🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Cuộc Đời Bác Sĩ Arrowsmith - Sinclair Lewis & Bảo Sơn (dịch) full mobi pdf epub azw3 [Tiểu Thuyết] Ebooks Nhóm Zalo SINCLAIR LEWIS Giải thưởng Nobel CUỘC ĐỜI BÁC SĨ ARROWSMITH BẢO-SƠN dịch in lần thứ nhất XUẤT BẢN QUỐC BẢO 1970 1 VÀI DÒNG TIỂU-SỬ HARRY SINCLAIR LEWIS là con một bác-sĩ ở vùng quê, sinh tại Sauk Centre, Minnesota, năm 1885. Thuở thơ-ấu và niên-thiếu, ông ở Middle West và sau học tại Đại Học Đường Yale; ở đây ông làm chủ bút tờ văn-học tập-san. Sau khi tốt-nghiệp năm 1907 ông đến New York viết báo một thời-gian, rồi làm việc trong bộ biên-tập của nhiều tờ báo ở nhiều nơi từ East Coast tới California. Sau khi đã viết một số truyện đăng trong các tạp chí và xuất-bản được cuốn truyện đầu tay, Our Mr. Wrenn (1914) ông bỏ nghề viết báo. Tuy nhiên, Main Street (1920) mới thực là tác-phẩm thành công đầu tiên của ông, và cuốn Babbitt (1922) làm cho ông nổi danh thêm. Năm 1926, ông được thưởng giải Pulitzer về cuốn Arrowsmith (1925), nhưng ông từ chối danh-dự này. Tuy nhiên, ông nhận giải Nobel người ta tặng ông năm 1930 và ông chính thức đến Stockholm để lãnh thưởng. Trong khoảng cuối đời ông, ông thường hay ở tại Âu-Châu và tiếp-tục viết cả hai thứ tiểu-thuyết và kịch. Năm 1950, sau khi hoàn thành cuốn truyện cuối cùng, World so Wide (1951), ông dự định làm một vòng du-lịch xa rộng, nhưng ông bị đau và bắt buộc phải ở tại Rome mấy tháng để làm thơ. Ông mất tại đây năm 1951. 2 CHƯƠNG: 1 NGƯỜI CẦM CƯƠNG chiếc xe ngựa đương chạy lúc-la lúc-lắc xuyên qua những cánh rừng rậm và những vùng đầm lầy miền Ohio hoang-dã, là một cô bé rách-rưới mới mười bốn tuổi. Mẹ cô, người ta vừa chôn ở gần sông Monongahela... chính cô bé đã đắp đầy cỏ xanh giập nát lên ngôi mộ để ở trên bờ con sông có cái tên hoa mỹ ấy. Cha cô lên cơn sốt, đương nằm co quắp trong xe; em cô, một lũ trẻ người-ngợm bẩn thỉu, quần áo rách-rưới, đương hồn-nhiên nô đùa vui vẻ quanh mình cha chúng nó. Cô bé cho xe ngừng lại ở một ngã ba đường đầy cỏ mọc; tiếng người ốm run nói, "Emmy, con nên rẽ xuống Cincinnati thì hơn. Nếu tìm được chú Ed, chắc chú sẽ cho mình ở nhờ." Cô bé nói, "Chẳng ai cho mình ở nhờ đâu, bố ạ. Mình cứ đi được xa chừng nào hay chừng nấy. Về miền Tây! Ở đấy có nhiều cái mới lạ con muốn xem!" Cô nấu cơm, cho lũ trẻ ngủ, rồi ngồi một mình bên đống lửa. Cô là cụ của Martin Arrowsmith sau này. II Trong phòng mạch của lão Đốc Vickerson, một cậu bé ngồi vắt chân chữ ngũ trên chiếc ghế dành cho bệnh-nhân, đọc cuốn Cơ-Thể-Học của Gray. Tên cậu là Martin Arrowsmith, ở Elk Mills, trong tiểu-bang Winnemac. Elk Mills, hồi 1897, chỉ là một làng nhà xây toàn bằng gạch đỏ xoàng-xĩnh, quanh năm ngày tháng lúc nào cũng sực-nức mùi táo thơm, dân làng ở đây vẫn nghi chiếc ghế da nâu ấy, chiếc ghế có thể điều-chỉnh cho thích-dụng mà lão Đốc Vickerson dùng để giải-phẫu những bệnh loàng-xoàng, hoặc thỉnh thoảng nhổ một cái răng, và nhất là lão thường dùng để ngủ trưa, chiếc ghế ấy có lẽ trước kia là của một anh thợ cạo nào đó. Người ta còn tin rằng chủ-nhân chiếc ghế ấy xưa kia cũng từng được mọi người gọi là đốc-tơ Vickerson hay Bác-sĩ Vickerson hẳn hoi, nhưng rồi từ lâu lắm, người ta chỉ gọi xách-mé là Lão Đốc thôi. Lão Đốc còn bần tiện và không thích-dụng bằng chiếc ghế của lão nhiều. Martin là con của ông J.J. Arrowsmith, chủ hiệu Nữu-ước Trang-Phục Vạn-Hóa. Lúc mười bốn tuổi, tính trâng-tráo ngỗ-nghịch, cậu đến xin làm việc với Lão Đốc và trở thành một viên phụ-tá không chính-thức và cố nhiên là không lương của Lão Đốc. Những khi Lão đi thăm bệnh vắng, thì cậu ở nhà thay mặt – nhưng cậu thay mặt làm những gì thì chẳng ai biết cả. Cậu người 3 mảnh-khảnh, không cao lắm. Tóc đen láy, và đôi mắt láo-liên cũng đen láy, nước da thì lại trắng một cách lạ lùng, và hai màu tương phản nhau làm cho vẻ mặt cậu hơi một tý là biến đổi. Đầu vuông, vai khá rộng làm cho cậu mất hẳn vẻ nhu-nhược hay là vẻ buồn rầu bẽn-lẽn mà các nghệ-sĩ son trẻ gọi là Mẫn-Cảm. Mỗi khi cậu ngẩng đầu lên nghe thì lông mày bên phải bình-thường đã cao hơn bên trái, lại nhướng lên cao hơn nữa và rung-rung làm cho cái thái-độ thích độc-lập, cương-quyết và hiếu-chiến rất đặc-biệt của cậu đã ngạo mạn lại càng ngạo mạn thêm; cậu thích hỏi, thích chất vấn và nổi tiếng là làm cho các giáo-sư và ông giám-thị Lớp Thánh-Kinh Chủ-Nhật phải bực mình khó chịu. Martin cũng giống đa số dân làng Elk Mills trước ngày di-cư của dân Slavo-Italien, là tiêu-biểu của giống người Anglo-Saxon American thuần-túy, nghĩa là lai giống Đức, Pháp, Tô-cách-lan, Ái-nhĩ-lan, có lẽ pha thêm cả một tý Y-pha-nho nữa, có thể nói là dòng máu cậu pha lẫn mỗi huyết-tính một chút, như "Do-Thái", và có nhiều huyết-tính Ăng-lê; chính huyết-tính Ăng-lê này cũng là một thứ phối hợp những huyết-tính của giống Briton chính-cống, Celt, Phoenician, Roman, German, Dane và Swede. Martin quyến-luyến Lão Đốc như vậy, chẳng biết có phải do cậu thực tâm muốn sau này sẽ trở nên một Đại Lương Y không, một thầy thuốc đại tài không? Cậu đã làm cho tụi bạn hoảng sợ thấy cậu biết băng bó các vết thương trầy da rướm máu, mổ-xẻ mấy con sóc, và giảng cho chúng hiểu những điều kỳ-bí cần phải khám phá ở mặt trái khoa sinh-lý-học, nhưng cậu vẫn còn thèm có cái vinh dự như con ông mục-sư Thanh-Công-Hội có tài hút cả một điếu xì-gà mà không say. Tuy nhiên trưa hôm nay cậu lại còn chăm-chú đọc cả một chương sách nói về mạch bạch-huyết. Cậu lẩm-nhẩm đọc những chữ dài dằng dặc mà tuyệt nhiên cậu không hiểu gì cả, giọng cậu rì-rầm làm cho không-khí căn phòng đầy bụi-bậm như ru ngủ người ta thêm. Đó là căn giữa ba căn phòng của Lão Đốc ở, trông ra Phố Chính, trên gác nhà hàng “Nữu-Ước Trang-Phục Vạn-Hóa”. Một bên là phòng ngồi đợi hôi-hám bẩn-thỉu; một bên là phòng ngủ của Lão Đốc. Lão góa vợ và đã cao tuổi rồi, lão chẳng bao giờ quan tâm đến những cái mà Lão gọi là "công việc của đàn bà”, cho nên cái phòng ngủ trơ trọi có một chiếc bàn giấy khập-khiễng và chiếc “giường nhà thương” chăn nệm dơ-dáy chỉ có Martin thỉnh-thoảng vào quét dọn mà thôi. Căn phòng giữa này dùng làm đủ mọi việc làm văn-phòng, phòng khám bệnh, mổ-xẻ, phòng khách, đánh bài, chứa súng săn, dụng-cụ câu cá. Tường trét hồ quét vôi màu nâu, sát một bên kê chiếc tủ chứa những thứ sưu-tập về động-vật-học, những vật lạ về y-học, và cạnh tủ lại còn có một thứ nổi danh là kinh-khủng mà cũng rất hấp-dẫn đối với tụi trẻ con ở Elk Mills này. Ấy là bộ xương người có một chiếc răng vàng trông đến sợ. Để lấy 4 thêm uy tín đối với tụi bạn nhát gan, những chiều ông Đốc đi vắng, Martin thường dẫn chúng vào căn phòng tối om này, lấy một que diêm có nhúng lưu-hoàng quệt vào hàm răng của bộ xương khô cho bật lửa lên. Trên tường treo một con cá măng mà ông Đốc đã tự tay nhồi rơm và đóng vào một tấm ván mà ông cũng tự tay sơn quang dầu lấy. Cạnh chiếc lò sắt rỉ có một chiếc ống nhổ đựng mạt cưa, đờm dãi bầy nhầy đặt trên một miếng vải sơn cũ đến trơ cả sợi ra. Trên chiếc bàn cũ ọp-ẹp, xếp một chồng giấy nợ mà ông Đốc luôn miệng chửi thề thế nào cũng “đòi ngay cái lũ chó chết ấy'' nhưng rồi chẳng lúc nào ông có dịp hay có thời-giờ đòi một ai cả. Dù một hay hai năm – một chục hay hai chục năm – một trăm hay hai trăm năm – trong cái tỉnh lúc nào cũng rì-rào như tổ ong ấy, người ta đối với ông bác-sĩ nghèo túng lao khổ này bao giờ cũng chỉ như vậy mà thôi. Góc phòng dơ bẩn nhất là chỗ đặt cái chậu sắt thường dùng để rửa đĩa đựng đồ ăn sáng, nhờn mỡ với trứng, hơn là dùng để khử trùng các dụng-cụ y-khoa. Trên thành chậu bầy la-liệt nào ống thí-nghiệm bằng thủy-tinh đã nứt dạn, nào lưỡi câu gẫy, lọ thuốc mất nhãn hiệu bỏ quên đó không biết từ bao lâu, nào chiếc gót giầy lởm-chởm đinh, mẩu xì-gà hút dư dụi nát bét, dao giải-phẫu cắm vào một củ khoai... Cảnh bừa-bãi phóng-đãng của căn phòng là tâm-hồn và tiêu-biểu cùa ông Đốc Vickerson, trông có lẽ thú-vị hơn những chồng hộp giầy vuông vắn xếp trong cửa Hiệu Nữu-Ước Trang-Phục Vạn-Hóa: nó gợi tính hiếu-kỳ và mạo-hiểm của Martin Arrowsmith. III Cậu bé ngẫng đầu, nhướng lông mày, nghe ngóng. Có tiếng chân ông Đốc Vickerson bước nặng-nề lên cầu thang. Hôm nay ông không say! Chắc Martin khỏi phải đỡ ông lên giường nghỉ. Nhưng ông lại đi thẳng xuống cuối hành-lang vào phòng ngù. Cậu bé lắng tai nghe thấy ông Đốc mở ngăn tủ bàn rửa mặt, chỗ ông vẫn để chai rượu rum Jamaica. Ông uống ừng-ực từng hơi dài xong, thuận tay cất chai rượu đi và đá mạnh một cái đóng xập cánh cửa tủ lại, nghe có vẻ cương-quyết lắm. Như vậy là còn may, vì ông chỉ uống có một ngụm thôi. Nếu ông đi ra ngay phòng mạch thì thực là vô sự, chẳng lo có truyện gì xảy ra; nhưng ông cứ đứng mãi ở trong phòng ngủ, rồi Martin thở dài khi nghe thấy cánh cửa tủ lại mở bật ra và có tiếng tu ừng-ực một lần nữa, rồi lại một lần nữa. Ông đi vào phòng mạch, bước chân ông có vẻ nhanh-nhẹn hẳn lên, ông hiện ra như một khối màu xám lờ-mờ hình người có bộ ria cũng màu xám, một 5 hình thù to lớn thực thực hư hư, không rõ-rệt, trông như một đám mây tụ lại thành nhân dạng trong chốc lát. Ông Đốc vừa lạch-bạch đi lại ghế ngồi, vừa càu-nhàu như có ý vội tấn công trước đế lấp-liếm tội lỗi đi: “Làm gì ở đây thế hả ranh con? Làm gì ở đây thế hả? Mình biết ngay mà, cứ hễ để ngỏ cửa là y như thế nào con mèo ấy cũng tha ngay một cái gì vào." Ông khẽ nuốt nước miếng rồi toét miệng ra cười để tỏ ra mình nói đùa – ông biết có nhiều người thường hiểu lầm lối nói đùa của ông. Rồi ông nói một cách nghiêm-trang hơn, chốc chốc lại quên không biết mình đương nói gì: “Đọc sách của Gray hả? Được lắm. Sách cho y-sĩ đọc có độc ba cuốn là ''Cơ-Thể-Học của Gray”, Thánh-Kinh, với lại Shakespeare. Cứ đọc đi. Cậu có thể thành một đại danh-y đấy. Rồi đến ở Zenith kiếm mỗi năm năm ngàn đô-la – bằng lương Thượng Nghị-Sĩ Hoa-Kỳ đấy! Cứ nuôi cao vọng đi. Đừng coi thường. Học tập đi. Theo trung-học đã rồi hãy vào trường thuốc. Học tập nghiên-cứu. Hóa-học. La-tinh. Kiến-thức! Tôi chỉ là một thầy lang vườn... không con cái... chẳng một ai thân thích... già lão, rượu chè be bét. Nhưng cậu... cậu sẽ là một danh y. Kiếm năm ngàn đô-la một năm. “Vợ Murray bị sưng màng tim. Tôi chẳng chữa được gì cho bà ấy. Bà ấy đòi có người giữ tay bà ấy. Đường lầy-lội nhục-nhã. Cống thì sình lầy tràn cả ra ngoài lùm cây. Nhục nhã! “Sưng màng tim và... “Học tập, đó là việc cậu phải ráng mà làm. Việc chính yếu. Phải hiểu hóa-học, sinh-vật-học cho thấu đáo. Tôi chẳng bao giờ thấu đáo cả. Bà mục-sư Jones cho là mình bị ung thư dạ dầy. Đòi lên tỉnh mổ. Ung-thư... cái con tườu! Bà ấy và ông mục-sư cả hai đều ăn uống quá trời! “Sao họ cứ không chịu sửa cái cống ấy. Mà cũng đừng có ma-men như tôi. Và phải hiểu khoa-học cơ-bản. Để rồi tôi giảng cho.” Trong khi ông Đốc cố thuyết cho Martin thấy ảo-ảnh kiêu hãnh của học vấn, tính-cách phổ biến của sinh-vật-học, tính-cách tinh xác thắng lợi của hóa-học, thì cậu bé tuy là một đứa trẻ nhà quê thông thường, ham liệng đá ném mèo, bắn súng cao-su như những đứa khác, nhưng nghe truyện kiếm tiền một cách ngon lành ấy cũng có vẻ chếnh-choáng say mê. Ông Đốc tuy là một ông già béo ụt-ịt, vừa bẩn thỉu, vừa phóng-đãng, văn-phạm nói chưa chắc đã đúng, mà danh-từ khoa-học thì cũng bết luôn; lời lẽ ông thường dùng để ám-chỉ đối thủ là bác-sĩ Needham, một người rất tốt đều là những lời gièm-pha vu-khống; nhưng dẫu sao thì ông cũng đã gợi cho Martin thấy ảo-ảnh có thể trộn các chất hóa-học làm cho nó nổ tung lên một tiếng thật lớn mùi thối hoắc, và được thấy những cực-vi-động-vật mà chưa một đứa trẻ 6 nào ở cái làng Elk Mills này thấy bao giờ. Giọng ông Đốc đã bắt đầu líu lại; ông ngồi thụt vào trong chiếc ghế bành, mắt mờ, miệng dợt. Martin năn-nỉ ông vào giường ngủ, nhưng ổng khăng-khăng nói: “Khỏi cần ngủ. Khỏi mà. Này cậu nghe đây. Cậu không thích nhưng thân già này bây giờ... kể cho cậu nghe tất cả những điều đã học hỏi được. Này cho cậu xem những thứ tôi đã sưu-tập được đây này. Bác vật viện duy nhất của toàn-thể tiểu-bang này đấy. Nhà tiền phong của khoa-học mà.” Đã hàng trăm lần Martin đã ngoan-ngoãn tuân lời ông Đốc, nhìn vào những tiêu-bản bầy trong chiếc tủ sách sơn nâu đã long-lở: mấy con giáp-trùng, mấy mẫu mi-ca; cái thai một con bê hai đầu, mấy viên sạn lấy ở trong mình một bà danh giá trong tỉnh mà ông Đốc nhiều lúc hứng lên kể cả tên bà ta ra cho các thân chủ biết. Ông Đốc đứng trước tủ kính, ngón tay trỏ to tướng run run khoa lên chỉ cái này cái kia. “Này xem con bướm này. Tên nó là Porthesia chrysorrhoea. Lão Đốc Needham đâu có thể nói cho cậu biết cái tên đó! Cậu được học tập hay không, lão ấy đâu có cần! Thế bây giờ cậu đã nhớ cái tên ấy chưa?” Ông quay sang nhìn Martin và tiếp, “cậu đã có chú ý nghe đấy không? Cậu có thấy thích thú hay không? Hử? Ồ, ngán quá! chẳng ai thiết-tha gì đến cái bác-vật-viện này của mình cả... chẳng một ai cả. Cả tiểu-bang có mỗi một người nhưng... mình chỉ là một gã bất tài.” Martin quả-quyết nói ngay, "Tài lắm chứ, hẳn đi chứ!” Này coi, này coi, thấy không? Trong cái lọ ấy? Một khúc ruột thừa đấy. Khúc ruột thừa đầu tiên được cắt bỏ ở trong vùng này. Tôi cắt đấy! Lão Đốc Vickerson này là người thứ nhất làm pendectomy ở trong cái xó rừng này. Và viện-bác-vật đầu tiên. Chẳng to tát gì, nhưng hẵng có cái đã. Tôi đâu có để dành tiền làm giầu như lão Đốc Needham; tôi đã bắt tay làm việc sưu-tập đầu tiên... tôi đã bắt tay làm đấy!” Ông gieo mình xuống ghế và rên-rỉ, “Cậu nói đúng. Tôi phải đi ngủ mới xong.” Nhưng khi Martin đỡ ông đứng dậy thì ông lại vùng ra và mò-mẫm tìm khắp bàn giấy rồi quay lại nhìn Martin và do dự nói, "Tôi muốn cho cậu một cái gì... để cậu bắt tay vào việc học tập, và nhớ đến lão già này. Chả biết rồi ra có ai nhớ đến lão già này không?" Ông đưa ra cái kính hiển-vi quý giá mà bao năm nay ông vẫn dùng để nghiên-cứu thực-vật-học. Ông thở dài nhìn Martin đút cái kính vào túi, ông cố tìm một câu để nói, nhưng rồi ông lẳng lặng lê bước vào phòng ngủ. 7 CHƯƠNG: 2 TIỂU-BANG WINNEMAC giáp ranh với Michigan, Ohio, Illinois và Indiana, nó cũng giống như mấy tiểu-bang nầy, một nửa thuộc về Đông Mỹ, một nửa thuộc về Trung-Tây Mỹ. Trông các làng xây cất bằng gạch với gỗ, lối kỹ-nghệ hóa cách chăn nuôi súc vật và một tục lệ cổ từ thời Chiến-tranh Cách-Mạng, người ta cảm thấy có cái gì của New England. Zenith là tỉnh lớn nhất tiểu-bang, thành-lập năm 1792. Nhưng Winnemac với những cánh đồng lúa bắp và lúa mì, với những hầm và vựa lúa đỏ kệch trông vẫn có tính cách một tiểu-bang ở vùng Tây Mỹ. Tuy Zenith hết sức cổ kính, nhưng có rất nhiều địa hạt mãi tới năm 1860 mới thành lập. Viện Đại-Học Winnemac đặt ở Mohalis, cách Zenith mười lăm dặm. Viện có mười hai ngàn sinh-viên, bên cạnh cái Viện Oxford kỳ quái này có một trường nhỏ dạy về Thần-Học và trường Harvard, một trường hạng nhất cho những cậu công-tử dòng dõi quý-phái. Viện có sân cỏ chơi đã cầu; những tòa nhà đồ-sộ dài hàng cây số; mượn hàng trăm Tiến-sĩ Triết-Học trẻ tuổi để dạy cấp-tốc về Chữ Phạn, bơi lội, kế-toán, bài-trí phong-cảnh, kỹ-thuật công-tác vệ-sinh, thi ca Provencal, kiểm-tra quan-thuế, trồng củ cải, vẽ kiểu xe hơi, lịch-sử Voronezh, văn-thể của Matthew Arnold, phép chẩn-đoán myohypertrophia kymoparalytica, và phương-pháp quảng-cáo thương-mại. Viện-trưởng là một nhà tài-chánh giỏi nhất và một tay nói chuyện sau bữa ăn tài nhất Hợp-chủng-quốc; và Winnemac là trường đại-học đầu tiên trên thế-giới dùng ra-đi-ô để mở những lớp diễn giảng công khai. Nó không phải là trường của một anh trưởng-giả giầu có chỉ coi trọng địa vị, ăn không ngồi rồi, thích những truyện hoang-đường phi-lý. Nó là tài-sản của dân chúng tiểu-bang, và điều mà dân chúng mong muốn hay điều mà người ta bảo rằng họ mong muốn – là có “một cái cối có thể xay ra những nam nữ biết sống một đời đạo-đức’’, tuy nhiên cũng biết đánh bài, lái xe hơi, kinh-doanh thương nghiệp, và thỉnh thoảng có dịp cũng biết bàn luận văn chương sách vở, mặc dầu họ cũng không chắc có thời-giờ để mà đọc. Kể ra thì nó cũng giống như một Xưởng Xe Ford, máy móc được chuẩn-định tinh-vi khéo léo, với những bộ-phận có thể thay thế dễ-dàng, hoàn hảo, để nếu lỡ nó có xộc-xệch một chút thì có thể sửa chữa hay thay thế ngay được. Đại-học Viện Winnemac tăng gia sĩ-số và ảnh-hưởng từng giờ một; và người ta có thể tiên liệu là tới năm 1950 nó có thể tạo lập một nền văn-minh thế-giới hoàn toàn đổi mới, một nền văn-minh rộng-rãi hơn, linh-hoạt hơn và thuần-khiết hơn. II 8 Năm 1904, tức là năm Martin Arrowsmith còn là sinh-viên đệ tam niên ban Văn-Khoa và Khoa-Học, Viện Đại-Học Winnemac mới có năm ngàn sĩ số, tuy vậy đã có vẻ linh-hoạt lắm. Năm ấy Martin hai mươi mốt tuối. Chàng vẫn còn có vẻ xanh-xao, trông nước da tương phản hẳn với làn tóc đen mượt, nhưng chàng là một chân chạy đua cừ khôi, một trung phong bóng rổ hạng khá, và một tay khúc-côn-cầu ác liệt. Bọn nữ-sinh-viên đồng học thường thì-thầm với nhau, bảo chàng "trông lãng-mạn hết sức", nhưng vì hồi đó người ta chưa khám phá ra vấn đề nam nữ và chưa bầy ra những hội-hè lãng-mạn, trai gái tự-do âu-yếm nhau gọi là petting party, cho nên bọn nữ-sinh-viên chỉ đứng xa mà nói chuyện với nhau về chàng thôi, và chàng cũng không biết mình lại có thể là một nhân vật chính trong những câu truyện tình ái của bọn nữ-sinh-viên. Tính chàng tuy bướng-bỉnh, nhưng lại hay nhút nhát cả thẹn. Không phải chàng không biết một tý gì về truyện yêu đương, nhưng chàng không quan tâm đến truyện đó thì đúng hơn. Chàng chỉ thích kết bạn với tụi con trai có tính kiêu hùng là hút những ống điếu bẩn thỉu làm bằng lõi ngô và mặc những áo nịt dơ dáy. Viện Đại-học lúc bấy giờ đã trở thành thế-giới của chàng. Đối với chàng, làng Elk Mills không còn có nữa. Ông Đốc Vickerson đã chết, người ta đã chôn ông và quên ông rồi; cha mẹ của Martin cũng qua đời rồi và chỉ để lại cho chàng ít tiền đủ để theo học hai ban văn-khoa và y-khoa. Mục-đích ở đời của chàng năm đó là hóa-học và vật-lý-học; và viễn vọng của năm tới là sinh-vật-học. Còn thần tượng của chàng lúc đó là Giáo-sư Edward Edwards, trưởng-ban Ban Hóa-học, được tất cả mọi người biết tiếng dưới cái biệt-hiệu là Giáo-sư Encore. Sự hiểu biết của giáo-sư về môn lịch-sử hóa-học thì thực là vô biên. Ông có thể đọc được tiếng Ả-Rập, và thường quả quyết nói rằng: những công cuộc nghiên-cứu về hóa-học mà các bạn đồng-nghiệp của ông đương làm thì người Ả-Rập đã làm từ lâu rồi, khiến các bạn đồng-nghiệp tức giận không thể tả được. Còn chính ông thì chẳng bao giờ tìm tòi nghiên-cứu gì cả. Ông chỉ ngồi bên lò sưởi ôm chó vuốt ve, miệng lấp sau chòm râu tủm tỉm cười. Chiều hôm ấy ở nhà Encore đãi một bữa tiệc nhỏ nhưng thân mật. Ông nằm dài trên một chiếc ghế vải sọc nâu kiểu Morris, trầm lặng hùa theo Martin và sáu bẩy dược-sư cuồng tín trẻ tuổi nói bông đùa và trêu trọc Bác-sĩ Norman Brumfit, giáo-sư Anh-văn. Trong phòng tràn đầy một bầu không khí thân-mật, nồng nặc men rượu bia, và vui nhộn với con người Brumfit ấy. Trường đại-học nào cũng phải có một Tay Lập Dị để gây khích động trong những giảng-đường đông đúc. Ngay một trường rất nghiêm khắc về 9 phương-diện đạo-đức luân-lý như Viện Đại-Học Winnemac này mà cũng có một Tay Lập Dị. Tay ấy chính là Norman Brumfit. Tha hồ cho ông tự xưng là người vô đạo-đức, bất khả tri luận, thiên về chủ-nghĩa xã-hội, nhưng ai ai cũng biết ông là một người trong sạch, một giáo-hữu trong Trưởng-Lão Giáo-Hội, một đảng-viên Đảng Cộng-Hòa. Chiều hôm ấy, Bác-sĩ Brumfit rất cao hứng. Ông quả quyết cho rằng “người nào tỏ ra có thiên tài, nhất định người ấy phải có máu Do-thái.” Và cũng như bất cứ cuộc tranh luận nào về Do-Thái ở Viện Winnenac, câu truyện của ông cũng nhắc nhở tới Max Gottlieb, giáo-sư vi-trùng-học trong Ban Y-khoa. Giáo-sư Max Gottlieb là cả một sự huyền bí của Viện Đại-học. Người ta biết ông là người Do-thái, sinh-trưởng và giáo-dục ở Đức. Các công cuộc của ông về miễn-dịch-học đã làm cho ông nổi tiếng khắp Âu-Á. Ông trừ khi đến phòng thí-nghiệm, còn ít khi ra khỏi căn nhà nhỏ sơn nâu ngập cỏ hoang của ông. Sinh-viên không theo học lớp ông, ít người biết mặt ông nhưng người nào cũng nghe nói đến con người ốm nhom, cao lênh-khênh, tính nết lầm-lỳ lãnh đạm của ông. Người ta đồn có đến hàng ngàn truyện hoang-đường về ông, nào ông là con một ông Hoàng nước Đức, nào ông có rất nhiều tiền bạc, nào ông sống thanh-bạch như các giáo-sư khác chỉ vì ông đương mắc làm những cuộc thí-nghiệm tổn-phí kinh-khủng, những cuộc thí-nghiệm có thể liên quan tới cả sự hy-sinh nhân mạng nữa. Người ta lại còn đồn nào là ông có thể tạo ra sinh-vật ở trong phòng thí-nghiệm, nào là ông có thể nói chuyện được với mấy con bú-dù đã bị ông trích thuốc, nào là ông bị trục-xuất ra khỏi nước Đức vì ông thờ ma quỷ, ông theo chủ-nghĩa vô chính-phủ, và chiều nào ăn cơm cũng giấu giếm uống vụng xâm-banh thứ thiệt. Theo tập tục thì các giáo-sư Đại-Học không bao giờ bàn luận tới đồng-nghiệp của mình với sinh-viên, nhưng ở đây người ta không coi Max Gottlieb là đồng-nghiệp của một ai cả. Ông không có đủ nhân tính, chẳng khác gì một cơn gió bấc lạnh lẽo. Bác-sĩ Brumfit lè-nhè nói: “Tôi công nhận rằng tôi rất phóng-khoáng đối với những yêu sách của khoa-học, nhưng với một người như Gottlieb – tôi sẵn sàng tin rằng ông ấy hiểu biết hết về các năng lực vật chất, nhưng điều tôi lấy làm lạ là một người như vậy lại mù-tịt chẳng hiểu biết một tý gì về cái năng lực thiết yếu đã tạo ra hết thẩy những năng lực khác, ông ấy bảo rằng tri-thức không có giá-trị gì cả, trừ khi người ta có thể chứng-minh được bằng hàng rẫy những con số. Nếu vậy thì khi nào trong số quý-vị là những tay ‘số dách’ về khoa-học, có ai có thể tóm được cái thiên-tài của một người như Ben Jonson, và lấy thước đo được, thì lúc đó tôi sẽ chịu rằng bọn nhà văn chúng tôi, với lòng tin tưởng mãnh-liệt vào cái hay cái đẹp, vào lòng trung tín, vào thế giới của ảo mộng, chúng tôi đã đi vào con đường lầm lạc!” 10 Martin Arrowsmith không hiểu rõ ý-nghĩa câu nói ấy ra sao, nhưng chàng cũng chẳng quan-tâm cho lắm. Và chàng thấy hết thắc-mắc khi giáo-sư Edwards thốt ra từ giữa chòm râu và đám khói thuốc của ông một tiếng nghe kỳ-cục như “ối chu-choa” và ngắt đứt câu truyện của Brumfit. Bình thường thế nào Encore cũng hóm hỉnh nói bóng nói gió rằng Gottlieb là một “anh phá thối’’ mất thời giờ đi đả phá lý-thuyết của người khác thay vì dựng nên những lý-thuyết mới của mình. Nhưng chiều nay, vì ghét mặt cái phường văn-nghệ như Brumfit, nên Encore ca ngợi Gottlieb đã không quản nhiều phen thất-bại, một thân một mình kiên-trì cố gắng nghiên-cứu và hóa-hợp được kháng-độc-tố, và cái thú tai-ác độc-địa của ông là bác bỏ những lập-luận của chính ông, cũng như ông bác bỏ những lập-luận của Ehrich hay Sir Almroth Wright nếu những lập-luận này sai lầm. Ông nói tới cuốn sách vĩ đại của Gottlieb, cuốn "Miễn Dịch Học”, và trong số những người ở trên đời có đủ tài sức hiểu được cuốn sách đó thì đã có tới bẩy phần chín người đọc cuốn sách đó... mà số người hiểu được, đọc được ấy là chín người... Bữa tiệc kết thúc bằng món bánh trứ danh của bà Edwards. Martin lê bước về nhà trọ, trong màn đêm mờ sương mùa Xuân. Cuộc bàn cãi về Gottlieb đã làm cho chàng bị khích động vô cớ. Chàng tưởng-tượng đương làm việc trong một phòng thí-nghiệm, đêm hôm khuya-khoắt, một bóng một mình, say mê mải miết, khinh thường hết thảy những truyện thi cử đỗ đạt và nổi tiếng trong giới sinh-viên. Chàng chắc chàng chưa bao giờ gặp mặt Gottlieb, nhưng chàng biết phòng thí-nghiệm của ông đặt ở Khu Chính Viện Ban Y-Khoa. Chàng tiến về Khu Y-Khoa xa-lắc xa-lơ, gặp vài ba người thưa thớt đi có vẻ vội-vã vì nhát gan sợ cảnh đêm hôm tịch-mịch. Chàng bước vào bóng tối của Khu Giải-Phẫu, trông nghiêm-mật như một trại lính, lặng-lẽ như những xác chết nằm sóng-sượt ở trong phòng mổ đằng kia. Xa xa là cái chòi cao của Tòa Chính Viện, một khối lù-lù mờ ảo, le-lói có một ngọn đèn treo cao trên đầu tường âm-u đen tối. Chàng giựt mình. Ngọn đèn vụt tắt, tựa hồ như có một người gác gian nào bị khích động sợ hãi đương tìm cách lẩn trốn chàng. Hai phút sau, trên những bậc thang đá Tòa Chính Viện Khu Y-Khoa, dưới ánh sáng một ngọn đèn hiện ra một bóng đàn ông cao, nét mặt khắc khổ, lầm lỳ kín đáo, cách biệt mọi người. Đôi má đen đủi hom-hem, sống mũi gầy và cong. Ông ta không có dáng hấp-tấp như mấy người chỉ quen ru-rú trong xó nhà, lo sợ đi hôm về khuya. Hình như ông ta không biết gì đến đời cả. Thấy Martin, ông ta nhìn như thấu qua người chàng, rồi lảng ra xa, miệng lẩm bẩm nói một mình, hai vai cúi xuống, hai tay chắp ra sau lưng, rồi biến vào trong bóng tối, như một bóng ma. Hôm ấy Martin mặc một chiếc áo choàng để trơ khố tải của một giáo-sư nghèo thải ra, nhưng sau này mỗi khi nghĩ tới, chàng tưởng chừng như hôm 11 ấy chàng mặc một chiếc áo tơi bằng nhung đen và đeo một ngôi sao bạc ngạo-nghễ ở trên ngực. III Hôm đầu mới vào Ban Y-Khoa, Martin Arrowsmith ở vào một ưu-thế siêu-việt. Là sinh-viên Trường Thuốc, chàng có vẻ bảnh hơn sinh-viên các ban khác, vì sinh-viên Trường Thuốc nổi tiếng là biết nhiều truyện bí-mật, khủng-khiếp, những trò vui tinh-ma quỷ-quái. Sinh-viên các ban khác thường hay đến buồng sinh-viên y-khoa tò-mò xem sách của họ. Hơn nữa, chàng lại tốt-nghiệp Đại-học Văn-khoa và đã học qua các môn khoa-học cơ-bản, nên chàng tự cho mình giỏi hơn các bạn đồng học y-khoa phần đông chỉ có bằng trung-học, may ra thì có thêm một năm học ở một trường đại-học dòng Luther nào đó khuất nẻo trong những đồng ruộng mà thôi. Tuy kiêu-hãnh như vậy, nhưng Martin cũng thấy băn-khoăn lo lắng. Chàng nghĩ tới lúc bất thần phải giải-phẫu, tới trường-hợp lỡ tay làm chết người; và ngay lúc đó chàng thấy rùng mình ghê sợ khi nghĩ tới gian phòng mổ và Khu Giải-Phẫu lạnh-lùng sắt đá. Chàng được nghe các sinh-viên y-khoa lớn tuổi thì-thào với nhau về những thây ma treo lủng-lẳng trên những móc sắt, trông như một dẫy trái cây quỷ-quái, trong một cái hồ muối gớm-ghiếc ở dưới gian nhà hầm tối thui; nào là anh Henry gác gian lôi những thây ma ướp muối ấy lên, trích duyên-đan vào mạch máu, rồi vừa càu nhàu vừa vùi những xác ấy xuống hồ chứa. Trời hôm ấy vào tiết Thu có cái không-khí mát mẻ của đồng quê, nhưng Martin không để ý tới. Chàng rảo bước đi vào dẫy hành-lang màu đá xám của Tòa Chính Viện Y-Khoa, trèo lên cái thang rộng, vào văn-phòng của Max Gottlieb. Chàng không để ý nhìn các sinh-viên đi ngang qua mặt chàng, đến khi đụng vào họ, chàng mới lúng túng xin lỗi. Giờ phút này là giờ phút nghiêm-trọng. Chàng sắp sửa chuyên tâm nghiên-cứu về vi-trùng-học; chàng sẽ khám-phá ra những tế-khuẩn mới, rất mê-ly kỳ thú; Giáo-sư Gottlieb sẽ công nhận chàng là một thiên tài, dùng chàng làm phụ-tá, tiên đoán tương-lai chàng... Chàng dừng lại ở phòng thí-nghiêm riêng của Gottlieb, một gian phòng nhỏ, rất gọn gàng ngăn nắp, với những chiếc giá cắm những ống thí-nghiệm đậy nút bấc ngoài quấn bông, bầy trên chiếc bàn dài, một nơi không có gì là kỳ lạ, đáng cho người ta xúc động, trừ có cái dịch bàn nhiệt-độ cố định có một cái nhiệt-kế và những bóng đèn điện xảo-diệu. Chàng đợi cho tới khi một sinh-viên khác, nói cà-lăm chậm rì-rì, nói chuyện xong với Gottlieb, chàng mới nhẩy xổ vào. Giáo-sư nước da bánh mật, người ốm nhom, nét mặt thản nhiên, đương ngồi bên chiếc bàn khuất trong một xó 12 buồng. Cái đêm tháng Tư sương mờ, trông Gottlieb có vẻ lãng mạn như một kỵ-sỹ khoác chiếc áo choàng, nhưng hôm nay Martin thấy ông chỉ là người trung niên khó tính. Nhờ đứng gần nên Martin mới trong thấy rõ những nét nhăn ở xung quanh hai con mắt sắc như mắt diều hâu. Gottlieb quay về bàn làm việc trên chất đầy những cuốn sổ tay nhàu nát, những mảnh giấy nhằng-nhịt chữ số, và một đồ biểu vẽ một cách tinh-vi kỳ-diệu, có hai đường cong xanh đỏ chạy tụt xuống rồi biến vào con số không. Những bài toán rắc-rối tỷ-mỷ và rõ ràng không thế tả được; trong đám giấy tờ ấy, bàn tay thon gầy của nhà khoa-học trông kiều-nhược như bàn tay đàn bà. Ông nhìn lên nói hơi đá giọng Đức; tiếng ông phát âm không sai nhiều nhưng nó nhiễm một sắc thái ấm áp lạ tai. - Sao? Có việc chi đấy? - Dạ, thưa Giáo-sư, tên con là Arrowsmith. Con là một y-sinh mới, đã tốt-nghiệp cử nhân văn-khoa Đai-Học Winnemac. Con rất khao-khát học môn vi-trùng-học ngay mùa Thu này thay vì đợi đến sang năm. Con đã được học nhiều về môn hóa-học... - Không được. Chưa dến lúc anh học được. - Con thành thực xin thưa rằng con có đủ sức học được ngay năm nay. - Ông Trời ông ấy gởi đến cho tôi hai hạng sinh-viên. Một hạng ông ấy trút lên đầu tôi như một sọt khoai. Tôi không thích khoai và khoai hình như cũng chẳng bao giờ có nhiều cảm tình đối với tôi cả, nhưng tôi cũng cứ phải thu nhận để dạy họ giết bệnh-nhân. Còn hạng kia... chỉ có một số rất ít!... hình như họ vì một lý-do nào đó tôi không được rõ muốn trở thành khoa-học-gia, muốn nghiên-cứu các loại vi-trùng, và họ đã lầm. Cái hạng này ồ, cái hạng này, tôi tóm lấy họ, tôi lột mặt nạ họ, tôi dạy ngay cho họ bài khoa-học cuối cùng là phải biết chờ đợi, biết hoài-nghi. Đối với cái hạng tôi gọi là “khoai” tôi không đòi hỏi gì cả; đối với cái hạng điên điên khùng khùng như anh, tưởng rằng tôi có thể dạy cho biết một vài điều gì đó thì tôi đòi hỏi đủ thứ. Không được. Anh còn ít tuổi quá. Sang năm hãy trở lại đây. - Thưa Giáo-sư con xin thành thực mà nói, với môn Hóa-học... - Anh đã học vật-lý-học chưa? - Thưa Giáo-sư chưa ạ! Nhưng con cũng khá về hữu-cơ hóa-học. - Hữu-cơ hóa-học! Thứ hóa-học mê-hoặc! Thứ hóa-học hôi thối! Thứ hóa-học của mấy nhà thuốc tây! Vật-lý hóa-học mới là năng-lực, mới chính xác, mới là đời sống, còn hữu-cơ hóa-học... Đó là nghề dành cho bọn rửa xoong rửa chảo. Không được. Anh còn ít tuổi quá. Một năm nữa trở lại đây. 13 Gottlieb rất độc đoán. Ngón tay cong-cong, ông xua Martin ra cửa, chàng vội lui ngay, không dám cãi lại một câu. Chàng đi len lén, trông thiểu não ra mặt. Vừa tới sân, chàng gặp ngay cái ông giáo-sư hóa-học lịch-sử-gia vui tính, ông Encore Edwards, chàng khẩn-khoản hỏi: - Thưa Giáo-sư, xin Giáo-sư bảo cho con biết là bác-sĩ về hữu-cơ hóa-học có giá trị không ạ? - Có giá-trị à? Sao lại không! Hữu-cơ hóa-học tìm ra thuốc chữa dịu cơn đau! Nó chế ra sơn quét nhà anh cho bóng lên, nó nhuộm áo cho bồ của anh đẹp lên... và có lẽ trong cái thời buổi suy-đồi này, nó tô son, vẽ phấn cho cô ả nữa! Đứa khốn nạn nào dám nói xấu môn hữu-cơ hóa-học của mình thế? - Ấy là con hỏi thế thôi, chứ không có ai dám nói xấu đâu ạ. Nói xong, Martin đi lại Quán Ăn của Trường, vừa tức mình, vừa buồn, chàng ngốn hết một ly nước chuối lớn và một thỏi kẹo hạnh-nhân bọc xô-cô-la. Chàng vừa ăn uống vừa ngẫm nghĩ: "Mình muốn theo Ban Vi-trùng-học. Mình muốn biết đến căn nguyên các bệnh tật. Mình sẽ học một chút vật-lý-hóa-học. Rồi mình cho lão Gottlieb biết tay, tế phệ lão! Rồi có ngày mình sẽ khám phá ra căn bệnh ung thư hay cái gì đó, lúc bấy giờ lão mới biết chính lão mới điên-điên khùng-khùng!... Ồ, lạy Trời phù-hộ cho con! Lần đầu tiên bước vào phòng giải-phẫu, con sẽ không buồn nôn buồn mửa... Con muốn học Ban Vi-trùng-học... ngay bây giờ!" Chàng nhớ lại bộ mặt nhạo đời trào tiếu của Gottlieb, chàng thấy cái tính hiềm-kỵ quá mạnh của lão mà phát sợ. Rồi chàng lại nhớ đến những nét nhăn trên mặt lão, chàng thấy lão không phải là một thiên tài, mà là một người có bệnh đau đầu, đã mệt mỏi một cách khổ-sở, một người khó có thể để cho người ta yêu thương được. Chàng tự hỏi, "Không biết Giáo-sư Encore Edwards có thật thông minh mẫn tiệp như mình tưởng không nhỉ? Ôi, đâu là Chân-Lý?” IV Hôm đầu học khoa giải-phẫu, Martin thấy bối rối sợ hãi. Chàng không dám nhìn vào những cái thây ma đói xám-xịt nằm lăn trên mấy chiếc bàn gỗ. Nhưng thây ma của những lão già đó chẳng còn một chút gì là cá-tính con người nữa, khiến trong có hai ngày, Martin cũng như các y-sinh khác, đã đùa gọi những xác chết đó là Billy, là Ike, là “cha nội'' và coi chúng như thú vật trong sinh-vật-học. Ngay đến cái phòng giải-phẫu cũng chẳng có chút 14 cá-tính nào: sàn xi-măng, tường trét hồ giữa những khung cửa sổ lồng kính đóng lưới sắt. Martin rất ghét mùi formaldehyde xông lên; cái mùi ấy với cái mùi gì ngửi nhức đầu dễ sợ, hình như khi chàng ra khỏi phòng mổ rồi mà nó vẫn cứ bám ở người chàng; nhưng chàng hút thuốc lá để quên nó đi, và chỉ trong có một tuần lễ chàng đã mổ nghiên-cứu các động mạch, lòng vui mừng sung sướng một cách rất trẻ trung mà cũng vô cùng ngỗ ngược. Bạn đồng học khoa giải-phẫu của chàng là Mục-sư Ira Hinkley mà trong lớp thì gọi bằng một tên khác tương tự. Ira học để làm y-khoa giáo-sĩ. Chàng là một thanh-niên hai mươi chín tuổi, tốt-nghiệp Đại-học Cơ-Đốc Pittsburg và Truyền-Giáo và Linh-Hóa Thánh-Kinh Học Hội. Chàng hay đá banh, nên bây giờ vẫn còn to lớn khỏe mạnh gần bằng con bò mộng và chưa bao giờ có con bò mộng nào lại rống to bằng chàng. Ira là một giáo-sĩ Cơ-Đốc tính tình vui vẻ, một cầu thủ lạc-quan, lấy nụ cười giải-trừ hết mọi tội lỗi và nghi nan, một tín-đồ Thánh-Giáo vui vẻ, mỗi khi giảng về giáo-lý của cái Giáo-phái tý hon của mình, về sự Linh-hóa Tình Huynh-Đệ, cái điệu-bộ hùng mạnh của chàng trông đến khó chịu, chàng cho rằng có một cái nhà thờ đẹp thì cũng có tội gần như đam mê cờ bạc vậy. Martin ngạc nhiên thấy mình đương ngắm Billy, cái thây ma của bọn chàng... – một lão già lùn quá cỡ, mụn nhọt đầy người, mặt lang ben xanh-lét có bộ râu đỏ hoe trông đến gớm-ghiếc – như một cái máy phức-tạp, đẹp, quyến-rũ, nhưng chỉ là một cái máy, làm cho lòng tin-tưởng của chàng về tính-cách phi-phàm, bất diệt của con người vốn đã yếu nay lại bị giảm đi thêm. Chàng có thể giữ kín những điều chàng nghi ngờ ấy ở trong lòng, vừa băn-khoăn suy nghĩ, vừa mổ những đường gân trên một cánh tay đã xẻ nát, nhưng Ira Hinkley không để cho chàng yên. Ira tưởng mình có thể đưa cả sinh-viên y-khoa đến chỗ toàn phúc, mà toàn phúc đối với Ira có nghĩa là hát những bài Thánh-Ca thật buồn và thật dài, dài dằng dặc, trong một giáo đường nhỏ của Hội Linh-Hóa Tình Huynh-Đệ. Chàng oang-oang lên nói: - Này Martin, con có nhận thấy trong cái công việc mà người ta có thể gọi là ghê-tởm gớm-ghiếc này, mình đương học những điều giúp mình có thể chữa lành những thể-xác và an-ủi những linh-hồn của hằng hà sa số chúng sinh trầm-luân trong bến mê biển khổ không? Martin nói: - Linh hồn! Hứ! Con chưa tìm thấy một linh hồn nào trong xác Billy này. Thành thực mà nói, cha tin có linh hồn hay sao? Ira nắm chặt hai bàn tay lại, cau mày nhăn nhó, rồi phá lên cười; chàng vỗ mạnh vào lưng Martin và la lên: 15 - Này chú ơi, chú phải làm thế nào kia mới hòng trọc tức nổi ta đây. Chú tưởng đã có được một mớ “Hoài Nghi Tân Kỳ” rồi đó hả. Không có đâu... Chỉ tại chú ăn không tiêu đấy thôi. Điều chú cần bây giờ là thể-thao và đức tin. Tới Thanh-Niên Công-Giáo Hội đi, ta sẽ tập cho chú bơi lội, ta sẽ cầu kinh với chú. Mà này, chú, con người bất-khả tri-luận bé nhỏ ốm khẳng ốm kheo này, ở đây chú có cơ-hội được xem tác-phẩm kỳ diệu của bàn tay Thượng-Đế tạo ra, tất cả cái mà chú thâu lượm được ở đó là chú tự biết mình thực sự thông-minh cơ-trí. Thôi hãy phấn khởi lên đi, chú! Chú không biết là đối với một người có lòng tín ngưỡng thanh-tịnh như tôi, chú trông buồn cười lắm hay sao! Nói xong Ira lại khẽ đấm vào cạnh sườn Martin, củng lên đầu chàng thật đau, rồi lẳng lặng cúi xuống làm viêc, trong khi Martin cáu quá, nhẩy lên như choi-choi, khiến Clif Clawson, vua hề giỏi nhất lớp, đương làm việc ở bàn kế bên, phải bật cười khoái-trá. V Ở Đại-Học, Martin được xếp vào loại "Bất” 1 – nghĩa là bất khả, bất ứng tham gia một Hy-Lạp Tự-Mẫu Liên-Nghị-Hội 2 bí-mật nào. Chàng đã bị hội này "lôi kéo", hội kia "lôi kéo" nhưng chàng vốn ghét cái lối ân cần kiểu cách quý phái của bọn người ở cái nơi thành-thị lớn hơn quê chàng này. Bây giờ phần đông các bạn đồng học Ban Văn-Khoa của chàng trước đã ra đi làm ở các hãng bảo-hiểm, các trường luật, các ngân-hàng, chàng đâm ra cô đơn, và khi được Hội Digamma Pi, liên-nghị-hội của Y-Khoa "mời mọc", chàng có vẻ ham ngay. Liên-nghị-hội Digamma Pi là một ký-túc-xá náo-nhiệt, có bàn bi-da, tiền ăn ở hạ. Đêm đêm từ bên trong vẫn thường vẳng ra những tiếng ca hát bài “Khi nào tôi chết xin đừng chôn tôi”, tuy thế mà luôn ba năm nay Hội Digamma Pi – gọi tắt là Digam – đều có hội-viên tốt nghiệp được cử ra đọc diễn-văn cáo biệt và chiếm được Huy-Chương Hug Loizeau về khoa Giải-phẫu Thực-Nghiệm. Mùa Thu năm nay hội-viên Digam tuyển Ira Hinkley, vì họ đã nổi tiếng là chơi bời phóng đãng – người ta đồn rằng đêm khuya họ thường lén đem gái vào Hội quán – và ông Khoa-Trưởng không thể nào báo một hội có Mục-sư Hinkley lại đồi-bại thiếu đạo-đức được, đó là một điều rất lợi và họ có thể tha-hồ tiếp-tục làm bậy. 1 Bất nguyên-văn là Barb, một sinh-viên đại-học Hoa-kỳ không tham-gia một hội nào do sinh-viên tổ-chức. 2 Hy-Lạp Tự-Mẫu Liên-Nghị-Hội nguyên văn là Greek Letter Society, Hội Ái-Hữu hay Liên-Nghị do sinh-viên đại-học Hoa- kỳ tổ-chức dùng mẫu-tự Hy-lạp để đặt tên hội, như Alpha, Beta... 16 Martin từ trước vốn thích lối sống tự-do trong căn phòng riêng của chàng, còn ở một Liên-Nghị-Hội thì tất cả, từ những chiếc vợt ten-nít, chiếc quần, cho đến ý-kiến đều là của chung. Thấy Martin do dự chưa biết có nên vào Hội hay không, Ira khẩn-khoản nói: “Ồ, thôi vào đi anh! Digam cần có anh. Anh học gạo – tôi sẽ đề cao anh – và anh có cơ-hội gây ảnh-hưởng tốt cho Tụi Bạn Chúng Nó, anh cứ nghĩ mà xem”. (Bất cứ lúc nào, hễ nói đến các bạn đồng học, Ira đều gọi Tụi Bạn hay Tụi Bạn Chúng Nó ngay cả những khi đọc kinh cầu nguyện ở Thanh-Niên Công-Giáo chàng cũng thường hay dùng từ-ngữ này). Martin nói: - Tôi chẳng muốn gây ảnh-hưởng cho ai cả, tôi chỉ muốn học y-khoa và mỗi năm kiếm sáu ngàn đôn thôi. - Này anh, anh có biết mỗi lần anh giở cái giọng mỉa-mai trào-lộng ấy ra là anh điên không? Bao giờ bằng tuổi tôi rồi anh sẽ hiểu vinh-dự của một bác-sĩ là có thể vừa truyền-bá cho nhân-loại những lý-tưởng cao siêu, vừa chữa cho họ khỏi những nỗi đau khổ về thể-xác. - Nhưng nếu họ không cần gì tới cái loại lý-tưởng cao-siêu của tôi thì sao? - Anh Mart à, chả lẽ tôi phải nghỉ tay để cầu nguyện với anh sao? - Thôi, thôi! Tôi xin hàng! Hinkley này, thành thực mà nói, kể tất cả những tín-đồ cơ-đốc mà tôi đã gặp, chỉ có anh là cái gì cũng muốn nắm phần hơn một cách... thối không thể ngửi được. Ở trong lớp, anh muốn đập ai thì đập, và cứ nghĩ đến khi anh đi truyền-giáo, anh sẽ hành-hạ những người không theo đạo như thế nào, anh sẽ bắt tụi trẻ con mặc quần xà-lỏn như thế nào, và anh sẽ phá đám những cặp tình-nhân đương yêu nhau sung-sướng để làm lễ cưới cho họ lấy nhầm người khác, thì tôi lại muốn khóc thét lên! Cứ nghĩ đến cái viễn cảnh phải bỏ chỗ đương ăn ở tự-do để tới chỗ bị Mục-sư Hinkley chăn giắt bảo-trợ, Martin không thể chịu được. Mãi tới khi thấy Angus Duer cũng gia-nhập Hội Digamma Pi chàng mới gia-nhập theo. Duer là một trong số rất ít bạn đồng học của Martin ở Ban Văn-Khoa đã theo chàng cùng tới học Ban Y-Khoa ở Winnemac. Chính Duer đã được cử ra đọc bài diễn-văn cáo biệt ngày mãn khóa. Tính tình trầm lặng, mặt xương-xương rắn-rỏi, tóc xoăn, khá đẹp trai, chàng không bao giờ bỏ phí lấy một tiếng đồng-hồ nào hoặc có một hành-động nào vô ích về môn sinh-vật-học và hóa-học, chàng suất-sắc đến nỗi có một bác-sĩ chuyên khoa giải-phẫu ở Chicago đã hứa dành cho chàng một chỗ làm ở bệnh-viện của ông ta. Martin thường ví Duer như một lưỡi dao cạo vào một buổi sớm mai tháng giêng; chàng ghét Duer, bực mình khó chịu với Duer, mà lại muốn ganh tỵ, muốn được bằng Duer. Chàng biết về môn sinh-vật-học, Duer quá 17 bận rộn về kỳ thi, nên không thể suy nghĩ kỹ để có một khái-niệm tổng-quát về môn này. Chàng biết Duer là một tay hóa-học quỷ-quái, làm rất giỏi và rất lẹ tất cả các cuộc thí-nghiệm cần thiết trong chương-trình và không bao giờ có gan tự mình có sáng-kiến làm những cuộc thí-nghiệm có thể đưa mình tới chỗ mơ-hồ của một cảnh-giới huyền-diệu phi-thường, có thể đem lại cho mình một là vinh quang, hai là tai-họa. Chàng biết chắc rằng Duer cố luyện cho mình có thái-độ lạnh lùng cao ngạo để các giáo-sư phải chú ý tới. Nhưng dẫu sao thì trong cái đám sinh-viên đã không hoàn-thành nổi các cuộc thí-nghiệm, lại cũng không biết cân nhắc suy nghĩ hay làm nên được việc gì, ngoại trừ việc hút điếu ống và theo dõi các cuộc tập dượt đá banh, riêng Duer đã nổi bật hẳn lên, khiến Martin tuy ghét Duer đấy nhưng cũng yêu Duer đấy, và hầu như đã ngoan ngoãn theo Duer gia-nhập Hội Digamma Pi. Martin, Ira Hinkley, Angus Duer, Clif Clawson vua pha trò nhất lớp, và Fatty Pfaff cùng làm lễ gia-nhập Digamma Pi một lúc. Buổi lễ rất ồn ào mà cũng đến khổ sở vì có vụ phải ngửi hơi nhựa thối asafetida. Martin bực mình lắm, còn Pfaff Mập thì sợ rẫy nẩy, co quắp cả người lại mà kêu oai-oái. Trong số tất cả sinh-viên mới nhập học năm thứ nhất, anh chàng Mập là người hữu dụng nhất cho Digamma Pi. Vì bản tính lành nên Anh chàng Mập thành cái đích cho mọi người trêu-trọc làm trò cười. Trông Anh Chàng Mập như cái túi cao-su đựng nước nóng căng phồng lên; ngu-ngốc không thể chịu được; ai nói gì cũng tin; chẳng biết một tý gì, chẳng để bụng một tý gì; chỉ chăm-chăm lo tha lỗi cho mấy anh cứ lúc nào rảnh rỗi là họ lại trêu-trọc anh chàng lúc ấy. Họ thuyết phục anh chàng rằng cao dán làm bằng mù-tạt chữa cảm lạnh rất thần hiệu – rồi họ ân-cần xúm lại vây quanh anh chàng, dán một lá cao thật bự lên lưng anh chàng, rồi sau lại tưng-tiu bóc đi. Lại một hôm Chủ-Nhật – khi Anh Chàng Mập sửa soạn đến ăn cơm chiều ở nhà một cô em họ ở Zenith, họ lén bỏ cái tai một thây ma vào chiếc khăn tay mới, đẹp đẽ sạch-sẽ giắt ở túi áo của anh chàng... Đương bữa ăn, anh chàng rút khăn ra khoe vung vẩy. Đêm nào, trước khi đi ngủ, Anh Chàng Mập cũng phải lôi ở chăn nệm, khăn giường ra đủ thứ mà các bạn ở chung nhà đã cẩn-thận giấu kỹ vào đấy – nào là xà-bông, nào là đồng hồ báo thức, cho đến cá họ cũng không tha nhét đầy cả vào giường. Anh Chàng Mập còn là khách hàng lý-tưởng để mọi người bán đẩy đi những món đồ vô dụng. Clif Clawson đã tinh nghịch lâp mưu buôn một món hàng bở bán cho Anh Chàng Mập một cuốn "Lịch-Sử Y-Khoa" bốn đô-la mà Cliff mua cũ có hai đô-la. Anh Chàng Mập mua rồi có bao giờ đọc đến đâu sức mấy mà đọc được. Có cuốn sách đó dầy bự ấy, anh chàng tưởng mình như thông-thái lắm. Nhưng cái ân-huệ lớn nhất của Anh Chàng Mập đối với Hội Digamma Pi là đức tin về thuyết tâm linh của anh chàng. Anh chàng sợ ma kinh khủng; đêm nào cũng thấy ma hiện ra ở cửa sổ phòng 18 giải-phẫu. Các bạn đồng học không bao giờ quên làm cho anh chàng thấy có rất nhiều bóng ma lởn-vởn ở khắp các hành-lang Hội-Quán. VI Hội Quán Digamma Pi đặt tại một tòa nhà xây trong những ngày rực rỡ của năm 1885. Phòng khách trông như vừa trải qua một cơn gió lốc. Bàn thì đầy vết dao rạch khắc, ghế Morris thì gẫy chân, cụt tay, thân thì rách nát từng mảnh vứt lung tung, khán phòng bừa bãi những sách long gáy, giầy đánh khúc-côn-cầu, mũ, đầu mẩu thuốc lá hút thừa. Trên gác thì cứ bốn người một phòng ngủ, giường bằng sắt có hai tầng, như loại phòng hạng bét trên tầu thủy. Tụi Digan lấy sọ người cưa đôi ra làm đĩa đựng tàn thuốc lá; trên vách phòng ngủ treo đầy những bản vẽ cơ-thể để họ có thể vừa mặc quần áo vừa học. Trong phòng Martin có cả một bộ xương người đầy đủ. Chàng và mấy bạn đồng phòng đã mua chịu của một người mại-bản của một hãng cung-cấp đồ giải-phẫu ở Zenith. Người này rất vui vẻ hòa nhã, nào mời các cậu hút xì-gà, nào kể cho các cậu nghe truyện những tay tốt-nghiệp Đại-học, nào giải-thích cho các cậu biết tương lai các cậu sẽ trở nên những bác-sĩ danh tiếng và giầu có. Các cậu khoái trí mua ngay bộ xương theo lối trả góp... và sau anh mại-bản không còn vui-vẻ như trước nữa. Martin ở chung phòng với vua pha trò Clif Clawson, Pfaff Anh Chàng Mập, và một y-sinh năm thứ hai tính nết đứng đắn, tên là Irving Watters. Nếu có nhà tâm-lý-học nào muốn kiếm một người hoàn-toàn bình thường để chứng-minh thực-nghiệm thì không thể chọn ai hơn là Irving Watters. Chàng lúc nào cũng chậm-chạp, chậm-chạp một cách quá thận-trọng, tươi cười dễ tính, đáng tin cậy, nhưng chậm-chạp. Nếu có câu văn sáo nào chưa dùng đến, đó là tại chàng chưa được nghe ai nói tới mà thôi. Chàng tin-tưởng luân-thuờng đạo-lý – trừ có chiều Thứ Bẩy, chàng tin-tưởng Thánh-Công-Hội – nhưng không tin-tưởng Cao-Phái Giáo-Hội; chàng tin-tưởng Hiến-Pháp, học-thuyết của Darwin, những môn thể-thao có phương-pháp ở trường thể-dục, và thiên-tài của ông Viện-Trưởng Viện Đại-Học. Trong bốn người bạn đồng phòng ấy, Martin thích Clif Clawson nhất. Clif là anh hề của Hội Quán, chàng có giọng cười khàn-khàn, chàng vừa gõ đế giầy vừa nhẩy vừa hát những bài ca vô nghĩa lý, chàng tập cả thổi kèn, dù sao chàng cũng là một người bạn tốt, nhiệt thành, và Martin trong khi ghét Ira Hinkley, sợ Angus Duer, thương hại Pfaff Mập, chán ngán cái tính tốt chậm 19 rề-rề của Irving Watters, chàng hướng về anh chàng Clif Clawson, anh chàng to mồm to miệng, có một cái gì linh-hoạt và ham từng trải viêc đời. Ít ra Clif cũng có tính thực-tế, cái thực-tế của một cánh đồng mới cầy, của một cánh đồng phân bón đương bốc hơi. Chỉ có Cliff là chịu đánh quyền với chàng; Clif tuy thích ngồi hàng giờ hút thuốc lá, hay nằm ườn ra khoái-trá, lầu-bà lầu-bầu những gì gì ở trong miệng, nhưng Martin vẫn có thể rủ chàng cùng làm một cuốc đi bộ chín mười cây số chơi. Và chính Clif đã dám liều chết ném hạt đậu hầm vào Mục-sư Ira Hinkley trong một bữa ăn chiều, khi Ira đương lấy giọng kẻ cả ngọt ngào dạy đời. Ở Phòng giải-phẫu ra, Ira đã giận điên lên về những ý-tưởng của Martin, vì những ý-tưởng này chưa được Trường Đại-Học Cơ-Đốc Pittsburg công nhận, nhưng ở Hội-Quán thì chàng là một ông thầy đời khó chịu hết chỗ nói. Chẳng bao giờ chàng chịu bỏ không tìm cách ngăn cản mọi người nói những lời báng-bổ, xúc-phạm đến thần thánh. Sau ba năm ở trong một đội banh tại một nơi sâm-lâm địa-giới, chàng vẫn còn lạc quan tin tưởng như trước rằng chàng có thể quở trách bạn bè theo lối một cô giáo già lớp Thánh-Kinh Chủ-Nhật, biết chọn đúng lúc để khiển-trách học-viên và bắt chước tài khéo-léo của một con voi khi cất hàng để “khử trùng" giáo-hóa bọn thanh-niên. Ira còn có cả những bản thống-kê về Nếp Sống Thanh Tịnh. Chàng có đủ thứ thống-kê. Chàng không cần biết chàng đã nhặt được ở đâu; những con số trên các nhật báo, trong các bản báo-cáo kiểm-tra, hay trong Mục Tạp Lục của tờ “Linh Hóa Thông Báo" đều có giá-trị như nhau hết. Trong một bữa cơm chiều, chàng tuyên bố: - Anh Clif này, tôi lấy làm lạ không hiểu tại sao một người thông minh như anh mà lại có thể đi ngậm một cái pipe cũ bẩn thỉu như thế được. Anh có biết là có đến 67,9 phần trăm tổng số phụ-nữ bị giải-phẫu, có chồng hút thuốc không? Clif hỏi: - Nếu không hút thuốc thì họ hút cái quái gì? Martin thì hỏi: - Anh kiếm đâu ra những con số ấy thế? Ira nhịn đáp: - Tôi lấy trong biên-bản của một hội-nghị y-khoa ở Philadelphia năm 1902. Cố nhiên tôi không tin rằng điều đó có thể ảnh-hưởng tới một bọn ngu-xuẩn mà cứ tưởng mình khôn ngoan như các anh, một ngày kia sẽ lấy người vợ xinh tươi đẹp đẽ để làm hại cả một đời người ta, vì những tính hư tật xấu của 20 các anh. Chắc chắn là như vậy, nhưng thôi cứ hút đi – các anh can đảm và hùng dũng lắm! Còn một kẻ thuyết giáo yếu đuối nhu-nhược như tôi thì đâu dám làm một việc gì can-đảm như các anh hút ống điếu! Nói xong chàng bỏ đi một cách đắc-thắng, nhưng Martin càu nhàu: - Ira làm cho mình muốn bỏ học thuốc ra làm một anh thợ đóng yên cương lương-thiện chắc. Pfaff Mập phàn nàn: - Ô kìa, Mart, anh chẳng nên thóa-mạ Ira như thế. Tính anh ấy thành thực lắm. - Thành thực à? Thành thực cái cóc khô! Nói như cuội ấy! Trong khi họ nói chuyện lăng nhăng với nhau như vậy thì Angus Duer chỉ im lặng ngồi nghe – cái im lặng của kẻ cả bề trên – làm cho Martin nổi xùng lên. Trong lúc theo đuổi một nghề mà chàng khát vọng cả một đời chàng, thì nhiều lúc tâm-hồn chàng thấy bực dọc hay trống trải, mà nhiều lúc cũng thảnh thơi, thư thái; chàng không thấy một con đường rõ rệt nào để đi tới Chân Lý, mà chỉ thấy hàng ngàn con đường đi tới hàng ngàn chân-lý xa vời mờ mịt đâu đâu. 21 CHƯƠNG: 3 JOHN A. ROBERTSHAW, John Aldington Robertshaw, giáo-sư sinh-lý-học ở Trường Thuốc, hơi bị nghễnh-ngãng, và ông là giáo-sư duy nhất của Viện Đại-Học Winnemac còn mang bộ ria mép vểnh nhọn lên. Ông ở Back Bay tới; ông lấy làm hãnh-diện về điều ấy và không ngần ngại nói ra cho mọi người biết. Ông cùng với ba nhân-vật Bà-la-môn khác họp thành một kiều-bang Boston ở Mohalis, chủ-trương một lối sống hiền-hòa nhưng bất-khuất và một lối ánh sáng được che dịu bớt đi cho vừa phải thích đáng. Cứ gặp dịp là ông lại kể "Hồi tôi còn học với Ludwig ở bên Đức..." Ông chỉ mãi lo giữ gìn tư-cách cho đoan chính, nên chẳng lưu tâm đến cá-nhân của sinh-viên, thành thử Clif Clawson và mấy thanh-niên nổi tiếng là quỷ sứ chỉ mong cho tới giờ học môn sinh-lý của ông để nghịch. Giờ Sinh-lý dạy trong một giảng-đường có những hàng ghế xếp cong-cong như vành móng ngựa, khiến giảng-sư không thể nhìn thấy cùng một lúc cả hai đầu hàng ghế ở hai bên tả hữu, vì thế cho nên một hôm ông đương đều đều giọng giảng về huyết-dịch tuần-hoàn và mãi nhìn về bên phải để xem sinh-viên nào xấc-láo, đã gây ra cái tiếng như tiếng còi xe hơi ấy, thì ở đằng xa kia về bên trái, Clif Clawson đứng lên bắt chước điệu-bộ của ông khua-khua cái tay và vuốt bộ ria mép tưởng-tượng. Lại có một lần Clif làm một công việc tuyệt tác là ném một hòn gạch đúng vào trong cái chậu đặt bên cái bục gỗ của Bác-sĩ Robertshaw đứng, đúng ngay vào lúc bác-sĩ đương “ca đoạn chót” của bài nói về ảnh-hưởng của những miếng đồng đối với cường độ những động-tác phản-ứng của gân đầu gối. Martin đã đọc những bài báo nói về khoa-học của Max Gottlieb – sức đọc được nhiều chừng nào, chàng đọc nhiều chừng nấy, cả những ký-hiệu toán học rắc rối khó khăn nữa – cho nên chàng mới yên trí tin rằng sự thí-nghiệm phải là một cái gì có liên quan với căn nguyên của sự sống, sự chết, với bản-chất của sự nhiễm trùng, với môn hóa-học về sự phản-ứng của các cơ-thể. Vì vậy khi Robertshaw “thỏ-thẻ” nói về những cuộc thí-nghiệm cổ-điển, những cuộc thí-nghiệm kiểu-mẫu quá dễ để cho mấy cô gái già xem, thì chàng lấy làm bực mình khó chịu lắm. Khi còn ở trung-học, chàng đã thấy hai môn học làm thơ và làm luận-văn La-tinh là vô-dụng, và ao-ước về sau được học y-khoa để mở mang trí-tuệ hơn. Đến bây giờ, trong lúc buồn phiền lo-lắng về tính tình vô lý của chính mình, chàng thấy mình cũng bắt đầu có ý khinh miệt những quy-tắc dựa theo kinh-nghiệm thực-tế của Giáo-sư Robertshaw – và cả những công-cuộc về giải-phẫu-học nữa. Chính giáo-sư khoa giải-phẫu, Bác-sĩ Oliver O. Stout là một bộ xương, một bức vẽ giải-phẫu, một bộ gân, xương, mạch máu, bọc trong một lớp da 22 mỏng teo. Stout hiểu biết rộng và tinh-xác một cách phi-thường; giọng tuy khô khan, nhưng ông có thể nói rất nhiều truyện về ngón út của bàn chân trái, nhiều đến nỗi không ai ngờ trên đời nầy lại có người có thể chuyên-tâm nghiên-cứu về một ngón út của bàn chân trái như vậy. Trong bữa cơm chiều ở Hội Quán Digamma Pi, không có cuộc bàn cãi nào sôi nổi bằng cuộc bàn cãi liên-miên về giá-trị một bác-sĩ, một bác-sĩ bình-thường, đúng đắn, kiếm tiền một cách lương thiện, và không bao giờ quan tâm đến việc thuyết-trình này nọ ở các hội-nghị y-khoa, hay đến viêc nhớ các danh-từ cơ-thể-học. Tuy nhiên các cậu muốn nghĩ thế nào thì nghĩ, chứ thực ra cậu nào cũng đêm ngày học gạo những bản liệt kê các danh-từ nó có thể giúp cho các cậu thi đỗ trôi chảy và trở nên Nhà Trí Thức có giá-trị năm ngàn đô-la một giờ trên thị-trường. Không biết nhà thông thái vô danh nào đã đặt ra những câu vè để giúp cho các cậu dễ nhớ. Bữa ăn – ba chục tên "côn-đồ của Đảng Digamma Pi” ngồi quanh một chiếc bàn dài, ngốn nào là canh sò, nào là đậu, nào là cá viên, bánh chuối – mấy tên "lính mới tò-te” sinh-viên năm thứ nhất, vừa ăn vừa nhai lại những câu vè của mấy "tên lính cũ” truyền khẩu cho: On old Olympus topmost top A fat-eared German viewed a hop. Nhờ chắp nối những chữ đầu của hai câu vè mà họ nhớ được tên của mười hai sợi dây thần kinh ở trên sọ: olfactory (thuộc về khứu-giác), optic (thuộc về thị-giác), oculomotor (chuyển-động nhãn-cầu), trochlear (cốt-xa), vân vân và vân vân. Đối với bọn họ, đó là những câu thơ tuyệt-tác cao-quý nhất đời, thơ thì họ nhớ mãi mãi, hàng bao nhiêu năm sau khi hành nghề y-sĩ cũng vẫn không quên, còn chính tên những dây thần-kinh thì họ chẳng nhớ một tý gì cả. II Trong giờ cơ-thể-học của Bác-sĩ Stout, sinh-viên không phá rối ầm-ỹ, nhưng khi ở trong phòng giải-phẫu thì họ đùa nghịch kinh người. Lối nghịch nhã-nhặn nhất của họ là nhét một chiếc pháo vào cái xác chết mà hai cô sinh-viên còn ngây-thơ trong-trắng song đau khổ sắp phải đem ra mổ. Nhưng trong năm học thứ nhất, câu truyện làm cho hết thẩy mọi người thực sự trấn động là câu truyện anh chàng Clif Clawson và chiếc lá lách. Năm đó, Clif Clawson được bầu làm trưởng lớp, vì chàng lúc nào cũng có sẵn nhiều câu chào hỏi xã-giao hay không chê được. Không bao giờ gặp một bạn đồng học trong hành-lang Khu Y-Khoa mà chàng không có một câu chào đặc 23 biệt: “Thế nào, sáng nay cái khúc ruột dư của anh làm việc ra sao?” hoặc “Kính chào Chú Rận Già”. Chàng chủ-tọa các buổi họp trong lớp rất đường hoàng (như những buổi họp phẩn-uất tố-cáo bọn sinh-viên canh-nông xử-dụng mấy sân quần vợt ở Khu Phía Bắc, v.v...) nhưng trong nếp sống riêng hàng ngày chàng lại không được đàng hoàng như vậy. Câu truyện kinh người xảy ra khi Ban Bình-Nghị đi thăm các cơ-sở trong Viện. Ban Bình-Nghị gồm những nhân-vật quản-trị tối-cao của Viện Đại-Học, toàn là những ông lớn, chủ ngân-hàng, kỹ-nghệ-gia, mục-sư các Giáo-Hội lớn: đối với họ, ngay đến ông Viện-Trưởng cũng chẳng có ‘kí-lô’ nào. Trong Viện không có cái gì làm cho họ thích thú đến rợn tóc gáy bằng phòng giải-phẫu. Mấy ông thầy tu thì thuyết về luân-lý, ảnh-hưởng tai hại của rượu chè đối với bọn dân nghèo; mấy ông chủ ngân hàng thì nói đến cái lối hay coi thường quỹ tiết-kiệm, không chịu dành dụm tiền bạc mà người ta luôn luôn thấy trong bọn người chẳng đòi làm gì hơn là làm thây ma nằm cong queo trong phòng mổ này. Đương giữa cuộc thăm viếng do Bác-sĩ Stout và ông Thư-ký Viện Đại-Học hướng dẫn – ông này lúc nào cũng xách kè-kè một cái ô đi theo – thì một ông phì-nộn nhất và quan-tâm đến vấn-đề giáo-dục nhất trong số các ông chủ ngân-hàng đứng gần bàn mổ của Clif Clawson, trịnh-trọng cắp sau lưng một chiếc mũ “Derby”, và Clif đã vứt một chiếc lá-lách vào trong chiếc mũ đó. Lá-lách là một vật ướt lầy-nhầy ghê-gớm mà lại nằm ngay trong lòng chiếc mũ mới toanh của mình thì có kinh tởm không, cho nên khi trông thấy nó ông chủ ngân-hàng vội quẳng ngay chiếc mũ xuống đất và kêu sinh-viên Đai-Học Winnenac là quỷ-xứ. Bác-sĩ Stout và ông thư-ký phải an-ủi ông ta mãi, hai người đem mũ đi lau chùi sạch sẽ và hứa sẽ trừng-trị nặng kẻ đã dám bỏ chiếc lá-lách vào mũ một ông chủ ngân-hàng như vậy. Bác-sĩ Stout cho gọi ngay Clif lên khiển trách, vì chàng là trưởng lớp đệ nhất. Chàng triệu-tập cả lớp lại và than van rằng bất cứ một sinh-viên nào của Winnemac cũng có thể bỏ một chiếc lá-lách vào mũ một ông chủ ngân-hàng và yêu-cầu thủ-phạm hãy can-đảm đứng lên nhận tội. Không may là Mục-sư Ira Hinkley ngồi giữa Martin và Angus Duer đã trông thấy Clif vứt chiếc lá lách ấy. Ira càu nhàu: - Thực là quá lắm! Tôi phải tố-cáo Clif mới được, tuy nó cùng ở một tổ-chức liên hội-nghị với tôi cũng mặc. Martin phản đối: - Thôi đi cha. Muốn nó bị đuổi à? - Nó đáng bị đuổi lắm! Angus Duer quay sang nhìn Ira rồi nói: 24 - Anh có vui lòng câm ngay cái miệng lại không? Thấy Ira chịu nhịn, Martin càng cảm-phục đồng thời càng ghét Angus hơn bao giờ hết. III Những lúc Martin chán-nản tự hỏi không hiểu vì lẽ gì chàng lại vào đây, nghe giáo-sư Robertshaw đọc đi đọc lại mấy câu vè “A fat-eared German...” học cái nghề lang-băm như anh chàng Pfaff Mập hay anh chàng Irving Watters, nhưng lúc đó Martin xoay ra tìm an-ủi ở những trò mà chàng vẫn cho là trụy lạc. Hiện tại mới chỉ là những trò trụy lạc nho-nhỏ, ít khi đi quá độ như sang thị-xã Zenith ở phụ-cận nhậu-nhẹt la-ve, hay tìm đón những nụ cười khóe mắt của mấy cô gái công-nhân xưởng máy đi diễu quanh mấy con đường vắng bẩn-thỉu, nhưng với Martin vốn tự hào về sức lực rồi-rào, vui vẻ vì đầu óc sáng-suốt, mấy trò này về sau đối với chàng có vẻ bi-thảm ghê-gớm lắm. Người bạn có thể tin cậy nhất Clif Clawson. Dù có uống bao nhiêu la-ve xấu đi nữa, Clif cũng không bao giờ say hơn lúc bình-thường mấy tý. Và Martin chịu ảnh-hưởng cái tính khinh-khoái hoạt-bát của Clif; còn Clif thì chịu ảnh-hưởng cái tính hay suy-tư lý-luận của Martin. Ngồi ở căn phòng cuối trong một quán rượu, bên một chiếc bàn nhớp-nháp những vòng tròn long-lanh nước la-ve ở chôn ly dính xuống, Clif khua ngón tay, nói líu cả lưỡi: - Anh Mart à, anh là người duy nhất hiểu tôi. Anh biết, tất cả những truyện rùm-beng, và tất cả những truyện bảo rằng mình cần phải có tính-cách thương-mại mà tôi nói trước mặt mấy thằng học gạo như Ira Hinkley, tôi chỉ nói đùa chơi thôi chứ tôi cũng kinh tởm óc thương-mại như anh vậy. Martin chuếnh-choáng hơi men đồng ý đáp: - Tất nhiên là như vậy, tôi biết chứ. Anh đúng như tôi. Trời, anh có biết không – mặt bị thịt như Irving Watters hay vô lương-tâm như Angus Duer, và cả cái lão Gottlieb nữa! Lý-tưởng sưu-tầm với khảo-cứu! Cóc khô! Cái gì mới có vẻ xác thực là chẳng bao giờ ông ấy chịu cả! Một thân một mình, bất chấp dư-luận, đứng chôn chân như một viên thuyền-trưởng trên cầu tầu, làm việc cả đêm, cái gì cũng tìm đến căn nguyên cội rễ mới thôi! - Đúng! Đúng! Tôi cũng nghĩ như vậy. Mình hãy uống thêm một ly nữa đi. Nào uống đi. Zenith nơi đầy quán rượu, ở cách Mohalis và Viện Đại-Học Winnemac mười lăm dặm; đi mất nửa giờ xe điện – loại xe điện cồng–kềnh chạy ầm-ầm từ thị-xã này sang thị-xã kia ấy mà – bọn sinh-viên trường thuốc thường kéo 25 nhau tới đó để phá phách. Nghe cậu nào nói “Đêm nay xuống phố” là một dịp để cho người ta nhấm nháy đưa mắt ra hiệu với nhau. Nhưng với Angus Duer thì Martin lại khám phá ra một Zenith mới lạ. Một hôm đương ăn cơm chiều, Duer bất chợt bảo, “Xuống phố nghe nhạc chơi với tôi đi”. Ở trong lớp Martin vẫn cho mình là giỏi, nhưng về văn-chương, hội-họa và âm-nhạc thì chàng mù tịt, chẳng biết gì cả. Anh chàng Duer mặt lúc nào cũng trắng bệch, vô tình-cảm, chỉ ham lợi thôi mà lại chịu lãng-phí thời-giờ đi nghe nhạc, Martin thấy là cả một truyện lạ. Chàng khám-phá ra rằng Duer rất hâm-mộ hai nhà soạn nhạc Bach và Beethoven, hình như người Đức thì phải, và ở trên đời có nhiều truyện chính chàng chưa hiểu hết. Ngồi trên xe điện, nét mặt của Duer bớt vẻ nghiêm-trang đi, chàng chợt nói: "Nay Mart này, nếu Trời sinh ra tôi không phải để mổ xẻ lục phủ ngũ tạng con người ta thì chắc chắn tôi đã là một nhạc-sĩ đại tài rồi! Đêm nay tôi sẽ dẫn anh lên thẳng tận Thiên-Đàng!" Martin thấy mình ở giữa một đám hỗn-độn những chiếc ghế nhỏ, những chiếc vòm hình cung rộng lớn thếp vàng chói-lọi, những bà trông rất lễ-phép nhưng ra vẻ chê-bai dè-bỉu, trên đùi để một tập chương-trình, ở bên dưới thì các nhạc-sĩ kém mơ-mộng làm bật lên những tiếng nghe chẳng vui tai chút nào và cuối cùng trình-bầy cái đẹp mà chàng không thể nào hiểu nổi, nó gợi cho chàng thấy những cảnh đồi cao rừng thẳm, rồi bất thình lình biến thành lải-nhải khó chịu mãi không dứt. Chàng phấn-khởi nghĩ thầm: "Rồi ta sẽ có hết – danh vọng của Max Gottlieb này – nghĩa là tài năng của ông ấy này – nhạc hay này – gái đẹp này – Hà! Ta sẽ làm những truyện vĩ-đại. Đi khắp thiên-hạ... Nhưng chẳng biết bản nhạc này kéo mãi đến bao giờ mới hết đây?” IV Một tuần sau buổi đi nghe hòa nhạc đó, Martin lại khám phá thêm điều mới lạ ở Madeline Fox. Madeline là một thiếu-nữ rất xinh đẹp, rất tươi tắn, dễ cảm xúc và cũng rất độc-đoán, Martin quen từ hồi còn học Văn-Khoa. Nàng vẫn tiếp tục học, nói là để lấy thêm chứng-chỉ về Anh-văn, nhưng thực ra là để khỏi phải về quê ở. Nàng tự cho mình là một tay chơi quần-vợt giỏi; nàng chơi mạnh, đột kích nhanh, nhưng thiếu phương-pháp. Nàng cũng tự tin mình sành sỏi về văn-chương; những người có cái diễm phúc được nàng tán thưởng là Hardy, Meredith Howells và Thackeray; đã năm năm rồi nàng chẳng đọc một tác 26 phẩm nào của mấy tác-giả này. Nàng vẫn thường trách Martin không biết thưởng thức Howells, hay mặc sơ-mi nỉ mỏng và không chịu đỡ nàng xuống xe điện như kiểu các nhân-vật trong tiểu-thuyết. Hồi còn ở Ban Văn-Khoa, hai người đã đi khiêu-vũ với nhau nhiều lần, nhưng Martin chỉ là một anh chàng nhẩy hăng hơn là đúng nhịp, cho nên các cô nhiều khi chẳng hiểu Martin định nhẩy điệu gì. Chàng thích cái dáng người cao, đẹp và khỏe mạnh của Madeline; chàng cho rằng với cái đức tính đầy tu dưỡng, đầy nghị-lực của nàng, dẫu sao nàng cũng có thể giúp ích được cho chàng. Năm nay chàng ít gặp nàng. Đêm khuya chàng thường nhớ tới nàng, cứ định tâm sẽ gọi điện-thoại nói chuyện với nàng song rồi lại không gọi. Nhưng mỗi khi thấy nghi ngờ ở khoa Y-học, thì chàng lại khao-khát cảm-tình của nàng; thế rồi một buổi chiều Xuân ngày Chủ-Nhật, chàng đến dẫn nàng đi dạo trên bờ sông Chaloosa. Từ dốc bờ sông, đồng cỏ trải dài ra thành những cánh đồi gợn sóng xanh mượt. Trong những ruộng lúa dài, những mục-trường gồ-ghề lởm-chởm, những cây sồi cằn-cỗi và những cây phong xanh rờn, phảng-phất có tinh thần mạo-hiểm của những người đi khai khẩn đất hoang, hai người giống như các thanh-niên quen sống ở đồng bằng, dắt nhau đi lang thang trên dốc bờ sông và bảo nhau sẽ đi chinh phục thiên-hạ. Chàng than thở: - Cái lũ sinh-viên trường thuốc “chó má” ấy... Madeline nói: - Ấy kìa anh Martin, anh tưởng hai tiếng chó má hay lắm đấy hẳn? Sự thực chàng cho hai tiếng ấy rất hay lúc nào cũng tiện dụng cho những người bận rộn công việc, nhưng chàng thấy nụ cười của nàng quyến-rũ. - Vâng thì... lũ sinh-viên khốn nạn, chúng nó có học khoa-học gì đâu, chúng nó chỉ học nghề buôn. Chúng nó chỉ cốt học cho đủ biết để làm tiền. Chúng nó chẳng có nói gì đến truyện cứu nhân độ thế, mà chỉ thấy nói đến “trường hợp không vớt vát được” – nghĩa là không vớt vát được một đồng một chữ nào! Mà có khi họ cũng chẳng cần cóc gì đến trường hợp không vớt vát được, nếu đó là một cuộc giải-phẫu có thể làm chấn-động y-giới, quảng-cáo cho họ! Anh ngán chúng nó quá chừng! Em thấy chúng nó có đứa nào lưu tâm đến những công cuộc khảo-cứu của Ehrich ở bên Đức không – à, phải, ngay đến công cuộc của Max Gottlieb hiện tại đương khảo-cứu tại đây chúng nó có lưu tâm đến hay không? Giáo sư Gottlieb vừa đập một đòn nặng vào thuyết điều-lý-tố “opsonin” của Wright? - Ông ấy đập thật ư anh? - Đập thật chứ còn gì nữa! Đập mạnh là đằng khác! Và em có thể tưởng 27 tượng là không có một sinh-viên y-khoa nào xúc-động về việc này không? Chắc không! Chúng nó bảo " Ồ, hẳn thế, khoa-học như thế này là khá lắm rồi; chả gì cũng giúp bác-sĩ điều-trị được bệnh-nhân, nói thế xong rồi chúng nó lại xoay sang bàn cãi với nhau xem ở một đô-thị lớn hay ở một tỉnh nhỏ, ở đâu chúng nó có thể kiếm được nhiều tiền hơn, hay nên gia-nhập Giáo-hội, giữ bộ điệu nghiêm-trang đúng đắn hơn. Em phải nghe Irving Watters nói mới hiểu được lòng dạ nó. Nó chỉ có mỗi một ý nghĩ là: kẻ thành công trong y-giới, có đông bệnh-nhân, có phải là đứa đã học thuộc bệnh-lý không? Ồ, không, kẻ thành công là kẻ kiếm được một phòng mạch ở góc đường Đông Bắc, gần trạm xe điện, có số điện-thoại mà bệnh-nhân dễ nhớ! Thực thế! Nó nói thế đấy! Anh thề là tốt nghiệp xong rồi anh sẽ làm y-sĩ dưới tầu thủy. Như vậy mình được đi khắp thế-giới, và ít ra cũng khỏi phải chạy lên chạy xuống khắp từng trên từng dưới tầu để lôi kéo bệnh-nhân, cạnh tranh với một y-sĩ nào đó trên một chiếc tầu khác! - Ồ, em hiểu; thực đến sợ cái lối làm việc mà chẳng có lý tưởng gì cả. Phần nhiều sinh-viên tốt-nghiệp Anh văn cũng chỉ nghĩ đến truyện đi dạy để kiếm tiền, chứ không nghĩ rằng học cho rộng kiến-văn như em đâu. Thấy nàng có vẻ muốn tỏ ra mình cũng cao thượng như ai, Martin đâm ra lúng-túng, và chàng càng lúng-túng hơn khi nghe nàng thỏ-thẻ thêm: - Nhưng dẫu sao người ta cũng cần phải thực-tế một chút, có phải không anh? Martin, anh thử nghĩ xem một bác-sĩ thành công có nhiều tiền hơn – ấy không, em định nói có nhiều quyền-thế và địa-vị xã-hội hơn mấy khoa-học-gia chỉ chúi đầu làm việc mà chẳng được lợi lộc gì, chẳng hiểu trên đời xảy ra những truyện gì. Anh cứ xem một bác-sĩ giải-phẫu như bác-sĩ Loizeau đi một chiếc xe hơi lộng lẫy đến nhà thương, có tài-xế mặc chế-phục lái, và tất cả bệnh-nhân đều tôn kính, còn một đằng thì bác-sĩ Gottlieb nhà anh hôm nọ có người chỉ cho em coi, ông ấy mặc một bộ quần áo tàng hết chỗ nói, còn tóc thì em tin chắc là đã đến ngày ông ấy phải đi cho người ta hớt từ lâu rồi mới phải! Martin tức quá mắng nhiếc nàng đủ điều, nói bóng nói gió lung-tung, y như một anh cuồng tín nghe người ta nói chạm đến tôn-giáo mình. Hai người ngồi trên một cái hàng rào cũ, cong queo, dưới rặng cây mã-đề nắng chói, đầy tiếng côn-trùng đầu Xuân kêu rỉ-rả. Nghe chàng tuôn ra một tràng dài lý sự chấp nê như vậy, nàng mất cả đức độ dịu-dàng mềm mỏng, nàng thét lên: - Vâng, bây giờ em hiểu rồi, em hiểu rồi, (nàng không nói rõ là hiểu cái gì). Ồ, quả thực anh là người có tâm huyết quý hóa đáng khen, và có... có lòng thanh liêm, chính trực quý hóa đáng khen lắm. - Có thực không? Em thấy như vậy hả? 28 - Thực mà! Em thấy như vậy mà, em dám chắc là anh sẽ có một tương lai rực-rỡ. Thấy anh không có óc con buôn như người khác, em thích vô cùng. Chúng nó muốn nói gì thì nói anh đừng thèm để ý tới! Chàng để ý thấy Madeline không những là một người trí óc thông minh, đĩnh đạt, hiếm có, mà còn là một thiếu nữ đẹp mê hồn – nước da tươi mát, ánh mắt dịu hiền, vóc dáng đều đặn dễ thương. Khi hai người quay về, chàng nhận thấy nàng đúng là người bạn lý tưởng của chàng trên đường đời. Chàng sẽ dẫn giắt nàng, để nàng biết phân-biệt giữa những “lý tưởng” mơ-hồ với những sự chính xác của khoa-học. Hai người dừng bước trên dốc bờ sông, nhìn xuống dòng Chaloosa vẩn bùn, một dòng nước ở Miền Tây về mùa Xuân chẩy xiết, cuốn theo những cành cây bồng-bềnh trôi nổi. Chàng khao khát tình nàng, chàng hối tiếc những truyện phiêu-lưu tình cờ của một sinh-viên và nhất quyết sẽ trở thành một thanh-niên trong sạch và cần-mẫn để “xứng đáng với nàng”. Chàng buồn rầu than: “Ồ, Madeline, em đáng yêu vô cùng!” Nàng e-lệ nhìn chàng. Chàng nắm lấy tay nàng; và trong một cơn bồng-bột mãnh-liệt, chàng liều hôn nàng một cái, nhưng vì quá vụng về nên chỉ hôn phớt được ở một bên cằm, còn nàng thì chống-cự và van xin: “Ồ, đừng, anh!” Trong khi bước thủng-thẳng về Mohalis, chàng nàng đều lờ đi như đã không có truyện này xẩy ra, nhưng giọng nói của hai người đều dịu-dàng âu-yếm; nàng không còn thấy sốt-ruột khi nghe chàng bới móc giáo-sư Robertshaw giảng bài như cái máy nói; và chàng cũng chịu khó nghe nàng phê-bình bác-sĩ Norman Brumfit, giáo-sư Anh văn của nàng tuy ăn nói hoạt bác vui vẻ nhưng tài học tầm-thương nông cạn. Về tới nhà trọ, nàng thở dài nói: - Ước gì em có thể mời anh vào chơi, nhưng đã gần đến giờ ăn và... hôm nào anh lại thăm em nhớ! - Cuộc với em là anh sẽ đến cho mà xem. Martin đáp, dùng đúng câu thông-dụng trong ngôn-ngữ yêu đương của sinh-viên Đại-học Winnemac: “Cuộc với em là anh sẽ đến cho mà xem”. Chàng rảo bước về nhà, lòng tràn ngập yêu đương. Đêm nằm trên chiếc giường nhỏ hẹp, chàng trông thấy đôi mắt nàng lúc thì ngạo-mạn, lúc thì trách móc, lúc thì nồng nàn đầy tin tưởng ở chàng. “Mình yêu nàng rồi! Mình yêu nàng thực rồi! Mình phải gọi điện-thoại nói chuyện với nàng mới được – Nhưng không biết mình có dám gọi sớm vào lúc tám giờ sáng mai không?" Nhưng tám giờ sáng hôm sau, chàng mãi học về bộ-phận phân-xuất nước mắt qua đến nỗi quên bẵng cả đôi mắt thiếu nữ đi, và trước khi vùi đầu học như điên để kịp kỳ thi cuối năm, chàng chỉ gặp lại nàng có một lần, công khai 29 ở ngay cửa nhà nàng trọ, giữa đám đông những nữ sinh-viên, bụng đeo dây lưng đỏ, miệng nhai đầy bánh kẹo. V Trong những ngày thi cử, tình thân-mến giữa các hội-viên Digamma Pi đã được bộc-lộ hết sức rõ rệt đối với những thí-sinh muốn trau giồi học-vấn một cách khẩn-cấp. Không biết bao nhiêu thế-hệ Digams đã thu-thập các bài thi và cất giữ trong cuốn “Khảo-Thí” thiêng liêng của Hội; các bậc anh-tài về tiểu-tiết đã dụng công nghiên-cứu cuốn sách từ đầu đến cuối, và lấy bút chì đỏ đánh dấu những vấn-đề các giáo-sư thường đem ra hỏi trong các niên-khóa. Các sinh-viên năm thứ nhất chen nhau ngồi thành một vòng tròn xung quanh Ira Hinkley trong phòng họp của Hội Digamma Pi, để nghe Mục-sư này đọc những câu hỏi mà thí sinh dễ bị “truy" nhất. Các câu vặn vẹo người, vò đầu, bứt tóc, gãi cằm, cắn ngón tay, vỗ thái dương, cố tìm ra câu trả lời, trước khi Angus Duer phải đọc ở trong sách ra cho họ biết. Trong lúc họ phải học hành cực nhọc như vậy, họ lại còn phải khổ công giúp cho Anh Chàng Pfaff Mập nữa. Nguyên vì giữa năm học môn giải-phẫu, Anh Chàng Mập đã thi trượt, nên bây giờ anh ta phải thi lại, có đậu được môn đó rồi mới được dự kỳ thi cuối năm. Trong Hội, Anh Chàng Pfaff Mập được nhiều người thương mến; Pfaff Mập hiền lành, Pfaff Mập tin đạo, Pfaff Mập ngu xuẩn, tuy nhiên họ vừa bực mình, vừa thương mến Pfaff Mập như đối với một chiếc xe hơi mua cũ hay một con chó lông bám đầy bùn. Tất cả mọi người đều xúm lại giúp Pfaff Mập, cố nâng đỡ chàng vượt thoát kỳ thi như thoát một cửa ải vậy. Họ thở ỳ-ạch, họ cằn nhằn, họ ta thán, và Pfaff Mập cũng thở ỳ-ạch, cũng cằn nhằn, ta thán với họ. Đêm hôm trước ngày thi đặc biệt của chàng họ bắt chàng thức tới hai giờ sáng, tiếp sức cho chàng nào là khăn mặt ướt, nào là cà-phê đặc, nào là cầu Trời khấn Phật, và cả báng-bổ văng tục ra nữa. Họ đọc đi đọc lại cho chàng nghe các bản liệt-kê cơ-thể-học, hết bản này đến bản kia; họ giơ nắm tay dọa nạt la thét vào bộ mặt tròn vành vạnh, đỏ ửng và buồn-thỉu buồn-thiu của chàng: “Con khỉ, có nhớ rằng cái nhị tiêm đầu biện GIỐNG Y NHƯ cái tăng mạo biện ở tim chứ KHÔNG PHẢI cái kia không?” Họ chạy khắp phòng, hai tay giơ lên trời, rên rỉ: “Nó chẳng bao giờ nhớ được cái gì với cái gì cả hay sao hở Trời?” Rồi họ lại quay lại, giả vờ làm ra bộ trấn tĩnh, dỗ dành: “Này Mập này, đừng có lo lắng vô ích. Hãy điềm tĩnh lại, nghe tôi nói câu này nhé, 30 lẳng lặng mà nghe nhớ (giọng ngọt ngào) cố nhớ lấy MỘT câu này!” Rồi họ cẩn thận dắt anh chàng lên giường ngủ. Trong bụng anh chàng chứa không biết bao nhiêu là chữ nghĩa, sợ khẽ va vào đâu là vung vãi ra mất hết. Bẩy giờ sáng hôm sau ngủ dậy, hai mắt đỏ ngầu, đôi môi run bần-bật, chàng đã quên hết tất cả những điều đã học được hôm trước. Hội-Trưởng Hội Digamma Pi tuyên-bố: “Chẳng còn cách nào hơn được nữa. Chỉ còn mỗi một cách là cho nó một “cuộn phim” để cho nó quay, may rủi nhờ Trời vậy chứ biết làm sao bây giờ! Tôi nghĩ thế nên hôm qua tôi đã làm sẵn cho nó một cuộn. "Phim số dách” khá đầy đủ để cho nó thoát qua kỳ nầy”. Ngay đến Mục-sư Ira Hinkley vì đã chứng kiến cảnh kinh-hoàng đêm hôm trước, cũng phải nhăn mặt làm lơ đi như không biết âm mưu tội lỗi ấy. Nhưng chính Anh Chàng Mập phản-đối: “Chua cha, tôi không thích gian lận đâu. Tôi nghĩ một thằng không đủ sức thi đậu thì không có quyền hành nghề y-sĩ. Cha tôi bảo tôi như vậy.” Mọi người lại đổ thêm cà-phê cho chàng và theo lời khuyên của Clif Clawson, tuy không biết chắc có hiệu-quả không, nhưng Clif muốn thí-nghiệm, họ cho chàng uống một viên potassium bromide. Anh Hội-Trưởng Digamna nắm chặt lấy Anh Chàng Mập và bảo: - Tôi bỏ cuộn phim này vào túi anh trong đây này, ở túi trên ngực này, sau chiếc khăn tay đấy. Anh Chàng Mập nhăn nhó: - Tôi không dùng tới đâu. Trượt thì thôi, tôi không cần. - Ừ được, nhưng cứ để đấy. Biết đâu anh lại chẳng thu được một vài đoạn ở trong cuốn phim qua hai lá phổi của anh, vì có Trời biết... Nói đến đây, anh Hội-Trưởng đưa tay lên vò đầu bứt tóc, nhớ đến tất cả cái thảm-trạng đêm hôm trước cả bọn phải thức khuya, uống không biết bao nhiêu là chất nước đen đặc và ra công gắng sức một cách tuyệt vọng mà không đi tới đâu, anh ta cao giọng nói tiếp: - ... có Trời biết anh không thể nào thu được qua đầu óc anh! Rồi họ chải quần áo cho Anh Chàng Mập, kéo anh chàng đứng thẳng người lên, đẩy anh chàng ra cửa, đến Khu Giải-phẫu. Họ trông theo anh chàng đi như một trái ba-lông ngất-ngư trên hai cẳng chân, một khúc xúc-xích bọc trong chiếc quần vải xọc. Clif Clawson ngơ ngẩn nói: - Có thể nó sẽ không gian lận không nhỉ? 31 Anh Hội-trưởng nói, giọng buồn buồn: - Nếu vậy, có lẽ mình nên lên thu xếp hòm xiểng hộ nó đi. Và cái Hội cổ-lỗ-sĩ này chẳng còn bao giờ có được một con dê như Anh Chàng Mập này nữa. Họ thấy Anh Chàng Mập đứng lại, rút khăn tay ra hỷ mũi một cách thiểu não – và khám phá thấy một tờ giấy dài và mỏng. Họ thấy anh chàng cau có nhìn tờ giấy, vân vê trên tay, rồi đọc, rồi nhét vào túi như cũ, và tiếp tục đi vẻ cương-quyết hơn. Họ cầm tay nhau nhẩy-nhót lung-tung ở trong phòng khách của Hội, đoan chắc với nhau "Nó sẽ quay phim cho mà xem – thôi thế cũng xong – một là nó thoát, hai là đi đong!” Và Anh Chàng Mập đậu kỳ đó. VI Các Hội viên Digamma Pi đều khó chịu về những điều nghi-ngờ thắc mắc của Martin hơn là về cái tính ngu ngốc của Pfaff Mập, cái giọng khàn-khàn vịt đực của Clif Clawson, cái thói hay quấy-rầy mọi người của Angus Duer, hoặc cái tính hay quở mắng mọi người của Mục-sư Ira Hinkley. Trong lúc tất cả phải lo học thi mệt mỏi thì Martin vẫn cứ làm cho mọi người bực mình, nhất là về “vấn-đề đặt ra những danh-từ y-học nghe cho thật kêu, cũng như bầy ra những đồ khử trùng tốt đẹp nhất... để loè bệnh-nhân hơn là để dùng thật sự”. Tất cả bọn Digam đồng thanh đáp: - Nầy, nếu anh không thích cái lối học y-khoa của chúng tôi, nếu có chết chúng tôi cũng vui lòng quyên một số tiền để tiễn đưa anh về tận cái làng Elk Mills của anh. Về đó anh khỏi bị bực mình vì cái bọn con buôn ít học chúng tôi. Nói cho mà biết! Chúng tôi không bao giờ dạy anh cách học hành ra làm sao. Vậy không hiểu anh moi ở đâu ra cái ý nghĩ dạy chúng tôi cách học hành kia chứ? Ồ, thôi, xin anh hãy đậy cái nút hũ lại cho chúng tôi nhờ! Rồi Angus Duer chêm vào một câu nghe thì ngọt sớt nhưng cũng chua đáo để: - Vâng thì chúng tôi xin nhận chúng tôi chỉ là một lũ thợ mộc quèn, còn anh thì là một nhà khảo-kíu tài ba. Nhưng cũng có nhiều thứ có lẽ anh sẽ cần phải biết đến sau khi học xong khoa-học. Tôi thử hỏi anh đã biết gì về kiến-trúc? Động-từ Pháp văn của anh học đến đâu rồi? Anh đã đọc được mấy cuốn tiểu-thuyết rồi? Anh có biết ai là đương kim thủ-tướng nước Áo-Hung không? 32 Martin cãi lại: - Tôi không có khoe khoang là hiểu biết gì cả... trừ ra một việc là tôi biết rõ giá-trị một người như Giáo-sư Max Gottlieb như thế nào. Chỉ có ông ấy là biết phương-pháp chính-xác, còn tất cả những giáo-sư cù-lần khác chỉ là hạng lang băm. Anh tưởng Gottlieb không tin đạo hay sao, anh Hinkley? Hứ, chỉ một sự có mặt của ông ấy trong phòng thí-nghiệm cũng đã là một bài kinh cầu nguyện rồi. Nhưng đồ ngu các anh đâu có hiểu ý nghĩa của sự có mặt của một người như ông ấy ở đây, đưa ra những quan-niệm mới về cuộc sống. Các anh đâu có... Clif Clawson vừa há hốc mồm ra ngáp vừa ngắt lời Martin: “Cầu nguyện trong phòng thí-nghiệm à! Tôi dám cuộc với anh là trong giờ vi-trùng-học nếu Ba Gottlieb bắt được tôi cầu nguyện trong lúc Ba làm thí-nghiệm thì tôi sẽ bị lột quần ra ngay lập tức! Martin thét lên: - Đồ mất dạy! Tôi nói cho mà biết, các anh chỉ là cái hạng học thuốc để rồi sau này chẩn mạch đoán mò mà thôi, còn một người như... Ấy, họ cứ cãi lý với nhau như vậy hàng giờ đồng hồ, sau khi học gạo vã mồ hôi ra. Khi cả bọn đã lăn ra ngủ, khi cái phòng đã biến ra thành một đống quần áo vứt bừa-bãi với một ổ thanh-niên mệt mỏi ngáy như sấm trên dẫy giường sắt, Martin ngồi một mình trước cái bàn học dài bằng gỗ thông nứt nẻ. Angus Duer lẻn vào hỏi: “Này nghe đây, con! Tất cả bọn chúng tao đã chán ngấy lên vì những lời chê bai chỉ-trích của mày rồi. Nếu mày cho rằng y-khoa, học theo cái lối cùa chúng tao là hư-hỏng, thối nát, và nếu mày thật-thà lương-thiện ghê-gớm đến như vậy thì tại sao mày không cút ra khỏi đây cho rồi?" Nói xong Duer bỏ đi, để mặc Martin ngồi chết lặng người đi: "Thằng nói thế mà đúng. Một là mình câm cái miệng mình lại, hai là mình cút khỏi nơi đây. Có thực mình phải làm như vậy không? Sự thực mình muốn cái gì? Mình phải làm gì bây giờ?” VII Bản tính siêng-năng và tôn trọng những hành vi đứng đắn, nên Angus Duer rất khó chịu về Clif luôn miệng hát những bài tục-tĩu, nói chuyện om-sòm, thích vứt đủ thứ vào đĩa súp của người khác, và thảm hại nhất là Clif không thể nào giữ cho hai bàn tay được sạch sẽ. Trong thời gian thi cử khẩn trương, 33 tuy bề ngoài có vẻ bình tĩnh vững tâm, nhưng thực ra Angus Duer cũng bồn chồn nóng nẩy như Martin; và một buổi chiều đương bữa ăn, thấy Clif rống lên hát, Duer choảng ngay cho một câu: - Anh có thể bớt bô-bô cái miệng cho nhỏ một chút không? Clif đáp: - Tôi thích bô-bô cái đếch gì cũng mặc tôi! Thế là sinh ra mối ác cảm giữa hai người. Sau đó Clif vẫn làm ồn-ào đến nỗi chính chàng ta cũng thấy mệt về tiếng ồn-ào của mình. Chàng làm ồn-ào trong phòng khách, chàng làm ồn-ào trong phòng tắm, và chàng còn hy-sinh cả giấc ngủ, cố thức để giả vờ ngáy om-sòm lên. Duer tuy im lặng chúi đầu vào sách học, nhưng chàng chẳng nhút nhát chút nào, chàng nhất định đương đầu với Clif, nghiêm-nghị như một ông chánh án nhìn Clif, làm Clif đâm hoảng. Clif phàn-nàn riêng với Martin: “Đồ chó chết, nó làm như mình là con sâu cái kiến. Nhất định một là nó, hai là tôi phải ra khỏi Hội Digam này, nhưng chắc không phải là tôi!” Rồi Clif làm ầm ỹ lên về truyện này, nhưng rốt cuộc chính chàng là người phải ra Hội. Chàng bảo hội-viên Digam là một "lũ đồ tồi, không bao giờ chơi lấy được một ván xì-phé cho đúng đắn” nhưng chàng ra Hội để trốn khỏi cái nhìn nghiêm khắc của Angus Duer. Martin cũng xin ra khỏi hội cùng với Clif và dự định sang mùa Thu sẽ đến ở chung với Clif. Tính ăn nói om-sòm của Clif bây giờ làm cho Martin khó chịu cũng như trước kia đã làm cho Duer bực mình. Clif nói luôn miệng, không nói truyện tầm bậy, thì lại nói những câu như: "Cậu mua đôi giầy nầy bao nhiêu thế – chắc cậu tưởng cậu là Vanderbilt hẳn?" hoặc "Tớ gặp cậu đi với em Madeline – cậu tính mần ăn gì đó?" Nhưng Martin ghét mấy cậu hội-viên Digamma Pi lịch-sự, lễ phép, xinh trai, trên mặt các cậu lúc nào cũng thấy hiện ra nào là đơn thuốc, đồ khử trùng trắng bong bóng láng, nào là xe hơi kín mít sang trọng, nào là biển hiệu phòng mạch bằng kính dầy kẻ chữ vàng chói. Chàng ưa cảnh cô quạnh man dại hơn, vì năm tới chàng phải làm việc với Giáo-sư Max Gottlieb, nên không thể để cho họ quấy rầy được. Hè năm ấy, chàng làm việc với một bọn thợ đi mắc dây điện-thoại ở Montana. Công việc của chàng là trèo lên các cột điện-thoại, chân đeo móc sắt bám vào những cây thông vỏ mềm rêu mốc như bạc, kéo sợi dây thép lên, buộc vào những chiếc bình cách-điện bằng thủy tinh, rồi tụt xuống và sang một cột khác. Mỗi ngày có lẽ họ mắc được độ bẩy tám cây số dây như vậy; đêm đến họ đi xe tới ngủ ở mấy tỉnh nhỏ, nhà gỗ ọp ẹp. Họ ngủ rất giản dị, chỉ tụt giầy ra, 34 nằm cuộn tròn trong một cái chăn dạ. Martin thì mặc quần áo thợ điện và sơ-mi bằng nỉ. Trông chàng đúng là một dân làm trại. Suốt ngày leo trèo, nên chàng thở không khí khoẻ khoắn, mắt không còn vương nét buồn, rồi một hôm chàng khám phá ra một điều huyền diệu. Chàng đương ở trên một chiếc cột, bất chợt, không vì một lý do nào rõ rệt, mắt chàng bỗng mở ra, tựa hồ như người vừa ngủ dậy và thấy cánh đồng bát ngát, ánh nắng soi dịu lên những ngọn cỏ mọc lởm-chởm, những ngọn lúa chín vàng, lên những con ngựa già, mấy con ngựa hiền lành, dễ thương, và lên những bộ mặt đỏ ửng vui tươi của những người thợ bạn; chàng thấy sơn-ca thì ca ríu-rít, sáo thì bóng mượt bên bờ ao nhỏ, và dưới ánh mặt trời linh hoạt, vạn vật thẩy đều linh hoạt. Giả thử những kẻ như Angus Duer, Irving Watters là những con buôn trắng trợn, thì cần cóc gì? "Mình ở đây kia mà!” Chàng bật lên cười hỷ-hả. Bọn thợ mắc dây điện-thoại đều khỏe mạnh và giản dị như ngọn gió tây. Họ không khoe khoang tự phụ, tuy xử dụng khí cụ về điện, song họ không như mấy ông sinh-viên trường thuốc, học một mớ lộn-xộn những danh-từ khoa-học và không có phô trương với nông-dân rằng họ là khoa-học-gia. Họ cười một cách dễ dàng và mãn nguyện với số phận họ. Sống chung với họ, Martin cũng lấy làm hài lòng, quên mình là cao quý. Đối với họ, chàng thấy có cảm tình mà chàng chưa từng thấy đối với bất cứ một người nào ở Đại-học, trừ ra đối với Max Gottlieb. Trong bọc, chàng đem theo có mỗi một cuốn sách, cuốn “Miễn Dịch Học” của Gottlieb, chàng thường đọc ít nhất là nửa trang rồi mới chúi mũi vào học công thức hóa-học. Thỉnh thoảng, Chủ-Nhật hay những ngày mưa, chàng cũng đem sách ấy ra đọc, và nhớ đến phòng thí-nghiệm. Thỉnh thoảng chàng cũng nghĩ tới Madeline Fox, và biết chắc rằng xa nàng, chàng bị lẻ loi hết sức. Nhưng hết tuần này tới tuần kia qua đi, lặng lẽ, vô tư lự, rồi một hôm bừng mắt dậy trong một chuồng ngựa, ngửi mùi cỏ thơm và hơi ngựa, nghe tiếng sơn ca hót ngoài đồng – cánh đồng thường ăn sâu vào tận giữa những hạng tỉnh nghèo nàn bé nhỏ – chàng chẳng còn nghĩ gì khác, ngoài công việc phải làm ngày hôm đó, quãng đường phải đi ngày hôm đó, tiến về hướng tây, hướng mặt trời lặn. Cứ như vậy, bọn thợ đi lung tung qua miền lúa mì xứ Montana, tất cả bao nhiêu ruộng lúa mì đều chạy dài thành một cánh đồng chói lọi, qua vùng chăn nuôi gia súc và vùng sơn-ngải hoang-vu hẻo-lánh; và một hôm chăm chú ngắm một đám mây treo leo bất động, Martin bất chợt nhận thấy trước mắt mình là một dẫy núi... Rồi chàng đáp xe lửa về, chàng đã quên bọn thợ mắc dây điện-thoại, và chỉ còn nghĩ tới Madeline Fox, Clif Clawson, Angus Duer và Max Gottlieb. 35 CHƯƠNG: 4 GIÁO SƯ MAX GOTTLIEB sắp "ám sát" một con chuột bạch bằng vi-khuẩn bịnh thán-thư-nhiệt, làm cả lớp vi-trùng-học phải hồi hộp. Họ đã học hình trạng các loai vi-khuẩn, họ đã được xử dụng những hộp “Petri" và những chiếc kim "loop" đầu có khoen bằng bạch kim, họ đã hãnh diện cấy vi-khuẩn trên những khoanh khoai tây, giống vi-khuẩn Bacillus prodigiosus màu đỏ vô hại, và bây giờ họ học tới những vi-khuẩn sinh ra bệnh và sự truyền bịnh vào một sinh-vật. Hai con chuột bạch đương kêu chít-chít trong một cái bình chỉ trong hai ngày sẽ chết cứng ra. Lòng Martin hồi-hộp và không khỏi không lo sợ. Chàng tự cười mình lo sợ vô lý. Sẵn lòng khinh thường của người đã quen với nghề nghiệp, chàng nhớ tới thái-độ buồn cười của những khách không ở trong nghề tới thăm phòng thí-nghiệm, tưởng chừng như lũ vi-trùng khát máu có thể nhẩy từ mấy ống ly-tâm huyền-bí, mấy chiếc ghế, hay ở ngay trong không-khí, bay tới bám vào người họ. Nhưng chàng biết chắc là trong cái ống thí-nghiệm, miệng nút bằng một miếng bông gòn, đặt giữa cái chậu đựng dụng cụ và cái bình bichloride, trên bàn của giảng-sư có chứa đến hàng triệu vi-khuẩn bịnh thán-thư-nhiệt giết người. Cả lớp đứng xa-xa, nhìn một cách kính-cẩn. Với tài đặc-biệt về kỹ-thuật, thành-thạo, nhanh mà chắc, nó làm tăng giá-trị những cử động nhỏ nhặt nhất của hai bàn tay, bác-sĩ Gottlieb cạo lông bụng một con chuột bạch kẹp trong tay một viên phụ-tá, ông lấy một chiếc bàn chải nhỏ khẽ sát xà-bông vào bụng nó, rồi cạo và bôi i-ốt-đin lên. (Vừa làm việc, bác-sĩ Gottlieb vừa nhớ tới lòng háo hức của bọn sinh-viên đầu tiên của ông, hồi ông vừa đi làm việc với Koch và Pasteur về, và trong con người còn mát lạnh những ly la-ve cao lớn và Korpsbruder và những lý-luận tàn bạo. Những ngày tươi đẹp mê ly làm sao! Thuở vàng son ôi còn đâu! Những giờ diễn giảng đầu tiên của ông ở Hoa-kỳ, tại Viện Đại-Học Queen City đã làm cho cả lớp chấn động vì những phát-minh phi-thường về vi-trùng học. Họ kính cẩn quây lấy ông, khao-khát được theo học ông. Lớp học bây giờ thực là một bon du đãng, ông đưa mắt nhìn – Pfaff Mập ngồi hàng đầu, mặt thộn ra như quả đấm cửa; bọn nữ-sinh-viên thì xúc-động, sợ hãi; chỉ có Martin và Angus Duer là thông-minh ra mặt. Ông cố moi trong trí nhớ một cảnh hoàng hôn xanh lợt ở Munich, một chiếc cầu và một thiếu-nữ đứng chờ đợi, và tiếng nhạc trong không-gian...) Ông nhúng tay vào bình nước Bichloride khuấy lên một cái thật nhanh, ngón tay thấp xuống, như ngón tay của một nhạc sĩ dương cầm đưa trên phím, ông nhặt trong chậu đựng dụng cụ một chiếc kim chích dưới da và giơ cao 36 ống thí-nghiệm lên, giọng uể-oải pha mẫu-âm Đức: "Các cậu, đây là một giống vi-khuẩn Bacillus anthracis, vi khuẩn than cấy được hai mươi bốn tiếng đồng hồ. Các cậu chú ý, tôi chắc các cậu đã chú ý thấy ở đáy ống thủy tinh có bông gòn để giữ cho ống khỏi vỡ. Tôi không thể khuyên các cậu đánh vỡ những ống đựng vi khuẩn thán-thư-nhiệt rồi lại mó tay vào thuốc cấy, vì lẽ rất giản-dị là các cậu có thể mắc bịnh thán-thư-nhiệt. Cả lớp rùng mình. Gottlieb lấy ngón tay út hất mạnh cái nút bông gòn ra, khéo đến nỗi những sinh-viên y-khoa từ trước vẫn kêu, "Môn vi-trùng-học vô dụng; công việc trong phòng thí-nghiệm, tất cả chỉ cần học có cách thử nước tiểu và thử máu,” bây giờ cũng kính phục ông như đã kính phục một người có tài làm trò bằng mấy lá bài tây hay có tài cắt bỏ khúc ruột dư trong có bẩy phút đồng hồ. Ông vừa hơ vừa lắc miệng cái ống thủy tinh trên ngọn đèn Bunsen, vừa nói, giọng đều đều, "Mỗi lần mở nút ống thủy tinh ra, các cậu phải nhớ đốt miệng ống. Phải coi đó là một quy-tắc. Đó là một điều cần-thiết về kỹ-thuật, là khởi-thủy của mọi khoa-học đấy, các cậu ạ. Đó cũng là điều người ta ít biết đến, nhất là trong khoa-học." Sinh-viên bắt đầu thấy sốt ruột. Tại sao ông lại không làm ngay cho họ thấy ngay cái phút hào hứng nhất, ghê người nhất là chích con chuột bạch ấy? (Trong lúc đó Max Gottlieb liếc nhìn con chuột bạch thứ hai đương bị giam trong bình và nghỉ ngơi, "Tội nghiệp con vật vô tội đáng thương! Tại sao mình lại giết nó để dạy Dummkopfe? Giá thí-nghiệm vào cái thằng Mập kia có hơn không.”) Ông đút ống chích vào ống thủy tinh, lấy ngón tay chỏ kéo cái biện lên rất khéo, và giảng: “Lấy một nửa cc chất thuốc cấy. Có hai hạng bác-sĩ y-khoa – một hạng đối với họ có nghĩa là cubic centimeter, là phân khối; và một hạng đối với họ có nghĩa là compound cathartic, thuốc tẩy hóa-hợp. Hạng sau này thì phát tài hơn." (Nhưng cái mà không ai có thể bắt chước được là cái giọng của ông: cái giọng kéo dài nhẹ nhàng, cái giọng chua chát dễ thương tiếng xì-xì của những chữ S, những chữ D ngọng ngịu và những chữ T có vẻ thách thức). Viên phụ-tá nắm chặt con chuột, Gottlieb véo da bụng nó lên và đâm nhanh mũi kim chích dưới da vào. Con chuột khẽ dẫy một cái, kêu chí một tiếng, làm mấy nữ-sinh-viên rùng mình. Gottlieb ngón tay kinh-nghiệm đã nhiều lần nên biết ngay khi nào thì mũi tiêm vào tới màng bụng, ông lại ấn cái biện xuống sát đáy ống chích và điềm nhiên nói: "Thế là chẳng bao lâu nữa con 37 vật đáng thương này sẽ chết như Moses." Sinh-viên người nọ nhìn người kia, bứt rứt. Ông nói tiếp, "Các cậu, chắc thế nào cũng có cậu sẽ cho rằng việc tôi làm đây vô hại, có cậu thì sẽ nghĩ giống như Bernard Shaw cho rằng tôi là một kẻ nhẫn tâm, vì tôi thản nhiên sát sinh mà không gớm tay, và có cậu chẳng có ý nghĩ gì cả. Quan niệm khác biệt nhau về nhân sinh này là điều làm cho đời sống thú vị.” Trong lúc viên phụ-tá buộc một miếng sắt tây tròn mỏng vào tai con chuột để đánh dấu, xong rồi lại bỏ nó vào bình, thì Gottlieb ghi trong cuốn sổ tay nào là sức nặng của con chuột, nào là ngày giờ chích, nào là thời gian cấy vi-khuẩn bao lâu. Rồi ông biên lại những điều này lên bảng đen, nét chữ trông rất hách; vừa viết vừa khẽ nói: “Các cậu nên nhớ rằng điều quan-trọng nhất trong đời người không phải là cuộc sống mà là những điều người ta suy tư về cuộc sống, và điều quan trọng nhất trong sự thí-nghiệm không phải là việc làm cuộc thí-nghiệm, mà là việc ghi chép cho thật đúng từng phân-lượng – bằng bút mực rõ ràng hẳn hoi. Tôi nghe nói có rất nhiều người cho rằng họ có thể ghi nhớ những điều cần ghi nhớ ấy trong đầu óc họ, thay vì bằng giấy trắng mực đen. Nhưng tôi thường vui mừng nhận thấy rằng những người như vậy lại không có đầu óc để mà ghi nhớ những điều cần ghi chép ấy. Như vậy rất tốt, vì như vậy thế gian sẽ không bao giờ thấy kết quả công việc họ làm và khoa-học khỏi bị họ làm trở ngại. Bây giờ tôi chích con chuột thứ hai, sau đó lớp học giải tán. Và tôi rất lấy làm sung sướng nếu từ nay cho tới buổi học sau tại phòng thí-nghiệm này, các cậu sẽ đọc cuốn “Marius the Epicurean” 1 của Pater, để mà tìm lấy nguồn bình tĩnh thanh thản, nó là cái bí-quyết làm cho người ta có tài khéo léo thành thạo trong phòng thí-nghiệm." II Trong khi cả lớp ồ-ạt đi xuống hành-lang, Angus Duer nói với một đồng bạn Digam, "Gottlieb là một con ngựa già, nai lưng ra mà làm việc ở trong phòng thí-nghiệm, lão chẳng có chút óc tưởng tượng nào, lão cứ chôn vùi thân lão ở đây, không chịu ra tranh đấu với đời. Nhưng lão khéo chân khéo tay thực. Kỹ-thuật giỏi kinh người. Lão có thể làm một tay giải-phẫu thượng đẳng kiếm năm chục ngàn đôn một năm. Còn như thế này, tôi chắc lão chỉ có thể kiếm được bốn ngàn đồng là cùng, không thể hơn lấy một xu!” Ira Hinkley lùi-lũi đi một mình, vẻ lo-âu. Anh chàng Mục-sư trông dáng 1 Marius, môn-đồ cùa học-thuyết Epicurus, triết-học-gia Cổ-Hy-Lap, chủ-trương mục-đích tối đại của nhân-sinh là khoái-lạc. 38 người to lớn, miệng hay nói lầm rầm một mình ấy thế mà lại là người rất tốt. Bất cứ các giáo-sư y-khoa dạy điều gì, cho dẫu là những điều đó có mâu thuẫn lẫn nhau đi nữa, chàng đều kính-cẩn nghe hết, chấp nhận hết, nhưng cái lối giết thú vật này – chàng công phẫn lắm. Do một sự liên-quan mà chàng không thấy rõ rệt cho lắm, chàng nhớ lại Chủ Nhật tuần trước, trong ngôi nhà thờ bé nhỏ lụp xụp mà chàng vẫn đến thuyết giáo trong thời kỳ theo học y-khoa, chàng đã tán-dương lòng hy-sinh của những kẻ tuẫn giáo và họ đã làm lễ ca ngợi máu con chiên và những suối nước nhuốm đầy máu từ những tĩnh mạch của Emmanuel nhỏ ra, nhưng chàng đã mất nguồn tư-tưởng đó, chàng lê bước đi về Hội-Quán Digamma Pi, lòng trắc-ẩn băn-khoăn. Clif Clawson thì vừa đi với Fatty Pfaff vừa kêu: "Trời ơi, lúc Gottlieb đâm mũi kim tiêm xuống, con chuột dẫy lên một cái!" Pfaff Mập van nài: "Thôi, tôi xin anh! Đừng nhắc đến nữa!” Còn Martin thì tưởng chừng như chính chàng đương làm một cuộc thí-nghiệm giống như vậy, chàng nhớ lại những ngón tay thành-thạo của Gottlieb và tự nhiên cũng bắt chước uốn cong bàn tay lên. III Hai con chuột bạch mỗi lúc một mê-man bất tỉnh. Hai ngày sau, chúng nằm lăn ra, chân giật co quắp lại rồi chết, cả lớp đều hồi-hộp xúm lại để chờ xem cuộc giải-phẫu khám-nghiệm xác chết. Trên bàn giảng-sư đặt một chiếc khay gỗ lỗ-chỗ đầy vết đinh ghim các xác chết từ bao năm nay. Hai con chuột bạch nằm cứng đơ trong một chiếc bình thủy tinh, lông xù ra. Sinh-viên nhớ lại lúc sống chúng nó gậm nhấm đồ ăn và nhanh-nhẹn như thế nào. Viên Phụ-tá dùng đinh ghim căng thẳng xác một con ra. Gottlieb lấy bông tẩm thuốc bôi lên bụng nó, rạch một đường suốt từ bụng lên tới cổ, và dùng một lưỡi dao mỏng nung đỏ rực đốt trái tim nó, nghe tiếng thịt cháy xèo xèo, cả lớp rùng mình. Gottlieb chẳng khác gì một pháp-sư đương làm phép ma quái thần bí, lấy một ống thủy tinh nhỏ hút những cục máu đen ra. Viên Phụ-tá thì lấy hai lá phổi đã xưng lên, lá lách, trái cật và gan, bôi lên những tấm kính mỏng rồi nhuộm màu và đưa cho sinh-viên xem xét. Sinh-viên nào đã học được cách nhìn qua ống kính hiển-vi mà khỏi phải nheo một mắt lại thì lấy làm hãnh diện và cho mình là tay chuyên-môn, khi họ vặn chiếc ốc đồng tới đúng tiêu-điểm, và thấy các tế-bào đương lờ mờ như đám mây bỗng nổi bật lên rõ ràng từng nét trên những tấm kính, thì người nào cũng nói tới cái gì đẹp khi nhận ra được giống vi-trùng. Nhưng người nào cũng thấy khó chịu, vì Gottlieb ở lại với họ ngày hôm ấy, đi đi lại lại đằng sau 39 họ, chẳng nói chẳng rằng, lúc nào cũng theo dõi họ, coi chừng họ xử-dụng di-thể hai con chuột bạch, và trên những hàng ghế dài, họ thì-thầm đồn với nhau câu truyện hãi-hùng về một sinh-viên đã bỏ mạng vì nhiễm vi-trùng bệnh thán-thư-nhiệt trong phòng thí-nghiệm này. IV Trong những ngày này, Martin thấy vui sướng thỏa-mãn vô cùng, tựa hồ như được hưởng cái thú của một cuộc chơi khúc-côn-cầu lanh-lẹn, cái cảnh yên-tĩnh của đồng cỏ, cái cảm-giác ngỡ-ngàng của một bản nhạc hay, và cái hưng-cảm của sự sáng-tạo. Chàng dậy sớm, nghĩ tới ngày hôm đó, chàng hài lòng lắm; chàng vội-vã đi học tập, sốt-sắng, hăm-hở, chẳng còn biết đến xung quanh có những gì nữa. Chàng ngây-ngất trước cảnh hỗn-độn trong phòng thí-nghiệm vi-trùng... các sinh-viên mặc sơ-mi trần, người thì lọc nước cấy, ngón tay dính nhơ-nhớp chất lá thạch, người thì đun trung-mạc huyết-quản trong một chiếc nồi hấp, giống như cỗ súng trái phá bằng bạc. Những ngọn lửa Bunsen kêu vo-vo dưới những lò nhiệt-khí, hơi nước ở những máy khử-trùng Arnold cuồn-cuộn bốc lên tận xà nhà, bám mờ cả khung cửa kính, tất cả đối với Martin đều là những cảnh hoạt-động đẹp tuyệt vời, và đối với chàng những vật huy-hoàng rực-rỡ nhất là những dẫy ống thí-nghiệm bằng thủy-tinh chứa đầy chất huyết-thanh, đậy bằng nút bông gòn cháy xém ngả thành màu nâu cà-phê, là cái kim loop có vòng bạch kim nhỏ nằm nghiêng nghiêng trong một chiếc ống thí-nghiệm thủy-tinh sáng-láng, là chiếc lọ rực-rỡ màu tím của chất long-đởm, là một dẫy những ống thủy-tinh cao lênh-khênh như một dẫy hàng rào nối các bình thủy-tinh cái nọ thông với cái kia một cách huyền-diệu... Có lẽ chàng đã ngây-thơ bắt-chước Gottlieb nên cứ đêm đêm một mình tới phòng thí-nghiệm làm việc... suốt gian phòng dài, tối đen như mực, trừ có ngọn đèn “gas" sau cái máy hiển-vi của chàng là cháy và chiếu một luồng ánh sáng loe ra như hình chiếc nón, dọi xuống cái ống đồng bóng-loáng, xuống mái tóc đen láy của chàng mỗi khi chàng cúi xuống nhìn vào thị-kính. Chàng nghiên-cứu vi-trùng bệnh ngủ ở một con chuột... một giống hình hoa hồng tám cánh nhuộm xanh cua chất giáp-cơ-lam đa sắc; một chùm cơ-thể mảnh-mai như bông thủy-tiên, có những hạch màu đỏ tía, tế-bào màu xanh lợt, và những đường tiên-mao nhỏ như sợi tơ. Chàng rất hứng-khởi và hơi tự-phụ một chút. Chàng đã nhuộm vi-khuẩn rất khéo, vì nhuộm một bông hồng mà không làm gẫy cánh không phải là truyện dễ. Bất chợt, trong bóng đêm, có tiếng chân bước, tiếng chân mệt mỏi của Gottlieb và một bàn tay 40 đặt nhẹ lên vai Martin, chàng lẳng-lặng ngẩng đầu lên, đẩy chiếc máy hiển-vi về phía ông. Ông cúi xuống, miệng vẫn ngậm điếu thuốc lá... khói thuốc có thể làm cay mắt bất cứ một người nào, ông nhìn xem phối-chế-phẩm của Martin. Ông vặn ánh sáng đèn gas cao thêm nửa phân và nói "Tuyệt! Anh khéo tay lắm. Ồ, khoa-học cũng cần có nghệ-thuật... nhưng ít người có nghệ-thuật ấy. Người Mỹ các anh, phần đông... đầu óc thì đầy tư-tưởng, nhưng tính thì lại thiếu nhẫn nại đối với cái buồn... buồn nhưng rất đẹp... của những việc phải làm công phu lâu dài. Tôi đã thấy... từ trước tôi đã để ý nhận xét anh ở trong phòng thí-nghiệm... có lẽ anh có thể nghiên-cứu thử xem vi-trùng bệnh ngủ được đấy. Nghiên-cứu giống vi-trùng này rất thú-vị, thú-vị lắm lắm, mà cũng rất khó, khó lắm lắm kia đấy. Bệnh này thực kỳ lạ. Ở Phi-Châu có làng có tới năm mươi phần trăm dân chúng mắc phải, và không một người nào thoát chết. Phải đấy, tôi xem anh có thể nghiên-cứu giống vi-trùng này được đấy”. Lời ông nói, đối với Martin, như một tiếng trống thúc chàng ra trận. Ông lại nói: "Đến mười hai giờ đêm, tôi sẽ ăn một chiếc săng-đuýt nhỏ. Nếu bất chợt anh có làm việc khuya tới giờ ấy, thì anh sang ăn với tôi một miếng cho vui". Tới mười hai giờ đêm, Martin rụt-rè đi ngang qua hành-lang vào phòng thí-nghiệm thanh tịnh của Gottlieb. Trên chiếc ghế dài, chàng thấy có cà-phê và săng-đuýt, những chiếc săng-đuýt nhỏ một cách kỳ-cục, ngon và lạ miệng đối với chàng. Gottlieb nói liên-miên bất tuyệt, đến nỗi Martin không còn nhớ gì tới Clif Clawson và Angus Duer một anh giầu lỏi phi lý. Ông kể cho chàng nghe những phòng thí-nghiệm ở Luân Đôn, những bữa cơm chiều mờ sương tại Stockholm, những buổi dạo chơi trên bờ sông Pincio khi mặt trời lặn sau mái nhà thờ San Pietro, và những nỗi nguy hiểm và kinh tởm ghê hồn về quần áo giây dính phân bệnh-nhân trong một năm có bệnh dịch ở Mạc-Xây. Ông mất cả dè dặt nói cả tới truyện riêng của ông, của gia-đình ông, tưởng chừng Martin đồng lứa tuổi với ông. Nào là truyện người anh họ đóng Đại-Tá ở Uruguay, nào là truyện người anh họ là giáo-sĩ, bị hành hạ trong cuộc tàn sát dân Do-Thái ở Mốt-Cu, nào là truyện bà vợ ốm đau của ông... có lẽ bị bệnh ung thư, ba đứa con ông, đứa con út là con gái, tên là Mariam giỏi về âm-nhạc, nhưng thằng con trai mười bốn tuổi làm ông đến lo phiền, nó xấc láo, chẳng học hành gì cả. Còn chính ông, thì bao năm nay ông nghiên-cứu về sự hóa-hợp các kháng thể; hiện tại ông đương ở trên con đường cụt, và ở Mohalis, chẳng có lấy một người khuyến khích ông, nhưng dầu sao thì ông cũng đã có phen thích thú đánh đổ 41 được thuyết điều-lý-tố (opsonin), như thế là ông thấy khoái rồi. "Không, tôi chưa làm được việc gì cả, trừ ra việc đã làm cho những kẻ đòi hỏi yêu-sách quá đáng phải bực mình, nhưng tôi ước-ao một ngày kia sẽ thực sự phát minh ra được một cái gì đó. Và... không. Trong năm, tôi không có được lấy năm sinh-viên hiểu biết thế nào là khéo tay và chính-xác và có óc tưởng-tượng mạnh một chút để đặt ra những giả-thuyết. Tôi nghĩ anh có thể có được mấy thứ đó. Và nếu cần tôi có thể giúp đỡ anh... Thế đó! “Tôi không tin rằng anh sẽ trở nên một bác-sĩ giỏi. Bác-sĩ giỏi, tốt lắm... mấy ông ấy thường là nghệ-sĩ... nhưng cái nghề làm ăn của các ông ấy không phải là nghề của bọn mình, những kẻ thui-thủi làm việc một mình trong phòng thí-nghiệm. Có một lần, tôi cũng đeo nhãn hiệu Y-khoa Bác-sĩ. Ấy là ở Heidelberg... Bác-sĩ Gottlieb, hồi 1875! Nhưng làm những viêc băng bó ống chân và xem lưỡi bệnh-nhân, chẳng lấy gì làm thú vị cho lắm. Tôi là một môn đồ của Helmholtz... con người thanh-niên vui-vẻ và nóng nẩy hết sức! Tôi cố gắng nghiên-cứu vật-lý-học về âm-thanh... nhưng tôi dở hết sức, dở không thể tưởng-tượng được, nhưng trong cái thời-kỳ đầy ngấn lệ ấy tôi đã học được một điều là: không có gì xác thực cho bằng phương pháp phân lượng. Rồi tôi xoay sang hóa-học... tôi là một hóa-học-gia vào hạng khá. Rồi lại sang ngành sinh-vật-học, và gặp nhiều khó khăn thêm. Nhưng cũng hay. Tôi cũng tìm ra được một hay hai thứ. Và một đôi khi tôi cảm thấy như bị đi đầy, cô đơn lạnh lẽo... trước có một hồi tôi phải trốn ra khỏi nước Đức vì không chịu hát bài DIE WACHT AM RHEIN và định giết một viên Đại-úy Kỵ-Binh... Thằng cha to lớn mập mạp... tôi phải bóp cổ nó cho nghẹt thở... Anh cho tôi nói khoác hẳn, nhưng ba mươi năm trước đây, tôi cũng là một tay trai-tráng liều lĩnh lắm! À! Thế đó. “Duy có một điều phiền đối với một vi-trùng-học-gia có óc triết-lý là, tại sao ta lại phải trừ khử những giống vi-trùng bệnh đáng thương ấy? Khi ta ngắm các nam nữ sinh-viên son trẻ... ồ... xấu xí nhất đời lui tới hội quán Thanh-niên Công-giáo và hát những bài thánh ca và đội những chiếc mũ có in tên tắt của họ bằng dấu sắt nung đỏ... ta có dám cả quyết hẳn rằng họ đáng cho ta bảo-vệ cho họ khỏi bị giống vi-trùng ban chẩn thương-hàn nhiễm vào một cách rất ư thanh thú với những sợi tiên mao nhỏ mượt rất đẹp đẻ của nó không nhỉ? Anh biết không, có một bận, tôi đã hỏi Ông Khoa-Trưởng Silva của chúng ta rằng mình có nên để cho các giống vi-trùng bệnh lý được tự-do nhởn-nhơ ở trên đời này không, vì như vậy sẽ giải-quyết được tất cả mọi vấn-đề kinh-tế. Nhưng ông ấy chẳng lưu-tâm mẩy-may đến phương-pháp đó của tôi. Ồ, dầu sao thì ông ấy cũng nhiều tuổi hơn tôi; nghe nói ông ấy cũng mở tiệc linh-đình, mời cả các vị Giám-Mục, Chánh-Án tới dự, người nào người ấy đều mặc áo đẹp cả. Một người như ông ấy hẳn phải hiểu biết hơn một anh Do-Thái – Đức chỉ biết tôn sùng Cha NIETZCHE và Cha 42 SCHOPENHAUER (nhưng cái Cha khỉ này lại có đầu óc của một nhà mục-đích luận-gia!) Và Cha KOCH và Cha PASTEUR và Huynh JACQUES LOEB và Huynh ARRHENIUS. Chu cha! Tôi thực là loạn ngôn vọng ngữ. Thôi mình sang xem lại mấy tấm kính của anh rồi về đánh một giấc ngủ cho ngon đi". Khi chàng từ biệt Gottlieb ở cửa nhà ông, ngôi nhà một thú, bé con con, sơn nâu, chàng thấy nét mặt ông lại lạnh lùng nghiêm-nghị cơ-hồ như không có bữa “xíu đề" và câu truyện dông dài hồi nửa đêm vừa qua, chàng rảo bước về nhà, say sưa ngây ngất. 43 CHƯƠNG: 5 TUY VI-TRÙNG-HỌC từ nay là cả cuộc đời của Martin, nhưng lý-luận của Viện Đại-Học là muốn chàng cũng phải nghiên-cứu cả bệnh-lý, vệ-sinh, ngoại-khoa, giải-phẫu-học và nhiều khoa khác nữa, khiến cho một thiên tài cũng phải ứ hơi ngộp thở. Chàng và Clif Clawson ở chung nhau một gian phòng lớn, tường dán giấy hoa, giường sắt, đầy ngập những đống quần áo hôi hám, và góc nào cũng bầy ra một cái ống nhổ. Hai chàng tự làm lấy bữa ăn điểm tâm, còn cơm trưa và cơm chiều thì ăn với chả băm ở quán Pilgrim Lunch Wagon hay Mạn Cổn-Cầu. Một đôi khi Clif thấy bực mình, vì chàng ghét để ngỏ cửa sổ, thích nói những truyện bậy bạ, hay hát bài "có người chết về bệnh đái đường”, trong lúc Martin đương lo học, và chẳng bao giờ chàng nói được một câu thẳng thắn, chỉ toàn nói bóng nói gió, và pha trò cười. Bữa cơm, chàng nói: "Anh bảo lúc này bọn mình có thể cho mấy cái miệng móm đớp được chưa?" hay ”Nuốt một ít ca-lô-ry đi, bồ!" Tuy vậy Martin thấy Clif có một cái duyên, mà cái duyên đó không thể nào cho là vì Clif vui tính thông-minh lanh-lợi hay can-đảm gì đó. Toàn thể con người của Clif có một cái gì có giá-trị hơn là tất cả các bộ phận của chàng tổng kết lại. Trong lúc vui với công việc ở phòng thí-nghiệm, Martin ít khi nghĩ tới các bạn cũ trong Hội Digamma Pi. Chỉ thỉnh thoảng chàng mới cãi lại bảo Mục-Sư Ira Hinklay là một cảnh binh ở nhà quê, Irving Watters là một anh thợ hàn, Angus Duer nếu cần phải bước qua đầu bà nội nó để tiến tới thành công cũng dám bước, để cho một thằng ngu xuẩn như anh chàng Fatty Pfaff chữa bệnh cho những người cùng quẫn là một trọng tội, nhưng thường thường chàng gần như không nhớ gì tới họ và quấy-rầy họ nữa. Và sau khi đã đạt được một vài bước đầu thành công về vi-trùng-học và khám phá ra còn không biết bao nhiêu điều chàng chưa hiểu chưa biết, chàng trở nên khiêm-nhượng kỳ-quặc. Nhưng nếu chàng ít phiền-nhiễu bè bạn hơn trước bao nhiêu thì chàng lại phiền-nhiễu mọi người trong giờ học hơn bấy nhiêu. Chàng đã học được của Gottlieb cái tật hay dùng danh-từ "kiểm-soát” để chỉ những người hay thú vật hay chất hóa-học để dành riêng ra, không dùng trong một cuộc thí-nghiệm, làm tiêu-chuẩn để so sánh với những người hay vật chất bị đem ra thí-nghiệm, không còn cái tật nào làm cho người ta dễ giận hơn cái tật đó. Thấy một Y-sĩ nào khoe-khoang khoác-lác là đã thành công tìm ra được một thứ thuốc hay một thứ máy nào đó, Gottlieb luôn luôn chọc cho một câu: “Thế nhưng kiểm-soát của ngài đâu? Ngài đã có bao nhiêu trường-hợp điều-trị vô hiệu quả?”. Bây giờ Martin cũng luôn miệng nói như vậy... 44 kiểm-soát, kiểm-soát, kiểm-soát của ngài đâu? Kiểm-soát của ngài đâu? Khiến cho một số đông các bạn học và một vài Giáo-sư muốn lôi chàng ra xử, cho chàng một trận cho chừa đi. Người ta khó chịu với chàng nhất trong những giờ học về dược phẩm. Giáo-sư khoa dược-phẩm là bác-sĩ Lloyd Davidson, giá làm nghề bán hàng thì chắc ông nổi tiếng ghê lắm. Ông rất được nhiều người mến. Một Y-sĩ tương lai có thể học được ở ông một điều quan-trọng hơn hết là: bốc đúng thuốc cho bệnh-nhân, nhất là khi không biết bệnh-nhân đau gì. Cả lớp đều chăm chú nghe và cố nhớ lấy làm lòng một trăm năm mươi đơn thuốc được các Bác-sĩ ưa dùng nhất. (Giáo-sư Davidson rất kiêu hãnh vì đã dạy nhiều hơn Giáo-sư trước được năm mươi đơn thuốc). Nhưng Martin thật là bất trị. Chàng hỏi, mà hỏi một cách công khai: - Thưa Bác-sĩ Davidson, tại sao người ta lại biết chất ngư-du-tinh (ichthyol) chữa được bệnh đan độc? Phải chăng nó chẳng khác gì chất ngư hóa thạch mục nát... phải chăng nó cũng như thứ phấn bụi những xác ướp và tai chó ngày xưa người ta thường dùng để chữa bệnh? - Tại sao người ta lại biết à? Này anh bạn trẻ thích phê bình chỉ trích của tôi ơi, tại vì đã có hàng ngàn Y-sĩ dùng thuốc đó từ bao nhiêu năm nay và thấy bệnh-nhân của mình khỏi, vì thế cho nên người ta biết! - Nhưng, thưa bác-sĩ, nói cho ngay, bệnh-nhân có thể tự nhiên khỏi bệnh không ạ? Biết đâu chẳng là một post hoc propter hoc? Người ta có đem thí-nghiệm với nhiều bệnh-nhân một lúc và có kiểm-soát không? - Chắc là không... có lẽ phải đợi cho tới khi có một thiên tài như anh, anh Martin, có thể tập hợp một lúc mấy trăm người cùng chung một bệnh đan độc giống hệt nhau, thì mới có thể thí-nghiệm được, còn không thì chắc chẳng bao giờ có thể làm được. Trong khi chờ đợi đó, tôi tin rằng quí vị sinh-viên khác, quí vị có lẽ không có những kiến-thức uyên-thâm về khoa-học như ông Martin Arrowsmith và chưa có đủ tư-cách dùng cái danh-từ "kiểm-soát”, quí vị hãy nên làm theo ý kiến thiển-cận của tôi là cứ tiếp tục dùng chất ngư-du-tinh! Nhưng Martin vẫn cố nói thêm: - Xin Bác-sĩ vui lòng cho biết học thuộc lòng tất cả những đơn thuốc thì có ích lợi gì? Chắc chúng tôi sẽ chẳng nhớ được bao nhiêu, vả lại lúc nào cần chúng tôi có thể mở sách ra xem cũng được. Davidson mím môi lại rồi đáp: - Arrowsmith! Đối với một người cũng đã lớn tuổi như anh, tôi rất ghét phải 45 dùng câu trả lời như đối với một đứa trẻ lên ba. Nhưng hiển nhiên là buộc lòng tôi phải dùng, nghĩa là anh hãy học tính chất các dược-phẩm và các bài thuốc vì tôi bảo anh làm như vậy! Nếu tôi không ngại làm mất thời-giờ của sinh-viên khác trong lớp này, tôi sẽ cố thuyết phục anh rằng những lời tôi nói đây có thể chấp thuận được, không phải vì tôi có chút thẩm quyền mọn, nhưng vì những lời đó căn-cứ vào những lời kết-luận, những sự đoán-định của những bậc thông-thái hơn và chắc chắn là nhiều tuổi hơn anh một chút, qua không biết bao nhiêu đời rồi đấy, anh bạn ạ. Nhưng vì tôi không có thời-giờ rảnh-rang và không thích dùng những lời hùng-biện hay văn-hoa chải-chuốt, nên tôi chỉ nói với anh một điều thôi là: anh hãy chấp nhận đi, anh hãy học đi và ghi nhớ lấy, bởi vì tôi bảo anh làm như vậy! Martin có ý muốn bỏ môn Y-học và chỉ chuyên về vi-trùng-học thôi. Chàng tâm-sự với Clif, nhưng Clif đã bực mình về tính hay băn-khoăn nghi-ngờ của chàng nên làm lơ không đáp, chàng đành tìm tới hỏi Madeline, cô gái dịu dàng nhưng cương quyết. II Madeline tỏ ra vừa biết thông cảm, vừa biết suy nghĩ phải trái. Tại sao chàng lại không học cho xong y-khoa, rồi sau đó muốn gì sẽ hay? Chàng nàng cùng đi dạo chơi, đi trượt tuyết, đi coi ban kịch của sinh-viên trình- diễn. Bà Fox – Bà Mẹ góa của Madeline bây giờ cũng phải đến ở với nàng; hai mẹ con đã thuê tầng lầu cao nhất của một tòa nhà công ngụ, a-bác-tơ-măng nhỏ người ta bắt đầu xây thay thế cho những kiểu nhà gỗ mắc tiền ở Mohalis. Căn lầu đầy những văn nghệ phẩm và đồ trang-trí: một tượng Phật bằng đồng của Chicago, bản dập bài mộ bia của Shakespear, một bổn dịch toàn bộ tác phẩm của Anatole France, một tấm hình nhà thờ Cologne, một cái bàn uống trà bằng mây với một cái ấm đun nước mà chẳng một người nào ở Viện Đại-Học biết cách xử dụng, một tập dán đầy những bưu-thiếp kỷ-niệm. Bà Mẹ của Madeline là một công-tước vị-vong-nhân ở Đại-Mã-Lộ. Trông bà rất đường-bệ tóc bạc phơ, bà theo Giám-lý Giáo-hội . Ở Mohalis nghe tụi sinh-viên nói chuyện với nhau bà phát ngượng, bà nhớ xứ, nhớ Giáo-khu và các cuộc hội-họp ở câu-lạc-bộ phu-nữ... Ở đấy năm nay các Bà các Cô đương nghiên-cứu về vấn-đề giáo-dục, và bà buồn vì để mất hết tất cả những tài-liệu nói về tục-lệ của Đại-Học-Đường. Đã có nhà riêng và có người giám-hộ rồi, bây giờ Madeline bắt đầu tiếp đãi bạn bè ở nhà: bữa tám giờ có cà-phê bánh xô-cô-la, gà xà-lách, và đố chữ. Tất nhiên nàng mời cả Martin, nhưng chàng rất tiếc những buổi chiều, những chiều rất quí dành cho việc tìm-tòi nghiên-cứu của chàng. Buổi đầu tiên, 46 nàng rủ rê được chàng đến dự là bữa tiệc đầu năm vào tháng Giêng, các cô cậu ”làm quảng cáo”... phỏng đoán những bức tranh vẽ quảng-cáo; nhẩy theo điệu nhạc của dĩa hát, ăn không phải để đĩa lên đùi, mà có những cái bàn nhỏ trên bầy đầy khăn ăn hẳn hoi. Martin không quen với những lối thanh-lịch như vậy. Tuy chàng rầu lòng miễn-cưỡng tới dự tiệc, nhưng cũng bị xúc cảm vì bữa tiệc sang và những tà áo đẹp của các bà các cô. Chàng nhận thấy lối khiêu-vũ của chàng đã xưa rồi, và đố kỵ với bọn sinh-viên năm cuối cùng biết nhẩy điệu “van” mới, kêu là “bôt-tông”. Cứ thấy ai có chút sức-lực nào, chút duyên-dáng nào, hay chút tri-thức nào hơn chàng, là chàng khao-khát muốn được bằng người ta, khi mấy thứ đó đã xuyên thủng được những lớp vỏ bọc ngoài giác-quan hấp-thụ của chàng và thấm-nhuần vào trong giác-quan đó. Chàng ít ham giầu, nhưng lại ham có đủ mọi tài-năng khéo léo. Chàng chỉ miễn-cưỡng phục người khác, nhưng Madeline đã làm cho chàng phải say mê ngắm nghía thực sự. Từ trước chàng chỉ quen thấy nàng mặc áo chẽn đi ở ngoài đường, nhưng chiều nay mới được chiêm ngưỡng một nàng Madeline diễm tuyệt ở trong nhà, tha-thướt trong bộ áo lụa vàng, cái lối nàng đe-dọa khách, khiến ai nấy đều tỏ ra vui vẻ, chàng thấy là cả một sự khéo léo và dễ dàng kỳ diệu. Mà nàng cần phải khéo léo thực, vì trong tiệc có cả ông Tiến-Sĩ Brumfit, và chiều nay ông Tiến-Sĩ Brumfit lại muốn tỏ ra là người có tánh kỳ-dị và ngỗ-ngược một cách độc-đáo. Ông giả đò hôn bà mẹ của Madeline, làm cho bà mệnh-phụ đáng thương này ngượng hết sức; ông ca một bài của người da đen, lời ca rất khiếm nhã, có cả tiếng tục tĩu; ông giải thích cho một nhóm nữ-sinh-viên đã tốt-nghiệp rằng ông có thể minh oan cho những mối tình của Nữ-sĩ George Sand một phần nào, vì ảnh-hưởng của những mối tình đó đối với những người có tài, đến khi thấy các nữ-sinh-viên có vẻ khó chịu, thì ông lảng đi mặt vênh-vênh-váo-váo, đôi mắt kính nhấp-nhoáng ánh đèn. Madeline săn sóc ông, nàng thỏ thẻ: "Giáo-sư Brumfit, Giáo-sư là người học-bác uyên-thâm ghê-gớm đủ thứ vân vân và vân vân, trong giờ Anh-văn, một đôi khi con sợ Giáo-sư đến chết đi được, nhưng lại có nhiều khi Giáo-sư chẳng khác gì hơn một đứa trẻ ngỗ-nghịch, con không bằng lòng Giáo-sư ghẹo mấy con nhỏ kia đâu. Giáo-sư giúp con đem nước trái cây lạnh vào thết khách đi thì hơn". Martin yêu nàng vô cùng. Chàng ghét Brumfit vì được quyền đặc-biệt cùng nàng biến vào trong nhà bếp nhỏ xíu bằng cái phòng rửa mặt. A! Madeline! Chỉ có một mình Madeline là hiểu chàng thôi! Ở nơi đây, người nào cũng níu lấy nàng, Giáo-sư Brumfit hớn-hở nhìn nàng gần như chồng âu-yếm nhìn vợ vậy, nàng thực là quý giá, chàng phải chiếm lấy nàng mới được. 47 Chàng vờ giúp nàng bầy bàn, và nhân lúc chỉ có hai người đứng sát gần nhau, chàng khẽ rỉ tai nàng nói: - Trời ơi! Em đẹp quá chừng! - Anh khen làm em sướng quá! ( nàng – bông hồng mà cả thế gian đều ái mộ – đã ban riêng ân sủng cho chàng). - Chiều mai anh có thể đến thăm em được không? - Dạ, em... có lẽ được anh ạ. III Trong cái tiểu-sử của một thanh-niên chẳng có một ly nào gọi là anh-hùng này, chỉ tự coi mình là một chuyên-viên đi tìm chân-lý, nhưng suốt đời lại hay xẩy chân trượt bước và tự đưa mình sa vào đủ các vũng bùn-lầy, thì cũng khó có thể nói rằng những ý-định của Martin đối với Madeline là những cái mà người ta gọi là "chánh đáng khả kính". Chàng không phải là một Don Juan – phong lưu đãng-tử – mà là một sinh-viên Y-khoa nghèo, còn phải đợi nhiều năm nữa mới có thể tự kiếm sinh-kế được. Chắc chắn là chàng không nghĩ tới truyện cầu hôn nàng. Chàng muốn – cũng như đa số thanh-niên nghèo và hăng hái ở trong trường-hợp này – chàng muốn chiếm tất cả những cái gì chàng có thể chiếm được. Trong lúc rảo bước tới nhà nàng, chàng hy vọng gặp truyện phiêu-lưu kỳ-thú. Chàng tưởng-tượng thấy bàn tay nàng vuốt nhẹ trên má chàng. Chàng tự nhủ mình, "này đừng có điên rồ vội! Biết đâu chẳng làm nên công truyện gì. Thôi đừng có tấn công vội rồi lại bị thất vọng. Biết đâu mình chẳng thất-thố điều gì trong bữa tiệc và bị nàng “xỉ-vả” cho. Biết đâu nàng đương buồn ngủ và mong mình đừng tới! Biết đâu đấy!" Bụng tuy nghĩ như vậy, nhưng chàng chẳng tin một chút nào. Chàng bấm chuông và thấy nàng ra mở cửa, chàng vừa theo nàng đi qua cái hành lang hẹp vừa thầm ao ước được nắm tay nàng. Bước vào phòng khách đèn thắp sáng trưng... Chàng thấy bà mẹ nàng ngồi sẵn đó, vững như bàn thạch, vẻ mặt lúc nào cũng như lúc nào, buồn như mùa đông vắng bóng măt trời. Nhưng chắc thế nào Bà Mẫu cũng phải rút lui, để chàng còn chinh phục chứ. Nhưng Bà Mẫu cứ ngồi ì ra đấy. Ở Mohalis có lẽ các cậu đến thăm các cô nên ra về vào khoảng mười giờ là thích hợp hơn hết; nhưng từ tám giờ cho tới mười một giờ mười lăm, Martin vẫn còn ngồi chiến-đấu với bà, nói với bà bằng hai thứ ngôn-ngữ, một thứ 48 phát ra thành tiếng, nói những truyện vẩn-vơ không ra đâu vào đâu, và một thứ câm lặng ngầm phản-đối bà một cách giận-dữ kịch-liệt; trong khi ấy Madeline cũng có mặt, nàng ngồi đấy trông rất xinh đẹp. Bà Fox cũng thầm-lặng đối đáp chàng không kém câu nào, cho đến khi gian phòng khách ngột-ngạt không khí chống-đối nhau, mặc dầu họ vẫn làm ra vẻ thản-nhiên nói với nhau những truyện về thời tiết, về Trường Đại-Học, về xe điện từ các nơi về Zenith. Chàng uể oải nói: - Thưa vâng, cố nhiên, cháu chắc rồi họ phải cứ hai mươi phút cho chạy một chuyến. (Nhưng trong thâm tâm thì chàng nghĩ: “Khỉ già, sao mãi chưa đi ngủ cho rồi? À may quá! Mẹ đan xong rồi. Ấy kìa! Rõ khỉ! Mẹ lại lấy thêm cuộn len để đan nữa kìa!"). Bà Fox nói: - Ồ, vâng, tôi chắc thế nào họ cũng sẽ tổ chức cho khá hơn. (Và Bà nghĩ thầm: "Này cậu, tôi chưa hiểu biết nhiều về cậu, nhưng tôi tin cậu không xứng với Madeline đâu. Dầu sao thì cũng tới giờ cậu về rồi đấy.”) - Ồ, vâng, chắc thế nào cũng phải khá hơn nhiều. ("Vâng, con biết con ngồi lâu quá và con biết mẹ cũng biết thế, nhưng con cóc cần!") Hình như bà Fox khó có thể chịu đựng lâu hơn nữa cái lối lỳ-lợm của chàng. Chàng dùng đủ cách, nào là thuật truyền-giao tư-tưởng, nào là thuật truyền-đạt ý-chí, nào là thuật thôi-miên, nhưng tất cả đều vô hiệu, khi chàng chịu thua, đứng lên, bà vẫn ngồi đó, vô cùng bình-tĩnh. Hai người chào từ-biệt nhau, nhưng không lấy gì làm nồng-nhiệt cho lắm. Madeline tiễn chàng ra cửa, chàng được ở riêng biệt với nàng nửa phút đồng hồ vui tươi bồng-bột. - Anh khao-khát vô cùng... Anh khao-khát nói chuyện với em! - Em biết. Em xin lỗi nhé! Thôi để khi khác vậy! Chàng hôn nàng, một cái hôn vô cùng nồng-nàn âu-yếm. IV Sau đó, Madeline lao mình vào những cuộc ăn-chơi, giải-trí vui-nhộn, nhưng vô cùng mệt mỏi – nào là tiệc trà, tiệc bánh, nào là trượt tuyết bằng giầy, bằng xe, nào là hội-họp văn-nghệ mà khách danh-dự là một nữ ký-giả giữ 49 mục xã-hội trong Zenith Thời-Luận Báo. Nàng đi đâu, Martin theo đấy ngoan-ngoãn, dễ bảo. Hình như nàng khó mời được đủ bạn trai, nên chiều hôm có cuộc hội-họp văn-nghệ, Martin phải lôi cái anh chàng điên khùng Clif Clawson đi. Clif càu nhàu: "Đấy là cái chuồng cú hôi nhất đời, mình chưa có dịp đến xem ra làm sao" nhưng rồi chàng vác đi được núi của – Chàng đã được nghe Madeline gọi Martin bằng cái tên âu-yếm là Martykins. Cái tên thật là giá-trị vô song. Clif bắt chước gọi chàng là Martykins và bảo mọi người gọi chàng bằng cái tên này. Pfaff Mập và Irving Watters cũng gọi chàng là Martykins. Và khi Martin sắp đi ngủ thì Clif lầu-bầu nói: - Hừ, chắc thế nào bồ cũng lấy nàng thôi. Tay thiện xạ đấy, nàng có thể đứng xa chín mươi bước bắn trúng hồng tâm một Y-khoa Bác-sĩ trẻ tuổi, thông-minh và đẹp trai. Ồ, rồi anh sẽ có một thời son trẻ để mà nghiên-cứu khoa-học khối ra đấy, cái váy đầm ấy mà truyền cho anh phải suốt ngày cắt hạch ở hai bên hông bệnh-nhân thì anh chỉ có mà vâng lệnh răm-rắp... Nàng cũng là một tay văn-nghệ ghê gớm lắm. Về văn-chương thì chẳng cái gì mà nàng không thông-thạo, có lẽ chỉ trừ ra có mỗi một cái là không biết đọc ra làm sao thôi. Trông nàng bây giờ cũng chẳng lấy gì làm xấu. Nhưng chắc rồi thế nào cũng sẽ phát phì ra như Bà Má của nàng. Martin đáp đó là điều rất cần và chàng kết-luận: - Trong bọn sinh-viên tốt-nghiệp, chỉ có một mình nàng là có tinh-thần và tài-đảm. Các cô khác thì chỉ biết ngồi nói chuyện vớ-vẩn, và nàng tổ-chức được các bữa tiệc ngon lành và các buổi hội hay-ho nhất... - Thế có buổi hội hôn-hít nào không? - Này nghe đây! Anh có biết không, tôi sẽ đau khổ là cái chắc! Anh và tôi là những thằng thô-bạo, nhưng Madeline... nàng có nhiều cái cũng tương-tự như Angus Duer. Những khuyết-điểm của bọn mình tôi biết chứ: âm-nhạc này, văn-chương này, ừ phải, quần áo bảnh-bao nữa này... vì ăn mặc cho ra vẻ có gì hại đâu... - Đó chính là điều mà tôi muốn nói với anh đó! Nàng sẽ bắt anh ăn mặc bảnh như kiểu Hoàng-Tử Albert, ngực sơ-mi hồ bột cứng, cái gì cũng muốn cho thật sang. Sao mà anh lại có thể cảm được cái bà thích trưng diện như thế... Kiểm-soát của ngài đâu? Những lời phản-đối của Clif càng gợi cho chàng nẩy ra lòng hám lợi khao-khát muốn lấy nàng. V 50 Đàn bà ít người có thể giữ một thời-gian lâu mà không tìm cách "cải-tiến" người yêu của mình, mà "cải-tiến" có nghĩa là thay đổi con người hiện tại của người yêu, muốn biến ra thế nào cũng được, miễn là khác trước. Những thiếu-nữ như Madeline, những phụ-nữ văn-nghệ nhưng lại không làm văn-nghệ, không thể nào nhìn lấy hai ngày liền mà không làm cái công việc gọi là cải-tiến ấy. Lúc Martin tỏ ra bị sắc đẹp của nàng khêu gợi, thì nàng đả kích ngay từ quần áo của chàng... bộ đồ nhung có sọc, sơ-mi cổ mềm, chiếc mũ dạ xám cũ kỹ quá... lời ăn tiếng nói của chàng cho tới những tiểu-thuyết chàng thích đọc, với một giọng mới, có vẻ ân-cần, bao-dung, nhưng hết sức cương quyết. Nàng có lối nói lừng-khừng, đại khái như: “Chứ sao, ai chẳng biết Emerson là một đại tư-tưởng-gia” làm cho chàng tức điên lên, nhất là lối đó trái hẳn với tính kiên-trì trầm-mặc của Gottlieb. Chàng hét lên với nàng: "Ồ, để yên cho anh nhờ! Trời sinh ra em là người đáng yêu nhất, nếu em chỉ nói tới những truyện mà em thông hiểu, còn nếu em nói tới chính-trị và hóa-học trị-liệu-phép thì... Trời hỡi! Khổ cái thân anh quá! Về ẩn-ngữ, anh thấy em có lý. Anh sẽ bỏ không nói những tiếng như "đớp hít" v.v... nữa. Nhưng anh không thể nào đeo cổ cồn cứng được! Nhất định là không!" Nếu tình cờ không có cái buổi chiều xuân đứng chơi trên sân thượng thì có lẽ chẳng bao giờ chàng hỏi nàng làm vợ. Nàng dùng cái mái phẳng ở bên trên lầu của nàng làm một cái vườn. Nàng bầy trên đó một thùng thiên-trúc-quỳ và một cái ghế dài bằng sắt, giống như những cái ghế ngày xưa người ta thường đặt ở trong nghĩa-địa! Nàng treo hai chiếc đèn Nhật-Bổn, đèn rách nên treo không ngay ngắn. Nàng nói giọng khinh khi những người cùng ở chung nhà, họ "tầm thường quá, câu nệ quá, chẳng bao giờ đặt chân lên cái chỗ ẩn dật nên thơ này”. Nàng so sánh nơi trú-ẩn của nàng với một cung-điện người Mua, một cái sân Y-Pha-Nho, một ngôi vườn Nhật-Bổn, một "du viên của Tỉnh Provence bên Pháp”. Nhưng đối với Martin hình như nó chẳng khác gì những cái mái nhà phẳng khác. Một hôm, chiều tháng Tư, chàng đến thăm nàng, nghe Bà Mẹ nàng khinh-khỉnh bảo chàng lên mái nhà mà tìm nàng, chàng đã hơi nổi nóng, định gây sự cãi nhau một trận. Vừa trèo cái thang xoáy ốc, chàng vừa lẩm bẩm: “Mấy cái đèn Nhật-Bổn phải gió! Thà ngắm hiển-vi, xem mấy miếng gan còn hơn". Madeline đương ngồi trên chiếc ghế sắt khiêng ở nghĩa-địa về kia, cằm tỳ lên hai bàn tay. Lần đầu nàng không vồ-vập chào hỏi chàng mà chỉ dửng dưng nói một câu cộc-lốc “Kìa Anh”. Tâm trí nàng hình như để đâu. Chàng thấy hối-hận vì ý-nghĩ nhạo-báng của mình. Chàng chợt thấy có cái gì xúc-cảm trong cái ý nghĩ kiêu-kỳ của nàng cho rằng cái băng giấy sơn hắc-ín và 51 những bức vách loang-lổ kia là một cảnh vườn huy-hoàng, rực-rỡ. Chàng ngồi xuống bên nàng và thủ-thỉ: "Em à, cái chiếu mới em trải kia thật là đẹp”. Nàng quay sang nói: "Đẹp gì mà đẹp! Trông bẩn cả mắt” (Rồi nàng mếu-máo) "Ồ, anh Martin, chiều nay em thấy em ngán em quá. Từ trước, em vẫn cố làm cho mọi người tưởng rằng em là người tài-hoa lắm. Nhưng em có tài-hoa gì đâu. Em chỉ lừa dối mà thôi". - Có truyện gì thế, em yêu? - Ồ, đủ thứ truyện. Cái ông Tiến-sĩ Brumfit, trời tru đất diệt ông ấy... nhưng ông ấy nói có lý lắm... Ông ấy bảo em là nếu em không chịu khó học hành chăm-chỉ hơn thì em sẽ bị loại ra khỏi Viện Đại-Học. Ông ấy bảo em chẳng chịu làm gì cả và nếu em không đậu bằng Tiến-Sĩ Triết, thì đừng có hòng kiếm được chỗ tốt dạy Anh-văn trong một trường có tiếng, mà em cũng cần phải kiếm một chỗ như vậy, vì xem chừng chẳng ma nào chịu lấy cái thứ Madeline khổ này đâu". Chàng vòng tay ôm lấy nàng và dỗ ngọt: - Anh biết đích xác có ma nào rồi... - Không, em không có thả mồi câu ai đâu. Chiều nay, em gần như thành thực. Em không tốt đâu, anh ạ. Em bảo mọi người là em thông minh tài giỏi. Nhưng em chắc chẳng ai tin nào. Và lúc quay đi, chắc họ cười em! - Họ không cười đâu! Nếu họ cười em... Anh muốn xem đứa nào dám cười em... - Anh thực tử tế và đáng yêu lắm, nhưng em không xứng đáng với lòng tốt của anh đâu. (Nàng Madeline thơ mộng, ăn nói văn hoa!) Em chỉ là... Em chỉ là... Anh Martin ạ, em chỉ là một con người vô liêu! Anh Clif, bạn anh, nghĩ về em thế nào là đúng y như thế ấy. Ồ, thôi, anh khỏi cần nói với em nữa đi. Em biết anh ấy nghĩ những gì về em rồi. Và... em phải về quê với Me em; về quê, em không thể chịu được đâu, anh ơi! Em không về đâu. Cái xứ ấy! Chẳng ra cái gì! Mấy bà già thì "ngồi lê đôi mách, mấy ông già thì dơ-dáy, có mấy câu truyện khôi-hài cổ từ đời nào rồi mà cứ đem ra kể đi kể lại mãi. Không em chẳng về đâu! Nang rúc đầu vào ngực chàng, khóc nức nở; chàng khẽ vuốt tóc nàng, lúc này chàng không còn khao-khát mà chỉ tràn đầy âu-yếm, chàng khẽ bảo nàng: - Em cưng ơi! Anh cảm thấy hầu như anh liều lĩnh yêu em. Em sẽ lấy anh và... Hãy để cho anh hai năm nữa để học cho xong ban Y Khoa và hai năm nội trú ở Bệnh-viện, rồi chúng mình sẽ lấy nhau và... Thực thế, có em giúp anh sẽ trèo lên đến tột bực! Trở thành một Bác-sĩ chuyên-khoa giải-phẫu đại 52 tài! Rồi chúng mình sẽ có đủ mọi thứ! - Anh yêu, hãy khôn ngoan một chút. Em không muốn anh xao nhãng công việc khảo-cứu khoa-học của anh... - Ồ, nếu thế thì... ý anh cũng muốn nghiên-cứu một cái gì đó. Nhưng khốn nỗi, anh đâu có phải là cái loại cáo già ở phòng thí-nghiệm. Phải tranh-đấu với đời. Phải chen vai thích cánh để mà tiến bước. Phải chiến đấu thực sự với những con người thực sự. Nếu anh không làm được việc đó và không làm được một sự-nghiệp khoa-học nào, thì anh là kẻ vô tích sự. Cố nhiên anh cần phải lợi dụng thời-gian ở bên cạnh Giáo-sư Gottlieb, nhưng sau đó... Ồ, Madeline... Rồi chàng chẳng nói thêm gì nữa, bao nhiêu khả-năng biện-luận của chàng đều biến vào trong khoảng không-gian mờ-ảo ngây-ngất bên cạnh nàng. VI Martin rất sợ phải giáp mặt Bà Fox; chàng chắc thế nào bà cũng sẽ hỏi: "Này cậu, cậu tính làm thế nào để cung dưỡng con gái tôi thế, cậu? Và cậu ăn nói cục cằn thô lỗ lắm.” Nhưng bà đã cầm tay chàng và bảo chàng giọng buồn buồn: "Tôi mong cậu và con bé nhà tôi sẽ sung sướng. Nó là một con bé hiền và ngoan lắm đấy, tuy một đôi khi nó cũng hơi nhẹ dạ, và tôi biết cậu cũng hiền-lành tử-tế và chịu khó học hành. Tôi sẽ cầu nguyện cho hai người được sung sướng... Ồ, tôi sẽ hết sức thành tâm cầu nguyện! Các Cô các Cậu trẻ người non dạ hình như không có nghĩ gì đến cầu nguyện mấy, nhưng nếu các cô các cậu biết cầu nguyện đã phù hộ cho tôi như thế nào... Ồ, tôi sẽ khấn cho hai Cô Cậu được hạnh phúc vui tươi!" Nói xong, bà khóc, bà hôn lên trán Martin, cái hôn ngắn dịu dàng, âu-yếm của một bà già, và chàng cũng suýt khóc theo bà. Lúc chàng ra về, Madeline khẽ thì-thầm "Anh à, em thì em không có ý nghĩ gì cả, nhưng Me muốn anh em mình cùng đi nhà thờ với Me. Anh liệu xem có thể đi được không, chỉ một lần thôi?" Tất cả thiên-hạ, cả anh chàng Clif Clawson hay báng bổ thần thánh kia, đều xững xờ kinh-ngạc trước cảnh tượng Martin đóng khung trong bộ quần áo là thẳng nếp, chiếc cổ áo sơ-mi hồ bột cứng như cái xiềng, và chiếc cà-vát thắt rất công phu, đi theo Bà Fox và Cô Madeline đồng-trinh lắm mồm lắm miệng đến nhà thờ Giám-Lý-Hội Tỉnh Mohalis để nghe Mục-Sư Tiến-Sĩ Myson giảng về "con đường duy nhất đi đến đạo-đức”. Họ đi qua mặt Mục-sư Ira Hinkley. Mục-sư Ira nhìn một cách mãn túc và 53 kính tín cảnh thúc-phọc của chàng Martin trai trẻ. VII Tuy Martin thành thực tin ở ý-tưởng bi-quan của Gottlieb đối với trí-thức của con người, nhưng chàng cũng tin rằng ở đời có cái mà người ta coi là tiến-bộ, các biến-cố cũng có một ý nghĩa gì đó, về con người ta cũng học được một cái gì; chàng tin rằng nếu đã có lần Madeline chấp nhận rằng nàng chỉ là một thiếu-nữ tầm thường, một đôi khi bị thất bại, như vậy tức là nàng đã được giải-thoát rồi đó. Nhưng chàng lại ngạc-nhiên thấy nàng lại bắt đầu "cải-tiến” chàng, mà lần này lại mạnh mẽ hơn trước. Nàng than phiền chàng là một người tầm thường, "cao vọng thấp lè tè”. Nàng bảo: "Anh tưởng anh tự cho mình hơn người là khôn lắm đấy hử. Đôi khi em tự hỏi không biết đây có phải là bệnh làm biếng của anh không. Anh chỉ mơ mộng hão huyền về những công việc trong phòng nghiên-cứu của anh. Vì lẽ gì anh lại tự cho là khỏi phải học môn dược-khoa, không cần ghi vào đầu óc anh các đơn thuốc và thứ này thứ khác? Các sinh-viên khác đều phải học cả. Không, em chẳng hôn anh nữa. Em muốn anh xử sự ra người lớn và biết nghe theo lẽ phải”. Đã bực mình vì những lời chỉ trích, lại khao khát đôi môi và nụ cười thắm thiết của nàng, chàng bị quay cuồng cho đến cuối học kỳ. Một tuần lễ trước ngày thi, trong khi chàng định mỗi ngày bỏ ra hai mươi bốn tiếng đồng hồ để gần gũi yêu đương nàng, hai mươi bốn tiếng để học thi, và hai mươi bốn tiếng để làm việc trong phòng thí-nghiệm vi-trùng, chàng hứa với Clif Clawson là tới kỳ nghỉ hè chàng sẽ đi với Clif, làm bồi trong một khách sạn ở Gia-nã-Đại. Đến chiều, chàng gặp Madeline và đi dạo chơi với nàng trong khu trồng anh đào của vườn thí-nghiệm canh nông. Nàng phàn nàn: - Anh có biết em nghĩ gì về cái anh bạn kinh khủng Clif Clawson của anh không? Em chắc anh chả thèm nghe ý kiến của em đối với anh ấy. Martin không thích nghe, chàng đáp khéo: - Anh đã biết ý kiến của cưng rồi, cưng ạ. - Đã thế thì em có thể nói thẳng với anh ngay bây giờ là anh chưa biết ý kiến của em về việc anh định đi làm bồi! Em nói thực chứ em không hiểu vì lẽ gì anh không kiếm lấy một công việc đường hoàng xứng đáng với con người quý phái trong lúc nghỉ hè, thay vì đi rửa đĩa rửa chén nhơ nhớp. Sao anh không thể làm cho một nhà báo nào, làm ở đó anh có thể ăn mặc đường hoàng và tiếp xúc với những người tử tế, có hơn không? 54 - Đúng như vậy. Anh có thể làm giám-đốc, chủ bút tờ báo là khác. Nhưng em đã nói thế thì mùa hạ năm nay anh không làm gì cả. Có điên thì hãy đi làm. Anh sẽ đi Tân-Cảng ngày thì chơi "Golf” và chiều chiều mặc lễ-phục. - Chơi như vậy dẫu sao cũng không hại gì cho anh! Em rất trọng nghề lao-công lương thiện. Đúng như Burns nói, chẳng có nghề nào xấu. Nhưng đi làm bồi bàn! Ồ, anh, tại sao anh lấy làm kiêu-hãnh về cái tính cộc-cằn của anh nhỉ? Thôi, anh đừng cho mình là khôn nữa đi, chỉ trong một phút thôi, anh hãy lắng nghe tiếng lặng đêm khuya, thưởng-thức mùi hoa đào... Hay có lẽ một khoa-học-gia đại tài như anh, cao-siêu hơn những kẻ bình-phàm, đâu có thèm ngửi mùi hương anh-đào cơ chứ! - Phải. Chỉ trừ có mỗi một điều là bao nhiêu hoa anh-đào đã rụng hết từ mấy tuần lễ nay, còn em nói cái gì cũng đúng chết đi được. - Ồ, rụng rồi à! Có thể chỉ mới tàn thôi chứ, nhưng... Anh hãy làm ơn nói cho em biết cái đám gì lờ-mờ trắng ở trên hoa thế? - Để anh nói cho mà biết. Anh thấy hình như đó là cái áo cánh trắng của một anh làm thuê làm mướn nào đó. - Này anh Martin, em nói cho mà biết chứ đừng có tưởng em chịu lấy một gã tầm-thường, thô-lỗ, ích-kỷ, chỉ chăm-chăm tìm bới vi-trùng... - Và cô tưởng dễ tôi thích lấy một bà ỷ-ỷ-eo-eo chí-cha-chí-chóe với tôi suốt ngày sao! Hai người làm mích lòng nhau, họ lấy thế làm thích; rồi họ xa nhau vĩnh viễn. Đã hai lần họ xa nhau vĩnh viễn rồi, lần thứ hai thực là đau khổ, ở gần ngay một hội-quán có một bọn sinh-viên đương hát một bài ca mùa hạ nghe đến não lòng theo điệu đàn băng-giô. Luôn mười ngày, chàng không gặp lại nàng, chàng cùng đi với Clif tới Bắc Lâm, lòng rầu rĩ vì mất nàng, vì nhớ tiếc làn da thịt mịn màng của nàng và mong nàng có thiện ý nghe theo lời chàng, chàng chỉ hơi bồn chồn về truyện rất có thể chàng sẽ đứng đầu lớp về môn vi-trùng-học, và đến năm tới giáo-sư Gottlieb sẽ chỉ định chàng làm sinh-viên phụ-tá của ông. 55 CHƯƠNG: 6 HẾT THẨY CÁC chân bồi bàn tại nhà hàng Nokomis Lodge giữa rừng thông Ontario đều là sinh-viên đại-học. Người ta coi như là họ không được dự các cuộc khiêu vũ tại Nokomis Lodge... Họ chỉ đến bắt địa những thiếu nữ xinh đẹp nhất đám lôi đi chỗ khác, khỏi tay những ông lớn tuổi bảnh bao trong bộ đồ nỉ trắng. Mấy ông này chỉ còn nước đến tố cáo với ông chủ nhà hàng, các sinh-viên phải làm việc, nhưng làm có bẩy tiếng mỗi ngày. Ngoài thời giờ ấy ra, họ đi câu, bơi lội, họăc dạo chơi trên những con đường rợp bóng mát. Martin thì trở về Mohalis, nhẹ nhàng, thoải mái và yêu Madeline như điên. Chàng và nàng viết thư cho nhau, hối tiếc, lễ độ, trước còn nửa tháng một lần, sau rồi mỗi ngày một lần, say mê nồng nhiệt. Suốt mùa hè, nàng bị đưa về quê nhà, gần Ohio, giáp ranh với Winnemac, một tỉnh lớn hơn Elk Mills, quê của Martin, nhưng nóng hơn và kém đông đúc với những xưởng chế tạo bé nhỏ. Nàng những than thở trên suốt một trang giấy với dòng chữ rời rạc yếu ớt: "Có lẽ chúng ta chẳng còn bao giờ gặp nhau nữa, nhưng em muốn nói để anh biết em rất quý tất cả những câu truyện chúng ta đã nói với nhau về khoa-học, về lý tưởng, về giáo dục, v.v... Bây giờ em lại càng hiểu rõ hơn và quý hơn, vì ở đây, mỗi khi em phải nghe mấy anh hủ-lậu ba-hoa toàn những truyện sắm xe hơi hay truyện phải trả công cho đầy tớ gái bao nhiêu, v.v... và v.v... Ồ, thực khổ chết đi được. Anh đã cho em rất nhiều nhưng em cũng đã tặng anh chút ít gì đó, phải không anh? Em có thể nhầm lẫn không anh, chắc em không thể luôn luôn nhầm lẫn, anh nhỉ?" Martin cảm-xúc thở-than: "Ồ, em yêu của anh, em bé bỏng của anh! Em đâu có luôn luôn nhầm lẫn! Tội nghiệp em, em bé bỏng yêu quý của anh!” Vào khoảng giữa mùa hè, chàng nàng lại cương quyết đính hôn lại với nhau, và, tuy chàng hơi bị bối rối vì một cô thu ngân của nhà hàng, một cô giáo trẻ trường Wisconsin có đôi mắt cá chân đẹp và nụ cười si dại, nhưng chàng nhớ Madeline vô tả, đến nỗi có đêm thao thức hàng giờ đồng hồ không ngủ, chàng tính xin nghỉ việc để về ngay với người yêu, hưởng sự chiều chuộng âu-yếm của nàng. Chuyến xe lửa đi về sao mà chậm đến thế, sốt ruột đến chết đi được, khi xuống ga Mohalis, chàng phát sốt lên vì những ảo tưởng về nàng. Hai mươi phút sau, chàng và nàng đã ôm chầm lấy nhau trong gian phòng khách tĩnh mịch ở nhà nàng, và thực thế, đúng hai mươi phút sau đó, nàng đã bắt đầu 56 chế nhạo Clif Clawson, các cuộc đi câu cá, và tất cả các giáo-sư, nhưng thấy chàng giận, nàng đành phải xụt xùi nước mắt, chịu thua chàng. II Niên khóa thứ ba của chàng như một cơn lốc. Nào là buổi sáng phải đi nghe giảng về phép chẩn-đoán bệnh, về khoa giải-phẫu, khoa thần-kinh, khoa hộ-sanh và phụ-khoa y-học; nào là buổi chiều thì dự lớp thực-nghiệm ở bịnh-viện, nào là giám-thị việc chế-tạo chất cấy vi-trùng và khử trùng những đồ thủy-tinh cho Gottlieb; nào là dạy tân sinh cách xử dụng máy hiển vi, máy lọc, máy hấp; nào là thỉnh thoảng đọc một trang về khoa-học Pháp hay Đức; nào là không ngớt hỏi thăm Madeline. Phải làm cho hết ngần ấy công việc, lúc nào chàng cũng tất bật đến bấn loạn cả tâm thần, và trong cái lúc bận tối tăm mặt mũi nhất, chàng bắt đầu tự làm một công-cuộc nghiên-cứu riêng... Bước những bước đầu tiên thơ mộng lên những ngọn núi chưa có dấu chân người đi tới. Chàng đã chích thuốc trừ bịnh thương hàn vào mấy con thỏ, và chàng tin rằng nếu đem huyết-thanh rút ở mấy con vật miễn dịch ấy ra trộn với vi-trùng thương-hàn, thì các vi-trùng này tất chết. Không may – chàng thấy – những vi-trùng này vẫn sống phây-phây. Chàng đâm ra lúng-túng; chàng chắc rằng kỹ thuât của chàng còn vụng, nên thử đi thử lại nhiều lần, làm việc cho tới nửa đêm, thức cho tới sáng để suy nghĩ về các điều ghi chép của chàng. (Tuy trong thơ gởi cho Madeline, chữ chàng viết nguệch-ngoạc, khác nhau, nhưng trong những tờ ghi chép thì hết sức rõ ràng chính xác), khi chàng biết chắc là Tạo-Hóa đã nhất quyết làm một việc chẳng nên làm, chàng tìm đến Gottlieb, thú nhận sư thất-bại và cãi lý: “Mấy con vi-trùng khốn nạn lẽ ra phải chết trong huyết thanh miễn dịch này, nhưng nó lại không chết. Chắc lý-thuyết có chỗ nào sai”. Gottlieb đập mấy tờ giấy đương cầm xuống bàn, nói tức: - Nầy cậu, có phải cậu định chống lại khoa-học đấy phải không? Cậu cho rằng cậu có đủ khả-năng, hứ, để công-kích các định-lý về thuyết miễn-dịch hẳn? - Thưa giáo-sư, con xin lỗi giáo-sư. Con chẳng cần biết định-lý là cái gì; con chỉ biết đây là những điều con tìm thấy. Thành thực mà nói, con đã thử đi thử lại, và kết quả vẫn thế, giáo-sư thấy đấy. Con chỉ tin ở những điều con nhận xét thấy. Gottlieb hớn-hở nói: 57 - Con của ta, ta nhân danh giám mục ban phước lành cho con! Đường lối như vầy mới đúng! Con hãy nhận xét những điều nhận xét của mình, và nếu thấy nó bẻ queo tất cả những quan điểm đẹp đẽ, chính xác của khoa-học thì cứ việc quẳng những quan điểm đó đi! Martin à, ta rất vui mừng về con. Nhưng bây giờ hãy đi tìm xem cái nguyên-do tại sao, cái nguyên-lý căn-bản đi. Bình thường, Gottlieb chỉ gọi chàng là Arrowsmith hay là "anh" hay là "cậu". Khi bực mình thì ông kêu chàng – hay bất cứ một sinh-viên nào – là “Bác-Sĩ”. Chỉ những lúc nghiêm trọng, ông mới cho chàng cái hân-hạnh được ông kêu bằng cái tên "Martin", và cậu bé sướng rơn lên, chập chững đi tìm (nhưng chẳng bao giờ thấy) cái nguyên-do tại sao sự-vật lại sinh ra như vậy. III Gottlieb phải chàng đi Zenith, tới Tổng Y-Viện Zenith to-lớn đồ-sộ, để lấy một loại vi-trùng bịnh sưng màng óc ở một bệnh-nhân khác thường. Anh thư-ký chuyên việc tiếp khách – chỉ biết có mỗi việc ghi sổ những tên tuổi, địa-chỉ, nghề-nghiệp, và tôn giáo của bệnh-nhân, và chẳng bao giờ quan tâm đến ai sống, ai chết, hoặc ai khạc nhổ lên tấm thảm đẹp màu xanh trắng trải trên sàn nhà thương, hoặc ai tới, ai đi để lấy vi-trùng bịnh sưng màng óc, miễn là địa-chỉ ghi cho đầy đủ rõ ràng – anh vênh-vênh cái bộ mặt đáng ghét bảo chàng đi lên khu D. Qua những dãy hành-lang dài, những dãy phòng không có số trong có mấy bà già da mặt vàng ệch, mặc áo ngủ bằng vải thô, ngồi trên giường trố mắt nhìn ra, Martin đi lăng-quăng, làm ra vẻ quan trọng, để người ta tưởng mình là một bác-sĩ, nhưng kết cuộc chỉ thấy mình ngượng ngùng lúng-túng vô kể. Chàng đi qua mặt các cô điều-dưỡng thật nhanh, khẽ gật đầu chào họ, theo kiểu (hay điệu bộ mà chàng cho là kiểu) của một bác-sĩ giải-phẫu trẻ tuổi tài cao học rộng, đương có việc vội phải đi mổ cho bệnh-nhân ngay. Chàng mãi nghĩ làm ra vẻ một bác-sĩ giải-phẫu trẻ tuổi tài cao học rộng nên đi lạc đường, đến lúc biết ra thì thấy mình đương ở trong một khu toàn những phòng riêng. Trễ mất rồi, chàng không còn thời giờ làm điệu bộ quan trọng nữa. Giống như các chàng trai khác, chàng ghét phải thú thật mình dốt, phải hỏi thăm đường lối, nhưng chàng cũng đành phải ngừng lại ở cửa một phòng ngủ trong có một nữ điều-duỡng tập-sự đương cắm cúi lau sàn. Nàng là một cô tập-sự người bé nhỏ, mảnh mai, mặc một chiếc áo choàng vải thô xanh, đeo một chiếc yếm trắng rộng, đầu quấn một chiếc khăn buộc bằng một sợi dây thung... một bộ đồng phục trông bẩn như cái thùng nước lau nhà của nàng đang dùng. Nàng liếc mắt nhìn lên rất nhanh và trâng-tráo 58 như một con sóc vừa thoát hiểm. Chàng nói: - Này cô, tôi muốn đến khu D. Nàng đáp lừng-khừng: - Ông muốn đến đó à! - Phải! Tôi muốn đến đó. Nếu tôi có thể làm cô phải ngưng công việc... - Không sao. Cái con mụ giám-thị trời đánh ấy bắt tôi phải lau sàn nhà, mà công việc chúng tôi đâu có phải là lau sàn nhà, vì mụ bắt được tôi đương hút thuốc lá. Cái con mụ ấy đến kinh-khủng. Nếu mụ bắt gặp một đứa bé như anh lởn-vởn ở đây, mụ sẽ kéo tai anh tống cổ ra ngoài ngay. - Này cô bé này, nếu cô muốn biết... - Ồ! “Này cô bé này, nếu...” nghe thật đúng giọng ông giáo già của tụi này đi đâu về! Cái lối nói đùa lừng-khừng của nàng, cái lối nàng đối đáp chàng như thể hai người là hai đứa trẻ lè lưỡi trêu tức nhau ở một ga xe lửa, làm cho chàng trai trẻ phụ-tá quan-trọng của Giáo-Sư Gottlieb phải bực mình. Chàng gắt lên: - Tôi là Bác-Sĩ Arrowsmith, và tôi được biết: Ngay cả nhân-viên tập-sự cũng phải học cho biết bổn-phận thứ nhất của một nữ điều-dưỡng là phải đứng lên khi nói chuyện với một bác-sĩ! Tôi muốn kiếm khu D để lấy một giống... nếu cô muốn biết thì tôi cũng nói cho mà nghe! ...một giống vi-trùng rất nguy hiểm, và nếu cô vui lòng chỉ cho tôi... - Ối chu choa! Lại chết tôi lần nữa rồi. Tôi hình như chưa quen với kỷ-luật nhà banh này. Thôi cũng được. Tôi đứng lên vậy. (Rồi nàng đứng lên. Mọi cử động của nàng mềm mại uyển chuyển như dáng một con mèo đương chạy). Xin mời ông đi trở lại, quẹo về bên phải rồi rẽ về bên trái. Tôi thực vô lễ quá, xin lỗi ông nhé. Nhưng nếu ông thấy mấy cha bác-sĩ già mà nữ điều-dưỡng phải tỏ ra khúm-núm... Nói thực chứ, thưa Bác-sĩ... nếu quả ông là Bác-sĩ thật... Chàng vừa rút lui vừa giận dữ: - Tôi thiết tưởng tôi khỏi cần chứng-minh với cô! Suốt đường đi tới khu D. chàng vẫn hậm hực tức về những lời chế-giễu bóng gió của nàng. Chàng là một khoa-học-gia siêu việt, đâu có thể chịu nhục-nhã để cho một cô tập-sự điều-dưỡng đối-xử vô-lễ được... một cô tập-sự quá tầm-thường, một thiếu-nữ gầy gò mảnh-khảnh như là người ở miền Tây tới. Chàng nhắc lại lời trách mắng của chàng: "Tôi thiết-tưởng tôi 59 khỏi cần chứng-minh với cô!” Chàng lấy làm tự-đắc vì đã tỏ ra cao-kỳ, kiêu hãnh. Chàng tưởng-tượng lúc chàng kể lại truyện này với Madeline rồi kết-luận rằng: “Anh chỉ điềm-nhiên bảo nàng, "Này cô bé này, tôi biết cô không phải là người tôi cần phải giải-thích rõ nhiệm-vụ của tôi ở đây!" Anh bảo cô ta thế đấy, và cô ta 'lúa’ quá.” Nhưng sau khi chàng đã gặp người sinh-viên nội-trú giúp chàng lấy được chất tủy xương sống người bị sưng màng óc rồi, hình-ảnh cô ta vẫn không "lúa” đi trong lòng chàng một chút nào. Cô ta vẫn ở trước mặt chàng, kiên-trì, khiêu-khích. Chàng cần phải gặp lại nàng một lần nữa, nói cho nàng hiểu. Nhà khoa-học trẻ tuổi khiêm-tốn lẩm-bẩm: "Cho dẫu một người quan-trọng hơn cô ấy đi nữa, một nhân-vật quan-trọng hơn những nhân-vật quan-trọng mình đã gặp từ trước tới nay, mà xúc-phạm tới mình, tưởng mình sẽ để yên cho đi chắc!" Chàng rảo bước quay lại phòng nàng, và hai người đứng nhìn nhau tròng trọc một lúc rồi chàng mới nhớ ra rằng chàng chưa chuẩn bị sẵn những lời để mạt-sát nàng một trận. Lúc nầy nàng đã lau xong sàn, đã cởi bỏ chiếc khăn bịt đầu, tóc nàng óng như tơ, vàng như mật, đôi mắt xanh và bộ mặt ngây thơ như con nít. Nàng chẳng có một vẻ gì là lao-công trong bịnh-viện cả. Chàng tưởng chừng như nàng đương chạy xuống dốc đồi, trèo lên một bao rơm. Nàng trịnh trọng nói: - Ồ, lúc nãy tôi không có ý định vô lễ đâu. Tôi chỉ... bị lau nhà nên tôi tức quá. Thực ra tôi thấy anh rất hiền, và tôi xin lỗi đã làm mất lòng anh, nhưng trông anh trẻ quá chưa thể đậu bác-sĩ được. - Không. Tôi không phải là bác-sĩ. Tôi chỉ là một sinh-viên y-khoa. Lúc nãy tôi chỉ khoác lác mà thôi. - Tôi cũng vậy! Tự nhiên chàng cảm ngay thấy có một tình đồng bạn nhanh chóng và trọn vẹn đối với nàng, một tình giao hữu không có một chút gì màu mè, phải giữ miếng với nhau như chàng đã phải đương đầu với Madeline. Chàng nhận thấy nàng là người đồng hạng với chàng. Tuy nàng có vẻ tầm thường, hài hước, ăn nói không giữ gìn ý tứ, nhưng nàng cũng lịch thiệp, biết giễu lại những trò lừa bịp, có thể có đức tính trung-trực, trung-trực một cách quá tự nhiên, quá dễ-dãi nên không có vẻ gì là quả cảm nữa. Giọng chàng nghe rất linh hoạt, tuy chàng nói vỏn vẹn có một câu: - Cái nghề tập sự làm điều-dưỡng nầy, tôi xem có vẻ cực nhọc lắm nhỉ. - Chẳng đến nỗi cực nhọc cho lắm, cũng chỉ lãng mạn như một con sen... như chúng tôi quen gọi ở Dakota mà thôi. 60 - Cô ở Dakota tới à? - Vâng, ở một tỉnh đại đởm nhất... có những ba trăm sáu mươi hai dân số... trong toàn cõi tiểu-bang North Dakota... Wheatsylvania. Anh ở y-khoa đại-học phải không? Nếu có một nữ điều-dưỡng khác đi qua, thì hai cô cậu lại làm ra bộ đương mãi nói chuyện với nhau về công việc của nhà thương. Martin đứng ở cửa, nàng thì đứng cạnh thùng nước lau nhà. Nàng đã bịt lại chiếc khăn lên đầu, khăn bồng lên che lấp cả làn tóc óng mượt của nàng. - Vâng, tôi là sinh-viên năm thứ ba trường thuốc ở Mohalis. Nhưng chẳng hiểu sao tôi không thích học thuốc cho lắm. Tôi thích về bên phòng thí-nghiệm. Chắc tôi sẽ chuyên về vi-trùng-học, và sẽ làm loạn lên với một vài lý-thuyết lếu-láo về miễn dịch. Và tôi không ưa lối làm việc ở bịnh-viện. - Tôi rất mừng thấy anh không thích làm việc ở bịnh-viện. Chúng tôi làm việc ấy ở đây. Anh phải nghe mấy ông đốc, mấy ông già phì nộn đối-đãi ngọt-ngào nhất với bịnh-nhân... song đối với điều-dưỡng viên thì la-lối om sòm. Còn công việc ở phòng thí-nghiệm... có thể là một cái gì chân-chính. Tôi chắc anh không thể nào bịp được vi-trùng... tiếng Anh gọi là gì nhỉ... bacteria hay bacterium nhỉ? - Không, đấy là... Thế người ta gọi cô là gì nhỉ? - Tôi ấy à? Ồ một cái tên quê mùa xấu xí Leora Tozer. - Leora thì có gì là xấu? Đẹp là khác. Tiếng chim giao-phối rạt-rào, tiếng hoa xuân trong bầu không-khí yên-tĩnh, tiếng chó mơ-màng sủa giữa canh khuya, ai là người chẳng ghi lấy những tiếng đó để không làm gì khác hơn là sáo đi sáo lại. Và câu truyện của Martin và Leora nói với nhau cũng vậy, cũng tự-nhiên, cũng thường-sáo, cũng ngây-thơ vụng-về, cũng xác-thật, cũng đẹp-đẽ một cách vĩnh-cửu bất-diệt như những tiếng cổ-sơ kia, câu truyện của hai người mê-man trong nửa tiếng đồng hồ ấy đã khiến cho người này nhận thấy ở người kia có một phần bản-chất giống mình từ trước vẫn mơ-hồ thiếu-sót, đến bây giờ mới vui-mừng kinh-ngạc tìm ra. Họ tíu tít nói truyện với nhau như một đôi nam nữ nhân-vật trong một truyện cổ-tích nhạt-nhẽo, như hai công-nhân phải làm việc cực nhọc, như hai kẻ quê mùa khoác lác, như một ông hoàng tử với nàng công chúa. Truyện của họ nghe từng câu một thì thật là ngớ ngẩn, chẳng có mạch lạc gì cả, nhưng nếu đem tổng hợp lại thì thật là khôn ngoan, minh mẫn và quan trọng như sóng gầm, gió hú. Chàng nói với nàng rằng chàng rất kính phục Gottlieb, rằng chàng đã đi ngang qua xứ North Dakota của nàng trên một chuyến xe lửa, rằng chàng là một tay chơi khúc-côn-cầu cừ-khôi. Nàng thì nói với chàng rằng nàng rất mê 61 lối dân ca phúng-thích, rằng cha nàng là ông Andrew Jackson Tozer sinh quán ở miền đông (ý nói là ở Illinois), rằng nàng chẳng thiết gì cái nghề làm điều dưỡng nầy. Nàng chẳng có tham-vọng gì riêng tư và đặc-biệt, sở dĩ nàng tới đây là vì nàng ưa phiêu lưu, rằng nàng chẳng được lòng mụ giám-thị nữ điều-dưỡng cho lắm, nàng có ý nói rằng nàng cũng cố làm ăn ngoan ngoãn, nhưng rồi cứ bị những cơn bấn loạn lôi cuốn dây dưa với những vụ bậy bạ nửa đêm trốn đi chơi. Trong câu truyện của nàng chẳng có gì là dũng cảm cả, nhưng lời kể truyện một cách bình tĩnh của nàng làm cho chàng có cảm tưởng thấy câu truyện vui vui và có dũng khí. Chàng ngắt lời nàng, hỏi giọng thành khẩn: - Giờ nào cô có thể chuồn ra ngoài ăn cơm được? Chiều nay? - Nhưng... - Xin cô vui lòng nhận lời cho. - Thôi được. - Mấy giờ tôi có thể đến đón cô? - Theo ý anh, tôi có bắt buộc phải... Thôi được, bẩy giờ vậy. Suốt đường đi về Mohalis chàng cứ hết bực mình lại vui sướng. Nghĩ đến truyện một ngày phải đi về Zenith hai lần đường xá xa xôi, chàng tự mắng mình là ngu; chàng nhớ mình hiện đương đính hôn với một thiếu nữ tên là Madeline, chàng thắc mắc về truyện thiếu trung thành với vị-hôn-thê, chàng tự nhũ rằng Leora Tozer chỉ là một cô điều-dưỡng giả mạo, thất học, chẳng khác gì một con sen con đỏ, và xấc láo như một thằng bé bán báo; chàng quyết định, mấy lần quyết định sẽ gọi điện-thoại cho nàng để hủy bỏ lời hứa hẹn đi. Tuy nhiên chàng đã trở lại bệnh-viện lúc bẩy giờ thiếu mười lăm. Chàng phải ngồi chờ mất hai mươi phút trong phòng khách chẳng khác gì phòng khách của một hãng xe đòn đám ma. Chàng chợt thấy lo sợ hoảng hốt. Chàng tới đây làm cái gì? Đi với nàng chắc chẳng có gì thú vị, chàng có cảm tưởng như bữa ăn sẽ kéo dài không bao giờ xong và suốt buổi sẽ buồn đến chết đi được. Chẳng biết rồi chàng có nhận ra nàng trong bộ thường phục không nhỉ? Nhưng chàng bỗng bật đứng dậy. Nàng ở cửa phòng kia kìa. Bộ đồng phục màu xanh ảm đạm không còn nữa, nàng mảnh mai nhẹ nhàng như một cô bé con, trong bộ áo lộng lẫy như của một nàng công chúa, chạy thành một đường thẳng tắp từ chiếc cổ cao và bộ ngực trẻ trung non nớt xuống tới hai bàn chân nàng. Chàng cầm tay nàng khoác vào tay mình rất tự nhiên, và cùng nhau ra khỏi bệnh-viện. Nàng đi bên cạnh chàng, chân hơi rún rẩy như khiêu vũ, có vẻ bẽn lẽn hơn trong lúc trang nghiêm thừa-hành chức-vụ, nhưng đầu ngẩng lên nhìn chàng một cách tin tưởng. 62 Chàng hỏi: - Thấy anh đến em có vui không? Nàng có vẻ đắn đo suy nghĩ. Nàng có lối tinh nghịch, vờ làm ra vẻ phải suy nghĩ trịnh trọng, trước khi trả lời một câu hỏi rõ ràng giản dị như vậy, rồi sau nàng mới trịnh trọng (nhưng là kiểu trịnh trọng của một cô bé con, chứ không phải kiểu trịnh trọng đắn đo của một nhà chính-trị hay của một ông giám-đốc văn-phòng nào) nàng gật đầu thú nhận: - Vâng, em vui lắm. Em sợ anh đi rồi anh giận em vì đã hỗn xược với anh, và em muốn xin lỗi anh, và... em thích thấy anh ham-mê môn vi-trùng-học của anh như điên như dại. Em chắc em cũng hơi điên dại như anh. Bọn nội trú ở đây chúng nó quấy rầy hết sức, mà chúng nó toàn là cái thứ a... cái thứ cù lần, với cái ống nghe bệnh mới toanh và cái nhãn hiệu tước vị cũng mới toanh. Ồ... (Nàng nhắc lại, lần này trịnh trọng hơn bao giờ hết). Ồ, ý, vâng, thấy anh đến em vui lắm... Nhưng không biết mình chấp nhận như vậy có phải là ngu không nhỉ? - Em có là người đáng yêu thì mới chấp nhận như thế chứ. Chàng thấy hơi ngây ngất vì nàng, và lấy cánh tay ép chặt bàn tay nàng. - Anh có tin là em không để cho bất cứ một sinh-viên hay một bác-sĩ nào cũng rủ em đi chơi được đấy chứ? - Và em, Leora à, em có tin là bất cứ một cô gái đẹp nào anh cũng tìm cách rủ đi chơi không? Anh muốn... anh cảm thấy bề nào rồi hai chúng mình cũng thân nhau. Có thể như vậy được không em? Có thể như vậy được không em? - Em cũng chả biết nữa. Để xem xem. Mình đi ăn ở đâu đây nhỉ? - Đến Đại Lữ Quán (Grand Hotel). - Đừng, anh ạ! Đắt chết người. Trừ phi anh giầu ghê lắm thì không kể. Mà anh đâu có giầu, phải không anh? - Không. Anh không giầu. Chỉ vừa đủ tiền để học xong trường thuốc thôi. Nhưng anh muốn... - Mình đến Bijou, anh ạ. Tiệm ấy khá mà không mắc. Chàng nhớ Madeline thường hay nói gần nói xa rằng đến Grand Hotel, là nhà hàng huy hoàng nhất ở Zenith mà ăn thì thực là tuyệt, mà đây là lần chót chàng nghĩ tới Madeline tối hôm đó. Chàng bị Leora Tozer thu hút mất cả tâm hồn. Chàng không ngờ con gái ông Andrew Jackson Tozer lại thiếu thận trọng, không có thiên kiến, và ngay thẳng như vậy. Nàng không có lối đòi hỏi yêu sách như các thiếu nữ khác. Nàng không bao giờ có ý "Cải Tiến Người Yêu" 63 biến thành một con người khác, và cũng ít khi mích lòng phật ý; không màu mè tình tứ mà cũng chẳng vô tình lãnh đạm. Từ trước tới nay, nàng là thiếu nữ đầu tiên chàng tiếp chuyện mà khỏi phải giữ-gìn ý tứ. Chàng nói một thôi một hồi tất cả tâm sự của chàng, một môn đồ của Gottlieb, không còn để cho nàng có dịp nói xen vào một lời nào. Đối với Madeline thì Gottlieb là một lão già nguy hiểm, đem tánh chất thiêng liêng của Hôn Nhân và của những bông huệ cúng trong Lễ Phục Sinh ra để mà giễu cợt. Đối với Clif Clawson thì ông là một người chán ngấy, nhưng Leora đã đỏ mặt lên khi chàng đập bàn đem cái ý kiến sai lầm của chàng ra để dẫn chứng! "Cho đến bây giờ, ngay cả trong những công trình của Ehrlich, phần nhiều các công-cuộc khảo-cứu mới chỉ là thí-nghiệm và nhầm lẫn, vì người ta chỉ căn cứ vào kinh-nghiệm, mà căn cứ vào kinh-nghiệm là phương-pháp phản-nghịch với phương-pháp khoa-học, nhờ phương-pháp này người ta có thể tìm tòi đặt thành một luật chung chi-phối một nhóm các hiện-tượng khiến người ta có thể tiên đoán được những sự việc sẽ xẩy ra". Chàng nói một cách trịnh trọng, nhìn chòng chọc qua bàn thẳng vào mặt nàng, gần như là giận dữ. Chàng lại nhấn mạnh: - Thế em đã thấy Gottlieb so với tất cả cái bọn bác-sĩ con buôn, cũng như cái bọn chuyên-viên khảo-cứu mà người ta sản xuất ra từng loạt một, như rập bằng máy, chuyên đi tìm bới những chi tiết nhỏ nhặt, vo-ve trên đống phân, khác nhau ở chỗ nào chưa? Em đã hiểu ông ấy chưa? Em đã hiểu chưa? - Dạ, chắc em hiểu rồi. Dẫu sao đi nữa, em cũng chia xẻ nổi lòng nhiệt-thành sốt-sắng của anh đối với ông ấy. Nhưng anh à, xin anh đừng có hò hét nạt nộ làm em sợ như thế nữa đi! - Anh nạt nộ à? Đâu anh có ý như vậy. Chỉ có điều khi anh nghĩ đến cái lối mà phần nhiều mấy ông giáo-sư ngu-si dốt nát chẳng có lấy một chút ý-thức gì về công việc của ông ấy... Thế rồi Martin lại thao-thao bất tuyệt trổ ngón sở trường ra, và nếu Leora có không hiểu gì cho lắm về sự liên quan giữa sự hóa hợp của các kháng thể với công việc nghiên-cứu của Arrhenius, thì nàng cũng ngồi yên vui vẻ nghe chàng hùng biện, chứ không có trách khéo sửa nhẹ chàng như lối Madeline. Mãi sau buộc lòng nàng phải nói cho chàng biết rằng mười giờ nàng phải có mặt tại bệnh-viện, lúc đó chàng mới thốt ra rằng: - Chết chửa, anh ba hoa nhiều quá! Chắc anh không làm phiền lòng em đấy chứ. - Em thích nghe truyện anh. - Nhưng anh nói về vấn-đề chuyên-môn nhiều quá, và nói to quá... Ồ, anh thực là thô-lỗ vụng về! 64 - Em chỉ mong được anh tin em là đủ. Em chẳng có thông minh tài giỏi gì, nhưng khi bọn đàn ông ở quê em cho rằng em có đủ thông minh để nghe hiểu truyện của họ thì em cũng thích lắm và... Thôi chào anh, về nhá! Trong vòng nửa tháng, hai người đi ăn cơm với nhau hai lần, và cũng trong thời gian ấy, mặc dầu Madeline, vị-hôn-thê chân thật của chàng gọi điện-thoại cho chàng nhiều lần chàng cũng chỉ đến gặp có hai lần thôi. Dần dần chàng biết hết gốc-tích của Leora. Nào bà cô của nàng bị bệnh nằm liệt giường ở Zenith, là cái cớ để nàng có thể đi xa đến như vậy và tới học tập ở nhà thương này. Nào thôn Wheatsylvania ở North Dakota, có mỗi một đường phố nhỏ, cuối đường có những vựa thóc vựa lúa sơn đỏ. Nào cha nàng là ông Andrew Jackson Tozer, cũng có người kêu ông là Jackass Tozer, là chủ ngân-hàng, chủ xưởng bơ sữa, và chủ một nhà máy lúa, nên thành ra người quan-trọng nhất tỉnh, chăm đi lễ chiều Thứ Sáu, mỗi khi cho nàng hay mẹ nàng một xu nào là làm om-sòm cả lên; nào Bert Tozer, anh nàng, răng nhọn như răng sóc, đeo kính có sợi dây vàng mắc lên tai, làm thủ-quỹ, nào truyện tất cả nhân-viên trong cái ngân-hàng vỏn-vẹn có mỗi một phòng làm việc của cha nàng. Nào những bữa ăn gà quay, sà-lát, và cà-phê ở Liên-Hợp Huynh-Đệ Giáo-Hội; nào những nông-gia người Đức theo giáo-phái Luther hát những bài cựu thánh ca Teuton, nào những người Hòa-lan, Bô-hê-miên, Ba-lan. Nào xung quanh làng, lúa mọc bát-ngát dưới vòm trời dầy đặc những đám mây vĩ-đại. Và còn biết bao nhiêu là truyện khác nữa. Chàng hình dung thấy Leora luôn luôn là một "cô bé kỳ cục”, khá ngoan-ngoãn, chịu làm hết những công việc nội-trợ buồn-tẻ, nhưng trong thâm tâm luôn luôn tin-tưởng chắc chắn rằng một ngày kia sẽ gặp được một chàng trai, dù có ở trong cảnh nghèo-nàn hay nguy-hiểm nào đi chăng nữa, nàng cũng sẽ được trông thấy một thế giới đầy cảnh sắc huy-hoàng rực-rỡ ở bên chàng. Nghe nàng ngập-ngừng cố tả cho chàng thấy cuộc đời thơ ấu của nàng xong, chàng thốt lên: "Em yêu, em chả cần kể cho anh nghe truyện về em, anh cũng đã hiểu biết em rồi. Dù có thế nào đi nữa, anh cũng sẽ không để cho em vượt khỏi tay anh đâu. Em sẽ lấy anh..." Họ nói chuyện với nhau, tay nắm tay, mắt nhìn mắt tỏ tình yêu đương, trong cái quán ăn ồn-ào náo-nhiệt ấy. Lời đầu tiên của nàng là: - Em muốn gọi anh là Sandy. Tại sao em lại gọi thế? Em cũng không biết nữa. Anh đâu có chút gì là quê mùa, nhưng dẫu sao thì Sandy có nghĩa là anh của em à... Ồ, anh, em yêu anh vô ngần! Thế là Martin ra về hứa hôn với hai thiếu-nữ một lúc. 65 IV Chàng đã hứa sáng hôm sau sẽ đến thăm Madeline. Theo bất cứ một quy-tắc luân-thường đạo lý nào chàng cũng phải tự cảm thấy mình chó má đê tiện, chàng tự nhủ chắc chắn chàng phải cảm thấy mình chó má đê tiện, nhưng chàng không thể nào làm đúng được như vậy. Chàng nghĩ tới lòng nhiệt thành đáng thương của Madeline, đến cái gác thượng mà nàng ví như “Hoa viên của Tỉnh Provence", đến những tập thơ đóng bìa da mềm mà nàng lấy đầu ngón tay vuốt-ve âu-yếm; đến cái cà-vạt nàng đã mua tặng chàng, đến lòng kiêu-hãnh của nàng vì bộ tóc của chàng, khi chàng chải mượt theo kiểu các nhân-vật thượng đẳng trong các hình ảnh in trong các tạp chí. Chàng đau buồn vì tội phụ bạc ăn ở hai lòng của chàng. Nhưng nỗi thắc mắc của chàng đều tiêu tan hết vì lòng chàng quyến-luyến Leora không rứt ra được. Giao tình của Leora đã làm cho tâm hồn chàng khuây-khỏa. Có nhiều khi chàng đứng hẳn về phía Madeline bênh vực Madeline, viện lẽ rằng Leora là một cô gái nhẹ dạ, tầm thường, lúc có một mình dám nhai kẹo cao su, và lúc ở giữa công chúng chắc chắn không biết giữ-gìn móng tay cho trang nhã, cái tính xuềnh xoàng của nàng thực quý giá đối với tính xuềnh xoàng ở chính con người chàng, nó có giá trị chẳng khác gì lòng hoài vọng hay lòng sùng kính của con người ta, nó là cái bản-chất phàm-tục giúp cho nàng có tính vui vẻ tự nhiên, cũng như nó giúp cho chàng có tính hiếu kỳ sổi nổi ham hiểu biết về khoa-học. Qua ngày túc mệnh hôm sau, chàng như người mất hồn. Gottlieb hai lần hỏi chàng đã làm xong cái lớp thuốc cấy mới chưa, mà tính Gottlieb thì độc đoán, nghiêm khắc đối với những sinh-viên mà ông yêu hơn là đối với các sinh-viên khác, ông càu nhàu: "Arrowsmith, anh thực là u-mê ám-chướng! Trời ơi, chẳng lẽ suốt đời tôi cứ gặp phải những của nợ? Chẳng lẽ cái gì tôi cũng phải làm một mình mãi. Martin, anh định hại tôi đấy à? Hai, ba ngày hôm nay anh làm việc cẩu thả quá!" Martin vừa lảng đi chỗ khác vừa lẩm-bẩm “Mình khoái ông này quá!” Trong lúc tâm-thần rối loạn, chàng nhớ lại những nết xấu của Madeline, nàng hay trách móc, tính tự-phụ, ích-kỷ, bản-chất ngu-si dốt-nát. Chàng càng nghĩ càng tự đề cao mình lên, tự cho mình có một tư-cách nhân-phẩm nó khiến cho chàng nhận thấy một cách rõ ràng đắc ý rằng chàng phải bỏ rơi Madeline để cho nàng biết thân. Tối hôm đó, chàng tới thăm nàng, định bụng nếu nàng vừa mở miệng ra phàn-nàn một câu gì đó, thì lập tức chàng sẽ làm ầm lên, cuối cùng sẽ tha lỗi cho nàng, nhưng sẽ hủy bỏ lời hứa hôn giữa đôi bên và quyết tâm làm cho cuộc đời của chàng lại bình-dị như xưa. 66 Nhưng nàng không phàn-nàn lấy một tiếng. Nàng chạy ùa tới chàng: "Anh yêu, trông anh sao có vẻ mệt mỏi thế này... mắt anh trông thờ thẫn. Anh làm việc nhiều quá sức phải không? Tuần này, thấy anh không tới, em buồn hết sức. Anh à, anh đừng có tự-tử bằng cách làm việc như vậy nhá. Anh hãy nhớ là anh còn biết bao nhiêu là năm tháng trong đời anh để làm những công việc đẹp đẽ kỳ diệu. Không, anh đừng nói gì hết, anh hãy nghỉ cho khỏe đi đã. Má đi xem chiếu bóng rồi. Anh ngồi xuống đây đi. Anh coi, em xếp chiếc gối này để cho anh được thoải mái. Anh ngả lưng xuống một chút... nếu anh ngủ được thì ngủ đi một giấc... để em đọc anh nghe truyện "Cái hũ vàng" chắc anh thích lắm”. Chàng quyết tâm sẽ không thích truyện ấy, và chàng cũng chẳng có năng khiếu gì về hài hước cả, chàng khó có thể thưởng thức được, nhưng câu truyện khác thường làm cho chàng phải chú ý. Tuy giọng Madeline nghe chát chúa quê mùa, so với giọng ngọt ngào uể oải của Leora, nhưng Madeline hăm hở đọc, khiến chàng thấy ngượng và xấu hổ vì có ý định làm khó nàng. Chàng thấy chính Madeline, với tính tự cao tự đại của nàng, mới là cô gái ngây thơ trẻ con, còn Leora không biết tư lự, và sợ hãi là cái gì, Madeline mới là người đã thành thực, đã dư sức làm bá chủ một thế giới thực tại. Những lời trách móc chàng đã sắp sẵn để áp đảo Madeline đều tiêu tan đâu hết. Nàng chợt đến bên chàng năn nỉ: "Vắng anh, em thấy lẻ loi quá, suốt cả một tuần!” Thành thử, chàng hóa ra phản bội cả hai người đàn bà. Chính Leora đã làm cho chàng bị khích động không thể nào cưỡng nổi; và chính hiện tại chàng đương tơ tưởng tới Leora, đương thực sự vuốt ve Leora; ấy thế mà chính Madeline lại là người đương được hưởng lòng khao-khát yêu đương và bàn tay vuốt ve ấy của chàng. Nghe nàng thủ-thỉ: "Thấy anh đến đây vui sướng, em cũng được vui sướng," chàng không thể nói năng gì được nữa. Chàng muốn kể cho nàng nghe truyện về Leora, muốn reo mừng hò hét lên về Leora, để tỏ ra cao-hứng khoái-trá về Leora, người vợ xứng đáng của chàng. Chàng thốt ra vài lời âu-yếm, nhưng thiếu vẻ mặn nồng, khen Madeline đẹp và có học thức rộng về văn chương, rồi trong lúc nàng còn ngơ-ngác thấy vẻ lãnh-đạm của chàng, thì chàng đã bỏ ra về, lúc đó mới mười giờ. Nói tóm lại chàng đã hoàn toàn ‘thành công' để có thể tự cảm thấy mình đê tiện một cách chó má, khốn nạn. Chàng vội vã đi tìm Clif Clawson. Chàng không nói gì với bạn về Leora cả. Chàng sợ bạn cười và lấy làm tự phụ đã giữ được thái độ bình tĩnh khi bước vào phòng. 67 Clif Clawson đương ngồi tựa vai vào thành ghế, hai chân không mang giầy giép gì, gác lên mặt bàn học, đọc truyện Sherloch Holmes đặt trên cuốn sách to tướng về Y-khoa của Osler mà chàng cho rằng chàng cần phải học. - Clif! Mình muốn uống một cái gì quá. Mệt ghê lên được. Xuống quán Barney xem có gì uống chơi đi. - Ồ, anh nói nghe được quá, từ xưa đến nay bây giờ tôi mới nghe cậu thốt ra được một câu đáng tán thưởng, chẳng khác gì... - Ồ, thôi im cái mồm đi cậu. Tớ đương bực mình đây. - Á, chắc cậu Cả con bà Hai lại có truyện gì xích-mích với cô Chiêu nõn-nường Madeline rồi! Nàng đã đối xử ác-nghiệt với Martykins bé bỏng rồi, có phải không? Thôi được. Không đùa nữa. Nào đi. Làm một hớp vậy. Đi đường, Clif kể ba câu truyện mới về giáo-sư Robershaw, cả ba câu đều tục-tĩu, và hai câu thì bịa, ấy thế mà cũng làm cho Martin vui lên được một chút. Quán Barney là một nơi chứa gá cờ bạc, một tiệm thuốc lá, và từ khi dân chúng địa phương bỏ phiếu quyết định cấm rượu ở Mohalis thì đó là một nơi bán rượu lậu tuyệt hảo. Clif và bàn tay lông lá của Barney chào nhau hết sức trịnh-trọng: - Ông Barney, tôi cầu xin Thượng-đế sẽ giáng những phước lành của chiều hôm xuống cho ông, cho huyết-dịch của ông tuần-hoàn một cách tự-do đều đặn, nhất là cho bối-oản quan-tiết của xích-cốt động-mạch của ông, do mối liên-quan đó, ông bạn tôi là giáo-sư Tiến-sĩ Arrowsmith và chính tôi đây sẵn sàng vui lòng đùa chơi với một chai, cái thứ Hà-Lan Môi-Hương Tân Tửu trứ danh ấy. - Thiên địa ơi! Clif Clawson, công-tử quả thực là có một giọng du dương tao nhã. Và sau này khi công-tử đã đậu Bác-sĩ danh chiếm bảng vàng, nếu kẻ hèn này có cần phải cưa bớt một cánh tay đi, chắc chắn thế nào cũng phải chạy đến bác-sĩ và cứ nghe bác-sĩ nói tự nó cũng đã phải rụng rời ra. Thế bây giờ quý vị dùng Hà-Lan Môi-Hương Tân Tửu? Phòng ngoài của quán Berney trông rất ấn-tượng, trong bầy một cái bàn đánh bài, từng chồng thuốc lá, thỏi xô-cô-la, cỗ bài cào, và báo thể-thao in giấy màu hường xếp đống bừa bãi. Phòng trong giản-dị hơn; chỉ có những thùng sô-đa ngọt pha chút mùi thơm, một thùng đá lạnh lớn, và hai chiếc bàn nhỏ với mấy chiếc ghế khập khiễng. Barney đổ ở một cái chai mang nhãn hiệu rõ ràng là "Bia Gừng" ra hai ly huýt-ky nguyên chất mạnh kinh khủng, Clif và Martin bưng ly ra chiếc bàn ở góc phòng. Hơi rượu ngấm rất nhanh. Những nỗi buồn vơ-vẩn của Martin đã biến thành lạc quan. Chàng nói với Clif rằng chàng sắp viết một cuốn sách để trình bày lý-tưởng của 68 chàng, nhưng thực ra thì trong lòng chàng tính sẽ tìm cách giải quyết khéo-léo vụ đính hôn với hai thiếu-nữ kia đi. Chàng đã có cách rồi! Chàng sẽ mời Leora và Madeline cùng đi ăn cơm trưa với chàng, rồi chàng sẽ nói cho hai nàng biết sự thật để xem nàng nào thực sự yêu chàng. Chàng reo lên và gọi thêm một ly huýt-ky nữa; chàng khen Clif là một người bạn tốt; Barney là một nhà phước-thiện, ân-nhân của mọi người, rồi chàng lảo đảo bước lại phòng điện-thoại đóng kín cửa lại, không để cho ai có thể nghe được truyện chàng nói. Gọi đến Tổng-Y-Viện Zenith chàng gặp phải viên giám-thị thường trực về đêm, mà viên giám-thị này lại là người lạnh-lùng và đa nghi. "Giờ này đâu có phải là giờ gọi điện-thoại cho một nữ điều-dưỡng tập sự! Mười một giờ rưỡi khuya! Mà ông là ai kia chứ?” Martin cố giữ cho khỏi thốt ra câu "Đ. M. để ông nói cho mà nghe ông là ai?" là câu phản ứng tự nhiên của chàng, và chàng giải-thích rằng chàng thay lời bà cô bệnh hoạn của Leora, rằng bà già đáng thương này đương chán đời, và nếu viên giám-thị chịu nhận lấy trách-nhiệm giết một người đàn bà vô tội... Khi Leora tới nghe điện-thoại,chàng nói rất nhanh và rất bình tĩnh, cảm thấy tựa hồ như nhờ có nàng tới giúp chàng thoát khỏi vòng vây nguy hiểm của một đám người lạ mặt bu quanh chàng. - Leora hả? Sandy đây. Mai mười hai rưỡi, chờ anh ở Đại Lữ Quán nhé. Phải đến đấy. Cần lắm. Liệu thu xếp... bà cô ốm chẳng hạn. - Thôi được, anh. Ngủ ngon nhá. Nàng chỉ nói được có vậy. Gọi về nhà Madeline, chàng phải đợi một lúc lâu mới được trả lời, giọng bà Fox ngái ngủ, rung rung nói: - Dạ, dạ? - Martin đây ạ. - Ai đó ạ? Ai đó ạ? Có truyện gì thế ạ? Có phải ông muốn gọi nhà bà Fox không ạ? - Dạ, phải! Thưa bà, con là Martin đây ạ. - Ồ, ồ, trời ơi, cậu! Tôi đương ngủ say thì chuông điện-thoại kêu dậy, và tôi không nghe rõ cậu nói gì. Tôi sợ quá. Tôi tưởng có điện tín hay truyện gì cơ chứ. Tôi ngỡ có truyện gì xẩy ra cho anh của Madeline. Thế, có truyện gì thế, cậu? Ồ, lạy Trời không có truyện gì xảy ra nhớ! Lòng tin tưởng của bà đối với chàng, tình thương của một bà già mất gốc, bỡ-ngỡ ở nơi tha hương, làm cho chàng xúc cảm, chàng mất hết hơi men huýt-ky nó đã làm cho chàng tưởng mình là một tay lanh-lợi, hoạt-bát, bao 69 nhiêu gánh nặng đời lại đè chĩu lên chàng, và chàng thở dài rầu rĩ đáp rằng không, không có truyện gì xảy ra cả, mà chàng chỉ quên nói với Madeline một việc... chàng rất lấy làm tiếc đã phải gọi điện-thoại khuya như vậy... và xin được nói chuyện với Madeline một phút thôi... Rồi đến lượt Madeline lắp bắp: - Sao, Martin, anh yêu, truyện gì thế? Em mong không có truyện gì xảy ra cả! Sao, anh, anh vừa ở đây về... - Em cưng à, anh quên không bảo em. Anh có... có một người bạn rất thân ở Zenith anh muốn giới thiệu với em... - Anh nào thế? - Mai em sẽ biết. Này em, anh muốn em vào trong đó để gặp... ăn cơm trưa với nhau. Em vào, (giọng chàng bỗng vui hẳn lên) em vào, anh sẽ thết em một bữa linh đình ở Đại Lữ Quán... - Ồ, thế thì thích quá! - ... Vậy anh muốn em gặp anh lúc mười hai giờ thiếu hai mươi ở trạm xe điện, ngã tư Đại-học. Được không? Nàng đáp hồ đồ: - Ồ, thế thì em thích lắm... nhưng em lại có cái hẹn mười một giờ, và em không muốn thất hẹn, em hứa đi phố với May Harmon... nó muốn chọn một đôi giầy đi với chiếc áo "kếp đờ xin" cho nó hợp... và tụi em tính có lẽ đi ăn trưa với nhau ở Ye Kollege Karavanserai... và em cũng có ý đi coi xi-nê với nó hay với một con bạn nào đó. Me bảo phim mới Alaska hay lắm, Me vừa đi coi hồi chiều, và em muốn đi coi không có hết mất, nhưng chả biết thế nào được, có khi em về thẳng ngay nhà để học và chả đi đâu cả... - Này em hãy nghe đây! Việc quan trọng lắm. Em có tin anh không? Em có tới hay không, có hay không? - Sao, cố nhiên là em tin anh chứ còn gì nữa, anh yêu của em. Thôi được, em sẽ cố tới đó. Mười hai giờ thiếu hai mươi, phải không? - Phải. - Ở Ngã Tư Đại-học! Hay ở tiệm sách Bluthman? - Ở Ngã Tư Đại-học! Khi chàng rời phòng điện-thoại ngộp hơi nghẹt thở, trở ra với Clif, câu "em tin anh" ngọt-ngào và câu “em sẽ có” hồ-đồ vẫn còn chọi nhau chát chúa trong tai chàng. Clif hỏi: 70 - Có gì buồn thế? Vợ chết rồi sao? Hay là tụi Giants lại thắng bàn thứ chín nữa rồi? Barney coi cậu bé phiêu-lưu nhà ta rầu như xác không hồn. Mau mau rót cho cậu ấy một ly rượu dâu khác đi. Này, thưa Bác-sĩ, nếu cứ thế này mãi, Bác-sĩ nên mời một y-sĩ thì hơn. - Ồ, câm miệng đi. Martin chỉ nói có vậy, và không có ý bắt lỗi bạn chút nào. Trước khi gọi dây nói, sao mà chàng hăng hái khoái hoạt thế; chàng khen Clif cờ bạc giỏi, và gọi Barney là lão Old Cimex lectularius, thế mà bây giờ thì mặc cho Clif cố làm đủ mọi cách cho chàng vui, chàng cũng cứ ngồi thừ người ra suy nghĩ một hồi, rồi mới cằn nhằn bạn (trong lòng hơi có ý tự mãn): - Nếu mày biết được hết nỗi khổ tâm của tao... tất cả những truyện rắc rối tơ một thằng con trai mắc vướng phải... chắc mày không có ba-hoa mãi cái miệng như vậy! Clif hoảng hồn: - Này, khỉ già, nếu mày có mang công mắc nợ, thì để thằng này đi xoay tiền cho. Còn nếu... hay là mày với Madeline lại đi quá đà rồi? - Mày làm tao phát tởm! Đầu óc mày bẩn thỉu quá lắm. Tao không đáng rờ đến bàn tay Madeline. Đối với nàng, tao chỉ có mỗi nước là kính phục nàng thôi. - Cái gì mà dùng những chữ to lớn như vậy! Nhưng nếu mày đã nói vậy thì cũng chẳng sao. Tao mong tao có thể giúp nàng được việc gì. Ồ! Làm một chầu nữa đây! Barney! Cho một ly nữa đây! Hơi men bốc lên làm Martin lơ mơ bất cần, chàng đòi đánh ba sinh-viên năm thứ hai to lớn, làm Clif đâm lo, phải kéo chàng về nhà. Sáng tỉnh dậy, đầu nhức như búa bổ, và nhớ ra rằng chàng sắp phải dẫn Madeline đến chạm trán với Leora vào bữa cơm trưa. V Quãng đường nửa tiếng đồng hồ chàng phải đi với Madeline vào Zenith chẳng khác gì một đám mây đen trong cơn bão tố, một vật hiển nhiên làm cho chàng ngộp thở. Không phải chàng chỉ lo làm sao cho qua đi từng phút một, mà luôn cả một lúc ba mươi phút hãi hùng lo-lắng hiện ra trong đầu óc chàng. Trong lúc chàng lo sửa soạn những lời lẽ khôn-ngoan khéo-léo chàng sắp phải đưa ra trong hai phút sắp tới, thì tai chàng còn nghe văng vẳng thấy những lời vụng-về dại-dột chàng vừa nói xong hai phút vừa qua. Chàng tìm hết cách để làm cho nàng không để ý tới "người bạn rất thân của chàng" 71 mà nàng sắp gặp. Chàng hớn hở tưởng mình khôn-ngoan tả cho nàng nghe một đêm ở quán Barney; chàng cố tỏ ra mình kỳ-quặc mà không được, và khi Madeline thuyết cho một chập về những cái hại của rượu chè, và những cái hại đàn-đú với những kẻ vô hạnh, chàng thấy yên tâm được phần nào; nhưng chàng vẫn không đánh lạc được ý nghĩ của nàng về việc nàng đang quan tâm đến. - Mình sắp gặp ai thế hở anh? Sao mà anh bí mật thế? Ồ, anh Martin, chắc anh định giỡn em phải không? Có thực mình đi để gặp người ta không? Hay anh chỉ muốn trốn Má đi ăn uống với nhau một lúc ở Đại Lữ Quán? Ồ, hay quá! Em vẫn cứ thèm đến ăn uống một bữa ở Đại Lữ Quán, cố nhiên em biết như vậy là lố bịch, nhưng vẫn thấy hấp dẫn và... Em đoán như vậy có đúng không cưng? - Không. Có người ta thực mà... ồ, mình đi để gặp người ta thực mà! - Vậy sao anh không nói ngay cho em biết người ta là ai? Nói thực với anh chứ, anh làm cho em sốt cả ruột. - Thôi được, để anh nói cho mà biết. Người ta không phải là đàn ông, mà là đàn bà. - Ồ! - Chả là... Em đã biết rồi đó, công việc buộc anh phải đến các bịnh-viện, và có mấy cô điều-dưỡng ở Zenith giúp được nhiều việc cho anh ghê lắm. (Lòng chàng hồi hộp; mắt đau nhức. Thấy không thể nào tránh được nỗi đau khổ của bữa ăn sắp tới, chàng tự nhủ tại sao lại cứ cố chống-cự lại hình-phạt ấy). Đặc biệt là trong số có một cô kể ra thực là dị thường. Cô ấy học được rất nhiều về phương-pháp điều-dưỡng bịnh-nhân, và đã chỉ dẫn cho anh thấy rất nhiều bịnh trạng đáng chú ý, cô ấy có vẻ dễ thương... tên cô ấy la Leora – hình như họ Leo gì đó... Và cô ấy rất... Ba cô ấy là một trong những người có danh-vọng lớn ở North Dakota... giầu kinh-khủng... chủ ngân-hàng lớn... Anh đoán cô ấy có đi học điều-dưỡng chẳng qua chỉ để tham-dự một phần vào công việc thế-giới. (Chàng đã dùng giọng nói thi-vị của chính Madeline). Anh cho rằng em và cô ấy có thể cũng thích quen biết nhau. Em vẫn thường bảo ở Mohalis sao mà hiếm các cô thật sự biết thưởng thức... thưởng-thức lý-tưởng mà, em có nhớ không? - Co-ó. (Madeline vừa đáp vừa chăm chú ngó ra một vật gì ở đằng xa, ngó thì ngó đấy thôi chứ bất luận là vật gì đi chăng nữa, nàng có thiết-tha gì đâu). Cố nhiên là em thích gặp lắm. Bất luận một người nào của anh... Ồ, anh Martin! Mong rằng anh không có tán tỉnh, không có bắt bạn quá thân mật với tất cả các cô điều-dưỡng ấy. Riêng em, cố nhiên là em không biết chút gì về truyện đó, nhưng em nghe người ta nói có một vài nữ điều-dưỡng làm điếm hẳn hòi. 72 - Nói vậy, để anh nói cho em biết ngay, Leora không phải là hạng người đó. - Em tin chắc là như vậy, nhưng... Ồ, Martykins, chắc anh không đến nỗi ngốc để các cô điều-dưỡng ấy lấy anh làm trò đùa? Em nói như vậy là vì anh. Họ có cái lợi ghê-gớm. Còn như Madeline khốn-khổ này đâu có được phép đi phất-phơ vào các phòng đàn ông để... này nọ, và anh tự cho là giỏi tâm-lý lắm, anh Mart à, nhưng nói thực chứ, một người đàn bà nào hơi khôn-ngoan một tý cũng có thể xỏ dây vào lỗ mũi anh dễ như chơi. - Anh chắc anh biết giữ mình, em đừng lo! - Ồ, ý em muốn nói... không, em không có ý nói như vậy... Nhưng em mong rằng cái cô Leora ấy... nếu anh mến cô ấy thì chắc em cũng sẽ mến cô ấy, nhưng... em là người yêu duy nhứt của anh, mãi mãi... lúc nào em cũng vẫn là người yêu của anh, có phải không, anh? Madeline, một cô gái đoan-trang mà lúc đó cũng quên cả những người qua đường, nàng nắm lấy bàn tay chàng. Giọng nàng nghe có vẻ bàng-hoàng sợ-hãi, đến nỗi chàng đương giận nàng có ý nghĩ không đẹp đối với Leora, bỗng đâm ra đau-khổ. Vô tình, ngón tay cái nàng bấm mạnh vào mu bàn tay chàng rất đau. Chàng cố làm ra vẻ âu-yếm, nói: - Sao lại không... hẳn đi chứ lại... chết chưa, em coi kìa, cái mụ hàng ghế bên kia đường nhìn mình kia kìa. Dầu sao này chàng có phạm những tội bất trung thất tín thế nào đi nữa thì bây giờ trước khi đi tới Đại Lữ Quán chàng cũng đã bị trừng phạt xứng đáng quá rồi. Đại Lữ Quán, năm 1907, là lữ quán tốt nhất ở Zenith. Các khách thương thường so sánh nó với nhà hàng Parker House, nhà hàng Palmer House và khách sạn West Hotel. Nhưng từ khi có lữ quán Thornleigh với cái vẻ đơn giản một cách ngạo-nghễ của nó, thì Đại Lữ Quán mới ngày một lụt đi; bây giờ sàn nhà cẩm thạch thì bẩn thỉu, những nơi thếp vàng thì hoen ố và những bộ ghế bành đồ sộ bọc toàn da thì sút chỉ, đầy tàn thuốc lá, chỉ để cho bọn lái ngựa ngồi. Nhưng trong thời kỳ hưng-thịnh thì đó là một tửu-quán tráng-lệ vào bậc nhất giữa Chicago và Pittsburgh; một cung điện Á-đông, lối ra vào là một dẫy cổng tò-vò toàn bằng cẩm-thạch, hội-khách-sảnh xây cao ngất từ một nền cẩm thạch trắng và đen, vượt trên những lan-can bằng sắt luyện, mạ vàng, lên tới bẩy từng lầu, lắp kiếng màu lục, màu hường, màu trân-châu, và hổ-phách. Họ thấy Leora trong Hội-Khách-Sảnh, người bé xíu ngồi trên chiếc ghế có bọc đệm xây quanh một chiếc cột tròn. Nàng chăm chú nhìn Madeline và im lặng, chờ đợi. Martin thấy Leora ăn mặc bê-bối khác thường – bê-bối là chữ 73 của chính chàng. Chàng không quan-tâm đến bộ tóc màu mật ong của nàng bù-xù chụp dưới chiếc mũ đen, trông như chiếc nấm chẳng có vẻ gì cả, nhưng chàng nhận thấy và phát tức lên về sự tương-phản của cái áo mất chiếc khuy thứ ba của nàng, chiếc váy kẻ ô vuông, và chiếc áo dắc-kết "mạt vận" màu nâu lợt, đối với bộ áo sẹc xanh thanh-lịch của Madeline. Tuy vậy không phải chàng phát tức lên với Leora. Chàng ngắm kỹ hai nàng một lượt (ngắm một cách băn-khoăn khao-khát, chứ không phải ngắm một cách cao-kỳ của một chàng trai tự-phụ kén-chọn), chàng thấy giận Madeline hơn bao giờ hết. Nàng ăn mặc đẹp hơn như vậy là một điều lăng nhục khinh người, và lòng thương yêu của chàng dồn cả về Leora để che chở nàng, đùm bọc nàng. Trong khi đó, chàng ấp-úng: - ... thiết-tưởng hai cô cần biết nhau... Xin giới-thiệu cô Madeline với cô Leora.... Khao một bữa... kẻ số hên này có những hai nàng công chúa Sheba... Miệng thì nói như vậy mà trong lòng chàng thì nghĩ thầm: “Ôi! Đau khổ?" Hai nàng chưa kịp nói được với nhau một lời nào, thì chàng đã lùa cả vào gian phòng ăn khét tiếng của Đại-Lữ-Quán, đầy những chúc đài mạ vàng, ghế bọc nhung đỏ, dao nĩa bạc và những lão già da đen hầu bàn, mặc đồng phục màu lục viền kim-tuyến. Quanh tường treo một dẫy những bức tranh cảnh đẹp ở Pompeii, Venice, Lake Como, và Versailles. Leora thỏ-thẻ: - Phòng đẹp quá! Madeline cũng có vẻ như định nói một câu tương-tự nhưng dài hơn, song nàng lại ngắm những bức tranh một lần nữa và nói: - Vâng, phòng thật là rộng... Chàng gọi món ăn, lòng phập phòng lo sợ muốn chết đi được. Chàng đi vay được bốn đô-la để trả tiền ăn bữa đó, kể cả tiền cho bồi nữa, nhưng xem chừng chỉ nội mấy món ăn ngon mà chàng chọn cũng đã hết nhẵn cả bốn đô-la rồi. Trong khi chàng còn tự hỏi không biết “Purée St. Germain" là cái món gì và anh hầu bàn đứng ngó ở đằng sau lưng chàng trông đến khả ố, thì Madeline mở đầu câu truyện giọng lễ phép nghe mà phát sợ. - Chị... Leora. Thưa chị, ông Arrowsmith có nói cho em biết rằng chị là một nữ điều dưỡng. - Vâng, một thứ điều dưỡng. - Thưa chị, chị thích nghề đó? - Dạ... vâng... vâng, tôi thấy cũng thích. 74 - Làm giảm bớt nỗi đau khổ của nhân loại, em chắc phải là một công việc tuyệt diệu. Cố nhiên, công việc của em... em đương chuẩn bị lấy bằng Tiến-sĩ Văn-chương Anh... (Nàng làm tựa hồ như nàng sắp sửa lãnh hàm Bá tước...) kể ra cũng khô khan và lẻ loi. Em phải thông hiểu hết mọi sự tiến triển của ngôn ngữ này, và đủ thứ này thứ khác. Với chị, học theo lối thực hành, em chắc chị thấy cái học của em ngớ ngẩn lắm nhỉ? - Dạ, chắc thế... dạ, không; chắc là thích thú lắm. - Chị... Leora, chị quê ở Zenith? - Không ạ, em quê ở... một tỉnh nhỏ. Dạ, không đáng gọi là một tỉnh... North Dakota. - Thưa, thế ạ... về miền Tây. - Ồ, vâng... Thưa thế chị có định ở miền Đông lâu không ạ? Đúng là câu một người anh họ của Madeline ở New York đã hỏi nàng và nàng giận lắm. 1 - Dạ, em không... vâng, em nghĩ có lẽ em sẽ ở đây một thời gian. - Thưa thế chị, hự, chị có thấy thích ở đây không ạ? - Ồ, thưa có, thích lắm ạ. Những thành phố lớn như thế này... Được xem biết bao nhiêu thứ. - Lớn? Vâng, em cho tất cả đều tùy theo quan-niệm của mỗi người, thưa có phải như thế không ạ? Em vẫn cứ cho Nữu-Ước là lớn nhưng... Cố nhiên... Chị có thấy sự tương-phản với North Dakota là thích thú không ạ? - Dạ, cố nhiên là có khác. - Chị cho biết North Dakota như thế nào. Em vẫn muốn biết mấy cái xứ miền Tây ấy ra sao. (Madeline lại ăn cắp lời văn của ông anh họ nàng một lần nữa). Đại khái chị có ấn-tượng gì về cái tỉnh ấy? - Em thấy có lẽ em chưa hiểu rõ ý chị muốn biết như thế nào? - Em muốn biết cái cảm tưởng tổng quát, cái... ấn tượng? - Dạ, nó có nhiều lúa và nhiều dân Thụy-Điển. - Nhưng ý em muốn... Em chắc người ở đó, cương-cường, hùng dũng ghê gớm lắm, so với người miền Đông này. - Em không... Dạ, vâng, có lẽ thế. - Chị có quen biết nhiều người ở Zenith không? - Không lấy gì làm nhiều lắm. 1 Người miền Đông vẫn thường coi người miền Tây là lạc hậu. 75 - Ồ, chị có quen Bác-sĩ Birchall coi về giải-phẫu ở bịnh-viện chị không? Ông ấy rất tử tế, không những là một nhà giải-phẫu giỏi mà tài-hoa ghê lắm. Ông ấy hát thực là tuyệt, gia-đình ông ấy thực là tốt ghê lắm. - Không. Chắc em chưa gặp ông ấy lần nào. - Ồ, chị phải gặp mới được. Và ông ấy chơi ten-nít thực là cừ-khôi, tuyệt-diệu. Kỳ nào ông ấy cũng đi dự tiệc của những nhà tỷ phú ở Royal Ridge. Khôn ghê lên được! Đến mãi bây giờ Martin mới xen vào câu truyện: - Khôn! Ông ấy mà khôn? Ông ấy chả có một chút gì gọi là thông minh. - Ồ, cái chú bé này, tôi đâu có dùng tiếng "khôn" với cái ý nghĩa ấy! Thế là chàng lại ngồi trơ ra một mình, chẳng biết nói gì nữa, và nàng lại quay sang Leora hăm hở hỏi Leora có biết cái cậu con trai ấy của ông luật sư cố-vấn của một công-ty kia không, có biết cô hoa khôi mới nổi danh ấy, cái tiệm mũ ấy, câu-lạc-bộ ấy không. Nàng nói một cách rất là thông thạo những nhân vật vẫn được coi là trọng yếu của Xã-Hội Zenith, tên tuổi thường ngày vẫn được người ta nhắc tới trong mục Hoạt Động Xã Hội của tờ Thời Luận. Martin phải ngạc nhiên về sự thông thạo ấy của nàng, chàng nhớ một lần nàng có đi dự một dạ hội từ thiện ở Zenith nhưng chàng không ngờ rằng nàng lại thân với giới thượng lưu ở đây. Chắc chắn là Leora chưa bao giờ nghe đến tên những nhân vật quan trọng ấy, mà cũng chưa bao giờ đi dự thính những buổi hòa nhạc, diễn thuyết, độc tấu, mà Madeline hình như chiều nào cũng tham dự. Madeline khẽ nhún vai nói: - Dạ... cố nhiên là với những vị bác-sĩ và những người khéo quyến rũ mà chị gặp ở bịnh-viện, em chắc chị thấy những buổi diễn thuyết nhạt nhẽo ghê lắm... (Rồi bỏ Leora, nàng quay sang nhìn Martin với vẻ ân cần khích lệ), anh có định nghiên-cứu gì thêm với mấy con thỏ không? Chàng đã đến lúc cần phải tàn nhẫn. Chàng có trở mặt ngay thì việc mới có thể xong được: - Madeline! Anh để cho hai người gặp nhau vì... Chả biết hai người có cảm tình với nhau không, nhưng anh mong là có, vì anh đã... Ồ, anh khỏi cần phải tự bào chữa là gì. Anh không thể tự bào chữa được. Anh đã... hứa hôn với cả hai, và anh muốn biết... Madeline đứng phắt ngay lên. Trông nàng chưa bao giờ kiêu hãnh và đẹp như bấy giờ. Nàng nhìn hai người, rồi bước đi, không nói năng gì cả. Nhưng rồi nàng quay lại, quàng vai Leora và cúi xuống hôn nàng: "Chị, em lấy làm buồn cho chị. Chị mua nợ vào thân! Chị bé bỏng đáng thương". Nói xong 76 nàng đi luôn, mặt vênh lên. Martin lo sợ cúi gầm mặt xuống, không dám nhìn Leora. Chàng thấy tay nàng đặt lên tay mình. Chàng nhìn lên. Nàng mỉm cười, dẽ-dàng, hơi trào-lộng. - Sandy, em nói để anh biết không bao giờ em chịu từ bỏ anh đâu. Cứ cho là anh tệ như chị ấy nói đi; em thấy em cũng điên thật... trân-tráo thật. Nhưng anh là của em! Và em nói để anh biết là anh đừng có hứa hôn với ai nữa, vô ích. Em thì móc mắt nó ra! Mà bây giờ anh cũng đừng tưởng là mình ghê gớm lắm! Xem chừng cũng ích kỷ lắm đấy. Nhưng em không cần. Anh là của em! Chàng nói lung-tung truyện nọ trọ truyện kia, nhạt-nhẽo, nhưng đối với họ thì là hay. Nàng ngẫm-nghĩ một lúc rồi nói: - Em thấy chúng mình gần nhau hơn là anh với chị ấy. Có lẽ anh thích em hơn vì anh có thể bắt nạt em được... vì em thì đeo-đuổi anh mà chị ấy thì chẳng bao giờ đeo-đuổi anh cả. Và em biết là công việc của anh đối với anh quan-trọng hơn, so với em, mà có lẽ so với chính anh cũng quan-trọng hơn nữa. Nhưng em thì đần-độn và tầm-thường. Chứ không như chị ấy. Có điều, em thì em mê anh kinh-khủng (có trời biết vì lẽ gì, nhưng em mê thực), còn chị ấy thì có đủ khôn-ngoan để làm cho anh mê chị ấy và đeo đuổi chị ấy. - Không! Anh thề không phải là tại anh có thể bắt nạt em, Leora em ạ... anh thề như vậy... Anh không nghĩ như vậy. Em yêu, em đừng có... nhất định là đừng có nghĩ rằng Madeline hơn em. Nàng chỉ có bề ngoài còn... Ồ, thôi đừng nói đến nữa! Anh đã tìm thấy em! Đời anh bây giờ mới bắt đầu. 77 CHƯƠNG: 7 SỰ KHÁC BIỆT giữa mối tình của Martin và Madeline với mối tình của chàng và Leora Tozer chẳng khác gì sự khác biệt giữa một cuộc đấu gươm quyết liệt với một cuộc giao hữu êm đềm thanh lãng. Ngay từ buổi đầu, Leora với Martin, người nọ đã tin ở lòng trung thành và tình yêu của người kia và trong cuộc đời của chàng có một vài việc đã được giải quyết một cách vĩnh viễn. Tuy nhiên lòng chàng đắm say nàng không phải là không tiến triển. Luôn luôn chàng khám phá thêm được vài điều về quan niệm về đời sống mà nàng ấp ủ trong đầu óc bé nhỏ và bí mật của nàng, trong những lúc nàng ngồi hút thuốc, thở khói ra thành những vòng tròn và lặng lẽ mỉm cười. Chàng khao khát cô gái Leora, nàng khêu gợi chàng và đáp lại lòng ham muốn của chàng một cách nồng nhiệt, vui vẻ và thẳng thắn; nhưng với một Leora khác, không có biệt tính nam nữ, chàng có thể nói chuyện một cách thành thực hơn là nói chuyện với bác-sĩ Gottlieb hay với chính lòng băn khoăn bối rối của chàng, trong những lúc nàng gật-gật cái đầu trông như đầu con trai, hay những lúc nàng thốt ra một câu ngẫu-nhiên khích-lệ chàng tâm sự với nàng về những điều chàng hoài-bão hoăc khinh khi. II Liên Nghị Hội Digamma Pi tổ-chức một dạ hội khiêu vũ. Có tin là bọn sinh-viên y-khoa lo-lắng xì-xào bàn tán rất nhiều về vấn-đề Viện Đại-Học Winnemac gần đây đã trở nên quốc-tế hóa và người ta đương chờ xem họ mang những “biểu hiệu của sự tôn nghiêm", nghĩa là “mặc lễ phục" ra sao. Vào cái dịp hiếm hoi khổ sở cần phải mặc lễ phục này, Martin vẫn thuê ở tiệm Đại-Học Trang-Phục, nhưng bây giờ thì chàng cần sắm riêng một bộ, vì chàng còn phải giới-thiệu với thiên-hạ Leora, bông hoa tươi đẹp của chàng, sự kiêu hãnh của chàng. Như một đôi vợ chồng già bé nhỏ, say mê nhau, rụt rè đi thám hiểm những đường phố mới, những đường phố không có vẻ gì là ân-cần đón khách lạ của thị-xã mà con cháu họ đã di cư đến ở đây, Martin và Leora len-lén đi trong những gian hàng bề bộn đầy những hàng lộng lẫy của Benson, Hanley, Koch’s, nhà hàng sang nhất ở Zenith. Nàng bỡ ngỡ trước những quầy tủ đóng bằng gỗ đào-hoa-tâm bóng-lộn, những tấm kiếng lớn sáng loáng, những chiếc mũ cao lòng, khăn quàng cổ lộng lẫy và những chiếc quần đi ngựa màu kem. Khi chàng mặc thử xong một bộ lễ-phục, ở trong phòng bước ra cho nàng ngắm, chàng vẫn còn đeo chiếc "cà-vạt" nâu dài và mặc chiếc sơ-mi cổ mềm hơi có vẻ nhà quê bên trong chiếc áo gi-lê hở nhiều ngực, và khi người bán hàng chạy đi lấy cổ áo cứng, nàng than-van: 78 - Chết cha, anh đóng-bộ vào so với em đâm sang trọng quá. Em không thể nào ăn mặc chải-chuốt thế mà anh thì trông lịch-sự hợp thời-trang thế này thì đi với anh, em lụt mất. Chàng muốn ôm lấy nàng hôn một cái. Người bán hàng trở lại, nói lúng-túng: "Thưa bà, tui chắc bà sẽ thấy ông nhà đeo cái cổ bẻ cánh chim này đẹp lắm". Rồi, trong lúc người bán hàng quay đi lấy "nơ", chàng hôn nàng. Nàng thở dài nói: "Ồ, Sandy, anh là hạng người sau này có nhiều triển vọng. Chưa bao giờ em nghĩ em sẽ được chung sống với một người chồng mặc lễ phục và sơ-mi cổ cứng "cao vút từng mây" thế kia. Ồ, thôi được, em đành theo anh vậy!” III Phòng võ-khí của viện được trang-hoàng rực-rỡ để tổ chức dạ vũ của Hội Digamma Pi. Tường gạch phủ lụa là, điểm hoa cúc giấy, sọ người bằng thạch cao và dao giải-phẫu bằng gỗ dài hai ba thước. Trong sáu năm ở Mohalis, Martin đi dự không tới hai chục buổi khiêu vũ, mặc dầu cái thú chính của những đại-học hỗn-hợp là nam nữ sinh-viên được công khai ôm nhau vui đùa nhã nhặn. Chàng tới Phòng Võ-khí với Leora, nàng rụt rè nhưng trang nhã trong chiếc áo “kếp-đờ-xin" xanh cắt chẳng ai hiểu là kiểu gì; chàng chẳng quan-tâm mình có được nhẩy một bài theo điệu two step hay không, nhưng... nhưng chàng mong đến sốt cả ruột có đông bọn con trai tới bu quanh Leora, hỏi han nàng, ngắm nghía nàng và tán dương nàng, nhưng tính kiêu hãnh, chàng không thể dẫn nàng đi giới thiệu với mọi người, có vẻ như đi van lơn các bạn trai khiêu vũ với nàng. Thế là hai người đứng ủ-rũ một mình ở một góc hành lang trước cái sàn nhà rộng thênh thang, trong khi từng cặp, từng cặp nam nữ ôm nhau khiêu vũ cuồn cuộn như sóng nước, trông thật là vui là đẹp, thấy mà thèm, cả Leora và chàng đều đã quả quyết rằng trong một dạ hội sinh-viên, mặc bộ lễ-phục đen với gi-lê đen là điều rất thích hợp, theo đúng sách của Benson, Hanley, và Koch về phép ăn mặc của người lịch-sự, nhưng khi thấy mọi người mặc gi-lê trắng hoa mỹ thì chàng đăm ngượng và nghi ngờ lối ăn mặc của mình chả biết có thanh lịch không, nhất là khi thấy nhà giải-phẫu tập sự khét tiếng là gã Angus Duer đi qua, vênh vang như loại chó săn, vuốt đôi găng tay trắng (trắng tinh, trắng nhất trần đời), Martin càng thấy mình quê kệch. Rồi, tựa hồ như muốn thách đố hết thảy những thằng như Angus Duer, chàng bảo nàng: "Em lại đây nhẩy một bài". 79