera. Từ bất cứ điểm nào trên đảo, người ta đều có thể ngửi thấy mùi Đại Tây Dương và trong những cơn giông bão nghe thấy sóng vỗ tung tóe trên bờ biển. Chắc chắn Colombo đã đi Porto Santo sau khi kết hôn và có lẽ cùng với Felipa. Con trai của ông, Diego, có lẽ đã được sinh ở đó. Dù sao chăng nữa, Colombo đã sống ở đó và đã có thể tham khảo những bản đồ của bố vợ. Về việc này don Ferdinando nói: “Mẹ vợ ông cho ông những bản viết và bản đồ chồng bà đã để lại. Những bản viết và bản đồ đó càng kích thích viên Đô đốc, thông báo cho ông về những chuyến đi mà người Bồ Đào Nha đã thực hiện đến Elmina và dọc theo bờ biển Guinée”. Mặc dù Bartolomeo đã chết được nhiều năm, những bản đồ của ông đã nói tiếng nói của người sống. Không một nhà sử học nào nói những văn bản và bản đồ đó là gì, nhưng rõ ràng chúng là những bản đồ, portolanos (những cẩm nang về đi biển), những bài bình luận và những bản thảo truyền lại cho những thủy thủ bởi những nhà nghiên cứu vũ trụ và những nhà nghiên cứu địa dư thuộc Sagers, trong thời Henry, Người Đi Biển. Colombo đã lục lọi trong số những giấy tờ này, và đã tìm hiểu được vùng Đại Tây Dương, do bán đảo Iberia, quần đảo Azzorre và mũi Cape Verde bao quanh. Colombo đã hiểu về lý thuyết, điều mà ông ta bắt đầu hiểu dưới sự căng thẳng của việc đi thuyền buồm kéo dài và gian khổ ở phần này của Đại Dương, như ông đã thực hiện ở Địa Trung Hải, từ đông sang tây. Colombo đã lục lọi không những trong những giấy tờ của bố vợ ông mà cả trong những tảng đá và cát, thăm dò mọi bí mật được giấu kín nhất của bãi biển và trung tâm của Porto Santo. Có phải tại đây Colombo đã nghĩ về kế hoạch lớn của ông lần đầu tiên hay không? Có phải tại đây ông đã mài dũa ý nghĩ “tới phương Đông bằng cách đi thuyền về hướng Tây hay không?” Không có tài liệu nào chứng minh điều đó, nhưng có lẽ đảo Porto Santo là nơi sinh ra ý nghĩ này của ông. Porto Santo giống như một chiếc thuyền ở giữa Đại Dương, một loại thuyền nhẹ so với những tàu lớn hơn, một loại tiền đồn, đơn giản và trơ trụi ở phần thiên đường trần gian là Madera, với những bờ biển đầy cát ở phía nam, thú vị và rộng rãi, và những bờ biển đầy đá ở phía Bắc, màu sẫm và liên tiếp bị những đợt sóng thường đầy giông tố đập vào. Đó là một hòn đảo đá phún thạch màu đen nhô ra phía tây nam, một vùng đất làm tổ của những con chim hải âu, một người lính gác bao vây bởi biển cả nổi sóng. Ở đây Colombo đã sống với ảo ảnh Madera luôn luôn ở trong tâm trí ông. Một hòn đảo ma thuật, đối với ông Madera vừa là điểm cuối cùng của thế giới đã được biết, vừa là gợi ý về sự tồn tại của những vùng đất khác ở xa hơn về phía tây. Những ý nghĩ của ông quay theo hướng đó khi ông được biết rằng một miếng gỗ được chạm trổ cẩn thận và một số cây sậy to hơn những cây sậy trên đảo đã dạt lên bờ biển phía tây. Tại đây ông đã đi lang thang từ vịnh nhỏ này đến vịnh nhỏ khác, chăm chú nhìn chân trời và cố giải mã những điều không biết, vì bây giờ ông tin chắc rằng ở đằng kia, ở quá kinh tuyến thuộc Madera gần đó, phải là đất liền, không phải là vực thẳm. Colombo mong đợi một chứng cớ nào đó về vùng đất ấy từ những đợt sóng đập vào mỏm đá của Porto Santo. Ý nghĩ chi phối Colombo đã mang một hình thù cụ thể đầu tiên: phương Tây. Và như vậy ông bị ám ảnh không phải bởi mặt trời mọc mà bởi mặt trời lặn. Khi mặt trời đi xuống, Colombo hoặc ở Ponta da Calheta, Ponta da Canaveira, Ponta da Umal, hoặc trên những dốc của Pico Ana Ferreira, ngắm nhìn mặt trời đi xuống và nghĩ rằng tại Portono và Quinto mặt trời đã lặn được hai giờ và đã là đêm, một người nào đó ở bên kia biển, đang nhìn cùng một mặt trời này - đối với ông đã lặn một nửa - đối với người đó mặt trời vẫn còn trên chân trời. Cùng một vĩ tuyến với Lisbon và Algarve là quần đảo Azzorre. Có những đảo khác ở phía tây trên cùng một vĩ tuyến như Porto và Maroc hay không? Có một Maroc khác, một châu Phi khác hay không? Có thể có một lục địa khác với cùng những cây kỳ lạ như những cây chỉ thấy ở đây, trên đảo Porto Santo, như cây dragoeiro (“cây rồng”) chẳng hạn, chỉ thấy ở quần đảo Madera và ở Canaria hay không? Những cây đó cũng mở ra hướng Tây. Và có thể có marmulano ở đó, cũng thấy ở trên đảo Madera, Porto Santo và Cape Verde cũng hướng về phía tây hay không? Người ta thấy không có cây nào ở châu Phi, Colombo đã được nói cho biết như thế và điều đó được xác nhận cho bản thân ông trên những chuyến đi biển tới Guinée. Từ đó người ta khẳng định rằng gió và những dòng nước đã làm phong phú hệ thực vật trên đảo bằng những cây ở Mỹ. Thật vậy trên những bờ biển Porto Santo và Madera người ta có thể thu lượm những hạt giống từ West Indie, Mexico và Florida. Trong viện bảo tàng trường thần học Funchal có một số mẫu về những hạt giống như thế, trong đó có một loại cây đậu cỡ lớn, cây Mucuna entata mà trên đảo Porto Santo gọi là fava do mar (“đậu biển”), ngày nay gọi là đậu fava de Colon (“đậu của Colombo”). Colombo có biết điều này hay không, sắc bén và nhạy cảm như ông đối với mọi mặt của thiên nhiên và mọi chi tiết của những dòng nước biển? Khó trả lời câu hỏi này, nhưng để cho rằng ông đã cảm thấy điều gì đó mà ngày nay khoa học đã xác minh. Đây là một mảng nhiều màu sắc khác nhau nữa trong kế hoạch lớn của ông. Có một vùng đất khác ở phương Tây, từ đó chim đã mang đến những hạt giống của cây cối ngoại lai; một vùng đất có lẽ đáng yêu và say người như Madera. Vùng đất ấy có phải là một hòn đảo không? Tại sao không phải là một lục địa? Tại sao không phải là châu Á? Những thủy thủ ở Lisbon tin chắc rằng trái đất tròn. Và nếu trái đất tròn, tại sao không thể ba hoặc bốn giờ ánh nắng mặt trời tách Porto Santo khỏi cạnh phía đông châu Á, vì hai giờ đã tách Genova khỏi Porto Santo? 7 ÔNG CHỦ ÐẠI TÂY DƯƠNG Sự hiểu biết rõ ràng, chính xác của Colombo về Guinée cũng quan trọng trong sự triển khai kế hoạch lớn của ông về cuộc phát kiến vĩ đại như những chuyến đi của ông đến Chio, nước Anh, Băng Đảo, Madera và việc ông lưu lại trên đảo Porto Santo. Chúng ta biết chắc chắn giữa 1482 đến 1484 Colombo đã hoàn thành ít nhất một chuyến đi đến Guinée. Trong Nhật ký, ông thường nói đến pháo đài Mina và bờ biển Melegueta. Bờ biển này kéo dài từ mũi Mesurado đến mũi Palmas. Gần mũi Mesurado, ngày nay nổi lên Monrovia, thủ đô Liberia. Mũi Palmas cũng ở Liberia, gần biên giới với Bờ biển Ngà. Pháo đài vẫn còn tại Elmina; thực ra hiện nay là hai pháo đài, ngự trị thành phố Elmina, ở nước Ghana hiện đại. Colombo đã tìm gì ở Elmina? Không phải sản phẩm nông nghiệp, cũng chẳng phải những đường biển cho kế hoạch thai nghén của ông, vì những đường ấy nằm trong một hình bốn cạnh của Đại Tây Dương mà chúng ta sẽ thấy ở phía bắc vĩ tuyến của Guinée. Người ta thường nói rằng ông đi tìm vàng ở đó. Huyền thoại về vàng luôn luôn ám ảnh đầu óc ông. Ông chỉ quan tâm ít đến hương liệu và thuốc nhuộm, mặc dù những thứ này là cơ sở cho những lợi ích kinh tế của Bồ Đào Nha. Ông thường nói trong Nhật ký về mát tít và thuốc nhuộm có thể lấy từ cây cối, nhưng ý nghĩ cố định[*] của ông vẫn là vàng. Ông đã thấy vàng ở Elmina, hoặc nói đúng hơn, một ngành thương mại vàng đang phát triển. Không cần đến Guinée để biết tầm quan trọng của kim loại quý này đối với người châu Âu, lục địa châu Âu hầu như không có. Thật vậy, lượng vàng do những người thám hiểm đầu tiên phát hiện năm 1471 ở Elmina đã tạo cho người Bồ Đào Nha một ấn tượng ảo vọng là lượng vàng đó đã được tích lũy qua nhiều thế hệ. Rõ ràng những người châu Phi đã tìm vàng trong hơn hai nghìn năm. Thí dụ, chúng ta biết rằng ngay cả trước kỷ nguyên công giáo, những dây chuyền vàng cục tự nhiên đã được chế tạo tại Nigeria, một nước không sản xuất vàng. Nắm độc quyền việc buôn bán, người Bồ Đào Nha đã có thể nhập khẩu hàng năm khoảng 25.000 ounce vàng trong một số năm. Năm 1502 riêng một chuyến tàu đã chở 125 cân Anh[*] vàng. Những số lượng đó không phải là những con số lớn, nếu ta xét tới việc phát hiện và khai thác những mỏ lớn ở Nam Phi và Liberia, cũng như những mỏ rải rác ở khắp châu Mỹ. Nhưng trong thế kỷ XV, những con số như thế là có ý nghĩa, đủ khích lệ bất cứ ai khao khát của cải, hoặc ngay cả những người mong muốn của cải một cách vừa phải. Theo những tài liệu của Bồ Đào Nha, hình như một phần lớn vàng ở Elmina là những đồ trang sức, nhưng cũng có vàng mới. Chắc chắn Colombo bận tâm về việc xác định chất lượng vàng đó. Colombo đã thấy rõ tầm quan trọng của tỷ lệ mất cân đối giữa vàng đã chế biến với vàng mới trong chuyến đi thăm đầu tiên của ông tới Elmina. Tại đó ông đã học phân biệt hai nguồn vàng. Nhân dân bờ biển đãi cát, thu lượm bột vàng và một đôi khi vàng cục, trong khi những thợ mỏ trong đất liền theo những mạch trong đá, đào những đường hầm dài, một đôi khi đường hầm nọ trên đường hầm kia, nối với nhau bằng những đường hầm thẳng đứng. Sau này, khi Colombo đi từ đảo này đến đảo khác trong vùng biển Caribe và thấy khắp nơi những người bản xứ mang đồ trang sức châu báu, mối quan tâm đầu tiên của ông luôn luôn là: Vàng từ đâu đến? Ở sông nào? Núi nào? Việc tìm kiếm vàng huyền thoại đã đưa Colombo đến Elmina, từ đó ông trở về, tin tưởng một cách vững chắc hơn trước vào sự thật của những báo cáo về sự tồn tại của vàng. Ngoài vàng, chuyến đi của Colombo tới Guinée đã cho ông kinh nghiệm chủ yếu nhất đối với kế hoạch lớn của ông, kế hoạch mà ông vẫn còn đang bố trí sắp xếp. Để đến Guinée, Colombo đã phải đi qua Cape Verde - không phải những đảo mà đại lục, Dakar ngày nay - và cây cối xanh tươi của vùng này. Ông đã trông thấy Grain Coast (ngày nay là Liberia) và Bờ biển Ngà, biết rằng những vùng ấy không những có cây cỏ mà còn xanh tươi. Ông còn thấy người, rất nhiều người. Colombo muốn xác minh bằng chính mắt của ông sự sụp đổ lòng tin của những nhà thông thái thời cổ đại - từ Aristote đến Tolemeo - và tiếp tục qua thời Trung cổ, cho rằng vùng xích đạo và nam bán cầu, con người không thể ở được. Lòng tin này là dối trá, tín ngưỡng này là dối trá. Người ta chịu đựng rất tốt khí hậu ở miền nóng như thiêu như đốt. “Dưới đường xích đạo, nơi mà ngày luôn luôn kéo dài mười hai giờ, là lâu đài của vua Bồ Đào Nha mà tôi đã đến thăm. Tôi thấy khí hậu vùng này dịu”. Colombo đã viết như vậy về Elmina, bằng chữ Latin đầy những lỗi đặc trưng cho cuối thời Trung cổ. Không những Elmina mà toàn bộ vùng nhiệt đới “không phải là không thể sống được vì ngày nay người Bồ Đào Nha đi biển ở đó và nói đó hoàn toàn có người ở”. Ngoài ra luôn luôn có những vùng đất mới, những sông mới, những rừng mới, những cánh đồng mới do những dân tộc cùng một dòng giống trồng trọt. Bên kia đường xích đạo là đất liền và hơn nữa, đất liền của cùng một lục địa, châu Phi - những bờ biển bắc châu Phi tắm trong Địa Trung Hải. Những chân trời mới đang mở ra. Người ta có thể đi tới vùng ôn đới ở phía nam, vùng đó rõ ràng có những đất có người ở, hoặc ít nhất những đất có thể ở được. Đây là tin tức cực kỳ quan trọng mà Colombo đã biết được trong những năm đầu ông sống ở Lisbon và muốn chính mình trải qua trực tiếp ở Elmina. Ngày nay người ta thường gọi đó là tin tức làm nên lịch sử. Đó là một mảnh cơ bản - mảnh quan trọng nhất và quyết định - trong hình mẩu nhiều màu sắc khác nhau mà từ đó kế hoạch lớn của ông cuối cùng nổi lên rõ ràng. Ngay cả trước khi Colombo vượt từ đông sang tây trong cuộc phát kiến vĩ đại nhất trong lịch sử, người ta có thể nói ông đã làm chủ Đại Tây Dương. Ông đã đi về phía bắc, tới nước Anh và Ireland và xa hơn nữa, gần tới vòng Bắc Cực, tới Băng Đảo. Từ những cuộc hành trình trên biển đó, ông đã biết được những đợt lên xuống của thủy triều - độ lớn, độ lên cao và lạ lùng mà ít thủy thủ Địa Trung Hải hiểu được. Ông đã trải qua sương mù, giông bão với mức độ chưa từng có ở miền biển ấm áp phương nam. Ông đã chú ý đến những dấu hiệu đầu tiên không lầm lẫn vào đâu được của dòng nước biển đã tạo cuộc sống cho phần lớn châu Âu: dòng Gulf Stream ấm áp. Khi trở về Lisbon, Colombo đã là một thủy thủ lão luyện. Trước khi kết hôn, ông đã thực hiện một chuyến đi tới Madera tháng 7 năm 1478. Có thể là lần đầu tiên ông đến đó; chắc chắn không phải là chuyến đi cuối cùng của ông. Ông đã trở lại Madeira và Porto Santo nhiều lần, vì lý do công tác lẫn lý do gia đình sau khi kết hôn. Ta có thể nói không quá đáng rằng Colombo đã quen với giải Đại dương từ Lisbon đến Madera đến nỗi như đó là nhà của ông. Ông đã biết mọi thứ về con đường Lisbon - Madera, vai trò của gió và những dòng nước, khả năng tìm thấy loại cá này hay loại cá khác. Ông đã biết tất cả các ngôi sao dọc theo những con đường của ông; trước khi nghiên cứu những ngôi sao ấy trong các sách thiên văn, ông đã trông thấy những ngôi sao đó mỗi lần mặt trời lặn, mỗi đêm và mỗi lần mặt trời mọc. Và từ những ngôi sao, những cơn gió và dòng nước, Colombo đã biết được những bí quyết của nghệ thuật mà ông là vô địch: nghệ thuật đi biển bằng cách tính vị trí theo la bàn, hay máy tính tốc độ. Ông đã nắm vững nghệ thuật ấy bằng cách đi qua những quần đảo ở Canaria, Cape Verde, Azzorre và Guinée. Chắc chắn ông đã sống một thời gian nào đó trên đảo Gran Canaria và đã biết Lanzarote và Gomera. Ông đã biết những đảo Cape Verde trên đường từ Guinée trở về; những tàu Bồ Đào Nha thích đi đường đảo hơn là đường dọc bờ biển, nơi mà những tàu đó buộc phải đi theo hình chữ chi. Sự hiểu biết mà Colombo đã biểu hiện tại vùng biển quần đảo Azzorre trong những cuộc hành trình thuộc cuộc phát kiến lớn bảo đảm cho chúng ta rằng Colombo cũng đã đi biển giữa những đảo này trong suốt thời kỳ sống tại Bồ Đào Nha. Hơn nữa, những người dân sống ở Azzorre đã cho Colombo một số chỉ dẫn quan trọng nhất - tôi sẽ nói về những chỉ dẫn đó ở dưới. Ở vùng biển Azzorre Colombo đã có được một niềm tin khác làm căn bản cho khái niệm về kế hoạch lớn của ông: ở kinh tuyến đó của Đại Tây Dương, những trận bão thì mạnh hơn, thường xuyên hơn và kéo dài hơn những cơn bão ở xa hơn về phía nam. Hậu quả là trong những thời kỳ thời tiết yên tĩnh, đi trở lại từ tây sang đông quá Fayal thì dễ hơn, nhưng đi từ đông sang tây thì khó, và trong những thời kỳ dài không thể thực hiện được. Niềm tin này cũng quan trọng như sự hiểu biết về những cơn gió thổi liên tục về hướng xích đạo suốt năm, Colombo đã không thể có được ngoại trừ ở trong vùng biển Azzorre, nói một cách chính xác hơn, bằng cách đi từ Fayal đến Flores và có lẽ đến một điểm nào đó vượt quá Flores. Trong nửa sau thế kỷ XV, việc thông thương giữa Azzorre và những điểm khác không chỉ từ Lisbon. Những con đường giữa Azzorre và Galway và giữa Azzorre và Bristol, hoặc London, cũng đi lại nhiều. Thậm chí có thông thương giữa Madera và Azzorre. Thường xuyên những tàu biển lấy một chuyến hàng từ Lisbon đi Azzorre, dỡ hàng ở đó và lấy một chuyến hàng khác và dỡ chuyến hàng này ở Galway. Tại đó tàu lại lấy hàng và chở hàng về Lisbon. Một số đoàn tàu còn đi từ Azzorre đến Băng Đảo và trở lại. Chúng ta đang xem xét một vùng rộng lớn ở Đại Tây Dương do Bồ Đào Nha, Ireland, Băng Đảo, Azzorre, Madera, Cape Verde, Elmina và Guinée bao quanh, hoặc ở giữa 64° và 5° Bắc và 8° và 30° Tây. Trong phạm vi vùng rộng lớn này là một vùng nhỏ hơn - giữa 40° và 28° bắc - mà Colombo đã đi từ Đông sang Tây, Đông - Bắc đến Tây - Nam, Tây - Nam đến Đông - Bắc, Nam đến Bắc, thực tế mọi hướng. Ở trung tâm của cả hai khu là đảo Porto Santo, ở 34° bắc và 16° tây. Đây là nơi sinh ra kế hoạch lớn; người mẹ của kế hoạch ấy, chính là đại dương, Đại Tây Dương, Biển Đen Tối. Porto Santo, quần đảo Canaria và quần đảo Azzorre là ba điểm trong phương trình địa lý và hàng hải mà việc giải phương trình đó đã cho quyền làm chủ Đại Tây Dương. Với ý thức biển cả đã làm cho ông nổi tiếng, Colombo đã tìm thấy lời giải đó từ năm 1476 đến năm 1484. Vào thời đó, người ta chỉ biết gió hay thay đổi, vì ở Địa Trung Hải, Đại Tây Dương thuộc châu Âu và Bắc Hải giữa nước Anh và các nước Bỉ, Luxembourg và Hà Lan gió đều luôn luôn biến đổi, chuyển hướng thường xuyên. Nhưng vì những lý do khác nhau, những thủy thủ không hiểu biết, hay đúng hơn không hiểu biết một cách chính xác là có những luồng gió thổi cùng một hướng suốt năm. Những nhà đi biển Bồ Đào Nha thế kỷ XV trước Colombo chỉ biết những ảnh hưởng không đáng kể của gió Đại Tây Dương, vùng biển Madera, Canaria và bờ biển châu Phi. Họ quen gió đông bắc không thay đổi, hay gió thổi mạnh một năm về phía đường xích đạo chỉ dọc theo những bờ biển châu Phi, họ không biết gió ở ngoài biển khơi như thế nào - mạnh tới mức nào và vươn xa tới mức nào về phía tây. Tính không thay đổi của gió xích đạo xuất phát từ việc đốt nóng liên tục bầu khí quyển miền nhiệt đới, làm cho không khí ít dày đặc hơn và dẫn đến giảm áp lực bầu khí quyển. Những khối không khí ở gần bị kéo vào để thiết lập lại sự cân bằng, rất giống sự thở. Gió xuất phát từ đó sẽ thổi về đường xích đạo, nhưng vì trái đất xoay xung quanh trục, tất cả mọi vật thể chuyển động ở nam bán cầu xoay về bên trái. Hậu quả là những khối không khí ở phần thấp hơn của bầu khí quyển ở Bắc bán cầu thổi từ đông bắc đến tây nam, và ở Nam bán cầu thổi từ đông nam xuống tây bắc. Đây là gió xích đạo, thổi suốt năm với sự đều đặn lớn nhất. Gió xích đạo từ đông - bắc và gió xích đạo từ đông - nam bị tách ra bởi một vùng xích đạo lặng gió, đới xích đạo lặng gió gây ra bởi chuyển động đi lên của khối không khí ấm. Đới xích đạo lặng gió ở gần đường xích đạo nhưng ở phía Bắc bán cầu nhiều hơn, vì Bắc bán cầu có nhiều đất hơn Nam bán cầu - đất nóng hơn biển. Cho rằng Colombo đã biết tất cả những thực tế khoa học này sẽ là một sự cường điệu, tuy nhiên ông đã hiểu những ảnh hưởng thực tế qua kinh nghiệm từ nhiều chuyến đi đầu tiên. Ông đã phát hiện ra ý nghĩa tiềm tàng của gió xích đạo từ hướng đông - bắc để đi về hướng tây; đó là phát hiện quan trọng nhất cho việc ông làm chủ Đại Tây Dương. Từ thái độ của ông đối với chuyến đi đầu tiên, ta có thể thấy rằng đây không thuần túy là sự suy đoán mà là một điều ông đã xác minh bằng kinh nghiệm của bản thân mình. Nếu không thì khó giải thích tại sao Colombo đã rời Palos, đi thẳng đến Canaria và từ đó đi về hướng tây một cách tin tưởng. Cũng giống như vậy, sẽ khó giải thích tại sao trên đường trở về ông đã không biểu lộ một chút do dự nào trong việc đi về hướng bắc vĩ tuyến của Azzorre, ở đây ông biết gió hay thay đổi nhưng thường xuyên thổi từ hướng tây. Colombo không những đã phát hiện ra châu Mỹ, ông còn phát hiện ra hai đường biển lớn ở Bắc Đại Tây Dương mà bốn thế kỷ tiếp theo về hoạt động hàng hải bằng thuyền buồm đã xác minh là những con đường nhanh nhất và tốt nhất. Nhiều điều khác Colombo đã nghiên cứu và hiểu bằng cách dùng thuyền buồm đi lại nhiều lần trong hình chữ nhật của Đại Tây Dương giữa 40° - 30° bắc và 30°- 10° tây. Ở những hải phận đó và ở những đảo ông đã lên bờ sinh sống, Colombo đã phát hiện một quan hệ cộng sinh với Đại dương và với những chòm sao. Ông đã khảo sát cẩn thận và nghiên cứu biển và bầu trời, phát hiện ra nhiều điều bí ẩn. Ông đã đốt cháy bằng tình yêu đối với biển và bầu trời đó, tưởng tượng của ông được kích thích bởi những chân trời vô tận. Tuy vậy chỉ có một chân trời thực sự vô biên đối với Colombo: không phải chân trời về phía Bắc, nơi ông đã đi qua nhiều độ vĩ tuyến và đã tới Ultima Thule; không phải chân trời về phía nam, Guinée ở đó, nơi ông đã biết, không phải chân trời về phía đông, nơi ông đã có đầy đủ sự hiểu biết về Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Địa Trung Hải, Italia, Hy Lạp và Ai Cập. Bây giờ ông chỉ quan tâm về phía tây. Ở đó có điều ông không biết, ở đó ông bị thôi thúc bởi giấc mơ nồng cháy của trí tưởng tượng, một sự say mê không thể nào dập tắt được. 8 ÐI TỚI PHƯƠNG ÐÔNG TỪ HƯỚNG TÂY: MỘT LỐI SUY NGHĨ MỚI Nói rằng Colombo là ông chủ của Đại Tây Dương thì chưa đủ để giải thích ông đã triển khai kế hoạch ban đầu và huy hoàng như thế nào để đến phương Đông bằng cách đi về hướng Tây. Trong chương X cuốn Lịch sử, don Ferdinando nói về những gợi ý đã khích lệ viên Đô đốc đi tìm Ấn Độ và miền Đông Nam Á. Don Ferdinando xem những miền đất ấy là lý do thứ ba của cuộc phát kiến. Lý do thứ nhất liên quan đến những ý nghĩ về quả đất tròn và các kích cỡ của trái đất, được chỉ dẫn bởi Tolomeo và Marino và được khẳng định bởi những khái niệm của Strabone, Ctesia, Onesicrito, Nearco, Plinio và Alfragano. Lý do thứ hai là “nhiều học giả đã nói rằng từ ven biển phía tây của châu Phi và Tây Ban Nha, người ta có thể đi về hướng tây để đến Ấn Độ”: Aristote, Averroes, Seneca, Solino, Marco Polo, Giovanni da Mandevilla, Pietro d’Ailly, và Giulio Capitolino. Thêm vào đó là ý kiến và sự cổ vũ của những bức thư của nhà học giả Firenze Paolo Toscanelli. Trong thực tế sự việc xảy ra có phần nào khác. Khi Colombo thấy bức thư của Toscanelli gửi cho Giáo sĩ Martins, thuộc nhà thờ lớn Lisbon, thì ông đã có khái niệm rõ ràng về kế hoạch lớn của ông. Trong việc nghĩ ra kế hoạch đó, ông chưa có kiến thức của Strabone, Seneca, Nearco, Plinio, Averroes, hoặc Solino. Có lẽ ông đã được biết đến những báo cáo của Marco Polo, nhưng ông ít biết đến những tên tuổi Aristote, Tolomeo, hoặc Marino, Colombo đã đọc những sách của họ tại Tây Ban Nha sau khi kế hoạch lớn của ông đã hình thành trong đầu. Vậy thì những điểm chủ chốt mà don Ferdinando nói không phải là “lý do thứ ba” của sự gợi ý, mà là lý do đầu tiên. Đây là những gợi ý theo thứ tự don Ferdinando trình bày trong cuốn Lịch sử. MARTIN VICENTE, MỘT THỦY THỦ CỦA VUA BỒ ĐÀO NHA, NÓI VỚI COLOMBO RẰNG: MỘT LẦN KHI ÔNG TA CÁCH MŨI SAN VINCENZO 450 DẶM, ÔNG TA THẤY MỘT MẨU GỖ CHẠM TINH TẾ NHƯNG KHÔNG KHẢM SẮT. VÌ VIỆC ĐÓ VÀ VÌ GIÓ ĐÃ THỔI TỪ PHƯƠNG TÂY TRONG NHIỀU NGÀY, MARTIN VICENTE BIẾT RẰNG GỖ ĐÃ TỪ NHỮNG ĐẢO NÀO ĐÓ Ở PHƯƠNG TÂY ĐẾN. PEDRO CORREA, CHỒNG CỦA MỘT NGƯỜI CHỊ CỦA FELIPA MONIZ PERESTRELLO VÀ NHƯ VẬY LÀ ANH EM ĐỒNG HAO CỦA COLOMBO, NÓI VỚI COLOMBO RẰNG TRÊN ĐẢO PORTO SANTO ÔNG TA ĐÃ TRÔNG THẤY MỘT MẨU GỖ KHÁC ĐƯỢC CHẠM KHẮC TINH TẾ DO GIÓ TÂY THỔI VÀO; GIÓ CŨNG MANG ĐẾN NHỮNG CÂY SẬY TO ĐẾN NỖI MỘT MẨU ĐƠN ĐỘC CÓ THỂ CHỨA MƯỜI BÌNH RƯỢU. BẢN THÂN VUA BỒ ĐÀO NHA ĐÃ NÓI VỚI COLOMBO VỀ NHỮNG CÂY SẬY LỚN NÀY VÀ ĐÃ CHỈ CHO ÔNG TA MỘT SỐ CÂY. VÌ KHÔNG NƠI NÀO TRÊN PHẦN ĐẤT NÀY CỦA THẾ GIỚI MỌC NHỮNG CÂY SẬY NHƯ THẾ, CHẮC CHẮN GIÓ ĐÃ ĐƯA NHỮNG CÂY SẬY ẤY ĐẾN TỪ NHỮNG ĐẢO GẦN, HOẶC TỪ ẤN ĐỘ, VÌ TRONG TẬP 1, CHƯƠNG 17 CUỐN VŨ TRỤ HỌC, TOLOMEO NÓI RẰNG NHỮNG CÂY SẬY NÀY THẤY Ở PHÍA ĐÔNG ẤN ĐỘ VÀ ĐÔNG NAM Á. MỘT SỐ NGƯỜI SỐNG TRÊN QUẦN ĐẢO AZZORRE NÓI VỚI COLOMBO RẰNG MỘT LẦN, KHI GIÓ ĐÃ THỔI TỪ HƯỚNG TÂY MỘT THỜI GIAN DÀI, BIỂN ĐÃ NÉM VÀO NHỮNG ĐẢO ĐÓ MỘT SỐ CÂY THÔNG, NHẤT LÀ Ở ĐẢO GRACIOSA VÀ ĐẢO FAYAL, TRONG KHI ĐÓ AI CŨNG BIẾT Ằ Ấ Ỗ Ầ Ấ RẰNG BẤT CỨ CHỖ NÀO TRÊN NHỮNG PHẦN ĐẤT NÀY ĐỀU KHÔNG CÓ NHỮNG CÂY NHƯ THẾ. NHỮNG NGƯỜI SỐNG TRÊN QUẦN ĐẢO AZZORRE KỂ LẠI: TRÊN ĐẢO FLORES, MỘT ĐẢO Ở MIỀN CỰC TÂY, XÁC HAI NGƯỜI ĐÀN ÔNG ĐÃ DẠT VÀO BỜ; MẶT HỌ RỘNG VÀ KHÁC MẶT NHỮNG NGƯỜI CÔNG GIÁO. TẠI MŨI VERGA, Ở BỜ BIỂN PHÍA TÂY GUINÉE 10° BẮC, NGƯỜI TA ĐÃ TRÔNG THẤY MỘT SỐ THUYỀN ĐỤC TỪ THÂN CÂY CÓ NHỮNG PHÒNG NGẮN. NHỮNG THUYỀN NÀY KHÔNG PHẢI TỪ GUINÉE VÀ NGƯỜI TA CHO RẰNG TRONG KHI ĐI GIỮA CÁC ĐẢO, GIÓ VÀ NHỮNG DÒNG NƯỚC ĐÃ LÀM CHO NHỮNG THUYỀN ĐÓ ĐI LỆCH HƯỚNG. ANTONIO LEME Ở MADERA NÓI VỚI COLOMBO RẰNG: MỘT LẦN KHI ĐI XA VỀ HƯỚNG TÂY TRÊN CHIẾC THUYỀN BUỒM NHỎ CỦA MÌNH ÔNG ĐÃ TRÔNG THẤY BA ĐẢO. NHIỀU NGƯỜI Ở NHỮNG ĐẢO HIERRO VÀ GOMERA Ở QUẦN ĐẢO CANARIA VÀ QUẦN ĐẢO AZZORRE KHẲNG ĐỊNH RẰNG: HÀNG NĂM HỌ ĐÃ TRÔNG THẤY MỘT SỐ ĐẢO Ở PHÍA TÂY. HỌ CHẮC CHẮN VỀ ĐIỀU ĐÓ, VÀ NHIỀU NGƯỜI ĐÁNG ĐƯỢC TIN CẬY ĐÃ THỀ ĐIỀU ĐÓ LÀ CÓ THẬT. NĂM 1484 MỘT NGƯỜI TỪ ĐẢO MADERA ĐẾN BỒ ĐÀO NHA ĐỂ YÊU CẦU NHÀ VUA CHO MỘT CHIẾC THUYỀN BUỒM NHỎ ĐỂ ĐI VÀ TÌM MỘT VÙNG ĐẤT NÀO ĐÓ MÀ ÔNG TA THỀ ĐÃ TRÔNG THẤY HÀNG NĂM Ở CÙNG MỘT HƯỚNG, ÔNG ĐỒNG Ý VỚI NHỮNG NGƯỜI KHÁC NÓI RẰNG HỌ ĐÃ TRÔNG THẤY VÙNG ĐẤT ẤY TỪ QUẦN ĐẢO AZZORRE. Chín đầu mối này, Colombo đã thu thập trước khi rời Bồ Đào Nha. Nhiều chuyện và tin đồn, một số là có thật, một số là tưởng tượng, đã lưu hành trong số những thủy thủ của Lisbon và trong số những người thực dân đầu tiên của Porto Santo, Madera, Azzorre và những đảo Cape Verde. Don Ferdinando chỉ nêu một ít trong Lịch sử nhưng chắc chắn Colombo còn được nghe nhiều chuyện khác. Thí dụ, Colombo đã viết rằng ông đã trông thấy hai xác chết ở ngoài khơi Galway, do những dòng nước đưa đến từ phương Tây. Trong khi Ferdinando kể trường hợp hai xác chết không phải người châu Âu dạt vào bờ biển của Flores mà cha ông đã nghe từ những người Azzorre, Colombo không nêu trường hợp khác ở Galway (Ireland). Đây là chứng cớ cuốn Lịch sử không ghi lại tất cả những đầu mối Colombo đã tập hợp. Quan trọng hơn những đầu mối này - mà tất cả đều phụ thuộc vào chứng cớ của những người khác - là những đầu mối do nhà phát kiến tương lai trực tiếp hồi tưởng lại: những quan sát viết ở ngôi thứ nhất, những kinh nghiệm, những phỏng đoán, những suy xét và so sánh. Những điều này đã góp phần một cách quyết định vào việc lập kế hoạch cho cuộc phát kiến lớn. Chúng ta đã thấy những điều Colombo học tập được từ cuộc đi biển của ông tới Băng Đảo và từ những kinh nghiệm của những người Scandinave cổ đại. Điều quan trọng nhất, Colombo đã đạt được mảnh chủ chốt thứ nhất trong hình mẫu nhiều màu mà từ đó xuất hiện kế hoạch lớn: lòng tin rằng ở phương Tây không phải vực thẳm mà là Băng Đảo - không phải là Ultima Thule - Greenland, cũng như những vùng đất khác, mặc dù vùng đất cuối cùng được phủ trong truyền thuyết. Và nếu có đất đai ở những vĩ tuyến phía bắc, tại sao không thể có một vùng đất nào đó ở trung tâm Đại Tây Dương, trên những vĩ tuyến của Lisbon hay Ireland. Người ta không thể bỏ qua Ireland trong số những kinh nghiệm đầu tiên của Colombo. Mặc dù Galway nằm ở 53° bắc, Colombo đã thấy những mảng thú vị của ánh nắng mặt trời trên những dải cỏ xanh xung quanh thành phố có nhiều màu sắc đó. Chắc chắn người ta nói cho ông biết rằng màu xanh này là màu xanh của toàn Ireland, một màu xanh dịu dàng không phân biệt các mùa, trừ những cơn mưa thoảng qua nhanh chóng, và những giây phút có mặt trời. Màu xanh này đã tượng trưng cho Ireland trong nhiều thế kỷ, sẽ còn tượng trưng trong nhiều thế kỷ tới; màu xanh ấy chắc phải tác động đến trí tưởng tượng của Colombo, một người nhạy cảm với tất cả những hiện tượng tự nhiên. Colombo biết rằng Ireland ở xa về phía bắc của Milano và Pavia, thành phố của vị Quận công đã là người thống trị trực tiếp, hoặc gián tiếp, nước Cộng hòa Genova. Dù gia đình Colombo có từ Piacenza đến hay không, ông không thể không biết rằng về mùa đông ở Milano, Pavia và Piacenza thường xuyên có tuyết. Ở Ireland thì không có tuyết. Galway ở vào khoảng 8 độ phía bắc Milano; tuy nhiên mùa đông ở Galway ít khắc nghiệt hơn và mặt đất xanh rờn khắp nơi, dù không đặc biệt phì nhiêu trong mùa trồng trọt. Galway không có tuyết nhưng mưa liên tục, mây từ phương Tây đến mang theo nước và sự ấm áp như những dòng nước biển từ phương Tây đến tắm cho bờ biển Ireland và mang đến sự ấm áp cho xứ này. Những người thủy thủ Ireland biết tất cả những điều đó; không ai biết rõ hơn họ rằng ở phía tây có đất liền, cũng như nước Italia nằm ở giữa phía tây Hy Lạp, còn Tây Ban Nha thì nằm ở phía tây Italia. Lòng tin cho rằng đất liền nằm ở phía tây phổ biến trong những người Ireland đến nỗi những chuyến đi theo truyền thuyết của các tu sĩ truyền đạo đó đã xảy ra trong thực tế như những chuyến đi theo truyền thuyết của các tu sĩ truyền đạo Cơ đốc đã tăng lên gấp bội trong nhiều thế kỷ. Một số chuyến đi truyền đạo đó đã xảy ra trong thực tế như những chuyến đi tới Băng Đảo, và những chuyến đi đó đã dẫn đến việc phát hiện đảo này bởi những người Scandinave cổ đại. Hầu hết những chuyến đi khác là kết quả của tưởng tượng, dù khó nói tưởng tượng tới mức độ nào. Tôi đã nói, tại Bristol, Colombo đã biết được độ lớn của thủy triều như thế nào; ông ta lại từng trải độ lớn của thủy triều tại Galway và tại những vịnh hẹp ở Bảng Đảo. Gặp phải những kinh nghiệm đó bất cứ cậu học sinh thông minh nào cũng hỏi một người lớn đứng cạnh cậu ta: “Nhưng tất cả nước này dồn về đâu khi nó hạ xuống” Và khi nước thủy triều lên, cậu học sinh đó sẽ hỏi: “Tất cả nước này từ đâu đến?” Colombo là một người quan sát cần cù, thận trọng những hiện tượng tự nhiên, ông không thể không tự đặt câu hỏi. Trả lời của ông không thể là “Vực thẳm! Nước từ vực thẳm đến và lại trở về vực thẳm”. Nước thủy triều Bristol, Galway và Hvalfjordur dâng lên từ phương Tây rồi rút về phương Tây, như vậy nước thủy triều hỗ trợ cho tính liên tục của biển từ lục địa này sang lục địa khác; tính liên tục từ đông sang tây ở Địa Trung Hải như người ta đã biết. Và thủy triều thì lớn hơn vì Đại Dương lớn hơn Địa Trung Hải. Những giới hạn của Đại Dương, dù lớn hơn cũng phải có những hạn mức; tức là phải có những bờ biển ở cạnh bên kia, không phải một vực thẳm, hoặc bóng tối. Tôi đã nói lên ý nghĩa của Madera và Porto Santo đối với Colombo. Tự bản thân Colombo đã thấy những dấu hiệu của sự tồn tại những vùng đất ở phía tây, ông không cần sự giúp đỡ của bất cứ người nào khác: đậu biển, những khúc gỗ lạ dạt vào bờ biển; những cây nhỏ không thấy ở những cánh đồng cỏ châu Âu, hoặc châu Phi, những núi hoặc những lòng chảo biển; và vai trò của những dòng nước - lúc nóng, lúc lạnh - dọc theo những bờ biển, phụ thuộc vào hướng chảy của chúng. Tại quần đảo Canaria, Colombo đã khẳng định những ấn tượng của ông hình thành trước đó trên đảo Madera và đảo Porto Santo. Ông đã thấy những cây nhỏ không mọc ở châu Âu, hoặc châu Phi, nhất là cây dragoeiro thuộc đảo Madera và Porto Santo. Ông cũng thấy trên những đảo này đất đai phì nhiêu một cách khác thường và một khí hậu thích thú, cả hai đều rất tương phản với bờ biển châu Phi gần đó, bờ biển châu Phi khô và đầy cát. Đặc biệt trên quần đảo Canaria gió và những dòng nước từ phương Tây đã mang độ phì nhiêu và sự phong phú đến, trong khi gió và những dòng nước từ phía đông mang đến hạn hán và những đám mây cát. Trên quần đảo Canaria, Colombo thấy một hiện tượng ông chưa gặp ở đảo Madera, Porto Santo, hoặc quần đảo Azzorre. Không một đảo nào trong những đảo này những người châu Âu đầu tiên thấy có người ở. Tại những đảo Cape Verde họ đã thấy một số người da đen, cùng một giống người như ở châu Phi. Tuy nhiên, tại quần đảo Canaria, họ thấy thổ dân khác với giống người ở châu Phi và Địa Trung Hải: da họ trắng, mắt xanh và rất cao. Họ không có kiến thức đi biển, hoặc làm tàu thủy; họ vẽ mình và ướp xác. Họ vẫn ở thời kỳ đồ đá. Họ thờ một vị thần duy nhất, một Vị Thần vĩ đại đáng sợ, Thượng Đế. Khi Colombo đến quần đảo Canaria lần đầu tiên - từ năm 1478 đến năm 1484 - dân tộc lạ lùng và kỳ quặc này vẫn thống trị những đảo Tenerife và La Palma và chỉ bị chinh phục trên đảo Gran Canaria. Chắc chắn Colombo ngạc nhiên về sự tồn tại của một dân tộc và ngay cả những học giả cũng không biết đến dân tộc đó, không giống bất cứ một dân tộc nào trong thế giới mà ta đã biết. Trong thời gian đó, Temisoro, vị vua hào phóng của đảo Gran Canaria, chuyển sang đạo Gia Tô. Người ta có thể thấy bao nhiêu người chín mùi để cải đạo ở bên kia đại dương, ở những vùng đất chưa ai biết đến và ở những vùng đã biết tại Châu Á! Tại những đảo Cape Verde, Colombo đã tăng kiến thức của ông về gió xích đạo, về vai trò của những con đường người Bồ Đào Nha đã đi và do đó vai trò có thể đi được xa hơn về phía tây của những con đường ở các vĩ tuyến đó. Những tàu Bồ Đào Nha thăm viếng những đảo Cape Verde thường xuyên trên đường trở về hơn là trên đường đi ra, không phải vì những ham muốn bất ngờ, hoặc nhu cầu hậu cần, mà vì để sử dụng tốt hơn những cơn gió. Trên đường đi ra, gió xích đạo thổi từ đông bắc tới tây nam, tạo thuận lợi cho việc đi biển khá khó khăn dọc theo bờ biển, cho đến khi đi vòng Mũi Palmas những tàu biển đi vào vùng lặng gió của xích đạo. Tuy nhiên trên đường trở về những tàu biển phải đi khó khăn tới nơi gió thổi ngược chiều gió xích đạo, sau khi rời vùng lặng gió ở xích đạo. Đó là con đường liên tục bị hiểm hóc vì đi vòng chữ chi. Trên đường trở về, đi thẳng tới những đảo Cape Verde và từ đó tới quần đảo Canaria ít nguy hiểm hơn. Từ những con đường khác nhau này Colombo đã biết nhiều ý nghĩa và tầm quan trọng của gió xích đạo. Như tôi đã nêu, quần đảo Azzorre là một trong những điểm chủ chốt trong khái niệm về kế hoạch lớn. Quần đảo được coi là “châu Âu” đối với những nhà du lịch hiện đại. Nó có tính chất châu Âu ở phong tục của nhân dân - đa số là những người Bồ Đào Nha và với một qui mô nhỏ, những người Flamand. Nó có tính chất châu Âu ở khí hậu, không khác nhiều khí hậu Bồ Đào Nha, dù ẩm hơn. Nó mang tính chất châu Âu vì những người châu Âu đã mang động vật và thực vật châu Âu vào quần đảo này. Trong thời Colombo người ta chỉ mới bắt đầu cảm thấy những ảnh hưởng thực dân hóa của người Bồ Đào Nha và của người Flamand. Hệ thực vật vẫn là bản xứ, được đặc trưng bởi những cây có tính chất điển hình Đại Tây Dương. Và sự có mặt của con người thì chưa rõ ràng, trừ trong một số ít lạch và vịnh, nơi thành lập những khu định cư đầu tiên. Quần đảo có vẻ là kết quả tự nhiên của những núi lửa đã bất ngờ phun nham thạch ở vùng này của Đại Tây Dương và đã tạo ra một số đảo và đảo nhỏ bao quanh: São Miguel và Santa Maria ở phía đông; Terceira, Graciosa, São Jorge, Pico và Fayal ở miền trung, Flores và Corvo ở phía tây. Quần đảo là một đơn vị. Tất cả các đảo đã và đang thuộc Bồ Đào Nha, và ngay cả theo quan điểm địa vật lý, mới nhìn qua đã thấy sự thống nhất của nó. Nguồn gốc núi lửa rõ rệt ở các đảo: tất cả có caldeiras, những miệng núi lửa thường có hồ ở đáy, và ở mọi nơi có những dòng nham thạch ba-dan, những suối nước nóng và những lỗ thoát hơi nước. Nhưng vì sự thống nhất này - trong thực tế, vì sự tương phản rõ rệt với sự đồng nhất này - những người có ý thức về biển như Colombo không thể không lưu ý đến sự khác biệt sâu sắc về tác động của gió và những dòng nước trên những đảo phía đông và trên những đảo phía tây. Chỉ trong mùa đông toàn bộ quần đảo mới nằm dưới gió tây và gió tây - nam. Trong những mùa khác hai đảo ở phía đông São Miguel và Santa Maria, chịu ảnh hưởng tốt của gió xích đạo đông - bắc, trong khi đó những đảo miền trung và miền tây vẫn chịu ảnh hưởng của gió tây và tây nam. Hình như trong sự rối mù này, Đại Dương muốn thiết lập sự gặp lại của hai lực lượng siêu nhân, gần như một lực chia cắt,