🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Cuộc Nổi Dậy Của Nhà Tây Sơn - George Dutton & Lê Nguyễn (dịch) full mobi pdf epub azw3 [Lịch Sử] Ebooks Nhóm Zalo CUỘC NỔI DẬY CỦA NHÀ TÂY SƠN Tác giả: George Dutton Lê Nguyễn dịch và giới thiệu NXB tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh ebook©vctvegroup Tặng Jessief Talia và Miranda LỜI GIỚI THIỆU Trong lịch sử Việt Nam, có lẽ cuộc nội chiến giữa nhà Nguyễn và nhà Tây Sơn là sự kiện đưa đến nhiều dị biệt nhất về mặt quan điểm hay nhận thức. Nổi bật nhất là quan điểm đưa ra cách nay hơn nửa thế kỷ, coi phong trào Tây Sơn như cuộc nổi dậy của giới nông dân bị áp bức, bóc lột, chống lại nhà Nguyễn thối nát và mang lại công bằng xã hội cho mọi tầng lớp nhân dân. Sự lý tưởng hóa hầu như mọi hoạt động của phong trào Tây Sơn đã dẫn đến một số nhận định chủ quan về thực chất của phong trào này và cũng từ đó, nhiều sự thật lịch sử liên quan đến phong trào chưa được làm sáng tỏ. Gần đây, cuộc nội chiến kéo dài 30 năm từ đầu thập niên 1770 đến đầu thập niên 1800 được nhiều học giả, nhà nghiên cứu nước ngoài để tâm tìm hiểu, dựa vào nhiều nguồn tư liệu ở các văn khố nước ngoài, tiêu biểu là văn khố của Bộ Hải quân và Thuộc địa cũ và Hội Truyền giáo Hải ngoại Paris (Pháp). Nhờ thế mà số dữ kiện được đưa ra về thời kỳ này phong phú hơn, nhiều sự thật lịch sử trước đây, vì lý do này hay lý do khác, còn mơ hồ, chưa thống nhất, nay được rõ ràng, dứt khoát hơn. Một trong những tác phẩm tiêu biểu cho chủ đề này là The Tây Sơn uprising (Cuộc nổi dậy của nhà Tây Sơn) của giáo sư sử học người Mỹ George Dutton mà bản dịch đang nằm trên tay quý bạn đọc. Tác giả là giáo sư bộ môn Ngôn ngữ và Văn hóa châu Á thuộc trường Đại học California tại Los Angeles (UCLA), Mỹ; từng giảng dạy môn lịch sử Việt Nam cận và hiện đại, đồng thời là tác giả nhiều sách viết về xã hội Việt Nam các thế kỷ XVIII, XIX và XX. Riêng tác phẩm The Tây Sơn Uprising được trường Đại học Hawai’i xuất bản năm 2006 là một công trình nghiên cứu quan trọng của Dutton về phong trào Tây Sơn những năm 1771-1802, trong khuôn khổ một cuộc nội chiến ác liệt và dằng dai kéo dài hơn 30 năm, với những di chứng còn tồn tại đến thế kỷ XIX. Dutton đã dành phần lớn tác phẩm này để bàn về mối quan hệ giữa nhà Tây Sơn với các thành phần xã hội phức tạp lúc bấy giờ, gồm có giới nông dân, người châu Âu tại Đại Việt, các sắc tộc thiểu số như người Hoa, người Chăm, người Khmer, đồng bào Thượng trên cao nguyên và cả những thành phần cư dân mà tác giả gọi là “những kẻ sống bên lề xã hội”. Ở mỗi chủ đề, tác giả đã tham khảo nhiều nguồn tư liệu bằng các ngôn ngữ khác nhau để lý giải vấn đề, chủ yếu nhằm làm sáng tỏ nhiều chi tiết lịch sử còn thiếu sót hay mơ hồ. Trước tiên, bàn đến quan điểm xem nhà Tây Sơn là một phong trào nông dân, Dutton đưa ra một số luận cứ nhằm minh họa cho cách nhìn của ông. Ông viết: “Người nông dân thời kỳ Tây Sơn là những kẻ lót đường cho quân đội, là đối tượng của sự lao dịch, là nguồn tiếp tế và nguồn lợi tức cho phong trào. Những người đàn ông và đàn bà đó có thể nuôi ước vọng về một cuộc sống tốt hơn, điều này phản ánh trong sự ủng hộ đầy vẻ lạc quan của họ khi nhìn thấy những biểu hiện sớm sủa của cuộc nổi dậy, song những ước vọng đó sớm nhường chỗ cho một thực tế đầy thất vọng và theo những chứng cứ khả dĩ nhất, ít có người nông dân nào nhìn thấy một sự cải tiến đáng kể trong đòi sống của họ phát xuất từ hành động của nhà Tây Sơn*”. Không phải ai cũng đồng tình với quan điểm của tác giả, song sự gợi mở của ông tạo nên sức sống mới cho sinh hoạt học thuật về thời kỳ này đã từ lâu đi theo những lối mòn. Dutton nhận định rằng, lúc bắt đầu cuộc nổi dậy, nhà Tây Sơn cũng chỉ tái phân phối những tài sản có giá trị thấp, hoặc lúa gạo cho người nông dân thay vì thừa nhận quyền sở hữu ruộng đất của họ thông qua những chứng từ hợp pháp. Người nông dân trong cuộc nội chiến 1771-1802 trở thành công cụ lớn nhất cho mục tiêu tối hậu của anh em Tây Sơn, để rồi, như một nhận định khá chua chát của Dutton, cuối cùng “họ trở thành kẻ đồng lõa với sự áp bức chính họ*”, bởi vì sự đóng góp công sức của họ đã được đền đáp bằng sự bóc lột họ bằng sưu cao thuế nặng. Trong thành phần những sắc dân thuộc khối thiểu số, qua ngòi bút của George Dutton, mối quan hệ giữa nhà Tây Sơn và người Hoa cũng phức tạp không kém. Mối quan hệ này khởi đầu từ việc thu nhận các lực lượng người Hoa dưới quyền của hai thương nhân Tập Đình và Lý Tài vào trong hàng ngũ Tây Sơn, và nó chặt chẽ đến nỗi vào năm 1775, một nhà quan sát người Âu đã viết rằng, phần lớn quân nổi dậy là người Hoa. Song mối quan hệ đó sớm lụi tàn, nhường chỗ cho những ân oán kéo dài, nhất là vào thập niên 1780, khi nhà Tây Sơn tàn sát hàng ngàn người Hoa tại vùng Gia Định. Cuộc thảm sát này mang màu sắc một sự trả thù cho viên tướng Tây Sơn Phạm Ngạn bị sát hại bởi đạo quân Hòa Nghĩa gồm phần lớn là người Hoa, song theo Dutton (và một số tác giả khác), mối quan hệ căng thẳng giữa nhà Tây Sơn và người Hoa lúc bấy giờ bị chi phối bởi nỗi lo ngại cộng đồng này là những trung tâm tài chánh nếu không tự nguyện đóng góp vật chất cho đạo quân nhà Nguyễn thì ít nhất cũng nằm trong tầm ảnh hưởng và sự chỉ phối của đạo quân này. Song Dutton cũng cho rằng không phải lúc nào mối quan hệ giữa nhà Tây Sơn và người Hoa cũng mang màu sắc tiêu cực. Chỉ một năm sau cuộc thảm sát người Hoa tại Sài Gòn (1782), các tàu buôn của họ tiếp tục cập bến buôn bán tấp nập. Đối với người Âu, chủ yếu là những người Pháp đang sống bên trong hay bên ngoài guồng máy chiến tranh, qua ngòi bút của Dutton, nhà Tây Sơn thường cho rằng các cuộc thất trận lớn của họ là do có sự tham gia của những người Âu thiện chiến trong lực lượng của Nguyễn Ánh. Tuy nhận định này có tính phóng đại ít nhiều, song họ cũng nỗ lực chiêu dụ những người Pháp có năng lực về mặt kỹ thuật, công nghệ, gia nhập vào đạo quân của họ. Trường hợp cựu đại tá công binh Olivier de Puymanel (có tên Việt là ông Tín), người đã xây thành bát quái (thành Sài Gòn) cho chúa Nguyễn vào năm 1790, là một ví dụ tiêu biểu cho sự níu kéo của nhà Tây Sơn đối với người Pháp. Trong tác phẩm của mình, George Dutton đã viện dẫn tài liệu của một giáo sĩ kể lại câu chuyện vào năm 1795, Thái sư nhà Tây Sơn là Bùi Đắc Tuyên đã công khai yêu cầu các giáo sĩ giao Puymanel cho ông ta nếu không muốn các nhà thờ bị phá hủy. Tuyên còn có ý định nhờ một Tổng trấn ở Manila (Philippines) bắt giữ Puymanel giùm. Cũng từng có cuộc tiếp xúc giữa một đại diện thương mại Anh là Charles Chapman với Nguyễn Nhạc và nhà lãnh đạo Tây Sơn muốn nhờ Tổng trấn Bengale cử người huấn luyện quân sĩ giùm, nhưng những ý định của ông ta cũng không thành hiện thực. Cuối cùng, mối quan hệ giữa nhà Tây Sơn và hải tặc Trung Hoa là chủ đề được Dutton đề cập khá kỹ, ông nêu ra những dữ kiện minh chứng cho mối quan hệ giữa phong trào này và các nhóm hải tặc Trung Hoa bị chính quyền nhà Thanh tróc nã, phải trôi dạt xuống các vùng biển phía nam. Đây là một lực lượng quan trọng cả về nhân số lẫn phương tiện và vũ khí, có những đạo quân hải tặc lên tới hàng ngàn người và một số tàu thuyền hàng trăm chiếc. Nhà Tây Sơn đã tuyển mộ thành phần này và sử dụng họ dưới hai hình thức chính: một là để kiểm soát đường biển, ngăn chặn các tàu thuyền di chuyển nhằm mục đích tiếp xúc, tiếp tế cho chúa Nguyễn Ánh; hai là để chia sẻ một phần lợi kiếm được cho phong trào này, bù đắp vào những khoản thiếu hụt về vật tư và tài chánh. Dutton đã mô tả với nhiều chi tiết hơn về điểm này: “Được đánh giá cao do khả năng hạn chế các hoạt động của con người, bọn hải tặc cũng có ích về mặt tài chánh cho nhà Tây Sơn. Đổi lại với việc cung cấp cho hải tặc nơi trú ẩn an toàn trong vịnh Bắc phần, nhà Tây Sơn nhận được một tỷ lệ phần trăm những của cải mà tàu thuyền của chúng cướp được. Về những của cải được đưa qua vùng biển này, hoạt động tuần tra có lọt rất nhiều cho cả hai phía. Cứ mỗi mùa xuân và mùa hè, các tàu hải tặc bắt đầu mùa cướp bóc, rồi khi mùa thu đến thì chúng quay về nơi trú ẩn an toàn. Murray viết rằng, các hải tặc sẽ nộp của cải cướp được cho nhà Tây Sơn (ít nhất về mặt lý thuyết); Tây Sơn lại mang bán chúng ở Đại Việt rồi hoàn từ 20 đến 40% tiền thu được cho hảỉ tặc...*”. Những gì George Dutton trình bày trong tác phẩm của ông cho thấy một thực trạng chung của cả hai bên trong cuộc nội chiến kéo dài hơn 30 năm, đó là sự câu kết, hợp tác với những thế lực bên ngoài để tăng cường sức mạnh chiến đấu cho lực lượng của mình. Tác giả đã có nhận định khá tinh tế về vấn đề này: “Kết luận rằng trộm cướp và hải tặc giữ vai trò quan trọng trong cuộc nổi dậy của nhà Tây Sơn không nhằm làm mất uy tín các lãnh tụ phong trào, như ý đồ của các sử gia triều Nguyễn, cần trung thực hơn khi miêu tả thành phần phức tạp của cuộc nổi dậy, phản ánh tính không đồng nhất của xã hội Đại Việt cuối thế kỷ XVIII. Cũng như đối thủ của họ là chúa Nguyễn, nhà Tây Sơn trước tiên là những kẻ thực dụng, trong việc tuyển mộ quân đội, họ không nghĩ đến nền tảng xã hội, và kinh nghiệm, mà chỉ nghĩ đến những con số tuyệt đối. Đối với người tuyển mộ của nhà Tây Sơn, một kẻ cắp hay cướp biển không phải là một tên tội phạm cần tiêu diệt, mà là một người có kinh nghiệm chiến đấu, có thể tự trang bị vũ khí, sẵn sàng thách thức với nhà cầm quyền*”. Khi đánh giá chung về nhà Tây Sơn, George Dutton có những nhận định khá thẳng thắn khi ông viết: "... các lãnh tụ Tây Sơn không phải là những người canh tân hay những nhà cách mạng, mà chỉ là những kẻ cơ hội về chính trị. Họ tỏ ra thực dụng khi đưa ra nhiều lời kêu gọi khác nhau, theo nhiều cách khác nhau, vào những thời điểm khác nhau, sử dụng những công cụ tìm thấy, và những tình huống bắt gặp được để tranh thủ sự ủng hộ và để họp pháp hóa bản thân họ cũng như phong trào của họ. Cho dù một vài sử gia người Việt cố gán cho cuộc nổi dậy của nhà Tây Sơn những mưu định lớn lao, một cái nhìn sâu sát hơn cho thấy họ chẳng có một chiến lược nào tài giỏi, rất ít khi dựa vào một triết lý đặc biệt nào. Tuyên ngôn của các nhà lãnh đạo Tây Sơn về những mục tiêu nào đó thường được tính toán nhắm vào lợi ích riêng tư và quyền lực chính trị cùa họ, mà không nhằm tạo sự chuyển biến cho đất nước họ hay cho đời sống của cư dân của họ*” Ở một đoạn khác, tác giả còn tỏ ra gay gắt hơn: “Vì thế, thay vì miêu tả anh em nhà Tây Sơn như những nhà cách mạng, chính xác hơn là chúng ta nên xem họ như những diễn viên phụ (cho dù là ghê gớm) trên một sân khấu chính trị đông đúc và rộng lớn mà diễn viên và đồ dùng đã được dọn sẵn. Mở rộng cách ẩn dụ này hơn nữa, có thể nói các lãnh tụ Tây Sơn là những diễn viên không có kịch bản, tùy nghi ứng biến vai diễn của họ cũng như hướng giải quyết của vở kịch. Họ được dẫn dắt không phải bởi một tầm nhìn dài hạn mà bởi động cơ cá nhân ngắn hạn, đáp ứng với những tình huống hay thay đổi*”. Trên là nhận định của tác giả về nhà Tây Sơn nói chung, song tách riêng nhân vật lịch sử Nguyễn Huệ, Dutton có một cái nhìn khác, sâu sắc và trọng thị hơn rất nhiều: "... Sự tin tưởng của người xứ Đàng Ngoài vào vua Quang Trung phát xuất phần lớn từ việc ông bảo vệ đất nước Đại Việt chống lại cuộc xâm lược của quân nhà Thanh vào năm 1788. Chính hành động này, hơn bất cứ hành động nào khác, đã củng cố tầm vóc của ông trong con mắt của các nho sĩ Bắc hà cũng như trong quảng đại quần chúng. Chiến thắng quân Thanh của ông đã dứt khoát đưa ông vào ngôi đền của những anh hùng dân tộc - Hai Bà Trưng, Trần Hưng Đạo và Lê Lợi, là những người đã bảo vệ đất nước chống lại người láng giềng phương Bắc. ông gợi nhớ lại chiến công của những vị anh hùng này khi tập họp quân đội tấn công quân Thanh và chiến công của ông rõ ràng đã kết nối thành tích của ông với thành tích của các vị anh hùng. Chỗ đứng của Quang Trung trên vũ đài quốc gia được xác định bởi chiến công của ông về mặt quân sự hơn là tầm nhìn chính trị của ông. Hình như là sau nhiều năm xa chiến trường, vua Quang Trung cần đến sự kích động và một sự tưởng thưởng hậu hĩnh từ một cuộc đối đầu quân sự khác. Thật vậy, cuộc xâm lăng có trù tính nhắm vào nhà Thanh chứng tỏ logic quân sự và chính trị được liên kết đến mức độ nào trong đầu óc của ít nhất một lãnh tụ nhà Tây Sơn*". Thưa quý độc giả Dịch ra Việt ngữ một tác phẩm như The Tây Sơn uprising là điều cực khó, khi phải lồng những văn từ bằng tiếng nước ngoài thời hiện đại vào khuôn khổ xã hội Việt Nam thế kỷ XVIII với nhiều dị biệt về tổ chức chính quyền, phong tục tập quán, ngôn ngữ thông dụng. Điều này đòi hỏi người dịch phải có một kiến thức nhất định về lịch sử Việt Nam thời kỳ này để chuyển tải đến người đọc những nội dung mà tác giả của nó muốn gửi gắm, đồng thời để bổ sung những thiếu sót hay đính chánh những chi tiết mà tác giả có phần nhầm lẫn khi đi sâu vào những vấn đề lịch sử phức tạp. Nỗi khó khăn càng nhân lên nhiều hơn khi phải “hoàn nguyên” những chỗ tác giả trích dịch ra tiếng Anh một đoạn tác phẩm bằng Việt ngữ. Dù rất cố gắng, song có những tác phẩm bằng Việt ngữ, người dịch và người biên tập không tìm thấy để có thể ghi lại đúng nguyên văn phần đã được tác giả tham khảo và dịch ra tiếng Anh. Trong trường hợp này, sự dịch ngược trở lại chỉ có thể đáp ứng về mặt nội dung, đành bỏ qua nguyên văn của tài liệu gốc. Đôi lúc, chúng tôi có được may mắn phát hiện những sai sót “chết người” của tác giả khi dịch ngôn ngữ Việt ra tiếng Anh, ví dụ khi ông dịch từ “trăm họ” trong sách Đại Nam thực lục là “hundred sumames” hay từ “thiên hạ” là “under heaven”, song những phát hiện ít ỏi đó không có nghĩa là những sai sót như thế đã được tìm thấy hết. Vì tác phẩm này dựa vào một nguồn tài liệu thật phong phú nên chỉ trong hơn 300 trang bản thảo dạng pdf, đã có đến 764 chú thích! Số lượng chú thích khổng lồ này lại được tập trung hết vào cuối quyển sách, có thể không thuận tiện cho người đọc, cho nên chúng tôi đã cố gắng đưa chúng xuống cuối mỗi trang sách để bạn đọc dễ dàng theo dõi hơn. Dù số chú thích của tác giả đã quá nhiều, người dịch vẫn thấy có trách nhiệm bổ sung những chú thích của riêng mình đối với các chi tiết lịch sử mà tác giả đã không trình bày một cách đầy đủ hay sai lạc. Những chú thích của riêng người dịch sẽ được ghi thêm ở cuối câu ký hiệu (" ND). Tất nhiên chúng tôi vẫn rất cần ở quý độc giả sự hợp tác để giúp chúng tôi bổ sung, chấn chỉnh những sai sót của tác giả hay người dịch trong các lần tái bản sau. Trân trọng, Lê Nguyễn LỜI CẢM TẠ Tác phầm này xuất phát từ một luận án tiến sĩ tôi đã nghiên cứu và soạn thảo khi làm việc tại trường Đại học Washington, giữa những năm 1994 và 2001. Trong thời gian ở Đại học Washington, tôi nhận được rất nhiều sự hỗ trợ và khích lệ của các thành viên ủy ban duyệt xét luận án, đặc biệt là bà Laurie Sears và ông Christoph Giebel. Hướng dẫn luận án cho tôi, Laurie là người mà một nghiên cứu sinh có thể kỳ vọng: một người tư vấn nhiệt tình, một nhà phê bình sâu sắc và mạnh dạn. Tôi tự thấy mình may mắn được làm người học trò của bà. Christoph cũng hay giúp đỡ như vậy, ngay lúc tác phẩm này mới được khối thảo, ông đã dành cho tôi những lời phê bình sâu sắc và đặt ra cho tôi những câu hỏi gợi lên nhiều suy nghĩ. Tôi cũng nhận được sự hỗ trợ và động viên của các bạn nghiên cứu sinh về lịch sử Việt Nam ở trường Đại học Washington và nhiều nơi khác, đặc biệt các bạn Judith Henchy, Jamie Anderson, Michele Thompson, David Biggs, Liam Kelley và Charles Wheeler. Về sau, khi tôi chuyển bản luận án này thành tác phẩm, tôi được hỗ trợ bởi những ý kiến sâu sắc, những gợi ý và sửa chữa của những người đã đọc từng phần hay toàn bộ tác phẩm dưới nhiều hình thức khác nhau. Tôi đặc biệt biết ơn những lời phê bình rộng lượng của Victor Lieberman, Peter Zinoman, Li Tana, Nola Cooke, Liam Kelley và David Chandler. Những phê bình của họ đã khiến tôi suy nghĩ lại về nhiều điều trong bản thảo và giúp tôi biên soạn một bản thảo cuối cùng mà tôi hi vọng là sẽ tốt hơn. Tôi cũng đánh giá cao nhiệt tình của Alexander Woodside khi trả lời một số câu hỏi của tôi và góp ý với tôi về các vấn đề liên quan đến nguồn tư liệu và nghiên cứu. Cuối cùng, khi tôi tiếp tục duyệt lại bản thảo, tôi nhận được sự hỗ trợ và động viên tinh thần của khoa Ngôn ngữ và Văn hóa châu Á của tôi ở Đại học California, Los Angeles (UCLA), đặc biệt là tình thân hữu của Thu Hương Nguyễn Võ, Namhee Lee, và Michael Bourdaghs. Nói lời biết ơn về tất cả những góp ý và phê bình mà tôi nhận được trong lúc viết ra tác phẩm này, tất nhiên tôi là người chịu trách nhiệm sau hết đối với sản phẩm cuối cùng và những khuyết điểm còn lại của nó. Có nhiều cách để viết lịch sử về nhà Tây Sơn; đây là một trong những cách như thế. Cuộc nghiên cứu để làm ra tác phẩm này được hỗ trợ một phần bởi Chương trình học bổng Fulbright-Hayes cho việc nghiên cứu luận án ở nước ngoài và học bổng VI FLAS. Cuộc nghiên cứu này cũng không thể có được nếu không có những sự giúp đỡ trong thời gian tôi lưu lại Việt Nam, Pháp và Rome. Tại Việt Nam, các ông Nguyễn Quang Ngọc, Phan Huy Lê và Đỗ Bang đã giúp đỡ đặc biệt cho việc nghiên cứu được dễ dàng, cũng như các viên chức ở Viện Hán Nôm, các Thư viện Khoa học xã hội ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, Thư viện Quốc gia Hà Nội, Thư viện tỉnh Bình Định ở Qui Nhơn. Tại Paris, tôi may mắn được tiếp cận kho tài liệu gồm những thư từ thật cập thiết của các giáo sĩ được lưu trữ tại Văn khố Hội Truyền giáo Hải ngoại Paris. Vị giám đốc văn khố là Cha Gérard Moussay và người phụ tá của ông là Brigitte Appavou đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi được sử dụng nguồn tư liệu này. Tôi cũng muốn cảm tạ các viên chức ở Thư viện Vatican, nơi tôi được tiếp cận các bản thảo thật hấp dẫn của một giáo dân Việt Nam tên Jesuit Philiphê Bỉnh. Cuối cùng, tôi xin cảm ơn Jessie Yuan, hiền nội của tôi, và Talia, con gái tôi. Họ góp ý rất nhiều khi tôi nghiên cứu và viết quyển sách này, tôi rất biết ơn họ vì điều này. Họ luôn nhắc nhở rằng, những gì quan trọng đối với tôi không nằm trong những tài liệu ghi chép khô khan (dù hấp dẫn) về những người khuất bóng đã lâu rồi. DẪN NHẬP Mùa xuân năm 1773, một đạo quân nhỏ gồm những bộ tộc sống ở vùng cao và nông dân ở vùng đồng bằng mở đường đi xuống từ vùng cao nguyên An Khê, nơi ngày nay là vùng Nam Trung Việt Nam, để tấn công phủ lỵ Qui Nhơn* có tường thành bao quanh, cầm đầu đạo quân này là một người buôn trầu cau và làm biện lại, tên Nguyễn Nhạc. Không tìm ra phương kế tấn công trực diện vào thành, lực lượng nổi dậy sử dụng một mưu chước. Họ giả vờ bắt người cầm đầu (Nguyễn Nhạc) bỏ vào cũi và giải giao ông ta cho quan phủ, ông này cho giam Nhạc trong thành như một tù nhân. Đêm hôm đó, Nhạc tự giải thoát và mở cổng thành cho đạo quân của ông ta đang chờ sẵn. Những kẻ nổi dậy nhanh chóng vô hiệu hóa lực lượng bảo vệ thành, đốt cháy doanh trại, khiến quan Tuần phủ hoảng sợ bỏ chạy*. Thắng lợi củng cố lòng tự tin, quân nổi dậy nhanh chóng tiến đánh các mục tiêu khác dọc theo bờ biển. Khi họ di chuyển về vùng quê, bước dưới một ngọn cờ to màu đỏ, quân lính đội khăn màu đỏ và tạo ra những tiếng động lớn nhằm đe dọa đối phương. Đạo quân của Nguyễn Nhạc tịch thu tài sản của những người giàu có bất hợp tác với họ và mang chia cho những người nông dân nghèo khổ vốn coi họ như những “kẻ cướp nhân đức và giàu lòng từ thiện*”. Chuỗi sự kiện này đánh dấu sự khỏi đầu của một trong những thời kỳ quan trọng nhất trong lịch sử Việt Nam, thời kỳ mà sự biến động về kinh tế và xã hội diễn ra suốt gần ba thập kỷ và ảnh hưởng còn kéo dài đến thế kỷ XIX. Những cuộc xung đột vào cuối thế kỷ XVIII nổ ra trên đồng ruộng và ở các vùng duyên hải thuộc lãnh thổ Việt Nam, cũng như trong những trung tâm quyền lực chính trị đang tồn tại hoặc sẽ xuất hiện trong lúc cuộc nổi dậy xảy ra. Trước khi đạo quân nổi dậy bị đánh bại hoàn toàn vào năm 1802, họ đã lật đổ hai dòng họ trị vì, thống nhất trong thời gian ngắn một lãnh thổ đã được cai trị lâu dài bởi hai vương triều khác nhau và đánh dấu chấm hết cho một triều đại kéo dài ba trăm năm. Dưới sự chỉ huy của Nguyễn Nhạc và hai người em trai - Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ - quân nổi dậy cũng khiêu khích và đẩy lùi các cuộc xâm lược qui mô lớn xuất phát từ Xiêm và Trung Quốc, và bản thân họ cũng tiến hành những cuộc phiêu lưu quân sự tại hai vương quốc láng giềng Khmer và Lào. Khi cuộc nổi dậy và tiếp theo là những trận chiến kéo dài, lính đánh thuê người Pháp, người Bồ Đào Nha, người Trung Hoa và người Đông Nam Á lao vào cuộc chiến, và hàng trăm ngàn người đã ngã xuống bởi chiến tranh và nạn đói. Nhiều người khác nữa đã rời bỏ nhà cửa, ruộng vườn khi xã hội Việt Nam “ từ giai cấp nông dân đến những thành phần ưu tú về tri thức và chính trị, những nhà tu hành và các bộ tộc thiểu số - phải đối mặt với một vương quốc đang hồi biến loạn. Cuộc nổi dậy mang tên của ấp Tây Sơn là nơi mà những người lãnh đạo xuất hiện. Với ý nghĩa "núi về phía tây'", cái tên này có liên quan đến vị trí ngôi làng ở cạnh một vùng đất cao nhô lên từ khu vực ven biển gần Qui Nhơn, trong một vương quốc mà người thời đó gọi là Đàng Trong, còn người châu Âu thì gọi là Cochin - China. Cư dân vùng Qui Nhơn xuất thân từ những nhóm người đi lập nghiệp, những cựu tù nhân bị bắt giữ trong các cuộc chiến tranh vào thế kỷ XVII giữa chính quyền họ Nguyễn ở phương Nam và chính quyền họ Trịnh ở phương Bắc. Hai dòng họ tranh giành nhau quyền lực chính trị trên suốt chiều dài lãnh thổ Việt Nam. Người Việt ở Qui Nhơn và vùng nội địa sống rất gần với những nhóm người miền cao rất trung thành với các chúa Nguyễn. Vùng Qui Nhơn cũng là nơỉ tồn tại những di tích của vương quốc Chăm hùng mạnh từng thống trị vùng duyên hải Nam-Trung Việt Nam ngày nay. Khu vực này trở thành nơi bùng phát sự thù nghịch vây bọc lãnh thổ Việt Nam trong hơn 30 năm trời. Những anh em lãnh đạo cuộc nổi dậy được người đương thời biết đến với nhiều cái tên. Người đầu lãnh được viên chỉ huy quân Trịnh vào chiếm lấy Đàng Trong năm 1774 gọi là "Biện Nhạc ngông cuồng"; "biện” là từ ám chỉ vai trò viên chức thu thuế* cho địa phương. Với những người khác thì Nhạc được gọi là "trại chủ*”, nhằm nói đến sự liên kết quân sự giữa ông ta với nhiều băng cướp cùng phe. Một vài nhân chứng là giáo sĩ người Âu gọi ông ta là "cái ông Nhạc bội giáo ấy”, tin rằng ông ta sinh ra trong một gia đình Thiên Chúa giáo*. Người em trai của ông ta là Nguyễn Huệ cũng có một biệt hiệu được phổ biến rộng rãi như thế. Với những hải tặc Trung Hoa mà ông ấy tuyển mộ vào lực lượng hải quân của ông, Huệ là “Đại soái Việt Nam”, và là “kẻ dấy loạn bảo vệ cho hải tặc*”. Đối với giới nhân sĩ ở Đàng Ngoài, khi chạm trán với nhân vật huênh hoang này, người đã xâm chiếm vương quốc của họ vào năm 1786, ông ấy là "Chế Bồng Nga” - ám chỉ ông vua Chăm cũng từng đánh chiếm lấy thành Thăng Long (nay là Hà Nội) vào thế kỷ XIV như vậy. Với những giáo sĩ châu Âu, ông ấy gọi lên hình ảnh những kẻ phiêu lưu quân sự thời xưa, và họ gọi ông là “Attila khác” hoặc “Alexandre Đại đế*”. Và, như chúng ta đã biết, đối với một số nông dân Việt, ba anh em nhà Tây Sơn là “những kẻ cướp nhân đức và giàu lòng từ thiện”. Chính những gương mặt đầy màu sắc như tắc kè ấy, mà đối với nhiều người chúng tượng trưng cho nhiều thứ, đã lãnh đạo cuộc nổi dậy phi thường này. Hình 1: Bản đồ Đại Việt thế kỷ XVIII cho thấy nhưng trung tâm đô thị lớn, các con sông và sự phân chia lãnh thổ Trịnh-Nguyễn trước năm 1774. Nhiều chiêu bài mà những người cầm đầu cuộc nổi dậy sử dụng đã cho thấy rõ sự hiện diện của những nhóm xã hội phức tạp và chồng chéo nhau dính líu vào những biến động của thời kỳ này. Trộm cướp, hải tặc, người Chăm, giáo dân Công giáo, những kẻ phiêu lưu quân sự, và các viên chức địa phương đều là những thành phần của một mạng lưới xã hội đã được thử thách một cách dữ dội bởi cuộc chiến dài 30 năm của nhà Tây Sơn. Thời kỳ của nhà Tây Sơn quan trọng không đơn thuần do những động lực xã hội phức tạp đã làm cho nó biến đổi một cách sâu sắc, hoặc do sự tồn tại lâu dài và tác động lớn lao của nó lên dân tộc Việt Nam. Điều quan trọng là nó đánh dấu một điểm gãy đổ của lịch sử, khi mà các động lực nội tại đã tổng lược những chủ đề cơ bản được dùng từ lâu để định hình tiến trình của lịch sử Việt Nam. Như một điểm ngắt quãng, thời kỳ của nhà Tây Sơn được xem là một tiêu biểu cho bi kịch cuối cùng trong sự chuyển dần quyền lực chính trị và kinh tế tại vùng phía bắc châu thổ sông Hồng về phía nam xuyên qua đèo Hải Vân và hướng về đồng bằng sông Cửu Long. Đó là một chuyển biến đã diễn ra trên hai thế kỷ, thể hiện sức mạnh đang lớn lên và sự thịnh trị của các chúa Nguyễn cùng với sự mở rộng ảnh hưởng của họ trên vùng lãnh thổ phía nam của kinh đô Phú Xuân (gần Huế ngày nay). Một chuyển biến cuối cùng đã làm nảy sinh hai nhà nước độc lập với nhau về mặt chính trị - điều mà nhà nghiên cứu Li Tana gọi là “hai nước Đại Việt” - với nhà Nguyễn kiểm soát các lãnh thổ ở phía nam và dòng họ Trịnh ở phía bắc, người Việt gọi là Đàng Ngoài, còn người châu Âu thì gọi là Đông Kinh*. Sự kiện nhà Tây Sơn xâm chiếm Đàng Ngoài, khởi đầu vào năm 1786, đã kết thúc chế độ tự trị về mặt chính trị của vùng này và bắt đầu một tiến trình theo đó thế lực ở phía nam vươn lên, trước tiên bởi chế độ mới do những người nổi dậy lập nên và sau đó, bởi các chúa Nguyễn đã đánh bại họ. Giai đoạn này cũng được đẩy nhanh bởi sự dính líu của người châu Âu (đặc biệt phần lớn là người Pháp) vào vấn đề chính trị nội bộ của người Việt Nam và của người Việt Nam vào những vấn đề thuộc về lục địa Đông Nam Á. Cho dù sự tiếp xúc giữa người châu Âu và người Việt đã bắt đầu từ thế kỷ XVI và đã trở nên ổn định vào cuối thế kỷ XVIII, song sự dính líu của các giáo sĩ Pháp và hải tặc vào đời sống chính trị của Đại Việt đã dâng lên rất cao trong cuộc xung đột với nhà Tây Sơn. Điều này mở đường cho sự đính líu về mặt quân sự và chính trị về sau này của người Pháp tại bán đảo Đông Dương, dẫn đến những hậu quả to lớn vào giữa thế kỷ XIX. Ở cùng thời điểm này, những năm tháng của triều đại Tây Sơn cũng cho thấy sự gia tăng dính líu của người Việt vào những vấn đề chính trị của các lân bang, bao gồm các vương quốc của người Khmer, người Xiêm và người Lào. Có lúc người Xiêm trở thành đồng minh của chúa Nguyễn trong cuộc chiến chống lại nhà Tây Sơn, trong lúc các sứ giả Tây Sơn tìm cách tranh thủ sự hỗ trợ của người Xiêm cho mục tiêu riêng của họ. Quân đội Tây Sơn cũng từng xâm chiếm lãnh thổ của cả Chân Lạp lẫn Lào, lôi cuốn họ vào cuộc xung đột giữa những người Việt với nhau. Vì thế mà những biến động vào thời kỳ này đã đẩy người Việt dính líu sâu hơn vào các vấn đề chính trị của lục địa Đông Nam Á diễn ra mạnh mẽ vào thế kỷ XIX. Trong khi chúng ta có thể xem thời đại của nhà Tây Sơn là thời đại của sự gián đoạn, nó cũng chứng tỏ được nhiều yếu tố liên tục trong một tiến trình dài hơn của lịch sử Việt Nam. Những điều này được tìm thấy trong cái cách mà các nhà lãnh đạo chính trị Đại Việt sử dụng để thiết lập chế độ hợp pháp của họ thông qua các tuyên bố dị thường và mang tính thể chế, thông qua bản chất mối quan hệ bất đồng giữa nhà nước và cư dân của họ, mối tương tác giữa người Việt ở vùng đồng bằng với nhiều nhóm dân tộc khác nhau, bao gồm người ở vùng cao, người Hoa, người Chăm, vai trò của những danh ngôn và thuật hùng biện của Khổng phu tử trong việc trị nước và kiểm soát xã hội, và từ đó, định ra những giới hạn thực sự. Các lãnh tụ Tây Sơn liên minh với nhiều nhóm sắc tộc và thận trọng chiếm đoạt các yếu tố thuộc về di sản lịch sử của người Chăm, họ viện dẫn ngay cả các nguyên lý của Khổng giáo để hợp pháp hóa sự thống trị của họ. Theo cách này, thời đại Tây Sơn có thể được xem vừa là thời kỳ chuyển tiếp dẫn đến sự trỗi dậy của những thế lực mới mẻ có thể định hình cho những gì mà người Việt đã trải qua trong các thế kỷ XIX và XX, vừa là một thế giới vi mô chứa đựng những mặt cơ bản của kinh nghiệm lịch sử lâu dài của người Việt. Công trình nghiên cứu này khảo sát những động lực của thời đại Tây Sơn bằng cách phân tích mối quan hệ giữa các lãnh tụ Tây Sơn nhiều nhóm xã hội, sắc tộc và kinh tế hình thành trong xã hội Đại Việt thế kỷ XVIII. Điều cần nhấn mạnh là tôi đã sử dụng những cách thức liên tục hơn là gián đoạn khi khảo sát những kiểu mẫu lâu đài định hình mối tương tác giữa các lãnh tụ chính trị và những nhóm khác nhau, trên danh nghĩa thuộc quyền hạn của họ. Và rồi, một vài nhóm này, là người Công giáo hay người Tàu chẳng hạn, đã tạo nên những tầng lớp xã hội mới bên trong lãnh thổ lớn hơn của người Việt, chống lại quyền lực của nhà Tây Sơn với những thách thức chưa từng có. Ngoài ra, tôi đã đưa ra giả thuyết rằng, các lãnh tụ nhà Tây Sơn và cuộc nổi dậy của họ (và sau này là chế độ của họ) đã đứng giữa một bên là những thực tế mới mẻ của vương quốc Đàng Trong và một bên là những mô hình được thiết lập lâu dài khi Đại Việt còn là một khu vực bị giới hạn về mặt địa lý và dân số. Rõ ràng rằng, cuộc nổi dậy của nhà Tây Sơn là sản phẩm của một không gian và thời gian đặc biệt trong vương quốc sống động của nhà Nguyễn. Tuy nhiên, ảnh hưởng rộng lớn của nó và các cuộc chạm trán với nhiều nhóm khác nhau ở các vương quốc Đàng Trong và Đàng Ngoài đã cho thấy nhiều yếu tố vượt quá khoảng không gian và thời gian khởi nguồn của nó. Những biến động trong thời đại Tây Sơn phức tạp về mặt chính trị do một loạt những tác nhân chính trị và quân sự có liên quan và do ở mảnh đất mà chúng diễn ra. Những lãnh thổ từ lâu bị chia cách trong hơn một thế kỷ được kết nối trở lại vào giữa những năm 1770 khi quân Trịnh ở phương Bắc xâm chiếm vùng đất phía nam của Đại Việt Cuộc phản công sau đó của nhà Tây Sơn vào năm 1786 đã khiến cho hai khu vực rộng lớn Đàng Trong và Đàng Ngoài trở nên gần gũi hơn về mặt chính trị. Và rồi, vì những lý do chính trị và địa lý, cả hai miền lại tiếp tục chia cách nhau trong suốt thời kỳ này. Kinh nghiệm về những rối loạn thời kỳ Tây Sơn thường rất khác nhau, một sự kiện với những cấu trúc xã hội và kinh nghiệm lịch sử khác nhau, và với những phân tranh về chính trị tồn tại cả trước và trong thời kỳ Tây Sơn. Tuy nhiên, có nhiều kinh nghiệm được chia sẻ cho thấy yêu cầu của các lãnh tụ nhà Tây Sơn và quân đội của họ hiếm khi được người dân ở khắp các vùng miền tôn trọng. Trong công trình nghiên cứu này, tôi sẽ xem những vùng miền này là những thực thể riêng rẽ, làm nổi bật những khía cạnh của hoàn cảnh và kinh nghiệm riêng của chúng, cho dù có những lúc tôi cũng nhấn mạnh đến sự tương đồng giữa chúng với nhau. Thời đại nhà Tây Sơn có thể được nghiên cứu một cách hữu hiệu từ một trong hai địa thế thuận lợi, ấy vậy mà tôi đã chọn khảo sát cả hai, có thể điều này là khá điên rồ. NHÀ TÂY SƠN VỚI LỊCH SỬ ĐƯỢC BIÊN CHÉP BẰNG NGÔN NGỮ PHƯƠNG TÂY Năm 1971, trong một công trình nghiên cứu mở đường cho lịch sử Việt Nam thế kỷ XIX có tên Việt Nam và mô hình Trung Hoa, Alexander Woodside lập luận rằng: “lịch sử cận đại Việt Nam mở ra với cuộc nổi dậy của nhà Tây Sơn*”. Cho dù nhận định này chứa đựng sự thật, cuộc nổi dậy của nhà Tây Sơn vẫn còn là một khoảng trống trong giới học thuật phương Tây, vốn đã thất bại trong việc xử trí những vấn đề phức tạp ở thời kỳ này. Chẳng hạn như tác phẩm của Alexander Woodside, cho dù trong lời tựa công nhận tầm quan trọng của nhà Tây Sơn, cũng chỉ bắt đầu phần tường thuật sau sự thất bại của nhà Tây Sơn, miêu tả cách mà triều Nguyễn đã áp dụng để triển khai các định chế chính trị và hành chánh trong nửa đầu thế kỷ XIX*. Năm 1971 cũng chứng kiến sự ra đời của một công trình tiên phong khác về lịch sử Việt Nam trước thế kỷ XX, đó là tác phẩm Vietnamese Anticolonialism, 1885-1925 (Việt Nam chống chủ nghĩa thực dân, 1885- 1925) của David Marr đề cập đến dòng lịch sử Việt Nam vào cuối thế kỷ XIX, khi Việt Nam chịu chấp nhận qui chế thuộc địa xứ bảo hộ của Pháp*. Một thập kỷ sau, với tác phẩm Vietnamese Tradition on Trial (Truyền thống Việt Nam trong cơn thử thách), David Marr đưa câu chuyện trở về giữa thế kỷ XX, miêu tả thời kỳ đỉnh cao của chế độ thực dân Pháp từ năm 1920 đến năm 1945*. Trong mỗi công trình còn phôi thai của giới nghiên cứu bằng ngôn ngữ Anh, thời kỳ Tây Sơn lẩn khuất ở phía sau, được công nhận do ý nghĩa về mặt lịch sử hay biên chép sử, nhưng không nhất thiết được bàn đến. Giới học thuật viết bằng tiếng Anh gần đây tiếp tục khuynh hướng nghiên cứu những sự kiện diễn ra trước và sau thời kỳ Tây Sơn, cho dù nhiều tác phẩm cuối cùng cũng đề cập trực tiếp đến ít nhất vài yếu tố của thời kỳ này. Đáng chú ý nhất là Li Tana, tác giả của Nguyễn Cochinchina: Southern Vietnam in the Seventeenth and Eighteenth Centuries (Chúa Nguyễn ở Đàng Trong: Đàng Trong thế kỷ XVII và XVIII) (1998) tiếp cận với thời kỳ Tây Sơn từ thế kỷ XVII bằng việc khảo sát sự hình thành một chính quyền nhà Nguyễn ở Đàng Trong*. Bà đã dành trọn một chương cho những năm đầu tiên của cuộc nổi dậy, đánh dấu một công trình nghiên cứu chi tiết bằng tiếng Anh về nhà Tây Sơn, và điều quan trọng là bà đã đặt cuộc nổi dậy này trong khuôn khổ nguồn gốc địa lý và xã hội-chính trị của nó ở Đàng Trong. Li Tana lập luận rằng, đó không phải là một “phong trào nông dân” do những nông dân Việt ở vùng đồng bằng phát động, mà đúng hơn là một “cuộc nổi dậy ở tỉnh thành”, tiêu biểu bởi sự tham gia của những nhóm người bất mãn ở vùng cao*. Bà chỉ tường thuật những năm đầu tiên của cuộc nổi dậy và vì thế đã nêu bật nhà Tây Sơn như một hiện tượng cục bộ, nhưng đã không đề cập đến bản chất của phong trào khi nó bành trướng ra khỏi điểm khởi nguyên của nó. Như tôi sẽ phát biểu về sau, một khi cuộc nổi dậy vượt ra ngoài cội rễ Qui Nhơn, quá trình diễn biến của nó về cơ bản sẽ chuyển qua một thế giới rộng lớn hơn của xã hội và hoạt động chính trị Đại Việt, và nó trở nên lớn mạnh hơn một cuộc nổi dậy ở tỉnh thành về cả tầm vóc lẫn ảnh hưởng. Một nghiên cứu mới đây cũng có liên quan đến nhà Tây Sơn, mặc dù vẫn còn có tính hạn chế. Tác phẩm của Choi Byung Wook có nhan đề Southern Vietnam under the reign of Minh Mạng (1820-1841): Central Policiesand Local Response (2004) (Nam kỳ dưới triều Minh Mạng (1820-1841): Các chính sách của trung ương và phản ứng của địa phương), cũng giống như nghiên cứu trước đó của Alexander Woodside, chỉ nhắm vào thời kỳ đầu của nhà Nguyễn. Choi Byung Wook mở đầu nghiên cứu của ông bằng cách nhắm vào cuối thế kỷ XVIII và khảo sát sự hình thành của một tổ chức chính quyền ở Gia Định trong thời gian xảy ra cuộc chiến giữa nhà Nguyễn và nhà Tây Sơn. Tuy nhiên, ông đã không chứ trọng đến nhà Tây Sơn, mà chú trọng đến đối thủ của Tây Sơn là nhà Nguyễn và những người kế tục, đã thành lập một liên minh chống Tây Sơn bên trong vương quốc không đồng nhất ở phía nam Đàng Trong. Hai công trình nghiên cứu khác bằng tiếng Anh cũng đề cập đến phong trào Tây Sơn. Đó là Beyond the Bronze Pillars: Envoy Poetry and the Sino Vietnamese Relationship (Hawa’i, 2005) (Bên kia đồng trụ: Thi sứ và mối quan hệ Trung-Việt) của Liam Kelley, bao gồm thời đại Tây Sơn và một số danh sĩ, như một phần của một cuộc nghiên cứu rộng rãi nhằm khảo sát cái thế giới tư tưởng lớn lao hơn của vùng Đông Á tìm thấy trong thi ca Việt. Bài nghị luận mới đây của Wynn Wilcox nhan đề “Allegories of Vietnam: Transculturation and the Origin Myths of Franco-Vietnamese Relations” (Cornell, 2002) (Chuyện ngụ ngôn ở Việt Nam: Sự chuyển đổi văn hóa và những huyền thoại khỏi đầu của mối quan hệ Pháp-Việt), là một nghiên cứu sử học nhìn trực tiếp về thời kỳ Tây Sơn, sử dụng nó như một lăng kính dùng để khảo sát mối quan hệ giữa chúa Nguyên Ánh và các giáo sĩ châu Âu đã ủng hộ ông. Tuy nhiên, Wilcox ít chú trọng đến những biến động của thời kỳ Tây-Sơn, mà quan tâm nhiều hơn đến sự xuất hiện về sau của những nhân vật lịch sử quan trọng. Trong lúc cả hai công trình nghiên cứu này có tính cách quan trọng khi quan tâm nhiều hơn vào những vấn đề ở cuối thế kỷ XVIII, chúng lại không dành sự quan tâm đặc biệt cho sự nổi dậy của nhà Tây Sơn và mối quan hệ lớn lao hơn của nó trong xã hội Đại Việt. Đáng ngạc nhiên hơn, và với một vài ngoại lệ, các công trình nghiên cứu bằng tiếng Pháp về thơi kỳ tiền thuộc địa của Việt Nam cũng có khuynh hướng xem nhẹ nhà Tây Sơn như thế. Một nghiên cứu của Charles Maybon vào năm 1919 với nhan đề Histoire moderne du pays d’Annam (1592-1820) (Lịch sử cận đại xứ An Nam, 1592-1820) dành nhiều chương cho thời kỳ Tây Sơn, cho dù có một cái nhìn riêng biệt về nhà Nguyễn, và một điều không làm ai ngạc nhiên, là ông nhấn mạnh nhiều đến vai trò của người Pháp*. Năm 1955, Lê Thành Khôi xuất bản Le Vietnam: Histoire et civilisation (Việt Nam: Lịch sử và nền văn minh), đưa ra một phân tích chấp nhận được về thời kỳ Tây Sơn trong khuôn khổ một quyển sách giáo khoa về lịch sử Việt Nam*. Ông Khôi miêu tả những chuyển đổi về kinh tế và xã hội gây nên tình trạng bất ổn phổ biến ở cả hai miền của đất nước và rồi đưa ra một bản mô tả có cân nhắc về cuộc nổi dậy và sự sụp đổ sau cùng của chế độ Tây Sơn. Khi chỉnh sửa lại cuốn Histoire du Vietnam (1983,1992) (Lịch sử Việt Nam), trong phần tóm lược về cuộc nổi dậy, ông Khôi vẫn giữ lại phần kể về những diễn biến của nó và những động lực làm thay đổi những diễn biến đó. Tác phẩm nghiên cứu bằng tiếng Pháp gần đây của Philippe Langlet nhan đề L’ancienne Historiographie d’état au Vietnam (1990) (Phép chép sử ở Việt Nam khi xưa) tuy chủ yếu là một nghiên cứu tỉ mỉ về dự án chép sử nhà Nguyễn thế kỷ XIX, cũng quan tâm đến quan điểm của nhà Nguyễn đối với những người đi trước họ, bao gồm nhà Tây Sơn và nhà Lê*. Langlet chứng minh rằng, các sử quan nhà Nguyễn đã phải đánh vật với vấn nạn làm thế nào để miêu tả chân dung nhà Tây Sơn, đồng thời tìm cách củng cố tính hợp pháp của chính họ đã bị làm vẩn đục bằng con đường nắm quyền lực không chính quy của họ. Cuối cùng là Yang Baoyun với chuyên khảo năm 1992 với nhan đề Contribution à Vhistoire de la principauté des Nguyễn au Vietnam méridional (1600- 1775) (Sự đóng góp vào lịch sử của vương quốc các chúa Nguyễn tại Đàng Trong, 1600-1775) là một ví dụ khác về một nghiên cứu gần đây đã tiếp cận nhưng không đề cập trực tiếp đến nhà Tây Sơn. Như nhan đề đã gợi ra, tác phẩm của Yang ngưng ngay khi nhà Tây Sơn bắt đầu nổi dậy, và chỉ báo trước một cách vắn tắt những gì tiếp theo sau*. Theo cách này, phong trào Tây Sơn đã được các tác phẩm nghiên cứu quan trọng bằng tiếng Anh trình bày một cách rành mạch theo thứ tự thời gian và được khảo sát tương đối chi tiết hơn bằng tiếng Pháp, trong khi phần lớn giới học giả sử dụng ngôn ngữ châu Âu đã không có những nghiên cứu tỉ mỉ về phong trào. Trên một vài phương diện, phong trào đã không đương cự nổi trước những nỗ lực có hệ thống của nhà Nguyễn nhằm xóa sạch - trong chừng mực có thể - những dấu vết của chế độ Tây Sơn*. Như David Marr đã chỉ ra: “triều Nguyễn cấm các sử gia của họ thuật lại những gì thuộc về triều đại ngắn ngủi của nhà Tây Sơn (1788-1802), thông thường đó là lề thói hàng ngày nhằm bảo tồn cho hậu thế tính liên tục thời gian từ một quá khứ xa xôi*”. Tất nhiên là sự cấm đoán này khiến cho việc nghiên cứu về thời kỳ Tây Sơn trở nên khó khăn hơn so với những thời kỳ trước và sau đó, là những thời kỳ mà các tư liệu lịch sử được biên soạn nhiều hơn và tồn tại lâu hơn. Sự thống trách cũng có thể diễn ra trước ngưỡng cửa của thời kỳ thuộc địa hóa, là thời kỳ lôi cuốn sự chú ý của giới học thuật nhiều hơn, một phần do nó kết nối trực tiếp Việt Nam với thế giới châu Âu, và tất nhiên, một phần nó được xem là khúc dạo đầu gần gũi nhất dẫn đến cuộc cách mạng bi thảm và những cuộc chiến ở thế kỷ XX. Dù với lý do nào, nước Việt Nam vào cuối thế kỷ XVIII cũng là một vùng đất chưa được khai phá hết của các nhà học thuật phương Tây. NGƯỜI VIỆT NAM CHÉP SỬ VỀ THỜI KỲ TÂY SƠN Trái ngược với các đồng nghiệp phương Tây, các sử gia Việt Nam đã chép sử thời kỳ Tây Sơn một cách tỉ mỉ hơn, việc giải thích về cuộc nổi dậy cũng đáng chú ý hơn và thường dẫn đến những cuộc tranh cãi phức tạp. Thật vậy, thời kỳ này và những biến động kèm theo nó là điểm cốt yếu trong các câu chuyện kể về lịch sử xuất hiện trong các bộ sử chép về sau. Điều đáng tranh cãi là những vấn đề về tính hợp pháp về chính trị, về sự phân ly và hợp nhất quốc gia, những xung đột và đối đầu trong xã hội. Sự dính líu của '‘người ngoài” trong những tranh chấp về chính trị ở Việt Nam, từ việc chúa Nguyễn Ánh liên minh với người Xiêm vào đầu thập niên 1780 đến sự tín nhiệm của ông đối với các lính đánh thuê người Pháp, và cuộc xâm lăng qui mô lớn của quân Trung Hoa nhân danh triều đại nhà Lê vào những năm cuối cùng của thập niên này, tất cả đã khơi mào cho những xung đột xoay quanh vấn đề chủ nghĩa quốc gia. Những tranh chấp về việc chép sử này đã bắt đầu trước khi tàn dư của những cuộc xung đột đã được giải quyết xong và tiếp tục cho đến ngày nay, và đó là truyền thống chép sử đầy tranh cãi mà cuộc nghiên cứu của tôi đã đóng góp vào. Trong việc phân tích về nhà Tây Sơn, tôi tìm cách tạo sự cân bằng giữa hai thái cực, một mặt là sự quỷ hóa và phỉ báng nhà Tây Sơn của nhà Nguyễn sau khi kế tục họ về mặt chính trị, một mặt là sự vinh danh cùng tôn kính của các sử gia Cộng sản trong thế kỷ XX, những người xem công cuộc cách mạng của họ là sự thừa kế tinh thần cuộc nổi dậy của nhà Tây Sơn. Vào thế kỷ XIX, triều Nguyễn mà người sáng lập từng chống lại nhà Tây Sơn và cuối cùng lật đổ được chế độ này, đã miêu tả họ như là “giặc cướp*” hay “phiến loạn*”, bác bỏ mọi ý niệm cho rằng nhà Tây Sơn đã xây dựng một triều đại hợp pháp. Thêm vào đó, các sử quan triều Nguyễn lập luận rằng, việc tham gia của dân chúng vào phong trào Tây Sơn lúc đầu là sản phẩm của sự lừa gạt, về sau là do bị cưỡng bách*. Cách chép sử này rõ ràng là nhằm chính thống hóa sự cầm quyền của nhà Nguyễn, chủ yếu cũng là sản phẩm của một thắng lợi quân sự*. Tính chính thống của nhà Nguyễn kết hợp với sự thất trận của nhà Tây Sơn là điều mà Nola Cooke gọi là “huyền thoại phục hưng”, theo đó, các nhà cai trị mới họ Nguyễn đã phục hưng một chính thể do tổ tiên họ thiết lập hơn là kế tục vương quyền đó nhà Lê để lại*. Xét về mặt chính thống, triều đại mới có thể chọn ưu tiên cách giải thích này, vào lúc mà những truyền thuyết phổ biến xoay quanh nhà Tây Sơn bắt đầu đưa ra một cách giải thích nhằm lý tưởng hóa phong trào nổi dậy, và người dân vùng Bình Định* tìm cách phục hồi tên tuổi những ai được xem là anh hùng hào kiệt của địa phương*. Thêm vào đó, việc nhà Nguyễn tự đặt mình ra ngoài khuôn khổ nhà Lê cũ đã khiến một vài danh sĩ Bắc hà viết riêng những tác phẩm về chế độ Tây Sơn vốn là một triều đại ngắn ngủi được chính thức mô tả là bất hợp pháp*. Vì thế, việc ghi chép lịch sử về phong trào Tây Sơn ở thế kỷ XIX khá phức tạp và nhiều mâu thuẫn, hậu quả của những góc nhìn và mục tiêu chính trị khác nhau. Hình 2: Tượng vua Quang Trung, một sự miêu tả cách điệu hình ảnh của người em trong gia đình Tây Sơn, nằm trong một vị trí thuộc Bảo tàng Quang Trung, được xây dựng trong khu phức hợp của anh em Tây Sơn.(Ảnh của tác giả.) Hai mạch dẫn giải không chính thức này bắt đầu xuất hiện một cách rõ ràng hơn vào đầu thế kỷ XX khi sự suy yếu về mặt chính trị của nhà Nguyễn dưới sự thống trị của thực dân Pháp tạo điều kiện cho trước tiên là các sử gia theo chủ nghĩa dân tộc và sau đó là các sử gia Mác-xít đưa ra những giải thích khác hơn, khi họ khảo sát phong trào Tây Sơn dưới ánh sáng của cuộc cách mạng Việt Nam. Giới nghiên cứu đầu thế kỷ XX bắt đầu bỏ qua quan điểm coi nhà Tây Sơn như ''giặc cướp” hay "phiến loạn”. Thay vào đó, do ít bị ràng buộc bởi những mối quan tâm về ý thức hệ của một triều Nguyễn đã suy yếu, họ cho rằng anh em nhà Tây Sơn đã mưu cầu một quyền lực chính trị hợp pháp*. Cùng lúc với sự xuất hiện khuynh hướng đó, các tài liệu vào đầu thế kỷ XX không bàn đến vấn đề hỗ trợ của dân chúng cho phong trào. Thật vậy, các tài liệu có liên quan đến người nông dân hầu như biến mất hoàn toàn trong tác phẩm của hai nhà viết sử nổi bật vào đầu thế kỷ XX là Phan Bội Châu và Trần Trọng Kim, khi mà họ có thể bàn luận một cách thoải mái hơn về các nhà lãnh đạo chính trị và quân sự thời kỳ Tây Sơn*. Phải chờ đến năm 1938, trong tác phẩm Việt Nam văn hóa sử cương, Đào Duy Anh mới cho rằng chính sự tham gia của nông dân đã mang lại sức mạnh và thắng lợi của phong trào Tây Sơn*. Dù vậy, phải đến sau Thế chiến thứ hai, tiếp theo cuộc cách mạng của những người Cộng sản và mối quan hệ mạnh mẽ của họ với nông thôn Việt Nam, việc miêu tả nhà Tây Sơn như một “cuộc nổi dậy của nông dân” hay “phong trào nông dân” bắt đầu xuất hiện trong giới học thuật Việt Nam. Những biểu hiện này thường được quảng bá bởi các nhà sử học Cộng sản vào nửa sau thế kỷ XX, và ngày nay chi phối các cuộc thảo luận có liên quan đến thời kỳ Tây Sơn. Những nhà học thuật đó hào hứng miêu tả cuộc nổi dậy của nhà Tây Sơn như một cuộc cách mạng*, hoặc trung dung hơn, là phong trào nông dân*. Cả hai cách diễn tả này cho thấy là người nông dân Việt Nam đã ủng hộ các nhà lãnh đạo phong trào Tây Sơn và chính thể của họ sau đó. Các nhà sử học Cộng sản lập luận rằng người nông dân đã háo hức ủng hộ các nhà lãnh đạo ngay trong thời kỳ đầu của cuộc nổi dậy, tiếp sau là sự hợp tác của giới nông dân hợp nhất trong những nỗ lực hào hùng nhằm thống nhất đất nước và đánh đuổi ngoại xâm - quân Xiêm năm 1785 và quân Tàu năm 1789. Cách phân tích này dẫn đến lập luận cho rằng động cơ (hợp tác) của người nông dân xuất phát từ hành động của họ. Vì thế, sự kiện những đạo quân nông dân chiến đấu chống lại sự xâm lược của người Xiêm (hay người Tàu) được giải thích như sự tiêu biểu của một cuộc chiến đấu bảo vệ nền độc lập quốc gia. Tương tự như vậy, việc quân đội Tây Sơn vượt qua lằn ranh chia đôi hai nhà Trịnh-Nguyễn vào năm 1786 được miêu tả như sự thể hiện niềm khát khao cháy bỏng được nhìn thấy sự thống nhất đất nước hơn là theo đuổi một cách tầm thường sự giàu có, quyền lực, và cả sự trả thù. Trong việc nhận định của các nhà chép sử Cộng sản về nhà Tây Sơn, người nông dân xuất hiện như những gương mặt anh hùng, cao thượng và dũng cảm, thề hứa vì công bằng kinh tế và xã hội, vì một đất nước thống nhất không bị ngoại bang can thiệp vào. Người nông dân trong thời đại Tây Sơn được miêu tả như những người tiên phong trong cuộc cách mạng được họ ủng hộ vào thế kỷ XX, cho dù sự thất bại cuối cùng trong việc chuyển đổi cơ cấu chính trị và kinh tế được xem như một chỉ dấu của sự hạn chế mạnh mẽ mà thời khắc lịch sử này đã áp đặt lên họ. Họ lập luận rằng cuối cùng chỉ có Đảng (Cộng sản) mới vượt qua được những giới hạn về nhận thức đã từ lâu kìm hãm óc sáng tạo của người nông dân. Sự miêu tả giới nông dân thế kỷ XVIII như những người ở bậc dưới của thang xã hội, cao thượng và kiên định, những người ủng hộ trung thành nhà Tây Sơn, có vẻ như đã biến họ trở thành kẻ đồng lõa với sự áp bức mà chính họ là nạn nhân, vì thời đại Tây Sơn rõ ràng là thời kỳ của vô vàn khổ nhọc và khó khăn của người nông dân. Đó là thời kỳ mà lợi ích của sự nổi dậy, nếu quả thực có thể nhận thấy được, cũng hiếm khi vượt quá cái giá lớn lao mà nhóm người này phải trả. Trong nhiều bài viết, người nông dân được đồng nhất với những người lãnh đạo họ, và điều này cho thấy rằng động cơ của các nhà lãnh đạo (chứ không phải của người nông dân) bằng cách này hay cách khác, cũng tiêu biểu hoặc phù hợp với động cơ của những người theo họ (thường khi là miễn cưỡng). Vì thế, cụm từ “Tây Sơn” thường được dùng để chỉ toàn bộ phong trào, người lãnh đạo cũng như người đi theo, được xem như có cùng quyền lợi như nhau, hoặc ít nhất cũng chồng chéo nhau, trong khi trên thực tế, các nhà lãnh đạo cuộc nổi dậy thường không mấy quan tâm đến những người đi theo họ. Những người này thường tỏ ra miễn cưỡng hoặc bị cưỡng bức nặng nề. Cho dù một vài nhà viết sử Việt Nam gần đây bắt đầu có một cái nhìn phê phán hơn về thời kỳ Tây Sơn, song không có một sự tái khảo sát một cách có hệ thống về thời kỳ này, hoặc sách về cuộc nổi dậy vẫn chưa được xuất bản*. Các tác phẩm vào cuối thập niên 1980 vốn tiêu biểu cho đợt cuối cùng những câu chuyện kể về phong trào Tây Sơn, tiếp tục coi đó như một hành động kiêu hùng được dẫn dắt bởi chủ nghĩa dân tộc nhằm bảo vệ đất nước và quyền lợi của giới nông dân bị áp bức*. NGUỒN TƯ LIỆU VÀ ĐỐI TUỢNG NGHIÊN CỨU Công trình nghiên cứu này dựa vào nhiều nguồn tư liệu, bao gồm tư liệu từ văn khố và tư liệu in tại Việt Nam và châu Âu. Tôi dựa nhiều vào các tư liệu Việt Nam cùng thời với nhà Tây Sơn và các biên niên sử của triều đình nhà Nguyễn vào cuối thế kỷ XIX để có những phác thảo rõ ràng về cuộc nổi dậy và những biến động quan trọng do nó gây nên. Tôi bổ sung những tư liệu này bằng việc đọc nhiều bài viết của các chứng nhân là các giáo sĩ người châu Âu (chủ yếu là người Pháp), những người đã trải qua các biến động vào thời kỳ này. Các bài tường thuật của những giáo sĩ này đặc biệt có giá trị trong việc cung cấp một cái nhìn ở cấp làng xã về những biến động thường chỉ được biên niên sử Việt Nam miêu tả một cách sơ lược. Dù nguồn tư liệu châu Âu có một khuynh hương riêng và phản ánh cái ưu thế của người đứng ngoài cuộc, nhiều giáo sĩ là những người cư trú lâu năm ở Đại Việt, nói được tiếng Việt và có một cảm nhận đặc biệt rõ ràng về sự phát triển chính trị ở cả cấp làng xã lẫn cấp quốc gia. Những tư liệu của các giáo sĩ đặc biệt giúp tôi viết ra một tác phẩm tương đối chi tiết về ảnh hưởng của cuộc nổi dậy của nhà Tây Sơn đối với người Việt bình thường, cùng với phản ứng của họ. Soạn thảo dựa vào những nguồn tư liệu như thế, công trình nghiên cứu này không thừa nhận những miêu tả về nhà Tây Sơn bằng cách cho rằng cuộc nổi dậy và chính thể mà nó tạo ra có một cấu trúc thật phức tạp và nhiều thành phần tham gia, thường những mục tiêu mâu thuẫn nhau không cho phép giải thích một cách quá đơn giản như các nhà sử học từ trước tới nay thường làm. Cuộc nổi dậy, về sau biến thể thành một loạt những chế độ chính trị, chẳng những cố liên hệ đến giới nông dân, mà còn với nhiều nhóm chính trị và xã hội khác, mỗi nhóm chịu ảnh hưởng sâu sắc, trên một phương diện nào đó, bởi những sự kiện đã diễn ra từ mùa xuân năm 1773. Điều mà tôi muốn nói ra ở đây là cuộc nổi dậy của nhà Tây Sơn không chỉ có liên quan đến người nông dân mà còn nhắm đến sự tham gia của họ trong suốt một quá trình dài. Thật vậy, chính những người lãnh đạo phong trào, tức ba anh em nhà Tây Sơn, không đơn thuần là nông dân hay ngươi làm nông, cho dù họ thường lặp đi lặp lại rằng họ có gốc nông dân. Đúng hơn là nên coi họ thuộc về tầng lớp quý tộc nhỏ ở nông thôn, với người lớn tuổi nhất là Nguyễn Nhạc vốn là một người buôn bán trầu cau kiêm nghề thu thuế theo thời vụ cho triều đình nhà Nguyễn. Hơn thế nữa, cả ba anh em nhận được sự giáo huấn đáng kể của một bậc thức giả khả kính đã xa lánh khỏi những cuộc tranh chấp nội bộ trong triều đình nhà Nguyễn, về sau là người cổ vũ cho anh em Tây Sơn tiến hành cuộc nổi dậy. Lai lịch anh em nhà Tây Sơn cho thấy rõ rằng, trong lúc dựa vào người nông dân để bổ khuyết quân đội của họ và để ý đến một vài mối quan tâm của người nông dân, bản thân họ không phải là nông dân. Khi cuộc nổi dậy bắt đầu, các lãnh tụ Tây Sơn nhanh chóng đi sâu vào khung cảnh rộng lớn của xã hội Đàng Trong, về sau, khi phong trào lan ra đến Đàng Ngoài, họ buộc phải đối phó với những phức tạp xã hội ở đó. Họ khá thành công trong việc tuyển mộ những người ủng hộ, từ những nông dân người Việt ở vùng đồng bằng, những thương buôn người Hoa ở vùng duyên hải, đến những thành viên trong gia đình hoàng tộc Chăm và các bộ tộc vùng Tây Nguyên. Mỗi một nhóm này có những mục tiêu khác nhau, họ kết hợp với nhau chủ yếu do bất bình với cung cách quản lý tồi nền kinh tế Đàng Trong của các chúa Nguyễn về các mặt thương mại, thuế khóa và tiền tệ. Anh em nhà Tây Sơn có thể lôi cuốn những nhóm chiết trung như thế theo mình, chính là vì họ đáp ứng quyền lợi riêng của mỗi nhóm và đưa những mối bất bình riêng của mỗi nhóm vào chương trình hành động của họ. Chính những lực lượng tham gia đông đảo này buộc các nhà lãnh đạo Tây Sơn phải kết nối lại một chương trình hành động đầy tham vọng và thường mâu thuẫn nhau. Chính vì thế, không có gì đáng ngạc nhiên khi các nhà lãnh đạo phong trào Tây Sơn không thể đáp ứng hết kỳ vọng của những người đã tham gia cuộc nổi dậy từ lúc ban đầu. Sau này, có vẻ như những người hưởng lợi nhiều nhất từ sự nổi dậy của nhà Tây Sơn là những người lãnh đạo của phong trào này và những kẻ ủng hộ ưu tú của họ. Cho dù một số nhóm cấp dưới cũng được hưởng lợi vào một số thời điểm, ở một số nơi, từ việc làm của nhà Tây Sơn - chẳng hạn như những lúc cần phục hồi trật tự, hoặc các cơ hội thu tóm chiến lợi phẩm do nhiều chiến dịch quân sự mang lại - những lợi ích đó hiếm khi có tính hệ thống và dài lâu. Những cuộc tái phân phối tài sản ban đầu và thủ tục bãi bỏ gánh nặng thuế khóa khiến họ có biệt danh “những kẻ cướp nhân từ", đã sớm nhường chỗ cho những đòi hỏi của chính quyền quân nổi dậy ít nhất cũng phiền hà như những gì mà chính thể do họ thay thế từng làm, và có lẽ còn hơn thế nữa, vì những đòi hỏi này thường được đưa ra trong khuôn khổ những chiến dịch hành quân kéo dài nhằm thu thuế và bắt người dân làm lao động cực nhọc. Các nhà lãnh đạo Tây Sơn chẳng bao giờ thực hiện một sự thay đổi sâu rộng nào để cải tiến thân phận của giai cấp nông dân, như những cuộc cải cách ruộng đất qui mô hay tái phân phối tài sản. Ngay cả trong những ngày đầu của phong trào Tây Sơn, những người lãnh đạo cuộc nổi dậy cũng chỉ tái phân phối những tài sản có giá trị thấp, hoặc lúa gạo, hơn là cấp cho người nông dân các chứng thư ruộng đất. Có một khoảng thời gian ngắn họ điều chỉnh mức chịu thuế của người dân ở Đàng Ngoài và nỗ lực kích thích thương mại, song đó là những mưu chước nhằm đối phó với những cuộc khủng hoảng đang diễn ra hơn là đưa ra những cải tổ một cách có hệ thống. Dù gì thì sự tương hợp về quyền lợi giữa các nhà lãnh đạo phong trào Tây Sơn với những người theo họ trong những năm đầu tiên của phong trào cũng nhanh chóng biến mất và những gì được coi như một “phong trào nông dân” trong những ngày đầu cũng sớm biến thành một thực thể chính trị phức tạp và rối rắm ngày càng tiêu biểu cho quyền lợi của những nhà lãnh đạo chính trị cao cấp mưu cầu quyền lực để đạt được mục đích của mình. Sau nữa, cần minh xác rằng cuộc nổi dậy của nhà Tây Sơn cũng giống như nhiều "phong trào nông dân” khác, không thể được xem như sự biểu lộ ý chí tập thể của giới nông dân. Ngay trong thời kỳ đầu, khi số người đi theo còn ít, phong trào có khuynh hướng theo chủ nghĩa bình quân và những nhà lãnh đạo của phong trào còn cố chứng tỏ mình, song cái chủ nghĩa bình quân đó sớm dẫn đến sự xung đột giữa khát vọng của những nhà lãnh đạo Tây Sơn với kỳ vọng của những người nông dân phục vụ trong quân đội của họ. Nói cách khác, một cuộc nổi dậy khỏi đầu bởi (và kể cả cho) người nông dân không có nghĩa là nó sẽ vẫn còn giữ cái danh nghĩa “phong trào nông dân”. Như Michael Adas đã có lý khi viết rằng: “Xem xét kỹ nhiều cuộc bạo loạn được quy cho người nông dân gây ra, hoặc những cuộc nổi dậy đòi ruộng đất, người ta có thể kết luận rằng trên thực tế các cuộc xung đột này là hậu quả mối hận thù giữa những phe phái quyền lực hoặc các cuộc chống đối triều đình, trong đó, có sự dính líu bất đắc dĩ của những người lính gốc nông dân hoặc giới nông dân. Ngoại trừ những cuộc nổi dậy quan trọng trong đó người nông dân tập hợp quanh một đấng cứu tinh hay những nhà lãnh đạo có uy tín đấu tranh để lật đổ những kẻ cầm quyền bất tài hay tàn bạo, căn nguyên và hậu quả của những cuộc đấu tranh đó rất ít được người nông dân quan tâm đến, hoặc không dính đáng bao nhiêu đến thân phận của tầng lớp dân cày”. Trong khi xét trên một vài phương diện, phong trào Tây Sơn thuộc về trường hợp ngoại lệ như Adas đã miêu tả - theo đó, phong trào được dẫn dắt bởi “những nhà lãnh đạo có uy tín đấu tranh để lật đổ những kẻ cầm quyền bất xứng hay tàn bạo” - nó cũng biểu thị những yếu tố cùa điều mà Adas gọi là "mối cừu hận giữa những người có quyền lực trong xã hội hoặc những cuộc đấu tranh chốn cung đình”. Như sẽ nói rõ trong công trình nghiên cứu này, nhà Tây Sơn dính líu rất nhiều vào những cuộc tranh chấp ngôi vị diễn ra trên lãnh thổ của cả chúa Nguyễn lẫn chúa Trịnh. Và cho dù có thể nói rằng các lãnh tụ Tây Sơn đã tận dụng các cơ hội này cho những mục tiêu riêng của họ, cũng lại có thể cho rằng họ đã bị các đối thủ lôi kéo vào các cuộc tranh giành quyền lực và đến lượt họ lôi kéo người nông dân tham gia vào những cuộc đấu tranh do họ gây ra. Điểm nhấn của công trình nghiên cứu này là những động lực xã hội tiềm tàng của cuộc nổi dậy của nhà Tây Sơn, và lần lượt mở rộng sang những chương khảo sát các nhóm xã hội khác. Để xây dựng một bối cảnh cho bài phân tích này, Chương I cung cấp một cái nhìn lịch sử rộng lớn về thời kỳ Tây Sơn, khảo sát những nguyên nhân chính của cuộc nổi dậy, rồi phác họa những nét đại cương về diễn biến của cuộc nổi dậy. Chương II khởi sự một cuộc khảo sát chặt chẽ hơn về nhiều khía cạnh của cuộc nổi dậy, bắt đầu với các nhà lãnh đạo là ba anh em ở ấp Tây Sơn, xem họ đã xây dựng tính chặt chẽ của phong trào như thế nào. Trong Chương III, tôi lập luận rằng lời hứa của phong trào khi khởi sự như chấm dứt nạn tham nhũng, hủy bỏ thuế má bất hợp lý, và tái phân phối tài sản cho dân sẽ sớm nhường bước cho những thực tế đời sống tăm tối dưới một chế độ gần như lúc nào cũng có chiến tranh. Tôi khảo sát vấn đề mà người nông dân, hiểu theo nghĩa rộng, đã bị tác động như thế nào và phản ứng ra sao trước “phong trào nông dân” này Cuối cùng, Chương IV quay sang nghiên cứu về nhiều người sống ở nơi mà tôi gọi là bên lề xã hội Việt Nam vào thời kỳ này. Họ là những người Công giáo Việt Nam, các bộ tộc thiểu số, những kẻ không được luật pháp che chở, và bọn cướp biển, với mối quan hệ phức tạp giữa họ với các lãnh tụ Tây Sơn. Tài liệu phân tích này gợi ra rằng tâm điểm cuộc nổi dậy của nhà Tây Sơn là một loạt những tác động qua lại giữa các lãnh tụ cuộc nổi dậy với nhiều nhóm khác nhau trong xã hội Việt Nam lúc bấy giờ. Đôi khi sự tương tác đó thể hiện dưới hình thức hòa hợp giữa hai bên, có khi họ thương lượng với nhau về mối quan hệ giữa hai bên. Trong những trường hợp khác, các lãnh tụ Tây Sơn kết nạp một số nhóm hoặc người cầm đầu của nhóm, và trong nhiều trường hợp, tùy vào hoàn cảnh, nhà Tây Sơn dựa vào sự áp bức để đạt được mục tiêu của họ. Như vậy, thông qua sự hòa hợp, sự thương lượng, sự kết nạp, và áp bức, các nhà lãnh đạo của phong trào nổi dậy có khả năng tự biến đổi - ở một chừng mực nào đó - thành những nhà cai trị “Việt Nam”, ngay vào lúc đất nước vẫn còn chia cách và chiến tranh. Công trình nghiên cứu của tôi cũng không thừa nhận ý niệm về chủ nghĩa biệt lệ* của nhà Tây Sơn thường thấy trong phương pháp chép sử của người Cộng sản Việt Nam, cho rằng chính thể Tây Sơn và chính sách, sự cư xử của họ đối với người nông dân tốt hơn những chính thể mà họ thay thế, hoặc những chính thể tiếp sau họ. Có rất ít trường hợp chế độ nhà Tây Sơn đi chệch hướng hành động của những người đi trước, nhất là trong việc chọn lựa danh xưng các chức vụ trong chính quyền, và ở một qui mô nhỏ hơn là việc họ sử dụng chữ Nôm trong một số văn kiện của chính quyền. Nhưng nhìn chung, anh em nhà Tây Sơn không phải là những nhà canh tân và điều không làm ai ngạc nhiên là chính thể mới của họ chấp nhận cung cách và lề thói của những người đi trước họ, bao gồm cả cơ cấu hành chánh lẫn nhiều thứ lễ phục. Những gian khổ mà người nông dân phải đương đầu như lao động khổ dịch, thuế má gia tăng vô tội vạ, bắt lính triền miên, được nhân lên dưới chính quyền Tây Sơn, song chúng cũng tương tự với những gì họ đương đầu dưới chính quyền các chúa Trịnh và sau đó, dưới chính quyền nhà Nguyễn vào thế kỷ XIX. Cuối cùng, tôi lập luận rằng thay vì xem cuộc nổi dậy của nhà Tây Sơn là tiêu biểu cho sự chiến thắng của tầng lợp nông dân đã chịu đựng khổ sở lâu ngày, chúng ta nên hiểu điều này như một thử thách về quyền lực trước một chế độ chính trị suy yếu. Những người tiến hành cuộc nổi dậy được khích lệ bởi những dấu hiệu cho thấy là một thử thách như thế có thể đạt đến thành công. Cuộc nổi dậy không phải là một phong trào về mặt tư tưởng tìm cách kết nối một chương trình hành động đồng nhất. Nói đúng hơn, đó là một biến động diễn ra trong những tình huống luôn thay đổi, bởi ý muốn thất thường của nhà lãnh đạo, và phản ứng của những người ở phía đối địch. Việc nghiên cứu này sẽ đề cập đến một số vấn đề phức tạp, mặc dù không thể dẫn chứng hết bằng tư liệu. CHƯƠNG I THỜI KỲ TÂY SƠN VÀ THẾ KỶ XVIII Ở ĐẠI VIỆT Khởi nghĩa Bắc Công Thủ -Sấm truyền của người Việt vào thế kỷ XVIII Cách tốt nhất để bắt đầu tìm hiểu về "đoàn quân ó” xuất phát từ ấp Tây Sơn là đặt chúng vào khuôn khổ thời gian và địa lý của thời kỳ được gọi là thế kỷ XVIII kéo dài ở xứ sở Đại Việt. Khuôn khổ thời gian xác định thời kỳ này kéo dài từ năm 1672, khi cuộc chiến kéo dài nửa thế kỷ giữa các chúa Trịnh và chúa Nguyễn đã dừng lại trên thực tế, đến năm 1802, khi cuộc xung đột giữa nhà Nguyễn và nhà Tây Sơn đã kết thúc. Đây là một trong những thời kỳ quan trọng bậc nhất của dân tộc Việt Nam, biểu thị bằng sự mở rộng dân số về phía nam cùng những thay đổi về mô hình kinh tế, sự tham gia ngày càng nhiều của các thương nhân, lính đánh thuê và giáo sĩ châu Âu, sự bất mãn của dân chúng dâng cao, bùng nổ và được làm cho tồi tệ hơn bởi các thế lực chính trị và tự nhiên. Tất cả những sự kiện đó diễn ra bên trong một lãnh thổ bị chia tách về chính trị và địa lý, ngay cả khi nó không hoàn toàn được hợp nhất bởi các yếu tố có sự tham gia của lịch sử, văn hóa và ngôn ngữ. Cuộc nổi dậy của nhà Tây Sơn là sản phẩm của sự giao tiếp giữa thời gian và không gian. Các lãnh tụ Tây Sơn nổi lên chống lại các chúa Nguyễn đang cai trị Đàng Trong, một vương quốc bao gồm các phần đất nằm ở miền Trung và miền Nam Việt Nam ngày nay. Chính thể ở phía bắc được biết đến nhiều với cái tên Đàng Ngoài, tập trung ở Thăng Long và trải dài từ biên giới phía nam Trung Quốc đến sông Linh Giang, chạy qua khu vực nay là phía bắc tỉnh Quảng Bình*. Vùng lãnh thổ này được cai trị bởi dòng họ Trịnh, cầm đầu bởi các chúa Trịnh. Toàn bộ vương quốc Đại Việt được cai trị trên danh nghĩa bởi vua Lê, mà tổ tiên của ông đã lên ngôi vào năm 1428, nhưng trên thực tế chính chúa Trịnh mới thực sự cai trị và kiểm soát sinh hoạt cung đình. Mặc dù xa cách về mặt địa lý với triều đình nhà Lê, các chúa Nguyễn vẫn trung thành với vua Lê trong một thời gian dài, tuy đến thời điểm nhà Tây Sơn nổi dậy, họ đã thực sự tách khỏi mối ràng buộc trên. Anh em nhà Tây Sơn đã lợi dụng sự phân hóa chính trị phức tạp đó để nắm lấy quyền lực. Trong lúc quân đội Tây Sơn có thể kết nối lại với nhau những lãnh thổ Việt đã bị chia tách lâu dài thì các cuộc xung đột trong hàng ngũ lãnh đạo Tây Sơn cuối cùng chỉ đưa lại sự phân hóa chính trị nhiều hơn nữa. I.1. TIẾN ĐẾN SỰ PHÂN HÓA CHÍNH TRỊ Ở ĐẠI VIỆT: 1509-1672 Trong lúc Đại Việt đạt đến đỉnh cao của sức mạnh chính trị, quân sự và văn hóa trong ba thập niên cuối cùng của thế kỷ XV, dưới triều Hồng Đức, nhà Lê (1470-1497), thì thời kỳ đầu thế kỷ XVI chứng kiến sự suy yếu thảm hại của sức mạnh và sự cố kết nội tại của nó. Bắt đầu vào năm 1509, triều đình nhà Lê đã chứng kiến sự kế tục nhau của những ông vua bất tài và nhu nhược, bị nhiều người xa lánh tại triều đình và không thể khẳng định uy quyền trước một loạt những cuộc nổi dậy của dân chúng và nhiều kẻ thách thức quyền lực đối với họ. Hậu quả là một khoảng trống chính trị ở trung ương, trở thành mục tiêu đầy cám dỗ của một nhân vật quân sự đầy quyền lực là Mạc Đăng Dung. Dung là thành viên đầy tham vọng của một thị tộc làm nghề đánh cá, vào thế kỳ XV đã biến thành một dòng dõi văn chương xuất chúng, cho dù họ vẫn còn duy trì mối quan hệ với cái gốc ven biển của họ. Sau khi đạt đến mức cao nhất trong phẩm hàm võ quan ở triều đình, họ Mạc có thể giữ một vị trí nổi bật về mặt quân sự như người đứng ra bảo vệ một triều đình đang suy yếu, trở thành một trong những quyền lực chính trị không ai có thể tranh giành. Năm 1527, Mạc Đăng Dung giữ một địa vị có thể lấn át quyền hành của vua Lê*. Ông ta yêu cầu vua Lê phải giao ngai vàng cho dòng họ Mạc, tuyên bố rằng triều đại nhà Lê đã cáo chung. Việc nhà Mạc nắm lấy quyền lực ở Thăng Long đưa đến hậu quả là những người còn sống sót cùa triều Lê phải trải qua cảnh sống lưu đày trên đất nước mình, cuối cùng tị nạn ở vương quốc Lào. Ở đó, với sự giúp sức của thành viên hai nhóm quân sự mạnh nhất ở Thanh Hóa, thuộc dòng họ Nguyễn và họ Trịnh, nhà Lê dần lấy lại quyền lực của mình. Nỗ lực này tiếp tục suốt gần thế kỷ XVI, và trong cuộc chiến giằng co và dai dẳng với nhà Mạc, đã nổi lên cuộc tranh đua giữa hai dòng họ được đại diện hỏi hai nhân vật chính là Nguyễn Kim (1467-1545) và Trịnh Kiểm (?- 1570)*. Sự căng thẳng này tăng lên, cho dù hai dòng họ không chỉ đơn thuần là liên minh quân sự, mà còn là sự kết hợp qua hôn nhân. Nguyễn Kim đã gả một trong những cô con gái cho Trịnh Kiểm, buộc chặt hai gia đình theo cung cách được ưa chuộng thời ấy. Tuy nhiên, cả sự liên kết quân sự lẫn hôn nhân không thể ngăn chặn tham vọng cá nhân của Trịnh Kiểm. Trong cuộc tranh giành ưu quyền chính trị, họ Trịnh dần thắng thế, và địa vị được củng cố khi người đứng đầu dòng họ Nguyễn* bị một hàng tướng nhà Mạc mưu sát vào năm 1545*. Mặc dù lúc đầu hai người con trai của Nguyễn Kim cũng theo cha đi đánh trận để phò giúp nhà Lê, song địa vị của họ so với họ Trịnh đã suy yếu. Nôn nóng tiêu diệt đối thủ của mình, Trịnh Kiểm đã bố trí giết chết người con trai lớn của Nguyễn Kim. Qua hành vi này của anh rể, người con trai nhỏ hơn là Nguyễn Hoàng thấy trước số phận của mình nếu không tìm mưu chước tự bảo vệ. Thông qua người chị ruột là vợ Trịnh Kiểm, ông xin được cử làm Trấn thủ ở các lãnh thổ xa về phía nam là Thuận Hóa và Quảng Nam*. Sự lưu đày phương xa của đối thủ chính trị làm vừa lòng Trịnh Kiểm, ông ta chấp thuận đề nghị của Nguyễn Hoàng. Không lâu sau, vào năm 1558, chàng trai Nguyễn Hoàng 34 tuổi đi vào vùng đất phương Nam, đánh dấu bước khởi đầu sự chia tách về chính trị kéo dài hơn hai thế kỷ, cho đến thời đại của nhà Tây Sơn*. Được sự hỗ trợ bởi thuộc hạ xuất thân từ những gia đình ưu tú đi theo ông vào Nam, lúc bấy giờ hình thành một trung tâm cai trị xuất sắc ở vùng đất mới, Nguyễn Hoàng nhanh chóng xây dựng nên sức mạnh chính trị và kinh tế trên lãnh thổ dưới quyền kiểm soát của ông*. Việc Nguyễn Hoàng ra đi diễn ra ngay vào lúc họ Trịnh tiếp tục cuộc đấu tranh quân sự chống nhà Mạc, là mối bận tâm của họ cho đến cuối thế kỷ XVI và thế kỷ XVII. Mặc dù theo đuổi mưu đồ chính trị ở phía nam, năm 1593, Nguyễn Hoàng đưa một đoàn quân hùng hậu trở ra Bắc và trải qua suốt bảy năm trời giúp họ Trịnh đạt được thắng lợi quyết định trước nhà Mạc*. Khi họ Trịnh bắt đầu củng cố quyền lực sau chiến thắng nhà Mạc, năm 1600, Nguyễn Hoàng quay về phương Nam, không bao giờ đặt chân trở lại đất Bắc nữa. Một số nhà nghiên cứu lập luận rằng mốc thời gian đó đánh dấu thời điểm rạn vỡ quan trọng giữa hai họ Trịnh-Nguyễn, và từ đó, giữa hai vương quốc độc lập về chính trị*. Cho dù sự trở lại của Nguyễn Hoàng có là thời điểm quyết định về mối quan hệ giữa hai bên hay không, cái chết của ông vào năm 1613 và sự chuyển giao quyền lực cho người con trai thứ 6 là Nguyễn Phúc Nguyên (1563-1635) rõ ràng đã làm gia tăng bước đi hướng đến sự độc lập của vùng đất phía nam. Năm 1624, sự rạn nứt với phía bắc là không thể hàn gắn khi người con của Nguyễn Hoàng* tuyên bố không chuyển ra Bắc số thuế thu được ở những địa phương mà họ cai quản nhân danh nhà Lê (Trịnh)*. Sự thách thức đó dù là không bất ngờ, cũng bị các chúa Trịnh xem là hành vi bội phản, và dùng nó biện minh cho hành động quân sự của họ. Năm 1627, họ Trịnh tấn công họ Nguyễn lần đầu tiên, khởi đầu một thời kỳ xung đột kéo dài 45 năm giữa hai dòng họ thù nghịch nhau. Bốn thập niên rưỡi trải qua 6 cuộc xung đột quân sự với qui mô lớn, nhưng không có bên nào chiếm được ưu thế tạm thời so với đối thủ của mình. Dù quân Trịnh có một sức mạnh đáng kể xuất phát từ một dân số đông hơn rất nhiều, song với khả năng chiến đấu của lính bộ và lính biển, quân Nguyễn lợi dụng được địa hình chật hẹp ven biển kết hợp với một loạt thành lũy bảo vệ khiến các cuộc tấn công qui mô lớn của quân Trịnh gặp nhiều khó khăn. Thêm vào đó, cư dân nhà Nguyễn được tổ chức dọc theo các phòng tuyến quân sự, luôn trong tình trạng sẵn sàng chiến đấu. Tình trạng quân đội của chúa Trịnh cũng khá phức tạp do những cuộc tấn công của nhà Mạc còn tiếp diễn. Lực lượng này dù đã phải rời bỏ Thăng Long trong những trận đánh vào cuối thế kỷ XVI, vẫn tiếp tục đe dọa quân Trịnh từ nơi trú ẩn của họ trong vùng rừng núi Cao Bằng, gần biên giới với Trung Quốc. Sau hết, ngoài việc đối đầu với quân chúa Nguyễn ở biên giới phía nam và sự quấy phá của nhà Mạc ở phía bắc, quân Trịnh còn phải đương đầu với sự bất mãn của dân chúng ngay trên lãnh thổ của họ nữa*. Trong thời kỳ chiến tranh đó, tổ tiên của anh em nhà Tây Sơn đến ngụ cư trên lãnh thổ các chúa Nguyễn. Dòng họ này nguyên sống ở huyện Hưng Nguyên, trấn Nghệ An, trong vùng đất sau này thuộc quyền kiểm soát của chúa Trịnh. Lúc bấy giờ họ mang họ Hồ và theo một vài nguồn sử liệu, họ là cháu trực hệ của Hồ Quý Ly, một võ tướng nổi tiếng vào cuối thế kỷ XIV, đầu thế kỷ XV, người đã nắm lấy quyền bính từ triều đại nhà Trần đã suy yếu (1225-1400) và sau đó cai trị đất nước trong một khoảng thời gian ngắn ngùi trước khi nhà Minh sang xâm lược Đại Việt vào năm 1407*. Giữa những năm 1653 và 1657, trong cao điểm những cuộc giao tranh giữa hai quân đội Trịnh-Nguyễn, ông tổ năm đời của anh em Tây Sơn bị quân nhà Nguyễn cầm giữ và bị buộc phải tái định cư ở vùng Qui Nhơn*. Vào thời đó, Qui Nhơn là một vùng biên khá ổn định, cư dân chính là người Chăm, cùng một số sắc tộc khác không phải là người Kinh. Việc định cư những tù nhân quân sự ở khu vực này là một phần trong nỗ lực của nhà Nguyễn nhằm gia tăng ảnh hưởng của họ trong một vùng quan trọng về mặt chiến lược và cũng có thể nhằm đối phó với những tàn tích còn sót lại trong ảnh hưởng chính trị của vương quốc Chăm trước kia. Thân sinh ba anh em Tây Sơn là ông Nguyễn Văn Phúc tùng có lúc sống ở ấp Kiên Thành trước khi đưa gia đình về làng Tây Sơn*. Cuộc chiến giữa hai quân đội Trịnh-Nguyễn kéo dài cho đến giữa thế kỷ XVII, bên này mở những cuộc tấn công liên tiếp vào phía bên kia. Năm 1672, quân Trịnh tung ra một loạt tấn công cuối cùng nhằm xâm nhập các phòng tuyến của quân Nguyễn, nhưng tất cả những cuộc tấn công đó đều bị đẩy lùi. Cuối năm đó, quân Trịnh ngưng tấn công và rút về. Cả hai phía chấp nhận một thế bế tắc về quân sự và cuộc ngưng bắn trên thực tế đã hình thành. Tình trạng chiến tranh kết thúc, sự chia tách càng dứt khoát hơn, mỗi bên tiếp tục tự nhận là một vương quốc riêng, dùng con sông Linh Giang* làm ranh giới giữa hai bên. Trong thời kỳ hậu chiến đó, ranh giới này được duy trì chặt chẽ, hai nhà Trịnh-Nguyễn không có những cuộc tiếp xúc trực tiếp với nhau. Tuy nhiên, những cuộc tiếp xúc gián tiếp ở miền Nam Trung Quốc vẫn tiếp tục, thông qua các thương nhân qua lại hai lãnh thổ, giúp cho hai phía ít nhất cũng có những thông tin về nhau. I.2. ĐÀNG NGOÀI VÀ ĐÀNG TRONG THẾ KỶ XVIII Việc dừng cuộc chiến công khai cho phép mỗi bên tập trung vào những vấn đề nội bộ, trong lúc sự chia tách dứt khoát góp phần tạo ra những thực thể chính trị riêng biệt ở hai bên bờ sông Linh Giang. Mỗi chính thể theo đuổi một đường hướng chính trị riêng biệt được xác định bởi những hoàn cảnh về địa lý và kinh tế riêng. Mặc dù các nhà viết sử Việt về sau nhấn mạnh đến tính thuần nhất cố hữu của dân tộc Việt Nam, và ở một mức độ nào đó là sự thuần nhất về ranh giới lãnh thổ, như Nola Cooke và Li Tana đã lập luận, rõ ràng là hai vương quốc Nguyễn và Trịnh cần được xem như hai nhà nước tách biệt nhau và phát triển trong những hoàn cảnh lạ thường. Keith Taylor cũng vậy. Trong một khảo sát quan trọng về chủ nghĩa địa phương của người Việt Nam, ông đã chỉ ra sự kiện các đặc điểm dễ phân biệt về vùng miền và kinh nghiệm lịch sử vùng miền từ lâu đã tạo nên tính cách của con người Việt Nam ở mức độ nào đó. Chính sự khác biệt về vùng miền đó đã góp phần hình thành hai thực thể chính trị riêng biệt, với cách nhìn và định hướng rất khác nhau, trên một đất nước Đại Việt bề ngoài có vẻ thống nhất. Các chúa Trịnh và xã hội của họ hướng về Trung Quốc, về một thế giới văn hóa và thương mại nằm ở phía bắc, hoặc trên đất liền, hoặc trên biển. Các chúa Nguyễn thì quay sang phía nam, đông và tây, hướng về biển và vùng lục địa Đông Nam Á, với sự liên hợp phức tạp về văn hóa và kinh tế kết nối họ với các dân tộc Chăm, Khmer, Xiêm cùng thế giới mậu dịch rộng lớn hơn ở các vùng đảo. Như một thế lực chính trị thực sự ở Đàng Ngoài, các chúa Trịnh chỉ đạo đường lối phát triển chính trị và kinh tế trong vùng. Sau cuộc xung đột với các chúa Nguyễn, các chúa Trịnh thực hiện những cải cách chính trị ôn hòa và cố gắng điều chỉnh về thuế khóa và kinh tế nhằm đáp ứng với tình hình biến chuyển nhanh chóng. Thêm vào đó, chúa Trịnh nỗ lực tăng cường sự ổn định xã hội bằng cách làm nổi bật vai trò và địa vị của các nho sĩ và sử dụng khoa cử như một cơ chế để tuyển chọn họ. Những cải cách này xem ra khá khiêm tốn trước những vấn đề rộng lớn nên không thể theo kịp những biến chuyển nhanh chóng về kinh tế xã hội. Ngoài ra, các chúa Trịnh còn thay đổi gánh nặng thuế khóa trong xã hội Đàng Ngoài, tìm kiếm những giải pháp có tính sáng tạo cho vấn đề thâm hụt ngân sách thường xuyên. Hậu quả là thuế má gia tăng trên những sản phẩm vốn không phải là đối tượng của sưu cao thuế nặng, trong đó có muối, các khoáng chất và sản phẩm nông nghiệp. Tuy nhiên, những thành phần ưu tú giàu có lại thường xuyên tránh được hoàn toàn các khoản thuế khóa. Một loạt thiên tai xảy ra kết hợp với các cuộc khủng hoảng kinh tế tăng dần vào các thập niên 1730 và 1740. Và cũng từ đó, nạn tham nhũng của công tăng cao. Và điều có thể thấy rõ là quyền hành của chúa Trịnh trở nên mong manh hơn. Hệ quả là sự bất an trong dân chúng gia tăng ở mức độ dữ dội, được châm ngòi bởi những vấn đề trên và bởi sự gia tăng của số người sống lang thang, không đất đai canh tác. Một số cuộc nổi dậy kéo dài nhiều thập niên, trong đó có cuộc nổi dậy của Hoàng Công Chất diễn ra từ năm 1740 đến năm 1767, của Lê Duy Mật, từ năm 1738 đến năm 1769. Hậu quả là những bất ổn này khiến cho quân đội và chính quyền họ Trịnh phải bận tâm giải quyết trong phần lớn khoảng thời gian giữa thập niên 1730 và thập niên 1770. Mặt khác, ở Đàng Trong do các chúa Nguyễn kiểm soát, những năm cuối thế kỷ XVII và đầu thế kỷ XVIII tiêu biểu cho thời kỳ các nhà cai trị củng cố địa vị của họ và học cách bòn rút của cải của vương quốc phía nam. Để làm việc này, họ Nguyễn tiếp tục tổ chức nhà nước và cư dân dọc theo các phòng tuyến quân sự. Tư tưởng Khổng giáo và việc đề bạt quan chức dựa vào công trạng có quá ít chỗ ở một nhà nước đang trong tình trạng chiến tranh*. Các quan hệ cá nhân và thị tộc là con đường chắc chắn nhất dẫn đến quyền lực chính trị và uy tín xã hội. Thêm vào đó, định hướng quân sự của chính quyền nhà Nguyễn từng ích dụng trong cuộc chiến với họ Trịnh vào giữa thế kỷ XVII, nay tiếp tục được sử dụng trong sự bành trướng lãnh thổ về phía nam, đến đồng bằng sông Cửu Long. Sự bành trướng này diễn ra bất lợi cho vương quốc Chăm vẫn còn trong tình trạng bán tự trị, đang tồn tại giữa vùng duyên hải miền Trung và của người Khmer ở xa về phía nam. Cùng lúc đó, tham vọng mở rộng dần sự kiểm soát lãnh thổ về phía tây của các chúa Nguyễn đã tạo ra những căng thẳng lớn dần với các cư dân vùng cao. Cuối cùng, những căng thẳng này bùng lên thành những cuộc xung đột giữa người Việt và người Tây Nguyên vào những thập niên 1750 và 1760. Như nhà nghiên cứu Li Tana đã viết, sự bành trướng của cư dân Việt và vấn đề mùa màng thất bát đã là ngòi nổ của cuộc đối đầu ở Quảng Nam. Người miền cao, thường gọi là “Mọi Đá Vách” thường xuyên mở những cuộc đột kích các căn cứ của nhà Nguyễn ở phía nam Phú Xuân, và các nỗ lực của nhà Nguyễn nhằm kiểm soát tình hình đã trở nên vô hiệu*. Khoảng thời gian giữa những năm 1767 và 1771, ngay trước cuộc nổi dậy của nhà Tây Sơn, là một loạt những cuộc tấn công liên tiếp nhau như thế. Người Srê nổi dậy ở Quảng Ngãi năm 1770, cùng năm với người vùng cao Đá Vách tiến hành những cuộc tấn công xa hơn vào các cộng đồng ở vùng đồng bằng. Cuộc xung đột tiếp tục giữa người ở hai vùng cao và thấp là yếu tố quan trọng góp phần vào những thắng lợi ban đầu của phong trào Tây Sơn, khi các nhà lãnh đạo phong trào xem vùng cao là nơi tuyển mộ người thuận lợi nhất. Suốt thế kỷ XVIII, các chúa Nguyễn dần dần khoác vẻ ngoài của một thực thể chính trị có tính tự trị hơn. Năm 1702, chúa Nguyễn* gửi một lá thư cho triều đình Trung Hoa thông qua các trung gian người Xiêm, xin nhà Thanh công nhận là một thuộc quốc riêng rẽ. Vua nhà Thanh xét rằng vẫn còn vua Lê trên ngai vàng ở Thăng Long nên từ chối tiếp thư. Dù có sự bác bỏ của Thanh triều, cuộc thương lượng về mặt ngoại giao cũng cho thấy sự hiện diện tại Đàng Trong của một thực thể chính trị đang nỗ lực tái khẳng định mình. Điều này phản ánh qua việc thay đổi các thuật ngữ chính trị, như danh xưng dùng để chỉ kinh đô của họ, danh hiệu các quan chức và tước hiệu dùng cho các thành viên trong vương gia*. Cuối cùng, năm 1744, chúa Nguyễn* chính thức hóa việc thoát khỏi ảnh hưởng của nhà Lê, đánh dấu sự chấm dứt việc công nhận vua Lê là người lãnh đạo về mặt chính trị của họ*. Vào năm đó, chúa Nguyễn Phúc Khoát ban một chỉ dụ tuyên bố việc xưng vương, tự xem mình ngang hàng các nhà cai trị phía bắc, chứ không còn là thần dân của họ nữa. Vào thời kỳ này, cả chúa Trịnh lẫn chúa Nguyễn đều củng cố quyền lực chính trị của họ, trong lúc vua Lê vẫn còn ngồi trên ngai vàng. Dòng dõi hoàng tộc này từng một thời lừng lẫy, đã hàm ơn dòng họ Trịnh về sự “phục hưng”, tuy vẫn còn được duy trì danh hiệu và cung điện, song quyền hành thực sự đã về tay chúa Trịnh. Đó là một sự sắp đặt có lợi cho dòng họ Trịnh khi họ có thể nắm giữ quyền hành chính trị và kinh tế mà không cần phải gạt bỏ nhà Lê. Họ toan tính nắm quyền trên danh nghĩa của chính họ mà không cần sử dụng danh nghĩa của nhà Lê. Song họ cho rằng tính chính thống của nhà Lê cũng như sự tưởng nhớ của người dân về thời kỳ hoàng kim của dòng họ trị vì đó là vốn quý, giúp vào việc tái lập sự ổn định sau khi cuộc nội chiến kết thúc*. Cuối cùng thì quyền năng của họ Trịnh đã giúp ổn định ngai vàng vua Lê và cả hai đã phát triển mối quan hệ cộng sinh được công nhận rộng rãi. Có một câu nói trong dân gian như sau: “Chúa Trịnh còn nhà Lê còn, chúa Trịnh mất nhà Lê mất”. Sự sắp đặt đó, cùng với sự căng thẳng chính trị tiềm tàng của nó, kéo dài đến thời kỳ Tây Sơn. Giữ vua Lê trên ngai vàng là con dao hai lưỡi đối với chúa Trịnh, khi lòng trung thành đối với nhà Lê kéo dài đến thế kỷ XVIII. Thật vậy, nhiều cuộc nổi dậy với qui mô lớn diễn ra ở phía bắc vào thế kỷ XVIII lợi dụng sự bất hòa giữa vua Lê và chúa Trịnh để tuyên truyền lôi kéo tình cảm của người dân hướng về nhà Lê. Điều đặc biệt là sự tưởng nhớ đến thời kỳ vàng son đầu đời Lê lại tương phản mạnh mẽ với sự cam go về kinh tế tác động lên đời sống người dân đang oán thán các chúa Trịnh*. Hai cuộc nổi dậy quan trọng vào thời kỳ này, trong đó có cuộc nổi dậy của hoàng thân Lê Duy Mật, diễn ra vào những năm từ 1738 đến 1769, với danh nghĩa phù Lê diệt Trịnh. Vài cuộc nổi loạn nhận được sự ủng hộ của giới quan lại, trong đó người nổi tiếng nhất là Phạm Công Thế, đỗ trong khoa thi năm 1727, là quan lại cao cấp tham gia vào cuộc nổi dậy của Lê Duy Mật. Khi Thế bị bắt vào năm 1738, những người hỏi cung ông ta trách rằng: “Nhà ngươi là người trong khoa giáp làm sao lại đi theo bọn phản nghịch?" Và Thế đã trả lời: “Danh phận không sáng tỏ đã lâu rồi, còn phân biệt thế nào là thuận với nghịch được nữa?” Về sau, trong thế kỷ đó, quan điểm này được danh sĩ Phạm Đình Hổ lặp lại, và trong tác phẩm Vũ trung tùy bút, ông đã viết: "thế hệ trượt dài vào những thói quen xấu và con đường quyền lực mỗi ngày một suy yếu. Khái niệm về danh thơm bị xáo trộn, và người ta không còn phân biệt được đúng sai”. Với những cảm nghĩ như thế, đây là lúc thuận tiện để quy trách nhiệm về các biến động trên và cuộc nổi dậy đầy ấn tượng tiếp sau đó của nhà Tây Sơn khi nhà Lê đang ở trong tình thế suy yếu rõ rệt. Tuy nhiên, việc xem xét chặt chẽ lại cho thấy những điều khác hơn. Dù cho nhiều biến động nổi lên vào giữa thế kỷ XVIII, đặc biệt ở khu vực phía bắc, cả Đàng Ngoài và Đàng Trong đều tương đối mạnh, họ tập trung quyền lực vào giữa và một phần nửa sau thế kỷ này. Ở phía nam, thời kỳ giữa thế kỷ XVIII là thời kỳ của sự mở rộng về mặt địa lý và một vương triều quyết đoán, có đầu óc độc lập được lãnh đạo bởi chúa Nguyễn Phúc Khoát (1738-1765), một người kiên quyết và có tài. Thời gian trị vì 27 năm của ông đánh dấu một thời kỳ mở rộng đất đai và những mối quan hệ ngoại giao rộng rãi với người Xiêm và người Khmer. Ở phía bắc cũng tương tự như thế, trong lúc có nhiều biến động lớn do dân chúng gây ra vào những thập niên đầu thế kỷ XVIII nhằm phản ứng lại đường lối cai trị khắc nghiệt của chúa Trịnh Giang (1729- 1740), tình hình được cải tiến chậm dưới thời hai người kế tục ông là Trịnh Doanh (1740-1767) và Trịnh Sâm (1767-1782); cả hai đã có những nỗ lực đáng kể nhằm giải quyết những vấn đề trọng đại mà họ đã kế thừa*. Cuối cùng thì họ đã thành công trong việc đàn áp phần lớn các cuộc nổi dậy và bắt đầu chú ý đến một số bất mãn ngấm ngầm của giới nông dân. Cho dù họ không thể loại trừ được hết những vấn đề về cơ cấu mà họ Trịnh phải đương đầu, những nhà cai trị của hai miền cũng phục hồi được trật tự ở một mức độ nhất định. Không mấy ai đặt vấn đề về việc họ là những nhà cai trị có khả năng, tương đối mạnh mẽ. Mặt khác, họ có thể ngăn chặn một số vấn đề tiềm ẩn trong vương quốc riêng của mình, song họ không thể loại bỏ chúng hoàn toàn. I.3. ĐỘNG LỰC XÃ HỘI VÀ VĂN HÓA VÀO THẾ KỶ XVIII Biến động đột ngột về chính trị tại Đàng Ngoài và Đàng Trong giúp định hình hoàn cảnh xuất hiện cuộc nổi dậy của nhà Tây Sơn, song các động lực khác trong xã hội Đại Việt cuối thế kỷ XVIII cũng góp phần lớn vào việc xác định đặc điểm của thời kỳ này. Nhiều yếu tố sẽ được đề cập đến về sau, song có một vài yếu tố đáng được nêu bật ở điểm này. Điều đặc biệt là ảnh hưởng của phương Tây gia tăng, khi có nhiều người Âu, nhất là các giáo sĩ, đến Đại Việt. Có những biến đổi nội tại trong xã hội liên quan đến sự gia tăng thịnh vượng và một cấu trúc giai cấp thay đổi không ngừng. Hơn nữa, đây là thời kỳ của sự vận động mạnh mẽ về tri tuệ, được thúc đẩy một phần bởi những nỗ lực của giới nho sĩ nhằm tìm kiếm giải pháp cho các vấn đề của một xã hội nhiễu loạn. Có lẽ điều đáng chú ý nhất là vào thời kỳ này, người ta nhận thấy ảnh hưởng của người châu Âu một cách sâu sắc và trực tiếp hơn bất cứ lúc nào trước đó. Con đường chủ yếu dẫn đến sự giao tiếp ngày càng gia tăng là thương mại và tôn giáo. Các thương nhân và giáo sĩ châu Âu tranh nhau hàng hóa, thị trường và tâm linh của người Việt. Các giáo sĩ châu Âu đã hiện diện ở Đại Việt vào những năm đầu của cuộc Trịnh-Nguyễn phân tranh và nhân số của họ tăng lên vào thời kỳ hậu chiến, đồng thời với sự gia tăng của người dân địa phương theo đạo Thiên Chúa. Mặc dù sự thành công của các giáo sĩ còn hạn chế, một vài gia đình có máu mặt và một vài ngôi làng cải sang đạo mới, hình thành những nhóm nhỏ trong xã hội Đàng Ngoài và Đàng Trong mà quyền lợi phần nào vượt ra ngoài những chuẩn mực đã được chấp nhận về xã hội và tôn giáo*. Những căng thẳng giữa triều đình Việt Nam với người theo đạo Thiên Chúa được biết đến nhiều vào thế kỷ XIX, song ở nửa sau thế kỷ XVIII, giáo dân Việt và các giáo sĩ châu Âu đã đứng trước một tình thế nan giải về mặt chính trị, như chúng ta sẽ thấy ở Chương IV. Dù trong trường hợp nào, giáo dân Thiên Chúa giáo Việt Nam và các giáo sĩ châu Âu cũng bị thu hút vào các cuộc xung đột của nhà Tây Sơn, và con đường được vạch ra trong việc chọn phe nào không nghiêm ngặt và dễ đoán trước một chút nào. Như Nguyễn Thanh Nhã đã lập luận, thế kỷ XVIII là thời kỳ có những chuyển biến kinh tế quan trọng, trong đó những hoạt động thương mại và mậu dịch (cả trong nước lẫn quốc tế) đã hình thành sự phân phối của cải và những nền tảng của quy ước xã hội. Ông cho rằng sự gia tăng thịnh vượng dưới hình thức hoạt động thương mại đã phá vỡ các rào cản xã hội. Những phân hóa xã hội đang tồn tại đã ít được khảo sát một cách cẩn trọng và một số dạng nghề nghiệp (như nghề diễn tuồng chẳng hạn) đã không còn bị khinh rẻ. Mối quan hệ gia đình của những người như thế không còn là rào cản ngăn họ vươn tới địa vị cao nữa. Khi nhắc tơi Lê Quý Đôn, Alexander Woodside cũng đã viết rằng ở Đàng Trong “sự phân biệt giai cấp và địa vị xã hội đã suy giảm”. Trong lúc những phân biệt đó không bao giờ được khảo sát một cách nhiệt tình ở vương quốc nhà Nguyễn thì có những dấu hiệu cho thấy rõ rằng ảnh hưởng của chúng ở vương quốc chính thống về mặt văn hóa của chúa Trịnh cũng suy tàn. Thật vậy, các tác giả như Lê Quý Đôn đã miêu tả một số thay đổi này và sự gia tăng mức độ thịnh vượng về thương mại ở cả Đàng Trong lẫn Đàng Ngoài. Cuối cùng, thế kỷ XVIII là thời kỳ của sự vận động về mặt tinh thần, đặc biệt ở Đàng Ngoài. Một số nhân vật quan trọng hiểu biết nhiều về lịch sử Việt Nam hoạt động tích cực vào thế kỷ XVIII vốn được miêu tả như một trong những cao điểm trong lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam. Nửa sau thế kỷ này là thời kỳ của Lê Quý Đôn (1726-1784), một trong những tác gia và nhà triết học quan trọng nhất trong chiều dài lịch sử Việt Nam. Ít nổi tiếng hơn một chút song cũng có nhiều tài như Ngô Thì Nhậm (1746- 1803), Phan Huy Ích (1751-1822), Bùi Dương Lịch (1758-1827), Bùi Huy Bích (1744-1818), Nguyễn Thiếp (1723-1804), và những người khác đã hoạt động tích cực trong thời kỳ Tây Sơn, bị tác động bởi chúng và phản ánh chúng trong tác phẩm của họ. Đó cũng là thời kỳ của Nguyễn Du (1765- 1820), tác giả lừng danh của Truyện Kiều. Ngoại trừ Nguyễn Thiếp và Nguyễn Du, những người còn lại thuộc về tầng lớp đỗ đạt tiến sĩ, những sĩ tử đã đi đến giai đoạn cuối của hệ thống khoa cử nhiều cấp do triều đình tổ chức. Đối mặt với những rối loạn về chính trị và xã hội ngày một gia tăng của thời đại mình, nhiều người trong những nhà nho này tích cực tìm phương thuốc nhằm ổn định trật tự. Cho dù là một thành phần trong cơ chế quan liêu, giới nho sĩ trong thơi kỳ này vẫn còn gắn bó chặt chẽ với cái gốc rễ nông thôn của họ, vì thế họ đã cố những mối quan tâm cụ thể đến việc thỏa mãn những nhu cầu cơ bản của người nông dân*. Trong số những nhà nho được biết đến nhiều vào giai đoạn đó có Lê Quý Đôn và Ngô Thì Nhậm, đã nhắc lại câu danh ngôn của Khổng phu tử “Dân là gốc nước” (Dân vi bang bản)*. Hay như danh sĩ Nguyễn Thiếp đã viết cho nhà lãnh đạo Tây Sơn một bức thư vào năm 1791: “Dân là gốc nước, gốc vững nước mới yên”*. Do đó, mối quan tâm của họ không phải xuất phát từ một chủ nghĩa vị tha, mà đúng hơn bằng nhận thức rằng sự ổn định ở nông thôn rất cần thiết cho sự tồn tại của nhà nước. Để giải quyết các vấn đề xã hội như vậy, những nhân vật này nỗ lực phục hồi các tư tưởng của xã hội Khổng giáo đã được miêu tả trong văn hán cổ từ di sản triết học mà họ đã chia sẻ với người Trung Quốc. Họ tìm cách gieo rắc tư tưởng của những văn bản đó và đưa ra những giải thích cá nhân, cốt sao những giải pháp họ đề ra đạt được hiệu quả mong muốn. Kết hợp mối quan tâm về cuộc khủng hoảng xã hội trong cộng đồng với niềm tin về tính cải thiện trong học thuyết Khổng tử, các nho sĩ phía bắc tham gia vào nhiều hoạt động sôi nổi nhằm quảng bá các tác phẩm kinh điển của Khổng giáo cùng với thông điệp của chúng. Những thông điệp từ các tác phẩm mà họ viết ra thể hiện dưới nhiều dạng khác nhau: tóm lược nguyên tác, trích dẫn từ tác phẩm kinh điển, chuyển thành thơ, và quan trọng hơn cả là dịch toàn phần hay ít nhất một phần tác phẩm kinh điển ra chữ Nôm*. Mặc dù giới sử gia Việt Nam đương đại cho là các nhà lãnh đạo Tây Sơn về sau đã có những công trình dịch những tác phẩm kinh điển ra chữ Nôm, hành động này cần được coi như là biểu thị to lớn và có hệ thống nhất của một nỗ lực nhằm mở rộng nhận thức của công chúng về sách vở Khổng giáo thông qua một hình thức dễ tiếp cận rộng rãi hơn. Nói tóm lại, thế kỷ XVIII trải qua cuộc khảo sát chặt chẽ hơn về cả hai mặt tinh thần và xã hội, về sự bất mãn của giới nông dân bùng nổ dữ dội dưới sự lãnh đạo của ba anh em nhà Tây Sơn*. Như chúng ta sẽ thấy, cả hai mặt này có quan hệ hỗ tương chặt chẽ với nhau, giúp tạo ra phong trào Tây Sơn và về thực chất đã định hướng phong trào suốt hơn 30 năm trải rộng khắp lãnh thổ Việt Nam. I.4. CÁC YẾU TỐ GÂY RA SỰ BẤT MÃN CỦA DÂN CHÚNG: TẠI SAO CÓ PHONG TRÀO TÂY SƠN? Trong lúc động lực xã hội được coi là cơ sở quan trọng của cuộc nổi dậy của nhà Tây Sơn, nó lại không thể giải thích được căn nguyên của sự biến loạn. Vì thế, chúng ta cần nhìn một cách trực tiếp hơn vào những mô hình rộng rãi về chuyển đổi dân số và kinh tế, góp phần làm lan rộng tình trạng bất an, và vào những yếu tố trực tiếp hơn, chủ yếu về kinh tế nhưng cũng về cả quân sự và chính trị. Và như chúng ta sẽ thấy dưới đây, cả hai yếu tố này góp phần làm cho tình hình trở nên tệ hại hơn bởi một loạt những chuyển tiếp chính trị gay go ở cả hai miền đất nước, những chuyển tiếp có thể mang lại thành công về quân sự và chính trị cho đạo quân nổi dậy. I.4.1. Chuyển biến về dân số trên lãnh thổ của chúa Nguyễn Lãnh thổ của chúa Nguyễn nhanh chóng được mở rộng từ giữa thế kỷ XVII đến thế kỷ XVIII. Việc mở rộng sự thống trị của nhà Nguyễn đến những vùng xa kinh đô Phú Xuân cũng mang lại những hệ quả quan trọng. Trước tiên, dân số và khối lượng đất đai do chúa Nguyễn kiểm soát đã gia tăng rất nhiều, khiến cho việc quản lý về mặt hậu cần của vương quốc này trở nên phức tạp hơn rất nhiều*. Thêm vào đó, sự mở rộng quyền lực chính trị về phía nam có nghĩa là các chúa Nguyễn ở một chừng mực nào đó đã bị cô lập về mặt vật chất với phần lớn vương quốc của họ, một vùng đất rộng lớn nằm ở phía nam đèo Hải Vân, thuộc trấn Quảng Nam. Những vùng đất mới do chúa Nguyễn công bố chủ quyền là nơi cư trú của những nhóm người pha tạp, hay dời đổi, có mối quan hệ lỏng lẻo với kinh đô Phú Xuân. Như chúng ta đã biết, khu vực quanh Qui Nhơn được dành làm nơi cư trú của những tù nhân chính trị phía bắc và cũng là quê hương của những người còn sót lại của vương quốc Chăm, trong khi có nhiều nhóm người vùng cao sống sát cạnh trung tâm của cuộc nổi dậy ở ấp Tây Sơn. Khi nhà Nguyễn tìm cách nới rộng ảnh hưởng trong khu vực, họ tác động đến quyền lợi chính trị của người Chăm và người vùng cao tại địa phương, song cả hai nhóm người này sẽ sớm trở thành những nhóm ủng hộ cuộc nổi dậy của nhà Tây Sơn. Ngoài ra, khi nhà Nguyễn bành trướng xa hơn về phía nam, đến vùng đồng bằng sông Cửu Long do người Khmer cắt nhượng, họ xung đột với những người dân còn sót lại của vương quốc Chân Lạp. Trong lúc người Khmer không phải là chướng ngại quan trọng đối với quân nhà Nguyễn thì việc di chuyển đến vùng này khiến nhà Nguyễn đụng độ trực tiếp với các thế lực chính trị ở lục địa Đông Nam Á, đặc biệt là với sức mạnh của người Xiêm*. Cùng với thời gian, vận may của các nhà cai trị đất Chân Lạp suy yếu dần, dẫn đến những cuộc tranh giành quyền lực giữa những người muốn chiếm lấy ngai vàng. Những sự kiện này lần lượt thu hút sự chú ý của triều đình Xiêm vốn không ngừng mưu tìm một vai trò trực tiếp trong các vấn đề chính trị tại Chân Lạp. Sự đến sau của nhà Nguyễn không tránh khỏi việc lôi kéo triều đình Việt vào những mưu đồ trong đời sống chính trị ở Chân Lạp và sự đối đầu trực tiếp với người Xiêm vào thập niên 1760*. Năm 1766, quân Nguyễn xung đột quân sự với quân Xiêm, chủ yếu tập trung vào trung tâm thương mại quan trọng ở vùng duyên hải Hà Tiên, song cũng ở cả khu vực nội địa*. Năm sau, một quốc vương Xiêm mới lên ngôi báu ngay sau một cuộc xâm lược của người Miến Điện* Nhà cai trị mới của Xiêm là Taksin, một người có hai dòng máu Hoa-Thái, nhanh chóng theo đuổi một chính sách ngoại giao hung hăng, đưa quân Xiêm áp sát biên giới các nước láng giềng. Quan trọng hơn cả là Taksin thân hành dẫn một đoàn quân đi vào đất Chân Lạp vào năm 1771, và đưa người ông ta ưa thích lên ngai vàng ở Oudong. Cuộc đụng độ ở Hà Tiên tiếp tục âm ỉ và bùng phát theo chu kỳ vào những năm tiếp sau. Đầu năm 1772, nhà Nguyễn huy động trên 10 vạn quân để đối phó với quân Xiêm và quân Chân Lạp. Mặc dù quân Nguyễn cầm chân được quân Xiêm ở vịnh và chiếm được đất của Chân Lạp ở Phnom Penh và vùng phụ cận, những nỗ lực này khiến cho chính quyền nhà Nguyễn ở Phú Xuân phải luôn bận tâm với vùng đất ở xa về phía nam kinh đô của họ. Cuối cùng, họ dễ rơi vào tình trạng rối loạn nội bộ, ngay khi mà cuộc nổi dậy của nhà Tây Sơn đã được trù tính xong ở vùng cao An Khê. I.4.2. Những vấn đề kinh tế của nhà Nguyễn Trong lúc bận rộn về mặt quân sự ở xa về phía nam, nhà Nguyễn còn phải đối mặt với cuộc khủng hoảng kinh tế trải rộng trên nhiều mặt trận. Cuộc khủng hoảng bao gồm những vấn đề có phạm vi rộng lớn nhưng có quan hệ mật thiết với nhau như chi tiêu quá đáng, sưu thuế tăng cao và bất quân bình về mặt địa lý, tham nhũng trong chính quyền, thu nhập từ ngoại thương giảm sút đột ngột, sản lượng lúa gạo không cân bằng và một cuộc khủng hoảng về tiền đồng phát sinh trong tình huống ngoài tầm kiểm soát của chính quyền Phú Xuân. Thật vậy, trong những thách thức mà nhà Nguyễn gặp phải vào lúc này, chính vấn đề thuế má sẽ đổ dầu vào ngọn lửa bất mãn của dân chúng. Chính thứ dầu này mà các lãnh tụ Tây Sơn đã bật tia lửa làm bùng lên cuộc nổi dậy của họ. Hình 3: Cảnh sông Thu Bồn ở phía nam Đà Nẵng năm 1793, Tranh vẽ của William Alexander, một thành viên thuộc phái bộ Huân tước McCartney năm 1793. In trong tác phẩm Voyage to Cochinchina in the Years 1792 and 1793 (Chuyến du hành sang Đàng Trong những năm 1792-1793) của John Barrow (London, T. Cadell & W. Davies, 1806; in lại tại Kuala Lumpur bởi Oxford University Press, 1975). I.4.3. Khủng hoảng về thu nhập, thương mại và tiền đồng Cái giá phải trả cho cuộc chiến với quân Xiêm buộc nhà Nguyễn phải triển khai một quân số tương đối lớn ở xa kinh đô Phú Xuân là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự căng thẳng về kinh tế ở vương quốc Đàng Trong. Tuy nhiên, đó không phải là lý do duy nhất, vì còn có sự kiệt quệ về ngân khố nữa. Nhiều lúc các chúa Nguyễn thực hiện những chi tiêu quá đáng cho nhiều dự án nhằm nâng cao uy tín của họ, trong đó có việc xây dựng những công trình rất công phu và hoa mỹ tại kinh đô Phú Xuân, vấn đề chi tiêu quá đáng tăng cao vào nửa sau thập niên 1760, đồng thời với việc công khố bị kiệt quệ đã khuyến khích nạn tham nhũng ở cả cấp địa phương lẫn trung ương. Sau khi củng cố địa vị như một gương mặt chính trị chủ yếu của vương quốc Đàng Trong, vị tân quốc phó Trương Phúc Loan đã nâng cao và mở rộng thuế má, từ đó làm gia tăng mạnh mẽ tài sản và ảnh hưởng cá nhân của ông ta. Việc Loan thừa nhận sự hối lộ cho phép các quan chức được miễn nghĩa vụ quân sự đã phản ánh một vấn đề rộng lớn về nạn tham nhũng diễn ra ở nhiều cấp độ khác nhau trong xã hội Đàng Trong. Cùng lúc đó, nhà Nguyễn phải đương đầu với sự giảm sút đột ngột các khoản thu về thương mại khi số lượng tàu buôn từ nước ngoài ghé thương cảng quan trọng là Hội An (Faifo) giảm xuống rất nhanh trong suốt thập niên 1760 và đầu thập niên 1770, Trong Phủ biên tạp lục soạn năm 1776, Lê Quý Đôn đã viết rằng trong năm 1771, chỉ có 16 tàu buôn nước ngoài ghé Hội An và hai năm sau đó, chỉ còn phân nửa số tàu này cập bến!. Điều này trái ngược với một cảng sầm uất từng đón từ 60 đến 80 tàu buôn nước ngoài vào cuối thập niên 1740. Sự suy yếu về thương mại có thể một phần đo thuế nhập khẩu hàng hóa tăng nhằm đài thọ những dự án xây dựng quá phung phí của chúa Nguyễn Phúc Khoát khởi đầu vào giữa thập niên 1750. Hệ quả âm ỉ của sự suy yếu về thương mại còn diễn ra bên ngoài phủ chúa Nguyễn, có quan hệ với nhiều người sống trong vùng, bao gồm người dân trong nước cung cấp hàng hóa xuất khẩu và các thương nhân người Hoa cư ngụ ven biển kiếm sống nhờ vào các tàu buồn nước ngoài. Trong số những nhà buôn này có những người đầu tiên ủng hộ về tài chánh và quân sự cho nhà Tây Sơn, hi vọng sự thay đổi về mặt cai trị có thể giúp phục hồi các trung tâm thương mại sinh lợi ở vùng duyên hải. Dính dáng trực tiếp đến sự suy yếu về thương mại là cuộc khủng hoảng về tiền đồng với những hệ quả quan trọng đối với nền kinh tế Đàng Trong. Lượng tiền đồng nhập từ Nhật Bản và Trung Quốc giữ một vai trò quan trọng trong việc giữ vững sự tăng trưởng kính tế mà nhà Nguyễn đã trải qua trong 150 năm, tạo điều kiện thuận tiện cho giao dịch thương mại trong và ngoài nước. Không có mỏ đồng riêng, các chúa Nguyễn phải lệ thuộc vào kim loại nhập khẩu, và vào đầu thế kỷ XVIII, khi trị giá tiền đồng ở Nhật Bản và Trung Quốc tăng lên, lượng tiền đồng xuất cho Đàng Trong giảm đi rất nhiều. Sự lệ thuộc vào nguồn cung cấp đồng từ bên ngoài của nhà Nguyễn luôn là một khâu yếu của nền kinh tế, và khi khâu này bị vỡ, họ không có nhiều sự lựa chọn. Cuối cùng, họ chỉ chọn một bước đi là nhắm vằo đồng tiền riêng của mình, song đúc bằng kẽm thay vì bằng đồng, một sự thay đổi dẫn đến một loạt vấn đề mới. Để chuyển sang một kim loại mới, các chúa Nguyễn muốn rằng tiền kẽm phải được ngang giá với tiền đồng. Tuy nhiên, hình như đa số người dân chống lại đòi hỏi đó. Nhiều người thích tích trữ gạo hơn là bán lấy tiền kẽm, và giá gạo tăng lên khi nguồn cung cấp giảm xuống, dẫn đến tình trạng thiếu lương thực ở một số nơi. Ngoài ra, như Lê Quý Đôn đã viết, tiền mới bị làm giả dễ dàng, góp phần tạo ra cuộc khủng hoảng niềm tin vào đồng tiền và hủy hoại những nỗ lực ổn định tiền tệ. Chúa Nguyễn không phải là không biết đến những vấn đề do chính sách của họ gây ra, và điều này đã được một quan lại đã trí sĩ là Ngô Thế Lân kể lại trong một hồi ức vào năm 1770*. ông Lân kêu gọi chúa Nguyễn sản xuất thêm tiền đồng và xây dựng các kho chứa thóc để ổn định giá cả của loại hàng hóa quan trọng này, song lời cảnh báo của ông không được lưu ý đến, và cuối cùng ông đã phó thác số phận của mình cho nhà Tây Sơn. Một vấn đề cuối cùng nhưng gần gũi hơn đã tạo sức ép lên vùng Qui Nhơn là ở Phú Xuân, người ta ngày càng thích loại gạo không mắc tiền trồng ở đồng bằng sông Cửu Long. Theo một khảo sát tiến hành vào năm 1769, có một sự mất cân bằng giữa dân số và sản lượng lúa gạo giữa hai miền, và Quảng Nam đánh thuế gạo cùng loại cao hơn 30% so với Thuận Hóa. Mặc dù có thể điều này không liên quan trực tiếp với sản lượng gạo lúc bấy giờ, song nó gợi cho thấy có một khoảng cách lớn giữa hai vùng. Bằng cách tiếp cận số lúa gạo thặng dư sản xuất được ở Quảng Nam, nhà Nguyễn có thể định một giá gạo hợp lý cho Thuận Hóa, một vùng theo truyền thống chỉ trồng lúa đủ sống, với số lượng đủ để nuôi dân. Nhưng khi miền Nam của lãnh thổ có thể sản xuất một khối lượng lớn lúa thặng dư, số lúa này cần được chuyển đi gần 900 cây số để ra kinh đô của nhà Nguyễn. Khối lượng lúa chở ra Phú Xuân đòi hỏi việc trưng dụng một lượng lớn tàu thuyền. Như Li Tana đã cung cấp thêm chi tiết, phần lớn yêu cầu của nhà Nguyễn về sự lao dịch và tàu thuyền chuyên chở lúa gạo từ phía nam diễn ra ở vùng phụ cận Qui Nhơn*. Khu vực này được coi như một trạm dừng lý tưởng trong hành trình chuyên chở lúa gạo rất cần cho người dân, được chia gần như cách đều nhau giữa Phú Xuân và Gia Định, nổi bật là một cảng quan trọng ở Thị Nại. Qui Nhơn cũng có lợi cho nhà Nguyễn, vì ở rất gần, dễ dàng tìm lao động và thu giữ tài nguyên hơn là vùng Gia Định xa xôi. Hậu quả là sức ép của nhà Nguyễn trên miền duyên hải nam-trung đã tạo ra một sự bất mãn to lớn ở đây. Dù cho tàu thuyền bị ép buộc chở lúa gạo hoặc được dỗ dành bằng các biện pháp khích lệ, kế hoạch cũng trở nên phức tạp và không chắc chắn. Tuy nhiên, điều chắc chắn là trung tâm chính trị của nhà Nguyễn đã trở nên lệ thuộc về kinh tế vào vùng đất phía nam của vương quốc Đàng Trong. I.4.4. Thuế má và sự bất mãn của dân chúng Vấn đề cơ cấu đặt ra những câu hỏi khó cho phủ chúa Nguyễn cũng như cho xã hội Đàng Trong rộng lớn hơn, song nguyên do trước mắt của sự bất mãn về kinh tế của dân chúng là thuế má. Nửa sau thế kỷ XVIII chứng kiến cả sự gia tăng gánh nặng sưu thuế lẫn nỗ lực mở rộng việc thu thuế ở những khu vực trước đây chưa từng bị đánh thuế như thế. Thuế má gia tăng do một số áp lực đã kể trên được làm cho dễ dàng một phần bằng cách cải tiến và cập nhật các hồ sơ về sở hữu đất đai và các thông tin liên quan đến các sản phẩm phi nông nghiệp. Năm 1769, có lẽ do mệnh lệnh của Trương Phúc Loan, vị chúa trẻ* ban chỉ dụ cập nhật sổ điền, dân số và năng suất vụ mùa cùng với dữ liệu chính xác về nguồn thu các sản vật thiên nhiên khác từ mật ong đến ngà voi. Tiếp đó, vào năm 1770, lại có một chỉ dụ khác cho tiến hành một cuộc điều tra và ghi sổ bộ các tư điền tại Thuận Hóa, nằm ở phần phía bắc lãnh thổ của các chúa Nguyễn*. Tác động của nỗ lực lập sổ dân, ruộng cày và tính khả dụng của nguồn nguyên liệu là rất đáng kể. Có thể là qua thời gian, những trang trại hiện có đã được mở rộng và nhiều trang trại mới được canh tác trong vùng. Phần lớn đất canh tác mới có thể chưa được ghi vào sổ bộ thuế chính thức. Vì vậy, việc lập sổ điền mới có thể mang về thu nhập mới cho phủ chúa, tiền thuế do những người trước đây tránh nộp nay phải đóng hoặc đang đóng với một thuế suất thấp trên đất đã được nâng cấp do sổ điền lập từ trước đã được biên soạn xong. Những thay đổi này làm lan rộng sự oán thán về sưu cao thuế nặng và người dân nhắm trực tiếp vào ông quốc phó. Trong tài liệu điều tra nghiên cứu, Lê Quý Đôn đã viết là:"... Theo lời người ta nói, thuế tạp ở xứ Quảng Nam do Trương Phúc Loan mới tăng, không phải các vương công đời trước đặt”. Nhiều bài viết cho rằng Trương Phúc Loan đưa ra một loại thuế đinh rất không được hoan nghênh. Không giống như những dạng thuế khác đánh trực tiếp và tỷ lệ thuận với năng suất mùa màng và tình trạng cá nhân, thuế đinh là loại thuế cố định đánh trên mỗi dân làng có tên trong sổ thuế, cho dù như Nguyễn Thanh Nhã đã viết là khoản tiền thuế thay đổi tùy theo địa vị xã hội và cả địa điểm trong vương quốc nhà Nguyễn. Hệ thống thuế khóa mở rộng này cùng với việc Trương Phúc Loan dung túng cho nạn hối lộ, tham nhũng tràn lan, trong đó có việc mua quan bán chức trong làng, với mong muốn đó là một nguồn thu nhập. Những ai trả tiền để có một chức vị trong làng sẽ bù đắp vốn đầu tư bằng cách đặt thêm những khoản thuế phụ trội đánh vào những người dưới họ. Người dân còn thất vọng về một hệ thống phí bổ sung phức tạp, không bao giờ thay đổi và những chi tiêu cộng thêm vào các khoản thuế có sẵn, được các quan chức địa phương thực hiện một cách có hệ thống hoặc dưới hình thức đặc biệt. Có các loại phí “dầu đèn", phí “quà tặng” và phí “trầu cau”, bổ sung vào phí vận chuyển hàng hóa, phí xây dựng và phí bảo quản kho thóc. Hệ thống phí bổ sung diễn ra tệ hại nhất tại khu vực Qui Nhơn, nơi khởi phát không ngẫu nhiên cuộc nổi dậy của nhà Tây Sơn. Một vấn đề cơ bản khác và cũng là nguồn gốc sự khốn khổ của người dân là chính quyền đánh sưu cao thuế nặng đặc biệt trong những vùng kinh tế phát triển, vì những nơi này rất hấp dẫn đối với những viên chức tham nhũng. Chẳng hạn như Quảng Nam được coi là giàu có hơn phần phía bắc Thuận Hóa, và chính ở đây gánh nặng thuế khóa rất nặng nề. Như Lê Quý Đôn đã viết: “Thuận Hóa không có nhiều của cải, đều lấy ở Quảng Nam, vì xứ Quảng Nam là đất phì nhiêu nhất thiên hạ”. Nhà nghiên cứu họ Lê kết luận: “Lệ phí thuế ở xứ Quảng Nam khác với xứ Thuận Hóa. Sự trưng thu so với Thuận Hóa hơi nặng, cho nên kho tàng thu vào rất nhiều, bổng lộc quan lại rất nhiều, mà dân địa phương ấy nổi loạn trước cả cũng vì cớ ấy”. Không chỉ người nông dân ở vùng thấp là những người lao đao vì chế độ thuế khóa thay đổi. Sự bất mãn về thuế rất mạnh mẽ ở những vùng cao thuộc Quảng Nam. Người vùng cao sống trong những khu vực này cảm thấy phải đối diện với một gánh nặng thuế khóa tăng đột ngột và toan tính của nhà Nguyễn trực tiếp kiểm soát hầu mở rộng cơ sở kinh tế của họ. Trước sự giảm sút thu nhập từ hoạt động thương mại vào giữa thế kỷ XVIII, có vẻ như nhà Nguyễn cùng các quan lại ở địa phương và khu vực chuyển sự chú ý của họ vào việc thu lợi tức từ những người sống bên lề sự kiểm soát chính trị của họ, và như Li Tana đã viết, phần nào nhằm chuyển gánh nặng thuế khóa ra khỏi những người dân vùng thấp vốn bất định. Những nhóm này kiểm soát một lượng lớn hàng hóa có giá trị mà bất cứ một nhà nước Việt Nam nào cũng cần hỗ trợ cho hoạt động xuất khẩu của họ, từ các loại gỗ thơm đến các nguồn tài nguyên khoáng sản và động vật. Sự trao đổi hàng hóa từ lâu là mối tương tác về thương mại bền vững giữa người vùng cao và các đối tác của họ sống ở vùng ven biển. Chính quyền nhà Nguyễn đã thu thuế các nhóm dân vùng cao ngay từ cuối thế kỷ XVII, một việc làm chỉ phát triển vào thế kỷ XVIII. Có vẻ như sự thay đổi trong thời kỳ của Trương Phúc Loan là việc nhà Nguyễn tăng thu thuế ở những vùng này, với cái đích nhắm đặc biệt là vùng nội địa giàu tài nguyên của Quảng Nam*. Mối tương tác đó lúc đầu chỉ nhắm vào thương mại, nhưng sau đó phát triển thành một khuôn khổ thuế má gia tăng, và Li Tana đã ước tính rằng vào cuối thập niên 1760, người vùng cao đã đóng góp gần 50% các khoản thuế thứ cấp (không quan trọng) (thuế phi đất đai và thuế thân) hàng năm cho nhà Nguyễn. Với chính quyền Đàng Trong áp đặt thuế thương mại và các loại thuế khác lên những người dân vốn từ lâu chưa từng phải đóng những loại thuế như thế, hầu như không có gì đáng ngạc nhiên khi những nhóm người này ủng hộ một phong trào nổi lên nhằm đảo ngược những áp lực thuế khóa như thế. Sự kiện các nhóm người vùng cao sẵn sàng tham gia vào những hành động chống lại nhà Nguyễn diễn ra từ thập niên 1750; cuộc nổi dậy mới xảy ra này* đối với họ đơn thuần chỉ là sự tiếp nối những thách thức của họ đối với chính quyền vùng đồng bằng. Việc tăng thu thuế của chính quyền nhà Nguyễn là một yếu tố quan trọng góp phần vào sự ủng hộ phong trào Tây Sơn ngay từ đầu của các bộ tộc thiểu số. Tóm lại, như Li Tana đã nhận xét một cách sắc sảo: “chính hệ thống thuế khóa đã gây ra cuộc nổi dậy của nhà Tây Sơn”. I.5. SỰ CHUYỂN TIẾP QUYỀN LỰC CHÍNH TRỊ Ở ĐÀNG TRONG VÀ ĐÀNG NGOÀI Loạt vấn đề kinh tế và dân số này tạo ra một môi trường đủ chín muồi cho một sự bất ổn. Cuối cùng điều có thể tạo ra một cuộc nổi dậy và làm tăng cơ may thắng lợi của nó chính là sự xuất hiện tình hình chính trị không ổn định vào giữa thập niên 1760 và đầu thập niên 1780. Vào lúc này, các quyền lực chính trị đương thời đã bị suy yếu trầm trọng, do tính chính thống bị đặt thành vấn đề, vào lúc mà sự tiếp tục chia cách đất nước Đại Việt khiến cho lòng trung thành về mặt chính trị không được tin cậy. Các cơ cấu chính trị có nhiều khuyết điểm, trước hết ở Đàng Trong vào đầu thập niên 1770, rồi sau đó ở Đàng Ngoài vào đầu thập niên 1780, giúp cho những người đấu tranh chính trị tập trung vào sự oán hận của người dân đối với vấn đề kinh tế hơn là những nhân vật đặc biệt. Như chúng ta sẽ thấy, nhà Tây Sơn có thể khai thác sự phân hóa sâu sắc về chính trị và tư tưởng bè phái để tập hợp những người ủng hộ từ nhiều giai tầng xã hội khác nhau. Cuộc khủng hoảng chính trị đầu tiên diễn ra vào năm 1765 sau cái chết của Võ vương Nguyễn Phúc Khoát từng nắm quyền cai trị lâu dài ở Đàng Trong*. Sự qua đời của chúa mang lại quyền lực cho Trương Phúc Loan, một quan lại nhiều tham vọng và được chúa tin dùng. Cha của Loan là Trương Phúc Phan từng là một trong những quan lại cao cấp ở phủ chúa, và bản thân Loan lại cũng là cậu ruột của chúa Võ vương. Thông qua những mối quan hệ đó, Loan leo dần trên nấc thang quyền lực và khi Võ vương qua đời, ông ta được cử làm phụ chánh cho vị Thế tử là Hưng Tổ*. Các nhà chép sử của triều Nguyễn về sau đã viết rằng Loan "sợ rằng vị chúa (mới) là một người thông minh và có tài, sẽ khó mà lôi kéo (thao túng), vì thế ông ta làm giả một chỉ dụ ra lệnh giam cầm Hưng Tổ trong phủ chúa”*. Rồi khi thấy một ông hoàng khác là Duệ Tông (Nguyễn Phúc Thuần) mới 12 tuổi “(Loan) âm mưu với thái giám Chử Đức và một võ quan tên Nguyễn Cửu Thông làm giả một chỉ dụ cử Duệ Tông nối nghiệp chúa”. Sau đó, Loan sắp xếp để được chúa Duệ Tông cử vào những cương vị cao nhất tại phủ chúa. Duệ Tông cử Loan làm Quốc phó, vừa phụ trách Lại bộ. Chúa cũng giao cho ông ta đồn binh và cơ sở thu thuế. Chính những cơ sở thu thuế giúp Loan kiểm soát có hiệu quả việc hành thu thuế và hậu quả của việc này, chúng ta đã xem ở phần trên*. Để kết chặt mối quan hệ với phủ chúa, Loan thu xếp cho hai người con trai cưới các con gái của vị chúa vừa qua đời*. Các nhà chép sử đương thời và về sau đều cho rằng chính những mưu đồ của Trương Phúc Loan và nhân cách đáng khinh của ông ta là nguyên nhân gây ra sự bất mãn của dân chúng và làm gia tăng các cuộc nổi dậy chống chính quyền*. Sử biên niên thế kỷ XIX của nhà Nguyễn đưa tiểu sử chính thức của Loan vào phần “Nghịch thần, gian thần đối với triều đình”. Khi miêu tả về vị phụ chánh này, sử đã nhấn mạnh đến những khiếm khuyết cá nhân và chính trị của ông ta: “... Dẫu được chúa thân yêu, nhưng chỉ say mê tửu sắc, không để ý đến việc nước*. Loan thấy thế bèn không kiêng nể gì, bán quan, buôn tước, ăn tiền tha tội, hình phạt phiền nhiễu, thuế má nặng nề, nhân dân đều lấy làm khổ. Trong khoảng 4, 5 năm, tai dị hiện ra luôn, đất động, núi lở, sao sa, nước đỏ, trăm họ đói kém, trộm cướp tứ tung”*. Những dấu hiệu đất động, sao sa, nước đỏ cho thấy rằng tình hình chính trị không vững vàng, được xác định bởi sự kiện trộm cướp tứ tung và vấn đề thiếu thốn lương thực. Những hành động của Loan, cũng như những mưu toan của ông ta trong việc tìm người kế nghiệp chúa đã dẫn đến tình trạng bè phái trong phủ chúa, hoặc nhằm ủng hộ vị chúa tại vị, hoặc ủng hộ người anh của chúa đã bị phế bỏ. Chính những phân hóa nội bộ như thế đã bị nhà Tây Sơn khai thác vào đầu thập niên 1770. Cùng lúc với cuộc khủng hoảng nổ ra ở Đàng Trong, một cuộc chuyển tiếp quyền lực chính trị khác diễn ra ở Đàng Ngoài. Năm 1767, một người con của chúa Trịnh Doanh là Trịnh Sâm (1739 - 1782), còn trẻ, đầy nhiệt huyết, song khá nhẫn tâm, lên kế nghiệp cha. Dưới thời Trịnh Sâm, những cuộc nổi dậy của dân chúng ở phía bắc kéo dài từ thập niên 1730 đã bị đập tắt và phần nào trật tự chính trị được vãn hồi. Ngoài ra, khi ở đỉnh cao quyền lực, chính chúa Trịnh Sâm nhiều nghị lực sẽ lợi dụng cuộc nổi dậy của nhà Tây Sơn để xâm chiếm người láng giềng phía Nam vào năm 1774*. Cuộc khủng hoảng sẽ góp phần làm cho dòng họ Trịnh sụp đổ khởi sự vào năm 1780, mười lăm năm sau sự kế nghiệp đầy tranh cãi giúp đẩy nhanh cuộc nổi dậy của người dân ở phía nam. Tình trạng sức khỏe suy yếu của Trịnh Sâm khiến cho người con trai đầy tham vọng của ông là thế tử Trịnh Khải (còn gọi là Trịnh Tông) âm mưu một cuộc lật đổ. Kế hoạch của Khải bị phát hiện và một người con nhỏ khác của Trịnh Sâm với người hầu thiếp sủng ái là Trịnh Cán được cử làm thế tử thay Khải. Khi Trịnh Sâm qua đời vào năm 1782, Trịnh Khải, người con đã bị ông hạ bệ, được sự ủng hộ của đám kiêu binh đã lật đổ Trịnh Cán*. Cuộc đảo chánh và những hậu quả của nó về sau đã tạo ra sự bất ổn trong xã hội phía bắc khi đám kiêu binh tàn phá các khu vực quanh kinh thành Thăng Long. Cố nhiên là có một sự thay đổi rõ ràng từ giữa thế kỷ XVIII, khi những nhà lãnh đạo giỏi kiểm soát các chiếc ghế quyền lực, đến giữa thập niên 1760 (Ở Đàng Trong) và đầu thập niên 1780 (ở Đàng Ngoài), khi quyền hành chính trị bỗng nhiên không được xác định một cách rõ ràng. Ở cả hai miền, những người đòi hỏi quyền hành đã hành xử với những lý lẽ đáng ngờ (và bị công khai cật vấn), và các cuộc khủng hoảng trầm trọng về sự kế nghiệp đã tạo ra những cơ hội được nhà Tây Sơn nhanh chóng nắm bắt. Vì thế, các lãnh tụ Tây Sơn đã tìm cách nắm lấy quyền hành vào thời điểm mà các nhà lãnh đạo chính trị ở cả hai miền Nam và Bắc đều không có được sự ủng hộ và trung thành trọn vẹn. Trong khung cảnh nhiều biến đổi ấy, việc đòi nắm quyền hành xuất phát từ nhiều cách khác nhau, từ nhiều nguồn khác nhau, khiến nhà Tây Sơn dễ dàng đưa ra các yêu sách, còn người dân thì dẹp qua một bên lòng trung quân của họ để ủng hộ phong trào nổi dậy. I.6. KHỞI NGUYÊN: NHỮNG NĂM ĐẦU TIÊN TRONG CUỘC NỔI DẬY CỦA NHÀ TÂY SƠN Tình hình chín muồi cho một cuộc nổi dậy, và nhiều cơ hội đang chờ đợi các nhân vật có tham vọng về quân sự tìm cách liên kết với những người ủng hộ. Vào giai đoạn đó, có ba anh em cư ngụ ở ấp Tây Sơn nhỏ bé. Người anh cả là Nguyễn Nhạc nằm trong guồng máy hành chánh mà sau này ông ta sẽ lật đổ, ở đó, ông ta giữ chức tuần biện lại) có nhiệm vụ thu thuế ở khu Vân Đồn. Nhạc cũng là người buôn bán trầu cau, một loại hàng hóa quan trọng ở địa phương lúc bấy giờ. Vì thế, ông ta đã có mối liên hệ với cả nhà cầm quyền lẫn địa hạt thương mại rộng lớn đang ở trong tình trạng căng thẳng vào giữa và nửa sau thế kỷ XVIII. Cả hai nghề nghiệp này đòi hỏi ông ta phải thường xuyên đi lại trong vùng, trong đó có việc tiếp xúc với khu vực cao nguyên, một nơi mà chúng ta đã biết là đang chịu một áp lực thuế má rộng lớn và không thoải mái từ nhà Nguyễn. Những chuyến đi này giúp ông ta mắt thấy tai nghe về mức độ bất mãn của dân chúng trong vùng. Các nguồn tư liệu không có sự đồng nhất với nhau về một nguyên nhân chính xác đã thúc đẩy Nhạc đi đến quyết định khởi loạn, song tất cả đều cho rằng ông ta không có khả năng giao nộp tiền thuế đã thu từ khu vực ông ta chịu trách nhiệm. Một vài tư liệu ám chỉ việc Nguyễn Nhạc ưa thích cờ bạc và ngụ ý rằng ông ta đã tiêu phí tiền thuế thu được vào loại trò chơi này*. Maurice Durand có vẻ như hoàn toàn có lý khi cho rằng Nhạc không bao giờ có thể thu ngay được thuế do tình trạng lụn bại về kinh tế trong vùng và do dân chúng bất mãn trước gánh nặng thuế má dành cho họ. Dù chi tiết của việc không nộp thuế thu xong có được giải trình như thế nào, vào một thời điểm trong năm 1771, ông ta tìm cách trốn lên vùng cao nguyên ở phía tây ngôi nhà ở để không bị quan lại nhà Nguyễn truy lùng và bắt bớ*, ông ta đưa hai người em và một nhóm nhỏ những người ủng hộ đi theo, hi vọng chốn xa xôi sẽ bảo vệ được họ trong lúc trù tính kế khác. Trong quá trình hành động này, ông ta nhận được sự khích lệ của một người thầy giáo cũ tên Trương Văn Hiến, vốn là một người tị nạn khỏi chính quyền nhà Nguyễn do Trương Phúc Loan chế ngự. Hiến thúc giục Nhạc tự xem như mình được sinh ra để thực hiện lời tiên tri lâu năm tại địa phương: tây khởi nghĩa, bắc thu công*. Ông thầy gợi ý rằng từ “tây” trong lời tiên tri có liên quan đến Tây Sơn là tên ngôi làng của ba anh em Nguyễn Nhạc. Vùng An Khê mà ba anh em Tây Sơn lui về là một địa điểm lý tưởng cho những người cầm đầu một cuộc khởi loạn khi họ tìm cách giành lấy sức mạnh và người ủng hộ. Nó tương đối xa, chỉ có thể tiếp cận được bằng một con đường nhỏ hẹp và nguy hiểm, dễ dàng bảo vệ chống lại các cuộc tấn công của quân nhà Nguyễn*. Vùng cao nguyên này nằm giữa những con đường thương mại quan trọng trải dài từ cảng biển Qui Nhơn ở phía tây đến lãnh thổ của Chân Lạp và vùng nam Lào, mở đường cho hàng hóa chuyên chở dọc theo chúng*. An Khê cũng là một khu vực giàu tài nguyên có thể cung cấp cho anh em Tây Sơn các thứ gỗ, sắt, sulphur, ngựa và voi. Nguyễn Nhạc từng có nhiều cuộc tiếp xúc trong vùng, nơi cung cấp cho ông ta chỗ trú ẩn, và một điều quan trọng không kém là tuyển mộ quân sĩ. Trong hai năm kế đó, Nhạc và nhóm người theo ông ngày càng đông đúc, tiếp tục ở An Khê để củng cố căn cứ và lôi cuốn thêm người ủng hộ. Ưu thế của vị trí của họ giúp ba anh em đạt được vài thắng lợi ban đầu ở các vùng phụ cận, rút kinh nghiệm chiến đấu, tăng cường uy tín, trong khi ít nguy cơ hơn. Tuy nhiên, cuối cùng thì Nguyễn Nhạc quyết định là đạo quân của ông ta đã sẵn sàng đi xuống vùng đồng bằng và thách thức trực tiếp quân nhà Nguyễn. Để thiết lập một vị trí vững chắc ở vùng đồng bằng ven biển quê nhà, đạo quân Tây Sơn cần chiếm lĩnh phủ Qui Nhơn có thành lũy bao quanh, với phủ lỵ cùng tên. Không đủ nhân lực và vũ khí để trực tiếp tấn công thành, các lãnh tụ Tây Sơn quyết định lấy thành bằng mưu chước. Dụng cụ họ sử dụng là một phiên bản của con ngựa thành Troie, nhằm công thành từ bên trong. Để thực hiện mục tiêu này, vào giữa tháng 9 năm 1773, Nhạc giả vờ bị bắt. Ông ta hướng dẫn những người ủng hộ làm một chiếc cũi và khi cũi làm xong, ông ta tự nhốt mình vào đó. Những người ủng hộ Nhạc đến gặp các quan lại ở phủ, báo rằng họ đã bắt được lãnh tụ Tây Sơn nổi tiếng và rồi mang “tù nhân” đến trình diện các quan. Quan nhà Nguyễn thích thú với vận may này, sau khi tưởng thưởng xứng đáng cho những người mang giao nộp người tù đáng giá, họ chuẩn bị đưa cũi về phủ lỵ. Đêm hôm đó, khi những người ủng hộ Nhạc tập trung bên ngoài thành, ông ta tự chui khỏi chiếc cũi, đoạt gươm của người lính coi ngục và bắt đầu tấn công đám lính gác, cùng lúc đó, ông ta mở cổng phủ lỵ để cho quân lính của ông ta tràn vào. Khi đã vào thành rồi, quân Tây Sơn nhanh chóng tiêu diệt số lính đóng trong thành, đốt cháy doanh trại của họ. Quan Tuần phủ Nguyễn Khắc Tuyên chạy ra khỏi thị trấn, vội quá đến nỗi đánh rơi ấn tín, chứng cứ chính thức về quyền cai trị của ông ta. Việc dùng vũ trang chiếm lấy phủ Qui Nhơn và của cải lấy được góp phần mở rộng quyền lực và uy tín của anh em Tây Sơn. Ngoài ra, việc chiếm phủ giúp họ kiểm soát có hiệu quả một dải đất trọng yếu dọc theo bờ biển. Thắng lợi nhanh chóng bước đầu của quân nổi dậy có thể được quy cho nhiều yếu tố, trong đó có sự thành lập một liên minh quân sự rộng lớn (nhưng không ổn định), một quân đội nhà Nguyễn không có động lực chiến đấu và có thể không được chuẩn bị sẵn sàng, không triển khai khéo léo các mưu lược cùng những thiết bị khác để giảm thiểu cách biệt với nhà Tây Sơn. Trong những năm đầu tiên đó, những người khởi loạn khai triển và cổ vũ cho hình ảnh như là những chiến sĩ chính trực, những người của nhân dân, và chịu khó hành xử để người nông dân chiếm đa số trong dân tộc không xa lánh họ. Một giáo sĩ người Tây Ban Nha là Cha Diego de Jumilla đã viết về quân khởi loạn trong một bức thư gửi đi năm 1774 rằng họ: “Không làm tổn hại người hay tài sản. Trái lại, có vẻ như họ muốn mọi người Đàng Trong đều được bình đẳng; họ vào nhà của người giàu, và nếu như họ được tặng một món quà biếu nào đó, họ không làm hại gì. Nhưng nếu họ bị kháng cự, họ tịch thu những món đồ xa xỉ nhất rồi mang chia cho người nghèo, chỉ giữ lại cho họ gạo và thức ăn... (Vì thế, người dân) bắt đầu tôn xưng họ là những kẻ cướp nhân từ và bác ái, được người nghèo khổ kính trọng”*. Tuy nhiên, nhà Tây Sơn không chỉ kêu gọi những người nông dân nghèo trở thành những người cốt cán theo họ. Họ cũng cần có sự ủng hộ của những thành phần khác trong xã hội, trong đó có những người có nhiều uy thế ở địa phương, có thể mang theo những người tùy tùng và của cải, những người có thể đóng góp nguồn tài chánh rất cần thiết cùng những tài nguyên vật chất khác. Trong số người được tuyển mộ vào phong trào những ngày đầu có những người như Nguyễn Thung, được Đại Nam liệt truyện của nhà Nguyễn nhắc đến như là một “tên ác ôn ở xóm làng”, ám chỉ việc ông ta có một thế lực nhất định ở địa phương (tuy nhiên ông ta đã bị các sử gia triều Nguyễn miệt thị), và Huyền Khê, cũng được Đại Nam liệt truyện miêu tả là xuất thân từ một gia đình giàu có. Các lãnh tụ Tây Sơn cũng mở rộng quân đội của họ để liên kết rộng rãi với những người dân đồng bằng bất mãn, phần lớn là người Chăm và người Hoa. Trong hai nhóm người này, quan trọng nhất về mặt tài chánh và quân sự là người Hoa, nhiều người trong số họ là thành viên của các hội buôn quan trọng dọc theo miền duyên hải. Điểm đặc biệt là những thương buôn người Hoa ngày càng cảm thấy khốn khổ vì tình trạng xuống dốc trong thương mại, cùng với chính sách thuế khóa của nhà Nguyễn, họ hi vọng nhà Tây Sơn sẽ cải thiện được tình hình. Các thành viên của cộng đồng này đóng góp tiền bạc và nhân lực cho Tây Sơn, tác động trực tiếp và quan trọng vào sức mạnh của phong trào nổi dậy. Lực lượng của người Hoa giúp mở rộng đạo quân Tây Sơn một cách nhanh chóng, nhưng đồng thời sự hiện diện của họ cũng làm xói mòn tính thuần nhất mong manh của quân nổi dậy. Quân lính người Hoa được tổ chức như những lực lượng quân sự tự trị chỉ nghe theo các cấp chỉ huy người Hoa, là những đồng minh hơn là thống thuộc quân đội Tây Sơn. Ngoài ra, có vẻ như những cam kết của người Hoa với anh em Tây Sơn cũng có giới hạn, và trong vòng 2 năm, những người chỉ huy các đạo quân tự trị này đã làm rạn nứt hàng ngũ những người ủng hộ nòng cốt ban đầu của nhà Tây Sơn. Thứ đến, nhà Tây Sơn lợi dụng tình trạng chưa sẵn sàng của quân đội nhà Nguyễn để xem đó là cơ hội của một cuộc nổi dậy. Quân Nguyễn dưới quyền Trương Phúc Loan được huấn luyện kém, và thiếu kinh nghiệm, vốn là hệ quả của tình trạng thái bình tương đối lâu dài trong vùng. Dù cho quân Nguyễn không tỏ ra lười nhác vào những thập niên đầu, song họ có liên quan đến việc gây ra sự náo động trong người dân cao nguyên, đến cuộc giao tranh với quân Xiêm vào cuối thập niên 1760 - họ đã không được chuẩn bị để đối phó với tầm cỡ và sức tiến nhanh của những thách thức quân sự mới nảy sinh từ nhà Tây Sơn. Có vẻ như quân Nguyễn bỏ chạy khỏi chiến trường mỗi khi có thể, và các quan lại thường đưa hối lộ để khỏi phải đi lính và cử người khác đi thay họ. Cùng với thời gian, quân Nguyễn hoạt động hiệu quả hơn khi cuộc tấn công bất ngờ ban đầu của nhà Tây Sơn qua đi, nhưng cũng cần có một khoảng thời gian nào đó để họ có thể cản được đà tiến của quân khởi loạn trong những cuộc chạm trán đầu tiên. Cuối cùng, như đã đề cập trong kịch bản chiếc cũi, vào những năm đầu tiên của cuộc nổi dậy, các lãnh tụ Tây Sơn sử dụng nhiều chiến thuật và mưu lược khác nhau để cải thiện tình thế bất lợi cho họ. Chẳng hạn như để làm cho đối phương hoảng sợ, lực lượng Tây Sơn tạo ra những tiếng rít to khi di chuyển qua vùng nông thôn và khi chiến đấu. Chính từ chiến thuật này mà họ được khoác cho cái biệt danh phổ biến là quân ó. Quân Tây Sơn cũng tìm cách dọa dẫm kẻ thù của họ bằng cách chiến đấu dưới một lá cờ đỏ khổng lồ được cho là dài 9m. Có thể đoán chừng là lá cờ đó được nhìn thấy từ rất xa, và cùng với những tiếng rít ít nhất cũng có khả năng làm cho quân Nguyễn hoảng sợ. Một cách khác gây ra sự hoảng sợ là cải trang thành những người cao nguyên to lớn như đạo quân người Hoa, rồi khuyến khích họ uống rượu say và trần truồng lao vào chiến trận. Người ta cho rằng những đạo quân này có mang những tấm giấy vàng và bạc dùng đắp lên mặt quân lính đối phương đã ngã xuống để xem họ còn thở không để rồi sát hại những người giả chết. Kết quả là các tài liệu của nhà Nguyễn có ghi là “Không ai kháng cự lại chúng được”. I.7. DIỄN BIẾN CUỘC NỔI DẬY CỦA NHÀ TÂY SƠN: ĐẠI CƯƠNG VỀ MẶT LỊCH SỬ Bằng cách này, quân Tây Sơn đã thách thức quyền lực tối cao của nhà Nguyễn ở Đàng Trong. Lực lượng nổi dậy nhanh chóng gia tăng về số lượng và trải rộng sự kiểm soát một dải đất to lớn hơn bao giờ hết. Từ một góc nhỏ trong nội địa Qui Nhơn, quân đội Tây Sơn chiếm lấy phần lớn Đàng Trong và cuối cùng cả toàn bộ Đàng Ngoài nữa. Phần còn lại của tác phẩm này dành khảo sát xem các lãnh tụ Tây Sơn đã bành trướng quyền lực bằng cách nào và các mối quan hệ phức tạp giữa họ với nhiều thành phần khác nhau trong xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XVIII. Vì phương pháp nghiên cứu của tôi không theo lối biên niên một cách chặt chẽ, tôi bắt đầu với một cái nhìn khái quát về hành trình chính trị và quân sự của cuộc nổi dậy của nhà Tây Sơn kéo dài ba thập kỷ. Bản phác thảo của tôi sẽ đề cập đến những nhân vật và biến động quan trọng của thời kỳ này và chỉ ra một số động lực xã hội sẽ được kể lại với những chi tiết quan trọng hơn ở phần phân tích về sau. I. 7.1. Các trận chiến ở Đàng Trong (1773-1785) Sau thắng lợi ở Qui Nhơn, lực lượng Tây Sơn có thể chiếm lấy nhiều huyện kế cận trước khi đối mặt với sự kháng cự của quân Nguyễn. Cùng lúc này, lợi dụng biến động ở Đàng Trong, quân Trịnh tiến công vào nam vào năm 1774, bề ngoài là để giúp quân Nguyễn đàn áp cuộc nổi dậy của anh em Tây Sơn, nhưng rõ ràng họ xem đây là cơ hội bằng vàng để khuất phục một đối thủ chính trị lâu đời của họ. Khi lực lượng quân sự to lớn của miền Bắc tiến về Phú Xuân, triều đình nhà Nguyễn đi bằng đường biển vào Gia Định, nơi được dùng làm trung tâm kháng chiến đến cuối thời kỳ Tây Sơn. Tại đây, chúa Nguyễn* dành thời gian đầu cho việc tuyển mộ người ủng hộ để chuẩn bị cho cuộc phản công, cùng lúc với việc quân Trịnh tăng cường tấn công nhằm chiếm lấy Phú Xuân rồi vượt đèo Hải Vân nhắm tới các vị trí của Tây Sơn ở phía bắc Quảng Nam. Nằm giữa gọng kìm của quân Trịnh đang tiến đến và quân Nguyễn đang tập hợp lại ở phía nam, các lãnh tụ Tây Sơn áp dụng giải pháp thực dụng là đầu hàng quân Trịnh vào tháng 5.1775. Tướng chỉ huy đạo quân miền Bắc* sẵn sàng giao trách nhiệm truy đuổi chúa Nguyễn cho anh em Tây Sơn để tiếp tục cuộc tiến công kẻ thù ban đầu của họ. Thời gian 10 năm sau được đánh dấu bởi một loạt chiến dịch quân sự qua lại giữa lực lượng Tây Sơn và quân chúa Nguyễn. Trọng tâm của những cuộc giao tranh là phủ Gia Định và thành phố chiến lược Sài Gòn của nó. Nhịp độ của trận chiến được điều chỉnh ở một mức độ đáng kể bởi những trận gió mùa chỉ có thể để cho các lực lượng thủy quân di chuyển đến những vị trí nào đó, vào những thời điểm nào đó. Hình thức giao tranh được định hướng theo kiểu nước đôi của anh em nhà Tây Sơn trong việc tiến hành những chiến dịch quân sự mở rộng ở bất cứ khoảng cách nào so với căn cứ của họ. Rõ ràng là họ luôn cảm thấy thuận tiện trong phạm vi Qui Nhơn hoặc quanh vùng Qui Nhơn và trở nên do dự khi đi xa ở bất cứ khoảng thời gian nào. Vì thế, trong lúc thường xuyên đánh lấy Gia Định, các anh em Tây Sơn không muốn chiếm giữ vùng này. Thay vào đó, họ nhanh chóng quay về phòng tuyến của họ ở Qui Nhơn trước khi gió mùa bất lợi đối với họ. Mỗi lần họ để lại phía sau một lực lượng chiếm đống mà sức mạnh có vẻ cạn kiệt khi không có mặt những lãnh tụ quan trọng của họ, cũng là lúc họ để lại một khu vực dễ dàng bị quân nhà Nguyễn phối hợp phản công. Quân Tây Sơn chiếm lấy Sài Gòn lần đầu tiên vào giữa mùa xuân năm 1776, khi người em nhỏ nhất là Nguyễn Lữ* đưa thủy quân tấn công sông Sài Gòn. Tuy nhiên, không lâu sau, quân nhà Nguyễn quay lại, tái chiếm thành phố, buộc Lữ rút quân về Qui Nhơn. Vào giữa mùa xuân nãm 1777, Nguyễn Nhạc lại cử Lữ và Huệ tái chiếm Sài Gòn. Nguyễn Huệ dẫn một đoàn quân hùng hậu đi bằng đường bộ và đường thủy trong 6 tháng đã tiêu diệt phần lớn quân nhà Nguyễn, bắt giữ và giết gần như toàn bộ thành viên của hoàng tộc nhà Nguyễn*. Sau khi hoàn thành sứ mạng này, Huệ quay về Qui Nhơn, để lại một lực lượng để kiểm soát thành phố. Người duy nhất trong hoàng tộc nhà Nguyễn còn sống sót sau cuộc tàn sát của nhà Tây Sơn là một ông hoàng trẻ tuổi tên Nguyễn Ánh*. Ánh chạy khỏi Gia Định, sống giữa vùng đầm lầy Cà Mau ở vùng cực nam Việt Nam, trước khi tìm chỗ ẩn lánh ở hòn đảo Pulau Panjang* trong vịnh Xiêm La. Nghe tin quân Tây Sơn rút khỏi Gia Định, ông tập hợp số quân còn lại từ hướng tây tiến qua vùng Long Xuyên và Sa Đéc, trở lại Sài Gòn và đoạt thắng lợi vào đầu năm 1778*. Điều này đánh dấu sự khởi đầu một thời kỳ dài chiếm đóng Gia Định và ông hoàng trẻ tuổi họ Nguyễn lợi dụng cơ hội này để củng cố quyền hành còn chưa chắc chắn của mình, ông cử một sứ bộ sang Xiêm hi vọng đạt được một hiệp ước hữu nghị, giúp ông tăng cường tính chính thống trong lúc chuẩn bị một chiến dịch tái chiếm phần còn lại của xứ sở từ tay nhà Tây Sơn. Trong vùng kiểm soát của mình, ông tổ chức lại ba trấn, cử nhiệm các quan chức chính trị, thu thuế, huấn luyện quân bộ và quân thủy, cổ xúy một chương trình tái phân phối đất đai nhằm cải tiến nông nghiệp ở một vùng đã bị chiến tranh tàn phá nhiều năm liền. Rồi vào năm 1780, nhằm mục đích củng cố liên minh chính trị đã hình thành, Nguyễn Ánh tự xưng vương. Hai năm trước đó, tức năm 1778, Nguyễn Nhạc cũng nắm lấy quyền lực nhân danh mình, tự tuyên xưng hoàng đế với niên hiệu Thái Đức, đặt kinh đô ở Chà Bàn, một trung tâm chính trị cũ của người Chăm. Từ đầu năm 1778 đến năm 1781, không bên nào tìm cách cải thiện hiện trạng, vì cả hai bên đều bận rộn củng cố vị trí riêng của mình. Thế rồi, vào mùa hạ năm 1781, sự thù nghịch nổ bùng trở lại khi Nguyễn Ánh tung ra một cuộc tấn công thất bại vào dinh lũy của Tây Sơn nằm ở bờ biển Nha Trang. Tiếp theo đó là cuộc phản công của Nhạc và Huệ diễn ra vào tháng 5.1782. Hai anh em Tây Sơn tập hợp100 tàu chiến và tiến về phía nam, hướng về sông Sài Gòn và mở cuộc tấn công vào Gia Định- Chiếm lấy thành phố, quân Tây Sơn đốt cháy và cướp bóc các tiệm buôn của Hoa thương, và tàn sát hàng ngàn cư dân người Hoa. Cuộc tàn sát này là hậu quả trực tiếp của việc một trong những tướng giỏi của Nguyễn Nhạc bị một tướng người Hoa theo chúa Nguyễn giết chết*, song điều này phản ánh sự căm giận của nhà Tây Sơn trước việc cộng đồng người Hoa ngày càng ủng hộ kẻ đối địch với họ là chúa Nguyễn. Sau thắng lợi dã man đó, tháng 6.1782, các lãnh tụ Tây Sơn trở về phía bắc, giao thành phố Sài Gòn lại cho các tùy tướng. Nghe tin Huệ và Nhạc đã rời Sài Gòn, Nguyễn Ánh phản công và chiếm lại thành phố mấy tháng sau đó*. Tháng 3 năm 1783, một lần nữa, Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ lại tấn công Sài Gòn, đánh bại quân Nguyễn và buộc Nguyễn Ánh phải thoát chạy. Thừa thắng xông lên, các lãnh tụ Tây Sơn bố trí một đội thuyền truy đuổi Nguyễn Ánh và đoàn quân đã mất hết tinh thần chiến đấu của ông. Tuy nhiên, một trận bão to giữa biển đã phá hủy phần lớn đoàn thuyền Tây Sơn, giúp Nguyễn Ánh thoát ra đảo Phú Quốc, nơi quân sĩ của ông phải ăn cỏ và chuối để sống. Cuối cùng, từ đây, ông đến Xiêm, được vua Xiêm cho tạm trú để mưu tính bước đi kế tiếp sẽ diễn ra vào tháng 1.1785. Vào thời điểm này, khởi đầu từ căn cứ ở Xiêm, với sự bổ sung 20.000 quân Xiêm và 300 tàu chiến do nhà cầm quyền Xiêm cử ra, Nguyễn Ánh và quân đội của ông đi đường bộ xuyên qua Chân Lạp và đường biển sang vịnh Xiêm La, tấn công các địa phương phía nam. Quân Tây Sơn đã sẵn sàng ứng phó với cuộc tấn công của quân Nguyễn, họ phục kích dọc theo con sông Mekong gần Mỹ Tho. Nguyễn Huệ dụ đội thủy quân Xiêm quá khinh địch rơi vào bẫy phục kích, tiêu hủy toàn bộ thuyền chiến của quân Xiêm, giết hầu hết, chỉ 1.000 quân Xiêm thoát được. Sự thất trận này đã phá hủy lực lượng của chúa Nguyễn, họ cùng tàn quân Xiêm trở về nơi ẩn lánh ở Vọng Các (Bangkok). I.7.2. Quân Tây Sơn xâm chiếm Đàng Ngoài (1786-1789) Sau khi đã đánh bại hoàn toàn Nguyễn Ánh, Nguyễn Nhạc nhìn thấy cơ hội thực hiện tham vọng ôm ấp từ lâu là mở rộng quyền hành ra vùng đất cũ của nhà Nguyễn nằm giữa đèo Hải Vân và sông Gianh, lúc ấy vẫn còn bị quân Trịnh chiếm đóng. Việc tính toán thời gian tỏ ra không khá hơn khi quân Trịnh cuối cùng cũng suy yếu sau một loạt trận đói và lũ lụt diễn ra vào thập niên 1770 buộc nhiều người phải rời bỏ làng quê để đi tìm cái ăn. Ngoài ra, như chúng ta đã thấy, cái chết của Trịnh Sâm vào năm 1782 tiếp theo là cuộc đấu tranh nội bộ dẫn đến cuộc đảo chánh ở cung đình. Điều này tạo ra sự bất ổn chính trị và sự nổi lên của đám kiêu binh chỉ được kiểm soát một cách lỏng lẻo bởi phe cầm quyền mới. Cuối cùng, Nguyễn Nhạc quyết định tiến ra bắc theo lời cổ vũ mạnh mẽ của Nguyễn Hữu Chỉnh, một nhân vật nổi tiếng đã phản lại họ Trịnh và chạy theo nhà Tây Sơn. Sau vụ đảo chánh trong nội bộ họ Trịnh vào năm 1782, Chỉnh bị buộc phải rời khỏi Đàng Ngoài, và đã tham gia vào hàng ngũ Tây Sơn như một lãnh tụ quân sự, một nhà chiến lược. Trong bốn năm sau đó, ông ta cố gắng làm cho Nhạc chú tâm đến việc tiến ra bắc, hi vọng một cuộc viễn chinh như thế sẽ tạo cơ hội cho ông ta trả thù những ai đã buộc ông ta phải trải qua cảnh lưu vong chính trị. Theo lời khuyên của Chỉnh, Nguyễn Nhạc cử đoàn quân viễn chinh ra Phú Xuân vào tháng 6.1786. Quân Tây Sơn do Nguyễn Huệ và Nguyễn Hữu Chỉnh cầm đầu; Huệ chỉ huy lực lượng thủy quân chạy dọc theo bờ biển rồi đi vào sông Hương, Chỉnh lãnh đạo cuộc tấn công trên bộ xuyên qua đèo Hải Vân. Sau một cuộc kháng cự ngắn ngủi, thành Phú Xuân đầu hàng, quân Tây Sơn tàn sát rất nhiều quân của họ Trịnh. Không lâu sau, những khu vực lân cận cũng quy phục quân Tây Sơn và việc toàn bộ Thuận Hóa cũng như sông Gianh rơi vào tay họ chỉ còn là vấn đề thời gian. Nguyễn Nhạc ra lệnh cho Nguyễn Huệ dừng lại ở ranh giới Trịnh Nguyễn từ trước (tức là con sông Gianh), song với sự thúc giục của Nguyễn Hữu Chỉnh, Huệ quyết định nhân đà này, mở cuộc tấn công và chiếm hết phần đất còn lại của họ Trịnh. Huệ và Chỉnh sử dụng 400 thuyền chiến để tấn công phía bắc, tịch thụ các kho thóc trên đường đi. Chỉnh đi qua Nghệ An và Thanh Hóa mà không gặp một sự kháng cự nào đáng kể. Không lâu sau, sự hoảng loạn diễn ra ở kinh thành Thăng Long, chúa Trịnh Cán chạy lên Sơn Tây, tại đây ông ta bị bắt và tự tử, có vẻ như thời kỳ cầm quyền dài của các chúa Trịnh đã kết thúc. Cái chết của Trịnh Cán và sự kháng cự của quân Trịnh bị đập tan, khiến con đường hướng về kinh thành mở rộng và quân của Nguyễn Huệ tiến vào Thăng Long ngày 21.6.1786. Vào kinh đô rồi, Huệ long trọng ra mắt vua Cảnh Hưng* (1740- 1786) xin thần phục và xin dâng sổ quân, sổ đinh cùng một văn kiện tuyên bố rằng quyền hành hợp pháp của triều đại nhà Lê đã được phục hồi. Đối lại, nhà vua phong Huệ làm tướng và tước quốc công và gả con gái cho*. Nhiều ngày sau, nhà vua thăng hà, và sau khi thảo luận, quyền kế vị được trao cho người cháu của ông là Lê Chiêu Thống*. Trong khi đó, do ganh tức trước những thành tích của Nguyễn Huệ, Nguyễn Nhạc thân hành ra bắc ra mắt vua Chiêu Thống. Mấy ngày sau, khoảng cuối tháng 8.1786, anh em Tây Sơn dẫn quân về nam, để Nguyễn Hữu Chỉnh ở lại miền Bắc. Ở trong tình thế phải tự lo liệu và không chắc gì về tình trạng của mình ở Đàng Ngoài, Chỉnh từ kinh đô phía bắc lui về Nghệ An xây dựng căn cứ ở đó. Sau khi trở về nam, Nguyễn Nhạc phân chia lãnh thổ vừa mở rộng cho ba anh em. Người em yếu nhất là Nguyễn Lữ được phong tước Đông Định vương và cai trị vùng đất Gia Định. Nhạc tự mình giữ vùng đất giữa, tiếp tục cương vị hoàng đế Thái Đức, đóng đô tại thành Hoàng đế ở Qui Nhơn. Nguyễn Huệ ở Phú Xuân được phong Bắc Bình vương, cai quản vùng Thuận Hóa vừa giành được cùng với vùng Nghệ An chiếm từ tay nhà Lê. Sự chia rẽ giữa anh em nhà Tây Sơn không chỉ là về mặt địa lý, mà còn về mặt cá nhân. Những căng thẳng nảy sinh từ việc Nhạc để ý thấy tính độc lập ngày càng tăng của Huệ đã bùng sôi thành một trận chiến cốt nhục tương tàn kéo dài từ cuối tháng 2 đến giữa tháng 6 năm 1787. Sự xung đột lên đến cực điểm khi Huệ vây hãm kinh đô Chà Bàn của người anh và đạt đến thắng lợi quyết định buộc Nhạc phải nhượng thêm phần đất ở phía nam đèo Hải Vân. Trong khi đó, ở phía bắc, Lê Chiêu Thống tỏ ra là một ông vua nhu nhược, dễ dàng để cho những nhà chính trị có uy tín hơn thao túng. Chính từ sự nhu nhược đó mà ông để cho những người còn lại trong dòng họ Trịnh quay lại, và họ nhanh chóng áp đặt trở lại ảnh hưởng của dòng tộc họ lên triều đình. Nhà vua bí mật thông báo tin tức về tình hình này cho Nguyễn Hữu Chỉnh biết. Nhận thấy đây là cơ hội để tăng cường quyền lực riêng, Chỉnh tập hợp một đạo quân 10.000 người và tiến về Thăng Long vào tháng 12 năm 1786. Đến cuối tháng 1.1787, Chỉnh đánh bại quân Trịnh và tự xem mình là ông chủ mới của phương Bắc. Nguyễn Huệ tức giận vì Chỉnh đã hành động khi không được phép, ra lệnh cho Chỉnh quay về, song Chỉnh từ khước. Tin tưởng hoàn toàn vào sức mạnh của mình, và có lẽ cũng tin là anh em nhà Tây Sơn đang tiếp tục chia rẽ nhau, Chỉnh khuyên vua Chiêu Thống triệu hồi Nguyễn Huệ trở ra Nghệ An. Huệ giận dữ, cự tuyệt yêu cầu của vua Lê, ra lệnh cho tướng thân cận là Võ Văn Nhậm* mang một đạo quân ra Thăng Long bắt Chỉnh. Nhậm ra bắc vào mùa thu năm 1787, dễ dàng chiếm lấy kinh đô đã bị vua Lê nhanh chóng rời bỏ, bắt Nguyễn Hữu Chỉnh và giết đi. Nhưng rồi có vẻ như Nhậm cũng bị lôi cuốn bởi một tham vọng từng kích thích Chỉnh, không nhìn thấy chướng ngại nào trên con đường đi của mình, nên tự nắm quyền hành. Một tướng Tây Sơn ở phía bắc lúc bấy giờ là Ngô Văn Sở tỏ ra khinh miệt Nhậm và gửi cho Huệ một mật thư xác nhận Nhậm đang trù tính phản lại Huệ. Huệ tin Sở và quyết định mở một cuộc tấn công Thăng Long vào mùa xuân năm 1788, bắt giữ và chém đầu Nhậm. Chạy khỏi kinh thành trong cuộc xâm chiếm Đàng Ngoài lần thứ hai của quân Tây Sơn vào năm 1787, cuối cùng vua Lê Chiêu Thống tìm đường sang Trưng Quốc, tại đây, ông kêu gọi hoàng đế nhà Thanh giúp ông lấy lại ngai vàng. Ông lập luận rằng do nước Đại Việt là một nước phụ thuộc Trung Quốc nên triều đình nhà Thanh buộc phải bảo vệ chống lại kẻ gây hấn. Cho dù Thanh đế tỏ ra do dự khi dính líu vào một việc có vẻ thuộc về nội bộ của người Việt, song viên Tổng đốc Lưỡng Quảng (Quảng Đông và Quảng Tây) nhiều tham vọng là Tôn Sĩ Nghị đã thuyết phục nhà vua rằng xâm chiếm Đại Việt là một chuyện đơn giản. Cuối tháng 10.1788, quân Trung Hoa, với quân số có lẽ vào khoảng 200.000 người*, đi qua miền Bắc Đại Việt, vào thành Thăng Long mà không gặp một sự kháng cự nào và đưa vua Lê trở lại ngai vàng. Quân số ít hơn, lực lượng Tây Sơn dưới quyền Ngô Văn Sở rút về Thanh Hóa, tại đây, ông gửi một thư về Phú Xuân cho Nguyễn Huệ xin tăng cường quân. Huệ quyết định rằng vua Lê Chiêu Thống đã mất quyền đòi lại ngai vàng, vì thế ông tự lên ngôi hoàng đế với niên hiệu Quang Trung (1788-1792). Ngay lập tức, tân hoàng đế Tây Sơn tập hợp một đạo quân khác và tiến về phía bắc. Ông cũng cử một sứ giả mang thư cho viên chỉ huy đạo quân nhà Thanh yêu cầu họ lui quân. Viên tướng Tàu trả lời bằng cách xé toang bức thư và hành hình sứ giả Đại Việt. Trong lúc đó, quân Trung Quốc bận rộn việc tổ chức mừng tết, không để ý gì đến phía địch. Biết trước điều này, Nguyễn Huệ ra lệnh cho binh sĩ ăn tết sớm rồi định thời điểm tấn công thành Thăng Long vào lúc nửa đêm ngày mùng 5 tết. Quân Việt tấn công vào lúc quân Thanh không phòng bị gì, và họ dễ dàng bị đánh bại, tướng lĩnh và binh lính tháo chạy trong tình trạng vô trật tự*. I.7.3. Vua Quang Trung nắm lấy chính quyền (1789-1792) Thắng trận xong, vua Quang Trung bắt tay vào một chiến dịch hai mũi giáp công nhằm củng cố địa vị của ông. Với mũi đầu tiên, ông tìm cách đảm bảo một nền hòa bình lâu dài với Trung Quốc. Để đạt được mục tiêu này, ông sử dụng công sức của hai trong số những nhân tài lỗi lạc của đất bắc là Ngô Thì Nhậm và Phan Huy Ích. Cả hai đi theo nhà Tây Sơn sau chiến dịch năm 1788 chống lại Võ Văn Nhậm, cuối cùng đã kết thúc sự thống trị của nhà Lê. Bằng việc kết hợp giữa sự khẩn khoản và sự đe dọa ngấm ngầm, hai nhà ngoại giao Tây Sơn có thể thuyết phục triều đình nhà Thanh từ bỏ các nỗ lực phục hồi nhà Lê. Quan trọng hơn, các nhà ngoại giao của vua Quang Trung đạt được sự công nhận quyền lực của tân quân và hoàng đế nhà Thanh phong Huệ làm An Nam Quốc Vương. Cuối năm 1789, một sứ bộ Việt khác cũng đi sang Trung Quốc để làm lễ ra mắt. Hoàng đế nhà Thanh nhấn mạnh rằng vua Quang Trung cần thân hành cầm đầu sứ bộ sang Trung Quốc. Không muốn tham gia chuyến đi nguy hiểm này, vị hoàng đế Đại Việt cử một người giống hệt ông đi thay mình*. Đó là nhân vật được vua Càn Long tiếp đón như một tân quốc vương Đại Việt khi ông ta đến cung điện mùa hè của nhà Thanh ở Nhiệt Hà (Jehol)*. Theo nhiều tài liệu, sứ bộ Việt ở nhiều tuần lễ tại triều đình nhà Thanh trong tình hữu nghị và tôn trọng lẫn nhau*. Những sứ bộ như thế và thư từ trao đổi giữa hai bên đảm bảo mối quan hệ yên bình và chính quyền Trung Quốc vẫn đứng ngoài cuộc chiến đang tiếp tục giữa nhà Tây Sơn và chúa Nguyễn. Nhà Thanh chỉ công nhận nhà Nguyễn sau năm 1802, khi mọi dấu tích của triều Tây Sơn không còn tồn tại nữa. Thiết lập xong mối quan hệ tốt đẹp với triều đình Trung Quốc, vua Quang Trung quay sang những vấn đề cấp bách trong nước. Những năm tháng rối loạn về chính trị và chiến tranh đã gióng lên hồi chuông báo động về phúc lợi kinh tế và xã hội trên lãnh thổ do nhà Tây Sơn kiểm soát. Chính vì vậy, vua Quang Trung đã đặt ưu tiên cao cho việc vãn hồi trật tự và hiệu suất kinh tế. Ông ban bố một tuyên cáo kêu gọi những nông dân bỏ nhà đi trở về ruộng vườn của họ, thiết lập một mức thuế khuyến khích họ trở về và thưởng công cho những ai cày cấy trên các mảnh ruộng bỏ hoang. Thêm vào đó, nhằm kêu gọi người dân trở về làng cũ của họ, vị tân hoàng đế Tây Sơn ban lệnh điều tra dân số cả nước, thiết lập một hệ thống thẻ căn cước. Mỗi người được cấp một thẻ căn cước và những ai không có thẻ này sẽ bị cưỡng bách vào quân ngũ ngay. Trong lãnh vực chính sách xã hội và chắc chắn rằng với sự cố vấn của những người theo Nho giáo, vua Quang Trung ra lệnh khởi sự một dự án phiên dịch và ấn hành các sách kinh điển của Nho giáo từ chữ Hán sang chữ Nôm. Ông cũng tìm cách làm sống lại một hệ thống giáo dục đã suy tàn, bao gồm việc xây dựng trên cả nước những trường học ở các địa phương do các nhà nho điều hành và tổ chức lại hệ thống khoa cử. Dù chỉ cô mỗi một kỳ thi Hương diễn ra trước khi ông mất vào năm 1792, nỗ lực này cũng cho thấy vua Quang Trung mong muốn thiết lập một nền tảng học thuật trong chế độ mới của ông. Đồng thời với việc vãn hồi trật tự trong nước, vua Quang Trung tiếp tục tiếp cận với thế giới bên ngoài biên giới Đại Việt. Các tướng của ông tiến hành ít nhất hai cuộc tấn công lãnh thổ của Lào, cho là để trừng phạt ông vua ở Luang Prabang vì đã quên đáp ứng lời yêu cầu cử sang một sứ bộ triều cống. Cuộc tấn công đầu tiên diễn ra năm 1790 khi 50.000 quân xâm chiếm lãnh thổ Lào sát cạnh Nghệ An. Chiến dịch thứ hai vào năm sau với một lực lượng nhỏ hơn gồm 10.000 quân nhưng đánh thẳng vào bên trong nội địa Lào, cuối cùng chiếm lấy Luang Prabang vào mùa thu năm 1791. Sau khi cướp phá kinh đô Lào, và rồi đi đến biên giới Xiêm, quân Tây Sơn rút về. Vua Quang Trung cũng tiếp xúc ngoại giao với các tiền đồn của người châu Âu ở Macao và Philippines. Hi vọng thuyết phục người Âu giao thương với chế độ của ông thay vì với đối phương của ông là chúa Nguyễn, ông cử các sứ giả đem mật thư yêu cầu được thiết lập quan hệ thương mại với Manila và Macao. Những nỗ lực này rất không thành công vì phần lớn người Âu đã thiết lập quan hệ thương mại với nhà Nguyễn, nay họ không muốn làm thương tổn mối quan hệ đó khi buôn bán với kẻ đối địch với chúa Nguyễn. Tuy vậy, người Bồ Đào Nha ở Macao đã có một số động thái khởi đầu để đáp ứng lại lời đề nghị của chính quyền Tây Sơn. Cuối cùng, vua Quang Trung cũng khuyến khích việc buôn bán xuyên biên giới với