🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Cuộc Diễu Hành Thầm Lặng - Higashino Keigo & Vương Hải Yến (dịch) & Bảo Lam Anh (dịch) full mobi pdf epub azw3 [Trinh Thám]
Ebooks
Nhóm Zalo
Sau hơn ba năm, thi thể của Namiki Saori, một nạn nhân mất tích ở Tokyo đột nhiên được phát hiện tại một căn nhà rác ở tỉnh Shizuoka. Nghi phạm của vụ án là Hasunuma Kanichi, tên nghi phạm sành sỏi từng khiến cảnh sát bất lực mười chín năm trước. Và lần này gã vẫn được phóng thích. Nhưng rồi, vào ngày diễn ra lễ hội diễu hành hóa trang nổi tiếng của thị trấn Kikuno, nơi Namiki Saori từng sinh sống, Hasunuma chết trong một căn phòng kín. Án chồng án, các manh mối quá đỗi ít ỏi, cảnh sát tiếp tục rơi vào ngõ cụt. Phải đến khi Yukawa Manabu, vị “giáo sư Galileo” vốn không ít lần ra tay giúp cảnh sát phá án, đưa ra những suy luận vô cùng sắc sảo và táo bạo, từng mảnh ghép của bức tranh mới về đúng chỗ, hé lộ một sự thật rúng động…
1
Chiếc đồng hồ treo tường chỉ 10 giờ kém 20 phút tối. Namiki Yutaro nghĩ tối nay chắc sẽ không có thêm khách nào nữa. Từ trong bếp, anh nhìn qua quầy thanh toán xem tình hình bên trong cửa hàng. Trong quán chỉ còn lại hai vị khách nữ trung tuổi. Lúc vừa bước vào quán, một trong hai người phụ nữ đã thốt lên một câu đại ý rằng lâu lắm chị ta mới tới đây, thật là hoài niệm, chắc chị ta đã từng tới quán trước đây rồi. Namiki lén nhìn xem chị ta là ai. Anh có cảm giác từng thấy người này rồi, nhưng cũng có thể đó chỉ là ảo giác. Dù sao chị ta cũng không phải khách quen của quán.
Không lâu sau, một trong hai người phụ nữ cất tiếng gọi thanh toán. Machiko đang đứng rửa bát bên cạnh Namiki liền cất tiếng đáp rồi bước ra.
“Cảm ơn chị. Đồ ăn của quán ngon lắm.” Anh nghe thấy tiếng người phụ nữ.
“Cảm ơn quý khách. Nếu được, lần tới mời quý khách lại đến ạ.” Machiko đáp.
“Nhất định tôi sẽ sớm quay lại. Thực ra mấy năm trước tôi từng tới quán nhà mình rồi. Khoảng 5,6 năm thì phải.”
“Ồ, thế ạ?”
“Hồi đó có một cô bé nhân viên quán rất xinh, tôi bắt chuyện thì biết cô bé là con gái của chủ quán. Khi ấy cô bé bảo đang học cấp ba thì phải. Cô bé vẫn khỏe chứ chị?”
Cánh tay đang dọn dẹp dao thớt của Namiki dừng lại. Không biết Machiko sẽ đáp lại câu hỏi hồn nhiên của vị khách nọ như thế nào, dẫu biết nghe là sẽ đau lòng nhưng anh vẫn dỏng tại lên.
“Dạ vâng, cháu nó vẫn bình thường ạ.” Giọng nói của Machiko thật ôn hòa. Người nghe không thể nhận ra chút xáo động tâm can nào trong giọng nói
ấy.
“Thế à, vậy thì tốt rồi. Cô bé còn ở đây không vậy?”
“Dạ không, cháu chuyển ra sống riêng rồi ạ.”
“Ồ, thế ạ? Cũng phải, trông cô bé rất chững chạc mà. Chẳng bù cho mấy đứa nhà tôi, lớn tướng rồi mà vẫn dựa dẫm vào bố mẹ, phát ngán lên được.”
“Như vậy cũng có cái hay chứ ạ.”
“Vâng, người ta hay nói lúc còn được con cái dựa dẫm là khi hãy còn được chúng quan tâm tới chị nhỉ?”
“Phải đấy ạ.”
Nghe tiếng bước chân thì có lẽ Machiko và vị khách nữ đang đi về phía cửa. Cánh cửa được mở ra lạch cạch, Namiki nghe thấy Machiko chào khách “Cảm ơn quý khách”.
Namiki đặt con dao làm bếp xuống, bước ra ngoài quầy. Lúc này Machiko vừa dỡ rèm vải xuống và bước vào trong quán.
Ánh mắt hai người chạm nhau, Machiko nghiêng đầu hỏi “Sao vậy anh?”
“Không có gì, anh nghe thấy em nói chuyện với khách nên đi ra thôi.” Namiki gãi gãi sau đầu. “Em trả lời điềm tĩnh quá. À, đương nhiên anh biết trong lòng em không điềm tĩnh chút nào.”
Machiko khẽ mỉm cười “Vâng.”
“Chuyện đó có gì ghê gớm đâu. Em làm nghề phục vụ khách khứa bao nhiêu năm nay rồi mà.”
“Anh biết thế, nhưng mà…”
Machiko dựng tấm rèm cạnh tường rồi quay lại nhìn chồng. Cơ thể chị nhỏ nhắn, gương mặt cũng nhỏ, nhưng từ hồi trẻ ánh mắt chị đã rất mạnh mẽ.
Khi bị ánh mắt ấy nhìn vào, ai cũng sẽ bất giác muốn lùi lại phía sau. “Anh vẫn chưa quen à?”
“Quen gì cơ?”
“Chuyện của Saori ấy. Quen với việc con bé không còn ở đây nữa.
Em thì quen rồi. Anh chỉ ở trong bếp nên có lẽ không biết, chứ em thường xuyên bị khách hỏi thăm những câu như vừa nãy. Có lẽ Natsumi cũng vậy. Nhưng em cũng không thấy con bé kêu ca than trách bao giờ. Hẳn là con bé cũng quen rồi.”
Natsumi là con gái thứ hai của họ. Năm nay cô học năm hai đại học. Những ngày rảnh rỗi, Natsumi sẽ tới phụ giúp việc trong quán.
Namiki lặng thinh, Machiko bèn xin lỗi.
“Em không định trách cứ gì anh cả đâu. Ý em là anh không cần lo lắng cho em quá thôi.”
“Ừ, anh hiểu rồi.”
“Anh dọn dẹp bếp nốt giúp em được không? Em phải làm vài việc ở trên kia.” Machiko chỉ tay lên trần nhà. Tầng hai của quán là khu phòng ở của gia đình Namiki.
“Ừ, em lên đi.”
“Vâng, vậy em lên trước nhé.” Machiko bước lên bậc cầu thang nằm ở một góc của quán.
Namiki lắc lắc đầu. Anh không có hứng dọn dẹp ngay, thay vì thế anh kéo chiếc ghế bên cạnh rồi ngồi xuống. Anh không thể ngăn lưng mình còng xuống. Phụ nữ mạnh mẽ thật. Trước đây anh đã nhiều lần nghĩ thế, lần này càng cảm thấy rõ ràng hơn.
Saori là cô con gái đầu lòng của vợ chồng Namiki. Lúc mới chào đời, làn da cô bé hồng hào, đôi mắt rất lớn. Anh luôn mong con đầu lòng sẽ là con trai, nhưng khi cô bé chào đời, anh không còn bận tâm đến chuyện đó nữa. Không chỉ dừng ở mức “đáng yêu không chịu nổi”, mà anh đã thực lòng nghĩ mình có thể chết bất kỳ lúc nào vì sự an toàn của cô bé này.
Machiko là cánh tay chủ lực của cửa hàng Namikiya, cả trên cương vị đầu bếp lẫn cương vị nhân viên tiếp đón khách. Ngay khi chị trở lại quán sau thời gian nghỉ sinh, căn bếp và gian quán lập tức trở thành nơi nuôi dạy trẻ. Họ đã chuẩn bị tâm thế rằng việc này sẽ rất vất vả, nhưng không ngờ lại nhận được rất nhiều sự trợ giúp vô cùng quý báu. Những khi bận rộn, khách quen trong quán nào thì bế rồi dỗ dành Saori giúp họ. Nhờ thế, khi Saori lên 1 tuổi, họ thậm chí còn nghĩ mình có thể sinh thêm đứa thứ hai được rồi.
Được mọi người yêu thương, Saori lớn lên khỏe mạnh. Khi cô bé bắt đầu đi học mẫu giáo, trên đường tới trường rất nhiều người bắt chuyện hỏi han cô bé. Mỗi lần có người bảo họ thấy hạnh phúc khi Saori cất tiếng chào họ thật lớn, Namiki lại cảm thấy vô cùng tự hào.
Hồi tiểu học và cấp hai, Saori đều rất được yêu mến. Vào dịp tới thăm nhà học sinh, cô chủ nhiệm của cô bé còn khen với Machiko rằng Saori có ưu điểm là luôn thân thiện, vui vẻ với tất cả mọi người, dù có chuyện không vui cũng không tỏ ra khó chịu.
Thành tích học tập của cô bé không quá tốt, nhưng cả Namiki và Machiko đều không bận tâm nhiều. Họ nghĩ chỉ cần Saori không làm điều gì xấu là được. Về điểm này, họ tự tin rằng cách nuôi dạy của mình không hề sai. Saori là cô bé hiểu chuyện, hầu như không bao giờ cãi lại bố mẹ. Cô bé cũng dịu dàng và rất biết chăm cô em gái nhỏ hơn mình 3 tuổi.
Ngoài chuyện học hành, Saori có một tài năng sáng chói. Đó là ca hát. Từ nhỏ cô bé đã thích hát, nhưng khi tới những năm cuối tiểu học, tài năng đó mới bắt đầu gây chú ý. Chỉ cần nghe qua một lần, cô bé sẽ nhớ được hết dù
bài hát ấy có khó đến đâu, chưa từng loạn nhịp lần nào. Nhờ con gái, cho tới lúc đó Namiki mới biết đến cụm từ “cảm âm tuyệt đối”.
Thế rồi có một cơ hội để cô bé phát huy hết tài năng kỳ diệu ấy của mình. Đó là lễ hội mùa thu. Tiết mục chính của lễ hội là diễu hành trong trang phục hóa trang, nhưng một trong những chương trình được người dân địa phương mong đợi nhất chính là đại hội thi hát. Lần đầu tiên tham gia lễ hội khi học lớp 4, Saori đã trình diễn xuất sắc ca khúc chủ đề “My heart will go on” của phim Titanic, khiến khán giả bên dưới vô cùng kinh ngạc. Namiki cũng có mặt ở đó, đó là lần đầu tiên anh thấy con gái nghiêm túc thể hiện một bài hát.
Kể từ đó, mỗi lần tới lễ hội mùa thu cô bé đều tham gia đại hội này. Saori dần trở nên nổi tiếng trong vùng, đến mức quảng trường đại hội thi hát chật cứng những khán giả tới chỉ để nghe Saori.
Lên cấp ba, Saori bắt đầu phụ việc trong quán vào dịp nghỉ hè.
Trong đám khách thối miệng, có kẻ còn từng trêu chọc, “Thế này mà đi làm ở mấy hộp đêm trên thành phố thì có mà kiếm ối tiền, lọ mọ ở cái quán ăn tồi tàn này làm gì cơ chứ?” Là một người bố, Namiki cũng nhận thấy con gái mình lớn lên thật xinh đẹp. Chỉ cần có Saori, không khí trong quán lập tức sáng bừng lên như trăm hoa đua nở.
Đương nhiên khách tới quán cũng đông hơn. Cô đúng là cô con gái xinh đẹp thu hút khách cho quán.
Lần đầu tiên ông Niikura tới quán ăn nhà họ là khi Saori học lớp 11. Ông Niikura là một người giàu nổi tiếng trong vùng. Nghe nói thời trẻ ông ấy từng mơ ước trở thành nhạc sĩ, và tới giờ vẫn giữ được mối quan hệ với người trong giới âm nhạc. Ông có tận vài phòng thu âm ở Tokyo, và nghe đâu ông cũng thường xuyên đi tìm kiếm các tài năng mới. Lần ấy ông cũng liệt kê cho họ tên những ca sĩ mà mình từng phát hiện và đào tạo.
“Con gái anh chị nhất định sẽ trở thành một ca sĩ chuyên nghiệp, thế nên hãy để cô bé tới chỗ tôi.” Ông Niikura nói với vợ chồng Namiki như vậy.
Namiki biết Saori thích ca hát, nhưng anh chưa từng nghĩ tới việc định hướng con trở thành ngôi sao giải trí, thế nên anh vô cùng bối rối trước lời đề nghị bất ngờ này. Machiko cũng vậy.
Sau khi ông Niikura ra về, hai vợ chồng bàn bạc với nhau. Cả hai đều chỉ mong Saori có một cuộc đời bình thường phẳng lặng, nhưng họ vẫn quyết định sẽ hỏi thử xem ý con thế nào.
Nghe chuyện, Saori nói muốn được thử sức xem sao. Cô bảo sợ bố mẹ phản đối nên không nói, chứ thực ra cô đã luôn muốn thử sức để trở thành một ca sĩ. Cô thú nhận rằng mình cũng có ý định học lên đại học, nhưng chỉ muốn chung chung vậy thôi, chứ không đặc biệt muốn theo học ngành nào cả.
Nếu người trong cuộc đã muốn thì đành vậy. Hai vợ chồng bàn bạc và thống nhất với nhau rằng nếu con bé đã thích thì phải để cho nó thử sức thôi, và thế là họ quyết định giao phó Saori cho Niikura.
Nếu không thành công thì lúc đó tính tiếp. Namiki nghĩ chắc mọi chuyện chẳng suôn sẻ đến thế đâu. Nhưng anh cũng nghĩ dẫu có thất bại thì chỉ cần thất bại ấy giúp con trưởng thành hơn trong cuộc sống sau này là được.
Cô con gái thứ Natsumi thực sự vui mừng cho chị. Saori còn chưa ra mắt khán giả, vậy mà Natsumi đã hứng khởi nghĩ đến hình ảnh đứng trên sân khấu lớn của chị gái.
Sau đó, vừa tới trường, Saori vừa theo học tại lò đào tạo của Niikura. Cũng may là Niikura không yêu cầu gia đình Namiki trả tiền học.
“Sau khi Saori ra mắt và trở thành ca sĩ ăn khách, tôi sẽ nhận tiền đào tạo của cô bé sau, anh chị không cần phải lo.”
Mỗi khi nhắc tới chuyện tiền nong Niikura lại nói như vậy. Ông Niikura cực kỳ ngưỡng mộ John Lennon, thành thử mái tóc dài và cặp kính tròn cũng trở thành thương hiệu của ông. Ông là một người nhẹ nhàng tử tế, không bao giờ tự đắc về việc mình là một người giàu có.
Chỉ có điều, bài giảng của ông rất khó. Saori thường than thở “Con cố gắng lắm rồi mà thầy Niikura chẳng bao giờ khen cả.” Đã vậy ông còn thường xuyên nhắc nhở các vấn đề khác trong sinh hoạt cá nhân của Saori nữa. Nghe nói đã nhiều lần ông Niikura dặn dò Saori rằng cô không nên dùng điện thoại, thứ đó chỉ cản trở việc học hát thôi. Nghe Saori kể, Namiki nghĩ thật may vì đã giao con gái cho ông Niikura bởi ông đã nói thay anh những điều anh muốn nói.
Không lâu sau, Saori tốt nghiệp cấp ba.
“Tôi định bữa tới sẽ để nhà sản xuất tôi quen nghe thử giọng hát của Saori.”
Ông Niikura tới quán vui vẻ thông báo, đó là khi năm mới vừa sang chưa được bao lâu. Saori lúc đó vừa bước sang tuổi 19.
Khoảng 2 tuần sau hôm đó. Hôm ấy, Saori ra khỏi nhà vào buổi chiều và mãi không thấy về. Namiki lo lắng gọi cho con nhưng không được.
Anh gọi điện hỏi bên nhà ông Niikura và tất cả những nơi anh nghĩ tới, nhưng vẫn không biết con gái ở đâu. Phải tới ngày hôm sau anh mới có thể báo cảnh sát.
Ngay sáng hôm ấy, cảnh sát chính thức vào cuộc. Họ tìm kiếm khắp các vùng xung quanh và kiểm tra hình ảnh của tất cả các camera an ninh được đặt ở các nơi.
Sau đó họ tìm thấy hình ảnh Saori đang đi bộ trong bộ nhớ của camera an ninh lắp trước một cửa hàng tiện lợi gần đó. Cô không đi cùng ai, tay áp điện thoại trên tai nên họ đoán khi ấy cô đang vừa đi vừa nói chuyện với ai đó.
Cảnh sát đã liên hệ với nhà mạng để tìm hiểu lịch sử cuộc gọi.
Nhưng cuộc gọi lúc ấy không gọi từ máy của Saori. Nghĩa là khi đó cô bé đang nhận điện thoại từ một người khác gọi tới. Nhà mạng cũng không nắm được lịch sử cuộc gọi đến.
Vì có khả năng Saori đã bị cuốn vào một vụ án nào đó nên cảnh sát đã mở rộng cuộc tìm kiếm. Họ thậm chí còn lùng sục cả dưới lòng con sông gần đó.
Nhưng vẫn không tìm thấy Saori. Cô đã biến mất như một làn khói.
Namiki, Machiko và Natsumi đã dán tờ rơi ở khắp nơi. Chủ các quán bên cạnh và khách quen của quán cũng giúp họ một tay. Nhưng cuối cùng vẫn không thu được thông tin hữu ích nào.
Vì quá khổ tâm, Machiko đổ bệnh, phải nằm nguyên một chỗ. Natsumi ngày nào cũng khóc tới sung cả mắt, thường xuyên nghỉ học.
Quán Namikiya ngày càng nghỉ bán nhiều hơn nhưng những khách quen biết rõ sự tình thì không ai phàn nàn gì cả.
Không lâu sau, cảnh sát bảo họ hãy nộp thứ gì đó để có thể xét nghiệm được DNA của Saori. Namiki hiểu lời đề nghị ấy có nghĩa là khi tìm thấy một cái xác nào đấy, họ sẽ xét nghiệm DNA của cái xác để đối chiếu. Cảm giác của anh khi ấy giống như đột ngột bị đẩy xuống một cái hố sâu thăm thẳm.
Thế nhưng sau đó không có tin gì từ phía cảnh sát nữa. Có lẽ vì họ không tìm thấy thi thể nào có vẻ là của Saori. Dần dần, Namiki không biết có nên vui vì chuyện đó không nữa. Nếu quả thực Saori không còn trên thế giới này nữa thì anh muốn sớm tìm thấy thi thể con để chôn cất cho tử tế, có như thế Saori mới được yên nghỉ.
Tháng trước nữa là tròn 3 năm kể từ ngày Saori mất tích. Biết rằng vô ích, nhưng anh vẫn phát những tờ rơi để thu thập thông tin ở vài địa điểm, giống như năm ngoái và năm kia. Đúng như dự đoán, việc làm ấy chẳng mang lại kết quả gì, nhưng sự thất vọng trong lòng anh không nhiều. Bởi việc làm này sớm đã trở thành một nghi thức mất rồi.
Namiki nhìn đồng hồ. Đã quá 10 rưỡi. Anh đã ngồi thẫn thờ hơi lâu. Anh đứng dậy, vỗ vỗ vào má bên phải hòng lấy lại tinh thần. Có lẽ thực sự đã tới
lúc anh nên quen với chuyện này rồi. Nếu mỗi lúc nghĩ tới Saori anh lại thẫn thờ như vậy thì sau này sẽ chẳng thể sống tốt được.
Lúc anh dợm bước quay lại bếp, chiếc điện thoại bàn trong quán reo vang. Ai gọi vào giờ này thế nhỉ? Mỗi người trong gia đình Namiki đều có điện thoại di động riêng, nếu ai đó cần liên hệ, theo lẽ thường họ sẽ gọi tới số di động riêng ấy mới phải.
Dẫu vậy anh vẫn nhấc ống nghe, trả lời “Vâng, tiệm Namikiya xin nghe” giống như trong giờ quán mở. “Đây là số của gia đình anh Namiki Yutaro đúng không ạ?” Một giọng nam trầm thấp cất lên.
“Vâng, anh là ai ạ?”
Câu trả lời của đối phương hoàn toàn nằm ngoài dự đoán của anh. “Tôi là người của Sở Cảnh sát tỉnh Shizuoka.” Người bên kia đầu dây đáp.
2
Kusagani hít một hơi thật sâu rồi mới gõ cánh cửa phòng họp. Một giọng nói cộc lốc từ phía trong vọng ra, “Ai thế?”
“Tôi, Kusanagi đây ạ.”
“Vào đi.”
“Xin phép anh.”
Nói rồi Kusanagi mở cửa phòng. Anh cúi chào rồi ngẩng đầu lên.
Ngồi phía bên kia chiếc bàn phòng họp là chỉ huy Mamiya. Anh ta cởi áo khoác ngoài, ống tay áo sơ mi trắng được xắn lên. Trên bàn để vài tờ tài liệu.
Nhưng người khiến Kusanagi căng thẳng không phải Mamiya, cựu đội trưởng đội điều tra, mà là nhân vật đang đứng cạnh cửa sổ, quay lưng lại phía anh. Nhìn mái tóc bạc như cước che kín lưng của ông đủ biết ông là ai.
Mamiya liếc nhìn phía sau lưng Kusanagi, khóe miệng dãn ra. “Anh mang theo cả nữ thư ký cơ à, đúng là vua một cõi nhỉ?”
“Tại các nhân viên khác đều bận cả thôi ạ.” Kusanagi gượng cười, quay đầu về phía sau. Cấp dưới của anh, Utsumi Kaoru đang đứng đó với dáng vẻ không thoải mái cho lắm.
“Vụ án cướp của giết người ở quận Itabashi vừa mới tìm được phương hướng giải quyết, tôi biết anh đang rất bận. Xin lỗi vì đã đột ngột gọi anh tới nhé.” Mamiya chìa tay về hàng ghế ở phía đối diện, nói. “Hai người cứ ngồi xuống trước đã.”
Kusanagi đáp “Vâng,” nhưng chưa dám kéo ghế ra luôn. Anh nhìn người đứng cạnh cửa sổ.
“Phó ban,” Mamiya gọi. “Kusanagi đến rồi ạ.”
Người đàn ông tóc bạc ngoảnh đầu lại rồi lẳng lặng xuống chiếc ghế bên cạnh. Ông là Tatara, trước là chỉ huy, giờ là phó ban Ban điều tra số Một.
Mamiya đánh mắt giục ngồi xuống, Kusanagi liền kéo ghế ra. Nhưng Utsumi Kaoru thì vẫn đứng im.
“Utsumi cũng ngồi xuống đi.” Tatara lần đầu tiên cất tiếng. Giọng nói của ông vẫn to và vang như mọi khi.
“Dạ thôi, tôi đứng đây được rồi ạ…”
“Câu chuyện sẽ khá dài đấy.” Mamiya nói. “Cô đúng đó chúng tôi không yên tâm nói chuyện được. Ngồi xuống đi.”
“Dạ.” Utsumi Kaoru ngồi xuống cạnh Kusanagi.
Khi tất cả đã yên vị, Mamiya bèn nhìn thẳng vào mắt Kusanagi.
“Không phải ngẫu nhiên mà tôi gọi anh, một đội trưởng đang bận rộn với nhiều vụ án khác, tới đây đâu. Chả là có một vụ án mà tôi muốn đội của anh cùng hợp tác giải quyết.”
Không giấu vẻ nghi hoặc, Kusanagi liền cảnh giác hỏi, “Đội của tôi ư?”
Kusanagi nghĩ chuyện có vẻ không đơn giản rồi. Nếu có vụ án nào đó, bình thường họ sẽ giao luôn cho đội điều tra sở tại. Tuy công việc của đội anh đã tạm ổn, nhưng chưa tới mức đội điều tra của chuyên án khác gọi anh tới như vậy.
“Tôi sẽ giải thích lý do cụ thể sau. Anh cứ nghe chuyện trước đã.” Mamiya rào trước như vậy rồi cầm xấp tài liệu trước mặt lên. Câu chuyện anh ta nói tiếp theo có nội dung như sau.
Hai tuần trước, một vụ hỏa hoạn đã xảy ra tại một thị trấn nhỏ thuộc tỉnh Shizuoka. Nơi bị cháy là một căn nhà rác nổi tiếng trong vùng. Hiện chưa rõ nguyên nhân gây cháy. Cũng có suy đoán là một kẻ nào đó ở gần đấy đã
phóng hỏa vì thấy khó chịu với căn nhà, nhưng đấy không phải lý do khiến vụ hỏa hoạn trở thành một tin tức gây chấn động.
Khi cảnh sát và bên cứu hỏa điều tra tàn tích sau khi dập tắt đám cháy, họ tìm thấy thứ giống như thi thể người. Hơn nữa có tới hai thi thể, và khả năng cao cả hai thi thể này đều đã chỉ còn là hài cốt từ trước khi vụ hỏa hoạn xảy ra.
Cảnh sát lập tức tiến hành xác minh danh tính của hai thi thể này. Một thi thể được cho là của bà lão sống một mình trong căn nhà rác, nhưng thi thể còn lại thì không có manh mối nào cả.
Từ số trang sức còn sót lại và chiều cao của thi thể, cảnh sát tỉnh Shizuoka suy đoán đây có thể là một phụ nữ trẻ, họ liền liên hệ để xác nhận với cảnh sát toàn quốc. Họ nhanh chóng thu được một số thông tin, trong số đó có
thông tin liên quan tới một cô gái trẻ mất tích ở thị trấn Kikuno, Tokyo 3 năm trước. Vì mặt chiếc dây chuyền thánh giá cô gái nọ đeo khi mất tích giống với mặt dây chuyền tìm thấy trên thi thể lần này nên họ quyết định làm giám định DNA. Kết quả, thi thể tìm được đúng là của cô gái mất tích
đó. Tuy nhiên cô gái đó không có mối liên hệ gì với căn nhà bị hỏa hoạn lần này cả.
Theo lời người nhà của cô gái, lúc còn sống cô gái thậm chí chưa từng tới tỉnh Shizuoka.
Mamiya đặt tập tài liệu có đính kèm ảnh trước mặt Kusanagi. Trên đó có ghi tên, địa chỉ, ngày tháng năm sinh và các thông tin khác. “Tên cô gái là Namiki Saori, thời điểm mất tích cô ấy tròn 19 tuổi.”
Kusanagi cầm tài liệu lên. Trong ảnh là một cô gái trẻ mặc áo T-shirt, đưa tay hình chữ V lên ngang mặt, miệng cười tươi. Đôi mắt to sắc nét, chiếc cằm thon nhỏ, làn môi hơi dày. Dung mạo cô gái khiến người nhìn dễ dàng tưởng tượng lúc sinh thời cô hẳn rất được cánh nam giới để ý.
“Cô gái xinh quá.” Utsumi Kaoru ngồi bên cạnh nhìn vào tập tài liệu, nói nhỏ. “Trông chẳng khác gì mấy nữ thần tượng.”
“Lời khen của cô hợp lý đấy.” Mamiya nhìn Utsumi Kaoru với nét mặt nghiêm túc. “Nghe nói cô gái này khi đó đang luyện tập để trở thành ca sĩ sau khi tốt nghiệp trung học.”
“Ồ..” Kusanagi bất giác cảm thán. Bình thường chủ đề này sẽ khiến anh muốn xen vào bình luận vài câu, nhưng riêng hôm nay anh chẳng có tâm trạng đó chút nào. Bởi khi nghe Mamiya nói, anh đã cảm thấy vụ này là một đống rắc rối. Sao họ lại muốn giao vụ này cho đội anh chứ?…
“Bộ hài cốt còn lại đã xác định chắc chắn là của bà lão chủ nhà rồi ạ?” Kusanagi hỏi.
“Kết quả đối chiếu DNA thu được từ quần áo còn sót lại sau vụ cháy cho thấy bộ xương đúng là của bà ấy. Theo lời người dân xung quanh thì từ khoảng 6 năm trước họ đã không còn nhìn thấy bà lão nữa. Nhưng vì bà lão vốn không giao thiệp với người khác nên chẳng ai để ý đến. Theo sổ hộ tịch, thời điểm 6 năm trước bà ấy đã hơn 80
tuổi. Cảnh sát Shizuoka cho rằng bà ấy chết tự nhiên, do già yếu. Chính là kiểu chết cô độc của người già mà gần đây hay được nói tới đấy.”
“6 năm trước…” Kusanagi trỏ tay vào cô gái trẻ trong ảnh. “Nghĩa là bà lão không liên quan gì tới cô gái có ước mơ làm ca sĩ này cả.”
“Ừ, đúng là như vậy.”
“Nguyên nhân cái chết của Namiki Saori đã được làm rõ chưa ạ?” Mamiya hít vào một hơi.
“Sau khi điều tra phần hài cốt còn sót lại sau đám cháy, bên giám định nhận thấy hộp sọ của cô gái có chỗ bị lõm xuống.”
“Tuy nhiên…” Vừa nói tiếp, anh ta vừa chậm rãi khoanh tay lại.
“Vẫn chưa biết đó có phải vết thương trí mạng không. Chỉ biết rằng vết thương đó không phải do vụ hỏa hoạn lần này thôi.”
“Nghĩa là,” Kusanagi nhìn mặt vị cấp trên. “Hiện chưa có chứng cứ gì cho thấy cô gái bị giết, đúng không ạ?”
“Lúc này thì đúng là chưa.” Nói rồi Mamiya liếc mắt rất nhanh nhìn Tatara ngồi bên cạnh.
“Hẳn là cậu đang nghĩ mình lại bị gí cho một vụ khó nhằn rồi đây, đúng không?”
Ánh mắt Tatara sắc lẹm sau cặp kính gọng vàng. Nhìn qua, ông chẳng khác nào một quý ngài với gương mặt thanh tao, nhưng khi làm việc, ông nổi tiếng là một người mạnh mẽ và nghiêm khắc.
“Làm gì có ạ…”
“Đừng chối. Câu đó viết cả trên mặt cậu kia kìa.” Tatara nở một nụ cười khiến người ta rờn rợn. “Dù có là một vụ giết người thì nó cũng xảy ra hơn 3 năm trước rồi. Việc tìm nhân chứng gần như là không thể. Vật chứng cũng vậy. Hơn thế nữa nơi giấu thi thể cũng bị lửa thiêu rụi. Với tình hình này chẳng biết sẽ phải điều tra cái gì, điều tra như thế nào. Nếu phải chịu trách nhiệm điều tra thì có khác nào gặp vận xui.”
Kusanagi im lặng, mắt nhìn xuống bàn. Tatara đã nói trúng tim đen anh lúc này.
“Nhưng mà…” Vị phó ban Ban điều tra số Một nói tiếp. “Cậu nhìn này, Kusanagi.”
Kusanagi quay mặt về phía Tatara, nhìn vào sâu bên trong cặp kính gọng vàng.
“Vâng?”
“Vụ án lần này, dẫu thế nào tôi vẫn muốn chỉ huy Mamiya và đội trưởng Kusanagi đứng ra giải quyết giúp.”
“Tại sao ạ?”
Tatara nhìn Mamiya, khẽ gật đầu.
Mamiya lại nhoài người về phía trước.
“Bà lão sống trong căn nhà rác đó không phải không có người thân thích nào. Thực ra bà ấy có một người con trai. Sau khi bà mất, nếu có người đột nhập vào nhà, thì khả năng cao chính là người con trai đó.”
“Có biết nơi anh ta ở không?”
“Hai năm trước anh ta đã đổi bằng lái xe. Địa chỉ trên đó là quận Edogawa, giờ anh ta vẫn sống ở đấy. Có điều, trước đó anh ta sống trong một căn hộ đi thuê ở khu Minamikikuno, thị trấn Kikuno. Cự ly theo đường chim bay từ đó tới căn hộ của nạn nhân là khoảng 2 ki lô mét. Nhưng một hôm anh ta
bỗng nghỉ việc ở công ty thu thập phế liệu, nơi anh ta vẫn làm trước đó, rồi trả lại căn hộ. Thời điểm đó là ngay sau khi Namiki Saori mất tích.”
Kusanagi thở ra một hơi nhẹ nhõm. Cuối cùng anh cũng thấy một chút ánh sáng hy vọng le lói.
Mamiya cầm lên một tờ tài liệu nữa, đặt trước mặt Kusanagi. “Là người này. Cậu nhìn kỹ đi.”
Đó là một bản phô tô phóng to bằng lái xe. Giây phút nhìn gương mặt người đàn ông trong ảnh, Kusanagi sững lại. Anh đã nhìn th ấ y,
mà không, đã g ặ p người này ở đâu đó rồi. Rồi khi nhìn tới tên người đàn ông, Kusanagi sửng sốt. Cảm giác như trong khoảnh khắc, nhiệt độ cơ thể anh tăng vọt.
Trong phần tên trên tấm bằng lái có ghi Hasunama Kanichi.
Kusanagi tròn mắt nhìn hai vị cấp trên.
“Là gã Hasunuma… đó ư?”
“Đúng vậy, chính là gã Hasunuma đó.” Mamiya nặng nề nói. “Bị cáo của vụ án bé Yuna.”
Hàng trăm ý nghĩ quay mòng mòng trong đầu, Kusanagi không nói lên lời. Gò má anh giật giật.
Anh nhìn bức ảnh một lần nữa. Nhìn gã già hơn hồi anh gặp gỡ, những biểu cảm lạnh lùng trên mặt gã thì vẫn y như cũ.
“Để tôi giúp anh nhớ lại một chuyện quan trọng nữa nhé.”
Mamiya đưa ra một bức ảnh khác. “Đây là căn nhà rác bị vụ hỏa hoạn thiêu rụi. Bức ảnh do một nhân viên tòa thị chính chụp mấy năm trước. Thế nào, anh có thấy quen mắt không?”
Kusanagi nhận lấy tấm ảnh. Trong ảnh có chụp một núi rác khổng lồ. Nhưng nhìn kỹ, núi rác đó có nóc nhà, có thể thấy cả một chiếc cổng nhỏ nữa.
Kusanagi lần mò lại những ký ức xa xôi rồi anh chợt nhớ ra.
“Địa điểm là tỉnh Shizuoka nhỉ? Không lẽ lại là… căn nhà mà chúng ta đã thu giữ cái tủ lạnh đó?”
“Đúng thế.” Mamiya trỏ tay về phía đầu mũi Kusanagi. “19 năm trước, tôi và anh đã cùng tới căn nhà này. Chỉ có điều khi đó ngôi nhà không tích nhiều rác thế này thôi.”
“Là ngôi nhà đó… ạ?”
“Giờ cậu hiểu chưa Kusanagi?” Tatara nói. “Lý do tại sao tôi lại muốn giao vụ này cho các cậu. Chuyện này tôi đã nói với trưởng phòng cảnh sát hình sự và trưởng ban điều tra số Một rồi. Hay tôi nên giao nó cho đội khác?”
“Dạ không,” Kusanagi nắm chặt đôi tay đang để trên mặt bàn. “Tôi hiểu rồi ạ. Xin hãy để đội tôi đảm trách vụ này.”
Tatara gật đầu vẻ hài lòng.
“Xin hỏi…” Utsumi Kaoru ở bên cạnh xen vào. “Vụ án bé Yuna là thế nào ạ?”
“Tôi sẽ kể cho cô nghe sau.” Kusanagi nói.
Thấy Tatara đứng lên, Kusanagi và Utsumi Kaoru cũng đứng dậy theo. Tatara sải bước khỏi phòng họp. Mamiya dợm bước đi theo, nhưng rồi anh ta dừng chân, quay đầu lại.
“Chúng ta sẽ mở chuyên án hợp tác điều tra với cảnh sát tỉnh Shizuoka tại Phòng Cảnh sát Kikuno. Còn vụ cướp của giết người ở Itabashi thì cứ giao lại cho đội điều tra sở tại xử lý nốt, anh chuẩn bị để bắt tay vào điều tra vụ này luôn nhé.”
“Vâng.” Kusanagi lên dây cót tinh thần, đáp lại.
Sau khi cánh cửa phòng họp đóng lại “cạch” một tiếng, Kusanagi quay về phía Utsumi Kaoru.
“Cô gọi cho tất cả thành viên trong đội, bảo họ khẩn cấp về sở giúp tôi.” “Rõ.” Utsumi Kaoru lấy chiếc điện thoại từ túi trong áo khoác ra.
3
Cô bé Motohashi Yuna sống cùng bố mẹ tại quận Adachi thành phố Tokyo đã mất tích vào tháng Năm 23 năm về trước. Khi đó Yuna 12
tuổi. Chiều muộn hôm ấy, cô bé nói là sẽ đi chơi với bạn ở công viên rồi rời khỏi nhà. Công viên đó rất gần nhà, lại nằm trên con đường cô bé đi học. Bởi vậy, mẹ cô bé không hề lo lắng chút nào. Nhưng đến giờ ăn tối mà vẫn chưa thấy cô bé về nên mẹ cô bé tới công viên đón. Song khi tới nơi lại không thấy Yuna đâu. Mẹ Yuna tới nhà bạn của con để hỏi thì cô bé đó nói đã chia tay Yuna, ai về nhà nấy từ lâu.
Cảm thấy lo lắng, chị gọi điện cho chồng. Hai vợ chồng đi tìm một số nơi, rồi báo cảnh sát.
Cảnh sát cho rằng vụ việc này khả năng cao là một vụ án hình sự, vì thế đã tiến hành tìm kiếm trên diện rộng. Nhưng họ không nắm được manh mối nào để tìm ra tung tích của Yuna. Thời đó camera an ninh không nhiều như bây giờ, họ cũng không thu được thông tin hữu ích nào từ nhân chứng.
Giữa hoàn cảnh đó, thông tin hữu ích duy nhất họ nắm được là lời khai của một nhân chứng, rằng người này đã nhìn thấy một cô bé giống Yuna đi bộ cùng một người đàn ông mặc bộ đồ lao động màu xanh da trời nhạt. Nhân chứng chỉ nhìn thấy phía sau lưng nên không biết mặt người đàn ông. Người
đàn ông có chiều cao trung bình, không gầy không béo, nhân chứng, vốn là một bà nội trợ, cho hay.
Chị ta nói không nhớ khi đó trạng thái của Yuna thế nào.
Nghe tới chi tiết bộ đồ lao động màu xanh da trời nhạt, ai cũng nghĩ tới chuyện bộ đồ lao động của công nhân ở xưởng sản xuất của bố Yuna, anh Motohashi Seiji, chính là màu này. Khi cho nhân chứng xem, chị ta cũng nói chúng rất giống bộ đồ của người đàn ông đó.
Trong xưởng có khoảng 30 công nhân. Cảnh sát điều tra đã đến nhà hỏi từng người một. Khi cảnh sát đề nghị muốn xem xét bên trong phòng, hầu
như mọi người đều đồng ý. Những người từ chối đều có lý do thuyết phục, không có điểm gì đáng ngờ.
Trong số những công nhân đó, có một người là Hasunuma Kanichi. 30 tuổi, sống một mình. Theo ghi chép điều tra thời đó, 3
ngày sau khi Yuna mất tích, cảnh sát đã tới nhà hỏi chuyện Hasunuma và xem xét bên trong phòng gã. Họ không thấy có điểm gì đáng ngờ.
Kết cục, cảnh sát không tìm được Yuna. Sau đó, những cuộc điều tra lấy lệ tiếp tục diễn ra nhưng chẳng thu được thành quả gì. Một tháng sau khi Yuna mất tích, mẹ cô bé đã gieo mình xuống từ một tòa nhà gần nhà tự tử. Trong di thư mẹ cô bé xin lỗi Yuna và chồng. Có lẽ đó là kết cục của việc người mẹ đã quá đau khổ sau sự ra đi của con gái, và luôn tự trách bản thân vì đã cho phép con đi chơi lúc chiều muộn nên mới xảy ra cơ sự.
Nhưng một bước ngoặt lớn của vụ án đã tới vào khoảng 4 năm sau. Cảnh sát nhận được tin báo từ một người đàn ông nọ rằng người này đã phát hiện một bộ xương có vẻ là xương người lộ ra khỏi lòng đất trong chuyến đi bộ đường dài băng qua núi Okutama của mình.
Cảnh sát địa phương vội vã tới nơi, đào chỗ đất đó lên, và họ tìm thấy những mảnh xương rời rạc do bị phân thành nhiều phần. Khi điều tra kỹ hơn, họ nhận ra đó đúng là xương người, hơn nữa từ độ dài và độ lớn của xương còn thấy được đó là xương của một đứa bé.
Phần hộp sọ của hài cốt vẫn giữ được hình dáng ban đầu, vì thế Phòng điều tra khoa học đã dựa vào hộp sọ đó để phác thảo ra mười bức tranh vẽ gương mặt. Sau khi gửi chúng cho các sở cảnh sát toàn quốc, có tin báo về rằng có thể đó chính là Motohashi Yuna. Lúc này họ quyết định xét nghiệm DNA. Không lâu sau, họ nhận được kết quả bộ xương đúng là của cô bé.
Chuyên án điều tra được lập ra ở Phòng Cảnh sát Adachi. Đội cảnh sát thuộc Sở Cảnh sát Tokyo do Tatara chỉ huy đã được cử xuống địa phương hỗ trợ. Lúc đó Mamiya giữ chức chủ nhiệm.
Kusanagi khi đó mới được phân về Ban điều tra số Một chưa lâu, anh được kỳ vọng như một nhân tố trẻ đầy triển vọng.
Tuy có ít manh mối nhưng trên bộ xương được tìm thấy có một điểm đặc trưng. Đó là, cơ thể không chỉ bị cắt thành nhiều mảnh trước khi chôn, mà còn có dấu vết cho thấy trước đó thi thể đã bị thiêu cháy.
Họ quyết định điều tra những nơi có thể thiếu thi thể quanh địa điểm Motohashi Yuna được nhìn thấy lần cuối cùng. Hung thủ không thể đốt một đám lửa lớn giữa khoảng đất trống rồi hỏa thiêu được, thế nên khả năng cao là gã đã dùng tới lò đốt. Một mặt, họ điều tra tất cả các lò đốt trong vùng, mặt khác, họ kiểm tra xem ở gần nhà các công nhân của xưởng sản xuất linh kiện có lò đốt nào không.
Trong quá trình đó Kusanagi đã để mắt tới Hasunuma Kanichi.
Thời điểm ấy Hasunuma đã nghỉ việc ở xưởng Motohashi, nhưng hồ sơ của gã vẫn được lưu lại. Dựa trên hồ sơ này, họ biết gã từng làm tại một công ty xử lý rác thải sản xuất. Ở công ty ấy đương nhiên sẽ có các lò đốt rác to nhỏ khác nhau.
Anh tới công ty đó, gặp và nói chuyện với quản lý của Hasunuma, để rồi biết được một chuyện đáng kinh ngạc. 4 năm trước Hasunuma đã gọi điện cho vị quản lý này và ngỏ ý muốn mượn lò đốt của công ty trong ngày nghỉ để thiêu hủy món đồ nào đó. Khi quản lý hỏi gã định thiêu gì, Hasunuma đáp gã đã nhận xác của vài con vật nuôi từ người quen, và gã muốn thiêu hủy chúng. Câu trả lời của gã bóng gió cho vị quản lý biết là gã đang làm dịch vụ tang lễ cho thú cưng để kiếm chút tiền tiêu vặt. Công ty xử lý rác thải đó cũng thường thiêu xác chó mèo cùng với các loại rác khác. Thành thử vị quản lý cũ đồng ý cho gã mượn, với điều kiện sau đó phải dọn dẹp sạch sẽ.
Khi hỏi về thời gian chính xác xảy ra chuyện trên, Kusanagi nhận được câu trả lời trùng khớp với thời gian mất tích của Hashimoto Yuna. Vì thế Hasunuma Kanichi đã trở thành nghi phạm hàng đầu cho vụ án đó.
Kusanagi nhanh chóng điều tra theo hướng trên, nhưng Hasunuma là một kẻ mang đầy bí ẩn. Những thứ anh điều tra được chỉ là, gã xuất thân từ tỉnh Shizuoka và đã liên tục đổi chỗ làm mà thôi.
Mamiya nói trước hết muốn gặp thử gã xem sao, vì thế Kusanagi cũng đi cùng. Hasunuma nghỉ việc tại xưởng chế tạo linh kiện nhưng không chuyển nhà. Anh đã đến tận nhà và gặp trực tiếp gã.
Hasunuma có cặp mắt nhỏ, gương mặt hầu như không cảm xúc.
Ngay cả khi nói chuyện, lớp thịt trên gò má xương xẩu của gã cũng không động đậy.
Điều đầu tiên Mamiya hỏi gã là tên của chủ nuôi những con vật gã đã thiêu trong lò đốt rác. Chỉ cần hỏi được thông tin đó sẽ xác nhận được ngay việc thiếu xác thú nuôi là thật hay giả.
Nhưng Hasunuma nói không thể trả lời câu hỏi ấy được. Gã nói đã hứa với chủ nuôi như vậy.
Mamiya hỏi gã về loại thú nuôi, bao nhiêu con, và gã đã nhận được bao nhiêu tiền cho việc đó, nhưng Hasunuma không trả lời câu hỏi nào. Cuối cùng, gã còn nói “Không trả lời cũng cấu thành tội ư?”
Giọng nói trầm thấp, không chút cảm xúc nào của gã tới giờ vẫn còn đọng lại trong đầu Kusanagi.
Vì gã từ chối trả lời nên càng trở nên đáng nghi hơn. Cơ thể vừa phải, không cao không thấp của Hasunuma cũng khớp với lời khai của nhân chứng.
Nhưng họ không tìm được hướng tấn công tiếp theo. Họ đã hỏi chuyện Motohashi Seiji, bố của Yuna và tất cả những người liên quan, nhưng không tìm thấy tiếp điểm nào khác giữa Hasunuma và Yuna ngoài việc Hasunuma là nhân viên của xưởng còn Yuna là con gái của chủ xưởng. Hasunama và công ty cũng không có tranh chấp gì với nhau.
Giữa hoàn cảnh đó, Kusanagi để ý tới một bức ảnh khác. Đó là bức ảnh chụp bên trong căn phòng của Hasunama do điều tra viên tới hỏi chuyện gã 4 năm trước chụp lại. Trong lúc ngắm ảnh, anh đã nhận ra một thứ.
Lần cùng Mamiya tới nhà Hasunuma, vừa nghe cuộc trao đổi giữa hai người, Kusanagi vừa kín đáo quan sát xung quanh. Trước đó Mamiya đã dặn anh hãy quan sát xem căn phòng đó có chỗ nào có thể giấu xác chết không. Bởi trước khi mượn được lò thiêu xác, gã chắc chắn phải giấu cái xác ở một chỗ nào đó.
Căn hộ của Hasunuma là một căn hộ gồm hai phòng và một khoang bếp sơ sài. Nếu cần giấu xác thì chắc gã sẽ giấu trong tủ đựng đồ hoặc gác mái. Anh không nhìn thấy thứ gì kiểu như một chiếc va li lớn cả.
Đột nhiên mắt anh dừng lại ở chiếc tủ lạnh. Một chiếc tủ lạnh loại nhỏ, như kiểu tủ lạnh đặt trong phòng khách sạn. Kusanagi nghĩ, dù cơ thể đứa bé có nhỏ tới đâu thì cũng không thể giấu trong chiếc tủ lạnh này được.
Nhưng trong bức ảnh 4 năm trước lại là một chiếc tủ lạnh to hơn thế. Không to như kiểu tủ lạnh được dùng trong các gia đình bình thường, nhưng nó cũng cao tới hông của người lớn. Với kích cỡ này, nếu phân xác ra làm nhiều mảnh thì có thể nhét vừa xác của một đứa trẻ.
Trong 4 năm qua, gã đã thay tủ lạnh. Tại sao lại như vậy? Kusanagi bắt đầu suy luận.
Dù cuối cùng gã đã thiêu xác trong lò, nhưng trước đó gã vẫn phải bảo quản cái xác trong phòng mình. Để kéo dài quá trình phân hủy thì nhét vào tủ lạnh là tốt nhất. Sau khi chôn xương cốt đứa bé trong núi, gã đã vứt cái tủ lạnh đi. Dẫu có máu lạnh tới đâu, gã cũng không thể thản nhiên dùng tiếp chiếc tủ lạnh đó nữa.
Nếu suy luận này là đúng, thì rất có thể trong chiếc tủ lạnh đó vẫn còn lại vết tích của thi thể.
Kusanagi cho Mamiya và Tatara xem bức ảnh, rồi nói ra suy nghĩ của mình. Hai vị cấp trên của anh cũng đồng ý rằng rất có khả năng đó. Nhưng gương mặt họ không tươi tỉnh lên chút nào. Bởi vấn đề là làm thế nào để tìm được cái tủ lạnh ấy? Quan trọng là liệu nó có còn tồn tại trên đời không? Dù sao chuyện cũng xảy ra 4 năm trước rồi.
Nhưng sau đấy, ba người cùng nghĩ theo hướng Hasunuma là thủ phạm và cùng nghĩ cách tìm ra chiếc tủ lạnh. Để cảnh sát không chú ý tới, chắc chắn gã muốn xử lý chiếc tủ thật kín đáo. Nghĩa là gã không thể thuê một công ty chính quy giúp mình được.
Nhưng giả dụ gã tự chuyển chiếc tủ đi thì cũng không thể làm việc đó một mình. Gã phải nhờ ai đó giúp đỡ.
Hasunuma không có nhiều bạn bè thân thiết. Sau khi điều tra, họ tìm ra được tên của một người là bạn chơi mạt chược của gã. Hơn nữa người này còn có một chiếc xe tải hạng nhẹ.
Họ tới hỏi chuyện người đàn ông này, anh ta vô tư thừa nhận có chuyện đó. Anh ta nói khoảng 4 năm trước từng giúp gã chở một chiếc tủ lạnh. Nơi chở tới là nhà bố mẹ của Hasunuma. Hasunuma nói với anh ta rằng gã muốn mang cho mẹ gã đang sống một mình ở Shizuoka chiếc tủ lạnh cũ của mình.
Kusanagi cùng Mamiya nhanh chóng tới ngôi nhà đó. Mẹ của Hasunuma tên Yoshie. Bà vừa thấp vừa bị còng, nhìn già hơn tuổi thật rất nhiều. Khi biết hai người đàn ông lạ mặt đột nhiên tới tìm mình là cảnh sát, bà rất sợ hãi. Bà lắp ba lắp bắp nhắc đi nhắc lại rằng mình không làm việc gì xấu cả.
Khi Mamiya nói muốn hỏi về chiếc tủ lạnh, bà Hasunama Yoshie hết sức ngạc nhiên. Có vẻ bà không biết hai người họ đang nói về chuyện gì. Họ phải giải thích rằng đó là chiếc tủ lạnh mà 4 năm trước con trai bà mang tới cho bà thì bà mới hiểu ra. Sau đó bà chau mày lại khiến những nếp nhăn giữa trán càng sâu hơn, bà nói.
“Tôi không dùng chiếc tủ đó. Nó tự ý mang tới đấy chứ, chỉ tổ vướng víu.”
Họ hỏi chiếc tủ đâu, bà bảo trong căn phòng kiểu Nhật ở phía trong. Bà dẫn họ vào, Kusanagi ngạc nhiên.
Căn phòng đó nên gọi là phòng chứa đồ thì đúng hơn là phòng kiểu Nhật. Bên trong phòng chứa đầy đồ đạc lộn xộn.
Phía sâu bên trong có đặt chiếc tủ lạnh đó. Chính là chiếc tủ lạnh được chụp trong ảnh.
Họ lập tức làm thủ tục thu giữ chiếc tủ. Lúc đó bà Hasunama mới hỏi tới sự tình. Đương nhiên họ không thể cho bà biết thông tin chi tiết. Họ chỉ nói chiếc tủ có khả năng liên quan đến một vụ án.
Chiếc tủ lạnh được chuyển sang Phòng điều tra khoa học và đã được điều tra triệt để. Kết quả, họ tìm thấy trong đó những vết máu nhỏ và những thứ có vẻ là các mẫu thịt. Xét nghiệm DNA được tiến hành, máu và những mẩu thịt đó được kết luận là của Motohashi Yuna. Khi kết quả được công bố, những tiếng reo hò phấn khởi vang rộn khắp trụ sở của chuyên án điều tra.
Ai nấy đều nghĩ vậy là vụ án đã được giải quyết. Kusanagi tự mãn nghĩ mình vừa chân ướt chân ráo về Ban điều tra số Một mà đã lập được thành tích lớn.
Nhưng sự việc lại rẽ sang một hướng không ngờ tói.
Hasunuma Kanichi hoàn toàn phủ nhận mọi tội lỗi.
Về việc đã tìm thấy vết máu và các mẩu thịt của Motohashi Yuna trong tủ lạnh, gã nói “Không biết”, về lý do mua tủ mới, gã đáp “Vì nó đã cũ rồi.”
Dẫu vậy, những người chịu trách nhiệm điều tra mà đứng đầu là Tatara vẫn quyết định bắt giữ gã. Bởi họ nghĩ trước mắt cứ bắt gã rồi thẩm vấn thật triệt để thì một lúc nào đó gã cũng sẽ thú tội thôi.
Thông thường, bước đầu cảnh sát sẽ bắt nghi phạm với tội vứt bỏ thi thể hoặc tội gây tổn hại thi thể nhưng trong vụ này họ không thể làm thế. Thời
hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự của tội vứt bỏ thi thể hoặc gây tổn hại thi thể là 3 năm, và đã quá 3 năm kể từ ngày đó.
Họ chỉ còn cách bắt gã với tội danh giết người.
Nhưng Hasunuma đã không mắc bẫy. Từ giữa cuộc thẩm vấn, gã quyết định giữ im lặng triệt để. Dù cảnh sát có dọa dẫm hay thuyết phục thế nào gã cũng không lung lay.
“Bằng bất cứ giá nào các anh cũng phải thu thập bằng chứng về đây!”
Trong cuộc họp điều tra, Tatara đã hét lên ra lệnh như vậy. Cấp dưới của ông nghe thế liền đáp lại với giọng đầy quyết tâm.
Từ cuộc điều tra đầy tận tâm của nhóm Kusanagi, họ đã biết được thêm vài chi tiết mới để làm rõ hành vi phạm tội của Hasunuma. Ví dụ, sau 2 ngày dùng tới lò đốt, Hasunuma đã thuê một chiếc ô tô. Cự ly chiếc xe đó chạy gần khớp với quãng đường đi về giữa nhà gã và nơi bộ xương được tìm thấy. Ngoài ra, những cảnh sát tới điều tra căn phòng của Hasunuma đã tìm thấy một chiếc xẻng cũ được bọc trong giấy báo. Phân tích đất đá dính trên xẻng, họ thấy thành phần của đất này khá giống với đất nơi bộ xương được chôn.
Ngoài ra, những thông tin mới cũng tiếp tục tăng lên. Nhưng tất cả đều chỉ là chứng cứ gián tiếp, không phải là chứng cứ quyết định chứng minh Hasunuma phạm tội.
Có một số người đã đề xuất phương án thỏa thuận. Nghĩa là, họ đề xuất việc bắt Hasunuma, kẻ vẫn giữ im lặng cho tới lúc đó, nhận tội cố ý gây thương tích dẫn đến chết người, hoặc một tội nhẹ hơn là ngộ sát, thay vì tội giết người. Vì nguyên nhân tử vong không được làm rõ nên những tội danh này đều không gây ra mâu thuẫn gì.
Tatara nổi giận đùng đùng trước ý kiến ấy. Ông gạt phắt đi, nói thật hết thuốc chữa khi đề nghị thỏa thuận với thủ phạm như vậy.
Ông nói tiếp rằng sở dĩ gã im lặng là do gã biết mình đã gây trọng tội, vì thế bằng bất cứ giá nào cũng phải khởi tố gã với tội giết người.
Kết cục, hồ sơ đã được chuyển tới viện kiểm sát trong khi nhóm Kusanagi vẫn chưa tìm thấy vật chứng giết người. Những chuyện sau đó sẽ tùy theo phán đoán của bên kiểm sát.
Bên kiểm sát chọn khởi tố bị can. Họ phán đoán rằng với nhiều chứng cứ gián tiếp như vậy, khi ra tòa chắc chắn chân tướng sự việc sẽ được làm rõ.
Nhưng việc xét xử đã không diễn ra như suy nghĩ của bên kiểm sát.
Ở phiên tòa đầu tiên, Hasunuma đã phủ nhận cáo trạng. Đó là lần đầu tiên, cũng là lần cuối cùng gã nói ra những câu từ có ý nghĩa.
Sau đó, gã một mực giữ im lặng từ đầu tới cuối. Trước bất kỳ câu hỏi nào của kiểm sát viên, gã đều chỉ lặp lại “Tôi không có gì để nói cả.”
Trong khi phiên tòa vẫn đang diễn ra, thì nhóm Kusanagi đã bắt đầu nghe được những lời xầm xì cho rằng tình hình càng lúc càng xấu đi, rất có thể gã sẽ được phán vô tội.
Anh nghĩ không thể như vậy được. Tuy chỉ có chứng cứ gián tiếp, nhưng chẳng lẽ với bao nhiêu tư liệu như thế mà không thể xử tội gã hay sao?
Tòa án tập trung vào hai việc. Một là, Motohashi Yuna chết có phải là do bị giết không. Hai là, dù không xác định được động cơ hay cách thức sát hại, nhưng những chứng cứ gián tiếp đó có đủ chứng minh gã đã giết người không.
Gã đã thiêu và chôn cái xác ấy. Anh nghĩ chắc chắn gã đã giết cô bé, nhưng có vẻ tòa án không hoạt động theo cách đó. Chỉ cần có khả năng gã không giết người, dù khả năng ấy nhỏ đến đâu, thì tội giết người sẽ không được xác lập.
Phán quyết của phiên sơ thẩm được công bố vào một ngày trời lạnh buốt từ sáng sớm. Khoảng 1000 ngày sau ngày bắt giữ. Kusanagi nghe kết quả
phán quyết ấy tại trụ sở chuyên án điều tra của vụ án mà khi đó anh đang phụ trách.
Phán quyết tuyên rằng bị cáo vô tội.
♥Facebook Group: We Love Ebook, m ờ i các b ạ n tham gia Nhóm đ ể t ả i
nhi ề u sách h ơ n n ữ a!
4
Nhìn tàn tích của đám cháy, Kusanagi khẽ lắc đầu. “Không thể nghĩ ở đây từng có một ngôi nhà đấy.” “Tôi cũng cảm thấy vậy.” Utsumi Kaoru đứng bên cạnh nói.
Nơi này giống nơi đốt rác hơn là tàn tích của một căn nhà cháy.
Hơn nữa đám rác còn chẳng hề được phân loại. Một lượng lớn đồ gỗ, đồ kim loại, nhựa bị cháy quện vào nhau. Chắc hẳn cùng với cột khói đen sì, làn khói độc phát sinh từ đám cháy cũng rất lớn. Kusanagi chợt thấy thương cảm những anh lính cứu hỏa đã phải tới đây dập tắt đám cháy.
Trước khi tới trụ sở chuyên án điều tra chung, nhân lúc đến chào hỏi Phòng Cảnh sát tỉnh Shizuoka, anh quyết định cùng Utsumi Kaoru đến xem hiện trường vụ hỏa hoạn.
“Tôi cũng mấy lần đi qua khu này rồi, nhưng nếu không đến gần thì thậm chí sẽ không biết nơi đây có một ngôi nhà anh ạ.”
Người nói câu này là một cảnh sát địa phương tên Ueno. Anh ta đi cùng để dẫn đường cho họ. Có lẽ anh ta mới ngoài 30 một chút.
Cơ thể anh ta rắn chắc, đầy sinh lực.
“Kinh khủng đến vậy ư?”
Trước câu hỏi của Kusanagi, anh cảnh sát trẻ gật đầu.
“Đồ điện hỏng, đồ đạc trong nhà, chăn màn, nói chung là rác đủ thể loại chất đầy quanh ngôi nhà này. Những chồng báo rồi sách được bó lại quẳng đó cũng rất nhiều. Có lẽ chúng được mang tới từ một nơi tập kết rác nào đó.”
“Sao ngôi nhà lại trở nên như vậy ạ?” Utsumi Kaoru hỏi.
“Tôi cũng không biết nữa.” Ueno nói, nghiêng đầu. “Theo lời kể của người dân quanh đây thì từ khoảng 10 năm trước ngôi nhà đã như vậy rồi. Bà lão có vẻ không giao thiệp gì với mọi người xung quanh, mọi người có tới than phiền rác hôi bà ấy cũng chẳng nghe.
Nhân viên tòa thị chính đã tới nhà bà vài lần, gợi ý rằng nếu bà không thể tự xử lý rác thì họ sẽ giúp bà, nhưng bà nói tất cả số rác đó đều là tài sản của bà, bà không định vứt chúng đi, và yêu cầu họ để mặc chúng như cũ.”
Vừa nghe Ueno kể, Kusanagi vừa nhớ lại gương mặt của bà Hasunama Yoshie khi anh gặp bà 19 năm trước. Hồi đó anh đã cảm thấy bà là một người kỳ cục, nhưng có vẻ càng về sau này sự khác người đó càng trầm trọng hơn. Rất có thể việc con trai bà bị bắt giữ đã ảnh hưởng nặng nề tới sức khỏe tinh thần của bà.
“Nghe nói người ta không thấy bà Hasunama Yoshie từ 6 năm trước rồi. Không ai thắc mắc trước sự biến mất này ư?” Kusanagi hỏi.
“Có vẻ mọi người cũng đồn đại ít nhiều. Kiểu ‘Gần đây không thấy bà ấy đâu nhỉ’. Nhưng chuyện chỉ dùng lại ở đó, mọi người không quan tâm nhiều lắm. Chắc họ đều tránh không muốn dây dưa gì tới bà ấy.”
“Các khoản tiền đóng dịch vụ công như tiền điện tiền nước thì sao?”
“Những khoản tiền đó đều được thanh toán đầy đủ. Tài khoản ngân hàng của bà lão vẫn hoạt động, tiền được trích trực tiếp từ tài khoản ấy. Điện nước đều không được dùng đến nên họ chỉ yêu cầu thanh toán phí duy trì dịch vụ thôi, nhưng dẫu thế thì nhân viên các công ty điện nước cũng không tới kiểm tra xem thế nào đâu.”
Hẳn là thế, Kusanagi nghĩ.
“Tiền lương hưu thì sao? Vẫn được trả về cho bà ấy chứ?”
“Có vẻ thế ạ. Tôi nghĩ cũng chính nhờ thế nên dù bị trừ tiền điện nước nhưng số tiền trong tài khoản vẫn không chạm đáy.”
“Thế ngoài ra có hoạt động rút, gửi tiền nào khác không?” Ueno đáp rằng hiện họ đang xác nhận việc đó.
Kusanagi chống hai tay vào mạng sườn, nhìn tàn tích của đám cháy một lần nữa.
“Trong biên bản báo cáo có viết rằng người ta tìm thấy hai thi thể ở hai nơi khác nhau?”
“Vâng. Đầu tiên cảnh sát tìm thấy hài cốt của một người ở phòng kiểu Nhật ở tầng một. Bộ hài cốt này nằm giữa bộ chăn đệm bị cháy trong hỏa hoạn. Vì thế cảnh sát và lính cứu hỏa đi tìm thêm ở những chỗ khác, nhờ thể tìm thấy thi thể thứ hai ở một nơi có vẻ vốn là hầm bên dưới sàn nhà.
“Thi thể thứ hai đó là Namiki Saori à?”
“Vâng.”
Theo như lời kể thì có thể suy ra thi thể của người thứ nhất, tức bà Hasunuma Yoshie, đã chết vì già yếu vào 6 năm trước. Khoảng 3
năm sau đó, có người đã giấu thi thể của Namiki Saori xuống dưới hầm nhà.
“Các anh đã biết được bao nhiêu về các mối quan hệ của bà Hasunuma Yoshie rồi?”
Trước câu hỏi của Kusanagi, gương mặt Ueno nhắn nhỏ lại.
“Thực ra chúng tôi chưa biết rõ lắm. Hình như bà ấy có họ hàng xa, nhưng bà ấy không qua lại gì với họ cả. Chồng bà ấy mất khoảng 25 năm trước rồi. Như anh đã biết, người thân thì bà ấy chỉ còn một mình anh con trai là Hasunuma Kanichi thôi. Nhưng nói một cách chính xác thì anh ta không phải là con ruột của bà, mà là con riêng của người chồng đã mất. Bà Yoshie là mẹ kế của Hasunuma.”
Chuyện này Kusanagi cũng biết.
“Ngôi nhà này có vẻ không phải nơi Hasunama sinh ra nhỉ?”
“Vâng.” Ueno lấy quyển sổ tay nhỏ ra. “Vợ chồng Hasunuma chuyển từ căn nhà cũ ở Hamamatsu tới ngôi nhà này vào 35 năm trước. Lúc đó Hasunuma Kanichi cũng đã rời khỏi nhà.”
“Ra là vậy.” Kusanagi bất giác tặc lưỡi.
Sau vụ cháy, cảnh sát Shizuoka đã hỏi chuyện Hasunama một lần.
Biên bản điều tra viết, Hasunama nói đã nhiều năm không gặp mẹ kế, cũng không liên lạc gì, gã không biết về căn nhà rác đó, ngôi nhà hoàn toàn không có liên quan gì tới gã. Về những cái xác, đương nhiên gã nói không có manh mối gì cả. So với thái độ giữ im lặng 19
năm trước, lần này gã đã trả lời thẩm vấn tích cực hơn, nhưng riêng điểm không hợp tác với cuộc điều tra thì vẫn không thay đổi gì so với trước đây.
Ueno tiễn hai người tới ga Shizuoka, từ đó hai người đi tàu cao tốc shinkansen về Tokyo. Kusanagi ngồi cạnh Utsumi Kaoru trên băng ghế tự do, miệng nhấp ngụm cà phê lon.
“Có thể cho rằng người giấu thi thể của Namiki Saori trong ngôi nhà rác đó là Hasunuma không ạ?” Utsumi Kaoru hỏi.
“Có lẽ thế. Bà Hasunuma Yoshie đã mất 6 năm trước, thi thể bà nằm trên tấm đệm. Kẻ giấu xác Namiki Saori chắc chắn biết rõ điều đó. Một ngôi nhà bên trong có người chết 3 năm mà không ai nhận ra, thật là một nơi lý tưởng để giấu xác chết. Vậy tại sao kẻ đó biết bà Hasunama Yoshie đã chết mà không báo cảnh sát?”
Utsumi Kaoru khẽ nghiêng đầu suy ngẫm.
“Có lẽ vì để người ta nghĩ bà ấy còn sống sẽ có lợi cho kẻ đó hơn là mọi người biết bà ấy đã chết.”
“Đúng thế. Vậy lý do là gì? Cô có thể nghĩ tới lý do nào?”
Viên cảnh sát nữ chau mày, nói nhỏ, “Là vì… lương hưu chăng?” Kusanagi gật đầu. Cấp dưới của anh quả nhiên đầu óc rất nhanh nhạy.
“Tôi cũng nghĩ thế. Kế hoạch của gã là không thông báo việc bà lão đã mất để nẫng đi số tiền lương hưu của bà. Chỉ có một người có thể thực hiện kế hoạch đó. Người biết được tài khoản ngân hàng của bà Yoshie, biết cả mật khẩu tài khoản đó, không ai khác ngoài Hasunuma cả.”
“Vậy đây là hành vi gian lận tiền lương hưu rồi còn gì.”
“Nhưng rồi gã nhận thấy một giá trị sử dụng mới của ngôi nhà rác, đó là cất giấu thi thể… Tôi đoán như vậy. Không thể nói chắc điều gì cho tới khi cảnh sát Shizuoka điều tra tài khoản của bà Yoshie, nhưng tôi nghĩ không sai được đâu.”
Utsumi Kaoru chớp chớp mắt, gật đầu.
“Tôi nghĩ suy luận của anh rất thuyết phục. Đầu tiên chúng ta phải chứng minh được chính Hasunama là người đã giấu thi thể nhỉ?”
“Đúng vậy. Đầu tiên chúng ta phải làm được việc đó.”
Đương nhiên đó không phải cái đích cuối cùng. Trái lại, đó là điểm xuất phát. Anh không thể lặp lại sai lầm giống như 19 năm trước được. Điều cần làm rõ là Hasunuma có liên quan thế nào tới cái chết của Namiki Saori.
Anh uống lon cà phê, mắt nhìn ra ngoài cửa sổ. Nhưng thứ Kusanagi nhìn không phải cảnh sắc bên ngoài, mà là quá khứ xa xôi.
Cảm giác thua cuộc mạnh mẽ ấy chưa hề phai mờ trong lòng anh.
Đối với một cảnh sát trẻ mới được phân về Ban điều tra số Một lần thua cuộc này giống như một sự kiện đảo ngược đất trời vậy.
K ế t lu ậ n, b ị cáo vô t ộ i!
Anh thực sự không thể chấp nhận được. Anh đã đọc lại phán quyết biết bao lần. Theo phán quyết đó, thẩm phán cho rằng khả năng Hasunuma liên quan tới cái chết của Motohashi Yuna là rất thấp. Trong rất nhiều chứng cứ gián tiếp, không chứng cứ nào chỉ ra ý định giết người của bị cáo. Thẩm phán cũng bãi bỏ giả thuyết bị cáo đã tấn công nạn nhân để xâm hại tình dục nhưng bị kháng cự nên đã ra tay giết hại vì cho rằng giả thuyết này quá thiếu tính thuyết phục: ngoài việc trong phòng bị cáo có nhiều băng đĩa người lớn ra thì không còn chứng cứ cụ thể nào khác.
Kusanagi còn nhớ rõ buổi họp báo của bố Motohashi Yuna sau khi phán quyết được đưa ra. Đúng trước camera, Motohashi Seiji cố hết sức giữ bình tĩnh, nhưng vẫn không thể chế ngự được con run rẩy vì tức giận trong giọng nói của mình.
“Tôi thật không ngờ tên cầm thú đó lại được phán vô tội. Chẳng lẽ chỉ cần giữ im lặng thì tội gì cũng sẽ thành vô tội sao? Tôi không phục! Đương nhiên tôi sẽ tiếp tục chiến đấu. Tôi muốn bên kiểm sát và cảnh sát làm rõ chân tướng sự việc.”
Theo câu nói ấy, bên kiểm sát đã kháng cáo, nhưng phán quyết của phiên phúc thẩm 10 tháng sau đó cũng chỉ khiến thân nhân nạn nhân tuyệt vọng.
Thẩm phán phiên phúc thẩm dùng những câu thể hiện rõ hơn sự phán đoán mà phiên sơ thẩm đã nêu ra “Chúng tôi đặc biệt nghi ngờ chính bị cáo đã khiến Motohashi Yuna tử vong”, nhưng về những chứng cứ mới mà bên kiểm sát giao nộp, ông nói, “Những chứng cứ này không đủ để chứng minh bị cáo cố ý khiến nạn nhân tử vong”, đoạn bãi bỏ kháng cáo, giữ nguyên phán quyết bị cáo vô tội như ở phiên sơ thẩm.
Mọi chú ý đổ dồn về phía viện kiểm sát, xem họ hành động tiếp theo ra sao, nhưng cuối cùng họ đã quyết định không kháng cáo lên tòa án cấp cao nhất. Anh đã phân tích phán quyết, và nhận ra phán quyết ấy tuân thủ hiến pháp và tất cả những tiền lệ trước đó, vì thế không có tư liệu gì để kháng cáo lên cấp cao hơn cả. Tới tận bây giờ, Kusanagi vẫn còn nhớ nét mặt đầy nuối tiếc của phó viện trưởng viện kiểm sát trong buổi họp báo ngày đó.
“Sai lầm lớn nhất của 19 năm trước chính là nhầm tưởng rằng với chứng cứ về việc hủy hoại thi thể, chỉ cần thẩm vấn gắt gao, Hasunama sẽ phải nhận tội.” Kusanagi nói, mắt vẫn hướng về cảnh vật ngoài cửa sổ. “Nhưng giờ trách cứ những nhân viên điều tra ngày đó thì cũng tàn nhẫn. Họ đã tìm thấy dấu vết của thi thể trong tủ lạnh mà. Trong hoàn cảnh đó, việc họ cho rằng Hasunuma không thể chối tội cũng là bình thường.”
“Tôi cũng nghĩ vậy.
“Nhưng không ngờ lại có cách thoát tội đó.” Kusanagi thở dài. “Ý anh là… quyền im lặng?”
Kusanagi gật đầu, uống cạn lon cà phê. Anh bóp méo chiếc lon rỗng trong lòng bàn tay phải, cắn môi.
“Lúc đó chưa nhiều người biết tới quyền im lặng, thế nên các nghi phạm thường nghĩ rằng khi bị hỏi thì phải trả lời câu gì đó.
Nhưng Hasunuma đã luôn giữ im lặng. Không chỉ không nói về mình, gã thậm chí còn không đáp lại những câu gợi chuyện vô thưởng vô phạt khác. Gã đã giữ nguyên thái độ đó trong suốt cả phiên tòa. Nói thế này nghe hơi kỳ cục, nhưng tôi thực sự ngạc nhiên trước sức mạnh tinh thần của gã đấy.”
“Liệu lần này gã có dùng lại thủ đoạn đó không?”
“Nếu gã là thủ phạm thì chắc chắn là thế rồi…”
Utsumi Kaoru lấy điện thoại ra. “Tôi xin phép.” Cô đứng dậy, đi dọc lối đi. Có vẻ cô vừa có cuộc gọi tới.”
Kusanagi nhét chiếc lon rỗng vào túi lưới trước mặt, sau khi kiểm tra thấy ghế sau không có ai ngồi, anh ngả lưng ghế dựa một chút, khẽ nhắm mắt lại. Một trận chiến lớn sắp bắt đầu. Nếu không tranh thủ nghỉ ngơi lúc vẫn còn có thể nghỉ được, cơ thể anh sẽ không trụ được mất.
Nhưng những suy nghĩ về vụ án vẫn đầy ứ trong đầu anh, xem ra anh không thể ngủ nổi.
Vụ án lần này có một vấn đề giống với 19 năm trước. Đó là rất khó để bắt giữ nghi phạm với tội danh gây tổn hại thi thể. Namiki Saori đã mất tích chính xác là từ 3 năm 2 tháng trước. Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự của tội gây tổn hại thi thể đã qua.
Để bắt giữ gã với tội danh giết người thì cần chuẩn bị những tư liệu gì? Phần xương sọ của thi thể được tìm thấy bị lõm xuống, nên phương thức sát hại là đánh mạnh bằng hung khí chăng? Nếu khám xét căn hộ của Hasunama và tìm thấy hung khí thì tốt biết mấy.
“Đội trưởng.” Anh nghe thấy tiếng Utsumi Kaoru. “Anh chợp mắt đấy à?” “Ai gọi đến vậy?” Kusanagi mở mắt.
“Là chủ nhiệm Kishitani ạ. Phó phòng Phòng Cảnh sát Kikuno muốn hỏi anh ấy về phương châm điều tra vụ này nên anh ấy gọi cho tôi.”
Kishitani và cấp dưới đã tới trụ sở chuyên án điều tra chung để trao đổi các thông tin về vụ án.
“Tôi hiểu rồi. Hãy nói với anh ấy là khi nào về tới Tokyo tôi sẽ tới trụ sở chuyên án điều tra ngay.”
“Tôi đoán anh sẽ nói thế nên khi nãy đã trả lời như vậy rồi.” Utsumi Kaoru tỉnh bơ nói, đoạn ngồi xuống chiếc ghế bên cạnh.
“Kikuno sao… Cùng thuộc Tokyo mà tôi hầu như không, đúng ra là chưa bao giờ, có việc gì tới đó cả. Tôi chẳng hình dung gì được về nó.”
Điều anh biết chỉ là đó là một khu phố nằm ở phía tây Tokyo.
Anh từng đi xe qua, nhưng chưa đi bộ trên những con đường của khu phố này bao giờ cả.
“Nơi đó có cuộc diễu hành rất nổi tiếng đấy ạ.”
“Diễu hành ư?”
Utsumi Kaoru hí hoáy thao tác rất nhanh trên điện thoại.
“Đây rồi. Nó đây ạ. Người ta gọi nó là ‘Cuộc diễu hành kể chuyện ở Kikuno’ ạ.”
Trên màn hình được chĩa về phía Kusanagi có hình một nhân vật ăn mặc giống Momotaro[*] và một người mặc bộ đồ hóa trang thành quỷ.
“Gì thế này? Diễu hành hóa trang a?”
“Vâng…” Utsumi Kaoru lại gõ gõ vuốt vuốt điện thoại. “Nghe nói nó vốn là cuộc diễu hành trong lễ hội mùa thu ở khu phố mua sắm Kikuno. Những người yêu thích cosplay[*] trên cả nước sẽ tập trung tại đây và đi thành một đoàn diễu hành. Nhưng nếu chỉ như vậy sẽ không có gì thú vị nên họ đã biến nó thành một cuộc thi, trong này viết thế ạ.”
“Nghĩa là họ sẽ chọn ra người cosplay đẹp nhất Nhật Bản hả?”
“Nếu chỉ thế thì có nhiều cuộc thi khác tương tự rồi. Nghe nói để tạo nét riêng cho chương trình, họ đã quyết định sẽ thi đấu theo nhóm đấy ạ.”
“Thi đấu theo nhóm?”
“Một nhóm nhiều người cùng mặc trang phục hóa trang và tái hiện lại một cảnh nổi tiếng trong tác phẩm họ chọn. Kiểu như hai người hóa trang thành Urashimataro và công chúa Otohime[*] ngồi ăn sơn hào hải vị, rồi xung quanh họ những người mặc các bộ đồ hóa trang cá tráp đỏ và cá bơn vỉ nhảy múa vui vẻ ấy ạ.”
“Vừa diễn vừa diễu hành à? Nghe khó nhỉ?”
“Hẳn là công phu lắm. Nghe nói có những nhóm dùng tới cả kiệu nữa. Lễ hội quy định rất chi tiết về các trường hợp sử dụng các đạo cụ lớn.”
“Cô bảo lễ hội này tập trung mọi người từ khắp nơi trên cả nước hả? Đông người tham dự đến thế sao?”
“Nhiều nhóm đăng ký nên họ có tổ chức sơ tuyển. Các nhóm gửi đoạn phim do họ tự quay cho ban tổ chức, ban tổ chức sẽ chọn từ những thước phim đó. Năm ngoái có gần 100 đoạn phim được gửi về, hơn nữa chất lượng đều rất tốt nên ban tổ chức tuyển chọn rất vất vả. Trong này ghi vậy ạ.”
“Nghe cô nói thì có vẻ quy mô cũng lớn nhỉ?”
“Người quen của tôi năm nào cũng tới xem, người đó nói mỗi năm quy mô lễ hội lại lớn hơn nên rất đáng xem.”
“Lễ hội diễn ra vào thời gian nào?”
“Tháng Mười ạ.”
“Thế à?”
Kusanagi thở phào nhẹ nhõm. Nếu là hơn nửa năm nữa thì không vấn đề gì. Lúc đó chắc việc điều tra cũng đã hòm hòm rồi.
“À, suýt thì quên mất.” Utsumi Kaoru vừa cất điện thoại đi vừa nói. “Có lẽ anh ấy giờ cũng đang ở Kikuno đấy ạ.”
“Cô bảo ai cơ?”
“Anh Yukawa ấy ạ. Anh Yukawa Manabu dạy ở trường Teito ấy. Dịp cuối năm ngoái tôi có nhận được tin nhắn của anh ấy.”
Lâu rồi anh mới lại nghe tới cái tên này. Đó là bạn của Kusanagi thời đại học. Yukawa là một học giả vật lý có khả năng suy luận xuất chúng, Kusanagi đã nhiều lần nhờ Yukawa hợp tác điều tra cùng.
Nhưng lần cuối cùng họ gặp nhau là nhiều năm về trước rồi. “Cậu ta đi Mỹ rồi mà. Tôi bặt tin cậu ta từ dạo đó.”
“Anh ấy về nước năm ngoái rồi ạ. Anh ấy đã nhắn tin cho tôi thông báo như vậy. Tôi tưởng đội trưởng cũng nhận được tin nhắn thông báo chứ?”
“Không, tôi chẳng nhận được gì. Cậu ta sao thế nhỉ? Bất lịch sự thật đấy.”
“Có lẽ anh ấy nghĩ tôi sẽ nói với anh nên thấy không cần nhắn anh nữa chăng? Dù sao anh ấy cũng là người theo chủ nghĩa duy lý mà.”
“Cậu ta đơn giản là lười biếng thôi. Thế giờ cậu ta đang làm gì ở Kikuno vậy?”
“Theo nội dung tin nhắn thì một viện nghiên cứu mới đã được thành lập ở Kikuno, nên phòng nghiên cứu của anh ấy cũng sẽ chuyển về đó. Dù anh ấy không nói là nghiên cứu gì.”
Có lẽ cậu ta nghĩ có viết trong tin nhắn thì Utsumi Kaoru cũng không hiểu được nên mới không viết. Kusanagi nhớ lại thói quen dùng đầu ngón tay chỉnh lại vị trí kính của Yukawa.
“Không ngờ cậu ta lại ở Kikuno…”
Kusanagi định sẽ liên lạc với Yukawa sau khi vụ án lần này được giải quyết tạm ổn. Anh sẽ vừa uống ly rượu whisky cao cấp pha sô đa vừa hỏi về cuộc sống của Yukawa bên Mỹ. Vấn đề là liệu anh có thể xử lý gọn ghẽ vụ án phiền toái này hay không?
5
Ngày thứ hai sau khi chuyên án điều tra chung được thành lập tại Phòng Cảnh sát Kikuno, Kusanagi cùng Utsumi Kaoru tới cửa hàng Namikiya. Ghi chép về vụ mất tích của Namiki Saori 3 năm trước vẫn còn lưu lại nên Kusanagi đã nắm được các tình tiết chính, nhưng anh muốn trực tiếp hỏi chuyện gia đình nạn nhân với tư cách chỉ huy thực sự của cuộc điều tra. Anh không muốn cho gia đình nạn nhân biết những thông tin không cần thiết nên vẫn chưa cho các thành viên khác trong đội điều tra tiếp xúc với họ.
Cửa hàng Namikiya ngoảnh mặt ra phố Kikuno, nơi diễn ra cuộc diễu hành hằng năm; cửa vào của quán là loại cửa lưới bằng gỗ mang phong cách dân dã. Trong quán có bốn chiếc bàn sáu ghế và hai chiếc bàn bốn ghế. Kusanagi và Utsumi Kaoru ngồi xuống chiếc bàn sau chỗ ở giữa quán, đối diện với ba người nhà Namiki, gồm hai vợ chồng và cô con gái út Natsumi.
Namiki Yutaro có gương mặt hiền lành với vầng trán rộng và đôi lông mày cong như vầng trăng khuyết. Anh ta khá gầy, nhưng vì ngồi thẳng lưng nên dáng vẻ rất đường hoàng. Người vợ Machiko là một phụ nữ đẹp với đôi mắt lớn. Kusanagi nhớ lại bức ảnh Namiki Saori.
Cô gái thừa hưởng vẻ ngoài của mẹ nhiều hơn. Gương mặt Natsumi cũng rất thanh tú, nhưng có nhiều nét của người Nhật Bản hơn, khác với mẹ và chị gái.
“Tôi không hiểu gì cả. Rốt cuộc chuyện gì đã xảy ra vậy?” Namiki hỏi, tay vẫn cầm danh thiếp của Kusanagi. “Đột nhiên cảnh sát Shizuoka gọi tới, nói đã tìm thấy một thi thể có vẻ là con gái tôi nên muốn làm xét nghiệm DNA. Tôi đồng ý với việc đó, rồi mấy ngày sau họ lại gọi và nói mẫu DNA trùng khớp nên bảo tôi tới Shizuoka nhận hài cốt của con. Tất nhiên tôi đã tới đó, nhưng tôi rất bối rối khi nghe tới tên vùng đất xa lạ ấy. Tôi rất muốn hỏi rằng tại sao thi thể của Saori lại được tìm thấy ở Shizuoka?”
Kusanagi chậm rãi gật đầu hai lần.
“Tôi rất hiểu tâm trạng của anh. Đúng như anh nói, chúng tôi hiểu đây là một vụ án có nhiều bí ẩn. Chúng tôi sẽ bắt đầu điều tra từ việc tại sao thi thể của con gái anh lại được tìm thấy ở đó.”
“Saori…” Machiko cất tiếng. “… con bé đã bị ai đó giết hại ư?” Giọng nói mong manh và khẽ run rẩy.
“Có khả năng như vậy.” Kusanagi thận trọng trả lời. “Chúng tôi sẽ làm sáng tỏ mọi chuyện trong cuộc điều tra sắp tới.”
Lông mày Machiko khẽ động đậy.
“Nếu không phải bị giết thì tại sao chứ? Anh định nói con bé đã tới tận Shizuoka, vào ở một ngôi nhà xa lạ rồi đổ bệnh và chết ở đó hay sao?” Chị nói với giọng gay gắt.
“Kìa em.” Namiki nhắc nhở vợ. “Bình tĩnh lại nào.”
Machiko đưa ánh mắt như đang lườm về phía chồng, đoạn im lặng cúi đầu xuống. Nhìn bờ vai chị nhấp nhô, Kusanagi hiểu chị đang tức giận tới mức hơi thở hỗn loạn.
“Lời chị nói rất hợp lý.” Kusanagi chú ý giữ giọng mình thật điềm tĩnh. “Xét từ hoàn cảnh phát hiện ra thi thể nạn nhân thì khả năng cao là con gái anh chị đã bị hại trong một vụ án nào đó. Thế nên điều tôi muốn hỏi anh chị là trước khi Saori mất tích có chuyện gì đó lạ lùng xảy ra không? Ví dụ như
anh chị có nhận được cuộc điện thoại lạ lùng nào đó, hoặc nhìn thấy ai đó đáng ngờ không?”
Hai vợ chồng quay qua nhìn nhau. Namiki quay lại nhìn Kusanagi, lắc đầu.
“Hồi đó cảnh sát cũng hỏi chúng tôi những câu tương tự, nhưng tôi không thấy có gì bất thường cả. Con bé không giao du với kẻ xấu, cuộc sống của con bé khi đó rất bình thường…”
“Cô ấy có hẹn hò với ai không ạ?”
Machiko có vẻ suy ngẫm, nhìn sang Natsumi đang ngồi bên cạnh. Natsumi hơi lưỡng lự cất tiếng.
“Hồi đó chị cháu không cho cháu nói với ai, nhưng khi ấy chị cháu có hẹn hò với một người khách của quán nhà cháu ạ.”
Natsumi nói người đó tên Takagaki. Cậu ta là dân văn phòng, lớn hơn Saori 5 tuổi. Saori nghĩ bố không thích mình quá thân thiết với khách hàng nên đã giấu tất cả mọi người ngoại trừ Natsumi.
“Chúng tôi chỉ biết chuyện này sau khi Saori mất tích. Natsumi kể cho chúng tôi nghe.” Machiko nói.
“Người thanh niên đó gần đây vẫn thường xuyên đến quán anh chị chứ?”
“Sau khi Saori mất tích, thỉnh thoảng cậu ấy vẫn tới. Nhưng khoảng 1 năm nay thì không thấy cậu ta đến nữa.” Từ cách nói của Machiko, có vẻ họ không biết lý do cậu ta không tới nữa.
“Anh chị có biết địa chỉ liên lạc của người đó không?”
Machiko lại nhìn Natsumi. Natsumi đáp cô bé biết công ty nơi Takagaki làm việc. Đó là một công ty in ấn nằm cách của hàng của họ bốn ga tàu.
“Ngoài ra Saori có đặc biệt thân thiết với ai khác không ạ? Cả nam lẫn nữ ạ.”
“Cũng có đấy… Bạn bè cùng lớp thời đi học chẳng hạn.” Machiko đáp. “Tôi có sổ địa chỉ của bạn bè con bé đấy. Tôi mang ra cho anh xem nhé?” Machiko nhổm dậy.
“Để sau cũng được chị ạ. Trước đó, tôi muốn mọi người xem qua một thứ.” Nói rồi anh quay sang Utsumi Kaoru, ra hiệu bằng mắt.
Utsumi Kaoru lấy một tấm ảnh từ túi xách ra, đặt lên mặt bàn.
Chính xác thì đó là một bản phô tô màu bức ảnh trên bằng lái xe. Ba người nhà Namiki cùng chồm người về phía trước.
Machiko lập tức “A” lên một tiếng. Đôi mắt to tròn của chị càng mở ra lớn hơn.
“Chị nhận ra điều gì ư?” Kusanagi hỏi.
Machiko cầm lấy tấm ảnh, nhìn kỹ nó một lần nữa rồi gật đầu. “Anh còn nhớ người này không?” Chị nói rồi đưa bức ảnh về phía chồng.
Nét mặt Namiki cũng chau lại. Ánh mắt anh khi nhìn bức ảnh ấy có gì đó không bình thường.
“Ừ, anh nhớ. Chính là gã ta.” Namiki nói với vẻ coi thường. “Ai thế ạ?” Natsumi hỏi hai người. Có vẻ cô chưa gặp mặt gã bao giờ.
“Trước đây người này rất hay tới quán nhà tôi. Gã ta luôn đi một mình, vẻ mặt u ám… Nhìn gã ta lúc nào tôi cũng thấy ghê ghê.”
Machiko chìa bức ảnh về phía Kusanagi. “Là người đàn ông này sao? Gã đã giết Saori nhà chúng tôi à?”
“Không, hiện tại chúng tôi chưa biết gì cả. Chỉ là một nhân vật có thể liên quan tới vụ án mà thôi.” Kusanagi duỗi khuỷu tay, lấy lại tấm ảnh từ tay Machiko. Trên ảnh là gương mặt của Hasunuma Kanichi. Anh quay tấm ảnh về phía vợ chồng Namiki lần nữa. “Anh chị có vẻ không có thiện cảm với người đàn ông này. Anh ta đã gây ra rắc rối gì sao?”
“Gọi là rắc rối thì cũng không hẳn…” Machiko nhìn chồng. “Tôi đã cấm cửa gã.” Namiki nói.
“Cấm cửa? Ý là cấm không cho lui tới quán nữa ư?”
“Vâng.” Namiki gật đầu. “Vì hành vi của gã ta quá chướng mắt.”
“Đã có chuyện gì xảy ra vậy?”
“Gã ta đã ép con gái tôi… ép Saori rót rượu cho gã.”
“Rót rượu?”
“Vâng.” Namiki gật đầu, nét mặt khó chịu.
“Quán nhà tôi rất nhỏ nên có nhiều khách quen. Với những khách quen đó, Saori không đề phòng gì, thỉnh thoảng còn rót bia cho họ.
Nhưng khi khìn thấy cảnh đó, gã ta…” Namiki nhìn chằm chằm bức ảnh trong tay Kusanagi, nói. “Gã đã yêu cầu con bé rót rượu cho mình. Hơn nữa còn bắt con bé ngồi xuống ghế bên cạnh. Dẫu sao gã cũng là khách nên lúc đó Saori đành nín nhịn làm theo lời gã, nhưng rồi gã bắt đầu thường xuyên yêu cầu như vậy. Cuối cùng tôi đã nói với gã thế này. ‘Quán chúng tôi chỉ là quán cơm suất bình thường, nếu anh còn yêu cầu như vậy thì lần sau đừng tới nữa’. Tôi đã không tính tiền bữa cơm tối đó của gã.”
“Anh ta phản ứng ra sao?”
“Gã bỏ đi luôn, không nói lời nào.”
“Sau đó thì sao?”
“Sau đó…” Namiki nói, ngoảnh mặt về phía vợ. “Gã không đến nữa em nhỉ?”
“Em nghĩ gã không tới thêm lần nào nữa.” Machiko gật đầu. “Chuyện xảy ra khi nào vậy?”
“Khi nào ấy nhỉ?” Namiki nghiêng đầu nghĩ ngợi.
“Lần đầu tiên gã yêu cầu con bé rót rượu là vào hôm có buổi diễu hành. Từ đó cho tới khoảng hơn 1 tháng sau thì chồng tôi cấm của gã… Nên chắc là vào tháng Mười hai của hơn 3 năm trước.”
“Trước ngày…” Natsumi nhỏ giọng nói “chị mất tích một chút thì phải ạ…”
“Tôi hiểu rồi.” Kusanagi đưa bức ảnh cho Utsumi Kaoru.
“Gã ta là ai vậy?” Namiki hỏi với ngữ khí mạnh mẽ. “Gã tới quán chúng tôi mấy lần, nhưng chúng tôi không biết gã là ai, người ở đâu.”
Khóe miệng Kusanagi hơi dãn ra.
“Xin lỗi anh chị, lúc này tôi chưa thể cho anh chị biết được…”
“Chỉ là một cái tên thôi mà, anh cho chúng tôi biết đi.” Machiko hướng ánh mắt nài nỉ về phía anh. “Xin anh đấy.”
“Xin anh chị hiểu cho. Cuộc điều tra vừa mới bắt đầu thôi. Nếu có điều gì có thể thông báo với gia đình, chúng tôi sẽ liên lạc ngay.”
Kusanagi quay sang nhìn Utsumi Kaoru rồi đúng dậy, đoạn quay lại nhìn ba người họ lần nữa.
“Hôm nay cảm ơn anh chị và cháu đã hợp tác cho cuộc điều tra.
Chúng tôi sẽ cố gắng hết sức để đưa chân tướng sự việc ra ánh sáng, vì thế sau này mong mọi người tiếp tục giúp đỡ.” Nói rồi anh cúi đầu thật thấp, Utsumi Kaoru đứng bên cạnh cũng cúi đầu theo, “Xin nhờ mọi người giúp đỡ.”
Ba thành viên trong gia đình đang chìm trong bi kịch ấy không đáp lại lời nào.
6
Sau khi điều chỉnh lại màu sắc, Tomoya nhắm mắt lại, đợi vài giây rồi mở mắt ra, nhìn màn hình. Bởi nếu không đưa đầu óc mình về trạng thái ban đầu, cậu sẽ không biết được ảnh đã khá hơn chưa.
Nhìn bức ảnh vừa được hoàn thành, Takagaki Tomoya nghĩ bụng, cũng tạm được rồi. Hình ảnh hiện lên trên màn hình là một căn phòng trong viện dưỡng lão cao cấp. Cậu đang chọn ảnh để đưa lên tờ bìa quảng cáo cho viện dưỡng lão nọ, một bức ảnh mang lại bầu không khí thật sáng sủa tươi vui theo yêu cầu của khách hàng. Vì thế nếu chỉ dàn ảnh lên tờ quảng cáo không thôi thì chưa đủ mà sẽ phải chỉnh sửa thêm một chút.
Đang nghĩ có nên tạo cảm giác như những tia nắng từ bên ngoài cửa sổ rọi vào căn phòng hay không thì chiếc điện thoại di động đặt bên cạnh cậu thông báo có cuộc gọi tới.
“Có cô Utsumi nào đó muốn gặp anh Takagaki ạ.”
“Utsumi? Người của bên nào vậy em?”
Cậu không có ấn tượng gì với cái tên này cả.
“Cô ấy nói cô ấy là người có liên quan tới phố mua sắm Kikuno ạ.” “Kikuno ư?”
Tất nhiên cậu biết địa danh này. Bởi Tomoya đang sinh sống ở đó mà. Nhưng vì có lý do nên gần đây cậu không đặt chân tới khu mua sắm.
“Anh tính sao? Nếu anh bận quá thì để em giải thích với người ta như vậy ạ.”
“Không cần, anh ra ngay. Anh cũng tò mò muốn biết có chuyện gì.” Tomoya để nguyên máy tính như vậy, đoạn đứng lên.
Người đứng chờ ở quầy tiếp tân là một phụ nữ mặc bộ com lê màu đen. Mái tóc dài buộc gọn phía sau. Tuổi khoảng trên 30, hoặc hơn thế một chút.
“Anh là Takagaki?” Người phụ nữ lại gần, hỏi.
Takagaki đáp đúng vậy, người phụ nữ bước thêm một bước lại gần. Sau khi khẽ liếc về phía quầy tiếp tân, người phụ nữ lấy thứ gì đó từ túi trong áo khoác ra, hạ giọng nói, “Đây là thân phận thật sự của tôi.”
Lúc đầu Takagaki không biết đó là cái gì. Phải mất vài giây cậu mới nhận ra đó là huy hiệu cảnh sát. Tomoya chớp chớp mắt, nhìn gương mặt người phụ nữ.
Viên cảnh sát nữ đón nhận cái nhìn của Takagaki với ánh mắt mạnh mẽ. “Có chỗ nào có thể yên tĩnh nói chuyện được không?”
Ý viên cảnh sát nữ là không muốn người khác nghe được cuộc nói chuyện giữa họ.
“Có phòng họp ạ. Nói chuyện ở đó được không? Dù phòng hơi nhỏ một chút.”
“Không sao, vậy là đủ rồi. Cảm ơn anh.”
Từ cách nói chuyện lịch sự của viên cảnh sát, Tomoya yên tâm nghĩ có vẻ cô ta tới không phải để buộc tội gì đó cho cậu. Vốn dĩ cậu cũng không làm gì đến mức phải dính dáng tới cảnh sát cả.
Trong căn phòng nhỏ ảm đạm chỉ có độc chiếc bàn và vài cái ghế, Tomoya ngồi đối diện với nữ cảnh sát. Viên cảnh sát lấy danh thiếp ra, tự giới thiệu về bản thân. Cô là Utsumi Kaoru, hạ sĩ cảnh sát tuần tra thuộc Ban điều tra số Một của Sở cảnh sát Tokyo.
“Xin lỗi vì đã làm phiền lúc anh bận rộn. Tôi vào đề luôn nhé, anh biết cô gái này đúng không?”
Nói rồi cô đưa một tấm ảnh ra. Vừa nhìn thấy nó, Tomoya liền lặng đi. Đâu chỉ đơn giản là biết. Đó là gương mặt cậu chưa từng quên, và dù có muốn cậu cũng không thể quên đi được.
“Đây là… Namiki Saori.” Nhìn ảnh Saori cười tươi rói, tay ra dấu chữ V, cậu nói.
“Cô ấy có mối quan hệ như thế nào với anh?”
Tomoya nuốt nước bọt rồi mới cất tiếng.
“Chúng tôi từng hẹn hò với nhau. Chuyện cách đây 3 năm rồi. Liệu có phải Saori đã…” Cậu không nghĩ ra được câu từ để nói tiếp. Utsumi Kaoru khẽ chau mày, gật đầu.
“Xác cô ấy đã được tìm thấy trong tàn tích của đám cháy một ngôi nhà dân ở tỉnh Shizuoka.”
“Shizuoka ư?”
Cậu không ngờ tới địa danh này.
“Nhưng cô ấy đã qua đời khá lâu trước khi thi thể được tìm thấy. Có lẽ là ngay sau khi mất tích.”
Cậu có cảm giác như thứ gì đó vừa rời khỏi cơ thể mình. Quả nhiên là như vậy. Cô ấy quả nhiên đã chết.
Cậu cũng đoán thế và đã thôi mong mỏi, nhưng khi được thông báo thẳng như thế này vẫn không khỏi cảm thấy sốc.
Vừa cố lấy lại nhịp thở, Tomoya vừa nhìn Utsumi Kaoru.
“Tại sao lại là Shizuoka ạ?”
“Việc này thì chúng tôi cũng chưa rõ. Hiện tại chúng tôi đang bắt đầu điều tra nhiều việc, bao gồm cả chi tiết đó. Anh có manh mối gì không? Ví dụ như hồi Saori còn sống, cô ấy có từng kể với anh chuyện gì đó liên quan tới Shizuoka không?”
“Chưa từng ạ.” Tomoya trả lời chắc chắn. “Tôi nghĩ cô ấy thậm chí chưa từng tới Shizuoka bao giờ.”
“Bố mẹ cô ấy cũng nói như vậy.” Sau khi gật đầu xác nhận điều ấy, Utsumi Kaoru chăm chú nhìn mặt Tomoya. “Vậy hồi đó hai người hẹn hò ở mức độ nào rồi? Chỉ trong phạm vi anh có thể kể ra cũng được.”
“Mức độ nào ư, chúng tôi chỉ hẹn hò như bình thường thôi.”
Tomoya vừa gãi đầu vừa nói. “Nói thế này thì hơi kỳ nhưng chúng tôi bắt đầu hẹn hò riêng hai người với nhau là từ sau khi Saori tốt nghiệp cấp ba. Lúc đó tôi đi làm được hai năm, đã quen với công việc nên tinh thần cũng thoải mái hơn. Trước đó thì hai đứa chỉ nói chuyện bình thường mỗi khi tôi tới quán Namikiya thôi.”
“Tần suất hẹn hò ra sao?”
“Khoảng một, hai tuần một lần. Vì lúc đó cả hai đứa đều bận.” “Hai người hẹn hò ở những đâu? Nếu không ngại xin hãy cho tôi biết.”
“Chúng tôi chủ yếu vào thành phố chơi. Gọi là đi chơi nhưng chỉ là lang thang chỗ này chỗ nọ thôi. Hoặc là đi mua sắm.”
Tomoya nghĩ chẳng lẽ cậu phải kể ra chuyện mình và Saori đã có quan hệ xác thịt hay sao. Dù là cảnh sát thì cũng đâu có quyền dòm ngó vào đời tư của người khác đến mức đó.
Nhưng Utsumi Kaoru không hỏi sâu thêm nữa. Thay vì thế, cô hỏi một câu vào thẳng chủ đề chính.
“Anh có thể kể cho tôi thật chi tiết những việc đã xảy ra vào thời điểm cô Saori mất tích không?”
Tomoya lần giở lại ký ức.
“Sau khi cô ấy mất tích mấy ngày tôi mới biết tin. Cô ấy không đọc tin nhắn, gọi điện cũng không bắt máy, tôi thấy lạ, nên một hôm trên đường đi làm về đã ghé qua cửa hàng Namikiya, song cửa hàng lại thông báo tạm thời đóng
cửa. Tôi chắc mẩm hẳn nhà cô ấy đã gặp phải chuyện gì đó, đúng lúc ấy Natsumi gọi tới, và phải tới khi đó tôi mới biết chuyện.”
“Cảnh sát không tới hỏi chuyện anh ư?”
“Không ạ. Chỉ có Natsumi biết chuyện giữa tôi và Saori, cô bé đã hứa với Saori sẽ giữ bí mật với những người khác, thế nên cô bé đã không kể với cảnh sát. Sau đó Natsumi cũng nói với tôi rằng một phần cô bé không muốn tôi gặp rắc rối nên mới không kể ra.”
Trong lúc nói chuyện, những việc xảy ra hồi đó dần sống lại trong đầu cậu.
Sau khi biết Saori mất tích, Tomoya đã tới quán Namikiya khá nhiều lần. Thế nhưng cánh cửa quán lúc nào cũng đóng kín. Cậu bồn chồn muốn biết tình hình, nhưng rồi đành nhủ lòng rằng gia đình Saori mới là những người đau khổ nhất.
“Vậy tôi xin hỏi thẳng.” Utsumi Kaoru nhìn thẳng vào mắt Tomoya. “Anh nghĩ tại sao Saori lại mất tích, rồi qua đời như vậy?”
Một câu hỏi thẳng tuột. Tomoya bối rối, lắc đầu.
“Tôi không biết. Chuyện như thế sao tôi có thể biết được chứ. Một ngày đột nhiên cô ấy mất tích rồi chẳng thấy tăm hơi đâu nữa.”
“Chúng tôi cho rằng khả năng cao là Namiki Saori đã bị cuốn vào một vụ án nào đó. Anh nghĩ sao? Anh có đồng ý với ý kiến này không?”
“Đương nhiên rồi.” Lần này cậu gật đầu. “Hẳn là cô ấy đã bị kẻ nào đó sát hại.”
“Anh có đoán được kẻ đó là ai không?” Viên cảnh sát nữ nhìn cậu với ánh mắt dò hỏi.
Trong khoảnh khắc, một hình ảnh tưởng tượng xẹt qua đầu Tomoya. Vì thế câu trả lời của cậu chậm mất một nhịp, cậu đáp “Dạ không.”
“Vừa rồi anh đã hơi lưỡng lự nhỉ?” Utsumi Kaoru nhạy bén hỏi. “Không phải anh vừa nghĩ ra chuyện gì sao?”
“À không, thực ra…
Tomoya ấp úng. “Anh Takagaki này.” Utsumi Kaoru mỉm cười, dịu dàng gọi tên cậu. “Giờ chỉ có hai chúng ta đang nói chuyện với nhau.
Tôi cũng sẽ không ghi chép lại, vì thế nếu có gì muốn nói anh hãy cứ nói ra, đừng e ngại gì cả. Anh không cần phải nghĩ những chuyện rắc rối như ‘có thể đó chỉ là hiểu lầm’, hay ‘mình không muốn thốt ra những lời suy đoán vô trách nhiệm’. Chúng tôi sẽ tìm ra sự thật giữa những thông tin đúng sai lẫn lộn đó. Xin hãy hợp tác cùng chúng tôi.”
Nói tới câu cuối, Utsumi Kaoru cúi đầu xuống.
Tomoya liếm đôi môi khô khốc. Câu nói của viên nữ cảnh sát thật tinh ý. Cô đã nhìn thấu nội tâm của Tomoya.
“Những chuyện này đều không có căn cứ cụ thể nào cả. Tất cả chỉ là suy đoán của tôi thôi.”
“Không sao, như vậy cũng được.” Utsumi Kaoru ngẩng mặt lên. Đôi mắt của cô như lóe sáng.
Tomoya khẽ ho một tiếng rồi cất lời.
“Saori kể rằng khoảng mùa thu sau khi cô ấy tốt nghiệp cấp ba, một vị khách khó ưa bắt đầu lui tới quán Namikiya. Người khách này thường xuyên nhìn chằm chằm cô ấy với ánh mắt thiếu đứng đắn, về sau còn bắt cô ấy rót bia cho mình. Gã thường tới vào khung giờ muộn nên trước đó tôi chưa gặp gã ở quán nhà cô ấy bao giờ. Một lần tôi nán lại tới tối muộn thì thấy gã đến. Đúng như Saori kể, gã ra lệnh cho cô ấy rót bia cho gã. Gã thậm chí còn bắt cô ấy ngồi xuống ghế bên cạnh. Lúc đó Saori đã khéo léo viện cớ để lên lầu, nhưng sau hôm ấy hình như gã vẫn thường xuyên đến quán. Tôi rất lo lắng, nhưng Saori bảo không sao. Cô ấy kể bố cô ấy đã đuổi gã đi, từ đó gã không tới quán nữa. Có điều..”
Tomoya lưỡng lự không biết có nên kể tiếp không.
“Có chuyện gì vậy?” Utsumi Kaoru tất nhiên lập tức bám lấy câu nói ấy.
“Saori kể thỉnh thoảng cô ấy lại gặp gã đàn ông đó trên phố. Mấy lần cô ấy thấy gã đi sát bên mình tự lúc nào không hay. Những lúc như vậy cô ấy đều nhanh chóng bỏ chạy khỏi đó.”
“Cô ấy có bị theo đuổi không?”
“Tôi không rõ. Saori bảo cũng có thể đó chỉ là tưởng tượng của cô ấy thôi.”
“Anh có biết gì khác về người đàn ông đó không? Như là tên tuổi, nghề nghiệp chẳng hạn.”
“Tôi không biết gì cả. Chỉ biết gã là khách của quán Namikiya, tôi thậm chí còn không biết gã sống ở khu nào.” Tomoya lắc đầu.
“Đây là lần đầu tiên anh kể với cảnh sát chuyện này à?”
“Vâng. Vì chuyện này xảy ra trước khi Saori mất tích, nên ngay sau khi cô ấy biến mất, tôi đã không thể kết nối hai chuyện với nhau.
Nhưng sau khi ngẫm nghĩ các khả năng, tôi lại thấy rất có thể gã đàn ông đó có liên quan đến vụ mất tích của cô ấy.”
Sau một hồi lặng thinh chìm vào suy nghĩ, Utsumi Kaoru mở chiếc túi đặt bên cạnh mình ra.
“Trong những người này có người nào là gã đàn ông anh kể không?”
Nói rồi cô đặt năm tấm ảnh lên bàn. Tất cả đều là ảnh chụp mặt của những người đàn ông. Có vẻ chúng đều là ảnh dán trên bằng lái xe.
Nhìn tới bức ảnh thứ hai từ trái sang, Tomoya sững người. Đôi gò má xương xẩu và ánh mắt u tối này thật quen mắt.
“Là người này.” Cậu chỉ tay vào bức ảnh.
“Vậy à?” Mặt viên nữ cảnh sát không hề biến sắc, Cô nhanh chóng cất mấy tấm ảnh vào túi.
“Quả nhiên đúng là gã đó sao?” Tomoya hỏi. “Cô mang ảnh gã theo mình như vậy chứng tỏ cảnh sát đang để mắt đến gã nhỉ? Phía cảnh sát đã tìm thấy bằng chứng gì rồi ư?”
Khóe miệng Utsumi Kaoru khẽ dãn ra.
“Chúng tôi đang điều tra rất nhiều thứ. Người đàn ông này không phải người duy nhất chúng tôi nghi ngờ.”
“Nhưng mà… Hay chí ít hãy cho tôi biết tên của gã với. Gã là ai, ở đâu vậy?”
“Xin lỗi anh, cho anh biết điều đó cũng không giúp ích gì cho việc điều tra cả.”
“Nhưng cũng không gây trở ngại gì đúng không?”
“Nếu anh nói chuyện này với ai đó, và thông tin ấy bị lan ra thì rất có khả năng sẽ gây trở ngại cho việc điều tra.”
“Tôi hứa là sẽ không nói với ai cả.”
“Thay vì tin lời anh thì không nói cho anh có lẽ nguy cơ sẽ thấp hơn nhiều. Mong anh hiểu cho.”
Tomoya cắn môi trước giọng nói đều đều của viên nữ cảnh sát.
Thật đáng tiếc, nhưng những lời cô ấy nói đều hợp lý. Utsumi Kaoru đưa mắt nhìn đồng hồ đeo tay của mình.
“Cuộc nói chuyện với anh đã giúp chúng tôi rất nhiều. Cảm ơn anh đã hợp tác.” Cô cúi đầu, đoạn đúng dậy.
Sau khi tiễn cô ra tới cửa, Tomoya quay về bàn mình. Nhưng cậu không còn tâm trạng quay lại với công việc nữa. Lúc sực tỉnh ra, cậu thấy mình đang tìm kiếm các bài báo trên điện thoại. Nhưng nếu chỉ tìm từ khóa là “Namiki Saori” thì không thấy kết quả nào cả. Có vẻ tên thật của cô không được nhắc tới trên các trang tin mạng.
Cậu đặt điện thoại xuống, dựa mình vào phần lưng tựa của ghế.
Cậu lơ đãng nhìn chiếc bàn. Đó là chiếc bàn cậu được cấp khi mới vào công ty. Ký ức ngày đó sống dậy trong đầu cậu.
Lần đầu tiên Tomoya dùng bữa tối tại quán Namikiya là vào tháng Tư 5 năm trước. Tomoya vốn sống cùng mẹ, bà Rie, một y tá nhưng hôm đó bà phải trực ca tối. Trước đây mẹ thường nấu sẵn bữa tối cho cậu trước khi đi làm, nhưng cậu nghĩ giờ mình đã đi làm, chí ít cậu cũng phải tự lo được bữa tối cho mình. Quán Namikiya nằm trên đường từ ga về nhà cậu, thấy không khí quán có vẻ dễ chịu nên cậu cũng đã định một lúc nào đó sẽ ghé vào ăn thử xem sao.
Ngày đầu tiên đến quán, Tomoya đã bắt gặp Saori đang làm việc ở đó. Gương mặt nhỏ, đôi mắt lớn, dung mạo cô xinh đẹp tới mức sẽ chẳng có gì phải ngạc nhiên nếu cô gia nhập giới nghệ sĩ ngay khi ấy.
Nhưng thứ thu hút Tomoya hơn cả là biểu cảm sinh động trên mặt cô. Cậu cũng rất vui vì tuy đó là lần đầu tiên tới quán nhưng cậu vẫn được đón tiếp thân mật như thể khách quen từ lâu.
Chẳng bao lâu sau Tomoya thực sự trở thành khách quen của quán. Khi nhẩm tính lại, cậu thấy mình đã tới quán ít nhất là một lần một tuần. Thỉnh thoảng, ngay cả vào những ngày bà Rie không phải trực ca tối, cậu vẫn báo với mẹ tối nay mình sẽ ăn ở bên ngoài để tới quán Namikiya trên đường từ công ty về nhà. Một phần vì đồ ăn ở quán khá ngon, nhưng đương nhiên mục đích lớn nhất vẫn là để gặp Saori.
Cậu không định vội vã bày tỏ tình cảm của mình bởi Saori khi đó vẫn là một học sinh cấp ba.
Vả lại chưa chắc cô ấy sẽ tiếp nhận tình cảm của cậu. Dù trong những lần tới quán, cậu có cảm giác Saori không ghét mình, nhưng cũng có thể cậu chỉ đang hiểu lầm mà thôi.
Nghe lỏm cuộc trò chuyện của mẹ Saori, cô Namiki Machiko, cậu biết được Saori chưa có người yêu. Tuy vậy, chắc chắn số khách tới quán với mục đích tiếp cận Saori như cậu không hề ít. Mỗi khi thấy một vị khách nam trẻ tuổi cậu lại bồn chồn. Cậu có cảm giác tất cả mọi người đều nhắm tới cô ấy. Nhìn Saori thân thiện với tất cả mọi người, cậu không thể bình tâm nổi.
Cứ như vậy, chớp mắt 1 năm đã trôi qua. Một buổi tối tháng Ba, nhân lúc trong quán không có vị khách nào khác, Tomoya đã tặng Saori một món quà. Cậu nói là để chúc mừng cô tốt nghiệp. Đó là một chiếc kẹp tóc hình một chú bướm vàng.
Mắt Saori sáng lên rạng rỡ, cô lập tức lấy ra kẹp lên tóc ngay tại đó. Trong quán không có gương nên Tomoya dùng điện thoại chụp ảnh phía sau đầu cô rồi cho cô xem.
“Dễ thương quá!” Saori nhìn ảnh, hồ hởi nói. Biểu cảm ấy không giống như đang diễn. “Em muốn kẹp chiếc kẹp tóc này ra ngoài chơi quá. Em nên đi đâu bây giờ nhỉ?” Saori nói, tay chạm vào chiếc kẹp tóc, rồi cô nhìn Tomoya. “Anh Takagaki ơi, anh đưa em đi đâu đó chơi đi.”
Tomoya sững người, tim đập thình thịch. Cậu không ngờ lại có ngày sẽ được Saori đề nghị như vậy. “Em có muốn đi xem phim không?”
Tomoya gợi ý, lòng hãy còn đầy bối rối, nhưng Saori tỏ vẻ không ưng. Cô bảo tới chỗ tối thì sao thấy được chiếc kẹp tóc, mà như vậy thì chẳng có ý nghĩa gì cả.
Thế là công viên Disneyland Tokyo đã được chọn làm địa điểm cho buổi hẹn hò đầu tiên của họ. Mỗi lần bắt gặp chiếc gương nào đó, Saori đều soi chiếc kẹp tóc đang kẹp phía sau đầu mình, và lần nào cũng khen nó thật dễ thương.
Sau lần đó, họ bắt đầu hẹn hò theo định kỳ. Sau một thời gian hẹn hò, càng ngày Tomoya càng yêu Saori hơn. Saori là cô gái tốt bụng, rất biết suy nghĩ cho người khác.
Họ giấu mọi người xung quanh về chuyện hẹn hò, nhưng cậu vẫn kể cho mẹ mình là bà Rie nghe. Mẹ cậu nói muốn gặp Saori nên cậu đã dẫn Saori về nhà chơi. Vừa nhìn thấy cô, bà Rie đã rất thích. Bà thậm chí còn nói Tomoya thật chẳng xứng với một cô gái tuyệt vời đến vậy.
Saori mới 19 tuổi, cậu biết hãy còn quá sớm để dự tính chuyện tương lai. Vả lại cô còn có ước mơ trở thành ca sĩ chuyên nghiệp.
Cậu nghĩ mình phải ở bên cạnh động viên cô để ước mơ đó trở thành hiện thực.
Nhưng trong thoáng chốc, tất cả những điều đó đã bị cướp mất. 3
năm trời kể từ khi Saori biến mất chẳng khác nào địa ngục đối với cậu. Cậu vẫy vùng trong lo lắng, phiền muộn. Cậu tiếp tục lui tới quán Namikiya để xem có tin tức gì không, nhưng rồi cậu không tới đó nữa. Cậu đã bỏ cuộc khi thấy chẳng còn chút hy vọng nào nữa.
7
Người tới nhà hỏi chuyện Niikura Naoki là trung sĩ cảnh sát Kishitani của Sở Cảnh sát Tokyo và một cảnh sát trẻ thuộc Phòng Cảnh sát Kikuno. Kishitani, một nam cảnh sát trên dưới 40 tuổi, gương mặt điềm tĩnh, cách nói chuyện cũng ôn hòa.
Vì đã đoán trước một ngày nào đó cảnh sát hẳn sẽ tìm tới mình nên đối với ông Niikura, chuyến viếng thăm này của cảnh sát không phải một chuyện gì đấy quá bất ngờ. Chủ quán Namikiya, Namiki Yutaro đã gọi điện thông báo cho ông về việc cảnh sát đã tìm thấy thi thể của Saori. Nghe nói một cảnh sát chịu trách nhiệm về cuộc điều tra lần này đã trực tiếp tới chỗ Namiki hỏi chuyện.
Những câu hỏi của Kishitani xoay quanh ba chuyện, tình hình mọi việc khi Saori mất tích, các mối quan hệ của Saori, và suy đoán về vụ án mà có thể Saori đã bị cuốn vào.
Ông Niikura cũng muốn cung cấp được thông tin gì đó có ích cho cuộc điều tra của cảnh sát. Nhưng trước những câu hỏi của Kishitani, ông chỉ biết chau mày, ngoẹo cổ mà thôi. Thật đáng tiếc, nhưng đó là sự thực. Nếu ông có manh mối gì có thể cung cấp cho họ ở đây, vào lúc này, thì ông đã sớm cho cảnh sát biết vào 3 năm trước rồi.
Hầu như chẳng thu hoạch được gì, nhưng Kishitani và viên cảnh sát trẻ vẫn nói lời cảm ơn ông đã hợp tác rồi rời đi. Đưa họ ra cửa, ông Niikura nếm trải cảm giác bất lực trống rỗng trong lòng mình.
Ông cùng vợ, bà Rumi, quay trở lại phòng khách. Trên chiếc bàn giữa phòng là hai tách trà mà hai vị khách không hề động tới.
“Tôi pha cà phê cho mình nhé?” Vừa dọn tách trà, bà Rumi vừa hỏi.
“Ừ, mình pha giúp tôi một cốc với.” Ông Niikura ngồi xuống xô pha. Ông cầm tấm danh thiếp Kishitani bỏ lại trên bàn, khẽ thở dài.
Ông Niikura không cung cấp được cho cảnh sát thông tin gì quan trọng, ngược lại ông cũng không thu được thông tin gì từ họ. Họ thậm chí còn không cho ông biết ngôi nhà ở Shizuoka nơi phát hiện ra thi thể của Saori là nhà của ai.
Thu hoạch duy nhất của ông là cảnh sát đã cho ông xem bức ảnh một người đàn ông và hỏi ông có thấy người này quen mặt không.
Nhắc mới nhớ, Namiki cũng được cảnh sát cho xem ảnh của một người đàn ông. Có lẽ là cùng một tấm ảnh. Theo lời Namiki, gã đàn ông đó là khách quen của quán nhà anh ta, và thỉnh thoảng gã lại có những yêu cầu khiếm nhã với Saori. Nhưng ông Niikura chưa nhìn thấy gã bao giờ. Đương nhiên ông không biết gã là ai, người ở đâu.
Gã đó là hung thủ ư? Saori đã bị gã sát hại sao?
Ông nhớ lại gương mặt trong ảnh. Thật khó để nói đó là một gương mặt đẹp. Gã tiếp cận Saori với ý đồ xấu, nhưng rồi bị kháng cự nên đã xuống tay giết hại chăng? Nếu vậy thì thật đê hèn.
Namiki Saori là một viên kim cương thô chưa được mài giũa mà rất lâu rồi ông Niikura mới tình cờ tìm thấy.
Ông Niikura từng nghe người ta kháo nhau về một cô bé tài năng ở khu phố mua sắm. Nghe đâu chỉ vì mọi người đều muốn nghe giọng hát của cô bé ấy mà hội trường của cuộc thi hát đã chật kín người. Nhưng ông chẳng quan tâm. Chỉ là một cuộc thi hát nghiệp dư thôi mà. Ông nghĩ, bình thường chỉ cần một bé gái hát hơi hay hay một chút thì đám người lớn sẽ sung sướng tán tụng lên tận mây xanh ngay, lần này chắc cũng vậy thôi.
Nhưng lần nọ, một người quen trong giới âm nhạc đưa cho ông một tờ bìa quảng cáo rồi xúi ông nên đến nghe thử một lần xem sao.
Đó là tờ bìa quảng cáo giới thiệu về ngày hội văn hóa của một trường cấp ba trong vùng. Theo đó thì câu lạc bộ nhạc nhẹ của ngôi trường nọ sẽ trình
diễn một buổi hòa nhạc. Người hát chính trong buổi hòa nhạc đó chính là cô bé thiên tài mà ông nghe đồn bấy lâu.
Tình cờ hôm đó ông lại rảnh rỗi nên đã cùng bà Rumi tới xem buổi lễ. Trong lòng ông không có chút kỳ vọng nào. Ông đã chuẩn bị tinh thần để nghe những bản nhạc rock rẻ tiền trong buổi trình diễn.
Nhưng thực tế lại trái ngược hoàn toàn so với dự đoán của ông.
Thể loại nhạc mà nhóm của Namiki Saori mang tới cho khán giả không phải nhạc rock mà là jazz và blues. Có những ca khúc phổ biến nhưng cũng có cả những ca khúc mà người không am hiểu về dòng nhạc này thì không thể biết tới. Tất thảy đều là những ca khúc khó hát. Nhưng Saori đã hát rất thành công. Giọng hát đặc biệt của cô bé có độ vang và sâu lắng khiến người ta liên tưởng đến các loại nhạc cụ ống bằng gỗ. Khả năng cảm âm của cô bé cũng rất tuyệt vời, cứ như thể cô hoàn toàn thấu hiểu ý nghĩa của ca khúc. Không tin nổi đó là kỹ năng của một cô thiếu nữ mới học cấp ba.
Tới khi sực tỉnh, ông Niikura nhận ra mình và vợ đã ở lại tới cuối buổi trình diễn. Ông vẫn còn muốn được nghe tiếp.
Sau khi ra khỏi hội trường, ông nói chuyện với bà Rumi. Hai vợ chồng đều phấn khích như nhau. Họ cùng đồng ý rằng không thể bỏ qua một tài năng như vậy được.
Ông nhanh chóng tìm tới nhà, nói chuyện với bố mẹ Cô bé. Bố mẹ cô bé biết con gái mình có tài, nhưng có vẻ họ chưa từng nghĩ tới việc cho Saori theo con đường ca hát chuyên nghiệp, trông họ rõ ràng rất bối rối. Nhưng khi ông Niikura nhiệt tình thuyết phục, họ đã chấp nhận câu chuyện như một vấn đề thực tế. Họ nói sẽ hỏi thử con gái xem ý cô bé ra sao.
“Cháu nó bảo muốn thử sức anh ạ.” Mấy hôm sau Namiki gọi điện tới thông báo, vợ chồng Niikura rất vui mừng.
Vậy là ông Niikura đã có được viên kim cương mang tên Namiki Saori trong tay. Nhưng cô bé vẫn còn là một viên kim cương thô. Cần phải mài giũa
nhiều mới sáng lấp lánh được. Ông Niikura liền tận dụng các mối quan hệ của mình để sắp xếp một người luyện thanh có thể tin cậy ở bên kèm cặp Saori. Trong nhà của ông Niikura có phòng cách âm. Ông cho Saori học ở đó.
Ông phải giúp tài năng của cô bé này tỏa sáng bằng bất cứ giá nào. Cô bé có thể sẽ trở thành báu vật của Nhật Bản, mà không, cũng có khi là của cả thế giới không biết chừng. Và để làm được đó, ông sẵn sàng dốc tất cả mọi thứ mình có.
Gia đình ông Niikura đã nhiều đời làm bác sĩ. Họ điều hành một số bệnh viện, hiện tại hai người anh của ông đang tiếp quản chúng.
Bản thân ông Niikura cũng theo học ngành y ở đại học. Lẽ ra ông cũng sẽ trở thành bác sĩ, nhưng rồi thời sinh viên ông tham gia ban nhạc và say mê hoạt động đó, cũng vì thế mà cuộc đời ông đã thay đổi. Ông vốn thích âm
nhạc từ trước. Ông học piano từ năm 5 tuổi, rồi lên cấp hai ông bắt đầu thích sáng tác ca khúc. Ông từng có ước mơ trở thành nhạc sĩ thay vì làm bác sĩ.
Lúc ông bỏ dở đại học, mọi người xung quanh đều phản đối, nhưng nhờ sự kiên định với các hoạt động âm nhạc mà ông dần nhận được sự ủng hộ của nhiều người. Người hiểu cho ông nhất là hai anh trai, họ nói việc của bệnh viện cứ để họ lo, còn ông có thể tự do làm việc mình muốn. Cũng nhờ có hai anh trai nhiệt tình hỗ trợ mà ông chẳng gặp khó khăn gì về mặt kinh tế cả.
Nhưng rồi ông sớm nhận ra mình không có năng khiếu âm nhạc.
Từ khoảng 40 tuổi, ông bắt đầu có ý định tìm kiếm những tài năng trẻ và bồi dưỡng họ. Ông mở trường dạy nhạc và phòng thu âm để tìm kiếm cơ hội ấy. Thực tế, tính đến giờ ông cũng đã đưa được một số người có năng khiếu vào giới âm nhạc. Nhưng tài năng của Saori ở một mức độ cách biệt
hẳn so với tất cả những người trước đó.
Đúng như kỳ vọng của vợ chồng Niikura, Saori ngày càng tiến bộ rõ rệt. Với tài năng này, cô bé có thể tỏa sáng trên toàn thế giới.
Đúng lúc vững tin như vậy thì chuyện không ngờ tới đã xảy đến. Viên kim cương quý giá của ông đã biến mất.
Một việc mà trong mơ ông cũng chưa từng lường tới. Nếu Saori bị tai nạn, hoặc bị bệnh hiểm nghèo thì ông đành bỏ cuộc. Nhưng tại sao cô bé lại đột ngột mất tích chứ. Khi biết chuyện, dù biết là không đúng nhưng ông đã nổi giận với vợ chồng Namiki vì cho rằng họ đã không chú tâm tới con gái.
Sau khi Saori mất tích, cuộc sống của ông Niikura hoàn toàn thay đổi. Ông đã mất đi lẽ sống, mỗi ngày đều trôi qua trong sự ảm đạm.
Hẳn là người ngoài chỉ thấy ông vật vờ như một cái xác không hồn.
Hương thơm bay tới khiến ông trở về với thực tại. Bà Rumi đã trở lại, tay bưng khay đựng tách cà phê. “Tôi pha cà phê đen cho mình đây.”
“Tôi xin.”
Ông Niikura đáp, vươn tay ra lấy tách cà phê. Ông nhấp một ngụm, nhưng không cảm nhận được hương vị. Sự nhạy bén trong ông đã thui chột đi nhiều. Đầu ông giờ chỉ nghĩ tới chuyện của Saori.
“Mình này.” Bà Rumi cất tiếng. “Chắc người đàn ông trong ảnh đó là hung thủ mình nhỉ?”
“Chưa biết được. Nhưng có lẽ khả năng cao là vậy.”
“Nếu là hung thủ thì sẽ bị tử hình đúng không?”
Ông Niikura nghiêng đầu.
“Không biết nữa. Tôi từng nghe kể nếu chỉ giết một người thì sẽ không bị tử hình đâu.”
“Thế ư?” Vợ ông tròn xoe mắt, lộ vẻ ngạc nhiên thực sự.
“Ừ. Chắc sẽ chỉ bị tống giam mười mấy năm gì đó thôi.” Ông Niikura đặt tách cà phê xuống, tiếp tục nhìn vào khoảng không.
“Nếu được, trước khi gã bị bắt, tôi thực muốn giết chết gã bằng chính đôi tay này!”
8
Một tuần sau khi chuyên án điều tra chung được thành lập, vẻ mặt của Mamiya khi nghe Kusanagi báo cáo tiến độ điều tra vẫn phủ một lớp mây đen như cũ. Nhưng cũng đành thôi, bởi họ có quá ít dữ liệu để có thể phá được án.
“Giờ chỉ có thể bắt tội gã vì vụ lương hưu thôi ư?” Mamiya ngồi xuống ghế, vừa nhìn báo cáo vừa hỏi.
“Kể cả thế thì trước đây cũng cần chứng minh được là Hasunuma đã ra vào căn nhà rác đó.” Kusanagi vẫn đứng, nói.
“Thế việc lấy lời khai của mọi người xung quanh không đem lại kết quả gì à?”
“Vâng, tới thời điểm này thì không ạ.”
Mamiya chau mày, rên lên một tiếng.
Từ sau khi chuyên án điều tra chung được thành lập, rất nhiều điều tra viên đã được cử đi để điều tra xem kể từ 6 năm trước, tức là khi bà Hasunama Yoshie mất, cho tới bây giờ Hasunuma Kanichi có ra vào căn nhà rác đó không. Ý đồ của Kusanagi và Mamiya là, nếu gã thực sự đã ra vào căn nhà đó dù chỉ một lần thì họ có thể truy cứu gã về việc này bởi nếu như vậy thì chắc chắn gã đã phải biết về cái chết của bà Yoshie.
Thực ra cảnh sát Shizuoka đã làm sáng tỏ được một chi tiết quan trọng. Đó là có ai đó thỉnh thoảng lại dùng thẻ để rút tiền mặt từ tài khoản ngân hàng nhận lương hưu của bà Yoshie. Vừa mấy hôm trước, hầu như toàn bộ tiền gửi của bà đã bị rút khỏi tài khoản từ một cây ATM trong nội thành. Khi kiểm tra hình ảnh từ camera an ninh, họ thấy một người đàn ông có vẻ là Hasunama đã có mặt ở đó.
Có lẽ biết tin thi thể của bà Yoshie đã được tìm thấy nên gã vội đi rút tiền trước khi tài khoản bị đóng băng.
Việc này hoàn toàn đúng như suy đoán của Kusanagi. Nghĩa là,
nếu tìm được bằng chứng cho thấy Hasunuma đã biết việc mẹ kế mình mất, họ có thể bắt giữ gã với tội danh lừa đảo tiền lương hưu.
Nhưng dù rất nhiều điều tra viên đã miệt mài đi lấy lời khai của mọi người xung quanh, họ vẫn không thu được chứng cứ gì về việc Hasunuma đã tới nhà bà Yoshie trong 6 năm qua. Cảnh sát Shizuoka vẫn đang tiếp tục điều
tra xem có ai nhìn thấy người nào giống với Hasunuma quanh ngôi nhà rác đã cháy không, nhưng cho tới lúc này họ vẫn chưa thu được thông tin gì hữu ích.
Họ đã tính tới việc bắt giữ gã với tội danh vứt bỏ thi thể, nhưng nếu không có chứng cứ về việc gã lui tới căn nhà đó thì họ cũng không thể khởi tố gã được. Vả lại còn vấn đề thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự nữa. Để truy
tố về tội vứt bỏ thi thể, cần phải chứng minh Namiki Saori còn sống ít nhất 2 tháng sau khi mất tích.
“Hasunuma có động tĩnh gì không?” Mamiya hỏi.
“Không có ạ. Gã vẫn như mọi khi.”
Sau khi tìm thấy hai thi thể từ tàn tích của đám cháy căn nhà rác, cảnh sát đã cử người liên tục theo dõi Hasunuma. Đảm nhận phần việc này cho tới khi danh tính của thi thể được làm rõ là điều tra viên của Sở Cảnh sát Shizuoka, nhưng sau khi chuyên án điều tra chung được thành lập thì điều tra viên của Sở Cảnh sát Tokyo đã thế chỗ vào đó. Họ làm thế một phần vì có khả năng Hasunuma sẽ trốn mất, một phần vì họ nghĩ rất có thể gã sẽ có hành động gì đó để che giấu chứng cứ.
Nhưng theo báo cáo từ dạo đó tới nay thì, ngoài những lúc đi mua đồ hoặc tới tiệm pachinko, Hasunama hầu như ở rịt trong căn hộ của mình ở quận Edogawa. 1 tháng trước, xưởng thu mua sắt vụn nơi gã làm việc bị phá sản, cảnh sát cho rằng hiện tại gã không có nguồn thu nhập nào.
Kusanagi chỉ băn khoăn một điểm là một vài điều tra viên nói có vẻ gã đã nhận ra mình đang bị theo dõi. Một cảnh sát dày dạn kinh nghiệm kể lúc Hasunama đi ngang qua quầy bán đồ lót phụ nữ ở cửa hàng bách hóa, gã đã đột nhiên ngoảnh đầu lại khiến anh ta không biết phải trốn vào đâu.
Mamiya thở dài, khoanh hai tay lại.
“Nghĩa là giờ vẫn chưa thể gọi gã tới thẩm vấn tự nguyện được nhỉ?”
“Gã sẽ nói dù trong ngôi nhà rác mẹ kế gã từng sống có thi thể của ai thì cũng không liên quan tới gã thôi.”
“Hẳn là thế.” Gương mặt Mamiya nhăn nhó. “Tôi hiểu rồi. Vậy nhờ anh tiếp tục điều tra nhé.”
Kusanagi quay lại bàn mình, đang đọc tài liệu thì Kishitani vội vã đi tới. “Đội trưởng! Đã điều tra ra chiếc xe Hasunama thường dùng 3
năm trước. Đó là một chiếc xe tải hạng nhẹ của công ty gã làm việc ạ.” Kishitani đưa một tờ giấy in hình một chiếc xe tải hạng nhẹ màu trắng ra. “Một chiếc cùng kiểu với chiếc này.”
Kusanagi nhận lấy tờ giấy, nhìn hình và gật đầu. Để vận chuyển thi thể Namiki Saori, gã sẽ cần tới ô tô. Nhưng theo ghi chép của cảnh sát thì lúc đó Hasunuma không sở hữu chiếc xe nào cả. Có điều, anh cho rằng có khả năng gã đã dùng ô tô của công ty thu thập phế liệu nơi gã làm việc khi đó, nên đã bảo Kishitani và mấy cảnh sát khác đi điều tra.
“Hồi đó chỉ mình Hasunuma lái chiếc xe này, nghe nói những nhân viên khác không dùng tới nó. Ở công ty đó cũng có bản ghi chép tình hình sử dụng xe, em kiểm tra thì thấy đúng như vậy.”
“Cậu làm tốt lắm.” Kusanagi nói rồi nhìn chằm chằm ảnh chiếc xe tải hạng nhẹ lần nữa.
“Nhờ thế em đã phát hiện ra một tình tiết thú vị.” Kishitani nói.
“Gì vậy?”
“Hình ảnh cuối cùng về Namiki Saori được tìm thấy từ camera an ninh của cửa hàng tiện ích. Sau khi điều tra kỹ đoạn băng ghi hình đó.” Kishitani đặt hai tờ giấy in ảnh lên bàn. Trong một bức là hình Namiki Saori đang đi bộ,
tay áp điện thoại di động trên tai. Bức còn lại là một chiếc xe tải hạng nhẹ màu trắng.
“Đây là…” Kusanagi nhìn thời gian hiển thị trên hai tấm ảnh. Cách biệt về thời gian trên hai tấm là chưa đầy một phút.
“Namiki Saori vừa đi qua cửa hàng tiện lợi thì chiếc xe tải hạng nhẹ này cũng chạy qua đó. Có khả năng chiếc xe đang theo dõi Saori ạ.”
“Đã biết biển số xe chưa?”
“Rồi ạ.”
“Hãy tra soát dữ liệu ghi chép của hệ thống N-system[*], thông báo cả với Sở Cảnh sát Shizuoka nữa.”
“Vâng!” Sau khi đáp lại đầy phấn chấn, Kishitani giơ ngón tay trỏ lên “Còn một việc nữa ạ. Ở công ty đó có một người đặc biệt thân thiết với Hasunuma, em đã nghe được một chuyện khá thú vị. Trong 3 năm vừa qua, lâu lâu Hasunuma lại gọi điện cho người này. Hơn nữa còn gọi từ buồng điện thoại công cộng.”
“Điện thoại công cộng ư?”
“Mục đích gọi điện của Hasunuma luôn chỉ có một, đó là hỏi thăm tình hình công ty. Đặc biệt, có vẻ gã muốn biết cảnh sát có tìm tới đó không. Nhưng gã chỉ thường xuyên gọi tới vào mấy tháng đầu, về sau tần suất giảm dần, và 1 năm gần đây thì người này không nhận được liên lạc từ gã nữa.”
Kusanagi gật đầu trước báo cáo của Kishitani.
“Có lẽ gã muốn kiểm tra xem bản thân có bị nghi ngờ gì trong vụ mất tích của Saori không. Sau khi rời khỏi căn hộ cũ, một thời gian sau gã vẫn không chuyển tạm trú. Hẳn là để tránh cảnh sát theo dấu.
Việc gã dùng điện thoại công cộng cũng là vì thế. Nhưng sau đó có lẽ gã thấy yên tâm vì mọi chuyện vẫn ổn nên gã đã chuyển giấy tạm trú và còn làm lại bằng lái xe nữa.”
“Em cũng nghĩ vậy.” Kishitani đồng tình.
Nghĩa là lại có thêm manh mối khiến Hasunama đáng ngờ hơn. Dù đó chỉ là chứng cứ gián tiếp.
Vài ngày sau, họ nhận được kết quả truy vết từ hệ thống N-system. Dữ liệu cho thấy khoảng 3 năm trước, chiếc xe tải hạng nhẹ đó đã ra khỏi thị trấn Kikuno, từ nút giao thông lập thể gần nhất đi lên đường cao tốc, tiến về Shizuoka. Khoảng 2 giờ sau đó, chiếc xe chạy về hướng ngược lại. Ngày tháng và khoảng giờ đều trùng khớp với thời điểm Namiki Saori mất tích.
Kusanagi quyết định cho khám xét căn phòng của Hasunama và yêu cầu gã tới thẩm vấn tự nguyện.
Kusanagi tự mình đứng ra thẩm vấn.
Ngồi trong phòng thẩm vấn, Hasunama gầy hơn hẳn 19 năm trước, lớp thịt trên má càng teo tóp hơn. Những vết nhăn xuất hiện đầy trên mặt, đôi mắt trũng sâu xuống. Nhưng vẻ mặt nghèo nàn cảm xúc và đôi mắt vô hồn không thể hiện điều gì ấy thì vẫn giống hệt trước đây.
Đầu tiên Kusanagi tự giới thiệu bản thân, nhưng Hasunuma không có phản ứng gì. Có lẽ gã không nhớ anh chính là viên cảnh sát gã đã gặp 19 năm trước.
Khi hỏi tên tuổi địa chỉ, Hasunuma trả lời thành thực khiến Kusanagi thở phào. Bởi đôi khi có những kẻ sẽ giữ im lặng ngay từ thời điểm bắt đầu thẩm vấn.
Anh quyết định lật lá bài đầu tiên. Anh đặt một bức ảnh trước mặt Hasunuma. Bức ảnh người đàn ông rút tiền mặt tại cây ATM.
“Người đàn ông này là anh đúng không?”
Hasunuma liếc nhìn bức ảnh bằng ánh mắt lạnh nhạt, rồi thản nhiên trả lời, “Tôi không biết.”
“Hôm đó tiền mặt đã bị rút khỏi tài khoản ngân hàng của bà Hasunama Yoshie. Nếu người đàn ông này không phải anh thì nghĩa là thẻ ngân hàng của bà ấy đã bị đánh cắp và mật khẩu thẻ cũng bị lộ. Cũng có nghĩa chúng tôi phải điều tra vụ này như một vụ trộm cắp. Trong trường hợp đó, chúng tôi sẽ phải nhờ anh, người có mối quan hệ với người bị hại, hợp tác điều tra, mong anh hiểu cho.”
Hasunuma ngước đôi mắt tam bạch[*] về phía Kusanagi. Sau khi khụt khịt mũi, gã lấy chiếc ví từ túi áo khoác ra, rút ra một tấm thẻ.
Đó là một tấm thẻ rút tiền. Gã đặt nó lên bàn.
“Tôi có thể xem được không?”
Kusanagi hỏi, Hasunuma chậm rãi chớp mắt thay cho cái gật đầu.
Tấm thẻ in tên bà Hasunuma Yoshie bằng chữ cứng[*]. Không phải loại thẻ xác thực bằng dấu vân tay.
“Sao anh lại giữ thẻ này?” Vừa trả lại chiếc thẻ, Kusanagi vừa hỏi. “Tôi giữ nó vì có lý do riêng.” Hasunuma cầm lấy tấm thẻ. “Lý do gì vậy?”
Đôi vai Hasunuma khẽ phập phồng lên xuống. “Đây là chuyện cá nhân nên tôi không muốn kể.”
“Trong lần thẩm vấn với cảnh sát Shizuoka, anh nói đã nhiều năm nay không gặp bà Yoshie, cũng không liên lạc gì. Vậy lần cuối anh gặp bà ấy là
khi nào?”
“Chuyện đã lâu nên tôi quên rồi.”
“Anh có thể nói đại khái mốc thời gian cũng được.” “Tôi không thích nói những chuyện không rõ ràng. Nói rồi khóe miệng Hasunuma cong lên. Kusanagi cảm thấy như gã đang cố nín cười.
Kusanagi nén giận, nghĩ gã đang phát huy sở trường của mình. Hasunuma quyết tâm không nói những chuyện không cần thiết. Kusanagi quyết định tấn công từ một góc độ khác.
“3 năm trước anh sống ở đâu?”
Hasunuma nghiêng đầu ngẫm ngợi.
“Tôi quên rồi. Tôi chuyển nhà liên tục.”
“Anh đã thuê một căn hộ ở Minamikikuno thuộc thị trấn Kikuno. Chúng tôi có ghi chép về việc này.”
“Thế à?” Lông mày gã không hề động.
“Tại sao anh chuyển đi?”
“Tại sao ấy nhỉ? Tôi quên luôn rồi.”
“Anh còn nghỉ việc ở công ty anh đang làm tại thời điểm đó nữa. Hẳn là phải có lý do gì đáng kể lắm nhỉ?”
“Không chắc nữa.” Hasunuma hờ hững nói. “Tôi chẳng nhớ gì cả. Tôi cũng thường xuyên đổi việc.”
Có vẻ gã đang áp dụng chiến thuật giả vờ không biết từ đầu đến cuối.
“Hồi đó bữa tối của anh thế nào? Anh tự nấu hay ra ngoài ăn?” “Ừm. Lúc thì tự nấu, lúc thì ăn ngoài.”
“Không phải anh thường xuyên tới một quán cơm suất tên Namikiya sao?” Hasunuma khẽ mỉm cười.
“Tôi tới nhiều quán lắm, không thể nhớ hết tên những quán đó được.”
“Cô con gái của chủ quán đó tên Namiki Saori. Thi thể cô ấy được tìm thấy trong tàn tích đám cháy của căn nhà rác mẹ kế anh ở. Anh có lý giải gì về việc này không?”
Sau khi khẽ nhắm mắt lại, Hasunama máy móc lắc đầu.
“Tôi không có gì để nói cả.”
Kusanagi nhìn chằm chằm gương mặt vô cảm như mặt nạ kịch Nô[*] của gã. Nhưng dường như anh không cảm thấy gì, Hasunama chỉ ngồi thừ ra như đang mệt mỏi. Vẻ như những giờ phút thẩm vấn này chẳng có gì khó chịu với gã.
“Khoảng hơn 3 năm trước, anh đã dùng xe của công ty để đi lại giữa nhà mình và nhà của bà Hasunuma Yoshie đúng không? Chúng tôi có bản ghi từ hệ thống N-system.”
Thực ra họ chưa điều tra được cụ thể đến thế, nhưng Kusanagi vẫn táo bạo nắn gân gã.
Biểu cảm trên mặt Hasunuma không chút thay đổi. Gã trả lời với giọng thản nhiên “Tôi quên rồi”. Có vẻ gã chắc mẩm rằng không thể khẳng định điều đó chỉ với dữ liệu từ hệ thống N-system được.
Hôm nay hỏi tới đây thôi, Kusanagi nghĩ.
“Tôi hỏi đủ rồi. Cảm ơn anh đã dành thời gian tới thẩm vấn.”
Hasunuma chậm rãi đứng dậy. Gã bước tới cánh cửa vừa được viên cảnh sát trẻ phụ trách ghi chép nội dung buổi thẩm vấn mở ra.
Nhưng rồi giữa chừng gã dừng bước, quay lại nhìn Kusanagi. “Lần này mọi chuyện sẽ thế nào, anh Kusanagi nhỉ?” Gã nói, mỗi nhếch lên. “Gì cơ?”
“Còn một người nữa là Mamiya phải không nhỉ? Giờ chắc anh ta cũng chức cao vọng trọng lắm rồi phải không?”
Trước giọng nói nhớp nháp của gã, Kusanagi sững sờ không nói được lời nào.
Hóa ra gã vẫn còn nhớ, người thẩm vấn vừa ngồi đối diện gã chính là tay cảnh sát đã tới phòng gã 19 năm trước…
Hasunuma nhếch mép cười rồi ra khỏi phòng.
Sau buổi thẩm vấn đó khoảng 2 tuần, cảnh sát đã nắm được một bước tiến quan trọng trong việc điều tra. Trong số những đồ vật tạm giữ khi khám xét nhà Hasunuma, họ tìm thấy bộ đồng phục của gã thời gã làm việc ở công ty thu thập phế liệu. Bộ đồng phục đã được giặt, nhưng vẫn có thứ gì đó có vẻ là vết máu dính mờ mờ trên đấy.
Bộ đồng phục lập tức được chuyển qua Phòng điều tra khoa học. Kết quả là, nhóm máu và DNA trùng khớp với Namiki Saori.
Kusanagi hỏi ý kiến Mamiya và Tatara về việc có ý nên bắt giữ Hasunuma không. Tình huống hiện tại giống hệt 19 năm trước. Họ có thể chứng minh Hasunuma đã vứt thi thể của Namiki Saori. Nhưng liệu có thể chứng minh gã đã giết Saori không? Có thứ gì có thể coi là vật chứng không?
Sau một hồi bàn bạc, cả ba cùng đi đến kết luận rằng “có thể”.
Trên thi thể lần này có vết lõm ở phần xương sọ. Khác với 19 năm trước, khi họ không tìm được nguyên nhân tử vong. Vì đã đánh mạnh tới mức xương sọ bị lõm xuống nên không thể khăng khăng rằng không có chủ đích giết người được.
Một tháng trôi qua kể từ khi tìm thấy thi thể của Namiki Saori trong tàn tích của ngôi nhà rác.
Và rồi…
Thái độ của Hasunama sau khi bị bắt giống hệt 19 năm trước.
Trong thời gian bị giam, gã hoàn toàn giữ im lặng. Buổi thẩm vấn với bên kiểm sát cũng như vậy.
Vì đã lường trước việc này nên nhóm Kusanagi chẳng hề ngạc nhiên. Họ bắt gã với nhận định rằng dù gã không khai nhận họ vẫn có thể khởi tố được.
Nhưng bên kiểm sát lại nhận định khác. Ngay trước khi thời hạn tạm giam kết thúc, viện kiểm sát đưa ra kết luận tạm hoãn khởi tố.
Hasunuma Kanichi được phóng thích.
9
Tòa nhà nối liền với ga Kikuno là một tòa nhà nhỏ chỉ có bốn tầng.
Ra khỏi cửa soát vé, vừa đặt chân vào trung tâm mua sắm anh đã thấy tiệm cà phê trước mắt.
Anh đi qua cửa tự động, nhìn quanh quán. Quán khá rộng, khách đã lấp kín hơn một nửa số bàn.
Người anh hẹn gặp đang ngồi đọc tạp chí ở một chiếc bàn cạnh cửa sổ. Một tách cà phê đã được để trên bàn.
Kusanagi lại gần, nhìn xuống người bạn lâu năm.
“Chào cậu.”
Yukawa Manabu ngẩng mặt lên, khóe miệng hơi dãn ra.
“Bao nhiêu năm rồi mới gặp lại cậu nhỉ?”
“4 năm rồi. Cậu về nước sao không báo với tôi một tiếng?” Kusanagi ngồi xuống chiếc ghế đối diện.
“Tôi có báo cho Utsumi rồi mà.”
“Nhưng Utsumi không báo lại cho tôi.”
“Cậu than thở về sự tắc trách của nhân viên cấp dưới với tôi làm gì, tôi có giải quyết được giúp cậu đâu.”
“Cậu vẫn lắm lý sự như mọi khi nhỉ?” Kusanagi bật cười.
Bồi bàn mang nước đến, Kusanagi liền gọi cà phê. Sau đó anh quay lại nhìn người bạn cũ của mình lần nữa. Cơ thể gầy, nói đúng hơn là săn chắc của Yukawa vẫn như trước đây. Mái tóc đã lẫn vài sợi bạc.
“Nhìn cậu có vẻ vẫn ổn.” Kusanagi nhận xét. “Cuộc sống bên Mỹ thế nào?”
Yukawa gật đầu với vẻ mặt lãnh đạm, tay cầm tách cà phê.
“Khá nhiều thử thách cam go. Tôi đã đạt được vài thành quả nhất định, nên cũng không đến nỗi nào.”
“Tôi có nghe Utsumi kể qua, cậu trở thành giáo sư rồi hả?”
Yukawa lấy hộp danh thiếp từ túi trong áo khoác ra, đặt một tấm trước mặt Kusanagi.
“Địa chỉ liên lạc của tôi thay đổi rồi.”
Kusanagi cầm tấm danh thiếp lên. Chức danh trên đó quả thực đã đổi thành giáo sư.
“Chúc mừng cậu.” Kusanagi nói.
“Đâu phải chuyện gì đáng chúc mừng.” Yukawa thờ ơ nghiêng đầu đáp. “Sao lại nói thế? Giờ cậu tự do, không bị cấp trên nào bó buộc rồi mà.”
“Tôi thì từ hồi làm giáo sư dự bị cũng đã không phải chịu bó buộc gì rồi. Không phải nghĩ tới những chuyện ngoài lề, được tự do nghiên cứu những thứ mình thích. Nhưng từ khi trở thành giáo sư chính thức, tôi không còn được như vậy nữa. Làm gì tôi cũng phải nghĩ đến thứ này.” Yukawa xoay xoay bàn tay, ngón trỏ và ngón cái của anh tạo thành một vòng tròn giữa không trung. Anh có vẻ muốn nói đến tiền. “Công việc chính của tôi bây giờ là tìm kiếm người tài trợ. Tôi sẽ thuyết trình về giá trị của cuộc nghiên cứu và kêu gọi đầu tư. Giờ tôi giống một nhà sản xuất hơn là nhà nghiên cứu.”
“Cậu làm thế thật à? Thật khó hình dung ra dáng vẻ của cậu khi làm công việc ấy đấy.”
“Trong thế giới nào cũng sẽ có sự chuyển giao thế hệ. Sẽ tới lúc lớp người đi trước phải mở đường cho lớp người đi sau tiến tới.
Chúng ta phải chấp nhận và thuận theo thôi.” Sau khi nói với giọng khô khốc, Yukawa nhìn về phía Kusanagi. “Không phải cậu cũng thay đổi rồi
sao?”
“Cậu nghe Utsumi kể à?”
“Tôi không nghe gì cả, nhưng có thể hình dung được.”
Kusanagi cũng rút danh thiếp của mình ra. Yukawa nhận lấy, một bên lông mày anh khẽ động.
“Vậy là Ban điều tra số Một của Sở Cảnh sát Tokyo lại có thêm một vị đội trưởng đáng tin cậy rồi ư?”
“Được vậy thì tốt, nhưng có lẽ không ít người nghĩ tôi là kẻ vô dụng.”
Cà phê được bưng đến, Kusanagi cho sữa vào, dùng thìa khuấy rồi đưa lên miệng uống.
“Mặt cậu u ám quá.” Yukawa đưa mắt quan sát anh. Đó là ánh mắt của nhà khoa học. “Nhắc mới nhớ, trong tin nhắn cậu viết có một điểm khiến tôi bận tâm. Cậu nói sắp tới sẽ phải tới khu phố mua sắm Kikuno vì chuyện gì đó khá nặng nề nhỉ, nên nếu tôi rảnh thì cùng đi uống cà phê?”
Hôm qua Kusanagi đã gửi tin nhắn cho Yukawa. Utsumi Kaoru đã cho anh địa chỉ hòm thư của Yukawa.
“Có một chuyện khá bực mình.” Kusanagi nhún vai. “Một chuyện vừa khó chịu, vừa đáng tiếc, và làm tôi cảm thấy mình thật kém cỏi.”
“Việc điều tra không được suôn sẻ hả?”
“Không phải không suôn sẻ, mà là mắc kẹt hoàn toàn thì đúng hơn.”
“Nghe thú vị đấy.” Yukawa chồm người về phía trước, hai tay đan vào nhau trên bàn. “Nếu nội dung câu chuyện có thể kể cho một người ngoài như tôi thì tôi sẵn lòng ngồi nghe cậu than vãn.”
“Thế ư? Nếu là người ngoài bình thường thì tôi không kể được, nhưng cậu là trường hợp đặc biệt.” Kusanagi định bắt đầu kể, nhưng rồi anh chau mày
lại, tay trái phẩy đi. “Mà thôi để lúc khác. Lâu lắm chúng ta mới gặp lại. Thay vì nghe câu chuyện nặng nề của tôi thì nghe chuyện hồi bên Mỹ của cậu vui hơn nhiều.”
Yukawa chau mày.
“Nghe chuyện bên Mỹ của tôi làm sao mà vui được.”
“Tại sao? Kể cuộc sống bên Mỹ của cậu cho tôi nghe đi. Tôi muốn nghe mà.”
“Hồi ở Mỹ tôi chẳng làm gì khác ngoài nghiên cứu. Cậu muốn nghe chuyện liệu việc tìm kiếm đơn cực từ có giúp chứng minh thuyết thống nhất lớn hay không à?”
Kusanagi chau mày trước câu nói chẳng khác gì một câu bùa chú đó. “Làm gì có chuyện chỉ nghiên cứu được. Thế ngày nghỉ cậu làm gì?”
“Tôi nghỉ ngơi.” Yukawa thản nhiên trả lời. “Để khi hết ngày nghỉ, tôi có thể lập tức chuyên tâm vào nghiên cứu. Thời gian ở tại đất Mỹ có hạn nên tôi không thể lãng phí một ngày nào cả.”
Kusanagi chán nản. Nghe như đùa, nhưng có lẽ Yukawa nói thật.
Anh không thể tưởng tượng ra cảnh Yukawa đi đánh golf hay lái xe đi dạo vào ngày nghỉ.
“Sao thế? Đừng khách sáo, cứ than phiền về cuộc điều tra đang mắc kẹt của cậu cho tôi nghe đi.” Cử chỉ tay của Yukawa như đang mời gọi.
“Sau khi đi Mỹ về cậu thay đổi nhiều thật đấy. Trước đây không phải cậu nói không hứng thú với các cuộc điều tra của cảnh sát hay sao?”
“Đó là vì mỗi lần tới tìm tôi nói chuyện điều tra, cậu luôn mang theo những vấn đề rắc rối. Kiểu như đầu ai đó đột nhiên bốc cháy, hay một nhà truyền giáo đáng ngờ đã dùng linh lực để đẩy ngã người khác. Rồi sau đấy thì bắt
tôi lý giải những mánh khóe đó. Còn lần này có vẻ tôi không cần lo về những chuyện kiểu như thế.”
Kusanagi phì mũi.
“Ý cậu là nếu có thể đứng ngoài hóng chuyện, không phải tham gia vào, thì cậu sẵn sàng nghe chuyện điều tra chứ gì. Thôi cũng được, dù tôi không chắc chuyện này có thể giúp cậu giải trí được hay không.” Kusanagi liếc nhìn xung quanh thật nhanh. Họ đang ngồi cách xa các khách khác, và có vẻ cũng không có ai đang dỏng tại nghe lỏm câu chuyện của họ cả.
Đầu tiên, Kusanagi tả lại khái quát vụ án lần này. Thi thể cô gái mất tích hơn 3 năm trước được tìm thấy dạo gần đây, cảnh sát đã bắt giữ người đàn ông được cho là hung thủ, nhưng gã đã được trả tự do vì cảnh sát chưa tìm đủ chứng cứ buộc tội trong thời gian quy định.
“Với cảnh sát thì việc này đáng xấu hổ thật. Nhưng tôi tưởng việc tạm hoãn khởi tố vì không đủ bằng chứng là một việc rất hiếm?”
“Đúng là rất hiếm.” Kusanagi nói. “Nhưng tôi nghĩ trường hợp lần này không thể không khởi tố được. Nếu nghi phạm là người bình thường, có lẽ bên kiểm sát đã mạnh dạn khởi tố. Tiếc là gã không phải người bình thường.”
Yukawa hất cằm lên, lấy ngón trỏ chỉnh lại vị trí kính. Kusanagi biết đây là thói quen của anh mỗi khi anh thấy hứng thú với câu chuyện.
“Không bình thường thế nào cơ?”
“Nghi phạm lần này là một kẻ luôn im lặng.”
“Im lặng?”
“Liên quan tới cả chuyện gần 20 năm trước nữa.”
Sau khi kể vắn tắt về vụ sát hại Motohashi Yuna, Kusanagi kể từ đầu tới cuối tiến trình phiên tòa cho Yukawa nghe.
Vốn là người lãnh đạm, vậy mà Yukawa cũng phải thốt lên.
“Nhiều chứng cứ gián tiếp đến thế mà vẫn xử vô tội à? Nghe vô lý thật, nhưng có lẽ tòa án vốn là thứ như vậy. Mà này, đây là lần đầu tiên tôi nghe kể cậu phụ trách vụ án ấy đấy. Thế nó có liên quan gì tới vụ án lần này?”
“Đừng ngạc nhiên đấy nhé. Nghi phạm lần này chính là bị cáo trong phiên tòa lần đó.”
Thái dương Yukawa giật giật.
“Thú vị thật. Gã đàn ông im lặng đó à?”
“Vụ án lần này có rất nhiều điểm giống với vụ sát hại Yuna. Quá thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự của tội vứt hoặc gây tổn hại thi thể, và không có vật chứng về việc sát hại nạn nhân. Điểm khác biệt duy nhất là xương sọ nạn nhân thứ hai bị lõm xuống, chúng tôi cho rằng điều đó giúp xác định nguyên nhân tử vong, đồng thời cho thấy cách thức gây án của hung thủ…”
“Nhưng bên kiểm sát không cùng ý kiến với các cậu?”
Kusanagi chau mày, gật đầu.
“Có lẽ họ cho rằng chứng cứ như vậy hãy còn yếu. Họ nói tuy xương sọ bị lõm xuống, nhưng không thể xác định là do bị đánh bởi hung khí hay bị tai nạn gì. Thậm chí còn không thể xác định được vết thương đó có phải là nguyên nhân gây tử vong hay không.”
“Nghe họ nói thì thấy đúng là như thế thật.”
“Khi nãy tôi nói rồi đấy, nếu nghi phạm là người khác thì có lẽ bên kiểm sát đã không chần chờ rồi. Nhưng nghi phạm lại là Hasunuma, kẻ luôn giữ im lặng. Tôi nghe nói trong cuộc thẩm vấn với bên kiểm sát gã cũng không khai gì. Thái độ của gã như kiểu ‘thích khởi tố thì cứ việc khởi tố đi’ vậy.”
“Gã tự tin rằng dù có bị khởi tố, thì chỉ cần giữ im lặng là đủ chiến thắng trước phiên tòa ư?”
“Ừ.”
“Nhưng không phải gã sẽ bị bắt giam cho tới khi phiên tòa kết thúc sao? Gã không thấy khó chịu về điều đó à?”
“Với nghi phạm này thì mọi chuyện rất khác. Có lẽ gã chỉ coi việc này như một cơ hội kiếm chác thôi.”
“Cơ hội kiếm chác?” Yukawa chau mày khó hiểu. “Ý cậu là sao?”
“Sau khi được tuyên vô tội trong vụ án lần trước, gã ngay lập tức đã yêu cầu bồi thường chi phí tòa án và cả tiền vì bị tạm giam oan.
Nghe nói số tiền gã nhận được khi đó là hơn 10 triệu yên.”
“Ra vậy. Thế thì gã này đáng gờm đấy.” Sau một hồi lơ đãng ngước nhìn khoảng không trên đầu, Yukawa chỉ tay về phía Kusanagi.
“Theo như câu chuyện của cậu thì gã này cũng thông minh đấy.”
“Cậu đoán đúng rồi đấy. Nghe nói từ khi còn nhỏ, thành tích học tập của gã đã rất tốt.”
Cảnh sát Shizuoka đã điều tra khá chi tiết về hoàn cảnh sống và quá trình trưởng thành của Hasunama Kanichi. Gã là con trai duy nhất của nhà Hasunama, bố mẹ ly hôn khi gã lên 10, gã đi theo bố.
Năm gã 13 tuổi bố gã tái hôn, bà Yoshie trở thành mẹ kế của gã.
Hình như từ giai đoạn này gã giao du với đám bạn xấu, những hành vi bất hảo của gã bắt đầu thu hút sự chú ý của mọi người xung quanh. Sau khi tốt nghiệp cấp ba gã chuyển ra ngoài sống, nhưng nghe nói thực ra là do bị ông Hasunuma đuổi khỏi nhà.