🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Công Tác Thông Tin, Tuyên Truyền Chủ Quyền Việt Nam Trên Hai Quần Đảo Hoàng Sa, Trường Sa
Ebooks
Nhóm Zalo
•
CUNG TAC
THONG TIN, TUYEN TRUYEN
,. ' .
CHU QUYEN \'q:T NAM
TREN HAI QUAN DAO
HOANG SA, TRUONG SA
ffl NH.A XUAT BAN CHiNH TRI Qu6c GIA S1/TH.f.T
HỘI ĐỒNG CHỈ ĐẠO XUẤT BẢN
Chủ tịch Hội đồng
Phó Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương LÊ MẠNH HÙNG
Phó Chủ tịch Hội đồng
Q. Giám đốc - Tổng Biên tập
Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật PHẠM CHÍ THÀNH
Thành viên
VŨ TRỌNG LÂM
NGUYỄN ĐỨC TÀI
TRẦN THANH LÂM
NGUYỄN HOÀI ANH
LỜI NHÀ XUẤT BẢN
Việt Nam là quốc gia đầu tiên xác lập chủ quyền và quản lý liên tục hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Nhà nước Việt Nam đã xác lập và thực thi chủ quyền đối với hai quần đảo này từ hàng trăm năm nay một cách thật sự, liên tục và hòa bình. Trước những diễn biến phức tạp về tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông, Đảng và Nhà nước Việt Nam chủ trương đấu tranh bảo vệ chủ
quyền biển, đảo và lợi ích quốc gia trên biển bằng các biện pháp hòa bình, dựa trên luật pháp quốc tế, phát huy sức mạnh tổng hợp của các lực lượng, các phương tiện, các biện pháp về chính trị, tư tưởng, kinh tế, pháp lý và ngoại giao, trong đó công tác thông tin, tuyên truyền là một mặt trận quan trọng, cấp thiết và lâu dài.
Trong cuộc đấu tranh khó khăn, phức tạp và lâu dài để bảo vệ chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, công tác thông tin, tuyên truyền góp phần hình thành nhận thức đầy đủ, đúng đắn trong nhân dân về căn cứ pháp lý và cơ sở lịch sử khẳng định chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo này; giúp bạn bè quốc tế thấy rõ chính nghĩa, lẽ phải, quan điểm hòa hiếu và ý chí quyết tâm của nhân dân Việt Nam,
5
qua đó tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng, dư luận quốc tế.
Nhằm góp phần từng bước nâng cao nhận thức đúng đắn, đầy đủ và sâu sắc về vị trí, vai trò của biển, đảo đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ hội nhập và phát triển đất nước nói chung cũng như nhằm giúp bạn đọc hiểu rõ hơn công tác thông tin, tuyên truyền về chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa nói riêng cho cán bộ ở cơ sở và nhân dân, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật xuất bản cuốn sách Công tác thông tin, tuyên truyền chủ quyền Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa do Tiến sĩ Lê Nhị Hòa, giảng viên Học viện Chính trị Khu vực III, Đà Nẵng biên soạn.
Nội dung cuốn sách phân tích rõ vai trò, tầm quan trọng của công tác thông tin, tuyên truyền; khẳng định chủ trương của Đảng và Nhà nước trong việc bảo vệ chủ quyền biển, đảo, đồng thời cũng chỉ rõ những khó khăn, thách thức trong đấu tranh bảo vệ chủ quyền Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, từ đó nâng cao nhận thức và hiểu biết của nhân dân trong đấu tranh, phản bác các thông tin sai lệch về chủ quyền của Việt Nam ở hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa; đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả công tác thông tin, tuyên truyền về chủ quyền biển, đảo Việt Nam. Xin giới thiệu cuốn sách cùng bạn đọc.
Tháng 7 năm 2019
NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA SỰ THẬT 6
LỜI NÓI ĐẦU
Quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa là một bộ phận không thể tách rời của lãnh thổ Việt Nam, được các thế hệ người Việt khai phá, giữ gìn trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước. Điều này không chỉ được lưu giữ trong các tài liệu của Nhà nước Việt Nam mà còn được thể hiện qua các tư liệu, bản đồ quốc tế. Các tài liệu trong và ngoài nước đã khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa trên các khía cạnh: lịch sử, pháp lý và thực tiễn quốc tế. Việt Nam có đầy đủ cơ sở pháp lý, bằng chứng về lịch sử và văn hóa để chứng minh chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, đồng thời chủ trương giải quyết những bất đồng, tranh chấp bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở tôn trọng luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982 (UNCLOS 1982), Tuyên bố về
ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) và những thỏa thuận với các quốc gia có liên quan nhằm giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển bền vững đất nước. Việt Nam chủ trương bảo vệ chủ
7
quyền và các lợi ích hợp pháp trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa bằng sức mạnh tổng hợp, phát huy sức mạnh của các lực lượng, phương tiện, biện pháp chính trị, tư tưởng, kinh tế, pháp lý và ngoại giao, trong đó công tác thông tin, tuyên truyền là một mặt trận quan trọng.
Cuốn sách Công tác thông tin, tuyên truyền chủ quyền Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa tập trung phân tích, làm rõ vai trò của công tác thông tin, tuyên truyền trong đấu tranh bảo vệ, khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo này; đánh giá thực trạng công tác thông tin, tuyên truyền chủ quyền Việt Nam, đấu tranh phản bác các luận điệu tuyên truyền sai trái, xuyên tạc chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo; rút ra những kinh nghiệm và đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác thông tin, tuyên truyền chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong quá trình nghiên cứu, biên soạn, song cuốn sách không tránh khỏi những hạn chế. Tác giả mong nhận được những ý kiến đóng góp của bạn đọc trong cả
nước để nội dung cuốn sách được hoàn thiện hơn trong lần xuất bản sau.
TÁC GIẢ
Tiến sĩ Lê Nhị Hòa
8
Chương 1
CHỦ QUYỀN CỦA VIỆT NAM
TRÊN HAI QUẦN ĐẢO HOÀNG SA, TRƯỜNG SA VÀ VAI TRÒ
CỦA CÔNG TÁC THÔNG TIN, TUYÊN TRUYỀN TRONG ĐẤU TRANH BẢO VỆ CHỦ QUYỀN CỦA VIỆT NAM TRÊN HAI QUẦN ĐẢO NÀY
I. CHỦ QUYỀN CỦA VIỆT NAM
TRÊN HAI QUẦN ĐẢO HOÀNG SA,
TRƯỜNG SA - QUÁ TRÌNH XÁC LẬP, THỰC THI VÀ BẢO VỆ CHỦ QUYỀN
1. Chủ quyền và chủ quyền quốc gia của Việt Nam
Theo Từ điển tiếng Việt: Chủ quyền là quyền làm chủ của một nước trong các quan hệ đối nội và đối ngoại1. Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam:
_______________
1. Viện Ngôn ngữ học: Từ điển tiếng Việt, GS. Hoàng Phê (Chủ biên), tái bản có sửa chữa và bổ sung, Nxb. Hồng Đức, Hà Nội, 2016, tr.226.
9
Chủ quyền quốc gia gồm quyền tối cao của quốc gia trong phạm vi lãnh thổ của mình và quyền độc lập của quốc gia trong quan hệ quốc tế. Quyền tối cao của quốc gia ở trong nước thể hiện ở quyền lực đầy đủ để giải quyết mọi vấn đề chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa,... không có sự can thiệp từ phía các quốc gia khác và các tổ chức quốc tế. Quyền độc lập của quốc gia trong quan hệ quốc tế thể hiện ở chỗ không có một quyền lực nào, một cơ
quan nào, một tổ chức quốc tế nào đứng trên các quốc gia. Tất cả các quốc gia tham gia quan hệ quốc tế với tư cách là chủ thể bình đẳng và hoàn toàn độc lập, tự quyết định các vấn đề đối nội và đối ngoại của mình. Những nội dung này được khẳng định trong pháp luật của từng quốc gia và trong các văn bản pháp lý quốc tế1. Vấn đề bình đẳng về chủ quyền giữa các quốc gia đóng vai trò quan trọng trong việc thiết lập, xây dựng cũng như duy trì một trật tự quốc tế trong quan hệ giữa các quốc gia. Nguyên tắc bình đẳng chủ quyền giữa các quốc gia được xem là nguyên tắc cơ bản và hoàn toàn phù hợp với hệ thống các nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế.
_______________
1. Hội đồng Quốc gia chỉ đạo biên soạn Từ điển Bách khoa Việt Nam: Từ điển Bách khoa Việt Nam, Trung tâm biên soạn Từ điển Bách khoa Việt Nam, Hà Nội, 1995, t.1, tr.519.
10
Chủ quyền và lãnh thổ quốc gia Việt Nam (bao gồm đất liền, vùng trời, vùng biển và hải đảo) được hình thành và xác lập trong lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc, là những giá trị thiêng liêng, bất khả xâm phạm. Lịch sử dân tộc Việt Nam luôn gắn liền với những cuộc kháng chiến bền bỉ để bảo vệ độc lập, chủ
quyền, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia.
Để ứng phó với các triều đại phong kiến phương Bắc luôn thường trực tư tưởng “bình thiên hạ” và chính sách “viễn giao cận công”1, nền ngoại giao Việt Nam trong lịch sử luôn thể hiện tinh thần hòa hiếu, khoan dung, mềm mỏng, linh hoạt, nhằm tạo môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước. Sau mỗi lần buộc phải tiến hành kháng chiến để bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, ông cha ta “dùng biện sĩ bàn hòa” để dập tắt tham vọng của kẻ thù. Người Việt Nam luôn coi trọng hòa bình và lấy hòa bình làm phương châm ngoại giao, do đó nét nổi bật của Việt Nam trong ứng xử, ứng phó với kẻ thù chính là tính hòa hiếu; đây cũng là nét đẹp độc đáo trong văn hóa quân sự Việt Nam.
_______________
1. Viễn giao cận công tạm dịch là thân xa đánh gần, với ý nghĩa là tăng cường sức mạnh nhằm hạn chế nguy cơ xảy ra xung đột với quốc gia láng giềng, đồng thời liên kết chặt chẽ với các nước.
11
Xưa nay, truyền thống ngoại giao Việt Nam là hòa hiếu, “Đem đại nghĩa thắng hung tàn. Lấy chí nhân thay cường bạo”. Mỗi lần buộc phải kháng chiến chống ngoại xâm thì sau chiến tranh lại vượt qua đau thương, khoan dung, mềm mỏng khôi phục bang giao để “tắt muôn đời lửa chiến tranh”1. Đường lối ngoại giao nhất quán của dân tộc Việt Nam là giữ vững độc lập, chủ quyền, đề cao hòa bình, sống hòa thuận với các nước, trước hết là các nước láng giềng. Các vương triều phong kiến Đại Việt bao giờ cũng kiên trì ngoại giao hòa bình, hòa hiếu, thân thiện, đồng thời sẵn sàng giáng trả những kẻ xâm phạm chủ quyền, lãnh thổ quốc gia. Lời dụ của Hoàng đế Lê Thánh Tông cho Thái bảo Kiến Dương bá Lê Cảnh Huy (năm 1473): “Một thước núi, một tấc sông của ta không nên vứt bỏ, ngươi nên cố cãi, chớ cho họ lấn dần; nếu họ không nghe còn có thể sai quan sang sứ Bắc triều bày tỏ phải trái. Nếu ngươi dám lấy một thước, một tấc đất của Thái Tổ mà đút mồi cho giặc thì phải tội tru di”2 vẫn luôn là sự cảnh báo, nhắc nhở về trách nhiệm bảo vệ, giữ vững
_______________
1. Ngoại giao Việt Nam 1945-2000, Tái bản lần thứ hai, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2015, tr.17-18.
2. Đại Việt Sử ký toàn thư, Nxb. Văn hóa - Thông tin, Hà Nội, 2004, t.2, tr.344.
12
chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ đất nước cho muôn đời sau.
Việt Nam luôn coi trọng hòa hiếu với các nước, các dân tộc trong khu vực, nhất là với các nước láng giềng, các nước lớn, đồng thời kiên quyết bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ khi bị
xâm phạm, kết hợp chặt chẽ phương thức “đánh” và “đàm”; thực hiện ngoại giao “tâm công”, lấy đại nghĩa thắng hung tàn; kiên trì các vấn đề nguyên tắc, bảo vệ lợi ích dân tộc song cũng linh hoạt trong sách lược đấu tranh, biết giành thắng lợi từng bước để đi đến thắng lợi hoàn toàn... Kế thừa truyền thống ngoại giao của dân tộc, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã xây dựng nền ngoại giao Việt Nam hiện đại theo tinh thần hòa hiếu, “thêm bạn bớt thù”, “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, Việt Nam “làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và không gây thù oán với một ai”1.
Tuyên ngôn của Quốc hội Việt Nam (kỳ họp đầu tiên của Quốc hội khóa I ngày 02/3/1946) nhấn mạnh: Chủ quyền của nước Việt Nam độc lập thuộc về toàn thể nhân dân Việt Nam. Vận mệnh quốc gia Việt Nam ở trong tay Quốc hội Việt Nam. Chính thể của nước Việt Nam là chính thể
Dân chủ Cộng hòa, có nhiệm vụ bảo vệ tự do và _______________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, t.5, tr.256.
13
mưu đồ hạnh phúc cho mọi tầng lớp nhân dân1. Bảo vệ độc lập, chủ quyền quốc gia là vấn đề hệ trọng, xuyên suốt mọi thời kỳ. Trong quá trình đổi mới và hội nhập quốc tế, Đảng ta xác định: Những ai chủ trương tôn trọng độc lập, chủ quyền, thiết lập và mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác của chúng ta. Bất kể thế lực nào có âm mưu và hành động chống phá mục tiêu của nước ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều là đối tượng đấu tranh2.
Bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền quốc gia của Việt Nam là tổng thể các hoạt động có tổ chức của cả hệ thống chính trị và toàn dân, do lực lượng chuyên trách làm nòng cốt, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành tập trung, thống nhất của Nhà nước nhằm thực thi, giữ vững chủ quyền, quyền chủ quyền quốc gia, chống lại mọi hành vi vi phạm chủ quyền, quyền chủ quyền quốc gia được luật pháp quốc tế công nhận, được
_______________
1. Theo Triệu Văn Hiển: “Kỳ họp đầu tiên của Quốc hội khóa I năm 1946”, Tạp chí Thế giới Di sản (Cơ quan của Hội Di sản Văn hóa Việt Nam), số 3/2016 (114), tr.69.
2. Xem Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương: Tài liệu học tập Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003, tr.44.
14
quy định trong luật pháp Việt Nam. Là một dân tộc phải trải qua nhiều cuộc chiến tranh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, Việt Nam triệt để tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ
và lợi ích của các quốc gia khác trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, đồng thời cũng đòi hỏi các quốc gia khác phải tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và các quyền lợi quốc gia của mình. Hiến pháp Việt Nam năm 2013 nêu rõ: “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một nước độc lập, có chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bao gồm đất liền, hải đảo, vùng biển và vùng trời”1. “Mọi hành vi chống lại độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, chống lại sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều bị nghiêm trị”2.
Trước những diễn biến phức tạp và tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông, “Việt Nam luôn mong muốn có hòa bình, hữu nghị nhưng phải trên cơ sở bảo đảm độc lập, tự chủ, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, vùng biển và nhất định không chấp nhận đánh đổi điều thiêng liêng này để nhận lấy một thứ hòa
_______________
1, 2. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2018, tr.8-9, 14-15.
15
bình, hữu nghị viển vông, lệ thuộc nào đó”1. Các quốc gia trên thế giới, dù lớn dù nhỏ đều cần và phải tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của các nước khác; giải quyết bất đồng, tranh chấp lãnh thổ, lãnh hải bằng biện pháp hòa bình, tuân thủ luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982. “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập, hợp tác quốc tế trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng có lợi; tuân thủ Hiến chương Liên hợp quốc và điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên;...”2.
2. Chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa từ góc nhìn lịch sử
Việt Nam là quốc gia ven Biển Đông, có bờ biển dài hơn 3.260km từ Bắc xuống Nam, với khoảng 4.000 hòn đảo lớn, nhỏ, trong đó có hai quần đảo
_______________
1. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trả lời phỏng vấn Hãng tin AP và Reuters tại Manila (Philíppin), ngày 22/5/2014, xem Tạp chí Người làm báo (Hội Nhà báo Việt Nam), số 82 (373), tháng 3/2015, tr.34.
2. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Sđd, tr.15.
16
Hoàng Sa, Trường Sa. Lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam gắn liền với biển, đảo qua truyền thuyết Lạc Long Quân dẫn 50 người con xuống biển, chinh phục và khai phá biển. Ngay từ buổi sơ khai của dân tộc, biển, đảo đã là môi trường sinh tồn, làm ăn, sinh sống của các bộ lạc người Việt cổ. Thời Hùng Vương dựng nước, nhân dân ta đã tiến ra biển khơi để đánh bắt hải sản, đồi mồi, ngọc trai1. Việc chinh phục biển của các bộ lạc người Việt đã tạo ra những mối giao lưu rộng rãi với bên ngoài. Đây là một nét độc đáo trong quá trình hình thành Nhà nước Văn Lang, góp phần quy định bản sắc văn hóa dân tộc từ thời dựng nước. Lấn biển để dựng nước và thông qua biển để
giữ nước là một nét độc đáo của dân tộc Việt Nam trong quá khứ. Đó cũng chính là nét độc đáo của bản sắc văn hóa Việt Nam2.
Nước Việt Nam nằm ở bờ Tây của Biển Đông3. Biển Đông là biển rìa Tây Thái Bình Dương.
_______________
1. Xem Vũ Phi Hoàng: Vùng biển và quyền làm chủ, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1978, tr.86. 2. Xem Ban Tuyên giáo Trung ương: Chiến lược biển Việt Nam: Từ quan điểm đến thực tiễn, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010, tr.106.
3. Biển Đông là một trong những biển lớn của Thái Bình Dương, có diện tích khoảng 3,5 triệu km², được bao bọc bởi 10 quốc gia và vùng lãnh thổ: Việt Nam, Trung Quốc, Philíppin, Inđônêxia, Brunây, Malaixia, Xingapo, Thái Lan, Campuchia và Đài Loan (Trung Quốc).
17
Tên gọi Biển Đông đã được ghi trong cuốn Dư địa chí của Nguyễn Trãi năm 1435 thời vua Lê Thái Tông1. Hơn 500 năm trước, Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585) đã truyền dặn lại ý chí, khát vọng, tâm huyết và trách nhiệm hãy nắm chặt trong tay chủ quyền Việt Nam ở
Biển Đông: “Vạn lý Đông minh quy bả ác. Ức niên Nam cực điện long bình” (Biển Đông vạn dặm dang tay nắm vững, Nam Việt muôn năm vững trị bình)2.
Việt Nam là quốc gia đầu tiên phát hiện, quản lý và thực thi chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa liên tục, hòa bình theo quy định của luật pháp quốc tế nhất là Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982.
Nhiều sách địa lý và bản đồ cổ của Việt Nam ghi chép rõ Bãi Cát Vàng, Hoàng Sa, Vạn lý Hoàng Sa, Đại Trường Sa hoặc Vạn Lý Trường Sa từ lâu đã là lãnh thổ Việt Nam. Các bản đồ của các nhà hàng hải phương Tây từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII đều vẽ chung quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa là một dưới cái tên Pracel, Parcel
_______________
1. Toàn cảnh Biển đảo Việt Nam, Nxb. Thanh Niên, Hà Nội, 2012, tr.9.
2. Nguyễn Khắc Mai: “Minh triết về làm chủ Biển Đông”, Tạp chí Xưa và Nay, số 349 + 350, tháng 02/2010, tr.15.
18
hay Paracels1. Theo Toản tập Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư (do Đỗ Bá, tên chữ là Công Đạo biên soạn vào thế kỷ XVII), ít nhất đến thế kỷ XVII bản đồ Việt Nam đã gọi hai quần đảo bằng cái tên chung là Bãi Cát Vàng và ghi vào địa hạt huyện Bình Sơn, phủ Quảng Nghĩa. Lúc đó, Bãi Cát Vàng còn được gọi bằng nhiều tên khác nhau như Hoàng Sa, Cồn Vàng, Trường Sa, Đại Hoàng Sa, Đại Trường Sa, Vạn Lý Trường Sa,... và nay là Hoàng Sa và Trường Sa2. Việc thực thi chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là hoàn toàn phù hợp, đáp ứng các tiêu chuẩn của luật pháp quốc tế về thụ đắc lãnh thổ, phù hợp với các quy định trong Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982. Trong quá trình xác lập chủ quyền về mặt nhà nước đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, nội dung chính sách về biển của Nhà nước Việt Nam luôn phù hợp với hệ thống quy phạm pháp lý quốc tế. Pháp luật quốc tế xác định nguyên tắc xác lập chủ quyền là nguyên tắc chiếm hữu thật sự và thực hiện quyền lực nhà nước một cách thật sự, _______________
1. Xem Bộ Ngoại giao - Ủy ban Biên giới quốc gia: Chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2014, tr.11.
2. Bộ Ngoại giao Việt Nam: “Các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và luật pháp quốc tế”, Báo Nhân Dân, số 12241, ngày 26/4/1988.
19
liên tục và hòa bình. Áp dụng nguyên tắc trên của pháp luật quốc tế vào trường hợp hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa cho thấy, các bằng chứng lịch sử và căn cứ pháp lý đều khẳng định hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền Việt Nam.
Triều Nguyễn (1802-1945) nâng tầm quản lý hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa lên một vị thế mới về mặt quản lý nhà nước. Theo thống kê, có 19 đơn vị Châu bản triều Nguyễn1 phản ánh các nội dung về các hoạt động quản lý và thực thi chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Đây là những chứng cứ
mang giá trị kép về lịch sử và pháp lý, có sức thuyết phục cao, khẳng định chủ quyền lâu đời của Việt Nam ở Hoàng Sa và Trường Sa2. Ý thức sâu sắc về chủ quyền biển, đảo, nhà Nguyễn đã
_______________
1. Châu bản triều Nguyễn (1802-1945) là loại văn thư có dấu phê duyệt của Hoàng đế và ấn tín các cơ quan nhà nước, là những văn bản mang tính pháp lý cao nhất của quốc gia theo chế độ quân chủ tập quyền. Với những giá trị xác thực và những ý nghĩa mang giá trị quốc tế, ngày 14/5/2014, Tổ chức Giáo dục Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO) đã công nhận Châu bản triều Nguyễn là Di sản tư liệu thuộc Chương trình Ký ức thế
giới, khu vực châu Á - Thái Bình Dương.
2. Phan Huy Lê: “Châu bản triều Nguyễn và những chứng cứ lịch sử - pháp lý về chủ quyền của Việt Nam đối với Hoàng Sa - Trường Sa”, Tạp chí Xưa và Nay, Đặc khảo Hoàng Sa và Trường Sa, số 449, tháng 7/2014.
20
đưa kiến thức về hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa vào sách dạy cho học trò. Khải đồng thuyết ước là sách giáo khoa dạy trẻ học vỡ lòng bằng chữ Hán thời vua Tự Đức, có vẽ bản đồ Hoàng Sa (có tên là “Bản quốc địa đồ” ở các trang 15, 16 của sách).
Sau khi nhà Nguyễn ký với Pháp Hiệp ước Giáp Thân ngày 06/6/1884, Pháp đã trở thành đại diện cho quyền lợi Việt Nam trong quan hệ đối ngoại, tiếp tục thực hiện chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Năm 1938, Pháp dựng bia chủ quyền, ghi rõ: “Cộng hòa Pháp, Vương quốc An Nam, quần đảo Hoàng Sa, 1816 - đảo Pattle - 1938”. Trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, cụ Huỳnh Thúc Kháng đã nhiều lần đề cập và khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa trên báo Tiếng Dân1. Trong bài “Dấu tích đảo Tây Sa (Paracels) trên lịch sử Việt Nam ta và giá trị bản “Phủ biên tạp lục”” (báo Tiếng Dân, số 1284, ngày 23/7/1938), dựa trên nhiều nguồn tư liệu có giá trị khoa học và pháp lý, cụ Huỳnh Thúc Kháng đã khẳng định: “Theo các báo cáo ta gần đây sưu tập các tài liệu về đảo Tây Sa để chứng minh thì đảo ấy là phần sở hữu của _______________
1. Báo Tiếng Dân do cụ Huỳnh Thúc Kháng làm chủ bút, thành lập ngày 10/8/1926 tại Huế.
21
nước Nam ta, vì chính người Nam đã chiếm trước hết và đã kinh dinh các công cuộc ở đảo ấy”. Với kiến thức lịch sử dân tộc uyên bác, cụ Huỳnh Thúc Kháng đã khai thác di sản văn hóa của tiền nhân với thái độ nghiêm túc, trân trọng và đưa ra kết luận đúng đắn về chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa1.
Theo cụ, vấn đề chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa cần chú ý các yếu tố: vấn đề tranh chấp quần đảo Hoàng Sa đã diễn ra từ cuối thập niên 40 của thế kỷ XX; quốc gia nào có đầy đủ các bằng chứng, cứ liệu sớm về phân thư, chúc thư, luật điền thổ - lập nghiệp của tiền nhân để lại, cũng như các thư tịch cổ khẳng định chủ quyền của quần đảo này thì quốc gia đó có luận cứ khoa học khẳng định chủ quyền Hoàng Sa thuộc về mình; cần sử dụng các tư liệu Hán - Nôm, các tài liệu thuộc về thư tịch cổ để tìm cơ sở khoa học chứng minh chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa thuộc về Việt Nam từ lâu; cần chú ý nghiên cứu triều Nguyễn về vấn đề bảo vệ chủ quyền biên giới quốc gia, đặc biệt là biên giới biển, đảo; trong tất cả các
_______________
1. Xem Trường Đồng: “Cụ Huỳnh với chủ quyền Hoàng Sa”, http://baoquangnam.vn/dat-va-nguoi-xu quang/nha-vat/201609/ky-niem-140-nam-ngay-sinh-cu huynh-thuc-khang-cu-huynh-voi-chu-quyen-hoang-sa 701588/, cập nhật thứ Sáu, ngày 30/9/2016.
22
tài liệu cổ, tác phẩm Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn là tài liệu có giá trị nhất về chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam1.
Chủ quyền Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đã được khẳng định và ghi nhận tại các hội nghị quốc tế. Tại Hội nghị San Francisco (từ ngày 04 đến 08/9/1951, với sự tham dự của 51 quốc gia), ông Trần Văn Hữu - Trưởng Đoàn đại biểu Chính phủ Bảo Đại tuyên bố: “... để dập tắt những mầm mống các tranh chấp sau này, chúng tôi khẳng định chủ quyền đã có từ lâu đời của chúng tôi đối với các quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa, những quần đảo luôn thuộc về Việt Nam”2 mà không gặp bất cứ sự phản đối hoặc bảo lưu quốc tế nào. Các văn kiện pháp lý quốc tế từ Tuyên bố Cairo ngày 27/11/1943 và Tuyên ngôn hội nghị Postdam ngày 26/7/1945 khẳng định lại nội dung Tuyên bố Cairo cho đến Hòa ước San Francisco ký ngày 08/9/1951 đã không xác nhận chủ quyền của bất cứ quốc gia nào khác đối với hai quần đảo Hoàng Sa và _______________
1. Nguyễn Văn Mạnh: “Huỳnh Thúc Kháng với vấn đề chủ quyền Hoàng Sa của Việt Nam”, Báo Công an thành phố Đà Nẵng, số 96 (3526), ngày 21/4/2012, tr.6.
2. Bộ Ngoại giao - Ủy ban Biên giới quốc gia: Chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2012, tr.38-39.
23
Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam. Đồng thời, việc không một quốc gia nào tại Hội nghị San Francisco (năm 1951) phản đối hoặc bảo lưu về tuyên bố của Trưởng Đoàn đại biểu Việt Nam lúc đó khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa chứng tỏ cộng đồng quốc tế đã mặc nhiên công nhận chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa1. Hội nghị Giơnevơ năm 1954 về lập lại hòa bình ở Đông Dương khẳng định các bên tham gia hội nghị tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, bao gồm quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa đang do các lực lượng của Pháp và Quốc gia Việt Nam quản lý. “Hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa liên tục thuộc chủ quyền Việt Nam từ 500 năm nay, không chỉ do những tư liệu lịch sử Việt Nam mà cả
những tư liệu quốc tế cũng đều khẳng định”2. Giai đoạn 1954-1975, chính quyền Việt Nam Cộng hòa và Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng
_______________
1. Xem Nguyễn Thanh Minh: “Một số hội nghị quốc tế liên quan đến chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa giai đoạn 1943- 1951”, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 9 (461), 2014, tr.78.
2. Nguyễn Đình Đầu: “Hoàng Sa - Trường Sa đích thực là của Việt Nam”, Tạp chí Xưa và Nay, số 298, tháng 12/2007, tr.5.
24
hòa miền Nam Việt Nam tiếp tục thực hiện chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Đầu năm 1974, lợi dụng chiến trường miền Nam đang sục sôi, lực lượng quân sự Trung Quốc đã chiếm đóng nhóm Tây Nam của quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam. Chính quyền Sài Gòn tuyên bố lên án Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa xâm phạm toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam. Ngày 14/02/1974, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam ra tuyên bố khẳng định hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là một bộ phận của lãnh thổ Việt Nam1. Trong Tập san Sử Địa, số 29, “Đặc khảo về Hoàng Sa và Trường Sa” (dày hơn 350 trang, xuất bản tại Sài Gòn đầu năm 1975), các nhà nghiên cứu ở miền Nam đã trưng dẫn khoảng 100 tư liệu sử sách, báo chí bằng chữ Hán, tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Việt được viết từ thời Lê (năm 1630) đến thời Việt Nam Cộng hòa ở miền Nam (năm 1974), khẳng định và chứng minh chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa2. Trong Chiến dịch mùa xuân năm 1975, chấp hành mệnh
_______________
1. Xem Bộ Ngoại giao - Ủy ban Biên giới quốc gia: Chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa, Sđd, tr.43, 45.
2. Xem Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 9 (401), 2009, tr.70.
25
lệnh của Thường trực Quân ủy Trung ương và chỉ thị của Bộ Tổng Tham mưu, Thường vụ Đảng ủy và Bộ Tư lệnh Hải quân hạ quyết tâm: “tranh thủ thời cơ có lợi nhất để giải phóng đảo, kiên quyết không để lực lượng nào khác đến chiếm đảo trước ta... Trường Sa thuộc chủ quyền lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc Việt Nam, do đó không để một
tấc đất lọt vào tay bất cứ kẻ nào đến lấn chiếm”1. Sau chiến thắng ngày 30/4/1975, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quản lý toàn bộ lãnh thổ đất nước, bao gồm cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Việt Nam đã có nhiều văn bản pháp lý tuyên bố chủ quyền và quyền tài phán trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, phù hợp với thông lệ quốc tế và Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982 mà Việt Nam là một thành viên. Tuyên bố của Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam ngày 12/5/1977 là văn bản pháp quy đầu tiên được công bố sau khi Việt Nam thống nhất, đặt cơ sở cho các văn bản pháp quy sau này. Các tuyên bố của Nhà nước Việt Nam (Tuyên bố về lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam ngày 12/5/1977; Tuyên bố về đường cơ sở dùng để tính _______________
1. “Giải phóng Trường Sa, quyết định lịch sử, một khoảnh khắc lịch sử”, Báo Nhân Dân, ngày 04/12/2014.
26
lãnh hải của Việt Nam ngày 12/11/1982) khẳng định chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thể hiện sự tiếp nối liên tục của lịch sử, tính liên tục của Nhà nước Việt Nam trong thực hiện và bảo vệ chủ quyền chính đáng, hợp pháp trên hai quần đảo này. Liên tục trong các năm 1979, 1981 và 1988, Bộ Ngoại giao nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam công bố Sách trắng về chủ quyền Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, được đông đảo dư luận quốc tế thừa nhận. Các tài liệu này đã chứng minh một cách rõ ràng chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trên tất cả các khía cạnh: lịch sử - pháp lý và thực tiễn quốc tế.
Nghị quyết Kỳ họp thứ 5 ngày 23/6/1994 Quốc hội khóa IX nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam phê chuẩn Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển năm 19821 nêu rõ: Quốc hội khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với _______________
1. Hội nghị Liên hợp quốc về Luật biển lần thứ III chính thức thông qua Công ước mới về Luật biển quốc tế ngày 30/4/1982. Ngày 16/02/1994, Công ước chính thức có hiệu lực sau khi được 60 nước phê chuẩn. Việt Nam là quốc gia thứ 61 phê chuẩn Công ước. Cuối năm 2014, đã có 166 quốc gia trở thành thành viên của UNCLOS, tuy nhiên vẫn còn một số quốc gia ven biển như Mỹ, Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên, Campuchia chưa tham gia phê chuẩn UNCLOS, xem Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc, số 3 (162), 2015, tr.31.
27
hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và chủ trương giải quyết các tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ cũng như các bất đồng khác liên quan đến Biển Đông thông qua thương lượng hòa bình trên tinh thần bình đẳng, hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau, tôn trọng luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển năm 19821. Với việc Quốc hội Việt Nam ra Nghị quyết chính thức phê chuẩn Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982 (ngày 23/6/1994), Nhà nước Việt Nam đã chính thức hóa cơ sở
pháp lý quốc tế về phạm vi các vùng biển và thềm lục địa, tạo cơ sở pháp lý vững chắc trong công cuộc bảo vệ chủ quyền vùng biển và thềm lục địa, bảo vệ lợi ích quốc gia trên các vùng biển, đảo; đồng thời thể hiện quyết tâm của Việt Nam cùng cộng đồng quốc tế xây dựng một trật tự pháp lý công bằng. Sau này, tại Điều 1, Luật biên giới quốc gia năm 2003 cũng nêu rõ: Biên giới quốc gia của nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam là đường và mặt thẳng đứng theo đường đó để xác định giới hạn lãnh thổ đất liền, các đảo, các quần đảo, trong đó có quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa, vùng biển,
_______________
1. Xem Ban Tuyên giáo Trung ương: Chiến lược biển Việt Nam: Từ quan điểm đến thực tiễn, Sđd.
28
lòng đất, vùng trời của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam1.
Nghị quyết số 09-NQ/TW ngày 09/02/2007 của Ban Chấp hành Trung ương khóa X về chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020 xác định: Bảo vệ toàn vẹn chủ quyền và lợi ích quốc gia trên vùng biển, đảo; duy trì hòa bình, ổn định và hợp tác phát triển. Xác lập chủ quyền đầy đủ, quản lý và bảo vệ vững chắc chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán vùng biển, thềm lục địa, hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và các quần đảo khác thuộc chủ quyền của Việt Nam2. Lập trường của Việt Nam về chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa là rõ ràng và nhất quán. Việt Nam “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ vững chắc biên giới và chủ quyền biển, đảo, vùng trời của Tổ quốc; đồng thời giữ
vững môi trường hoà bình, ổn định để phát triển bền vững đất nước. Giải quyết những bất đồng, tranh chấp bằng giải pháp hòa bình trên cơ sở tôn trọng luật pháp quốc tế”3.
_______________
1. Xem Điều 1, Luật biên giới quốc gia năm 2003, dẫn theo Chiến lược biển Việt Nam: Từ quan điểm đến thực tiễn, Sđd.
2. Xem Ban Tuyên giáo Trung ương: Chiến lược biển Việt Nam: Từ quan điểm đến thực tiễn, Sđd. 3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2016, tr.148.
29
II. VAI TRÒ CỦA CÔNG TÁC THÔNG TIN, TUYÊN TRUYỀN TRONG ĐẤU TRANH BẢO VỆ CHỦ QUYỀN VIỆT NAM
Ở HAI QUẦN ĐẢO HOÀNG SA VÀ TRƯỜNG SA
1. Một số khái niệm
Theo Từ điển tiếng Việt, “thông tin” nghĩa là truyền tin cho nhau để biết; điều được truyền đi cho biết, tin truyền đi1. Thông tin có vai trò cực kỳ quan trọng trong đời sống xã hội. Xã hội càng phát triển, yêu cầu thông tin càng đa dạng, phong phú và ngược lại, sự phát triển của thông tin thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Bản chất của thông tin là phản ánh các vấn đề của đời sống xã hội, chịu sự tác động của ý thức hệ nên thông tin trở
thành một công cụ đắc lực của đấu tranh giai cấp. Đối với mỗi quốc gia, thông tin được xác định ở hai hướng chính: thông tin đối nội và thông tin đối ngoại. Thông tin đối nội là thông tin cho nhân dân trong nước, trong quốc gia, lãnh thổ mỗi nước. Thông tin đối ngoại là hoạt động thông tin nhằm vào đối tượng ở bên ngoài với mục đích tạo ra sự
hiểu biết của thế giới về con người, hình ảnh của một quốc gia, dân tộc.
_______________
1. Xem Viện Ngôn ngữ học: Từ điển tiếng Việt, Sđd, tr.1206-1207.
30
Ở Việt Nam, trong lĩnh vực thông tin, thông tin đối ngoại và thông tin đối nội là các bộ phận thống nhất trong chính sách thông tin của Đảng và Nhà nước. Thông tin đối ngoại là một bộ phận quan trọng trong công tác tư tưởng và đối ngoại của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta để thế giới hiểu rõ đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước, đất nước, con người, lịch sử, văn hóa dân tộc Việt Nam; đấu tranh chống lại các luận điệu xuyên tạc, chống phá Việt Nam; tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ, hợp tác của bạn bè quốc tế, của nhân dân thế giới, sự đồng thuận và đóng góp của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đối tượng của hoạt động thông tin đối ngoại bao gồm các nước và người nước ngoài; người nước ngoài sinh sống và làm việc ở Việt Nam; cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài; và nhân dân trong nước.
“Tuyên truyền” nghĩa là giải thích rộng rãi để thuyết phục, vận động mọi người tán thành, ủng hộ, làm theo1. Công tác tuyên truyền chỉ xuất hiện và tồn tại trong xã hội có giai cấp và là một hoạt động xã hội đặc biệt. Tính đặc biệt của nó thể hiện ở chỗ, cả chủ thể và đối tượng đều là con người; đối tượng tác động của nó là ý thức _______________
1. Xem Nguyễn Như Ý (Chủ biên): Đại từ điển tiếng Việt, Nxb. Văn hóa - Thông tin, Hà Nội, 1998, tr.1753.
31
con người và rộng hơn là ý thức xã hội. Ngay từ thập niên 50 thế kỷ XX, Tổng thống Mỹ Eisenhower đã nói: “Chi một đôla cho tuyên
truyền bằng chi 5 đôla cho quốc phòng”1. Trong đấu tranh cách mạng, công tác tuyên truyền trở thành công tác cách mạng đầu tiên của bất kỳ giai cấp và tổ chức cách mạng nào. Hoạt động tuyên truyền là hoạt động của con người tác động đến con người. Công tác tuyên truyền là một hình thái, một bộ phận cấu thành của công tác tư tưởng nhằm truyền bá hệ tư tưởng và đường lối chiến lược, sách lược cho quần chúng, xây dựng cho quần chúng thế giới quan phù hợp với lợi ích của chủ thể hệ tư tưởng, hình thành và củng cố niềm tin, tập hợp và cổ vũ quần chúng hành động theo thế giới quan và niềm tin đó2. Theo C.Mác: “Vũ khí của sự phê phán cố nhiên không thể thay thế được sự phê phán của vũ khí, lực lượng vật chất chỉ có thể bị đánh đổ bằng lực lượng vật chất; nhưng lý luận cũng sẽ trở thành lực lượng vật chất,
_______________
1. Bộ Thông tin và Truyền thông: Báo chí với công tác tuyên truyền, đấu tranh chống các luận điệu sai trái, Nxb. Thông tin và Truyền thông, Hà Nội, 2010, tr.8.
2. Xem Lương Khắc Hiếu (Chủ biên): Nguyên lý công tác tư tưởng, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008, t.1.
32
một khi nó xâm nhập vào quần chúng”1. Vai trò của công tác tuyên truyền chính là làm cho “lý luận xâm nhập quần chúng” để qua đó “trở thành lực lượng vật chất”. Công tác tuyên truyền có sức mạnh như một lực lượng vật chất góp phần vào cuộc đấu tranh cách mạng của giai cấp vô sản. Sức mạnh to lớn của công tác tuyên truyền là ở chỗ, không những nó làm thay đổi nhận thức của đối tượng mà còn dẫn đến hành động cách mạng một cách tích cực của đối tượng tuyên truyền. Trong hoạt động cách mạng, V.I. Lênin luôn nhấn mạnh sự cần thiết của công tác tuyên truyền và phải được chú trọng tiến hành thường xuyên, liên tục. V.I. Lênin nêu rõ: “Tuyên truyền là cần thiết và chúng ta không nên sợ phải lặp đi lặp lại, bởi vì cái gì mà đối với chúng ta hình như là một điều lặp lại, thì đối với hàng trăm hàng nghìn nông dân, có lẽ lại không phải là điều lặp lại, mà là một cái chân lý họ thấy lần đầu tiên. Và nếu chúng ta nghĩ rằng chúng ta đã chú ý quá nhiều đến việc tuyên truyền, thì cần nói rằng chúng ta còn phải làm việc đó nhiều hơn gấp trăm lần nữa”2. Theo V.I. Lênin, công tác tư tưởng gồm ba bộ phận
_______________
1. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.1, tr.580.
2. V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1977, t.39, tr.421-422.
33
cấu thành: công tác lý luận, tuyên truyền và cổ động. Công tác lý luận tương ứng với quá trình “sáng tạo”; công tác tuyên truyền tương ứng với quá trình “truyền bá”; công tác cổ động tương ứng với quá trình “vật chất hóa” hệ tư tưởng. V.I. Lênin nhấn mạnh vai trò quan trọng hàng đầu của công tác tuyên truyền vì nó là công tác gắn với thực tiễn. “Công tác thực tiễn tuyên truyền và cổ động nhất thiết bao giờ cũng phải ở vị trí hàng đầu”1. V.I. Lênin đặc biệt nhấn mạnh vai trò của báo chí trong tuyên truyền cách mạng: tờ báo không chỉ là người tuyên truyền và người cổ động tập thể, mà còn là người tổ chức tập thể nữa. Theo V.I. Lênin: “Không có báo chí thì không thể tiến hành tuyên truyền, cổ vũ toàn diện và kiên định”2.
2. Vai trò, tầm quan trọng của công tác thông tin, tuyên truyền trong đấu tranh bảo vệ chủ quyền Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa
“Công tác tuyên truyền là một hình thái của công tác tư tưởng nhằm truyền bá cho quần chúng nhân dân lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin,
_______________
1. V.I. Lênin: Toàn tập, Sđd, 1974, t.1, tr.381. 2. Bộ Thông tin và Truyền thông: Báo chí với công tác tuyên truyền, đấu tranh chống các luận điệu sai trái, Sđd, tr.19.
34
tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước; trang bị cho họ những tri thức về các quy luật phát triển của xã hội, trên cơ sở đó xây dựng niềm tin, lý tưởng cộng sản và nâng cao tính tích cực, sáng tạo của quần chúng trong cuộc đấu tranh xây dựng con người mới và xây dựng xã hội mới”1.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đặt nền móng đầu tiên cho công tác tuyên truyền cách mạng ngay từ những ngày đầu vận động thành lập Đảng. Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, cùng với việc thông qua các văn kiện quan trọng của Đảng, đã quyết định: Ban Trung ương có thể xuất bản một tạp chí lý luận và ra tờ báo tuyên truyền. Công tác tuyên truyền cách mạng trở thành một trong những hoạt động quan trọng của Đảng, góp phần làm nên thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, thắng lợi của những cuộc chiến tranh chống ngoại xâm bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, thắng lợi của sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
_______________
1. Nguyễn Danh Tiên: Đảng lãnh đạo công tác tư tưởng trong thời kỳ đổi mới, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010, tr.117.
35
Chủ tịch Hồ Chí Minh là một nhà tuyên truyền lớn trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Người xác định rõ mục đích của tuyên truyền: “Tuyên truyền là đem một việc gì nói cho dân hiểu, dân nhớ, dân theo, dân làm. Nếu không đạt được mục đích đó, là tuyên truyền thất bại. Muốn thành công, phải biết cách tuyên truyền”1. Theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tuyên truyền là hoạt động mang tính sáng tạo và tính thẩm mỹ, toát lên từ toàn bộ các yếu tố cấu thành hoạt động tuyên truyền: từ nội dung, hình thức, phương tiện cho đến tư tưởng, đạo đức, tình cảm của người tuyên truyền. Người nhấn mạnh: “Chúng ta muốn tuyên truyền quần chúng, phải học cách nói của quần chúng... Chẳng những các người phụ trách tuyên truyền, những người viết báo, viết sách, những người nghệ sĩ là người tuyên truyền, mà tất cả cán bộ, tất cả đảng viên, hễ những người có tiếp xúc với dân chúng đều là người tuyên truyền của Đảng. Vì vậy ai cũng phải học nói nhất là học nói cho quần chúng hiểu...”2.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người sáng lập nền báo chí cách mạng Việt Nam, sử dụng báo chí làm công cụ, vũ khí sắc bén, hiệu quả để truyền bá tư tưởng, tuyên truyền cách mạng, vận động, tập hợp
_______________
1, 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.341. 36
và tổ chức đông đảo quần chúng nhân dân tham gia đấu tranh cách mạng, xây dựng và bảo vệ đất nước. Báo chí Việt Nam là vũ khí sắc bén của Đảng, của chế độ trong công tác tuyên truyền, giáo dục toàn Đảng, toàn dân và toàn quân đoàn kết, vượt qua khó khăn, thách thức trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Ở nước ta, báo chí là phương tiện thông tin đại chúng thiết yếu đối với đời sống xã hội, là cơ quan ngôn luận của các tổ chức đảng, cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội và là diễn đàn của nhân dân, có vai trò hết sức quan trọng trong đời sống tinh thần của xã hội. Thông qua các loại hình báo chí (báo in, báo nói, báo hình, báo điện tử tiếng Việt, tiếng các dân tộc thiểu số hoặc bằng tiếng nước ngoài), người dân biết được về mọi mặt tình hình đất nước và thế giới, các chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước. Nhiệm vụ của báo chí là hết sức coi trọng công tác thông tin, tuyên truyền, định hướng và hướng dẫn dư luận xã hội trước những sự kiện quan trọng, phức tạp, nhạy cảm, xử lý mối quan hệ giữa tính định hướng chính trị, tư tưởng và việc đáp ứng nhu cầu thông tin của công chúng.
Qua các giai đoạn cách mạng, công tác thông tin, tuyên truyền luôn có vị trí quan trọng trong việc tập hợp, xây dựng lực lượng cách mạng, phát huy sức mạnh tổng hợp của cuộc đấu tranh bảo vệ
37
độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia, tranh thủ sự ủng hộ, đồng tình và hợp tác quốc tế, góp phần vào những thành quả của cách mạng Việt Nam. Trước những diễn biến phức tạp trên Biển Đông, Việt Nam chủ trương đấu tranh bảo vệ
chủ quyền biển, đảo thiêng liêng và lợi ích quốc gia trên biển bằng các biện pháp hòa bình, dựa trên luật pháp quốc tế, phát huy sức mạnh tổng hợp của các lực lượng, các phương tiện, các biện pháp về chính trị, tư tưởng, kinh tế, pháp lý và ngoại giao, trong đó công tác thông tin, tuyên truyền là một mặt trận quan trọng, cung cấp những chứng cứ lịch sử và căn cứ pháp lý khẳng định chủ quyền Việt Nam; tuyên truyền các giá trị lịch sử, truyền thống hào hùng của cha ông trong quá trình xác lập và thực thi chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Trong cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, công tác thông tin, tuyên truyền về chủ quyền biển, đảo Việt Nam hết sức cần thiết, cấp thiết và lâu dài. Công tác thông tin, tuyên truyền chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa được xác định là một trong những nhiệm vụ quan trọng, đi trước nhằm khẳng định chủ quyền và đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo Việt Nam. Để làm được việc đó đòi hỏi trang bị nhận thức sâu sắc, đầy đủ cho
38
toàn dân, do đó vấn đề hàng đầu là giáo dục cho nhân dân thấm nhuần tinh thần tự hào dân tộc, tình yêu quê hương, đất nước. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng (năm 2016) nhấn mạnh: “Đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền, giáo dục nâng cao ý thức trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của các cấp, các ngành, của mỗi cán bộ, đảng viên và từng người dân đối với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc”1.
Công tác thông tin, tuyên truyền góp phần tạo ra nhận thức đầy đủ, đúng đắn trong nhân dân và bạn bè quốc tế về chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Đối tượng của công tác thông tin, tuyên truyền bao gồm nhân dân Việt Nam, cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài, nhân dân các nước trên thế giới... Để công tác thông tin, tuyên truyền đạt hiệu quả, trước hết cần nghiên cứu, xác định rõ những căn cứ lịch sử và cơ sở pháp lý khẳng định chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa. Với mục tiêu củng cố quan điểm nhất quán của Đảng và Nhà nước ta là “Việt Nam có đủ căn cứ pháp lý và lịch sử khẳng định rằng quần đảo Hoàng Sa và quần đảo _______________
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Sđd, tr.150-151.
39
Trường Sa thuộc chủ quyền Việt Nam”1, công tác thông tin, tuyên truyền tạo sự nhất trí cao trong toàn Đảng, toàn dân, sự đồng thuận trong xã hội, tăng cường niềm tin, ý chí trong đấu tranh giữ
vững chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia. Đây là một trong những sứ mệnh cơ bản của công tác thông tin, tuyên truyền, đòi hỏi công tác này phải đổi mới nội dung và hình thức, nâng cao chất lượng, hiệu quả thông tin, tuyên truyền, đáp ứng yêu cầu cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo Việt Nam.
Vì các quốc gia có liên quan đều tìm cách chứng minh và khẳng định chủ quyền của mình trên Biển Đông, nên công tác thông tin, tuyên truyền phải luôn được coi trọng nhằm nâng cao nhận thức của nhân dân về chủ quyền lãnh thổ, ý thức bảo vệ Tổ quốc, giữ gìn môi trường hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển. Trong các hình thức thông tin, tuyên truyền, báo chí (bao gồm bốn loại hình: báo in, báo nói, báo hình, báo điện tử) là công cụ chủ yếu truyền bá thông tin đến công chúng rộng rãi, đưa thông tin Việt Nam tới bạn bè quốc tế và giúp bạn bè quốc tế hiểu rõ hơn
_______________
1. Tuyên bố của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng tại Kỳ họp thứ hai Quốc hội khóa XIII, ngày 25/11/2011, dẫn theo Kỷ yếu Hoàng Sa, Sđd, tr.69.
40
về chủ quyền biển, đảo Việt Nam. Báo chí có vai trò quan trọng trong thông tin và định hướng dư luận về vấn đề chủ quyền biển, đảo. “Chúng ta đấu tranh trên cơ sở pháp lý của quốc tế; giới thiệu, tuyên truyền tài liệu, chứng cứ lịch sử về chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa. Chứng cứ chúng ta có đầy đủ nhưng người dân chưa hiểu hết. Do đó báo chí, đặc biệt là báo Đảng cần phải có trách nhiệm thông tin, tuyên truyền”1.
Công tác thông tin, tuyên truyền nhằm tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài trong đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo.
Cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài (hiện có khoảng 4,5 triệu người) là một bộ phận không thể tách rời và là một nguồn lực của dân tộc Việt Nam, là nhân tố quan trọng góp phần tăng cường quan hệ hữu nghị, hợp tác giữa Việt Nam và các nước. Thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 26/3/2004 của Bộ Chính trị (khóa IX) về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài, Chương trình hành động của Chính phủ xác định: huy động nguồn lực người Việt Nam ở nước ngoài tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; tăng cường
_______________
1. Xem: “Đồng thuận và phát triển”, Đặc san Báo Đà Nẵng, tháng 12/2015, tr.85.
41
thông tin, tuyên truyền đối với cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài1.
Công tác thông tin, tuyên truyền chủ quyền biển, đảo truyền tải thông điệp về hòa bình của Việt Nam đến thế giới, làm rõ quan điểm, chủ trương của Đảng, Nhà nước Việt Nam trong giải quyết tranh chấp trên Biển Đông bằng biện pháp hòa bình, dựa trên luật pháp quốc tế và Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982. Là dân tộc yêu chuộng hòa bình, không mong muốn chiến tranh, xung đột, chủ trương của Đảng và Nhà nước ta là: “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ
độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ vững chắc biên giới và chủ quyền biển, đảo, vùng trời của Tổ quốc; đồng thời giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển bền vững đất nước. Giải quyết những bất đồng, tranh chấp bằng giải pháp hòa bình trên cơ sở tôn trọng luật pháp quốc tế”2.
Công tác thông tin, tuyên truyền đối ngoại đóng vai trò quan trọng trong tăng cường đoàn kết với nhân dân các nước trong khu vực và trên thế giới.
_______________
1. Xem “Phát huy tiềm lực của người Việt Nam ở nước ngoài”, Báo Nhân Dân, ngày 18/11/2016.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Sđd, tr.148.
42
Công tác thông tin, tuyên truyền góp phần nêu cao chính nghĩa, làm rõ lẽ phải của Việt Nam trong đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo, góp phần định hướng dư luận và đấu tranh hiệu quả với các thông tin sai sự thật, luận điệu xuyên tạc, tranh thủ
sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế đối với sự nghiệp đấu tranh giữ vững chủ quyền biển, đảo, biên giới quốc gia, giữ gìn môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước. Công tác thông tin, tuyên truyền đối ngoại làm cho nhân dân thế giới thấy rõ sự thật về lịch sử chủ quyền Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Công tác thông tin, tuyên truyền góp phần đấu tranh chống các luận điệu xuyên tạc chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Các thế lực thù địch bên ngoài đang ra sức mở các chiến dịch xuyên tạc các hiệp định, thỏa thuận đối ngoại, đặc biệt liên quan đến vấn đề Biển Đông, đến độc lập, chủ quyền lãnh thổ, an ninh quốc gia; kích động chia rẽ quan hệ Việt Nam - Trung Quốc, xuyên tạc Hiệp định Biên giới Việt - Trung1. Chúng triệt để lợi dụng các phương tiện thông tin đại chúng, các sự kiện chính trị lớn của đất nước và thế giới, khai thác các thông tin
_______________
1. Xem Bộ Thông tin và Truyền thông: Báo chí với công tác tuyên truyền, đấu tranh chống các luận điệu sai trái, Sđd, tr.84.
43
chính thống trong nước và diễn đàn quốc tế có liên quan để lồng ghép các quan điểm, tư tưởng của các phần tử bất đồng, chống đối trong nước với các chính kiến, tư tưởng phản động từ bên ngoài,... Chúng lợi dụng các sự kiện chính trị trong nước và quốc tế, các “điểm nóng” và cách thức giải quyết, xử lý của chúng ta đối với các sự kiện đó để
kích động nhân dân, nhất là lớp trẻ, thanh niên với vỏ bọc là nêu cao ý thức dân tộc, tỏ ra là người yêu nước, vì dân; lợi dụng các phương tiện truyền thông, báo chí trong và ngoài nước, kết hợp các lực lượng bên trong và bên ngoài để thực hiện xuyên tạc, bịa đặt, chống đối,... bằng nhiều hình thức.
Trong cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền Việt Nam ở hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, thông tin là một mặt trận rất quan trọng. Thông tin vừa là tài nguyên, vừa là mục tiêu, là vũ khí, trên cơ sở đó đã xuất hiện khái niệm “chiến tranh thông tin”1. Cùng với sự phát triển nhanh chóng và không ngừng của công nghệ thông tin và
_______________
1. Tuy quan niệm về “chiến tranh thông tin” ở nhiều nước còn có những điểm khác nhau nhưng tất cả đều khẳng định vai trò quan trọng, hiệu quả cao của loại hình chiến tranh này và đây là một loại hình không thể thiếu được trong các cuộc chiến tranh xung đột hiện tại và tương lai, xem Ban Cơ yếu Chính phủ: “Các đặc tính cơ bản của chiến tranh thông tin”, Tạp chí An toàn Thông tin, số 3 (203), 2012, tr.10.
44
truyền thông, thế giới ngày nay đã và đang dịch chuyển theo hướng phát triển xã hội thông tin. Theo thống kê, hiện nay cứ hai ngày là con người lại tạo ra một lượng thông tin bằng với lượng thông tin mà con người đã tạo ra từ lúc xuất hiện văn minh nhân loại cho đến năm 2003. Nhiều nước trên thế giới đã coi không gian mạng và xã hội thông tin là không gian phát triển thứ năm của một quốc gia, bên cạnh mặt đất, đại dương, bầu trời và vũ trụ1. Sự phát triển của công nghệ thông tin và internet mang lại những lợi ích to lớn, nhưng bên cạnh đó, các thế lực thù địch đã lợi dụng để phát tán thông tin bịa đặt, kích động dư
luận, thực hiện do thám, tình báo mạng, phá hoại nền quốc phòng - an ninh, đe dọa lợi ích và chủ quyền của một số quốc gia.
Trong đấu tranh bảo vệ chủ quyền Việt Nam ở hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa, báo chí là một mũi xung kích trên mặt trận thông tin, tuyên truyền, cung cấp các thông tin trung thực, khách quan về tình hình biển, đảo, giúp dư luận thế giới hiểu rõ về cuộc đấu tranh chính nghĩa của Việt Nam. Nhiệm vụ chủ yếu của báo chí nói riêng và các phương tiện truyền thông nói chung trong
_______________
1. Xem: “Xây dựng và phát triển xã hội thông tin an toàn, lành mạnh ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Cộng sản, số 888 (tháng 10/2016), tr.12.
45
cuộc đấu tranh này là định hướng tuyên truyền, đấu tranh phản bác các thông tin, luận điệu xuyên tạc, sai sự thật; tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền quan điểm, lập trường của Việt Nam trong việc giải quyết vấn đề Biển Đông bằng biện pháp hòa bình, trên cơ sở luật pháp quốc tế; tuyên truyền đường lối đối ngoại hòa bình, độc lập, tự chủ của Việt Nam, quan hệ hữu nghị giữa Việt Nam với các nước láng giềng, các nước lớn; tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của dư luận quốc tế đối với Việt Nam trong việc bảo vệ độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia. Các cơ quan thông tin đại chúng cần “chủ động đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch; ngăn chặn, phản bác những thông tin và luận điệu sai trái”...1.
III. MỘT SỐ NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN ĐẤU TRANH BẢO VỆ CHỦ QUYỀN BIỂN, ĐẢO VIỆT NAM
1. Quan hệ Việt Nam - Trung Quốc và vấn đề Biển Đông
Việt Nam và Trung Quốc là hai nước láng giềng “núi liền núi, sông liền sông”, có mối quan hệ lịch sử _______________
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Sđd, tr.148.
46
lâu đời. Từ khi hai nước chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao (ngày 18/01/1950) đến nay, Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam luôn coi trọng giữ gìn, xây dựng mối quan hệ hữu nghị Việt Nam - Trung Quốc. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng căn dặn nhân dân Việt Nam và cũng là nhắn nhủ nhân dân Trung Quốc: “Trong lịch sử, nhân dân hai nước Trung Quốc và Việt Nam đã sớm có một mối tình hữu nghị lâu đời và sâu sắc... Tình hữu nghị và quan hệ mật thiết giữa nhân dân hai nước chúng ta thật là lâu dài, bền vững, không gì lay chuyển nổi và không ai có thể chia rẽ và ngăn trở được”1.
Sau khi bình thường hóa quan hệ (tháng 11/1991), hai nước Việt Nam - Trung Quốc không ngừng củng cố, phát triển quan hệ chính trị - ngoại giao, định hình khuôn khổ hợp tác: “láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai” (năm 1999); “láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt” (năm 2005); “đối tác hợp tác chiến lược toàn diện” (năm 2008). Việt Nam và Trung Quốc đã giải quyết được một số vấn đề quan trọng liên quan đến biên giới - lãnh thổ: ký Hiệp ước về biên giới trên đất liền (năm 1999); hoàn thành công tác phân giới cắm mốc trên đất liền (năm 2008); ký Hiệp định phân định
_______________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.10, tr.14-15.
47
Vịnh Bắc Bộ (năm 2000); ký Hiệp định Hợp tác nghề cá ở Vịnh Bắc Bộ (năm 2004). Sự hợp tác, giao lưu văn hóa góp phần giúp hai dân tộc Việt, Hoa thấu hiểu nhau hơn, thúc đẩy quan hệ chính trị, kinh tế, ngoại giao phát triển. Trung Quốc vừa là nước láng giềng vừa là nước lớn, đối tác quan trọng hàng đầu về kinh tế - thương mại của Việt Nam. Việc phát triển quan hệ ổn định, lành mạnh và bền vững với Trung Quốc luôn là lựa chọn chiến lược và là một trong những ưu tiên hàng đầu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam. Việt Nam luôn tích cực, chủ động thúc đẩy quan hệ hợp tác chiến lược toàn diện với Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa trên nhiều lĩnh vực cả chiều rộng lẫn chiều sâu, củng cố và tăng cường quan hệ hữu nghị giữa nhân dân hai nước, đưa quan hệ giữa hai Đảng, hai Nhà nước bước vào giai đoạn mới theo phương châm 16 chữ vàng và tinh thần 4 tốt trong thế kỷ XXI. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc trong các bài nói và viết luôn nhấn mạnh: quan hệ Việt Nam - Trung Quốc: “Sơn thủy tương liên/Văn hóa tương thông/Lý tưởng tương đồng/Vận mệnh tương quan”; “cùng chung vận mệnh”1.
_______________
1. Dẫn theo lời Giang Trạch Dân phát biểu tại trường Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2002; lời Hồ Cẩm Đào phát biểu tại Quốc hội Việt Nam năm 2006 và lời Tập Cận Bình phát biểu tại Quốc hội Việt Nam ngày 06/11/2015.
48
Bên cạnh kết quả đạt được, quan hệ Việt Nam - Trung Quốc cũng đang có những vấn đề, thử thách đòi hỏi hai bên phải cùng nhau giải quyết một cách tích cực và thực chất. Trở ngại và thách thức lớn nhất trong quan hệ Việt Nam - Trung Quốc liên quan đến những bất đồng trên vấn đề Biển Đông; vấn đề chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Sự kiện Trung Quốc hạ đặt trái phép giàn khoan Hải Dương HD-981 trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam (tháng 5/2014) đã đẩy quan hệ hai nước xuống đến mức thấp nhất kể từ khi bình thường hóa quan hệ1. Trên cơ sở “lấy đại cục làm trọng”, Việt Nam và Trung Quốc cần tuân thủ “Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ
bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển Việt Nam - Trung Quốc”, “Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông”. Láng giềng hữu nghị, hợp tác cùng có lợi, giải quyết những vấn đề tranh chấp trên biển thông qua thương lượng hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế, gần gũi nhất là Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982 là sự lựa chọn đúng đắn và cần thiết của hai nước Việt Nam và Trung Quốc.
_______________
1. Xem “Quan hệ Việt Nam - Trung Quốc năm 2014”, Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc, số 4 (164), 2015, tr.39.
49
2. Chính sách của Trung Quốc với ASEAN trong vấn đề Biển Đông
Trong chính sách Biển Đông, Trung Quốc một mặt muốn phát triển quan hệ với các nước ASEAN, mặt khác lại không muốn ASEAN có vai trò lớn trong các vấn đề an ninh khu vực. Trung Quốc đã lợi dụng sự bất đồng về lợi ích, về quan điểm giải quyết các tranh chấp lãnh thổ trên Biển Đông của các nước ASEAN có tuyên bố chủ
quyền để gây chia rẽ, không để các nước ASEAN đoàn kết thành một khối đối trọng với Trung Quốc. Trung Quốc chủ trương đàm phán riêng đối với các nước có liên quan trực tiếp đến tranh chấp ở Biển Đông để đạt lợi ích riêng, tạo nghi ngờ giữa các nước ASEAN có tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông1.
Là đối tác thương mại lớn nhất của 10 nước ASEAN, cộng với sức mạnh vượt trội về kinh tế đã giúp Trung Quốc áp đặt ảnh hưởng của mình tại các khu vực tranh chấp, công khai đòi chủ quyền phi lý thông qua cái gọi là “đường lưỡi bò” phi pháp để kiểm soát tuyến hàng hải quan trọng trên Biển Đông.
_______________
1. Xem Nguyễn Hồng Quân: “Mưu đồ độc chiếm Biển Đông của Trung Quốc và đối sách của ASEAN”, Tạp chí Nghiên cứu Quốc tế, số 1 (100), tháng 3/2015, tr.41-42.
50
3. Cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn trên Biển Đông
Biển Đông có vị trí quan trọng đối với các quốc gia trong và ngoài khu vực trên các phương diện kinh tế, chính trị, quân sự và quan hệ quốc tế. Khu vực Biển Đông cũng là địa bàn chiến lược quan trọng mà các nước lớn tranh giành ảnh hưởng, trong đó có Trung Quốc và Mỹ. Sau 40 năm tiến hành công cuộc cải cách, mở cửa, Trung Quốc đã vươn lên thành cường quốc khu vực và thế giới, hướng tới mục tiêu thực hiện “giấc mơ Trung Quốc”1. Nếu như từ năm 2000 đến 2010, Trung Quốc “trỗi dậy trong hòa bình” thì từ năm 2010 đến nay, Trung Quốc chuyển chính sách đối ngoại từ “thao quang dưỡng hối” (giấu mình chờ
thời) sang chính sách “cứng rắn” trong quan hệ quốc tế, đơn phương tuyên bố chủ quyền trên Biển Đông và biển Hoa Đông, tạo ra những thách thức đối với khu vực và các nước láng giềng. Trung Quốc đang tìm mọi cách để trở thành cường quốc
_______________
1. Năm 2010, Trung Quốc vượt Nhật Bản về GDP, trở thành nền kinh tế lớn thứ hai thế giới. Trung Quốc dự kiến quá trình thực hiện “giấc mơ Trung Quốc, phục hưng vĩ đại dân tộc Trung Hoa” qua hai chặng đường một trăm năm: một trăm năm thành lập Đảng Cộng sản Trung Quốc (1921-2021); một trăm năm thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (1949-2049).
51
biển1, đẩy mạnh các sáng kiến chiến lược, gia tăng ảnh hưởng và lợi ích trên thế giới; tranh chấp quyết liệt với Mỹ tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương; mở rộng quan hệ với các đối tác lớn; áp dụng sách lược hòa dịu với các nước láng giềng nhưng cứng rắn trong bảo vệ “lợi ích cốt lõi” như
vấn đề Đài Loan, vấn đề biển Hoa Đông, vấn đề Biển Đông.
Mỹ là cường quốc số 1 thế giới, tiếp tục triển khai chiến lược toàn cầu theo hướng gia tăng cạnh tranh ảnh hưởng với các nước lớn, nhất là với Trung Quốc và Nga. Cuối năm 2011, Mỹ tuyên bố triển khai chính sách “xoay trục/tái cân bằng”, trong đó đáng chú ý là chuyển hướng sang khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Để đối phó với chính sách “xoay trục/tái cân bằng” của Mỹ, cuối năm 2013, Bắc Kinh công bố Đại dự án “Vành đai, Con đường” nhằm kết nối Trung Quốc với Trung Á, Nam Á, Trung Đông, châu Âu và châu Phi. Cạnh tranh Trung - Mỹ xuất hiện những nét mới2. _______________
1. Chiến lược cường quốc biển được chính thức đưa ra tại Đại hội lần thứ XVIII (năm 2012) của Đảng Cộng sản Trung Quốc, xem Tạp chí Nghiên cứu Quốc tế, số 3 (102), tháng 9/2015, tr.77.
2. Các nhà chiến lược đưa ra khái niệm G2 (bao gồm Trung Quốc và Mỹ) cho rằng Trung Quốc là quốc gia duy nhất có khả năng cạnh tranh vị thế với Mỹ cả về sức mạnh kinh tế và quân sự, Hồ sơ sự kiện Xuân Bính Thân 2016, Chuyên san Tạp chí Cộng sản số 319+320, ngày 25/01 và ngày 10/02/2016, tr.75.
52
Trung Quốc muốn kiến tạo “quan hệ nước lớn kiểu mới”, gây ảnh hưởng cũng như thiết lập luật chơi mới. Điều này sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến các nước trong khu vực, trong đó có Việt Nam1.
Biển Đông là một trong những khu vực có tranh chấp phức tạp nhất trên thế giới. Cuộc đấu tranh của Việt Nam trong bảo vệ chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa luôn gắn liền với việc xử lý quan hệ với các nước lớn. “Bản chất chính trị nước lớn là xung đột quyền lợi, nhưng cũng sẵn sàng thỏa hiệp đổi chác với nhau trên lưng nước nhỏ”2. Quan hệ giữa các nước lớn mang đặc điểm bao trùm là vừa hợp tác nhiều mặt, vừa cạnh tranh gay gắt và sẵn sàng thỏa hiệp với nhau. Trên phương diện quốc tế, thách thức lớn đối với Việt Nam chính là quá trình điều chỉnh chiến lược của các nước lớn theo xu hướng chung là ưu tiên lợi ích quốc qia - dân tộc, sẵn sàng thỏa hiệp, bất chấp lợi ích, chủ quyền và toàn vẹn _______________
1. Một số nét mới về cuộc cạnh tranh gây ảnh hưởng trên toàn cầu của Trung - Mỹ hiện nay, Thông tin nội bộ (Bản tin của Ban Tuyên giáo Thành ủy Đà Nẵng), tháng 10/2016, tr.46.
2. Phạm Bình Minh (Chủ biên): Định hướng chiến lược đối ngoại Việt Nam đến 2020 (tái bản lần thứ nhất), Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.28.
53
lãnh thổ của các nước khác có liên quan. Từ kinh nghiệm trong xử lý quan hệ với các nước lớn qua Hội nghị Giơnevơ (năm 1954) và Hội nghị Pari (năm 1973), Việt Nam cần quán triệt nguyên tắc giữ vững độc lập, tự chủ, thực hiện đối trọng và cân bằng trong quan hệ giữa các nước lớn, khai thác tối đa những nhân tố tích cực và hạn chế đến mức thấp nhất những tác động tiêu cực trong quan hệ với các nước lớn nhằm bảo vệ độc lập, chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ.
4. Phán quyết của Tòa án Trọng tài La Haye ngày 12/7/2016
Ngày 12/7/2016, Tòa Trọng tài Thường trực (Permanent Court of Arbitration - PCA) trong vụ kiện giữa Philíppin và Trung Quốc công bố phán quyết cuối cùng. Vụ kiện và phán quyết thu hút sự chú ý lớn của dư luận bởi đây là phán quyết đầu tiên của một cơ quan tài phán quốc tế
giải quyết các tranh chấp về giải thích và áp dụng Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982 tại Biển Đông. PCA kết luận không có cơ sở pháp lý để Trung Quốc yêu sách “quyền lịch sử” đối với tài nguyên tại các vùng biển phía bên trong “đường chín đoạn” (còn gọi là “đường
54
lưỡi bò”). Bắc Kinh không có “quyền lịch sử” ở Biển Đông1.
Phán quyết của PCA là bước ngoặt trong việc hướng tới giải quyết hòa bình tranh chấp giữa các bên ở Biển Đông. Theo Tiến sĩ Trần Công Trục, cần phải xem phán quyết của PCA là thắng lợi chung của luật pháp, công lý và phải có trách nhiệm sử dụng nó như một công cụ hữu ích để giữ
gìn hòa bình, ổn định, hợp tác, phát triển vì sự sống còn của nhân loại2. Phán quyết của PCA vừa là cơ hội, vừa là thách thức đối với tất cả các bên tranh chấp ở Biển Đông, có những tác động nhiều chiều đến Việt Nam. Thứ nhất, giá trị lớn nhất của phán quyết là bác bỏ cái gọi là “đường lưỡi bò” của Trung Quốc. Phán quyết đã mang lại cho Việt Nam
_______________
1. “Thông cáo báo chí và phán quyết của Tòa Trọng tài Thường trực (PCA) tại The Hague, Hà Lan”: Bắc Kinh không có “quyền lịch sử” ở Biển Đông, Tạp chí Văn thư lưu trữ Việt Nam, số tháng 7/2016, tr.1; Hoàng Việt: “Về phán quyết của Tòa Trọng tài trong vụ
Philíppin kiện Trung Quốc, Tạp chí Xưa và Nay, số 473, (tháng 7/2016), tr.17.
2. TS. Trần Công Trục: “Phán quyết của Tòa Trọng tài theo Phụ lục VII, UNCLOS: Quy chế pháp lý của các cấu trúc địa lý ở quần đảo Trường Sa”, Hội thảo quốc tế “Quy chế pháp lý đảo, đá trong luật quốc tế và thực tiễn Biển Đông”, thành phố Nha Trang, từ
ngày 16 đến 18/8/2016.
55
nhiều thuận lợi, bởi cái gọi là “đường lưỡi bò” và quy chế cấu trúc các đảo đá mà Trung Quốc dựa vào đó làm cái cớ để đòi quyền lợi đã bị PCA bác bỏ; và vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa và thềm lục địa mở rộng hợp pháp của Việt Nam đã được Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982 công nhận. Việt Nam có căn cứ pháp lý để đấu tranh và tìm kiếm sự ủng hộ của dư luận quốc tế. Thứ hai, phán quyết của PCA đối với một số thực thể mà Philíppin đề xuất góp phần thu hẹp tranh chấp và gợi mở cho các bên tiếp tục công cuộc đấu tranh loại bỏ cái gọi là “đường lưỡi bò” phi pháp mà Trung Quốc tự đặt ra bằng con đường pháp lý. Thứ ba, phán quyết đã tạo thêm căn cứ pháp lý vững chắc, góp phần củng cố niềm tin chiến lược giữa các quốc gia trong ASEAN vốn từng bị rạn nứt trước sức ép của Trung Quốc; đồng thời giúp cho quá trình đàm phán để ký kết Bộ quy tắc ứng xử của các bên ở Biển Đông (COC) có thể vượt qua được trở ngại khi bàn đến phạm vi áp dụng của COC mà rào cản chính là sự tồn tại của yêu sách “đường lưỡi bò” phi lý1.
_______________
1. Ban Tuyên giáo Trung ương: “Phán quyết của Tòa Trọng tài vụ Philíppin kiện Trung Quốc có tác động như thế nào đến nước ta”, dẫn theo Thông tin nội bộ (Bản tin của Ban Tuyên giáo Thành ủy Đà Nẵng), số tháng 9/2016, tr.50.
56
Quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa là bộ phận lãnh thổ thiêng liêng, không thể tách rời, không thể chia cắt của Tổ quốc Việt Nam. Để bảo vệ chủ quyền và các lợi ích hợp pháp, chính đáng trên hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa, Việt Nam áp dụng mọi biện pháp thích hợp và cần thiết, phù hợp với luật pháp quốc tế, với Hiến chương Liên hợp quốc và Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982, trong đó thông tin, tuyên truyền là một biện pháp thiết thực, hữu ích và cần thiết.
57
Chương 2
HOẠT ĐỘNG THÔNG TIN,
TUYÊN TRUYỀN CHỦ QUYỀN VIỆT NAM TRÊN HAI QUẦN ĐẢO HOÀNG SA, TRƯỜNG SA
Từ sau năm 1975 đến nay, Nhà nước Việt Nam đã đề ra nhiều chủ trương, chính sách và biện pháp đấu tranh bảo vệ chủ quyền quốc gia trên Biển Đông, trong đó có chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Trước những diễn biến phức tạp trên Biển Đông, ngày 14/4/1988, Bộ Ngoại giao Việt Nam ra Tuyên bố khẳng định chủ quyền của mình đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và chủ trương thương lượng để giải quyết tranh chấp về hai quần đảo này1. Trong quan hệ với Trung Quốc, Việt Nam chủ trương: “Kiên trì chính sách hữu nghị và láng
_______________
1. Ban Chỉ đạo biên soạn Lịch sử Chính phủ Việt Nam: Lịch sử Chính phủ Việt Nam (1976-2005), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008, t.III, tr.239.
58
giềng tốt với nhân dân Trung Quốc, chủ trương khôi phục quan hệ bình thường giữa hai nước trên cơ sở các nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình, tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau và giải quyết những vấn đề tranh chấp bằng con đường thương lượng”1.
Lập trường nhất quán về chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa được thể hiện trong Tuyên bố năm 1977 về lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa Việt Nam; Tuyên bố năm 1982 về đường cơ sở dùng để
tính lãnh hải của Việt Nam; Nghị quyết của Quốc hội năm 1994 phê chuẩn Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982 cũng như trong các tuyên bố chính thức khác của Việt Nam. Nghị
quyết của Quốc hội năm 1994 tiếp tục khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, chủ trương giải quyết các tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ cũng như các bất đồng khác liên quan đến Biển Đông thông qua thương lượng hòa bình trên tinh thần bình đẳng, tôn trọng luật pháp quốc tế. Luật biển Việt Nam (năm 2012) nhấn mạnh: “Nhà nước giải quyết các
_______________
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, t.43 (1982), tr.149-150.
59
tranh chấp liên quan đến biển, đảo đối với các nước khác bằng các biện pháp hòa bình, phù hợp với Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982, pháp luật và thực tiễn quốc tế”1.
1. Chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về công tác thông tin, tuyên truyền chủ quyền Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa
Bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, trong đó có chủ quyền quốc gia trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, là mục tiêu, chủ trương nhất quán của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Việt Nam thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại hòa bình, độc lập, tự chủ, rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau; hợp tác bình đẳng và cùng có lợi; giải quyết các bất đồng, tranh chấp bằng thương lượng hòa bình. “Việt Nam khẳng định chủ quyền không thể tranh cãi đối với vùng biển, đảo của Việt Nam trên Biển Đông, trong đó có hai quần đảo _______________
1. Luật biển Việt Nam năm 2012 và văn bản hướng dẫn thi hành, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2013, tr.9-10.
60
Hoàng Sa và Trường Sa. Việt Nam có đầy đủ chứng cứ lịch sử và cơ sở pháp lý về vấn đề này”1. Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa X) ngày 9/02/2007 ra Nghị quyết số 09-NQ/TW về Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020, xác định quan điểm: Việt Nam phải trở thành quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển, bảo đảm vững chắc chủ quyền, quyền chủ quyền quốc gia trên biển; kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế - xã hội với bảo đảm quốc phòng, an ninh; tranh thủ hợp tác quốc tế, thu hút các nguồn lực bên ngoài theo nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước. Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020 nhấn mạnh: “Nhiệm vụ cơ bản, lâu dài và xuyên suốt là xác lập chủ quyền đầy đủ, quản lý và bảo vệ vững chắc chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán vùng biển, thềm lục địa, hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và các quần đảo, đảo khác thuộc chủ quyền của nước ta. Nhiệm vụ trước mắt là phải bảo vệ toàn vẹn chủ quyền và lợi ích quốc gia trên vùng biển, đảo, duy trì hòa bình, ổn định và hợp tác phát triển”2.
_______________
1. “Quốc phòng Việt Nam những năm đầu thế kỷ XXI” (Sách trắng Quốc phòng Việt Nam năm 2004), http://www.mod.gov.vn.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007, tr.78-79.
61
Triển khai thực hiện Nghị quyết trên của Đảng về Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020, Chính phủ ra Nghị quyết số 27/2007/NQ-CP ngày 30/5/2007 và Chương trình hành động của Chính phủ. Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 373/QĐ-TTg ngày 23/3/2010 phê duyệt Đề án đẩy mạnh công tác tuyên truyền về quản lý, bảo vệ và phát triển bền vững biển và hải đảo Việt Nam, Chỉ thị số 06/CT-TTg ngày 20/5/2013 về việc đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền, thực hiện Đề án tổng thể tuyên truyền bảo vệ chủ
quyền của Việt Nam ở Biển Đông.
Ngày 21/6/2012, Luật biển Việt Nam được thông qua tại Kỳ họp thứ ba Quốc hội khóa XIII (có hiệu lực từ ngày 01/01/2013), tạo khuôn khổ pháp lý cho việc quản lý, bảo vệ, sử dụng hiệu quả các vùng biển, đảo, bảo vệ tài nguyên, môi trường biển của Việt Nam. Luật biển Việt Nam quy định về đường cơ sở, nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa, các đảo, quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa và các quần đảo khác thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia Việt Nam; phát triển kinh tế biển; quản lý và bảo vệ biển, đảo. Năm 2012, nhân kỷ niệm 30 năm Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982, Việt Nam cho lưu hành tại Liên hợp quốc báo cáo về việc Việt Nam thực thi Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982 với tư cách là một thành viên
62
có trách nhiệm của Công ước, thể hiện rõ quyết tâm của Đảng, Nhà nước Việt Nam trong việc thực thi nghiêm túc các quy định của Công ước này. Việc Quốc hội Việt Nam phê chuẩn Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982 (năm 1994), thông qua Luật biển Việt Nam (năm 2012) là những cơ sở pháp lý quan trọng để bảo vệ
chủ quyền quốc gia trên biển, trong đó có chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Ngày 28/7/2018, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 930/QĐ-TTg phê duyệt Đề án tuyên truyền bảo vệ chủ quyền và phát triển bền vững biển, đảo Việt Nam giai đoạn 2018-2020. Đề án xác định: Tuyên truyền biển, đảo là nhiệm vụ quan trọng và lâu dài cần được tiến hành thường xuyên, liên tục, có trọng tâm, trọng điểm, hiệu quả, phù hợp với từng đối tượng, từng địa bàn, trong từng bối cảnh cụ thể. Đề án tập trung tuyên truyền, phổ biến những nội dung chủ yếu: (1) Đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước liên quan đến biển, đảo; (2) Các văn bản luật pháp quốc tế, thỏa thuận song phương và đa phương giữa Việt Nam với các quốc gia, các tổ chức quốc tế có liên quan đến biển, đảo; (3) Những chứng cứ lịch sử và pháp lý khẳng định chủ quyền biển, đảo của Việt Nam đối với hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa; vị trí, vai trò, tiềm năng của biển, đảo Việt Nam; (4) Phát triển
63
kinh tế biển, đảo, đặc biệt là những ngành kinh tế mũi nhọn như: khai thác và chế biến dầu khí, kinh tế hàng hải, khai thác và chế biến hải sản, du lịch biển và kinh tế đảo, xây dựng các khu kinh tế, khu công nghiệp tập trung và khu chế
xuất ven biển gắn với phát triển các khu đô thị ven biển; bảo vệ môi trường; (5) Giáo dục cho ngư dân về các quy định pháp luật trong hoạt động thủy sản như: nuôi trồng thủy, hải sản, đánh bắt xa bờ, hậu cần nghề cá...; chuyển dịch cơ cấu kinh tế biển nhằm thu hút mạnh hơn các nguồn lực đầu tư, bảo vệ chủ quyền biển, đảo; ứng phó với rủi ro, tìm kiếm cứu hộ, cứu nạn, dự báo ngư trường, mùa vụ, thời tiết, đối tượng đánh bắt; chính sách khuyến khích ngư dân định cư lâu dài; gương cá nhân và tập thể tiên tiến, điển hình trong các hoạt động sản xuất, kinh doanh và tham gia bảo vệ chủ quyền biển, đảo.
Trong vấn đề Biển Đông, Việt Nam giữ vững độc lập, tự chủ, gắn với bảo vệ chủ quyền lãnh thổ quốc gia với giữ vững môi trường hòa bình để phát triển đất nước. Việt Nam khẳng định chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa; kiên định bảo vệ vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý và thềm lục địa theo luật pháp quốc tế; tiếp tục củng cố các bằng chứng lịch sử, căn cứ pháp lý và thực tiễn để bảo vệ chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa; công bố các tư liệu lịch sử
64
khẳng định chủ quyền biển, đảo của Việt Nam. Lập trường nhất quán của Việt Nam về bảo vệ chủ quyền biển, đảo bao gồm bốn nội hàm then chốt: (1) Giải quyết hòa bình tranh chấp, giương cao ngọn cờ hòa bình là công cụ quan trọng nhất để tập hợp lực lượng trong bối cảnh hiện nay; (2) Căn cứ để giải quyết hòa bình tranh chấp là luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982. Đây là mẫu số chung của thế giới, là công cụ quan trọng hàng đầu để nêu cao chính nghĩa, tập hợp lực lượng; (3) Thực thi nghiêm chỉnh DOC và hướng tới COC. Đây là lợi ích chung của ASEAN và cả khu vực, vừa là công cụ, vừa phản ánh các nguyên tắc cơ bản trong quan hệ quốc tế ở khu vực; (4) Trong khi tìm kiếm một giải pháp tổng thể cuối cùng có thể chấp nhận được đối với tất cả các bên, các bên liên quan không được làm phức tạp thêm tình hình, không
sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực1. Việt Nam chủ động bày tỏ quan điểm về vấn đề Biển Đông tại các diễn đàn quốc tế và khu vực. Ban Tuyên giáo Trung ương, Bộ Ngoại giao, Bộ Thông tin và Truyền thông, các cơ quan
_______________
1. Trần Việt Thái: “Chiến lược của Đảng và Nhà nước ta về bảo vệ chủ quyền biển, đảo trong tình hình mới”, Tạp chí Thông tin khoa học lý luận chính trị (Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh) số 4 (29), 2017, tr.8.
65
nghiên cứu về Biển Đông,... tăng cường công tác đấu tranh, phản bác các luận điệu tuyên truyền xuyên tạc, sai sự thật về chủ quyền của Việt Nam. Các cơ quan thông tấn, báo chí Việt Nam đẩy mạnh các hoạt động thông tin, tuyên truyền về chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa một cách bài bản và khoa học, thông qua các bằng chứng về lịch sử và pháp lý rõ ràng, và xác thực. Nhiều công trình nghiên cứu chuyên sâu, có giá trị khoa học về chủ quyền biển, đảo Việt Nam được xuất bản. Nhiều tờ báo trung ương và địa phương cũng có hàng loạt bài viết công phu, chất lượng chuyên môn tốt về vấn đề này. Các hội nghị, hội thảo quốc tế, trong nước về Biển Đông được tổ chức tại nhiều địa phương, tỉnh thành,...
2. Một số hoạt động thông tin, tuyên truyền chủ quyền Việt Nam ở quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa
Nhận thức rõ tầm quan trọng và vị trí chiến lược của hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ chủ quyền, an ninh quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã có nhiều chủ trương, chính sách đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền, nâng cao nhận thức về chủ quyền biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc. Thực hiện Chỉ thị số
66
06/CT-TTg ngày 20/5/2013 của Thủ tướng Chính phủ về việc đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền bảo vệ chủ quyền biển, đảo Việt Nam, các cơ quan, ban, ngành ở Trung ương và địa phương trong cả nước xây dựng kế hoạch triển khai, hướng đến yêu cầu: Tăng cường công tác chỉ đạo, phối hợp tuyên truyền nâng cao nhận thức, ý thức trách nhiệm cho cán bộ, đảng viên và nhân dân về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của biển, đảo Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; tình hình an ninh, quốc phòng trên biển, đảo; đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến các loại tài liệu, tư
liệu lịch sử, bản đồ, phim ảnh,... khẳng định chủ quyền biển, đảo Việt Nam, tập trung tuyên truyền sâu rộng để nhân dân nhận thức rõ, đầy đủ về tình hình biển, đảo; quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước đối với vấn đề Biển Đông, qua đó huy động sức mạnh tổng hợp toàn ngành và cả hệ thống chính trị tham gia bảo vệ, đấu tranh lên án các hành vi xâm phạm chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc; tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan, đơn vị, các ban, ngành, đoàn thể ở địa phương chủ động triển khai công tác tuyên truyền biển, đảo thiết thực, hiệu quả, phù hợp với điều kiện của từng địa phương, tỉnh thành.
Nội dung công tác thông tin, tuyên truyền chủ quyền biển, đảo Việt Nam tập trung vào các vấn đề: một là, đẩy mạnh thông tin, tuyên truyền
67
những cơ sở pháp lý, chứng cứ lịch sử và thực tiễn khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về vấn đề Biển Đông, những văn bản pháp lý về biển, đảo Việt Nam đã ký với các nước láng giềng, các nước có liên quan; những kiến thức cơ bản, phổ thông về các văn bản pháp luật về biển, đảo của Nhà nước; các tài liệu, tư liệu pháp lý khác có liên quan. Hai là, tiếp tục tuyên truyền, giáo dục sâu rộng về vị trí, vai trò, tiềm năng, thế mạnh của biển, đảo Việt Nam đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; các quan điểm, chủ trương của Đảng, các văn bản pháp luật về biển, đảo của Nhà nước về bảo vệ an ninh quốc gia, như: Nghị quyết Trung ương 8 (khóa IX) về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa X) về Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020; Nghị quyết về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới thông qua tại Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương (khóa XI); Nghị định số 25/2009/NĐ-CP ngày 06/3/2009 của Chính phủ về Quản lý tổng hợp tài nguyên và bảo vệ môi trường biển, hải đảo; Quyết định số 373/QĐ-TTg ngày 23/3/2010 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Đề án đẩy mạnh công tác tuyên truyền về quản lý, bảo vệ và phát triển bền vững biển và hải
68
đảo Việt Nam; những nội dung cơ bản của Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982, Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông và Bộ Quy tắc ứng xử của các bên ở Biển Đông. Ba là,
tuyên truyền nâng cao ý thức chấp hành pháp luật Việt Nam, pháp luật quốc tế về biển đối với nhân dân các vùng ven biển và người lao động trên biển,...
Việc quán triệt chủ trương của Đảng và Nhà nước, hoạt động thông tin, tuyên truyền chủ quyền Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa được triển khai sâu rộng trên các tỉnh, thành trong cả nước. Từ năm 2009, theo Nghị định số 25/2009/NĐ-CP ngày 06/3/2009 của Chính phủ, Tuần lễ Biển và Hải đảo Việt Nam (từ ngày 01 đến 08 tháng 6 hằng năm) trở thành một sự kiện được tổ chức thường niên, thu hút và tạo sự quan tâm tích cực của dư luận và toàn xã hội. Hoạt động của “Tuần lễ Biển và Hải đảo Việt Nam” hằng năm đã góp phần nâng cao nhận thức của các tầng lớp nhân dân về phát triển kinh tế biển gắn với bảo vệ chủ quyền biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc. Tại Festival Biển 2011 (từ ngày 11 đến 15/6/2011 tại thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa), Ban Tổ chức đã tổ chức triển lãm ảnh về Trường Sa; trưng bày bản đồ Trường Sa ghép bằng hạt cây cà phê; hội thảo khoa học
69
văn hóa biển, đảo Khánh Hòa; hội thảo về Trường Sa; các chương trình ca, múa, nhạc chủ đề biển, đảo...1. Năm 2011, Cụm bia chủ quyền ở quần đảo Trường Sa (do chính quyền Việt Nam Cộng hòa xây dựng tại đảo Song Tử Tây và đảo Nam Yết năm 1956) được Ủy ban nhân dân tỉnh Khánh Hòa xếp hạng Di tích lịch sử cấp tỉnh. Tháng 6/2014, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch có quyết định công nhận Cụm bia chủ quyền quần đảo Trường Sa thời Việt Nam Cộng hòa, nay thuộc huyện Trường Sa, tỉnh Khánh Hòa là Di tích lịch sử cấp quốc gia. Đây là Di tích lịch sử cấp quốc gia đầu tiên của huyện đảo Trường Sa2. Năm 2007, cựu chiến binh Trần Văn Xuất (phường Hòa Hải, quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng) xây dựng mô hình cột mốc đảo Trường Sa Đông (cao 6m, đáy hình vuông, mỗi cạnh 1,5m) trước khuôn viên Cơ sở sản xuất đá mỹ nghệ trên đường Trường Sa. Mô hình cột mốc đảo Trường Sa Đông trở thành điểm tuyên truyền, giáo dục ý thức bảo vệ chủ quyền biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc, là điểm đến của nhiều du khách từ Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Huế và nhiều tỉnh, thành phố
_______________
1. Xem Tạp chí Khoa học Công nghệ và môi trường Khánh Hòa, số 3/2011, tr.24.
2. Xem “Công nhận Bia chủ quyền Trường Sa 1956 là Di tích quốc gia”, Báo Tuổi trẻ, ngày 18/6/2014, tr.4.
70
khác trên cả nước. Ngày 23/6/2016, mô hình cột mốc đảo Trường Sa Đông được Tổ chức Kỷ lục Việt Nam trao Bằng công nhận đạt kỷ lục Việt Nam về làm mô hình cột mốc đảo Trường Sa Đông trên đất liền lớn nhất1.
Cuối năm 2012, Đài Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh thực hiện bộ phim tài liệu Biển đảo Việt Nam - Nguồn cội tự bao đời2. Với cả phiên bản tiếng Việt, tiếng Anh và tiếng Trung Quốc, bộ phim được tải lên trang YouTube và phát hành rộng rãi đến hàng trăm trường đại học ở
nước ngoài, nhận được sự quan tâm, đón nhận của đông đảo bạn bè quốc tế và cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài. Bộ phim cung cấp những thông tin cần thiết, hữu ích trong đấu tranh bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam3. Đề cập lịch sử hình thành và phát triển của Việt Nam ở khu vực Đông Nam Á cũng như hành
_______________
1. Xem Lê Văn Thơm: “Người cựu binh Trường Sa đạt kỷ lục Việt Nam”, Báo Công an thành phố Đà Nẵng, số 152 (4834), ngày 25/6/2016, tr.13.
2. Năm 2016, bộ phim đã đạt giải A Báo chí toàn quốc, giải A Giải Báo chí Thành phố Hồ Chí Minh, Cánh diều Bạc Liên hoan phim điện ảnh toàn quốc, Huy chương Bạc Liên hoan phim truyền hình toàn quốc, Giải 3 Giải Báo chí đối ngoại.
3. Xem Báo Tuổi trẻ, số 165/2016 (8346), ngày 21/6/2016, tr.11.
71
trình và khát vọng vươn ra biển lớn, bộ phim tài liệu Bọt biển và sóng ngầm (năm 2010) chuyển tới khán giả khát vọng hòa bình, độc lập, tự do, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của dân tộc Việt Nam. Đoàn làm phim đã phục dựng chiếc thuyền câu của Đội Hoàng Sa theo đúng sử sách và những ghi chép từ Châu bản triều Nguyễn để
khán giả có thể hiểu rõ hơn tính chất, lịch sử hào hùng của một đội quân từng hiện diện thời nhà Nguyễn - minh chứng lớn nhất về việc xác lập, bảo vệ chủ quyền của cha ông ta trên hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và các hòn đảo khác của Tổ quốc.
Trường Tiểu học Nguyễn Đức Thiệu (thị trấn Ái Nghĩa, Đại Lộc, Quảng Nam) đã áp dụng nhiều cách làm hay trong tuyên truyền, giáo dục tình yêu biển, đảo cho học sinh. Năm 2014, trường xây dựng sa bàn về biển, đảo Việt Nam (100m²) trong khuôn viên nhà trường với đầy đủ các đảo, quần đảo thuộc chủ quyền của Việt Nam1. Tháng 11/2015, Trường Trung học phổ thông Nhân Việt (quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh) có cách làm sáng tạo và đầy ý nghĩa khi đặt tên cho 15 lớp học của trường theo tên các hòn đảo
_______________
1. Xem tại http://baoquangnam.vn/xa-hoi/giao-duc/ 201504/dua-bien-dao-vao-truong-hoc-601373, cập nhật, ngày 15/4/2015.
72
của Việt Nam1. Thông tin về việc đặt tên lớp theo tên các hòn đảo của Việt Nam của Trường Trung học phổ thông Nhân Việt được dư luận quan tâm, ủng hộ và cho rằng cách làm này nên được nhân rộng để các em học sinh vừa được tuyên truyền tình yêu biển, đảo, vừa hiểu sâu và rộng hơn về các hòn đảo cụ thể của nước ta. Ông Trần Hữu Huệ (huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang) là nhà sưu tầm tem đầu tiên ở Việt Nam đưa tem Hoàng Sa và Trường Sa ra thế giới để quảng bá hình ảnh đất nước2. Bộ tem mà ông đưa ra thế giới gồm 2 mẫu với chủ đề Đội Hoàng Sa thế kỷ XVII, XVIII và Hoàng Sa, Trường Sa trong các bản đồ cổ. Tại Đường sách Thành phố Hồ Chí Minh năm 2016, Ban Tổ chức đã khánh thành công trình Ngọn hải đăng Trường Sa, có hình ảnh bản đồ Hoàng Sa - Trường Sa của Việt Nam và chim bồ câu hòa bình3. Ngày 03/8/2016, Hội đồng nhân dân thành
_______________
1. Xem tại http://www.tapchithongtindoingoai.vn/ bien-dao-viet-nam/nhung-lop-hoc-mang-ten-dao-viet nam-1856, cập nhật ngày 14/11/2015.
2. Xem tại http://www.tapchibcvt.gov.vn/dua-tem-hoang sa-truong-sa-ra-the-gioi.htm, cập nhật ngày 19/02/2016. 3. Công trình Ngọn hải đăng Trường Sa có chiều cao 7,4m, đường kính 1,4m; trọng lượng 1,2 tấn được đúc và xây dựng từ bêtông cốt sợi thủy tinh màu trắng, pha cát hạt đen lấy từ đảo Trường Sa. Xem Báo Nhân Dân, số 22296, ngày 17/10/2016, tr.5.
73
phố Hà Nội thông qua nghị quyết về việc đặt tên và điều chỉnh độ dài một số đường, phố trên địa bàn năm 2016, trong đó có đường Hoàng Sa (dài 4,8km; rộng 68m); đường Trường Sa (dài 7,3km; rộng 68m). Việc đặt tên đường Hoàng Sa, đường Trường Sa tại Thủ đô Hà Nội được nhân dân và dư luận đồng tình nhằm giáo dục truyền thống và khẳng định chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc đối với hai quần đảo1.
Công tác thông tin, tuyên truyền chủ quyền Việt Nam ở hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trên địa bàn thành phố Đà Nẵng
Đà Nẵng là địa phương có huyện đảo Hoàng Sa (cách bờ biển thành phố Đà Nẵng 170 hải lý và cách nơi gần đất liền nhất của lãnh thổ Việt Nam là huyện đảo Lý Sơn (tỉnh Quảng Ngãi) 120 hải lý) đã bị Trung Quốc chiếm đóng trái phép từ
ngày 19/01/1974. Vấn đề chủ quyền và tổ chức quản lý hành chính đối với quần đảo Hoàng Sa được Đảng bộ, chính quyền thành phố Đà Nẵng xác định là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của địa phương trong những năm đầu trở thành thành phố trực thuộc Trung ương. Năm 2004, Ủy ban nhân dân thành phố ban hành và triển khai
_______________
1. Xem tại http://www.tuyengiao.vn/Home/khoagiao/90351/ Ha-Noi-chinh-thuc-co-duong-Hoang-Sa-Truong-Sa, cập nhật, ngày 3/8/2016.
74
Đề án Tăng cường quản lý nhà nước đối với huyện đảo Hoàng Sa. Ủy ban nhân dân huyện đảo Hoàng Sa1 thành lập Phòng Trưng bày tư liệu lịch sử, giới thiệu các hình ảnh, tư liệu, hiện vật liên quan đến chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa cho các nhà nghiên cứu, cơ quan thông tấn báo chí, phục vụ công tác nghiên cứu, tuyên truyền và đấu tranh bảo vệ chủ quyền tham quan, nghiên cứu. Để tiếp tục làm rõ chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa, ngày 07/12/2007, Hội đồng nhân dân thành phố Đà Nẵng khóa VII thông qua Nghị quyết Kỳ họp thứ 10, khẳng định: Hoàng Sa là đơn vị hành chính của Đà Nẵng, do Ủy ban nhân dân huyện đảo Hoàng Sa quản lý và phản đối Trung Quốc đòi quản lý quần đảo này2.
Tại kỳ họp thứ 16, khóa VII, ngày 14/7/2010, Hội đồng nhân dân thành phố Đà Nẵng đã thông qua nghị quyết đặt tên đường Hoàng Sa và đường Trường Sa. Tiếp đó, tại kỳ họp thứ 7, khóa VIII, ngày 11/7/2013, Hội đồng nhân dân thành phố Đà Nẵng ra nghị quyết đặt tên đường Đỗ Bá - người
_______________
1. Ngày 25/4/2009, Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng quyết định bổ nhiệm chính thức chức danh Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện đảo Hoàng Sa.
2. Xem Báo Đà Nẵng cuối tuần, số 5023, ngày 19/01/2014, tr.10.
75
Việt Nam đầu tiên vẽ bản đồ về Hoàng Sa cách đây hơn 300 năm.
Trong sự kiện Trung Quốc hạ đặt trái phép giàn khoan HD-981 trong vùng biển thuộc đặc quyền kinh tế của Việt Nam, ngày 10/7/2014, Hội đồng nhân dân thành phố Đà Nẵng Khóa VIII (nhiệm kỳ 2011-2016) đã ra nghị quyết phản đối Trung Quốc xâm phạm chủ quyền quốc gia tại Việt Nam1.
Từ yêu cầu cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam, Viện Nghiên cứu phát triển kinh tế - xã hội Đà Nẵng triển khai thực hiện đề tài phông tư liệu về chủ quyền của Việt Nam đối với huyện đảo Hoàng Sa - thành phố Đà Nẵng (giai đoạn 2010-2011); Ban Tuyên giáo Thành ủy Đà Nẵng phối hợp với Sở Nội vụ Đà Nẵng triển khai nghiên cứu đề tài “Quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam qua tài liệu lưu trữ của chính quyền Việt Nam Cộng hòa (1954-1975)” trong hai năm 2011-2012. Những kết quả nghiên cứu của hai đề tài này đã được giới thiệu tại Triển lãm các tư liệu có liên quan đến chủ quyền của
_______________
1. Xem Nghị quyết số 64/2014/NQ-HĐND của Hội đồng nhân dân thành phố Đà Nẵng, ngày 10/7/2014: Nghị quyết Phản đối Trung Quốc xâm phạm chủ quyền quốc gia Việt Nam.
76
Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa (từ ngày 20 tháng 01 đến 20/02/2013 tại Bảo tàng Đà Nẵng). Đây là lần đầu tiên Ủy ban nhân dân huyện đảo Hoàng Sa, Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng phối hợp với Viện Nghiên cứu phát triển kinh tế - xã hội Đà Nẵng, Bảo tàng Đà Nẵng, Hội Khoa học lịch sử Đà Nẵng tổ chức một cuộc triển lãm nhằm góp phần tuyên truyền và khẳng định chủ quyền và quyền chủ quyền của Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử đối với huyện đảo Hoàng Sa - một phần lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc. Từ thành công và tiếng vang của cuộc triển lãm này tại Đà Nẵng, Bộ Thông tin và Truyền thông đã lấy chủ đề chính thức “Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam - Những bằng chứng lịch sử” để tổ chức chuyên đề triển lãm tại khắp các tỉnh, thành phố trên phạm vi cả nước1.
Báo Đà Nẵng (thông qua các ấn phẩm Đà Nẵng hằng ngày, Đà Nẵng cuối tuần, Đà Nẵng điện tử và DaNang Today) tập trung tuyên truyền chủ quyền của Việt Nam ở hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa; đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch; thực hiện tốt công tác phối hợp
_______________
1. Xem Đặng Công Ngữ: “Chân lý phải thắng”, Báo Đà Nẵng cuối tuần, số 5023, ngày 19/01/2014, số chuyên đề Hoàng Sa - 40 năm Trung Quốc cưỡng chiếm trái phép, tr.11.
77
nắm bắt thông tin, dư luận xã hội liên quan đến vấn đề Biển Đông. Báo Đà Nẵng phối hợp chặt chẽ với Ủy ban nhân dân huyện đảo Hoàng Sa, Viện Nghiên cứu phát triển kinh tế - xã hội Đà Nẵng tập trung chuyên sâu vào những vấn đề chủ quyền của nước ta ở Hoàng Sa, Trường Sa thông qua giới thiệu những tư liệu sưu tầm mới, độc đáo và có giá trị lịch sử, pháp lý cao để tuyên truyền chủ quyền biển, đảo. Khi Trung Quốc hạ đặt trái phép giàn khoan HD-981 trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam (tháng 5/2014), báo Đà Nẵng đã tiên phong trong việc thông tin, tuyên truyền, bảo đảm vai trò định hướng dư luận, góp phần đem lại cho bạn đọc và nhân dân cái nhìn đúng đắn, đầy đủ về sự việc này; vừa góp phần đấu tranh kiên quyết qua nhiều chứng cứ pháp lý, động viên các lực lượng chấp pháp, ngư dân thực thi nhiệm vụ, vừa bảo đảm ổn định tình hình an ninh chính trị, trật tự xã hội trên địa bàn. Với vai trò là đơn vị đăng cai, báo Đà Nẵng cũng tổ chức thành công Hội thảo báo Đảng khu vực miền Trung - Tây Nguyên lần thứ 5 (năm 2015) với chủ đề “Chủ quyền Việt Nam trên Biển Đông”, thu hút sự quan tâm rộng rãi của dư luận1.
_______________
1. Xem Nguyễn Thành: “Báo Đà Nẵng nêu cao vai trò tiên phong trong tuyên truyền các sự kiện”, Báo Đà Nẵng, số 5433, ngày 16/6/2015.
78