🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Cục Diện Chính Trị Đông Á Giai Đoạn 1991-2016 Ebooks Nhóm Zalo Chịu trách nhiệm xuất bản: Q. GIÁM ĐỐC - TỔNG BIÊN TẬP PHẠM CHÍ THÀNH Chịu trách nhiệm nội dung: PHÓ GIÁM ĐỐC - PHÓ TỔNG BIÊN TẬP TS. ĐỖ QUANG DŨNG Biên tập nội dung: Trình bày bìa: Chế bản vi tính: Đọc sách mẫu: ThS. CÙ THỊ THÚY LAN TS. HOÀNG MẠNH THẮNG NGUYỄN THU HƯỜNG TRẦN PHAN BÍCH LIỄU ĐƯỜNG HỒNG MAI NGUYỄN THU THẢO NGUYỄN THU HƯỜNG BÙI BỘI THU Số đăng ký kế hoạch xuất bản: 892-2020/CXBIPH/7-295/CTQG. Số quyết định xuất bản: 4872-QĐ/NXBCTQG, ngày 16/04/2020. Nộp lưu chiểu: tháng 5 năm 2020. Mã ISBN: 978-604-57-5549-5. Biªn môc trªn xuÊt b¶n phÈm cña Th− viÖn Quèc gia ViÖt Nam TrÇn B¸ch HiÕu Côc diÖn chÝnh trÞ §«ng ¸ giai ®o¹n 1991 - 2016 / TrÇn B¸ch HiÕu. - T¸i b¶n. - H. : ChÝnh trÞ Quèc gia, 2018. - 224tr. ; 21cm 1. ChÝnh trÞ 2. 1991-2016 3. §«ng ¸ 320.95 - dc23 CTM0214p-CIP LỜI NHÀ XUẤT BẢN Cục diện chính trị thế giới cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI biến động và thay đổi nhanh chóng với nhiều sự kiện nổi bật có tác động không nhỏ, thậm chí còn làm xoay chuyển cán cân quyền lực tại nhiều quốc gia hay khu vực. Đông Á cũng không ngoại lệ. Diễn biến chính trị tại khu vực Đông Á luôn thu hút sự quan tâm, chú ý của cộng đồng quốc tế, giới học giả bởi đây là một điểm nóng về lợi ích kinh tế, lợi ích chính trị; một khu vực địa chiến lược quan trọng của thế giới. Năm 1991, sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu không chỉ có tác động to lớn đến nền chính trị thế giới nói chung mà còn làm thay đổi cục diện chính trị tại Đông Á nói riêng. Lúc này, các nước phương Tây, đặc biệt là Mỹ, đóng vai trò chi phối nền chính trị khu vực. Bên cạnh đó, sự phát triển nhanh về kinh tế của Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc cũng đã đưa vị thế của các quốc gia này nổi bật trên bản đồ chính trị Đông Á. Giai đoạn 1991-2016, bàn cờ chính trị Đông Á biến động không ngừng bởi sự tham gia của ngày càng nhiều quốc gia trên thế giới như Nga, Ôxtrâylia, Niu Dilân, Ấn Độ,… cũng như các tổ chức trong và ngoài khu vực như ASEAN, EU, WTO,… Vì vậy, các nước lớn trong khu vực luôn phải điều chỉnh chính sách để tăng tầm ảnh hưởng, nâng tầm vị thế của mình ở khu vực nói riêng và trên thế giới nói chung, đồng thời lựa chọn những đối tác mang lại nhiều lợi ích nhất cho quốc gia. Trong khi đó, các nước vừa và nhỏ cũng tận dụng lợi thế mà khu vực mang lại để thu hút sự đầu tư của những cường quốc trên thế giới và liên kết với các nước lớn để tạo vành đai bảo vệ chính mình trước những biến động khôn lường của nền chính trị thế giới. Kết quả là nhiều mối quan hệ hợp tác, liên minh về quân sự, chính trị, kinh tế được hình thành như Mỹ - Nhật Bản, Mỹ - Trung Quốc, Liên minh chiến lược châu Á (Nhật Bản, Hàn Quốc và ASEAN),… đồng thời cũng xuất hiện những 5 tham vọng dẫn đầu, những đối trọng chính trị khó giải quyết,… Tất cả đã góp phần làm sinh động hơn bức tranh mọi mặt của Đông Á cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI. Với mong muốn mang đến cho bạn đọc cái nhìn đầy đủ hơn về cục diện chính trị Đông Á từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật xuất bản lần thứ hai cuốn sách Cục diện chính trị Đông Á giai đoạn 1991-2016 (Sách chuyên khảo) của Tiến sĩ Trần Bách Hiếu. Đây là công trình nghiên cứu công phu với nhiều phân tích, lý giải chuyên sâu về những diễn biến chính trị nổi bật diễn ra tại Đông Á và những tác động, ảnh hưởng của những sự kiện này tới đời sống chính trị khu vực và thế giới giai đoạn này. Đặc biệt, tác giả cũng dành một phần của cuốn sách viết về tác động của cục diện Đông Á đến Việt Nam. Cuốn sách sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích cho bạn đọc và những người quan tâm tới vấn đề này. Nội dung cuốn sách thể hiện sự nghiên cứu nghiêm túc, tác giả đã có nhiều cố gắng trong việc sưu tầm tư liệu và dành nhiều tâm huyết để hoàn thành nhưng cuốn sách cũng khó tránh khỏi những thiếu sót. Một số nhận định, phân tích nêu trong cuốn sách có giá trị tham khảo tốt, nhưng vẫn còn những ý kiến, nhận xét của tác giả cần được tiếp tục nghiên cứu, trao đổi. Để bạn đọc tiện theo dõi, tham khảo, Nhà xuất bản vẫn giữ nguyên các ý kiến, nhận xét của tác giả và coi đó là quan điểm riêng. Rất mong nhận được sự góp ý từ bạn đọc, các nhà chuyên môn để cuốn sách được hoàn thiện hơn trong lần xuất bản sau. Xin giới thiệu cuốn sách cùng bạn đọc. Tháng 2 năm 2018 NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA SỰ THẬT 6 LỜI MỞ ĐẦU Chúng ta đang sống trong một giai đoạn có nhiều sự thay đổi ngoạn mục, thậm chí với nhiều người thì đã đến lúc phải viết lại nhiều thứ. Xét một cách toàn diện, đó là bởi sự đa dạng và sự vận động không ngừng của thế giới, của con người. Quan hệ chính trị quốc tế ở khu vực Đông Á cũng không nằm ngoài sự vận động chung đó. Sau gần nửa thế kỷ được định hình bởi sức mạnh và ảnh hưởng của Mỹ, cục diện chính trị khu vực Đông Á đang biến đổi hết sức nhanh chóng, thậm chí giờ đây đã diễn ra quá trình tan rã của cơ cấu quyền lực cũ để thay vào đó là một cấu trúc mới với vai trò lớn hơn của các chủ thể khác (Trung Quốc, Nhật Bản, ASEAN…) Cuốn sách Cục diện chính trị Đông Á giai đoạn 1991-2016 tập trung nghiên cứu cấu trúc, sự tương tác và biến đổi của cục diện chính trị khu vực Đông Á kể từ sau khi Liên Xô sụp đổ đến nay. Đồng thời, các điểm nóng của khu vực như vấn đề hạt nhân trên bán đảo Triều Tiên, xung đột ở Biển Đông, cạnh tranh quyền lực giữa các cường quốc,… cũng được luận giải, góp phần làm sáng tỏ những khía cạnh còn ẩn khuất. Bằng việc vận dụng lý luận của một số lý thuyết chính trị quốc tế, trong đó đặc biệt nhấn mạnh vào chủ nghĩa hiện thực (Realism) cuốn sách muốn đưa đến một cách nhìn nhất quán, mạch lạc, cũng như thấy rõ được lôgích vận động của các sự kiện. Việt Nam là một chủ thể không thể thiếu trong cục diện chính trị Đông Á, do đó, nghiên cứu cục diện chính trị khu vực cũng nhằm khảo sát, đánh giá tác động đối với Việt Nam. Từ đó, đề xuất một số định hướng đối ngoại, đóng góp vào lý luận và thực tiễn xây dựng chính sách đối ngoại của Việt Nam. Hy vọng, cuốn sách sẽ là nguồn tài liệu tham khảo có giá trị cho các bạn sinh viên, độc giả quan tâm và cả những người làm công tác nghiên cứu, hoạch định chính sách. 7 Để có được cuốn sách này, tác giả xin chân thành cảm ơn những ý kiến góp ý, động viên của GS.NGND. Vũ Dương Ninh, GS.TS. Nguyễn Văn Kim, TS. Phạm Quốc Thành, GS.TS. Đỗ Quang Hưng, PGS.TS. Hoàng Khắc Nam, PGS.TSKH. Trần Khánh, PGS.TS. Nguyễn Tất Giáp, PGS.TS. Hoàng Anh Tuấn, GS.TS. Trần Thị Vinh, PGS.TS. Nguyễn Thu Mỹ, PGS.TS. Nguyễn Thị Quế, PGS.TS. Phạm Minh Sơn, GS.TS. Đỗ Tiến Sâm, HVCH. Nguyễn Văn Trung và đặc biệt là GS.TS. Phạm Quang Minh - người đã có những đóng góp quý báu cho nội dung cuốn sách này. Xin trân trọng giới thiệu cuốn sách cùng bạn đọc. Hà Nội, tháng 4 năm 2017 TS. TRẦN BÁCH HIẾU 8 ADIZ APEC DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT Air Defense Identification Zone Vùng nhận dạng phòng không Asia Pacific Economic Cooperation Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương ARF ASEAN Regional Forum Diễn đàn Khu vực ASEAN ASEAN The Association of Southeast Asian Nations Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á BRICS Brazil, Russia, India, China, South Africa Nhóm các nền kinh tế mới nổi gồm Braxin, Nga, Ấn Độ, Trung Quốc, Nam Phi EU European Union Liên minh châu Âu EAS East Asian Summit Hội nghị Cấp cao Đông Á GDP Gross Domestic Product Tổng sản phẩm quốc nội IAEA International Atomic Energy Agency Cơ quan Năng lượng nguyên tử quốc tế IMF International Monetary Fund Quỹ Tiền tệ quốc tế NATO North Atlantic Treaty Organization Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương NICs New Industrial Countries Các nước công nghiệp mới 9 OPEC Organization of Petroleum Exporting Countries Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ SCO Shanghai Cooperation Organization Tổ chức Hợp tác Thượng Hải SEV Council of Mutual Economic Assistance (COMECON) hoặc CMEA (tiếng Anh) Hội đồng Tương trợ kinh tế SNG Tiếng Nga: Содружество Независимых Государств, viết tắt: СНГ, chuyển tự sang tiếng La Tinh thành Sodruzhestvo Nezavisimykh Gosudarstv. Tiếng Anh: Commonwealth of Independent States (CIS) Cộng đồng các quốc gia độc lập SIPRI Stockholm International Peace Research Institute Viện Nghiên cứu Hòa bình quốc tế Xtốchôm WB World Bank Ngân hàng Thế giới WTO World Trade Organization Tổ chức Thương mại thế giới 10 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CỤC DIỆN CHÍNH TRỊ VÀ VỊ TRÍ CỦA KHU VỰC ĐÔNG Á TRONG NỀN CHÍNH TRỊ THẾ GIỚI 1. Khái niệm “cục diện chính trị khu vực” 1.1. Khái niệm “cục diện” Trong nghiên cứu lịch sử thế giới nói chung, lịch sử quan hệ quốc tế nói riêng hiện nay, khi đánh giá về khía cạnh chính trị của một khu vực, có nhiều thuật ngữ được sử dụng như “kiến trúc”, “cấu trúc”, “môi trường”, “tình hình”, “thực trạng”,… nhưng có lẽ thuật ngữ đang được sử dụng phổ biến và rộng rãi là hai thuật ngữ: “trật tự” và “cục diện”. Theo Từ điển tiếng Việt, trật tự là “sự sắp xếp theo một thứ tự, một quy tắc nhất định”. Bàn về quan hệ quốc tế là bàn về sự tương tác xuyên biên giới giữa các chủ thể, trong đó, các chủ thể lớn nhất - thường được gọi là các cường quốc - đóng vai trò định hình, chi phối và quyết định trạng thái của quan hệ quốc tế. Cách sắp xếp quyền lực như vậy chính là “trật tự”, ở cấp độ thấp hơn là “cục diện”. Bàn về trật tự thế giới có nghĩa là bàn về việc quyền lực quốc tế được sắp xếp như thế nào. Theo Phạm Thái Việt, “cơ cấu phân bổ sức mạnh, có tác dụng duy trì trạng thái ổn định của hệ thống quan hệ quốc tế, được hiểu là trật tự thế giới hay trật tự quốc tế”1. Còn theo PGS.TS. Lê Minh Quân, “trật tự thế giới là sơ đồ sắp _________ 1. Phạm Thái Việt: Toàn cầu hóa: Những biến đổi lớn trong đời sống chính trị quốc tế và văn hóa, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2006, tr.9. 11 xếp các chủ thể quốc tế hàng đầu theo quy mô quyền lực của mỗi chủ thể, là sơ đồ tổ chức toàn bộ xã hội quốc tế theo những nguyên tắc nhất định,… Trong một số thời điểm lịch sử, các quan hệ quốc tế chưa được cấu trúc và vận động trong khuôn khổ trật tự cụ thể, mà chỉ được triển khai trong cục diện thế giới nhất định. Trật tự thế giới chỉ được xác lập khi hội tụ đủ ba yếu tố là các giá trị tư tưởng nền móng, sự phân ngôi giữa các cường quốc và những quy tắc được thừa nhận”1. Như vậy, có thể thấy “trật tự” bao hàm cả “cục diện”. Nếu như trật tự là bức tranh tổng thể của cả một giai đoạn, thì cục diện là bố cục và diện mạo của quyền lực xuất hiện trong một thời gian ngắn, chưa ổn định. Việc xem xét các khái niệm trật tự và cục diện có ý nghĩa quan trọng đối với việc luận giải và phân tích quan hệ quốc tế ở một khu vực trong khoảng thời gian nhất định. Trật tự thế giới gắn với tư duy quyền lực, thể hiện vị trí của quốc gia có ảnh hưởng lớn nhất trong quá trình xây dựng và thực hành “luật chơi” - nguyên tắc xử sự giữa các chủ thể của quan hệ quốc tế,… Trật tự thiên về thứ bậc trong một giai đoạn dài. Trật tự thế giới gắn với cấu trúc quyền lực, phản ánh mặt phân chia quyền lực giữa các nước lớn trong một khoảng thời gian dài xác định, có ý nghĩa đối với toàn thế giới2. Còn “cục diện khu vực” là biểu hiện tương tác quyền lực giữa các chủ thể ở một khu vực trong một thời gian ngắn, không ổn định và khó dự báo. Theo Từ điển tiếng Việt, cục diện là “tình hình chung của cuộc đấu tranh, cuộc tranh chấp, biểu hiện ra trong một thời điểm nhất định”. Trong tiếng Anh, từ “cục diện” thường được dùng là conjuncture và complexion, thể hiện tình cảnh, cảnh ngộ phản ánh diện mạo chung và cũng được hiểu là diện mạo hoặc đặc điểm, khía cạnh chung nhất của một hiện tượng, sự vật, ví dụ như trong từ “cục diện chiến tranh” (the complexion of the war). Theo Lê Văn Sang, cục diện thế giới là “kết cấu các quan hệ kinh tế chính _________ 1. PGS.TS. Lê Minh Quân (Chủ biên): Về một số xu hướng chính trị chủ yếu trên thế giới hiện nay, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2014, tr.124-125. 2. Phạm Bình Minh: “Xu thế phát triển của cục diện thế giới đến năm 2020 và định hướng chiến lược đối ngoại của Việt Nam”, Báo cáo tổng hợp kết quả nghiên cứu của đề tài Mã số KX.04/06-10, Nghiên cứu khoa học lý luận chính trị giai đoạn 2006-2010, Hà Nội, tr.66. 12 trị quốc tế, các chủ thể kinh tế chính trị lớn tương đối ổn định và có ảnh hưởng lớn đến toàn bộ thế giới trong quá trình phát triển”1. Trong một số công trình khác, các tác giả cho rằng, khái niệm cục diện chỉ “thực trạng tình hình trên các lĩnh vực chủ yếu của đời sống xã hội” thể hiện ở ba cục diện kinh tế, chính trị, an ninh và văn hóa xã hội. Tại Hội thảo khoa học Cục diện thế giới 2020 do Học viện Ngoại giao tổ chức, ngày 14-8-2008, trong bài viết “Xu hướng phát triển cục diện thế giới đến năm 2020 - Thách thức và cơ hội đối với Việt Nam”, tác giả Hồng Hà có đưa ra định nghĩa: Cục diện thế giới là bộ mặt tổng quan, trạng thái các lực lượng, các chủ thể trong đời sống quốc tế có mối quan hệ tác động lẫn nhau ở một thời điểm nhất định. Như vậy, “cục diện thế giới” là một khái niệm động, chuyển biến với tần suất ngày càng nhanh, phức tạp và có những đột biến khó lường, khó dự báo. Khái niệm này không nên chỉ được hiểu là tình hình chung thế giới mà nó còn có nội hàm rộng bao gồm cả cục diện chính trị và cả các lĩnh vực khác như kinh tế, văn hóa, môi trường, sắc tộc, tôn giáo, quốc phòng, an ninh…, với những mối liên kết song phương, đa phương, toàn cầu. Cục diện thế giới phát triển có quy luật. Hiểu được quy luật phát triển mới có cách đánh giá đúng cục diện. Trong cái biến đổi của cục diện có thể tìm ra cái không biến đổi, cái trật tự trong sự mất trật tự của cục diện. Cũng trong một bài viết, tác giả Lê Văn Cương đưa ra khái niệm: “Cục diện thế giới là sự vận động, phát triển của sự phân bố lực lượng và cấu trúc quyền lực giữa các quốc gia, trước hết và chủ yếu là giữa các cường quốc, trên sân khấu chính trị thế giới được thể hiện ở các trạng thái chiến tranh - hòa bình, ổn định và không ổn định, xung đột và hòa dịu, hợp tác và cạnh tranh thỏa hiệp và đối đầu ở cấp độ toàn cầu”. Trong bài viết “Vài ý kiến về cục diện thế giới hiện nay”, tác giả Vũ Dương Huân có đưa ra khái niệm: “cục diện thế giới, cục diện khu vực” là “tình hình mọi mặt của thế giới, khu vực, trong một khoảng thời gian nhất định cũng như tương quan lực lượng giữa các lực lượng chính trị chủ yếu trên bàn cờ chính trị thế giới, khu vực”. _________ 1. Lê Văn Sang (Chủ biên): Cục diện kinh tế thế giới hai thập niên đầu thế kỷ XXI, Nxb. Thế giới, Hà Nội, 2005, tr.12. 13 Nói tóm lại, có thể hiểu “cục diện” là thuật ngữ thể hiện bố cục, diện mạo, trạng thái quan hệ giữa các quốc gia, sự phân bổ quyền lực trong một giai đoạn nhất định, là trạng thái biểu hiện một cách tổng quát của các mặt, nhưng lại mang tính đặc trưng của sự vật. Nói đến cục diện là nói đến vị trí, vai trò của các cường quốc trong khu vực, các mô hình quản lý an ninh tương đối ổn định và khả năng dự báo về tình hình trong tương lai. Đây cũng chính là quan điểm xuyên suốt mà cuốn sách áp dụng trong quá trình thực hiện. 1.2. Khái niệm “cục diện chính trị khu vực” Về khái niệm “cục diện chính trị khu vực”, đã có nhiều định nghĩa được đưa ra. Có quan điểm cho rằng đó là kết cấu quyền lực được hình thành bởi so sánh lực lượng, tập hợp lực lượng giữa các quốc gia trong khu vực, là những nguyên tắc, quy phạm, phương pháp, khả năng xử lý các mối quan hệ giữa các quốc gia với nhau trong khu vực. Một quan điểm khác cho rằng: “Cục diện chính trị” được hiểu với ý nghĩa chung nhất là khả năng của các quốc gia, chủ thể chi phối, tham gia chi phối sân khấu chính trị thế giới, khu vực. Cũng theo quan điểm này, muốn chi phối hoặc tham gia chi phối “sân khấu” chính trị thế giới, khu vực, các quốc gia, chủ thể cần có sức mạnh quân sự, tiềm lực kinh tế, an ninh và giá trị văn hóa dân tộc. Từ đó có thể đưa ra định nghĩa: “Cục diện chính trị khu vực” là kết cấu các quan hệ chính trị quốc tế giữa các chủ thể quan hệ chính trị quốc tế của khu vực (vị trí, vai trò của các cường quốc khu vực, các nước vừa và nhỏ, các quốc gia bên ngoài khu vực) hình thành nên các mô hình quản lý an ninh, xung đột tương đối ổn định của khu vực trong một giai đoạn nhất định, đồng thời có khả năng dự báo trong tương lai gần. Cục diện chính trị luôn tác động trở lại cục diện kinh tế của khu vực và ngược lại. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, khi nói đến chính trị là nói đến quyền lực, đến giai cấp và nhà nước. Nội dung cốt lõi của quyền lực là lợi ích kinh tế. Khi bàn đến các nhà nước trong khu vực đại diện cho các giai cấp nào, nhằm lợi ích gì, thông qua việc tổ chức và tập hợp các lực lượng như thế nào, xây dựng các mối quan hệ quốc tế ra sao, bằng hình thức và cơ chế gì để đạt được và bảo vệ các lợi ích đó cũng có nghĩa là chúng ta đang bàn đến thực trạng chính trị của khu vực. Khi nghiên cứu, tìm hiểu diễn biến của các quan hệ quốc tế trong khu vực, đặc 14 biệt là tìm hiểu lợi ích bên trong của các mối quan hệ giữa các nước lớn với nhau, giữa các nước lớn với các nước nhỏ và giữa các nước nhỏ với nhau, đồng thời thấy được những biện pháp, cơ chế và các hình thức mà các nước này triển khai thực hiện nhằm vào các lợi ích bên trong đã xác định đó cũng có nghĩa là chúng ta đang nghiên cứu một cách tổng thể thực trạng chính trị của khu vực. Ngoài ra, nghiên cứu cục diện chính trị khu vực là xác định những vấn đề an ninh, chính trị nổi bật của khu vực, chi phối quan hệ giữa các quốc gia và cách thức mà các quốc gia trong khu vực ứng xử với các vấn đề chung đó. Những vấn đề của khu vực đang nổi lên hiện nay có lẽ cũng không khác nhiều so với các vấn đề của thế giới, bao gồm an ninh, hợp tác và xung đột. Về đại thể, quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin (giới học giả quốc tế vẫn thường gọi là quan điểm mácxít hay cấp tiến) bàn đến cục diện chính trị ở mấy khía cạnh sau đây: (i) chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản là hai lực lượng chính của nền chính trị thế giới, mâu thuẫn giữa hai lực lượng này là mâu thuẫn cơ bản của thời đại; (ii) mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản với giai cấp công nhân là mâu thuẫn xã hội căn bản; (iii) quan hệ cạnh tranh và mâu thuẫn giữa các nước phát triển với các quốc gia kém hoặc đang phát triển do các nước phát triển thường xuyên đề ra “luật chơi” và các chuẩn giá trị “ép” các nước phát triển chậm hơn phải tuân theo; (iv) các nước đế quốc, tư bản phát triển cũng mâu thuẫn với nhau, có thể gây nên chiến tranh hoặc xung đột có vũ trang để tranh giành quyền lợi. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin coi lợi ích kinh tế (sự hám lợi của các nước tư bản) là yếu tố căn bản tạo nên sự thay đổi trong cục diện chính trị thế giới và khu vực. Ví dụ, “cơ cấu kinh tế của chủ nghĩa tư bản, được giải thích là nguyên nhân khiến nước Mỹ (với tư cách là một nước tư sản vượt trội trên thế giới) trở thành một nước có tư tưởng bành trướng chưa từng thấy, một quốc gia triển khai ngoại giao pháo hạm và các cuộc xâm lược vũ trang vượt quá địa phận của mình, kích động những căng thẳng quốc tế và chạy đua vũ trang”1. _________ 1. George H. Quester: “American Foreign Policy (Chính sách đối ngoại của Mỹ)” theo Joel Krieger (Chủ biên): Toàn cảnh nền chính trị thế giới, Nxb. Lao động, Hà Nội, 2009, tr.42. 15 Từ quan điểm của chủ nghĩa hiện thực - một lý thuyết nổi trội về chính trị quốc tế - cục diện chính trị cũng chính là mô hình địa - chính trị hay cấu trúc quyền lực của một khu vực được xác lập dựa trên thế cân bằng quyền lực giữa các chủ thể; hoặc sự thống trị vượt trội của một chủ thể đứng đầu so với phần còn lại (hệ thống đơn cực - bá quyền). Gần đây, thuật ngữ “cấu trúc khu vực” được sử dụng phổ biến hơn trong giới học thuật và giới chính trị gia khi nghiên cứu, thảo luận về cục diện và trật tự khu vực. Theo đó, “các khía cạnh của cấu trúc khu vực được quan tâm nhiều nhất là: (i) nhân tố chủ đạo, hay kiến trúc sư của cấu trúc khu vực; (ii) các nhân tố cấu thành khác của cấu trúc khu vực; (iii) chức năng của cấu trúc khu vực, hay cấu trúc khu vực đó nhằm giải quyết vấn đề gì?”1. Đồng thời, do các vấn đề chính trị cao cấp (xung đột, chiến tranh và hòa bình) thường được sự quan tâm lớn nhất của nhân loại, cũng như sự đan xen lẫn nhau giữa chính trị học cao cấp và chính trị học thứ cấp (kinh tế chính trị), do đó thuật ngữ “cấu trúc khu vực” thường đề cập vấn đề an ninh hay mối quan hệ giữa các quốc gia liên quan đến an ninh khu vực. Điều đó có nghĩa là “cấu trúc khu vực” bàn đến mối quan hệ quyền lực giữa các chủ thể trong khu vực đó, mối quan hệ quyền lực giữa các chủ thể tạo nên cục diện chính trị khu vực. Từ nội hàm của khái niệm “cục diện chính trị khu vực” có thể rút ra hai vấn đề trọng tâm là: chủ thể (chính và phụ) của cục diện đó là ai?; mối quan hệ giữa các chủ thể này dẫn đến hệ quả gì? Chẳng hạn, Henry A.Kissinger trong bài viết “A Path Out of the Middle East Collapse” (Lối thoát cho sự sụp đổ của Trung Đông)2 coi Mỹ và Nga là “kiến trúc sư” của cấu trúc địa chính trị Trung Đông kể từ khi nó được hình thành năm 1973 sau cuộc chiến tranh Arập - Ixraen, do đó mối quan hệ giữa hai kiến trúc sư chính này sẽ quyết định đến sự tồn tại của cục diện khu vực. _________ 1. Nguyễn Hùng Sơn: “Cấu trúc khu vực và vấn đề mở rộng cấu trúc khu vực ở châu Á - Thái Bình Dương”, Tạp chí Nghiên cứu quốc tế, số 2(81), tháng 6-2010, tr.5-22. 2. Xem Henry A. Kissinger: “A Path Out of the Middle East Collapse”, Tạp chí The Wall Street Journal, ngày 16-10-2015, http://www.wsj.com/articles/ a-path-out-of-the-middle-east-collapse-1445037513. 16 Nói tóm lại, nghiên cứu quá trình vận động của cục diện chính trị khu vực Đông Á giai đoạn 1991-2016 là tìm hiểu vị trí và vai trò của những chủ thể là các cường quốc lớn trong khu vực (Trung Quốc, Nhật Bản), những chủ thể là các quốc gia vừa và nhỏ qua các cơ chế hợp tác đa phương mà ASEAN là tiêu biểu, và đặc biệt là những chủ thể ngoài khu vực có ảnh hưởng lớn đến khu vực (Mỹ, Nga); tìm hiểu sự tương tác giữa các chủ thể đó trong giai đoạn 1991-2016. 2. Những nhân tố tác động đến cục diện khu vực và thế giới Một là, sự thay đổi và đấu tranh của các chủ thể chủ yếu trên trường quốc tế. Nhà nước dân tộc (nation-state) - hay quốc gia - tiếp tục là chủ thể cơ bản và quan trọng nhất của nền chính trị thế giới. Đây là lực lượng truyền thống tác động đến cục diện chính trị khu vực và thế giới. Chủ thể quốc gia thường đi kèm với phạm trù lợi ích dân tộc. Sự mở rộng và phát triển của quan hệ quốc tế cũng dẫn đến sự ra đời của nhiều chủ thể khác tồn tại song song với các quốc gia như các tổ chức quốc tế, các cá nhân, thậm chí là các nền văn hóa - văn minh. Các tổ chức quốc tế bao gồm Tổ chức Liên Chính phủ (IGOs), công ty đa quốc gia (MNC), các tổ chức phi chính phủ (NGOs) và các tổ chức khác (các phong trào xã hội, tổ chức khủng bố,…). Các cá thể, cá nhân đại diện cho quốc gia, chẳng hạn như Giáo hoàng Vatican, hoặc phi quốc gia, như thủ lĩnh Al-Qeada Osama Bin Laden, có ảnh hưởng rất lớn đến chính trị quốc tế. Các nền văn hóa - văn minh có được coi là chủ thể của nền chính trị thế giới hay không vẫn còn là vấn đề gây nhiều tranh cãi, nhất là từ khi cuốn sách Sự va chạm của các nền văn minh của học giả người Mỹ Samuel P. Huntington xuất bản, song ảnh hưởng của văn hóa - văn minh thông qua tôn giáo, bản sắc, nhân khẩu… đến quan hệ quốc tế là hiện thực không thể phủ nhận. Đây là nhân tố quan trọng trong việc đưa đến sự thay đổi của cục diện thế giới. Trong nền chính trị thế giới, các chủ thể quan hệ quốc tế, mà trước hết là các quốc gia - dân tộc có lợi ích khác nhau. Thông thường, các quốc gia - dân tộc chia làm hai lực lượng chủ yếu trong việc thay đổi cục diện, trật tự thế giới. Có những nước ủng hộ việc duy trì cục diện, trật tự hiện hành vì lợi ích của mình, song lại có những lực lượng muốn thay đổi 17 cục diện hiện hành, phấn đấu cho một cục diện mới có lợi cho mình hơn nhất là khi tương quan lực lượng đã thay đổi. Sự kết thúc của Chiến tranh lạnh và sự sụp đổ của Liên Xô cũng chấm dứt sự chi phối của ý thức hệ đối với sự cạnh tranh giữa các lực lượng trong nền chính trị thế giới. Hai là, sự thay đổi của cán cân quyền lực thế giới. Cục diện thế giới được tạo nên bởi các chủ thể quan hệ quốc tế, tương quan lực lượng giữa các chủ thể, nhất là các chủ thể chủ chốt. Cán cân quyền lực thay đổi, đương nhiên sẽ dẫn đến sự biến động của cục diện. Lịch sử quan hệ quốc tế đã chứng minh cán cân quyền lực giữa các chủ thể thay đổi bao giờ cũng kéo theo sự thay đổi của cục diện thế giới, thậm chí cả trật tự thế giới. Trạng thái cân bằng quyền lực - tiếp cận từ quan điểm chủ nghĩa hiện thực mới - đã sụp đổ từ năm 1991 dẫn đến sự thay đổi căn bản trong cán cân quyền lực thế giới với ưu thế nghiêng về Mỹ và châu Âu là đặc trưng căn bản của cục diện thế giới hậu Chiến tranh lạnh. Điều này có tác động rất lớn tới quan hệ quốc tế, sự hình thành và tan rã của các liên minh cũng như việc tập hợp lực lượng tại nhiều khu vực trên thế giới. Ba là, các xu thế chủ yếu của thế giới đương đại. Xu thế lớn của thế giới chính là tính quy luật của thế giới đương đại. Các chủ thể quan hệ quốc tế muốn phát triển phải tuân theo quy luật và tính quy luật. Nếu không tôn trọng các quy luật, tính quy luật sẽ phải trả giá. Các quốc gia đều nhận thức được điều đó. Cục diện thế giới hình thành và vận động theo quy luật và tính quy luật dù các chủ thể có nhận biết được các quy luật và tính quy luật hay không. Theo đa số các nhà nghiên cứu quốc tế, khoa học quan hệ quốc tế là khoa học phức tạp nhất trong khoa học xã hội và nhân văn. Chính vì vậy, nhiều học giả cho rằng chỉ nên nói đến tính quy luật trong quan hệ quốc tế là chính1. Bốn là, cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại và tác động của toàn cầu hóa. Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại tiếp tục phát triển mạnh mẽ với nhiều kỳ tích mới trên nhiều lĩnh vực. Đặc biệt, có những _________ 1. Vũ Dương Huân: “Bàn về quy luật và tính quy luật trong quan hệ quốc tế”, Tạp chí Nghiên cứu quốc tế, số 2/2006, tr.15. 18 thành tựu mới về tạo ra nguồn năng lượng mới thay thế dầu mỏ, công nghệ xử lý môi trường ô nhiễm và công nghệ vũ trụ. Những thành tựu của cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại phát triển biến tri thức trở thành yếu tố quan trọng bên trong quá trình sản xuất, tạo ra nền kinh tế tri thức, quyết định sự phát triển của nền kinh tế thế giới và thúc đẩy xu thế phát triển của cục diện khu vực và thế giới. Cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại cùng kinh tế tri thức làm tăng tốc sự phát triển của lực lượng sản xuất, đòi hỏi mở rộng thị trường, thúc đẩy các mối quan hệ, liên hệ giữa tất cả các khu vực, các quốc gia - dân tộc trên thế giới. Các học giả, chẳng hạn như Alvin Toffler trong cuốn Làn sóng thứ ba, đã bàn đến thời kỳ văn minh hậu công nghiệp, bất chấp một thực tế rằng còn rất nhiều quốc gia đang ở trong tình trạng chậm hoặc đang phát triển, chưa đạt đến trình độ văn minh công nghiệp. Toàn cầu hóa tác động mạnh mẽ đến cục diện chính trị thế giới và khu vực, cụ thể là tác động trực tiếp và chi phối xu hướng phát triển cục diện, trật tự thế giới. Để chống lại sự thống trị của một siêu cường duy nhất thì chủ trương đa cực có ý nghĩa nhất định trong tương quan lực lượng quốc tế hiện nay. Toàn cầu hóa đi đôi với khu vực hóa. Khu vực hóa vừa như một nấc thang của toàn cầu hóa, vừa như một hình thức liên kết các nước trong vùng để đối phó với sự cạnh tranh và tác động tiêu cực từ toàn cầu hóa, hoặc từ các thế lực mạnh hơn. Ngoài ra, toàn cầu hóa với vô số những hình thức liên kết; hợp tác song phương, đa phương, đa dạng và nhiều tầng, nhiều cấp độ khác nhau, khiến sự giao lưu, ràng buộc và tùy thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia - dân tộc ngày càng sâu rộng. Theo một số nhà nghiên cứu, toàn cầu hóa có những tác động rất lớn đối với hệ thống quan hệ quốc tế, như: sự biến dạng của các tác nhân trong hệ thống, trước hết là chủ quyền của các nhà nước dân tộc; sự biến đổi mang tính tương phản của các quan hệ trong hệ thống, vừa gia tăng tính phụ thuộc lẫn nhau, vừa khơi dậy tính tự quyết dân tộc. Bởi vậy, toàn cầu hóa cũng hàm ý về sự “hình thành nên một trật tự thế giới tùy thuộc lẫn nhau của các quan hệ siêu quốc tế và xuyên quốc gia”1. Tác động của toàn cầu hóa lớn _________ 1. Phạm Thái Việt: Toàn cầu hóa: Những biến đổi lớn trong đời sống chính trị quốc tế và văn hóa, Sđd. 19 đến nỗi một số học giả người Nga như Aleksey Bogaturov hay Viktor Averkov cho rằng, xu thế toàn cầu hóa dẫn tới sự xuất hiện một trạng thái mới của hệ thống quốc tế1. Tóm lại, cục diện chính trị của một khu vực được tạo nên bởi sự kết hợp vị trí, vai trò của các quốc gia lớn, các cơ chế đa phương, trong đó nổi bật là các quốc gia thành viên vừa và nhỏ, các chủ thể phi quốc gia như các công ty xuyên quốc gia, các tổ chức phi chính phủ trong và ngoài khu vực. Tuy nhiên, do nội dung nghiên cứu khá rộng nên cuốn sách chủ yếu nghiên cứu về vị thế, vai trò của các cường quốc trong khu vực, vị trí, vai trò của các nước vừa và nhỏ thông qua hoạt động của các cơ chế hợp tác đa phương và vị trí, vai trò của các cường quốc ngoài khu vực, đó chính là những chủ thể quan trọng nhất trong việc định hình cục diện chính trị khu vực. Bên cạnh đó, cục diện chính trị khu vực cũng chịu sự tác động, ảnh hưởng bởi các yếu tố như: (i) sự đấu tranh của các chủ thể chủ yếu trên trường quốc tế; (ii) sự thay đổi của cán cân quyền lực thế giới; (iii) các xu thế chủ yếu của thế giới đương đại; (iv) cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại và tác động của toàn cầu hóa. 3. Vị trí của Đông Á trong nền chính trị thế giới Cho đến nay, đã có rất nhiều ý kiến về cách xác định khuôn khổ Đông Á xét từ các tiêu chí khu vực địa - văn hóa, địa - lịch sử, địa - chính trị, song mỗi cách xác định cũng tồn tại những hạn chế do sự đa dạng của thế giới. Vì vậy, khái niệm về khu vực Đông Á cũng chỉ mang tính tương đối. Về mặt địa lý, Đông Á nằm ở phía Đông của lục địa Á - Âu. Có ý kiến cho rằng Đông Á bao gồm Đông Bắc Á và Đông Nam Á, hoặc coi Đông Á chính là Đông Bắc Á. Ngoài ra, còn có cách gọi Đông Á bao gồm cả Nam Á nhưng cách gọi này không phổ biến. Hay có cách hiểu khác, Đông Á là vùng bờ Tây của Thái Bình Dương, trải dài từ các vùng ven Thái Bình Dương thuộc phần đất của Nga ở phía bắc tới Xingapo ở phía nam. Theo Từ điển Bách khoa thư: “Đông Á là một phần của vành đai núi lửa quanh Thái Bình Dương và của máng tetít cũ chạy từ sơn nguyên Tiểu Á _________ 1. Xem Bogaturov Aleksey Demosfenovich và Averkov Viktor Viktorovich: Lịch sử quan hệ quốc tế, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2016, tr.568. 20 đến quần đảo Mã Lai”, theo đó, Đông Á là một phần lục địa châu Á, giáp Thái Bình Dương, thuộc đới khí hậu ôn đới, cận nhiệt đới và nhiệt đới (20-60 độ vĩ Bắc), phần đất liền chủ yếu thuộc nền Trung Hoa và khu uốn nếp Trung Sinh, ngoài đất liền còn quần đảo Kuril, Sakhalin, Nhật Bản, Đài Loan. Các nước ở Đông Á gồm miền Viễn Đông của Nga, Trung Quốc, Nhật Bản,Triều Tiên, Hàn Quốc. Tuy nhiên, cũng có ý kiến cho rằng Đông Á chính là khu vực châu Á - Thái Bình Dương, bao gồm hai tiểu khu vực là Đông Bắc Á và Đông Nam Á1. Hơn nữa, Đông Á cũng bị chia cắt mạnh mẽ giữa lục địa và hải đảo, các đại dương đóng vai trò quan trọng đối với kinh tế - văn hóa của các quốc gia. Nhà nghiên cứu chính trị quốc tế Robert D. Kaplan viết: “Đông Á là một hải cảnh” (East Asia a Seascape) cho thấy biển là một phần không thể thiếu khi nói đến địa - chính trị khu vực Đông Á. Bởi vậy, giới nghiên cứu phương Tây vẫn thường gọi là khu vực Đông Á - Thái Bình Dương (East Asia - Pacific), nhưng bao gồm một khu vực rộng lớn hơn. Văn hóa - xã hội được coi là khía cạnh gây tranh cãi nhất khi bàn về Đông Á. Khác với châu Âu - nơi chủ yếu chịu ảnh hưởng bởi Kitô giáo, thì Đông Á lại là một khu vực rất đa dạng về văn hóa. Những học giả theo quan niệm chủ nghĩa kiến tạo xã hội (Social Constructivism), chẳng hạn như Peter J. Katzenstein cho rằng, khái niệm khu vực cần được nhắc đến dựa trên nền tảng về mặt xã hội - chính trị - văn hóa, chứ không phải từ yếu tố địa lý2. Tuy nhiên, Samuel P. Huntington, nhà chủ nghĩa hiện thực mới nổi tiếng với luận thuyết “sự va chạm của các nền văn minh”, vẫn coi Đông Á bao gồm cả Đông Bắc Á và Đông Nam Á, “đây là ngôi nhà chung của những con người thuộc sáu nền văn minh khác nhau”3. Đông Bắc Á chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của nền văn minh Trung Hoa, cho dù _________ 1. Lê Hải Bình: “Tác động của quan hệ Mỹ - Trung đến an ninh châu Á - Thái Bình Dương sau Chiến tranh lạnh”, Luận án Tiến sĩ Quan hệ quốc tế, Học viện Ngoại giao, 2013, tr.39. 2. Xem Hoàng Khắc Nam: Một số vấn đề lý luận quan hệ quốc tế dưới góc nhìn lịch sử, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2014, tr.96-97. 3. Samuel Huntington: Sự va chạm giữa các nền văn minh, Nxb. Lao động, Hà Nội, 2005, tr.157. 21 Nhật Bản là một biệt lệ; còn Đông Nam Á là sự pha trộn giữa Hồi giáo (Inđônêxia là quốc gia có đông người Hồi giáo nhất thế giới), Phật giáo, Kitô giáo và các tôn giáo bản địa khác. Như thế, việc phân định khu vực dựa trên khía cạnh văn hóa - xã hội dường như không phù hợp ở Đông Á, do đó Đông Á chỉ đơn giản là tên gọi về mặt địa lý, còn nó thuộc các nền văn minh khác nhau. Rõ ràng, có nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm khu vực Đông Á. Chính vì những nhận thức khác nhau về khu vực Đông Á mà quan niệm về Đông Á của các nhà nghiên cứu cũng rất khác nhau. Trong khuôn khổ cuốn sách này, quan điểm của tác giả khi nói đến Đông Á là nói đến cả hai khu vực: Đông Bắc Á gồm các nước Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Triều Tiên; Đông Nam Á với toàn bộ 11 quốc gia: Brunây, Campuchia, Timo Lexte, Inđônêxia, Lào, Malaixia, Mianma, Philíppin, Xingapo, Thái Lan và Việt Nam. Tuy không nằm trong phạm vi địa lý tự nhiên của khu vực Đông Á nhưng với vị trí, sự can dự và liên hệ của mình với khu vực Đông Á, Mỹ, Nga cũng được đề cập như một trong những chủ thể có vai trò quan trọng trong quá trình tạo nên cục diện chính trị Đông Á bên cạnh các cường quốc, tổ chức ngoài khu vực như Ấn Độ, Ôxtrâylia, Niu Dilân, EU,... Đông Á là khu vực có vị trí địa - chiến lược đặc biệt trên thế giới, là nơi hội tụ lợi ích của các trung tâm quyền lực lớn nhất thế giới và cũng là khu vực nằm trong quỹ đạo ảnh hưởng của các cường quốc trong và ngoài khu vực. Điều này đã được khẳng định qua lịch sử phát triển của khu vực trong những thế kỷ qua, đặc biệt là từ đầu thế kỷ XXI đến nay. Vì vậy, Đông Á trở thành trung tâm nghiên cứu của các học giả trong nước và quốc tế, chủ đề bàn luận giữa các nguyên thủ quốc gia và các chính khách quốc tế. Sự chuyển mình của Đông Á trong nửa cuối thế kỷ XX đến nay được xem là một sự “thần kỳ”, vì vậy giới học giả và chính trị gia đã bàn đến ý tưởng về “giá trị châu Á” và liệu rằng “thế kỷ XXI có phải là thế kỷ của châu Á hay không”. Khu vực Đông Á ngày càng đóng vai trò quan trọng trong mọi lĩnh vực của thế giới giai đoạn sau Chiến tranh lạnh, trong đó nổi bật nhất là kinh tế. Nhà phân tích chính trị quốc tế Fareed Zakaria, tác giả của cuốn sách nổi tiếng Thế giới hậu Mỹ, khi nói đến “phần còn lại của thế giới” đã 22 nhắc đến Trung Quốc và Ấn Độ là hai tác nhân chính của sự chuyển dịch quyền lực trong thế kỷ XXI, đe dọa tới vị thế độc tôn của Mỹ. Song Zakaria vẫn cho rằng sức mạnh và vị thế tuyệt đối của Mỹ khó có thể bị lu mờ, ít nhất là trong thế kỷ này. Xuất phát từ đặc điểm trên, các nước lớn trong khu vực đều điều chỉnh chính sách khu vực của mình, nhằm mở rộng ảnh hưởng, giành lấy vai trò chi phối khu vực. Hệ quả là cục diện khu vực luôn đứng trước khả năng thay đổi. Bảng 1: Thông tin cơ bản về các nước Đông Á hiện nay Quốc giaDân số (triệu người) GDP (tỷ USD) Chi tiêu quân sự (tỷ USD) Brunây 0,423 15,4 0,424 Campuchia 15,5 18 0,278* Timo Lexte 1,2 1,4 0,037 Hàn Quốc 50,6 1377,8 36,435 Inđônêxia 257,5 861,9 7,642 Lào 6,8 12,3 0,022** Malaixia 30,3 296,2 4,549 Mianma 53,8 64,8 2,193*** Nhật Bản 126,9 4123,2 40,885 Philíppin 100,6 291,9 3,870 Thái Lan 67,9 395,2 5,737 Triều Tiên 25,1 - - Trung Quốc 1371,2 10866,4 214,787 Việt Nam 91,7 193,5 4,571*** Xingapo 5,5 292,7 9,417 Tổng cộng 2205,023 18810,7 330,847 Thế giới 7,347 73434 1676 Nguồn dữ liệu: SIPRI (2016); WB (2016). * Dữ liệu ước tính năm 2014 ** Dữ liệu ước tính năm 2013 *** Dữ liệu có mức độ chắc chắn không cao 23 Chương 2 MỸ DẪN DẮT QUAN HỆ QUỐC TẾ Ở ĐÔNG Á GIAI ĐOẠN 1991-2009 1. Khái quát về cục diện chính trị Đông Á trước năm 1991 Sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc (1945) và trong suốt thời kỳ Chiến tranh lạnh (1947-1991), thế giới bị phân chia thành hai khối chủ đạo giữa Đông và Tây, giữa khối tư bản chủ nghĩa ở phương Tây do Mỹ đứng đầu và khối xã hội chủ nghĩa có Liên Xô là thành trì. Tình trạng đối đầu Đông - Tây của thời kỳ Chiến tranh lạnh thường được biết đến là cuộc đụng độ của ý thức hệ. Cuộc chiến ý thức hệ trở thành cách tiếp cận chủ yếu đối với quá trình vận động của thế giới trong thế kỷ XX. Kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, quan hệ quốc tế ở Đông Á trải qua nhiều biến động, có ảnh hưởng sâu sắc tới tình hình an ninh khu vực và tác động mạnh mẽ đến cán cân quyền lực toàn cầu. Nếu như trước Chiến tranh thế giới thứ hai Nhật Bản trở thành quốc gia duy nhất có khả năng dẫn dắt quan hệ quốc tế trong khu vực sau khi trở thành cường quốc mạnh nhất, thì tham vọng đó đã bị dập tắt khi nước này đầu hàng Đồng minh do thất bại trong cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai. Sự phát triển thần kỳ của Nhật Bản từ thập niên 1960 tiếp tục làm sống dậy ý tưởng về sự thống trị của Nhật Bản ở Đông Á, nhưng bối cảnh quốc tế thời kỳ này không còn phù hợp. Năm 1949, nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa được thành lập với sự thống nhất về lãnh thổ và chính quyền dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc có ý nghĩa rất lớn đối với Đông Á. Trung Quốc đã từng là quốc gia hùng mạnh nhất châu Á trong suốt thời kỳ phong kiến. 24 Quốc gia này có một lãnh thổ rộng lớn với dân số đông đúc, một trong những nền văn minh rực rỡ nhất thế giới phương Đông. Năm 1971, theo Nghị quyết số 2758 của Đại hội đồng Liên hợp quốc, nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa thay thế Trung Hoa Dân quốc ở vị trí Ủy viên thường trực của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, đánh dấu sự gia tăng vai trò quốc tế của Trung Quốc. Điều đó càng được bảo đảm hơn nhờ sự dàn xếp của Ngoại trưởng Mỹ Henry Kissinger và mối quan hệ căng thẳng giữa Trung Quốc và Liên Xô sau các tranh chấp biên giới đã thúc đẩy sự xích lại gần nhau giữa Trung Quốc và Mỹ, bất chấp sự khác biệt về ý thức hệ. Năm 1972, Tổng thống Mỹ Richard Nixon tới thăm Trung Quốc, mở ra thời kỳ mới chuyển “thù” thành “bạn” trong quan hệ Trung Quốc - Mỹ. Cũng từ đây, cục diện chính trị khu vực Đông Á sau Chiến tranh thế giới thứ hai được hình thành. Trong thời kỳ Chiến tranh lạnh, Đông Á trở thành nơi tương tác mạnh mẽ nhất giữa các cường quốc thông qua hai cuộc chiến tranh ở Việt Nam và bán đảo Triều Tiên. Liên Xô với tư cách là quốc gia dẫn dắt khối xã hội chủ nghĩa - và Trung Quốc đã đóng vai trò cân bằng với Mỹ và các đồng minh châu Á ở Đông Á. Quan điểm về “khu đệm” ở Đông Á là “kết quả của sự thỏa hiệp” giữa Liên Xô và Mỹ trong thời kỳ Chiến tranh lạnh1, khi Liên Xô sụp đổ thì Trung Quốc đã thay thế Liên Xô cho dù về tương quan sức mạnh thì Trung Quốc yếu thế hơn hẳn Liên Xô và Mỹ. Trên bán đảo Triều Tiên, vĩ tuyến 38 (Bắc) trở thành ranh giới chia cắt hai nhà nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên ở phía bắc theo phe chủ nghĩa xã hội và Đại Hàn Dân quốc ở phía nam liên kết với Mỹ. Tình trạng chia cắt trên bán đảo Triều Tiên chính là kết quả của sự thỏa hiệp giữa các cường quốc về “khu đệm” ở Đông Á. Giai đoạn này, Tổng thống Mỹ H. Truman đang trong chiến lược chống chủ nghĩa cộng sản trên toàn thế giới, ngăn chặn sự bành trướng của Liên Xô, nhằm đưa nước Mỹ lên vị thế thống trị. Các quan chức bảo thủ trong chính phủ Mỹ lo ngại về mối quan hệ trên cơ sở ý thức hệ giữa Liên Xô và Trung Quốc có thể trở thành một khối chống lại phương Tây, _________ 1. Xem Bogaturov Aleksey Demosfenovich, Averkov Viktor Viktorovich: Lịch sử quan hệ quốc tế, Sđd, tr.137. 25 bất chấp những mâu thuẫn trong quan hệ Trung - Xô do tham vọng riêng của mỗi nước1. Trong khi Mỹ tỏ ra thận trọng hơn, họ vừa không chấp nhận chính phủ độc tài Lý Thừa Vãn (Syngman Rhee) ở Hàn Quốc, vừa xem Triều Tiên không nằm trong “chu vi an toàn Thái Bình Dương” của Mỹ - Triều Tiên, không được coi là nhân tố quan trọng sống còn đối với những quyền lợi quốc gia của Mỹ2. Thậm chí, ngay cả khi chiến tranh Triều Tiên xảy ra năm 1950, Tổng thống Mỹ Truman cũng chỉ chấp nhận một cuộc chiến tranh “có giới hạn”. Tuy nhiên, Tướng MacArthur - một người theo chủ nghĩa bảo thủ cứng rắn - đã quyết định hỗ trợ Hàn Quốc chống lại Triều Tiên với sự hậu thuẫn từ Liên Xô và Trung Quốc. Sau khi Tướng MacArthur bị miễn nhiệm, chiến tranh Triều Tiên tiếp tục diễn ra dẫn đến hiệp định đình chiến năm 1953, do đó, về mặt kỹ thuật, cuộc chiến vẫn chưa kết thúc và hai miền vẫn luôn ở trong trạng thái chuẩn bị cho chiến sự có thể bùng nổ bất cứ lúc nào. Sự chia cắt trên bán đảo Triều Tiên chính là hậu quả của tình trạng đối đầu, song cũng là sự tính toán, thỏa thuận lợi ích thực dụng giữa các cường quốc trong thời kỳ Chiến tranh lạnh. Chiến tranh Triều Tiên (1950- 1953) đã trở thành cuộc xung đột đầu tiên mà lực lượng quân sự của các cường quốc tham chiến với nhau, mặc dù tránh được một thảm họa hạt nhân tương tự như Nhật Bản, nhưng đổi lại bán đảo Triều Tiên đã bị phân ly thành hai nhà nước ở hai miền. Từ những thập niên 1960 và 1970, mà đỉnh điểm là năm 1972, khi cuộc gặp gỡ giữa Trung Quốc và Mỹ diễn ra, tình hình chính trị ở Đông Bắc Á dần ổn định hơn, các quốc gia trong khu vực đã bắt đầu bước vào công cuộc xây dựng đất nước, dù nguy cơ chiến tranh và xung đột vẫn luôn thường trực do nhiều mâu thuẫn khác nhau. Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Xingapo là những quốc gia và vùng lãnh thổ đạt được sự phát triển thịnh vượng về kinh tế và sự ổn định, trở thành hình mẫu cho sự phát triển của châu Á. Đất nước Trung Quốc rộng lớn sau một _________ 1. Xem Phạm Quang Minh: Quan hệ quốc tế ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2014, tr.19. 2. Xem Bogaturov Aleksey Demosfenovich, Averkov Viktor Viktorovich: Lịch sử quan hệ quốc tế, Sđd, tr.150. 26 loạt những khó khăn, bất ổn triền miên cũng đã bắt đầu quá trình cải cách từ năm 1978, mở đường cho sự trỗi dậy sau này. Ở Đông Nam Á, sau Chiến tranh thế giới thứ hai, các quốc gia vẫn tiếp tục cuộc đấu tranh chống lại chủ nghĩa thực dân - đế quốc và trở thành các quốc gia độc lập. Sau đó, các nước Đông Nam Á bắt đầu xây dựng kinh tế - xã hội, một số đã trở thành những quốc gia phát triển như Xingapo, Thái Lan. Tuy nhiên, trong đường lối phát triển vẫn có sự khác biệt do sự đa dạng về văn hóa, ý thức hệ và điều kiện lịch sử… giữa các quốc gia. Ở Đông Nam Á cũng dần hình thành hai nhóm nước, một bên là các nước lựa chọn con đường chủ nghĩa xã hội (Việt Nam, Lào) và một bên lựa chọn con đường tư bản chủ nghĩa (Thái Lan, Philíppin…). Trong bối cảnh đó, Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) ra đời. Sự hình thành của ASEAN là một dấu mốc quan trọng trong quan hệ quốc tế ở Đông Nam Á, bởi từ đây một cấu trúc an ninh - chính trị mới dần được định hình trong một khu vực vốn tiềm ẩn nhiều bất ổn, nhất là khi cuộc chiến tranh ở Việt Nam đang ở giai đoạn ác liệt. Tháng 8-1967, tại Băng Cốc (Thái Lan), đại diện của năm nước: Thái Lan, Malaixia, Inđônêxia, Xingapo và Philíppin đã quyết định thành lập ASEAN. Cho dù có sự khác biệt về cách thức xây dựng ASEAN, song “điều quan trọng là tất cả các nước đều nhất trí về ý tưởng thành lập một tổ chức khu vực hành động mới, do chính bản thân người Đông Nam Á sáng tạo ra và vận hành”1. Sự ra đời của ASEAN cũng gián tiếp chấm dứt vai trò và sự tồn tại của Tổ chức Hiệp ước Đông Nam Á (SEATO) hoạt động trong những năm 1954-1977. Như vậy, quan hệ quốc tế ở Đông Á từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai trải qua nhiều biến động lớn, làm thay đổi bộ mặt của cả khu vực này. Cục diện chính trị Đông Á giai đoạn từ năm 1945 đến 1991 có mấy đặc điểm nổi bật sau: Một là, cục diện chính trị Đông Á trong thời kỳ Chiến tranh lạnh gồm hai giai đoạn chính: giai đoạn 1945-1971, khi Liên Xô và Mỹ chi phối đời sống chính trị thế giới, trong đó có Đông Á; giai đoạn 1972-1991, sau khi quan hệ Trung Quốc - Mỹ vượt qua rào cản ý thức hệ để xích lại gần nhau, _________ 1. Phạm Quang Minh: Quan hệ quốc tế ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương, Sđd, tr.130. 27 làm thay đổi căn bản cục diện khu vực, đồng thời do sự suy yếu của Liên Xô đã khiến quốc gia này không thể tập trung vào Đông Á như trước được nữa. Hai là, cục diện chính trị Đông Á chịu sự chi phối chủ yếu của hai cường quốc bên ngoài khu vực, trong đó quan trọng nhất là Mỹ và Liên Xô. Sau năm 1972, đó là sự thống trị hoàn toàn của nước Mỹ, song vai trò của Trung Quốc dần tăng lên và lấn át Liên Xô trong khu vực. Sự tương đồng về mối lo ngại an ninh từ phía Liên Xô đã khiến Trung Quốc và Mỹ chủ động kiến tạo nên cơ cấu quyền lực mà Mỹ là kẻ đứng đầu, Trung Quốc không còn được coi là kẻ thù, nhờ đó quốc gia này có thể giảm bớt và xóa bỏ sự hiện diện của Liên Xô ra khỏi khu vực Đông Á. Ba là, một số nước và vùng lãnh thổ Đông Á có sự phát triển thần kỳ về kinh tế như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan,… Tuy nhiên, do bối cảnh lịch sử không phù hợp và những nước này hầu hết đều là đồng minh của Mỹ, nên đã tự hạn chế vai trò của mình trong việc trở thành “người kiến tạo” chính. Nhật Bản là một ví dụ điển hình nhất. Song điều này lại giúp ích cho an ninh khu vực, khi mà Trung Quốc vốn có mối thù hận với Nhật Bản do sự xâm lược của người Nhật, nhất là những tội ác của lính Nhật trong Chiến tranh thế giới thứ hai, nên Bắc Kinh sẽ không dễ gì chấp nhận Nhật Bản ở vị thế trên họ. Bốn là, sự ra đời của ASEAN là một tín hiệu tích cực cho an ninh ở Đông Á, cụ thể là Đông Nam Á. Dù mới chỉ mang tính sơ khai, song ASEAN đã thể hiện những cố gắng chung trong việc xây dựng nên một Đông Nam Á hòa bình và hướng đến các mục tiêu khác trong tương lai. Năm là, cân bằng quyền lực giữa Mỹ với Liên Xô, giữa Trung Quốc - Mỹ với Liên Xô, giữa Mỹ với Trung Quốc là cách thức mà các chủ thể này thực hiện để hình thành nên trật tự địa - chính trị, cục diện chính trị Đông Á. Những dấu hiệu của sự bá quyền của Mỹ dần được bộc lộ từ thập niên 1980 khi Ronald Reagan - một chính trị gia cánh hữu điển hình - lên làm Tổng thống Mỹ. Một số nhà nghiên cứu cho rằng1, cục diện chính trị Đông Á trước năm 1991 là “cục diện chính trị đa cực, có nhiều nét đặc thù và mô thức _________ 1. Xem PGS.TS. Nguyễn Hoàng Giáp (Chủ biên): Cạnh tranh chiến lược ở khu vực Đông Nam Á giữa một số nước lớn hiện nay, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2013, tr.48. 28 kinh tế độc đáo, với bốn cực Mỹ - Xô - Trung Quốc - Nhật Bản”. Tuy nhiên, như đã phân tích ở trên, tác giả cho rằng cục diện chính trị Đông Á trước năm 1991 là cục diện đa cực với ba cực chính là Mỹ - Xô - Trung. Theo Giáo sư Amitav Acharya, các yếu tố giúp giữ gìn an ninh - trật tự ở châu Á trong Chiến tranh lạnh theo chủ nghĩa hiện thực bao gồm: Sự hiện diện của Mỹ trong khu vực thông qua sức mạnh quân sự (chủ nghĩa hiện thực tấn công - offensive realism) và hệ thống lưỡng cực (chủ nghĩa hiện thực phòng thủ - defensive realism)1. Cần phải nhấn mạnh rằng, cách tiếp cận trên thuộc về khoa chính trị cao cấp với đối tượng nghiên cứu là các nhà nước dân tộc (quốc gia) xoay quanh vấn đề hòa bình, chiến tranh và xung đột. 2. Cục diện chính trị Đông Á giai đoạn 1991-2001 2.1. Bối cảnh quốc tế và khu vực Trong những năm cuối thế kỷ XX, nhân loại đã chứng kiến nhiều sự kiện quan trọng làm biến đổi mọi mặt đời sống kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa của các quốc gia. Sự xích lại gần nhau giữa Trung Quốc với phương Tây, các cuộc đối thoại giữa Đông - Tây diễn ra nhiều hơn, hai phía Đông Đức và Tây Đức đã có các chính sách hòa giải, nhất là việc Mikhail Gorbachev lên nắm quyền ở Liên Xô và thực thi các chính sách thân thiện với phương Tây. Tháng 11-1989, bức tường Berlin - một biểu tượng của Chiến tranh lạnh - chia cắt Đông Đức và Tây Đức sụp đổ, báo hiệu sự kết thúc của một thời kỳ căng thẳng, chia rẽ, đối đầu Đông - Tây. Đầu tháng 12-1989, tại Hội nghị thượng đỉnh Malta (đảo Malta), trong một cuộc gặp không chính thức giữa Tổng thống Mỹ George H.W. Bush (cha) và Tổng thống Liên Xô M. Gorbachev, hai bên đã chính thức tuyên bố chấm dứt cuộc chạy đua vũ trang kéo dài hơn 40 năm. Sau khi nước Đức tái thống nhất (1990), Liên Xô đã sụp đổ (1991), kỷ nguyên lưỡng cực kết thúc. Sự kết thúc của trật tự thế giới “hai cực Yalta” do Mỹ và Liên Xô đứng đầu không chỉ là việc chấm dứt một cuộc chiến ý thức hệ giữa hai _________ 1. Xem Amitav Acharya, “Theoretical Perspectives on International Relations in Asia” trong David Shambaugh, Michael Yahuda (eds), International Relations of Asia, Rowman & Littlefield Publishers, Maryland, 2008, pp.57-82. 29 phe tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa, mà còn là sự giảm nhiệt của một cuộc chạy đua vũ trang hao người, tốn của và ảnh hưởng lớn sức mạnh của Mỹ và Liên Xô. Sự tan rã của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu đã đặt dấu chấm hết thực sự cho Chiến tranh lạnh. Nước Nga sau năm 1991 kế thừa địa vị pháp lý của Liên Xô trên trường quốc tế bước vào một thời kỳ đầy hỗn loạn, vị thế và vai trò của Nga trong quan hệ quốc tế bị giảm sút nghiêm trọng. Dưới thời Tổng thống Boris Yeltsin, nước Nga chuyển từ mô hình kinh tế tập trung bao cấp sang mô hình kinh tế thị trường tự do1; giải quyết sự khủng hoảng và hỗn loạn của một loạt các vấn đề chính trị, kinh tế và xã hội. Đồng thời, Nga từ bỏ chính sách đối ngoại siêu cường từ thời Liên Xô, nhưng vẫn cố gắng giữ cho mình uy thế toàn cầu và không bị lệ thuộc vào Mỹ. Sự sụp đổ của Liên Xô không chỉ dẫn đến một hệ quả tất yếu là Mỹ trở thành siêu cường duy nhất, mà còn là thời cơ để Mỹ thực hiện “chủ nghĩa đơn phương” thời kỳ sau Chiến tranh lạnh. Nhà chính trị học người Mỹ Samuel P. Huntington cho rằng, thế giới sau năm 1991 được định hình bằng vị thế “siêu cường đơn độc” của Mỹ, nhưng không có nghĩa là đơn cực2. Một sự thừa nhận rộng rãi về vị thế này của Mỹ đã diễn ra trên toàn cầu, ở cả Trung Quốc và Nga. Có thể khẳng định về sự thống trị của Mỹ trong một thế giới đang thay đổi sau Chiến tranh lạnh, tuy nhiên những hoài nghi về “trật tự thế giới đơn cực” do Mỹ đứng đầu cũng không phải là không có cơ sở, cho dù các nhà chủ nghĩa hiện thực như Samuel P. Huntington hay John Mearsheimer vẫn phủ nhận điều đó. Quan hệ quốc tế trong giai đoạn thống trị của Mỹ thập niên 1990 có một số nét nổi bật: Tại khu vực Trung Đông, tham vọng tiêu diệt Côoét nhằm sáp nhập Irắc của Saddam Hussein đã dẫn đến Chiến tranh vùng Vịnh (1991) và sau đó kết thúc với thắng lợi của Mỹ và đồng minh (gồm hơn 30 quốc gia và sự giúp đỡ của Liên hợp quốc). Trong khi đó, Liên Xô thực hiện việc _________ 1. Xem Phạm Minh Sơn: Chính sách đối ngoại của một số nước trên thế giới, Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội, 2008, tr.115. 2. Xem Samuel P. Huntington: “The lonely Superpower (Siêu cường đơn độc)”, Foreign Affairs, Vol. 78, No. 2, March/April, tr.35. 30 rút quân khỏi Ápganixtan, nơi mà họ đã tăng cường sự hiện diện của quân đội để tăng vị thế của mình ở Trung Đông từ năm 1979. Thắng lợi của Mỹ và liên minh sau cuộc Chiến tranh vùng Vịnh đã củng cố thêm vai trò của Mỹ trong việc ổn định trật tự ở Trung Đông kể từ sau Chiến tranh Ixraen - Arập (1973). Trải qua bốn cuộc chiến tranh, xung đột dai dẳng giữa Ixraen và Palextin1 vẫn chưa được giải quyết, Palextin đã mất đi sự hỗ trợ cần thiết từ phía Liên Xô, trong khi đó Ixraen vẫn nhận được sự ủng hộ từ phía Mỹ. Năm 1993, sau hai cuộc đàm phán ở Oslo (Na Uy) và Oasinhtơn (Mỹ), nhờ dàn xếp của Mỹ và Ai Cập - Ai Cập lúc này đã từ bỏ đường lối thân Liên Xô để gần hơn với phương Tây bất chấp sự phản đối của thế giới Arập - Chủ tịch Tổ chức Giải phóng Palextin (PLO) Yasser Arafat và Tổng thống Ixraen I. Rabin đã ký thỏa thuận công nhận lẫn nhau, sau đó là Hiệp định hòa bình và trao quyền tự trị cho người Palextin ở Dải Gaza và Jericho (bờ Tây sông Jordan). Mỹ cần Ixraen để có thêm lực lượng nhằm kiểm soát Trung Đông, do đó Oasinhtơn muốn thúc đẩy việc công nhận một quốc gia Ixraen hơn là việc xúc tiến cho một quá trình hòa bình giữa Ixraen và Palextin, song điều đó vẫn chưa thành hiện thực do sự phản đối từ phía Palextin và các nước Arập khác. Trên thực tế, nước Nga vẫn muốn tham dự vào tình hình ở Trung Đông, bởi họ vẫn còn căn cứ hải quân duy nhất trong khu vực nằm ở cảng Tartus (Xyri) do đó, Mátxcơva cũng cố gắng dàn xếp xung đột giữa các nước Arập với Ixraen, góp phần thúc đẩy tiến trình hòa bình Trung Đông. Với Ixraen là đồng minh chủ chốt ở Trung Đông và sự rút lui của Liên Xô, Mỹ về căn bản đã thiết lập sự thống trị của họ trong khu vực. Tại châu Phi, chế độ thực dân phương Tây đã để lại những hậu quả nặng nề đối với chính trị, văn hóa - xã hội của châu lục này. Châu Phi tiếp tục bị giằng xé bởi các cuộc xung đột sắc tộc - tôn giáo giữa các tộc người, bất ổn chính trị do các phe phái trong nước, tình trạng nghèo đói, các dịch vụ công, hệ thống y tế, giáo dục kém phát triển đã dẫn đến nhiều _________ 1. Hiện nay, về danh nghĩa cả Ixraen và Palextin mới chỉ được công nhận là “Nhà nước”, chưa phải quốc gia. 31 thảm họa nhân đạo. Nội chiến ở Xômali (1991) đã khiến cho những nỗ lực hòa giải của Liên hợp quốc trở nên vô nghĩa, sau đó Mỹ cũng tuyên bố rút quân khỏi lực lượng của Liên hợp quốc tại Xômali sau cái chết của 19 lính Mỹ, đẩy tình hình ở nước này vào thế bế tắc. Thảm họa khủng khiếp nhất diễn ra ở Rwanda, xung đột gay gắt và kéo dài giữa người Tutsi và người Hutu đã dẫn tới nạn diệt chủng khiến hàng trăm ngàn người Tutsi bị giết hại1. Rwanda chìm trong loạn lạc và chiến tranh đẫm máu. Nội chiến do tranh giành quyền lực và giữa các phe phái tôn giáo cũng nổ ra ở Libêria - Xiêra Lêôn và Angiêri. Điểm sáng duy nhất tại châu Phi là thắng lợi của người da đen tại Nam Phi, sau khi F.W. de Klerk (Đảng Quốc gia) lên nắm quyền vào năm 1990 đã tiến hành xóa bỏ chế độ phân biệt chủng tộc Apacthai, trả lại các quyền tự do cho người da màu, mở rộng tự do chính trị, nhất là dỡ bỏ lệnh cấm đối với Đại hội Dân tộc Phi (ANC). Năm 1994, trong cuộc bầu cử đa sắc tộc đầu tiên, Đại hội Dân tộc Phi giành thắng lợi với đa số ghế, Nelson Mandela - lãnh đạo ANC - lên cầm quyền và trở thành vị tổng thống da đen đầu tiên trong lịch sử nước Cộng hòa Nam Phi. Chế độ phân biệt chủng tộc Apacthai chính thức sụp đổ, Nam Phi bước vào một thời kỳ phát triển mạnh mẽ và đầy ấn tượng. Tại châu Âu, kể từ khi Liên minh châu Âu (EU) ra đời, “châu Âu chủ yếu là tồn tại trong hòa bình và phồn vinh; đó là điều mong mỏi và cũng là tài sản quý giá của những người sáng lập ra EU”2, trên thực tế điều này diễn ra chủ yếu ở các nước Tây Âu. Cùng với Nhật Bản và Mỹ, Tây Âu trở thành một trong ba trung tâm kinh tế - chính trị lớn nhất của thế giới. Các nước Tây Âu không chỉ thống nhất trong EU, mà còn được “bảo hộ” an ninh bởi Mỹ thông qua việc tiếp tục duy trì Khối Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO). Tháng 6-1990, Hiệp ước Schengen được ký kết, xóa bỏ những rào cản về mặt địa lý và thủ tục pháp lý để mở rộng sự tự do đi _________ 1. Xem Học viện Ngoại giao: Đông Tây Nam Bắc: Những diễn biến chính trong quan hệ quốc tế từ 1945, Nxb. Thế giới, Hà Nội, 2009, tr.182. 2. Bùi Huy Khoát: “Dự báo sự phát triển của Liên hiệp châu Âu trong hai thập niên đầu thế kỷ XXI” trong Viện Thông tin Khoa học Xã hội (Chuyên đề): Trật tự thế giới sau Chiến tranh lạnh: Phân tích và dự báo, t.II, tr.304. 32 lại của công dân các nước EU. Tháng 02-1992, các nước châu Âu ký với nhau Hiệp ước Maastricht xây dựng “Ngôi nhà chung châu Âu”, trên cơ sở đó thành lập Liên minh châu Âu (EU) (tháng 11-1993) với Tây Âu là trung tâm. Trước đó, với sự gia nhập của Anh (bao gồm Liên hiệp Anh và Bắc Ailen) vào EU sau hơn 10 năm đàm phán, thế cân bằng quyền lực ở “lục địa già” được hình thành. Những cường quốc hàng đầu khu vực như Anh, Pháp, Đức đều không còn trực tiếp coi nhau là đối thủ khi đã cùng nằm trong một tổ chức, châu Âu băng băng trên con đường thống nhất và ngày càng thịnh vượng để trở thành hình mẫu hội nhập cho thế giới. Trong khi đó, ở Đông Âu, tình hình khá hỗn loạn do sự tan rã của khối các nước xã hội chủ nghĩa. Tháng 6-1991, Hội đồng Tương trợ kinh tế (SEV) dừng hoạt động, sau đó là sự giải thể của Khối Hiệp ước Vácsava (tháng 7-1991). Mười một nước cộng hòa tuyên bố độc lập, tách khỏi Liên bang Xôviết và thành lập Cộng đồng các quốc gia độc lập (SNG) vào tháng 12-1991. Tại Liên bang Nam Tư, các cuộc nội chiến đòi ly khai của các nhóm sắc tộc liên tiếp xảy ra, Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Nam Tư chính thức tan rã, và được chia thành năm quốc gia: Bôxnia và Hécdegôvina, Crôatia, Maxêđônia, Xlôvenia, Xécbia và Môntênêgrô (tức Liên bang Nam Tư mới). Các cuộc ly khai và thậm chí là thảm sát đẫm máu dựa trên nền tảng sắc tộc - tôn giáo thành những nhà nước khác nhau đã củng cố thêm quan điểm của Samuel Huntington là lấy văn hóa - văn minh làm nền tảng để phân loại những biến cố của thế giới1. Cuộc nội chiến ở Bôxnia và Hécdegôvina giữa người Hồi giáo Bôxnia, người Chính Thống giáo Xécbia và người Thiên Chúa giáo Crôatia; người Anbani tại Xécbia muốn ly khai khỏi Liên bang Nam Tư cũ,… Những năm 1998-1999, chiến tranh ở Côxôvô giữa Quân Giải phóng Côxôvô của người Anbani với người Xécbia và lực lượng vũ trang của Nam Tư lên đến đỉnh điểm và trở thành vấn đề an ninh quốc tế lớn nhất ở khu vực Bancăng và châu Âu. Sau các cuộc thương lượng bất thành ở Pháp, cũng như nỗ lực hòa giải của Liên hợp quốc không được tôn trọng, năm 1999, phương Tây đã _________ 1. Samuel Huntington: Sự va chạm giữa các nền văn minh, Sđd, tr.28. 33 quyết định đưa NATO tham chiến nhằm ổn định tình hình. Mặc dù còn tồn tại nhiều mâu thuẫn trong mục tiêu can thiệp vào Côxôvô, song cả Mỹ và phương Tây đều thống nhất ở mục tiêu cần phải đẩy nước Nga ra khỏi khu vực Bancăng, đồng thời, cuộc chiến ở Côxôvô là một “thử nghiệm” tốt cho chiến tranh hiện đại, và là một dạng chủ nghĩa can thiệp kiểu mới. Trong khi đó, Nga, Trung Quốc và một số nước khác lo ngại về sự can thiệp của Mỹ dưới chiêu bài “nhân quyền” cũng như việc Mỹ và phương Tây đã bỏ qua vai trò của Liên hợp quốc trong cuộc Chiến tranh Côxôvô. Cuộc chiến ở Côxôvô cũng dẫn đến hệ lụy là sự quay trở lại tình trạng đối đầu giữa Mỹ và phương Tây với Nga, thậm chí cả Mỹ với Trung Quốc (do máy bay của Mỹ ném bom nhầm vào Đại sứ quán Trung Quốc tại Belgrade của Xécbia làm ba người thiệt mạng). Năm 1999, Vladimir Putin - một cựu sĩ quan Ủy ban An ninh quốc gia Nga (KGB) - lên làm Tổng thống Liên bang Nga thay cho Boris Yeltsin. Tổng thống Nga Putin là một nhân vật cứng rắn và có quan điểm chống phương Tây, khác biệt với người tiền nhiệm Boris Yeltsin - người vốn theo đuổi chính sách đưa nước Nga đến gần hơn với phương Tây. Tại châu Mỹ và khu vực Mỹ Latinh, Mỹ là quốc gia mạnh nhất và thống trị phía tây bán cầu. Sự kết thúc của Chiến tranh lạnh và sự sụp đổ của Liên Xô đã làm nổi lên làn sóng bàn về “sự tận cùng của lịch sử” do Francis Fukuyama khởi xướng, chiến thắng thuộc về Mỹ và phương Tây với sự ưu việt về chế độ chính trị, kinh tế và văn hóa. Ngày 29-01-1991, trong bản thông điệp hằng năm trước Quốc hội Mỹ, Tổng thống Mỹ George H.W. Bush nói về ý tưởng của một trật tự thế giới trong tương lai: “đã hai trăm năm Mỹ đấu tranh vì tự do, và hôm nay đã trở thành thủ lĩnh thế giới trên con đường đến với tự do. Và cũng theo G.H.W. Bush, hòa bình và an ninh, tự do và chiến thắng của pháp luật là thế giới tương lai của con cháu chúng ta1. Bởi vậy, khác với hầu hết các tổng thống trước đó, Tổng thống Mỹ George H.W. Bush - người đã đặt dấu chấm hết cho Chiến tranh lạnh - chỉ cầm quyền một nhiệm kỳ duy nhất, Bill Clinton _________ 1. Nhicolai Zlobin: Trật tự thế giới mới thứ hai: Những vấn đề địa - chính trị nan giải, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2012, tr.13. 34 (2002-2001) của Đảng Dân chủ trở thành người lãnh đạo Nhà Trắng và dẫn dắt chính sách đối ngoại của Mỹ sau đó. Kể từ sau cuộc khủng hoảng tên lửa ở Cuba (1962), châu Mỹ không còn đối mặt với một thách thức an ninh nào đáng kể. Khi Liên Xô sụp đổ, các phong trào cánh tả ở khu vực Mỹ Latinh cũng dần thoái trào, các nước trong khu vực tập trung bắt tay vào công cuộc xây dựng đất nước. Một số nước như Braxin, Áchentina,… trở thành những nền kinh tế mới nổi trong khu vực. Nhìn chung, tình hình khu vực châu Mỹ trong thập niên 1990 tương đối ổn định, Mỹ đã thể hiện được sự thống trị của mình trong khu vực này. Ở khu vực Đông Á cũng như ở châu Á - Thái Bình Dương, trong khi Nhật Bản tiếp tục rơi vào các cuộc khủng hoảng kinh tế triền miên, thì Trung Quốc bước vào thời kỳ phát triển nhanh chóng. Tuy nhiên, Nhật Bản vẫn duy trì vị thế là nền kinh tế đầu tàu, lớn thứ hai thế giới, sau Mỹ. Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan cùng với các nền kinh tế mới nổi ở Đông Nam Á đã góp phần làm nên một “châu Á thần kỳ”, dẫn đến sự chuyển dịch cán cân thương mại toàn cầu về phía Đông Á. Tháng 7-1997, bắt đầu từ Thái Lan, cuộc khủng hoảng tài chính châu Á nổ ra đã làm chậm lại sự phát triển của Đông Á nói riêng và châu Á nói chung. Hai trong “bốn con hổ” châu Á bị ảnh hưởng nặng nề nhất là Hàn Quốc và Hồng Kông. Mặc dù vậy, ngay sau đó các nước Đông Á đã vượt qua được cuộc khủng hoảng, phục hồi và tiếp tục đà phát triển kinh tế của mình. Thành công của nền kinh tế Đông Á đã góp phần làm suy yếu thêm lời kêu gọi xây dựng trật tự kinh tế thế giới mới1 mà Mỹ và châu Âu là hai trung tâm. Vấn đề còn gây nhiều nhức nhối là sự thống nhất bán đảo Triều Tiên và sự nổi lên của vấn đề hạt nhân của Triều Tiên. Sau khi ký Hiệp định đình chiến vào tháng 7-1953, hai miền bước vào thời kỳ xây dựng đất nước trong trạng thái chuẩn bị cho chiến tranh, nhưng đi theo hai con đường khác nhau. Sự sụp đổ của Liên Xô đã khiến Triều Tiên mất đi những sự ủng hộ cần thiết, quốc gia này rơi vào tình trạng thiếu _________ 1. Học viện Ngoại giao: Đông Tây Nam Bắc: Những diễn biến chính trong quan hệ quốc tế từ 1945, Sđd, tr.388. 35 thốn và bị đe dọa. Trong khi đó, Hàn Quốc không chỉ có sự thịnh vượng mà còn nhận được sự bảo vệ từ phía Mỹ. Cả hai miền đều nuôi dưỡng ý chí thống nhất, nhưng khác nhau về cách thức tiến hành. Năm 1994, cuộc khủng hoảng hạt nhân ở Triều Tiên diễn ra khi nước này tiến hành nghiên cứu hạt nhân và sử dụng nhiên liệu từ các cơ sở hạt nhân ở Yongbyon. Nhìn chung, sau Chiến tranh lạnh, Đông Á nằm trong phạm vi ảnh hưởng của Mỹ và tại đây, Mỹ đã hình thành được một hệ thống các đồng minh chiến lược của mình (Nhật Bản, Hàn Quốc, Philíppin, Thái Lan…). Song song với sự đấu tranh của các chủ thể được thể hiện qua những sự kiện diễn ra liên tục trong đời sống chính trị thế giới là sự liên kết và phát triển không ngừng của các quốc gia trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hóa, khoa học - kỹ thuật và công nghệ. Có thể thấy, mặc dù xung đột và cạnh tranh là xu hướng căn bản của thế giới hậu Chiến tranh lạnh, nhưng không thể phủ nhận xu hướng hợp tác của các quốc gia và cả các chủ thể phi quốc gia trong kỷ nguyên toàn cầu hóa ngày càng nở rộ. Sự ra đời và phát triển mạnh mẽ của một loạt các tổ chức, các thiết chế liên kết khu vực, xuyên quốc gia và phi nhà nước; nhân loại ngày càng tìm được tiếng nói chung trong nhiều vấn đề được xem là “vấn đề toàn cầu”, cho dù việc giải quyết không hề dễ dàng như mong muốn. Năm 1992, Hội nghị Thượng đỉnh Trái đất (The Earth Summit) được tổ chức tại Rio de Janeiro (Braxin) với sự tham dự của 179 quốc gia để bàn về các vấn đề môi trường và phát triển của trái đất. Đây là một sự kiện lớn có ý nghĩa quan trọng trong việc kết nối các quốc gia, tạm gác lại mâu thuẫn để chung tay hành động vì thế giới. Sau đó là Hội nghị về sự nóng lên toàn cầu ở Kyoto (Nhật Bản) năm 1997 đã cho ra đời Nghị định thư Kyoto với mục tiêu cắt giảm lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kính. Đây là một chương trình khung về biến đổi khí hậu mang tầm quốc tế của Liên hợp quốc. Đồng thời với sự ra đời của Liên minh châu Âu (1993), Hiệp định Thương mại tự do Bắc Mỹ (NAFTA) được phê duyệt (1994) giữa Mỹ, Canađa và Mêhicô chính thức có hiệu lực. NAFTA được đưa vào thực thi đã tạo ra một thị trường hàng hóa và dịch vụ lớn nhất thế giới về sức tiêu thụ với số dân khoảng 400 triệu người và GDP thực tế khoảng 36 8.500 tỷ USD1. Tháng 9-1994, Hội nghị quốc tế về Dân số và Phát triển (ICPD) diễn ra tại Cairo (Ai Cập) với chủ đề “Hỗ trợ các nhóm dân số dễ bị tổn thương trong khủng hoảng”. Tháng 12-1994, Mỹ đăng cai tổ chức Hội nghị Thượng đỉnh các nước châu Mỹ, trong đó nhấn mạnh các vấn đề lớn của bán cầu này phải được giải quyết trên cơ sở nhất trí giữa các nước châu Mỹ, các quốc gia cần phải nỗ lực để các lợi ích và mục tiêu xích lại gần nhau hơn, trên cơ sở này hình thành nên Khu vực Thương mại tự do châu Mỹ (FTAA)2. Nhằm đáp ứng nhu cầu mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế thời đại toàn cầu hóa, Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) đã ra đời và chính thức đi vào hoạt động năm 1995, thay thế cho Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại (GATT) vốn đã bộc lộ nhiều hạn chế. Một trong những vấn đề rất được quan tâm trong quan hệ Mỹ - Nga sau Chiến tranh lạnh là kho vũ khí hạt nhân của hai quốc gia này - thứ có thể đẩy thế giới vào một thảm họa tương tự như Chiến tranh thế giới thứ hai, thậm chí mức độ tàn phá còn lớn hơn rất nhiều. Nhận thức được điều đó, Mỹ và Nga đã ký các Hiệp ước cắt giảm vũ khí chiến lược (START I năm 1991 và START II năm 1993). Năm 1999, trước ngưỡng cửa của thế kỷ mới, dân số trái đất đã đạt tới 6 tỷ người. Năm 2000, diễn ra Hội nghị Thượng đỉnh Thiên niên kỷ của Liên hợp quốc tại Niu Oóc (Mỹ), trong Tuyên bố Thiên niên kỷ, Liên hợp quốc khẳng định quyết tâm chung của toàn nhân loại là “xây dựng một nền hòa bình thực sự và bền vững trên toàn thế giới mà phù hợp với các mục đích và nguyên tắc của Hiến chương Liên hợp quốc”, đồng thời, “nỗ lực nhằm duy trì sự bình đẳng về chủ quyền của mọi quốc gia, tôn trọng sự toàn vẹn lãnh thổ và nền độc lập chính trị của họ, giải quyết các tranh chấp bằng các biện pháp hòa bình, phù hợp với các nguyên tắc của công lý và luật pháp quốc tế, với quyền tự quyết của các dân tộc…, tôn trọng _________ 1. Xem Bùi Thành Nam: “Nhìn lại cách tiếp cận của các nước thành viên trong quá trình vận động thành lập NAFTA”, http://www.khoaquoctehoc.edu.vn. 2. Xem Trần Bách Hiếu: “Khu vực tự do thương mại châu Mỹ (FTAA) với Mỹ và các nước Mỹ Latinh”, Tạp chí Khoa học - Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, (số 25/2009), tr.206-207. 37 các quyền và tự do cơ bản của con người, tôn trọng các quyền bình đẳng của tất cả mọi người, không phân biệt về chủng tộc, giới tính, ngôn ngữ hoặc tôn giáo, và hợp tác để giải quyết các vấn đề quốc tế về kinh tế, xã hội, văn hóa hoặc các vấn đề nhân đạo”. Như vậy, sự sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu, “về thực chất, là khúc dạo đầu cho quá trình phân bổ lại cơ cấu sức mạnh ở cấp độ toàn cầu”1. Điều đó có tác động mạnh mẽ đến cục diện chính trị ở mỗi khu vực trên thế giới, trong đó có Đông Á. Đồng thời, một thời kỳ mới trong quan hệ quốc tế bắt đầu, trong đó các quốc gia, các nhà nước dân tộc đều đang đứng trước những thử thách và những thời cơ để đưa vận mệnh đất nước mình tiến lên kịp với thời đại2. Các nhà nước dân tộc, hay các quốc gia, chính là những chủ thể đầu tiên và quan trọng nhất thực hiện những thay đổi sau Chiến tranh lạnh. Hệ thống lưỡng cực không còn tồn tại, “sự sụp đổ của hệ thống ấy đã đẩy các quốc gia vào tình thế phải đánh giá lại đường lối phát triển và vị thế quốc tế mới của mình” trong bối cảnh “các cấu trúc cơ bản của trạng thái cân bằng mới - mà thực chất là một hệ thống quan hệ quốc tế mới” đang hình thành3, sau đó mới đến các tổ chức và các thể chế quốc tế - nơi mà các quốc gia tham gia - thực hiện sự điều chỉnh của mình. Không thể phủ nhận sự gia tăng ảnh hưởng của các chủ thể phi truyền thống này, song chúng vẫn sẽ chỉ đóng vai trò thứ yếu, chúng chỉ thay đổi khi các thành viên của nó thay đổi trước. Trên đây là bối cảnh khái quát của quốc tế và khu vực Đông Á những năm sau Chiến tranh lạnh. Có thể nhận thấy bối cảnh này đã tạo ra một bố cục, diện mạo mới bởi những tương tác, cơ cấu quyền lực giữa các chủ thể quan hệ quốc tế trong khu vực. Bối cảnh của một cục diện chính trị khu vực Đông Á với sự tham gia ngày càng sâu của nhiều chủ thể, song cũng khẳng định vị thế số 1 của Mỹ. _________ 1, 3. Phạm Thái Việt: “Hệ thống quan hệ quốc tế đương đại” trong Viện Thông tin Khoa học Xã hội (Chuyên đề): Trật tự thế giới sau Chiến tranh lạnh: Phân tích và dự báo, Sđd, t.II, tr.14. 2. Xem Nguyễn Anh Thái (Chủ biên): Lịch sử thế giới hiện đại, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2008, tr.425. 38 2.2. Cơ cấu quyền lực và sự tương tác của một số chủ thể chính 2.2.1. Mỹ khẳng định vị thế đứng đầu trong một thế giới chuyển đổi Thuần túy về mặt lý thuyết - đặc biệt là từ quan điểm của chủ nghĩa hiện thực mới - mỗi chủ thể trong hệ thống quốc tế đều phải tuân thủ trật tự sức mạnh mang tính thứ bậc. Trên thực tế, hệ thống lưỡng cực được xem là “điểm tựa cho hoạt động hoạch định chính sách đối ngoại” để từ đó có thể xác định được vị thế và mục tiêu của mỗi quốc gia1. Dù chỉ là một cách tiếp cận còn nhiều hạn chế, song nó là cần thiết để luận giải, đánh giá và dự báo hành vi của mỗi quốc gia trong quan hệ quốc tế hậu Chiến tranh lạnh. Sau khi Liên Xô sụp đổ, trật tự “hai cực” chấm dứt, Mỹ nghiễm nhiên trở thành siêu cường “đơn độc” trên thế giới, sức mạnh và tầm ảnh hưởng của Mỹ hoàn toàn vượt trội so với bất kỳ quốc gia nào khác. Bởi vậy, Mỹ cũng được xem là “một điểm tựa” để các quốc gia còn lại tính toán chiến lược và đưa ra chính sách. Một số học giả Mỹ, chẳng hạn như Bruce W. Jentleson (2004), cho rằng lợi ích quốc gia của Mỹ xoay quanh khuôn khổ: quyền lực (power), hòa bình (peace), thịnh vượng (prosperity) và nguyên tắc (principles)2. Tuy nhiên, các lợi ích quốc gia này nằm trong quan niệm của các lý thuyết quan hệ quốc tế khác nhau, do đó, ưu tiên theo đuổi lợi ích của Mỹ cũng khác nhau giữa các đời tổng thống, tương ứng với những lý thuyết chính trị quốc tế được vận dụng. Sự phân hóa chính sách đối ngoại ở Mỹ đang trở nên rõ rệt hơn do hai yếu tố căn bản là: (i) “sự thiếu vắng một nguy cơ đe dọa từ bên ngoài”3 mà cụ thể ở đây là sự sụp đổ của Liên Xô; (ii) sự khác biệt về quan niệm và hệ giá trị giữa các đảng phái (tả - hữu), mặc dù gần đây sự phân loại đó không còn mạnh mẽ nữa mà đã có sự pha _________ 1, 3. Phạm Thái Việt: “Hệ thống quan hệ quốc tế đương đại” trong Viện Thông tin Khoa học Xã hội (Chuyên đề): Trật tự thế giới sau Chiến tranh lạnh: Phân tích và dự báo, Sđd, t.II, tr.6-10, 17. 2. Xem Bruce W. Jentleson: Chính sách đối ngoại Hoa Kỳ: Động cơ của sự lựa chọn trong thế kỷ XXI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004. 39 trộn, song nó vẫn còn khá rõ nét. Ví dụ, Tổng thống Ronald Reagan được xem là người đã làm sống dậy tư tưởng cánh hữu ở Mỹ, nhưng sau đó người kế nhiệm của ông là G.H.W. Bush lại dần chuyển sang trung hữu ở cuối nhiệm kỳ. Những điều này rất quan trọng, nó không chỉ là hệ quy chiếu để xem xét sự vận động trong chính sách đối ngoại của Mỹ từ sau Chiến tranh lạnh đến nay, mà còn để các quốc gia khác quan sát và hoạch định chính sách của mình. George H. Quester đã phác thảo ba tranh luận chính về chính sách đối ngoại của Mỹ như sau: Thứ nhất, “phần lớn người Mỹ tán thành quan điểm tự do hay “tự do tư sản” trong chính sách đối ngoại của Mỹ”. Theo quan điểm này, Mỹ là một chủ thể có đạo lý trên trường quốc tế, luôn thúc đẩy hòa bình và thịnh vượng trên toàn cầu. Thứ hai, trái ngược với quan điểm trên, chính sách đối ngoại của Mỹ bị chỉ trích bởi những người theo quan điểm mácxít và cấp tiến. Theo đó, “cơ cấu kinh tế của chủ nghĩa tư bản được giải thích là nguyên nhân khiến nước Mỹ (với tư cách là một nước tư sản vượt trội trên thế giới) trở thành một nước có tư tưởng bành trướng chưa từng thấy…”. Thứ ba, “nước Mỹ là một nước bình thường, theo đuổi lợi ích của mình và quyền lực như hầu hết các nước lớn khác đã làm”. Quan điểm thứ ba này mang đậm dấu ấn của chủ nghĩa hiện thực, vì vậy tư tưởng chủ đạo của nó là “coi tính chất vô chính phủ của chính trị thế giới là nhân tố chỉ đạo hành vi cơ bản của bất kỳ chủ thể quốc tế nào: tất cả đều cư xử theo cùng một cách thức”1. Trong ba quan điểm trên, quan điểm thứ nhất và thứ ba vẫn được giới quan sát và các nhà bình luận quốc tế áp dụng nhiều nhất và coi đó là cách tiếp cận phù hợp đối với chính sách đối ngoại của nước Mỹ. Về căn bản, cuộc chạy đua vào chiếc ghế tổng thống của mỗi ứng cử viên hai đảng sẽ đặc trưng cho hai dòng tư tưởng truyền thống chi phối chính sách đối ngoại của Mỹ trong suốt những thập kỷ qua: Đảng Dân chủ theo chủ nghĩa tự do điển hình, Đảng Cộng hòa theo xu hướng bảo thủ và cứng rắn. _________ 1. George H. Quester: “Chính sách đối ngoại của Mỹ” trong Joel Krieger (Chủ biên): Toàn cảnh nền chính trị thế giới, Nxb. Lao động, Hà Nội, 2009, tr.24. 40 Bảng 2: Những ưu tiên lý thuyết và lợi ích quốc gia tương ứng trong chính sách đối ngoại của các tổng thống Mỹ1 Mục tiêu Tổng thống Ưu tiên lý thuyết lợi ích quốc gia tương ứng Ronald Reagan (1981-1989) George H.W. Bush (1989-1993) Bill Clinton (1993-2001) George W. Bush (2001-2009) Barack Obama (2009-2017) Chủ nghĩa hiện thực Quyền lực Chủ nghĩa hiện thực Quyền lực Chủ nghĩa tự do/lý tưởng Thịnh vượng, các nguyên tắc dân chủ Chủ nghĩa hiện thực Quyền lực Chủ nghĩa tự do/lý tưởng Thịnh vượng, các nguyên tắc dân chủ Đối với Mỹ, sự sụp đổ của Liên Xô đồng nghĩa với việc Mỹ đã xóa bỏ được mối lo ngại đối với an ninh nước Mỹ và trật tự mà Mỹ đã thiết lập từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai đã hoàn chỉnh. George H.W. Bush đã thất bại trong lần tranh cử thứ hai, nhường chỗ cho Bill Clinton của Đảng Dân chủ - một người theo quan điểm chủ nghĩa tự do (chủ nghĩa quốc tế) điển hình. Thông qua hai chính sách an ninh quốc gia là Chính sách an ninh quốc gia cam kết và mở rộng (National Security Strategy of Engagement and Enlargement) - năm 1995 và Chính sách an ninh quốc gia cho thế kỷ mới (National Security _________ 1. Tác giả tự tổng hợp dựa trên hai lý thuyết chính, cạnh tranh nhau là chủ nghĩa hiện thực và chủ nghĩa tự do/lý tưởng về quan hệ quốc tế. Không có một lý thuyết nào phản ánh toàn bộ chính sách đối ngoại của Mỹ một cách đầy đủ và không có một tổng thống nào chỉ áp dụng một lý thuyết duy nhất. Tham khảo thêm tại: Bruce W. Jentleson: Chính sách đối ngoại Hoa Kỳ: Động cơ của sự lựa chọn trong thế kỷ XXI, Sđd, tr.11, 22. 41 Strategy for a New Century) - năm 1998, Mỹ đã thể hiện rõ ý đồ mở rộng tầm ảnh hưởng của mình trên cả ba lĩnh vực: kinh tế, chính trị - quân sự, các giá trị dân chủ - được hiểu như sự hấp dẫn bằng sức mạnh - quyền lực mềm. Rõ ràng, Mỹ đã không còn quá dựa vào sức mạnh quân sự, mà đã kết hợp cân bằng các sức mạnh khác. Như vậy, mục tiêu của Mỹ là bất biến, chỉ có biện pháp, phương tiện là có thay đổi cho phù hợp với tình hình1. Về căn bản, những chính sách của Bill Clinton vẫn nhằm củng cố và tăng cường vị trí đứng đầu của Mỹ sau Chiến tranh lạnh. Theo đó, chính sách an ninh và đối ngoại của Mỹ có những điểm chính sau: (i) Phục hồi và phát triển nền kinh tế, giữ vững địa vị là nền kinh tế mạnh nhất thế giới; (ii) Duy trì sức mạnh và ưu thế quân sự của Mỹ, tiến hành tổ chức và cơ cấu lại lực lượng quân sự, bảo đảm an ninh toàn cầu trong tình hình mới của thế giới; (iii) Phát huy những ưu thế về chính trị, quân sự và kinh tế, Mỹ thúc đẩy phổ biến và áp đặt các giá trị của mình cho các nước trên toàn thế giới, đặc biệt là “kinh tế thị trường” và “dân chủ” kiểu Mỹ2. Nước Mỹ vốn đã trở thành quốc gia đứng đầu thế giới từ giữa thế kỷ XX và trở thành siêu cường duy nhất sau khi Liên Xô sụp đổ. Sự vượt trội của nước Mỹ và thế giới phương Tây trong bối cảnh toàn cầu hóa đang là một xu thế không thể đảo ngược và càng làm gia tăng sức ảnh hưởng của Mỹ ra toàn thế giới. Bởi vậy, có không ít những nghi ngờ rằng xét về mặt chủ quan, toàn cầu hóa là “do chính Mỹ định ra”, “nhằm định hình và củng cố cấu trúc của quan hệ quốc tế đã xuất hiện sau sự sụp đổ của thế lưỡng cực”, “duy trì vai trò lãnh đạo của Mỹ” trong cộng đồng quốc tế cho phù hợp với quyền lợi của Mỹ3. Chiến lược mới của Mỹ trong khu vực Đông Á là thiết lập một khu vực ảnh hưởng mở rộng theo mô hình “trục và nan hoa”, với Mỹ là trung _________ 1. Xem Hoàng Văn Hiển, Nguyễn Viết Thảo: Quan hệ quốc tế từ 1945 đến 1995, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1998, tr.94. 2. Xem Phạm Minh Sơn: Chính sách đối ngoại của một số nước trên thế giới, Sđd, tr.47-48. 3. Xem Bogaturov Aleksey Demosfenovich, Averkov Viktor Viktorovich: Lịch sử quan hệ quốc tế, Sđd, tr.569. 42 tâm, sự vận động của các chủ thể khác đều xoay quanh Mỹ và bị Mỹ chi phối. Mô hình “Trục và nan hoa” của Mỹ có thể được hình dung như sau: Quan hệ Mỹ - Nhật Bản là trục chính, các “nan hoa”: Mỹ - Hàn Quốc, Mỹ - Thái Lan, Mỹ - Philíppin, Mỹ - Niu Dilân, Mỹ - Ôxtrâylia và các nước còn lại trong khu vực dù muốn hay không muốn, dù ít hay nhiều cũng sẽ bị cuốn theo vòng quay của trục trung tâm là Mỹ. Chiến lược mới này kết hợp với “sân sau” Mỹ Latinh sẽ tạo ra một khu vực bao trọn gần như cả phía nam thế giới, từ đó, tạo sức ép lên khu vực phía bắc, nơi Nga đang còn bất ổn và Trung Quốc đang trỗi dậy và được dự báo sẽ đe dọa vị trí số 1 của Mỹ. Hướng chủ đạo trong cách định hình thế giới của Mỹ sẽ là đẩy mạnh can thiệp nhân quyền và dân chủ, từ đó thúc đẩy hòa bình trên thế giới, đặc biệt là những điểm nóng. Trong quan hệ với Trung Quốc, Mỹ đã cải thiện mối quan hệ giữa hai nước bằng việc không gợi lại những ký ức về sự kiện tháng 6-1989 tại Bắc Kinh và tăng cường các quan hệ thương mại với Trung Quốc. Nhưng ngay sau đó, quan hệ Mỹ - Trung Quốc xấu đi do những tác động từ phía Đài Loan. Có thể thấy, thời kỳ này, eo biển Đài Loan trở thành vấn đề lớn nhất ảnh hưởng tới quan hệ Mỹ - Trung Quốc. Bắt đầu từ năm 1992, Mỹ đã tiến hành bán vũ khí cho Đài Loan nhằm giúp Đài Loan tránh được những đe dọa từ phía Trung Quốc. Năm 1995, Tổng thống Đài Loan Lý Đăng Huy được chính phủ Mỹ cấp thị thực du lịch và chuyến thăm tới Mỹ của ông đã khiến Trung Quốc coi Mỹ là kẻ ủng hộ độc lập cho Đài Loan. Ngay lập tức, Trung Quốc tiến hành những đe dọa quân sự trên eo biển Đài Loan (1995-1996). Sau đó là việc Bill Clinton có những động thái khiến việc gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) của Trung Quốc bị chậm lại. Mặc dù, Mỹ xúc tiến với Trung Quốc các quá trình nhằm nâng cấp mối quan hệ này lên, nhưng những thận trọng và hạn chế nhất định của chính quyền Bill Clinton khiến cho nỗ lực đó không trở thành hiện thực. Mỹ phản ứng khá linh hoạt trong vấn đề khủng hoảng eo biển Đài Loan (1996) nhưng lại chậm chạp trong việc nhận thức đầy đủ về Trung Quốc. Nếu như trong Chiến tranh lạnh, Mỹ cảnh giác với Liên Xô bao nhiêu, thậm chí - như Fareed Zakaria nhận định - mặc dù dân chúng Mỹ không ủng hộ hành động đưa quân đi tham chiến tại nhiều nơi nhưng quan điểm của họ được cân bằng bởi các 43 hành vi của Liên Xô1, thì sau Chiến tranh lạnh, Mỹ chủ quan bấy nhiêu. Thực tế, những cố gắng kiềm chế Trung Quốc của Mỹ cũng đã phát huy tác dụng nhất thời, bởi trong vấn đề Đài Loan, Mỹ hoàn toàn không thể sử dụng sức mạnh quân sự để ép Trung Quốc mà buộc phải có những động thái mềm dẻo hơn để tránh bị lôi vào một cuộc chiến với Trung Quốc. Đối với Mỹ, việc ủng hộ Đài Loan “không phải vì một Đài Loan ly khai, mà là vì lợi ích địa - chính trị của Mỹ ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương”2. Từ ngày 25 tháng 6 đến 03-7-1998, Tổng thống Bill Clinton sang thăm Trung Quốc nhằm mở ra những tiến triển mới trong quan hệ giữa hai nước. Kết quả hai bên đạt được là khá tích cực. Theo đó, nhận thức rõ vai trò của nhau trong môi trường quốc tế có nhiều thay đổi, hai bên tăng cường hợp tác và thống nhất lập trường giải quyết các vấn đề quan hệ quốc tế, cố gắng đạt được các mục tiêu trở thành “đối tác chiến lược mang tính xây dựng” bước vào thế kỷ XXI; nỗ lực xây dựng sự đồng thuận trong những vấn đề kinh tế, thương mại và thúc đẩy sự tham gia mạnh mẽ, sâu rộng, đóng góp tích cực đối với nền kinh tế thế giới. Hai bên còn ra Tuyên bố chung về quá trình đàm phán Nghị định thư bổ sung cho Công ước vũ khí sinh học và Tuyên bố chung về cấm mìn sát thương. Những kết quả trên cho thấy, điều mà Bill Clinton quan tâm tới vẫn là tạo ra mối quan hệ và các thể chế song phương Trung Quốc - Mỹ trên hai lĩnh vực an ninh và kinh tế. Tuy nhiên, Bill Clinton đã không giải quyết thỏa đáng những bất đồng an ninh nghiêm trọng, đặc biệt là vấn đề Đài Loan và việc Trung Quốc sở hữu vũ khí hạt nhân, khiến Trung Quốc đi chệch hướng và người dân Mỹ không nhận thức đầy đủ về tính chất nghiêm trọng trong các hành vi của Trung Quốc3. _________ 1. Xem Fareed Zakaria: “The Arrogant Empire”, Newsweek, 2003, theo http://www.newsweek.com/arrogant-empire-132751. 2. Brzezinski: Bàn cờ lớn - Địa vị quan trọng hàng đầu của Mỹ và các vấn đề địa - chính trị khác, Nxb. Nhân dân Thượng Hải, 1998, tr.246. 3. Xem Kiyoshi Kojima: “The “flying geese” model of Asian economic development: origin, theoretical extensions, and regional policy imphications”, Journal of Asian Economics (11), 2000, tr.58. 44 Điểm quan trọng lớn nữa trong chính sách đối ngoại của Mỹ đối với Trung Quốc là vấn đề gia nhập WTO. Tháng 4-1999, nhân chuyến thăm Mỹ của Thủ tướng Trung Quốc Chu Dung Cơ, hai bên đã ra được tuyên bố chung về việc Trung Quốc tiếp tục đàm phán để gia nhập WTO và Mỹ sẽ tích cực ủng hộ Trung Quốc. Tháng 4-2001, máy bay J-8 của Trung Quốc đã đụng độ với máy bay do thám EP-3 của không quân Mỹ trên đảo Hải Nam, làm các phi công Trung Quốc thiệt mạng. Nhưng sự việc nhanh chóng được dàn xếp ổn thỏa bởi vấn đề Trung Quốc quyết tâm gia nhập WTO. Liên tiếp các cuộc gặp gỡ sau đó giữa hai lãnh đạo Mỹ và Trung Quốc trong tháng 9-2000 nhân Hội nghị Thượng đỉnh Thiên niên kỷ của Liên hợp quốc và tháng 11-2000, tại Banđa Xêri Bêgaoan, Brunây bên lề Hội nghị APEC. Chủ đề chính trong các cuộc hội đàm vẫn chủ yếu xoay quanh tiến trình Trung Quốc gia nhập WTO. Như vậy, quan hệ Mỹ - Trung thời kỳ này có nhiều nét thăng trầm. Xu thế hòa hoãn, hợp tác giữa hai nước đang phát triển nhưng những bất đồng, mâu thuẫn và cạnh tranh cũng tăng lên nhanh chóng. Trong các đồng minh của Mỹ ở khu vực Đông Á, Nhật Bản được Mỹ hết sức coi trọng bởi đây là con bài chiến lược trong tham vọng của Mỹ tại Đông Á. Mối quan hệ Mỹ - Nhật Bản được thiết lập từ năm 1951, khi Mỹ ký với Nhật Bản Hiệp ước An ninh Mỹ - Nhật Bản nhằm duy trì hòa bình và an ninh ở vùng Viễn Đông, bảo vệ an ninh cho Nhật Bản trước các mối đe dọa từ bên ngoài. Nhưng thực chất, Mỹ muốn dựa vào mối quan hệ này để tạo bàn đạp cho Mỹ tấn công Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa. Sau khi Chiến tranh lạnh kết thúc, Mỹ đã tăng cường, củng cố liên minh này ngày càng thêm chặt chẽ. Nhật Bản luôn là ưu tiên hàng đầu trong chính sách đối ngoại của Mỹ ở Đông Á. Đối với Mỹ, duy trì quan hệ Mỹ - Nhật Bản không chỉ là nhiệm vụ, trách nhiệm đối với Nhật Bản như đã cam kết trong hiệp ước, mà còn có tầm quan trọng chiến lược trong chính sách đối ngoại của họ, là cơ sở để Mỹ hình thành và thực hiện khu vực ảnh hưởng của Mỹ theo mô hình “trục và nan hoa”. Không những thế, bài học về sự bành trướng của Nhật Bản hồi cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX và chủ nghĩa quân phiệt Nhật trước Chiến tranh thế giới thứ hai đã khiến Mỹ tìm cách kiềm chế Nhật Bản. Đồng thời, Mỹ cũng nhận thấy những dấu hiệu đáng lo ngại từ sự trỗi 45 dậy của Trung Quốc đang ảnh hưởng tới vị thế của Mỹ trên trường quốc tế, nên duy trì quan hệ với Nhật Bản cũng là cách để Mỹ kiềm chế Trung Quốc, làm giảm đi sức ảnh hưởng của Trung Quốc trong các vấn đề khu vực và quốc tế. Sự chắc chắn trong liên minh Mỹ - Nhật Bản cao đến nỗi đây được coi là xương sống trong cấu trúc an ninh châu Á - Thái Bình Dương, thách thức toàn bộ các kịch bản an ninh khác1. Trong quan hệ với Nga, nhận thấy sức mạnh của Nga không còn đủ để đối đầu như thời Chiến tranh lạnh nhưng Nga vẫn là một quốc gia có sức mạnh quân sự không thua kém gì Mỹ nên để bảo đảm an ninh cho mình cũng như kiềm chế Nga, Mỹ đã chủ động đối thoại với Nga, lôi kéo Nga vào các chương trình hợp tác song phương và đa phương. Vấn đề mà Mỹ quan tâm tới đầu tiên là giải quyết số vũ khí hạt nhân mà Nga đang nắm giữ. Năm 1992, thỏa thuận Nunn - Lugar (hay còn gọi là CTR) được ký kết nhằm thúc ép Nga giảm quy mô, số lượng kho vũ khí hạt nhân của mình sau khi Chiến tranh lạnh kết thúc; tiêu hủy các loại vũ khí sinh học và hóa học đã lỗi thời. Trong một tuyên bố chung giữa Mỹ và Nga (tháng 6-1992), hai bên khẳng định không coi nhau là đối thủ tiềm tàng. Tháng 4-1993, Mỹ - Nga cam kết xây dựng quan hệ đối tác chiến lược toàn diện, thúc đẩy đối thoại an ninh và hòa bình trên thế giới. Mỹ ký với Nga Hiệp ước cắt giảm vũ khí chiến lược (START II) tháng 01- 1993, gia hạn năm 1996, nhằm bổ sung cho Hiệp ước START I đã ký kết năm 1991. Quan hệ an ninh, quân sự Mỹ - Nga còn được đẩy lên cao nhờ các cuộc tập trận chung Nga - Mỹ trên đảo Guam, ở Vlađivôxtốc và các hợp tác nghiên cứu vũ trụ. Mỹ coi các vấn đề thuộc lãnh thổ Nga là công việc nội bộ của Nga và sẽ không ủng hộ hay can thiệp tới bất kỳ lực lượng chính trị nào, đặc biệt là trong vấn đề Chechnya. Song song với các điều khoản về an ninh chung, Mỹ cũng hợp tác với Nga trong lĩnh vực kinh tế. Trong năm 1993, hai bên đã thành lập Ủy ban Liên Chính phủ về hợp tác kinh tế thương mại và khoa học do Thủ tướng Nga Viktor Chernomyrdin _________ 1. Xem Bruce W. Jentleson: Chính sách đối ngoại Hoa Kỳ: Động cơ của sự lựa chọn trong thế kỷ XXI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004; và Phạm Quang Minh: Quan hệ quốc tế ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương, Sđd, tr.46-47. 46 và Phó Tổng thống Mỹ Al Gore làm đồng Chủ tịch Ủy ban1. Mỹ cam kết sẽ viện trợ 1,6 tỷ USD để Nga chuyển đổi nền kinh tế và hứa phối hợp trong nhóm G7 viện trợ cho Nga 43 tỷ USD2. Nhìn chung, thời kỳ này quan hệ Mỹ - Nga có nhiều bước phát triển tốt đẹp, góp phần quan trọng vào việc thúc đẩy đối thoại và hòa bình tại nhiều điểm nóng trên thế giới. Mặc dù vậy, quan hệ giữa hai nước cũng gặp những trở ngại lớn chung quanh các vấn đề chống tên lửa đạn đạo (ABM) và hệ thống tên lửa phòng thủ quốc gia (NMD) của Mỹ tại châu Âu, vấn đề mở rộng thành viên và không gian ảnh hưởng sang phía đông và không gian hậu Xô Viết của NATO,… Các nước Đông Nam Á và ASEAN cũng là một phần trong chiến lược an ninh quốc gia mới của Mỹ. Khu vực này có sự hiện diện hai đồng minh của Mỹ là Thái Lan và Philípin. Đông Nam Á trở thành khu vực thứ hai mà Mỹ thực hiện chủ trương mở rộng ảnh hưởng của mình như Mỹ Latinh. Bên cạnh việc duy trì quan hệ đồng minh chiến lược với Thái Lan, Philíppin, Mỹ tăng cường quan hệ đối tác lâu dài với Xingapo và các nước ASEAN khác. Trước những mối quan tâm của Nhật Bản, Trung Quốc và các quốc gia khác tới Đông Nam Á, mục tiêu của Mỹ đối với khu vực này là tạo ra ưu thế vượt trội trong Đông Nam Á, từng bước hình thành “Liên minh chiến lược châu Á” (Nhật Bản, Hàn Quốc và ASEAN), đồng thời dùng Đông Nam Á làm phương tiện để kiềm chế sức mạnh đang lên của Trung Quốc, đưa Nhật Bản và các đồng minh khác vào vòng kiểm soát của Mỹ; cùng với “sân sau” của mình, Mỹ nuôi tham vọng độc chiếm châu Á - Thái Bình Dương. Như vậy, trong các chiến lược mới của mình sau Chiến tranh lạnh, Mỹ đang lôi kéo các nước Đông Á vào khuôn khổ hợp tác chung và những thể chế quốc tế nhằm tạo ra môi trường Đông Á được định hình và chi phối bởi Mỹ, hạn chế những hành vi đơn phương của một quốc gia nào đó gây ảnh hưởng tới lợi ích của Mỹ cũng như cục diện khu vực. _________ 1, 2. Xem PGS.TS. Nguyễn Hoàng Giáp (Chủ biên): Một số vấn đề chính trị quốc tế trong giai đoạn hiện nay, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2014, tr.94, 92. 47 2.2.2. Trung Quốc chấp nhận vị thế hạng hai để phát triển Trung Quốc những năm 1990 phải đối mặt với nhiều thách thức lớn ở cả trong và ngoài nước. Song bằng sự khôn khéo trong ngoại giao, cũng do Mỹ - vẫn là đối thủ lớn nhất của Trung Quốc - đã có sự thay đổi trong chính sách đối ngoại, nên Trung Quốc không chịu ảnh hưởng lớn từ sự sụp đổ của Liên Xô, mà trái lại Trung Quốc vẫn nằm trong quá trình cải cách, phát triển đất nước từ năm 1979. Tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế Trung Quốc luôn ở mức hai con số (trên 10%/năm) trong suốt những năm 1990. Đây được coi là tốc độ tăng trưởng nhanh nhất đối với một nền kinh tế được ghi nhận trong lịch sử nhân loại1. Công cuộc phát triển đất nước theo con đường chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc mà Đặng Tiểu Bình phát động đã trở thành điển hình của nền kinh tế thế giới. Là một nước đông dân nhất thế giới, với 1,141 tỷ người chiếm 1/6 dân số thế giới (năm 1994), diện tích lãnh thổ lớn thứ ba thế giới (trên 9,6 triệu km2), Trung Quốc luôn duy trì tốc độ phát triển kinh tế nhanh bậc nhất thế giới của mình. Đại hội lần thứ XIV Đảng Cộng sản Trung Quốc năm 1992 đề ra kế hoạch trọng tâm của Trung Quốc trong thập niên 1990 là xây dựng thành công một nền “kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa” bằng kế hoạch 10 năm, kéo dài đến đầu thế kỷ XXI. Năm 1992, tốc độ phát triển kinh tế của Trung Quốc đạt 12,8% và tăng lên 13,4% năm 1993 với GDP đạt 3.138 tỷ Nhân dân tệ. Do cuộc khủng hoảng tài chính Đông Á, Trung Quốc cũng chịu ảnh hưởng một phần khiến cho tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế giảm xuống còn 7,8% trong năm 1998, và 7,1% trong năm 1999. Nhưng bước sang năm 2000, nền kinh tế Trung Quốc đã khôi phục lại sự phát triển. Sự phát triển thần kỳ này của Trung Quốc được xếp chung vào sự “thần kỳ châu Á” và Trung Quốc được coi là “con rồng châu Á”. Là một quốc gia lớn trong khu vực Đông Á, Trung Quốc cũng đang trên con đường tìm kiếm vị thế là cường quốc hàng đầu khu vực và quốc tế. Trung Quốc là một trong năm thành viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc. Không chỉ tham gia “Câu lạc bộ nước lớn”, Trung Quốc còn là thành viên của “Câu lạc bộ các _________ 1. Xem Fareed Zakaria: Thế giới hậu Mỹ, Nxb. Tri thức, Hà Nội, 2010, tr.120. 48 nước có vũ khí hạt nhân” và là quốc gia duy nhất chính thức sở hữu vũ khí hạt nhân ở Đông Á hiện nay. Trong quan hệ quốc tế, Trung Quốc thi hành chính sách đối ngoại chủ động, bình thường hóa quan hệ với các quốc gia, mở rộng quan hệ hợp tác với các nước trên thế giới, góp phần tham gia giải quyết các vấn đề quốc tế, từ đó nâng cao địa vị và quyền lực của Trung Quốc trên trường quốc tế. Chiến lược ngoại giao mới của Trung Quốc được thực hiện theo hướng: “Ngoại giao nước lớn là then chốt; ngoại giao láng giềng là quan trọng hàng đầu; ngoại giao với các nước đang phát triển là quan trọng”1. Tính đến năm 2001, Trung Quốc đã có quan hệ ngoại giao với 165 quốc gia và vùng lãnh thổ trên toàn thế giới. Đêm 01-7-1997, tại Trung tâm Hội nghị và triển lãm Hồng Kông, Trung Quốc đã thu hồi chủ quyền của Hồng Kông từ Vương quốc Anh và thành lập Đặc khu Hành chính Hồng Kông, Trung Quốc. Tiếp đó, tháng 12-1999, Trung Quốc cũng tuyên bố biến vùng lãnh thổ Ma Cao thành Đặc khu Hành chính Ma Cao, Trung Quốc. Việc sáp nhập và hình thành hai đặc khu hành chính này có ý nghĩa rất lớn đối với Trung Quốc, làm tăng lên đáng kể sức mạnh của nền kinh tế nước này. Mối quan tâm lớn nhất lúc này của Trung Quốc trong khu vực chính là thiết lập một trật tự dưới sự dẫn dắt của Trung Quốc. Để làm được điều này, Trung Quốc cố gắng thay thế vị trí bá chủ của Mỹ. Mối quan hệ Trung Quốc - Mỹ trong lịch sử có nhiều nét thăng trầm, lúc hòa dịu, lúc căng thẳng. Trung Quốc và Mỹ vốn là hai quốc gia thuộc hai phe đối đầu nhau trong Chiến tranh lạnh, nhưng đã có lúc hai nước bắt tay nhau trong việc chống lại Liên Xô. Tháng 11-1991, Trung Quốc gia nhập hệ thống thương mại toàn cầu. Trong thời gian này, Trung Quốc cũng đã gia nhập Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC), tăng cường tự do thương mại và hợp tác trong các vấn đề kinh tế, thương mại, đầu tư và công nghệ. Tháng 11-1993, Hội nghị APEC lần thứ nhất được tổ chức tại đảo Blake, Seattle (Mỹ) với chủ đề “Tinh thần cộng đồng khu vực châu Á - Thái Bình Dương”. Tranh thủ tinh thần đó, các nhà lãnh đạo Bắc Kinh _________ 1. Nguyễn Hoàng Giáp (Chủ biên): Cạnh tranh chiến lược ở khu vực Đông Nam Á giữa một số nước lớn hiện nay, Sđd, tr.58. 49 đã mau chóng tìm đến Mỹ để hóa giải những bất đồng xung quanh sự kiện và thiết lập quan hệ ngoại giao trong thời kỳ mới. Bước đột phá trong quan hệ Trung Quốc - Mỹ là vào cuối tháng 10, đầu tháng 11-1997, Chủ tịch Trung Quốc Giang Trạch Dân tới thăm Mỹ theo lời mời của Tổng thống Mỹ Bill Clinton. Đây là chuyến thăm đầu tiên của một nguyên thủ quốc gia Trung Quốc tới Mỹ. Hai bên đều nhận định phải xem xét mối quan hệ Trung Quốc - Mỹ từ góc nhìn chiến lược trong thế kỷ XXI, với mục tiêu là tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau, mở rộng nhận thức chung, tăng cường hợp tác và đưa quan hệ Trung Quốc - Mỹ vào một thời kỳ mới. Đồng thời, “Tuyên bố chung Trung Quốc - Mỹ” ký kết ngày 29 tháng 10, nhất trí tiếp cận quan hệ song phương trên cơ sở các nguyên tắc của ba bản tuyên bố chung và hướng tới mối quan hệ “đối tác chiến lược mang tính xây dựng giữa Trung Quốc và Mỹ”. Hai bên nhất trí tăng cường hơn nữa hợp tác trong lĩnh vực kinh tế, thương mại, mở rộng trao đổi trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, năng lượng, khoa học công nghệ, luật pháp, giáo dục, văn hóa... Lúc này, vấn đề gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) của Trung Quốc được Bắc Kinh hết sức quan tâm, do đó, trong chuyến thăm Mỹ của Thủ tướng Trung Quốc Chu Dung Cơ từ ngày 4 đến 14-4-1999 theo lời mời của Tổng thống Bill Clinton, Trung Quốc đã đạt được thỏa thuận với Mỹ để đưa ra tuyên bố chung về việc Trung Quốc gia nhập WTO. Theo đó Chính phủ Mỹ bày tỏ cam kết ủng hộ sự gia nhập của Trung Quốc. Đây là chuyến thăm đầu tiên của một vị Thủ tướng Trung Quốc tới Mỹ trong vòng 15 năm. Vấn đề gia nhập WTO tiếp tục được đề cập trong các cuộc gặp gỡ giữa các nhà lãnh đạo cấp cao hai nước. Ngày 15-11-1999, hai bên đã ký một hiệp định song phương về vấn đề này, mở đường cho Trung Quốc gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới; đồng thời cam kết sẽ tiếp tục duy trì và xây dựng quan hệ đối tác chiến lược mang tính xây dựng trong tương lai. Sau đó, được sự giúp đỡ của Mỹ, Trung Quốc đã đạt được các thỏa thuận song phương với EU và các đối tác thương mại khác, tiến tới một thỏa thuận trọn gói với WTO. Năm 2001, Trung Quốc đã giữ chức Chủ tịch APEC và Thượng Hải đã đăng cai hội nghị các lãnh đạo APEC thường niên. Sự kiện này diễn ra ngay sau vụ khủng bố ngày 11 tháng 9 gây chấn động nước Mỹ. Tại hội nghị, các bên đã ra tuyên bố đầu tiên về chống khủng bố. Có thể thấy, các 50 quan hệ kinh tế - thương mại đang giúp cho quan hệ Mỹ - Trung Quốc trở nên gắn kết hơn trong thời gian qua. Tuy nhiên, sự ủng hộ của Mỹ với Đài Loan là cản trở lớn nhất cho quan hệ Mỹ - Trung Quốc. Như vậy, trong suốt thập kỷ 1990, quan hệ Trung Quốc - Mỹ từ chỗ bất đồng gay gắt đã được cải thiện và có sự phát triển liên tục, nhanh chóng nhờ những nỗ lực từ phía Trung Quốc. Nhờ đó, Trung Quốc đã tạo dựng được hình ảnh và vị thế của Trung Quốc trong nền kinh tế thế giới. Trục tam giác kinh tế khu vực châu Á - Thái Bình Dương được hình thành với Mỹ - Nhật Bản - Trung Quốc. Trong quan hệ với Nhật Bản, Trung Quốc luôn tìm cách để vượt lên trên đối thủ nặng ký của mình trong khu vực Đông Á. Thực tế, mối quan tâm và lo ngại lớn nhất của Trung Quốc là liên minh của Nhật với Mỹ và sự mở rộng phạm vi ảnh hưởng của Nhật Bản ra khu vực đang đe dọa nghiêm trọng tới vị thế của Trung Quốc và có thể ảnh hướng xấu tới sự trỗi dậy của Trung Quốc. Do đó, trong quan hệ với Nhật Bản, Trung Quốc có thái độ hoàn toàn khác so với Mỹ. Bất chấp mối quan hệ kinh tế đang trên đà phát triển, quan hệ chính trị giữa hai quốc gia luôn trong tình trạng căng thẳng, tranh chấp, đặc biệt là trong vấn đề Đài Loan. Trung Quốc coi Nhật Bản là kẻ phá hoại sự thống nhất quốc gia khi Nhật Bản ủng hộ chính quyền Đài Bắc. Bên cạnh đó, cả hai đều có lợi ích chiến lược tại các điểm nóng như Triều Tiên, Biển Đông và quần đảo Điếu Ngư/Senkaku. Trong quan hệ với Nga, Trung Quốc đang có những động thái tích cực để cải thiện quan hệ và phát triển hợp tác song phương. Việc Nga coi Trung Quốc là một trong những ưu tiên hàng đầu trong chính sách đối ngoại của Nga là một lợi thế không nhỏ để Trung Quốc tạo được quan hệ láng giềng hữu nghị vốn đã xấu đi từ cuối Chiến tranh lạnh. Hơn nữa, Trung Quốc đang muốn tạo được thế cân bằng chiến lược với Nga trong mọi lĩnh vực, nhất là quân sự và kinh tế. Về kinh tế, Trung Quốc hoàn toàn có thể vượt Nga bởi Trung Quốc vẫn đang trong quá trình phát triển mạnh mẽ, còn Nga thì đang suy thoái. Về quân sự, Trung Quốc vẫn còn thua kém Nga về mọi mặt, vì thế, hợp tác quân sự với Nga cũng là yếu tố then chốt. Trung Quốc nhận thấy Nga có vai trò cực kỳ quan trọng đối với trật tự và an ninh khu vực, cấu trúc quyền lực Đông Á không thể thiếu sự tham gia tích cực của Nga. 51 Đối với khu vực Đông Nam Á, Trung Quốc xác định “ngoại giao láng giềng là quan trọng hàng đầu” nên đây được coi là chiến lược ngoại giao nhằm cạnh tranh tầm ảnh hưởng tại Đông Nam Á. Năm 1993 được coi là “năm ASEAN của Trung Quốc”. Trong năm 1993, Trung Quốc cố gắng thiết lập quan hệ ngoại giao với toàn bộ các nước ASEAN và mở ra những cơ hội đầu tư cho ASEAN vào Trung Quốc. Ba điểm nhấn đáng chú ý trong chính sách đối ngoại của Trung Quốc đối với ASEAN trong thập niên 1990 là: một là, tích cực tham gia và xây dựng cơ chế đa phương; hai là, mở rộng đối ngoại kinh tế, tăng cường quan hệ hợp tác với các nước Đông Nam Á; ba là, tăng cường đối thoại an ninh với các nước láng giềng, xây dựng cơ chế an ninh tin cậy lẫn nhau. Song, bên cạnh những chính sách thể hiện đường lối đối ngoại tích cực với Đông Nam Á, Trung Quốc cũng có những động thái thiếu tích cực với khu vực giai đoạn này. Điển hình là việc Trung Quốc đơn phương đưa quân đội chiếm đảo Vành Khăn của Việt Nam năm 1995, hay các hành động gây hấn tranh chấp lãnh thổ với Philíppin,… Lợi dụng cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ 1997-1998 làm chao đảo các nền kinh tế Đông Á, Trung Quốc đã tăng cường ảnh hưởng và vị thế của một nền kinh tế lớn thông qua sáng kiến thành lập cơ chế ASEAN+3. Sự ủng hộ của Trung Quốc cho cơ chế này có ý nghĩa rất lớn, góp phần làm giảm mức độ tàn phá của cuộc khủng hoảng và vực dậy nền kinh tế khu vực. Các nhà phân tích đã dự đoán về thái độ bất hợp tác của Bắc Kinh thông qua chính sách phá giá đồng Nhân dân tệ. Nhưng Trung Quốc đã không làm như vậy. Nhờ chính sách ổn định đồng Nhân dân tệ của Trung Quốc, cuộc khủng hoảng tài chính châu Á đã không trở nên quá tồi tệ và lan ra phạm vi toàn cầu. Các đồng tiền trong khu vực đã giữ được ổn định. Thị trường Đông Nam Á còn ổn định hơn nhờ Trung Quốc vẫn duy trì việc nhập khẩu hàng hóa từ ASEAN. Rõ ràng, sự trỗi dậy của Trung Quốc xét trong một chừng mực nhất định đang là cơ hội cho sự phát triển chung của nền kinh tế khu vực, tuy nhiên cũng tiềm ẩn những nguy cơ gây bất ổn đối với an ninh chính trị khu vực. Đây là một chủ thể rất quan trọng trong cục diện chính trị Đông Á. 52 2.2.3. Nhật Bản đứng dưới ô bảo hộ an ninh của người Mỹ Cùng với Trung Quốc, Nhật Bản trong thập niên cuối thế kỷ XX đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành nên cục diện chính trị Đông Á. Nhật Bản chính là quốc gia tạo ra làn sóng “châu Á thần kỳ” nửa cuối thế kỷ XX. “Sự thần kỳ Nhật Bản” trong hai thập niên 1960 và 1970 đã đưa quốc gia này từ một đống đổ nát sau Chiến tranh thế giới thứ hai trở thành một hình mẫu của châu Á, trở thành nền kinh tế lớn thứ hai thế giới, sau Mỹ. Chiến tranh lạnh đi đến hồi kết cũng là lúc nền kinh tế Nhật Bản bắt đầu chững lại từ thập niên 1980 và đưa Nhật Bản bước vào giai đoạn trì trệ trong suốt thập niên 1990. Mặc dù vậy, sức mạnh của nền kinh tế hàng đầu châu Á vẫn giúp Nhật Bản có được vị thế của mình. Những yếu tố đó đã thúc đẩy Nhật Bản phải tìm kiếm cho mình một vai trò thực sự trong khu vực trên cả bình diện kinh tế, chính trị, văn hóa. Thực tế, trên con đường thành công của Nhật Bản không thể không nhắc tới Mỹ - từng là kẻ thù trong Chiến tranh thế giới thứ hai nhưng cũng nhanh chóng trở thành cứu tinh của Nhật Bản sau đó. Nhật Bản một mặt luôn muốn duy trì quan hệ đồng minh chiến lược với Mỹ để nhận được sự trợ giúp về an ninh - quân sự, mặt khác lại muốn độc lập với Mỹ trong các vấn đề quốc tế và khu vực. Trong thập niên 1990, bất chấp sự suy thoái của nền “kinh tế bong bóng” (1989-1991), Nhật Bản vẫn là một siêu cường kinh tế đứng thứ hai thế giới. Nhật Bản bước vào “Câu lạc bộ cường quốc” nhờ sự giúp đỡ của Mỹ. Sự phụ thuộc của Nhật Bản vào Mỹ được thể hiện rõ trong Hiệp ước an ninh Mỹ - Nhật Bản ký kết năm 1951 và năm 1970 được ký kết kéo dài vĩnh viễn. Mối ràng buộc về an ninh - chính trị với Mỹ đã định hình quan hệ quốc tế của Nhật Bản, trong đó, Nhật Bản lấy Hiệp ước An ninh Mỹ - Nhật Bản làm trụ cột cho chính sách đối ngoại của mình. Theo bản hiệp ước này, Nhật Bản được đặt dưới “ô bảo hộ hạt nhân” của Mỹ, được Mỹ bảo đảm an ninh. Về cơ bản, Nhật Bản trở thành một căn cứ quân sự chiến lược của Mỹ ở Đông Á. Tháng 01- 1992, trong chuyến thăm của Tổng thống Mỹ George Bush (cha) tới Nhật Bản, hai bên đã ra Tuyên bố Tokyo về quan hệ đối tác toàn cầu, khẳng định liên minh Mỹ - Nhật Bản là nền tảng cho quan hệ giữa hai nước. Tháng 4- 1996, Thủ tướng Nhật Bản Hashimoto và Tổng thống Mỹ Bill Clinton đã 53 ra Tuyên bố chung khẳng định lại Hiệp ước An ninh Mỹ - Nhật Bản được kéo dài vĩnh viễn. Tháng 9-1997, Nhật Bản và Mỹ chính thức công bố các báo cáo cuối cùng về hợp tác an ninh song phương1. Sự sụp đổ của Liên Xô (1991) và việc thiết lập quan hệ ngoại giao, xoá bỏ sự thù địch với Nga (1997) đã giúp Nhật Bản có thể yên tâm về mối đe dọa từ phương Bắc. Thêm vào đó, từ sau “Học thuyết Fukuda” (1977), Nhật Bản đã đánh dấu sự “trở về” châu Á, coi đây là ưu tiên đối ngoại của Nhật Bản trong thời gian tới. Những năm sau Chiến tranh lạnh, chính quyền Mỹ của Tổng thống Bill Clinton đang giảm dần tầm ảnh hưởng của Mỹ trong khu vực, tạo điều kiện cho Nhật Bản mạnh dạn hơn trong hành động, độc lập hơn về đối ngoại. Chỉ có điều, trở ngại đối với Nhật Bản là Hiến pháp Nhật Bản không cho phép họ xây dựng lực lượng quân đội bình thường, trong khi Nga, Trung Quốc và Triều Tiên - mối nguy hại trực tiếp - đều có vũ khí hạt nhân. Chính vì vậy, Nhật Bản không thiết lập con đường ngoại giao bằng sức mạnh hay quyền lực quân sự - chính trị mà bằng con đường “ngoại giao kinh tế”, lấy sức mạnh kinh tế làm mũi nhọn. Đồng thời, việc thiết lập quan hệ ngoại giao với các nước láng giềng cũng được Nhật Bản hết sức quan tâm, nhằm tạo lập môi trường xung quanh ổn định và hòa bình. Nhật Bản chú trọng tăng cường mối quan hệ kinh tế với các quốc gia trong khu vực, đặc biệt là khu vực Đông Nam Á. Dựa vào sức mạnh kinh tế của mình, Nhật Bản đề xuất mô hình phát triển kinh tế Đông Á có kết cấu “đàn ngỗng bay”, trong đó, Nhật Bản là con ngỗng đầu đàn, có vai trò dẫn dắt nền kinh tế khu vực đủ sức cạnh tranh với các nền kinh tế phát triển ở Tây Âu và Bắc Mỹ. Nhật Bản đề cao các nền kinh tế mới nổi ở Đông Nam Á, coi đây là thị trường chính trong chính sách kinh tế hướng ngoại. Có thể thấy, Nhật Bản đã rất khôn ngoan khi chọn Đông Nam Á là nơi để quan tâm hợp tác và đầu tư bởi khu vực này phần lớn là các nước nhỏ và nghèo, đang trong quá trình đổi mới và phát triển đất nước nên rất _________ 1. Xem Lê Linh Lan: “Về những phương châm mới trong quan hệ Mỹ - Nhật”, http://www.dav.edu.vn/en/introduction/missions.html?id=325:so-20-ve-nhung phuong-cham-moi-trong-quan-he-an-ninh-my-nhat. 54 cần nguồn đầu tư tài chính từ nước ngoài. Chiến lược ngoại giao này của Nhật Bản có thể nói là đang phát huy tác dụng rõ rệt. Ngày 14-11-1997, trong chuyến thăm chính thức tới các nước ASEAN, tại thủ đô Manila (Philíppin), Thủ tướng Hashimoto đã đưa ra tuyên bố về chính sách đối ngoại của Nhật Bản đối với ASEAN hướng tới thế kỷ XXI. Theo đó, Nhật Bản tăng cường hơn nữa quan hệ Nhật Bản - ASEAN, mở rộng hợp tác các lĩnh vực chính trị, an ninh, văn hóa, phúc lợi xã hội và các vấn đề toàn cầu. Cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997-1998 đã tác động nghiêm trọng tới tình hình kinh tế Nhật Bản, nhưng đây cũng là lúc Nhật Bản thể hiện vai trò “đầu đàn” của mình trong khu vực. Tháng 11-1998, tại Hội nghị APEC lần thứ 6 tổ chức ở Cuala Lămpơ (Malaixia), Nhật Bản đã cùng Mỹ nhất trí lập kế hoạch hỗ trợ 10 tỷ USD phục hồi các khu vực tư nhân ở châu Á. Chính phủ Nhật Bản của Thủ tướng Obuchi còn tuyên bố sẽ cung cấp nguồn tài chính khoảng 30 tỷ USD cho các nước châu Á đang lâm nạn1. Bên cạnh việc phát triển mối quan hệ với các nước Đông Nam Á, Nhật Bản cũng chú ý tới quan hệ với các nước láng giềng xung quanh NICs. Trong quan hệ với Nga, Nhật Bản chủ trương thiết lập quan hệ láng giềng hữu nghị, thân thiện và hợp tác cùng có lợi. Bất đồng lớn nhất trong quan hệ giữa hai nước là vấn đề tranh chấp các vùng lãnh thổ phía Bắc đảo Hokkaido (Nhật Bản) và phía Nam Sakhalin, đặc biệt là ở quần đảo Kuril. Các giải pháp thông qua luật pháp và công lý đã được tính đến nhưng không mấy hiệu quả, các bên vẫn chưa dung hòa được mối quan hệ lợi ích tại các khu vực này. Nhận thấy vai trò của Nga trong việc bảo đảm an ninh khu vực, cũng như sự yếu thế hơn trong tương quan sức mạnh quân sự với Nga, Nhật Bản đã chủ động nhượng bộ Nga trong một số vấn đề nhằm đạt được sự ủng hộ từ phía Nga. Năm 1997, quan hệ Nhật Bản - Nga có tín hiệu khả quan hơn, mở ra những hy vọng trong việc giải quyết vấn đề tranh chấp lãnh thổ. Trong diễn văn trước Quốc hội Nhật Bản chiều 16-02-1998, cựu Thủ tướng Hashimoto đã tuyên bố: “Bốn nước Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc, Nga thiết lập mối quan hệ trên cơ sở tin cậy _________ 1. Xem Trần Hoàng Long: “Quan hệ Nhật - Trung hiện nay: Thách thức và triển vọng”, Tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á, số 7/2007, tr.16. 55 và phối hợp là quan trọng, vì hòa bình và ổn định ở châu Á - Thái Bình Dương. Trong đó, tôi chú trọng nhất việc triệt để cải thiện quan hệ với Liên bang Nga”1. Ngoài Nga, Trung Quốc đang là mối lo ngại trực tiếp và lớn nhất của Nhật Bản trong khu vực Đông Á. Sự lo ngại đối với Trung Quốc thể hiện rõ qua sự tham gia vào “ván cờ” Triều Tiên và Đài Loan của Nhật Bản. Trung Quốc và Nhật Bản vốn là hai quốc gia có mâu thuẫn từ lâu trong lịch sử, nhất là ký ức kinh hoàng về những vụ thảm sát trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Hai nước cũng đang tranh chấp nhau các vùng lãnh thổ trên biển, điển hình là đảo Senkaku/ Điếu Ngư. Việc Trung Quốc sở hữu vũ khí hạt nhân luôn được coi là mối đe dọa đối với Nhật Bản. Trung Quốc liên tiếp có những cuộc tập trận tại vùng eo biển Đài Loan và gây áp lực chính trị đối với Đài Loan. Cuộc khủng hoảng eo biển Đài Loan (1996) càng làm cho Tôkyô thêm lo sợ trước sức mạnh đang lên của Trung Quốc. Thêm vào đó, Nhật Bản và Trung Quốc còn va chạm nhau trên Biển Đông, nơi mà cả hai bên đều có những lợi ích chiến lược tại đây. Nhật Bản từ lâu đã coi Biển Đông là “sân sau kinh tế và cửa ngõ đi vào Nhật Bản”2, các tuyến giao thông vận tải trên Biển Đông là huyết mạch và là xương sống của nền kinh tế Nhật Bản. Mức độ phụ thuộc của nền kinh tế Nhật Bản vào Biển Đông ngày càng lớn. Vì vậy, Nhật Bản can dự vào các vấn đề Đài Loan, Triều Tiên, Biển Đông là nhằm kiềm chế Trung Quốc, hạn chế Trung Quốc có những hành vi đơn phương làm thiệt hại tới lợi ích của Nhật Bản. Năm 1998, Nhật Bản và Trung Quốc đã ra tuyên bố chung, tiến tới thiết lập quan hệ “đối tác hợp tác hữu nghị về hòa bình và phát triển tiến vào thế kỷ XXI”. Như vậy, bên cạnh những mâu thuẫn và xung đột sẵn có, quan hệ Nhật Bản - Trung Quốc cũng cho thấy những triển vọng phát triển trong tương lai. Đây sẽ là hai quốc gia có vai trò và vị trí quan trọng nhất trong khu vực Đông Á. _________ 1. Lê Linh Lan: “Quan hệ Nhật - Nga và vấn đề tranh chấp lãnh thổ”, http://www.dav.edu.vn/en/international-cooperation/introduction.html?id=424:so 26-quan-he-nhat-nga-va-van-de-tranh-chap-lanh-tho. 2. Hoàng Văn Hiển, Nguyễn Viết Thảo: Quan hệ quốc tế từ 1945 đến 1995, Sđd, tr.102. 56 2.2.4. Sự rút lui của Nga Một chủ thể nằm ngoài khu vực địa lý tự nhiên nhưng có vai trò vô cùng quan trọng trong cục diện chính trị Đông Á thời gian này là Nga. Mặc dù có những suy giảm nhất định trong quan hệ quốc tế ở khu vực và quốc tế, nhưng vai trò của Nga đối với các vấn đề an ninh, phát triển ở Đông Á là điều không thể phủ nhận. Nga kế thừa địa vị của Liên Xô trong các quan hệ quốc tế. Với diện tích địa lý rộng lớn vắt ngang từ Đông sang Tây và sức mạnh quân sự lớn nhất ở lục địa Á - Âu, Nga được ví như “con đại bàng hai đầu… nhìn cả về phương Đông và phương Tây”1. Trong bài phát biểu của mình ngày 17-4-1992, Tổng thống Nga Boris Yeltsin nói: “Nhiệm vụ trung tâm bao trùm mọi hoạt động quốc tế của Nga là xây dựng quan hệ bạn bè với các nước dân chủ trên thế giới nhằm bảo đảm cho nước Nga gia nhập khối cộng đồng các nước phương Tây một cách hợp pháp và hài hòa”2. Đông Á tuy không còn nằm trong ưu tiên đối ngoại của Nga nhưng vẫn là khu vực mà Nga có ảnh hưởng rõ rệt nhất, do đó, tiếp tục hiện diện tại Đông Á là yếu tố quan trọng để Nga không bị bao vây. Trong đó, Nga coi trọng quan hệ với các nước lớn như Trung Quốc và Nhật Bản. Trong quan hệ với Trung Quốc, trong thời kỳ Chiến tranh lạnh, mặc dù cùng đứng trong hàng ngũ các nước xã hội chủ nghĩa nhưng cả Nga và Trung Quốc thường mâu thuẫn nhau gay gắt trong các vấn đề tranh chấp biên giới và đã từng xảy ra xung đột vũ trang. Trung Quốc cũng chính là nhân tố làm hệ thống xã hội chủ nghĩa do Nga đứng đầu suy yếu và làm xói mòn “trật tự hai cực Yalta”. Sự đối đầu giữa hai quốc gia có chiều hướng giảm đi từ năm 1991, khi Hiệp định biên giới quốc gia Nga - Trung Quốc được ký kết. Sự kiện này đã đánh dấu một bước chuyển mình trong quan hệ Nga - Trung Quốc, đưa mối quan hệ này phát triển theo hướng hòa bình hơn và ổn định hơn, tác động không nhỏ tới cục diện chính trị Đông Á và _________ 1. Hoàng Văn Hiển, Nguyễn Viết Thảo: Quan hệ quốc tế từ 1945 đến 1995, Sđd, tr.103. 2. PGS.TS. Nguyễn Hoàng Giáp (Chủ biên): Một số vấn đề chính trị quốc tế trong giai đoạn hiện nay, Sđd, tr.90-91. 57 tình hình thế giới. Từ đây, hai nước bắt đầu thiết lập mối quan hệ hòa bình, láng giềng hữu nghị, tin cậy lẫn nhau và hợp tác cùng có lợi. Tháng 6- 1994, Chủ tịch Trung Quốc Giang Trạch Dân tới thăm Nga, hai bên đã tái khẳng định cam kết đã ký kết trước đó. Cũng trong năm 1994, chính sách đối ngoại của Nga có sự thay đổi khi Nga chú ý nhiều hơn tới châu Á - Thái Bình Dương, không còn quá ưu tiên phương Tây, bởi phương Tây muốn Nga lệ thuộc vào mình. Chính sách đối ngoại mới của Nga cũng nêu lên nguyên tắc “ưu tiên trước hết cho lợi ích quốc gia dân tộc Nga”. Mối quan hệ với Trung Quốc của Nga được mở rộng và thắt chặt hơn nữa khi năm 1994, Nga xác định là “năm Trung Quốc” của Nga và đề nghị xây dựng quan hệ “đối tác chiến lược Nga - Trung Quốc hướng về thế kỷ XXI”1. Tháng 4-1996, cuộc gặp cấp cao của hai người đứng đầu hai nước Nga và Trung Quốc đã bày tỏ quan điểm nâng cấp quan hệ Nga - Trung Quốc lên tầm cao mới. Sau khi Boris Yeltsin rời nhiệm sở, quan hệ Nga - Trung Quốc vẫn tiếp tục được phát triển. Ngay sau khi đắc cử Tổng thống Nga (tháng 5-2000), Vladimir Putin đã có chuyến thăm Bắc Kinh, thắt chặt hơn nữa quan hệ láng giềng chiến lược và tin cậy lẫn nhau trong các vấn đề giữa hai nước và các vấn đề quốc tế. Như vậy, sự quan tâm của Nga đối với Trung Quốc đã chỉ rõ vai trò quan trọng của khu vực Đông Á trong chính sách đối ngoại của Nga. Thiết lập quan hệ ngoại giao với Trung Quốc chính là bước đầu để Nga gia tăng ảnh hưởng của mình tại Đông Á. Bên cạnh mối quan hệ với Trung Quốc, Nga cũng ý thức được mối quan hệ với Nhật Bản. Nga, Nhật Bản là hai quốc gia đứng trên hai chiến tuyến đối đầu nhau trong Chiến tranh lạnh. Khi Chiến tranh lạnh kết thúc, mối quan hệ giữa hai nước còn nhiều mâu thuẫn, nhất là xung quanh vấn đề tranh chấp các quần đảo ở phía Nam Sakhalin và quần đảo Kuril mà Nhật Bản gọi là các vùng lãnh thổ phía bắc đảo Hokkaido. Để cải thiện mối quan hệ đang nóng lên đó, ngày 13-10-1993, Tổng thống Nga Boris Yeltsin đã tới Nhật Bản nhằm thúc đẩy các quan hệ hợp tác thương mại, kinh tế, kỹ thuật. Nga đã ký với Nhật Bản hai tuyên bố chung Nga - Nhật Bản _________ 1. PGS.TS. Nguyễn Hoàng Giáp (Chủ biên): Một số vấn đề chính trị quốc tế trong giai đoạn hiện nay, Sđd, tr.92-93. 58 về chính trị, kinh tế cùng 16 văn kiện về các vấn đề khác1. Đến năm 1997, quan hệ Nga - Nhật Bản lại có bước phát triển hơn. Tháng 01-1997, một tàu chở dầu của Nga bị đắm trên vùng biển Nhật Bản, phía Nga đã nhanh chóng có những nỗ lực hợp tác với Chính phủ Nhật Bản điều tra nguyên nhân vụ việc. Tháng 3-1997, Thủ tướng Nhật Bản Hashimoto bày tỏ sự ủng hộ Nga tham gia các thể chế kinh tế quốc tế như WTO và APEC. Tháng 6-1997, bên lề Hội nghị Thượng đỉnh G8 tại Denver, Nga cũng bày tỏ quan điểm về sự đối đầu Nga - Nhật Bản như thời Chiến tranh lạnh đã đến hồi kết thúc, Nga sẽ dỡ bỏ hệ thống tên lửa hướng vào Nhật Bản, không phản đối việc nâng cấp Hiệp ước an ninh Mỹ - Nhật Bản. Nga cũng cho rằng, với tư cách là một quốc gia mạnh trong khu vực và trên thế giới, vị thế của Nhật Bản hoàn toàn xứng đáng là thành viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc. Trong năm 1998, vấn đề chủ quyền xoay quanh các hòn đảo giữa Nga và Nhật Bản có những bước phát triển tốt đẹp, quan hệ giữa Nga - Nhật Bản đã được điều hòa. Với các nước Đông Nam Á, Nga coi phát triển mối quan hệ với các nước Đông Nam Á là một hướng quan trọng nhằm tăng cường vị thế của Nga ở châu Á - Thái Bình Dương2. 2.2.5. ASEAN hoàn thiện mình cho kỷ nguyên mới Nhắc đến cơ chế đa phương trong khu vực có thể nói đến ngay là Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á - ASEAN (Association of Southeast Asian Nations - ASEAN). Tính đến năm 1999, ASEAN bao gồm 10 quốc gia: Brunây, Campuchia, Inđônêxia, Lào, Malaixia, Mianma, Philíppin, Xingapo, Thái Lan và Việt Nam. Tổng diện tích của các thành viên ASEAN là 4.492.443 km2, chiếm 14,1% lãnh thổ châu Á và chiếm 3,3% diện tích toàn thế giới, trong đó lớn nhất là Inđônêxia và nhỏ nhất là Xingapo. Trong giai đoạn này, mặc dù chưa trở thành trung tâm quyền lực trong khu vực Đông Á, song các nước thuộc ASEAN cũng có vai trò nhất định _________ 1. Xem Hoàng Văn Hiển, Nguyễn Viết Thảo: Quan hệ quốc tế từ 1945 đến 1995, Sđd, tr.103. 2. Xem PGS.TS. Nguyễn Hoàng Giáp (Chủ biên): Cạnh tranh chiến lược ở khu vực Đông Nam Á giữa một số nước lớn hiện nay, Sđd, tr.64. 59 trong việc tạo dựng nên cục diện chính trị trong khu vực. Đối với khối nước này thì việc duy trì sự ổn định, trước hết là ổn định chính trị, được ưu tiên hàng đầu. Mức độ hội nhập quốc tế của tổ chức khá cao. Sự liên kết chặt chẽ của các nước Đông Nam Á với thế giới, đặc biệt là với các nền kinh tế phát triển là một trong những nguyên nhân chủ yếu tạo nên thành công về kinh tế của các nước ASEAN. Cùng với vị trí địa - chiến lược và sự giàu có về tài nguyên thiên nhiên, sự lớn mạnh của tổ chức ASEAN, khả năng phối hợp hành động và liên kết ngày càng chặt chẽ hơn giữa các thành viên của tổ chức đã làm cho khu vực Đông Nam Á trở nên quan trọng trong bàn cờ địa - chính trị thế giới và đặc biệt là khu vực Đông Á. Trong thời kỳ Chiến tranh lạnh, ASEAN đã giữ sự trung lập hình thức và đã thành công trong trật tự hai cực và sự đối đầu Đông - Tây ở khu vực. Chiến tranh lạnh kết thúc cùng với trật tự hai cực tan rã đã dẫn đến tình trạng “khoảng trống quyền lực” ở khu vực Đông Nam Á. Các chủ thể quyền lực quan trọng như Trung Quốc, Nhật Bản, Mỹ giữ vị thế quan trọng ở khu vực, nhưng chưa có quốc gia nào đủ khả năng thực hiện đường lối “bá quyền” tại đây. Trong hoàn cảnh đó, các nước ASEAN đã nhanh chóng, tích cực tham gia các cuộc thảo luận về việc xây dựng cơ chế đa phương, kết nạp thêm các thành viên mới trong khu vực với mục đích xây dựng Đông Nam Á trở thành khu vực hòa bình, trung lập, an ninh và thịnh vượng. Sau Chiến tranh lạnh, ASEAN đã đóng một vai trò khá tích cực trong việc thúc đẩy liên kết kinh tế, hòa giải về chính trị và thúc đẩy trao đổi về văn hóa trong vùng. Điểm mạnh của ASEAN là vai trò trung gian, cầu nối quan trọng trong khu vực, là nơi mà bất kỳ nước nào muốn đóng vai trò then chốt trong khu vực Đông Á đều cần phải tranh thủ và lôi kéo. Nhìn chung, ASEAN có quan hệ tốt với cả Mỹ, Nhật Bản và Trung Quốc. Các nước ASEAN được coi là thị trường có tiềm năng lớn tiếp nhận hàng hóa Mỹ. Năm 1997 xuất khẩu của Mỹ vào đây đạt 48 tỷ USD. Nhật Bản từ thập niên 1980 trở lại đây trở thành nhà đầu tư lớn nhất của Đông Nam Á và là bạn hàng lớn nhất của ASEAN. Còn quan hệ hợp tác kinh tế, thương mại, đầu tư của Trung Quốc với ASEAN cũng phát triển tương đối nhanh. Mặc dù bất đồng về phương thức và phương pháp thực 60 hiện hợp tác kinh tế và an ninh khu vực, song do các nước lớn có mâu thuẫn nên ASEAN đã phát huy vai trò chủ đạo, tích cực trong hợp tác khu vực Đông Á. Sự liên kết chặt chẽ của 10 nước thành viên cho phép ASEAN có tiếng nói mạnh mẽ, thống nhất trong đàm phán và thương lượng với các chủ thể quyền lực khác như Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Mỹ,… ASEAN ngày càng nâng cao vị thế về an ninh, chính trị, kinh tế trong khu vực thông qua việc thành lập Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF) năm 1994, tạo dựng khuôn khổ thảo luận các vấn đề an ninh khu vực, tạo dựng một cộng đồng an ninh, thực hiện nhiệm vụ hòa giải xung đột khu vực. Việc phát triển kinh tế của các nước thành viên trong tổ chức đã đưa ASEAN trở thành một trong những khu vực phát triển kinh tế năng động nhất, là một thị trường lớn ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương1. Nhắc đến ASEAN không thể không nhắc tới các cơ chế hợp tác, đối thoại đa phương bên cạnh ASEAN như: Diễn đàn Khu vực ASEAN, Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương, Cơ chế ASEAN+1 và ASEAN+3,… a) ARF Diễn đàn Khu vực ASEAN (ASEAN Regional Forum - ARF) được thành lập năm 1994 nhằm thúc đẩy cơ chế đối thoại và tham vấn về các vấn đề an ninh và chính trị trong khu vực. Khẩu hiệu của ARF là “Xúc tiến hòa bình và an ninh qua đối thoại và hợp tác ở châu Á - Thái Bình Dương”. Với sự tham dự của nhiều quốc gia trong và ngoài khu vực Đông Nam Á, ARF đã thể hiện tư duy mới của ASEAN về các vấn đề an ninh và hợp tác an ninh - chính trị, gắn an ninh với sự phát triển, gắn quốc gia với khu vực, gắn khu vực với quốc tế. Cùng với việc xác định cơ cấu và nguyên tắc hoạt động, ARF đã đề ra một lộ trình gồm ba giai đoạn nhằm duy trì, củng cố nền hòa bình, an ninh khu vực. Đó là: thúc đẩy “xây dựng lòng tin”; thực hiện “ngoại _________ 1. Xem Nguyễn Thiết Sơn: “Quan hệ kinh tế ASEAN - Mỹ: những vấn đề hiện nay”, Tạp chí Châu Mỹ ngày nay, số 4/1997, tr.33. 61 giao phòng ngừa”; và xem xét các cách “giải quyết các cuộc xung đột”. Mỗi giai đoạn đã soạn thảo những nội dung, biện pháp chính. Việc phân chia ba giai đoạn đều mang ý nghĩa, không phải là theo tuần tự một cách cứng nhắc. Trong một khu vực vốn ít có lịch sử hợp tác an ninh đa phương, Diễn đàn Khu vực ASEAN là cơ chế hợp tác đa phương quan trọng nhất về an ninh ở châu Á. Diễn đàn này đã bổ sung vào các cơ chế liên minh song phương và đối thoại khác nhau hiện có ở châu Á, củng cố thêm kinh nghiệm hợp tác an ninh ở khu vực này. Diễn đàn ARF được xây dựng từ ý tưởng - rút ra từ chính kinh nghiệm của ASEAN - rằng một tiến trình đối thoại có thể tạo ra những biến chuyển tích cực trong quan hệ chính trị giữa các nước. Nó tạo ra một cơ chế hoạt động giúp các thành viên có thể thảo luận về các vấn đề an ninh hiện có trong khu vực và tăng cường các biện pháp hợp tác nhằm thúc đẩy hòa bình và an ninh trong khu vực. ARF ra đời trên nhu cầu cấp bách cần có một cơ chế hợp tác an ninh đa phương ở Đông Á nói riêng, châu Á - Thái Bình Dương nói chung. Bởi vì, mặc dù Chiến tranh lạnh đã chấm dứt, nhưng môi trường an ninh trong khu vực còn tiềm ẩn nhiều nguy cơ xung đột như tranh chấp chủ quyền lãnh thổ, tài nguyên thiên nhiên, xung đột tôn giáo, sắc tộc,… Với một cơ cấu tổ chức mềm dẻo, nguyên tắc ra quyết định dựa trên sự đồng thuận và phát triển với tốc độ phù hợp với tất cả các nước thành viên, ARF là cơ chế hợp tác an ninh đa phương thích hợp với khu vực Đông Á, châu Á - Thái Bình Dương đúng như một học giả phương Tây nhận xét: “Về phương diện lịch sử, ARF là duy nhất trong phạm vi địa lý của nó. Một cơ cấu an ninh mở rộng, bao gồm tất cả các cường quốc lớn trong khu vực, chưa bao giờ tồn tại ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương”1. Đối với ASEAN, sự ra đời của ARF là một thành công lớn về phương diện ngoại giao của Hiệp hội này ở thời kỳ hậu Chiến tranh lạnh. ARF không chỉ tạo cơ hội cho ASEAN đóng góp vào hòa bình, ổn định và hiểu biết lẫn nhau giữa các nước trong khu vực Đông Á, châu Á - Thái Bình Dương, trong đó có Đông Nam Á, mà còn tạo điều kiện cho Hiệp hội này _________ 1. Michael Leifer: The ASEAN Regional Forum: A Model for Cooperative Security in the Middle East, The Australian National University, Canberra, 1998, p.4. 62 đóng vai trò lãnh đạo trong việc vạch ra các quá trình an ninh ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương. b) APEC Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương - APEC (Asia Pacific Economic Cooperation) là tổ chức quốc tế của các quốc gia nằm trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương với mục tiêu tăng cường tự do hóa thương mại và thuận lợi hóa đầu tư liên khu vực. Từ cuối những năm 1970, đặc biệt là trong những năm 1980, sự tăng trưởng kinh tế liên tục với nhịp độ cao của châu Á mà nòng cốt là các nền kinh tế Đông Á đã thu hút sự chú ý của cả thế giới. Tiếp theo “sự thần kỳ” của Nhật Bản, các nền kinh tế công nghiệp mới (NIEs), ASEAN và đặc biệt là sự nổi lên của Trung Quốc đã biến châu Á thành khu vực phát triển kinh tế năng động nhất thế giới. Chính yếu tố này đã thúc đẩy nhu cầu xây dựng một sự hợp tác hiệu quả giữa các nền kinh tế ở khu vực. Tháng 01-1989, tại Xơun, Hàn Quốc, Thủ tướng Ôxtrâylia Bob Hawke đã nêu ý tưởng về việc thành lập một diễn đàn tư vấn kinh tế cấp bộ trưởng ở châu Á - Thái Bình Dương với mục đích phối hợp hoạt động giữa các chính phủ nhằm đẩy mạnh phát triển kinh tế ở khu vực và hỗ trợ hệ thống thương mại đa phương. Nhật Bản, Malaixia, Hàn Quốc, Thái Lan, Philíppin, Xingapo, Inđônêxia, Niu Dilân, Canađa và Mỹ đã ủng hộ sáng kiến này. Tháng 11-1989, các bộ trưởng ngoại giao và kinh tế của các nước này đã họp tại Canberra, Ôxtrâylia quyết định chính thức thành lập APEC. Sau đó, APEC kết nạp thêm Trung Quốc, Hồng Kông và Đài Loan (với tên gọi theo tiếng Anh là Chinese Taipei) vào tháng 11-1991; Mêhicô, Papua Niu Ghinê tháng 11-1993; Chilê tháng 11-1994 và tạm ngừng thời hạn xét kết nạp thành viên trong ba năm. Đến tháng 11-1998, APEC kết nạp thêm ba thành viên mới là Pêru, Liên bang Nga và Việt Nam, đồng thời quyết định tạm ngừng thời hạn xem xét kết nạp thành viên mới trong 10 năm để củng cố tổ chức. Về chính trị, APEC có tiếng nói quan trọng trên các diễn đàn quốc tế và khu vực. Ba trong năm Ủy viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc là thành viên của APEC (Nga, Mỹ, Trung Quốc). 63 Trong số 14 nền kinh tế lớn nhất thế giới có GDP hơn 500 tỷ USD thì có tới 7 thành viên thuộc APEC, trong đó có 3 nền kinh tế lớn hàng đầu thế giới là Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc. Với các nguyên tắc hoạt động rõ ràng, bình đẳng, không phân biệt về chính trị, trình độ phát triển kinh tế, APEC thực sự đóng vai trò quan trọng; là cơ sở, động lực để thúc đẩy sự phát triển của từng thành viên cũng như cả khu vực và trên phạm vi toàn cầu. APEC là nơi mà các nền kinh tế thành viên có thể đóng góp quan điểm, ý kiến riêng của mình nhằm xây dựng diễn đàn thành một cộng đồng kinh tế phát triển trong sự đa dạng đồng đều, hỗ trợ và bổ trợ lẫn nhau để tạo thành một thực thể kinh tế gắn bó về chính sách chung, về thị trường, về hợp tác kinh tế - khoa học - kỹ thuật, thúc đẩy quá trình tự do hóa thương mại và đầu tư trong khu vực cũng như trên toàn thế giới. c) ASEAN+1, ASEAN+3 Đầu những năm 1990, Thủ tướng Malaixia Mahathir Mohamad đã đề xuất ý tưởng thành lập Nhóm kinh tế Đông Á (EAEC) bao gồm ASEAN, Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc. Nhóm này sau đó được đổi tên thành “Diễn đàn kinh tế Đông Á” nhưng không thành hiện thực do gặp phải sự phản đối của Mỹ. Tuy nhiên, sự phản đối của Mỹ không làm cho các nước ASEAN từ bỏ ý tưởng này. Malaixia vẫn tuyên truyền, giải thích và vận động về ý tưởng thành lập một tổ chức riêng của các nước ở khu vực Đông Á. Cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ châu Á trong những năm 1997-1998 càng làm cho nhu cầu hợp tác khu vực trở nên cấp thiết. Nhiều quốc gia trong khu vực Đông Nam Á và Đông Bắc Á mong muốn gia tăng hợp tác để tìm ra những giải pháp cho cuộc khủng hoảng. Ngày 15-12-1997, Hội nghị chính thức giữa các nhà lãnh đạo ASEAN, Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc chính thức được triệu tập tại Cuala Lămpơ và cơ chế hợp tác ASEAN+3 ra đời từ đó. Cuộc khủng hoảng xuất phát từ Thái Lan và lan rộng tới khắp các nước Đông Nam Á đã khiến cho nền kinh tế các nước Đông Nam Á suy thoái trầm trọng, sản xuất giảm sút mạnh. Trước tình hình đó, Nhật Bản và Trung Quốc đã ra tay giúp đỡ các nước ASEAN, trong khi đó, Mỹ vốn được coi là đồng minh của một số nước ASEAN lại quay mặt làm ngơ. Điều này đã khiến ASEAN thất vọng. Cuộc khủng 64 hoảng tài chính - tiền tệ châu Á và phản ứng của các nước đối thoại của Đông Nam Á trước khủng hoảng này đã khiến ASEAN nhận thức được hai điều: thứ nhất, sự liên kết, phụ thuộc về mặt kinh tế giữa các nền kinh tế Đông Á tương đối chặt chẽ, các nền kinh tế đã trở nên phụ thuộc lẫn nhau hơn; hai là, những vấn đề của kinh tế Đông Á chỉ được giải quyết bằng sự nỗ lực chung của chính các quốc gia trong khu vực. Những cố gắng thể chế hóa hợp tác khu vực khác cũng góp phần đặt những viên gạch cho con đường hướng tới một thể chế Đông Á. Đó là sự tập hợp các nước Đông Á tại các cuộc gặp sau Hội nghị Ngoại trưởng ASEAN và trong khuôn khổ ASEM. Đầu tiên là Nhật Bản (1977), sau đó là Hàn Quốc (1991) và Trung Quốc (1996) đã lần lượt tham gia hằng năm vào các cuộc ASEAN PMC để bàn về những vấn đề khu vực liên quan đến mình. Nhìn chung, sau Chiến tranh lạnh cho đến trước năm 1997, quan hệ đa phương trong khu vực đã phát triển rõ rệt, các nỗ lực thể chế hóa hợp tác đa phương cũng có nhiều kết quả hơn. Tuy nhiên, các nỗ lực này vẫn hướng tới tiểu khu vực hoặc liên khu vực mà chưa phải là khuôn khổ Đông Á. Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ năm 1997-1998 đã đánh dấu sự chuyển hướng sang khuôn khổ Đông Á. Từ đây, xu hướng thể chế hóa trong khuôn khổ Đông Á mới bắt đầu tăng mạnh và được quan tâm nhiều hơn. Trong bối cảnh đó, ASEAN+3 đã được hình thành một cách đầy ý thức. ASEAN+3 xuất phát từ đề nghị của Thủ tướng Nhật Bản Hashimoto về việc tổ chức cuộc gặp thượng đỉnh Nhật Bản - ASEAN. Các nước ASEAN đã đề nghị lại rằng, cuộc gặp thượng đỉnh đó nên được mở rộng bao gồm cả Trung Quốc và Hàn Quốc. ASEAN+3 được coi là bắt đầu bằng cuộc gặp thượng đỉnh không chính thức đầu tiên giữa nguyên thủ mười nước ASEAN và ba nước Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc tại Cuala Lămpơ (Malaixia) tháng 12-1997 nhân dịp kỷ niệm 30 năm thành lập tổ chức ASEAN. Sự kiện này thực sự có ý nghĩa khởi đầu bởi đây là cuộc gặp thượng đỉnh Đông Á đầu tiên. Cuộc gặp này đã tạo đà cho sự hình thành de facto (các luật định) trong khuôn khổ hợp tác Đông Á diễn ra liên tục những năm sau đó. Đúng như Muhadi Sugiono nhận xét, sự kiện ASEAN được thành lập năm 1967 có thể được coi là “một trong những sáng kiến quan trọng nhất cho một nền hòa bình ở Đông Nam Á… Từ một khu vực nhiều bất cập 65 bởi sự thiếu ổn định, các cuộc xung đột và gồm nhiều nước kém phát triển trong những năm 1960 trở thành một trong những khu vực có tính ổn định nhất và một nền hòa bình tương đối trên thế giới”1. Sau khi Liên Xô sụp đổ, quá trình thể chế hóa và mở rộng của ASEAN được đẩy mạnh với việc kết nạp thêm các quốc gia Đông Nam Á còn lại. ASEAN đang trên con đường trở thành một chủ thể có đủ sức mạnh để cầm lái an ninh khu vực; hoặc ít nhất là trở thành một nhân tố quan trọng bên cạnh các cường quốc khác, giúp điều phối an ninh và duy trì sự ổn định của Đông Nam Á. 2.3. Vai trò của các chủ thể trong một số điểm nóng an ninh khu vực Như đã phân tích ở trên, sau năm 1972, trục chính trong quan hệ quốc tế ở Đông Á là quan hệ Mỹ - Trung Quốc. Sự tan rã của hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu càng làm củng cố thêm sức mạnh của Mỹ và Trung Quốc trong khu vực. Vị trí, vai trò và sức mạnh của mỗi chủ thể là bản lề để đánh giá quan hệ giữa chúng với nhau. Đó cũng là quá trình hình thành luật chơi trong cục diện chính trị ở Đông Á. Mô hình cơ cấu quyền lực trong cục diện chính trị Đông Á giai đoạn 1991-2001 giống như một vòng tròn đồng tâm mà trong đó, Mỹ đứng ở vị trí trung tâm, chi phối và kiểm soát hầu hết quan hệ quốc tế trong khu vực. Đây không chỉ là tham vọng, mà còn là thực tế. Nước Mỹ vốn bị coi là “sen đầm quốc tế”, vì lợi ích của chính nó nên Oasinhtơn “không thể rút lui khỏi chức năng lãnh đạo thế giới”, và thứ nữa, “sự can dự của Mỹ vào các công việc thế giới trở nên không thể đảo ngược”2. Với tư cách là “cực chiến thắng”, Mỹ là người kiến tạo nên cục diện chính trị khu vực Đông Á cùng với các tác nhân trung gian là Trung Quốc, Nhật Bản, Nga, trong một chừng mực nhất định là cả ASEAN… Cục diện chính trị thập niên 1990 được gọi cục diện nhất siêu - đa cường, với Mỹ là siêu cường _________ 1. Muhadi Sugiono: “Các logic cho nền hòa bình: ASEAN và khu vực hòa bình tại Đông Nam Á” trong Phạm Quang Minh (Biên soạn): Quan hệ chính trị quốc tế, Khoa Quốc tế học - Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Hà Nội, 2009, tr.46. 2. Phạm Thái Việt: “Hệ thống quan hệ quốc tế đương đại”, trong Viện Thông tin Khoa học Xã hội (Chuyên đề): Trật tự thế giới sau Chiến tranh Lạnh: Phân tích và dự báo, Sđd, t.II, tr.17-18. 66 duy nhất, phía dưới là các cường quốc như Trung Quốc, Nga, Nhật Bản và tổ chức ASEAN. Đây là sự tiếp nối của cục diện chính trị đã được Mỹ - Trung Quốc dàn xếp từ năm 1972, bởi vậy, trong khi bên ngoài nước Mỹ nhìn nhận thập niên 1990 là thời gian hình thành trật tự thế giới đơn cực - đa nguyên1, thì ở bên trong, giới chính trị gia Mỹ tin rằng đây là thời cơ mà Mỹ phải nắm lấy để biến thế kỷ XXI thành một thế kỷ Mỹ thứ hai, chứ không phải để thiết lập một trật tự thế giới mới2. Sự thống trị của Mỹ và sự thiếu vắng các mối đe dọa trực tiếp khiến cho nước Mỹ có cách nhìn khác về Đông Á, thậm chí là cả việc sẽ biến Trung Quốc thành một cường quốc có trách nhiệm khi Bắc Kinh trở nên lớn mạnh. Sự vượt trội của Mỹ dường như đã làm khỏa lấp những thiếu sót từ chính sự phân hóa trong nội bộ nước Mỹ về chính sách đối ngoại, hay thậm chí là quan điểm về “khoảng trống quyền lực” ở Đông Á khi Nga rút lui và nước Mỹ giảm dần sự hiện diện tại đây. Cuộc khủng hoảng tên lửa trên bán đảo Triều Tiên và khủng hoảng eo biển Đài Loan trong thập niên 1990 cho thấy, Mỹ đã chiếm vị trí thượng phong, nhưng không phải mọi thứ đều diễn ra theo ý muốn của họ. Thứ nhất, vấn đề hạt nhân trên bán đảo Triều Tiên. Trong bức tranh chung của khu vực Đông Á vẫn có những khoảng tối còn lại của thời kỳ Chiến tranh lạnh trên bán đảo Triều Tiên - nơi bị chia cắt thành hai nhà nước là Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên ở phía bắc vĩ tuyến 38 và Hàn Quốc ở phía nam vĩ tuyến 38. Quan hệ Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên - Hàn Quốc có dấu hiệu ấm dần lên. Cả hai miền Triều Tiên đều thuộc một nền văn hóa Triều Tiên, chịu ảnh hưởng của văn minh Trung Hoa. Bất chấp những khác biệt về chính trị - kinh tế - xã hội và nỗi đau chiến tranh kéo dài từ năm 1950 đến nay, người Triều Tiên ở cả hai miền vẫn xem họ là một “dân tộc”3. Học giả người Mỹ Samuel P. Huntington dự báo, “bạo lực giữa hai miền Triều Tiên vẫn còn có khả năng xảy ra, sự _________ 1. Xem Bogaturov Aleksey Demosfenich, Averkov Viktor Viktorovich: Lịch sử quan hệ quốc tế, Sđd. 2. Xem Hoàng Văn Hiển, Nguyễn Viết Thảo: Quan hệ quốc tế từ 1945 đến 1995, Sđd, tr.93. 3. Xem Phạm Quang Minh: Quan hệ quốc tế ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương, Sđd, tr.170. 67 tương đồng văn hóa giữa họ lại có thể xói mòn khả năng đó theo thời gian”1. Dựa trên cơ sở này, chính quyền dân sự đầu tiên ở Hàn Quốc dưới thời Kim Young Sam đã đề ra cách thức thống nhất cho Cộng đồng dân tộc Hàn dựa trên ba khía cạnh sau: 1. Sự hòa giải và hợp tác: Sự thù địch và đối đầu hiện nay sẽ phải được thay thế bằng sự hòa giải và hợp tác. 2. Cộng đồng Hàn: Một khi việc cùng tồn tại hòa bình và sự thịnh vượng chung được bảo đảm, hai phần của bán đảo Hàn sẽ hội nhập trong một cộng đồng kinh tế - xã hội duy nhất. 3. Một quốc gia dân tộc: Vấn đề này sẽ được hoàn thành với sự hợp nhất hoàn toàn của hai miền Nam và Bắc2. Ngày 13-6-2000, Hội nghị Thượng đỉnh liên Triều đã diễn ra, mở ra thời kỳ hòa bình, hợp tác giữa Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên và Hàn Quốc, nhen nhóm hy vọng về việc thống nhất đất nước. Giữa lúc vấn đề thống nhất hai miền đang thu hút mọi sự chú ý trên bán đảo Triều Tiên thì cuộc khủng hoảng hạt nhân Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên nổ ra năm 1992, khi giới chức Cơ quan Năng lượng nguyên tử quốc tế (IAEA) cho biết chính quyền Bình Nhưỡng đã cho sử dụng nhiên liệu từ các cơ sở hạt nhân ở Yongbyon một cách bí mật. Sau đó, bất chấp sự phản đối từ bên ngoài, Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên tuyên bố sẽ rút khỏi Hiệp ước không phổ biến vũ khí hạt nhân (NPT). Sự việc chỉ lên đến đỉnh điểm khi Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên tiến hành phóng tên lửa Paektusan-1, làm khởi phát lên cuộc khủng hoảng tên lửa, mà điều đáng quan tâm nhất là nó che giấu một vụ thử vũ khí hạt nhân. Nhận thấy mối đe dọa hạt nhân từ phía Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên đang lên cao, tháng 6-1994, cựu Tổng thống Mỹ Jimmy Carter đã tới gặp gỡ với Chủ tịch Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên Kim Nhật Thành và đạt được một thỏa thuận khung về việc Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên đồng ý dừng các chương trình hạt nhân của mình để _________ 1. Samuel P. Huntington: Sự va chạm giữa các nền văn minh, Sđd, tr.310. 2. Xem Cơ quan Thông tin hải ngoại Hàn Quốc: Hàn Quốc - Lịch sử và văn hóa, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.186. 68 đổi lấy các khoản cứu trợ từ phía Mỹ và Hàn Quốc. Tuy nhiên, tình hình căng thẳng trở lại sau khi Kim Nhật Thành qua đời, con trai Kim Nhật Thành là Kim Jong-il lên làm Chủ tịch Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên, tiếp tục tiến hành các chương trình hạt nhân của cha mình. Kim Jong-il thi hành một chính sách đối ngoại khá cứng rắn nhằm theo đuổi tham vọng trở thành một cường quốc hạt nhân, đủ khả năng bảo đảm an ninh Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên trước bất cứ hành vi xâm phạm nào của Hàn Quốc và Mỹ. Mặc dù vậy, những khó khăn trong nước đã hạn chế phần nào ý muốn này của Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên. Năm 1998, tình hình Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên dần được cải thiện. Năm 1999, thu nhập quốc dân đạt 13 tỷ USD và mức thu nhập bình quân đầu người rất thấp, chỉ là 544 USD1. Bảng 3: Chương trình hạt nhân của Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên theo quan điểm ba mô hình của Scott D. Sagan2 và lợi ích quốc gia tương ứng Mô hình Nội dung Lợi ích quốc gia tương ứng Mô hình an ninh (Security Model) Mô hình chính trị nội bộ (The Domestic Politics Model) Mô hình quy chuẩn (The Norms Model) _________ Vũ khí hạt nhân và các mối đe dọa quốc tế (Nuclear Weapons and International Threats) Tham vọng hạt nhân của nhà lãnh đạo và những lợi ích cục bộ (Nuclear Pork and Parochial Interests) Biểu tượng hạt nhân và bản sắc quốc gia (Nuclear Symbols and State Identity) An ninh - Sự cố kết quốc gia - Môi trường chính trị trong nước Hình ảnh, danh dự và vị thế quốc gia 1. Xem Nguyễn Anh Thái (Chủ biên): Lịch sử thế giới hiện đại, Sđd, tr.331. 2. Xem Scott D. Sagan: “Why do States Build Nuclear Weapons? Three Models in Search of a Bomb”, International Security, Chương 21, số 3, Winter, 1996-1997, tr.54-86. 69 Về lý thuyết, Mỹ hoàn toàn có thể trở thành “đạo diễn” cho một Triều Tiên thống nhất, nhưng chiến tranh ở Việt Nam là một bóng đen phủ lên tham vọng của nước Mỹ ở châu Á - Thái Bình Dương, trong khi quan hệ Mỹ - Trung Quốc đã có những thỏa thuận theo kiểu nước lớn. Cục diện nước lớn trong vấn đề Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên có nhiều thay đổi quan trọng: Thứ nhất, Liên Xô (sau này là Nga) mất đi vai trò là kẻ đối trọng chính với Mỹ trong vấn đề Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên, thay vào đó là Trung Quốc. Thứ hai, tham vọng hạt nhân ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên khiến vấn đề phi hạt nhân hóa trở thành trung tâm trong quan hệ nước lớn ở bán đảo Triều Tiên, bên cạnh câu chuyện thống nhất hai miền. Thứ ba, cả Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên và Hàn Quốc đều chủ động trở thành các nhân tố định hình nên cục diện chính trị - an ninh khu vực trong vai trò là những cường quốc bậc trung, Hàn Quốc có sự bảo trợ của Mỹ, còn Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên là một quốc gia có vũ khí nguyên tử1. Phía Mỹ tin vào ưu thế vượt trội của họ có thể thống nhất bán đảo Triều Tiên theo hướng có lợi cho mình; hoặc tối thiểu là một Triều Tiên phi hạt nhân. Tuy nhiên, khi Kim Jong-il kiên quyết thực hiện tham vọng hạt nhân, thì chính quyền Mỹ đã chấp nhận nhượng bộ giải pháp thống nhất, đổi lại hạn chế chương trình hạt nhân của Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên bằng lương thực. Trong khi đó, Trung Quốc tiếp tục bị chi phối bởi quan điểm “vùng đệm”, không chấp nhận kịch bản Triều Tiên thống nhất thân phương Tây, do đó dường như giữ nguyên hiện trạng là giải pháp ổn hơn cả. Các cường quốc khu vực khác như Nga, Nhật Bản, Hàn Quốc thì quan tâm đến việc một cuộc chiến tranh có thể xảy ra nếu Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên phát triển năng lực hạt nhân. Thứ hai, cuộc khủng hoảng eo biển Đài Loan năm 1996 là sự kiện tiêu biểu thứ hai phản ánh sự tương tác giữa các chủ thể chính trong cục diện chính trị Đông Á. Khủng hoảng ở eo biển Đài Loan là sự kiện hiếm hoi mà _________ 1. Xem thêm Trần Bách Hiếu, Nguyễn Văn Trung: “Prospect for Reunification of the Korean Peninsula: Perspective from International Relations in East Asia Today”, tr. 293-303 trong Korean Global Foundation: International Relations in East Asia in the New Regional Context, KGB-Publishing House. 70 Trung Quốc và Mỹ đối đầu với nhau một cách trực tiếp. Bắc Kinh luôn bảo vệ quan điểm về việc Đài Loan là một phần lãnh thổ của Trung Quốc và có thể sử dụng vũ lực để tiến hành thống nhất đất nước, trong khi Oasinhtơn mong muốn duy trì mối quan hệ với Đài Loan dựa trên Luật quan hệ với Đài Loan năm 1979 nhằm duy trì vành đai liên minh bao vây Trung Quốc sau khi quan hệ ngoại giao chính thức bị chấm dứt. Tháng 3-1996, quân đội Trung Quốc đã tiến hành diễn tập quy mô lớn và bắn tên lửa ở eo biển Đài Loan trong khi Đài Loan diễn ra bầu cử tổng thống, nhằm cảnh báo chính quyền mới ở Đài Loan nên từ bỏ tham vọng theo đuổi một chính sách độc lập. Sự việc chỉ trở nên căng thẳng khi các lực lượng quân sự của Mỹ, bao gồm tàu sân bay Independence và tàu tiếp tế, đã được điều đến sát eo biển Đài Loan bất chấp sự phản đối từ phía Trung Quốc. Sự hiện diện của Mỹ tại khu vực này đã làm kết thúc cuộc khủng hoảng eo biển Đài Loan. Hành động của Mỹ ở eo biển Đài Loan cho dù chỉ mang tính biểu dương lực lượng, trong khi sức mạnh hải quân của Trung Quốc còn rất yếu, song nó cũng cho thấy vai trò của Mỹ trong cục diện chính trị khu vực. Điều đó cũng khiến cho Trung Quốc đẩy mạnh hơn hợp tác với Nga như là cách để cân bằng với Mỹ. Khác với vấn đề Triều Tiên, lợi ích của nước Mỹ ở Đài Loan rõ ràng hơn. Về căn bản, Oasinhtơn đã có thể hài lòng với tình hình trên bán đảo Triều Tiên cho dù vấn đề hạt nhân của Bình Nhưỡng vẫn còn nóng bỏng, song Đài Loan lại là một mắt xích không thể thiếu trong vành đai phòng thủ Thái Bình Dương của Mỹ; do đó, chính quyền Clinton vẫn duy trì quan điểm về một Đài Loan độc lập không chịu sự kiểm soát của Bắc Kinh. Tuy nhiên, vì Trung Quốc cũng là một nước lớn nên việc Mỹ vẫn chưa nối lại các kênh ngoại giao chính thức với Đài Loan cũng phần nào phản ánh sự nhượng bộ đối với Trung Quốc. Lợi ích của Trung Quốc ở Đài Loan không chỉ là ngăn chặn được một đồng minh chính thức nữa của Mỹ ở châu Á mà còn là hình ảnh, vị thế của một cường quốc không muốn quay lại “thế kỷ nhục nhã” bị thực dân bên ngoài xâu xé. Bởi vậy, sau khi đã thống nhất được Hồng Kông và Ma Cao, giới lãnh đạo Trung Quốc chắc chắn sẽ thúc đẩy tham vọng tương tự đối với Đài Loan. Việc sáp nhập Đài Loan vào Trung Quốc đại lục sẽ dễ dàng hơn nhờ vào sự tương đồng văn hóa - văn minh, song nó bị chi phối bởi ý muốn của người dân Đài Loan và lợi ích của Mỹ. 71 3. Cục diện chính trị Đông Á giai đoạn 2001-2009 3.1. Bối cảnh quốc tế và khu vực Thế giới bước vào thập niên thứ hai sau Chiến tranh lạnh và là thập niên đầu tiên của thế kỷ mới - thế kỷ XXI với những cuộc đổi ngôi liên tiếp trên chính trường của các cường quốc: ở Mỹ, sau hai nhiệm kỳ cầm quyền liên tiếp của Đảng Dân chủ là thời gian lãnh đạo của Đảng Cộng hòa (2001); ở Nga, Vladimir Putin (thuộc Đảng nước Nga Thống nhất) lên làm Tổng thống Liên bang Nga (2000) tiếp quản từ thời Boris Yeltsin; ở Trung Quốc, năm 2002, Hồ Cẩm Đào - thuộc thế hệ lãnh đạo thứ tư Đảng Cộng sản Trung Quốc - được bầu làm Tổng Bí thư, sau đó là Chủ tịch nước (2003) thay cho Giang Trạch Dân… Thập niên đầu thế kỷ XXI cũng là thời gian mà sự vận động của đời sống chính trị thế giới trở nên mạnh mẽ và phức tạp hơn bởi sự lớn mạnh của các chủ thể, các trung tâm mới bên cạnh các chủ thể, các trung tâm cũ. Điều này đã tạo nên tính chất đa cực hóa và sự phân tuyến rõ nét trong cục diện chính trị thế giới. Mặc dù sau Chiến tranh lạnh, xu thế hòa hoãn, hợp tác đang là chủ đạo, nhưng trước những mối đe dọa trực tiếp và tiềm ẩn, thế giới vẫn tiếp tục chứng kiến những cuộc chiến tranh, xung đột giữa các quốc gia, các nền văn hóa - đại diện là các tôn giáo - và các nhóm sắc tộc. Thực tế, các quốc gia vẫn không ngừng gia tăng các mối lo ngại về nhau, và những nghi kị về sức mạnh của các quốc gia luôn trở thành “động lực” để cạnh tranh và cọ sát lợi ích chiến lược với nhau. Nước Mỹ - xét trên mọi khía cạnh - vẫn đang đứng ở vị trí độc tôn trên thế giới. Mỹ là chủ thể quốc gia có nền kinh tế lớn nhất thế giới, và là quốc gia có quyền lực nhất trong nền chính trị thế giới cũng như trong các thể chế quốc tế như Liên hợp quốc. Sức mạnh của Mỹ được kết hợp ở cả hai nền tảng là sức mạnh cứng (quân sự) và sức mạnh mềm (các giá trị kiểu Mỹ: dân chủ, khoa học - công nghệ,…). Các nhà phân tích chính trị quốc tế đều đi đến một nhận định chung rằng: Mỹ là một siêu cường duy nhất trong thế giới đương đại. Nhà bình luận chính trị Fareed Zakaria - người theo chủ nghĩa hiện thực điển hình - trong một bài viết trên tờ Newsweek năm 2003, đã khẳng định: “Vị thế của nước Mỹ là vô tiền khoáng hậu” và “thế giới được định hình và thống trị bởi Mỹ”. Cuốn sách 72 nổi tiếng The Post-American World của ông xuất bản năm 2008, vẫn duy trì quan điểm rằng Mỹ tiếp tục đứng ở vị thế đứng đầu, cho dù phần còn lại của thế giới đang biến đổi nhanh chóng. Trong năm 2001, nước Mỹ diễn ra hai sự kiện quan trọng, không chỉ tác động tới nước Mỹ mà còn cả thế giới. Sự kiện thứ nhất là vào ngày 20-01-2001, George W. Bush, thành viên của Đảng Cộng hòa, tuyên thệ nhậm chức Tổng thống thứ 43 của Mỹ. Sự kiện thứ hai là vào thứ Ba, ngày 11-9-2011, hai chiếc máy bay hiệu Boeing đã lao thẳng vào Tòa tháp đôi của Trung tâm Thương mại thế giới tại Manhattan, Thành phố Niu Oóc, Mỹ. Hai tiếng sau đó, cả hai tòa tháp sụp đổ. Một chiếc máy bay khác đâm vào trụ sở Bộ Quốc phòng Mỹ tại Lầu Năm góc ở Quận Arlington, Virginia. Vụ tấn công đã làm gần 3.000 người thiệt mạng. Người dân Mỹ gọi đó là “Ngày thứ Ba đen tối” và ngày 11 tháng 9 đã làm thay đổi thế giới và thay đổi nước Mỹ. Ngày 26-10-2001, Tổng thống Mỹ George W. Bush ký Đạo luật Đoàn kết và Củng cố nước Mỹ bằng cách cung cấp những công cụ thích hợp cần thiết để ngăn chặn và hạn chế chủ nghĩa khủng bố (Uniting and Strengthening America by Providing Appropriate Tools Required to Intercept and Obstruct Terrorism - The USA PATRIOT Act) nhờ được sự ủng hộ của hai đảng, mở đường cho cuộc chiến chống khủng bố sau này - khi mà khủng bố bắt đầu được xem là mối đe dọa lớn nhất đối với nước Mỹ. Vụ khủng bố ngày 11-9-2001 đã thay đổi phần lớn chính sách đối ngoại của nước Mỹ dưới thời Tổng thống George W. Bush (Đảng Cộng hòa), bắt đầu một giai đoạn hao người tốn của nhất kể từ sau Chiến tranh lạnh. Trong suốt hai nhiệm kỳ của mình, ông George W. Bush đã đưa nước Mỹ vào các cuộc chiến ở Trung Đông: chống khủng bố trên toàn Trung Đông và các nhà nước được liệt vào danh sách “trục ma quỷ” (Irắc, Iran, Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên); chống lại nhà nước của Tổng thống Saddam Hussein ở Irắc; tiêu diệt tổ chức khủng bố Al-Qeada - lực lượng được cho là gây ra vụ 11-9 - và các phần tử Taliban ở Ápganixtan; ngăn cản chương trình hạt nhân của Iran,… Dĩ nhiên, bằng việc đề cao quá mức sự nguy hiểm của bọn khủng bố đối với an ninh của Mỹ nên các chính sách của ông Bush nhận được rất nhiều sự ủng hộ của người dân Mỹ trong thời gian đầu. Chính quyền của G. Bush đã tiến hành một cuộc chiến tại 73 Trung Đông với hai mục tiêu căn bản: i) tái khẳng định vị thế là người kiểm soát Trung Đông - nơi giao thoa của lục địa Á - Âu và là nơi có nguồn năng lượng dầu mỏ dồi dào; ii) tiêu diệt các lực lượng khủng bố có khả năng ảnh hưởng tới an ninh của Mỹ, đồng thời loại bỏ các chính phủ bị Mỹ coi là độc tài hoặc chống lại vai trò của Mỹ ở Trung Đông, điển hình là Irắc và quốc gia hồi giáo Iran. Cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ năm 2004 cũng phản ánh thực tế nỗi sợ hãi về một cuộc tấn công tiếp theo của bọn khủng bố vẫn âm ỉ trong lòng xã hội Mỹ. Đương kim Tổng thống, cũng đồng thời là ứng cử viên của Đảng Cộng hòa George W. Bush và ứng cử viên của Đảng Dân chủ John Kerry “đã bất đồng gay gắt về mức độ mà Mỹ nên hành động đơn phương trong chính sách đối ngoại của mình, về việc liệu cuộc chiến chống Irắc là chính đáng, về việc liệu Mỹ có nên tham gia cuộc đàm phán toàn cầu để giảm phát thải khí gây ấm lên toàn cầu, và trong một loạt các vấn đề khác”. Trong khi John Kerry tuyên bố sẽ rút hết quân khỏi Irắc thì George W. Bush không nghĩ vậy, quân đội Mỹ cần được duy trì ở đây để hỗ trợ Irắc tái thiết và ổn định tình hình khu vực. Nước Mỹ chưa thể chắc chắn rằng, các lực lượng khủng bố đã bị tiêu diệt khi mà mục tiêu của họ chưa đạt được. Cuối cùng, George W. Bush lại là người chiến thắng và tiếp tục “dẫn dắt chính sách đối ngoại của Mỹ trong thời gian 2005-2008”1. Gần như trong suốt thời gian làm Tổng thống Mỹ, Bush luôn duy trì lý lẽ rằng, “hòa bình mà chúng ta tìm kiếm sẽ chỉ đạt được bằng việc loại bỏ những điều kiện nuôi dưỡng chủ nghĩa cực đoan và tư tưởng của những vụ thảm sát”2. Tuy nhiên, cuộc chiến tại Irắc và Ápganixtan mà Mỹ và liên quân thực hiện đã không thể chấm dứt trong suốt hai nhiệm kỳ của George W. Bush (2000-2008). Sức mạnh của nước Mỹ không chỉ bị hút vào cuộc chiến ở Trung Đông mà còn bị ảnh hưởng bởi cuộc khủng hoảng tài chính xảy ra cuối năm 2007 rồi lên đến đỉnh điểm vào năm 2008. Trong hai năm 2008- 2009, kinh tế Mỹ còn có mức tăng trưởng âm lần lượt là -0,19% và -2,7%. Nguyên nhân được cho là bắt nguồn từ bong bóng nhà đất và sự tự tin quá _________ 1, 2. John T. Rourke: International Politics on the World Stage, Eleventh Edition, McGraw-Hill, New York, pp.21, 28. 74 mức vào thị trường tự do của chính phủ, dẫn đến sự sụp đổ của nhiều ngân hàng lớn, chứng khoán sụt giảm…, tình trạng này nhanh chóng lan rộng sang châu Âu và nhiều khu vực khác trên thế giới, trở thành cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới. Mặc dù vẫn duy trì được vị trí là nền kinh tế lớn nhất thế giới, song khoảng cách giữa Mỹ với các nền kinh tế lớn khác đang bị thu hẹp nhanh chóng. Cũng bởi những tác động lớn lao mà cuộc khủng hoảng kinh tế này gây ra, ý tưởng về trật tự thế giới mới, trước hết là những thay đổi trong hệ thống kinh tế thế giới, ngày càng trở thành chủ đề trung tâm trong các dự báo thế giới tương lai với vai trò ngày càng tăng của Trung Quốc, Nga, Ấn Độ,… bên cạnh các trung tâm cũ như EU và Nhật Bản. Bước sang thế kỷ XXI cũng là lúc sự vận động của đời sống chính trị thế giới phát triển mạnh mẽ hơn, nhưng về căn bản vẫn là sự tiếp tục từ thời kỳ sau Chiến tranh lạnh. Trong các nhân tố đó, nổi lên chủ yếu là Trung Quốc, EU, Nga, Ấn Độ,… Những chủ thể này đang từng bước đưa cục diện chính trị thế giới vận động theo nhiều chiều hướng khác nhau, theo cách dần rời xa siêu trung tâm là Mỹ, từ đó hình thành các trung tâm - tiểu trung tâm mang tính khu vực hoặc những liên kết vùng rộng lớn. Ở châu Âu, “để giữ gìn và phát huy những thành quả đã đạt được, những người lãnh đạo Liên minh châu Âu ngày nay đã khẳng định đường lối chiến lược về một EU “mạnh hơn và mở rộng hơn” trong thế kỷ XXI”1. Liên minh châu Âu tiếp tục là trung tâm chi phối đời sống chính trị ở châu Âu, bên cạnh là những ảnh hưởng riêng biệt của các cường quốc trong khu vực này. Hiệp ước Nice - trụ cột thứ ba của EU - có hiệu lực năm 2003 đã mở đường cho những hội nhập về mặt thể chế để các nước EU có thể đề ra một hiến pháp chung cho “siêu Nhà nước” của châu Âu. Mặc dù đã gặp phải thất bại, cũng như sự phản đối nhất định từ phía các thành viên, nhưng sau đó với nỗ lực của các nước đi đầu thì EU cũng đã đạt được thỏa thuận về Hiến pháp chung năm 2004. Tháng 12-2007, _________ 1. Bùi Huy Khoát: “Dự báo sự phát triển của Liên hiệp châu Âu trong hai thập niên đầu tiên thế kỷ XXI”, trong Viện Thông tin Khoa học Xã hội (Chuyên đề): Trật tự thế giới sau Chiến tranh lạnh: Phân tích và dự báo, Sđd, tr. 304. 75 Hiệp ước Lisbon được ký kết (có hiệu lực từ ngày 01-01-2009), các nước châu Âu về cơ bản đã hoàn thành những công việc quan trọng nhất cho việc nhất thể hóa châu Âu. EU đã thành lập Hội đồng châu Âu (European Council) và có cơ quan riêng phụ trách vấn đề ngoại giao và an ninh. Song song với quá trình cố kết nội bộ, EU cũng tăng cường mở rộng thành viên sang phía Đông. Năm 2007, số lượng thành viên của EU là 27 thành viên, trong đó phần lớn là các nước trước đây từng thuộc phạm vi ảnh hưởng của Liên Xô, nay đã đủ các điều kiện cần thiết để gia nhập EU. Nền kinh tế của EU tiếp tục đứng hàng đầu thế giới, từ năm 2001 đến 2009, GDP của EU đã tăng gấp đôi từ 8,92 nghìn tỷ USD lên đến 17,02 nghìn tỷ USD. Một sự kiện đáng chú ý ở châu Âu giai đoạn này mà không thuộc EU đó là, với 55% dân chúng đồng ý, Thụy Sĩ đã trở thành thành viên của Liên hợp quốc vào năm 2002 sau gần hai thế kỷ thi hành chính sách trung lập. Tuy nhiên, châu Âu không phải lúc nào cũng ổn định. Từ sau vụ khủng bố ngày 11-9-2001 ở Mỹ, một số quốc gia châu Âu cũng phải đối mặt với những vụ khủng bố đẫm máu. Quan hệ giữa Nga với EU bị chia rẽ mạnh mẽ hơn bởi hai vấn đề lớn là Côxôvô và cuộc chiến tranh Nam Ôxséttia năm 2008. Ngày 17-02-2008, sau hơn 10 năm xảy ra cuộc chiến tranh, Côxôvô đã tuyên bố độc lập, trở thành Cộng hòa Côxôvô. Mỹ, Đức, Italia, Anh, Ba Lan,… đã ủng hộ và công nhận Côxôvô độc lập, tách khỏi Xécbia; trong khi đó, Nga không công nhận tính độc lập của Côxôvô. Tháng 8-2008, xảy ra cuộc chiến ở Nam Ôxséttia, giữa quân đội Nga ủng hộ sự độc lập của Ápkhadia và Nam Ôxséttia với Grudia. Giữa tháng 8-2008, thỏa thuận đình chiến được tiến hành, Nga chính thức công nhận độc lập của Ápkhadia và Nam Ôxséttia, trong khi Grudia, Mỹ, Đức và nhiều quốc gia phương Tây khác tuyên bố phản đối. Ở châu Phi, Liên hiệp châu Phi (African Union - AU) ra đời năm 2002, với tiền thân là Tổ chức Thống nhất châu Phi (The Organization of African Unity - OAU) đã cơ bản hoàn thành vai trò của mình là hỗ trợ cho cuộc đấu tranh giành độc lập ở châu Phi trong thế kỷ XX, trở thành tổ chức khu vực hàng đầu của châu Phi và cũng là tổ chức khu vực có số lượng thành viên đông nhất thế giới. Không khó để nhận ra tham vọng của những nhà lãnh đạo sáng lập ra AU là nhằm hướng tới một mô hình tương tự như Liên minh châu Âu ở châu Phi. Trong bối cảnh quốc tế mới, 76 AU đề ra mục đích là: i) Tăng cường đoàn kết, hòa bình giữa các quốc gia châu Phi; ii) Khuyến khích nền dân chủ và quản trị tốt; iii) Thúc đẩy tăng trưởng bền vững1. Sự ra đời của AU diễn ra trong bối cảnh trào lưu chủ nghĩa khu vực, chủ nghĩa đa phương đang nở rộ trong quan hệ quốc tế. Tuy nhiên, những nghi ngờ về tương lai của AU cũng rất lớn, nhất là khi châu Phi vẫn được xem là khu vực kém phát triển nhất thế giới - nơi mà trước đây từng được xem là “thế giới thứ ba”. Tình hình châu Phi vẫn tiếp tục bị thêu dệt bởi các cuộc xung đột, nội chiến vì quyền lực, sắc tộc - tôn giáo,… mà nổi bật nhất là thảm sát ở Darfur, miền Tây Xuđăng. Các cuộc xung đột sắc tộc, đụng độ giữa quân đội chính phủ với lực lượng phiến quân đã làm hơn 70.000 người chết và buộc khoảng 1,8 triệu người phải di dời ra xa khu vực bất ổn. Khủng hoảng ở Darfur đang là thảm họa nhân đạo lớn nhất hành tinh2. Trung Đông trở thành trung tâm của nền chính trị thế giới trong thập niên đầu tiên của thế kỷ XXI, nó gắn chặt với trọng tâm chính sách đối ngoại của Mỹ dưới thời Tổng thống G.W. Bush. Tháng 10-2001 với Chiến dịch Enduring Freedom, Mỹ đã bắt đầu cuộc chiến chống khủng bố tại Ápganixtan, nơi được cho là Osama bin Laden đang ẩn náu; mục tiêu của chiến dịch nhằm tiêu diệt Al-Qaeda và các thành phần Taliban mà Mỹ coi là “những kẻ chứa chấp chúng”. Trong Thông điệp Liên bang đầu tiên năm 2002, Tổng thống Mỹ G.W. Bush tuyên bố: “Mỹ và Ápganixtan hiện nay là đồng minh chống khủng bố”. Theo Bush, những kẻ khủng bố đã từng chiếm đóng Ápganixtan và hiện đang chiếm các vùng quan trọng ở Vịnh Guantanamo; Ápganixtan đang bị phân chia bởi những kẻ khủng bố và những người đã được giải phóng, một trong số đó có nhà lãnh đạo Ápganixtan - Tổng thống Hamid Karzai3. Tiếp theo cuộc chiến tại _________ 1. Xem “Profile: African Union”, BBC News, http://news.bbc.co.uk/2/hi/africa/ country_profiles/3870303.stm. 2. Xem Scott Straus: “Darfur and the Genocide Debate”, Foreign Affairs, http://www.foreignaffairs.com/articles/60434/scott-straus/darfur-and-the-genocide debate. 3. Xem George W. Bush: President Delivers State of the Union Address, http://georgewbush-whitehouse.archives.gov/news/releases/2002/01/20020129-11.html. 77 Ápganixtan, ngày 20-3-2003, Mỹ và đồng minh tiến hành cuộc chiến tại Irắc với lý do chính quyền Irắc của Tổng thống Saddam Hussein tàng trữ vũ khí hủy diệt hàng loạt. Nhưng sau các chiến dịch quan trọng kết thúc, chính quyền Tổng thống Saddam Hussein sụp đổ, Mỹ và liên quân vẫn không thể tìm ra dấu hiệu cho thấy Irắc có vũ khí huỷ diệt. Ngày 13-12- 2003, Saddam Husein bị bắt giữ và tử hình tại Bagdad, Irắc cuối năm 2006. Tuy nhiên, George Bush vẫn coi đây là một chiến thắng của nước Mỹ chống lại tội ác. Sau Ápganixtan và Irắc, Iran là quốc gia tiếp theo thu hút sự chú ý của dư luận quốc tế do chương trình làm giàu Uranium của Têhêran. Iran là quốc gia có vị trí địa chiến lược cực kỳ quan trọng ở khu vực Trung Đông, lại sở hữu nguồn tài nguyên thiên nhiên rất lớn, đặc biệt là “vàng đen”: dầu mỏ và khí đốt. Iran là một quốc gia Hồi giáo và cũng được coi là quốc gia Hồi giáo lớn nhất thế giới. Sau vụ khủng bố ngày 11-9-2001, chính quyền George W. Bush đã đưa Iran vào danh sách các quốc gia nằm trong “trục ma quỷ”. Nhưng Iran không dễ bị tấn công như Irắc và Ápganixtan, thực tế Têhêran đã sẵn sàng bước vào một cuộc chơi nước lớn với sự tham gia của cả Mỹ và Nga. Phía Nga một mặt có những cảnh giác nhất định đối với chương trình hạt nhân của Iran, nhưng mặt khác cũng lợi dụng chương trình này để tạo dựng uy tín với Iran và hạn chế ảnh hưởng của Mỹ. Mối quan hệ giữa Iran và Nga được xem là tương đối ổn định, chủ yếu trên lĩnh vực quân sự khi kế hoạch hiện đại hóa quân đội của Iran được Nga đứng sau trợ giúp bằng các loại vũ khí, trang thiết bị hiện đại. Những động thái này của Nga chắc chắn sẽ khiến Mỹ không hài lòng và buộc phải hành động. Mặc dù tầm ảnh hưởng của Mỹ ở Trung Đông là khá lớn, nhưng trước những tuyên bố đầy mạnh mẽ từ phía Iran, Mỹ buộc phải trông chờ vào phản ứng của dư luận quốc tế, đặc biệt là Liên hợp quốc. Mỹ còn lên tiếng yêu cầu Nga ngừng các hành động trợ giúp chương trình hạt nhân của Iran. Trước sức ép của Mỹ và phương Tây, Liên hợp quốc đã thông qua những biện pháp trừng phạt, áp đặt các lệnh cấm vận đối với Iran. Thậm chí, Mỹ còn hé lộ khả năng sẽ tấn công quân sự đối với Iran. Điều này dấy lên lo ngại về cuộc chiến tranh vùng vịnh lần thứ ba mà Mỹ và liên quân có thể tiến hành, song song với cuộc chiến tại Ápganixtan và Irắc. 78