🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Cuộc Cách Mạng Công Nghiệp Lần 3 - Jeremy Rifkin full prc pdf epub azw3 [Kinh Tế] Ebooks Nhóm Zalo Hành trình đến với năng lượng xanh GIỚI THIỆU PHẦN I. CHƯƠNG 1. CUỘC KHỦNG HOẢNG KINH TẾ THỰC SỰ MÀ MỌI NGƯỜI ĐỀU BỎ QUA CHƯƠNG 2. MỘT DIỄN GIẢI MỚI CHƯƠNG 3. BIẾN LÝ THUYẾT THÀNH THỰC TẾ PHẦN II. CHƯƠNG 4. CHỦ NGHĨA TƯ BẢN PHÂN PHỐI CHƯƠNG 5. ĐẰNG SAU, TRÁI VÀ PHẢI CHƯƠNG 6. TỪ TOÀN CẦU HÓA ĐẾN CHÂU LỤC HÓA PHẦN III. CHƯƠNG 7. ADAM SMITH NGHỈ HƯU CHƯƠNG 8. CẢI CÁCH LỚP HỌC CHƯƠNG 9. BIẾN ĐỔI TỪ THỜI ĐẠI CÔNG NGHIỆP SANG THỜI ĐẠI HỢP TÁC GIỚI THIỆU THỦ ĐÔ WASHINGTON Nền văn minh công nghiệp của chúng ta đang đứng giữa ngã ba đường. Những nguồn năng lượng từ dầu mỏ và năng lượng hóa thạch khác − những thứ tạo nên các ngành công nghiệp đang dần cạn kiệt, và những công nghệ dựa trên nguồn năng lượng này đã trở nên lỗi thời. Các cơ sở hạ tầng công nghiệp có nền tảng từ nhiên liệu hóa thạch đang trở nên cũ kỹ và hư hỏng. Kết quả là nạn thất nghiệp gia tăng đến mức đáng báo động trên toàn thế giới. Các chính phủ, doanh nghiệp và người tiêu dùng đang sống ngập trong nợ nần và mức sống giảm mạnh. Con số kỷ lục là 1 tỷ người – gần 1/7 dân số toàn nhân loại, đang phải đối mặt với nạn đói và thiếu ăn. Điều tồi tệ hơn, biến đổi khí hậu do các hoạt động công nghiệp sử dụng nhiên liệu hóa thạch gây ra đang chực chờ đe dọa. Các nhà khoa học cảnh báo rằng chúng ta đang phải đối mặt với sự thay đổi nguy hiểm về nhiệt độ và cấu tạo của hành tinh, đe dọa phá vỡ cân bằng các hệ sinh thái trên khắp thế giới. Các nhà khoa học lo ngại rằng chúng ta có thể đang ở bên bờ một sự tuyệt chủng hàng loạt động thực vật vào cuối thế kỷ này, khiến cho sự sinh tồn của chính con người bị lâm nguy. Sự cần thiết phải có một kế hoạch kinh tế đưa con người đến một tương lai công bằng và bền vững hơn ngày càng trở nên rõ ràng. Từ những năm 1980, ngày càng có nhiều dấu hiệu cho thấy cuộc cách mạng công nghiệp dựa vào nhiên liệu hóa thạch đã lên đến đỉnh cao và sự biến đổi khí hậu do con người gây ra đang tạo nên một cuộc khủng hoảng lan rộng khắp hành tinh với quy mô chưa từng có. Trong 30 năm qua, tôi đã tìm kiếm một mô hình mới có thể mở đầu cho kỷ nguyên hậu carbon. Với những phát hiện của mình, tôi nhận ra rằng những cuộc cách mạng về kinh tế vĩ đại trong lịch sử xảy ra khi các công nghệ truyền thông kết hợp với các hệ thống năng lượng mới. Các hệ thống năng lượng mới cho phép tạo nên nhiều hoạt động kinh tế phụ thuộc lẫn nhau hơn và trao đổi thương mại mở rộng hơn cũng như thúc đẩy các mối quan hệ xã hội sâu rộng hơn. Những sự cải cách về truyền thông đi kèm trở thành phương tiện để tổ chức và quản lý những động lực không gian và thời gian mới nảy sinh từ những hệ thống năng lượng mới. Vào giữa thập niên 1990, tôi nhận ra rằng một sự hội tụ mới của truyền thông và năng lượng đang dần hình thành. Công nghệ Internet và những nguồn năng lượng tái tạo chuẩn bị kết hợp lại để tạo nên một cơ sở hạ tầng mạnh mẽ mới cho một cuộc Cách mạng Công nghiệp lần III (TIR) sẽ làm thay đổi thế giới. Trong kỷ nguyên đang tới, hàng trăm triệu người sẽ tự sản xuất năng lượng xanh tại nhà, văn phòng và nhà máy của họ đồng thời chia sẻ với nhau thông qua một “mạng Internet năng lượng”, cũng như cách chúng ta tạo ra và chia sẻ thông tin trực tuyến hiện nay. Sự dân chủ hóa về năng lượng sẽ tái sắp xếp về cơ bản các mối quan hệ giữa con người với nhau, tác động đến cách thức chúng ta kinh doanh, quản lý xã hội, giáo dục con em mình và tham gia vào đời sống dân sự. Tôi đã giới thiệu về tầm nhìn cho cuộc Cách mạng công nghiệp lần III trong chương trình quản trị cao cấp (AMP) của trường kinh doanh Wharton – đại học Pennsylvania, nơi tôi là giảng viên cao cấp trong 16 năm qua về những xu hướng mới trong khoa học công nghệ, nền kinh tế và xã hội. Chương trình kéo dài 5 tuần giúp các CEO và lãnh đạo kinh doanh trên khắp thế giới tiếp cận với các vấn đề đang nổi cộm và những thách thức họ sẽ gặp phải trong thế kỷ XXI. Ý tưởng này nhanh chóng được lan truyền trong giới kinh doanh và trở thành một thuật ngữ chính trị được các nguyên thủ quốc gia trong Liên minh châu Âu sử dụng. Từ trước năm 2000, Liên minh châu Âu đang ráo riết theo đuổi những chính sách nhằm cắt giảm mạnh lượng tiêu thụ carbon và chuyển sang một kỷ nguyên kinh tế bền vững. Người dân châu Âu chuẩn bị cho các mục tiêu và cột mốc, sắp xếp lại các ưu tiên về nghiên cứu và phát triển, đặt ra các bộ luật, quy định và tiêu chuẩn cho một chặng đường kinh tế mới. Ngược lại, nước Mỹ lại đang bận rộn với những công cụ và “ứng dụng hàng đầu” mới nhất đến từ thung lũng Silicon, và những người sở hữu nhà đầy hứng khởi về một thị trường bất động sản đang tăng trưởng từ những khoản vay thế chấp dưới chuẩn. Rất ít người Mỹ quan tâm đến những dự báo về giá dầu mỏ leo thang hay cảnh báo về biến đổi khí hậu đáng lo ngại, và những dấu hiệu ngày càng rõ rệt rằng bên dưới bề mặt, nền kinh tế đang bất ổn. Có một không khí hài lòng, thậm chí tự mãn trên cả nước, một lần nữa xác nhận niềm tin rằng sự thịnh vượng của nước Mỹ thể hiện sự ưu việt hơn các nước khác. Nhưng ngay cả nước Mỹ hay các chính phủ khác cũng không tránh khỏi những lời chỉ trích. Và trước khi những người Mỹ tự mãn về tầm quan trọng của mình, chúng ta nên để ý rằng liên minh châu Âu là nền kinh tế lớn nhất thế giới, chứ không phải Mỹ hay Trung Quốc. Tổng sản phẩm nội địa (GDP) của 27 quốc gia EU lớn hơn GDP của nước Mỹ. Trong khi EU không có nhiều hiện diện quân sự trên toàn cầu, đây là một thế lực hùng mạnh trên đấu trường quốc tế. Hơn nữa, EU gần như là chính phủ duy nhất đang đặt ra những câu hỏi lớn về khả năng tồn tại của chúng ta trên trái đất trong tương lai. Trong 10 năm qua, tôi đã dành hơn 40% thời gian ở châu Âu, nhiều khi đi đi về về hàng tuần qua Đại Tây Dương, làm việc với các chính phủ, giới doanh nhân và các tổ chức xã hội dân sự để đẩy nhanh cuộc Cách mạng công nghiệp lần III. Vào năm 2006, tôi bắt đầu làm việc với các lãnh đạo của Nghị viện châu Âu để soạn thảo một kế hoạch phát triển kinh tế theo hướng Cách mạng công nghiệp lần III. Sau đó vào tháng 5/2007, Nghị viện châu Âu đưa ra một tuyên bố chính thức bằng văn bản ủng hộ Cách mạng công nghiệp lần III làm tầm nhìn và lộ trình kinh tế dài hạn cho Liên minh châu Âu. Kế hoạch này hiện đang được tiến hành bởi nhiều tổ chức thuộc Ủy ban châu Âu cũng như tại các nước thành viên. Một năm sau, vào tháng 10/2008, chỉ vài tuần sau sự sụp đổ của kinh tế toàn cầu, văn phòng của tôi nhanh chóng tổ chức một cuộc họp tại Washington gồm 80 CEO và viên chức cấp cao từ các công ty hàng đầu thế giới trong lĩnh vực năng lượng tái tạo, xây dựng, kiến trúc, bất động sản, CNTT, điện lực, vận tải và giao nhận để thảo luận cách thức biến khủng hoảng thành cơ hội. Các lãnh đạo kinh doanh và hiệp hội thương mại tham dự cuộc họp đều đồng ý rằng họ không thể độc hành nữa và cam kết tham gia xây dựng một mạng lưới Cách mạng công nghiệp lần III để làm việc với các chính phủ, doanh nghiệp địa phương và các tổ chức xã hội dân sự nhằm hướng đến mục tiêu chuyển đổi nền kinh tế toàn cầu sang kỷ nguyên hậu carbon toàn diện. Nhóm phát triển kinh tế, gồm có các công ty Philips, Schneider Electric, IBM, Cisco Systems, Acciona, CH2M Hill, Arup, Adrian Smith + Gordon Gill Architecture, Q-Cells và một số công ty khác đều là những công ty có quy mô đầu ngành trên thế giới và hiện đang làm việc với các thành phố, khu vực và các chính phủ để phát triển các bản quy hoạch tổng thể nhằm chuyển đổi nền kinh tế của họ sang các cơ sở hạ tầng cho cuộc Cách mạng công nghiệp lần III. Tầm nhìn của cuộc Cách mạng công nghiệp lần III đang lan truyền nhanh chóng sang các nước châu Á, châu Phi và châu Mỹ. Vào ngày 24/5/2011, tôi đã trình bày về kế hoạch kinh tế Cách mạng công nghiệp lần III với 5 trụ cột tại Hội nghị kỷ niệm 15 năm Tổ chức Hợp tác kinh tế và Phát triển (OECD) tại Paris, với sự tham gia của các nguyên thủ và bộ trưởng của 34 quốc gia thành viên. Bài phát biểu này diễn ra cùng với sự ra mắt kế hoạch kinh tế tăng trưởng xanh của OECD – một tiền đề để chuẩn bị cho các quốc gia trước một tương lai công nghiệp hậu carbon. Cuốn sách này là một diễn giải của người trong cuộc về tầm nhìn và mô hình phát triển kinh tế theo cuộc Cách mạng công nghiệp lần III đang đến, gồm cả quan sát về các đặc điểm và nhân tố là các nguyên thủ, CEO toàn cầu, doanh nhân xã hội và các tổ chức phi chính phủ − những người đang tiên phong trong việc thực hiện tầm nhìn này. Trong quá trình xây dựng kế hoạch của EU cho cuộc Cách mạng công nghiệp lần III, tôi đã may mắn được làm việc với các nguyên thủ hàng đầu của châu Âu, gồm có thủ tướng Đức Angela Merkel, thủ tướng Ý Romano Prodi, thủ tướng Tây Ban Nha José Luis Rodríguez Zapatero, chủ tịch Ủy ban châu Âu Manuel Barroso và 5 vị chủ tịch của Hội đồng châu Âu. Người Mỹ có thể học hỏi gì từ châu Âu? Tôi tin là có. Chúng ta cần bắt đầu bằng việc quan sát thật kỹ những gì bạn bè châu Âu đang nói và nỗ lực thực hiện. Dù có thiếu sót, cộng đồng châu Âu ít nhất cũng đang nỗ lực tìm hiểu và đối mặt với thực tế là kỷ nguyên nhiên liệu hóa thạch đang suy tàn, và họ đang bắt đầu lên kế hoạch cho một tương lai xanh. Không may là hầu hết người Mỹ vẫn không muốn thừa nhận cơ chế kinh tế đã hỗ trợ đắc lực cho chúng ta trong quá khứ hiện đang thoi thóp. Giống như châu Âu, chúng ta cần phải thừa nhận và sửa chữa sai lầm. Nhưng chúng ta có thể đóng góp điều gì? Trong khi châu Âu đã tìm ra một diễn giải hấp dẫn, không ai có thể kể câu chuyện này hay hơn nước Mỹ. Đại lộ Madison, Hollywood và thung lũng Silicon đều xuất sắc trong việc này. Điều khiến nước Mỹ khác biệt không đơn thuần là trình độ sản xuất hay sức mạnh quân sự của chúng ta, mà nằm ở khả năng phi thường trong việc hình dung ra một tương lai rõ ràng và sống động khiến người ta tưởng như họ đã đi đến đích mặc dù còn chưa rời nhà ga. Khi người Mỹ thực sự nắm được diễn giải về cuộc Cách mạng công nghiệp lần III, chúng ta sẽ có khả năng cao nhất để tiến nhanh tới việc biến giấc mơ đó thành hiện thực. Cuộc Cách mạng công nghiệp lần III là cuộc cách mạng cuối cùng trong các cuộc Cách mạng công nghiệp vĩ đại và sẽ tạo nền tảng cho một kỷ nguyên hợp tác đang hình thành. Kế hoạch xây dựng hạ tầng cho TIR trong 40 năm sẽ tạo ra hàng trăm nghìn doanh nghiệp mới và hàng trăm triệu việc làm. Sự chuẩn bị này hoàn tất sẽ đặt dấu chấm hết cho quá trình thương mại kéo dài 200 năm với đặc điểm lối tư duy công nghiệp, các thị trường kinh doanh, lực lượng lao động hàng loạt và sự khởi đầu một kỷ nguyên mới của hành vi hợp tác, các mạng xã hội và những lực lượng lao động quy mô nhỏ có tính chuyên nghiệp và kỹ thuật cao. Trong nửa thế kỷ tiếp theo, cách thức điều hành kinh doanh tập trung hóa truyền thống của các cuộc Cách mạng công nghiệp lần I và lần II sẽ ngày càng được thay thế bởi các tập quán kinh doanh phân tán của cuộc Cách mạng công nghiệp lần III, và việc tổ chức kinh tế và quyền lực chính trị theo cấp bậc truyền thống sẽ mở đường cho quyền lực ngang hàng được tổ chức theo các nút trong xã hội. Thoạt tiên, khái niệm quyền lực ngang hàng có vẻ vô cùng mâu thuẫn với cách chúng ta từng biết về các mối quan hệ quyền lực trong lịch sử. Quyền lực trước nay vẫn được tổ chức theo mô hình kim tự tháp từ cao xuống thấp. Tuy nhiên ngày nay, sức mạnh tập thể tạo nên từ sự kết hợp của công nghệ Internet và các nguồn năng lượng tái tạo đang thay đổi lại một cách căn bản các mối quan hệ giữa con người, chuyển từ tác động từ trên xuống sang tác động ngang hàng với những hệ quả lớn tới tương lai của xã hội. Khi chúng ta gần tiến tới giữa thế kỷ, sẽ có ngày càng nhiều hoạt động thương mại được giám sát bởi các tiến bộ kỹ thuật thông minh, tạo điều kiện cho con người tạo nên vốn xã hội trong một xã hội dân sự phi lợi nhuận, khiến nó trở thành lĩnh vực chủ đạo trong nửa cuối của thế kỷ. Trong khi thương mại vẫn là điều cần thiết cho sự tồn tại của con người, nó sẽ không thể đáp ứng mọi mong muốn của con người nữa. Nếu chúng ta có thể đáp ứng mọi nhu cầu vật chất của con người trong nửa thế kỷ tiếp theo – một giả định lớn – những mối quan tâm phi vật chất nhiều khả năng sẽ trở thành một yếu tố quan trọng hơn trong thời kỳ tiếp theo của lịch sử loài người. Trong những trang tiếp theo, chúng ta sẽ khám phá những đặc tính và nguyên tắc vận hành đằng sau nền kinh tế và hạ tầng của cuộc Cách mạng công nghiệp lần III, theo dõi hướng đi khả dĩ của nó trong 4 thập kỷ tiếp theo, và tìm hiểu những rào cản và cơ hội trong quá trình hiện thực hóa nó ở các cộng đồng và quốc gia trên toàn thế giới. Cuộc Cách mạng công nghiệp lần III mang tới hy vọng tiến tới một kỷ nguyên hậu carbon bền vững vào giữa thế kỷ XXI và tránh được biến đổi khí hậu gây ra thảm họa. Chúng ta có khoa học, công nghệ và lộ trình để làm được điều đó. Câu hỏi hiện nay đặt ra là liệu chúng ta có thể nhận ra những cơ hội kinh tế ở trước mặt và tập trung ý chí để đến đó kịp lúc. Lúc đó là 5 giờ sáng, tôi đang tập chạy bộ trên máy, thỉnh thoảng dỏng tai nghe bản tin sớm trên truyền hình. Một phóng viên nói sôi nổi về một phong trào chính trị mới tự nhận là “Tiệc trà”. Tôi ra khỏi máy tập, không chắc mình đã nghe chính xác. Màn hình chiếu cảnh nhiều người Mỹ trung niên giận dữ đang giương cao những lá cờ vàng mang dòng chữ “Đừng chà đạp tôi” minh họa bởi biểu tượng con rắn đang khoanh tròn. Những người khác đang giơ những bảng hiệu về phía máy quay với dòng chữ “Không đánh thuế nếu không có đại diện”, “Đóng cửa các biên giới” và “Biến đổi khí hậu là trò lừa đảo”. Giữa những tiếng hô hào, người phóng viên đang nói gì đó về một phong trào cấp cơ sở tự phát đang lan nhanh ở các bang trung tâm, phản đối việc chính phủ can thiệp quá mức tại thủ đô Washington và những chính trị gia theo trường phái tự do chỉ quan tâm đến việc làm giàu và bỏ mặc cử tri. Tôi không thể tin vào những gì mình đang xem. Như thể chứng kiến một phiên bản đảo ngược trái khoáy của một thứ tôi đã tổ chức gần 40 năm trước. Liệu đây có phải một trò đùa ác nghiệt của thuyết nhân quả? PHONG TRÀO TIỆC DẦU BOSTON NĂM 1973 Ngày 16/12/1973. Tuyết bắt đầu rơi ngay sau khi mặt trời mọc. Tôi cảm thấy gió lạnh thổi vào mặt khi tiến về hội trường Faneuil Hall ở trung tâm Boston, nơi những người có tư tưởng cấp tiến như Sam Adams và Joseph Warren đã lên án chính sách đô hộ của vua George đệ tam và những tập đoàn tay sai mà trong đó tai tiếng và bị căm ghét nhất là công ty British East India. Thành phố đã bị thiếu hụt năng lượng nhiều tuần. Giao thông thường ngày nhộn nhịp và tắc nghẽn đã trở nên thưa thớt trong vài ngày nay, chủ yếu là do nhiều trạm xăng đã hết nhiên liệu. Ở một vài trạm còn hoạt động, người lái xe đang xếp hàng dài và đợi hàng tiếng đồng hồ để đổ xăng. Những người may mắn mua được xăng đều choáng váng với mức giá cao. Giá xăng đã tăng gấp đôi chỉ trong vài tuần, gây nên sự hoảng hốt ở một đất nước mà đến thời điểm đó là nhà sản xuất dầu lớn nhất thế giới. Phản ứng của dư luận là dễ hiểu vì chính nhờ lượng dự trữ dầu mỏ lớn của Mỹ và khả năng sản xuất hàng loạt xe hơi giá rẻ cho những người thích xê dịch đã khiến cho nước này đạt tới những đỉnh cao và trở thành siêu cường quốc hàng đầu trong thế kỷ XX. Lòng tự hào dân tộc của người dân Mỹ bị một cú đấm bất ngờ. Chỉ hai tháng trước đó, Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC) ban hành lệnh cấm vận đối với nước Mỹ để trả đũa quyết định của Washington tái cung cấp vũ khí cho chính quyền Israel trong cuộc chiến Yom Kippur. “Cú sốc dầu mỏ” tác động nhanh chóng đến toàn thế giới. Đến tháng 12, giá dầu trên thị trường thế giới đã tăng từ 3 đô la một thùng lên 11,65 đô-la. Tiếp theo là hoảng loạn tại phố Wall và khu phố chính. Dấu hiệu đầu tiên và rõ rệt nhất của thực tế mới là ở các trạm xăng xung quanh. Nhiều người Mỹ tin rằng những công ty dầu khổng lồ đã lợi dụng tình hình bằng cách đầu cơ kích giá lên để thu lợi nhuận bất ngờ. Những người đi ô tô tại Boston và khắp cả nước nhanh chóng trở nên giận dữ. Đây chính là tiền đề cho vụ lộn xộn xảy ra tại bến cảng Boston vào ngày 16/12/1973. Sự kiện này đánh dấu kỷ niệm 200 năm cuộc biểu tình nổi tiếng Tiệc trà Boston, một sự kiện có ảnh hưởng lớn tạo nên dư luận phản đối nhà cầm quyền Anh. Bất bình về một sắc thuế mới đánh vào chè và các sản phẩm khác xuất khẩu đến thuộc địa Mỹ từ nước mẹ, Sam Adams đã kêu gọi một nhóm người phản đối, một số trong đó đã đổ những thùng chè xuống cảng Boston. “Không đánh thuế nếu không có đại diện” nhanh chóng trở thành khẩu hiệu chung của những người cấp tiến. Hành động đầu tiên công khai chống lại sự thống trị của nước Anh này đã dẫn đến một loạt các phản ứng qua lại từ nhà cầm quyền và 13 thuộc địa mới nổi dậy, kết thúc bởi Bản tuyên ngôn độc lập năm 1776 và cuộc Chiến tranh Cách mạng. Trong những tuần trước ngày kỷ niệm, làn sóng bất bình với các công ty dầu lửa khổng lồ ngày một lên cao. Nhiều người Mỹ tức giận với điều họ cho là sự lừa gạt về giá phi lý bởi các công ty toàn cầu nhẫn tâm đang đe dọa phá hoại thứ mà người Mỹ đã xem như một quyền lợi cơ bản đáng quý trọng như tự do ngôn luận, tự do báo chí và tự do hội họp – quyền được sử dụng dầu và giao thông giá rẻ. Khi đó tôi 28 tuổi, là một nhà hoạt động xã hội trẻ gắn liền với phong trào quyền dân sự và phản đối chiến tranh Việt Nam những năm 1960. Một năm trước đó, tôi đã thành lập một tổ chức quốc gia mang tên Ủy ban Hai trăm năm của Nhân dân với hy vọng là một lựa chọn tiến bộ thay thế cho Ủy ban Hai trăm năm Hoa Kỳ được thành lập bởi chính quyền Nixon để kỷ niệm các sự kiện lịch sử dẫn đến việc ký kết bản Tuyên ngôn độc lập năm 1776. Tôi nảy ra ý tưởng tổ chức lễ kỷ niệm riêng một phần vì ngày càng cảm thấy xa rời những đồng nghiệp của mình theo phong trào Cánh tả mới (New Left). Lớn lên trong một khu lao động ở miền Nam Chicago lòng yêu nước đã ngấm vào máu tôi. Tôi vô cùng ngưỡng mộ những tư tưởng cấp tiến của các bậc khai quốc – Thomas Jefferson, Benjamin Franklin, Thomas Paine, George Washington – một nhóm những nhà tư tưởng cách mạng đặt mạng sống của mình vào hiểm nguy trong hành trình theo đuổi những quyền lợi không thể tách rời của con người: quyền được sống, tự do và mưu cầu hạnh phúc. Hội đồng kỷ niệm hai trăm năm Hoa Kỳ mang đến một cơ hội hiếm có để thế hệ trẻ kết nối với lời hứa cấp tiến của Mỹ − nhất là khi hoạt động kỷ niệm chính thức của Nhà Trắng được giám sát bởi tổng thống Nixon và tập hợp những người cổ xúy thương mại, dường như xuất phát từ quyền lợi của giai cấp quý tộc hơn là quan điểm công bằng xã hội và kinh tế phù hợp với những bậc công thần thời kỳ đầu mà chúng ta muốn tưởng nhớ. Kế hoạch của chúng tôi là biến lễ kỷ niệm Tiệc trà thành một cuộc biểu tình chống lại các công ty dầu lửa. Chúng tôi không biết chắc rằng liệu có ai sẽ đổ ra đường và tham gia cùng mình hay không. Dù gì thì cũng chưa bao giờ có một cuộc biểu tình chống lại các thế lực này nên cũng không có cách nào để dự đoán phản ứng của mọi người. Nỗi lo của tôi về số lượng người tham gia quá ít ỏi càng lớn hơn khi tuyết bắt đầu rơi. Trong những năm 1960, chúng tôi luôn lên kế hoạch biểu tình phản chiến vào mùa xuân vì dễ lôi kéo đám đông hơn. Thực thế là không có nhà hoạt động lão luyện nào tham gia tổ chức sự kiện này có thể nhớ được bất kỳ một cuộc biểu tình tập thể nào được tổ chức vào giữa mùa đông chết chóc. Khi rẽ vào hướng tòa nhà Faneuil Hall, tôi nhìn một cách kinh ngạc. Hàng ngàn người đổ ra trên các con đường dẫn vào tòa nhà. Họ cầm những tấm biển và biểu ngữ “Hãy khiến các công ty dầu trả giá”, “Hạ bệ đế chế dầu lửa” và “Cách mạng Mỹ muôn năm”. Người người đổ xô vào sảnh cùng đồng thanh “Đả đảo Exxon”. Sau khi tôi có một bài phát biểu ngắn kêu gọi những người biểu tình nhớ rằng ngày này là khởi đầu của cuộc cách mạng Mỹ thứ hai về “độc lập năng lượng”, chúng tôi đổ ra đường, đi theo đúng tuyến đường mà những “người biểu tình tiệc trà” đã đi ra cảng Griffin hai trăm năm trước. Trên đường, có thêm hàng nghìn người Boston nhập cuộc – từ sinh viên, công nhân, những lao động trung lưu và cả các gia đình. Cho đến khi chúng tôi đến bến tàu nơi con tàu của công ty chè Salada được neo (một bản phục dựng của con tàu nguyên bản), đã có hơn 200.000 người biểu tình đứng ở trên bờ cùng hô “Hạ bệ đế chế dầu mỏ”. Cuộc biểu tình đã vượt quá tầm của một sự kiện được lên kế hoạch cẩn thận. Một đội tàu đánh cá địa phương từ những thị trấn xa xôi về phía bắc như Gloucester vượt qua vòng vây của cảnh sát và tiến về tàu Salada, nơi các bậc chức sắc địa phương và liên bang đang chờ đợi những nghi lễ chính thức. Những ngư dân chiếm lấy con tàu, leo lên đỉnh cột buồm và bắt đầu ném những thùng dầu rỗng thay vì sọt chè xuống sông trong tiếng tung hô của hàng ngàn người biểu tình. Ngày hôm sau tờ New York Times và các báo khác ở hạt đều thuật lại chuyện xảy ra ở Boston và gọi sự kiện này là “Tiệc dầu Boston năm 1973”. SỰ KẾT THÚC CỦA CUỘC CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP THỨ HAI 35 năm sau, vào tháng 7/2008, giá dầu trên thị trường thế giới đạt đỉnh ở mức kỷ lục 147 đô-la/thùng. Chỉ 7 năm trước đó, giá dầu còn ở dưới 24 đô-la/thùng. Vào năm 2001, tôi dự đoán rằng một cuộc khủng hoảng dầu lửa đang hình thành và giá dầu có thể lên trên 50 đô la/thùng chỉ trong vài năm tới. Những đánh giá của tôi bị ngờ vực và thậm chí cả chế nhạo. Ngành công nghiệp dầu cũng như các nhà địa chất và kinh tế học phản bác: “Không đời nào có chuyện đó”. Không lâu sau, giá dầu tăng cao đột biến. Khi giá dầu lên trên 70 đô-la/thùng vào giữa năm 2007, giá cả hàng hóa và dịch vụ trong chuỗi cung ứng toàn cầu cũng tăng lên vì một lý do đơn giản là gần như mọi hoạt động thương mại trong nền kinh tế thế giới đều phụ thuộc vào dầu và các nguồn năng lượng hóa thạch khác. Chúng ta trồng trọt nhờ các loại phân bón và thuốc trừ sâu có nguồn gốc hóa dầu. Hầu hết các vật liệu xây dựng của chúng ta như xi măng và nhựa đều làm từ các nguyên liệu hóa thạch, cũng như phần lớn các loại thuốc. Quần áo của chúng ta hầu hết được làm từ các loại sợi tổng hợp hóa dầu. Hoạt động giao thông, điện, nhiệt và ánh sáng của chúng ta cũng đều dựa vào nhiên liệu hóa thạch. Chúng ta đã xây dựng một nền văn minh nhờ vào việc khai quật nguồn dự trữ carbon từ Thời kỳ Carbon. Giả sử loài người chúng ta có thể tồn tại được, tôi thường tự hỏi các thế hệ tương lai của 50.000 năm sau sẽ đánh giá thời điểm này trong lịch sử loài người như thế nào. Chắc hẳn họ sẽ xếp chúng ta là những người sử dụng nhiên liệu hóa thạch và thời kỳ này là Kỷ nguyên Carbon, cũng như chúng ta gọi những thời kỳ trước là thời Đồ đồng và Đồ sắt. Khi giá dầu vượt qua mức 100 đô-la/thùng, một việc khó tin chỉ vài năm trước đó, những cuộc biểu tình và nổi loạn tự phát đã nổ ra ở 22 quốc gia do giá ngũ cốc tăng vọt – điển hình là những cuộc biểu tình bánh ngô ở Mexico và bạo động gạo ở châu Á. Nỗi lo ngại về bất ổn chính trị trên diện rộng kéo theo một cuộc tranh luận toàn cầu về mối liên hệ giữa dầu và lương thực. Với 40% nhân loại sống với không quá 2 đô-la một ngày, chỉ một thay đổi nhỏ về giá hàng thiết yếu có thể dẫn đến những mối nguy trên diện rộng. Đến năm 2008, giá đậu nành và lúa mạch đã tăng gấp đôi, giá lúa mì tăng gần gấp ba và giá gạo tăng gấp năm. Tổ chức Nông lương Liên hợp Quốc (FAO) ghi nhận một mức kỷ lục 1 tỷ người sẽ lâm vào cảnh thiếu ăn. Nỗi lo sợ càng lan rộng khi những người tiêu dùng trung lưu ở các nước phát triển bắt đầu bị ảnh hưởng bởi giá dầu tăng cao. Giá cả các mặt hàng cơ bản tăng vọt. Giá ga và điện leo thang cũng như giá các nguyên liệu xây dựng, dược phẩm và vật liệu đóng gói và nhiều thứ khác. Đến cuối mùa xuân, giá cả trở nên không thể mua được và sức mua giảm mạnh trên toàn thế giới. Vào tháng 7/2008, nền kinh tế toàn cầu sụp đổ. Đó là một cuộc địa chấn kinh tế khủng khiếp báo hiệu kỷ nguyên nhiên liệu hóa thạch đi đến hồi kết mà dư chấn là sự sụp đổ của thị trường tài chính 60 ngày sau. Hầu hết các nguyên thủ quốc gia, lãnh đạo kinh doanh và các nhà kinh tế học đều chưa hiểu được nguyên nhân thực sự của thất bại kinh tế đã làm chấn động thế giới. Họ tiếp tục tin rằng bong bóng tín dụng và các khoản nợ của chính phủ không liên quan gì đến giá dầu, không hiểu rằng chúng có liên quan mật thiết đến sự thoái trào của kỷ nguyên dầu mỏ. Chừng nào mọi người còn quan niệm rằng cuộc khủng hoảng nợ và tín dụng chỉ là lỗi của việc không giám sát đúng mực các thị trường thả nổi thì các nhà lãnh đạo thế giới còn không thể tìm ra nguyên nhân của khủng hoảng và bắt tay vào sửa chữa. Tôi gọi sự việc đã xảy ra vào tháng 7/2008 là toàn cầu hóa lên đến đỉnh điểm. Mặc dù hầu hết nhân loại đều chưa nhận thức được, rõ ràng chúng ta đã chạm tới ranh giới phát triển của kinh tế toàn cầu trong phạm vi một hệ thống kinh tế dựa chủ yếu vào dầu mỏ và các nhiên liệu hóa thạch khác. Ý tôi là chúng ta đang ở vào thời kỳ cuối của Cuộc cách mạng công nghiệp lần II và kỷ nguyên dầu mỏ mà nó lấy làm nền tảng. Đây là một thực tế rất khó để chấp nhận vì nó sẽ khiến con người nhanh chóng chuyển đổi sang một chế độ năng lượng hoàn toàn mới và một mô hình công nghiệp mới, hoặc sẽ chịu nguy cơ đổ vỡ cả nền văn minh. Nguyên nhân chúng ta lâm vào thế bí của toàn cầu hóa là do “lượng dầu mỏ trên đầu người tối đa toàn cầu”, một khái niệm không nên nhầm với “sản lượng dầu mỏ tối đa toàn cầu”. Thuật ngữ thứ hai được các nhà địa chất dầu khí dùng để mô tả thời điểm mà sản lượng dầu toàn cầu lên đến cực điểm của biểu đồ chuông Hubbert. Sản lượng dầu cực điểm xảy ra khi một nửa nguồn dự trữ dầu mỏ có thể phục hồi được sử dụng hết. Đỉnh của hình chuông thể hiện điểm giữa của sự khôi phục dầu. Sau đó, sản lượng giảm nhanh như tốc độ đã tăng lên. M. King Hubbert là một nhà địa vật lý làm việc cho công ty dầu Shell vào năm 1956. Ông đã công bố một công trình mà sau này trở nên nổi tiếng dự báo mức sản xuất dầu tối đa ở 48 bang trong khoảng từ năm 1965 đến năm 1970. Tính toán của ông bị chế nhạo bởi các đồng nghiệp vốn cho rằng nước Mỹ là nhà sản xuất dầu lớn nhất trên thế giới và ý tưởng rằng chúng ta có thể mất đi vị thế dẫn đầu của mình là không thể xảy ra. Dự đoán của ông cuối cùng lại trở nên chính xác. Việc sản xuất dầu của Mỹ lên đến đỉnh năm 1970 và bắt đầu chuỗi suy thoái dài hạn. Trong 4 thập kỷ qua, các nhà địa chất học đã tranh cãi về thời điểm xảy ra sản lượng dầu tối đa toàn cầu. Những người lạc quan cho rằng theo mô hình của họ tình trạng này có thể xảy ra vào thời điểm từ năm 2025 đến năm 2035. Những người bi quan, trong đó có một số nhà địa chất hàng đầu thế giới, tính toán rằng sản lượng dầu mỏ tối đa trên toàn cầu sẽ xảy ra trong khoảng từ năm 2010 đến năm 2020. Cơ quan năng lượng quốc tế (IEA có trụ sở tại Paris là nơi cung cấp cho các chính phủ những thông tin và dự báo về năng lượng, có lẽ đã khép lại vấn đề sản lượng dầu tối đa toàn cầu trong báo cáo Triển vọng Năng lượng Thế giới 2010 của mình. Theo IEA, sản lượng tối đa toàn cầu của dầu thô đã đạt được vào năm 2006 tại mức 70 triệu thùng một ngày. Đánh giá này đã khiến cộng đồng dầu mỏ quốc tế choáng váng và khiến các doanh nghiệp toàn cầu coi dầu thô là nguồn sống phải rùng mình. Theo IEA, để giữ sản lượng dầu ở mức cận dưới 70 triệu một thùng – tránh cho kinh tế toàn cầu khỏi lao dốc – sẽ cần một khoản đầu tư khổng lồ lên đến 8.000 tỷ đô-la trong vòng 25 năm tới để bơm số dầu khó khai thác ở các mỏ hiện tại, khơi mở những mỏ ít triển vọng đã được phát hiện, và để tìm ra những mỏ mới ngày càng khó kiếm. Nhưng ở đây chúng ta chỉ quan tâm đến sản lượng dầu trên đầu người tối đa toàn cầu, tình trạng đã xảy ra từ năm 1979 – đỉnh điểm của cuộc Cách mạng công nghiệp lần II. BP đã tiến hành một nghiên cứu được công nhận rộng rãi cho thấy sản lượng dầu nếu phân phối đều đã đạt đỉnh điểm vào năm đó. Trong khi chúng ta đã tìm ra được nhiều dầu hơn, dân số thế giới còn tăng nhanh hơn rất nhiều. Nếu chúng ta phân phối đều tất cả dự trữ dầu đã biết hiện nay cho 6,8 tỷ người đang sống trên Trái đất, số lượng cho mỗi người sẽ còn thấp hơn. Khi kinh tế Trung Quốc và Ấn Độ bùng nổ vào cuối thập niên 1990 và đầu những năm 2000 – Ấn Độ tăng trưởng 9,6% còn của Trung Quốc là 14,2% năm 2007 – đưa 1/3 dân số thế giới vào kỷ nguyên dầu mỏ, áp lực cầu đối với trữ lượng dầu hiện có tất yếu làm cho giá dầu tăng, dẫn đến mức giá chạm đỉnh 147 đô-la/thùng, giá cả tăng, tiêu dùng trượt dốc không phanh và khủng hoảng kinh tế thế giới. Vào năm 2010, nền kinh tế bắt đầu phục hồi nhẹ, hầu hết lại làm gia tăng hàng tồn kho. Nhưng ngay khi tăng trưởng bắt đầu, giá dầu lại lập tức tăng theo tới 90 đô-la/thùng vào cuối năm 2010, một lần nữa gây áp lực tăng giá lên toàn chuỗi cung ứng. Vào tháng 1/2011, Fatih Birol, Kinh tế Trưởng của Cơ quan Năng lượng Quốc tế chỉ ra mối liên hệ không thể tách rời giữa tăng trưởng kinh tế và sự tăng giá dầu. Ông cảnh báo rằng khi có đà phục hồi kinh tế cũng là lúc “giá dầu bước vào một khu vực nguy hiểm cho nền kinh tế toàn cầu”. Theo IEA, kim ngạch dầu nhập khẩu vào 34 quốc gia thành viên Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) – hầu hết là các nước giàu – tăng từ 200 tỷ đô-la vào đầu năm 2010 lên 790 tỷ đô-la vào cuối năm. Chỉ riêng lượng dầu nhập khẩu vào Liên minh châu Âu đã tăng 70 tỷ đô-la trong năm 2010 – ngang bằng với thâm hụt ngân sách của Hy Lạp và Bồ Đào Nha cộng lại. Tổng lượng nhập khẩu dầu của Mỹ tăng lên 72 tỷ đô-la. Giá dầu cao khiến cho GDP của khối OECD giảm 0,5%. Các quốc gia đang phát triển còn bị ảnh hưởng nặng nề hơn trong năm 2010, với lượng nhập khẩu dầu tăng 20 tỷ đô-la, tương đương việc mất đi khoản thu nhập 1% tổng GDP. Tỷ lệ giá trị nhập khẩu dầu trên GDP của các nước tăng gần bằng mức của năm 2008, thời điểm ngay trước khi nền kinh tế toàn cầu sụp đổ, khiến cho IEA lo ngại rằng “các hóa đơn nhập khẩu dầu đang trở thành mối đe dọa tới sự phục hồi kinh tế”. Cũng trong ngày IEA công bố báo cáo 2010 của mình, Martin Wolf, cây bút kinh tế của tờ Financial Times đã viết một bài báo về sự hội tụ lịch sử diễn ra với “sản lượng bình quân đầu người” tại Trung Quốc, Ấn Độ và các cường quốc phương Tây. Theo dữ liệu công bố bởi tổ chức Conference Board tại Mỹ, giữa những năm 1970 và 2009, tỷ lệ sản lượng đầu người của Trung Quốc so với Mỹ tăng từ 3% lên 19%. Ở Ấn Độ, tỷ lệ này tăng từ 3% lên 7%. Wolf nhận xét rằng sản lượng theo đầu người của Trung Quốc, theo tương quan với sản lượng theo đầu người của Mỹ là xấp xỉ ngang bằng với mức của Nhật Bản khi nước này bắt đầu phục hồi kinh tế sau Chiến tranh Thế giới II. Nhật Bản tăng lên tới mức 70% của Mỹ trước thập niên 1970 và 90% trước năm 1990. Nếu Trung Quốc đi theo quỹ đạo tương tự, nó sẽ đạt tới 70% sản lượng theo đầu người của Mỹ trước năm 2030. Nhưng điểm khác biệt là đến năm 2030 nền kinh tế Trung Quốc sẽ lớn gấp gần 3 lần nền kinh tế Mỹ và lớn hơn nền kinh tế của Mỹ và Tây Âu cộng lại. Trong một bài phát biểu vào tháng 11/2010, Ben Bernanke (Chủ tịch Cục dự trữ liên bang Mỹ) đã cho biết chỉ trong quý II, tổng sản lượng thực tế tại các nước mới nổi đã tăng 41% so với đầu năm 2005, trong đó tổng sản lượng của Trung Quốc tăng 70% và của Ấn Độ tăng 55%. Những điều này có ý nghĩa gì? Nếu tổng sản lượng kinh tế tăng với cùng tốc độ của 8 năm đầu thế kỷ này, như thực tế đang diễn ra, giá dầu sẽ nhanh chóng quay lại mốc 150 đô-la/thùng hoặc cao hơn, đặt áp lực tăng giá mạnh lên giá cả các hàng hóa và dịch vụ khác, và dẫn tới một sự lao dốc của sức mua và nền kinh tế toàn cầu sụp đổ. Nói cách khác, mọi nỗi lực nhằm lấy lại đà kinh tế của thập kỷ trước đều sẽ dẫn đến mức giá 150 đô-la/thùng. Sự quay vòng giữa tái phát triển và sụp đổ này chính là đoạn kết của cuộc chơi. Những người phủ nhận quan điểm này biện minh rằng giá dầu tăng hầu như không liên quan đến áp lực cầu đối với nguồn cung mà do các nhà đầu cơ đánh cược với thị trường dầu để kiếm lời lớn. Trong khi các nhà đầu cơ có thể thêm dầu vào lửa, trong vài thập kỷ qua chúng ta đã và đang tiêu thụ 3,5 thùng dầu với mỗi thùng dầu mới tìm được. Thực tế không thể chối cãi vấn đề này quyết định tình trạng hiện nay và tương lai của chúng ta. Hiện nay, áp lực tăng tổng cầu đối với trữ lượng dầu thô lại được kích thích bởi tình hình bất ổn chính trị gia tăng ở Trung Đông. Hàng triệu thanh niên trong khu vực – tại Tunisia, Ai Cập, Libya, Iran, Yemen, Jordan, Bahrain và các nước khác đổ ra đường vào đầu năm 2011 nhằm phản đối chế độ chuyên quyền tham nhũng đã thống trị hàng thập kỷ và thậm chí nhiều thế hệ. Những người nổi loạn trẻ tuổi, cũng giống như những thanh niên nổi loạn ở phương Tây những năm 1960 đại diện cho sự chuyển đổi thế hệ có ý nghĩa lịch sử quan trọng. Với một thế hệ trẻ hơn được đào tạo đang dần trở thành một phần của cộng đồng toàn cầu và cũng dễ gắn mình với Facebook cũng như những thế hệ trước với lòng trung thành kiểu bộ tộc, những lối đi cũ đáng phải dẹp bỏ. Lối suy nghĩ gia trưởng, những quy tắc xã hội cứng nhắc và hành vi bài ngoại của những người đi trước trở nên xa lạ với thế hệ lớn lên cùng với mạng xã hội với sự coi trọng liêm chính, hành vi hợp tác và các mối quan hệ ngang hàng khiến đây trở thành một sự chia rẽ lịch sử về nhận thức. Mệt mỏi với việc bị quản lý bởi những nhà lãnh đạo chuyên quyền, tàn bạo và phải sống trong một xã hội đầy tham nhũng, nơi sự bảo trợ chứ không phải giá trị thực được phát huy và những người có quyền lấy việc tước đoạt của người dân để làm giàu cho bản thân, những người trẻ đang kêu gọi một sự thay đổi. Chỉ trong vài tuần, họ đã lật đổ chính quyền ở Tunisia và Ai Cập, đưa Libya vào nội chiến và đe dọa lật đổ chế độ từ Jordan đến Bahrain. Xét một cách toàn diện, chính dầu lửa đã đóng vai trò chủ đạo trong việc hủy hoại khu vực này. Vàng đen đã trở thành một lời nguyền, biến phần lớn vùng Trung Đông thành một xã hội một tài nguyên dưới sự quản lý của những đầu sỏ chính trị cầm quyền. Dòng chảy dầu biến các tộc trưởng và lãnh tụ hồi giáo thành tỷ phú, trong khi dân chúng của họ bị xỏ mũi với chế độ phúc lợi công và bộ máy chính phủ sơ sài. Kết quả là những nước này không bao giờ tạo nên được những điều kiện kinh tế cần thiết để xây dựng một nền kinh tế doanh nghiệp đa dạng, mạnh mẽ hay một đội ngũ lao động để điều hành nó. Nhiều thế hệ người trẻ đã trở nên phai nhạt và không bao giờ phát triển hết tiềm năng của mình. Hiện nay, được khuyến khích và trao quyền, những người trẻ đang bứt phá khỏi những sự dè dặt của thế hệ trước và đối mặt với những thế lực mà chính họ cũng không thể tưởng tượng được kết quả. Trật tự cũ bắt đầu bị suy chuyển, và mặc dù sự tiến bộ có thể yếu ớt và bị tác động mạnh, sự thống trị xã hội gia trưởng cũ kỹ đã quyết định số phận của nhiều thế hệ trong thế giới Ả Rập từ lâu khó có thể tồn tại trong thập kỷ tiếp theo. Điều chúng ta đang chứng kiến ở Trung Đông là một sự biến chuyển to lớn từ quyền lực theo cấp bậc sang quyền lực ngang hàng. Thế hệ Internet, khởi đầu bằng sự thách thức các đế chế truyền thông tập trung hóa ở phương Tây với hình thức chia sẻ âm nhạc và thông tin ngang hàng, đang bắt đầu sử dụng sức mạnh ngang hàng của nó ở Trung Đông bằng việc thách thức chế độ cai trị tập trung của các chính phủ chuyên chế. Sự bất ổn chính trị ngày càng gia tăng ở Trung Đông sẽ tác động xấu đến giá dầu trên thị trường thế giới trong nhiều năm tới. Đầu năm 2011, vụ lộn xộn tại Libya đã khiến các mỏ dầu ở nước này phải đóng cửa, làm sản lượng dầu thô thế giới giảm 1,6 triệu thùng một ngày và đẩy giá dầu lên 120 đô-la một thùng. Các nhà phân tích về dầu mỏ lo ngại rằng nếu Ả Rập Saudi hoặc Iran cũng gặp những gián đoạn tương tự về sản xuất dầu mỏ, giá dầu có thể tăng lên 20-25% qua một đêm, phá hỏng mọi hy vọng về một sự phục hồi kinh tế toàn cầu. Không có nhà quan sát quốc tế nào theo sát những biến động chính trị ở Trung Đông tin rằng khu vực này sẽ quay lại hoạt động kinh doanh như cũ. Không phải ngẫu nhiên mà sự kết thúc kỷ nguyên dầu mỏ cũng đánh dấu sự kết thúc của các chính phủ chuyên quyền đã cai trị chế độ năng lượng tập trung và cao cấp nhất trong lịch sử một thời gian dài. Trong khi sự trỗi dậy của giới trẻ tại Trung Đông là việc cần hoan nghênh và ủng hộ, người ta cũng nhận ra rằng các năm tới sẽ đầy rẫy những cuộc khủng hoảng dầu mỏ gây ra bởi hai hiện tượng có liên hệ với nhau: sự gia tăng của tổng cầu, khiến giá dầu tăng lên 150 đô-la hay thậm chí vượt quá 200 đô-la/thùng, và những sự gián đoạn gây ra bởi bất ổn chính trị tại các quốc gia nhiều dầu mỏ trong khu vực dẫn đến những đợt tăng giá tương tự. SỰ SỤP ĐỔ CỦA PHỐ WALL Bong bóng tín dụng và khủng hoảng tài chính tác động đến sự kết thúc của Cuộc cách mạng công nghiệp lần II như thế nào? Để hiểu về mối quan hệ giữa hai sự việc này, ta cần phải quay lại nửa cuối của thế kỷ XX. Cuộc cách mạng công nghiệp lần II – sự ra đời của điện tập trung hóa, kỷ nguyên đầu mỏ, ô tô và xây dựng ngoại thành trải qua hai giai đoạn phát triển. Một cơ sở hạ tầng sơ khai của Cuộc cách mạng công nghiệp lần II được hình thành trong giai đoạn năm 1900 đến khi bắt đầu cuộc Đại suy thoái năm 1929. Cơ sở hạ tầng non nớt đó bị bỏ quên cho đến sau Chiến tranh thế giới thứ II. Việc thông qua Điều luật Cao tốc liên bang năm 1956 tạo đà cho sự phát triển cơ sở hạ tầng của kỷ nguyên ô tô. Sự ra đời của mạng lưới cao tốc liên lục địa, vào thời điểm đó là dự án xây dựng công cộng tốn kém và tham vọng nhất trong lịch sử loài người đã tạo nên một sự bùng nổ kinh tế chưa từng có, khiến nước Mỹ trở thành quốc gia thịnh vượng nhất thế giới. Những dự án xây dựng cao tốc tương tự cũng được bắt đầu ở châu Âu không lâu sau đó, với một hiệu ứng cấp số nhân tương ứng. Cơ sở hạ tầng cao tốc liên bang đã đẩy nhanh một cơn lốc xây dựng khi các doanh nghiệp và hàng triệu người Mỹ bắt đầu chuyển đến những vùng ngoại thành mới xây dựng ngoài cửa ngõ các cao tốc liên bang. Cơn sốt bất động sản dân dụng và thương mại lên đến đỉnh điểm vào những năm 1980 với sự hoàn tất các đường cao tốc liên bang, cũng như Cuộc cách mạng công nghiệp lần II. Các nhà xây dựng dân dụng và thương mại đã cung cấp vượt nhu cầu, khiến cho ngành bất động sản bị trì trệ vào cuối thập niên 1980 và đầu thập niên 1990 rồi rơi vào suy thoái nghiêm trọng lan ra nhanh chóng đến những nơi khác trên thế giới. Nhưng khi Cuộc cách mạng công nghiệp lần II bắt đầu sự suy thoái kéo dài từ cuối thập niên 1980, nước Mỹ đã thoát khỏi khủng hoảng và tiếp tục tăng trưởng trong thập niên 1990 như thế nào? Sự hồi phục kinh tế của nước Mỹ được hỗ trợ chủ yếu từ tích lũy trong những thập kỷ thanh bình của Cuộc cách mạng công nghiệp lần II, kết hợp với các khoản tín dụng và nợ kỷ lục. Nước Mỹ trở thành quốc gia của những người tiêu tiền vô tội vạ. Tuy nhiên những đồng tiền đó lại không phải là tài sản mới từ những nguồn thu mới. Tiền công lao động của người Mỹ ngày càng chững lại và giảm dần khi Cuộc cách mạng công nghiệp lần II bước vào giai đoạn bão hòa vào thập niên 1980. Những cuộc cách mạng về công nghệ thông tin và Internet bị thổi phồng lên quá nhiều. Các hành lang đổi mới được dựng lên tại những nơi như thung lũng Silicon ở California, Route 128 ở Boston, Interstate 495 ở Washington, và Research Triangle ở Bắc Carolina hứa hẹn một trào lưu công nghệ cao, và giới truyền thông vô cùng sốt sắng tung hô các kỳ tích mới nhất từ các công ty như Microsoft, Apple và AOL. Không thể phủ nhận rằng cuộc cách mạng truyền thông của thập niên 1990 đã tạo ra nhiều việc làm mới và giúp thay đổi tương quan kinh tế xã hội. Tuy nhiên xét về toàn diện, lĩnh vực Công nghệ thông tin (CNTT) và Internet không tự tạo ra một cuộc cách mạng công nghiệp mới. Để điều đó diễn ra, các công nghệ truyền thông mới sẽ phải hội tụ với một cơ chế năng lượng mới, giống như chuyện xảy ra với mọi cuộc cách mạng kinh tế vĩ đại trong lịch sử. Các hình thái truyền thông mới không bao giờ đứng đơn lẻ. Trái lại, như đề cập đến ở phần mở đầu, chúng là những cơ chế quản lý dòng chảy hoạt động được hỗ trợ bởi các hệ thống năng lượng mới. Chính việc xác lập một cơ sở hạ tầng truyền thông – năng lượng qua nhiều thập kỷ đã tạo nên đường phát triển dài hạn cho một kỷ nguyên kinh tế mới. Vấn đề là việc xác định thời điểm. Những công nghệ truyền thông mới khác biệt về căn bản so với công nghệ truyền thông điện tử thế hệ đầu. Điện thoại, radio và tivi là các hình thức truyền thông tập trung được thiết kế để quản lý một nền kinh tế được tổ chức xung quanh các nguồn năng lượng nhiên liệu hóa thạch tập trung hóa và vô vàn thông lệ kinh doanh tập trung hóa xuất phát từ cơ chế năng lượng đặc thù đó. Trái lại, hình thức truyền thông điện tử thế hệ thứ hai lại có tính phân tán và phù hợp để quản lý các dạng thức năng lượng phân tán – tức năng lượng tái tạo và những hoạt động kinh tế ngang hàng đi đôi với chế độ năng lượng đó. Những công nghệ truyền thông phân tán mới sẽ cần phải đợi hai thập kỷ nữa để hội tụ với những dạng năng lượng phân tán và tạo nên nền tảng cho một cơ sở hạ tầng và một nền kinh tế mới. Trong thập niên 1990 và thập kỷ đầu của thế kỷ XXI, cuộc cách mạng Công nghệ thông tin và Truyền thông (ICT) được gắn với Cuộc cách mạng công nghiệp lần II ra đời trước và mang tính tập trung. Đây là một sự gán ghép không phù hợp ngay từ đầu. Trong khi ICT làm tăng năng suất, đơn giản hóa các quy trình và tạo ra việc làm và cơ hội kinh doanh mới – điều có thể làm kéo dài sự sống cho một mô hình công nghiệp già nua – nó có thể sẽ không bao giờ đạt được tiềm năng tối đa về truyền thông phân phối vì những rào cản nội tại do bị gắn liền với một chế độ năng lượng và cơ sở hạ tầng thương mại tập trung hóa. Thay vì áp dụng sự tương tác truyền thông-năng lượng mới đầy sức mạnh, chúng ta nuôi dưỡng nền kinh tế dựa vào những tài sản tích lũy được trong 4 thập kỷ sau Chiến tranh thế giới thứ II. Sự cấp tín dụng dễ dãi xuất phát từ văn hóa thẻ tín dụng giống như những liều thuốc độc. Việc mua sắm trở nên gây nghiện và tiêu dùng trở thành một cơn sốt tặng quà vô tội vạ. Mọi thứ giống như chúng ta đang vô tình ở trong vòng xoáy chết chóc, trượt dần ở phía sau biểu đồ chuông của Cuộc cách mạng công nghiệp lần II cho đến khi suy tàn, quyết tâm thiêu rụi mớ của cải khổng lồ đã gây dựng cả đời. Chúng ta đã thành công. Tỷ lệ tiết kiệm hộ gia đình bình quân trong những năm đầu thập niên 1990 là khoảng 8%. Cho đến năm 2000, tiết kiệm hộ gia đình đã giảm xuống còn khoảng 1%. Cho đến năm 2007, nhiều người Mỹ đã tiêu nhiều hơn số tiền họ kiếm được. Chúng ta đã vực dậy nền kinh tế toàn cầu bằng sức mua của nước Mỹ. Điều chúng ta không muốn tự thừa nhận là cái giá phải trả bằng việc xóa sạch tiết kiệm của các hộ dân Mỹ. Cho đến giữa những năm 1990, người Mỹ đang ngập chìm trong nợ nần. Tỷ lệ phá sản ở mức cao kỷ lục. Vào năm 1994, một con số khổng lồ 832.829 người Mỹ nộp đơn xin phá sản. Điều đáng kinh ngạc là vào năm 2002, con số đó đã lên tới 1.577.651 người. Vậy mà các món nợ từ thẻ tín dụng vẫn tiếp tục gia tăng. Cũng vào thời gian này ngành ngân hàng thế chấp bắt đầu đưa ra một công cụ tín dụng thứ hai – những khoản thế chấp dưới chuẩn yêu cầu rất ít hoặc không cần tiền. Hàng triệu người Mỹ cắn câu và mua những ngôi nhà họ không có khả năng chi trả. Sự bùng nổ ngành xây dựng nhà ở đã tạo nên bong bóng lớn nhất trong lịch sử nước Mỹ. Giá trị nhà tăng gấp đôi hay thậm chí gấp ba ở một số khu vực chỉ trong vài năm. Những người sở hữu nhà ở bắt đầu xem nhà của mình như những khoản đầu tư mang lại lợi nhuận cao. Nhiều người sử dụng những khoản đầu tư mới như những món hời, vay thế chấp gấp hai đến ba lần để có được tiền mặt trả nợ các tài khoản thẻ tín dụng và bắt đầu cơn nghiện mua sắm của mình. Bong bóng bất động sản vỡ tung vào năm 2007. Giá nhà ở giảm mạnh. Hàng triệu người Mỹ, những người đã nghĩ mình giàu có, đột nhiên mất khả năng trả lãi trên những khoản thế chấp đến hạn từng bị trì hoãn. Việc tịch thu tài sản thế chấp diễn ra hàng loạt. Các ngân hàng và tổ chức cho vay ở Mỹ − những bên đã hào hứng tham gia vào một kế hoạch Ponzi toàn cầu tinh vi – rơi vào tình trạng tê liệt. Tháng 9/2008, Lehman Brothers phá sản. Sau đó, AIG – một công ty nắm giữ các trái phiếu và khoản vay bằng thế chấp dưới chuẩn lên đến hàng tỷ đô-la – cũng đứng bên bờ sụp đổ. Nếu điều này xảy ra, phần còn lại của nền kinh tế Mỹ và phần lớn nền kinh tế thế giới cũng sẽ bị kéo theo. Các ngân hàng đồng loạt ngừng cho vay. Một sự sụp đổ kinh tế với quy mô của cuộc Đại khủng hoảng đang hiển hiện, buộc nước Mỹ phải ra tay giải cứu các tổ chức tín dụng Phố Wall với 700 tỷ đô-la. Nguyên nhân cho việc giải cứu được đưa ra là những tổ chức này đơn giản là “quá lớn để có thể sụp đổ”. Đại suy thoái bắt đầu và nạn thất nghiệp tăng từ tháng này qua tháng khác, lên đến 10% lực lượng lao động vào cuối năm 2009 (17,6% nếu tính những lao động đã từ bỏ tìm việc, và những lao động chỉ làm bán thời gian nhưng mong muốn có việc làm toàn thời gian). Con số này đại diện cho gần 27 triệu người Mỹ, tỷ lệ thất nghiệp và thiếu việc làm lớn nhất ở nước Mỹ kể từ cuộc Đại khủng hoảng những năm 1930. Gói cứu trợ của Tổng thống Obama đã cứu hệ thống ngân hàng nhưng giúp được rất ít cho những gia đình. Đến năm 2008, tổng nợ của hộ dân tại Mỹ đã lên đến 14.000 tỷ đô-la. Để nắm được mức độ nợ nần của người dân Mỹ, hãy lưu ý rằng 20 năm trước, số nợ của gia đình bình quân chiếm 83% thu nhập. 10 năm trước, nợ gia đình đã tăng lên 92% thu nhập hộ gia đình, và đến 2007 đã chiếm 130% thu nhập, khiến các nhà kinh tế phải sử dụng thuật ngữ mới “tiết kiệm âm” để phản ánh sự thay đổi sâu sắc trong cơ chế chi tiêu và tiết kiệm của các hộ dân Mỹ. Thất nghiệp, thiếu việc làm và ngập trong nợ nần, một số lượng kỷ lục 2,9 triệu người sở hữu nhà ở Mỹ đã nhận được thông báo tịch thu nhà trong năm 2010. Điều đáng lo hơn, tỷ lệ nợ gia đình trên GDP, ở mức 65% vào giữa thập niên 1990 đã đạt mốc 100% vào năm 2010, một dấu hiệu chắc chắn rằng người tiêu dùng tại Mỹ sẽ không thể thúc đẩy được toàn cầu hóa với sức mua của mình. Bong bóng tín dụng và cuộc khủng hoảng tài chính không xảy ra một cách bất ngờ. Chúng nảy sinh từ sự thoái trào của Cuộc cách mạng công nghiệp lần II. Sự suy giảm đó bắt đầu từ cuối thập niên 1980, khi cơn sốt xây dựng ở ngoại thành – phát sinh từ sự hình thành hệ thống cao tốc liên bang – lên đến đỉnh điểm, báo hiệu mức cao điểm của kỷ nguyên ô tô và dầu mỏ. Chính sự kết hợp của nguồn dầu mỏ giá rẻ dồi dào và ô tô đã đưa nước Mỹ lên hàng đầu của nền kinh tế thế giới vào những năm 1980. Điều không may là nước Mỹ đã sử dụng hết những tài sản tích lũy trong chưa đầy một nửa thời gian dùng để tạo ra chúng trong một cơn sốt mua sắm được thiết kế để giữ cỗ máy kinh tế vận hành một cách giả tạo trong khi nền kinh tế thực sự đang đi xuống. Khi tích lũy cạn kiệt, chúng ta lại vay thêm hàng nghìn tỷ đô-la và sống trong sự huyễn hoặc về sức mạnh kinh tế vô địch của mình, tiếp tục tiêu tiền không phải của mình – gây kích thích quá trình toàn cầu hóa. Hàng triệu người trên khắp thế giới đã vô cùng vui mừng được cung cấp hàng hóa và dịch vụ để đổi lấy tiền của chúng ta. Cơn sốt mua sắm trên toàn cầu và sự gia tăng nhanh chóng tổng sản lượng đi đôi với nó đã kéo theo nhu cầu về nguồn cung dầu mỏ tăng lên, khiến giá dầu mỏ trên các thị trường thế giới tăng chóng mặt. Điều này kéo theo sự tăng giá trên khắp chuỗi cung ứng toàn cầu đối với mọi thứ từ lúa mì đến xăng, cuối cùng đã dẫn đến sự sụp đổ sức mua toàn cầu khi giá dầu lên mức kỷ lục 147 đô-la/thùng vào tháng 7/2008. 60 ngày sau, cộng đồng ngân hàng, ngập trong những khoản cho vay chưa trả được, đóng cửa tín dụng; thị trường chứng khoán sụp đổ, và toàn cầu hóa bước vào ngõ cụt. 18 năm dựa vào gia hạn tín dụng đã khiến Mỹ trở thành một nền kinh tế thất bại. Tổng các khoản nợ của ngành tài chính Mỹ, từng chiếm 21% GDP vào năm 1980, đã tăng đều đặn trong 27 năm qua lên mức 116% GDP vào năm 2007. Do cộng đồng tài chính ngân hàng của Mỹ, châu Âu và châu Á có gắn bó mật thiết, cuộc khủng hoảng tín dụng đã lan ra ngoài nước Mỹ và nhấn chìm toàn bộ nền kinh tế toàn cầu. Ðiều đáng ngại hơn, Quỹ Tiền tệ Quốc tế dự báo rằng nợ của chính phủ liên bang có thể ngang bằng với GDP vào năm 2015, khiến triển vọng tương lai của nước Mỹ trở nên bất ổn. HÓA ĐƠN NỘI CHUYỂN NHIỆT CHO KỶ NGUYÊN CÔNG NGHIỆP Nếu điều này còn chưa đủ, có một món nợ thứ hai đang lớn dần – một khoản lớn hơn và khó trả hơn nhiều. Hóa đơn nội chuyển nhiệt từ cuộc Cách mạng công nghiệp đầu tiên và thứ hai đã đến hạn. 200 năm đốt than, dầu và khí tự nhiên để thúc đẩy lối sống công nghiệp đã dẫn đến việc phát tán một lượng lớn CO2 vào bầu khí quyển Trái đất. Năng lượng đã tiêu hao đó – hóa đơn nội chuyển nhiệt – đã chặn khối nhiệt bức xạ của mặt trời thoát ra khỏi Trái đất và đe dọa một sự thay đổi kinh hoàng về nhiệt độ của Trái đất, những hậu quả tàn khốc đối với tương lai của loài người. Vào tháng 12/2009, các nhà lãnh đạo chính phủ đại diện cho 192 quốc gia đã họp mặt tại Copenhagen để thảo luận cách giải quyết thách thức lớn nhất mà loài người phải đối mặt − biến đổi khí hậu từ công nghiệp. Một báo cáo phát hành tại Paris của Ủy ban Liên chính phủ về Biến đổi khí hậu của Liên Hợp Quốc vào tháng 3/2007 đã trình bày thẳng thắn quy mô của vấn đề. Hơn 2.500 nhà khoa học từ hơn 100 quốc gia đã góp phần vào những phát hiện này. Đây là bản báo cáo thứ tư trong một chuỗi công trình kéo dài hơn 15 năm, nghiên cứu khoa học lớn nhất từng được thực hiện. Điều đầu tiên thu hút sự chú ý của tôi khi đọc bản báo cáo của Liên Hợp Quốc là tôi đã hiểu sai trong suốt 27 năm. Lần đầu tiên tôi viết về biến đổi khí hậu là trong cuốn sách mang tên Nội chuyển nhiệt (Entropy) năm 1980, một trong những cuốn sách đầu tiên nhằm nâng cao nhận thức của công chúng về vấn đề này. Tôi tiếp tục dành phần lớn thời gian trong những năm 1980 nâng cao nhận thức của công chúng về các mối đe dọa dài hạn của hiện tượng trái đất nóng lên. Năm 1981, Nhà điều trần về Tương lai của Quốc hội, một tổ chức dịch vụ lập pháp của Quốc hội hình thành từ hơn 100 dân biểu và thượng nghị sĩ, đã mời tôi trình bày hai bài giảng chính thức không ghi lại cho các thành viên của Quốc hội về những hậu quả thuộc nhiệt động lực học mà lượng khí thải CO2 trong công nghiệp gây ra. Theo tôi được biết, đây là một trong những cuộc thảo luận đầu tiên về biến đổi khí hậu trong Quốc hội Mỹ. Năm 1988, văn phòng của tôi đã tổ chức cuộc họp đầu tiên của các nhà khoa học và các tổ chức phi chính phủ về môi trường từ khắp nơi trên thế giới để thảo luận những cách làm việc cùng nhau để tạo nên một phong trào toàn cầu nhằm giải quyết vấn đề biến đổi khí hậu. Chúng tôi thành lập Mạng lưới nhà kính toàn cầu, một liên minh của các nhà nghiên cứu khí hậu, các tổ chức môi trường và các chuyên gia phát triển kinh tế, và khởi xướng một nỗ lực kéo dài cả thập kỷ đã giúp đưa các tranh luận về biến đổi khí hậu từ giới học thuật vào khu vực chính sách công. Mặc dù đã hiểu được từ lâu sự cấp bách của hiện tượng trái đất nóng lên, cũng như nhiều đồng nghiệp của mình, tôi tiếp tục coi nhẹ tốc độ tăng nhiệt độ của trái đất. Tôi không đánh giá đúng mực những tác động hợp nhất mạnh mẽ có thể phát sinh từ những sự kiện phản hồi tích cực bất ngờ. Ví dụ, khi băng ở Bắc Cực tan chảy từ sự gia tăng nhiệt độ trái đất, nó ngăn cản nhiệt thoát ra ngoài trái đất. Lớp tuyết bao phủ giảm dẫn đến giảm khả năng bức xạ − trắng phản lại nhiệt và đen hấp thụ nhiệt – khiến ít nhiệt lượng thoát khỏi trái đất hơn. Điều này lại làm Trái đất nóng lên và làm tan chảy tuyết nhanh hơn trong một chu kỳ phản hồi tích cực ngày càng tăng. Bây giờ thực hiện vòng lặp phản hồi này và nhân các khả năng lên gần như vô tận, vì những thay đổi đột ngột trong sinh quyển của Trái đất cũng kích hoạt các vòng lặp phản hồi của nó, và hậu quả trở nên vô cùng đáng sợ. Báo cáo Khí hậu thứ tư của Liên Hợp Quốc là một lời cảnh báo khẩn cấp về sự thay đổi đang diễn ra trong cấu tạo hóa học của hành tinh. Đây là một tin xấu. Các nhà khoa học cho chúng ta biết nhiệt độ Trái đất có thể tăng ít nhất 3 độ C vào cuối thế kỷ này. Nhiệt độ có thể tăng lên cao hơn đáng kể. Trong khi 3 độ nghe có vẻ không tệ lắm, chúng ta cần hiểu rằng một sự gia tăng nhiệt độ trong phạm vi này đưa chúng ta trở lại với nhiệt độ trên trái đất 3 triệu năm về trước trong thời kỳ Pliocene. Thế giới đã là một nơi rất khác vào thời điểm đó. Theo các nhà khoa học, một sự thay đổi nhiệt độ chỉ từ 1,5 đến 3,5 độ C có thể dẫn đến tuyệt chủng hàng loạt động thực vật trong chưa đầy 100 năm. Các mô hình cho thấy một tỷ lệ tuyệt chủng 20% ở ngưỡng thấp và trên 70% ở ngưỡng cao. Chúng ta cần phải hiểu sự nghiêm trọng của vấn đề các nhà khoa học đang nói đến. Trái đất đã trải qua 5 đợt tuyệt chủng sinh học trong 450 triệu năm trước. Mỗi lần có một sự quét sạch, phải mất khoảng 10 triệu năm để phục hồi sự đa dạng sinh học đã mất đi. Vậy sự tăng nhiệt độ ảnh hưởng ra sao đến khả năng sống sót hoặc tuyệt chủng của các loài? Hãy xem xét một ví dụ đơn giản. Sự biến mất của các cây xanh trong hệ sinh thái khiến các nhà khoa học lo lắng. Hãy tưởng tượng khu vực Đông Bắc của nước Mỹ lại có khí hậu của Miami vào nửa cuối của thế kỷ XXI. Trong khi con người có thể di chuyển một cách nhanh chóng để thích ứng, cây cối không thể làm vậy. Các loài cây đã thích nghi với các vùng nhiệt độ tương đối ổn định qua hàng ngàn năm và có khả năng sinh sản chậm. Vì vậy, khi nhiệt độ thay đổi hoàn toàn chỉ trong vài thập kỷ, cây cối không thể thay đổi kịp với vùng nhiệt độ của chúng. Điều này dẫn đến hậu quả nghiêm trọng đối với sự tồn tại của các sinh vật trên trái đất. 25% diện tích đất của hành tinh là rừng và là môi trường sống cho nhiều loài sinh vật còn lại. Một sự biến mất đột ngột của thực vật sẽ tàn phá đời sống của động vật. Các nhà khoa học làm việc tại Costa Rica đã phát hiện ra rằng do nhiệt độ tăng lên trong 16 năm qua, tốc độ tăng trưởng của thực vật đã giảm liên tục. Các nhà nghiên cứu trích dẫn những kết quả tương tự ở khắp nơi trên thế giới, làm gia tăng mối lo ngại rằng chúng ta có thể đã ở những giai đoạn đầu của một quá trình tuyệt chủng hàng loạt. Ảnh hưởng quan trọng nhất của sự tăng nhiệt độ toàn cầu là ở chu kỳ của nước. Mỗi khi nhiệt độ tăng 1 độ C sẽ làm khả năng giữ độ ẩm của khí quyển tăng 7%. Điều này dẫn đến sự thay đổi hoàn toàn cách thức nước được phân bổ, với lượng mưa lớn hơn nhưng thời gian và tần suất giảm đi. Hậu quả là có nhiều lũ lụt và hạn hán kéo dài hơn. Các hệ sinh thái thích ứng với một chế độ thời tiết nhất định trong một thời gian dài không thể điều chỉnh đủ nhanh trước những thay đổi đột ngột về lượng mưa sẽ trở nên mất ổn định và biến mất. Chúng ta đã trải nghiệm những tác động thủy văn của một sự gia tăng 0,5 độ ở nhiệt độ Trái đất đối với cường độ bão. Một nghiên cứu năm 2005 được công bố trên tạp chí Science cho thấy số lượng cơn bão cấp 4 và 5 đã tăng gấp đôi kể từ thập niên 1970. Katrina, Rita, Gustav, Ike là những lời nhắc nhở về những gì còn chờ đợi loài người khi chúng ta bước tiếp vào thế kỷ XXI. Các nhà khoa học cũng dự đoán một sự gia tăng mực nước biển và sự lùi dần đường bờ biển trên toàn thế giới. Những quần đảo nhỏ như Maldives ở Ấn Độ Dương và quần đảo Marshall ở Thái Bình Dương có thể biến mất hoàn toàn dưới đại dương. Tuyết trên đỉnh nhiều dãy núi lớn trên thế giới đang tan chảy. Một số sông băng dự kiến sẽ mất trên 60% lượng băng trước năm 2050. Hơn 1/6 nhân loại sống trong các thung lũng núi và dựa vào tuyết để tưới tiêu, vệ sinh, và làm nước uống. Việc di dời gần một tỷ người trong vòng chưa đầy 40 năm dường như một việc bất khả thi. Các nhà khoa học cũng đặc biệt lo ngại về Bắc Cực. Những nghiên cứu mới dự báo lượng băng bao phủ nơi đây sẽ giảm đi 75% trước năm 2050. Vào tháng 8/2008, xuất hiện vùng nước mở bao quanh Bắc Cực. Đây là lần đầu tiên điều này xảy ra trong ít nhất 125 nghìn năm. Điều khiến các nhà khí hậu lo ngại nhất là những vòng phản hồi khó dự đoán nhưng có khả năng kích hoạt những thay đổi lớn trong sinh quyển và làm nhiệt độ Trái đất tăng vọt lên mức cao hơn nhiều so với tính toán của các mô hình hiện tại. Ví dụ, hãy xem lớp băng vĩnh cửu đã bao phủ khu vực Siberia cận Bắc Cực kể từ khi kỷ băng hà cuối cùng bắt đầu. Trước thời điểm đó, khu vực này tương đương với diện tích của Pháp và Đức cộng lại, là một vùng đồng cỏ tươi tốt với các động vật hoang dã. Lớp băng vĩnh cửu giữ các chất hữu cơ bên dưới mặt đất như một lớp vỏ thời gian. Các nhà khoa học cho rằng có nhiều chất hữu cơ bên dưới lớp băng vĩnh cửu ở Siberia hơn ở tất cả các rừng nhiệt đới trên thế giới. Ủy ban liên chính phủ về Biến đổi khí hậu của Liên Hợp Quốc đã nhắc đến vấn đề băng vĩnh cửu trong báo cáo đánh giá lần thứ tư, lưu ý rằng nếu lớp vỏ băng vĩnh cửu tan ra, nó có thể kích hoạt một sự phát tán khí CO2 vào khí quyển và dẫn đến gia tăng nhiệt độ Trái đất ở mức độ lớn hơn nhiều tính toán hiện nay. Tuy nhiên, hiện chưa có dữ liệu nào khẳng định tình huống này. Tuy vậy, những nghiên cứu thực địa gần đây trên tạp chí Nature đã làm chấn động các nhà nghiên cứu. Tình trạng Trái đất nóng lên đã bắt đầu làm tan chảy lớp băng vĩnh cửu ở mức đáng báo động. Các nhà khoa học tại Viện Sinh học Bắc Cực thuộc Đại học Alaska tại Fairbanks cảnh báo chúng ta có thể vượt qua một ngưỡng nào đó trong thế kỷ này, với một sự mất mát đáng kể lớp băng bao phủ, phát tán một lượng lớn CO2 và methane vào khí quyển chỉ trong vài thập kỷ. Nếu điều này xảy ra, chúng ta sẽ không thể làm gì để ngăn chặn một sự hủy diệt trên diện rộng các hệ sinh thái và sự tuyệt chủng trầm trọng với sự sống trên hành tinh này. Liên minh châu Âu đã tham gia các cuộc đàm phán về khí hậu ở Copenhagen với một đề xuất rằng các quốc gia trên thế giới hạn chế lượng khí thải CO2 trên toàn cầu đến 450 phần triệu vào trước năm 2050, với hy vọng rằng việc đó sẽ khiến sự tăng nhiệt độ của Trái đất được giữ ở mức 2 độ C. Mặc dù sự gia tăng nhiệt độ lên 2 độ sẽ có tác động tàn phá đối với các hệ sinh thái trên hành tinh này, chúng ta sẽ vẫn có thể tồn tại. Thật không may, các quốc gia khác trên thế giới lại không sẵn sàng thực hiện biện pháp tối thiểu này để ngăn chặn sự tàn phá của biến đổi khí hậu. Tuy vậy, kiến nghị Brussels đã được đưa vào cân nhắc từ một bên không ngờ tới. Trưởng ban nghiên cứu khí hậu của chính phủ Mỹ James Hansen, người đứng đầu của Viện Nghiên cứu Không gian Goddard thuộc NASA, đề xuất dựa trên nghiên cứu của nhóm mình rằng EU đã tính sai sự tăng lên về nhiệt độ nếu lượng khí thải carbon được giới hạn ở 450 phần triệu. Nhóm của Hansen chỉ ra rằng mức độ tiền công nghiệp của CO2 trong khí quyển luôn không vượt quá 300 phần triệu trong 650 nghìn năm qua, theo kết quả phân tích các mẫu lõi băng. Các chỉ số báo công nghiệp hiện nay đã cao hơn thế ở mức 385 phần triệu và đang tăng lên nhanh chóng. Theo phát hiện của nhóm, biến đổi khí hậu do con người gây ra có thể dẫn đến mức tăng 6 độ của nhiệt độ Trái đất vào cuối thế kỷ hoặc không lâu sau đó, hay sự sụp đổ của nền văn minh nhân loại theo nghĩa đen. Hansen kết luận rằng: Nếu con người muốn gìn giữ hành tinh như khi hình thành nền văn minh và sự sống trên Trái đất được hình thành, các bằng chứng về khí hậu cổ và sự biến đổi khí hậu đang diễn ra cho thấy cần giảm hàm lượng CO2 từ mức hiện tại 385 ppm xuống nhiều nhất là 350 ppm, nhưng có lẽ còn phải ít hơn thế. Hiện không một chính phủ nào trên thế giới đang đề xuất một sự thay đổi căn bản trong cơ cấu đời sống kinh tế có thể đưa chúng ta đến gần mức 350 phần triệu − mức mà theo Hansen là cần thiết để cứu loài người. Tranh cãi nổ ra tại các cuộc đàm phán về khí hậu ở Copenhagen. Các chính phủ cáo buộc lẫn nhau là thực hiện chiêu bài địa chính trị với tương lai của hành tinh và đặt lợi ích kinh tế ngắn hạn trước sự sống còn của nhân loại. Trong những giờ cuối cùng, Tổng thống Obama bước vào mà không báo trước, yêu cầu được họp kín với các nguyên thủ quốc gia Trung Quốc, Ấn Độ, Brazil và Nam Phi – điều chưa từng có trong các cuộc họp ngoại giao quốc tế. Cuối cùng, các nhà lãnh đạo thế giới ra về mà không rút ra được thỏa thuận nào để hạn chế lượng khí thải carbon. Nói tóm lại, đó là một hành động vô nghĩa. Mặc dù biến đổi khí hậu do con người gây ra là mối đe dọa lớn nhất đối với sự sống còn kể từ khi loài người xuất hiện trên Trái đất, các nhà lãnh đạo của chúng ta đã không thể thống nhất được một phương hướng để cứu thế giới. Ngay cả khi có ngày càng nhiều dấu hiệu cho thấy Thời đại công nghiệp, dựa trên nhiên liệu hóa thạch, đang hấp hối và Trái đất đang phải đối mặt với sự biến đổi khí hậu có khả năng gây mất ổn định, hầu hết mọi người đều từ chối công nhận thực tế. Thay vào đó, chúng ta tiếp tục đặt hy vọng vào việc tìm kiếm một nguồn cung cấp dầu và khí tự nhiên đang cạn dần để tiếp tục thỏa mãn cơn nghiện, nhằm tránh né ý nghĩ về những việc quá khó khăn cần phải làm nếu thực sự rơi vào ngõ cụt. Không ở đâu sự thiển cận lại rõ ràng như phản ứng của dư luận về sự cố tràn dầu ở Vịnh Mexico vào tháng 4/2010. Một giàn khoan dầu mà hãng BP thuê bị nổ ở vùng nước sâu, làm 11 người tử vong và một ống dẫn ở dưới mặt nước một dặm bị vỡ, làm tràn gần 5 triệu thùng dầu ra một trong những hệ sinh thái quý giá nhất. Người dân choáng váng theo dõi tình trạng dầu phun ra khỏi kẽ nứt sâu ở đáy đại dương, lan tỏa luồng dầu ra mọi hướng, giết chết các động vật hoang dã, phá hủy những môi trường sống yếu ớt, và đe dọa biến vịnh Mexico thành một biển chết. Thảm họa môi trường này là một lời nhắc nhở đau đớn rằng trong sự tuyệt vọng để giữ cho động cơ kinh tế hoạt động, chúng ta ngày càng sẵn sàng thực hiện những dự án mạo hiểm để tìm kiếm nhiên liệu hóa thạch khan hiếm, ngay cả khi nó có thể phá hủy hệ sinh thái. Người ta sẽ nghĩ rằng vụ tràn dầu lớn nhất trong lịch sử và sự tàn phá trên diện rộng sau đó sẽ khiến dư luận cả nước tập trung vào sự phụ thuộc vào dầu mỏ và tác động của nó đến môi trường. Trong khi có hàng triệu người Mỹ quan tâm đến vấn đề này, thì số đông hơn, theo các cuộc thăm dò ý kiến, đã dồn sự tức giận của họ vào vấn đề nhỏ hơn là trách nhiệm của BP và sự thất bại của chính phủ trong việc đảm bảo các quy trình an toàn phù hợp để tránh những rủi ro như vậy. Trên thực tế, phần đông người Mỹ ủng hộ việc tiếp tục khoan dầu ngoài khơi ở vùng Vịnh Mexico và các nơi khác, vì tin rằng đó là cách tốt nhất để đảm bảo sự độc lập về năng lượng. Câu hô hào tiếp tục khoan dầu đã trở nên nổi tiếng của cựu ứng cử viên phó tổng thống đảng Cộng hòa Sarah Palin, mặc dù bị chế nhạo bởi các nhà môi trường, được đa số người Mỹ tin tưởng. Ngay cả Tổng thống Obama, người được gọi là tổng thống vì môi trường cũng đã kêu gọi dỡ bỏ lệnh cấm dài hạn đối với việc khoan dầu ngoài khơi nước sâu dọc theo bờ biển đông nam Đại Tây Dương chỉ vài tuần trước khi xảy ra thảm họa. Lẽ ra Palin và Obama nên hiểu biết hơn về việc này. Những dự án khoan dầu tiềm ẩn nguy hiểm tại những vùng hoang vu này mang lại một lượng dầu không đáng kể. Ví dụ, hãy thử xem xét câu hỏi gây nhiều tranh cãi về việc liệu chính phủ Hoa Kỳ có nên cho phép khoan dầu ở một phần của Khu trú ẩn động vật hoang dã quốc gia Alaska, bờ biển Đông và Tây, phía đông Vịnh Mexico, và dãy núi Rocky. Theo một nghiên cứu năm 2011 của Viện Dầu khí Mỹ, cơ quan đại diện cho tất cả các công ty dầu khí hàng đầu, việc khai thác ở mọi nơi vẫn còn trữ lượng dầu ở Mỹ sẽ chỉ mang lại 2 triệu thùng mỗi ngày cho đến năm 2030, ít hơn 10% lượng tiêu thụ dầu của Mỹ hiện nay – tóm lại là một sự tăng sản lượng nhỏ có ảnh hưởng rất ít tới khả năng cứu vãn sự chấm dứt của thời kỳ dầu mỏ. Có nhiều người còn chưa hiểu thực tế là thời đại công nghiệp được thúc đẩy bằng nhiên liệu hóa thạch đang đi đến hồi kết. Điều này không có nghĩa là van chứa dầu sẽ đột ngột cạn kiệt vào ngày mai. Dầu sẽ vẫn tiếp tục chảy nhưng ở tốc độ giảm đi và chi phí cao hơn. Và bởi dầu được tập trung và định giá trên thị trường chung của thế giới, không một quốc gia nào có thể cô lập mình theo khẩu hiệu “độc lập về năng lượng”. Đối với khí thiên nhiên thông thường, đường cong sản xuất toàn cầu cũng không khác dầu mỏ là bao. Thế còn lượng than ở Trung Quốc, cát hắc ín ở Canada, dầu nặng tại Venezuela và khí đá phiến ở Mỹ? Trong khi vẫn còn tương đối dồi dào, những nguồn năng lượng này rất tốn kém để khai thác và phát thải khí CO2 nhiều hơn so với dầu thô hoặc khí thiên nhiên thông thường. Nếu chúng ta mạnh tay chuyển sang những nguồn nhiên liệu gây ô nhiễm hơn này để ngăn chặn sự kết thúc của kỷ nguyên nhiên liệu hóa thạch, sự gia tăng đáng kể nhiệt độ toàn cầu chắc chắn sẽ là tác nhân cuối cùng quyết định số phận của loài người. Năng lượng hạt nhân thì sao? Hầu hết các nước ngừng xây dựng nhà máy điện hạt nhân trong những năm 1980 sau vụ tai nạn tại nhà máy điện hạt nhân Three Mile Island ở Pennsylvania năm 1979 và vụ nổ nhà máy Chernobyl ở Nga năm 1986. Thật không may, trí nhớ của công chúng thường là ngắn hạn. Ngành công nghiệp hạt nhân đã được hồi sinh trong những năm gần đây, ăn theo những tranh luận về biến đổi khí hậu với lý luận rằng đây là một sự thay thế “sạch” cho nhiên liệu hóa thạch bởi vì nó không phát thải CO2, và do đó, là một phần của giải pháp cho vấn đề Trái đất nóng lên. Điện hạt nhân chưa bao giờ là nguồn năng lượng sạch. Những nguyên liệu và rác thải phóng xạ luôn là mối đe dọa nghiêm trọng đối với sức khỏe con người, các sinh vật sống và môi trường. Vụ nổ một phần nhà máy điện hạt nhân Fukushima từ trận động đất và sóng thần tại Nhật Bản trong năm 2011 đã gây nên một vụ chấn động chính trị trên toàn thế giới, khiến hầu hết các chính phủ dừng lại mọi kế hoạch xây dựng nhà máy điện hạt nhân mới, giảm đi triển vọng dài hạn về sự sống lại của công nghệ thế kỷ XX này. Xin mượn một câu sáo ngữ đã trở thành nổi tiếng của một cựu cố vấn cho Tổng thống Clinton James Carville, “Đó là nền kinh tế, đồ ngu.” Đúng vậy. Nhưng chúng ta vẫn tiếp tục tin tưởng một cách sai lầm rằng những vấn đề kinh tế của mình xuất phát từ việc quá phụ thuộc vào nhập khẩu dầu từ Trung Đông − thực ra thì Canada là nhà cung cấp dầu lớn nhất cho nước Mỹ − và từ những hạn chế liên quan đến môi trường quá khắt khe đối với nền kinh tế, vốn chỉ làm suy giảm tăng trưởng. Trên thực tế, vấn đề phức tạp hơn thế nhiều. PHONG TRÀO TIỆC TRÀ Người dân Mỹ cảm thấy một vấn đề nghiêm trọng đang xảy ra với nước mình, rằng nền kinh tế của chúng ta đang xuống dốc và lối sống bị đảo lộn. Linh cảm này trở nên rõ rệt vào năm 2009 với sự nổi lên của phong trào Tiệc trà, một cuộc nổi loạn cấp cơ sở chống lại kiểu nhà nước lớn hay can thiệp, chính trị ưu tiên khu vực và đối tượng, và các loại thuế cắt cổ. Gần nửa triệu những người ủng hộ phong trào Tiệc trà bỏ phiếu trực tuyến cho cái gọi là Hợp đồng từ Mỹ, một danh sách 10 chương trình hành động mà họ coi là ưu tiên cao nhất cho phong trào. Đứng thứ hai trong danh sách, ngay sau các biện pháp để bảo vệ Hiến pháp Hoa Kỳ, là sự bãi bỏ luật về thương mại và mức trần để hạn chế lượng khí thải CO2. Một ưu tiên khác là việc cho phép “thăm dò các nguồn năng lượng đã được chứng minh để giảm sự phụ thuộc của chúng ta vào các nguồn năng lượng nước ngoài đến từ các nước không ổn định...” Khi lần đầu tiên nghe về phong trào Tiệc trà và chương trình hành động của họ, tôi cảm thấy nó giống như kẻ thù hắc ám của những gì đã diễn ra trên đường phố Boston hơn 37 năm trước tại phong trào Tiệc dầu Boston. Thay vì ném các thùng dầu rỗng xuống Vịnh Boston để phản đối các chính sách của công ty dầu mỏ trong khi hô vang “Đả đảo đế chế dầu mỏ”, câu khẩu hiệu mới “Tiếp tục khoan dầu” đang ngày càng mạnh mẽ. Sự lo sợ và giận dữ về những gì đang diễn ra ở nước Mỹ của các nhà hoạt động phong trào Tiệc trà và hàng triệu người Mỹ là chính đáng. Họ không đơn độc. Các gia đình trên toàn thế giới cũng đang sợ hãi. Tuy nhiên việc khoan dầu nhiều hơn sẽ không đưa chúng ta ra khỏi khủng hoảng vì dầu chính là lý do khủng hoảng. Cuộc cách mạng công nghiệp lần II dựa vào dầu mỏ đang suy yếu và sẽ không bao giờ quay lại được vinh quang trước đó. Ở khắp mọi nơi mọi người đang hỏi, “Chúng ta phải làm gì?” Nếu muốn mang lại việc làm cho mọi người, hạn chế biến đổi khí hậu, cứu nền văn minh của con người, chúng ta sẽ cần một tầm nhìn kinh tế mới mang tính thuyết phục cho thế giới và một kế hoạch thực tế để thực hiện nó. CHƯƠNG 2. MỘT DIỄN GIẢI MỚI Nền kinh tế luôn là trò chơi của lòng tin. Trong khi trước đây chúng ta nghĩ rằng hoạt động kinh doanh và thương mại được hậu thuẫn bởi vàng hoặc bạc, trong thực tế, nó luôn được hỗ trợ bởi một nguồn dự trữ quan trọng hơn – lòng tin của dân chúng. Khi niềm tin đó mạnh mẽ thì kinh tế khởi sắc và tương lai vẫy gọi chúng ta ở phía trước. Khi niềm tin bị tan vỡ, các nền kinh tế thất bại và tương lai trở nên mờ mịt. Phải chăng nước Mỹ đã mất đi bùa hộ mệnh của mình? Dường như đi đến đâu chúng ta cũng chờ chực xâu xé, phán xét, than thở, đổ lỗi, coi thường và làm tổn thương lẫn nhau, hồi tưởng về những ngày tươi đẹp, ca ngợi thế hệ vĩ đại nhất, lãng mạn hóa thế hệ những năm 1960 của hòa bình và tình yêu, và chê bai mọi thế hệ sau đó − thế hệ X ích kỷ và vượt quyền, thế hệ Y dễ dãi, hiếu động và dễ phân tâm. Như những đứa trẻ cũng có thể nói, một quốc gia bị ám ảnh muốn sống lại quá khứ, không ngừng than phiền về hiện tại, và than vãn về tương lai chưa đến cần phải “sống cho đàng hoàng”. Tổng thống Barack Obama được mời vào Nhà Trắng một phần vì ông có thể vực dậy tinh thần của người dân Mỹ ra khỏi sự tuyệt vọng và tập trung ý thức tập thể của một quốc gia tới ý tưởng là chúng ta có thể làm tốt hơn, dù chỉ trong một thời gian ngắn ngủi. Ông đã cho người Mỹ, đặc biệt là thanh niên, một cảm giác hy vọng, kết tinh trong vài từ hào nhoáng “Vâng, chúng ta có thể”. Thật không may, ngay khi vị tổng thống trẻ chuyển vào Nhà Trắng, ông đã phung phí tài sản tinh tế và quý giá nhất mà mọi nhà lãnh đạo sở hữu – đó là khả năng đoàn kết mọi người dưới một tầm nhìn chung về một tương lai tốt đẹp hơn. Công bằng mà nói, tôi đã thấy hiện tượng này nhiều lần khi tiếp xúc với các nguyên thủ quốc gia. Họ nhận nhiệm vụ một cách nhiệt huyết với tầm nhìn đầy tham vọng về tương lai, để rồi ngã quỵ trước trọng trách hàng ngày phải tạo nên những đốm lửa nhỏ nhoi. Vào ngày đầu tiên tại vị, Tổng thống Obama tập trung ngay vào vấn đề vực dậy nền kinh tế. Chính quyền của ông bám vào ý tưởng kết hợp việc khôi phục kinh tế với hai thách thức nghiêm trọng khác mà nước Mỹ phải đối mặt là an ninh năng lượng và biến đổi khí hậu. Tổng thống bắt đầu tôn vinh triển vọng về một nền kinh tế xanh và cách nó sẽ tạo nên hàng nghìn doanh nghiệp và hàng triệu việc làm mới như thế nào. Thông điệp này đã gây được tiếng vang với nhiều thành viên của Quốc hội. Nhưng lý do một kế hoạch kinh tế tổng quát mới chưa bao giờ được triển khai không chỉ bởi chúng ta cần phải cắt giảm chi tiêu công và giảm thâm hụt ngân sách, mà vì chính quyền đang mất đi, nói theo chữ của cựu Tổng thống George W. Bush, “cái tầm nhìn”. Mỗi khi Tổng thống Obama đề cập đến kế hoạch phục hồi kinh tế xanh của mình, ông đưa ra một loạt các chương trình và sáng kiến chính quyền của ông đang làm hoặc đề xuất. Và có nguồn tài chính thực sự hậu thuẫn cho những sáng kiến này. Chính phủ liên bang đã cam kết chi 11,6 tỷ đô-la để tăng hiệu quả sử dụng năng lượng; 6,5 tỷ đô-la cho sản xuất năng lượng tái tạo (chủ yếu là năng lượng gió và mặt trời); 4,4 tỷ đô-la cho việc hiện đại hóa lưới điện để phát triển một mạng lưới điện thông minh, và 2 tỷ đô-la để phát triển công nghệ pin cho các phương tiện chạy bằng điện và pin nhiên liệu. Tổng thống cũng tận dụng mọi cơ hội để đến thăm các khu tuabin tạo năng lượng gió hay mặt trời, nhà máy sản xuất tấm pin năng lượng mặt trời, hoặc một công ty ô tô đang thử nghiệm xe điện để thể hiện cam kết chân thành của mình về một tương lai kinh tế xanh. Điều Obama thiếu là một diễn giải kinh tế. Những gì chúng ta thấy là một bộ sưu tập những dự án thử nghiệm và các chương trình được bưng bít không có mối liên hệ gì với nhau để minh họa một cách thuyết phục cho một tầm nhìn kinh tế mới cho thế giới. Chúng ta đang mắc kẹt với rất nhiều sáng kiến bế tắc gây lãng phí hàng tỷ đô-la tiền thuế của dân mà không có gì để làm thành quả. Vậy là người đã truyền cảm hứng cho cả quốc gia hướng tới sự vĩ đại trong chiến dịch tranh cử của mình, đột nhiên biến thành một bức tranh biếm họa của một nhà chính sách tận tụy ở Washington không ngừng ca tụng những đột phá công nghệ mới nhất mà không hiểu gì về việc chúng có phù hợp để tạo nên một bức tranh tổng thể hay không. Nếu như Tổng thống Obama hiểu rõ mối tương quan cốt lõi của cuộc Cách mạng công nghiệp vĩ đại kế tiếp, ông đã có thể thuyết phục người dân Mỹ về một bản kế hoạch kinh tế toàn diện cho tương lai của đất nước. Khi Brussels bắt đầu xem xét một cách nghiêm túc về một tầm nhìn kinh tế bền vững mới cho Liên minh châu Âu vào năm 2002, họ cũng phải đối mặt với vấn đề bị cuốn vào tiểu tiết mà thiếu đi cốt truyện. Câu chuyện bắt đầu với hiểu biết rằng những cuộc chuyển biến kinh tế lớn trong lịch sử diễn ra khi công nghệ truyền thông mới được kết hợp với các hệ thống năng lượng mới. Các hình thức truyền thông mới trở thành phương tiện để tổ chức và quản lý nền văn minh phức tạp hơn có thể được tạo nên từ những nguồn năng lượng mới. Cơ sở hạ tầng mới xuất hiện khiến không gian và thời gian thu hẹp lại, kết nối con người và các thị trường trong các quan hệ kinh tế đa dạng hơn. Khi những hệ thống này được vận hành, hoạt động kinh tế phát triển hơn và di chuyển theo một đường cong hình chuông cổ điển theo trình tự leo lên, đạt đỉnh, đi ngang và xuống dốc cùng với sức mạnh của hiệu ứng số nhân được thiết lập bởi ma trận truyền thông-năng lượng. Cơ sở hạ tầng, ở cấp độ sâu nhất, không phải là một tập hợp cố định các công trình xây dựng làm nền tảng cho các hoạt động kinh tế như quan điểm của chúng ta theo lý thuyết kinh tế thông thường. Thay vào đó, cơ sở hạ tầng là một mối quan hệ hữu cơ giữa các công nghệ truyền thông và các nguồn năng lượng mà khi kết hợp với nhau tạo thành một nền kinh tế sống. Công nghệ truyền thông chính là hệ thần kinh có nhiệm vụ giám sát, điều phối và quản lý các tế bào kinh tế còn năng lượng là máu tuần hoàn trong cơ thể chính trị, cung cấp các chất dinh dưỡng để chuyển những quà tặng của tự nhiên thành hàng hoá và dịch vụ để giữ cho nền kinh tế tồn tại và phát triển. Cơ sở hạ tầng giống như một hệ thống mang ngày càng nhiều người lại với nhau trong các mối quan hệ kinh tế và xã hội phức tạp hơn. Việc áp dụng công nghệ hơi nước vào lĩnh vực in ấn đã chuyển hóa công cụ này thành hình thức truyền thông chủ đạo quản lý cuộc Cách mạng công nghiệp lần I. Máy in hơi nước với con lăn, và sau đó máy in quay và máy đánh chữ đã làm tăng tốc độ in ấn và giảm chi phí một cách đáng kể. Các tài liệu in dưới hình thức báo chí và sách nở rộ ở Mỹ và châu Âu, khuyến khích văn hóa đọc đại chúng lần đầu tiên trong lịch sử. Sự ra đời của trường công trên cả hai châu lục vào giữa những thập niên 1830 và 1890 tạo nên một lực lượng lao động có khả năng in để tổ chức các hoạt động phức tạp của một nền kinh tế đường sắt và nhà máy chạy bằng than và hơi nước. Trong thập niên đầu của thế kỷ XX, truyền thông điện tử kết hợp với động cơ đốt trong chạy dầu đã tạo đà cho Cuộc cách mạng công nghiệp lần II. Việc điện khí hóa các nhà máy mở ra kỷ nguyên của hàng hóa sản xuất hàng loạt mà sản phẩm quan trọng nhất là ô tô. Henry Ford bắt đầu sản xuất chiếc xe Model T chạy bằng xăng của mình, làm thay đổi định hướng về không gian và thời gian của cả xã hội. Gần như chỉ qua một ngày, hàng triệu người đổi xe ngựa và xe đẩy của mình để lấy xe hơi. Nhằm đáp ứng nhu cầu nhiên liệu tăng lên, ngành công nghiệp dầu lửa non trẻ lao vào thăm dò và khoan, khiến nước Mỹ trở thành nhà sản xuất dầu lửa hàng đầu thế giới. Trong vòng hai thập kỷ, đường cao tốc xi măng đã được trải khắp nước Mỹ và các gia đình bắt đầu di chuyển ra các vùng ngoại ô vốn là những làng quê chỉ một vài năm trước đó. Mạng lưới đường dây điện thoại dài hàng ngàn dặm đã được lắp đặt, cùng với sự ra đời của đài phát thanh và truyền hình đã viết lại đời sống xã hội và tạo nên một mạng lưới truyền thông để quản lý và quảng bá các hoạt động đa dạng của nền kinh tế dầu mỏ và kỷ nguyên ô tô. Ngày nay, chúng ta đang ở điểm hội tụ giữa công nghệ truyền thông và các hệ thống năng lượng. Sự tiếp nối của công nghệ truyền thông Internet và các nguồn năng lượng tái tạo đang tạo đà cho một cuộc Cách mạng công nghiệp lần III. Trong thế kỷ XXI, hàng trăm triệu người sẽ tự sản xuất được năng lượng xanh tại nhà, cơ quan và các nhà máy, và chia sẻ với nhau thông qua các mạng lưới điện phân phối thông minh – một liên mạng lưới − giống như cách chúng ta tạo ra và chia sẻ thông tin trên Internet hiện nay. Các công ty âm nhạc không hiểu về sức mạnh phân tán cho đến khi hàng triệu thanh niên bắt đầu chia sẻ âm nhạc trực tuyến, khiến doanh thu của họ giảm mạnh trong vòng chưa đầy một thập kỷ. Bách khoa toàn thư Britannica đã không hiểu được sức mạnh phân tán và hợp tác khiến cho Wikipedia trở thành nguồn tài liệu tham khảo hàng đầu trên thế giới. Báo chí cũng không coi trọng sức mạnh chia sẻ trong cộng đồng blog, và hiện nay nhiều ấn phẩm đã phải đóng cửa hoặc tập trung vào các hoạt động trực tuyến. Ý nghĩa của việc mọi người chia sẻ năng lượng phân phối trong một môi trường mở thậm chí còn sâu rộng hơn thế. NĂM TRỤ CỘT CỦA CUỘC CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP LẦN III Cuộc Cách mạng công nghiệp lần III sẽ có ảnh hưởng lớn đối với thế kỷ XXI cũng như hai cuộc Cách mạng công nghiệp đầu tiên đối với thế kỷ XIX và XX. Và cũng giống như hai cuộc cách mạng công nghiệp trước, nó sẽ làm thay đổi về căn bản cách chúng ta sống và làm việc. Cách thức tổ chức từ trên xuống của xã hội truyền thống là đặc trưng cho phần lớn đời sống kinh tế, xã hội và chính trị của những cuộc cách mạng công nghiệp dựa trên nhiên liệu hóa thạch đang nhường chỗ cho những mối quan hệ hợp tác và chia sẻ trong thời đại công nghiệp xanh đang hình thành. Chúng ta đang chứng kiến một sự thay đổi sâu sắc về cách thức tổ chức của xã hội, chuyển từ quyền lực phân cấp sang quyền lực ngang hàng. Giống như mọi cơ sở hạ tầng truyền thông và năng lượng khác trong lịch sử, những trụ cột của một cuộc Cách mạng công nghiệp lần III phải được dựng lên cùng lúc nếu không nền tảng sẽ bị đổ vỡ. Đó là vì mỗi trụ cột chỉ có thể hoạt động trong mối tương quan với các trụ cột khác. Năm trụ cột của cuộc Cách mạng công nghiệp lần III là (1) sự chuyển dịch sang năng lượng tái tạo; (2) chuyển hóa các công trình xây dựng ở mọi lục địa thành các nhà máy điện mini để thu gom năng lượng tái tạo tại chỗ; (3) áp dụng công nghệ hydro và các công nghệ lưu trữ khác trong mọi công trình và xuyên suốt cơ sở hạ tầng để lưu trữ năng lượng gián đoạn; (4) sử dụng công nghệ Internet để chuyển đổi lưới điện của tất cả các lục địa thành một liên mạng lưới chia sẻ năng lượng hoạt động giống như Internet (khi hàng triệu tòa nhà tạo ra những lượng nhỏ năng lượng tại chỗ, chúng có thể bán phần thặng dư trở lại lưới điện và chia sẻ điện với các láng giềng cùng châu lục), và (5) chuyển các phương tiện vận tải sang các phương tiện chạy điện và pin nhiên liệu có thể mua và bán điện thông qua một lưới điện thông minh ở cấp châu lục. Nhu cầu cấp thiết phải tích hợp và điều hòa 5 trụ cột này ở mọi cấp độ và giai đoạn phát triển trở nên rõ ràng với Liên minh châu Âu vào mùa thu năm 2010. Một tài liệu bị rò rỉ của Ủy ban châu Âu cảnh báo rằng Liên minh châu Âu sẽ cần phải chi 1 tỷ Euro trong giai đoạn 2010- 2020 nâng cấp mạng lưới điện của mình để có thể tiếp nhận dòng năng lượng tái tạo. Tài liệu nội bộ này cho biết “châu Âu vẫn còn thiếu cơ sở hạ tầng cho phép năng lượng tái tạo có thể phát triển và cạnh tranh một cách bình đẳng với các nguồn năng lượng truyền thống.” Liên minh châu Âu dự kiến sẽ khai thác được 1/3 lượng điện cần tiêu thụ từ các nguồn năng lượng xanh trước năm 2020. Điều này có nghĩa là các lưới điện phải được số hóa và hiện đại hóa để có thể xử lý các nguồn năng lượng tái tạo liên tục được đưa vào mạng lưới từ hàng chục ngàn nhà sản xuất địa phương. Tất nhiên, cũng cần thiết phải nhanh chóng phát triển và áp dụng công nghệ hydro và các công nghệ lưu trữ khác trên toàn cơ sở hạ tầng của Liên minh châu Âu khi nguồn năng lượng tái tạo được cấp liên tục vượt quá 15% sản lượng điện, nếu không phần lớn nguồn này sẽ bị mất đi. Tương tự như vậy, cần phải thúc đẩy các ngành xây dựng và bất động sản để khuyến khích việc biến hàng triệu tòa nhà trong Liên minh châu Âu thành các nhà máy điện mini có thể khai thác năng lượng tái tạo tại chỗ và chuyển phần thặng dư trở lại mạng lưới điện thông minh. Và trừ khi những điều kiện này được đáp ứng, Liên minh châu Âu sẽ không thể cung cấp đủ nguồn điện cho hàng triệu phương tiện chạy điện và pin nhiên liệu hydro được chuẩn bị đưa ra thị trường. Nếu một trong năm trụ cột bị rớt lại phía sau trong quá trình phát triển, những trụ cột khác sẽ bị ảnh hưởng và chính cơ sở hạ tầng sẽ bị tổn hại. Liên minh châu Âu đặt ra hai mục tiêu vào đầu thế kỷ − chuyển thành một xã hội bền vững, phát thải carbon thấp và làm cho nền kinh tế châu Âu trở nên sôi động nhất thế giới. Trở thành một nền kinh tế phát thải carbon thấp có nghĩa là chuyển từ một Cuộc cách mạng công nghiệp lần II dựa trên năng lượng nhiên liệu hóa thạch sang cuộc Cách mạng công nghiệp lần III dựa vào năng lượng tái tạo. Dù là một nhiệm vụ không nhỏ, chúng ta nên lưu ý rằng sự chuyển đổi các nền kinh tế châu Âu và Mỹ từ nhiên liệu gỗ sang công nghệ hơi nước chạy bằng than đã diễn ra chỉ trong vòng nửa thế kỷ, cũng như sự chuyển đổi từ công nghệ đường sắt chạy bằng hơi nước và than đá sang nền kinh tế ô tô, điện và dầu mỏ. Những xu hướng lịch sử này khiến chúng ta có thể tự tin rằng việc chuyển đổi sang một kỷ nguyên năng lượng tái tạo có thể khả thi trong một khoảng thời gian tương tự. Tìm kiếm một diễn giải mới cho cuộc Cách mạng công nghiệp lần III là điều không dễ dàng. Như mọi tác giả đều biết, việc có một cốt truyện mới chỉ là khởi đầu. Sau đó, bạn cần phải phát triển câu chuyện. Một câu chuyện tốt là một quá trình hữu cơ được xây dựng từ chính nó, có cuộc sống riêng của mình và thường dẫn tác giả tới những phương hướng không dự đoán được. Trong trường hợp này, cốt truyện – sự hội tụ của công nghệ truyền thông Internet và năng lượng tái tạo − dẫn chúng tôi tới từng trụ cột mà cùng với nhau tạo nên những tương tác là cốt lõi của cuộc Cách mạng công nghiệp lần III. Quá trình tìm kiếm câu chuyện đưa chúng tôi vào một cuộc hành trình đáng nhớ với nhiều điểm nhấn và nút thắt đáng ngạc nhiên. HƯỚNG ĐẾN NĂNG LƯỢNG XANH Vào năm 2000 và 2001, châu Âu đã thảo luận nghiêm túc về việc đặt mục tiêu tạo ra 20% năng lượng tái tạo trước năm 2020. Điều này có nghĩa là 30% lượng điện sẽ đến từ các nguồn năng lượng xanh vào cuối thập kỷ thứ hai của thế kỷ XXI. Trụ cột thứ nhất – hướng tới mức 20% năng lượng tái tạo đã trở thành một mốc đánh dấu. Sự chuyển đổi sang một hệ thống năng lượng tái tạo mới đang diễn ra nhanh hơn nhiều so với dự đoán chỉ một vài năm trước đây. Giá nhiên liệu hóa thạch thông thường và uranium tiếp tục tăng trên thị trường thế giới khi chúng ngày càng khan hiếm. Các chi phí còn bị đội lên bởi các yếu tố bên ngoài gây ra bởi khí thải CO2, điều đang gây tác hại nghiêm trọng đến khí hậu của hành tinh và sự ổn định của các hệ sinh thái trên Trái đất. Trong khi đó, chi phí của các nguồn năng lượng xanh mới đang giảm nhanh chóng do những đột phá mới về công nghệ, việc áp dụng sớm và tính kinh tế của quy mô. Chi phí của quang điện (PV) dự kiến sẽ giảm 8% một năm, tức cứ sau 8 năm một lần, chi phí sản xuất giảm một nửa. Với giá điện dự kiến sẽ tăng ở mức vừa phải (5%), ước tính PV đạt cân bằng mạng lưới trên tất cả các thị trường châu Âu vào trước năm 2012 (cân bằng mạng lưới có nghĩa là chi phí sản xuất điện từ các nguồn thay thế sẽ bằng hoặc ít hơn so với chi phí sản xuất điện theo cách truyền thống từ nhiên liệu hóa thạch và các nguồn hạt nhân). Sự chênh lệch ngày càng lớn giữa những chi phí gia tăng của các nguồn năng lượng nhiên liệu hóa thạch cũ và chi phí giảm đi của năng lượng tái tạo đang tạo tiền đề cho một biến động của nền kinh tế toàn cầu và sự cấp thiết cần có một mô hình kinh tế mới cho thế kỷ XXI. Sự tăng trưởng về thương mại trong công nghệ năng lượng mặt trời và gió gợi nhớ đến sự tăng trưởng vượt bậc của máy tính cá nhân và Internet. Những máy tính cá nhân đầu tiên được đưa ra thị trường vào cuối những năm 1970. Đến năm 2008, đã có hơn 1 tỷ máy tính được sản xuất. Tương tự như vậy, số lượng người sử dụng Internet đã tăng hơn gấp đôi trong thập kỷ đầu tiên của thế kỷ XXI, đạt 2 tỷ người vào năm 2010. Hiện nay, việc lắp đặt công nghệ năng lượng gió và mặt trời đang tăng gấp đôi sau mỗi hai năm và nhiều khả năng sẽ đi theo quỹ đạo của máy tính cá nhân và Internet trong hai thập kỷ tới. Tuy nhiên, các ngành công nghiệp năng lượng truyền thống tiếp tục là một thế lực mạnh, chủ yếu do có nhiều tiền bạc để gây ảnh hưởng tới việc xây dựng các chính sách năng lượng của chính phủ. Trợ cấp chính phủ và các hình thức ưu đãi khác đã và đang hỗ trợ ngành năng lượng già nua và đem lại cho nó một lợi thế bất công so với các ngành công nghiệp năng lượng xanh mới. Trong khi các ngành công nghiệp dầu lửa, than đá, khí đốt và hạt nhân miễn cưỡng thừa nhận rằng năng lượng xanh đang ngày càng lớn mạnh, họ lập luận rằng chúng quá yếu ớt và không đủ khả năng vận hành nền kinh tế toàn cầu, và cùng lắm sẽ là nguồn bổ sung cho nhiên liệu hóa thạch và năng lượng hạt nhân. Tuy vậy, lập luận của họ lại thiếu đi cơ sở vững vàng. Các nhà khoa học đã chỉ ra rằng một giờ ánh sáng mặt trời có thể cung cấp đủ năng lượng để vận hành nền kinh tế toàn cầu trong một năm. Chỉ tính tại Liên minh châu Âu, 40% các mái nhà và 15% các mặt tiền tòa nhà phù hợp cho việc ứng dụng quang điện. Hiệp hội Công nghiệp quang điện châu Âu (EPIA) ước tính việc lắp đặt PV trên các bề mặt công trình khả dụng hiện nay có thể tạo ra 1.500 Gigawatt điện, chiếm 40% tổng nhu cầu điện của Liên minh châu Âu. Trong một nghiên cứu năm 2007 được đăng trên tạp chí Scientific American, các nhà nghiên cứu tính toán rằng chỉ cần 2,5% bức xạ năng lượng mặt trời ở vùng tây nam của Hoa Kỳ được chuyển hóa thành điện thì sẽ bằng với tổng mức tiêu thụ điện toàn quốc trong năm 2006. Cuộc nghiên cứu kết luận rằng cũng khu vực này có thể cung cấp 69% điện cho nước Mỹ và 35% năng lượng cho cả nước vào năm 2050. Châu Âu hiện nay đã vượt xa phần còn lại của thế giới về năng lượng mặt trời, chiếm 78% tất cả các thiết bị quang điện lắp đặt trong năm 2009, trong khi Nhật Bản, Mỹ và Trung Quốc tụt lại rất xa. Trong năm 2009, các thiết bị năng lượng gió được lắp đặt tại Liên minh châu Âu nhiều hơn bất kỳ nguồn năng lượng khác – chiếm 38% tổng số thiết bị năng lượng mới được triển khai. Ngành công nghiệp này hiện đang sử dụng gần 200.000 công nhân trên toàn Liên minh châu Âu và tạo ra 4,8% lượng điện tiêu thụ, được dự báo sẽ cung cấp gần 17% điện cho thị trường châu Âu vào năm 2020 và 35% tổng lượng điện tại châu Âu vào năm 2030, khi nó có một lực lượng lao động gần nửa triệu người. Nước Mỹ có đủ nguồn gió đủ để cung cấp gấp vài lần nhu cầu điện cho cả nước. Vào tháng 10/2010, Google và công ty tài chính Good Energies công bố các kế hoạch xây dựng một đường dây truyền tải điện dưới nước trị giá 5 tỷ đô-la nối các trạm gió ngoài khơi trải dài 350 dặm từ Norfolk, Virginia, đến miền bắc New Jersey. Đường truyền mới sẽ giúp các bang phía đông đẩy mạnh việc khai thác gió ngoài khơi và làm tăng đáng kể lượng điện xanh trong nguồn cung cấp năng lượng của mình. Một nghiên cứu của Đại học Stanford về công suất gió toàn cầu ước tính rằng khai thác 20% lượng gió có sẵn trên hành tinh sẽ mang lại lượng điện gấp 7 lần so với nhu cầu của thế giới. Trong các khu vực đô thị và ngoại thành, các tuabin gió độc lập gần các tòa nhà có thể sẽ được nhân rộng trước cuối thập kỷ này khi hàng triệu gia đình, văn phòng và các khu công nghiệp bổ sung công suất phát điện. Các công ty như Southwest Windpower ở Mỹ cung cấp các tuabin gió nhỏ có thể tạo ra 25-30% lượng điện cần thiết cho một ngôi nhà bình thường. Các tuabin gió này có giá từ 15.000 đô-la đến 18.000 đô-la và có thể hoàn vốn trong 14 năm. Thủy điện hiện đang chiếm tỷ lệ lớn nhất của trong nguồn điện sạch được tạo ra trên thế giới. Ở Liên minh châu Âu, thủy điện tạo ra 180.000 MW điện, phần lớn số đó tập trung ở các cơ sở quy mô lớn. Theo các chuyên gia ngành này, tiềm năng chưa được khai thác là ở các cơ sở thủy điện phân phối cỡ nhỏ. Các cơ sở có hiệu quả kinh tế nằm rải rác khắp châu Âu có thể tạo ra 147 Terawatt giờ (TWH) điện hàng năm. Ở Anh, theo Cơ quan Môi trường của chính phủ liên bang, thủy điện cỡ nhỏ có thể cung cấp điện cho 850.000 hộ gia đình trong tương lai. Tại Mỹ, thủy điện chiếm 75% lượng điện sạch được tạo ra hiện nay. Viện nghiên cứu Điện lực Mỹ (EPRI) ước tính thủy điện sẽ cung cấp thêm được 23.000 MW vào năm 2025 nhờ sự kết hợp các đập lớn, thủy điện mini, và năng lượng sóng đại dương. Năng lượng địa nhiệt bên dưới bề mặt trái đất là một nguồn dự trữ năng lượng xanh lớn hầu như chưa được khai thác. Nhiệt độ ở các khu vực bên trong vỏ trái đất đạt đến trên 4.000 độ C, và năng lượng đó liên tục tỏa ra bề mặt trái đất. Các điểm nóng của châu Âu về năng lượng địa nhiệt là Ý và Pháp. Các nước khác giàu năng lượng địa nhiệt bao gồm Đức, Áo, Hungary, Ba Lan và Slovakia. Tại Mỹ, năng lượng địa nhiệt trong vòng hai dặm của bề mặt trái đất là khoảng 3 triệu quads, đủ để cung cấp cho nhu cầu của Mỹ trong 30.000 năm. Việc ứng dụng năng lượng địa nhiệt trên toàn thế giới tăng 20% từ năm 2005 đến năm 2010. Tuy nhiên, trong 39 quốc gia có tiềm năng cung cấp đủ điện từ năng lượng địa nhiệt, mới chỉ có 9 nước đã phát triển một nguồn cung đáng kể nào đó. Trong khi nước Mỹ dẫn đầu về số lượng cơ sở năng lượng địa nhiệt được xây dựng, với các nhà máy sản xuất 3.086 MW, tiềm năng chưa được khai thác vẫn còn rất lớn. Một nghiên cứu của Viện công nghệ Massachusett (MIT) ước tính rằng chỉ cần đầu tư một khoản 300-400 triệu đô-la trong 15 năm sẽ làm cho việc sản xuất năng lượng địa nhiệt có tính cạnh tranh trên thị trường điện lực Mỹ. Với một khoản đầu tư công cộng và/hoặc tư nhân từ 800 triệu đô-la đến 1 tỷ đô-la trong cùng thời gian 15 năm, nhóm nghiên cứu MIT ước tính ngành năng lượng địa nhiệt có thể sản xuất hơn 100.000 MW điện cho mục đích thương mại vào năm 2050. Sinh khối là lát cắt cuối cùng của chiếc bánh năng lượng xanh đang lớn dần và bao gồm các loại cây trồng nhiên liệu, chất thải lâm nghiệp và rác thải đô thị. Đây cũng là lựa chọn năng lượng sạch gây nhiều tranh cãi nhất. Hiệp hội Năng lượng sinh học thế giới cho rằng “Tiềm năng về năng lượng sinh học của thế giới đủ lớn để đáp ứng nhu cầu năng lượng toàn cầu vào năm 2050.” Bryan Hannegan của Viện Nghiên cứu Điện lực Mỹ (EPRI) đồng ý rằng năng lượng sinh học có thể đóng một vai trò quan trọng trong sản xuất năng lượng sạch nhưng cho rằng trên cơ sở phân tích kinh tế hiện nay, nó sẽ chỉ có thể cung cấp 20% nhu cầu năng lượng toàn cầu vào năm 2050. Tuy nhiên đây vẫn là một con số đáng kể. Hội đồng Bảo vệ Tài nguyên thiên nhiên (NRDC) cho biết có 39 triệu tấn phế phẩm nông nghiệp bị bỏ phí ở Mỹ mỗi năm – một lượng chất thải đủ để sản xuất điện cung cấp cho mọi gia đình ở New England. Một số hạn chế cần phải được xem xét về việc sản xuất năng lượng sinh học. Ví dụ, trồng ngô để sản xuất ethanol sinh học thực sự là phản tác dụng. Lượng năng lượng đầu vào cần thiết để trồng cây, xử lý và vận chuyển ethanol khiến năng lượng của sản phẩm cuối cùng gần như vô giá trị. Những lưu ý quan trọng khi sản xuất năng lượng từ cây nông nghiệp và chất thải lâm nghiệp là lượng đất và nước được dùng có thể được sử dụng hiệu quả hơn để sản xuất thực phẩm và chất xơ, và sự gia tăng các loại khí làm trái đất nóng lên từ việc phát triển sinh khối, chế biến và vận chuyển năng lượng. Sự chuyển hóa chất thải đô thị thành năng lượng để sản xuất điện và nhiệt có lẽ là ứng dụng hứa hẹn nhất của sinh khối. Trong năm 2010, người dân trên thế giới tạo ra khoảng 1,7 tỷ tấn chất thải rắn đô thị (MSW). Hơn 1 tỷ tấn được đưa vào các bãi chôn lấp, trong khi chỉ có 0,2 tỉ tấn được chuyển hóa thành năng lượng − cho thấy tiềm năng chưa được khai thác rất lớn từ nguồn năng lượng xanh này. Gần 98% năng lượng được tạo ra từ việc đốt rác thải rắn và nhiên liệu từ rác (RDF), một việc gây hại đến môi trường với sự phát thải các khí độc hại. Gần 2% còn lại được sản xuất sử dụng công nghệ xử lý nhiệt và sinh học lành tính hơn. Một nghiên cứu được tiến hành bởi Pike Research ước tính rằng thị trường toàn cầu cho các công nghệ nhiệt và chất thải sinh học, đạt 3,7 tỉ đô-la năm 2010, sẽ tăng lên 13,6 tỷ đô-la vào năm 2016 khi các chính quyền thành phố và hoạt động thương mại chuyển sang sử dụng các công nghệ mới sạch hơn. Khả năng sử dụng tất cả các nguồn năng lượng xanh này sẽ phụ thuộc vào khả năng thương mại hóa. Để đẩy nhanh quá trình này, các chính phủ đang đặt ra nhiều ưu đãi để khuyến khích sự chuyển đổi sang năng lượng xanh. Hiện nay, hơn 50 quốc gia, tiểu bang, và các tỉnh áp dụng “chính sách khuyến khích giá điện năng lượng tái tạo” theo đó các nhà sản xuất năng lượng tái tạo được bán với giá ưu đãi cao hơn giá trị thị trường đối với nguồn điện sạch họ bán lại cho lưới điện. Chính sách khuyến khích giá điện năng lượng tái tạo đã mở cánh cửa thương mại cho năng lượng gió và mặt trời bằng việc cho các bên ứng dụng sớm được hưởng những ưu đãi hấp dẫn để gia nhập thị trường. Chính sách khuyến khích giá điện năng lượng tái tạo cũng đã tạo ra hàng trăm ngàn việc làm trong vài năm qua. Ví dụ, ở Đức vào năm 2003, lao động ngành năng lượng truyền thống (than, dầu, khí đốt và uranium) chiếm 260.000 người. Vào năm 2007, ngành năng lượng tái tạo có 249.300 lao động. Tuy vậy ấn tượng hơn cả là năng lượng tái tạo được sử dụng cho nhu cầu tiêu thụ chủ yếu vẫn chỉ dưới 10%. Nói cách khác, ít hơn 10% năng lượng được sản xuất từ các nguồn năng lượng tái tạo đã tạo ra số công việc gần bằng các nguồn năng lượng khác cộng lại. Tây Ban Nha là một ví dụ khác của sự chuyển đổi mạnh mẽ sang cơ chế năng lượng tái tạo. Nền kinh tế Tây Ban Nha, với hơn 188.000 việc làm ngành năng lượng tái tạo và 1.027 công ty trong lĩnh vực này, sử dụng nhiều lao động gấp 5 lần ngành năng lượng truyền thống. Mặc dù không có chính sách khuyến khích giá điện năng lượng tái tạo, việc làm trong ngành năng lượng tái tạo của Mỹ đang tăng lên trong khi việc làm trong lĩnh vực năng lượng truyền thống giảm xuống. Chỉ tính trong ngành năng lượng gió, đã có hơn 80.000 việc làm được tạo ra trong thập kỷ qua − ngang bằng với số lao động trong ngành khai thác than của Mỹ. Và gió vẫn chỉ chiếm 1,9% các nguồn năng lượng của Mỹ, trong khi than chiếm hơn 44,5% nguồn năng lượng sản xuất ra. 190 TRIỆU NHÀ MÁY ĐIỆN Tương lai của châu Âu đã được đặt cược vào năng lượng xanh. Câu hỏi đặt ra là làm thế nào để khai thác hiệu quả năng lượng mặt trời, gió, thủy điện, địa nhiệt và sinh khối. Khuynh hướng đầu tiên là tìm đến những nơi luôn dồi dào ánh nắng mặt trời như miền nam châu Âu và Địa Trung Hải, và xây dựng những trạm năng lượng mặt trời khổng lồ để thu thập năng lượng. Tương tự như vậy, cần khai thác gió ở nơi có nhiều nhất, chẳng hạn như ngoài khơi bờ biển Ireland và các hành lang gió khác. Thủy điện thì khai thác từ Na Uy và Thụy Điển. Với các công ty điện, chưa kể đến các ngân hàng và chính phủ, vốn quen với việc khai thác nhiên liệu hóa thạch tập trung ở một số ít địa điểm, lặp lại việc này với năng lượng tái tạo có vẻ là việc rất hợp lý. Và các trạm năng lượng mặt trời tập trung lớn và trang trại điện gió đã bắt đầu xuất hiện rải rác của châu Âu, nơi có nhiều những tài nguyên này. Tuy nhiên, khoảng năm 2006, một số doanh nhân trong lĩnh vực năng lượng, các nhà phân tích chính sách, các tổ chức phi chính phủ và các chính trị gia đã đưa ra một nhận định đơn giản dẫn đến một sự thay đổi sâu sắc trong các cuộc thảo luận về một mô hình kinh tế bền vững. Mặt trời tỏa sáng ở khắp nơi trên trái đất mỗi ngày, mặc dù cường độ không đều nhau. Gió cũng vậy. Ở nơi nào chúng ta đi cũng có một lõi địa nhiệt nóng dưới lòng đất. Tất cả chúng ta đều tạo ra rác thải. Ở các khu vực làm nông nghiệp có chất thải cây trồng và lâm nghiệp. Dọc bờ biển, nơi có một bộ phận lớn dân cư sinh sống, những con sóng và thủy triều xuất hiện hàng ngày. Người dân sống trong các thung lũng dựa vào những dòng nước ổn định chảy từ các sông băng trên núi để làm thủy điện. Nói cách khác, không giống như nhiên liệu hóa thạch và uranium là những nguồn năng lượng hiếm có và chỉ có ở một số vùng trên thế giới, năng lượng tái tạo có ở khắp mọi nơi. Phát hiện này đã thay đổi hoàn toàn suy nghĩ các đồng nghiệp của tôi. Nếu năng lượng tái tạo được phân tán và tìm thấy với tỷ lệ cùng tần số khác nhau ở khắp mọi nơi trên thế giới, tại sao chúng ta chỉ khai thác nó ở một vài điểm trung tâm? Chúng ta nhận ra mình đã áp dụng cách suy nghĩ lỗi thời của thế kỷ XX về năng lượng dựa trên những kinh nghiệm trước đây với nhiên liệu hóa thạch. Trong khi không ai trong chúng ta phản đối các trang trại điện gió và trạm năng lượng mặt trời khổng lồ − tôi còn nghĩ rằng chúng là cần thiết cho quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế Cách mạng công nghiệp lần III hậu carbon − chúng tôi bắt đầu tin rằng chỉ có thế là không đủ. Nếu năng lượng tái tạo được tìm thấy ở khắp mọi nơi, làm thế nào để khai thác nó? Vào đầu năm 2007, các ủy ban Năng lượng và Biến đổi khí hậu của Nghị viện châu Âu đang chuẩn bị báo cáo về các kế hoạch tiếp theo trong an ninh năng lượng và sự nóng lên toàn cầu. Tôi đã nhận được điện thoại từ Claude Turmes, người phụ trách về năng lượng tái tạo của Nghị viện châu Âu. Ông đề nghị tôi kêu gọi sự tham gia của ngành xây dựng trong những kế hoạch của mình. Claude biết rằng tôi có liên hệ với một số công ty xây dựng hàng đầu của Mỹ và châu Âu trong lĩnh vực thiết kế bền vững và tôi đã có những chia sẻ về sự cần thiết phải chuyển đổi các công trình xây dựng thành các nhà máy điện mini. Ông nhắc tôi rằng ngành xây dựng là một vấn đề thường bị bỏ qua khi nói đến hoạt động kinh tế hàng ngày và là một trong những ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động nhất ở Liên minh châu Âu, chiếm 10% GDP. Claude cho rằng ngành xây dựng có thể trở thành một đồng minh quan trọng và là đối trọng của các công ty năng lượng lớn, những bên không ngừng cản trở pháp luật về môi trường và chính sách phát triển bền vững tại Ủy ban châu Âu và các nước thành viên. Nếu “Nền kinh tế là như vậy, đồ ngu”, thì chính ngành xây dựng đã tạo ra các hoạt động kinh doanh và những việc làm mới. Ước tính có khoảng 190 triệu tòa nhà trong 27 quốc gia thành viên của Liên minh châu Âu. Mỗi tòa nhà có tiềm năng trở thành một nhà máy điện mini có thể hấp thụ các nguồn năng lượng tái tạo tại chỗ − mặt trời trên mái nhà, gió thổi vào các bức tường bao, nước thải chảy ra khỏi công trình, sức nóng địa nhiệt bên dưới các tòa nhà, và các nguồn khác. Nếu cuộc Cách mạng công nghiệp đầu tiên đã mang đến hàng loạt công trình đô thị, chung cư, tòa nhà chọc trời, các nhà máy nhiều tầng, còn Cuộc cách mạng công nghiệp lần II tạo nên các khu ngoại ô bằng phẳng và khu công nghiệp, cuộc Cách mạng công nghiệp lần III đang biến mỗi tòa nhà hiện tại thành công trình 2 mục đích – làm môi trường sống và nhà máy điện mini. Chúng ta đã tìm thấy trụ cột thứ hai. Ngành xây dựng và lĩnh vực bất động sản hiện đang hợp tác với các công ty năng lượng tái tạo để chuyển hóa các tòa nhà thành các nhà máy điện mini để khai thác năng lượng xanh cung cấp cho các tòa nhà. Nhà máy Casa Grande Arizona của Frito-Lay cũng nằm trong thế hệ các nhà máy điện mini mới ra đời này. Khái niệm này được gọi là “năng lượng trung hòa”. Nhà máy sẽ sản xuất ra năng lượng cần tiêu thụ bằng cách lắp đặt bộ tập trung năng lượng mặt trời tại chỗ và làm món khoai tây chiên ngay bên trong. Tại Aragon (Tây Ban Nha), cơ sở sản xuất của GM đã lắp đặt một trạm năng lượng mặt trời công suất 10-megawatt trên nóc nhà có thể sản xuất đủ điện cho 4.600 hộ gia đình. Số tiền đầu tư 78 triệu đô-la sẽ được hoàn vốn trong vòng chưa đầy 10 năm, sau đó việc sản xuất điện gần như miễn phí. Ở Pháp, người khổng lồ trong ngành xây dựng Bouygues đang tiến một bước xa hơn với việc xây dựng một tổ hợp văn phòng tối tân “năng lượng dương” ở ngoại ô Paris có thể khai thác năng lượng mặt trời đủ để cung cấp cho các nhu cầu của mình và còn tạo ra thặng dư. Thậm chí các chủ sở hữu nhà cũng có thể biến ngôi nhà của họ thành các nhà máy điện mini. Với chi phí ban đầu khoảng 60.000 đô-la, người dân có thể lắp đặt các tấm pin mặt trời trên mái nhà của mình và tạo ra đủ điện để cung cấp năng lượng cho phần lớn hoặc tất cả gia đình. Bất kỳ phần dư thừa nào có thể được bán trở lại lưới điện, và việc hoàn vốn có thể thực hiện sau 4 đến 10 năm. 20 năm sau, hàng triệu công trình – nhà ở, văn phòng, trung tâm mua sắm, các khu công nghiệp và công nghệ − sẽ được chuyển đổi thành hoặc xây dựng với hai mục đích làm nhà máy điện và môi trường sống. Sự chuyển đổi trên diện rộng các công trình thương mại và dân dụng ở các quốc gia thành các nhà máy điện mini trong 3 thập kỷ tới sẽ tạo nên một cơn sốt về xây dựng với hàng ngàn doanh nghiệp mới và hàng triệu việc làm − với một hiệu ứng cấp số nhân kinh tế có ảnh hưởng tới mọi ngành công nghiệp khác. Điều này có ý nghĩa gì ở các cấp địa phương? Chỉ tính ở Anh, chính phủ của thủ tướng Cameron ước tính rằng chỉ cần cách nhiệt 26 triệu ngôi nhà của nước này để nâng cao hiệu quả sử dụng năng lượng và chuẩn bị cho việc tăng cường sử dụng năng lượng sạch có thể tạo ra 250.000 việc làm mới. Việc chuyển đổi các tòa nhà thành các nhà máy điện mini sẽ còn tạo nên nhiều cơ hội kinh doanh đa dạng hơn và hàng chục triệu việc làm. Hãy xem những triển vọng thương mại trong lĩnh vực xây dựng và bất động sản còn chờ ta phía trước. Trong năm 2008, nhóm chính sách toàn cầu của tôi cùng đối thoại với Raffaele Lombardo − chủ tịch vùng Sicily về giải pháp để biến hòn đảo này thành một nền kinh tế TIR. 5 triệu dân tại Sicily là tương đối nghèo theo tiêu chuẩn Tây Âu nhưng lại được hưởng một lượng bức xạ mặt trời dồi dào. Một nghiên cứu của khu vực phát hiện rằng chỉ cần 6% bề mặt các tòa nhà được lắp đặt tấm năng lượng mặt trời trong hai thập kỷ tới, hòn đảo này có thể sản xuất ra 1.000 megawatt điện, đủ để cung cấp cho 1/3 cư dân tại đây. Nghiên cứu này cũng tìm được hơn 36.000 công ty xây dựng vừa và nhỏ, công ty kiến trúc và kỹ thuật tại địa phương có thể thực hiện việc lắp đặt. Việc chuyển đổi một phần sang nền kinh tế TIR sẽ tạo ra một thị trường có giá trị 4 đến 5 tỷ euro và tạo thêm 35 tỷ euro doanh thu cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng như các gia đình tại Sicily trong vòng 20 năm. Chính sách khuyến khích giá điện năng lượng tái tạo của Ý đã mang lại động lực thương mại quan trọng để thúc đẩy cả quá trình. Phần ưu đãi được trả bởi người dân dưới hình thức tăng 5% trong giá điện. Cho đến nay, phần lớn việc lắp đặt sản xuất điện từ năng lượng mặt trời là tại các nhà máy quang điện lớn, còn tại các dự án sản xuất điện phân tán là rất ít. Tuy vậy tỷ lệ này có thể được đảo ngược nếu chính phủ bảo lãnh cho các khoản vay của các doanh nghiệp vừa và nhỏvà những người sở hữu nhà để lắp đặt thiết bị năng lượng mặt trời. Các khoản thế chấp dựa trên năng lượng sạch cũng có thể giúp đẩy nhanh quá trình chuyển hóa các công trình. Ngân hàng và các công ty cho vay khác có thể cho các doanh nghiệp và chủ sở hữu nhà vay vốn với lãi suất thấp để lắp đặt những tấm pin mặt trời. Giả sử khoản tiết kiệm năng lượng từ việc lắp đặt mất trung bình 8 đến 9 năm để hoàn vốn, các doanh nghiệp và chủ nhà vay thế chấp trong 20 năm sẽ tự tạo ra nguồn điện riêng của họ không phụ thuộc vào điện lưới trong 11-12 năm cuối của khoản vay. Các khoản tiết kiệm hàng tháng trên hóa đơn tiền điện có thể được sử dụng để trả lãi vay hàng tháng và là cơ sở để giảm lãi suất. Việc nâng cấp tòa nhà thành một nhà máy điện cũng làm cho giá trị định giá của bất động sản tăng lên. Một số ngân hàng đã bắt đầu cung cấp các khoản vay thế chấp xanh đặc biệt. Trong những năm tới, thế chấp dựa trên năng lượng sạch nhiều khả năng sẽ làm tái cấu trúc lĩnh vực cho vay thế chấp và tạo nên một sự bùng nổ trong ngành xây dựng ở các nước trên thế giới. Bây giờ, chúng ta hãy nhìn rộng hơn để xem xét các tác động vĩ mô đến thị trường việc làm của việc tăng hiệu quả sử dụng năng lượng của các tòa nhà và lắp đặt thiết bị năng lượng tái tạo. Các nhà nghiên cứu tại Tập đoàn Năng lượng và Tài nguyên và Trường Kinh doanh Haas thuộc Đại học California tại Berkeley đã phát triển một mô hình phân tích cơ chế tạo ra việc làm cho ngành điện từ năm 2009 đến năm 2030, dựa trên dữ liệu tổng hợp từ 15 nghiên cứu riêng biệt về tăng cường hiệu quả sử dụng năng lượng và lắp đặt, cung cấp năng lượng tái tạo trong các tòa nhà của Mỹ. Mô hình này xem xét một loạt các biến số bao gồm cả số việc làm bị mất trong các lĩnh vực khác của ngành điện do thay đổi về cách thức sử dụng năng lượng hiệu quả và năng lượng tái tạo, tăng việc làm gián tiếp do chi tiêu của người lao động tăng lên, và các hiệu ứng cấp số nhân của các hoạt động kinh tế ban đầu đối với các doanh nghiệp thương mại khác. Nghiên cứu này dự báo rằng “Việc cắt giảm một nửa tốc độ tăng trưởng sản xuất điện hàng năm và hướng đến tỷ lệ RPS 30% (Tỷ lệ chuẩn về danh mục năng lượng tái tạo) sẽ tạo ra khoảng 4 triệu việc làm tích lũy theo năm cho đến 2030.” Nếu tiêu chuẩn RPS được tăng lên đến 40% − một số khu vực trên thế giới đã đạt mức 60%, và nhiều nơi còn hướng đến mục tiêu cao hơn vào năm 2030, số lượng việc làm mới ở Mỹ sẽ vượt quá 5,5 triệu. Như sẽ thảo luận ở phần sau, những con số về việc làm chỉ xem xét trụ cột thứ nhất và thứ hai – năng lượng tái tạo và chuyển đổi các công trình thành các nhà máy điện mini − như những sáng kiến độc lập không liên quan đến việc lưu trữ năng lượng, việc thành lập một mạng lưới điện thông minh để phân phối năng lượng, và sự chuyển đổi các phương tiện vận tải thành các thiết bị chạy bằng điện và pin nhiên liệu hydro. Làm một phép so sánh thì những dự báo về mô hình việc làm này giống như việc bảo vệ thị trường việc làm 20 năm sau cuộc cách mạng công nghệ thông tin nhưng trước khi Internet ra đời. Khi tất cả 5 trụ cột của TIR được kết nối với nhau, chúng tạo ra một hệ thần kinh mới cho nền kinh tế, thúc đẩy một bước nhảy vọt về hiệu suất năng lượng và các cơ hội kinh doanh và việc làm mới. Sau một thế kỷ các công ty năng lượng lớn thống lĩnh nền kinh tế, chưa nói đến việc gây ảnh hưởng đến các chính sách của chính phủ và địa chính trị của quan hệ quốc tế, một kế hoạch mới đã được đề xuất sẽ dân chủ hóa việc sản xuất và phân phối năng lượng bằng cách tạo ra hàng triệu nhà doanh nghiệp năng lượng quy mô nhỏ. Như một nhà quan sát nhận xét, đây chính là việc “trao quyền cho người dân”. MẶT TRỜI KHÔNG PHẢI LUÔN TỎA SÁNG, GIÓ KHÔNG PHẢI SẼ THỔI BẤT TẬN Mặc dù các nguồn năng lượng tái tạo là dồi dào, sạch và cho phép chúng ta hiện thực hóa ý tưởng về một thế giới bền vững, chúng cũng có những vấn đề riêng. Mặt trời không phải luôn tỏa sáng và gió cũng không phải luôn thổi, hoặc có khi lại thổi vào lúc không cần thiết. Năng lượng tái tạo hầu hết là không liên tục, trong khi các nguồn năng lượng cứng, mặc dù hữu hạn và gây ô nhiễm lại là một nguồn cố định. Tháng 5/2002, tôi có cuộc trao đổi ngắn với ông Romano Prodi, lúc đó là chủ tịch của Ủy ban châu Âu, tại Đại sứ quán của EU tại Washington. Tôi chia sẻ với Romano mối quan tâm sâu sắc về việc đạt được tỷ trọng năng lượng tái tạo 20% vào năm 2020, tức là gần 1/3 sản lượng điện của châu Âu sẽ phụ thuộc vào gió, mặt trời và các nguồn năng lượng không liên tục khác. Tôi nói, “Romano, tôi sẽ vẽ ra một viễn cảnh như thế này. Đó là năm 2020, và EU đã đạt được mục tiêu 20% năng lượng tái tạo. Đó là một mùa hè rất nóng. Vào giữa tháng 7, lớp mây đã che phủ ánh sáng mặt trời trong vài tuần ở hầu hết các nước châu Âu. Một điều cũng không may là gió ngừng thổi ở phần lớn châu lục. Và nếu điều đó còn chưa đủ, mực nước giảm tại các công trình thủy điện vì hạn hán gây ra bởi thay đổi khí hậu, và khắp châu Âu bị mất điện. Chúng ta sẽ phải làm gì đây? “ Romano, một giáo sư kiêm nhà kinh tế học có uy tín, 2 lần đảm nhận vị trí Thủ tướng Ý và là một trong các chính trị gia cao cấp được ngưỡng mộ nhất của châu Âu, là người rất nhã nhặn và trầm tính. Ông chống cằm như để ngẫm nghĩ về những gì vừa nghe, rồi lại hỏi ngược lại tôi. “Anh có ý tưởng nào không?”, Ông hỏi. “Có,” tôi nói. “Chúng ta cần phải nhanh chóng đầu tư nghiên cứu để tìm ra những công nghệ có thể lưu trữ năng lượng tái tạo. Nếu như thất bại trong việc này, chúng ta sẽ không thể sử dụng năng lượng tái tạo trên một quy mô có thể đưa chúng ta bước vào thời kỳ hậu carbon. Nếu không thể lưu trữ chúng ta sẽ chìm xuồng.” (8 năm sau, Bill Gates đã lên tiếng ủng hộ rằng công nghệ lưu trữ đáng tin cậy và hiệu quả về chi phí là chìa khóa cho một tương lai bền vững.) Các công ty điện lực đã phàn nàn rằng khi 15% đến 20% hoặc nhiều hơn lượng điện từ lưới điện đến từ năng lượng tái tạo, lưới điện sẽ phải phụ thuộc vào thời tiết, và chúng ta sẽ phải đối mặt với viễn cảnh sụt áp và mất điện thường xuyên trên khắp châu lục. Có một số công nghệ lưu trữ đầy hứa hẹn, bao gồm cả pin dòng chảy, bánh đà, tụ điện, và nước được bơm. Tôi đã nghiên cứu nhiều khả năng và mới đây đi đến kết luận rằng trong khi chúng ta nên phát huy mọi phương thức lưu trữ này, hydro có thể là lựa chọn tốt nhất về dài hạn vì tính linh hoạt của nó. Hydro từ lâu đã được các nhà khoa học và kỹ sư coi như chén thánh cho thời kỳ hậu carbon. Đây là nguyên tố nhẹ nhất và dồi dào nhất trong vũ trụ − thành phần của các ngôi sao và không chứa nguyên tử carbon nào. Hydro được tìm thấy ở khắp nơi trên trái đất, nhưng nó hiếm khi trôi nổi tự do trong tự nhiên mà thường được gắn với các nguồn năng lượng khác. Nó có thể được trích xuất từ than, dầu và khí tự nhiên. Trong thực tế, hầu hết khí hydro sử dụng trong các hoạt động công nghiệp và thương mại có nguồn gốc từ khí thiên nhiên. Hydro cũng có thể được trích xuất từ nước. Mọi học sinh đều từng xem thí nghiệm điện phân trong chương trình hóa học phổ thông. Hai điện cực, một dương tính và âm tính, được nhúng trong nước tinh khiết đã được tăng tính dẫn điện bằng cách bổ sung chất điện phân. Khi dòng điện trực tiếp được dẫn vào, hydro tập trung tại các điện cực tích điện âm (cathode) và oxy ở các điện cực tích điện dương (anode). Thách thức chủ yếu là tính khả thi về mặt kinh tế của việc sử dụng các hình thức năng lượng tái tạo không có carbon như quang điện, gió, thủy điện, và địa nhiệt để sản xuất điện sau đó được sử dụng trong quá trình điện phân để tách nước thành hydro và oxy. Tôi nhắc Romano rằng trong gần 50 năm các phi hành gia đã bay xung quanh trái đất trong những tàu du hành vũ trụ chạy bằng các pin nhiên liệu hydro và nói đã đến lúc đưa công nghệ này xuống Trái đất để làm phương tiện lưu trữ năng lượng tái tạo. Đây là cách nó hoạt động. Khi mặt trời chiếu vào các tấm quang điện đặt trên mái nhà, điện được tạo ra, hầu hết được sử dụng ngay lập tức để cấp năng lượng cho tòa nhà. Tuy nhiên, nếu có một lượng điện thừa chưa cần dùng ngay, nó có thể được sử dụng trong quá trình điện phân để cô lập hydro trong một hệ thống lưu trữ. Khi không có mặt trời, hydro có thể được chuyển hóa trở lại thành điện năng bằng pin nhiên liệu để cung cấp năng lượng. Romano rất quan tâm đến điều này. Ông đã biết kha nhiều về hydro. Anh trai của ông, Vittori, là một nhà vật lý hạt nhân đẳng cấp thế giới, thành viên của Nghị viện châu Âu và là một chuyên gia về lĩnh vực này. Vittorio và tôi trở nên thân thiết, và ông đã nhận nhiệm vụ quan trọng đào tạo cho các nhà lập pháp và cộng đồng doanh nghiệp về cơ chế hoạt động và lợi ích của hydro như một phương tiện lưu trữ năng lượng tái tạo. Vài tuần sau cuộc gặp, tôi gửi cho Romano một văn bản ghi nhớ chiến lược về các khả năng sử dụng hydro như một phương tiện lưu trữ năng lượng tái tạo. Chủ tịch Prodi đã không lãng phí chút thời gian nào. Tháng 6/2003, tại một cuộc hội thảo ở Brussels, ông đã công bố một dự án nghiên cứu hydro trị giá 2 tỷ Euro của Ủy ban châu Âu để chuẩn bị cho một nền kinh tế hydro. Trong phát biểu khai mạc của mình, ông đã giải thích ý nghĩa lịch sử của việc sử dụng hydro như một phương tiện lưu trữ đối với cơ sở hạ tầng của cuộc Cách mạng công nghiệp lần III: “Nhưng chúng ta phải rõ ràng về lý do khiến chương trình hydro của châu Âu thực sự quan trọng trong tương lai. Mục tiêu đã đề ra của chúng ta là đạt được một sự thay đổi từng bước hướng tới một nền kinh tế hydro toàn diện dựa trên các nguồn năng lượng tái tạo vào giữa thế kỷ này.” Trụ cột thứ ba đã được hoàn tất. Năm 2006, tôi đã chuẩn bị một bản ghi nhớ thứ hai về vấn đề này cho Thủ tướng Merkel, đề xuất rằng nước Đức khởi động dự án nghiên cứu và phát triển hydro riêng của mình. Bà Merkel đã thực hiện đề xuất này với cam kết tài trợ nguồn vốn lớn để thúc đẩy các công nghệ lưu trữ mới. Năm 2007, Ủy ban châu Âu do chủ tịch Barroso lãnh đạo, đã công bố một chương trình hợp tác công-tư trị giá 7,4 tỷ đô-la − một sáng kiến hợp tác công nghệ (JTI) để chuyển từ nghiên cứu và phát triển hydro sang triển khai trên khắp châu Âu. Ba trụ cột đầu tiên – sự thiết lập cơ chế năng lượng tái tạo cung cấp cho các tòa nhà và được lưu trữ một phần dưới dạng hydro đặt ra nhu cầu cho trụ cột thứ tư: một cách thức phân phối nguồn năng lượng được tạo ra và lưu trữ bởi hàng triệu tòa nhà cho toàn châu Âu. MẠNG INTERNET NĂNG LƯỢNG Ý tưởng xây dựng một lưới điện thông minh đã được chấp nhận vào giữa thập kỷ nhưng vẫn chưa được đưa vào dự án chính thức nào của EU hay các quốc gia thành viên. IBM, Cisco Systems, Siemens và GE đều chuẩn bị để nhảy vào lĩnh vực này với hy vọng biến lưới điện thông minh thành một siêu xa lộ mới cho việc vận chuyển điện. Lưới điện sẽ được chuyển đổi thành một mạng lưới thông tin năng lượng, cho phép hàng triệu người tự sản xuất năng lượng có thể chia sẻ phần thặng dư. Mạng năng lượng thông minh này sẽ gắn với hầu như mọi khía cạnh của cuộc sống. Các ngôi nhà, văn phòng, nhà máy, và xe cộ sẽ liên lạc với nhau liên tục, chia sẻ thông tin và năng lượng 24/7. Những mạng lưới điện thông minh sẽ được kết nối với những thay đổi thời tiết và có thể liên tục điều chỉnh dòng điện và nhiệt độ bên trong tùy theo điều kiện thời tiết và nhu cầu tiêu dùng. Mạng lưới này cũng sẽ có thể điều chỉnh lượng điện được sử dụng bởi các thiết bị, và nếu lưới điện rơi vào trạng thái cao điểm và có thể dẫn đến quá tải, phần mềm có thể điều khiển, ví dụ, máy giặt của một nhà bỏ qua một chu kỳ xả nước mỗi lần chạy để tiết kiệm điện. Bởi giá điện thực sự trên lưới điện biến đổi trong mọi khoảng thời gian 24 giờ, những thông tin thời gian thực hiển thị trên đồng hồ kỹ thuật số trong mỗi tòa nhà sẽ cho phép định giá linh hoạt, giúp người tiêu dùng tự động tăng hoặc giảm năng lượng điện sử dụng tùy vào giá cả. Những người tiêu dùng đồng ý với những thay đổi nhỏ trong cách sự dụng điện sẽ nhận những khoản tiền trên hóa đơn của họ. Việc định giá linh hoạt cũng sẽ cho phép các nhà sản xuất năng lượng địa phương biết thời gian phù hợp nhất để bán lại điện cho lưới điện, hoặc tách hoàn toàn khỏi lưới điện. Chính phủ Mỹ gần đây đã phân bổ kinh phí để phát triển lưới điện thông minh trên toàn quốc. Các nguồn kinh phí này sẽ được dùng để lắp đặt đồng hồ điện kỹ thuật số, cảm biến mạng truyền điện và các công nghệ lưu trữ năng lượng cho phép phân phối điện công nghệ cao, điều này sẽ làm thay đổi mạng lưới điện hiện có thành một mạng Internet năng lượng. Các công ty CPS Energy ở San Antonio, Texas; Xcel Utility ở Boulder, Colorado, PG & E ở Sempra, và Southern ConEdison ở California sẽ tham gia xây dựng các phần của mạng lưới điện thông minh trong vài năm tới. Lưới điện thông minh là xương sống của nền kinh tế mới. Theo bà Marie Hattar, phó chủ tịch phụ trách tiếp thị của tập đoàn giải pháp hệ thống mạng Cisco, mạng điện thông minh cũng giống như Internet về khả năng tạo ra hàng ngàn doanh nghiệp mới và hàng triệu việc làm mới, điểm khác là mạng lưới này sẽ lớn hơn Internet 100 đến 1.000 lần. Hattar chỉ ra rằng trong khi “một số nhà có kết nối Internet còn một số thì không. Tất cả mọi người đều được tiếp cận với điện và những ngôi nhà của họ sẽ có thể kết nối được với nhau.” Trong 20 năm qua, các nguyên thủ quốc gia và các nhà lãnh đạo kinh doanh toàn cầu đã nhiều lần hỏi tôi: “Ông nghĩ làm thế nào để có thể quản lý nhu cầu năng lượng của một nền kinh tế toàn cầu phức tạp với nguồn năng lượng tái tạo ‘mềm’?” Những người giám sát cũ trong chính phủ và ngành điện không nhận thức được tiềm năng của việc phân phối điện đối với sự thay đổi bản chất của năng lượng cũng giống như sự choáng váng của những công ty âm nhạc khi lần đầu tiên phải đối mặt với trào lưu chia sẻ dữ liệu. Việc phát minh ra mạng lưới CNTT thế hệ thứ hai đã làm thay đổi trật tự kinh tế, làm nghiêng cán cân quyền lực từ nguồn năng lượng uranium và nhiên liệu hóa thạch cũ và tập trung đến nguồn năng lượng tái tạo mới phân tán. Hiện nay, chúng ta đã có phần mềm tiên tiến cho phép các công ty và các ngành công nghiệp kết nối hàng trăm ngàn, thậm chí hàng triệu máy tính để bàn nhỏ. Khi kết nối, sức mạnh ngang hàng tạo ra vượt lên rất nhiều sức mạnh tính toán của các siêu máy tính tập trung lớn nhất thế giới. Tương tự như vậy, công nghệ lưới điện hiện đang được sử dụng để chuyển đổi mạng lưới điện ở một số khu vực trên thế giới. Khi hàng triệu tòa nhà sản xuất năng lượng tái tạo tại chỗ, lưu trữ năng lượng dư thừa dưới dạng hydro, và chia sẻ điện với hàng triệu tòa nhà khác qua một mạng lưới thông minh, sức mạnh ngang hàng tạo ra sẽ vượt xa khả năng của các nhà máy điện hạt nhân, than và khí đốt tập trung. Một nghiên cứu của KEMA, một công ty tư vấn năng lượng hàng đầu cho Liên minh GridWise − liên minh về lưới điện thông minh của các công ty CNTT, công ty điện, viện nghiên cứu và các nhà đầu tư mạo hiểm − phát hiện ra rằng chỉ cần một khoản ưu đãi khiêm tốn của chính phủ trị giá 16 tỷ đô-la để hiện đại hóa mạng điện của nước Mỹ sẽ giúp thúc đẩy các dự án trị giá 64 tỷ đô-la và tạo ra 280.000 việc làm trực tiếp. Vì lưới điện thông minh là vô cùng quan trọng đối với sự phát triển của 4 trụ cột còn lại, nó sẽ tạo ra hàng trăm ngàn việc làm bổ sung trong lĩnh vực năng lượng tái tạo, xây dựng và bất động sản, ngành lưu trữ hydro và truyền tải điện, tất cả đều có nền tảng là lưới điện thông minh. Tuy nhiên, những ước tính về việc làm này là nhỏ so với số lượng việc làm từ 1.000 tỷ Euro mà Ủy ban châu Âu hiện nay cho là cần thiết đối với đầu tư công và tư nhân trong 10 năm tới để đưa vào vận hành mạng lưới điện phân phối thông minh tại nền kinh tế lớn nhất thế giới. Ý tưởng về một lưới điện phân phối thông minh ngày nay không phải là điều hầu hết các công ty CNTT lớn nghĩ đến khi họ bắt đầu bàn về các mạng lưới điện thông minh. Tầm nhìn ban đầu của họ là về một lưới điện thông minh tập trung. Các công ty đã dự đoán việc số hóa mạng lưới điện hiện có, với việc lắp đặt các thiết bị đo và cảm ứng thông minh cho phép các công ty điện thu thập thông tin từ xa, bao gồm cả việc cập nhật theo từng phút thông tin về dòng điện, với mục đích nâng cao hiệu quả của việc truyền tải điện trên lưới điện, giảm chi phí bảo trì, và có dữ liệu chính xác hơn về việc sử dụng của khách hàng. Kế hoạch của họ có đổi mới nhưng không mang tính cách mạng. Theo như tôi biết, có rất ít bàn luận về việc sử dụng công nghệ Internet để biến lưới điện thành một mạng lưới thông tin năng lượng tương tác có thể cho phép hàng triệu người tạo ra năng lượng tái tạo của riêng mình và chia sẻ với nhau. Năm 2005, các lãnh đạo của IBM ở Đức bắt đầu trao đổi về khả năng đưa vào sử dụng lưới điện thông minh. Tôi đã nói về khả năng chuyển đổi lưới điện thành một liên mạng lưới để chia sẻ năng lượng trong các lớp đào tạo cao cấp tại trường Wharton và trong các bài phát biểu với các công ty điện như Scotland Power, Cinergy và National Grid. Ý tưởng về một mạng lưới điện thông minh là chủ đề chính của cuốn sách của tôi vào năm 2002 có tên The Hydrogen Economy (tạm dịch: Nền kinh tế hydro). Tôi không phải là người duy nhất nói về điều này. Amory Lovinsm đã cổ xúy cho triển vọng này trong nhiều năm cũng như một số chuyên gia về ngành điện khác. Ngay từ năm 2001, Viện nghiên cứu Điện lực Mỹ (EPRI) đã nêu ra trong một báo cáo mang tên “Triển vọng cho tương lai” rằng, việc sản xuất điện phân tán sẽ phát triển theo cách tương tự như ngành công nghiệp máy tính. Các máy tính lớn đã nhường chỗ cho máy tính để bàn và máy tính xách tay cỡ nhỏ ở khắp mọi nơi được kết nối với nhau thành các mạng lưới tích hợp đầy đủ và cực kỳ linh hoạt. Trong lĩnh vực của chúng ta, các nhà máy trung tâm chắc chắn sẽ tiếp tục đóng một vai trò quan trọng. Nhưng chúng ta đang ngày càng cần các thiết bị phát điện nhỏ hơn, sạch hơn và phân phối rộng rãi hơn... được hỗ trợ bởi công nghệ lưu trữ năng lượng. Yêu cầu cơ bản cho một hệ thống như vậy là khả năng quản lý điện cao cấp điều này sẽ là tối cần thiết để xử lý lượng thông tin và điện năng khổng lồ đến tạo ra từ một sự kết nối phức tập như vậy. Những người của IBM ở Đức kết nối tôi với Guido Bartels, một người Hà Lan có công lớn trong việc đưa khái niệm về mạng điện thông minh của IBM ra khắp thế giới. Guido cũng là chủ tịch của GridWise, liên minh các công ty điện và CNTT hiện đang làm việc với Bộ Năng lượng của Mỹ để thúc đẩy lưới điện thông minh. Guido và tôi đã bắt đầu một loạt các cuộc thảo luận về tương lai của IBM. Một điều khá rõ ràng, lực đẩy chính của công ty này là cải cách lưới điện sử dụng phong cách quản lý tập trung truyền thống. Ý tưởng làm các mạng lưới cỡ nhỏ kết nối bán điện trở lại lưới điện, tuy được thừa nhận là một chức năng có thể có của mạng điện thông minh của IBM, vẫn chưa gặp thời cơ để trở thành trọng tâm của một tầm nhìn kinh tế mới, mặc dù IBM rõ ràng rất quan tâm đến việc đẩy nhanh một cuộc Cách mạng công nghiệp lần III. Bartels và Allan Schurr, nhận ra được tiềm năng của một lưới điện thông minh được phân phối thực sự và đã làm việc để nâng cao cơ sở hạ tầng TIR với các khách hàng trên toàn thế giới. Pier Nabuurs, một người Hà Lan khác và là Giám đốc điều hành của KEMA, cũng đã bắt đầu nói về những giá trị của một mạng lưới thông tin-năng lượng hai chiều. Nabuurs là người đồng nhiệm với Bartels ở Liên minh châu Âu, lãnh đạo chương trình công nghệ châu Âu SmartGrids. Giống như GridWise tại Mỹ, SmartGrids là nhóm các công ty điện và CNTT làm việc với Liên minh châu Âu để thúc đẩy việc triển khai lưới điện thông minh trên toàn châu Âu. Nabuurs vận động cho một mạng Internet năng lượng sẽ tổng hợp và dẫn điện tạo ra từ hàng ngàn lưới điện cỡ nhỏ. Nabuurs cảm thấy một sự thay đổi đang diễn ra ở các công ty điện châu Âu – điều chưa từng có ở các đối tác của họ. Các cuộc tranh luận căng thẳng đã diễn ra bên trong các văn phòng công ty. Các công ty này đã dựa vào các công ty năng lượng khổng lồ để sản xuất điện từ nhiên liệu hóa thạch từ hơn một thế kỷ trước. Một thế hệ lãnh đạo trẻ phát hiện nhu cầu gia tăng từ các tỉnh thành, khu vực, các doanh nghiệp nhỏ và vừa, hợp tác xã và những người sở hữu nhà với việc tự sản xuất điện tái tạo của mình trên các lưới mini và thấy đây là cơ hội để thể hiện vai trò mới của công ty mình. Họ tiên đoán việc các công ty điện bổ sung một chức năng mới và mô hình kinh doanh mới bổ sung cho vai trò truyền thống của họ là nhà cung cấp năng lượng kiêm quản lý truyền tải và phân phối. Tại sao không sử dụng các mạng điện thông minh để quản lý tốt hơn các dòng điện hiện tại đến từ nhiên liệu hóa thạch và uranium tập trung, đồng thời tận dụng khả năng phân phối của lưới điện thông minh mới để khai thác và truyền tải điện từ hàng ngàn lưới điện mini tại chỗ? Nói cách khác là chuyển từ quản lý điện một chiều sang hai chiều. Theo kịch bản này, các công ty sẽ giảm bớt sự kiểm soát từ trên xuống truyền thống của họ đối với cả hai nguồn cung cấp và truyền tải điện để phần nào tích hợp với một mạng lưới điện có sự tham gia của hàng ngàn nhà sản xuất điện cỡ nhỏ. Trong kế hoạch mới, chức năng tiện ích của các công ty điện trở nên quan trọng hơn nhiều. Công ty sẽ trở thành nhà quản lý của một mạng lưới thông tin-năng lượng. Họ dần chuyển từ việc bán năng lượng của chính mình để trở thành một nhà cung cấp dịch vụ, sử dụng chuyên môn của mình để quản lý năng lượng của người khác. Với lý luận mới này, lĩnh vực tiện ích trong tương lai sẽ đồng quản lý việc các công ty sử dụng năng lượng trên toàn bộ chuỗi giá trị của họ, giống như cách các công ty CNTT như IBM giúp các doanh nghiệp quản lý thông tin của mình. Các cơ hội kinh doanh tiềm năng mới cuối cùng sẽ vượt quá hoạt động kinh doanh truyền thống của họ là chỉ bán điện. Những người đi đầu trẻ tuổi đã được mở rộng tầm nhìn từ một nguồn khá bất ngờ. Neelie Kroes, Ủy viên EU chịu trách nhiệm về chính sách cạnh tranh đã giáng một đòn chí mạng vào ngành điện vào đầu năm 2006. Việc bãi bỏ quản lý thị trường điện đã cho phép một số ít người khổng lồ trong lĩnh vực điện của các quốc gia mở rộng đường dây xuyên biên giới và mua lại những công ty nhỏ hơn. Ủy ban châu Âu ngày càng trở nên lo ngại về khả năng của một vài công ty điện lớn có thể kiểm soát sự tiếp cận thị trường bằng việc độc quyền cả cung cấp và phân phối điện. Kroes đã tuyên chiến với các công ty điện. Từ đó, các công ty sẽ được yêu cầu tách các mạng lưới khỏi hoạt động cung cấp, nói đơn giản hơn là họ sẽ không được phép đồng thời cung cấp điện và sở hữu đường dây truyền tải để phân phối nguồn điện đó. Kroes đã làm rõ ý định của Ủy ban châu Âu và cho rằng: Một trong những vấn đề thực sự là một cơ cấu thị trường với các hoạt động cung cấp và cơ sở hạ tầng gắn liền với nhau. Đây là vấn đề của tất cả ngành công nghiệp mạng lưới nơi cơ sở hạ tầng rất tốn kém để nhân rộng. Chủ sở hữu và điều hành của các mạng chủ chốt thường cạnh tranh với các công ty cần được tiếp cận với những mạng lưới đó. Chúng ta có thể mong đợi các công ty tích hợp như vậy sẽ đối xử với các đối thủ cạnh tranh một cách hoàn toàn công bằng không? Chắc chắn sẽ xảy ra xung đột lợi ích... Việc nghiên cứu ngành điện đã cho thấy những công ty mới thường không được tiếp cận hiệu quả với các mạng lưới, nơi mà các nhà điều hành bị cáo buộc thiên vị công ty có liên kết. Phát biểu với tư cách cá nhân, Kroes nói: “Tôi rất hoan nghênh sự dịch chuyển theo hướng tách biệt hoàn toàn về cấu trúc (tức là tách việc cung cấp và bán lẻ từ các cơ sở hạ tầng độc quyền).” Các hành động của vị ủy viên hội đồng về cạnh tranh không phải là bột phát. Đây là một phần của nỗ lực chung nhằm mở cửa cho các nguồn năng lượng xanh phân phối mới của cuộc Cách mạng công nghiệp lần III. Ngày càng có nhiều bằng chứng trên khắp châu Âu cho thấy các công ty điện đã và đang gây khó khăn cho các nhà sản xuất năng lượng tái tạo tại địa phương trong việc bán điện của họ vào lưới điện. Chủ trương chống đối của công ty điện đã đi ngược lại với các chỉ thị của EU nhằm hỗ trợ việc sản xuất điện từ các nguồn năng lượng tái tạo tại địa phương. Theo như Ủy ban châu Âu, Kroes cho biết, “Mục tiêu rõ ràng của quá trình tự do hóa là đảm bảo cho các công ty mới có thể gia nhập và phát triển trên thị trường, để tăng tính cạnh tranh và cho người tiêu dùng sự lựa chọn tốt hơn, chẳng hạn về điện ‘sạch’.” Chính phủ Đức và Pháp đã nhanh chóng bày tỏ sự bất đồng với Kroes. Cả hai nước đều là nơi đặt trụ sở của những tập đoàn khổng lồ trong ngành điện châu Âu − E.ON và RWE ở Đức và EDF tại Pháp. Điều các phương tiện truyền thông và công chúng không biết là phía sau hậu trường những điều tồi tệ đã xảy ra, ít nhất là trong văn phòng của một số công ty lớn trong ngành. Vào tháng 3/2006, cùng lúc Kroes đang đi diễn thuyết cổ xúy cho sự “tách rời chức năng”, Utz Claassen, vị CEO cứng rắn của EnBW, công ty điện lớn thứ tư ở Đức, mời tôi đến Berlin để nói chuyện với công ty và khách hàng về biến đổi khí hậu, an ninh năng lượng, và sự chuyển đổi của ngành điện. Mặc dù 45% EnBW được sở hữu bởi EDF của Pháp, một công ty sản xuất 78% điện năng tại Pháp từ năng lượng hạt nhân, Claassen đã chọn chủ đề việc sản xuất năng lượng tái tạo phân tán. Ba tháng sau, ông mời tôi tới Heilbronn, Đức, để nói chuyện trước toàn bộ công ty. Hội trường chật kín khoảng 500 nhân viên. Sau khi tôi trình bày tầm nhìn của một cuộc Cách mạng công nghiệp lần III, Claassen đã bước lên bục. Trước sự ngạc nhiên của nhiều nhân viên, những người đã bắt đầu sự nghiệp với nhiên liệu hóa thạch truyền thống và năng lượng hạt nhân và đã quen với việc phân bổ điện tập trung từ trên xuống, Claassen nói rằng thị trường năng lượng đang thay đổi và EnBW cũng vậy. Ông cam kết rằng EnBW sẽ ở vị trí tiên phong, dẫn đầu trên con đường tới một kỷ nguyên năng lượng phân phối mới. Ông nhanh chóng khẳng định rằng trong khi các nguồn năng lượng và mô hình kinh doanh cũ vẫn được sử dụng, công ty cần phải tạo điều kiện cho các nguồn năng lượng mới và các mô hình kinh doanh mới đi cùng với nó. Đầu năm 2008, các công ty điện trên khắp châu Âu vẫn chỉ tiến hành những bước đi dè dặt vào kỷ nguyên năng lượng mới, gồm có NTR của Ireland và Scotland Power. Ngay cả tấm khiên bảo vệ trung thành của trật tự cũ như E.ON, công ty điện khổng lồ của Đức công cũng do dự về tương lai của họ. Tôi được E.ON mời tham gia vào một cuộc tranh luận kéo dài hai giờ với chủ tịch kiêm Giám đốc điều hành, tiến sĩ Johannes Teyssen vào tháng 3/2008 tại Rotterdam. Ông toát lên hình ảnh điển hình của các nhà lãnh đạo kinh doanh Đức với tác phong nghiêm túc và bộ vest đen ba mảnh truyền thống. Trên thực tế, ông hóa ra lại là người rất thân mật và gần gũi. Teyssen lập luận rằng tất cả các nguồn năng lượng có thể khai thác được là cần thiết để đáp ứng nhu cầu năng lượng của châu Âu trong những thập kỷ tới, bao gồm cả nhiên liệu hóa thạch, hạt nhân và thậm chí cả năng lượng tái tạo. Tuy nhiên ông không nói được gì khi nhắc đến phân phối điện. Tôi không thể không chú ý đến việc trong suốt cuộc tranh luận có một quý ông người Anh ngoại tứ tuần, liên tục thì thầm vào tai Teyssen khi tôi đang nói chuyện. Sau cuộc tranh luận, ông bước đến và tự giới thiệu. Đó là Kenton Bradbury, phó chủ tịch chịu trách nhiệm quản lý cơ sở hạ tầng và các chiến lược tương lai tại E.ON. Ông cho biết công ty đã bắt đầu xem xét toàn bộ vấn đề lưới điện thông minh, sản xuất điện quy mô nhỏ và điện phân phối, và quan tâm tìm hiểu về cách một số công ty điện đã bắt đầu làm việc với các công ty xây dựng để phát triển các công trình thông minh có thể làm nhà máy điện mini và cung cấp điện trở lại lưới điện. Trong những tháng sau đó, chúng tôi tiếp tục trao đổi qua e-mail và điện thoại. Tôi cũng kết nối ông với một số thành viên nhóm chính sách của chúng tôi, gồm có Guido Bartels tại IBM, Pier Nabuurs tại KEMA và Rudy Provoost, Giám đốc điều hành Philips Lighting. Kenton trình bày những cơ hội kinh doanh tiềm năng từ cơ sở hạ tầng của cuộc Cách mạng công nghiệp lần III tại một cuộc họp hội đồng quản trị E.ON vài tháng sau đó . Tôi đã đề cập đến một thế hệ trẻ các giám đốc điều hành rất sốt sắng áp dụng mô hình kinh doanh mới mà không từ bỏ các kế hoạch kinh doanh thông thường– theo đó bộ phận tiện ích của họ sẽ trở thành các nhà cố vấn và chuyên gia tư vấn làm việc với khách hàng để giúp quản lý năng lượng của họ, giống như IBM và các công ty CNTT khác đã làm với việc quản lý thông tin. Điều thú vị là tôi nghe nói rằng E.ON đã có một bước lùi lớn vào mùa thu năm 2008, và sử dụng mô hình thay đổi đột phá của IBM làm điển hình để nghiên cứu các tình huống họ có thể điều chỉnh các nhiệm vụ và kế hoạch chiến lược của công ty để hướng tới mô hình Cách mạng công nghiệp lần III. Trường hợp của IBM giờ đã trở nên nổi tiếng và đưa vào rất nhiều chương trình đào tạo Thạc sỹ Quản trị Kinh doanh liên quan đến quyết định của công ty vào giữa những năm 1990 chuyển đổi trọng tâm từ việc bán máy tính – hoạt động kinh doanh cốt lõi – sang cung cấp dịch vụ. IBM nhận ra rằng chỉ bán máy tính mang lại rất ít giá trị. Với hàng chục công ty cùng bán máy tính và các đối thủ cạnh tranh châu Á có thể sản xuất máy tính với chất lượng tương đương và giá thấp hơn, IBM sẽ bị sụt giảm lợi nhuận nếu tiếp tục tập trung vào mảng sản phẩm. Louis Gerstner, Giám đốc điều hành của IBM nhận thấy nguy cơ này và bắt đầu tìm kiếm một mô hình kinh doanh mới. Đầu tiên, ông đặt ra câu hỏi hỏi: “Năng lực cốt lõi của IBM là gì?” Câu trả lời là “Quản lý dòng chảy của thông tin.” Với hình mẫu mới trong tay, gã khổng lồ công nghệ của thế kỷ XX đã điều khiển con tàu lớn vào vùng biển mới, cung cấp khả năng tư vấn cho các công ty đang tìm cách nâng cao khả năng quản lý thông tin của họ. Không lâu sau, các công ty ở khắp nơi đều bổ nhiệm một vị trí giám đốc thông tin (CIO) vào hội đồng điều hành. Đối với các công ty điện, “quản lý năng lượng” là năng lực cốt lõi của họ. Nhưng những gì khách hàng của họ thực sự muốn là lời khuyên về cách triển khai các hệ thống năng lượng hiệu quả hơn và sử dụng ít năng lượng hơn. Trong một thế giới cạnh tranh cao với chi phí năng lượng đang vượt qua chi phí lao động trong một số ngành công nghiệp, điều cốt lõi là tiết kiệm năng lượng – một trong số ít lĩnh vực mà khi gia tăng đáng kể có thể giữ lợi nhuận không bị giảm hay biến mất. Vậy làm thế nào để E.ON và các công ty điện khác chuyển từ việc cố gắng bán càng nhiều điện sang một mô hình kinh doanh mới trong đó nhiệm vụ của họ là tư vấn cho khách hàng và tạo ra các chương trình sử dụng ít điện hơn? Vấn đề khó khăn nhất từ góc độ quản lý là quá trình giảm dần vai trò của mô hình kinh doanh cũ trong một khoảng thời gian mà không xóa bỏ quá sớm, trong khi tích cực theo đuổi mô hình kinh doanh mới. Đây sẽ là phép thử các kỹ năng quản lý của những người ưu tú nhất trong thế hệ điều hành trẻ tuổi của ngành điện. Đối với IBM, có vẻ như họ đang dự tính hai loại lưới điện thông minh hoàn toàn khác biệt, một mô hình cải cách cho nước Mỹ và một cuộc cách mạng đối với châu Âu. Như đã nói, tầm nhìn ban đầu của IBM về siêu mạng lưới khá hẹp và chú trọng vào cải cách: kỹ thuật số hóa lưới điện, nâng cao hiệu suất của nó, và cung cấp thông tin cập nhật tức thời cho các công ty điện để giúp họ quản lý tốt hơn hoạt động của mình. Ít nhất đó là những gì tất cả mọi người biết về nó. Kế hoạch hành động của IBM bắt đầu thay đổi vào đầu năm 2007 khi Liên minh châu Âu và ngày càng nhiều quốc gia thành viên, các khu vực và thành phố, cũng như thành phần khác nhau trong cộng đồng doanh nghiệp bắt đầu hướng đến mô hình Cách mạng công nghiệp lần III. IBM bắt đầu bàn về một mạng điện phân phối thông minh cho Liên minh châu Âu. Một nhà phân tích ngành cho tôi biết rằng mô hình phân phối phù hợp hơn với cấu trúc của Liên minh châu Âu, vốn là một mạng lưới các địa phương, khu vực, và các quốc gia thành viên có mô hình quản lý phẳng hơn và ít theo thứ bậc hơn nhiều các nơi khác. Thế còn kế hoạch của IBM đối với Hoa Kỳ và Bắc Mỹ? Một siêu mạng lưới quản lý tập trung có thể là một lựa chọn khả dĩ hơn. Cho đến nay, các công ty điện của Mỹ hầu như rất kín tiếng về chuyện giới thiệu một mô hình kinh doanh theo TIR. Ed Legge thuộc Viện điện lực Edison, cơ quan vận động hành lang cho ngành điện lực Mỹ, khá thẳng thắn về vấn đề này: “Chúng tôi có lẽ sẽ không ủng hộ bất cứ điều gì làm cản trở hoạt động kinh doanh của mình. Tất cả các cơ sở tiện ích do nhà đầu tư sở hữu được xây dựng trên mô hình sản xuất tập trung do Thomas Edison tìm ra: Bạn có một nhà máy điện lớn… Việc sản xuất phân tán đang xóa đi hình ảnh đó, đó là hành động mang tính cục bộ.” Có rất nhiều yếu tố liên quan đến quyết định quan trọng nhằm xây dựng hai lưới điện thông minh khác nhau – một hệ thống tập trung từ trên xuống ở Mỹ và một hệ thống hợp tác và phân tán ở Liên minh châu Âu. Các nhà quan sát ngành ước tính sẽ mất khoảng 1,5 nghìn tỷ đô-la từ năm 2010 đến năm 2030 để chuyển đổi lưới điện hiện tại của Mỹthành lưới điện thông minh. Nếu lưới điện thông minh đó được thiết kế để vận hành một chiều thay vì hai chiều, nước Mỹ sẽ mất đi cơ hội tham gia với châu Âu trong cuộc Cách mạng công nghiệp lần III, và cùng với đó là triển vọng giữ vai trò lãnh đạo trong nền kinh tế toàn cầu. VIỆC VẬN TẢI BẰNG ĐIỆN Trụ cột cuối cùng cần phải được tích hợp vào mạng lưới để thực hiện cuộc Cách mạng công nghiệp lần III chính là vận tải. Chuyển đổi các tòa nhà thành các nhà máy điện mini và tạo ra một mạng Internet năng lượng sẽ mang lại cơ sở hạ tầng cho các thiết bị chạy điện và pin nhiên liệu hydro với chiếc xe đầu tiên được sản xuất vào năm 2011. Chính phủ Mỹ đã đầu tư 2,4 tỷ đô-la để đưa thế hệ ô tô điện mới ra thị trường và thậm chí đang ưu đãi thuế 7.500 đô-la khi người dân mua một chiếc xe điện mới. Các thiết bị chạy điện đang tạo ra thay đổi lớn trong các ngành năng lượng và giao thông vận tải. Trong 100 năm qua, ngành công nghiệp ô tô đã có mối quan hệ mật thiết với các công ty dầu, giống như các công ty điện trước đây. Mối quan hệ đó đang bắt đầu nảy sinh xung đột. Trong 12 tháng qua, các công ty ô tô lớn đã ký thỏa thuận với các công ty điện hàng đầu để chuẩn bị cơ sở hạ tầng mới cho việc vận tải bằng điện thông minh trong thế kỷ XXI. Các công ty điện đang gấp rút lắp đặt các trạm cung cấp dọc theo các đường cao tốc, trong bãi đậu xe và trung tâm thương mại để cấp điện cho các phương tiện chạy điện mới. General Mô tôrs đang hợp tác với các công ty điện, gồm có ConEdison, New York Power Authority và Northeast Utilities, trong việc cho ra mắt dòng xe Chevrolet Volt năm 2011. Tại Berlin, Daimler và RWE, công ty điện lực lớn thứ hai của Đức, đã bắt tay vào dự án xây dựng các điểm sạc điện cho các dòng xe Smart và Mercedes chạy điện quanh thủ đô nước này. Toyota đã hợp tác với EDF, công ty điện lớn nhất của Pháp để xây dựng các điểm sạc ở Pháp và các nước khác cho các xe hơi chạy điện của mình. Các công ty nhỏ như AeroVironment, Coulomb Technologies, và ECOtality đã gia nhập thị trường với các trạm sạc xe điện, và bây giờ GE, Siemens, và Eaton đang chuẩn bị vào cuộc với bộ sạc xe điện của riêng mình. Hầu hết các trạm sạc điện với kinh phí 3.000 đến 5.000 đô-la, đang được tiếp thị đến các thành phố để xây dựng các trạm sạc công cộng. Tuy vậy các công ty đang bắt đầu để mắt đến thị trường nhà ở có khả năng sinh lợi cao với hy vọng hàng triệu người sở hữu xe điện trong tương lai sẽ bỏ ra 1.000 đô-la để mua thiết bị sạc tại nhà. Thị trường sạc điện dự kiến sẽ tăng trưởng nhanh chóng từ 69 triệu đô-la hiện nay lên 1,3 tỷ đô-la vào năm 2013, khi các xe điện được tung ra với số lượng lớn. Một nghiên cứu năm 2010 của công ty tư vấn quản lý toàn cầu PRTM dự đoán rằng đến năm 2020, chuỗi giá trị của xe điện có thể sẽ đạt khoảng 300 tỷ đô-la và tạo ra hơn 1 triệu việc làm trong nền kinh tế toàn cầu. Với một nỗ lực tích cực các nhà sản xuất xe hơi Mỹ có thể đạt hơn 275.000 việc làm trong số này. Đến năm 2030, các điểm sạc cho xe điện và xe sử dụng pin nhiên liệu hydro sẽ được lắp đặt ở khắp mọi nơi, tạo nên một cơ sở hạ tầng phân phối có thể chuyển điện từ và đến lưới điện chính. Và đến năm 2040, ước tính 75% quãng đường của xe hạng nhẹ sẽ chạy bằng điện. Sức mạnh phân phối khổng lồ gắn liền với cơ sở hạ tầng TIR trở nên rõ ràng khi chúng ta xem xét tiềm năng của các phương tiện chạy bằng điện và pin nhiên liệu hydro như các nhà máy điện di động. Vì một chiếc xe hơi thông thường được dừng đỗ 96% thời gian, nó có thể được kết nối với mạng lưới điện tương tác để cung cấp lượng điện quý giá trở lại lưới điện. Một đội ngũ các xe chạy hoàn toàn bằng điện và pin nhiên liệu hydro có khả năng lưu trữ điện gấp bốn lần lưới điện quốc gia hiện tại của Mỹ. Nếu chỉ 25% các xe bán năng lượng trở lại lưới điện − khi giá điện phù hợp – việc này sẽ thay thế mọi nhà máy điện tập trung truyền thống trong cả nước. Các công ty ô tô đang bị cuốn vào một cuộc cạnh tranh khốc liệt để đưa ra thị trường các phương tiện chạy điện và pin nhiên liệu hydro. Tuy nhiên, trong ngành công nghiệp ô tô cũng xảy ra nhiều tranh cãi giữa những người ủng hộ xe điện và những người khác tin rằng xe điện là một chiến lược chuyển tiếp hướng tới việc vận tải hoàn toàn bằng hydro. Hầu hết các công ty ô tô đều chuẩn bị đưa ra thị trường cả xe điện và hydro, trong số đó có Daimler. Lãnh đạo công ty này rất lạc quan về triển vọng của xe chạy pin nhiên liệu. Tôi đã hỏi Jens Weidmann, cố vấn kinh tế của Thủ tướng Merkel liệu bà có sẵn lòng tổ chức một bữa ăn tối nho nhỏ khoảng hơn chục các nhà lãnh đạo kinh doanh chủ chốt của Đức để thảo luận về triển vọng tương lai cho một nền kinh tế xanh của Đức, đặc biệt là vai trò của nước này trong việc đưa thế giới bước vào cuộc Cách mạng công nghiệp lần III. Do hệ thống tài chính toàn cầu đã sụp đổ chỉ vài tuần trước đó, không khí của bữa tiệc khá ảm đạm và mang tính tự vấn. Đến nửa chừng, một người đưa tin vội vã vào phòng và thì thầm vào tai của thủ tướng. Bà ra hiệu dừng cuộc thảo luận để thông báo rằng Hạ viện Mỹ vừa phủ quyết gói cứu trợ của Tổng thống Bush. Mọi người trong phòng đều không tin vào điều này. Tôi có thể thấy mỗi người tham gia đều đang cân nhắc về ý nghĩa của quyết định này đối với công ty của họ tại Đức. Với mong muốn khơi dậy không khí và khiến cuộc thảo luận về tương lai mang tính lạc quan hơn, Thủ tướng quay sang hỏi Tiến sĩ Dieter Zetsche, chủ tịch Daimler, về những kế hoạch của công ty. Ông cho biết Daimler đang trong quá trình cách mạng hóa ngành công nghiệp xe hơi và đang tích cực chuẩn bị cho việc sản xuất hàng loạt xe ô tô, xe tải và xe buýt chạy bằng pin nhiên liệu hydro vào năm 2015. Sự chuyển đổi từ động cơ đốt trong sang pin nhiên liệu, theo Zetsche, sẽ là một bước ngoặt quan trọng trong việc chuyển đổi nền kinh tế Đức. Cũng như mọi người khác trong phòng, Bà Merkel cảm thấy sửng sốt. Trong khi chúng tôi đều biết Daimler và các công ty khác đang nghiên cứu các phương tiện chạy điện và pin nhiên liệu, đây là lần đầu tiên chủ tịch của Daimler hé lộ thông tin rằng công ty của ông đã quyết định “giành lấy nó” và mở cánh cửa đến tương lai. Bà thủ tướng nhìn quanh để xem phản ứng của mọi người và hơi nán lại ở chỗ tôi. Tôi đã đề nghị bà cam kết về việc chính phủ Đức sẽ tham gia chương trình nghiên cứu hydro vào năm 2006 và bà đã thực hiện điều này. Quyết định của Zetsche đưa công ty ô tô lâu đời nhất trên thế giới đến một tương lai hydro dường như đã báo trước sự khởi đầu một kỷ nguyên kinh tế mới cho chính quốc gia đã phát động Cuộc cách mạng công nghiệp lần II với sự phát minh ra động cơ đốt trong. Tháng 9/2009, Daimler cùng với 7 đối tác công nghiệp − EnBW, Linde, OMV, Shell, Total, Vattenfall và Cơ quan Công nghệ Hydro và Pin nhiên liệu quốc gia thành lập một mạng lưới các trạm pin nhiên liệu trên toàn nước Đức để chuẩn bị cho sự ra mắt hàng loạt các phương tiện chạy pin nhiên liệu vào năm 2015. Kết quả canh bạc của Daimler vẫn còn chưa ngã ngũ. Dù chúng ta lựa chọn pin điện hay pin nhiên liệu hoặc cả hai, chắc chắn động cơ đốt trong chạy bằng dầu – công nghệ chủ chốt của Cách mạng công nghiệp lần II sắp bị xóa sổ. Thế hệ sau của chúng ta sẽ được lái những chiếc xe êm ái, sạch sẽ, thông minh và được kết nối với một mạng lưới tương tác phẳng, phân tán và mang tính hợp tác. Thực tế này là dấu hiệu cho thấy chúng ta đang ở ngưỡng của một thời đại kinh tế mới. Sự ra đời một cơ chế năng lượng tái tạo được cung cấp bởi các tòa nhà, được lưu trữ một phần ở dạng hydro, được phân phối thông qua mạng lưới thông minh và kết nối với các phương tiện vận tải chạy điện không có khí thải sẽ mở cửa cho cuộc Cách mạng công nghiệp lần III. Toàn bộ hệ thống này mang tính tương tác, tích hợp và liền mạch. Sự liên kết này đang tạo ra các cơ hội mới cho các quan hệ liên ngành và đồng thời cũng cắt đứt nhiều mối quan hệ kinh doanh truyền thống của Cuộc cách mạng công nghiệp lần II. Để đánh giá tác động to lớn của cuộc Cách mạng công nghiệp lần III tới cách thức chúng ta tổ chức các hoạt động kinh tế hiện nay, hãy xem xét những thay đổi sâu sắc đã diễn ra chỉ trong 20 năm qua với sự ra đời của cuộc cách mạng Internet. Sự dân chủ hóa thông tin và truyền thông đã làm thay đổi bản chất của thương mại toàn cầu và các quan hệ xã hội một cách triệt để giống như cuộc cách mạng về công nghệ in trong thời kỳ cận đại. Bây giờ, hãy tưởng tượng tác động của việc dân chủ hóa năng lượng trên toàn xã hội khi được quản lý bởi công nghệ Internet. Sự phát triển của cuộc Cách mạng công nghiệp lần III có liên quan chặt chẽ tới các nước nghèo hơn trong thế giới thứ ba. Chúng ta cần nhớ rằng 40% nhân loại vẫn đang sống trong nghèo đói với không quá 2 đô la một ngày và phần lớn không có điện. Khi không được sử dụng điện họ trở nên “bất lực” ở cả nghĩa đen và nghĩa bóng. Tác nhân quan trọng nhất trong việc đưa hàng trăm triệu người thoát khỏi đói nghèo đó là giúp họ tiếp cận với nguồn điện xanh giá rẻ và ổn định. Tất cả những thành tựu kinh tế khác đều không thể đạt được nếu thiếu đi điều này. Việc dân chủ hóa năng lượng và phổ cập điện là điểm khởi đầu không thể thiếu để cải thiện cuộc sống của những người nghèo nhất trên thế giới. Hoạt động cấp tín dụng vi mô để sản xuất điện ở quy mô nhỏ đã bắt đầu thay đổi cuộc sống người dân ở khắp các quốc gia đang phát triển với tiềm năng đem lại hy vọng cải thiện kinh tế cho hàng triệu người. Nhưng liệu chúng ta có thể thực hiện được cú nhảy vọt? Mặc dù Brussels đã bước đầu hiểu rằng 5 trụ cột tạo nên cuộc Cách mạng công nghiệp lần III cần phải được kết hợp lại trong một hệ thống duy nhất, đã có một đối trọng không nhỏ đe dọa phá hỏng quá trình này. KHÔNG CÒN THÍ ĐIỂM Ở phía bên kia bàn hội nghị, có người nói “Sẽ không có xe buýt thí điểm nữa”. 10 cặp mắt lo lắng đồng loạt quay sang Herbert Kohler, phó chủ tịch Daimler phụ trách nghiên cứu và kỹ thuật cao cấp của tập đoàn. Pier Nabuurs, CEO của KEMA đang ngồi cạnh Kohler đã nói ra điểm mấu chốt: “chúng ta đã xong với việc thí điểm.” Chúng tôi hướng sang Jose Manuel Barroso, vị chủ tịch quyền lực của Ủy ban châu Âu đang chủ trì cuộc họp để xem phản ứng của ông. Ông ngừng lại và mỉm cười, khiến mọi người đều cảm thấy nhẹ nhõm hơn. Kohler đã bày tỏ sự bức xúc chung của tất cả mọi người trong phòng. Xung quanh ông là đại diện của những doanh nghiệp hàng đầu trên thế giới. Điểm chung giữa họ là mỗi công ty đều đang bắt đầu thoát ra khỏi Cuộc cách mạng công nghiệp lần II và bước vào một kỷ nguyên thương mại mới, và họ đều mới chỉ nhận ra cách thức những cuộc theo đuổi riêng rẽ này hợp vào trong một bức tranh kinh tế lớn hơn. Tất cả đều muốn mở rộng quy mô và nhận ra đây là chìa khóa để đảm bảo thâm nhập thị trường nhanh chóng. Đó là ngày 6/12/2006. Tôi đã đề nghị chủ tịch Barroso tổ chức cuộc họp, cho rằng đây là việc hữu ích với các công ty hàng đầu của Mỹ và châu Âu, giúp họ chia sẻ ý tưởng của mình về cách thức làm cho Liên minh châu Âu trở thành nền kinh tế bền vững nhất và đồng thời thành công về mặt thương mại nhất thế giới. Chương trình nghị sự của chủ tịch Barroso khá phức tạp. Dưới sự lãnh đạo của ông, Liên minh châu Âu đang chuẩn bị sẵn sàng cho công thức 20-20-20 vào năm 2020 với mục tiêu đưa nền kinh tế hàng đầu thế giới vượt xa các quốc gia khác trong việc giải quyết mối đe dọa của biến đổi khí hậu. Đề xuất kêu gọi giảm 20% lượng khí thải nhà kính từ mức phát thải của năm 1990, đồng thời tăng 20% hiệu quả sử dụng năng lượng và tăng 20% việc triển khai các nguồn năng lượng tái tạo vào năm 2020. Các mục tiêu sẽ cần được tuân thủ ở cả 27 quốc gia thành viên EU. Thủ tướng Đức Merkel sau đó sẽ kêu gọi các quốc gia EU tham gia vào chương trình nghị sự đầy tham vọng trong thời gian làm chủ tịch luân phiên của Hội đồng châu Âu vào mùa xuân năm 2007. Tuy nhiên Liên minh châu Âu cũng đồng thời quyết tâm đạt mục tiêu của Chương trình nghị sự Lisbon mà các nguyên thủ châu Âu đã đồng thuận từ tháng 3/2002 để biến châu Âu thành nền kinh tế cạnh tranh nhất thế giới. Liên minh châu Âu đã là nền kinh tế hàng đầu trên thế giới. Như đã nói, GDP của 27 quốc gia thành viên EU đã và đang vượt GDP của nước Mỹ. Tuy vậy vẫn có lo ngại rằng Liên minh châu Âu có thể đang tụt hậu so với Mỹ cũng như Trung Quốc và Ấn Độ, những người khổng lồ đang trỗi dậy ở châu Á trong những năm tới. Liên minh châu Âu đã đưa ra tuyên bố là nền kinh tế “bền vững nhất” trên hành tinh. Nhưng liệu họ có thể đạt được các mục tiêu về biến đổi khí hậu mà vẫn tăng trưởng kinh tế? Chương trình nghị sự có vẻ mâu thuẫn này là nguồn gốc của sự căng thẳng kéo dài ở các nước thành viên cũng như trong chính hội đồng của ông Barroso. Các công ty của chúng tôi đến tham dự cuộc họp để nói với ông chủ tịch: “Chúng ta có thể!” Tất cả những chuyện vừa rồi đưa chúng tôi trở lại những phản đối “không thử nghiệm nữa” làm thay đổi tinh thần của cuộc họp. Daimler, với hai nhà sáng lập Gottlieb Daimler và Karl Benz là những nhà phát minh đầu tiên ứng dụng thành công động cơ đốt trong trên phương tiện vận tải, đang quyết tâm trở lại đứng đầu ngành ô tô thế giới qua việc tung ra thị trường những chiếc xe chạy pin nhiên liệu hydro sản xuất hàng loạt đầu tiên. Công ty có hoạt động nghiên cứu và phát triển rất tiên tiến và đã thử nghiệm thành công xe chạy pin nhiên liệu trong vài năm. Trên thực tế, các xe buýt chạy bằng hydro của Daimler (cũng như các công ty khác) đã và đang vận chuyển hành khách tại Hamburg, Amsterdam, London, Berlin, Madrid và các thành phố khác theo dự án CUTE (Clean Urban Transport for Europe − Giao thông đô thị sạch cho châu Âu), một sáng kiến của EU nhằm thay thế động cơ đốt trong chạy bằng xăng bằng một chiếc xe không có khí thải mà chỉ thải ra nước sạch và nhiệt. Vấn đề của Daimler cũng như các công ty khác trong cuộc họp là mở rộng quy mô. Số lượng xe của chương trình CUTE chỉ là 47, một đơn hàng quá nhỏ khiến chi phí sản xuất mỗi xe lên đến hơn 1 triệu euro. CUTE, giống như nhiều chương trình khác ở châu Âu và các nước khác trong đó có Mỹ, Nhật Bản và Trung Quốc chỉ là thử nghiệm. Các chính phủ thích các thử nghiệm vì chúng mang đến công nghệ xanh hấp dẫn mà không đòi hỏi các khoản chi tiêu công quỹ khổng lồ để nhân rộng và thương mại hóa. Điều Kohler nói thực chất là đã đến lúc để triển khai hoặc từ bỏ. Ông đã nhận ra rằng cách duy nhất để chuyển cuộc cách mạng mới trong vận tải này sang thị trường tiêu dùng một cách hiệu quả là phải được chính phủ đầu tư với quy mô lớn, với các khoản chi ngân sách đáng kể để mua nhiều phương tiện vận tải công cộng. Việc ứng dụng hàng loạt từ đầu của các chính phủ sẽ giúp giảm chi phí sản xuất và tạo ra quy mô cần thiết để chuyển sang thị trường thương mại rộng lớn hơn. Chỉ 40 xe buýt sẽ không làm được việc đó. Tất cả những người khác trong phòng đều gặp vấn đề tương tự. Họ đã chán với những thử nghiệm và sốt sắng tạo ra một cuộc cách mạng kinh tế, nhưng lại cảm thấy lúng túng và thậm chí lo sợ rằng những công nghệ và sản phẩm mang tính đột phá của mình có thể bị bỏ xó trong nhiều thập kỷ hoặc vĩnh viễn. HIỆU ỨNG ĐỘC LẬP Có một vấn đề nữa cần được giải quyết nếu như Liên minh châu Âu đặt mục tiêu cùng lúc đối phó với biến đổi khí hậu, đạt được sự độc lập về năng lượng và xây dựng một nền kinh tế thế kỷ XXI đẳng cấp thế giới có tính bền vững. Các phòng ban và cơ quan của Ủy ban châu Âu đều được xây dựng theo hướng khuyến khích các sáng kiến được ủ kín − tức là các chương trình và dự án tự chủ, độc lập và không liên quan đến những nỗ lực đang diễn ra trong các bộ phận và cơ quan khác. Hiện tượng này không phải là duy nhất ở Brussels. Trên thực tế đây là vấn đề đặc thù của các chính phủ trên khắp thế giới. Do không kết nối được các sáng kiến giữa các bộ ngành và cơ quan, các chính phủ mất đi triển vọng tìm kiếm sự hợp tác và tìm ra một cách tiếp cận toàn diện hơn để nâng cao phúc lợi chung của xã hội. Lối tư duy đóng kín chắc chắn sẽ dẫn đến các dự án thí điểm rời rạc. Chủ tịch Barroso và các ủy viên đã nhận ra vấn đề và nỗ lực hành động theo các sáng kiến chung của các cơ quan. Tôi đặc biệt ấn tượng bởi cách suy nghĩ toàn cục của một số ủy viên chủ chốt – những người sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc quyết định các yếu tố của kế hoạch kinh tế TIR – đó là Günter Verheugen và Margot Wallstrom, Phó Chủ tịch Ủy ban châu Âu; Andris Piebalgs, ủy viên về năng lượng; Janez Pô tônik, ủy viên về khoa học và nghiên cứu; Stavros Dimas, ủy viên về môi trường; Neelie Kroes, ủy viên về cạnh tranh; và Joaquín Almunia, ủy viên về vấn đề kinh tế và tiền tệ. Tuy nhiên, tư duy hệ thống là một nhiệm vụ khó khăn trong một môi trường quan liêu, nơi có một động lực mạnh mẽ để bảo vệ sân nhà. Đây là những gì dẫn đến cái mà tôi gọi là vực thẳm của tổng giám đốc − quá trình mà những ý tưởng lớn, đã được chấp thuận ở cấp bộ trưởng hay thậm chí cấp nguyên thủ quốc gia mất đi sức nặng và ngày càng co hẹp dần khi xuống tới các phòng ban và cơ quan, cuối cùng trở thành những cái bóng của chính mình và mập mờ trong vô số báo cáo, nghiên cứu và đánh giá mà mục đích ngày càng trở không rõ ràng ngay cả với những người có nhiệm vụ quản lý chúng. Catherine Day, Tổng thư ký của Ủy ban châu Âu − người chịu trách nhiệm điều phối các dự án của các phòng ban và cơ quan thuộc ủy ban đã không ngừng nỗ lực chỉnh đốn các chương trình phát triển bền vững, đã lưu tâm đến sự cần thiết phải phối hợp và gắn kết các dự án đang tiến hành. Mặc dù cô và các ủy viên đã nỗ lực hết mình, đã có một động lực quan liêu gần như là đặc thù nhằm chia rẽ các sáng kiến đó. Chúng tôi tham dự cuộc họp với Chủ tịch Barroso và chuẩn bị để thảo luận về cách chúng ta có thể tiến hành giải quyết các vấn đề của những thử nghiệm không ngừng và hiệu ứng độc lập. Một số thành viên của nhóm đã tích cực tham gia vào một số nền tảng công nghệ của EU – các dự án nghiên cứu công-tư chính thức của Liên minh châu Âu từ đại diện của các ngành và lĩnh vực chủ chốt có nhiệm vụ đưa ra các chương trình mới có thể áp dụng trên toàn EU để thúc đẩy nền kinh tế châu Âu. Claude Lenglet, một kỹ sư đại diện cho Bouygues − công ty xây dựng khổng lồ của Pháp, là một lãnh đạo trong Nền tảng Xây dựng châu Âu. Như đã đề cập, một thành viên khác trong nhóm chúng tôi, Pier Nabuurs, CEO của KEMA, đang là chủ tịch của SmartGrids Europe, nền tảng công nghệ của châu Âu được tạo nên từ các công ty điện, tiện ích và CNTT. Cả hai ông đều chỉ ra cho chủ tịch Barroso rằng chỉ một số ít trong 36 nền tảng công nghệ của châu Âu có liên lạc với nhau hoặc trao đổi bất kỳ loại thông tin nào mặc dù giữa chúng có nhiều sự hợp tác tiềm năng. Chúng tôi đưa ra một danh sách 13 nền tảng công nghệ có vai trò tối quan trọng đối với sự thành công của nhau và cần phải được tích hợp để có một cách tiếp cận toàn diện nhằm mở ra một cuộc Cách mạng công nghiệp lần III tại Liên minh châu Âu; gồm có nền tảng Công nghệ xây dựng, nền tảng SmartGrids, các nền tảng năng lượng tái tạo khác nhau, nền tảng công nghệ hydro và pin nhiên liệu, các nền tảng Đường bộ và Đường sắt châu Âu cùng nền tảng Hóa học bền vững. Cùng với nhau, những nền tảng này đại diện cho các công nghệ, ngành công nghiệp và các lĩnh vực của cơ sở hạ tầng TIR mới hình thành. Câu trả lời của chủ tịch Barroso là, “Chúng ta hãy kết hợp những thứ này, thúc đẩy sự trao đổi hợp tác và xem điều gì xảy ra.” Với sự giúp đỡ của Maria da Graça Carvalho, cố vấn chính của Văn phòng các Cố vấn chính sách châu Âu (BEPA), chúng tôi đã bắt đầu ngay lập tức và tổ chức một số cuộc họp với 13 nền tảng này vào mùa xuân năm 2007 để khám phá những sự hợp tác tiềm năng. Ông Barroso ít nhất đã cố gắng để kết nối một số các yếu tố. Tuy nhiên, có một nguyên nhân sâu xa hơn đằng sau việc Liên minh châu Âu và các chính phủ đã đùa giỡn với các dự án thí điểm xanh và sa lầy vào các sáng kiến bị ủ kín, dường như giậm chân tại chỗ: họ không biết tiếp theo là gì. Điều còn thiếu là một diễn giải thuyết phục cho một cuộc cách mạng kinh tế mới có thể giải thích cách thức mọi dự án công nghệ và thương mại tưởng như ngẫu nhiên kết hợp với nhau trong một kế hoạch vĩ mô hơn. Các lãnh đạo doanh nghiệp tham dự cuộc họp với ông Barroso để đặt ra một tầm nhìn lớn hơn và hy vọng có thể thuyết phục ông rằng Liên minh châu Âu cần phải nắm bắt thời cơ và cam kết đưa nền kinh tế lớn nhất thế giới vào một cuộc Cách mạng công nghiệp lần III. Nền móng đã được xây dựng vào đầu năm đó. Để đưa Liên minh châu Âu đến một thay đổi ở quy mô làm biến chuyển cơ sở hạ tầng công nghiệp của nền kinh tế châu lục và tạo nên một kỷ nguyên kinh tế mới cần phải có sự ủng hộ của Đức, động cơ kinh tế của châu Âu. May mắn là, chỉ vài tháng sau khi nhậm chức, thủ tướng Đức Angela Merkel đã mời tôi đến Berlin để thảo luận với một trong những nhà kinh tế hàng đầu của Đức về cách tạo ra việc làm mới và phát triển nền kinh tế Đức trong thế kỷ XXI. Tôi bắt đầu phần nhận xét bằng cách đặt câu hỏi cho Thủ tướng: “Bà định phát triển nền kinh tế Đức, nền kinh tế EU, hay nền kinh tế toàn cầu như thế nào trong những giai đoạn cuối cùng của một kỷ nguyên năng lượng vĩ đại và một cuộc Cách mạng công nghiệp hình thành từ đó?” (Giá dầu đã tăng trên các thị trường thế giới nhưng chưa đạt đỉnh 147 đô-la/thùng cho đến tháng 7/2008). Tôi tiếp tục đưa ra một tầm nhìn cho cuộc Cách mạng công nghiệp lần III và bày tỏ sự tin tưởng rằng nước Đức sẽ dẫn đường trong kỷ nguyên kinh tế mới. Sau đó, chúng tôi đã có những thảo luận thân mật hơn. Tôi biết rằng bà thủ tướng trước đây là Bộ trưởng môi trường trong chính phủ của ông Helmut Kohl và bà được đào tạo để trở thành một nhà vật lý. Bà nắm rất rõ các khía cạnh công nghệ của việc tạo ra một cuộc Cách mạng công nghiệp lần III phân tán và hợp tác cùng những cơ hội thương mại to lớn từ đó, và chia sẻ bà rất thích ý tưởng dành cho nước Đức. Tôi hỏi tại sao lại là Đức, nghĩ rằng bà sẽ nói ra những lý do, tại thời điểm đó là quốc gia xuất khẩu số một trên thế giới − muốn ở vị trí lãnh đạo và tiếp tục giữ lợi thế đứng đầu của nó trong nền kinh tế toàn cầu. Thay vì thế, bà chuyển trọng tâm từ thương mại sang chính trị và nói, “Jeremy, anh cần phải tìm hiểu thêm về lịch sử và chính trị của Đức. Chúng tôi là một liên bang của các vùng. Tất cả hoạt động chính trị ở đây đều mang tính địa phương còn chính phủ liên bang là trung gian hòa giải. Vai trò của chúng tôi là tìm ra sự đồng thuận và thúc đẩy hợp tác giữa các khu vực và đưa đất nước tiến về phía trước. Cuộc Cách mạng công nghiệp lần III, do tính chất phân phối và hợp tác của nó rất phù hợp với chính trị của Đức.” Sự nhiệt tình của thủ tướng rất quan trọng, đặc biệt là khi chính phủ của bà sẽ đảm nhận chức chủ tịch luân phiên 6 tháng của Hội đồng châu Âu vào tháng 1/2007. Trong thời gian bà giữ chức chủ tịch, các nguyên thủ quốc gia EU sẽ phải quyết định về một thỏa thuận ràng buộc để giải quyết vấn đề an ninh năng lượng và biến đổi khí hậu. Sẽ là thiếu sót nếu tôi không nhắc đến việc các đối tác trong liên minh cầm quyền của bà Merkel tại thời điểm đó, Đảng Dân chủ Xã hội, cũng rất nhiệt tình với cuộc Cách mạng công nghiệp lần III và sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo các tiêu chuẩn 20-20-20 được đề xuất bởi Ủy ban châu Âu sẽ được Hội đồng châu Âu ủng hộ. Sigmar Gabriel, Bộ trưởng môi trường thuộc Đảng Dân chủ xã hội của Đức rất tích cực trong việc bảo đảm rằng các Bộ trưởng môi trường của 26 nước thành viên khác có cùng quan điểm trong việc tiến tới thỏa thuận về các mục tiêu liên quan đến biến đổi khí hậu. Ngoại trưởng Đức thuộc Đảng xã hội, Frank-Walter Steinmeier, đảm bảo rằng ngoại trưởng của các nước thành viên EU cũng nhất trí tiến hành các tiêu chuẩn về biến đổi khí hậu được đề xuất. Mặc dù Đảng Xanh không nằm trong liên minh cầm quyền, họ đã đóng vai trò cảnh báo về sự nguy hiểm của biến đổi khí hậu và sự cần thiết phải chuyển sang các nguồn năng lượng tái tạo hậu carbon trong suốt hơn hai thập kỷ. Như vậy, trong chính trường Đức, mọi thứ đều thuận lợi để nước này tạo ra dấu ấn của mình trong thời gian bà Merkel làm chủ tịch Hội đồng châu Âu qua việc đạt được sự thông qua công thức 20-20-20 vào năm 2020, và từ đó đưa Liên minh châu Âu lên hàng đầu trong chương trình nghị sự mới về môi trường và phát triển kinh tế bền vững của thế giới. NGHỊ VIỆN CHÂU ÂU ỦNG HỘ Cách mạng công nghiệp lần III Vai trò chủ tịch Hội đồng châu Âu của bà Merkel đã làm nâng cao sự quan tâm dành cho vấn đề biến đổi khí hậu và độc lập năng lượng và các sáng kiến kinh tế cần thiết để đạt được các cột mốc 20-20-20 vào năm 2020. Triển vọng của một mô hình kinh tế xanh cho châu Âu trong thế kỷ XXI đang tồn tại trong các hành lang chính trị tại Brussels và các nước thành viên. Chúng tôi bắt đầu tổ chức các cuộc họp chiến lược tại Brussels và qua hội đàm, với mục tiêu thuyết phục Nghị viện châu Âu về tầm nhìn cho cuộc Cách mạng công nghiệp lần III và kế hoạch hành động cho Liên minh châu Âu. Joe Leinen, một lãnh đạo của Đảng Xã hội châu Âu và là một trong những thành viên cao cấp có uy tín nhất của Nghị viện, là chủ tịch của Ủy ban Các vấn đề Hiến pháp và là người chịu trách nhiệm soạn thảo bản tuyên bố. Cùng tham gia có Claude Turmes của Đảng Xanh, người phát ngôn nhiệt huyết của Nghị viện về biến đổi khí hậu, và Angelo Consoli, chính trị gia lão luyện là người đại diện cho cơ quan của tôi tại Brussels. Bản tuyên bố chính thức, nếu được thông qua bởi Nghị viện, sẽ cam kết đưa cơ quan lập pháp của EU tới một kế hoạch phát triển kinh tế bền vững dài hạn theo Cách mạng công nghiệp lần III cho châu Âu. Rất khó để đạt được các tuyên bố chính thức trong Nghị viện châu Âu. Thực tế là có rất ít tuyên bố được thông qua. Vì chỉ có ba tháng để đạt được sự thống nhất đa số (theo các quy tắc và thủ tục của Nghị viện châu Âu các tuyên bố phải được thông qua trong vòng chín mươi ngày), nhóm chúng tôi quyết định tập trung vào việc kêu gọi sự ủng hộ của các nhà lãnh đạo đảng và các chủ tịch của các ủy ban chính trong Nghị viện – điều không bao giờ là dễ dàng trong một cơ quan lập pháp tập hợp rất nhiều lợi ích và đảng phái chính trị khác nhau. Để đảm bảo số phiếu cần thiết, Leinen hợp tác cùng 5 nghị sĩ có uy tín, mỗi người đều đại diện cho các nhóm chính trị lớn ở Nghị viện – đó là Anders Wijkman của Đảng Nhân dân châu Âu (EPP), Vittorio Prodi của Đảng Tự do, Zita Gurmai của Đảng Xã hội chủ nghĩa, Claude Turmes của Đảng Xanh, và Umberto Guidoni thuộc các Đảng Cánh tả. Nhờ những nỗ lực không mệt mỏi của nhóm và đặc biệt là ông Consoli, chúng tôi đã giành được sự ủng hộ của Chủ tịch Nghị viện châu Âu Hans-Gert Pöttering, các nhà lãnh đạo của mọi đảng phái chính trị hàng đầu của châu Âu cả cánh tả và cánh hữu cũng như sự ủng hộ của các chủ tịch ủy ban quan trọng gồm có Angelika Niebler từ Ủy ban năng lượng Công nghiệp, nghiên cứu và năng lượng vốn có ảnh hưởng lớn, Karl-Heinz Florenz, Chủ tịch Uỷ ban Môi trường và Guido Sacconi từ Ủy ban Biến đổi khí hậu. Vào tháng 5/2007, Nghị viện châu Âu thông qua một tuyên bố chính thức, cam kết đưa cơ quan lập pháp của 27 quốc gia thành viên của Liên minh châu Âu vào một cuộc Cách mạng công nghiệp lần III. Sự hậu thuẫn mạnh mẽ của Nghị viện cho tầm nhìn kinh tế mới đã gửi một tín hiệu rõ ràng cho thế giới rằng châu Âu đã bắt đầu một hành trình kinh tế mới. Trong những tuần cuối đảm nhiệm vai trò chủ tịch Hội đồng châu Âu, chính phủ Đức đã đề nghị tôi trình bày một bài phát biểu chính với 27 bộ trưởng môi trường của các nước thành viên EU tại Essen (Đức) và nói về các kế hoạch hành động kinh tế mới theo Cách mạng công nghiệp lần III sẽ đi kèm với nhiệm vụ 20-20-20 vào năm 2020 được thủ tướng nước này hậu thuẫn. Tôi đã nói với các bộ trưởng rằng những gì Liên minh châu Âu cần không phải là một kế hoạch biến đổi khí hậu hay kế hoạch năng lượng mà là một kế hoạch phát triển kinh tế bền vững có thể đưa châu Âu, và hy vọng cả thế giới vào một kỷ nguyên hậu carbon không phát thải vào năm 2050 và nhờ đó giải quyết những thách thức cơ bản của việc trái đất nóng lên và an ninh năng lượng. Nhiều người trong số các bộ trưởng môi trường đã nhận ra điều đó, trong khi một vài người khác vẫn giữ tư tưởng khép kín trong những chính sách cứng nhắc về môi trường chỉ có liên quan hời hợt với các sáng kiến kinh tế vĩ mô hơn. DANH SÁCH CÔNG VIỆC Tất cả 5 trụ cột mô tả ở trên tạo nên cơ sở hạ tầng cho một hệ thống kinh tế mới – một hệ thống có thể đưa chúng ta vào một tương lai xanh. Tiến hành thay đổi từ một chế độ năng lượng nhiên liệu hóa thạch dựa vào carbon sang chế độ năng lượng tái tạo: đã có! Tái cấu trúc các tòa nhà trên thế giới, chuyển các nơi ở thành các nhà máy điện mini có thể khai thác năng lượng tái tạo tại chỗ: đã có! Lắp đặt công nghệ hydro và công nghệ lưu trữ khác tại tất cả các tòa nhà và khắp các cơ sở hạ tầng để lưu trữ nguồn năng lượng tái tạo và đảm bảo nguồn cung cấp điện xanh liên tục và ổn định để đáp ứng nhu cầu: đã có! Sử dụng công nghệ truyền thông Internet để chuyển đổi lưới điện thành một mạng lưới tiện ích thông minh để hàng triệu người có thể chuyển phần điện xanh tạo ra tại và gần các tòa nhà của họ trở lại vào lưới điện để chia sẻ với những người khác trong các cộng đồng chung mã nguồn mở, giống như cách thức thông tin được tạo ra và chia sẻ trên Internet: đã có! Chuyển đổi các phương tiện giao thông toàn cầu − ô tô, xe buýt, xe tải, tàu hỏa thành các phương tiện chạy điện và pin nhiên liệu được vận hành bởi năng lượng tái tạo tạo ra tại hàng triệu công trình xây dựng và xây dựng các trạm sạc năng lượng ở các quốc gia và châu lục, nơi mọi người có thể mua và bán điện trên một lưới điện phân phối: đã có! Khi năm trụ cột này kết hợp lại sẽ tạo nên một nền tảng công nghệ vô hình – một hệ thống mới có tính chất và chức năng khác biệt về định tính so với tập hợp các bộ phận của nó. Nói cách khác, sự kết hợp của các trụ cột tạo ra một mô hình kinh tế mới có thể chuyển biến thế giới. Châu Âu đang tiến xa hơn nước Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc và các quốc gia khác trong quá trình chuyển sang một cuộc Cách mạng công nghiệp lần III. Tuy nhiên, tôi không có ý rằng Liên minh châu Âu đang phi hết tốc độ. Thực tế là hoàn toàn ngược lại. Họ mới đang xây dựng nền tảng cho mình. Cộng đồng doanh nghiệp, xã hội dân sự và các hành lang chính trị của chính phủ ngày càng nhận thức được tính chất của cuộc hành trình mà châu Âu đang theo đuổi. Tuy nhiên không phải ai cũng chuẩn bị hay thậm chí sẵn sàng thực hiện chuyến đi. Nhưng ít nhất người ta đã đặt ra mục tiêu và nhiệm vụ − mặc dù không có gì đảm bảo rằng Liên minh châu Âu sẽ tiếp tục đi đúng hướng. Có thể họ sẽ bị kiệt sức hoặc bỏ cuộc. Nếu điều đó xảy ra, tôi không chắc liệu các quốc gia nào có thể thay thế và đưa thế giới vào kỷ nguyên tiếp theo. Không có điều gì là tất yếu đối với sự tồn tại của loài người. Lịch sử đầy rẫy những câu chuyện về những xã hội vĩ đại đã sụp đổ, những thử nghiệm xã hội đầy tiềm năng bị thất bại, và những tầm nhìn cho tương lai chưa bao giờ thành hiện thực. Tuy nhiên lần này thì tình hình đã khác với nhiều rủi ro hơn. Khả năng tuyệt chủng hoàn toàn chưa từng là thứ mà loài người phải cân nhắc nửa thế kỷ trước đây. Khả năng phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt cùng với khủng hoảng khí hậu đang rình rập đã khiến cán cân nghiêng về sự kết thúc nguy hiểm không chỉ với nền văn minh hiện đại mà với chính loài người. Cuộc Cách mạng công nghiệp lần III không phải là thần dược có thể ngay lập tức chữa lành những căn bệnh của xã hội hoặc một xã hội không tưởng sẽ đưa chúng ta đến miền đất hứa. Nó là một kế hoạch kinh tế thuần túy và thực tiễn có thể đưa chúng ta sang một thời kỳ hậu carbon bền vững. Theo như tôi được biết thì chúng ta chưa có một kế hoạch dự phòng nào. Tháng 9/2008 là một thời điểm rất nóng, mùa hè nóng thứ 12 được ghi nhận trong lịch sử. Các nhà nghiên cứu về khí hậu đã chú ý hiện tượng này và cảnh báo rằng đây là một dấu hiệu cho thấy Trái đất đang bước vào một giai đoạn mới. Biến đổi khí hậu nhanh chóng mặt đã diễn ra sớm hơn một thế kỷ so với dự đoán của các nhà khoa học. Thời tiết không phải là thứ duy nhất nóng lên. Trong tháng 7, giá dầu đã lên mức cao nhất 147 đô-la/thùng, gây lo lắng cho toàn thế giới. Sức mua giảm mạnh. 60 ngày sau đó, giới ngân hàng Mỹ vốn đang gánh chịu các khoản nợ xấu từ thị trường thế chấp dưới chuẩn đã đóng băng hoạt động cho vay, đưa phố Wall vào tình trạng bế tắc. Tương lai của nền kinh tế toàn cầu trở nên bấp bênh hơn bao giờ hết. Phần lớn mọi người đều cho rằng lần này thì khác. Các chuyên gia và các nhà lãnh đạo chính trị bắt đầu sử dụng từ “khủng hoảng”, và mặc dù không có nhà tài phiệt nào nhảy lầu tự tử, các thị trường chứng khoán tiếp tục lao dốc, gợi nên hồi tưởng về những người thất nghiệp bán táo trên vỉa hè những năm 1930. Nhưng họ có ý gì khi nói “Lần này thì khác?” Giới ngân hàng và các chính trị gia sẽ dành hơn hai năm trong các cuộc tranh luận bên lề không có lối thoát về bản chất của cuộc khủng hoảng, không ai tỏ ra sẵn sàng hay đứng ra khám phá nguyên nhân đằng sau. Nếu như làm vậy, họ đã có thể nhận ra Cuộc cách mạng công nghiệp lần II đang hấp hối. Khi mọi người chuyển sang nói đến các định chế tài chính khổng lồ “quá lớn để thất bại”, ý tưởng về một kỷ nguyên kinh tế đang sụp đổ là vấn đề vượt ngoài sức tưởng tượng và vì vậy mọi cuộc thảo luận tương tự đều bị trì hoãn vô thời hạn. Nhiều công ty đa quốc gia và các chính trị gia mà tôi thường xuyên liên lạc vẫn chưa sẵn sàng thừa nhận rằng Cuộc cách mạng công nghiệp lần II đang đi vào hồi kết mà muốn tin vào quan niệm thông thường