🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Công Nghiệp Hoá, Hiện Đại Hoá Với Quá Trình Phát Triển Lực Lượng Sản Xuất Trong Cách Mạng Công Nghiệp 4.0 Ở Việt Nam Hiện Nay Ebooks Nhóm Zalo Chịu trách nhiệm xuất bản GIÁM ĐỐC - TỔNG BIÊN TẬP PGS.TS. PHẠM MINH TUẤN Chịu trách nhiệm nội dung ỦY VIÊN HỘI ĐỒNG BIÊN TẬP - XUẤT BẢN TS. VÕ VĂN BÉ Biên tập nội dung: Trình bày bìa: Chế bản vi tính: Đọc sách mẫu: VĂN THỊ THANH HƯƠNG NGUYỄN THỊ HẢI BÌNH TRẦN HÀ TRANG NGUYỄN THỊ THU HÒA PHẠM VŨ PHƯƠNG LINH NGUYỄN VIỆT HÀ PHẠM THÚY LIỄU NGUYỄN THANH TẤN KIỆT HÀ TRANG VIỆT HÀ Số đăng ký kế hoạch xuất bản: 427-2021/CXBIPH/4-365/CTQG. Số quyết định xuất bản: 07-QĐ/NXBCTQG, ngày 18/02/2021. Nộp lưu chiểu: tháng 4 năm 2021. Mã ISBN: 978-604-57-6492-3. Biên mục trên xuất bản phẩm của Thư viện Quốc gia Việt Nam Phạm Thị Kiên Công nghiệp hóa, hiện đại hóa với quá trình phát triển lực lượng sản xuất trong cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 ở Việt Nam hiện nay / Phạm Thị Kiên. - H. : Chính trị Quốc gia, 2020. - 208tr. ; 24cm ISBN 9786045757581 1. Công nghiệp hoá 2. Lực lượng sản xuất 3. Cách mạng công nghiệp 4. Việt Nam 338.09597 - dc23 CTL0225p-CIP 2 4 LỜI NHÀ XUẤT BẢN Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (cách mạng công nghiệp 4.0) là một cuộc cách mạng với sự tiến bộ thần kỳ và phát triển như vũ bão của khoa học, kỹ thuật và công nghệ đang làm biến đổi sâu sắc và khá toàn diện về phương thức sống của con người. Những thuật ngữ như công nghệ in 3D, trí tuệ nhân tạo, internet kết nối vạn vật, rôbốt thông minh... không còn xa lạ, thể hiện những bước tiến khổng lồ của xã hội loài người về khoa học - công nghệ. Cách mạng công nghiệp lần thứ tư sẽ tạo điều kiện thúc đẩy mối quan hệ gắn bó trực tiếp giữa công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Đây là cơ hội quý báu mà Việt Nam phải nhanh chóng nắm bắt để tranh thủ đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và sớm thực hiện được mục tiêu trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Từ một nước có nền kinh tế kém phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội như nước ta mỗi bước tiến của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa là một bước tăng cường cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội, phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất và góp phần hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Do vậy, việc đẩy mạnh hơn nữa công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhằm phát triển lực lượng sản xuất trong giai đoạn hiện nay là một yêu cầu cấp thiết. Cuốn sách Công nghiệp hóa, hiện đại hóa với quá trình phát triển lực lượng sản xuất trong cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 ở Việt Nam hiện nay của TS. Phạm Thị Kiên gồm ba chương sẽ là tài liệu chuyên khảo bổ ích cho các nhà nghiên cứu, học sinh, sinh viên ngành triết học, kinh tế chính trị, kinh tế và quản lý khoa học và bạn đọc quan tâm đến lĩnh vực trên. Xin trân trọng giới thiệu cuốn sách với bạn đọc. Tháng 7 năm 2020 NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA SỰ THẬT 5 6 LỜI NÓI ĐẦU Trong quá trình xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia, lực lượng sản xuất giữ vai trò quyết định. Phát triển lực lượng sản xuất chính là phát triển hệ thống các yếu tố và phương thức kết hợp giữa các yếu tố người lao động với tư liệu sản xuất trong quá trình sản xuất vật chất của một xã hội nhất định. Trong đó, công nghiệp hóa, hiện đại hóa có vai trò to lớn, là nhân tố, động lực phát triển lực lượng sản xuất. Ở Việt Nam, cùng với những nhân tố khác, công nghiệp hóa, hiện đại hóa là một trong những giải pháp quyết định đưa nước ta sớm thoát khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu, khắc phục nguy cơ tụt hậu về kinh tế, tiến kịp với các nước trong khu vực và trên thế giới, đồng thời cải thiện đời sống của Nhân dân, tăng cường tiềm lực quốc phòng - an ninh, củng cố vững chắc độc lập chủ quyền của Tổ quốc. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay không chỉ đơn thuần phát triển công nghiệp mà còn phải chuyển dịch cơ cấu trong từng ngành, từng lĩnh vực và toàn bộ nền kinh tế quốc dân theo hướng kỹ thuật và công nghệ hiện đại. Hơn nữa, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta không chỉ tuần tự trải qua các bước cơ giới hóa, tự động hóa, tin học hóa mà còn sử dụng kết hợp công nghệ truyền thống với công nghệ hiện đại, tranh thủ tiến thẳng lên hiện đại ở những khâu có thể và mang tính quyết định, ứng dụng rộng rãi những thành tựu khoa học, công nghệ. Đặc biệt, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư được cho là đã bắt đầu từ vài năm gần đây là cuộc cách mạng về sản xuất thông minh dựa trên các thành tựu đột phá trong các lĩnh vực công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ nano,... với nền tảng là các đột phá của công nghệ số. Cách mạng công nghiệp lần thứ tư sẽ mở ra cơ hội phát triển cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam trong quá 7 trình phát triển lực lượng sản xuất, bởi cuộc cách mạng công nghiệp này không nhằm vào công nghiệp, là lĩnh vực mà nước ta có khoảng cách rất lớn so với các nước phát triển, mà chú trọng vào công nghệ số, tạo điều kiện cho nước ta phát triển về công nghệ số ở mọi lĩnh vực. Hơn nữa, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư ở thế kỷ XXI sẽ thúc đẩy quá trình phát triển lực lượng sản xuất. Do đó, Việt Nam phải đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa để phát triển kinh tế - xã hội, tạo điều kiện tăng cường củng cố an ninh - quốc phòng và là tiền đề cho việc xây dựng một nền kinh tế độc lập, tự chủ, đủ sức tham gia một cách có hiệu quả vào sự phân công và hợp tác quốc tế. Chính vì vậy, đây là cơ hội quý báu mà Việt Nam phải nhanh chóng đón bắt để tranh thủ đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và sớm thực hiện được mục tiêu trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Tuy nhiên, nếu không định hướng được rõ ràng mục tiêu, cách thức tiếp cận và tham gia thông qua chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đổi mới giáo dục, phát triển khoa học, công nghệ phù hợp thì sức ép đặt ra cho Việt Nam bởi cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư là rất lớn. Nhận thức rõ vai trò, ý nghĩa của công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong quá trình phát triển lực lượng sản xuất, Đảng và Nhà nước ta chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên cơ sở phát triển mạnh mẽ khoa học, công nghệ hiện đại, và xem đây là trọng tâm trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đảng xác định: Công nghiệp hóa tạo nên lực lượng sản xuất cần thiết cho chế độ xã hội mới1. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với khoa học, công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại dựa trên sự tiến bộ khoa học, phát triển của công nghệ. 1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t. 21, tr. 530. 8 Trong hơn ba mươi năm đổi mới đất nước, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Việt Nam đã thu được một số thành tựu có ý nghĩa to lớn. Nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao 7-8%/năm và là một trong những nước có tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh trên thế giới1. Đời sống nhân dân được cải thiện đáng kể; nền kinh tế đang chuyển mạnh sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; thể chế kinh tế thị trường đã bắt đầu hình thành và đang trong quá trình hoàn thiện. Nước ta là một trong những nước đứng hàng đầu thế giới về xuất khẩu gạo, cà phê, cao su..., và là một trong những nước đã giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội, được các tổ chức quốc tế thừa nhận có thành tích xóa đói, giảm nghèo nhanh nhất. Tuy nhiên, tình hình nước ta vẫn đang còn nhiều thách thức và diễn biến phức tạp. Cụ thể như: tốc độ tăng trưởng kinh tế trong những năm gần đây đã bị suy giảm; công nghiệp hóa, hiện đại hóa phát triển chưa bền vững, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đang chững lại; hiệu quả sử dụng nguồn lực còn nhiều hạn chế, chất lượng nguồn nhân lực thấp so với yêu cầu; một số vấn đề xã hội phát sinh chậm được giải quyết. Trong khi đó, hạ tầng kinh tế - xã hội có tốc độ phát triển chậm so với yêu cầu của nền kinh tế thị trường trong hội nhập kinh tế quốc tế; chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn kém; cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm và vẫn còn nặng về nông nghiệp và khai thác tài nguyên. Giá trị xuất khẩu tuy khá cao, nhưng hiệu quả kém: sản phẩm xuất khẩu chủ yếu là nông sản và nguyên liệu ít qua chế biến. Năng suất lao động ở nước ta còn thấp hơn từ 2 đến 15 lần so với một số nước Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN)... Môi trường ở nhiều nơi đang bị ô nhiễm. Tài nguyên, đất đai chưa được quản lý tốt. Tất cả những vấn đề đó ảnh hưởng không nhỏ tới công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. 1. Xem Đảng Cộng sản Việt Nam: Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 30 năm đổi mới (1986-2016), Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2006. 9 Do vậy, Việt Nam muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội, thì việc đẩy mạnh hơn nữa công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhằm phát triển lực lượng sản xuất trong giai đoạn hiện nay là một yêu cầu cấp thiết. Cuốn sách Công nghiệp hóa, hiện đại hóa với quá trình phát triển lực lượng sản xuất trong cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 ở Việt Nam hiện nay sẽ là tài liệu chuyên khảo có ích cho sinh viên ngành triết học, kinh tế chính trị, kinh tế và quản lý khoa học, các nhà nghiên cứu và bạn đọc quan tâm đến vấn đề trên. TS. Phạm Thị Kiên 10 Chương I LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA VÀ LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT I. QUAN NIỆM VỀ CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA VÀ LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT, PHÁT TRIỂN LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT 1. Quan niệm về công nghiệp hóa, hiện đại hóa 1.1. Quan niệm về công nghiệp hóa Công nghiệp hóa là quá trình phát triển tất yếu trong xã hội loài người. Đây là quá trình chuyển biến từ lao động thủ công với công cụ, phương tiện, quy trình sản xuất giản đơn, năng suất, hiệu quả thấp lên trình độ sản xuất cao với công cụ, phương tiện, trang thiết bị hiện đại, dựa trên trình độ khoa học, công nghệ tiên tiến, hiện đại, sự phân công lao động ngày càng chuyên môn hóa sâu, làm cho năng suất lao động ngày càng cao, chi phí sản xuất, giá thành sản phẩm thấp. Đồng thời, đẩy mạnh công nghiệp hóa sẽ càng thúc đẩy sự phát triển của nguồn nhân lực chất lượng cao. Chính vì thế, công nghiệp hóa góp phần làm cho lực lượng sản xuất phát triển, thúc đẩy sự phát triển của xã hội. C.Mác cũng đã khẳng định: “Những thời đại kinh tế khác nhau không phải ở chỗ chúng sản xuất ra cái gì, mà là ở chỗ chúng sản xuất bằng cách nào, với những tư liệu lao động nào”1. Lịch sử công nghiệp hóa trên thế giới đã trải qua vài trăm năm, vào giữa thế kỷ XVIII, một số nước phương Tây, mở đầu là nước Anh đã tiến hành cuộc cách mạng công nghiệp, với nội dung chủ yếu là chuyển từ lao động thủ công sang lao động cơ khí. Đây là 1. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993, t. 23, tr. 269. 11 mốc đánh dấu sự khởi đầu cho tiến trình công nghiệp hóa của thế giới. Tuy vậy, phải đến thế kỷ XIX, khái niệm công nghiệp hóa mới được dùng để thay thế cho khái niệm cách mạng công nghiệp, mặc dù sau cách mạng công nghiệp ở Anh, công nghiệp hóa đã diễn ra trên quy mô rộng ở các nước Tây Âu, Bắc Mỹ và Nhật Bản. Đến nay, công nghiệp hóa đã lan rộng khắp các châu lục trên thế giới, cho nên công nghiệp hóa tác động làm chuyển biến tất cả các lĩnh vực sản xuất vật chất và phi vật chất của xã hội. Công nghiệp hóa có thể hiểu là quá trình tạo sự chuyển biến từ kinh tế nông nghiệp lạc hậu, dựa trên lao động thủ công, năng suất thấp sang kinh tế công nghiệp với cơ cấu kinh tế hiện đại, dựa trên lao động sử dụng bằng máy móc, tạo ra năng suất lao động cao. Công nghiệp hóa thay thế kỹ thuật thủ công bằng máy móc trên quy mô toàn bộ nền kinh tế, đẩy mạnh sự phân công lao động xã hội và sản xuất hàng hóa, tạo ra bước ngoặt trong việc nâng cao năng suất lao động xã hội, biến đổi một xã hội nông nghiệp lạc hậu thành một xã hội công nghiệp tiên tiến. Công nghiệp hóa cũng đã làm thay đổi căn bản phương thức sản xuất với kỹ thuật, công nghệ và tổ chức sản xuất truyền thống. Công nghiệp hóa là một giai đoạn phát triển mà mọi quốc gia muốn nhanh chóng vươn tới trình độ phát triển cao, đều tất yếu phải trải qua. C.Mác cho rằng: “Cái máy, điểm xuất phát của cuộc cách mạng công nghiệp, đã thay thế người lao động chỉ sử dụng có mỗi một dụng cụ, bằng một cơ cấu sử dụng ngay một lúc nhiều công cụ như nhau hoặc cùng loại và do một động lực làm cho chuyển động”1. Vậy là: “Nền đại công nghiệp phải nắm lấy những tư liệu sản xuất đặc trưng của nó, tức là bản thân máy móc, và dùng máy móc để sản xuất ra máy móc. Nhờ thế, nó đã tạo ra được cho mình một cơ sở kỹ thuật thích hợp và đứng vững được trên đôi chân của mình”2. Dựa trên cơ sở phân tích sự phát triển của máy móc tự động, C.Mác đã chỉ rõ vai trò ngày càng quan trọng của khoa học, công nghệ, khẳng định trong xã hội công nghiệp, máy móc sẽ dần thay 1. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t. 23, tr. 542. 2. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t. 23, tr. 554. 12 thế cho lao động cơ bắp, lao động trực tiếp trở thành lao động thứ yếu. Từ đó rút ra những vấn đề có ý nghĩa thực tiễn về tăng năng suất lao động xã hội, xã hội hóa lao động, cách mạng kỹ thuật trong quá trình chuyển biến của nền sản xuất xã hội từ sản xuất nhỏ, thủ công, phân tán lên sản xuất lớn, cơ khí hóa, tập trung. Hiện nay có nhiều quan niệm về công nghiệp hóa khác nhau. Theo Từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê thì: “Công nghiệp hóa là quá trình xây dựng nền sản xuất cơ khí lớn trong tất cả các ngành của nền kinh tế quốc dân và đặc biệt trong công nghiệp, dẫn tới sự tăng nhanh trình độ trang bị kỹ thuật cho lao động và nâng cao năng suất lao động”1. Song, theo Từ điển Bách khoa thì công nghiệp hóa là: Quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế - xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến của công nghiệp và tiến bộ khoa học, công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao2. Nhìn chung, các quan niệm trên về công nghiệp hóa đều được hiểu đó là quá trình trang bị công nghệ và thiết bị cơ khí hóa cho tất cả các ngành kinh tế quốc dân. Công nghiệp hóa đã làm thay đổi căn bản phương thức sản xuất với kỹ thuật, công nghệ và tổ chức sản xuất truyền thống. Công nghiệp hóa là một giai đoạn phát triển mà mọi quốc gia, muốn nhanh chóng vươn tới trình độ phát triển cao, đều nhất định phải trải qua để chuyển đổi một nước có nền kinh tế lạc hậu thành một nước công nghiệp có khoa học, công nghệ, kỹ thuật hiện đại. Đối với sự phát triển kinh tế - xã hội, khái niệm công nghiệp hóa hiểu theo nghĩa hẹp là quá trình chuyển dịch từ kinh tế nông nghiệp (hay tiền công nghiệp) lên nền kinh tế lấy công nghiệp làm chủ đạo, 1. Hoàng Phê (Chủ biên): Từ điển tiếng Việt, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1996, tr. 57. 2. Hội đồng Quốc gia chỉ đạo biên soạn Từ điển Bách khoa Việt Nam: Từ điển Bách khoa Việt Nam, Nxb. Từ điển Bách khoa, Hà Nội, 1995, t. 1, tr. 587. 13 từ chỗ tỷ trọng lao động nông nghiệp chiếm chủ yếu giảm dần và nhường chỗ cho lao động công nghiệp chiếm tỷ trọng lớn hơn. Còn hiểu theo nghĩa rộng, công nghiệp hóa là quá trình chuyển dịch từ kinh tế nông nghiệp (hay tiền công nghiệp) lên kinh tế công nghiệp, từ xã hội nông nghiệp lên xã hội công nghiệp, từ văn minh nông nghiệp lên văn minh công nghiệp. Nó không chỉ đơn thuần là những biến đổi về kinh tế mà bao gồm cả các biến đổi về văn hóa và xã hội từ trạng thái nông nghiệp lên xã hội công nghiệp, tức là trình độ văn minh cao hơn. Vì thế, công nghiệp hóa là sự chuyển hóa, biến đổi xã hội theo hướng công nghiệp, mang nội dung công nghiệp. Do đó, công nghiệp hóa là con đường tất yếu và là nội dung của quá trình phát triển công nghiệp, nằm trong quá trình phát triển công nghiệp. Như vậy, công nghiệp hóa là quá trình tất yếu khách quan. Do những điều kiện tự nhiên, lịch sử, kinh tế - xã hội khác nhau, mà các quốc gia bước vào quá trình công nghiệp hóa sớm, muộn, nhanh, chậm và có lộ trình, phương pháp khác nhau. Công nghiệp hóa luôn kết hợp chặt chẽ với khoa học, kỹ thuật nên các công nghệ ngày càng hiện đại, tiên tiến, phát triển lên trình độ cao. Công nghiệp hóa phản ánh được quy luật phát triển của nền kinh tế tiểu nông lên nền kinh tế sản xuất công nghiệp hiện đại; mặt khác, nó phải thể hiện được vai trò của công nghiệp, khoa học, công nghệ trong đời sống xã hội nói chung và công nghiệp hóa nói riêng; đồng thời nó tất yếu dẫn đến quá trình hiện đại hóa. Từ những quan niệm trên, có thể kết luận, công nghiệp hóa là quá trình hình thành, phát triển và thâm nhập của sản xuất công nghiệp vào tất cả các lĩnh vực của sản xuất và đời sống, chuyển từ lao động thủ công lên lao động sử dụng máy móc theo hướng ngày càng có hàm lượng trí tuệ cao hơn, làm biến đổi cơ cấu kinh tế - xã hội, tăng năng suất, chất lượng, hiệu quả của hành động sản xuất vật chất và phi vật chất trong từng quốc gia và toàn bộ thế giới. Tuy nhiên, công nghiệp hóa cũng nảy sinh những vấn đề đặt ra cần phải giải quyết như: nguồn tài nguyên thiên nhiên được sử dụng cho công nghiệp ngày càng nhiều và có xu hướng cạn kiệt dần, 14 những vấn đề về ô nhiễm môi trường, biến đổi khí hậu, sự bùng nổ dân số, đô thị hóa,... Để khắc phục những hạn chế thì công nghiệp hóa phải gắn liền với việc phát triển, ứng dụng những tiến bộ của khoa học, công nghệ nhằm phát triển kinh tế - xã hội một cách ổn định, bền vững. 1.2. Quan niệm về hiện đại hóa Hiện đại hóa có mối quan hệ biện chứng và kết hợp chặt chẽ với công nghiệp hóa và cuộc cách mạng khoa học, công nghệ hiện đại. Hiện đại hóa gắn liền với những phát minh và ứng dụng ngày càng rộng rãi của công nghệ điện tử - tin học cùng hàng loạt các công nghệ hiện đại vào trong sản xuất và đời sống, làm chuyển biến nền kinh tế - xã hội của các quốc gia sang quá trình tự động hóa tổng hợp. Hiện đại hóa đã tạo điều kiện để biến đổi về chất của lực lượng sản xuất, tăng năng suất lao động. Hiện có nhiều tác giả đưa ra các quan niệm khác nhau về hiện đại hóa. Theo Từ điển tiếng Việt, “Hiện đại hóa” được hiểu là làm cho một cái gì đó mang tính chất hiện đại, tiên tiến, mang tính chất của thời đại ngày nay1. Ví dụ như người ta dùng từ hiện đại để chỉ về mốc thời gian của các ngành khoa học như: lịch sử hiện đại, văn học hiện đại, toán học hiện đại, vật lý hiện đại. Có áp dụng những phát minh, những thành tựu mới nhất của khoa học và kỹ thuật ngày nay. Có quan điểm lại cho rằng, hiện đại hóa là quá trình chuyển biến từ xã hội cổ truyền sang xã hội hiện đại mà người ta thường lấy các nước phát triển như: Anh, Pháp, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Tây Âu làm tiêu chí xác định; có quan niệm cho hiện đại hóa là chỉ thời hiện tại. “Hiện đại hóa là thuật ngữ sử học chỉ thời hiện tại”2. Có quan điểm lại xác định, hiện đại hóa là sự phát triển thay thế cái cũ bằng cái mới tiến bộ hơn. “Hiện đại hóa xã hội là hình thức đặc biệt của sự phát triển xã hội, là tổng hòa các phương thức cải biến 1. Viện Ngôn ngữ học: Từ điển tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng, Đà Nẵng, 1995, tr. 545. 2. Hội đồng Quốc gia chỉ đạo biên soạn Từ điển Bách khoa Việt Nam: Từ điển Bách khoa Việt Nam, Sđd, t. 2, tr. 274. 15 nhằm đưa nền kinh tế - xã hội quá độ từ trình độ phát triển khác nhau đến các trình độ cao hơn trên cơ sở tiến bộ khoa học, kỹ thuật”1. Dưới góc độ phát triển, có quan điểm lại xem xét hiện đại hóa như là một sự tiếp nối của công nghiệp hóa: Hiện nay ở các nước đang phát triển, hiện đại hóa được triển khai gắn liền với quá trình công nghiệp hóa và giữa chúng có một số nội dung giống nhau, nhưng hai quá trình này không phải là một. Quá trình hướng tới một hệ thống kinh tế, chính trị, xã hội tương ứng với hệ thống của các nước phát triển2. Nếu như cuộc cách mạng công nghiệp thế kỷ XVIII được đặc trưng bởi việc sản xuất và sử dụng máy móc cơ khí thay thế cho hoạt động chân tay, hoạt động thủ công của con người trong sản xuất và đời sống; thì cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại được đặc trưng bởi máy tính điện tử, người máy công nghiệp trong việc thay thế không chỉ hoạt động chân tay, mà cả các thao tác hoạt động trí óc của con người, làm chuyển biến nền kinh tế - xã hội sang quá trình tự động hóa tổng hợp, cùng với hàng loạt các công nghệ hiện đại, tiên tiến, làm cho xã hội ngày càng hiện đại. Cuộc cách mạng công nghiệp đã làm cho máy móc ngày càng có hàm lượng trí tuệ cao, nhỏ gọn, sử dụng ít lao động, tiêu tốn ít năng lượng, nhiên liệu, giảm ô nhiễm môi trường, sản xuất theo nhu cầu phong phú, đa dạng của con người. Trước đây, người lao động trở thành một bộ phận của máy móc, lệ thuộc vào máy thì ngày nay, người lao động độc lập, được làm chủ và điều khiển máy móc. Hiện đại hóa là quá trình phát triển tiếp nối và là kết quả trực tiếp của quá trình công nghiệp hóa, nhờ sự kết hợp chặt chẽ, quan hệ biện chứng giữa công nghiệp hóa với cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, là quá trình phát minh và ứng dụng ngày càng rộng rãi công nghệ điện tử - tin học cùng hàng loạt các công nghệ 1. Nguyễn Trọng Chuẩn, Nguyễn Thế Nghĩa, Đặng Hữu: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam, lý luận và thực tiễn, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 88. 2. Nguyễn Thế Nghĩa: Góp thêm vào vấn đề công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay, Tạp chí Triết học, số 4/1998, tr. 12-14. 16 hiện đại vào sản xuất và đời sống, làm chuyển biến nền kinh tế - xã hội của các quốc gia sang quá trình tự động hóa tổng hợp. Về phương diện kinh tế - xã hội, hiện đại hóa là quá trình chuyển dịch căn bản từ xã hội truyền thống lên xã hội hiện đại, quá trình làm cho nền kinh tế và đời sống xã hội mang tính chất và trình độ của thời đại ngày nay. Hiện đại hóa về kinh tế vừa có sự thay đổi về tính chất, vừa có tính xác định về thời gian. Giai đoạn đầu của hiện đại hóa được xác định trùng với thời kỳ diễn ra cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất (còn gọi là thời kỳ công nghiệp hóa). Trong giai đoạn này, công nghiệp hóa là nội dung cốt lõi của hiện đại hóa. Hiện đại hóa là sự thay thế cái cũ bằng cái mới tiến bộ hơn. “Hiện đại hóa xã hội là hình thức đặc biệt của sự phát triển xã hội, là tổng hòa các phương thức cải biến nhằm đưa nền kinh tế - xã hội quá độ từ trình độ phát triển khác nhau đến trình độ cao hơn trên cơ sở tiến bộ khoa học, kỹ thuật”1. Trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 hiện nay, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện các lĩnh vực trong kinh tế, văn hóa, xã hội, tính hiện đại hóa còn được bộc lộ trong các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế - xã hội từ chỗ theo những quy trình công nghệ phương tiện phương pháp tiên tiến hiện đại, dựa trên sự phát triển của tiến bộ khoa học kỹ thuật tạo ra năng suất lao động hiệu quả và trình độ văn minh kinh tế - xã hội cao. Do đó, hiện đại hóa là tính hiện đại được thấm vào mọi mặt, mọi lĩnh vực của mỗi hình thái kinh tế - xã hội khác nhau. Từ những phân tích trên, có thể hiểu hiện đại hóa là quá trình chuyển dịch căn bản từ xã hội truyền thống lên xã hội hiện đại, quá trình làm cho nền kinh tế và đời sống xã hội mang tính chất và trình độ của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 hiện nay. Đây không chỉ là hiện đại hóa trong lĩnh vực kinh tế, mà nó còn bao hàm phạm vi rộng lớn hơn, đó là hiện đại hóa toàn bộ đời sống xã hội. Đối với 1. Nguyễn Trọng Chuẩn, Nguyễn Thế Nghĩa, Đặng Hữu: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam, lý luận và thực tiễn, Sđd, tr. 88. 17 các nước phát triển, hiện đại hóa là quá trình chuyển dịch từ xã hội dựa trên nền kinh tế công nghiệp lên xã hội dựa trên nền kinh tế tri thức. Hiện đại hóa là quá trình tăng tốc, rút ngắn lộ trình phát triển để đuổi kịp các nước đi trước và phát triển hơn. Do tiến hành công nghiệp hóa trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 nên bên cạnh việc dựa vào các nguồn lực trong nước, các nước đang phát triển còn tranh thủ các nguồn lực từ bên ngoài thông qua thu hút đầu tư để tìm kiếm nguồn vốn và công nghệ mới. Đây chính là kiểu công nghiệp hóa rút ngắn hiện đại. Nhìn chung, các quan niệm trên đều xác định hiện đại hóa là kết quả tất yếu và là quá trình tiếp nối công nghiệp hóa trong xã hội hiện đại. Công nghiệp hóa làm cho nền kinh tế - xã hội của một nước ngày càng hiện đại hơn. Công nghiệp hóa được kế thừa có chọn lọc và phát triển những tri thức của văn minh nhân loại về tính hiện đại vào điều kiện lịch sử cụ thể của mỗi nước trong quá trình phát triển của mình. Như vậy, có thể hiểu: hiện đại hóa thực chất là quá trình ứng dụng và trang bị những thành tựu khoa học - công nghệ hiện đại và tiên tiến vào quá trình sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế - xã hội. Trong giai đoạn khoa học - công nghệ phát triển thì hai quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn kết mật thiết với nhau, có mối quan hệ biện chứng với nhau. 1.3. Mối quan hệ giữa công nghiệp hóa và hiện đại hóa Công nghiệp hóa, hiện đại hóa thực chất là hai quá trình tách biệt trong sự phát triển xã hội của nhân loại. Công nghiệp hóa được coi là sản phẩm trực tiếp của cuộc cách mạng công nghiệp cuối thế kỷ XVIII, còn hiện đại hóa là sản phẩm tất yếu của cuộc cách mạng khoa học và kỹ thuật vào giữa thế kỷ XX. Công nghiệp hóa và hiện đại hóa gắn liền với nhau và được cho là đồng nhất với nhau vì cùng là quá trình chuyển đổi cơ bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh dịch vụ và quản lý 18 kinh tế - xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động và công nghệ, phương tiện phương pháp tiên tiến, hiện đại dựa trên sự phát triển công nghiệp và tiến bộ khoa học - công nghệ tạo ra năng suất lao động cao. Nhưng lại khác biệt ở chỗ, công nghiệp hóa chỉ tiến hành trong thời gian nhất định khi nào thành nước công nghiệp thì quá trình công nghiệp hóa sẽ kết thúc. Công nghiệp hóa do các nước nông nghiệp lạc hậu hoặc đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội tiến hành. Còn hiện đại hóa là quá trình lâu dài, hiện đại hóa được tiến hành ở tất cả các quốc gia trên thế giới, kể cả các nước đã phát triển cũng diễn ra quá trình này. Công nghiệp hóa và hiện đại hóa có sự kết hợp chặt chẽ trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của mỗi nước. Đó không chỉ đơn thuần phát triển công nghiệp mà còn phải thực hiện chuyển dịch cơ cấu trong từng ngành, từng lĩnh vực và toàn bộ nền kinh tế quốc dân theo hướng hiện đại. Việc sử dụng những tiến bộ khoa học, công nghệ hiện đại vào quá trình công nghiệp hóa nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành và vùng lãnh thổ trên cơ sở phát triển lợi thế của từng ngành, từng vùng; đồng thời bảo đảm việc ứng dụng có hiệu quả tiến bộ khoa học, công nghệ mới và tham gia tốt vào sự phân công hợp tác trong nước và quốc tế. Cuộc cách mạng khoa học, công nghệ hiện đại đã làm cho công nghiệp hóa gắn liền với hiện đại hóa trên con đường phát triển của mình. Những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học, công nghệ hiện đại đã làm cho công nghiệp hóa và hiện đại hóa có mối quan hệ biện chứng với nhau. Công nghiệp hóa ở các nước đang phát triển ngày nay không phải đi theo trình tự như các nước công nghiệp trước kia đã làm, mà nó có những bước nhảy vọt. Đây chính là “lợi thế của nước đi sau”. Dựa vào lợi thế này, các nước đi sau có thể rút ngắn đáng kể thời gian để sớm trở thành nước có nền kinh tế hiện đại. Do đó, yêu cầu đối với công nghiệp hóa kiểu mới ở mỗi nước có thể đề ra khác nhau, song có mấy điểm chung như sau: Một là, trong quá trình thực hiện công nghiệp hóa của mình, các nước cần khắc 19 phục tối đa những nhược điểm của công nghiệp hóa cổ điển như thời gian kéo dài, bất công xã hội, lãng phí vật chất, hủy hoại môi trường. Hai là, cần gắn kết công nghiệp hóa với hiện đại hóa, phát triển song song kinh tế và công nghệ, phát triển công nghệ thông tin, công nghệ cao, tiếp cận kinh tế tri thức. Ba là, phát triển bền vững, coi trọng cả kinh tế, xã hội và môi trường. Lịch sử phát triển của nhân loại cho thấy, sau mỗi cuộc cách mạng, khoa học, kỹ thuật, công nghệ ngày càng phát triển, kéo theo đó là công nghiệp hóa, hiện đại hóa ngày càng đem lại sự biến đổi sâu sắc và triệt để về mọi mặt trong mỗi hình thái kinh tế - xã hội. Cụ thể như: với cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất kéo dài từ cuối thế kỷ XVIII đến nửa đầu thế kỷ XIX, đánh dấu bằng sự ra đời của động cơ hơi nước, rồi sau đó là động cơ đốt trong, mở rộng sử dụng nhiên liệu than đá, xây dựng các tuyến đường sắt, mở ra kỷ nguyên sản xuất cơ khí và phát triển giao thương. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ hai bắt đầu từ nửa cuối thế kỷ XIX kéo dài tới đầu thế kỷ XX, với sự ra đời của máy phát điện, đèn điện, động cơ điện, mở rộng việc sử dụng điện năng trong sản xuất, mở ra kỷ nguyên sản xuất hàng loạt. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ ba bắt đầu vào thập niên 1960. Đặc điểm của cuộc cách mạng này là lần đầu tiên con người đã sáng tạo ra một loại máy có thể thay thế một phần quan trọng của lao động trí óc - đó là máy tính. Sự ra đời của chất bán dẫn đã dẫn tới việc sáng chế ra các siêu máy tính (thập niên 1960), máy tính cá nhân (thập niên 1970 và 1980) và Internet (thập niên 1990). Cũng trong thời kỳ này, chính con người đã phát hiện một quy luật quan trọng của thiên nhiên là Quy luật tồn tại của hệ sinh thái, từ đó biết tôn trọng tính đa dạng sinh học trong nhiệm vụ bảo vệ môi trường thiên nhiên cũng chính là bảo vệ sự phát triển bền vững của loài người. Hiện nay, đang diễn ra cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư vào giữa thập niên thứ hai của thế kỷ XXI. Đặc điểm của cuộc cách mạng này là phát triển mạnh mẽ và toàn diện các công nghệ số với phần cứng máy tính, phần mềm và hệ thống mạng trở nên ngày càng phổ biến, được tích hợp cả về tính năng 20 lẫn phạm vi ứng dụng, từ đó làm biến đổi sâu sắc đời sống xã hội cũng như nền kinh tế toàn cầu. Nó bao gồm một loạt các công nghệ tự động hóa hiện đại, trao đổi dữ liệu và chế tạo. Chính vì vậy, cuộc cách mạng công nghiệp này làm biến đổi mọi nền công nghiệp ở mọi quốc gia. Bề rộng và chiều sâu của những thay đổi này để tạo nên sự biến đổi của toàn bộ các hệ thống sản xuất, quản lý và quản trị. Như vậy, đòi hỏi sự hiện đại hóa trong công nghiệp ngày càng cao. Đồng thời, công nghiệp hóa, hiện đại hóa ngày nay gắn liền với cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 nên nó tạo ra những sản phẩm nhằm tăng khả năng hàng triệu người kết nối với nhau qua điện thoại di động, với sức mạnh xử lý, dung lượng lưu trữ và sự tiếp cận tri thức chưa từng có tiền lệ, là không giới hạn. Thậm chí, những khả năng đó còn được nhân lên gấp bội nhờ vào những đột phá về công nghệ mới nổi trong các lĩnh vực như trí thông minh nhân tạo, robot, mạng Internet, phương tiện độc lập, in 3D, công nghệ nano, công nghệ sinh học, khoa học về vật liệu, lưu trữ năng lượng và tin học lượng tử. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa sẽ góp phần tạo nên những sản phẩm trí thông minh nhân tạo, như: những chiếc xe hơi và thiết bị bay không người lái cho tới những trợ lý ảo trên mạng và phần mềm giúp biên dịch tài liệu. Thậm chí, từ phần mềm được sử dụng để tìm ra các loại thuốc mới tới những thuật toán được sử dụng để tiên đoán về những sở thích văn hóa của con người. Công nghệ chế tạo số đang từng ngày tương tác với thế giới sinh học. Các kỹ sư, nhà thiết kế và kiến trúc sư đang kết hợp việc thiết kế qua máy tính với gia công thêm, chế tạo vật liệu và sinh học tổng hợp để khám phá ra sự cộng sinh giữa các vi sinh, cơ thể con người, các sản phẩm chúng ta tiêu thụ và thậm chí là những tòa nhà chúng ta đang ở. Vậy, công nghiệp hóa ngày nay đòi hỏi tính hiện đại hóa ngày càng cao hơn và nó tạo nên sự thay đổi lớn đối với nền kinh tế - xã hội của mọi quốc gia. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là hai quá trình không đồng nhất, không là một. Công nghiệp hóa luôn diễn ra trong quá trình phát triển của lịch sử nhân loại, nó làm tăng năng suất lao động, chuyển đổi cơ sở vật chất trong xã hội còn hiện đại hóa là tính hiện đại được 21 diễn ra ở nhiều lĩnh vực trong đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội, chính trị của mỗi hình thái kinh tế - xã hội. Khoa học, công nghệ càng phát triển thì tính hiện đại hóa càng được đẩy mạnh. Song công nghiệp hóa, hiện đại hóa có thể gắn liền với nhau như một định hướng, một chiến lược phát triển của mỗi hình thái kinh tế - xã hội trong quá trình phát triển lực lượng sản xuất của mình. Đối với nước ta, công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn liền với nhau là tất yếu trong cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 hiện nay. Vì Việt Nam vốn xuất phát từ nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, sử dụng công cụ thô sơ, chưa áp dụng các thành tựu của cuộc cách mạng công nghệ 4.0 vào sản xuất. Thêm vào đó, chiến tranh kéo dài và hậu quả chiến tranh tàn phá nặng nề. Lũ lụt, hạn hán xảy ra hằng năm, tàn phá của cải, vật chất, v.v.. Trong khi đó, với sự phát triển như vũ bão của khoa học - công nghệ, nếu như nước ta không kịp thời tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa thì sẽ bị bỏ lại phía sau. Đồng thời nước ta tận dụng được lợi thế của các nước phát triển tiếp thu được công nghệ mà không phải bỏ công sức ra để tìm tòi, phát minh. Quá trình toàn cầu hóa hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng, một số nước bắt đầu chuyển sang nền kinh tế tri thức, đặt ra yêu cầu nước ta phải bắt kịp xu thế đó. Bởi ngày nay, khoa học, công nghệ phát triển rất mạnh mẽ, các thành tựu khoa học tiên tiến ra đời. Cùng với nó là quá trình toàn cầu hóa phát triển. Chính vì thế, ở nước ta công nghiệp hóa, và hiện đại hóa nhất thiết phải gắn liền với nhau. Với đặc điểm, điều kiện cũng như mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của nước ta trong giai đoạn hiện nay, Đảng ta xác định: “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học - công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao”1. 1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t. 53, tr. 554. 22 Như vậy, công nghiệp hóa gắn liền với hiện đại hóa do khoa học, công nghệ ngày càng phát triển, những phát minh khoa học chỉ cần một thời gian ngắn vài năm, vài tháng, thậm chí vài tuần là đã có thể ứng dụng được vào công nghệ sản xuất, chẳng hạn như những phát minh trong thông tin học, điều khiển học... Nền sản xuất xã hội ngày nay gắn liền với những phát minh, sáng chế trong khoa học, công nghệ, nghĩa là luôn đổi mới và hiện đại hóa. Việc thực hiện công nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa sẽ tạo điều kiện thay đổi về chất nền sản xuất xã hội, tăng năng suất lao động, tăng sức chế ngự của con người đối với thiên nhiên, tăng trưởng và phát triển kinh tế, nâng cao đời sống Nhân dân, ổn định tình hình kinh tế, chính trị, xã hội; Nâng cao năng lực quản lý, khả năng tích luỹ và phát triển sản xuất, tạo ra nhiều việc làm, nâng cao thu nhập, giúp cho sự phát triển tự do toàn diện của con người trong mọi hoạt động kinh tế - xã hội; Tạo điều kiện thuận lợi cho khoa học, công nghệ phát triển nhanh đạt trình độ tiên tiến hiện đại; Tăng cường lực lượng vật chất - kỹ thuật cho quốc phòng, an ninh; Bảo đảm đời sống kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước ngày càng được cải thiện; Tạo điều kiện vật chất cho việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đủ sức thực hiện sự phân công và hợp tác quốc tế. Vì vậy, quốc gia nào muốn phát triển lực lượng sản xuất thì phải tiến hành công nghiệp hóa theo hướng hiện đại... Bên cạnh quan niệm về công nghiệp hóa, hiện đại hóa thì cũng cần phải tìm hiểu những quan niệm về lực lượng sản xuất và phát triển lực lượng sản xuất. Qua đó làm rõ vai trò của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất. 2. Quan niệm về lực lượng sản xuất và phát triển lực lượng sản xuất Chủ nghĩa duy vật lịch sử khẳng định rằng, lịch sử xã hội loài người trước hết là lịch sử phát triển sản xuất, lịch sử vận động của các phương thức sản xuất lần lượt thay thế nhau, là lịch sử của quần chúng nhân dân lao động trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất cho xã hội. Do đó, muốn hiểu lịch sử phát triển của xã hội 23 loài người, trước hết phải hiểu lịch sử phát triển sản xuất, hiểu quá trình sản xuất của con người qua các giai đoạn lịch sử khác nhau. Để tồn tại và phát triển, con người phải tiến hành lao động sản xuất vật chất. Muốn hoạt động đó của con người được tiến hành bình thường, cần phải có một số điều kiện nhất định như: môi trường địa lý, điều kiện dân số, phương thức sản xuất. Các yếu tố kể trên đều có sự tác động qua lại lẫn nhau và ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động sản xuất vật chất nói chung; nhưng trong đó phương thức sản xuất là yếu tố cơ bản và có ý nghĩa quyết định nhất. Phương thức sản xuất quyết định sự chuyển biến của xã hội loài người qua các giai đoạn lịch sử. Khi một phương thức sản xuất mới ra đời, thay thế phương thức sản xuất cũ đã lỗi thời thì mọi mặt của đời sống xã hội cũng có sự thay đổi căn bản từ kết cấu kinh tế đến kết cấu giai cấp, từ các quan điểm tư tưởng xã hội đến các tổ chức xã hội. Phương thức sản xuất là sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất ở một trình độ nhất định và quan hệ sản xuất tương ứng: sự vận động, phát triển của phương thức sản xuất do sự tác động qua lại một cách biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Trong đó bao gồm các yếu tố như: quan hệ sản xuất (là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất) và lực lượng sản xuất (quan hệ giữa con người với tự nhiên và là sự biểu hiện của mối quan hệ phức tạp đó trong quá trình sản xuất). Mặc dù quan hệ sản xuất là tiêu chuẩn giúp phân biệt được những chế độ xã hội khác nhau của lịch sử, phân biệt hình thái kinh tế - xã hội này với hình thái kinh tế - xã hội khác, song xét đến cùng, trong phương thức sản xuất, lực lượng sản xuất là yếu tố quyết định hơn cả. C.Mác đã từng nói: “...không cần phải xét người lao động trong mối quan hệ với những người lao động khác. Một bên là con người và lao động của con người, bên kia là tự nhiên và vật liệu của tự nhiên, - thế là đủ”1. Với việc vận dụng phép biện chứng duy vật để giải quyết những vấn đề của lịch sử đã làm cho C.Mác và Ph.Ăngghen tiến một bước vượt bậc so với những nhà tư tưởng đi trước. 1. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t. 23, tr. 276. 24 2.1. Quan niệm về lực lượng sản xuất Lịch sử phát triển của loài người là lịch sử phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội mà thước đo là trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ở mỗi giai đoạn lịch sử nhất định. Với tư cách là biểu hiện của mối quan hệ giữa con người với giới tự nhiên trong quá trình sản xuất vật chất, lực lượng sản xuất thường xuyên vận động và phát triển. Ngày nay, khi khoa học - công nghệ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Sự xâm nhập của khoa học - công nghệ vào mọi yếu tố của lực lượng sản xuất ngày càng cao, hàm lượng ngày càng lớn làm cho lực lượng sản xuất phát triển rất nhanh chóng cả về chất lẫn về lượng. Chính vì vậy, quan niệm về lực lượng sản xuất cũng luôn được thay đổi. Những thành tựu của khoa học - công nghệ được vận dụng nhanh chóng và rộng rãi vào sản xuất, có tác dụng thúc đẩy sản xuất phát triển mạnh mẽ với sự ra đời của nhiều ngành sản xuất mới, nhiều phương pháp công nghệ mới, thay đổi nhiều chức năng của người sản xuất. Lực lượng sản xuất không ngừng phát triển với những diện mạo mới. Do đó, lực lượng sản xuất góp phần to lớn trong việc thúc đẩy quá trình phát triển tiến bộ xã hội trên thế giới. Khi bàn về hoạt động sản xuất vật chất, C.Mác, Ph.Ăngghen cũng như V.I.Lênin không đưa ra quan điểm cụ thể về lực lượng sản xuất, mà sử dụng và trình bày quan điểm này thông qua phân tích nội dung của quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất và các hình thức biểu hiện của nó trong những chế độ xã hội khác nhau. Tuy nhiên, qua đó có có thể hiểu được nội dung, cấu trúc của lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất phản ánh một hiện tượng xã hội tồn tại, tác động, vận động trong mọi giai đoạn lịch sử của xã hội loài người. Lực lượng sản xuất dùng để chỉ quan hệ giữa con người với tự nhiên và là sự biểu hiện của mối quan hệ phức tạp đó trong quá trình sản xuất. C.Mác và Ph.Ăngghen đề cập lực lượng sản xuất lần đầu tiên trong tác phẩm Hệ tư tưởng Đức. Mặc dù chưa được 25 trình bày hoàn chỉnh như là một thành tố cơ bản của quy luật về lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, nhưng tất cả những nội dung cơ bản của quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất đều đã được nêu một cách khái quát trong tác phẩm này. Sau này nội dung của quy luật trên đã được làm sáng tỏ và phát triển thêm trong các tác phẩm như: Sự khốn cùng của triết học, Lao động làm thuê và tư bản, Tiền công giá cả và lợi nhuận, và đặc biệt là trong bộ Tư bản. Thông qua việc phân tích mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, các yếu tố của lực lượng sản xuất, vai trò của lực lượng sản xuất trong hệ thống sản xuất vật chất của xã hội... Như vậy, lực lượng sản xuất là sản phẩm của các hoạt động vật chất của con người được tổng hợp, gom góp, phát triển có kế thừa từ thế hệ này sang thế hệ khác. Như C.Mác đã viết: “mỗi thế hệ sau có được những lực lượng sản xuất do thế hệ trước tạo ra, và những lực lượng sản xuất ấy là nguyên liệu cho thế hệ sau ấy để thực hiện một hoạt động sản xuất mới - nhờ hiện tượng ấy mà hình thành nên mối liên hệ trong lịch sử loài người”1. Bên cạnh đó, thì cũng có nhiều nhà nghiên cứu đưa ra quan điểm của mình về lực lượng sản xuất, như: Lực lượng sản xuất là sự thống nhất hữu cơ giữa tư liệu sản xuất và những người sử dụng các tư liệu này để sản xuất ra của cải vật chất. Lực lượng sản xuất biểu hiện trình độ chinh phục của con người đối với thiên nhiên trong từng giai đoạn lịch sử - lực lượng sản xuất chủ yếu là những con người có thói quen, kinh nghiệm tri thức và trình độ chuyên môn nắm được kỹ thuật sử dụng được công cụ để tiến hành sản xuất2. Quan niệm trên đã làm rõ những nhân tố cần thiết để cải biến vật thể tự nhiên thành những sản phẩm cần thiết cho con người và chúng bao gồm thái độ tích cực của con người với giới tự nhiên. Quan niệm này đề cao con người như một chủ thể tích cực và đã coi lực 1. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t. 29, tr. 657-658. 2. Hữu Ngọc, Dương Phú Hiệp, Lê Hữu Tầng: Từ điển triết học giản yếu, Nxb. Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội, 1987, tr. 281-282. 26 lượng sản xuất là cơ sở của sự phát triển xã hội. Yếu tố con người tác động vào giới tự nhiên. Xem xét lực lượng sản xuất ở phương diện các yếu tố cấu thành cũng như đặc điểm của nó, bao gồm toàn bộ hoạt động sản xuất vật chất của con người trong cuốn sách Giáo trình kinh tế học chính trị Mác - Lênin đã đưa ra nhận định như sau: Lực lượng sản xuất chính là toàn bộ các nhân tố vật chất, kỹ thuật của quá trình sản xuất, chúng tồn tại trong mối quan hệ biện chứng với nhau tạo ra sức sản xuất làm cải biến các đối tượng trong quá trình sản xuất, tức tạo ra năng lực thực tiễn làm biến đổi các đối tượng của giới tự nhiên theo nhu cầu nhất định của con người và xã hội1. Tuy nhiên, các quan điểm trên chưa đề cập vai trò chế tạo công cụ lao động. Bởi vì nếu xét lực lượng sản xuất của một xã hội trong phạm vi rộng chứ không phải trong một xí nghiệp, nhà máy thì con người như một lực lượng sản xuất không chỉ biết sử dụng mà quan trọng hơn là biết chế tạo ra các phương tiện, công cụ lao động. Bởi vì các tư liệu lao động không những là thước đo sự phát triển sức lao động của con người, mà còn là một chỉ tiêu của những quan hệ xã hội trong đó lao động được tiến hành. Qua đó, các tác giả đều thống nhất quan điểm lực lượng sản xuất được sử dụng với những nội dung cơ bản như sau: Thứ nhất, lực lượng sản xuất là biểu hiện của mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, đó là một hệ thống lực lượng vật chất do con người và xã hội loài người tạo ra để cải tạo, chinh phục tự nhiên. Hệ thống lực lượng vật chất này đồng thời biểu hiện luôn cả sức mạnh, năng lực chinh phục tự nhiên của con người. Thứ hai, lực lượng sản xuất là một thể thống nhất bao gồm yếu tố người và các yếu tố vật, trong đó con người là yếu tố đặc biệt. Bởi 1. Hội đồng trung ương biên soạn giáo trình quốc gia các bộ môn khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh: Giáo trình kinh tế học chính trị Mác - Lênin, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 435. 27 vì, con người là chủ thể sáng tạo ra những công cụ, các phương tiện bổ trợ cho các khí quan của mình, tác động đến khách thể - đối tượng lao động để tạo ra những vật phẩm đáp ứng những nhu cầu của bản thân và của xã hội. Do đó, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất phản ánh trình độ chinh phục giới tự nhiên của con người: trình độ thủ công của lực lượng sản xuất phản ánh trình độ chinh phục của giới tự nhiên thấp hơn nhiều so với lực lượng sản xuất ở trình độ kỹ thuật công nghiệp và công nghệ cao. Trong quá trình đó, con người đồng thời tự cải tạo bản thân mình cả về sinh thể và trí tuệ. Tuy nhiên, hiện nay yếu tố trí tuệ lại đang ngày càng chiếm ưu thế và được coi là lực lượng sản xuất trực tiếp. Thứ ba, lực lượng sản xuất là yếu tố động nhất, cách mạng nhất trong phương thức sản xuất. Bởi vì, lực lượng sản xuất chỉ ra mối quan hệ của con người với giới tự nhiên và trình độ chinh phục giới tự nhiên của con người trong những giai đoạn phát triển nhất định của lịch sử. Nó quyết định sự vận động và phát triển của lịch sử xã hội loài người. Lực lượng sản xuất là một chỉnh thể thống nhất hữu cơ. Trong đó, người lao động là chủ thể tích cực biết vận dụng trí tuệ, những tri thức khoa học, kỹ thuật, kinh nghiệm, kỹ năng lao động..., để chế tạo và sử dụng những tư liệu sản xuất nhằm tác động vào những đối tượng của giới tự nhiên, cải tạo chúng thành những của cải, vật chất thỏa mãn ngày càng cao các nhu cầu của con người. Lực lượng sản xuất là một quá trình luôn có kế thừa và nâng cao, là cơ sở cho sự tồn tại và phát triển của xã hội. Đó là kết quả của năng lực thực tiễn của con người trong quá trình tác động vào giới tự nhiên để tạo ra của cải vật chất, bảo đảm cho sự sinh tồn và phát triển của loài người. Lịch sử phát triển của loài người là lịch sử phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội mà thước đo là trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ở mỗi giai đoạn lịch sử nhất định. Với tư cách là biểu hiện của mối quan hệ giữa con người với giới tự nhiên trong quá trình sản xuất vật chất, lực lượng sản xuất thường xuyên vận động và phát triển. Ngày nay, trước tác động của khoa học, công nghệ hiện đại, lực lượng sản xuất không ngừng phát triển với những diện 28 mạo mới. Do đó, quan niệm về lực lượng sản xuất cũng có nhiều thay đổi. Kể từ khi xuất hiện đến nay, khoa học - công nghệ luôn đóng vai trò to lớn trong việc thúc đẩy sự phát triển của sản xuất, cải biến đời sống xã hội loài người. Sự phát triển của nó cũng đã tạo nên những cuộc cách mạng trong lịch sử. Ngày nay, những thành tựu to lớn của khoa học, công nghệ hiện đại là nhân tố quyết định tạo nên sự phát triển của lực lượng sản xuất hiện đại. Khi phân tích đến các yếu tố cấu thành của lực lượng sản xuất, C.Mác không chỉ chỉ ra hai yếu tố cơ bản cấu thành là tư liệu sản xuất và người lao động mà còn khẳng định: Khi khoa học phát triển đến một mức độ nhất định nào đó sẽ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Theo quan điểm của C.Mác, sự phát triển của lực lượng sản xuất là do khoa học đóng một vai trò to lớn. C.Mác đã viết: Sự phát triển của tư bản cố định là chỉ số cho thấy tri thức xã hội phổ biến đã chuyển hóa đến mức độ nào thành lực lượng sản xuất trực tiếp, do đó nó cũng là chỉ số cho thấy những điều kiện của quá trình sống của xã hội đã phục tùng đến mức độ nào sự kiểm soát của trí tuệ phổ biến và đã được cải tạo đến mức độ nào... không những dưới hình thức tri thức, mà cả như là những cơ quan thực hành xã hội trực tiếp, những cơ quan trực tiếp của quá trình sống hiện thực1. Theo luận điểm trên, tri thức khoa học đã làm cho tư bản cố định như: nhà máy, máy móc được dùng trong sản xuất chuyển hóa đến một mức độ nhất định nào đó thì trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Điều đó có nghĩa là, tri thức khoa học được ứng dụng, được vật hóa thành máy móc, thành công cụ sản xuất của con người và được người lao động sử dụng trong quá trình sản xuất. Do đó, nó trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Điều kiện để tri thức khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp được C. Mác khẳng định như sau: “sự phát triển của hệ thống máy móc trên con đường ấy chỉ bắt đầu khi nền đại công nghiệp đã đạt được một trình độ phát triển cao hơn và tất cả các môn khoa học 1. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t. 46, tr. 372-373. 29 đều được đưa vào phục vụ tư bản, còn bản thân hệ thống máy móc hiện có thì có những nguồn lực to lớn. Như vậy, phát minh trở thành một nghề đặc biệt, và đối với nghề đó thì việc vận dụng khoa học vào nền sản xuất trực tiếp tự nó trở thành một trong những yếu tố có tính chất quyết định và kích thích”1. Ngày nay, khoa học, công nghệ được coi là lực lượng sản xuất trực tiếp, là yếu tố quan trọng và có ý nghĩa quyết định sự phát triển của kinh tế - xã hội. Lâu nay, người ta hiểu khoa học là lực lượng sản xuất trực tiếp với nghĩa là khoa học tham gia vào quá trình sản xuất bằng việc tạo ra công nghệ, đề ra và xây dựng phương pháp tổ chức và quản lý để phát triển lực lượng sản xuất, nâng cao năng suất lao động, chất lượng và hiệu quả của sản xuất. Ngày nay, trong kinh tế tri thức, khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp còn với nghĩa là khoa học đã có thể trực tiếp làm ra sản phẩm và là một trong những thành tố cấu thành không thể thiếu của lực lượng sản xuất hiện đại. Ở nhiều nước, nhất là các nước công nghiệp phát triển, do nhu cầu khách quan đã xuất hiện các “công viên khoa học”, “thành phố khoa học”, các “khu công nghệ cao”... nhằm tạo ra môi trường, điều kiện thuận lợi để khoa học, công nghệ và cơ sở sản xuất gắn kết chặt chẽ với nhau, tạo nên một “cơ thể” thống nhất. Ở đây có thể coi phòng thí nghiệm cũng chính là nhà máy, công ty, xí nghiệp; nhà khoa học đồng thời là người sản xuất - kinh doanh. Tại đây, người ta có thể vừa nghiên cứu, thí nghiệm đồng thời sản xuất đại trà các sản phẩm và được lưu thông ngay trên thị trường; không phân biệt đâu là sản phẩm của phòng thí nghiệm, đâu là sản phẩm của cơ sở sản xuất. Đây cũng là nơi hội tụ những điều kiện tốt nhất, thuận lợi nhất để “nhất thể hóa” quá trình nghiên cứu thực nghiệm khoa học, triển khai công nghệ và sản xuất. Nhờ thế mà các ý tưởng khoa học nhanh chóng trở thành công nghệ, tạo ra sản phẩm, thu hút lực lượng lao động có trình độ tri thức và công nghệ cao thông qua hoạt động quản lý hiện đại mà tăng cường lực lượng sản xuất. 1. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t. 46, phần II, tr. 367. 30 Khoa học phát triển mạnh mẽ đến một mức độ nhất định sẽ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp là một tiên đoán mang tính khoa học của C.Mác, dựa trên việc nghiên cứu quy luật phát triển tất yếu của xã hội nói chung và sự phát triển của lực lượng sản xuất nói riêng và đang dần trở thành hiện thực. Tóm lại, lực lượng sản xuất là toàn bộ các lực lượng được con người sử dụng trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất. Nó bao gồm người lao động với một thể lực và tri thức, kỹ năng lao động nhất định và tư liệu sản xuất, trước hết là công cụ lao động. Trong quá trình sản xuất, sức lao động của con người kết hợp với tư liệu sản xuất, dựa trên hệ thống công nghệ mới được đặc trưng bằng năng suất rất cao, hiệu quả lớn, ngày càng ít gây tổn hại đến môi trường sinh thái, tiêu hao ngày càng ít năng lượng và vật liệu cho một sản phẩm, đồng thời hàm lượng tri thức trong mỗi sản phẩm chiếm tỷ lệ ngày càng cao, tạo thành lực lượng sản xuất. Để hiểu rõ hơn, cần phân tích các yếu tố cấu thành của nó. Trong đó, mỗi yếu tố có vai trò, tác dụng riêng, nhưng chúng không tồn tại riêng rẽ, biệt lập mà liên hệ tác động qua lại với nhau, thành một thể thống nhất, qua hình thức của nó là quan hệ sản xuất. Điều này được thể hiện rõ ở các yếu tố sau: Lực lượng sản xuất bao gồm lao động sống (người lao động với kỹ năng và kinh nghiệm lao động của họ) và tư liệu sản xuất (đối tượng lao động, tư liệu lao động), mà trước hết là công cụ lao động và những phương tiện sản xuất khác, khoa học, công nghệ. Với sự phát triển của khoa học, công nghệ hiện nay, việc phân chia chỉ mang tính tương đối. Vì trong công cụ lao động cũng thể hiện quá trình tác động vào đối tượng lao động của người lao động làm cho sự vật không ngừng được cải tiến và hoàn thiện trong quá trình lao động sản xuất. Hơn nữa, trong quá trình phát triển của mình, công cụ lao động thể hiện đặc tính lao động của con người. Bởi về bản chất, mỗi thế hệ người lao động là sản phẩm của lực lượng sản xuất do các thế hệ trước tạo ra nhưng họ lại là chủ nhân, đóng vai trò tác động trực tiếp sáng tạo ra những công cụ lao động mới. Như vậy, chính người 31 lao động là chủ thể của quá trình lao động sản xuất. Vì bằng thể lực, trí lực và kỹ năng lao động của mình, người lao động sử dụng tư liệu lao động, trước hết là công cụ lao động, tác động vào đối tượng lao động để sản xuất ra của cải vật chất. Cùng với quá trình phát triển sản xuất, sức mạnh và kỹ năng lao động, nhất là trí tuệ ngày càng được nâng cao. 2.1.1. Yếu tố người lao động Theo C.Mác, sản xuất vật chất là hoạt động đầu tiên và cơ bản của con người. Đó là quá trình con người sử dụng những công cụ lao động tác động vào tự nhiên, tạo ra những của cải vật chất nhằm phục vụ nhu cầu của bản thân mình và phát triển xã hội. Để tiến hành sản xuất, con người phải sử dụng những tư liệu sản xuất như đối tượng lao động, công cụ lao động và những điều kiện vật chất khác. Với tính cách là một bộ phận cấu thành của lực lượng sản xuất, người lao động là những người có khả năng lao động, nghĩa là phải có cả sức mạnh cơ bắp và sức mạnh trí tuệ mà C.Mác đã gọi cụ thể là có “đầu óc” và “đôi bàn tay”. Điều đó tạo nên sức mạnh tổng hợp cho con người. C.Mác khẳng định hoạt động sản xuất chính là một dạng hoạt động chỉ có ở con người, nó khác hẳn về chất so với hoạt động của con vật. Theo C.Mác, con người là một “động vật biết chế tạo công cụ”. Do đó, ngoài việc sử dụng những công cụ lao động có sẵn, con người đã làm cho một vật “do tự nhiên cung cấp” trở thành một khí quan hoạt động của con người. Nhờ đó, con người đã tăng thêm sức mạnh của các khí quan vốn có của mình lên gấp bội. Trong buổi bình minh của lịch sử, lực lượng sản xuất còn thấp kém, con người dựa chủ yếu vào những đối tượng lao động có sẵn trong tự nhiên. Khi nền sản xuất ngày càng phát triển, nhận thức của con người ngày càng tăng lên, công cụ lao động ngày càng được cải tiến, đối tượng lao động chiếm tỷ lệ ngày càng cao và đang có xu thế hơn hẳn những đối tượng sẵn có trong tự nhiên. Điều đó chứng tỏ con người vừa là chủ thể sáng tạo, vừa là chủ thể sử dụng mọi yếu tố của quá trình sản xuất. Điều này đã được C.Mác khẳng định: “Trong tất cả những công cụ sản xuất, thì lực lượng sản xuất hùng mạnh nhất là bản 32 thân giai cấp cách mạng”1. Kế thừa tư tưởng của C.Mác về vai trò quyết định của người lao động trong các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất, V.I. Lênin còn khẳng định sự vượt trội của con người so với các yếu tố khác của quá trình sản xuất: “Trong khi vật chất có thể bị phá hủy hoàn toàn thì các kĩ năng của con người như công nghệ, bí quyết tổ chức và nghị lực làm việc sẽ còn mãi”2. Hoạt động sản xuất vật chất là hoạt động mà nhờ đó, con người tạo ra các tư liệu sinh hoạt nhằm duy trì và phát triển sự tồn tại của mình không phải chỉ với tư cách một cá nhân, mà còn với tư cách loài. Với ý nghĩa đó, hoạt động sản xuất vật chất của con người chính là lao động. Trong quá trình lao động, con người luôn phải tìm ra những cách thức, phương pháp, quy tắc, kỹ năng phù hợp để tác động vào giới tự nhiên nhằm tạo ra những sản phẩm phục vụ cho nhu cầu tồn tại của chính mình. Chính từ đây, công nghệ bắt đầu sự tồn tại của nó với tư cách sự phát triển và ứng dụng công cụ, máy móc, vật liệu vào các quá trình để giải quyết những vấn đề của con người. Lịch sử của sự phát triển xã hội loài người cũng đồng thời là lịch sử của những cải biến và phát minh công nghệ. Công nghệ ban đầu đơn giản chỉ là việc chế tác ra những công cụ thô sơ, như hòn đá được mài, cái rìu bằng đá hay cung tên... Những thứ này giúp cho con người săn bắt hiệu quả hơn và nhờ thế, dần tách ra khỏi thế giới động vật. Sự phát triển của công nghệ được tiếp tục với việc con người sáng tạo ra những công cụ, như cày, bừa, cối xay gió, cối xay nước... Những công cụ này đã giúp con người chuyển dần từ lối sống săn bắt, hái lượm sang nền kinh tế nông nghiệp với hoạt động chủ yếu là chăn nuôi, trồng trọt. Công nghệ đó cũng đã giúp con người đứng vững hàng chục ngàn năm trong nền kinh tế nông nghiệp và xung lượng của nền kinh tế ấy vẫn còn cho đến tận ngày nay. Phát minh ra máy hơi nước là xuất phát điểm đưa con người tiến vào thời đại kinh tế công nghiệp với đặc trưng cơ bản là sản xuất chủ yếu bằng máy móc cơ khí và sau này là cơ khí 1. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 257. 2. V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1977, t. 38, tr. 30. 33 tự động hóa. Nhờ nền sản xuất công nghiệp mà loài người đã tạo ra một khối lượng hàng hóa khổng lồ, nhiều hơn tất cả các thời đại trước đó cộng lại. Đặc biệt, từ giữa thế kỷ XX đến đầu thế kỷ XXI, với việc phát minh ra một loạt công nghệ mới, trong đó công nghệ thông tin giữ vai trò chủ chốt, sự phát triển của xã hội loài người đã có những thay đổi về chất. Qua đó, có thể hiểu, người lao động thực sự phải là người có thể lực khỏe mạnh, có năng lực trí tuệ cao, có trình độ chuyên môn kỹ thuật giỏi, có tác phong kỷ luật lao động, có đạo đức nghề nghiệp tốt. Điều này được biểu hiện qua trình độ tay nghề và các thao tác thuộc về kỹ năng lao động, tác phong, kỷ luật cần thiết, không thể thiếu của người lao động. Thể chất của người lao động là sự phát triển cường tráng, trong đó bao hàm cả sự phát triển tốt về trí lực, tư chất thông minh, sự nhạy bén của thần kinh, cả tâm sinh lý, sự sáng tạo cao độ trong lao động. Về đạo đức nghề nghiệp của người lao động phải được xác định là nền tảng định hướng mọi giá trị hành động cụ thể của con người và xã hội. Nhân tố đạo đức của người lao động là một trong những động lực cho sự phát triển của sản xuất nói riêng và xã hội nói chung. Người lao động là vốn quan trọng trong lực lượng sản xuất hiện đại. Nguồn vốn này không chỉ bao gồm tri thức khoa học (còn gọi là tri thức hiện có thể điển hóa, mã hóa và truyền bá trên mạng máy tính) mà còn cả tri thức do mỗi người tích luỹ trong cuộc sống mà có (còn gọi là tri thức ẩn như: bí quyết, kỹ năng, kỹ xảo, kinh nghiệm lâu năm, tay nghề thành thạo...). Trong kinh tế thị trường, khi thực hiện quá trình chu chuyển thì “vốn người” chuyển thành tư bản, nên còn gọi là tư bản con người. Ngay từ thế kỷ XIX, C.Mác đã chỉ ra: Bồi dưỡng tất cả những phẩm chất của con người mang tính xã hội và sự sản xuất ra con người, với tư cách là con người, có những phẩm chất và những mối liên hệ, và do đó, có những nhu cầu hết sức phong phú, sự sản xuất ra con người với tư cách là sản phẩm mang tính chất chính thể nhất và vạn năng nhất của xã hội (bởi vì muốn sử dụng được nhiều vật dụng, con người phải có năng lực sử dụng chúng 34 nghĩa là con người phải trở thành con người hết sức có văn hóa), đó cũng là những điều kiện của một nền sản xuất dựa trên tư bản1. Như vậy, người lao động giữ vai trò quyết định trong quá trình sản xuất vật chất. Cho nên, cần nhận thức đúng đắn về vai trò to lớn của người lao động đối với sự phát triển của mỗi quốc gia. 2.1.2. Yếu tố tư liệu sản xuất Trong lực lượng sản xuất, nếu người lao động là chủ thể sáng tạo, là yếu tố đặc biệt bởi con người có ý thức, và thông qua ý thức điều khiển mọi hoạt động theo mục đích của mình, thì đối tượng lao động là khách thể và có vai trò quan trọng. Đối tượng lao động được xác định là những dạng vật chất có sẵn trong tự nhiên, kể cả trên mặt và trong lòng đất, dưới đại dương và trong khí quyển như đất đai, sông, biển, rừng núi, động thực vật, tài nguyên khoáng sản, gỗ trong rừng nguyên thủy, quặng dưới lòng đất, tôm cá dưới sông biển... con người tách nó ra khỏi mối liên hệ trực tiếp với tự nhiên và biến thành sản phẩm. Tuy nhiên, không phải tất cả mọi dạng vật chất trong tự nhiên đều là đối tượng lao động, khi con người chưa biết sử dụng nó để phục vụ đời sống và sản xuất, thì khi đó bản thân các yếu tố đó chưa trở thành đối tượng lao động của xã hội loài người. Nhưng khi nó ở dạng đã trải qua lao động chế biến như than trong nhà máy nhiệt điện, sắt, thép, để chế tạo máy móc thì đối tượng lao động thuộc dạng này còn gọi là nguyên liệu. Chúng thuộc đối tượng của các ngành công nghiệp chế biến. Do vậy, không phải mọi dạng vật chất có sẵn trong tự nhiên đều là đối tượng lao động mà chỉ có những dạng vật chất có khả năng tạo ra những vật phẩm theo những mục đích, yêu cầu đáp ứng những nhu cầu nào đó của con người và được con người tác động, khai thác, cải tạo thì chúng mới trở thành đối tượng của lao động. C.Mác nói: “Mọi nguyên liệu đều là đối tượng lao động, nhưng không phải mọi đối tượng lao động đều là nguyên liệu. Đối tượng lao động chỉ trở thành nguyên liệu 1. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t. 46, phần I, tr. 627-628. 35 sau khi đã trải qua một sự biến đổi nào đó do lao động gây ra”1. Việc sử dụng những nguyên liệu “nhân tạo” thay thế cho dạng nguyên liệu truyền thống sẽ ngày càng phổ biến trong tương lai, tuy nhiên những nguyên liệu “nhân tạo” đó cũng đều bắt nguồn từ tự nhiên. Trong quá trình sản xuất con người thường xuyên tự cải tạo mình về mọi mặt, cũng như liên tục cải tiến công cụ lao động, để ngày càng làm ra nhiều sản phẩm nhằm đáp ứng những nhu cầu ngày càng tăng của con người và xã hội. Khi nền sản xuất xã hội càng phát triển, khoa học, công nghệ càng cao, thì loại đối tượng phải cải tạo nhiều lần càng được mở rộng, điều này là do nhu cầu ngày càng cao của con người quy định. Cùng với người lao động, công cụ lao động là yếu tố cơ bản của lực lượng sản xuất. Công cụ lao động không ngừng được cải tiến và hoàn thiện trong quá trình lao động sản xuất. Công cụ lao động (công cụ sản xuất) có thể là một vật thể hay là một phức hợp những vật thể (tùy theo tính chất của việc sản xuất sản phẩm). Chính sự cải tiến và hoàn thiện không ngừng công cụ lao động đã làm biến đổi toàn bộ tư liệu sản xuất. Công cụ lao động là những vật được con người sử dụng để trực tiếp truyền tác động vào đối tượng lao động, sản xuất ra của cải vật chất. Chúng luôn được cải tiến, đổi mới, có ý nghĩa quan trọng quyết định năng suất lao động, là thước đo trình độ chinh phục tự nhiên của con người. Nếu không có công cụ lao động sẽ ảnh hưởng rất lớn đến quá trình sản xuất, sản xuất sẽ diễn ra một cách chậm chạp, trì trệ, hao phí nhiều thời gian và công sức, dẫn đến năng suất thấp, hiệu quả kém. Công cụ lao động phản ánh trình độ nền sản xuất xã hội, là cơ sở để phân biệt sự khác nhau giữa các thời đại kinh tế. Quá trình phát triển của xã hội loài người gắn liền với quá trình phát triển và hoàn thiện tư liệu lao động, trước hết là công cụ lao động. Từ công cụ sơ khai của người nguyên thủy đến công cụ sản xuất thủ công 1. C.Mác: Tư bản phê phán khoa kinh tế chính trị, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1982, t. 23, tr. 268. 36 trong xã hội nô lệ, phong kiến lên cơ khí hóa, tự động hóa sản xuất là những nấc thang trên con đường phát triển của nền văn minh nhân loại. Công cụ lao động là cái vật hóa trí tuệ và tài năng sáng tạo của con người. Với mục đích tăng năng suất lao động và giảm cường độ lao động, con người đã sáng tạo ra công cụ lao động. Nhờ đó công cụ lao động ngày càng được cải tiến hiện đại. Trình độ phát triển của công cụ lao động là dấu hiệu đặc trưng tiêu biểu cho một thời đại sản xuất xã hội nhất định. Trong quá trình sản xuất, con người thường xuyên tìm cách làm giảm chi phí sức lao động của mình nhưng lại muốn sản xuất ra ngày càng nhiều những vật phẩm cần thiết, vì vậy, con người đã liên tục cải tiến những công cụ hiện tại đang được sử dụng để nó ngày một tinh xảo và hiện đại, phù hợp với những thao tác, yêu cầu mà con người đặt ra, đó là các quá trình thay đổi công nghệ sản xuất, làm cho công cụ lao động trở nên yếu tố động nhất, cách mạng nhất, và xét đến cùng mọi sự biến đổi của các yếu tố khác trong sản xuất và trong đời sống xã hội đều chịu ảnh hưởng của sự thay đổi này của công cụ lao động. Chính vì vậy, trong sự phát triển của lực lượng sản xuất, khoa học - công nghệ đóng vai trò ngày càng to lớn. Sự phát triển của khoa học - công nghệ gắn liền với sản xuất và là động lực mạnh mẽ thúc đẩy sản xuất phát triển. Sự thâm nhập ngày càng sâu của khoa học - công nghệ vào trong sản xuất làm cho lực lượng sản xuất có bước nhảy vọt. Và nó đang tạo nên cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư hiện nay. Trong tư liệu sản xuất còn có phương tiện sản xuất, kết cấu hạ tầng sản xuất bao gồm: hệ thống dịch vụ, đường sá, cầu cống, bến bãi, nhà kho, thông tin... Mặc dù những yếu tố này không trực tiếp làm ra sản phẩm, nhưng có những ảnh hưởng lớn đến sản xuất. Đặc biệt, trong sản xuất hàng hóa nếu như không chú ý thỏa đáng đến những điều kiện đó, nó sẽ ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả sản xuất xã hội vì những yếu tố này góp phần làm tăng hay giảm các chi phí giao dịch, chi phí cho vận chuyển nguyên vật liệu, bảo quản các sản phẩm, đó là những chi phí cũng được lấy ra từ giá trị của sản phẩm. 37 Đối với những vùng còn lạc hậu, càng cần phát triển các điều kiện và phương tiện này nhiều hơn, bởi vì nó còn góp phần thu hút đầu tư, lưu thông các yếu tố phục vụ sản xuất. Lực lượng sản xuất hiện nay bao gồm đối tượng lao động và công cụ lao động và đặc biệt là người lao động với những tập quán, thói quen, kỹ năng, kinh nghiệm và tri thức lao động của mình cùng với khoa học - kỹ thuật và công nghệ hiện đại. Bởi vì, mỗi một phương thức sản xuất khác nhau thì quan niệm về lực lượng sản xuất cũng sẽ khác nhau. Bên cạnh đó, ngày nay việc phân chia ranh giới giữa công cụ lao động (hay tư liệu lao động) và đối tượng lao động chỉ có ý nghĩa tương đối. Một vật nào đó là đối tượng lao động hay tư liệu lao động tùy thuộc vào mục đích sử dụng của nó trong quá trình con người sử dụng nó vào quá trình sản xuất. Đặc biệt khi ngày nay khoa học - công nghệ đã rất phát triển thì nó trở thành một lực lượng sản xuất trực tiếp và đóng vai trò quan trọng. Khoa học, công nghệ được xem như là một nhân tố đặc biệt của lực lượng sản xuất, nhân tố này chỉ thực sự phát huy được vai trò của nó khi kết hợp với yếu tố người lao động và các yếu tố của tư liệu sản xuất. Do vậy, ngày nay khoa học và công nghệ đang ngày càng có vai trò to lớn và quan trọng trong các yếu tố của lực lượng sản xuất. 2.1.3. Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất Khi đề cập lực lượng sản xuất thì không thể không đề cập quan hệ sản xuất, đây là hai mối quan hệ song trùng trong một phương thức sản xuất. Quan hệ sản xuất, đó là quan hệ giữa con người và con người trong quá trình sản xuất; nó là hình thức của lực lượng sản xuất, là cơ sở kinh tế, cơ sở sâu xa của đời sống tinh thần. Theo các nhà kinh điển, xã hội là sản phẩm có sự tác động qua lại lẫn nhau giữa người với người. Quan hệ giữa người với người tạo nên cái gọi là quan hệ xã hội, trong đó quan hệ sản xuất là cơ sở, cơ bản, nền tảng, ban đầu và có ý nghĩa quyết định. Sản xuất bao gồm sản xuất vật chất, sản xuất tinh thần và sản xuất ra bản thân con người. Ba quá trình này không tách rời nhau, trong đó sản xuất vật chất đóng vai trò là cơ sở của sự tồn tại là phát triển xã hội. 38 Quan hệ sản xuất bao gồm quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất, quan hệ tổ chức quản lý và quan hệ phân phối sản phẩm. Ba yếu tố đó liên quan khăng khít với nhau, thống nhất với nhau tạo nên một hệ thống mang tính ổn định tương đối so với lực lượng sản xuất, nhưng trong đó yếu tố thứ nhất đóng vai trò quyết định, quy định hai yếu tố sau. Tính chất của quan hệ sản xuất trước hết được quy định bởi quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất - biểu hiện thành chế độ sở hữu đặc trưng cơ bản của phương thức sản xuất, quy định vị trí của từng tập đoàn người, từng giai cấp trong hệ thống sản xuất. Quan hệ tổ chức quản lý quy định trực tiếp quy mô, tốc độ, hiệu quả, xu hướng của mỗi nền sản xuất. Quan hệ phân phối sản phẩm có tác dụng như chất xúc tác, kích thích (kìm hãm), thúc đẩy (hạn chế) tốc độ, nhịp điệu của sản xuất. Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là mối quan hệ thống nhất biện chứng, trong đó lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất và quan hệ sản xuất tác động trở lại lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt cơ bản, tất yếu của quá trình sản xuất, trong đó, lực lượng sản xuất là nội dung vật chất của quá trình sản xuất, còn quan hệ sản xuất là hình thức kinh tế của quá trình đó. Trong đời sống hiện thực, không thể có sự kết hợp các nhân tố của quá trình sản xuất để tạo ra năng lực thực tiễn cải biến các đối tượng vật chất tự nhiên lại có thể diễn ra bên ngoài những hình thức kinh tế nhất định; ngược lại cũng không có một quá trình sản xuất nào có thể diễn ra trong đời sống hiện thực chỉ với những quan hệ sản xuất không có nội dung vật chất của nó. Như vậy, lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tồn tại trong tính quy định lẫn nhau, thống nhất với nhau. Đây là yêu cầu tất yếu, phổ biến diễn ra trong mọi quá trình sản xuất hiện thực của xã hội. Tương ứng với thực trạng phát triển nhất định của lực lượng sản xuất cũng tất yếu đòi hỏi phải có quan hệ sản xuất phù hợp với thực trạng đó trên cả ba phương diện: sở hữu tư liệu sản xuất, tổ chức, quản lý và phân phối. Chỉ có như vậy, lực lượng sản xuất mới có thể 39 được duy trì, thai thác - sử dụng và phát triển trong một hình thức kinh tế nhất định, không thể tồn tại lực lượng sản xuất bên ngoài các hình thức kinh tế nhất định. Lực lượng sản xuất là cơ sở vật chất, điều kiện vật chất có vai trò quyết định quan hệ sản xuất - hình thức xã hội của sản xuất. Khi quan hệ sản xuất không còn phù hợp với lực lượng sản xuất thì tất yếu phải được thay thế bằng phương thức sản xuất tiến bộ hơn. Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã ra đời trên cơ sở của lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ và phá bỏ quan hệ sản xuất phong kiến lạc hậu. Với thành quả của cách mạng công nghiệp chuyển mạnh từ lao động thủ công lên lao động với công cụ kỹ thuật cao và diễn ra quá trình công nghiệp hóa, giai cấp tư sản, trong quá trình thống trị giai cấp chưa đầy một thế kỷ, đã tạo ra những lực lượng sản xuất nhiều hơn và đồ sộ hơn lực lượng sản xuất của tất cả các thế hệ trước kia gộp lại. Sự phát triển của lực lượng sản xuất và mở rộng thị trường thế giới trong thế kỷ XXI, sự phát triển mạnh mẽ của cách mạng khoa học, công nghệ và toàn cầu hóa hiện nay đã tạo ra lực lượng sản xuất hiện đại và đồ sộ hơn nhiều. 2.2. Quan niệm về phát triển lực lượng sản xuất Sản xuất vật chất thực chất là quá trình không ngừng biến đổi và phát triển của lực lượng sản xuất. Khi các yếu tố của lực lượng sản xuất phát triển đến một lộ trình nhất định thì lại tạo ra những mâu thuẫn cơ bản của một phương thức sản xuất (mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất). Mâu thuẫn càng phát triển thì quan hệ sản xuất càng trở thành xiềng xích, trói buộc sự phát triển của lực lượng sản xuất, đòi hỏi phải thay thế quan hệ sản xuất cũ đã lỗi thời (là xiềng xích trói buộc) bằng một quan hệ sản xuất mới thích ứng với trình độ phát triển mới của lực lượng sản xuất mới. Quá trình đó chính là sự thay thế một phương thức sản xuất cũ lỗi thời bằng một phương thức sản xuất mới cao hơn. Khi đó bắt đầu thời đại một cuộc cách mạng xã hội1. 1. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t. 13, tr. 15. 40 Ngày nay, lực lượng sản xuất không chỉ được xã hội hóa như trước kia, mà nó ngày càng được toàn cầu hóa, quốc tế hóa. Do đó, toàn cầu hóa kinh tế trước hết là toàn cầu hóa lực lượng sản xuất, là phát triển lực lượng sản xuất. Trình độ của lực lượng sản xuất thể hiện ở trình độ của công cụ lao động, trình độ khoa học - kỹ thuật, trình độ của người lao động (kinh nghiệm, kỹ năng, tri thức, trình độ tổ chức, quản lý, phân công, trình độ ứng đụng khoa học - kỹ thuật). Hơn nữa, hiện nay các nước phát triển đang ứng dụng rộng rãi nhiều thành tựu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, các thuật ngữ “kinh tế tri thức” hay “phát triển dựa vào tri thức” đã xuất hiện và ngày càng trở nên phổ biến. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư là bước phát triển mới ở trình độ cao hơn của kinh tế tri thức. Đặc trưng của cuộc cách mạng này là trí tuệ nhân tạo, số hóa, thông minh hóa các thiết bị và sự hội tụ, dung hợp nhiều công nghệ, cũng như sự kết nối, tương tác giữa chúng trên các lĩnh vực với quy mô rộng lớn, cho phép con người có thể kiểm soát mọi thứ từ xa, không giới hạn về không gian, thời gian. Nhờ đó quá trình tương tác diễn ra nhanh chóng, thuận tiện và chính xác hơn, giúp tối ưu hóa quy trình sản xuất, làm giảm chi phí, tăng năng suất, chất lượng sản phẩm, nâng cao sức cạnh tranh trong bối cảnh toàn cầu hóa. Điều này đã đặt ra nhiều thời cơ và thách thức đối với Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế đối với sự phát triển lực lượng sản xuất. Cho nên, để phát triển lực lượng sản xuất ở nước ta thì phải đẩy mạnh khoa học, công nghệ để đẩy mạnh công nghiệp hóa...; phát triển kinh tế tri thức, nâng cao trình độ khoa học - công nghệ. Để đẩy mạnh phát triển kinh tế tri thức và tiếp cận hạ tầng cách mạng công nghiệp lần thứ tư, nước ta cần đầu tư cho hạ tầng công nghiệp thông tin là yêu cầu cấp thiết. Bên cạnh đó, đầu tư phát triển mạnh hạ tầng kết nối công nghệ thông tin, hạn chế nhập khẩu công nghệ và thiết bị lạc hậu, triển khai có hiệu quả các dịch vụ viễn thông công ích, xây dựng cơ sở nền tảng kỹ thuật - công nghệ hiện đại... Cần có hệ thống chính sách khuyến khích doanh nghiệp lựa chọn, tiếp nhận những công nghệ tiên tiến của thế giới. Trong giai đoạn đầu của cách mạng 41 công nghiệp lần thứ tư, chúng ta có thể đẩy nhanh quá trình “rút ngắn” thông qua việc ứng dụng những thành tựu công nghệ hiện đại vào một số lĩnh vực mà Việt Nam có lợi thế. Đồng thời cũng phải cải tiến công cụ lao động, mở rộng đối tượng lao động, phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao thông qua công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, chấn hưng nền giáo dục nước nhà. Đảng ta chủ trương phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất với trình độ khoa học, công nghệ ngày càng cao là hoàn toàn đúng đắn, là cái lõi quan trọng của sự phát triển lực lượng sản xuất hiện nay ở nước ta. Vì vậy, để phát triển lực lượng sản xuất phải phát triển khoa học - kỹ thuật, công nghệ, cải tiến công cụ lao động, mở rộng đối tượng lao động, phát triển người lao động, đặc biệt là người lao động chất lượng cao. Việc phát triển lực lượng sản xuất ở nước ta hiện nay cần những yêu cầu sau: Một là, yếu tố người lao động hiện vẫn đang ngày càng chứng tỏ vị trí đặc biệt của mình bằng việc sáng tạo ra nhiều công trình khoa học, kỹ thuật, công nghệ để dần bổ trợ cho sức lực vật chất và trí tuệ của người lao động, nhằm tác động, chinh phục tự nhiên ngày một hiệu quả hơn. Đồng thời, chính người lao động lại sử dụng, điều khiển các phương tiện, công cụ lao động đó để nó hoạt động theo một nội dung đã được định trước. Để phát triển một cách ổn định và bền vững mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội nói chung, phát triển lực lượng sản xuất nói riêng, mọi dân tộc và mọi quốc gia đều phải cố gắng tác động, khai thác hiệu quả người lao động của mình. Trong tình hình khoa học, công nghệ phát triển mạnh mẽ như hiện nay, các nguồn năng lượng và nguyên liệu ngày càng có nguy cơ cạn kiệt, khan hiếm thì việc quan tâm phát triển người lao động ngày càng cần thiết hơn cả. Chính vì vậy, phát huy vai trò yếu tố người lao động phải chú ý nâng cao: sức khỏe, trí tuệ (trong đó bao gồm cả những hiểu biết về tự nhiên, về xã hội và những kinh nghiệm, kỹ năng lao động) đạo đức, văn hóa, v.v.. Các yếu tố đó phải có mối quan 42 hệ hài hòa, tương đồng và bổ sung cho nhau, bởi vì người lao động chỉ có thể lao động tốt khi có sức khỏe, có trí tuệ, có lý tưởng và đạo đức trong sáng, có quan hệ hài hòa với cộng đồng xung quanh. Bên cạnh đó, cần một môi trường chính trị - xã hội thuận lợi và một hệ thống chính sách xã hội kích thích được tính tích cực của người lao động. Đương nhiên, phải có hàng loạt các biện pháp thích hợp khác kèm theo, như chiến lược về cơ cấu lao động, chiến lược về giáo dục và đào tạo, chiến lược dân số, v.v. để giúp các yếu tố đó hoạt động một cách có hiệu quả. Do vậy, trong quá trình đáp ứng các nhu cầu về vật chất và tinh thần của mình, con người với tư cách là người lao động đã tự cải tạo mình, đặt mình vào những “điều kiện” và qua các điều kiện này, con người có những thay đổi về thể chất và trí tuệ một cách phù hợp hơn với điều kiện khách quan và với quá trình sản xuất đó. Do những nhu cầu trong đời sống - xã hội ngày càng tăng, người lao động đã buộc phải thường xuyên cải tiến những công cụ lao động, làm cho sản xuất vật chất và mọi mặt của đời sống - xã hội ngày càng phát triển. Với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học, công nghệ như ngày nay, người lao động ngày càng ít phải tham gia trực tiếp vào các hoạt động sản xuất, mà chủ yếu là nghiên cứu, điều khiển, giám sát các quá trình đó. Điều này là một bằng chứng về sức lực trí tuệ, một loại sức lực chỉ có ở người lao động và nhờ đó làm cho xã hội loài người ngày càng phát triển về mọi mặt. Hai là, khoa học, công nghệ trở thành động lực trực tiếp thúc đẩy quá trình phát triển lực lượng sản xuất hiện nay. Khoa học, công nghệ là những tri thức phản ánh đúng đắn hiện thực khách quan và việc ứng dụng, vận dụng những tri thức đó vào sản xuất vật chất, trong đó bao gồm toàn bộ những gì có liên quan đến việc biến đổi tài nguyên thành sản phẩm vật chất và tinh thần. Do những đòi hỏi của đời sống và quá trình sản xuất vật chất, người lao động thường xuyên phản ánh và nhận thức thế giới khách quan, trên cơ sở những hiểu biết đó, người lao động tiến hành cải tạo tự nhiên, buộc tự nhiên mang lại nhiều lợi ích nhất phục vụ cho những yêu cầu của cá nhân 43 và xã hội. Từ tri thức khoa học, người lao động ứng dụng nó, vật chất hóa nó vào công cụ, phương tiện của quá trình lao động, tăng cường cho sức mạnh của người lao động trước tự nhiên. Ngày nay, tri thức khoa học không chỉ được vật chất hóa vào công cụ, phương tiện và người lao động mà còn thâm nhập, thẩm thấu vào mọi quá trình liên quan trực tiếp hay gián tiếp đến sản xuất và trao đổi sản phẩm, cho nên nó ảnh hưởng đến mọi quan hệ của người lao động với thế giới xung quanh, cũng như quan hệ của người lao động với người lao động. Đặc biệt, để phát triển lực lượng sản xuất cần chú trọng cả về chiều rộng và chiều sâu ở nhiều lĩnh vực như trong công nghệ điện tử, tin học và viễn thông. Bằng kỹ thuật số và ứng dụng rộng rãi tin học vào đời sống và sản xuất: từ tổ chức, quản lý, điều hành cho đến mua bán các sản phẩm, tạo mẫu mã, v.v.. Quá trình sản xuất vật chất và hoạt động của con người trong các lĩnh vực về công nghệ điện tử, tin học và viễn thông đã ngày càng được tự động hóa cao, trong đời sống - xã hội đã xuất hiện nhiều thuật ngữ mới như: nền kinh tế ảo, thị trường ảo hoặc kinh tế mạng, kinh tế tri thức... Sự toàn cầu hóa thông tin và thị trường kinh tế đã cho phép những quốc gia chậm phát triển có cơ hội đi tắt, đón đầu trong quá trình phát triển về công nghệ điện tử, tin học và viễn thông của mình. Tuy nhiên, nó cũng chính là rào cản lớn nhất, làm giãn khoảng cách phát triển công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong các lĩnh vực của công nghệ điện tử, tin học và viễn thông giữa các nước phát triển cao với các nước đang phát triển và các nước chậm phát triển nếu như không có các chiến lược phát triển đúng đắn, không có các chính sách và biện pháp đi tắt đón đầu một cách phù hợp về công nghệ điện tử, tin học và viễn thông. Trong lĩnh vực công nghệ vật liệu, năng lượng mới: nhờ các thành tựu của khoa học, công nghệ, hàng loạt các loại vật liệu mới ra đời như: vật liệu cách điện cao cấp, vật liệu siêu dẫn, siêu bền, siêu cứng, siêu nhẹ,... và các dạng năng lượng mới như năng lượng nguyên tử, năng lượng mặt trời, năng lượng gió,... cũng đã được khai thác theo công nghệ mới, làm tăng giá trị các vật liệu tự nhiên lên 44 nhiều lần, thay thế được nhiều vật liệu gây ô nhiễm môi trường và khan hiếm mà người lao động sử dụng phổ biến. Trong công nghệ sinh học: công nghệ sinh học đã chứng tỏ sức mạnh kỳ diệu của mình đối với sự phát triển lực lượng sản xuất chỉ vài thập niên gần đây. Bằng những phát hiện mới về công nghệ tế bào, công nghệ sinh sản, công nghệ gen và các phương pháp sinh học mới, con người tạo ra những giống cây trồng và vật nuôi mới có nhiều ưu điểm lớn cả về chất lượng cũng như năng suất và giá thành. Đặc biệt nhờ công nghệ sinh học, làm cho con người ngày càng khỏe mạnh, có tuổi thọ cao và ngày càng đẹp hơn. Hiện nay khoa học sinh học đã công bố bản đồ gen con người và đã bắt đầu giải mã một phần bộ gen đó. Với thành tựu này, khoa học còn có thể giải quyết nhiều vấn đề về sự sống nói chung. Như đã biết, trước đây khoa học muốn tham gia vào quá trình sản xuất thì phải thông qua hệ thống: con người - khoa học - kỹ thuật - sản xuất - con người; trong đó quá trình chuyển từ khoa học đến kỹ thuật rồi đến sản xuất là một khoảng thời gian rất dài. Ngày nay, với sự phát triển của khoa học đã vượt trước rất xa so với nhu cầu của sản xuất, điều đó tác động rất mạnh đến mọi mặt của quá trình sản xuất nói chung. Dưới góc độ đó thì có thể nói rằng khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất. Vì chỉ khi nào khoa học thẩm thấu vào các yếu tố của lực lượng sản xuất thì mới nhận rõ được vai trò trực tiếp và to lớn của khoa học đối với phát triển lực lượng sản xuất. Những thành tựu của khoa học, công nghệ đem lại sự phát triển vượt bậc cho lực lượng sản xuất, song chính nó cũng có mặt trái đáng phải lưu tâm, nhất là đối với những người sử dụng thành tựu này một cách phi nhân tính, chạy theo lợi ích cá nhân vị kỷ. Tất nhiên ở đây không chỉ nói về khoa học tự nhiên mà ngay cả khoa học xã hội cũng đang trong quá trình phát triển lực lượng sản xuất. Do vậy, cùng với những thành tựu của khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và nhân văn cũng ngày càng phát huy vai trò to lớn của mình trong đời sống sản xuất vật chất xã hội. 45 Do những đòi hỏi của đời sống thực tiễn và của quá trình sản xuất vật chất, lực lượng sản xuất đã thường xuyên vận động, phát triển một cách liên tục, khách quan. Trong quá trình vận động, phát triển của lực lượng sản xuất, có những nhân tố tác động tích cực tạo điều kiện cho nó đi lên, nhưng cũng có những nhân tố cản trở sự phát triển đó. Vì vậy, muốn thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển thì phải nhận thức, phải tác động đến các nhân tố, các điều kiện và các quá trình có ảnh hưởng đến sự vận động, phát triển lực lượng sản xuất, nhằm hạn chế tối đa những cản trở, những “xiềng xích” có thể có từ nhiều góc cạnh khác nhau. Trong đó cần xác định cả những nhân tố bên trong và bên ngoài của lực lượng sản xuất, vai trò của từng nhân tố đó đối với tiến trình vận động, phát triển của lực lượng sản xuất, trên cơ sở đó cải tạo để nó tạo điều kiện cho phát triển lực lượng sản xuất. Tuy vậy, khoa học, công nghệ vẫn không thể thay thế được yếu tố người lao động trong quá trình sản xuất, nhưng nó làm thay đổi nhanh chóng hiệu quả của công cụ lao động và sức lực vật chất của người lao động, thậm chí nó còn giúp người lao động một số thao tác tư duy đơn giản. Nhờ có khoa học - công nghệ mà những công cụ lao động đang ngày càng được cải tiến theo hướng gọn, nhẹ, hiệu suất cao; đồng thời những hiểu biết của con người về bản chất, quy luật của đối tượng lao động, về những tính năng, tác dụng của những công cụ lao động ngày một sâu sắc hơn. Trong đó khoa học - công nghệ vừa là nguyên nhân, vừa là động lực nhưng cũng là kết quả của sự vận động, phát triển lực lượng sản xuất, làm cho quan hệ giữa chúng ngày một xâm nhập vào nhau nhiều hơn. Trong thời đại toàn cầu hóa, thông tin hóa như hiện nay, vai trò động lực trực tiếp của khoa học, công nghệ đối với việc thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất càng được thể hiện rõ hơn. Nhiều phát minh, sáng chế được ứng dụng, chuyển giao một cách nhanh chóng, làm cho nhiều quốc gia không chỉ thoát khỏi những khó khăn và khủng hoảng mà còn tạo ra những bước nhảy vọt, bứt phá một cách kinh ngạc về kinh tế như Nhật Bản sau Chiến tranh thế giới thứ hai, các nước mới công nghiệp 46 hóa (NICs) trong những thập niên gần đây. Cũng nhờ những thành tựu của khoa học - công nghệ, hàng loạt những vấn đề về lực lượng sản xuất và các yếu tố hỗ trợ, tương tác cho sự phát triển của nó được giải quyết, như tìm và tạo ra nguồn năng lượng, nguyên liệu mới; bố trí thích hợp các quá trình tổ chức, quản lý sản xuất; phát huy tối đa tính tích cực và năng động sáng tạo của người lao động, v.v.. Khoa học - công nghệ đã tác động tới quá trình phát triển của lực lượng sản xuất hiện nay, như: thông tin về thị trường, dự báo về cung, cầu các sản phẩm hàng hóa; hiểu biết về thị hiếu thẩm mỹ của từng vùng, từng thời kỳ, từng dân tộc, v.v., mà nhờ đó ban hành các chính sách đúng đắn làm cơ sở cho sự phát triển của các ngành sản xuất và của bản thân lực lượng sản xuất. Cùng với sự phát triển các yếu tố của lực lượng sản xuất thì phát triển lực lượng sản xuất cũng gắn liền với việc phân công lao động xã hội. Điều này phản ánh trình độ phát triển của lực lượng sản xuất xã hội, đồng thời mỗi bước tiến của sự phân công lao động xã hội lại có tác dụng thúc đẩy lực lượng sản xuất của xã hội phát triển, lực lượng sản xuất của xã hội phát triển lại tạo ra năng suất lao động xã hội cao, thúc đẩy quá trình xã hội hóa sản xuất diễn ra mạnh hơn. Bởi vậy, xã hội hóa sản xuất vừa là tiền đề, vừa là kết quả của phân công lao động xã hội. Xã hội hóa sản xuất cao chính là bảo đảm cho phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa chiến thắng phương thức sản xuất cũ. Điều này càng có ý nghĩa quan trọng trong việc đưa nền sản xuất nhỏ, lạc hậu lên nền sản xuất công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Theo C.Mác, sức sản xuất của lao động nhất thiết phụ thuộc chủ yếu vào sự phân công lao động, sự phân công lao động đó làm cho người ta có thể sản xuất nhanh hơn do đó cũng rẻ hơn. Phân công lao động xã hội gắn liền chặt chẽ với công cụ sản xuất. Khi nền sản xuất mới xuất hiện thì phân công lao động xã hội cũng phải đạt được trình độ tương ứng với nền sản xuất ấy. Đó là một tất yếu khách quan, một yêu cầu cấp bách của bản thân nền sản xuất xã hội. Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất của một dân tộc bộc lộ rõ rệt nhất ở trình độ phát triển của sự phân công lao động. 47 Bất cứ sức sản xuất mới nào trong chừng mực không phải chỉ là một sự mở rộng đơn thuần về số lượng của những lực lượng sản xuất mà cho đến lúc đó người ta đã biết (sự khai phá đất đai mới chẳng hạn), thì cũng đều mang lại kết quả là sự phát triển thêm sự phân công lao động xã hội... Phân công lao động xã hội biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên trong quá trình sản xuất. Thể hiện năng lực thực tiễn của con người trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất, là cơ sở tiền đề xuất phát của sức sản xuất. Đồng thời, phát triển lực lượng sản xuất cũng gắn liền với tính xã hội của sản xuất không chỉ tồn tại trong buổi đầu hình thành xã hội con người, mà còn phát triển cao hơn trong điều kiện xã hội hiện đại. Tính xã hội hóa của sản xuất phát triển từ thấp lên cao gắn liền với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong tiến trình phát triển của lịch sử. Trong các xã hội gắn liền với nền sản xuất nhỏ, kinh tế tự cung tự cấp, các hoạt động kinh tế trong xã hội thường được tiến hành bởi các đơn vị kinh tế độc lập với nhau, hoặc nếu có quan hệ với nhau cũng chỉ là quan hệ tập hợp theo số cộng đơn thuần, chưa có quan hệ hữu cơ với nhau. Nền sản xuất ở đây tuy mang tính chất xã hội nhưng vẫn chưa xã hội hóa. Bởi vậy, nếu xem xét xã hội hóa sản xuất với tư cách là một hệ thống hữu cơ, thì xã hội hóa sản xuất trực tiếp gắn liền với sự ra đời và phát triển của nền sản xuất lớn trong lịch sử. Từ đó có thể hiểu: xã hội hóa sản xuất là sự liên kết nhiều quá trình kinh tế riêng biệt thành quá trình kinh tế - xã hội, tồn tại hoạt động và phát triển liên tục như một hệ thống hữu cơ. Đó là quá trình kinh tế khách quan phù hợp với trình độ phát triển cao của lực lượng sản xuất, phản ánh xu thế phát triển tất yếu mang tính chất xã hội của sản xuất. Việc tạo nên những tổ chức, những quan hệ kinh tế mới đáp ứng yêu cầu và phản ánh quá trình kinh tế khách quan kể trên là sự xã hội hóa trên thực tế. Xã hội hóa sản xuất biểu hiện ở mối quan hệ giữa các ngành, các vùng, các khu vực ngày càng cao và chặt chẽ. Mối liên hệ này không chỉ diễn ra trên lĩnh vực lưu thông mà còn diễn ra trong lĩnh vực đầu tư, hợp tác khoa học, công nghệ, phân công và hợp tác sản xuất dưới 48 các hình thức liên doanh, liên kết phong phú, đa dạng. Sự liên kết này có tính liên kết xí nghiệp, liên ngành và liên quốc gia. Do đó, phát triển lực lượng sản xuất là sự phát triển nâng cao trình độ của lực lượng sản xuất (trình độ của người lao động, công cụ, phương tiện lao động, trình độ khoa học, công nghệ được thẩm thấu vào các yếu tố của lực lượng sản xuất) và phát triển nâng cao tính chất của lực lượng sản xuất (tính chất xã hội hóa và chuyên môn hóa của lực lượng sản xuất). Như vậy, phát triển lực lượng sản xuất là phải phát triển khoa học - kỹ thuật, khoa học - công nghệ, cải tiến công cụ lao động, mở rộng đối tượng lao động, phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao. Muốn phát triển sản xuất thì phải phát triển lực lượng sản xuất, phát triển sức sản xuất, đồng thời còn phải xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất; tức phải từng bước xây dựng, hoàn thiện quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất đó. Hai mặt đó không tách rời nhau, mà liên hệ mật thiết với nhau, thống nhất với nhau trong cái gọi là phương thức sản xuất. Do vậy, có thể kết luận: phát triển lực lượng sản xuất gắn liền với khoa học và công nghệ, đây là yếu tố nằm bên trong và gắn liền trực tiếp với yếu tố người lao động và tư liệu sản xuất. 3. Quan niệm về cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, còn gọi là cách mạng công nghiệp 4.0, xuất hiện chỉ sau cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ ba chưa đầy nửa thế kỷ khi những chiếc máy tính, thiết bị điện tử lần đầu tiên ra đời vào những năm 1970 và internet được chính thức xuất hiện những năm 1990, nhưng mức độ ảnh hưởng, lan tỏa của cuộc cách mạng này diễn ra trên quy mô toàn cầu, với tốc độ nhanh hơn những gì đã xảy ra từ trước đến nay và dự báo sẽ làm thay đổi toàn bộ hệ thống sản xuất, quản lý và quản trị trên toàn thế giới. Đặc trưng của cách mạng công nghiệp 4.0 là việc sử dụng hợp nhất cả phần cứng, người máy và khả năng tính toán lớn để 49 mở rộng công nghệ thông tin vượt qua cả phần mềm, với sự giao thoa của các công nghệ tiên tiến như điện toán đám mây (cloud computing), internet vạn vật (IoT-Internet of things), trí tuệ nhân tạo (AI-Artifical Intelligence), thực tế ảo (AR/VR- Virtual Reality/ Augmented Reality), khai thác dữ liệu lớn (Big Data), công nghệ di động không dây (wifi), công nghệ tin học lượng tử (quantum information technology), công nghệ nano (nanotechnology),... Các công nghệ này hứa hẹn đáp ứng kỳ vọng của người dùng bởi tính liên ngành sâu rộng, nghĩa là thành tựu công nghệ của ngành này có thể áp dụng rộng rãi trong ngành khác và ngược lại. Các kỹ sư, các nhà thiết kế và các kiến trúc sư đang kết hợp các thiết kế trên máy tính với các loại vật liệu mới và các kỹ thuật sinh học tổng hợp để tạo ra các sản phẩm kết hợp của vi sinh vật với cơ thể con người, với sản phẩm con người tiêu thụ. Trong tương lai, nhờ robot, các đơn đặt hàng theo màu sắc, hình dạng và kích cỡ riêng sẽ được thực hiện ngày càng nhiều hơn. Nó hoàn toàn khác cách thức sản xuất hiện nay. Sản phẩm và dịch vụ sẽ được tạo ra theo yêu cầu cụ thể của khách hàng với chi phí phù hợp và hệ thống sản xuất hàng loạt có khả năng linh hoạt điều chỉnh theo thay đổi của nhu cầu xã hội, tối ưu lợi ích cho các bên liên quan. Ảnh hưởng của công nghệ phần cứng và phần mềm như người máy và internet vạn vật (IoT) được cho rằng sẽ có những tác động đến hầu hết mọi lĩnh vực. Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF, Davos 17-20/1/2017) với tổng số 446 phiên họp xoay quanh chủ đề xuyên suốt “Lãnh đạo hành động và có trách nhiệm - Responsive and Responsible Leadership” nhưng ngay trong ngày đầu tiên, lãnh đạo của các tập đoàn hàng đầu thế giới như Infosys, Salesforce, General Motors... đã tham gia tọa đàm “Thích ứng với cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư”. Điều đó thể hiện cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang có tác động mạnh mẽ đến nền kinh tế thế giới. Phái đoàn Việt Nam do Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc dẫn đầu và có bài phát biểu tại phiên thảo luận vào ngày 19/1/2017 “Tương lai nền sản xuất dưới góc độ chiến lược khu vực”. 50 Tại đây, WEF công bố một báo cáo phân tích về ảnh hưởng của công nghệ và xã hội học đến việc làm. Báo cáo của WEF với tiêu đề “Tương lai của việc làm” (The Future of Jobs) đã khảo sát các nhà điều hành cao cấp và phụ trách nhân sự của nhiều doanh nghiệp đại diện cho hơn 13 triệu lao động trong 09 lĩnh vực công nghiệp ở 15 nền kinh tế phát triển và mới nổi. Một số vùng kinh tế đã xác nhận rằng công nghệ ngày càng ảnh hưởng nhiều hơn đến xu hướng việc làm trên toàn cầu, và cho rằng thế giới đang ở giai đoạn cao nhất của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Một số dữ liệu thống kê cho thấy, các công ty “bậc thầy” về công nghệ vượt trội hơn 9% về doanh thu; 26% về khả năng thu lợi và 12% về giá trị thị trường so với các doanh nghiệp khác. Có thể nói cả thế giới, đặc biệt tại các nước phát triển trong vài năm qua đều có các chương trình chiến lược về sản xuất khi những tiến bộ của khoa học và công nghệ đang diễn ra rất nhanh. Tại Việt Nam, Chính phủ cũng quan tâm mạnh mẽ và đặt nhiều kỳ vọng vào bước đột phá đồng thời xác định các thách thức đối với các doanh nghiệp về việc hoạch định chiến lược trong sản xuất, thương mại, nông nghiệp và dịch vụ thích ứng với cơ hội của cách mạng công nghiệp 4.0. Ngay từ đầu năm 2017 đã có nhiều sự kiện thu hút lãnh đạo các bộ, ngành, chủ tịch điều hành của các doanh nghiệp, tập đoàn lớn và các hiệp hội doanh nghiệp thảo luận về xu thế và ảnh hưởng của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Trong số đó có thể kể tới tọa đàm Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 và Ứng phó của doanh nghiệp trong thời đại đổi thay do Báo Thế giới tiếp thị kết hợp với Câu lạc bộ Quản trị và Khởi nghiệp tổ chức đầu năm 2017; Diễn đàn “Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 - Được và mất” do Thời báo Kinh tế Việt Nam tổ chức ngày 7/4/2017; Diễn đàn Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (Cách mạng công nghiệp 4.0) do Bộ Công Thương tổ chức ngày 11/4/2017. Kết quả khảo sát ngày 7/4/2017 “Việt Nam có bắt kịp cách mạng công nghiệp lần thứ tư hay không” cho thấy 67% số người khảo sát cho rằng Việt Nam không bắt kịp được cách mạng công nghiệp 4.0, và chỉ có 33% cho rằng có thể bắt kịp. 51 Vậy, có phải chúng ta đã quá lạc quan vào tiềm năng phát triển của thời kỳ cơ cấu dân số vàng với 55% dân số sử dụng điện thoại di động và khả năng tham gia trong lĩnh vực internet và truyền thông của đất nước với tỷ lệ người dùng internet Việt Nam đã đạt 52% dân số và dự báo đến năm 2020 sẽ có khoảng 1 triệu lao động làm việc trong lĩnh vực công nghệ thông tin (theo Cục Viễn thông - Bộ Thông tin và Truyền thông năm 2015) và thời gian sử dụng internet 5,2 giờ mỗi ngày đứng thứ tư trên thế giới, và đứng thứ 22 trên thế giới tính theo dân số về số người sử dụng mạng xã hội (thống kê của wearesocial.net). Nhưng Việt Nam cũng là quốc gia có thị trường lao động phổ thông lớn. Đến năm 2019 Việt Nam có khoảng 55,5% dân số trong độ tuổi lao động1, đa số trình độ phổ thông, và đây chính là đối tượng bị robot thay thế công việc nhiều nhất. Tổ chức Lao động Quốc tế của Liên hợp quốc cho biết trong 10 năm tới, 86% lao động Việt Nam trong ngành da giày có thể bị mất việc vì robot. Trong khi đó, số liệu của Tổng cục Thống kê cho thấy năng suất lao động của Việt Nam năm 2018 đạt 11.142 USD vẫn quá thấp so với các quốc gia trong khu vực, chỉ bằng 7,3% so với Xingapo, 19% so với Malaixia, 37% với Thái Lan, 55,9% với Philíppin và 44,8% của Inđônêxia2... Vì thế, có thể nói, thách thức lớn nhất của cách mạng công nghiệp 4.0 đối với Việt Nam là phát triển nguồn nhân lực có kỹ năng cao mà không thể thay thế bằng bằng máy móc tự động hay robot và yêu cầu đầu tư đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao trong nhiều lĩnh vực của Việt Nam có tính cấp thiết. Lịch sử tiến bộ khoa học và công nghệ thế giới đã chứng kiến nhiều cuộc cách mạng trong đó trí tuệ con người đã làm chủ, dẫn dắt sự đổi mới của máy móc để tăng năng suất, mang lại thêm nhiều giá trị cho xã hội và đóng góp tích cực cho sự phát triển về thể chất và tinh thần của nhân loại. Tuy nhiên, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư không chỉ đơn thuần là sự kế thừa thành 1. Theo danso.org/vietnam/. 2. Theo Vietnamnet.vn, đăng ngày 06/8/2019. 52 quả của ba cuộc cách mạng công nghiệp trước đó với thế giới kỹ thuật số mà còn tạo ra sự thay đổi toàn diện kinh tế thế giới trên ba khía cạnh vận tốc, phạm vi và hệ thống, chứng kiến sự suy giảm của các quốc gia phát triển chủ yếu vào khai thác tài nguyên, tăng cường vai trò chủ đạo của những nước chú trọng nền công nghệ sáng tạo. Với sự phát triển của lực lượng sản xuất thì kéo theo sự phát triển cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Vậy hiểu thế nào về cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Theo Gartner, cách mạng công nghiệp 4.0 (hay cách mạng công nghiệp lần thứ tư) xuất phát từ khái niệm “Industrie 4.0” trong một báo cáo của Chính phủ Đức năm 2013. “Industrie 4.0” kết nối các hệ thống nhúng và cơ sở sản xuất thông minh để tạo ra sự hội tụ kỹ thuật số giữa công nghiệp, kinh doanh, chức năng và quy trình bên trong. Nếu định nghĩa từ Gartner hơi khó hiểu, thì Klaus Schwab, người sáng lập và Chủ tịch điều hành Diễn đàn Kinh tế thế giới mang đến cái nhìn đơn giản hơn về cách mạng công nghiệp 4.0 như sau: Cách mạng công nghiệp đầu tiên sử dụng năng lượng nước và hơi nước để cơ giới hóa sản xuất. Cuộc cách mạng công nghiệp lần hai diễn ra nhờ ứng dụng điện năng để sản xuất hàng loạt. Cuộc cách mạng công nghiệp lần ba sử dụng điện tử và công nghệ thông tin để tự động hóa sản xuất. Bây giờ, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang nảy nở từ cuộc cách mạng lần thứ ba, nó kết hợp các công nghệ lại với nhau, làm mờ ranh giới giữa vật lý, kỹ thuật số và sinh học. Vậy, theo ông Klaus Schwab, tốc độ đột phá của cách mạng công nghiệp 4.0 hiện “không có tiền lệ lịch sử”. Khi so sánh với các cuộc cách mạng công nghiệp trước đây, 4.0 đang tiến triển theo một hàm số mũ chứ không phải là tốc độ tuyến tính. Hơn nữa, nó đang phá vỡ hầu hết ngành công nghiệp ở mọi quốc gia. Chiều rộng và chiều sâu của những thay đổi này báo trước sự chuyển đổi của toàn bộ hệ thống sản xuất, quản lý và quản trị. 53 II. VAI TRÒ CỦA CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA VỚI QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT TRONG CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0 1. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là định hướng cho quá trình phát triển lực lượng sản xuất trong cách mạng công nghiệp 4.0 Công nghiệp hóa, hiện đại hóa không chỉ đóng vai trò là cơ sở, mà còn là định hướng thúc đẩy quá trình phát triển lực lượng sản xuất. Thuật ngữ “định hướng” có nghĩa là hướng đi, đường đi, cách thức tiến hành. Định hướng là động từ và có nghĩa là xác định phương hướng phát triển, hướng dẫn ai đó, cái gì đó đi con đường đúng đắn. Đối với triết học thì quan điểm định hướng được nhấn mạnh vào cách thức, hướng quyết định cần phải thực hiện để phát triển kinh tế - xã hội. Từ cách hiểu trên, có thể thấy định hướng là sự phác họa lược đồ hướng về tương lai; Định hướng là cách xác định phương hướng để vạch ra những kế hoạch chi tiết, rõ ràng, những chiến lược thống nhất để bắt đầu xây dựng hướng đi đúng đắn. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa hội tụ đủ các yếu tố để trở thành định hướng cho quá trình phát triển lực lượng sản xuất. Điều đó được thể hiện qua vai trò của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đối với quá trình phát triển của lực lượng sản xuất thông qua các yếu tố sau: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là định hướng cho quá trình phát triển lực lượng sản xuất thông qua sản xuất vật chất. Vì sản xuất vật chất không ngừng biển đổi. Sự biển đổi đó, xét cho cùng luôn phải bắt đầu từ quá trình biến đổi và phát triển của lực lượng sản xuất. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa xác định phương hướng cho người lao động cùng với tư liệu sản xuất của mình tạo ra những sản phẩm nhằm thỏa mãn nhu cầu tồn tại và phát triển của mình. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đặt ra yêu cầu đối với người lao động trong việc sử dụng hiệu quả, sáng tạo những tư liệu sản xuất trong quá trình sản xuất vật chất, vì đối tượng lao động không phải là nguồn lực vô hạn, nên trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa cần phải sử dụng một cách hợp lý, tiết kiệm. Cho nên, công nghiệp hóa, 54 hiện đại hóa đóng vai trò là yếu tố then chốt trong quá trình phát triển lực lượng sản xuất, đặt ra yêu cầu người lao động phải có tri thức, trí tuệ, kinh nghiệm và bản lĩnh để tạo ra của cải vật chất nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa phát triển cũng đã tạo ra những công cụ, phương tiện sản xuất ngày càng tinh vi, mang tính tự động hóa thì yêu cầu người lao động càng phải có trình độ chuyên môn cao để sử dụng, điều khiển những công cụ lao động hiện đại. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa với quá trình phát triển của khoa học, công nghệ, những tri thức khoa học được kết tinh trong công nghệ, trong sản phẩm, dịch vụ xã hội ngày càng cao (theo tính toán của các nhà khoa học, thì hàm lượng tri thức kết tinh trong công nghệ sản phẩm ở trình độ kinh tế thủ công là dưới 10%, kinh tế cơ khí là trên 30%, kinh tế tri thức là trên 70%). Từ đó, đòi hỏi người lao động phải có trình độ khoa học, công nghệ cao mới vận hành, điều khiển, làm chủ được công nghệ, mới hưởng thụ hết được những tính năng, công dụng của sản phẩm, dịch vụ mình được cung cấp và tạo ra nhu cầu, động lực để nâng cao trình độ khoa học, công nghệ trong quá trình phát triển lực lượng sản xuất. Chính vì thế, trình độ khoa học, công nghệ của người lao động luôn là tiêu chí quan trọng bậc nhất để xác định và đánh giá trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa thúc đẩy cuộc cách mạng khoa học, công nghệ nhằm tạo nên những bước chuyển dịch cơ cấu mạnh mẽ, góp phần làm tăng tỷ trọng giá trị nông nghiệp và tỷ trọng công nghiệp; đồng thời không ngừng mở rộng tỷ trọng ngành dịch vụ. Trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 hiện nay, công nghiệp hóa, hiện đại hóa càng phát triển thì càng nhanh chóng thúc đẩy quá trình phát triển lực lượng sản xuất. Có thể nói, cách mạng công nghiệp 4.0 thực chất chính là động lực cơ bản cho việc phát triển lực lượng sản xuất. Cách mạng công nghiệp 4.0 phát triển về máy móc mang tính tự động, hệ thống công nghệ thông minh được ứng dụng trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, nó còn có phạm vi mở rộng mối liên hệ giữa các lĩnh vực về vật lý, số hóa và sinh học. 55 Cách mạng công nghiệp 4.0 là một phần quan trọng của khoa học, công nghệ - các yếu tố cấu thành nên lực lượng sản xuất. Chính vì thế cách mạng công nghiệp 4.0 gắn với việc phát triển lực lượng sản xuất. Đặc trưng của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 còn phổ biến rộng lớn dựa trên cuộc cách mạng số, bởi internet ngày càng phổ biến, đó là xu hướng kết hợp giữa các hệ thống thực và ảo, internet kết nối vạn vật (IoT) và các hệ thống kết nối internet (IoS). Do đó, cách mạng công nghiệp 4.0 có khả năng lan tỏa và kết nối siêu nhanh trên diện rộng hơn so với những cuộc cách mạng trước đó khi sự gắn kết các cá nhân được thực hiện thông qua hệ thống mạng xã hội trên internet. Bản chất của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 là dựa trên nền tảng công nghệ số và tích hợp tất cả các công nghệ thông minh để tối ưu hóa quy trình, phương thức sản xuất; tập trung đến những công nghệ đang và sẽ có tác động lớn nhất là công nghệ in 3D, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ tự động hóa, người máy,... Sự phát triển cách mạng công nghiệp 4.0 và việc phát triển lực lượng sản xuất tác động trực tiếp đến sự phát triển của các nước trên thế giới. Hiện nay, ở các nước công nghiệp phát triển đang diễn ra sự chuyển dịch mạnh mẽ của cơ cấu kinh tế, theo đó, các ngành dựa vào tri thức và ứng dụng công nghệ cao đang phát triển nhanh. Sự chuyển dịch này thích ứng với quá trình chuyển biến nền kinh tế từ kinh tế công nghiệp sang kinh tế tri thức, từ cách mạng công nghiệp lần thứ ba sang cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là định hướng để xác lập nên những kế hoạch trong quá trình phát triển lực lượng sản xuất thông qua sự phát triển của cơ sở hạ tầng kỹ thuật. Cách mạng công nghiệp 4.0 là yếu tố căn bản trong việc nâng cao cơ sở hạ tầng kỹ thuật là hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật có chức năng trực tiếp phục vụ việc phát triển kinh tế và đời sống xã hội, được phân thành từng lĩnh vực như: hệ thống giao thông vận tải, hệ thống cung cấp năng lượng, hệ thống thông tin liên lạc, hệ thống cấp, thoát nước,... Công nghiệp hóa, hiện đại hóa muốn phát triển thì cần có hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật để phục vụ nhu cầu sản xuất, nhu cầu lưu thông 56 hàng hóa, nhu cầu sản xuất, đời sống của người lao động. Đồng thời, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã thúc đẩy khoa học, công nghệ phát triển góp phần nâng cao cơ sở hạ tầng kỹ thuật của nhân loại. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là định hướng chiến lược cho quá trình phát triển lực lượng sản xuất trong cách mạng công nghiệp 4.0 hiện nay thông qua quá trình hiện đại hóa công nghệ, quy trình sản xuất. Trình độ công nghệ, phương tiện kỹ thuật là một yếu tố quan trọng để đánh giá trình độ sản xuất xã hội. Công nghệ, phương tiện kỹ thuật phát triển càng hiện đại, thì tính năng hoạt động, năng suất, hiệu quả càng cao, sản phẩm sản xuất ra càng nhiều, đồng thời việc tiêu hao ít lao động, nguyên, nhiên vật liệu làm cho giá trị gia tăng ngày càng cao, từ đó thúc đẩy việc phát triển lực lượng sản xuất. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là định hướng thúc đẩy nguồn tri thức và phương pháp khoa học để người lao động ứng dụng vào việc cải tiến, chế tạo những phương tiện kỹ thuật mới có tính năng, hiệu quả ngày càng cao hơn, hiện đại hơn, với quy trình sản xuất ngày càng hoàn thiện, từ đó làm cho sản xuất ngày càng phát triển, sản phẩm ngày càng nhiều, năng suất, hiệu quả ngày càng cao. 2. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là động lực của quá trình phát triển lực lượng sản xuất trong cách mạng công nghiệp 4.0 Công nghiệp hóa, hiện đại hóa có tầm quan trọng đặc biệt đối với quá trình phát triển kinh tế - xã hội, đó là con đường tất yếu phải tiến hành đối với bất cứ nước nào, nhất là những nước có điểm xuất phát từ nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, muốn xây dựng nền kinh tế phát triển hiện đại. Bởi công nghiệp hóa, hiện đại hóa là động lực của quá trình phát triển lực lượng sản xuất trong cách mạng công nghiệp 4.0. Thuật ngữ “động lực” có nghĩa là cái thúc đẩy, làm biến đổi, phát triển. Khi đề cập khái niệm “động lực” thì nó có phần hơi nghiêng về động lực học, đối với triết học thì quan điểm động lực được nhấn mạnh vào nguyên nhân và nguồn gốc của sự phát sinh hơn. Để trở thành động lực cần phải hội tụ của hai yếu tố: một là, cái sinh ra lực để thúc đẩy sự vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng, 57 hai là, lực phát sinh đó mang ý nghĩa là nội lực chứ không phải là những nguồn lực hỗ trợ từ bên ngoài. Động lực của mỗi hệ thống như vậy tất yếu phải là thành tố và mối liên hệ cơ bản, bản chất nhất của hệ thống, không những quy định sự vận động, phát triển của hệ thống mà nó còn là đặc trưng căn bản của mỗi hệ thống. Khi xem xét đến động lực của một kết cấu hệ thống thì bắt buộc phải đặt nó trong tổng thể các mối quan hệ của các thành tố, bộ phận trong hệ thống, xem xét sự tác động qua lại của các mặt bên trong mỗi bộ phận và giữa yếu tố, bộ phận này với yếu tố, bộ phận khác. Cho nên, công nghiệp hóa, hiện đại hóa hội tụ đủ các yếu tố để trở thành động lực của quá trình phát triển lực lượng sản xuất trong cách mạng công nghiệp 4.0. Việc tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã làm đổi mới và nâng cao trình độ người lao động với tư liệu sản xuất để nhằm phát triển cơ sở vật chất, C.Mác cũng đã nói: “Phương thức sản xuất đời sống vật chất quyết định các quá trình sinh hoạt xã hội, chính trị và tinh thần nói chung”1. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa tạo tiền đề vững chắc trong quá trình phát triển chất lượng của người lao động, quá trình đổi mới tư liệu sản xuất, từng bước loại bỏ những tư liệu sản xuất lạc hậu, tiến hành đổi mới, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển khoa học, công nghệ, đồng thời không ngừng nâng cao trình độ của người lao động, tạo nền tảng cho quá trình phát triển lực lượng sản xuất hiện nay. Thực tế cho thấy, trong cách mạng công nghiệp 4.0 hiện nay thì quá trình lao động sản xuất, người lao động luôn luôn tìm mọi cách tốt nhất để sao cho quá trình sản xuất ít hao tốn sức lực nhất, nhưng lại có năng suất và hiệu quả cao nhất, để thực hiện được điều đó, người lao động phải không ngừng nâng cao trình độ tri thức. Bên cạnh đó, khoa học, công nghệ ngày càng phát triển đã giúp cho người lao động không ngừng học tập, nâng cao trình độ, để vận dụng những tri thức của mình có được trong quá trình sản xuất nhằm 1. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t. 13, tr. 15. 58 nâng cao kỹ năng, tay nghề, hoàn thiện quy trình, cải tiến, đổi mới công nghệ để sản xuất ngày càng phát triển. Đặc biệt với việc áp dụng những thành tựu của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 thì khoa học, công nghệ hiện đại, công nghệ cao với hàm lượng tri thức khoa học kết tinh trong công nghệ ngày càng cao, độ tinh xảo, phức tạp và tính năng hiệu quả ngày càng cao, nó yêu cầu người lao động phải có trình độ cao mới có thể sử dụng, làm chủ và phát triển công nghệ trong thời đại trí tuệ nhân tạo hiện nay. Do đó, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã làm cho người lao động từ việc sử dụng lao động thủ công sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động được đào tạo cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại nhằm tạo ra năng suất lao động xã hội cao và tạo ra những biến đổi về chất trong toàn bộ các hoạt động của đời sống xã hội (trước hết là hoạt động sản xuất vật chất). Như vậy, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã thúc đẩy, bắt buộc phải cải tiến và thay thế dần các công cụ lao động thô sơ, cũ kỹ, lạc hậu như: trong nông nghiệp, cái cày, cái cuốc, cái liềm đã được thay thế bằng máy cày ruộng, máy cắt lúa, máy thu hoạch liên hoàn... Trên cơ sở đó, công nghiệp hóa, hiện đại hóa làm thay đổi người lao động và tư liệu sản xuất một cách tích cực thì hàm lượng tri thức khoa học được kết tinh trong các phương tiện lao động, công cụ lao động như máy móc mà người lao động tác động qua hệ thống điều khiển, nó giúp người lao động có thể thực hiện quá trình sản xuất. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là một quá trình biến đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất - kinh doanh, dịch vụ, quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng sức lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học - công nghệ tạo ra năng suất lao động cao. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa cũng là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng nhanh các ngành sản xuất có hàm lượng khoa học, công nghệ cao, giá trị gia tăng cao. Thực chất và 59 nội dung cơ bản của công nghiệp hóa, hiện đại hóa là sáng tạo và ứng dụng tri thức do giáo dục, đào tạo và khoa học, công nghệ nhằm thúc đẩy quá trình phát triển lực lượng sản xuất. Như vậy, công nghiệp hóa phải gắn với hiện đại hóa nhằm thúc đẩy khoa học, công nghệ phát triển - khoa học, công nghệ tồn tại với tư cách là lực lượng sản xuất trực tiếp trong cách mạng công nghiệp 4.0 hiện nay. Hơn nữa, cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 hiện đang tác động mạnh mẽ trên phạm vi toàn thế giới, xu hướng chuyển giao công nghệ trở thành đòi hỏi cấp bách với tất cả các nước. Do đó, công nghiệp hóa, hiện đại hóa tạo đà để phát triển tư liệu sản xuất, mà cụ thể khoa học, công nghệ là nội dung then chốt trong mọi hoạt động của tất cả các ngành, các cấp, là nhân tố chủ yếu thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và củng cố quốc phòng an ninh. Hoạt động khoa học, công nghệ không chỉ là nhiệm vụ của các nhà khoa học, công nghệ, các nhà quản lý khoa học mà là công việc của mọi ngành, mọi cấp, mọi người... Mọi hoạt động kinh tế - xã hội đều đòi hỏi phải có nội dung khoa học, công nghệ để nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả. Mọi hành động phải xác định cơ sở khoa học của nó, phải điều tra, nghiên cứu, tìm ra quy luật, dự báo sự phát triển, đề xuất các giải pháp phù hợp với quy luật khách quan. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn liền với quá trình phát triển và hoàn thiện tư liệu lao động, trước hết là công cụ lao động và trình độ phát triển của công cụ lao động là dấu hiệu đặc trưng tiêu biểu cho một thời đại sản xuất xã hội nhất định. Do vậy, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã thúc đẩy sự phát triển tư liệu sản xuất, trước hết là công cụ lao động ở mỗi nước được thể hiện cụ thể thông qua hệ thống máy móc, thiết bị khoa học, công nghệ sản xuất phát triển cả về số lượng và chất lượng nhằm nâng cao công suất sử dụng rõ rệt, góp phần làm tăng năng suất lao động. Việc công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong cách mạng công nghiệp 4.0 hiện nay là động lực cho quá trình phát triển lực lượng sản xuất bởi đây là bước rút ngắn khoảng cách, là bước nhảy vọt của quá trình phát triển lực lượng sản xuất. 60 3. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là điều kiện của quá trình phát triển lực lượng sản xuất trong cách mạng công nghiệp 4.0 Công nghiệp hóa, hiện đại hóa không chỉ là định hướng, động lực mà còn là điều kiện cho quá trình phát triển lực lượng sản xuất trong cách mạng công nghiệp 4.0. Thuật ngữ “điều kiện” có nghĩa là cái làm cho nó từ đó biến đổi và phát triển. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đóng vai trò là điều kiện quan trọng trong quá trình phát triển lực lượng sản xuất trong cách mạng công nghiệp 4.0, vì quá trình sản xuất vật chất phải do nhiều thành tố tham gia như: người lao động, cơ sở hạ tầng kỹ thuật, khoa học, công nghệ, kinh tế tri thức, tài nguyên thiên nhiên... Hiện nay, cách mạng công nghiệp lần thứ tư gắn với việc ra đời và phát triển các công nghệ mới và các thiết bị mới, mà trước hết là trí tuệ nhân tạo, công nghệ in 3D, công nghệ tự hành, thiết bị đầu cuối all in one, internet vạn vật, điện toán đám mây - dữ liệu lớn, các công nghệ sinh học liên kết thế hệ mới, công nghệ vật liệu cao cấp, công nghệ tự động hóa robot thế hệ mới có “trí tuệ”... Nền tảng công nghệ chủ yếu của cách mạng công nghiệp lần thứ tư là sự tích hợp các công nghệ của cách mạng công nghiệp lần thứ ba và trí tuệ nhân tạo. Cách mạng công nghiệp lần thứ tư tạo ra những đột phá mới trong việc giải phóng con người khỏi các chức năng thực hiện, chức năng quản lý và sẽ tạo nên những bước nhảy vọt trong việc giải phóng con người khỏi chức năng lôgíc khi các công nghệ có trí tuệ nhân tạo được sử dụng rộng rãi. Nó thực sự biến khoa học thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Cách mạng công nghiệp 4.0 đang dần loại con người ra khỏi quá trình sản xuất trực tiếp, biến họ trở thành những chủ thể sáng tạo thực sự, tạo tiền đề vật chất và lực lượng sản xuất mới cho một nền kinh tế mới, đang được gọi bằng nhiều tên khác nhau, đưa nhân loại đến giai đoạn phát triển mới cũng với những tên gọi khác nhau (kinh tế số, kinh tế mềm, kinh tế tri thức, xã hội thông tin, xã hội tri thức...). 61 Do đó, yêu cầu đặt ra với công nghiệp hóa, hiện đại hóa là phải đáp ứng ngày càng cao nền sản xuất hiện đại. Muốn vậy, đòi hỏi người lao động trong lao động sản xuất phải là người lao động có trình độ trí tuệ cao, khỏe mạnh về thể chất, giàu có về tinh thần. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã nâng cao công cụ lao động, đối tượng lao động, cũng như người lao động, nhờ đó năng suất cao hơn, hiệu quả hơn. Người lao động làm ra của cải vật chất đến đâu thì đồng thời cũng tự nâng cao năng suất sản xuất của mình đến đó. Việc nâng cao năng suất lao động đòi hỏi phải có cơ sở vật chất của nền sản xuất đại công nghiệp. Lịch sử cũng đã khẳng định: dưới chế độ nô lệ, mức năng suất lao động rất thấp, nguyên nhân chủ yếu là sản xuất chỉ dựa vào sức người, sức động vật và công cụ lao động còn thô sơ. Dưới chế độ phong kiến, năng suất lao động xã hội tăng lên chậm chạp, do hệ thống lao động vẫn chủ yếu là thủ công. Đến khi xuất hiện máy móc, năng suất lao động tăng lên gấp nhiều lần. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là điều kiện của quá trình phát triển lực lượng sản xuất trong cách mạng công nghiệp 4.0 hiện nay. Bởi tư liệu sản xuất không thể tự ra đời và tự hoạt động, kể cả máy móc tự động cũng đều do người lao động làm ra. Máy móc, công cụ chỉ là những vật phản ánh, chỉ là thước đo tính năng động, trình độ chinh phục tự nhiên của người lao động. Thực tế cho thấy, qua quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã cho phép mỗi dân tộc, mỗi hình thái kinh tế - xã hội phát triển tư liệu sản xuất của mình bằng những thành tựu khoa học, công nghệ hiện đại. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa với sự tồn tại và phát triển của tư liệu sản xuất đã tạo ra lượng sản phẩm vật chất khổng lồ nhằm đáp ứng nhu cầu tồn tại của con người, từ đó dẫn đến sự tăng trưởng kinh tế - xã hội hết sức mạnh mẽ. Chỉ trong vòng 20 năm (1970-1990) sản xuất của cải trên thế giới đã tăng 2 lần, tức là vượt khối lượng được sản xuất ra trong 230 năm trước (1740-1970). Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là điều kiện để thúc đẩy tư liệu sản xuất phát triển. Điều này thể hiện trong tốc độ phát triển của khoa học, công nghệ với những chu kỳ thay thế sản phẩm ngày nay chỉ cần từ 1-3 năm, thay cho từ 15-20 năm như trước đây. 62 Theo Công ty nghiên cứu Rand Europe (Anh), đến năm 2020 ứng dụng của công nghệ intơnet vạn vật (Internet of Thing - IoT) sẽ đem lại doanh thu tiềm năng khổng lồ cho các ngành trên thế giới vào khoảng từ 1,4 nghìn tỷ USD đến 14,4 nghìn tỷ USD, tương đương với mức GDP của cả Liên minh châu Âu (EU). Theo dự báo của Hãng tư vấn Accenture (Hoa Kỳ), nếu Hoa Kỳ đầu tư nhiều hơn 50% vào công nghệ IoT để mở rộng mạng lưới kết nối thì có thể được hưởng lợi tới 7,1 nghìn tỷ USD, góp phần nâng GDP cao hơn 2,3% vào năm 2030 so với việc đầu tư vào các dự án khác. Trong khi đó, Đức có thể đạt doanh thu 700 tỷ USD và nâng mức GDP lên tới 1,7%; Anh có thể đạt lợi nhuận 531 tỷ USD và nâng GDP lên 1,8%; Trung Quốc có thể đạt 1,8 nghìn tỷ USD và nâng GDP lên 1,3% vào năm 2030 nếu đầu tư tương tự vào IoT như Hoa Kỳ. Như vậy, những thành tựu của cuộc cách mạng công nghiệp hiện đại được sử dụng để thúc đẩy tư liệu sản xuất trên thế giới ngày càng phát triển và thời gian các nước tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa ngày càng được rút ngắn hơn. Trong bối cảnh cách mạng khoa học, công nghệ trên thế giới hiện nay, việc phát triển tư liệu sản xuất thúc đẩy sự gia tăng khoảng cách về năng suất lao động của các nước trên thế giới. Thực tế cho thấy, khi tiến hành khảo sát 14 ngành sản xuất - chủ yếu là trong lĩnh vực công nghiệp - ở 17 quốc gia (bao gồm Hoa Kỳ, 14 nước châu Âu, Hàn Quốc và Ôxtrâylia) trong những năm 1993-2007, nhóm nghiên cứu cho biết mật độ sử dụng robot trong một giờ làm việc của tất cả các quốc gia này đã tăng lên 150%1. Cho nên, người lao động trở thành điều kiện chủ yếu của sự phát triển nhanh và bền vững. Đồng thời, công nghiệp hóa, hiện đại hóa là điều kiện làm chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội với việc sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động có trình độ khoa học, công nghệ; phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên 1. https://khoahocphattrien.vn. 63 sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học, công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa càng phát triển thì vòng đời của công nghệ càng ngắn lại, những công nghệ lạc hậu, kém hiệu quả sẽ bị thải loại, bị thay thế bởi những công nghệ hiện đại hơn, có năng suất, hiệu quả cao hơn, giá thành rẻ hơn, gọn nhẹ hơn, sản phẩm sản xuất ra nhiều hơn, giá trị sử dụng cao hơn. Do đó, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã đẩy nhanh quy trình ứng dụng của khoa học, công nghệ nhằm thúc đẩy nền sản xuất phát triển. Tóm lại, công nghiệp hóa, hiện đại hóa làm thay đổi trình độ người lao động trong việc sử dụng công cụ lao động và đối tượng lao động để chinh phục giới tự nhiên của ở mỗi giai đoạn lịch sử nhất định. Trong quá trình sản xuất vật chất, công nghiệp hóa, hiện đại hóa là kết quả của quá trình sản xuất và phân công lao động xã hội. Do vậy, công nghiệp hóa, hiện đại hóa là điều kiện của quá trình phát triển lực lượng sản xuất, tạo nên sự biến đổi mọi mặt trong quá trình phát triển lực lượng sản xuất. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã thúc đẩy quá trình phát triển lực lượng sản xuất được biểu hiện cụ thể thông qua các yếu tố của lực lượng sản xuất như người lao động, tư liệu sản xuất, khoa học, công nghệ trong quá trình phát triển của mình. 4. Sự tác động trở lại của quá trình phát triển lực lượng sản xuất trong cách mạng công nghiệp 4.0 đối với công nghiệp hóa, hiện đại hóa Sự phát triển của lực lượng sản xuất trong cách mạng công nghiệp 4.0 là mục đích của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trình độ phát triển lực lượng sản xuất trong cách mạng công nghiệp 4.0 thể hiện trình độ chinh phục tự nhiên của con người trong từng giai đoạn lịch sử nhất định. Trình độ phát triển lực lượng sản xuất thể hiện khả năng của người lao động sử dụng công cụ lao động tác động vào đối tượng lao động nhằm cải biến giới tự nhiên để tạo ra của cải vật chất đáp ứng nhu cầu của mình - đây cũng chính là cơ sở của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Với thành quả của cuộc 64 cách mạng khoa học, công nghệ, người lao động đã chuyển mạnh từ lao động thủ công lên lao động với công cụ kỹ thuật cao, hiện đại. Sự phát triển của lực lượng sản xuất và mở rộng thị trường thế giới trong thế kỷ XX, sự phát triển mạnh mẽ của cách mạng khoa học, công nghệ và toàn cầu hóa hiện nay đã tạo ra lực lượng sản xuất hiện đại và đồ sộ hơn nhiều và do đó càng làm sáng tỏ nhận thức và đánh giá của C.Mác và Ph.Ăngghen. Sau này, V.I.Lênin khi lãnh đạo thành công cuộc Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười ở nước Nga, cho rằng chỉ có lực lượng sản xuất hiện đại mới tạo ra năng suất lao động cao. Mà: “Xét đến cùng, thì năng suất lao động là cái quan trọng nhất, chủ yếu nhất cho thắng lợi của chế độ xã hội mới”1. Quá trình phát triển lực lượng sản xuất chỉ có thể thắng lợi khi tạo ra năng suất lao động cao hơn hẳn. Việc tăng năng suất lao động là một quy luật kinh tế chung cho mọi hình thái kinh tế - xã hội. Sự vận động và biểu hiện của quy luật tăng năng suất lao động trong các hình thái kinh tế - xã hội khác nhau cũng khác nhau, do trình độ lực lượng sản xuất của mỗi hình thái kinh tế - xã hội khác nhau trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa của mỗi nước. Để phát triển lực lượng sản xuất trong cách mạng công nghiệp 4.0 hiện nay thì con đường tất yếu là phải diễn ra cuộc cách mạng khoa học, công nghệ. Muốn vậy, phải tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đó là quá trình phát triển không ngừng ở tất cả các nước dưới những hình thức và mức độ khác nhau. Lực lượng sản xuất trong cách mạng công nghiệp 4.0 tác động tới công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên phương diện quy định mục đích xã hội của sản xuất, tác động đến lợi ích của người sản xuất, từ đó hình thành một hệ thống những yếu tố hoặc thúc đẩy, hoặc kìm hãm sự phát triển của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Lực lượng sản xuất trong cách mạng công nghiệp 4.0 còn tác động tới công nghiệp hóa, hiện đại hóa thông qua việc thể hiện tính chất tuần tự trong quá trình thay thế và phát triển các phương thức sản xuất cũng 1. V.I.Lênin: Toàn tập, Sđd, t. 38, tr. 25. 65 chính là quy luật chung trong tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại nhưng với mỗi cộng đồng xã hội nhất định, tùy theo điều kiện khách quan và chủ quan mà có thể có những biểu hiện đa dạng về con đường phát triển của nó: có tính chất đan xen giữa các phương thức sản xuất trong một thời kỳ phát triển hoặc có những bước bỏ qua một hoặc một vài phương thức sản xuất nào đó (với tư cách là phương thức sản xuất có tính chất phổ biến, giữ vai trò chủ đạo) và tiến thẳng lên phương thức sản xuất cao hơn. Đó chính là sự biểu hiện tính thống nhất trong tính đa dạng về con đường phát triển của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở mỗi nước khác nhau, tạo nên tính chất phong phú của lịch sử nhân loại. Chính các nhà kinh điển C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin cũng đã khẳng định trong các tác phẩm của mình về vị trí, tầm quan trọng của lực lượng sản xuất. Đặc biệt đã nhấn mạnh vai trò của nhân tố người lao động trong lực lượng sản xuất là nhân tố hàng đầu cho sự vận động và phát triển của lịch sử nhân loại. V.I.Lênin đã chỉ rõ: “Lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại là công nhân, là người lao động”1. Hơn nữa, phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất trong cách mạng công nghiệp 4.0 với trình độ khoa học, công nghệ cao là vấn đề bức thiết để nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững và phát triển kinh tế tri thức. Khi công nghiệp vẫn chủ yếu là khai thác tài nguyên, gia công, lắp ráp, công nghiệp chế tạo, chế biến còn phát triển chậm thì định hướng đúng đắn trong phát triển khoa học, công nghệ là đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhằm hiện đại hóa đất nước để phát triển công nghiệp, dịch vụ và nông nghiệp, phát huy năng lực nghiên cứu, thiết kế, chế tạo các sản phẩm công nghiệp có công nghệ tiên tiến, giá trị gia tăng cao, nhất là các máy điều khiển kỹ thuật số, hệ thống tự động hóa. Quá trình phát triển lực lượng sản xuất trong cách mạng công nghiệp lần thứ tư tác động tới công nghiệp hóa, hiện đại hóa thông qua quá trình tích hợp của hàng loạt công nghệ mới như trí tuệ 1. V.I.Lênin: Toàn tập, Sđd, t. 36, tr. 430. 66 nhân tạo, internet vạn vật, dữ liệu lớn, điện toán đám mây... Điều này có ý nghĩa hết sức to lớn trong việc xóa bỏ dần các giới hạn truyền thống về khan hiếm nguồn lực, làm thay đổi không gian kinh tế - xã hội theo hướng hòa trộn giữa không gian vật lý và không gian số. Lực lượng sản xuất trong cách mạng công nghiệp 4.0 tác động tới công nghiệp hóa, hiện đại hóa dưới góc độ tư liệu sản xuất và lực lượng lao động. Tư liệu sản xuất chính sẽ chuyển từ chủ yếu là vật chất sang phi vật chất, trong đó, hệ thống mô phỏng tích hợp các loại công nghệ, môi trường số, kết nối vạn vật và không gian mạng sẽ trở thành công cụ sản xuất chủ yếu. Dữ liệu, thông tin sẽ trở thành nguyên liệu có giá trị nhất, có sức mạnh nhất và có thể được sử dụng không hạn chế về quy mô, không gian và thời gian. Lao động trí tuệ, lao động đa kỹ năng sẽ ngày càng trở thành lực lượng lao động chi phối. Trí tuệ nhân tạo, người máy sẽ thay thế con người trong rất nhiều lĩnh vực, làm cho năng lực và tiềm năng phát triển được mở rộng không giới hạn. Như vậy, quá trình phát triển lực lượng sản xuất trong cách mạng công nghiệp 4.0 chính là để thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhằm phát triển kinh tể - xã hội vì mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. * * * Từ sự trình bày, phân tích những lý luận chung về công nghiệp hóa, hiện đại hóa, lực lượng sản xuất, sự phát triển của lực lượng sản xuất trong cách mạng công nghiệp 4.0 cũng như vai trò của công nghiệp hóa, hiện đại hóa với quá trình phát triển lực lượng sản xuất trong cách mạng công nghiệp 4.0 có thể đi đến kết luận: Một là, công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình đổi mới và góp phần nâng cao nền sản xuất xã hội, tăng năng suất lao động, tăng sức chế ngự của con người đối với thiên nhiên, tăng trưởng và phát triển kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân, ổn định tình hình kinh tế, 67 chính trị, xã hội; nâng cao năng lực quản lý, khả năng tích luỹ và phát triển sản xuất, tạo ra nhiều việc làm, nâng cao thu nhập, giúp cho sự phát triển tự do toàn diện của con người trong mọi hoạt động kinh tế - xã hội; tạo điều kiện thuận lợi cho khoa học, công nghệ phát triển nhanh đạt trình độ tiên tiến hiện đại; tăng cường lực lượng vật chất - kỹ thuật cho quốc phòng, an ninh; bảo đảm đời sống kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước ngày càng được cải thiện. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa góp phần phát triển lực lượng sản xuất trong cách mạng công nghiệp 4.0 tác động mạnh mẽ và trực tiếp đến tất cả các khâu của nền kinh tế, bao gồm sản xuất và tiêu dùng, thúc đẩy nền kinh tế thế giới chuyển sang kinh tế tri thức. Đối với các nhà sản xuất, sự du nhập của các công nghệ tiên tiến giúp tạo ra các sản phẩm và dịch vụ mới, tăng hiệu quả sản xuất, thúc đẩy sáng tạo và phát triển của nền công nghiệp trong dài hạn. Chi phí vận chuyển và liên lạc giảm, dây chuyền cung cấp hiệu quả hơn, chi phí thương mại được giảm thiểu. Đây cũng chính là cơ sở, định hướng, điều kiện phát triển của lực lượng sản xuất trong cách mạng công nghiệp 4.0. Hai là, lực lượng sản xuất dùng để chỉ tổng thể các yếu tố cấu thành nội dung vật chất, kỹ thuật, công nghệ,... của quá trình sản xuất, tạo thành năng lực thực tiễn cải biến giới tự nhiên của con người. Với nghĩa như vậy, lực lượng sản xuất cũng đóng vai trò phản ánh căn bản trình độ chinh phục giới tự nhiên của con người. Các yếu tố tạo thành lực lượng sản xuất gồm có: tư liệu sản xuất (trong đó, công cụ sản xuất là yếu tố phản ánh rõ ràng nhất trình độ chinh phục tự nhiên của con người) và người lao động (trong đó năng lực sáng tạo là yếu tố đặc biệt quan trọng). Trong hai nhóm yếu tố nói trên, người lao động là nhân tố quan trọng nhất (bởi vì, tư liệu sản xuất có nguồn gốc từ lao động của con người và được sử dụng bởi con người). Trong quá trình phát triển của nhân loại, phát triển lực lượng sản xuất thể hiện trình độ của lực lượng sản xuất trong việc chinh phục tự nhiên của con người trong từng giai đoạn lịch sử nhất định. Trình độ của lực lượng sản xuất trong cách mạng công nghiệp 4.0 hiện nay thể hiện khả năng của người lao động thông qua việc 68 sử dụng công cụ lao động thực hiện quá trình cải biến giới tự nhiên nhằm bảo đảm sự tồn tại, phát triển của mình. Ba là, vai trò của công nghiệp hóa, hiện đại hóa với quá trình phát triển của lực lượng sản xuất trong cách mạng công nghiệp 4.0 có thể thấy, công nghiệp hóa, hiện đại hóa là định hướng, động lực, điều kiện của quá trình phát triển lực lượng sản xuất trong cách mạng công nghiệp 4.0. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa càng được đẩy mạnh thì các yếu tố của lực lượng sản xuất càng phát triển và làm cho lực lượng sản xuất thay đổi về lượng và chất từ đó chuyển sang một hình thái kinh tế - xã hội cao hơn. Qua đó, sức mạnh chinh phục, cải tạo tự nhiên của người lao động ngày càng trở nên mạnh mẽ và có hiệu quả hơn. Quá trình phát triển lực lượng sản xuất trong cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ có những đặc trưng riêng, chúng tồn tại trong mối quan hệ khăng khít với nhau. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là định hướng, động lực, điều kiện thúc đẩy quá trình phát triển lực lượng sản xuất trong cách mạng công nghiệp 4.0 hiện nay. Bên cạnh đó, lực lượng sản xuất trong cách mạng công nghiệp 4.0 cũng tác động trở lại đối với công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong quá trình phát triển của xã hội. 69 Chương II CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA VÀ THỰC TRẠNG TÁC ĐỘNG CỦA NÓ ĐỐI VỚI QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT TRONG CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0 Ở VIỆT NAM HIỆN NAY I. CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 1. Quan điểm của Đảng về công nghiệp hóa, hiện đại hóa Đường lối công nghiệp hóa đất nước đã được hình thành từ Đại hội III (tháng 9/1960) của Đảng. Quá trình công nghiệp hóa của nước ta diễn ra trong bối cảnh tình hình trong nước và quốc tế luôn diễn biến phức tạp và không thuận chiều. Thực hiện công nghiệp hóa được 4 năm (1960-1964) thì đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh phá hoại ra miền Bắc. Đất nước phải thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược: miền Bắc vừa chiến đấu chống chiến tranh phá hoại, vừa xây dựng kinh tế, miền Nam tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc. Khi đất nước vừa thống nhất (năm 1975), cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội được vài năm thì lại xảy ra chiến tranh biên giới Tây Nam và phía Bắc, đồng thời nước ta bị Mỹ cấm vận trong một thời gian dài từ năm 1954 đến năm 1994. Như vậy, trước thời kỳ đổi mới, nước ta có khoảng 25 năm tiến hành công nghiệp hóa: công nghiệp hóa ở miền Bắc (1960-1975) và công nghiệp hóa trên phạm vi cả nước (1975-1986). Giai đoạn này, Việt Nam tiến hành công nghiệp hóa theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Công nghiệp nặng được xác định là ngành mũi nhọn, then chốt trong quá trình công nghiệp hóa. Do đó, nó chưa thật sự dựa trên điều kiện, hoàn cảnh của đất nước. 70 Nhìn chung, công nghiệp hóa giai đoạn 1960-1986 của nước ta theo mô hình nền kinh tế khép kín, hướng nội và thiên về phát triển công nghiệp nặng. Chủ yếu dựa vào lợi thế về lao động, tài nguyên đất đai và nguồn viện trợ của các nước xã hội chủ nghĩa, chủ lực thực hiện công nghiệp hóa là Nhà nước và doanh nghiệp nhà nước... Từ năm 1986 đến nay, Đảng ta với tinh thần “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật”... đã chỉ ra những hạn chế của công nghiệp hóa trước đây và đưa ra nhận thức mới phù hợp với thực tiễn và thế giới. Đại hội VI của Đảng đã cụ thể hóa nội dung chính của công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trong chặng đường đầu tiên là thực hiện 3 chương trình kinh tế lớn: lương thực, thực phẩm; hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu trong những năm còn lại của chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ. Như vậy, đường lối chiến lược coi công nghiệp hóa là nhiệm vụ trọng tâm, xuyên suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là không đổi, nhưng thay vì dồn sức, tập trung trực diện vào thực hiện công nghiệp hóa như trước đây, Đảng quan tâm nhiều hơn và trước tiên đến khâu tạo dựng tiền đề, cơ sở của công nghiệp hóa. Đây là sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng về công nghiệp hóa. Là điểm khởi đầu hết sức quan trọng cho quá trình đổi mới tư duy về công nghiệp hóa ở Việt Nam. Có thể khẳng định, Đảng ta luôn luôn đổi mới nhận thức về công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Việt Nam rõ ràng và sát thực tế hơn. Trong thời kỳ đổi mới từ năm 1986 đến năm 2016, với 30 năm thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Việt Nam đã có những bước chuyển biến trong nhận thức của Đảng qua các kỳ đại hội Đảng, bắt đầu từ Đại hội VI với việc đổi mới toàn bộ tư duy của Đảng. Đảng tập trung vào nội dung: “xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trong chặng đường tiếp theo”1. Đó là tập trung thực hiện ba chương trình kinh tế lớn: Lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng, 1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t. 47, tr. 376. 71 hàng xuất khẩu. Đảng ta nhận thức về “ưu tiên phát triển công nghiệp năng lượng”1. Đại hội VII của Đảng vẫn tiếp tục thực hiện những nội dung của công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa đã đề ra song có sự phát triển nhận thức cụ thể hơn: “Phát triển nông, lâm, ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến, phát triển toàn diện kinh tế nông thôn và xây dựng nông thôn mới là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu”2. Đồng thời, Đại hội VII cũng đánh dấu bước tiến trong tư duy lý luận về công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Đảng đã chuyển từ quan niệm công nghiệp hóa truyền thống sang quan niệm “công nghiệp hóa đất nước theo hướng hiện đại”. Chính vì thế, trong Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta xác định: “phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hóa đất nước theo hướng hiện đại... là nhiệm vụ trung tâm”3. Trên cơ sở đó, đến Đại hội VIII Đảng ta đề ra mục tiêu và sáu quan điểm lớn chỉ đạo quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nội dung về công nghiệp hóa, hiện đại hóa được bổ sung đầy đủ, hiện đại hơn, tiếp tục nhấn mạnh về công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn: thực hiện thủy lợi hóa, điện khí hóa, cơ khí hóa, sinh học hóa,... Phát triển công nghiệp chế biến lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu, hàng điện tử, thông tin; phát triển nhanh kết cấu hạ tầng, du lịch, dịch vụ4. Tại Đại hội IX, Đảng làm rõ hơn nội dung công nghiệp hóa, hiện đại hóa: đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông, lâm, ngư nghiệp và kinh tế nông thôn, tạo ra nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa lớn; đẩy nhanh điện khí hóa, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn, xây dựng vùng sản xuất tập trung 1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t. 47, tr. 384. 2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1991, tr. 63. 3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1991, tr. 9. 4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr. 86-90. 72 lương thực, thực phẩm, chăn nuôi có giá trị cao; tăng hàm lượng khoa học, công nghệ cao như công nghệ sinh học, công nghệ thông tin, thu hoạch, chế biến, bảo quản, vận chuyển, tiêu thụ; phát triển nhanh các ngành công nghiệp có khả năng phát huy lợi thế cạnh tranh, chiếm lĩnh thị trường trong nước và đẩy mạnh xuất khẩu,...1. Đồng thời, tại Đại hội IX Đảng ta cũng đề ra Chiến lược đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp. Tại Đại hội X và XI, Đảng đã đưa ra nhiều nội dung cụ thể để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đồng thời, Đảng xác định phải gắn công nghiệp hóa với hiện đại hóa và phát triển kinh tế tri thức phù hợp với kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế; phát triển công nghiệp và xây dựng theo hướng hiện đại, nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh; phát huy tiềm năng và lợi thế so sánh của đất nước; kết hợp vai trò của thị trường với vai trò của Nhà nước; phát huy có hiệu quả mọi nguồn lực, bên trong, bên ngoài và đặc biệt là nguồn lực của nhân dân2. Đến Đại hội XII, Đảng nhận thức được trong thời gian qua, Việt Nam tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa là đúng đắn, có tính tất yếu khách quan và còn là một đòi hỏi bức thiết. Song: “Một số chỉ tiêu kinh tế - xã hội chưa đạt kế hoạch; nhiều chỉ tiêu, tiêu chí trong mục tiêu phấn đấu để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại không đạt được”3. Bởi vì Việt Nam xuất phát từ một nước nông nghiệp nghèo nàn, lạc hậu, lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề. Hơn nữa, trình độ sản xuất, năng suất lao động còn rất thấp, cơ sở vật chất kỹ thuật còn yếu kém, trình độ, năng lực của người lao động yếu, công nghệ, trang thiết bị, cơ cấu kinh tế còn lạc hậu, sản xuất chủ yếu dựa vào nông nghiệp, lao động giản đơn.... 1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr. 91-93. 2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 30 năm đổi mới (1986-2016), Sđd, tr. 112. 3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2016, tr. 60. 73 Cho nên, Việt Nam muốn đạt được mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”1 thì phải phấn đấu thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Trên cơ sở đó, Đảng xác định “Phấn đấu để sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại”2. Phát triển đất nước thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại gắn liền với quá trình chuyển đất nước từ trình độ nền kinh tế nông nghiệp (hay tiền công nghiệp) sang trình độ nền kinh tế công nghiệp, từ xã hội nông nghiệp sang xã hội công nghiệp, từ nền văn minh nông nghiệp sang nền văn minh công nghiệp. Công nghiệp hóa luôn gắn với hiện đại hóa, phù hợp với trình độ phát triển của thời đại. Trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra hiện nay, thì khoa học, công nghệ phát triển với tốc độ mạnh mẽ đã có ảnh hưởng trực tiếp tới tất cả các mặt của đời sống kinh tế - xã hội, việc thực hiện công nghiệp hóa luôn phải hướng tới trình độ hiện đại, nghĩa là phải hướng tới các yêu cầu của nền kinh tế tri thức và nền văn minh trí tuệ. Đó cũng là hàm ý của yêu cầu phát triển đất nước thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Công nghiệp hóa luôn có sự thay đổi cùng với sự phát triển của nền sản xuất xã hội, của khoa học, công nghệ, Việt Nam tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay phải dựa trên nền kinh tế tri thức. Cho nên Đảng ta cũng xác định: công nghiệp hóa, hiện đại hóa được bao hàm cả về hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế - xã hội, được sử dụng bằng các phương tiện, phương pháp tiên tiến, hiện đại cùng với kỹ thuật và công nghệ cao. Như vậy, công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta không bó hẹp trong phạm vi trình độ lực lượng sản xuất đơn thuần, kỹ thuật đơn thuần để chuyển lao động thủ công thành lao động cơ khí; mà công nghiệp hóa, hiện đại hóa phải được thực hiện đồng thời trong quá trình phát triển lực lượng sản xuất. 1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Sđd, tr. 25. 2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Sđd, tr. 21. 74 Từ trước đến nay, Đảng, Nhà nước ta mới chỉ đưa ra những định hướng mang tính chung chung..., chứ lộ trình, bước đi của công nghiệp hóa, hiện đại hóa vẫn chưa được xác định rõ. Vì vậy, tại Đại hội lần thứ XII, Đảng ta đã có sự bổ sung về việc phân chia các bước đi của công nghiệp hóa, hiện đại hóa một cách phù hợp. Theo đó: “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước tiến hành qua ba bước: tạo tiền đề, điều kiện để công nghiệp hóa, hiện đại hóa; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; và nâng cao chất lượng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trong 5 năm tới, tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”1. Sự phân chia này giúp cho Đảng ta nhận thức rõ hơn nước ta đang ở giai đoạn nào của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Từ đó, xác định mục tiêu, các chỉ tiêu kinh tế - xã hội, nội dung, biện pháp, phương thức công nghiệp hóa, hiện đại hóa phù hợp, khả thi trong từng giai đoạn. Việc phân chia này cũng là cơ sở để hoạch định chiến lược phát triển các ngành công nghiệp, nhất là công nghiệp nền tảng, công nghiệp hỗ trợ; giải quyết mối quan hệ giữa công nghiệp hóa và đô thị hóa, giữa phát triển nông nghiệp và công nghiệp. Tóm lại, trong quá trình đổi mới, có thể rút ra lý luận về công nghiệp hóa của Đảng ta có ba bước chuyển đổi quan trọng: Thứ nhất, từ phê phán sai lầm của mô hình công nghiệp hóa cổ điển thời kinh tế kế hoạch hóa tập trung bao cấp và nhận diện bối cảnh mới, Đảng ta tiến hành đổi mới có tính “cục bộ” về lý luận công nghiệp hóa, hiện đại hóa (1986-1993); Thứ hai, hình thành hệ thống lý luận về công nghiệp hóa, hiện đại hóa (1994-2000); Thứ ba, phát triển lý luận về công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong xu thế mới - nhiều nước trên thế giới chuyển động mạnh từ nền kinh tế công nghiệp lên kinh tế tri thức. Với các bước chuyển này, Đảng ta đã nhận thức rõ, khẳng định và làm sâu sắc thêm sự cần thiết phải tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa; xây dựng hệ thống quan điểm làm cơ sở định hướng 1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Sđd, tr. 90. 75 tiến trình theo mục tiêu đã lựa chọn; xác định đúng những nội dung cơ bản, cụ thể hóa trong ngắn hạn và các điều kiện, tiền đề cần thiết cho đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong giai đoạn mới. Nhờ đó, việc lãnh đạo và tổ chức thực hiện công cuộc đổi mới đã thu được những kết quả quan trọng. Tuy nhiên, trước yêu cầu phát triển mới của khoa học, công nghệ, kinh tế tri thức và hội nhập quốc tế ngày càng mạnh mẽ và sâu rộng, điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước đã có nhiều biến đổi nên việc phát triển lý luận về công nghiệp hóa, hiện đại hóa vẫn cần tiếp tục làm sáng rõ, đáp ứng những yêu cầu thay đổi để phù hợp thực tiễn đất nước. 2. Mục tiêu, tiêu chí, nội dung, đặc điểm của công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay 2.1. Mục tiêu thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa Mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Việt Nam ngày càng được điều chỉnh cho sát với thực tiễn qua các kỳ Đại hội Đảng. Đại hội VI, Đảng ta nêu “mục tiêu tổng quát của những năm còn lại của chặng đường đầu tiên là ổn định mọi mặt tình hình kinh tế - xã hội, tiếp tục xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trong chặng đường tiếp theo”1. Đến Đại hội VIII của Đảng (năm 1996), Đảng ta đã đề ra: “Mục tiêu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa là xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng, an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Từ nay đến năm 2020, ra sức phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp”2. Tại Đại hội IX của Đảng (năm 2001), mục tiêu này được diễn đạt là: “đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành 1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t. 47, tr. 376. 2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Sđd, tr. 80. 76 một nước công nghiệp theo hướng hiện đại”1. Đại hội X của Đảng (năm 2006), một lần nữa xác định: “Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển kinh tế tri thức, tạo nền tảng để đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020”2. Đại hội XI tiếp tục khẳng định “...tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại”3. Tại Đại hội Đảng lần thứ XII, Đảng khẳng định mục tiêu của nước ta: “phát triển nhanh, bền vững, phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại”4, tức là Đảng ta không đặt ra lộ trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa bằng một mốc thời gian cụ thể như các đại hội trước. Sở dĩ, tại Đại hội XII, Đảng đưa ra mục tiêu trên vì: trình độ công nghiệp hóa, hiện đại hóa nước ta hiện nay còn khá thấp, nếu xét cả quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, về cơ bản, nước ta mới đang thực hiện những nhiệm vụ để tiến tới kết thúc giai đoạn đầu của quá trình này (giai đoạn mở đầu) và có những mặt đang triển khai thực hiện một số nội dung của giai đoạn thứ hai (giai đoạn đẩy mạnh). Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 của Bộ Chính trị về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư còn nêu rõ: “Phải sớm xây dựng chiến lược tiếp cận và chủ động tham gia cuộc cách mạng công nghiệp 4.0”. Nghị quyết số 23-NQ/TW ngày 22/3/2018 của Bộ Chính trị về định hướng xây dựng chính sách phát triển công nghiệp quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến 2045 khẳng định: Việt Nam phải “tận dụng hiệu quả lợi thế của nước đi sau trong công nghiệp hóa, để có cách tiếp cận, “đi tắt, đón đầu” một cách hợp lý trong phát triển các ngành 1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Sđd, tr. 24. 2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 186. 3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 33. 4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Sđd, tr. 21. 77 công nghiệp”. Qua đó có thể thấy, các quan điểm, chủ trương, đường lối nêu trên của Đảng ta là rất quan trọng. Theo đó, ngày 04/5/2017, Thủ tướng Chính phủ cũng đã ban hành Chỉ thị số 16/CT-TTg về việc tăng cường năng lực tiếp cận cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Cách mạng công nghiệp 4.0 mang lại cơ hội lớn cho các nước đang phát triển nói chung, trong đó có Việt Nam. Bởi vì, cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ tạo ra sự thay đổi mang tính toàn diện, từ cấu trúc thị trường, đến cách thức sản xuất, tiêu dùng và quản lý nhà nước. Đây là cơ hội để Việt Nam nâng cao năng suất lao động, khả năng cạnh tranh của các ngành truyền thống cũng như việc tiếp cận thị trường thế giới trên nền tảng số/internet để tăng trưởng nhanh với giá trị gia tăng cao và bền vững. Cách mạng công nghiệp 4.0 đang và sẽ mang lại cơ hội cho nền kinh tế số, sản xuất và dịch vụ thông minh; các loại hình kinh tế, công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ, du lịch, tài chính, ngân hàng, logistic, robotics... thông minh hóa. Cách mạng công nghiệp 4.0 còn giúp tăng năng suất lao động, tiết kiệm chi phí sản xuất, quản lý mang lại lợi ích to lớn cho Nhà nước, doanh nghiệp và người tiêu dùng. Do vậy, mục tiêu lâu dài của công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta là xây dựng cơ sở vật chất kỹ - thuật của chủ nghĩa xã hội dựa trên một nền khoa học và công nghệ tiên tiến, tạo ra lực lượng sản xuất mới với quan hệ sản xuất ngày càng tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, cải thiện đời sống vật chất, thực hiện dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Để từng bước thực hiện thành công mục tiêu lâu dài trên, mục tiêu tổng quát của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa của nước ta được Đảng Cộng sản Việt Nam xác định tại Đại hội lần thứ VIII và tiếp tục khẳng định tại Đại hội lần thứ IX và lần thứ X là: sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển... Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển kinh tế tri thức, tạo nền tảng để đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Việc xây dựng Việt Nam thành nước công nghiệp theo hướng 78