🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Công Viên Trung Tâm - Guillaume Musso full prc pdf epub azw3 [Trinh thám] Ebooks Nhóm Zalo Những thứ vượt khỏi tầm tay luôn có vẻ quan trọng hơn những thứ ta sở hữu. Somerset MAUGHAM Phần một NHỮNG KẺ BỊ BUỘC LẠI VỚI NHAU 1 Alice Tôi tin trong con người nào cũng vậy, luôn có một con người khác. Một Kẻ xa lạ, một Kẻ mưu phản, một Kẻ giảo hoạt. Stephen KING Thoạt tiên, hơi thổi dữ dội và rát buốt của con gió quét trên một khuôn mặt.Tiếng lá cây khẽ xào xạc. Tiếng một con suối róc rách từ xa vẳng lại. Loáng thoáng tiếng chim chóc ríu rít. Những tia nắng đầu tiên người ta đoán biết qua hai màn mí mắt vẫn đang nhắm. Rồi tiếng cành cây gãy răng rắc. Mùi đất ẩm ướt. Mùi lá cây đang phân hủy. Mùi rừng nồng đậm của địa y xám. Xa hơn, một tiếng rì rầm nghịch tai, mơ hồ như cõi mộng. * * * Alice Schäfer khó nhọc mở mắt. Ánh ngày vừa rạng khiến cô lóa mắt, sương sớm khiến quần áo cô dính bết. Ướt sũng mồ hôi lạnh, cô run lập cập. cổ họng cô khô khốc và trong miệng là một vị tro đắng gắt. Các khớp của cô bầm giập, tứ chi cứng đờ, tâm trí đờ đẫn. Khi toan ngóc đầu dậy, cô nhận ra rằng mình đang nằm dài trên một băng ghế gỗ mộc đóng theo lối dân dã. Kinh ngạc, cô bỗng phát hiện ra một cơ thể đàn ông, thô kệch và lực lưỡng, đang nằm còng queo sát mạng sườn cô và đè nặng lên cô. Alice cố nén một tiếng thét và nhịp tim cô đột ngột tăng nhanh. Trong lúc tìm cách thoát ra, cô ngã xuống đất rồi lại đứng dậy ngay. Chính trong lúc đó cô nhận ra rằng tay phải của mình đang bị còng vào cổ tay trái của kẻ lạ. Cô hơi lùi lại, nhưng gã đàn ông vẫn bất động. Chết tiệt! Tim cô nện trong lồng ngực. Mắt liếc nhìn đồng hồ đeo tay: mặt khắc số của chiếc Patek cũ kỹ đã xước, nhưng động cơ vẫn chạy và lịch vạn niên của nó chỉ: thứ Ba ngày 8 tháng Mười, 8 giờ. Mẹ kiếp! Nhưng mình đang ở đâu thế này? cô thắc mắc trong lúc đưa ống tay áo lên quệt mồ hôi hên mặt. Cô nhìn quanh để đánh giá tình hình. Cô đang ở giữa một khu rừng nhuộm vàng sắc thu, một tầng rừng thấp tươi mát và um tùm đủ loại cây cối. Một khoảng rừng trống hoang sơ và tĩnh lặng, bao quanh là những cây sồi, những bụi rậm và những mỏm đá lởm chởm. Xung quanh chẳng có bóng người và, xét theo hoàn cảnh này, dĩ nhiên thà rằng như vậy còn hơn. Alice ngước mắt nhìn lên. Ánh sáng êm dịu đẹp đẽ, gần như vô thực. Những tia sáng lấp lánh xuyên qua tán lá của một cây du khổng lồ và rực rỡ với đám rễ đâm thủng một thảm lá ẩm ướt. Rừng Rambouillet chăng? Fontainebleau? Hay rừng Vincennes? cô thầm đoán liều. Một bức tranh trường phái ấn tượng kiểu bưu thiếp có khung cảnh yên bình đối lập với tính chất dữ dội của vụ tính giấc siêu thực bên cạnh một gã hoàn toàn xa lạ. Cô thận trọng cúi về phía trước để nhìn mặt gã cho rõ hơn. Đó là gương mặt của một gã đàn ông chừng ba lăm bốn mươi tuổi, mái tóc màu hạt dẻ rối bù và bộ râu lún phún. Một xác chết chăng? Cô quỳ xuống rồi đặt ba ngón tay dọc theo cổ gã, bên phải yết hầu. Khi ấn lên động mạch chủ, cô thấy yên tâm khi cảm nhận mạch vẫn đang đập. Gã đàn ông vẫn bất tỉnh nhân sự, nhưng chưa chết. Cô dành thời gian quan sát gã một thôi một hồi. Cô có quen gã không nhỉ? Một tên lưu manh mà có lẽ cô đang bắt bỏ tù chăng? Một người bạn thời thơ ấu mà cô không nhận ra? Không, những đường nét này tuyệt nhiên không gợi lên trong cô bất cứ điều gì.Alice vén gọn vài lọn tóc vàng đang buông xuống trước mắt gây vướng víu rồi ngắm nghía hai vòng kim loại đang còng cô vào với gã kia. Đó là một mẫu còng tiêu chuẩn an toàn gấp đôi được rất nhiều sở cảnh sát hoặc các dịch vụ an ninh tư trên thế giới sử dụng. Thậm chí đây rất có thể là đôi còng của chính cô. Alice lục trong túi quần jean với hy vọng tìm thấy chìa khóa. Chìa khóa không có trong túi quần. Đổi lại, cô cảm thấy một khẩu súng, được nhét trong túi trong áo khoác da đang mặc. Ngỡ tìm ra khẩu súng công vụ của mình, cô nhẹ nhõm khép các ngón tay quanh báng súng. Nhưng đó không phải là khẩu Sig Sauer của cảnh sát thuộc đội Hình Sự. Đó là một khẩu Glock 22 bằng polimer mà cô không biết ở đâu ra. Cô muốn kiểm tra ổ đạn, nhưng khó có thể làm điều đó với một tay bị còng. Tuy nhiên cô cũng đã làm được sau một vài nỗ lực vặn vẹo, trong lúc vẫn trông chừng để khỏi đánh thức gã lạ mặt. Rõ ràng là thiếu một viên đạn. Trong lúc thao tác với khẩu súng lục, cô nhận ra báng súng có dính vết máu khô. Cô phanh hẳn áo khoác ra thì thấy hai vạt áo sơ mi của mình cũng đang có nhũng vệt máu két lại. Khốn kiếp! Mình đã làm gì thế này? Alice đưa bàn tay không bị còng lên day day mí mắt. Lúc này, một con đau nửa đầu buốt nhói lan tỏa trong hai thái dương cô như thể một gọng kìm vô hình đang kẹp chặt sọ não. Cô hít thở sâu để đẩy lùi nỗi sợ và cố gắng tập hợp ký ức. Tối qua, cô đã ra khỏi nhà để tiệc tùng trên đại lộ Champs-Élysées cùng ba cô bạn gái. Cô đã uống nhiều, hết ly này tới ly khác trong các quầy bar phục vụ cocktail: Moonlight, Tầng Mười Ba, Londonderry... Khoảng nửa đêm bốn cô bạn gái mới chia tay nhau. Cô đã một mình quay ra xe đậu trong bãi đỗ ngầm của đại lộ Franklin- Roosevelt, rồi... Hố đen. Một tấm màn bông bao bọc tâm trí cô. Trí óc cô xoay trong hư vô. Trí nhớ của cô đã bị tê liệt, đóng băng, phong tỏa tại hình ảnh sau cùng này.Nào, cố gắng lên, khốn kiếp thật! Tiếp theo đã xảy ra chuyện gì nhỉ? Cô còn nhớ rõ đã trả tiền đỗ xe tại trạm thu phí tự động, rồi men theo các cầu thang xuống tầng hầm thứ ba. Cô đã nốc quá chén, đấy là chuyện chắc chắn. Cô loạng choạng tiến về phía chiếc Audi nhỏ xinh đã mở chốt cửa, ngồi vào ghế rồi... Chẳng gì nữa... Cô đã cố gắng tập trung nhưng vô ích, một bức tường gạch trắng chặn ngang lối vào ký ức của cô. Bức tường thành Hadrien dựng lên trước suy tưởng của cô, đối diện với những nỗ lực vô hiệu là cả bức Vạn lý trường thành.Cô nuốt nước bọt. Mức độ hoảng sợ của cô đã tăng thêm một bậc. Khu rừng này, vệt máu trên áo sơ mi cô mặc, khẩu súng không phải của cô... Đây không phải cảm giác khó chịu thường gặp khi thức dậy sau một đêm tiệc tùng. Nếu cô không còn nhớ làm thế nào mình lại hạ cánh xuống đây, thì chắc chắn là bởi người ta đã chuốc ma túy cho cô. Có lẽ một gã biến thái nào đó đã đổ "nước biển" GHB vào ly của cô! Có thể vậy quá đi chứ: là cảnh sát, những năm gần đây cô đã xử lý nhiều vụ án hiếp dâm liên quan đến ma túy. Cô xếp ý nghĩ này vào một góc tâm trí rồi tiến hành dốc sạch các túi: ví và thẻ cảnh sát đã biến mất. Cả giấy tờ tùy thân, tiền bạc lẫn điện thoại di động của cô cũng không còn. Cảnh khốn quẫn này cộng thêm vào nỗi sợ. Một cành cây gãy khiến một đám chim chích bay lên. Vài chiếc lá hoe đỏ bay phấp phới trong không trung rồi sượt qua mặt Alice. Cô dùng tay trái kéo cao phéc mơ tua của áo khoác trong lúc cằm cúi gằm để giữ chắc cổ áo. Đúng lúc đó cô nhận ra trong lòng bàn tay mình có dòng chữ ghi bằng mực bút bi xanh; một dãy số viết vội, như một tờ phao của học sinh trung học đang chực mờ đi: 2125558900 Những con số này tương ứng với cái gì? Phải chăng chính cô đã viết vào lòng bàn tay? Có thể, nhưng chưa chắc... cô nhận định khi nhìn nét chữ. Cô nhắm mắt trong thoáng giây, bối rối và khiếp hãi. Cô không cam chịu nhụt chí. Hiển nhiên là đêm qua đã xảy ra một biến cố nghiêm trọng. Nhưng nếu cô không còn nhớ chút gì về quãng thời gian này thì người đàn ông đang bị còng chung với cô đây sẽ nhanh chóng khơi dậy ký ức trong cô. Ít ra đó cũng là điều cô hy vọng. Bạn hay thù đây? Vì mù tịt chuyện đó nên cô lắp lại ổ đạn khẩu Glock rồi lên đạn sẵn sàng cho khẩu súng bán tự động. Bàn tay không bị còng của cô chĩa thẳng họng súng vào kẻ đồng hành trước khi lay gã không chút nể nang. - Ê này! Dậy thôi! Gã đàn ông khó khăn lắm mới tỉnh dậy được. - Nhúc nhích đi nào anh bạn! cô lay lay vai để hối thúc gã. Gã hấp háy mắt rồi cố nén một cái ngáp trước khi khó nhọc ngồi dậy. Khi mở mắt, gã thoáng có một cử chỉ vô cùng kinh ngạc vì thấy họng súng đang cách thái dương mình vỏn vẹn vài xăng ti mét. Gã tròn mắt nhìn Alice rồi quay đầu hết bên này sang bên kia, bàng hoàng khám phá khung cảnh rừng rú xung quanh. Sau vài giây ngỡ ngàng, gã nuốt nước bọt rồi mở miệng để hỏi bằng tiếng Anh: - Lạy Chúa lòng lành, nhưng cô là ai mới được kia chứ? Chúng ta làm gì ở chốn này? 2 Gabriel Mỗi người chúng ta đều mang trong mình một kẻ lạ đáng quan ngại. Anh em nhà GRIMM Gã đàn ông lạ mặt nói giọng đặc Mỹ, luyến gần như toàn bộ những chữ r.- Khỉ thật, chúng ta đang ở đâu thê này? gã vẫn nhướng mày gặng hỏi.Alice siết chặt các ngón tay quanh báng súng. - Tôi nghĩ chính anh mới là người phải nói cho tôi biết điều đó! cô trả lời gã bằng tiếng Anh, vẫn gí nòng khẩu Glock vào thái dương gã. - Này, chúng ta bình tĩnh lại, đồng ý chứ? gã vừa hỏi vừa giơ hai tay lên. Và hạ vũ khí của cô xuống: mấy thứ này nguy hiểm lắm... Vẫn chưa tỉnh hẳn, gã hất cằm chỉ bàn tay bị khóa chặt trong vòng thép. - Sao cô lại tròng cho tôi cái của nợ ấy? Lần này tôi đã làm gì nào? Ẩu đả chăng? Hay say xỉn nơi công cộng? - Đâu phải tôi còng anh lại, cô cãi. Alice săm soi gã đàn ông: gã mặc chiếc quần jean sẫm màu, đi đôi giày Converse, áo sơ mi xanh lơ nhàu nhĩ và một chiếc vest ôm sát. Đôi mắt gã, vốn sáng và khêu gợi, đang sâu hoắm và thâm quầng vì mệt mỏi. - Thực sự không nên nóng nảy, gã vừa than vừa rụt cổ rụt vai. Gã cụp mắt nhìn xuống cổ tay để xem giờ nhưng đồng hồ đeo tay của gã đã không còn. - Cứt thật... Mấy giờ rồi nhỉ? - Tám giờ sáng. Gã cố gắng lộn các túi quần túi áo theo kiểu được chăng hay chớ trước khi làm loạn lên: - Nhưng cô đã lột sạch của tôi! Tiền nong, ví, điện thoại... - Tôi chẳng lột gì của anh hết, Alice cam đoan. Tôi cũng vậy, cũng bị vặt sạch rồi. - Mà tôi còn bị sưng u một cục nữa chứ, gã ghi nhận sau khi đưa bàn tay không bị còng lên rờ đằng sau đầu. Dĩ nhiên là cả chuyện này cũng không liên quan gì tới cô phải không? gã phàn nàn mà không thực sự chờ đợi câu trả lời.Gã liếc cô qua khóe mắt: mặc chiếc quần jean bó và chiếc áo khoác da ngắn để lộ hai vạt áo sơ mi mặc bên trong dính máu, Alice là một cô gái tóc vàng dong dỏng chừng ba mươi tuổi, búi tóc đang sắp bị xổ tung. Gương mặt cô có đường nét cứng cỏi nhưng hài hòa - gò má cao, mũi thanh, nước da trắng muốt - và đôi mắt, điểm những ánh phản chiếu màu đồng của lá thu, bừng sáng lấp lánh. Một cơn đau kéo gã ra khỏi màn ngắm nghía: một cảm giác bỏng rát lan khắp cẳng tay gã. - Lại có chuyện gì thế? cô thở dài. - Tôi đau, gã nhăn nhó. Như bị thương vậy... Vì bị còng, Gabriel không thể cởi chiếc áo vest đang mặc hoặc xắn cao tay áo sơ mi, nhưng nhờ ra sức vặn vẹo, gã nhìn ra một dạng băng gạc đang quấn quanh cánh tay mình. Một chỗ mới được băng bó nơi có vệt máu nhỏ đang chảy xuống tận cổ tay. - Tốt rồi, giờ thì chứng ta thôi những trò ngu ngốc đi! gã nổi cáu. Chúng ta đang ở đâu thế này? Wicklow chăng? Cô gái lắc đầu. - Wicklow là ở đâu thế? - Một khu rừng phía Nam, gã thở dài. - Phía Nam cái gì mới được? cô hỏi. - Cô giỡn mặt tôi hay sao? Phía Nam Dublin chứ còn đâu nữa! Cô tròn mắt nhìn gã. - Anh thực sự nghĩ chúng ta đang ở Ai Len sao? Gã thở dài. - Nếu không thì chúng ta có thể ở đâu được chứ? - Ờ thì, ở Pháp, tôi hình dung thế. Gần Paris. Tôi đoán là trong rừng Rambouillet hoặc... - Thôi đừng mê sảng nữa đi! gã ngắt lời cô. Mà này, chính xác ra thì cô là ai nhỉ? - Một cô gái với một khẩu súng, vậy nên chính tôi mới là người đặt câu hỏi. Gã nhìn cô thách thức, nhưng hiểu rằng mình không làm chủ tình hình. Gã im lặng không nói gì thêm. -Tôi tên Alice Schäfer, đại úy cảnh sát thuộc đội Hình sự Paris. Đêm qua tôi đi tiệc tùng cùng mấy cô bạn trên đại lộ Champs-Élysées. Tôi không biết chúng ta đang ở đâu và làm sao chúng ta lại ở đây, bị còng lại với nhau. Và tôi không mảy may biết gì về anh. Giờ đến lượt anh. Sau vài giày lưỡng lự, gã đàn ông xa lạ quyết định khai thật danh tính của mình. - Tôi là người Mỹ. Tên là Gabriel Keyne, nghệ sĩ dương cầm chuyên thể loại jazz. Tôi thường trú tại Los Angeles nhưng thường xuyên đi đây đó tham gia trình diễn hòa nhạc. - Ký ức gần đây nhất của anh là gì? cô thúc giục. Gabriel nhướng mày rồi nhắm mắt lại để có thể tập trung hơn. - Ờ thì... Tối qua, tôi đi chơi cùng người đệm contrebass và saxophone cho mình tại Brown Sugar, một câu lạc bộ jazz thuộc khu Temple Bar tại Dublin. Tại Dublin... Gã này điên rồi! - Sau buổi hòa nhạc, tôi ngồi ở bar rồi có lẽ đã nốc hơi quá nhiều cocktail Cuba libre, Gabriel tiếp tục nói trong lúc mở mí mắt. - Rồi sau đó? - Sau đó... Gương mặt gã co rúm lại, gã cắn môi. Rõ ràng là để nhớ lại đoạn cuối buổi tối, gã cũng khổ sở chẳng kém gì cô. - Nghe này, tôi không biết nữa. Tôi nghĩ mình đã tranh cãi với một gã không thích thứ nhạc tôi chơi, rồi tôi tán tỉnh vài em, nhưng quá ẩu nên chẳng vớ được em nào. - Đẳng cấp hết sức. Thực sự lịch lãm hết sức. Gã xua tay gạt lời chê trách ấy đi rồi đứng dậy khỏi băng ghế, buộc lòng Alice phải làm theo. Cô bắt gã ngồi xuống bằng một cử động đột ngột của cẳng tay. - Tôi rời câu lạc bộ vào lúc nửa đêm, gã khẳng định. Tôi khó lắm mới đứng vững nổi. Tôi vẫy một chiếc taxi trên Aston Quay. Sau vài phút, một chiếc xe dừng lại và... - Rồi sao? - Tôi không biết nữa, gã thừa nhận. Hẳn là tôi đã đưa địa chỉ khách sạn rồi gục luôn xuống ghế sau. - Rồi sau đó? - Tôi đã bảo với cô là chẳng còn nhớ gì nữa mà! Alice hạ khẩu súng xuống rồi để vài giây trôi qua, đủ thời gian tiêu hóa những tín xấu này. Rõ ràng đây không phải người giúp được cô soi tỏ tình hình. Ngược lại là khác. - Anh có nhận thức rõ rằng tất cả những gì anh vừa kể tôi nghe là một trò đùa quá đáng không? cô thở dài nói. - Tại sao thế? - Coi nào, thì bởi chúng ta đang ở Pháp mà! Gabriel đưa mắt nhìn khắp khoảng rừng đang trải rộng xung quanh họ: cây cối hoang dại, những bụi rậm um tùm, những vách đá phủ kín dây thường xuân, những tán lá mùa thu tạo thành vòm vàng rực. Anh mắt gã lần ngược lên dọc theo gốc thân trầy trụa của một cây du khổng lồ và bắt gặp hai chú sóc đang chạy, leo trèo bằng những bước nhảy nhanh nhẹn và chuyền từ cành này sang cành khác đuổi theo một chú chim hét màu xanh lơ. - Tôi dám cược là chúng ta không phải đang ở Pháp, gã gãi gãi đầu tuyên bố. - Nói gì thì nói, chỉ có một cách duy nhất để biết điều ấy thôi, Alice cáu kỉnh cất khẩu súng đi và giục gã đứng dậy rời băng ghế. Họ rời khoảng rừng thưa để tiến sâu vào trong đám cây con và khóm bụi rậm rạp. Líu ríu vào nhau, họ băng qua một khoảng rừng thấp có nhiều thung, men theo một con đường dốc, rồi xuôi xuống một sườn dốc bằng cách vịn vào những vỉa đá. Họ mất đến mười phút mới có thể ra khỏi mê cung rừng rú này, lội qua những dòng chảy nhỏ rồi rảo bước qua nhiều đường mòn quanh co. Cuối cùng, họ gặp một lối đi hẹp rải nhựa hai bên có cây cối vẽ nên một mái vòm cành lá phía trên đầu. Càng tiến bước trên con đường rải nhựa này, những âm thanh của nền văn minh càng hiện hữu. Một tiếng rì rầm thân thuộc: âm thanh ồn ã vẳng đến từ thành phố... Bỗng có linh cảm kỳ lạ, Alice kéo Gabriel về phía một khoảng nắng dưới tán lá. Bị hút theo khoảng trời quang này, họ khai phá một con đường cho tới tận chỗ giống với bãi cỏ bên bờ nước. Chính vào lúc đó họ nhìn thấy nó. Một cây cầu gang cong cong duyên dáng bắc qua một nhánh hồ. Một cây cầu dài màu kem, được tô điểm một cách tinh tế bằng những đường lượn và những chậu hoa. Một cây cầu nhỏ quen thuộc từng xuất hiện trong hàng trăm bộ phim. Cầu Vòm. Họ không ở Paris. Cũng không ở Dublin. Họ đang ở New York. Trong Central Park. 3 Central Park West Chúng ta ước ao sự thật, thế nhưng chỉ tìm thấy trong mình sự lưỡng lự. Blaise PASCAL - Khốn kiếp! Gabriel kêu lên thảng thốt, trong khi gương mặt Alice lộ rõ vẻ kinh ngạc. Ngay cả khi sự thật khó mà chấp nhận nổi thì lúc này cũng không còn nghi ngờ gì nữa. Họ đã thức giấc ngay giữa "Chốn ngao du", địa điểm hoang dã nhất của Central Park. Một khu rừng đích thực rộng mười lăm héc ta trải rộng đến phía Bắc hồ. Tim họ hòa chung nhịp đập, nện thình thịch trong lồng ngực. Trong lúc tiến lại gần bờ hồ, họ bước trên một lối đi náo nhiệt, điển hình cho không khí sôi động của công viên vào đầu giờ sáng. Những tín đồ chạy bộ thể dục hòa hợp với những người đạp xe, những môn đồ của Thái Cực Quyền và những người dắt chó đi dạo. Thế giới âm thanh đặc trưng của thành phố dường như đột nhiên bùng nổ bên tai họ: tiếng xe cộ qua lại ồn ã, tiếng còi xe, tiếng còi hụ của xe cứu hỏa và xe cảnh sát. - Điên thật rồi, Alice khẽ thốt lên. Cảm thấy bất ổn, cô cố gắng suy nghĩ. Cô muốn chấp nhận rằng tối qua cả Gabriel lẫn cô đều đã quá chén, đến mức quên mất đêm qua đã diễn ra những sự việc gì. Nhưng riêng chuyện người ta có thể cưỡng ép đưa họ lên máy bay thì thật khó hình dung. Alice thường tới New York nghỉ hè cùng Seymour, đồng nghiệp và cũng là bạn thân nhất của cô. Cô biết một chuyến bay Paris-New York kéo dài hơn tám tiếng một chút, nhưng vì chênh lệch múi giờ, nên hai nơi chỉ cách nhau hai tiếng. Khi họ bay cùng nhau, Seymour thường đặt chỗ trên chuyến bay 8 giờ 30 tại sân bay Charles-de-Gaulle, hạ cánh tại New York lúc 10 giờ 30. Cô cũng nhớ rằng chuyến bay đường dài muộn nhất thường rời Paris trước 20 giờ một lúc. Thế mà tối qua lúc 20 giờ, cô vẫn còn ở Paris. Vậy thì Gabriel và cô hẳn đã bay một chuyến bằng máy bay riêng. Cứ cho là người ta đã đưa cô lên một chiếc máy bay lúc 2 giờ sáng tại Paris, cô sẽ tới New York lúc 4 giờ, giờ địa phương. Đủ để thức dậy tại Central Park lúc 8 giờ. Xét về mặt giấy tờ, điều này không thể xảy ra. Trên thực tế lại là một chuyện khác. Ngay cả trên một chuyến bay riêng thì những thủ tục hành chính để nhập cảnh vào Mỹ cũng lâu và phức tạp. Toàn bộ chuyện này tuyệt nhiên không ăn khớp. - Oups, sorry! Một nam thanh niên đi giày trượt pa tanh vừa xô phải họ. Vừa xin lỗi, anh chàng vừa liếc về phía cặp còng với ánh mắt sững sờ xen lẫn ngờ vực. Tâm trí Alice bùng lên một tín hiệu báo động. - Chúng ta không thể ở lại đây, bất động trước mắt những kẻ hiếu kỳ được, cô cảnh báo. Chưa đầy một phút nữa cảnh sát sẽ xô tới bắt chúng ta. - Cô có ý tưởng gì chăng? - Cầm lấy tay tôi, nhanh nào! - Hả? - Cầm tay tôi như thể hai ta là một cặp tình nhân và đi qua cầu nào! cô giục giã. Gã làm theo và họ đi qua Cầu Vòm. Không khí lạnh buốt và khô. Trên nền trời trong veo nổi bật hình dáng của những tòa nhà sang trọng trên đại lộ Central Park West: tòa tháp đôi San Remo, mặt tiền huyền thoại của tòa Dakota, những căn hộ Arts-Deco của tòa Majestic. - Nói gì thì nói, chúng ta cũng phải báo cho nhà chức trách biết, Gabriel vừa nói vừa tiến bước. - Thế đấy, anh cứ việc dấn thân vào hang sói! Gã phản công: - Cô bé ơi, nghe theo lý trí đi nào... - Cứ gọi tôi như thế thêm lần nữa đi, và tôi sẽ chẹt cổ anh với cặp còng này! Tôi sẽ thít cổ anh đến hơi thở cuối cùng. Rồi anh sẽ thấy, chết đi rồi sẽ bớt nói huyên thuyên hơn nhiều đấy. Gã lờ tịt lời dọa dẫm. - Vì cô là người Pháp, ít ra hãy tới đại sứ quán nước cô mà xin lời khuyên! - Không có chuyện đó đâu, chừng nào chưa hiểu được đêm qua thực sự đã xảy ra chuyện gì. - Dù gì đi nữa, đừng đặt lòng tin nơi tôi hòng chơi trò bỏ trốn. Ngay khi chúng ta rời khỏi công viên, tôi sẽ chạy tới sở cảnh sát gần nhất để kể lại chuyện đã xảy ra với chúng ta. - Anh ngu thật hay cố tình tỏ ra như vậy thế? Phòng trường hợp anh không nhận ra, chúng ta đang bị còng, bạn thân mến ạ! Không thể tách rời, không thể phân ly, bị ràng buộc bởi vô số thứ! Vậy thì, chừng nào chúng ta còn chưa tìm ra cách để phá còng, anh sẽ làm theo tôi. Cầu Vòm là bước chuyển tiếp nhẹ nhàng giữa đám cây cối hoang dã của "Chốn ngao du" với những khu vườn được sắp đặt khéo léo ở phía Nam hồ nước. Đi hết cầu, họ ngược lên con đường men dọc theo hồ nước tới tận vòm đá hoa cương của đài phun nước Cherry Hill. Gabriel cố nài: - Tại sao cô lại không chịu đi cùng tôi tới chỗ cảnh sát nhỉ? - Bởi anh nên nhớ là tôi thừa biết cảnh sát. Chàng nghệ sĩ nhạc jazz vùng lên: - Nhưng cô lấy quyền gì mà kéo tôi vào cảnh khốn cùng của cô? - Thế nào kia, cảnh khốn cùng của tôi á? Có lẽ tôi đã ngụp trong đống phân, nhưng anh cũng đã ngập phân tới tận cổ rồi. - Không, bởi tôi chẳng có gì phải tự trách mình cả! - Ra thế cơ đấy? Và điều gì cho phép anh cả quyết đến thế? Tôi cứ ngỡ anh đã quên khuấy mọi chuyện đêm qua rồi chứ... Câu đối đáp dường như khiến Gabriel thấy bất ổn. - Vậy là cô không tin tôi sao? - Tuyệt nhiên. Câu chuyện anh kể về cái quán bar ở Dublin chăng xuôi tai chút nào, Keyne ạ. - Câu chuyện cô kể về cuộc hẹn trên đại lộ Champs- Élysées cũng đâu có khá hơn! Vả lại chính cô mới là người có hai bàn tay dính máu. Chính cô mới là người có một khẩu súng trong túi áo và... Cô ngắt lời gã: - Về điểm này thì anh có lý. Chính tôi là người có khẩu súng, vậy thì anh nên ngậm miệng lại và làm chính xác những gì tôi bảo, OK? Gã nhún vai rồi buột ra một tiếng thở dài bực bội. Trong lúc nuốt nước bọt, Alice cảm thấy bỏng rát sau mỏ ác, như thể một tia axít đang bắn vào thực quản của cô. Cơn trầm cảm. Nỗi mệt nhọc. Nỗi sợ. Làm thế nào thoát ra khỏi tình cảnh rắc rối này đây? Cô cố gắng chắp nối những suy nghĩ của mình. Tại Pháp, giờ là đầu chiều. Các thành viên trong đội điều tra hẳn đang lo lắng vì sáng nay không thấy cô ở văn phòng. Seymour hẳn đã tìm cách liên lạc với cô qua điện thoại di động. Cô phải ưu tiên liên lạc với cậu ta trước, cô phải yêu cầu cậu ta điều tra. Trong đầu cô, một check-list bắt đầu hình thành: 1/ thu thập những đoạn băng ghi hình giám sát tại bãi đỗ xe Franklin-Roosevelt, 2/ thống kê tất cả những chiếc máy bay thuộc sở hữu tư nhân đã bay từ Paris sang Mỹ sau nửa đêm, 3/ tìm ra nơi chiếc Audi của cô bị bỏ lại, 4/ xác minh sự tồn tại của gã Gabriel Keyne cũng như độ tin cậy trong lời khai của gã... Viễn cảnh về công việc điều tra này khiến cô bình tâm hơn đôi chút. Bấy lâu nay, lượng adrenalin do nghề nghiệp cung cấp vốn là nguồn nhiên liệu chính của cô. Trong quá khứ, một thứ ma túy đích thực đã tàn phá cuộc đời cô, nhưng hiện tại, nó đang cho cô lý do duy nhất chấp nhận được để thức dậy mỗi sáng. Cô hít căng phổi làn không khí mát lành của Central Park. Nhẹ nhõm khi thấy con người cảnh sát trong mình đã lại thắng thế, cô bắt đầu lên một phương án điều tra: dưới quyền chỉ huy của cô, Seymour sẽ tiến hành tìm kiếm tại Pháp trong khi cô sẽ điều tra tại chỗ. Vẫn đang tay trong tay, Alice và Gabriel chẳng mấy chốc đã tới khu vườn Strawberry Fields hình tam giác cho phép rời công viên qua cổng phía Tây. Cô cảnh sát kín đáo liếc sang anh chàng nhạc sĩ. Nhất định cô phải biết người đàn ông này thực sự là ai. Phải chăng cô đã tự tay còng gã lại? Nếu đúng là thế thì vì lý do gì? Đến lượt mình, gã cũng nhìn sang cô với vẻ khinh khỉnh. - Được rồi, vậy cô định làm gì nào? Cô đáp lại bằng một câu hỏi: - Anh có quen ai trong thành phố này không? - Có, thậm chí tôi còn có một anh bạn rất thân, nghệ sĩ saxophone Kenny Forrest, nhưng không đúng lúc rồi: anh ấy hiện đang lưu diễn tại Tokyo.Cô đặt lại câu hỏi theo cách khác: - Vậy là anh không biết nơi nào để chúng ta có thể tìm thấy dụng cụ hòng thoát ra khỏi chiếc còng này, để thay đồ hoặc tắm qua sao? - Không, gã thừa nhận. Còn cô? - Tôi thì vốn sống ở Paris, tôi đã bảo anh rồi đấy thôi! - "Tôi thì vốn sống ở Paris, tôi đã bảo anh rồi đấy thôi!" gã làm bộ cong cớn nhại lại cô. Nghe này, tôi không biết tại sao chứng ta lại không tới báo cảnh sát: chúng ta không có tiền, cũng chẳng có quần áo để thay, không có cách nào để chứng minh danh tính cá nhân... - Thôi than vãn đi. Hãy bắt đầu bằng việc kiếm lấy một chiếc điện thoại di động, đồng ý chứ? - Tôi nhắc lại đê cô nhớ là chúng ta không có một xu dính túi! Cô muốn chúng ta làm thế nào bây giờ? - Chuyện đó thì đâu có gì phức tạp: chỉ cần lấy trộm là xong. 4 Những kẻ bị buộc lại với nhau Bất cứ khó khăn nào cũng hàm chứa một khả năng. Albert EINSTEIN Rời khỏi công viên, Alice và Gabriel bước ra Central Park West, đại lộ chạy dọc công viên. Họ đi vài bước trên vỉa hè rồi chợt cảm thấy bị hút ngay lập tức vào dòng chảy đô thị: những tiếng còi của đoàn taxi màu vàng đang chạy hết tốc lực về phía Midtown, tiếng rao của những người bán xúc xích nóng, tiếng khoan máy của công nhân cầu đường đang sửa hệ thống đường ống.Không nên lãng phí thời gian. Alice nheo mắt để quan sát xung quanh kỹ hơn. Từ bên kia đại lộ nhô lên mặt tiền màu cát đường bệ của Dakota, tòa nhà nơi ba mươi ba năm trước John Lennon đã bị sát hại. Tòa nhà nằm lạc lõng: với những đỉnh tháp nhỏ, những đầu hồi nhà, những cửa sổ nhỏ và những ban công nhỏ, nó phóng chiếu một bóng dáng gothic lên bầu trời Manhattan. Thời Trung cổ giữa thế kỷ 21. Trên vỉa hè, một người bán hàng rong đã bày ra mớ đồ lề lủng củng của mình và bán cho du khách những chiếc áo phông cùng poster mang dấu ấn của ban nhạc Beatles xưa kia. Cô nhìn thấy một nhóm thiếu niên đi đằng trước mình khoảng chục mét: những công dân Tây Ban Nha ồn ào đang chụp ảnh trước tòa nhà. Ba mươi năm sau, huyền thoại vẫn còn phát huy tác dụng... Sau vài giây quan sát, cô xác định được "mục tiêu" của mình và vạch ra kế hoạch tấn công sơ bộ. Cô hất hàm chỉ cho Gabriel thấy nhóm thiếu niên. - Anh nhìn thấy thằng nhóc đang nói chuyện điện thoại kia chứ? Gã gãi gãi gáy. - Thằng nhóc nào cơ? Một nửa đám nhóc đó đang áp điện thoại lên tai.- Thằng nhóc thấp béo đeo kính, tóc cắt kiểu bát úp và mặc chiếc áo ba lỗ Barca ấy. - Tôi thấy việc tấn công một thằng nhóc chẳng lấy gì làm anh hùng cho lắm... Alice nổi đóa: - Anh chẳng có vẻ gì là nhận thức được rằng chúng ta đang gặp rắc rối to, Keyne ạ! Thằng nhóc đó ít nhất cũng đã mười sáu tuổi và đây không phải là tấn công nó, mà chỉ là mượn tạm điện thoại của nó thôi. - Tôi đói ngấu rồi, gã than. Cô không muốn chứng ta thó một cái xúc xích thì hơn à? Cô nhìn gã với ánh mắt hình viên đạn. - Thôi đừng có phét lác nữa và nghe tôi cho rõ đây. Anh sẽ đi sát cạnh tôi. Tới ngang tầm thằng nhóc, anh phải đẩy tôi về phía nó, rồi ngay khi tôi tóm được điện thoại, chứng ta phải chuồn thật lẹ đấy. Gabriel gật đầu. - Nghe có vẻ dễ. - Dễ á? Rồi anh sẽ thấy chạy với một bên tay bị còng sẽ dễ thế nào... Phần tiếp theo diễn ra đúng như Alice dự liệu: cô lợi dụng lúc thằng nhóc bị bất ngờ bèn cướp luôn điện thoại của nó. - Giờ thì chạy thôi! cô thét bảo Gabriel. WALK: đèn dành cho người đi bộ đang nhấp nháy. Họ tranh thủ khoảnh khắc ấy để băng qua đại lộ rồi phóng vào con phố cắt ngang đầu tiên. Chạy trong tình trạng bị còng lại với nhau té ra còn tệ hơn so với những gì Alice e ngại. Điều chỉnh nhịp tiến đã khó, lại thêm sự khác biệt về vóc dáng và vòng thép cứa vào cổ tay đau điếng theo mỗi bước chạy khiến vùng da ở đó bầm giập.- Lũ nhóc đang đuổi theo chung ta! Gabriel hét to khi ngoái nhìn lại phía sau. Đến lượt Alice cũng ngoái lại và thấy nhóm thiếu niên Tây Ban Nha đang theo sát nút. Đen không thể tả... Họ gật đầu ra hiệu cho nhau rồi tăng tốc hơn nữa. Phố 71 vốn là một con phố yên tĩnh, điển hình cho khu Upper West Side, hai bên là những ngôi nhà brownstone mặt tiền ốp sành đỏ thanh lịch, vắng bóng du khách, những vỉa hè rộng rãi, điều này cho phép cặp đôi chạy nhanh qua những khối nhà dân sinh ngăn cách giữa hai đại lộ. Vẫn theo họ sát gót, nhóm thiếu niên tỏ ra vội vã hơn, gào thét để báo động và nhờ khách bộ hành giúp đỡ. Đại lộ Columbus. Trở lại với không khí náo nhiệt: những cửa hiệu đang dọn hàng, những quán cà phê đang dần đầy khách, đám sinh viên đang ra khỏi bến tàu điện ngầm ngay cạnh. - Rẽ trái! Gabriel vừa rẽ gấp vừa hét. Màn chuyển hướng đột ngột này khiến Alice bất ngờ. Khó khăn lắm cô mới giữ được thăng bằng và thốt kêu lên khi cảm thấy vòng còng khía vào da thịt.Họ chạy xuôi đại lộ về phía Nam, xô đẩy người đi đường, hất đổ nhiều giá bày hàng, thậm chí thiếu chút nữa là đạp phải một con chó giống Yorkshire lùn. Quá đông đúc. Cảm giác chóng mặt. Quay cuồng. Cảm giác đau nhói xé toang mạng sườn. Để tránh đám đông, họ thử dợm bước vài mét xuống mặt đường. Ý tưởng sai lầm... Thiếu chút nữa thì một chiếc taxi cán phải họ. Phanh nghiến xe lại, tài xế tặng họ một hồi còi dài kèm theo một tràng rủa sả. Trong lúc cố gắng quay lại lề đường, Alice vấp chân vào mép vỉa hè. Vòng còng lại cứa vào cổ tay cô lần nữa. Lỡ đà, cô ngã nhào xuống đất, kéo Gabriel ngã theo và để văng mất chiếc điện thoại họ đã tốn bao nhiêu công sức mới có được. Chết tiệt! Bằng một cử chỉ nhanh nhẹn, Gabriel chộp lại chiếc điện thoại. Đứng dậy nào! Họ cùng đứng dậy và liếc nhìn lần nữa những kẻ truy đuổi. Nhóm đã tan, nhưng vẫn có hai thiếu niên tiếp tục theo sát họ, quyết tâm giành phần thắng trong một cuộc truy đuổi tại Manhattan để khỏi lỡ dịp khoe khoang với đám bạn gái khi gặp lại. - Lũ khốn này chạy nhanh thật! Gabriel nổi cáu. Tôi thì quá già cho những trò dại dột này rồi! - Gắng thêm chút nữa! Alice cố ép gã chạy tiếp. Mỗi bước chạy thêm là một đòn tra tấn, nhưng họ vẫn cố. Tay trong tay. Mười mét, năm mươi mét, một trăm mét. Những hình ảnh ngắt quãng nhảy xổ ra trước mắt họ: những miệng cống bốc khói nghi ngút phun hơi nước lên trời, những cầu thang bằng gang đúc chạy dọc những mặt tiền gạch xây, gương mặt lũ trẻ nhăn nhó qua các ô cửa lánh của xe buýt học đường. Và vẫn luôn là hàng loạt các tòa nhà bê tông ốp kính, hàng dãy những biển hiệu cùng biển quảng cáo. Phố 67, rồi 66. Hai cổ tay họ rướm máu, họ bật ho sù sụ, nhưng lại một lần nữa được đà chạy. Được cuốn đi nhờ lượng adrenalin và trái ngược với lũ nhóc đang đuổi theo, họ đã hồi sức. Sự hậu thuẫn của họ chắc chắn hơn, hành trình chạy của họ khó nắm bắt hơn. Họ đang tới đoạn Broadway cắt Columbus. Vậy nên đại lộ biến thành một ngã tư khổng lồ, điểm giao thoa của ba trục đường bốn làn. Chỉ cần một ánh mắt là họ hiểu ý nhau. - Luôn và ngay nào! Bất chấp mọi rủi ro, họ thình lình băng qua ngã tư theo một đường chéo trong một bản hòa âm những tiếng lốp nghiến ken két và còi cảnh báo. Giữa phố 65 và 62, toàn bộ khu vực phía Tây của Broadway đã có khu liên hợp văn hóa của Lincoln Center được xây dựng quanh Metropolitan Opera án ngữ. Alice ngước mắt nhìn lên để xác định phương hướng. Một con tàu khổng lồ cao nhiều tầng, làm từ kính và lưới mắt cáo bằng thép đang vươn mui tàu nhọn hoắt tới tận giữa đại lộ. Cô nhận ra phòng thu của trường Juilliard School mà cô cùng Seymour đã từng đi ngang qua. Đằng sau mặt tiền trong suốt đó, người ta có thể nhìn thấy những bước múa của các vũ công ba lê cũng như bên trong các studio nơi các nhạc công tập luyện. - Bãi đỗ xe ngầm của nhà hát! cô hét to, chỉ một đoạn dốc bằng bê tông dẫn sâu xuống lòng đất. Gabriel gật đầu. Họ luồn lách trong những ngõ ngách ngầm được rải nhựa, tránh những chiếc xe hơi đang ngược về phía lối ra. Đến được tầng hầm thứ nhất, họ tận dụng chút sức lực còn lại để băng qua bãi đỗ theo chiều dọc rồi lên một trong những cầu thang thoát hiểm dẫn tới địa điểm cách đó ba dãy nhà, trong hòn đảo nhỏ của công viên Damrosch. Lúc rốt cuộc cũng lên được mặt đất, họ nhẹ cả người khi nhận ra những kẻ bám đuổi đã biến mất. * * * Dựa người vào bờ tường thấp bao quanh bãi đất, Alice và Gabriel không ngừng thở dốc. Cả hai đều mồ hôi mồ kê nhễ nhại và đờ ra vì đau. - Đưa tôi cái điện thoại nào, cô nấc lên. - Chết thật, tôi... tôi đánh rơi mất rồi! anh kêu lên sau khi thò tay lục túi áo.- Không phải chứ, anh... - Tôi đùa đấy, anh vừa trấn an cô vừa chìa ra chiếc smartphone. Alice nguýt anh một cú dài cả cây số rồi đang định tế cho anh một trận thì bỗng trong miệng cô dâng lên vị tanh lòm. Cô xây xẩm mặt mày. Cơn buồn nôn dâng lên từ trong dạ dày buộc cô phải cúi xuống một chậu hoa để nhổ ra một ít mật. - Cô phải uống nước thôi. - Tôi cần ăn thì đúng hon. - Tôi đã bảo nên ăn trộm một cái xúc xích nướng còn gì! Họ thận trọng bước tới đài phun nước để uống đã con khát. Bao quanh là Nhà hát Vũ kịch Thành phố và những vòm kính của Metropolitan Opera rộng thênh thang, công viên Damrosch đủ náo nhiệt để thiên hạ không chú ý tới họ. Trên thềm, các công nhân đang hối hả dựng lều và bục chuẩn bị cho một cuộc diễu hành. Sau một hồi uống nước, Alice vớ lấy điện thoại, xác nhận nó không hề có mã bảo vệ rồi bấm số di động của Seymour. Trong lúc chờ đầu dây bên kia nhận cuộc gọi, cô kẹp điện thoại vào hõm vai rồi xoa xoa gáy. Tim cô tiếp tục đập dồn trong lồng ngực. Trả lời đi nào, Seymour... Seymour Lombart là nhóm phó của nhóm điều tra do Alice chỉ huy. Ngoài họ ra còn có thêm năm cảnh sát khác là thành viên, "nhóm Schäfer" chia nhau bốn bàn làm việc nhỏ tại tầng bốn số nhà 36 kè Orfèvres. Alice nhìn đồng hồ đeo tay để tính chênh múi giờ. Ở Paris lúc này đang là 14 giờ 20. Anh chàng cảnh sát bắt máy sau ba hồi chuông, nhưng tiếng ồn từ những cuộc trò chuyện phía sau lưng anh khiến cho cuộc điện thoại trở nên khó nghe. Nếu Seymour không phải đang ngoài thực địa thì hẳn là cậu ta vẫn đang ăn trua. - Seymour hả? - Alice phải không? Nhưng chị đang ở đâu vậy, khỉ thật? Tôi đã gửi cho chị mấy tin nhắn liền. - Tôi đang ở Manhattan. - Chị đùa tôi chắc? - Cậu phải giúp tôi, Seymour ạ. - Tôi nghe chẳng được rõ tí nào. Cô cũng vậy. Đường truyền nhiễu. Ngắt quãng. Giọng viên phụ tá của cô méo mó, chỉ nghe tiếng léo nhéo. - Cậu đang ở đâu thế, Seymour? - Ở Caveau du Palais, quảng trường Dauphine. Nghe này, tôi quay lại văn phòng rồi năm phút nữa sẽ liên lạc lại với chị, OK? - Nhất trí. Số điện thoại có hiện lên rồi chứ? - Rồi. - Tuyệt lắm. Mà cậu nhanh lên nhé. Tôi có việc cho cậu đây. Thất vọng, Alice dập máy rồi chìa điện thoại cho nghệ sĩ nhạc jazz. - Anh có muốn gọi cho ai thì gọi luôn đi. Tôi cho anh năm phút. Khẩn trương lên. Gabriel nhìn cô vẻ kỳ cục. Bất chấp hoàn cảnh đang nguy khốn và gấp gáp, anh vẫn không thể ngăn nổi nụ cười hé nở trên môi. - Cô vẫn thường nói với mọi người bằng cái giọng độc đoán như vậy hả?- Đừng có bắt đầu trêu tức tôi, cô nạt anh. Anh có muốn dùng điện thoại hay là không nào? Gabriel chộp lấy điện thoại rồi suy nghĩ vài giây. - Tôi sẽ gọi cho bạn tôi, Kenny Forrest. - Anh chàng nhạc công saxophone ấy hả? Ban nãy anh bảo với tôi là anh ta đang ở Tokyo kia mà. - Biết đâu có chút may mắn, anh ấy gửi lại chìa khóa căn hộ cho hàng xóm hay bà gác cổng thì sao. Cô biết bây giờ ở Nhật là mấy giờ không? anh vừa hỏi vừa bấm số. Alice đếm ngón tay. - Tôi áng chừng khoảng 10 giờ tối. - Xui rồi, hẳn anh ấy đang trong giờ biểu diễn. Quả nhiên, Gabriel gặp ngay hộp thư thoại và để lại một lời nhắn, giải thích anh hiện đang ở New York và hứa sẽ gọi lại sau. Anh trả điện thoại cho Alice. Cô nhìn đồng hồ đeo tay rồi thở dài. Nhanh lên nào, Seymour! cô năn nỉ trong lúc nắm chặt chiếc điện thoại trong tay. Cô đã quyết định gọi lại cho viên phụ tá thì bỗng nhìn thấy dãy số ghi bằng bút bi trong lòng bàn tay. Mồ hôi khiến dãy số đó mờ dần. - Dãy số này có gọi cho anh nghĩ đến điều gì không? cô vừa hỏi vừa xòe tay ra trước mắt Gabriel. 2125558900 - Sáng nay lúc tỉnh dậy tôi đã nhìn thấy dãy số này. Thế nhưng lại không hề nhớ đã viết ra. - Có khi nào là một số điện thoại không? Cho tôi xem lại một chút nào. Chuẩn luôn! Gabriel thốt lên. 212 là mã vùng của Manhattan. Nói xem, cô chắc chắn mình là cảnh sát đấy chứ? Làm sao mình lại không nghĩ ra cơ chứ? Cô lờ câu nói châm chọc ấy đi rồi ấn số gọi luôn. Đầu dây bên kia nhấc máy ngay sau hồi chuông đầu tiên. - Xin chào, đây là khách sạn Greenwich. Candice xin nghe. Tôi có thể giúp gì cho quý vị? Một khách sạn ư? Alice nghĩ thật nhanh. Địa chỉ này tương ứng với cái gì nhỉ? Lẽ nào cô từng trọ tại khách sạn đó? Chuyện này thật vô lý, nhưng cô vẫn thử xem sao. - Làm ơn nối máy cho tôi tới phòng của cô Alice Schäfer được không? Đầu dây bên kia, cô nhân viên lễ tân dừng một lát rồi: - Tôi tin là trong số khách trọ của chúng tôi không có ai mang tên này, thưa bà. Alice cố nài: - Cô tin thế hay cô chắc chắn thế? - Chắc như đinh đóng cột vậy, thưa bà. Tôi lấy làm tiếc. Alice còn chưa kịp ngắt máy thì số của Seymour đã hiện trên màn hình báo cuộc gọi chờ. Cô nhận luôn cuộc gọi của phụ tá, không buồn cảm ơn cô nhân viên lễ tân. - Cậu về đến văn phòng rồi hả Seymour? - Tôi đang tới đó đây, anh chàng đáp bằng giọng hổn hển. Chị hãy nói câu chuyện đang ở New York gì đó chỉ là chuyện đùa đi. - Rủi nỗi đó không phải chuyện đùa đâu. Tôi có ít thời gian lắm, và cậu nhất định phải giúp tôi. Trong vòng chưa đầy ba phút, cô thuật lại cho cậu ta nghe toàn bộ những chuyện mình đã gặp phải từ tối qua: hẹn hò cùng nhóm bạn gái trong các quán bar trên đại lộ Champs-Élysées, tình trạng mất trí nhớ kể từ lúc ra tới bãi đỗ xe, tỉnh dậy trong Central Park, bị còng chung với một người đàn ông lạ mặt, và cuối cùng là ăn trộm điện thoại để gọi cho cậu ta. - Không, chị đang lừa tôi chứ gì. Chị đang chơi trò gì vậy hả Alice? Ở đây công việc của chúng ta đang ngập đầu ngập cổ. Thẩm phán muốn gặp chị: ông ta đã từ chối yêu cầu được nghe lén của chúng ta trong vụ Sicard. về phần Taillandier, mụ ta... - Mẹ kiếp, nghe tôi nói đây! cô hét lên. Mắt cô ngấn nước và tâm trí căng thẳng cực độ. Ngay cả từ bờ bên kia Đại Tây Dưong, viên phụ tá hẳn cũng nhận ra vẻ mong manh dễ vỡ trong giọng nói của cô. - Đây không phải chuyện đùa đâu, khốn kiếp! Tôi đang gặp nguy hiểm và chỉ có thể tin ở cậu thôi! - Được rồi. Chị bình tĩnh lại đi. Tại sao chị không đi báo cảnh sát? - Tại sao ấy hả? Vì trong túi áo khoác của tôi đang có một khẩu súng không phải của tôi, Seymour ạ. Vì máu dính đầy áo sơ mi của tôi. Vì tôi chẳng có giấy tờ gì trên người cả! Bởi vì thế đấy! Họ sẽ tống tôi vào tù mà không thèm tìm hiểu gì thêm đâu. - Nếu không có xác chết thì làm gì đến nỗi ấy, anh chàng cảnh sát bắt bẻ.- Chuyện đó thì đúng thật là tôi cũng không chắc. Đầu tiên tôi cần biết mình đang gặp phải chuyện gì đã. Và tìm cho tôi cách xử lý đôi còng này nhé!- Chị muốn tôi làm thế nào bây giờ? - Mẹ cậu là người Mỹ mà. Cậu có gia đình họ hàng ở đây, cậu có người quen. - Chị thừa biết mẹ tôi sống tại Seattle còn gì. Ở New York tôi chỉ có một người họ hàng là bà dì. Một bà già nhỏ thó mắc kẹt lại Upper East Side. Lần đầu tiên tới Manhattan cả hai chúng ta đã cùng nhau tới thăm bà ấy rồi đó, chị nhớ không? Bà dì tôi đã chín mươi lăm rồi, tôi không nghĩ trong nhà bà ấy sẵn có một cái cưa kim loại đâu. Bà ấy sẽ chẳng giúp gì được cho chị. - Vậy thì ai có thể đây? - Để tôi nghĩ nhé. Có lẽ tôi có ý này, nhưng tôi phải gọi điện đã, trước khi đưa cho chị một địa chỉ sai lè. - OK, gọi lại cho tôi nhé, nhưng xin cậu khẩn trương lên cho. Cô tắt máy rồi nắm chặt hai tay. Gabriel nhìn thẳng vào mắt cô. Anh có thể nhận thấy con giận dữ pha lẫn tức tối của "đối tác" qua cơ thể cô đang rung lên từng hồi. - Gã Seymour đó chính xác là ai vậy? - Phụ tá của tôi trong đội Hình sự, và cũng là bạn thân nhất của tôi. - Cô chắc là ta có thể tin tưởng cậu ta chứ? - Tuyệt đối chắc. - Nghe tiếng Pháp tôi không hiểu được hết, nhưng tôi cảm thấy cậu ta không được khẩn trương cho lắm trong việc giúp cô... Cô không đáp. Anh nói tiếp: - Thế còn khách sạn, cuộc điện thoại không giúp được gì sao? - Không, như anh đã nghe rồi đấy, bởi vì anh chuyên nghe người ta trò chuyện mà. - Với khoảng cách này thì muốn làm khác đi cũng khó đấy! Quý bà làm ơn bỏ quá cho tôi tội vô ý vô tứ, cũng chỉ do hoàn cảnh bắt buộc mà thôi, anh tự bào chữa với giọng giễu cợt. Và vì bà đã nhắc cho tôi nhớ ra chuyện ấy, bà không phải là người duy nhất vướng vào tình cảnh rắc rối này đâu! Phẫn nộ, cô quay đi để tránh ánh mắt của Keyne. - Khỉ thật, đừng nhìn tôi chằm chằm như thế nữa đi. Anh không cần gọi thêm một cuộc điện thoại nữa hay sao? Ai đó để báo tin: một cô vợ, một cô bạn gái... - Không. Phương châm của tôi là mỗi nơi ém một cô. Tôi tự do như không khí thôi. Tự do như những nốt nhạc bay bổng từ cây dương cầm của tôi vậy. - Phải rồi: tự do và đơn độc. Tôi biết rõ những gã đàn ông kiểu như anh mà. - Thế còn cô, không có chồng hoặc bạn trai à? Cô lẩn tránh câu hỏi ấy bằng một cái lắc đầu, nhưng anh cảm thấy mình đã chạm tới điều gì đó nhạy cảm. - Không, nghiêm túc mà nói, Alice: cô đã kết hôn chưa vậy? - Anh xéo đi, Keyne. - Phải rồi, tôi hiểu rồi, cô đã kết hôn, anh kết luận. Vì cô không chối, anh bèn tấn công ồ ạt: - Tại sao cô không gọi cho chồng? Cô lại nắm chặt tay lần nữa. - Vợ chồng cô có vấn đề chứ gì? Chẳng có gì là ngạc nhiên với tính tình cáu bẳn của cô... Cô nhìn anh như thể vừa bị anh thọc một nhát dao vào bụng. Rồi vẻ sững sờ nhường chỗ cho nỗi tức giận. - Bởi vì anh ấy mất rồi, đồ ngốc thảm hại ạ! * * * Bực bội vì sự vụng về của mình, Gabriel chường ra một vẻ mặt tiu nghỉu. Trước khi anh kịp xin lỗi, một hồi chuông kinh khủng - màn pha trộn bất khả giữa điệu salsa và nhạc điện tử - đã cất lên từ chiếc điện thoại. - Ừ, Seymour đấy hả? - Tôi có giải pháp cho vấn đề của chị rồi đây, Alice. Chị còn nhớ Nikki Nikovski không? - Nhắc lại cho tôi nhớ luôn đi. - Hồi chúng ta tới New York, dịp Giáng sinh năm ngoái đó, chúng ta đã ghé thăm một nhóm các nghệ sĩ đương đại... * * * - Trong một tòa nhà lớn gần kè đúng không? - Đúng thế, trong khu Red Hook. Chúng ta đã trò chuyện hồi lâu với một nữ nghệ sĩ đang thực hiện những bản in đồ hình trên những tấm tôn thép và nhôm. - Và cuối cùng cậu đã mua hai tác phẩm của cô ấy để sưu tầm, cô nhớ lại.- Đúng, chính là cô ấy đấy, Nikki Nikovski. Chúng tôi vẫn giữ liên lạc và tôi vừa gọi cho cô ấy. Xưởng của cô ấy đặt trong một nhà máy cũ. Nikki có những dụng cụ thích hợp để xử lý đôi còng và cô ấy đồng ý giúp chị.Alice thở phào nhẹ nhõm. Cô níu lấy thông tin đáng yên lòng này rồi trình bày kế hoạch tác chiến cho viên phụ tá nghe: - Về phần mình, cậu cũng phải điều tra, Seymour ạ. Hãy bắt đầu bằng việc thu thập những cuốn băng ghi hình giám sát tại bãi đỗ xe ngầm thuộc đại lộ Franklin-Roosevelt. Hãy tìm hiểu xem liệu ô tô của tôi còn ở dưới đó không.Anh chàng cảnh sát bắt đầu bị cuốn vào: - Ban nãy chị bảo tôi là chúng đã trộm sạch đồ đạc tư trang của chị, vậy thì tôi có thể thử lần theo điện thoại của chị cũng như những giao dịch qua tài khoản ngân hàng. - Nhất trí. Và nhớ thu thập thông tin về tất cả các chuyến bay bằng máy bay sở hữu tư nhân đã rời Paris tới Mỹ nội trong đêm qua. Hãy bắt đầu bằng Le Bourget rồi mở rộng danh sách tới tất cả các sân bay thương mại thuộc phạm vi Paris. Nhân thể tìm hiểu luôn thông tin về một gã nào đó tên Gabriel Keyne nhé: một nghệ sĩ dương cầm người Mỹ chuyên nhạc jazz. Kiểm tra xem liệu có đúng là tối hôm qua anh ta chơi nhạc trong một câu lạc bộ tại Dublin không, câu lạc bộ tên là Brown Sugar. - Thông tin về tôi ấy hả? Gabriel tìm cách cắt ngang. Không phải chứ, cô thật là quá đáng! Alice ra hiệu ra cho anh im miệng rồi tiếp tục lên kế hoạch hành động cho viên phụ tá: - Lấy lời khai cả nhóm bạn gái của tôi nữa, ta chẳng bao giờ biết được: Karine Payet, Malika Haddad và Samia Chouaki. Chúng tôi học cùng khoa Luật. Cậu sẽ tìm thấy địa chỉ liên lạc của cả nhóm trong máy tính của tôi tại văn phòng. - OK. Cô chợt nảy ra một ý. - Hãy thử xem liệu cậu có tình cờ lần ra xuất xứ của một khẩu súng không nhé. Một khẩu Glock 22. Để tôi đọc cho cậu số xê ri. Cô đọc một dãy gồm cả chữ lẫn số khắc trên khẩu súng. - Tôi ghi lại đây rồi. Tôi sẽ làm hết khả năng để giúp chị, Alice ạ, nhưng tôi cũng phải báo cho Taillandier biết. Alice nhắm mắt. Hình ảnh Mathilde Taillandier, nữ chỉ huy đội cảnh sát Hình sự, thoáng hiện lên trong tâm trí cô. Taillandier không ưa cô cho lắm và cô cũng chẳng có cảm tình gì hơn với cô ta. Kể từ "vụ Erik Vaughn", cô ta đã nhiều lần tìm cách gạt cô khỏi số nhà 36. Cho tới giờ vẫn vậy, các cấp trên của cô vẫn có ý kiến trái ngược về vụ việc, chủ yếu là vì những lý do chính trị, nhưng Alice biết rằng vị trí của mình tại nơi làm việc vẫn hết sức bấp bênh.- Đừng làm vậy, cô cắt ngang. Đừng để ai khác biết chuyện và cậu nhất định phải xoay xở thế nào đó để hành động đơn lẻ. Tôi từng cứu cậu nhiều lần đủ để lần này cậu chấp nhận chút rủi ro vì tôi, Seymour ạ. - OK, cậu ta đồng ý. Ngay khi có tin mới tôi sẽ gọi lại cho chị. - Để tôi liên lạc lại với cậu. Tôi sẽ không thể giữ chiếc điện thoại này lâu được, nhưng cứ gửi cho tôi địa chỉ liên lạc của Nikki Nikovski qua tin nhắn nhé. Alice dập máy, và vài giây sau, địa chỉ căn xưởng của nữ họa sĩ đã hiển thị trên màn hình chiếc smartphone. Khi nhấp vào dòng liên kết, cô gặp ngay ứng dụng định vị. - Red Hook cũng chẳng phải gần gụi gì đâu, Gabriel cúi xuống nhìn bản đồ rồi nhận xét. Alice chăm chú nhìn màn hình, ngón tay cô miết trên bề mặt cảm ứng để tìm hiểu rõ hơn vùng ngoại vi. Căn xưởng nằm ở phía Tây Nam Brooklyn. Chẳng hy vọng gì có thể cuốc bộ tới đó. Mặt khác, cũng không có phương tiện giao thông công cộng. - Mà thậm chí chúng ta cũng chẳng có tiền để mua vé xe buýt hay tàu điện ngầm, Gabriel nhận xét như thể đọc được suy nghĩ của cô. - Vậy anh đề xuất phương án giải quyết đi? cô hỏi anh bằng giọng khiêu khích. - Dễ ợt: chúng ta sẽ trộm một chiếc ô tô, anh khẳng định. Nhưng lần này thì cồ phải để tôi tiến hành đấy, nhất trí vậy nhé? * * * Ở góc đại lộ Amsterdam giao với phố 61 có một ngõ cụt nhỏ xíu lọt thỏm giữa hai tòa chung cư. Gabriel thúc mạnh khuỷu tay làm vỡ cửa kính một chiếc Mini cũ kỹ. Alice và anh phải mất hơn mười lăm phút mới tìm thấy một chiếc xe đậu tại một nơi ít lộ liễu và có tuổi đời đủ chuẩn để có thể chịu khởi động "theo kiểu cũ".Đó là một chiếc Austin Cooper S hai màu kiểu cổ với thân xe màu hạt dẻ láng bóng và nóc xe màu trắng. Một mẫu xe sành điệu của giai đoạn cuối thập niên 1960 dường như đã được một nhà sưu tầm phục chế một cách chính xác.- Anh chắc chắn biết mình đang làm gì chứ? Gabriel trả lời tránh trớ. - Có thể chắc chắn được điều gì trên đời này chứ? Anh thò cánh tay qua ô kính để mở cửa xe. Trái ngược với những gì thường thấy trên phim ảnh, đánh cắp một chiếc xe hơi bằng cách cọ xát các dây cáp châm lửa điện không phải là chuyện dễ dàng gì. Và còn phức tạp hơn nữa nếu ta đang bị còng chung với ai đó. Gabriel ngồi vào ghế lái rồi lúi húi dưới vô lăng làm từ hợp kim nhôm và gỗ đánh véc ni trong khi Alice làm ra vẻ đang nói chuyện với anh trong tư thế chống khuỷu tay vào ô cửa kính xe. Theo bản năng, họ đã tự phân công nhiệm vụ: cô phụ trách cảnh giới trong khi anh lo vụ đấu dây diện. Gabriel giáng một cú mạnh làm bật tung những tấm nhựa bao quanh che đi trục vô lăng. Anh dùng bàn tay không bị còng gỡ những tấm ốp để tìm dây cáp. Từ một ống nhựa hình trụ cũ kỹ thò ra ba cặp dây điện khác màu. - Anh học được cái trò này ở đâu vậy? - Ở trường học đường phố. Khu Englewood, phía Nam Chicago. Anh chăm chú quan sát chùm dây diện để xác định cặp dây khởi động bộ pin.- Đây là sợi cáp cung cấp toàn bộ mạch điện cho xe, anh vừa giải thích vừa chí hai sợi dây diện màu hạt dẻ. - Tôi đang mơ hay sao thế! Lúc này anh đừng có dạy tôi một khóa điện máy chứ! Phật ý, anh tách các sợi cáp của ống trụ, rạch hai đầu mút cho lộ các dây điện bên trong ra rồi đấu chúng vào với nhau để kích hoạt bộ chuyển mạch đánh lửa. Bảng điều khiển tức khắc bật sáng. - Khỉ thật, anh nhanh lên đi! Một bà đứng trên ban công kia đã nhìn thấy chúng ta rồi. - Cô tưởng thao tác chỉ với một tay thì dễ lắm đấy hả! Tôi những muốn xem cô xoay xở thế nào! - Anh chỉ việc thôi huênh hoang với cái "trường học đường phố" của mình thôi. Bị giục giã và cũng chẳng buồn cẩn trọng, Gabriel ghé răng tước trần các sợi cáp của bộ phận khởi động. - Nhúc nhích giúp tôi một tay đi, thay vì cứ càu nhàu than vãn như thế! Cầm lấy sợi dây điện kia. Cọ nhẹ vào sợi tôi đang cầm đây. Đó, như thế...Hai sợi dây điện trong tay họ cọ xát tạo nên một tia sáng và họ nghe thấy vang lên tiếng động cơ. Họ liếc nhìn nhau vẻ đồng lõa để ăn mừng chiến thắng nho nhỏ này. - Nhanh lên, cô vừa ra lệnh vừa đẩy anh vào trong buồng lái. Để tôi cầm lái cho. - Không có chuyện... - Đây là mệnh lệnh, cô ngắt lời anh. Và dù thế nào chăng nữa, chứng ta cũng không được lựa chọn! Tôi sẽ cầm lái, anh vào số. 5 Red Hook Có vài thứ khi trời lặng học sẽ hiệu quả hơn, và một vài thứ khác chỉ học được khi dông bão.Willa CATHER Một chiếc Ford Taurus được sơn màu đặc trưng của sở cảnh sát New York đang đỗ tại ngã tư giao giữa Broadway và phố 66. Nhanh lên nào, Mike! Bên trong xe, Jodie Costello, hai mươi tư tuổi, đang nóng ruột gõ gõ lên tay lái.Cô cảnh sát trẻ gia nhập lực lượng cảnh sát thành phố từ đầu tháng và công việc của cô còn lâu mới được phấn khích như cô trông đợi lúc ban đầu. Sáng nay, cô mới thi hành nhiệm vụ thậm chí chưa tới ba phần tư tiếng đồng hồ, ấy vậy mà chân đã như có kiến bò. Khu vực Jodie phụ trách tuần tra, phía Tây Central Park, bao quát một khu phố sang trọng, quá đỗi yên bình so với mong đợi của cô. Suốt mười lăm ngày qua, hoạt động của cô chỉ là chỉ dẫn cho du khách, đuổi bắt cướp, ghi vé phạt cho những người lái xe quá vội vã và giải tán những kẻ say xỉn xả rượu ra trên lối công cộng. Đã thế, người ta lại còn bổ nhiệm cô vào vị trí đồng sự của một kẻ lố lăng thực sự: chỉ còn sáu tháng nữa là về nghỉ hưu, Mike Hernandez là một hòn chì níu chân chính cống. Chủ trương gắng sức ở mức tối thiểu, ông ta chỉ nghĩ đến chuyện ăn uống và chuyên chú sao cho giảm thiểu công việc, nhân rộng những "giờ nghỉ giải lao ăn bánh rán", nhũng "chặng dừng bánh kẹp thịt", những "chặng nghỉ Coca-Cola" hoặc hễ có dịp là tán gẫu cùng hội tiểu thưong và những người đi nghỉ hè. Một ý niệm hết sức ích kỷ của cảnh sát. Được thôi, giờ thì đủ rồi đấy! Jodie cáu tiết. Dầu sao cũng đâu cần đến hai tiếng đồng hồ để mua bánh rán chứ! Cô bật đèn hiệu rồi ra khỏi xe và đóng sập cửa lại. Cô toan bước vào tiệm để chỉ trích người đồng sự thì bỗng nhìn thấy một nhóm sáu thiếu niên đang chạy về phía mình. - Ladrón, ladrón! Cô dùng giọng kiên quyết ra lệnh cho chúng bình tĩnh trước khi bằng lòng nghe nhóm du khách Tây Ban Nha này diễn đạt ấp a ấp úng bằng một thứ tiếng Anh tệ hại. Thoạt đầu, cô cứ ngỡ là một vụ trộm điện thoại di động tầm thường và định đưa chứng tới trình báo tại quận 20 thì bỗng một chi tiết thu hút sự chú ý của cô. - Cậu chắc là hai tên trộm điện thoại của cậu bị còng chứ? cô hỏi cậu thiếu niên trông vừa có vẻ ít đần độn nhất vừa có vẻ xấu xí nhất bọn: một thằng nhóc mặc áo cầu thủ bóng đá, với khuôn mặt tròn ủng, cặp lánh cận và kiểu đầu bát úp lệch. - Chắc chắn, cậu nhóc người Tây Ban Nha đáp, lũ bạn xung quanh ào ào xác nhận. Jodie cắn môi dưới. Bọn tù trốn trại sao? Khó mà tin được. Như mọi sáng, cô đã đọc hết những thông báo truy nã và dấu hiệu nhận dạng mà các đồng nghiệp tại phòng Tuần tra gửi cho họ, nhưng trong số đó không có tài liệu nào tương ứng với những mô tả về hai kẻ khả nghi này. Nghe theo linh tính mách bảo, cô lấy từ trong cốp xe ra chiếc máy tính bảng cá nhân. - Điện thoại của cậu hiệu gì? Cô lắng nghe câu trả lời rồi kết nối với dịch vụ cloud computing của hãng sản xuất. Sau đó cô yêu cầu cậu nhóc cung cấp địa chỉ thư điện tử kèm mật khẩu đăng nhập của cậu ta. Một khi đã kích hoạt, ứng dụng cho phép truy cập thư từ của người sử dụng, danh bạ liên lạc cũng như vị trí của điện thoại. Jodie thành thạo thao tác này vì đã từng sử dụng nó cách đây sáu tháng trong chuyện tình cảm riêng tư. Một thao tác đơn giản cho phép cô lần theo hành trình của bạn trai cũ tới nhà cô ả tình nhân của anh ta và như vậy là có chứng cứ về sự thiếu chung thủy của anh ta. Cô chạm vào màn hình cảm ứng để bắt đầu quá trình tìm kiếm. Một chấm xanh nhấp nháy trên bản đồ. Nếu trang web hoạt động tốt, chiếc điện thoại của cậu nhóc hiện đang ở giữa cầu Brooklyn! Rõ ràng là hai tên trộm không bằng lòng với việc đánh cắp một chiếc di động. Chúng hẳn cũng đã đánh cắp một chiếc ô tô và đang cô gắng rời khỏi Manhattan! Trong tâm trí cô, những suy nghĩ lạc quan đã xua đi nỗi chán chường: niềm hy vọng rốt cuộc cũng được tham gia một vụ điều tra thực sự và cơ hội thăng tiến sẽ mở ra cho cô cánh cửa dẫn tới những chốn danh giá hon. Về lý thuyết, lẽ ra cô phải tung thông tin vừa thu thập được lên tần số phát thanh của lực lượng cảnh sát New York để một đội tuần tra phụ trách khu vực Brooklyn chặn đứng hai kẻ tình nghi. Nhưng cô không mảy may muốn nhìn thấy vụ việc này vuột khỏi tay mình. Cô liếc về phía tiệm bánh Dunkin' Donuts. Vẫn không thấy bóng dáng Mike Hernandez đâu. Mặc kệ... Cô ngồi vào ghế lái, bật đèn hiệu gắn trên nóc xe, bật còi hụ rồi lái đi thẳng hướng Brooklyn. * * * Bao quanh là nước, khu phố cũ của các công nhân bến cảng nhô trên một mỏm thuộc bán đảo ở phía Tây Brooklyn. Chiếc Mini đi tới đầu phô Van Brunt, trục đường chính xuyên từ Bắc xuống Nam Red Hook và kết thúc bằng con ngõ cụt. Phía bên kia, con đường nhường chỗ cho một bãi đất công nghiệp bỏ hoang được rào lại và dẫn thẳng ra kè.Alice và Gabriel đỗ xe dọc một hè đường gồ ghề. vẫn bị vưóng víu bởi đôi còng, họ ra khỏi xe theo cùng một cửa. Bất chấp ánh nắng chói chang, một con gió lạnh băng vẫn quét qua cảnh vật. - Ở đây lạnh cóng ấy nhỉ! anh chàng chơi nhạc jazz vừa than vãn vừa dựng cao cổ áo vest. Alice dần dà nhận ra khung cảnh, vẻ đẹp thô ráp của khung cảnh công nghiệp, những nhà kho cải dụng, vũ điệu của những chiếc cần cẩu, những tàu lớn chở hàng san sát bên những chiếc sà lan. Một ấn tượng về nơi tận cùng thế giới bị xóa nhòa đôi chút bởi những hồi còi rúc phát ra từ những chuyến phà qua lại. Lần gần nhất cô tới đây là cùng với Seymour, khu phố vừa mới vực dậy sau khi bão Sandy quét qua. Bấy giờ thủy triều ngập lênh láng các tầng ngầm và tầng trệt của các tòa nhà nằm sát biển. Đến hôm nay, may mắn là dường như phần lớn thiệt hại đã được khắc phục. - Xưởng của Nikki Nikovski nằm trong tòa nhà này, Alice chỉ vào một tòa nhà gạch xây sừng sững, nếu căn cứ vào những tháp xi lô và ống khói của nó, sẽ thấy hẳn đó là một nhà máy lớn vào thòi hoàng kim phát triển công nghiệp của Brooklyn. Họ tiến về phía tòa nhà đang thách thức mặt biển. Những bờ kè vắng tanh vắng ngắt. Không một bóng người đi dạo lẫn khách du lịch. Vài quán cà phê nhỏ và các tiệm đồ cũ xếp thành hàng trên phố Van Brunt, nhưng cửa nhôm cuốn vẫn đóng im ủn. - Chính xác thì người phụ nữ này là ai vậy? Gabriel hỏi trong lúc bước qua đường ống dẫn. - Một siêu mẫu đã đạt tới đỉnh cao sự nghiệp hồi thập niên 1990. Mắt anh chàng chơi nhạc jazz ánh lên tia lửa nhỏ. - Một người mẫu thứ thiệt ấy hả? - Một chuyện chẳng đâu vào đâu cũng khiến anh phấn khích, có phải thế không? cô nói với anh, giọng trách móc. - Đâu có, tôi chỉ ngạc nhiên vì sự chuyển ngạch này thôi, anh đáp, vẻ hơi mếch lòng. - Dù thế nào đi nữa, tranh vẽ và các tác phẩm điêu khắc của cô ta cũng đã bắt đầu có giá đối với các chủ galery. - Anh bạn Seymour của cô là người ghiền nghệ thuật đương đại hả? - Đúng vậy, thậm chí cậu ấy còn là một nhà sưu tầm thực thụ ấy chứ. Bố cậu ấy đã truyền lại cho con trai niềm đam mê đó, cùng một khoản thừa kế kếch xù cho phép cậu ấy thỏa mãn đam mê... - Thế còn cô? Alice nhún vai. - Tôi thì chẳng hiểu gì về nghệ thuật hết. Nhưng mỗi người một đam mê thôi: tôi cũng có danh sách ưu tiên của riêng mình. Anh nhướng mày. - Vậy cô đam mê cái gì? - Đám tội phạm, giết người, sát nhân. Đã tới trước nhà máy cũ, họ dừng sững lại một lát rồi mới nhận ra cánh cửa bằng gang đúc chắn ngang lối vào tầng trệt không hề chốt khóa. Họ bước vào một thang máy quây lưới mắt cáo có vẻ giống với một thang chở đồ rồi bấm nút lên tầng trên cùng. Buồng thang máy mở ra một mặt bằng bê tông dẫn tới một cánh cửa kim loại chống cháy. Họ phải bấm chuông nhiều lần mới thấy Nikki ra mở cửa. * * * Một chiếc tạp dề bằng da to đùng, đôi găng dày cộp, một cặp ốp tai chống ồn, một chiếc bịt mặt và cặp lánh đen. Vóc dáng cân đối của một cựu người mẫu biến mất sau bộ trang phục của thợ sắt chính cống. - Xin chào, tôi là Alice Schäfer. Anh bạn Seymour của tôi hẳn đã... - Hai người vào nhanh lên! Nikki vừa ngắt lời cô vừa cỏi bỏ chiếc bịt mặt và cặp kính râm. Xin báo trước để hai người biết, tôi kệ xác câu chuyện của hai người và cũng không muốn xen vào làm gì. Tôi tháo còng cho hai người rồi hai người rời khỏi đây ngay lập tức, hiểu chứ? Họ gật đầu rồi khép cánh cửa lại sau lưng. Nơi này giống với một xưởng sắt hơn là một xưởng sáng tác. Một căn phòng rộng mênh mông, chỉ được ánh sáng ban ngày soi chiếu, bốn bề tường treo các dụng cụ đủ loại: búa đủ kích cỡ, que hàn, mỏ hàn. Những viên than hồng rực cháy đượm trong lò rèn vẽ nên những đường viền sắc cam quanh một cái đe và một que cời lò. Theo chân Nikki, họ tiến vào một mặt sàn thô và vạch ra được chăng hay chớ một lối đi giữa các tác phẩm bằng kim loại tràn ngập không gian: những bức tranh đồ hình độc bản sắc sơn tía đang sáng lấp lánh trên mặt thép, những tác phẩm điêu khắc trên sắt gỉ với các cạnh sắc nhọn chỉ chực khía lên trần nhà.- Hai người ngồi kia, nữ nghệ nhân điêu khắc ra lệnh, chỉ về phía hai chiếc ghế sụt hỏng mà cô đã kê trước khi họ đến. Nóng lòng muốn xong việc, Alice và Gabriel mỗi người ngồi xuống một đầu bàn thợ. Trong khi bắt vít một lưõi cưa dạng đĩa lên một bàn cưa hình tam giác, Nikki yêu cầu họ kẹp sợi dây xích của còng vào một ê tô. Rồi cô làm rung chuyển cái máy của mình trong một âm thanh khủng khiếp và tiến lại gần hai kẻ chạy trốn. Đĩa cưa đứt mắt xích trong vòng chưa đầy ba giây và dây nối giữa hai mắt còng đột ngột đứt rời. Vài cú đập bằng đục nhọn cuối cùng cũng buộc những cái ngàm của hai vòng còng bằng thép phải nhượng bộ. Rốt cuộc! Alice vừa thở phào vừa xoa xoa cổ tay trầy xước và rướm máu.Cô ấp úng vài lời cảm ơn nhưng Nikovski đã lạnh lùng cắt ngang: - Giờ thì đi ngay cho! cô ta yêu cầu, tay chỉ ra cửa. Nhẹ người vì đã tìm lại được tự do, cặp đôi vội làm theo. * * * Họ quay trở lại bờ kè với nụ cười trên môi. Sự giải thoát này không trả lời cho bất cứ câu hỏi nào của họ, nhưng nó đánh dấu một chặng: họ lấy lại được sự tự chủ, bước đầu tiên để tiến lại gần sự thật. Như cất được gánh nặng, họ dạo vài bước trên bến cảng. Gió lúc này đã ấm hon. Bầu trời, vẫn xanh như thế, đối lập với vẻ sần sùi thô ráp của cảnh trí hậu công nghiệp: những mảnh đất bị bỏ hoang, hàng dãy nhà kho. Nhất là tầm nhìn đẹp mê hồn. Chỉ cần đưa mắt là người ta bao quát được toàn bộ vịnh New York, từ tượng nữ thần Tự Do cho tới New Jersey. - Đi nào, tôi đãi cô một tách cappuccino! Gabriel rủ rê bằng giọng tươi vui, chỉ về phía một tiệm cà phê nhỏ xíu nằm trong một toa tàu điện cũ chi chít hình vẽ graffiti. Alice dập tắt niềm hào hứng của anh. - Thế anh định trả tách cà phê ấy bằng gì đây? Anh tính ăn trộm cả cà phê hay sao? Gabriel nhăn mặt, phật ý vì phải đối diện với thực tế. Rồi rờ tay lên cánh tay. Con đau đã cảm nhận được khi nãy quay trở lại và giờ còn nhức nhối hon nữa.Gabriel cởi áo vest ra. Ống tay áo sơ mi của anh loang lổ vết máu. Anh xắn tay áo lên và nhận thấy miếng băng đang quấn chặt cẳng tay: một miếng gạc vải bản rộng thấm đẫm máu bầm. Nhấc miếng gạc ra, anh phát hiện một vết thương hở hoác ngay lập tức chảy máu trở lại. Toàn bộ cẳng tay anh chằng chịt vết cắt. Thật may là những vết thương ấy không sâu. Những vết khía giống như đang vẽ thành... - Một dãy số! Alice thốt lên trong khi giúp anh thấm bớt máu. Khắc trên da anh, con số 141197 nổi bật từ các vết rạch khía rướm máu. Nét mặt Gabriel đã thay đổi. Chỉ trong vài giây, vẻ nhẹ nhõm của tự do vừa tìm lại được đã nhường chỗ cho một bộ mặt lo lắng. - Lại mật mã gì nữa thế này? Câu chuyện bệnh hoạn này bắt đầu làm tôi bực mình rồi đấy! - Dẫu sao thì lần này cũng không phải là một số điện thoại, Alice đoan chắc. - Có lẽ là một ngày tháng chăng? anh cáu kỉnh hỏi trong lúc mặc lại áo khoác. - Ngày 14 tháng Mười một 1997... Có thể lắm chứ. Anh bực bội tìm ánh mắt cô gái trẻ người Pháp. - Nghe này, chúng ta không thể tiếp tục lang thang mà trong người không có cả giấy tờ lẫn tiền bạc thế này. - Vậy anh tính thế nào? Đi báo cảnh sát trong khi anh vừa ăn cắp một chiếc ô tô sao? - Nhưng chuyện này là do cô! - Ô, có dũng khí gớm! Anh đúng là một quý ông chân chính! Anh nên nhớ, với anh thì dễ rồi, lúc nào cũng là lỗi của người khác. Tôi bắt đầu hiểu rõ con người anh rồi đấy. Anh cố gắng không bốc hỏa và từ chối đôi co. - Tôi biết có một hiệu cầm đồ giá cả hợp lý tại Chinatown. Đó là địa chỉ chuyền tay của những nhạc công chơi jazz đôi khi buộc phải cầm đồ nhạc cụ của mình. Cô đánh hơi thấy cái bẫy được giăng sẵn. - Và anh muốn chúng ta để lại đó thứ gì đây? Đàn dương cầm của anh chắc?Anh nở một nụ cười nhăn nhúm rồi nhìn cổ tay của cô nàng dân Paris. - Thứ duy nhất chứng ta có là chiếc đồng hồ đeo tay của cô... Cô giật lùi vài bước. - Chuyện đó thì đừng có mơ, anh bạn thân mến. - Thôi nào, đó là một chiếc Patek Philippe, không phải sao? Chúng ta sẽ thu về ít nhất là... - Tôi đã nói với anh là không rồi còn gì! cô gào lên. Đây là đồng hồ của chồng tôi! - Vậy thì còn gì khác nữa nhỉ? Chúng ta chẳng có gì ngoại trừ chiếc điện thoại di động này. Khi nhìn thấy anh khua khua chiếc điện thoại vừa rút ra khỏi túi, cô thiếu điều nghẹn họng. - Anh vẫn giữ chiếc điện thoại đó sao? Tôi đã bảo anh quăng đi rồi kia mà! - Làm gì có chuyện đó! Chúng ta đã tốn bao nhiêu công sức mới cướp được nó! Và ngay lúc này, đó là tất cả những gì chúng ta có trong tay. Nó vẫn có thể giúp ích cho chúng ta kia mà. - Nhưng người ta có thê lần ra chúng ta trong vòng chưa đầy ba phút nếu chúng ta còn giữ thứ đó! Anh chưa bao giờ đọc truyện trinh thám hay sao? Anh chưa bao giờ tới rạp chiếu phim hả? - Thôi được rồi, cô thư giãn đi nào. Chúng ta đâu phải đang đóng phim.Cô định mở miệng sạc cho anh một trận thì bỗng im bặt. Vẳng theo gió, tiếng hú của một chiếc còi "chuyên dùng cho cớm" khiến đầu óc cô bấn loạn. Cô đứng sững lại vài giây trước những luồng sáng màu đỏ quét ngang đường. Còi hụ vang, đèn hiệu bật sáng, một chiếc xe cảnh sát đang phóng thẳng về phía họ. * * * - Lại đây nào! cô hét lên, túm lấy cánh tay Gabriel. Họ chạy về phía chiếc Mini. Alice lách vào ghế rồi khởi động xe. Phố Van Brunt là phố cụt và chiếc ô tô cảnh sát đang lao tới đã chặn hết đường thoát của họ. Toàn bộ khả năng chạy thoát thật nhanh... Lối thoát duy nhất: cánh cổng lưới sắt dẫn ra kè. Rủi thay, cổng đã bị khóa chặt bằng một sợi xích. Không còn lựa chọn nào khác. - Cài dây an toàn vào đi, cô vừa ra lệnh vừa làm cho lốp xe rít lên ken két.Hai tay bám chặt tay lái, Alice tăng tốc khoảng ba chục mét rồi lao chiếc Mini vào giữa hai cánh cổng. Dây xích đứt tung trong tiếng loảng xoảng của kim loại và chiếc ô tô lao trên những phiến gạch lát của đường xe điện cũ chạy vòng quanh nhà máy cải dụng. Tiu nghỉu, Gabriel hạ cửa kính xuống rồi quăng chiếc điện thoại ra bên ngoài.- Giờ thì hơi muộn rồi đấy! Alice vừa nạt nộ vừa liếc xéo anh với ánh mắt hình viên đạn. Ngồi cách mặt đất vài xăng ti mét, cô gái có cảm giác mình đang lái một thứ đồ chơi. Vói khoảng cách trục hẹp và những bánh xe nhỏ xíu, chiếc Cooper xóc nảy trên mặt nền không bằng phăng và méo mó. Liếc vào gương chiếu hậu. Không ngạc nhiên chút nào, chiếc xe cảnh sát đang bám đuổi họ sát nút dọc theo đường bờ biển. Alice vượt qua các bờ kè thêm chừng trầm mét nữa cho tới khi nhìn thấy một con phố bên tay phải. Cô rẽ luôn vào đó. Mặt đường rải nhựa lại rộng mở và một tuyến đường vừa dài vừa thắng cho phép cô thỏa sức đạp cần tăng tốc để điều khiển xe chạy hết tốc lực ngược lên phía Bắc. Vào giờ này, giao thông trong khu vực thuộc địa phận Brooklyn này bắt đầu đông đúc. Alice vượt liên tiếp hai đèn đỏ, thiếu chút nữa thì gây tai nạn, nhưng chừng ấy chưa đủ để vượt trước chiếc Interceptor của cảnh sát cũng vừa tăng tốc. Chiếc Mini không phải một chuẩn mực về tiện nghi nhưng lại khá bám đường. Được đà, chiếc xe cà tàng phóng hết tốc lực thực hiện một cú vào cua, lốp nghiến ken két, để quay lại trục đường chính của khu phố. Alice nhìn thấy trong gương chiếu hậu khung xe của chiếc Taurus đang tiến lại gần đầy vẻ đe dọa. - Họ đang ở ngay đằng sau chúng ta! Gabriel cảnh báo sau khi ngoái nhìn lại. Alice chuẩn bị tiến vào đường hầm dẫn sang đường cao tốc. Nỗi cám dỗ được hòa vào dòng xe cộ mới lớn làm sao, nhưng trên xa lộ thì động cơ của chiếc Mini sẽ không thể đấu lại động cơ V8 của chiếc Interceptor. Tin ở linh cảm của bản thân, Alice phanh lại và đánh tay lái đột ngột đưa chiếc xe lên đoạn đường dốc dành cho khách bộ hành cho phép nhóm công nhân phụ trách việc tu bổ đi vào phần mái của lối đi ngầm. - Cô đẩy chúng ta vào chỗ chết mất thôi! Gabriel hét lên, ra sức túm chặt dây an toàn. Một tay bám chặt tay lái, tay kia bám trên cần số, Alice chạy xe chừng hai chục mét nữa trên sỏi. Chiếc xe bắt đầu sa lầy thì tới được chỗ đường nối rải bê tông dẫn về phía Cobb Hill. Thiếu chút nữa thì... Liên tiếp những cú ngoặt lái sang trái, sang phải, thay đổi tốc độ. Chiếc xe lao ra một con phố buôn bán hai bên là các cửa hàng cửa hiệu rực rỡ màu sắc: hàng thịt, hàng gia vị Ý, hàng bánh ngọt, và còn có cả một hàng thợ cạo đang lúc tấp nập! Ở đây đông đúc quá. Kẻ bám đuổi vẫn đang theo sát, nhưng Alice tận dụng kích cỡ nhỏ gọn của chiếc Cooper để luồn lách giữa những chiếc xe khác, nhanh chóng rời khỏi con phố quá đỗi đông đúc và trở lại khu vực dân sinh. * * * Lúc này, khung cảnh đã thay đổi. Những cảnh trí đậm chất cồng nghiệp của Red Hook đã nhường chỗ cho một vùng ngoại ô yên bình: ngôi nhà thờ nhỏ xinh, ngôi trường nhỏ xinh và những mảnh vườn nhỏ xinh đằng trước những dãy nhà ốp sành đỏ giống hệt nhau. Bất chấp những đường phố chật hẹp, Alice không giảm tốc mà vẫn lái với bàn chân đặt trên sàn xe, mặt dán vào kính chắn gió, tìm kiếm một ý tưởng. Đằng sau cửa kính, khung cảnh diễu qua với tốc độ chóng mặt. Hộp số của chiếc Mini khá đơn giản, ở tốc độ này, mỗi lần Alice sang số lại nghe vang lên một tiếng rắc khiến người ta nghĩ rằng hộp số sắp long ra đến nơi. Alice đột ngột dừng xe khi họ vừa vượt qua một ngõ nhỏ. Cô cho xe chạy lùi rồi phóng thật nhanh vào ngõ. - Không phải vậy chứ, đây là đường cấm mà! Để mọi sự thêm phần bi đát, một chiếc ô tô hòm giao hàng đã chắn ngang đường khiến giao thông ùn tắc. - Chạy chậm lại nào! Chúng ta sắp đâm vào chiếc xe tải UPS rồi kìa! Lờ tịt lời cảnh báo đó, Alice tăng tốc hon nữa để chiếc Mini được đà lao lên vỉa hè. Vốn đã quá cũ mòn, các thanh giảm sóc rời ra. Alice bấm còi không ngơi tay và vừa liếc vào kính chiếu hậu bên ngoài vừa ra sức mở một lối đi. Không thể bám theo họ, chiếc xe cảnh sát phải dừng lại đối mặt với chiếc xe tải giao hàng. Được vài giây ngơi nghỉ! Vẫn trên vỉa hè, chiếc ô tô nhỏ nhắn ngược lên đầu phố và ngoặt gấp sang phải để trở xuống lòng đường. Họ đang tiến về phía một khu vườn kiểu Anh, bao quanh là hàng rào thép: công viên Cobble Hill Park. - Anh có biết ta đang ở đâu không? Alice hỏi trong lúc lái xe chầm chậm dọc theo hàng rào. Gabriel đọc những tấm biển chỉ đường. - Rẽ phải đi, chúng ta sẽ tới đại lộ Atlantic. Cô làm theo lời anh và họ tới một đường bốn làn: trục đường huyết mạch xuyên từ Đông sang Tây New York từ vùng phụ cận JFK tới tận đôi bờ sông East. Alice lập tức nhận ra tuyến đường. Đôi khi những chiếc taxi vẫn đi đường này để ra sân bay. - Chúng ta đang ở gần cầu Manhattan phải không? - Cầu ở ngay đằng sau chúng ta. Cô vòng xe quay trở lại đường liên bang. Chẳng mấy chốc cô đã nhìn thấy điểm nút giao thông dẫn tới Manhattan. Những cây cột xam xám của cây cầu treo hiện ra từ đằng xa. Hai tòa tháp bằng thép được giằng bởi một mớ nhằng nhịt những dây cáp và thừng chão. - Đằng sau chúng ta kìa! Chiếc xe cảnh sát đã lại theo sát họ. Đã quá muộn để đổi hướng. Đến nước này, chỉ còn hai giải pháp: hoặc đi về phía Long Island hoặc quay trở lại Manhattan. Họ đi theo lối ra 29A để quay lại cầu. Bảy làn đường giao thông, bốn đường tàu điện ngầm và một làn đường dành cho xe hai bánh: cầu Manhattan là một loài chằn tinh nuốt chửng hành khách cùng các xe cộ tại Brooklyn rồi lại khạc ra lên hai bờ sông East. Bỗng chốc lòng đường hẹp lại. Trước khi tới lối lên cầu, phải men theo một đường nối bằng bê tông vẽ nên một vòng lượn dài. Lối này đã đông nghịt, buộc dòng xe cộ phải chạy xe này sát xe kia. Bị cuốn vào đám tắc đường, Alice bật cảnh báo giống như các xe khác. Cảnh sát đang ở đằng sau họ, cách chừng trăm mét. Cảnh sát có còi hiệu cũng vô ích, trên phần đường này, lối đi quá hẹp để các xe có thể dạt sang một bên và nhường lối cho cảnh sát. Nhưng hai kẻ đào tẩu cũng chẳng có cơ may thoát ra.- Hỏng kiểu rồi, Gabriel nhận định. - Không đâu, chúng ta có thể vượt qua cầu. - Cô thử nghĩ mà xem: họ đã có dấu hiệu nhận dạng của chúng ta và lúc này họ còn biết phương tiện di chuyển của chúng ta nữa. Thậm chi nếu có qua được cầu chăng nữa thì các xe tuần tra khác cũng sẽ đón lõng chúng ta ở lối xuống cầu thôi! - Anh thôi cái kiểu cao giọng đó đi, OK? Xin báo để anh biết là chính tại anh mà cảnh sát mới lần ra chúng ta! Tôi đã bảo anh quăng chiếc điện thoại khốn kiếp đó đi cơ mà! - OK, tôi đã làm mọi chuyện rối tinh, anh nhượng bộ. Cô nhắm nghiền mắt vài giây. Cô không nghĩ đám cảnh sát đã nắm được danh tính của họ, và nói cho cùng, chuyện đó nào có quan trọng. Ngược lại, Keyne nói phải: vấn đề chính là chiếc xe họ đang lái. - Anh nói có lý. Khi quan sát thấy đằng xa dòng xe cộ đã thông thoáng hơn một chút, cô tháo dây an toàn rồi mở cửa xe. - Cầm lái đi, cô ra lệnh cho Gabriel. - Gì kia, nhưng... cô bảo sao kia, tôi nói có lý ấy hả? - Chiếc xe chúng ta đang lái không được kín đáo cho lắm. Tôi sẽ thử làm gì đó xem sao. Ngạc nhiên, anh vặn vẹo người để đổi chỗ sang ngồi ghế lái. Trên quãng đường vòng dẫn lên cầu, dòng xe cộ tiếp tục chạy chậm rì. Anh nheo mắt để không mất dấu Alice. Những phương sách của cô gái này không ngừng khiến anh ngạc nhiên. Không thể nắm bắt, cô đang luồn lách giữa đám tắc đường. Rồi anh bỗng phát hoảng khi thấy cô rút khẩu súng từ trong áo khoác ra. Cô đã tiến ngang tầm một chiếc Honda Accord cũ kỹ màu be. Chiếc xe của Ngài Như-tất-cả-mọi-người, anh bỗng hiểu ra. Cô nắm chặt vũ khí trong tay, chĩa họng súng thẳng hướng cửa kính. Người phụ nữ ngồi trên xe bước ra không chút kháng cự. Bà ta bước qua rào chắn và rảo bước xuôi xuống hơn hai chục mét trên bờ dốc cỏ mọc đầy hòng chạy trốn. Gabriel không thể kìm nổi một tiếng huýt sáo thán phục. Anh quay lại. Chiếc xe cảnh sát đang ở phía đối diện, dưới mé thấp của đoạn đường vòng. Ở khoảng cách này, không thể có chuyện họ nhận thấy bất cứ diễn biến nào. Đến lượt mình, anh bỏ lại chiếc Mini rồi tới chỗ chiếc Honda gặp Alice đúng lúc dòng xe cộ lưu thông trở lại. * * * Gabriel nháy mắt với cô và giả bộ than vãn để không khí bớt căng thẳng: - Tôi thì vừa mới bắt đầu gắn bó với chiếc xe Anh nhỏ xinh đó! Trông ra dáng hơn chiếc xe cà tàng này. Nét mặt Alice đanh lại vì căng thẳng. - Thay vì làm trò hề, anh hãy mở hộc đựng đồ trên xe xem nào. Gabriel làm theo và tìm thấy thứ anh thèm nhất từ lúc tính dậy tới giờ: một bao thuốc và bật lửa. - Lạy Chúa lòng lành! anh thốt lên rồi châm một điếu. Anh rít hai hơi thuốc dài rồi đưa điếu thuốc cho Alice. Không buông tay lái, đến lượt cô rít thuốc. Vị hăng hắc của thuốc lá xộc lên tận óc cô. Cô cần ăn thứ gì gấp, nếu không cô sẽ ngất ra đây mất. Cô hạ cửa kinh xe để hít thở chút không khí trong lành. Bên phải, những tòa nhà chọc trời của khu Midtown đang lấp lánh nghìn tia sáng, trong khi bên trái là những khối nhà của khu Lower East Side khiến cô nhớ tới cảnh trí trong những cuốn truyện trinh thám cũ mà Paul, chồng cô, thường nghiến ngấu.Paul... Cô gạt kỷ niệm sang một bên rồi nhìn đồng hồ đeo tay. Đã hơn một giờ trôi qua kể từ khi họ vô thức tỉnh dậy trong công viên. Kể từ đó, cuộc điều tra của họ chưa hề mảy may có tiến triển. Không chỉ là điều bí ẩn vẫn còn đó, mà còn nảy sinh thêm nhiều câu hỏi khác, càng khiến tình huống này thêm mơ hồ. Và thêm nguy hiểm. Công cuộc tìm hiểu của họ phải chuyển sang tốc độ cao hơn và về điểm này thì Gabriel đã không lầm: họ không thể làm gì nhiều nhặn nếu chẳng có xu nào dính túi. - Cho tôi địa chỉ hiệu cầm đồ của anh, cô yêu cầu trong khi chiếc xe chạy thẳng hướng Manhattan. 6 Chinatown Thực chất, già đi không phải là gì khác ngoài việc không còn e sợ quá khứ của bản thân.Stefan ZWEIG Chiếc xe vượt qua phố Bowery rồi rẽ vào phố Mott. Alice tìm thấy một chỗ đậu xe đằng trước một tiệm thảo dược Trung Hoa. Khoảng trống không hề rộng, nhưng cô vẫn thực hiện được một động tác vào chuồng hoàn hảo để lách vào giữa một chiếc xe tải giao hàng và một chiếc xe kiêm cửa hàng bán điểm sấm di động. - Nếu tôi nhớ không nhầm thì tiệm cầm đồ nằm ở phố này, mé dưới kia, Gabriel nói rõ trong lúc sập cửa chiếc Honda. Alice theo anh sát gót sau khi đã chốt cửa xe. Không mất thời gian, họ ngược lên trục đường chính của khu phố. Phố Mott là một con phố chật hẹp đông đúc và hết sức náo nhiệt; một dãy những tòa nhà xây bằng gạch sẫm màu, trang bị cầu thang sắt bên ngoài, xuyên qua Chinatown từ Bắc xuống Nam. Trên vỉa hè là một dãy các cửa hiệu đủ loại với cửa kính chi chít chữ tượng hình: những tiệm xăm mình và châm cứu, những tiệm nữ trang, những tiệm bán đồ hiệu nhái, những tiệm bán gia vị và đồ ăn sẵn trong đó có những sạp hàng bày xác rùa mổ phanh, bên trên lủng lẳng một lố vịt quay treo trên móc.Chẳng bao lâu sau họ đã tới trước một mặt tiền nhà màu xám bên trên có treo một bóng đèn tuýp khổng lồ hình rồng. Biển hiệu Pawn Shop - Buy - Sell - Loan nhấp nháy trong ánh sáng ban ngày. Gabriel đẩy cửa bước vào tiệm cầm đồ. Alice đi theo anh, tiến bước dọc một hành lang u tối dẫn tới một căn phòng rộng kín bưng được chiếu đèn màu xanh lục. Trong phòng phảng phất mùi mồ hôi khen khét. Trên những tầng giá kim loại chất đống hàng trăm thứ bà rằn: ti vi màn hình phẳng, túi xách hàng hiệu, nhạc cụ, thú nhồi rơm, tranh trừu tượng. - Đưa đồng hồ của cô đây, Gabriel nói rồi chìa tay ra. Đứng dựa vào chân tường, Alice ngần ngừ. Lúc chồng cô qua đời, cô đã vứt bỏ, dĩ nhiên là rất chóng vánh, mọi thứ đồ dùng - quần áo, sách vở, đồ gỗ - nhắc cô nhớ đến người đàn ông mà cô từng yêu thắm thiết đến nhường ấy. Giờ thì cô chỉ còn giữ mỗi chiếc đồng hồ đeo tay của anh: một chiếc hiệu Patek Philippe bằng vàng hồng với lịch vạn niên và chu kỳ mặt trăng mà Paul thừa hưởng từ ông nội. Theo dòng năm tháng, chiếc đồng hồ đã trở thành một thứ bùa, một mối liên kết vô hình nối cô với ký ức về Paul. Ngày nào Alice cũng đeo chiếc đồng hồ này, mỗi sáng đều lặp lại những động tác mà chồng cô khi xưa vẫn thường làm: thắt chặt lớp dây da quanh cổ tay, nhấc nút bấm, lau mặt số. Vật này giúp cô nguôi ngoai, đem lại cho cô cảm giác - dĩ nhiên là có phần giả tạo, nhưng giúp cô an tâm biết mấy - rằng Paul vẫn đang đâu đó bên cạnh cô. - Làm ơn đi nào, Gabriel nài nỉ. Họ tiến thẳng về phía một cái quầy được bảo vệ bằng tấm vách kính gân thép, đứng sau quầy là một chàng trai trẻ người châu Á với dáng điệu ái nam ái nữ và vẻ ngoài chải chuốt: kiểu đầu cầu kỳ, quần jean bó, kính gọng to, vest ôm sát mở cúc để lộ chiếc áo phông màu chóe in hình các nhân vật của Keith Haring. - Tôi có thể giúp gì cho hai vị? chàng thanh niên người Trung Quốc vừa hỏi vừa vuốt mượt một lọn tóc ra sau tai. Vẻ kiểu cách của anh chàng đối lập hẳn với bầu không khí cáu bẩn toát ra từ nơi này. Alice cởi chiếc đồng hồ đang đeo trên tay ra với vẻ tiếc nuối rồi đặt nó lên quầy. - Được bao nhiêu? Chủ tiệm cầm đồ vớ lấy chiếc đồng hồ và xem xét kỹ dưới mọi góc độ. - Chị có giấy tờ gì chứng minh chiếc đồng hồ này là hàng xịn không? Giấy chứng nhận hàng chính hãng chẳng hạn? - Tôi không mang theo, cô vừa làu bàu vừa liếc xéo cậu ta. Cậu nhân viên thao tác chiếc đồng hồ có phần thô bạo, chơi đùa với các kim đồng hồ, vặn đi vặn lại nút điều chỉnh. - Dễ hỏng lắm đấy, cô nạt. - Tôi chỉnh ngày giờ thôi mà, cậu ta phân trần mà không buồn ngẩng đầu lên. - Nó vẫn chỉ đứng giờ mà! Thôi, đủ rồi đấy! Cậu có nhận cầm chiếc đồng hồ này hay là không nào? - Tôi nhận cầm với giá 500 đô, anh chàng người châu Á đề nghị. - Cậu điên rồi! Alice nổi đóa và giật lại chiếc đồng hồ từ tay cậu ta. Đây là đồ cổ đấy! Giá trị của nó gấp trăm lần thế! Cô toan rời khỏi tiệm thì Gabriel cầm cánh tay cô kéo lại. - Cô bình tĩnh đi nào! anh vừa ra lệnh vừa kéo cô ra một góc. Chứng ta không phải đang bán chiếc đồng hồ của chồng cô, nhất trí không nào? Chỉ là cầm thôi. Chúng ta sẽ quay lại chuộc ngay khi giải quyết xong mọi chuyện. Cô lắc đầu. - Không có chuyện đó đâu. Chúng ta sẽ tìm ra một giải pháp khác. - Cô thừa biết làm gì có giải pháp nào khác! anh cao giọng, dằn từng tiếng. Nghe này, thời gian gấp lắm rồi. Chúng ta cần bỏ bụng thứ gì đó cho lại sức và chúng ta sẽ chẳng thể làm bất cứ chuyện gì nếu không có tiền. Cứ ra ngoài đợi tôi và để tôi thưong lượng với gã này đi. Alice cay đắng đưa cho anh chiếc đồng hồ rồi rời khỏi tiệm. Vừa ra đến ngoài phố, cô bỗng nghẹn thở vì một mùi gia vị, mùi cá hun khói và mùi nấm lên men mà vài phút trước cô còn chưa ngửi thấy. Những luồng hơi này bỗng khiến cô buồn nôn. Con co giật buộc cô cúi gập người để nôn ra một tia mật vàng chua lòm từ dạ dày trống rỗng. Cảm thấy váng vất, cô vịn tay vào tường, đứng thẳng dậy. Gabriel nói đúng. Nhất định cô phải bỏ bụng gì đó. Cô dụi mắt và nhận ra nước mắt đang giàn giụa trên hai má. Cô cảm thấy chân đứng không vững. Khu phố này khiến cổ tức thở, người cô chỉ chực lả đi. Cô đang trả giá cho những gắng sức đã thực hiện trước đó. Cổ tay cô trầy xước giờ đang nóng ran lên, các thớ cơ đau nhức khủng khiếp. Và nhất là, cô cảm thấy hết sức đơn độc, phiền muộn và rối bời. Những hình ảnh chóp nhoáng chói lòa diễu nhanh trong tâm trí cô. Đoạn liên quan đến chiếc đồng hồ đã làm sống dậy một quá khứ đau thương. Cô nhớ Paul. Nhớ lần đầu tiên họ gặp gỡ. Nhớ niềm thán phục cô đã cảm thấy lúc bấy giờ. Nhớ sự mãnh liệt mà tình yêu mang đến cho cô: một sức mạnh có khả năng triệt tiêu mọi nỗi sợ hãi. Những ký ức trồi lên bề mặt, tuôn trào trong tâm trí cô với sức mạnh của một mạch nước phun. Những ký ức về chuỗi tháng ngày hạnh phúc sẽ không bao giờ còn quay trở lại. Tôi còn nhớ... Ba năm về trước Paris Tháng Mười một 2010 Những trận mưa như trút, những dòng thác nước tuôn hào. - Rẽ phải đi Seymour, đằng kia kìa: phố Saint- Thomas-d'Aquin. Hai chiếc cần gạt nước liên tục di chuyển tới lui cũng hầu như không thể gạt hết dòng thác mưa đang trút xuống Paris. Bất chấp nhũng cú gạt của cần cao su, màn nước trong mờ ngay lập tức đã lênh láng trên bề mặt kính chắn gió đằng trước xe. Chiếc xe dân dụng của chúng tôi đang rời đại lộ Saint-Germain để lao vào trục đường chính chật hẹp dẫn tới quảng trường nhà thờ. Bầu trời đen kịt. Từ tối qua, con dông đã nhấn chìm tất cả. Phía trước chúng tôi, cảnh vật dường như hóa lỏng. Trán tường của nhà thờ đã biến mất trong màn mây. Những chi tiết trang trí và những bức chạm nổi thấp mờ nhạt trong sương mù. Chỉ duy những thiên thần bằng đá khuất trong hốc tường là vẫn còn thấy rõ dưới con mưa như trút. Seymour vòng qua quảng trường nhỏ rồi đậu xe trên khoảng trống dành cho xe giao hàng ngay đối diện với phòng khám phụ khoa. - Chị có nghĩ sẽ mất nhiều thời gian không? - Không quá hai mươi phút, tôi hứa. Bà bác sĩ phụ khoa đã xác nhận cuộc hẹn qua mail rồi. Tôi đã báo trước là mình đến trễ. Seymour kiểm tra các tin nhắn trên màn hình điện thoại. - Nghe này, phía trên kia có một quán bia. Trong lúc đợi chị tôi sẽ đi mua cho mình một chiếc sandwich rồi gọi về sở để xem Savignon và Cruchy đã hỏi cung đến đâu rồi. - OK, nhắn cho tôi biết nếu cậu có tin gì mới nhé. Hẹn lát nữa gặp lại, và cảm ơn đã đi cùng, tôi vừa nói vừa sập cửa xe lại sau lưng. Con mưa rào quất thẳng vào người tôi. Tôi nhấc áo khoác lên che mưa cho khỏi ướt đầu rồi chạy thật nhanh cho hết quãng đường dài khoảng chục mét từ chỗ chiếc xe đến phòng khám. Cô thư ký mất gần một phút để mở cửa cho tôi. Khi rốt cuộc cũng vào đến sảnh, tôi nhận thấy cô ta đang dở cuộc điện thoại. Cô ta ra hiệu xin lỗi tôi rồi chỉ cho tôi đi về phía phòng chờ. Tôi đẩy cửa bước vào rồi ngồi phịch xuống một chiếc ghế bành da. Từ sáng tới giờ, tôi đã trải qua một con ác mộng chỉ vì căn bệnh nhiễm trùng đường tiết niệu quái ác bỗng nhiên phát tác. Một nỗi khổ ải dai dẳng đích thực: những con đau vùng bụng dưới, cứ năm phút lại buồn tiểu một lần, cảm giác rát buốt không thể chịu nổi mỗi lần đi tiểu và thậm chí là trong nước tiểu còn lẫn cả máu. Để thêm phần rắc rối, ta có thể nói rằng chuyện này thực sự rơi đúng vào một ngày không thích hợp. Hai mươi tư giờ qua, đội của tôi đã có mặt trên tất cả các mặt trận. Chúng tôi đang lèo lái để có được lời thú tội của một tên sát nhân trong khi chẳng có bằng chứng chắc chắn chống lại hắn, và lại vừa vướng vào một vụ án mới: một phụ nữ bị giết ngay tại nhà, trong một tòa nhà bình dị nằm trên phố Faisanderie thuộc quận 16. Một giáo viên mầm non trẻ tuổi, bị siết cổ dã man bằng một đôi tất da chân. Bây giờ là 15 giờ. Seymour và tôi từ 7 giờ sáng đã có mặt tại hiện trường. Chúng tôi cũng phụ trách luôn việc điều tra hàng xóm láng giềng của nạn nhân. Tôi còn chưa ăn gì, tôi thấy nôn nao và có cảm giác như đang đi tiểu ra những lưõi dao lam. Tôi vớ lấy hộp phấn lăn lóc trong túi xách và soi gương để chỉnh trang lại đầu tóc cho gọn gàng. Mặt tôi trông như ma cà rồng, quần áo thì ướt sũng và tôi có cảm giác người mình đang bốc mùi hôi rình. Tôi hít thở sâu để cảm thấy yên lòng. Đây không phải lần đầu tiên tôi chịu đựng những con đau kiểu này. Dù cho nó rất kinh khủng nhưng tôi vẫn biết rằng nó rất dễ chữa lành: một liều kháng sinh và một ngày sau, mọi triệu chứng sẽ biến mất. Tôi đã nằn nì hỏi mua ở hiệu thuốc trước nhà nhưng dược sĩ nhất định không muốn bán cho tôi bất kỳ loại thuốc gì nếu không có đơn thuốc.- Cô Schäfer phải không? Một giọng đàn ông buộc tôi phải rời mắt khỏi hộp phấn để nhìn về phía chiếc áo blu hắng. Thế chỗ bà bác sĩ phụ khoa của tôi là một anh chàng điển trai với làn da trắng, khuôn mặt vuông chữ điền với mái tóc vàng gợn sóng được đôi mắt biết cười thắp sáng. - Tôi là bác sĩ Paul Malaury, anh chàng tự giới thiệu trong lúc chỉnh cặp kính đồi mồi. - Nhưng tôi đã đặt hẹn với bác sĩ Poncelet cơ mà nhỉ... - Đồng nghiệp của tôi đang đi nghỉ. Chị ấy hẳn đã báo trước cho cô biết việc tôi đến làm thay. Tôi cáu tiết. - Không hề, ngược lại thì có: bà ấy đã viết mail xác nhận sẽ gặp tôi. Tôi rút điện thoại ra rồi cho hiển thị bức thư điện tử ra màn hình để làm bằng chứng. Trong lúc đọc lại thư, tôi nhận ra rằng gã trai kia nói đứng: trước đó tôi đã đọc lướt qua thư nhưng chỉ chú ý đến đoạn xác nhận cuộc hẹn, chứ không chú ý đến thông báo đi nghỉ. Khỉ thật. - Cô vào đi, anh ta nhẹ nhàng đề nghị. Tôi vẫn còn lưỡng lự vì bối rối. Tôi hiểu đàn ông quá rõ nên chẳng bao giờ muốn có một bác sĩ phụ khoa là đàn ông. Tôi vẫn luôn thấy dường như thật hiển nhiên khi một phụ nữ hiểu được một phụ nữ khác rõ hơn. Vấn đề tâm lý, nhạy cảm, riêng tư. Hết sức cảnh giác, tuy nhiên tôi vẫn theo anh ta vào phòng khám, quyết chí không kéo dài cuộc gặp. - Tốt lắm, tôi nói. Tôi vào đề luôn nhé bác sĩ: tôi chỉ cần một loại kháng sinh để chữa chứng viêm bàng quang. Bác sĩ Poncelet thường cho tôi một liều kháng khuẩn duy nhất, loại... Anh ta nhướng mày nhìn tôi và cắt ngang màn trường thoại của tôi: - Thứ lỗi cho tôi, nhưng cô không định kê đơn thuốc thay tôi đấy chứ? Cô sẽ hiểu là tôi không thể kê một loại kháng sinh cho cô chừng nào còn chưa khám. Tôi cố kìm nén cơn giận nhưng hiểu rằng mọi chuyện sẽ phức tạp hơn dự kiến.- Tôi đang giải thích để anh hiểu là tôi mắc chứng viêm bàng quang mãn tính. Không cần thực hiện chẩn đoán nào khác đâu. - Dĩ nhiên, thưa cô, nhưng ở đây tôi mới là bác sĩ. - Thì quả đúng vậy, tôi không phải bác sĩ. Tôi là cảnh sát và công việc đang ngập đầu ngập cổ! Thế nên anh đừng có làm tôi mất thời gian với một xét nghiệm ngu ngốc sẽ kéo dài hàng giờ đồng hồ! - Ấy thế mà đó chính là chuyện sắp diễn ra đấy, anh ta nói rồi chìa cho tôi một que thử nước tiểu. Và tôi cũng sẽ hướng dẫn cô tới một phòng thí nghiệm để tiến hành kiểm tra tế bào vi khuẩn. - Anh ngoan cố nhỉ? Đưa tôi mấy loại kháng sinh này, và chúng ta xong chuyện! - Nghe này, cô hãy biết điều và thôi cư xử như một con nghiện đi! Cuộc đời này đâu chỉ có thuốc kháng sinh. Tôi bỗng cảm thấy vừa mệt mỏi vừa ngu ngốc. Một con đau nhói nữa giằng xé phần bụng dưới. Con mệt mỏi tích tụ từ khi tôi gia nhập đội Hình sự trào dâng trong tôi như dung nham của một ngọn núi lửa. Quá nhiều đêm thức trắng, quá nhiều bạo lực và cảnh tượng ghê rợn, quá nhiều bóng ma không tài nào xua đi được. Tôi cảm thấy mình đã sức cùng lực kiệt, trống rỗng. Tôi cần ánh nắng, cần một chầu tắm nước nóng, một kiểu đầu mới, một tủ quần áo nữ tính hon và hai tuần nghỉ ngơi xa Paris. Xa bản thân. Tôi nhìn gã trai, thanh lịch, trau chuốt, bình thản. Gương mặt điển trai của anh ta tươi tắn, nụ cười ấm áp, cái bĩu môi duyên dáng. Mớ tóc vàng đến khó tin và xoăn thành lọn khiến tôi phẫn nộ. Ngay cả những nếp nhăn nhỏ quanh mắt anh ta cũng dễ thương. Còn tôi, tôi cảm thấy mình xấu xí và ngu xuẩn. Một con ngốc lố bịch đang trình bày với anh ta về những rắc rối gặp phải với cái bàng quang. - Mà cô có uống đủ nước không nhỉ? anh ta nói tiếp. Cô có biết rằng phân nửa nạn nhân của chứng viêm bàng quang có thể được chữa khỏi chỉ đơn giản nhờ uống đủ hai lít nước mỗi ngày? Tôi không còn lắng nghe anh ta nữa. Đó là sức mạnh của tôi: cơn chán nản của tôi chưa bao giờ kéo dài quá lâu. Giống như những ánh đèn chóp, những hình ảnh bùng nổ trong đầu tôi. Xác người phụ nữ nơi hiện trường tội ác sáng nay: Clara Maturin, bị siết cổ dã man bằng một đôi tất da chân chất liệu ni lông. Đôi mắt chị ta lồi ra, gương mặt sững lại trong nỗi kinh hãi. Tôi không có quyền lãng phí thời gian. Không có quyền để bản thân lơi là. Tôi phải tóm cổ tên sát nhân trước khi hắn lại ra tay lần nữa. - Thế còn phương pháp điều trị bằng lá thuốc thì sao? anh chàng tóc vàng bảnh trai hỏi. Cô có biết các loài cây trồng cũng có thể trở nên hết sức hữu ích, đặc biệt là nước ép man việt quất. Bằng một động tác vừa đột ngột vừa thô bạo, tôi vòng ra đằng sau bàn làm việc của bác sĩ và giật một tờ mới tinh từ cuốn sổ chuyên để kê đơn thuốc.- Anh nói đúng, tôi sẽ tự mình kê đơn thuốc! Anh chàng kinh ngạc đến độ không phác nổi cử chỉ nào để ngăn tôi lại. Tôi quay gót rồi rời đi sau khi đóng sầm cánh cửa. * * * Paris, quận 10. Một tháng sau tháng Mười hai 2010 7 giờ sáng. Chiếc Audi chạy xuyên màn đêm rồi lao ra quảng trường Colonel Fabien. Anh sáng của thành phố phản chiếu trên mặt tiền bề thế bằng bê tông và kính hình lưọn sóng của trụ sở đảng Cộng sản. Tròi lạnh như Bắc Cực. Tôi chỉnh hệ thống sưởi lên mức cao nhất rồi tiến vào bùng binh để bắt kịp phố Louis-Blanc. Tôi bật radio trong khi vượt kênh Saint-Martin. - Đài France Info, bây giờ là 7 giờ, bản tin được Bernard Thomasson giới thiệu tới quý vị. - Chào Florence, chào quý vị. Vào ngày trước đêm Giáng sinh, vẫn là những hiện tượng thời tiết xấu có nguy cơ độc chiếm tin tức thời sự ngày hôm nay. Quả nhiên, đài khí tượng thủy văn quốc gia vừa phát đi một báo động cam vì e ngại vào cuối buổi sáng Paris sẽ bị ảnh hưởng bởi một cơn bão tuyết. Cơn bão này sẽ khiến giao thông khu vực Ȋle-de- France bị rối loạn nghiêm trọng... Đêm Giáng sinh khốn kiếp. Những nghĩa vụ gia đình khốn kiếp. May mà mỗi năm chỉ có một dịp Giáng sinh. Nhưng đối với tôi, mỗi năm một lần vẫn là quá nhiều. Vào giờ này buổi sáng, Paris vẫn còn chưa phải đối diện với con bão sắp kéo đến, nhưng cũng chỉ được ít thời gian nữa thôi. Tôi tranh thủ dòng xe cộ thông thoáng để phóng thật nhanh tới trước ga Đông rồi tiến vào đại lộ Magenta, lao hết tốc lực xuyên qua địa phận quận 10 từ Bắc xuống Nam. Tôi ghét mẹ, tôi ghét em gái, tôi ghét em trai. Và tôi căm thù những cuộc gặp mặt hằng năm lúc nào cũng biến thành ác mộng này. Berenice, em gái tôi, hiện sống tại London, nơi con bé điều hành một galery nghệ thuật nằm trên phố New Bond. Fabrice, anh trên Berenice, hiện làm việc trong ngành tài chính tại Singapore. Mỗi năm họ lại cùng vợ chồng con cái tới nghỉ hai ngày tại biệt thự của mẹ tôi gần Bordeaux, để mừng lễ Giáng sinh trước khi bay tới những địa điểm mới lạ và ngập tràn ánh nắng: quần đảo Maldives, đảo Maurice, quần đảo Caribe. (...) Bison Futé cũng cực lực cảnh báo tránh sử dụng ô tô riêng trong địa phận Paris cũng như các quận giáp ranh phía Tây. Một biện pháp phòng ngừa dường như rất khó áp dụng trong ngày trước đêm Giáng sinh này. Tòa thị chính cho thấy bản thân họ cũng hết sức lo lắng khi e sợ tuyết sẽ được tiếp nối bằng váng băng ngay từ đầu buổi tối, khi nhiệt độ trở nên bất lợi. Phố Réaumur, rồi phố Beaubourg: tôi xuyên qua phía Tây khu Marais rồi tới trước quảng trường Tòa thị chính đang oằn xuống dưới những đèn đuốc trang trí. Đằng xa, bóng hai tòa tháp sừng sững và những mũi tên của nhà thờ Đức Bà nổi bật trên nền trời đêm. Mỗi năm, hầu như chỉ với một vài biến tấu, cùng một vở kịch ấy được trình diễn trong vòng hai ngày: mẹ tôi ca ngợi thành công của Berenice và Fabrice trong việc lựa chọn cách sống và sự nghiệp của hai người ấy. Mẹ sẽ ngây ngất trước lũ nhóc nhà họ, khen ngọi vì thành tích học tập và cung cách gia giáo của chúng. Những cuộc trò chuyện luôn xoay quanh cùng những chủ đề sau: nhập cư, chuyện thuế khóa gây bực mình, french bashing. Đối với mẹ, đối với họ, tôi không tồn tại. Tôi không phải họ hàng thân thích gì của họ. Tôi là một dạng con gái bà mụ nặn nhầm, không duyên dáng thanh lịch, cũng chẳng lấy gì làm ưu tú. Một nữ công chức bất đắc chí. Tôi là con gái của bố tôi. Tình hình lưu thông khó khăn có nguy cơ mở rộng tới một vài tuyến tàu điện ngầm và tàu liên vùng. Vận tải hàng không cũng vấp phải vấn đề tương tự. Các sân bay của Paris đang đối mặt với một ngày đen tối, có tới hàng nghìn hành khách buộc phải chôn chân nơi mặt đất. Ngược lại, đợt tuyết rơi dày đặc này hẳn đã chừa ra vùng thung lũng sông Rhône cũng như khu vực quanh biển Địa Trung Hải. Tại Bordeaux, Toulouse và Marseille, nhiệt độ dao động từ 15 °C đến 18°C. Trong khi tại Nice và Antibes, quý vị có thể dùng bữa trưa ngoài sân hiên, vì quả thật nhiệt độ chỉ ở mức 20°C. Chán ngấy cảnh bị những kẻ ngu ngốc này phán xét. Chán ngấy vì những lời nhận xét của họ vừa dễ đoán vừa nhai đi nhai lại: "Vẫn chưa có bồ hả?" "Vần chưa có bầu sao..." "Tại sao lại ăn mặc như con dở thế kia?" "Tại sao vẫn sống cái kiểu ấu trĩ thế?" Chán ngấy những bữa ăn chay để giữ dáng và đảm bảo sức khỏe của họ: những loại hạt dành cho lũ chim, cây diêm mạch kinh tởm, những miếng đậu phụ, món súp lơ nghiền. Tôi lái xe vào phố Coutellerie để băng qua kè theo lối cầu nhà thờ Đức Bà. Nơi này thật kỳ diệu: bên trái là những tòa nhà lịch sử của bệnh viện Hôtel-Dieu, bên phải là mặt tiền của tòa Conciergerie và nóc của tháp Đồng hồ.Mỗi chuyến quay trở về ngôi nhà của gia đình lại khiến tôi có cảm giác đang lộn lại quãng thời gian ba mươi năm về trước, khơi lại những vết thương thời thơ ấu và những rạn nứt của tuổi thiếu niên, làm sống dậy những cuộc xung đột giữa các anh chị em trong cùng một gia đình, làm sống dậy một nỗi cô đơn tuyệt đối. Năm nào tôi cũng tự nhủ đây là lần cuối, và năm nào tôi cũng lại sa đà quen thói. Mà không thực sự hiểu tại sao. Một phần trong tôi xúi giục tôi cắt đứt vĩnh viễn mối quan hệ, nhưng phần kia lại thiết tha với việc trông thấy mặt họ vào cái ngàv tôi sẽ tới, ăn vận như công chúa, sánh vai cùng một anh chàng hoàn hảo dưới mọi góc độ. Tả ngạn. Tôi chạy xe dọc bờ kè, rồi rẽ trải vào phố Saints-Pères. Tôi cho xe chạy chậm lại, bật đèn hiệu rồi đỗ xe tại góc phố Lille. Tôi đóng sập cửa xe, xỏ chiếc băng tay công vụ màu cam rồi bấm chuông điện thoại nội bộ của một tòa nhà vừa được hoàn thiện mặt ngoài. Tôi giữ ngón cái ấn trên nút chuông chừng ba mươi giây. Ngay từ đầu tuần, ý tưởng này đã hình thành trong đầu và yêu cầu tôi tiến hành vài tìm kiếm. Tôi biết mình đang làm một việc điên rồ nhưng ý thức được việc đó cũng chưa đủ ngăn tôi lại. - Vâng, có chuyện gì thế? một giọng ngái ngủ hỏi. - Paul Malaury phải không? Cảnh sát tư pháp đây, vui lòng mở cửa. - Ơ nhưng... - Cảnh sát đây, mau mở cửa đi! Một trong những cánh cửa nặng nề nơi lối vào bật mở kèm tiếng cạch. Tôi bỏ qua thang máy để leo thang bộ bốn bậc một lên tận tầng tư rồi gõ cửa. - Được rồi, được rồi! Người đàn ông ra mở cửa cho tôi đúng là anh chàng bác sĩ phụ khoa điển trai của tôi, nhưng sáng nay trông anh chàng bối rối ra mặt: quần đùi, áo phông cũ, mớ tóc vàng xoăn chẳng thành hàng lối, gương mặt lộ rõ vẻ ngạc nhiên, mệt mỏi và lo lắng. - Ê này, nhưng tôi biết cô, cô là... - Đại úy Schäfer, đội Hình sự. Anh Malaury, tôi thông báo để anh biết anh đã bị quản thúc kể từ giờ phút này, 7 giờ 16 phút sáng thứ Năm ngày 24 tháng Mười hai. Anh có quyền... - Xin lỗi, nhưng đây chỉ có thể là một sự nhầm lẫn! Tôi bị quản thúc vì lý do gì kia chứ? - Giả mạo và sử dụng đồ giả mạo. Vui lòng theo tôi. - Đây là một trò đùa chăng? - Đừng buộc tôi phải gọi các đồng nghiệp của tôi lên đây, anh Malaury. - Ít ra tôi cũng có thể mặc quần âu và áo sơ mi chứ? - Vậy thì làm ơn nhanh lên cho. Cứ đem theo một chiếc áo vest dày nhé, hệ thống sưởi chỗ chúng tôi đang bị hỏng. Trong khi anh chàng mặc quần áo, tôi liếc quanh nội thất bên trong. Căn hộ phong cách Haussmann đã được sửa sang thành một dạng xưởng với lối trang trí tinh giản. Người ta đã dỡ bỏ vài tấm vách, tẩy trắng sàn lát sọc chữ chi, nhưng vẫn giữ lại hai lò sưởi bằng cẩm thạch và phào tường. Đằng sau một cánh cửa, tôi nhìn thấy một cô gái tóc hung tuổi chừng đôi mươi, quấn quanh người tấm chăn, đang nhìn tôi với đôi mắt tròn xoe. Sự chờ đợi kéo dài tưởng chừng vô tận. - Mau lên thôi, Malaury! tôi vừa đập cửa vừa gọi to. Đâu cần đến mười phút để mặc quần chứ! Anh chàng bác sĩ rời khỏi phòng tắm, quần áo chỉnh tề. Không thể chối cãi là anh chàng đã tìm lại được vẻ đẹp trai lồng lộng của mình và mặc chiếc áo vest vải tweed, chiếc quần âu kẻ ô, áo khoác đi mưa và đi đôi giày cao cổ đánh xi. Anh chàng nói vài lời nhằm trấn an cô nàng tóc đỏ rồi theo tôi ra cầu thang.- Các đồng nghiệp của cô đâu? anh chàng hỏi khi đã xuống đến phố. - Tôi đi một mình thôi. Dù sao thì tôi cũng sẽ không huy động đội can thiệp của cảnh sát quốc gia để lôi anh ra khỏi giường đâu... - Nhưng đây đâu phải xe cảnh sát nhỉ? - Đây là một chiếc xe công vụ đã được giả trang. Đừng có nhiều chuyện nữa và lên ngồi ghế trước đi nào. Anh chàng lưỡng lự, rồi cuối cùng cũng ngồi vào ghế cạnh tôi. Tôi khởi động xe rồi chúng tôi im lăng chạy xe trong lúc ngày bắt đầu rạng. Chúng tôi xuyên qua quận 6 và Montparnasse trước khi Paul quyết định thắc mắc: - Được rồi, nghiêm túc mà nói thì trò xiếc này là gì vậy? Cô thừa biết hồi tháng trước tôi đã có thể kiện cô vì ăn trộm đơn thuốc! Cô phải cảm ơn nữ đồng nghiệp của tôi: chính chị ấy đã thuyết phục tôi từ bỏ ý định bằng cách tìm cho cô cả tá những tình tiết giảm nhẹ. Nói thật với cô là thậm chí chị ấy đã dùng từ "gàn dở". - Tôi cũng vậy, tôi đã tìm hiểu thông tin về anh, Malaury ạ, tôi vừa nói vừa rút từ trong túi áo ra những tài liệu đã được sao chụp. Anh chàng giở tập giấy ra và vừa bắt đầu đọc vừa nhướng mày. - Đây chính xác là cái gì thế? - Những bằng chứng cho thấy anh đã lập những chứng nhận tạm trú giả cho hai nữ công dân Mali vốn không có giấy tờ để họ có thể đệ đơn xin thẻ cư trú. Anh chàng tìm cách chối. - Thế thì sao? Đoàn kết, bác ái mà bị coi là tội ác sao? - Về mặt pháp luật, người ta gọi hành động đó là "giả mạo và sử dụng đồ giả mạo". Hình phạt lên tới ba năm tù giam và nộp 45.000 euro. - Tôi cứ nghĩ trong trại giam đang thiếu chỗ kia đấy. Vả lại đội Hình sự chuyển sang phụ trách những vụ việc kiểu này từ khi nào vậy? Chúng tôi đang không còn xa Montrouge mấy nữa. Tôi cắt ngang đại lộ Thống chế, men theo một đoạn đường vành đai từ quốc lộ A6 để tới "Aquitaine", tuyến đường nối Paris với Bordeaux. Khi nhận ra ngã tư hai tầng Wissous, Paul bắt đầu lo lắng thực sự. - Nhưng cô đang đưa tôi đi đâu vậy? - Tói Bordeaux. Tôi chắc chắn là anh khoái rượu vang... - Không, cô đang đùa chứ gì! - Chúng ta sẽ đón Giáng sinh ở nhà mẹ tôi. Anh sẽ được tiếp đón nồng hậu, rồi anh sẽ thấy. Anh chàng ngoái lại, nhìn xem chúng tôi có bị theo dõi không, cố gắng đùa cợt để tự trấn an. - Tôi thấy rồi: trong xe có camera. Cảnh sát các cô đang tiến hành một chưong trình camera giấu kín chứ gì? Vừa tiếp tục chạy xe, tôi vừa dành vài phút để mạnh dạn giải thích với anh chàng phi vụ mặc cả mà tôi ấp ủ trong đầu: tôi sẽ bỏ qua chuyện anh chàng làm chứng nhận tạm trú giả và đổi lại, anh chàng nhận lời giả làm chồng sắp cưới của tôi trong dịp Giáng sinh. Anh chàng ngồi lặng đi một lúc và nhìn tôi không rời mắt. Thoạt tiên anh chàng hết sức nghi ngờ cho đến khi chợt nhận ra: - Ôi Chúa ơi, điều tệ nhất chính là cô không hề đùa, phải vậy không? Cô thực sự đã dựng lên cái bẫy này vì không đủ can đảm tự chịu trách nhiệm về những lựa chọn trong đời mình trước gia đình. Chà chà! Cô không cần tới gặp bác sĩ phụ khoa đâu, mà là bác sĩ tâm lý mới đúng. Tôi cam chịu đòn tấn công, và sau vài phút thinh lặng, tôi quay trở lại mặt đất. Dĩ nhiên anh chàng nói đúng. Tôi chỉ là một kẻ hèn nhát. Vả chăng, đúng ra thì tôi đang chờ đợi điều gì nhỉ? Mong anh chàng sẽ thích thú tham gia vào trò chơi đóng giả nho nhỏ của tôi sao? Bỗng nhiên tôi cảm thấy mình đúng là đại ngốc. Đó là điểm mạnh và cũng là điểm yếu của tôi: nghe theo bản năng hơn là lý trí. Chính nhờ bản năng mà tôi đã giải quyết được vài vụ điều tra khó nhằn, thành tích ấy giúp tôi gia nhập đội Hình sự ở tuổi ba mươi tư. Nhưng đôi khi những linh cảm của tôi trật lất và khiến tôi chệch hướng. Giờ thì tôi thấy ý tưởng giới thiệu anh chàng này với gia đình vừa vô duyên vừa chẳng ổn tẹo nào. Mặt đỏ lựng vì xấu hổ, tôi đầu hàng: - Anh nói đúng. Tôi... tôi xin lỗi. Tôi sẽ vòng xe lại rồi đưa anh về nhà.- Trước tiên cô gặp trạm xăng nào thì dừng lại đã. Xe cô sắp cạn xăng rồi kìa. * * * Tôi đổ đầy bình xăng. Các ngón tay dính nhớp và hơi xăng khiến đầu óc tôi quay cuồng. Khi quay về xe, tôi mới phát hiện ra Paul Malaury không còn ngồi trong xe nữa. Tôi ngẩng lên và nhìn thấy anh chàng qua cửa kính của khu nhà hàng, đang vẫy vẫy ra hiệu tôi qua đó. - Tôi gọi cho cô một tách trà rồi đấy, anh chàng nói vậy rồi mòi tôi ngồi.- Chọn sai bét, tôi chỉ uống cà phê thôi. - Chuyện ấy quá đơn giản, anh chàng mỉm cười rồi đứng dậy để ra máy tự động lấy cà phê cho tôi. Ở gã trai này có điều gì đó khiến tôi lúng túng: nét điềm đạm, hết sức phong nhã kiểu Anh, cung cách giữ đẳng cấp trong mọi hoàn cảnh. Hai phút sau anh chàng trở lại, đặt trước mặt tôi một cốc cà phê và chiếc bánh sừng bò bọc trong khăn giấy. - Không thể ngon bằng đồ của tiệm Pierre Hermé, nhưng cũng không tệ như vẻ bề ngoài, anh chàng cam đoan nhằm làm không khí bớt căng thẳng. Như để nhấn mạnh lời đã nói, anh chàng đánh chén ngon lành chiếc bánh ngọt rồi cố nén ngáp. - Phải nói là cô đã lôi tôi ra khỏi giường từ lúc 7 giờ! Đúng cái hôm tôi có cơ hội ngủ nướng! - Tôi đã bảo sẽ đưa anh về còn gì. Anh vẫn còn thời gian để quay vào giường với tình nương. Anh chàng nhấp một ngụm trà rồi hỏi: - Phải thú thực là tôi không hiểu cô lắm: tại sao lại muốn đón lễ Giáng sinh cùng những người rõ ràng là khiến cô khó chịu hơn là vui thích? - Bỏ qua chuyện đó đi, Malaury. Như anh đã nói rồi đấy, anh đâu phải bác sĩ tâm lý. - Thế còn bố cô, ông ấy nghĩ sao về chuyện này? Tôi gạt phăng câu hỏi đó. - Bố tôi mất lâu rồi. - Đừng có bịa chuyện với tôi nữa đi! anh chàng thốt lên, chìa cho tôi chiếc smartphone. Tôi nhìn màn hình trong khi đã biết trước sẽ nhìn thấy gì trên đó. Trong khi tôi đổ xăng, Malaury đã kết nối điện thoại với Internet. Không chút ngạc nhiên là những tìm kiếm đó đã khiến anh chàng đọc được loạt tin tức thời sự cách đây vài tháng có nhắc đến thất bại của bố tôi. Cựu "siêu cảnh sát" Alain Schäfer bị kết án hai năm tù giam. Cách đây ba năm, vụ bắt giữ ông quả thực đã gây nên một cơn địa chấn trong giới cảnh sát tại Lille. Ngày 2 tháng Chín 2007, đại tá cảnh sát Alain Schäfer bị lực lượng thanh tra cảnh sát IGS bắt giữ tại nhà riêng vào lúc sáng sớm, ông bị tra hỏi về những mối quan hệ cá nhân. Sau một cuộc điều tra kéo dài nhiều tháng, lực lượng thanh tra nội bộ ngành đã đưa ra ánh sáng sự tồn tại của một hệ thống hối lộ quy mô lớn và biển thủ do vị quan chức cấp cao của lực lượng cảnh sát tư pháp phía Bắc này thiết lập. Vốn là mẫu cảnh sát kiểu cũ, đáng kính, thậm chí là được đồng nghiệp ngưỡng mộ, Alain Schäfer thừa nhận "đã vượt quá giới hạn" khi duy trì những mối quan hệ thân thiết với nhiều gương mặt quen thuộc trong giới băng đảng giang hồ. Đặc biệt, đối tượng đã sa đọa tới mức biển thủ ma túy và cần sa trước khi đưa vào niêm phong để trả công cho những kè cung cấp tin. Hôm qua, tòa tiểu hình Lille đã công nhận viên cựu cảnh sát phạm tội "hối lộ thụ động", "cấu kết với kẻ gian", "buôn bán chất ma túy" và "vi phạm bí mật nghề nghiệp"... Mắt tôi mờ đi và nhanh chóng rời khỏi màn hình. Tôi thuộc lòng những chuyện ô nhục liên quan đến bố tôi. - Cuối cùng anh cũng chỉ là một tên nhóc thọc mạch! - Chính miệng cô lại nói ra điều đó sao? Cô cho phép đi, mà chính bệnh viện mới xem nhẹ lòng từ tâm... - Được rồi, bố tôi đang ngồi tù, có sao không? - Có lẽ cô nên tới thăm ông ấy nhân dịp Giáng sinh, không phải sao? - Lo chuyện của anh đi! Anh chàng vẫn cố nài. - Tôi có thể hỏi cô ông ấy đang bị giam ở đâu không? - Chuyện đó thì có liên quan gì đến anh? - Ở Lille chăng? - Không, ở Luynes, gần Aix-en-Provence. Vợ thứ ba của ông ấy sống ở đó.- Tại sao cô không tới thăm ông ấy nhỉ? Tôi thở dài và cao giọng: - Bởi vì tôi không nói chuyện với ông ấy nữa. Chính ông ấy đã khiến tôi muốn theo đuổi cái nghề này. Đấy là hình mẫu lý tưởng trong mắt tôi, người duy nhất khiến tôi tin tưởng, và ông ấy đã phản bội lại niềm tin đó. Ông ấy đã nói dối tất cả mọi người. Tôi sẽ không đời nào tha thứ cho ông ấy. - Bố cô có giết ai đáu. - Anh không thể hiểu được đâu. Tôi tức tối đứng bật dậy, đã quyết tâm bước ra khỏi cái bẫy tự mình chui đầu vào. Anh chàng cầm cánh tay tôi giữ lại. - Cô có muốn tôi đi cùng không? - Nghe này, Paul, anh tử tế lắm, lịch sự lắm và rõ ràng là môn đồ của đức Đạt Lai Lạt Ma, nhưng chúng ta đâu có quen biết nhau. Tôi đã gây phiền phức cho anh, tôi xin lỗi vì chuyện đó. Nhưng cái ngày tôi muốn gặp lại bố mình, tôi cũng cóc cần anh có mặt, OK? - Cô muốn sao cũng được mà. Tuy nhiên, lễ Giáng sinh, dịp hội hè này... có lẽ chính là thời điểm thích họp, không phải sao? - Anh làm tôi bực mình rồi đấy. Chúng ta đâu phải đang đóng phim Disney. Anh chàng khẽ nở một nụ cười. Dù không hề muốn, tôi vẫn nghe thấy mình đang lưu ý anh chàng: - Kể cả có muốn thì tôi cũng không thể. Ta không thế cứ thế xông vào phòng tiếp khách của một nhà tù. Cần phải có giấy phép, cần phải... Anh chàng không bỏ lỡ cơ hội. - Cô là cảnh sát kia mà. Có lẽ cô có thể thu xếp chuyện đó qua điện thoại.Cuối cùng tôi cũng tham gia trò chơi của anh chàng và quyết định tiến hành phép thử. - Chúng ta nói chuyện nghiêm túc nhé, Aix-en-Provence cách đây bảy giờ chạy xe. Với cơn bão tuyết đang chuẩn bị trút xuống Paris, chúng ta sẽ không thể quay về thủ đô được đâu. - Thôi nào, chúng ta sẽ thử xem sao! anh chàng lên tiếng. Để tôi cầm lái.Một ngọn lửa thắp lên trong lồng ngực tôi. Cảm thấy bất ổn, tôi ngần ngừ vài giây. Tôi muốn nhượng bộ ý tưởng điên rồ này, nhưng lại không chắc về động cơ của bản thân. Tôi thực sự mong muốn gặp lại bô hay chỉ hào hứng với viễn cảnh được trải qua vài tiếng đồng hồ với gã trai xa lạ này, người rõ ràng sẽ không phán xét tôi dù tôi có nói gì có làm gì chăng nữa? Tôi tìm kiếm đôi mắt anh chàng và yêu mến những gì nhìn thấy trong đôi mắt ấy. Tôi ném chùm chìa khóa xe cho Paul, anh chàng liền bắt gọn. * * * Évry, Auxerre, Beaune, Lyon, Valence, Avignon... Chúng tôi theo đuổi hành trình siêu thực men theo tuyến đường Mặt trời. Lần đầu tiên kể từ rất lâu rồi, tôi mới lơ là cảnh giác với một gã đàn ông. Tôi để mặc anh chàng; tôi để anh chàng chở đi. Chứng tôi nghe những ca khúc trên radio, ăn những miếng bánh bơ nho nhỏ và bánh quy Pépito. Vụn bánh và nắng ấm trải khắp nơi. Như một ấn tượng ban đầu về những kỳ nghỉ, về Provence, về Địa Trung Hải. về tự do. Tất cả những gì tôi cần. * * * Paul thả tôi xuống trước lối vào nhà tù Luynes lúc 13 giờ 30. Suốt quãng đường đi, tôi đã gạt sang bên ý nghĩ về cuộc chạm trán lần này với bố. Đứng im trước mặt tiền khô khan giăng đầy camera giám sát, tôi không thể thoái lui nữa rồi. Nửa tiếng sau tôi trở ra, mắt ngân ngấn nước, nhưng nhẹ nhõm. Vì đã gặp lại bố. Vì đã nói chuyện với bố. Vì đã gieo được hạt giống hòa giải mà tôi cứ ngỡ không thể nữa. Bước đầu tiên này rõ ràng chính là điều tốt đẹp nhất mà tôi từng làm kể từ nhiều năm nay. Và có được điều ấy là nhờ một gã trai mà tôi vừa mới quen. Người đã biết cách nhìn ra ở tôi điều gì đó khác với những gì tôi muốn trưng ra cho gã thấy. Tôi không biết anh đang che giấu điều gì, anh Malaury ạ, phải chăng anh cũng gàn dở giống tôi hoặc đơn giản là một gã trai không giống những gã trai khác, nhưng dù sao cũng cảm ơn anh. Cất được một gánh nặng, tôi ngủ thiếp ngay trên xe. * * * Paul mỉm cười với tôi. - Tôi đã nói với cô là bà tôi có một căn nhà bên bờ biển Amalfi chưa nhỉ? Cô đã tới Ý dịp Giáng sinh bao giờ chưa? Khi tôi mở mắt ra, chúng tôi vừa vượt qua biên giới Ý. Hiện giờ, chúng tôi đang ở San Remo và mặt trời đang lặn dần. Xa Paris, xa Bordeaux, xa mưa bão và số nhà 36. Tôi cảm thấy anh chàng đang nhìn tôi chăm chú. Tôi có cảm giác đã quen biết anh chàng từ lâu lắm. Tôi không hiểu làm thế nào một mối liên hệ mật thiết như vậy có thể hình thành nhanh chóng đến thế giữa hai chúng tôi. Có những khoảnh khắc hiếm hơi trong đời khi một cánh cửa mở ra và khi cuộc sống tặng bạn một cuộc gặp gỡ mà bản thân bạn không còn mong đợi nữa. Cuộc gặp gỡ với một người bù trừ cho bạn, chấp nhận bạn như con người bạn vốn có, nhìn nhận bạn trọn vẹn, đoán biết và chấp nhận những mâu thuẫn trong bạn, nhũng nỗi sợ hãi, mối hận, cơn giận dữ của bạn, dòng thác bùn hắc ám chảy trong tâm trí bạn. Và xoa dịu nó. Người chìa cho bạn một tấm gương mà khi soi mình trong đó, bạn không còn thấy sợ hãi nữa. * * * Chỉ một khoảnh khắc là đủ. Một ánh mắt. Một cuộc gặp gỡ. Để khiến một cuộc đời xáo trộn. Đúng người, đứng thời điểm. Kiểu đồng lõa vốn thất thường của sự tình cờ. Chúng tôi đã trải qua đêm Giáng sinh trong một khách sạn tại Roma. Ngày hôm sau, chúng tôi men theo bờ biển Amalfi, xuyên qua thung lũng Rồng tới tận những khu vườn cheo leo của vùng Ravello. Năm tháng sau, chúng tôi thành vợ chồng. Tháng Năm, tôi biết tin mình sắp trở thành mẹ. * * * Có những khoảnh khắc trong đời khi một cánh cửa mở ra và khi cuộc sống của bạn trượt trong ánh sáng. Những khoảnh khắc hiếm hơi khi điều gì đó bật chốt bên trong bạn. Bạn bồng bềnh trong trạng thái phi trọng lượng, bạn lái xe trên một tuyến xa lộ không hề có ra đa. Những lựa chọn trở nên rõ ràng, những câu trả lời thế chỗ những câu hỏi, nỗi sợ nhường chỗ cho tình yêu.Cần biết đến những khoảnh khắc ấy. Chúng hiếm khi kéo dài. 7 Lấm lưng trắng bụng Ta luôn có thể làm nhiều thứ hơn là ta vẫn nghĩ. Joseph KESSEL Chinatown Hôm nay 10 giờ 20 Tiếng xì xào của đám đông. Mùi cá khô khiến ruột gan nôn nao. Tiếng kèn kẹt của một cánh cửa kim loại. Gabriel rời khỏi tiệm cầm đồ và tiến vài bước trên phố Mott. Nhìn thấy anh, Alice bèn sực tỉnh khỏi những hồi ức. - Cô ổn chứ? anh hỏi vì đoán thấy vẻ bối rối của cô. - Ốn, cô cam đoan. Thế còn đồng hồ của chồng tôi? - Tôi đã cầm được 1.600 đô, anh vừa khẳng định vừa tự hào vẫy vẫy một tệp tiền. Và tôi hứa với cô là chúng ta sẽ hết sức nhanh chóng chuộc nó lại. Trong lúc chờ đợi, tôi nghĩ chúng ta xứng đáng được thưởng bữa sáng. Cô gật đầu và họ vội vã rời Chinatown để tới những vỉa hè nồng nhiệt nhất khu Bowery. Họ ngược lên đại lộ về phía Bắc bằng cách dạo bước trên vỉa hè rực rỡ ánh nắng của đường phố lớn. Trong một quá khứ chưa quá xa, phần này của Manhattan là một khu phố nguy hiểm, tụ điểm của dân nghiện, đĩ điếm và người vô gia cư. Giờ đây nó đã trở thành một nơi lành mạnh, sang trọng và sành điệu. Đường phố sáng sủa và thông thoáng, kiểu kiến trúc đa dạng, những mặt tiền cửa hàng rực rỡ sắc màu. Giữa những tòa nhà ốp sành, những cửa hiệu nhỏ và những nhà hàng nổi bật bóng dáng kỳ dị của New Museum. Bảy tầng nhà của nó giống như một chồng hộp giày xếp lên nhau trong một thế thăng bằng tạm bợ. Những đường thẳng rõ nét và màu sắc mặt tiền - một màu trắng tinh có được từ thừng chão gai dầu mạ bạc - lạc lõng trong cách bài trí kiểu cổ của khu Lower East Side. Alice và Gabriel đẩy cửa bước vào Peppermill Coffee Shop, quán cà phê đầu tiên họ gặp trên đường. Họ ngồi vào một ô có hai băng ghế dài bằng da màu kem đặt đối diện nhau. Những bức tường gạch sứ màu hắng, phào tường, cửa lánh rộng, sàn gỗ sồi nguyên khối: vừa ấm áp vừa trang nhã, nơi này thật ấm cứng và tương phản với không khí náo nhiệt của Chinatown. Xuyên qua một ô kính màu khổ lớn, một luồng ánh sáng mùa thu đẹp đẽ soi sáng căn phòng và khiến những chiếc máy pha cà phê expresso đằng sau quầy sáng lấp lánh. Ở giữa mỗi bàn là một chiếc máy tính bảng được lồng trong khung cho phép khách hàng tra thực đơn, lướt Internet hoặc truy cập một tuyển tập báo và tạp chí. Alice đọc lướt menu. Cơn đói đang hành hạ dạ dày tới nỗi cô nghe thấy tiếng bụng sôi òng ọc. Cô gọi một tách cappuccino và bánh vòng kẹp cá hồi; Gabriel chọn một ly latte kèm sandwich Monte-Cristo. Một nhân viên quầy bar mặc gi lê, đeo cà vạt, đội mũ cao bồi với vẻ kiểu cách nhanh chóng phục vụ họ. Hai người lao vào đánh chén bữa ăn nhẹ và uống cà phê gần như một hơi cạn sạch. Alice chỉ cần vài miếng đã ngốn ngấu hết chiếc bánh kẹp cá hồi, kem tươi, hành tăm và thì là. Đã lại sức, cô nhắm nghiền mắt và thả mình theo những điệu nhạc đồng quê xưa cũ phát ra từ chiếc radio bằng gỗ sơn. Một nỗ lực để dốc sạch và "điều chỉnh lại các nơ ron thần kinh theo đúng hướng", như bà cô thường nói. - Nhất định chúng ta đã bỏ lỡ điều gì đó, Gabriel nói trong lúc nuốt những mẩu vụn cuối cùng của chiếc sandwich. Anh vẫy nhân viên phục vụ quầy bar từ xa để gọi đồ tiếp. Alice mở mắt và nhất trí với người bạn đồng hành. - Cần bắt đầu lại từ con số không. Lên danh sách những đầu mối chúng ta có trong tay rồi cố gắng khai thác chứng: số điện thoại của khách sạn Greenwich, dãy số khía trên cẳng tay anh... Đang nói chưa dirt câu cô bỗng dừng lại. Một nhân viên phục vụ râu tóc rậm rì vừa nhăn mặt khi nhìn thấy những vệt máu dính trên áo cô. Cô kín đáo kéo khóa chiếc áo khoác. - Tôi đề nghị chúng ta chia tiền ra, Gabriel gọi ý, rút từ trong túi ra 1.600 đô mà anh chàng người Trung Quốc đưa cho. Không nên để tất cả chỗ trứng chúng ta có trong cùng một giỏ. Anh để tám tờ bạc mệnh giá 100 đô ra trước mặt Alice. Cô gái cầm lấy, cất vào túi đựng bật lửa của chiếc quần jean đang mặc. Chính vào lúc ấy cô bỗng rờ thấy nơi đáy túi có một tấm bìa nhỏ hình chữ nhật gấp gọn. Cô nhướng mày rồi mở rộng tờ bìa trên mặt bàn. - Nhìn này! Đó là một mảnh giấy bièn nhận kiểu người ta thường sử dụng tại phòng gửi đồ của các nhà hàng lớn hoặc tại kho gửi hành lý của các khách sạn. Gabriel vươn người về trước: chiếc vé mang số 127. Hai chữ cái G và H được in bóng lồng vào nhau tạo thành một logo bí mật. - Khách sạn Greenwich! họ đồng thanh reo lên. Chỉ trong một giây, sự chán nản đã tan biến. - Chúng ta đi thôi! cô gái lên tiếng. - Nhưng tôi thậm chí còn chưa ăn miếng khoai tây chiên nào! - Anh sẽ ăn sau, Keyne ạ! Alice đã tra trên máy tính bảng để tìm ra địa chỉ của khách sạn trong khi Gabriel ra quầy thanh toán. - Ngã tư phố Greenwich cắt phố North Moore, cô thông báo khi thấy anh quay lại. Cô vớ lấy con dao đang nằm trên mặt bàn rồi lén lút nhét vào túi áo khoác; anh vắt áo vest lên vai. Rồi họ cùng rời khỏi quán. * * * Chiếc Honda dừng lại sau hai chiếc taxi đỗ hàng đôi. Nằm ngay trung tâm khu TriBeCa, khách sạn Greenwich là một tòa nhà gạch xây kết hợp với kính có chiều cao vài mét bên bờ sông Hudson. - Dưới kia có một bãi đỗ xe, trên phố Chambers, Gabriel khẳng định rồi chỉ vào một tấm biển. Tôi sẽ đi đỗ xe rồi... - Không cần đâu! Alice cắt ngang. Tôi sẽ tới đó một mình, còn anh ở đây chờ tôi, đừng tắt động cơ xe, để tôi còn đường thoát nếu mọi chuyện không được xuôi chèo mát mái. - Thế nếu mười lăm phút sau không thấy cô quay trở ra thì tôi phải làm gì đây? Gọi cảnh sát chăng? - Cảnh sát chính là tôi đây này! cô vừa đáp vừa bước ra khỏi xe. Nhìn thấy cô tiến về phía lối vào, người gác cửa bèn mỉm cười, tránh lối cho cô. Cô gật đầu thay lời cảm ơn rồi tiến vào đại sảnh. Alice tiến vào một hành lang sang trọng, kín đáo, kế đến là một phòng khách-thư viện hang nhã chìm ngập trong một thứ ánh sáng tinh tế. Chiếc tràng kỷ Chesterfield và những chiếc ghế bành bọc vải kê xung quanh một lò sưởi lớn bên trong có hai khúc củi to đang cháy tí tách. Xa hơn là một vách kính, bên kia thấp thoáng một khoảnh sân trong rực rỡ sắc hoa gọi nhớ nước Ý.- Chào mừng quý khách, tôi có thể giúp gì được cho quý khách? một cô gái hỏi, cô nàng có lối ăn vận vừa có phong cách riêng vừa họp mốt: cặp kính đồi mồi gọng to bản, chân váy hoa sặc sỡ, sơ mi họa tiết hình học, diềm thuôn mỏng màu nâu đỏ. - Tôi tới lấy hành lý, Alice đưa cho cô ta tấm giấy biên nhận gửi đồ. - Dĩ nhiên rồi. Xin quý khách chờ một lát. Cô ta chìa tấm giấy biên nhận cho một nam đồng nghiệp, anh ta biến vào một căn phòng nhỏ rồi ba mươi giây sau xuất hiện trở lại với một chiếc cặp tài liệu kiểu va li nhỏ bằng da màu đen, tay cầm có đính nhãn số 127. - Đây rồi, thưa quý khách. Thuận lợi đến khó tin, Alice vừa nhận lấy chiếc va li vừa nghĩ thầm. Cô quyết định thách thức vận may. - Tôi muốn biết danh tính người đã gửi lại chiếc va li này. Cô gái đứng sau quầy tiếp đón nhướng mày. - Vậy mà tôi cứ nghĩ người gửi chính là quý khách, nếu không thì không bao giờ tôi giao lại nó cho quý khách. Nếu quý khách không phải người gửi món đồ này, làm ơn vui lòng giao lại nó cho tôi... - Thanh ha Schäfer của cảnh sát New York đây! Alice tự xưng không chút bối rối. Hiện giờ tôi đang điều tra về... - Tôi thấy giọng cô quá đậm chất Pháp nên khó mà là cảnh sát New York được, nữ nhân viên cắt ngang. Đề nghị cô cho xem thẻ ngành. - Tên của vị khách đã gửi đồ! Alice cao giọng yêu cầu. - Đủ rồi đấy, tôi sẽ gọi quản lý! Hiểu rằng mình sẽ thua trong trận đấu tay đôi này, Alice rút lui. Cầm chắc chiếc va li nhỏ trong tay, cô rảo bước tiến về phía lối ra mà không gặp bất cứ cản trở nào từ người gác cổng. Cô vừa ra đến vỉa hè thì một hồi chuông báo động réo vang. Tiếng chuông xé tai hơn 100 đề xi ben vang lên khiến mọi ánh mắt của người qua đường đổ dồn vào Alice. Cô gái hoảng hốt khi hiểu ra rằng tiếng chuông báo động đó không hề vang lên từ khách sạn như ban đầu cô tưởng, mà từ... chính chiếc cặp. Cô chạy vài mét trên vỉa hè, nhìn quanh tìm Gabriel và chiếc xe. Cô chuẩn bị băng qua phố thì một luồng điện khiến cô tê hệt tại chỗ. Choáng váng, hơi thở đứt quãng, cồ buông chiếc va li rồi gục xuống mặt đường rải nhựa. Phần hai KÝ ỨC VỀ NỖI ĐAU 8 Ký ức về nỗi đau Nỗi bất hạnh thực sự của chúng ta, tuy thế, Không phải là thứ mà những năm tháng đánh cắp của chúng ta Mà là thứ chúng để lại khi rời đi. William WORDSWORTH Tiếng chuông báo động vẫn réo vang thêm vài hồi nữa rồi dừng lại đột ngột y như lúc bắt đầu. Alice vừa mới hoàn hồn sau khi ngã gục trên mặt đường. Tai cô ù đi. Mắt hoa lên như thể ai đó đã giăng một tấm màn ra trước mắt. vẫn còn đờ đẫn, cô trông thấy một bóng người đang ngó xuống mình. - Đứng dậy nào! Gabriel giúp cô đứng dậy rồi dìu cô về phía xe. Anh để cô ngồi vào ghế cạnh lái rồi quay lại nhặt chiếc va li bị văng ra xa hơn một chút trên vỉa hè. - Nhanh nào! Anh mở khóa xe rồi khởi động thật nhanh. Một cú đánh vô lăng sang phải, một cú khác sang trái, vậy là họ đã tới West Side Highway, đại lộ gần phía Tây thành phố nhất chạy dọc bờ sông. - Khỉ thật, chúng ta bị phát hiện rồi! Alice hét lên khi vừa thoát ra khỏi màn sương mù sau cú chích điện. Mặt Alice trắng bệch như một tờ giấy, trống ngực dội liên hồi, cô thấy buồn nôn. Chân cô run lên và một dòng trào ngược chua lòm thiêu đốt lồng ngực.- Cô làm sao vậy? - Chiếc va li này chính là bẫy, anh thấy rồi đấy! cô bực bội đáp. Ai đó đã biết chúng ta đang ở khách sạn này nên đã kích hoạt cả chuông báo động lẫn cú phóng điện từ xa. - Đến mức này thì cô đang chuyển hướng sang cuồng ám rồi đấy... - Tôi những mong anh nhận lấy cú chích điện đó thay tôi, Keyne ạ! Chạy trốn cũng chẳng ích gì nếu ai đó có thể theo dõi nhất cử nhất động của chúng ta! - Nhưng đúng ra thì chiếc va li này thuộc về ai nhỉ? - Tôi làm sao biết được. Chiếc xe phóng hết tốc lực về phía Bắc. Mặt trời rực rỡ phía chân trời. Ven bờ sông, người ta có thể trông thấy những chiếc phà và thuyền buồm trôi lờ lững hên sông Hudson, những tòa nhà chọc trời của Jersey City, dàn cần trục kim loại của những bến tàu cũ. Gabriel tách khỏi dòng xe cộ để vượt một chiếc xe van. Khi quay sang nhìn Alice, anh thấy cô gái đang dùng con dao vừa đánh cắp trong quán cà phê để rạch nát lớp lót của chiếc áo khoác da đang mặc trên người. - Dừng tay, cô điên rồi hay sao! Tin vào bản năng của mình, cô thậm chí không buồn trả lời anh. Đang con hăng, cô vặn vẹo người để tháo đôi giày cao cổ, rồi dùng dao cạy tung gót giày đầu tiên. - Khỉ thật, này Alice, cô đang chơi trò gì vậy? - Tôi đang tìm thứ này đây! cô đáp rồi đắc thắng giơ lên một chiếc hộp nhỏ xíu vừa tách được ra từ gót giày thứ hai. - Một chiếc micro sao? - Không, một hệ thống định vị GPS thu nhỏ. Bằng cách này bọn chúng đã xác định được vị trí của chúng ta. Và tôi dám cá rằng anh cũng có một cái tương tự trong giày hoặc lớp lót áo vest cho mà xem. Lúc này đang có ai đó theo dõi chúng ta, Keyne ạ. Cả hai chúng ta cần phải thay quần áo và giày thôi. Ngay bây giờ! - Nhất trí, anh đầu hàng, ánh mắt lo lắng. Alice hạ cửa kính, quăng thiết bị theo dõi ra ngoài rồi chộp lấy chiếc va li. Đó là một chiếc va li cứng bằng da trơn hai ổ khóa mã. Dù cố ý hay không thì lúc này phần tích điện ờ tay xách cũng đã được vô hiệu hóa. Cô thử mở va li nhưng lại vấp phải hệ thống bảo vệ. - Tôi thấy nếu mở được dễ dàng thì mới là chuyện lạ đấy, Gabriel càu nhàu.- Sau này chúng ta sẽ tìm được cách phá khóa. Trong lúc chờ đợi chúng ta hãy tìm lấy một chỗ kín đáo để mua quần áo mới. Hai mí mắt nặng trĩu, Alice day day thái dương. Cơn đau nửa đầu quay trở lại; mắt cô nhói buốt. Cô lục tìm trong hộc để đồ của xe lấy cặp kính râm cũ đã trông thấy trước đó. Cô đeo cặp kính mắt mèo gọng lấp lánh kim tuyến vào. Khung cảnh kiến trúc đa dạng của khu vực này trong thành phố có tác dụng như thôi miên và khiến cô xây xẩm mặt mày. Xa xa, như một cuốn sách khổng lồ để mở đặt trên cây cọc, cô nhận ra cái bóng phơn phớt xanh của khách sạn Standard nhô cao trên High Line. Những đường thẳng hình học của các công trình kiến trúc hiện đại làm từ kính và nhôm cũng như của những tòa nhà nhỏ xây bằng gạch nâu của New York cổ vẫn ngâm trong thứ nước ép của chúng va chạm hỗn độn. Đằng xa, như một tảng băng trôi ánh xà cừ, một tòa nhà trong mờ với các hình dạng bất đối xứng cắt ngang đường chân trời và soi chiếu khung cảnh bằng một thứ ánh sáng vô thực. * * * Họ dạo phố một lúc từ quận Meatpacking đến Chelsea, cho tới khi tìm ra một cửa hiệu nhỏ trên phố 27 chủ yếu bán đồ quân dụng thừa nhiều hon là quần áo cũ. Suốt dọc chiều dài, căn phòng duy nhất của cửa hiệu là một nơi bày biện ngổn ngang vui mắt với quần áo quân đội chen vai thích cánh cùng một vài bộ đồ của những nhãn hàng không mấy tên tuổi. - Mau mau lên đấy, Keyne, Alice ra lệnh trong lúc bước vào cửa hàng. Chúng ta ở đây không phải để mua sắm đâu, anh hiểu chứ? Họ lục lọi trong đống quần áo giày dép: giày đi bộ, giày vải, áo khoác ngắn, áo nỉ dày, áo khoác rằn ri có mũ, thắt lưng, khăn rằn... Alice nhanh chóng tìm thấy một chiếc áo đan cổ lọ màu đen, áo phông ôm sát, quần jean, đôi giày cao cổ mới và chiếc áo vest vải thô màu nâu nhạt. Gabriel có vẻ thận trọng hơn. - Được rồi, anh quyết định đi chứ! Alice giục anh. Cầm lấy này, cái này và cái này nữa, cô vừa nói vừa tung cho anh một chiếc quần âu màu kaki cùng chiếc sơ mi vải bông màu nhạt. - Nhưng chính xác thì đây không phải cỡ dành cho tôi, cũng không hẳn là phong cách của tôi! - Lúc này không phải tối thứ Bảy và anh cũng đâu có chuẩn bị đi tán tỉnh các cô em xinh đẹp hả Keyne, cô vừa bẻ lại vừa cởi cúc áo sơ mi để chuẩn bị thay đồ. Anh chàng chơi nhạc jazz hoàn thiện trang phục của mình bằng một đôi giày ủng và một chiếc áo khoác ngắn cổ lông cừu. Alice cũng tìm được thêm một chiếc túi dết chất liệu vải dày thắt dây da và một chiếc bao đựng cũ để mang khẩu Glock của cô theo cách kín đáo hon. Vì không có phòng thử đồ, họ đứng thay quần áo cách nhau chỉ vài mét. Gabriel không khỏi liếc mắt về phía Alice. - Đừng có lọi dụng hoàn cảnh để rửa mắt đấy nhé, đồ biến thái! cô nạt nộ rồi dùng chiếc áo len chui đầu che bụng. Cô gái đã nói quá, Gabriel chường ra vẻ mặt hối hận rồi quay đi chỗ khác như thể vừa bị bắt quả tang. Tuy nhiên, thứ vừa nhìn thấy khiến anh sững người: trên cơ thể Alice có một vết sẹo lớn có vẻ như xuất phát từ xương mu lên đến tận rốn. * * * - Tổng cộng hết 170 đô, chủ tiệm, một người đàn ông to như hộ pháp, đầu hói và béo ú với bộ râu quá khổ theo phong cách ban nhạc rock ZZ Top. Trong khi Gabriel đi nốt đôi giày, Alice đã bước ra phố rồi quăng vào thùng rác toàn bộ quần áo cũ của họ. Cô chỉ giữ lại một mảnh vải áo sơ mi dính máu của mình. Một đầu mối có thể trở nên hữu ích, cô thầm nghĩ vậy trong lúc nhét mảnh vải vào chiếc túi dết kiểu nhà binh. Nhìn thấy một siêu thị nhỏ ở vỉa hè phía bên kia, cô liền băng qua đường và bước vào khu vực tự phục vụ. Cô tìm thấy giấy ướt để lau mặt, thuốc Ibuprofène làm dịu con đau đầu và một chai nước khoáng nhỏ. Đang tiến lại gần quầy thu ngân thì cô bỗng nảy ra một ý. Cô quay bước, đi nhanh qua các gian hàng và cuối cùng cũng tìm ra một gian nhỏ bày bán điện thoại. Cô xem xét các sản phẩm của một hãng chuyên bán những mẫu điện thoại không kèm đăng ký thuê bao. Cô chọn loại máy có chức năng cơ bản nhất có giá 14,99 đô rồi mua thêm một thẻ nạp trả trước có sẵn một trăm hai mươi phút đàm thoại với hạn sử dụng trong vòng chín mươi ngày. Khi quay trở ra với những món đồ mua được, cô ngạc nhiên vì một cơn gió. Bất chấp mặt trời tỏa nắng chói chang, những cơn gió mạnh vẫn quét qua phố, cuốn tung lá vàng và bốc bụi lên thành từng đám. Cô đưa tay lên che mặt để tự vệ. Đứng chống khuỷu tay lên nắp ca pô xe, Gabriel đang quan sát cô.- Anh chờ ai thế? cô chọc anh. Anh vẫy vẫy trước mặt cô một trong hai chiếc giày cũ của anh. - Dẫu sao cô cũng nói đúng: trong giày của tôi cũng có một thiết bị theo dõi. Anh ném chiếc giày Converse vào một thừng rác công cộng hệt như một cầu thủ bóng rổ. Chiếc giày nảy thia lia trước khi rơi vào thùng. - Ghi ba điểm vào rổ, anh huênh hoang. - Được rồi, anh đã xong trò trẻ con đó chưa? Chúng ta có thể đi chưa? Hơi phật ý, anh dựng cổ áo vest lên rồi nhún vai, giống như một cậu nhóc vừa bị mắng. Alice ngồi vào ghế lái rồi đặt chiếc túi giấy của siêu thị cùng chiếc túi vải lên ghê sau cạnh chiếc va li. - Chứng ta cần tìm ra cách gì đó mở chiếc va li này. - Việc đó cứ để tôi lo, Gabriel cam đoan trong lúc cài dây bảo hiểm. * * * Để tránh đống quần áo đã bị gài thiết bị theo dõi càng xa càng tốt, họ chạy xe nhiều cây số về phía Bắc, xuyên qua Hell's Kitchen tới tận phố 48. Họ dừng lại trong một ngõ cụt trông ra vườn hoa công cộng nơi một đám học trò đang cùng các cô giáo thu hoạch bí ngô. Khu phố yên tĩnh. Không có khách du lịch cũng chẳng có đám đông náo nhiệt. Đến mức khó mà tin được rằng họ đang ở New York. Họ đỗ xe dưới tán lá thích vàng. Những tia nắng màu cam lọt qua tán lá càng củng cố ấn tượng về bầu không khí yên tĩnh này. - Anh định làm gì với chiếc va li đây? Alice vừa hỏi vừa giữ phanh tay. - Chứng ta sẽ dùng con dao cô đã đánh cắp để nạy hai ổ khóa. Trông chúng không có vẻ chắc chắn lắm đâu. - Anh ấy mà, đúng là có khiếu tưởng bở, cô thở dài. - Cô có ý nào đó hay hon chăng? - Không, nhưng cách của anh sẽ không bao giờ thành công. - Rồi cô xem! anh vừa nói vẻ thách thức vừa quay lại vớ lấy chiếc va li đang để trên ghế sau. Cô đưa anh con dao rồi quan sát với vẻ hoài nghi những nỗ lực anh thực hiện nhằm cố lách lưỡi dao vào khe va li. Mọi nỗ lực đó đều không đem lại kết quả. Sau một hồi, Gabriel mất hết kiên nhẫn, bực bội và muốn chuyển sang dùng vũ lực, nhưng con dao trượt đi và khiến lòng bàn tay anh xước nhẹ.- Ái! - Khỉ thật, anh tập trung một chút đi! Alice phát cáu. Gabriel đầu hàng. Anh lại trở nên trầm lắng hon. Rõ ràng là điều gì đó đang khiến anh băn khoăn. - Vấn đề của anh là gì vậy? cô tấn công anh. - Chính là cô đó. - Tôi ư? - Ban nãy, trong cửa hàng quần áo, tôi đã nhìn thấy vết sẹo trên bụng cô... Cô đã gặp phải chuyện gì vậy? Gưomg mặt Alice bỗng trả nên sa sầm. Cô toan mở miệng để đập lại, nhưng lại cảm thấy cực kỳ mệt mỏi nên cô quay đi rồi vừa thở dài vừa day day mí mắt. Gã đàn ông này sẽ chỉ gây thêm rắc rối cho cô. Cô đã đoán ra điều đó ngay từ giây đầu tiên... Khi cô mở mắt ra, môi cô run run. Con đau lại trỗi dậy. Những kỷ niệm lại ùa về. Sống động. - Ai đã làm cô ra nông nỗi đó hả Alice? anh gặng hỏi. Gabriel cảm thấy mình đã xâm nhập một lãnh thổ gài đầy mìn. Anh phân trần cho thái độ tò mò của mình. - Cô muốn chúng ta làm cách nào thoát ra khỏi tình cảnh rắc rối này nếu như chúng ta không tín tưởng nhau đôi chút? Alice nhấp một ngụm nước khoáng. Lời khước từ đối diện với quá khứ liền tan biến. - Mọi chuyện bắt đầu vào tháng Mười một năm 2010, cô lên tiếng. Kể từ vụ sát hại một cô giáo mầm non tên là Clara Maturin... Tôi còn nhớ... Cách đây hai năm rưỡi. Một năm đầy máu và nộ khí. Thêm một vụ sát hại phụ nữ tại khu vực phia Tây Paris (Le Parisien, số ra ngày 11 tháng Năm 2011) Nathalie Roussel, một nữ tiếp viên hàng không hai mươi sáu tuổi, đã được tìm thấy sáng nay trong nhà riêng tại phố Meissonnier, một đường phố yên tĩnh thuộc guận 17, trong tình trạng bị thắt cổ. Cô gái sống một mình và được hàng xóm mô tả là "một người trầm lắng, không nhiều chuyện, thường xuyên vắng nhà vì lý do công việc". Người hàng xóm nam cùng tầng đã gặp cô vài giờ trước khi nạn nhân bị sát hại: "Tâm trạng cô ấy rất vui vẻ và phấn khởi vì đã mua được vé buổi hòa nhạc Sting dự kiến diễn ra ngày hôm sau tại sân vận động Olympia. Tôi không hề cảm thấy cô ấy bị đe dọa." Theo những nguồn tin thân cận với cuộc điều tra, nhiều nhân chứng khẳng định đã nhìn thấy một người đàn ông vội vã rời khỏi hiện trường và bỏ chạy trên một chiếc xe tay ga ba bánh hiệu Piaggio. Đối tượng gây án là một người đàn ông tầm vóc trung bình, cao gầy, đội chiếc mũ bảo hiểm sẫm màu.Giới chức cành sát tư pháp hết sức quan tâm tới cuộc điều tra. Theo những ghi nhận ban đầu, trộm cắp không phải là động cơ hàng đầu của vụ sát hại, ngay cả khi dường như chiếc điện thoại di động của nạn nhân đã bị lấy đi.Vụ sát hại này có nhiều điểm chung đến kỳ lạ với vụ sát hại Clara Maturin, một nữ giáo viên mầm non trẻ tuổi sống tại quận 16, bị siết cổ dã man bằng một đôi tất da chân ni lông hồi tháng Mười một năm 2010. Khi được hỏi về vấn đề này, Viện trưởng Viện Công tố cho biết trong giai đoạn này, các điều tra viên sẽ không xem nhẹ bất cứ hướng điều tra nào. * * * Những vụ sát hại tại khu vực phía Tây Paris: cảnh sát nghi ngờ có kẻ giết người hàng loạt. (Le Parisien, số ra ngày 13 tháng Năm 2011) Theo tiết lộ của một điều tra viên, các phân tích khoa học chỉ ra rằng đôi tất ni lông đã được dùng để thắt cổ nữ tiếp viên hàng không Nathalie Roussel có thể thuộc về Clara Maturin, nữ giáo viên mầm non trẻ tuổi bị sát hại hồi tháng Mười một năm 2010. Cho đến giờ phía cảnh sát vẫn giữ bí mật thông tin có thể xâu chuỗi các nạn nhân lại với nhau. Một hướng điều tra có lẽ sẽ chỉ dẫn các điều tra viên lần theo dấu vết của một tên sát nhân bái vật luôn tuân thủ cách thức thực hiện là sử dụng đồ lót của nạn nhân trước để sát hại nạn nhân kế tiếp. Phía cảnh sát thành phố đã tạm thời từ chối xác nhận tình tiết mới này. * * * Thêm một vụ sát hại phụ nữ tại quận 16 (Le Parisien, số ra ngày 19 tháng Tám 2011) Maud Morel, một nữ y tá làm việc tại Bệnh viện Mỹ Neuilly, đã bị sát hại tối ngày hôm kia trong căn hộ riêng trên đại lộ Malakoff. sáng nay, chính nguời gác cổng tòa nhà đã tìm ra thi thể của cô gái, bị thắt cổ dã man bằng một đôi tất da chân. Mặc dù phía cảnh sát từ chối đưa ra kết luận chính thức, chi tiết này vẫn nhắc nhớ có một mối liên hệ hiển nhiên giữa vụ giết người này với hai vụ xảy ra hồi tháng Mười một năm 2010 và tháng Năm vừa qua tại quận 16 và 17. Động cơ giết người vẫn còn là điều bí ẩn, tuy nhiên các điều tra viên vẫn tin chắc rằng cà ba nạn nhân đều quen biết hung thủ đủ để không hề dè chừng ỵ. Quả nhiên, các nạn nhân đều đuợc tìm thấy bên trong căn hộ riêng nơi không hề ghi nhận được bất kỳ dấu vết cạy phá nào. Một điểm nữa cũng gây quan ngại: cho đến giờ vẫn chưa tìm ra điện thoại di động của cả ba nạn nhân. * * * Những vụ sát hại tại khu vực phía Tây Paris: hình thành hướng điều tra về một kẻ giết người hàng loạt. (Le Parisien, số ra ngày 20 tháng Tám 2011) Sau vụ sát hại dã man Maud Morel, nữ y tá làm việc tại Bệnh viện Mỹ Neuillỵ, xảy ra cách đây ba ngày, hiện tại các điều tra viên không còn chút nghi ngờ nào về mối liên hệ giữa vụ sát hại này và hai vụ khác xảy ra trong cùng khu vực từ tháng Mười một năm 2010. Được hỏi về khả năng gây án của một kẻ giết người hàng loạt, Viện trường Viện Công tố đã buộc phải thừa nhận rằng "quả thực, cả ba vụ sát hại này có những điểm chung về cách thức tiến hành". Đúng là đôi tất da chân được sử dụng để sát hại cô Morel vốn thuộc về Nathalie Roussel, nữ tiếp viên hàng không bị giết hại mùa xuân năm ngoái, bản thân nạn nhân này lại bị siết cổ bằng đôi tất da chân vốn thuộc về nữ giáo viên mầm non Clara Maturin. Tình tiết này đã dẫn tới việc rà soát lại cách xử lý tư pháp những vụ trọng án này. Các vụ việc đã được tập hợp lại và tù giờ trở đi sẽ thuộc thẩm quyền của cùng một thẩm phán dự thẩm. Tối qua, khi trả lời phỏng vấn trên bản tin thời sự của kênh France 2, bộ trưởng bộ Nội vụ đã đảm bảo rằng "mọi nguồn nhân lực và vật lực đều sẽ đuợc huy động để truy tìm bằng được hung thủ hoặc nhóm hung thủ đã gây ra những tội ác này." * * * Những vụ sát hại tại khu vực phía Tây Paris một kẻ tình nghi bị tạm giữ (Le Parisien, số ra ngày 21 tháng Tám 2011) Một tài xế taxi bị coi là đối tượng tình nghi quan trọng trong cuộc điều tra về hàng loạt vụ sát hại diễn ra từ tháng Mười một trong những khu phố xinh đẹp của thù đô đã bị bắt giữ và hỏi cung vào tối thứ Sáu vừa qua. Một cuộc khám xét nơi ở của đối tượng đã cho phép tìm ra điện thoại di động của Maud Maurel, nạn nhân mới nhất. * * * Tài xế taxi được thả! (Le Parisien, số ra ngày 21 tháng Tám 2011) (...) Người đàn ông đó đã cung cấp bằng chứng ngoại phạm đối với tất cả các vụ sát hại. Khi bị cảnh sát hỏi cung, anh ta đã khẳng định rằng cách đây vài ngày đã chở Maud Morel và cô gái chỉ đơn giản là bỏ quên điện thoại di động trên xe của anh ta. * * * Thêm một vụ sát hại phụ nữ khiến khu vực phía Tây Paris rúng động (Le Parisien, số ra ngày 9 tháng Mười 2011) Virginie André, nữ nhân viên ngân hàng đã lỵ hôn, mẹ của một bé trai, đã được tìm thấy hồi sáng nay trong tình trạng bị siết cổ tại căn hộ riêng trên đại lộ Wagram. Thi thể của nạn nhân do người chồng cũ phát hiện ra khi anh này tới đón cậu con trai ba tuổi mà hai vợ chồng họ thỏa thuận thay nhau chăm sóc. * * * Nỗi sợ hãi bao trùm thành phố: hàng trăm cảnh sát truy lùng kẻ giết người ờ khu vực phía Tây Paris (Le Parisien, số ra ngày 10 tháng Mười 2011) Đây là một cuộc điều tra quy mô lớn huy động hàng trăm cảnh sát vào việc truy đuổi một kẻ sát nhân ngay lúc này còn chưa biết tên tuổi, hình dung nhưng suốt mười một tháng qua đã khủng bố tinh thần những phụ nữ sống một mình trên địa bàn quận 16 và 17. Phải chăng có mối liên hệ nào đó giữa Clara Maturin, cô giáo mầm non, bị siết cổ ngày 12 tháng Mười một năm 2010, Nathalie Roussel, nữ tiếp viên hàng không, bị sát hại ngày 10 tháng Năm năm 2011, Maud Morel, nữ y tá, qua đời do bị mưu sát ngày 18 tháng Tám, và Virginie André, nữ nhân viên ngân hàng, bị giết hại hôm Chủ nhật vừa qua? Quá khứ và mạng lưới mối quan hệ của những phụ nữ trẻ độc thân hoặc đã ly hôn này vốn đã được các điều tra viên rà soát kỹ càng, tuy nhiên cho đến giờ vẫn chưa thể tìm ra hướng điều tra nào đáng kể. Bốn vụ giết người tuân thủ cùng một cách thức gây án. Cả bốn nạn nhân đều không có mối quan hệ rõ ràng với nhau, nhưng tất cả đều đủ thân thiết với kẻ ra tay sát hại mình nên đã mở cửa cho hắn bước vào căn hộ riêng. Hàng loạt vụ sát hại này gây nên sự khó hiểu và kinh hãi cho người dân thủ đô sinh sống tại địa bàn hai quận nói trên. Để trấn an dân chúng, thị trường đã cho tăng cường các cuộc tuần tra và can thiệp, khuyến khích các công dân trình báo khi thấy bất cứ hành động khả nghi nào. Tôi còn nhớ... Hai năm trước Paris 21 tháng Mười một 2011 Bến tàu điện ngầm Solferino, quận 7. Tôi khó nhọc leo những bậc thang của bến tàu điện ngầm với hol thở đứt quãng. Lên đến bậc trên cùng, một con cuồng phong ẩm ướt tạt thẳng vào giữa mặt tôi. Tôi giương chiếc ô ra trước hướng gió để nó khỏi bị lật. Tôi hiện mang bầu bảy tháng rưỡi và đang trên đường tới phòng khám gặp Rose May, bác sĩ sản sẽ đỡ đẻ cho tôi. Tháng Mười một chỉ là một đường hầm dài tăm tối và mưa tầm tã. Đầu giờ chiều nay không ngoại lệ. Tôi rảo bước. Những mặt tiền màu trắng của con phố Bellechasse sáng lấp lánh dưới trận mưa rào. Hai chân tôi sưng phù, lưng như muốn sụm xuống, các khóp đau tê tái. Tôi thấy khó mà thích nghi với việc tăng cân khi mang thai. Tôi đã trở nên to béo đến mức phải nhờ Paul giúp mỗi khi buộc dây giày! Những chiếc quần âu cứa vào bụng dưới nên tôi suốt ngày phải mặc váy. Đêm nào cũng khó ngủ và mỗi lần muốn ra khỏi giường, tôi buộc phải lăn sang bên trước khi đặt được hai chân xuống sàn. Như thể vẫn chưa đủ, từ vài ngày nay, những con buồn nôn lại xuất hiện và bất cứ lúc nào tôi cũng có thể cảm thấy mệt mỏi. Thật may, phố Las Cases chỉ cách lối ra của bến tàu điện ngầm hai trăm mét. Vậy nên chưa đầy năm phút sau, tôi đã tới phòng khám. Tôi đẩy cửa, tới quầy lễ tân đăng ký rồi tự thưởng cho mình một cốc cà phê tại máy tự động trong phòng chờ trước ánh mắt bất bình của những bệnh nhân khác. Tôi đang mệt rã rời. Bụng tôi nhấp nhô, như thể những bong bóng to đùng đang vỡ, như thể những con sóng nhỏ đang dồn dập vỗ từ bên trong. Paul rất thích thú với chuyện này mỗi khi được chứng kiến tại nhà. Về phần tôi thì phức tạp hơn. Mang thai là một trạng thái lạ thường, thần diệu, nhưng tôi không thể thư giãn trong trạng thái đó được. Sự phấn khích của tôi luôn bị kìm hãm bởi một nỗi lo âm thầm, một linh cảm không lành và những câu hỏi nhức nhối: tôi không biết liệu mình có phải là một người mẹ tốt không, tôi sợ đứa con mình sinh ra sẽ không khỏe mạnh, tôi sợ không biết cách chăm con... Từ một tuần nay, về mặt lý thuyết thì tôi đang trong kỳ nghỉ thai sản. Paul đã hoàn thành phần việc của mình bằng cách kê dọn đâu vào đó phòng em bé và lắp đặt nôi di động trong xe ô tô. Còn tôi, trước đó tôi đã dự định làm đủ thứ - mua quần áo sơ sinh, xe đẩy, chậu tắm, các sản phẩm chăm sóc và vệ sinh -, nhưng lại không ngừng trì hoãn những kế hoạch đó. Sự thật là tôi chưa bao giờ thực sự ngừng công việc điều tra. Cuộc điều tra của tôi: cuộc điều tra về bốn người phụ nữ bị siết cổ trong khu vực phía Tây Paris. Chính nhóm của tôi phụ trách giải quyết vụ sát hại đầu tiên nhưng chúng tôi đã thất bại. Kể từ đó, vụ việc đã trở nên quá mức nghiêm trọng và vuột khỏi tay chúng tôi. Tuy đã bị loại khỏi cuộc điều tra nhưng tôi vẫn đau đáu với những gương mặt sững lại trong nỗi khiếp sợ kia. Lúc nào tôi cũng nghĩ đến chúng. Một nỗi ám ảnh đã khiến cho thai kỳ của tôi không được thanh thản và ngăn không cho tôi hướng tới ngày mai. Tôi vẫn lật đi lật lại cùng những hình ảnh đó, nhắc đi nhắc lại cùng những giả thiết đó, đắm chìm trong những phỏng đoán, xâu chuỗi lại các vụ án không chút mệt mỏi. * * * Xâu chuỗi... Tìm ra mối liên hệ vô hình giữa Clara Maturin, Nathalie Roussel, Maud Morel và Virginie André. Ngay cả khi còn chưa ai phát hiện ra nó thì mối liên hệ ấy nhất định vẫn tồn tại. Bốn nguôi phụ nữ này có điều gì đó chung nhưng ngay lúc này thì tất cả các điều tra viên đều chưa thể nắm bắt được. Ngay cả tôi. Nhất là tôi. Tôi biết một lẽ hiển nhiên đang lẩn khuất trước mắt mình và điều tin chắc ấy đang phá hỏng cuộc đời tôi. Nếu không bị bắt giữ, gã đàn ông đó sẽ tiếp tục ra tay giết chóc. Một lần, hai lần, mười lần... Hắn cẩn trọng, vô hình, không thể tóm gọn. Hắn không để lại bất cứ dấu vết nào, không cả dấu vân tay lẫn ADN. Không ai giải thích được tại sao cả bốn nạn nhân đều đã mở cửa cho hắn không chút nghi ngờ, vào tầm giờ tối muộn. Chúng tôi chẳng có gì trong tay ngoại trừ một lời chứng mơ hồ nhắc tới một gã đội mũ bảo hiểm màu đen và chạy trốn trên chiếc xe tay ga ba bánh giống như hàng nghìn đối tượng có thể gặp trên đất Paris. Lại một cốc cà phê khác từ máy tự động. Trời lạnh và nổi gió. Hai bàn tay tôi vòng quanh chiếc cốc giấy hòng tìm chút hơi ấm. Mắt nhìn xa xăm, tôi ôn lại lần thứ một nghìn đoạn phim về các sự kiện, thuật lại cho tôi liên kết giữa chúng như một chân ngôn. Bốn nạn nhân: bốn phụ nữ sống một mình. Ba người độc thân và một bà mẹ đã ly hôn. Cùng một phạm vi địa lý. Cùng một cách thức tiến hành. Trong khoảng thời gian dài, báo chí đã đặt biệt danh cho thủ phạm những vụ giết người này là "tên sát nhân kiêm trộm điện thoại". Thậm chí ban đầu cảnh sát còn nghĩ hắn đã lột luôn điện thoại di động của các nạn nhân hòng xóa một vài dấu vết có thể cho phép lần ra hắn: những cuộc gọi, những đoạn phim, những bức ảnh... Nhưng giả thiết này không có cơ sở. Dĩ nhiên, những chiếc smartphone của nạn nhân thứ hai và thứ ba lâu nay vẫn chưa thể tìm ra. Nhưng trái ngược với những gì báo chí đăng tải, điện thoại di động của nạn nhân thứ nhất và nạn nhân cuối cùng đều đã được tìm ra. Và nếu như điện thoại của nữ tiếp viên hàng không chưa bao giờ được xác định vị trí thì chiếc điện thoại nữ y tá sử dụng lại đơn giản bị bỏ quên trên một chiếc taxi. * * * Tôi nhìn điện thoại của mình. Tôi đã tải xuống máy hàng trăm bức ảnh của cả bốn nạn nhân. Không phải những bức ảnh ghê rợn chụp tại hiện trường vụ án mà là những bức chụp họ trong cuộc sống đòi thường lấy từ máy tính cá nhân của họ. Tôi xem lướt các bức ảnh để rồi lần nào cũng quay về với các bức ảnh của Clara Maturin. Nạn nhân đầu tiên, nữ giáo viên mầm non: nạn nhân có lẽ tôi cảm thấy gần gũi nhất. Một trong những bức ảnh khiến tôi đặc biệt cảm động: đó là một bức ảnh truyền thống của lớp học được chụp hồi tháng Mười năm 2010, chụp trong sân trường. Tất cả các học sinh lớp mẫu giáo lớn của trường Joliot-Curie tập họp xung quanh cô giáo. Hình ảnh tràn đầy sức sống. Gương mặt bọn trẻ khiến tôi mê mẩn. Một vài đứa trông hết sức nghiêm túc trong khi những đứa khác lại rất hài hước: đang cười ngặt nghẽo, tay đang ngoáy mũi, giả làm tai lừa... Đứng giữa đám nhóc học sinh là Clara Maturin với nụ cười sảng khoái. Đó là một cô gái dáng điệu kín đáo, mái tóc vàng nhạt cắt theo kiểu đầu vuông. Cô mặc chiếc áo gió màu nâu nhạt mở cúc, bên trong là bộ quần áo may đo khá thanh lịch và thắt chiếc khăn lụa vuông hiệu Burberry có thể nhận ra nhờ họa tiết in đặc trưng của hãng. Một bộ trang phục mà cô hẳn phải đặc biệt ưa thích vì nó xuất hiện trên nhiều bức ảnh khác: trong đám cưới của một cô bạn hồi tháng Năm năm 2010 tại Bretagne, trong kỳ nghỉ tại London hồi tháng Tám cùng năm và thậm chí trên bức ảnh cuối cùng, chụp bởi một camera giám sát đặt trên phố Faisanderie chỉ vài giờ trước khi cô bị sát hại. Tôi xem lần lượt từng bức ảnh một để rồi lần nào cũng gặp đúng bộ trang phục được chủ nhân hết sức ưa thích ấy: áo gió, bộ quần áo may đo phong cách working girl, chiếc khăn hiệu Burberry thắt hờ. Trong khi tôi dừng lại lâu hơn ở bức ảnh cuối cùng, một chi tiết lần đầu tiên đập vào mắt tôi: chiếc khăn xuất hiện trên bức ảnh này không phải cùng chiếc khăn đó nữa. Tôi dùng ba ngón tay phóng to màn hình cảm ứng để xác nhận lại. Độ phân giải của camera giám sát có không tốt chăng nữa cũng chẳng hề gì, tôi hầu như chắc chắn họa tiết chiếc khăn đă khác. Đúng vào ngày bị sát hại, Clara không đeo chiếc khăn ưa thích. Tôi cảm thấy một cơn rùng mình chạy qua người. Một chi tiết vô thưởng vô phạt chăng? Tuy thế, trí óc tôi vẫn hoạt động, cố gắng hợp lý hóa câu chuyện. Tại sao Clara Maturin lại đổi khăn vào đúng ngày hôm đó? Có lẽ cô đã cho một người bạn gái mượn khăn chăng? Có lẽ cô đã gửi chiếc khăn lại hiệu giặt là? Có lẽ cô đã đánh mất nó? Có lẽ cô đã đánh mất nó... Maud Morel, nạn nhân thứ hai, cũng đã đánh mất thứ gì đó: chiếc điện thoại di động, cuối cùng người ta đã tìm thấy điện thoại di động của cô trèn một chiếc taxi. Còn điện thoại di động của Nathalie Roussel - mà người ta cứ ngỡ đã bị đánh cắp -, biết đầu cô ấy cũng đã làm mất nó thì sao? Đánh mất. Hai chiếc điện thoại di động, một chiếc khăn quàng... Thế còn Virginie André? Cô ấy đã đánh mất thứ gì nhỉ? Mạng sống. Nhưng còn gì nữa đây? Tôi thoát khỏi ứng dụng album ảnh trên điện thoại để chuyển sang chế độ cuộc gọi và bấm số của Seymour. - Chào, là tôi đây. Liên quan đến vụ sát hại Virginie André, cậu có biết liệu, đâu đó trong quá trình điều tra, có nhắc tới một đồ vật nào đó mà nạn nhân làm thất lạc mới đây không? - Alice à! Chị đang trong kỳ nghỉ đấy, khỉ thật! Chị lo chuẩn bị đón em bé của mình đi chứ! Tôi phớt lờ những lời trách móc. - Cậu còn nhớ hay không nào? - Không, tôi không biết gì về chuyện đó hết, Alice ạ. Đội chúng ta đâu còn điều tra vụ đó nữa. - Cậu có thể tìm số liên lạc với chồng cũ của nạn nhân đó được không? Rồi gửi vào điện thoại cho tôi nhé. Tôi sẽ đích thân hỏi anh ta câu hỏi vừa rồi. - Nhất trí, cậu ta thở dài. - Cảm ơn cậu. Ba phút sau khi ngắt máy, một tin nhắn từ Seymour hiển thị trên màn hình điện thoại của tôi. Tôi lập tức gọi cho Jean-Marc André rồi để lại một tin nhắn trên máy trả lời tự động của anh ta, yêu cầu anh ta liên lạc lại với tôi càng sớm càng tốt. * * * - Schäfer! Cô vẫn còn đi bộ được sao! Rose-May vừa gọi tên tôi vừa trợn tròn mắt nhìn tôi. Đó là một phụ nữ dân đảo Reunion tròn lẳn, giọng đặc âm sắc địa phương, mỗi lần gặp tôi bà đều xạc cho một trận như thể tôi là một bé gái. - Nào, không phải đâu! tôi thốt lên trong lúc đi theo bà vào một trong những căn phòng thuộc tầng bốn nơi bà thường dạy những khóa học tiền sản. Bà yêu cầu tôi nằm dài ra, rồi thăm khám cho tôi cẩn thận, đảm bảo với tôi rằng cổ tử cung vẫn đóng, không hề có nguy cơ sinh non. Bà hài lòng khi thấy em bé đã quay đầu xuống chứ không còn ở vị trí ngôi ngược nữa. - Đầu bé đã quay xuống đúng vị trí và lưng bé đang ở bên sườn trái. Đây chính là tư thế lý tưởng đó! Thậm chí bụng cô đã bắt đầu tụt xuống một chút rồi. Bà dùng hai sợi dây đai để cố định hai bộ phận cảm biến hên bụng tôi rồi cắm điện máy monitor để ghi lại nhịp tim của em bé và những con co dạ con. Tôi nghe thấy nhịp tim của con trai mình. Tôi cảm động, mắt tôi mờ đi, nhưng cùng lúc một con rùng mình lo lắng thít chặt lồng ngực tôi. Rồi Rose-May giải thích với tôi các bước cần tuân thủ khi nào tôi bắt đầu cảm nhận được các cơn co, bình thường sẽ vào khoảng bốn đến năm tuần nữa. - Nếu các cơn co diễn ra mười phút một, hãy uống Spasfon và chờ nửa tiếng. Nếu cảm giác đau biến mất thì các con co đó chỉ là báo động giả. Nếu vẫn còn cảm giác đau và... Tôi cảm thấy điện thoại di động của mình đang rung lên trong túi áo khoác để không xa chỗ tôi là mấy. Tôi ngắt lời bác sĩ, ngồi dậy và cúi xuống lấy điện thoại. - Jean-Marc André đây, giọng nói ở đầu dây bên kia thông báo. Nghe máy trả lồi tự động rồi tôi mới... - Cảm ơn anh đã liên lạc lại. Tôi là đại úy Schäfer, một trong những sĩ quan cảnh sát phụ trách điều tra vụ sát hại vợ cũ của anh. Anh có còn nhớ liệu trong những ngày trước khi chết, cố ấy có đánh mất thứ gì không? - Đánh mất thứ gì? - Tôi không biết đích xác. Một món quần áo? Một món trang sức? Một chiếc ví? - Có liên quan gì tới việc cô ấy bị sát hại? - Có lẽ là không liên quan gì, nhưng vẫn cần khai thác mọi hướng điều tra. Anh không nhớ gì về một đồ vật nào đó bị thất lạc sao? Anh ta suy nghĩ một lát, rồi: - À mà có đấy... Anh ta ngưng lại giữa chừng. Tôi cảm thấy giọng anh ta nghẹn lại vì xúc động, nhưng anh ta trấn tĩnh lại được và giải thích: - Vả lại, đó chính là một trong những lý do khiến chúng tôi cãi cọ lần cuối cùng khi cô ấy gửi thằng bé cho tôi trông nom. Tôi đã trách cô ấy vì đánh mất con gấu bông Gaspard, một món đồ chơi mà nếu không có trong tay, thằng bé sẽ không ngủ được. Virginie cho rằng đã làm mất món đồ chơi đó trong công viên Monceau. Cô ấy đã nhắc đến văn phòng tiếp nhận đồ thất lạc, nhưng... Đồ thất lạc... Tôi cảm thấy tim mình đập gấp gáp trong lồng ngực. Thứ adrenalin thuần túy. - Đợi đã, anh André, tôi muốn chắc là mình đã hiểu đúng: Virginie đã đích thân tìm đến văn phòng tiếp nhận đồ thất lạc hay chỉ dự định sẽ tới đó? - Cô ấy nói với tôi là đã tới đó và điền một tờ phiếu để người ta báo tín nếu tìm ra con gấu bông. Tôi không dám tin vào tai mình. - Được rồi, cảm ơn anh. Tôi sẽ gọi lại nếu có tin tức gì mới. Tôi gỡ hai mảnh điện cực ra, đứng dậy rồi vội vã mặc lại quần áo. - Cho tôi xin lỗi nhé Rose-May, nhưng tôi phải đi đây. - Không! Chuyện này không nghiêm túc chút nào, cô Schäfer. Trong tình trạng này cô không nên... Tôi đẩy cánh cửa ra vào rồi bước vào thang máy. Tồi mở điện thoại để gọi một chiếc taxi. Tôi đi đi lại lại trong sảnh chờ xe đến. Đây là cuộc điều tra của mình. Lòng kiêu hãnh của tôi nổi lên. Tôi nghĩ đến hàng chục cảnh sát thuộc đội Hình sự đã rà soát kỹ lưỡng thời gian biểu của tất cả các nạn nhân và có thể đã bỏ qua một điều gì đó quan trọng. Điều gì đó mà chính tôi vừa mới tìm ra... * * * 36 phố Morillons, quận 15, ngay sau công viên Georges-Brassens Chiếc taxi thả tôi xuống trước trụ sở Văn phòng tiếp nhận đồ thất lạc: một tòa nhà xinh xắn được xây dựng từ những năm 1920 bằng gạch màu hồng và đá màu trắng. Ngay cả khi văn phòng này trực thuộc Cảnh sát thành phố Paris, thì đây vẫn là một cơ cấu hành chính trong đó không hề có cảnh sát nào làm việc, và tôi cũng chưa bao giờ đặt chân tới đây. Tôi trình thẻ ngành tại quầy lễ tân rồi yêu cầu được gặp người phụ trách. Trong khi chờ đợi, tôi liếc nhìn xung quanh. Đằng sau các quầy là khoảng chục nhân viên đang thờ ơ tiếp đón những người tới giao nộp đồ vật họ tìm thấy trên đường công cộng và những người tới nhận lại tài sản hoặc tới trình báo đồ thất lạc. - Stéphane Dalmasso, hân hạnh được tiếp đón cô. Tôi ngẩng lên. Hàng ria rậm, đôi gò má chảy xệ, cặp kính tròn gọn nhỏ bằng nhựa nhiều màu: ông chủ của phố Morillons có gương mặt dễ mến và âm sắc đặc Marseille. - Alice Schäfer, đội Hình sự. - Hân hạnh làm quen. Cô sắp sinh chưa? ông ta hỏi khi nhìn thấy bụng tối. - Còn một tháng rưỡi nữa, mà cũng có thể sớm hon. - Một đứa trẻ sẽ giúp cô thành người trưởng thành! ông ta nói rồi mời tôi theo vào văn phòng. Tôi bước vào một căn phòng rộng rãi được bố trí như một viện bảo tàng nhỏ nơi trưng bày những đồ vật lạ thường nhất mà văn phòng thu gom được: một Huân chương Bắc đẩu Bội tinh, một chiếc chân giả, một cái sọ người, một mảnh kim loại đến từ World Trade Center, một chiếc bình đựng tro mèo, một thanh kiếm yakusa và thậm chí có cả... một chiếc váy cưới. - Cách đây vài năm một tài xế taxi đã mang nó tới chỗ chúng tôi. Anh ta đã chở một đôi trai gái vừa trao nhẫn cho nhau. Hai người này đã nảy sinh tranh cãi và hủy hôn ngay trên đường đi, Stéphane Dalmasso giải thích. - Ông đang cai quản một cái hang Ali Baba thực sự đấy... - Đa phần người ta mang tới chỗ chúng tôi chủ yếu là ví, kính, chìa khóa, điện thoại và ô. - Ấn tượng đấy chứ, tôi vừa nói vừa liếc nhìn đồng hồ đeo tay. - Tôi có hàng đống giai thoại ấy chứ, nhưng tôi nghĩ cô đang vội, ông ta vừa đoán vừa mời tôi ngồi. Vậy thì sao nhỉ? Tại sao đội Hình sự lại tìm tới tôi?- Tôi đang điều tra một vụ giết người hàng loạt. Tôi muốn biết liệu có phải dạo gần đây có một người phụ nữ tên Virginie André đã tìm tới chỗ các ông hay không. - Để yêu cầu chúng tôi chuyện gì đây? - Để hỏi xem liệu các ông có tìm thấy một con gấu bông của con trai cô ta bị thất lạc tại công viên Monceau hay không. Ngồi trên một chiếc ghế xoay, Dalmasso nhích lại gần bàn làm việc rồi nhấn một nút trên bàn phún để kích hoạt máy tính. - Cô vừa nói là Virginie André nhỉ? ông ta vừa hỏi vừa vân vê ria mép.Tôi gật đầu xác nhận. Ông ta tiến hành tìm kiếm trong phần mềm quản lý.- Không, tồi lấy làm tiếc, trong tháng vừa qua chúng tôi không hề nhận được yêu cầu nào dưới tên này. - Có lẽ cô ta đã điền tờ khai về đồ thất lạc theo mẫu trên mạng hoặc qua điện thoại. - Nếu vậy thì hẳn tôi phải tìm ra cô ta rồi. Tất cả những yêu cầu dạng này đều buộc phải lưu lại trên cơ sở dữ liệu của chứng tôi. Các nhân viên của chúng tôi điền các mẫu đơn này trực tiếp trên máy tính kia mà. - Lạ thật, chồng cô ta vừa khẳng định với tôi là Virginie André đã tới chỗ các ông trình báo. Ông có thể xác minh thêm ba người nữa không? Tôi viết những cái tên lên tập giấy Filofax gáy lò xo đặt trên bàn làm việc rồi quay cuốn sổ lịch lại. Dalmasso giải mã chữ viết của tôi rồi nhập lần lượt ba dữ liệu cần tìm: "Clara Maturin'', "Nathalie Roussel", "Maud Morel". - Không, cả ba cái tên đều không cho ra kết quả nào. Tôi cảm thấy thất vọng vô bờ bến. Nhiều giây sau tôi mới có thể chấp nhận sai lầm của mình. - Được rồi, đành vậy. Cảm ơn ông đã giúp đỡ. Trong khi đứng dậy để rời khỏi văn phòng, tôi cảm thấy nhoi nhói nên vội áp tay lên bụng. Đứa bé vẫn liên tục cử động. Nó đạp mạnh vào bụng tôi như thể muốn kéo căng bụng tôi ra. Trừ phi đó chính là những con co... - Cô ổn chứ? Dalmasso lo lắng hỏi. Cô có muốn tôi gọi cho cô một chiếc taxi không? - Làm ơn, tôi vừa nói vừa ngồi lại xuống ghế. - Claudette! ông gọi cô thư ký. Gọi giúp tôi một chiếc xe cho cô Schäfer đây. Hai phút sau, một phụ nữ thấp bé với mái tóc nhuộm màu đỏ hung kinh dị, vẻ mặt bất mãn và khắc nghiệt xuất hiện trong văn phòng, tay cầm chiếc tách nghi ngút khói. - Taxi sẽ tới ngay thôi, chị ta cam đoan. Cô muốn uống một chút trà ngọt không? Tôi nhận lấy món đồ uống rồi dần dần hồi tính. Tôi không biết tại sao nhưng người phụ nữ thấp bé kia vẫn nhìn tôi với vẻ quàu quạu. Bỗng nhiên một câu hỏi lướt qua tâm trí tôi. - Ông Dalmasso này, tôi quên mất không hỏi ông một việc: có ai trong số các nhân viên của ông sở hữu một chiếc xe tay ga ba bánh không? - Theo tôi biết thì không. Đó đúng ra là một thứ đồ dùng của đàn ông phải không? Mà như cô thấy đấy, phần lớn nhân viên ở đây đều là nữ. - Erik chẳng đi làm với một chiếc xe kiểu đó đấy thôi, nữ thư ký xen ngang cuộc trò chuyện giữa chúng tôi. Tôi nhìn thẳng vào mắt Dalmasso. - Erik là ai vậy? - Erik Vaughn là một nhân viên thay thế tạm thời. Anh ta làm việc cho văn phòng chúng tôi trong các dịp nghỉ lễ, trong các kỳ cao điểm và khi một trong những nhân viên của chúng tôi nghỉ chữa bệnh trong khoảng thời gian dài. - Hôm nay anh ta có đi làm không? - Không, nhưng chắc chắn chúng tôi sẽ lại nhận anh ta vào làm dịp lễ Giáng sinh. Qua tấm vách kính khía rãnh của văn phòng, tôi thoáng thấy chiếc taxi đang chờ mình dưới mưa. - Ông có địa chỉ của anh ta không? - Chúng tôi sẽ tìm cho cô, ông ta cam đoan rồi chìa một tờ giấy nhắn còn trắng cho cô thư ký. Chi tiết mới này nhen nhóm lại nhiệt tình trong tôi. Tôi không muốn lãng phí thời gian. Tôi vội vã ghi số điện thoại và email của mình lên cuốn sổ lịch của Dalmasso. - Làm ơn thống kê lại những khoảng thời gian Vaughn đã từng làm việc tại văn phòng này trong vòng hai năm trở lại đây rồi gửi cho tôi vào điện thoại hoặc hòm thư điện tử nhé. Tôi cầm tờ giấy dính "Claudette" đang chìa cho tôi, đóng sập cửa sau lưng rồi chui vào taxi. * * * Bên trong chiếc taxi nồng nặc mùi mồ hôi. Chiếc radio bật âm lượng to hết cỡ và đồng hồ tính tiền đã hiển thị số tiền cần thanh toán là 10 euro. Tôi đưa địa chỉ cho tài xế - một tòa nhà nằm trên phố Parent-de-Rosan thuộc quận 16 - rồi kiên quyết đề nghị anh ta giảm âm lượng radio. Anh ta còn tỏ ra trịch thượng cho tới khi tôi chìa thẻ ngành ra. Tôi bồn chồn, run rẩy không yên, người nóng bừng bừng. Tôi cần trấn tĩnh lại. Tôi thầm nhẩm lại một kịch bản được xây dựng dựa trên những giả thiết không chắc đã xảy ra nhưng tôi lại muốn tin vào. Erik Vaughn, một nhân viên của văn phòng trả đồ thất lạc, tận dụng vị trí làm việc của mình để tìm ra những nạn nhân tiếp theo. Cả bốn người Clara Maturin, Nathalie Roussel, Maud Morel và Virginie André đều đã gặp hắn, nhưng hắn không bao giờ nhập phiếu thông tín của họ vào phần mềm của văn phòng. Chính vì thế mà tên của họ không hiển thị trên phần mềm. Hắn đã khiến họ tin tưởng, trò chuyện với họ, thu thập tối đa thông tín: hắn biết địa chỉ nhà họ, hắn biết họ sống một mình. Sau cuộc gặp đầu tiên này, hắn để vài ngày trôi qua rồi tìm tới nhà con mồi, viện cớ mang trả lại họ món đồ thất lạc. Thật không may, cả bốn phụ nữ này lại thấy việc mời hắn vào nhà là chuyện bình thường. Người ta không bao giờ dè chừng người mang tới tin vui. Người ta nhẹ nhõm vì tìm lại được chiếc khăn mình yêu thích, chiếc điện thoại di động hoặc món đồ chơi gấu bông của con trai mình. Thế nên người ta mở rộng cửa, ngay cả khi đã quá chín giờ tối. Không, mình đang nghĩ vẩn vơ rồi. Cơ may nào để giả thiết này có cơ sở? Một trên một nghìn chăng? Tuy nhiên... Quãng đường khá ngắn. Sau khi ngược lên đại lộ Victor-Hugo, chiếc xe đi ngang qua trước bệnh viện Georges-Pompidou rồi băng qua sông Seme, không xa cửa ô Saint-Cloud. Đừng hành động đơn độc... Tôi biết hon ai hết rằng giải pháp cho một cuộc điều tra hình sự không phải là một công việc cá nhân. Đó là một trình tự ăn khớp với nhau và hết sức quy tắc hóa, kết quả của một công việc tập thể lâu dài. Chính vì thế mà tôi rất muốn gọi cho Seymour và chia sẻ với cậu ấy về những gì mình phát hiện được. Tôi lưỡng lự, rồi quyết định chờ cho tới lúc nhận được những mốc ngày tháng Erik Vaughn từng làm việc cho Văn phòng tiếp nhận đồ thất lạc. Điện thoại của tôi rung lên. Tôi kiểm tra hòm thư điện tử. Dalmasso đã gửi cho tôi thời gian biểu của Vaughn dưới dạng bảng Excel. Tôi chạm vào màn hình, nhưng tệp đính kèm không chịu mở ra. Định dạng không tương thích. Khỉ thật... - Đến nơi rồi. Gã tài xế tính tình khó chịu thả tôi ngay giữa con đường nhỏ một chiều kẹt giữa phố Boileau và đại lộ Mozart. Mưa vẫn nặng hạt. Nước chảy ngoằn ngoèo trên cổ tôi. Tôi cảm thấy sức nặng của đứa bé trong bụng, rất thấp và rất nặng, cảm nhận rõ đến nỗi càng lúc tôi càng khó bước đi. Quay lại thôi. Giữa những ngôi nhà phố và những tòa nhà nhỏ, tôi nhận ra một tòa nhà màu xám nhạt mang số nhà như cô thư ký đã ghi ra giấy. Một tòa kiến trúc đặc trưng cho những năm 1970: một thang bê tông gớm ghiếc chạy suốt chiều dọc làm biến dạng con phố. Tôi đọc thấy cái tên "Vaughn" bên trên nút chuông bèn nhấn chuông. Không có ai nhấc điện thoại nội bộ. Trong phố, trên chỗ đỗ dành cho xe hai bánh có một chiếc mô tô, một chiếc Chappy Yamaha cũ kỹ và một chiếc xe tay ga ba bánh. Tôi vẫn nhấn chuông thêm một lúc nữa rồi nhấn lên mọi nút chuông cho tới khi một người sống trong tòa nhà mở cửa cho tôi. Tôi ghi lại tầng nhà nơi Vaughn sống rồi từ tốn leo cầu thang bộ. Tôi lại bắt đầu cảm thấy những cú thúc trong bụng. Những cú đạp cảnh báo. Tôi biết mình đang làm một việc ngu ngốc, nhưng điều gì đó thôi thúc tôi tiếp tục dấn bước. Cuộc điều tra của tôi. Tôi không bật đèn. Tôi leo từng bậc cầu thang một trong bóng tối. Tầng 7. Cánh cửa ra vào căn hộ của Vaughn khép hờ. Tôi vừa lấy khẩu súng từ túi xách ra vừa mừng thầm là đã có linh cảm trước để mang theo súng. Hai tay tôi siết chặt báng súng. Tôi cảm thấy mồ hôi pha lẫn nước mưa đang chảy ròng ròng trên lưng xuống tận xưong sống. Tôi hét to: - Erik Vaughn phải không? Cảnh sát đây. Tôi sẽ vào bên trong. Tôi đẩy cửa, hai bàn tay vẫn siết chặt báng súng. Tôi tiến bước trong hành lang. Tôi gạt cầu dao, nhưng điện đã bị ngắt. Bên ngoài, mưa gõ nhịp trên mái. Căn hộ gần như trống trải. Không đèn đuốc, không đồ đạc, hên sàn phòng khách có vỏn vẹn vài chiếc thùng các tông. Rõ ràng là đối tượng đã biến mất. Nỗi lo của tôi giảm xuống phần nào. Bàn tay phải của tôi rời khẩu súng để lôi điện thoại ra. Đang bấm gọi cho Seymour, tôi cảm thấy ai đó xuất hiện đằng sau mình. Tôi buông điện thoại rồi quay ngoắt lại thì thấy một gã đàn ông với gương mặt khuất sau chiếc mũ bảo hiểm. Tôi mở miệng toan hét lên, nhưng trước khi bất cứ tiếng kêu nào kịp cất lên, tôi cảm thấy một lưỡi dao cắm ngập vào da thịt mình. Lưõi dao ấy đang giết chết con trai tôi. Vaughn vẫn tiếp tục đâm vào bụng tôi. Hai chân tôi bủn rủn và tôi ngã lăn ra đất. Tôi lờ mờ nhận ra hắn đang cởi tất da chân của tôi. Rồi tôi cảm thấy mình đang rời đi, bị cuốn theo một dòng sông máu và thù hận. Ý nghĩ sau cùng của tôi hướng về bố. Chính xác hon là hướng về câu nói ông đã cho xăm lên cẳng tay: Mưu mẹo xảo quyệt nhất của quỷ dữ là khiến bạn tin rằng nó không tồn tại.