🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Công Lý & Báo Thù - Mario Puzo full prc pdf epub azw3 [Trinh Thám]
Ebooks
Nhóm Zalo
CÔNG LÝ VÀ BÁO THÙ
---❊ ❖ ❊---
Tác giả: Mario Puzo
Dịch thuật: Phan Quang Định Nhà xuất bản Công Thương Thể loại: Trinh thám, Văn học Nguồn text: Waka
Đóng gói: @nguyenthanh-cuibap ebook©vctvegroup
VỀ TÁC GIẢ
C
on của những người nhập cư Ý đến sinh sống tại khu Hell’s Kitchen của Thành phố New York, Mario Puzo sinh ngày 15, tháng mười, 1920. Sau Đệ nhị Thế chiến – trong thời gian đó ông là một Hạ sĩ của Quân đội Mỹ - ông theo học Trường Cao đẳng Thành phố New York và bắt đầu làm một nhà văn tự do. Trong thời kỳ này ông viết hai quyển truyện đầu tay "Đấu Trường Đen Tối" (The Dark Arena, 1955) và "Người Hành Hương May Mắn" (The Fortunate Pilgrim, 1965). Khi những quyển sách của ông làm ra ít tiền mặc dầu được giới phê bình hoan nghênh, ông thề phải viết ra một quyển bestseller làm rung động văn đàn. "Bố già" (The Godfather - 1969) là một thành công vang dội không chỉ tại nước Mỹ mà hầu như trên gần khắp thế giới. Ông cộng tác với đạo diễn Francis Ford Coppola để viết kịch bản cho cả ba phim Godfather và thắng giải của Hàn lâm viện Điện ảnh cho cả hai phim The Godfather (1972) và The Godfather, Part II (1974). Ông cũng hợp tác viết kịch bản cho những phim như Superman (1978), Superman II (1981), và The Cotton Club (1984).
Ông tiếp tục viết những quyển truyện thành công rất ấn tượng như "Fools Die (1978)", "The Sicilian(1984)", "The Fourth K (1991)", và "The Last Don (1996)".
Mario Puzo mất ngày 02, tháng bảy, 1999. Quyển truyện cuối của ông "Omerta" -(Luật Im Lặng), được xuất bản trong năm 2000. Tại Việt Nam, hầu hết các tác phẩm của Mario Puzo đều đã được Nhà xuất bản Phương Đông mua tác quyền và chuyển ngữ tiếng Việt.
CHƯƠNG 1
M
ichael Rogan nhìn kỹ cái biển hiệu rực rỡ bên ngoài hộp đêm nóng nhất ở Hamburg. Sinnlich! Schamlos! Sündig! Kích dục! Không mát-x-cỡ! Tội lỗi đầy mình! Đúng là cái hộp đêm này, Roter Peter, không thèm giấu giếm cái gì nó đang rao bán. Rogan rút từ túi mình ra một tấm ảnh nhỏ và ngắm nghía cẩn thận dưới ánh sáng màu đỏ của ngọn đèn nơi cánh cửa có hình con heo. Chàng đã nhìn rất kỹ bức ảnh này hàng trăm lần rồi , nhưng chàng vẫn còn bối rối về chuyện nhận diện kẻ mà chàng tìm kiếm lâu nay. Trong vòng mười năm người ta thay đổi nhiều lắm, Rogan biết thế. Chính mình cũng thay đổi nhiều mà, nói chi ai.
Chàng đi qua anh chàng gác cửa đang cúi người một cách xun xoe, khúm núm, để đi vào hộp đêm. Bên trong tối mò ngoại trừ cuốn phim “xanh” (blue movie) đang sáng nhấp nháy trên một màn hình chữ nhật nhỏ. Rogan vạch đường đi xuyên qua những cái bàn đông người, một đám đông ồn ào, nồng nặc mùi rượu bia. Bỗng dưng mọi ngọn đèn trong nhà sáng lên và đóng khung chàng sát sân khấu, với những cô gái tóc vàng trần truồng đang giựt người tưng tưng phía trên đầu chàng! Đôi mắt Rogan vẫn chòng chọc vào mấy khuôn mặt của những kẻ ngồi ở các bàn vòng quanh sân khấu. Một cô tiếp viên chạm vào cánh tay chàng. Cô ả nói bằng giọng đỏm dáng,” Có phải Herr Amerikaner tìm kiếm một món đặc biệt?”
Rogan chà xát lướt qua nàng, cảm thấy bực mình vì đã dễ dàng để bị nhận ra là một “ông Mẽo. ”Chàng có thể cảm nhận máu đang đập vào tấm thẻ bằng bạc vốn đang giữ hộp sọ chàng gắn lại với nhau – một dấu hiệu nguy hiểm. Có lẽ chàng sẽ phải nhanh chóng hoàn thành chuyện này và quay về lại khách sạn. Chàng di động qua hộp đêm, kiểm tra các góc tối nơi các ông chủ nốc bia từ những
chiếc vại khổng lồ và sờ soạng nhéo bóp bất kỳ em nào gần bên. Chàng liếc mắt vào những bàn có che màn nơi các ông khách nằm ngồi lổn ngổn trên mấy ghế sofas bọc da, “ngâm kiếu” các cô nàng trên sân khấu trước khi nhấc điện thoại lên để “triệu tập” em nào vừa mắt đến hầu quan.
Bây giờ Rogan đang mất kiên nhẫn. Chàng không còn nhiều thời gian cho lắm. Chàng quay người và đối mặt với sân khấu. Phía sau những cô gái trần truồng đang nhảy có một bức vách trong suốt. Xuyên qua bức vách đó các ông chủ có thể thấy hàng kế tiếp các cô gái đang sẵn sàng bước lên sân khấu, và bọn họ vỗ tay mỗi khi một trong các cô gái cỡi áo nịt ngực hay tuột vớ ra. Một giọng nhừa nhựa say xỉn gọi vọng ra, ”Ôi các em cưng, các em đáng yêu – ta có thể đánh quả với tất cả các em.”
Rogan quay người về phía giọng nói kia và cười trong bóng tối. Chàng nhớ lại giọng ấy rồi. Mười năm đã không làm cái giọng ấy thay đổi là mấy. Đó là một giọng vùng Ba-vi-e chói tai với vẻ thân tình giả tạo. Rất nhanh, Rogan di chuyển về hướng ấy. Chàng mở áo jacket, tháo một cái nút bằng da vốn giữ cho khẩu Walther an toàn trong cái bao đeo nơi vai. Tay kia chàng rút ống hãm thanh ra khỏi túi áo jacket và cầm nó như thể đó là một chiếc tẩu thuốc.
Và rồi chàng đến trước chiếc bàn kia, trước khuôn mặt của con người chàng không bao giờ quên, kẻ mà kí ức về hắn đã giúp cho chàng sống suốt mười năm qua.
Giọng nói đã không đánh lừa chàng; đúng là giọng nói của Karl Pfann. Tay cựu Đức quốc xã này hẳn đã tăng trọng thêm năm mươi pao nhưng lại mất đi gần hết đầu tóc – chỉ còn vài sợi màu vàng lơ thơ trên cái sọ bóng mỡ - nhưng cái mồm thì vẫn nhỏ tí và hầu như vẫn đầy vẻ hiểm ác như Rogan còn nhớ. Chàng ngồi xuống ở bàn kế bên và gọi thức uống. Khi mọi ánh đèn trong nhà tắt đi và cuốn phim xanh lại bật lên chàng rút khẩu Walther ra khỏi bao da và, giữ
hai tay dưới bàn, gắn ống hãm thanh vào đầu nòng súng. Vũ khí hơi chùng xuống vì mất cân bằng; nó sẽ thiếu chính xác nếu cự ly quá năm yards. Rogan nghiêng người về phía phải và vỗ vào vai Karl Pfann.
Cái đầu to bự quay lại, cái sọ bóng nhẫy nghiêng qua và cái giọng thân tình giả tạo mà Rogan từng nghe trong những cơn mộng ròng rã đã mười năm, nói, ”À, mein Freund, bạn muốn gì ạ?”
Rogan nói giọng khàn khàn,” Tôi là một đồng chí cũ của bạn. Chúng ta có cuộc thương thảo công việc vào ngày Rosenmontag – Thứ hai Lễ hội Hoa hồng – năm 1945, nơi Tòa án Munich, bạn nhớ chứ?”
Cuốn phim với cảnh nóng lên cao trào khiến Karl Pfann xao lãng câu chuyện, và đôi mắt hắn dính vào màn hình. ”Không, không, không thể có chuyện đó,” hắn nói một cách sốt ruột, mất kiên nhẫn. ”Năm 1945 tôi đang phục vụ cho tổ quốc.Sau chiến tranh tôi mới trở thành doanh nhân.”
“Khi mi là một tên Quốc xã,” Rogan nói. ”Khi mi là một kẻ tra tấn... Khi mi là một tên sát nhân. ”Tấm bạc trong sọ Rogan phập phồng. ”Tên ta là Michael Rogan. Ta làm Tình báo Mỹ. Giờ đây mi nhớ ra ta chưa?”
Có tiếng thủy tinh vỡ trong lúc tấm thân phục phịch của Karl Pfann xoay quanh và mắt hắn chọc qua bóng tối nhìn Rogan. Tên Đức nói bình thản, có vẻ hăm dọa, ”Michael Rogan đã chết. Mi muốn gì ở ta?”
“Mạng sống của mi,” Rogan nói. Chàng rút khẩu Walther từ dưới bàn ra, ấn vào bụng Pfann và siết cò. Thân người của tên Đức giật nẩy lên.với sức mạnh của viên đạn.
Rogan chỉnh lại ống hãm thanh và bắn tiếp phát nữa. Tiếng kêu than lúc chết của Pfann bị nhận chìm bởi tràng cười rộ lên, lan ra
khắp hộp đêm khi màn hình diễn ra cảnh rù quến buồn cười. Thân hình Pfann đổ gục xuống vắt ngang qua bàn. Cuộc mưu sát hắn ta sẽ không được ai nhận ra cho đến khi cuốn phim kết thúc. Rogan rút ống hãm thanh ra khỏi đầu nòng súng và đút cả hai thứ trở vào trong các túi áo jacket. Chàng ta đứng lên và lặng lẽ di chuyển xuyên qua hộp đêm tối tăm. Anh chàng giữ cửa mặc đồ viền tua vàng chào chàng và huýt sáo đón taxi, nhưng Rogan quay mặt đi và bước xuống đường hướng về phía bến cảng. Chàng đi dọc theo bến cảng một lúc lâu cho đến khi nhịp tim và mạch máu dần trở lại mức bình thường. Trong ánh trăng lạnh của miền Bắc Đức, những bến tàu ngầm hoang phế và những con tàu rỉ sét mang trở lại những bóng ma ghê khiếp của một thời chiến tranh.
Karl Pfann đã chết. Rogan như vừa trút được gánh nặng nhưng rồi lại thấy hụt hẫng, chán chường. Và rồi mười năm mộng dữ đã được trả giá và chàng có thể giảng hòa với tấm bạc trong sọ mình, những tiếng kêu xé lòng còn vang vọng vô tận của Christine gọi tên chàng, kêu cầu sự cứu độ, và cái khúc đoạn mù quáng, lóa mắt khi bảy người trong một căn phòng vòm cao của Tòa án Munich đã hành hình chàng như thể chàng là một con thú. Chúng đã cố mưu sát chàng, không chút nhân phẩm, như một trò đùa độc ác.
Ngọn gió dọc theo bến cảng cắt vào da thịt chàng và Rogan quay lên phía lối đi Reeperbahn, đi qua đồn cảnh sát khi chàng bước vào Davidstrasser (Phố David). Chàng không có gì phải sợ cảnh sát. Ánh sáng trong hộp đêm quá tù mù để cho bất kỳ ai có thể thấy rõ mặt chàng, đủ rõ để có thể mô tả chàng tương đối chính xác. Tuy nhiên, để cho an toàn, chàng lỉnh vào con đường rẽ có treo tấm bảng bằng gỗ lớn: ”Cấm trẻ vị thành niên!”
Trông nó cũng giống như bất kỳ con phố nào khác cho đến khi chàng quẹo ở góc phố.
Chàng đã “sa chân lỡ bước” vào khu phố St Pauli nổi tiếng của Hamburg, khu vực được thành phố dành riêng cho việc mại dâm hợp pháp. Khu phố được chiếu sáng rực rỡ và đông đảo khách tìm hoa qua lại. Những căn nhà ba tầng thoạt trông có vẻ bình thường, ngoại trừ là mọi nơi đều rộn ràng như đang mở hội. Những tầng trệt có những cửa sổ thật rộng để phô bày, cho thấy các phòng bên trong. Ngồi trên các ghế bành, đọc sách báo, uống cà-phê và tán gẫu hay nằm ườn trên ghế sofa và nhìn lên trần mơ màng là một vài trong số những cô gái trẻ đẹp nhất mà Rogan từng thấy.
Một vài cô ả còn làm bộ như đang lau chùi nhà bếp và chỉ mặc có mỗi cái tạp dề buông xuống đến nửa đùi phía trước còn nguyên phía sau thì... trống trơn! Mỗi nhà đều có tấm biển: ” Ba mươi Marks cho Một Giờ Mê Ly. ”Trên một số cửa sổ màn được kéo xuống. In bằng chữ vàng trên các tấm màn đen là chữ Ausverkauft, “Hết hàng,” để thông báo một cách tự hào là có vị khách sộp nào đấy đã bao cô gái trọn đêm rồi.
Có một nàng tóc vàng đang đọc sách trên một cái bàn bằng thiếc nơi nhà bếp. Cô nàng có vẻ sầu muộn ủ ê, không bao giờ liếc nhìn ra ngoài phố phường nhộn nhịp; một ít giọt cà-phê rơi ra gần quyển sách đang mở của nàng. Rogan đứng bên ngoài căn nhà và chờ cho nàng ta ngẩng đầu lên để chàng có thể mục sở thị dung nhan của nàng. Nhưng có vẻ như nàng chẳng muốn nhìn lên. Chắc là tại nàng hơi xí? Cho nên nàng mặc cảm thua chị kém em, chàng Rogan đóan già đoán non như vậy. Cho dầu thế nào đi nữa chàng cũng sẵn lòng chi cho em ba mươi Marks chỉ để có thể nghỉ ngơi thư giãn một tí trước khi bắt đầu cuộc đi bộ khá dài để trở về khách sạn. Đối với thể trạng của chàng mà để bị kích thích tình dục thì cũng không tốt lắm đâu, các vị đốc tờ đã phán như thế, và một phụ nữ với khuôn mặt xấu xí thì sẽ không làm chàng hứng chí được và như thế lại hóa hay. Với tấm bạc đó trong sọ chàng Rogan bị cấm
uống rượu nặng, cấm làm tình quá độ, và ngay cả là không được giận dữ. Nhưng các vị đốc tờ lại chẳng nói gì với chàng về chuyện có được giết người hay không.
Khi chàng bước vào phòng bếp được chiếu sáng choang kia chàng thấy rằng cô gái đang ngồi đọc sách đó đẹp quá đi chứ! Nàng gấp lại quyển sách với vẻ hối tiếc, đứng lên, rồi nắm tay chàng và dẫn chàng vào phòng riêng ở phía trong. Rogan cảm thấy một cơn thèm muốn nhanh chóng bốc lên khiến đôi chân chàng run rẩy, đầu chàng nặng và căng. Phản ứng của việc giết người và trốn chạy đập mạnh vào chàng và chàng cảm thấy muốn ngất đi. Chàng để rơi người xuống giường và giọng nói vi vu như tiếng sáo của cô gái trẻ dường như đến từ nơi xa xôi nào. ”Anh sao thế? Anh có đau ốm gì không?”
Rogan lắc đầu và lóng ngóng với cái ví tiền của mình. Chàng lôi ra một xấp tiền để trên giường và nói,” Anh bao em trọn đêm nay. Kéo màn xuống đi. Rồi để yên cho anh ngủ. ”Trong lúc nàng trở lại nhà bếp Rogan lấy một lọ thuốc nhỏ từ túi áo sơ-mi và thảy hai viên vào mồm. Đó là chuyện cuối cùng chàng làm mà chàng còn nhớ trước khi mất ý thức và chìm vào giấc ngủ mê man.
Khi Rogan thức giấc bình minh xám nhạt xuyên qua những cửa sổ bụi mờ để chào chàng. Chàng nhìn quanh. Cô gái đang ngủ trên sàn dưới một tấm nệm mỏng. Một mùi hương hoa hồng toát ra từ thân thể nàng. Rogan lăn mình để có thể ra khỏi giường ở phía bên kia. Những dấu hiệu nguy hiểm đã tan đi. Miếng bạc không còn phập phồng nữa; cơn nhức đầu cũng đã tan biến. Chàng cảm thấy thoải mái, thư thái và sung sức.
Không có gì trong ví của chàng bị lấy đi. Khẩu Walther vẫn nằm trong túi áo jacket. Chàng đã “hái lượm” được một cô gái lương thiện, biết điều, Rogan thầm nghĩ. Chàng đi vòng qua phía bên kia của chiếc giường để đánh thức nàng dậy, nhưng nàng đã ngọ ngoạy
đôi chân, thân hình xinh đẹp của nàng đang run lên trong cái lạnh ban mai.
Căn phòng sực nức mùi hoa hồng, Rogan để ý và có nhiều hoa hồng được thêu nơi các màn cửa sổ và trên các tấm trải giường. Có cả những hoa hồng được thêu trên chiếc áo ngủ mỏng dính, hầu như trong suốt của cô gái. Nàng cười với chàng. “Tên em là Rosalie. Em thích mọi thứ với hoa hồng – nước hoa, quần áo, mọi thứ.”
Nàng có vẻ tự hào một cách rất là...con gái về tính mê hoa hồng của mình, như thể điều đó đem lại cho nàng một nét riêng, đặc biệt. Rogan thấy chuyện ấy cũng vui vui. Chàng ngồi trên giường và vẫy gọi nàng. Rosalie đến và đứng giữa hai chân chàng. Chàng có thể ngửi được mùi hương dìu dịu thoảng ra từ người nàng, và trong lúc nàng từ từ cỡi chiếc áo ngủ bằng lụa ra chàng có thể thấy bộ ngực nàng với hai đầu vú như hai trái dâu chín, đôi chân trắng dài; và rồi thân hình nàng bọc quanh thân xác chàng như những đài hoa lụa mịn màng và miệng nàng với đôi môi dày nhục cảm nở hoa bên dưới miệng chàng, bối rối xốn xang, vỗ cánh phất phới với đam mê nồng nàn.
........................&..........................
CHƯƠNG 2
R
ogan thích cô gái đến độ chàng ta thu xếp để cho nàng được sống với chàng nơi khách sạn đó trong cả tuần tới. Chuyện này dính líu tới những dàn xếp tiền bạc khá rắc rối với viên quản lý khách sạn, nhưng chàng chẳng bận tâm. Còn Rosalie sung sướng ra mặt. Rogan thấy nàng vui thì chàng cũng cảm thấy thỏa thích, gần như một thứ tình phụ tử.
Nàng càng vui sướng hơn nữa khi biết được rằng đó là khách sạn Vier Jahrezeiten (Bốn Mùa) nổi tiếng khắp thế giới, khách sạn sang trọng, xa xỉ nhất ở Hamburg thời hậu chiến, với dịch vụ theo phong cách thanh lịch quí phái thời nước Đức dưới đời Vua Chúa.
Rogan cưng chiều Rosalie như đối với một nàng công chúa suốt trong tuần lễ ấy. Chàng cho cô em tiền để mua sắm quần áo mới, dắt nàng đi xem hát rồi đi ăn ở những nhà hàng “quá ngon. ”Nàng là một cô gái dễ cảm tình, nhưng có một sự thẳng thừng lạ lùng nơi nàng khiến Rogan bối rối. Nàng đáp ứng chàng như thể chàng là vật gì đó để yêu thích cũng giống như một chú chó cưng là một cái gì đó để yêu thích. Nàng vuốt ve thân thể chàng cũng “phi nhân vị” (impersonally) như khi nàng vuốt ve một cái áo choàng lông, và rừ rừ lên với cùng một thứ lạc thú giống nhau. Một ngày nọ nàng bất ngờ trở về từ một cuộc đi mua sắm và nàng bắt gặp Rogan đang lau chùi khẩu Walther P-38. Nhưng chuyện Rogan sở hữu một thứ vũ khí như thế là chuyện hoàn toàn chẳng liên quan gì tới nàng. Nàng chẳng hề quan tâm và nàng cũng không hỏi han chàng một lời về chuyện đó. Mặc dầu Rogan cảm thấy nhẹ nhõm khi nàng phản ứng theo cách ấy, song chàng vẫn thấy hình như phản ứng đó không hẳn là tự nhiên.
Kinh nghiệm đã dạy cho Rogan rằng chàng cần nghỉ ngơi một tuần lễ sau một trong những cuộc hành thích. Nơi đến kế tiếp của chàng là Berlin và cho đến cuối tuần chàng vẫn còn tranh đấu nội tâm xem có nên mang Rosalie đi cùng đến cái thành phố bị phân chia kia hay không. Cuối cùng chàng quyết định là không. Bởi vì mọi chuyện có thể kết thúc tồi tệ và nàng có thể bị tổn thương dầu nàng chẳng có lỗi gì. Vào đêm cuối cùng trước khi chia ly chàng cho nàng hay sẽ rời nàng sáng sớm mai và cho nàng tất cả khoản tiền mặt còn lại trong ví mình. Với vẻ vô cảm lạ lùng cố hữu nàng cầm lấy tiền và ném lên giường. Nàng chẳng tỏ ra dấu hiệu xúc động nào khác hơn là một xúc động thuần túy thể lý của cơn đói khát thú vật. Vì là đêm cuối cùng bên nhau nàng muốn làm tình càng lâu càng hay. Nàng bắt đầu cỡi quần áo. Trong khi làm điều đó nàng hỏi, một cách bình thường, “Tại sao anh phải đi Berlin?”
Rogan mân mê đôi bờ vai mỡ đông ngọc đúc của nàng. ”Công việc,” chàng đáp.
“Em đã nhìn qua những phong bì đặc biệt của anh, cả thảy là bảy cái. Em muốn biết nhiều hơn về anh.” Nàng tuột cặp vớ ra. ”Cái đêm anh gặp em, anh đã giết Karl Pfann, và phong bì cùng bức ảnh của hắn được đánh số hai. Phong bì và hình của Albert Moltke được đánh số một, thế nên em đi đến thư viện và lục tìm những tờ báo ở Vienna. Moltke bị giết một tháng trước đó.Passport của anh chỉ ra rằng vào thời điểm đó anh ở Áo.Những phong bì thứ ba và thứ tư được đánh dấu với các cái tên Eric và Hans Freisling, và họ sống ở Berlin. Vậy là anh sắp đi Berlin để giết họ khi anh xa em ngày mai. Và anh cũng lên kế hoạch giết ba người kia nữa, các số năm, sáu và bảy. Đúng không nào?”
Rosalie nói theo kiểu phát biểu một sự kiện thực tế, như thể những kế hoạch của chàng, xét trên mọi bình diện, cũng chẳng có chi là ...đáng ngạc nhiên. Chỉ là chuyện thường ngày ở huyện thôi!
Trần truồng, nàng ngồi trên mép giường, chờ đợi chàng làm tình với mình.Trong một lúc – nghĩ cũng “thiệt là kỳ cục”- Rogan thoáng có ý nghĩ phải giết nàng nhưng rồi lại bác bỏ ngay ý nghĩ đó; và sau đó chàng nhận ra rằng chuyện đó không cần thiết. Nàng sẽ không bao giờ phản bội mình đâu. Trong đôi mắt nàng ánh lên vẻ vô cảm kỳ lạ, như thể nàng không có khả năng phân biệt thiện ác là... cái quái gì!
Chàng quì hai gối chống hai tay trên giường, trước nàng và dụi đầu vào giữa ngực nàng. Chàng nắm lấy tay nàng, bàn tay ấm và khô; nàng không hề sợ hãi. Chàng dẫn dắt bàn tay nàng về phía sau hộp sọ mình, làm cho nàng chạy những ngón tay trên tấm thẻ bạc. Tấm thẻ được che khuất bởi tóc chải phủ lên trên, và một phần được trùm lấp bởi một màng da mỏng; nhưng chàng biết nàng có thể cảm nhận mảnh kim khí. ”Bảy tên kia đã làm anh ra như thế đấy,” chàng nói. ”Cái đó giữ cho anh còn sống, nhưng anh sẽ không bao giờ thấy bất kỳ đứa cháu nội ngoại nào. Anh sẽ không bao giờ thành một ông già ngồi sưởi nắng.”
Những ngón tay nàng chạm vào phía sau hộp sọ chàng, không rụt lại khi đụng vào miếng kim loại hay chỗ da thịt chai sần. ”Em sẽ giúp anh nếu anh muốn em làm thế,” nàng nói; và chàng có thể ngửi thấy mùi hương hoa hồng trên người nàng và chàng nghĩ – và biết rằng như thế là hơi tình cảm ủy mị - hoa hồng là để cho tiệc cưới không phải cho tử biệt sinh ly.
“Ồ không,” chàng nói. ”Ngày mai anh phải ra đi. Hãy quên anh, đừng vấn vương gì. Hãy quên rằng em từng thấy những phong bì đó. Như thế hay hơn. OK?”
“OK,” Rosalie đáp. “Em sẽ quên mọi chuyện về anh. ”Nàng để một khoảng lặng, và rồi trong một thời điểm mà sự trống không vô cảm kỳ lạ kia rời khỏi nàng, nàng buột miệng hỏi,” Anh có sẽ quên em không?”
“Không đâu,” Rogan đáp.
..............................&................................
CHƯƠNG 3
M
ike Rogan không bao giờ quên chuyện gì. Ở tuổi lên năm cậu kể lại với mẹ từng chi tiết những gì đã xảy ra cho mình ba năm trước đó khi, mới lên hai, cậu đã bị viêm phổi nặng. Cậu nói với mẹ tên của bệnh viện, điều mà chính mẹ cậu cũng không còn nhớ; cậu mô tả ông bác sĩ nhi khoa của bệnh viện, một người đàn ông xấu xí cực kỳ nhưng lại có một cách tiếp cận trẻ con thật kỳ diệu. Ông bác sĩ nhi này còn để cho các cháu bé đùa nghịch với cái cục u hình ngôi sao nơi cằm mình, nó làm biến dạng khuôn mặt ông, để cho chúng không còn thấy sợ cục u đó nữa. Michael Rogan còn nhớ mình đã cố kéo rời cục u đó ra và ông bác sĩ làm bộ la “úi dza!” một cách hài hước.
Mẹ chàng ngạc nhiên sửng sốt và có hơi e sợ đối với ký tính phi thường của Michael nhưng cha chàng thì sung sướng vô cùng. Joseph Rogan là một viên thư ký kế toán cần cù chịu khó và ông có những viễn tượng về cậu con sẽ trở thành một Giám định viên Kế toán Quốc gia trước khi đến tuổi hai mươi mốt và như vậy sẽ có một cuộc sống khá giả hơn chính vợ chồng ông bây giờ rất nhiều. Hoài bão của ông chỉ mới đến thế thôi, chưa đi xa hơn cho đến khi cậu bé Michael Rogan từ nhà trẻ trở về nhà với một bức thư ngắn của cô giáo. Bức thư thông báo cho cả nhà Rogan, cha mẹ và cậu con nên đến văn phòng thầy Hiệu trưởng vào ngày hôm sau để bàn về tương lai chuyện học hành của Michael.
Cuộc trao đổi diễn ra ngắn gọn và đi ngay vào trọng điểm. Michael không thể tiếp tục ở nhà trẻ với những đứa trẻ khác. Cậu bé là một ảnh hưởng gây rối. Cậu “sửa lưng” cô giáo khi cô bỏ sót một vài chi tiết trong câu truyện cô đang kể. Cậu đã biết đọc và biết viết. Nên gửi cậu đến một trường đặc biệt hoặc nên cho cậu lên những
lớp cao hơn, ngay bây giờ. Bố mẹ cậu quyết định gửi cậu đến một trường đặc biệt.
Ở tuổi lên chín, khi những đứa trẻ khác còn chạy nhảy nơi đường phố để chơi bóng chày hay bóng đá, thì Michael Rogan rời nhà, mang theo cái cặp da xịn có những chữ đầu của tên họ cậu và địa chỉ nhà cậu gắn lên đó bằng chữ mạ vàng. Bên trong cặp là bản văn của khóa học mà cậu đang học trong tuần đó. Hiếm khi cậu phải mất hơn một tuần để nắm vững chương trình một môn học thường đòi hỏi phải cả năm. Cậu chỉ cần đọc các bản văn một lần là thuộc và nhớ mãi. Và cũng là tự nhiên thôi khi một đứa trẻ như vậy bị hàng xóm láng giềng nhìn như một hiện tượng quái dị, khác thường.
Ngày nọ, một nhóm trẻ con cùng lứa tuổi vây quanh Michael Rogan. Một đứa trong bọn, một cậu bé tóc vàng thấp bè bè mà chắc nịch, nói với cậu,” Ê này, bạn không bao giờ chơi đùa sao?” Rogan chẳng trả lời trả vốn gì cả. Cậu bé tóc vàng vẫn tỉnh queo, “Bạn có thể chơi theo phe mình. Chúng ta chơi bóng đá, nhá?”
“Được rồi,” Michael hưởng ứng. ”Chơi thì chơi.”
Hôm đó là một ngày vẻ vang cho cậu. Cậu nhận ra rằng mình có tố chất thể lực tốt và rằng mình có thể chơi bóng đá ngon lành hoặc đánh đấm ra trò với những đứa trẻ khác. Cậu trở về nhà cho bữa ăn tối với chiếc cặp da đắc tiền dính đầy bùn. Cậu cũng có một con mắt bị thâm tím và đôi môi sưng vều, chảy máu. Nhưng cậu rất tự hào và rất vui sướng đến nỗi cậu vừa chạy đến với mẹ vừa la to,” Con sắp sửa vào đội bóng đá! Các bạn đã tuyển con vào đội bóng đá!”
Alice Rogan nhìn vào khuôn mặt bầm dập của cậu con và òa ra khóc!
Bà cố giữ bình tĩnh. Bà giải thích cho cậu con rằng óc não của cậu rất quí giá, rằng cậu đừng bao giờ để nó chịu bất kỳ nguy cơ nào. ”Con có một bộ óc phi thường, Michael à,” bà nói. ”Bộ óc của con mai sau sẽ giúp ích rất nhiều cho nhân loại. Con không thể như
những đứa trẻ khác. Chuyện gì sẽ xảy ra nếu như con làm tổn thương cái đầu con với việc chơi bóng đá? Hay đánh nhau với những đứa trẻ khác?”
Michael lắng nghe và thấu hiểu. Khi bố cậu về nhà buổi chiều hôm ấy thì hầu như ông cũng nói cùng điều đó. Thế là Michael bỏ đi mọi ý nghĩ sống giống như những đứa trẻ bình thường. Cậu có cả một kho báu phải gìn giữ cho nhân loại. Phải chi cậu trưởng thành hơn một chút cậu đã nhận ra rằng ông via bà via của mình đã thổi phồng quá đáng và “hơi bị” buồn cười về cái kho báu nơi mình, thế nhưng cậu chưa đủ chín chắn để có kiểu nhận thức đúng đắn như thế.
Khi cậu lên mười ba những đứa trẻ khác bắt đầu làm nhục cậu, chế diễu cậu, giật lấy cái cặp da khỏi tay cậu và ném qua ném lại chơi. Michael Rogan, vâng lời cha mẹ, từ chối chuyện đánh nhau và cam chịu sự làm nhục. Nhưng rồi chính cha cậu bắt đầu nghi ngờ về chuyện phải giáo dục con mình như thế nào.
Một hôm Joseph Rogan mang về nhà những đôi găng tay đánh bốc to đùng và dạy cho cậu con nghệ thuật tự vệ. Joseph bảo con phải tự bảo vệ mình và hãy chiến đấu nếu cần thiết. ”Con phải làm một người đàn ông sống hiên ngang,” ông nói, “điều đó còn quan trọng hơn là làm một thiên tài.”
Chính trong năm lên mười ba mà Michael Rogan khám phá mình khác với những đứa trẻ bình thường khác theo một cách khác. Bố mẹ cậu vẫn luôn bảo cậu ăn mặc tươm tất và theo kiểu người trưởng thành bởi vì phần lớn thời gian cậu học tập cùng với những người lớn hơn cậu đến những bốn, năm tuổi. Ngày nọ một nhóm con trai vây quanh Rogan và nói rằng chúng sắp tuột quần cậu và treo lên trên trụ đèn, một kiểu chịu sỉ nhục rất thường thấy mà phần lớn các cậu trai đều phải có lần đoạn trường ai có qua cầu.
Rogan giận điên lên khi bọn chúng bấu tay lên người cậu. Cậu nghiến răng cắn vào tai một đứa trong bọn và dứt ra một phần cái tai, lìa khỏi đầu đứa đó. Cậu chộp tay vào cổ đứa đầu têu và dùng hết sức bóp cổ nó mặc cho những đứa khác đấm đá cậu tưng bừng để buộc cậu phải thả đứa kia ra. Khi cuối cùng có mấy người lớn đến giải tán đám đánh nhau thì ba đứa trong bọn và Rogan đều phải vào nhà thương.
Nhưng từ đó chẳng còn ma nào dám bắt nạt cậu nữa. Chúng kiềng mặt cậu, không chỉ như một đứa kỳ dị mà như một đứa kỳ dị rất hung hăng.
Michael Rogan đủ thông minh để biết rằng cơn giận như điên đó của mình là không tự nhiên, rằng nó phun trào lên từ một suối nguồn nào đó sâu xa hơn. Và chàng đã lần ra nó là gì. Chàng đang hưởng thành quả từ ký tính phi thường của mình, từ những năng lực trí tuệ xuất sắc của mình mà không phải làm bất kỳ điều gì để xứng đáng với chúng và chàng cảm thấy có lỗi về chuyện đó. Chàng bộc lộ những cảm nghĩ của mình cho bố nghe, ông hiểu và bắt đầu vạch ra những kế hoạch để Michael sống một cuộc đời bình thường hơn. Bất hạnh thay là Joseph Rogan lại chết vì một cơn đột quị tim trước khi có thể giúp cho con mình.
Michael Rogan, lên tuổi mười lăm, cao lớn, khỏe mạnh và có cấu tạo thể hình tốt. Giờ đây chàng đang thâu thái kiến thức trên những trình độ cao; và dưới sự thống trị hoàn toàn của bà mẹ, chàng thật sự tin rằng trí tuệ của mình là một tín thác thiêng liêng (a sacred trust) cần được trân trọng gìn giữ để mai sau phụng sự cho nhân loại. Vào thời kỳ đó chàng đã tốt nghiệp Thạc sĩ Văn học và đang nghiên cứu làm Luận văn để lấy Thạc sĩ Khoa học. Mẹ chàng sùng mộ chàng như một vị vua đang trị vì. Cùng năm đó Michael Rogan khám phá ...các cô nàng.
Về cái khuỷnh này thì chàng hoàn toàn bình thường. Nhưng chàng lấy làm phiền lòng mà nhận ra rằng các cô gái e sợ chàng và đối xử với chàng với sự độc ác bỡn cợt của tuổi teen. Chàng chín muồi về phương diện trí thức đến độ, một lần nữa, chàng lại bị nhìn như một kẻ kỳ dị bởi bạn bè đồng trang lứa.Điều này lại khiến chàng quay về với những học hành nghiên cứu của mình một cách mê cuồng để quên đi nỗi bực dọc với những người chung quanh.
Đến tuổi mười tám chàng thấy mình được chấp nhận như một kẻ đồng đẳng, bằng vai phải lứa, bởi những vị huynh trưởng và những sinh viên đã tốt nghiệp ở trường Ivy League khi chàng đang hoàn tất những nghiên cứu để lấy bằng Tiến sĩ Toán học. Giờ đây các cô gái dường như cũng bị lôi cuốn về phía chàng. Lớn con so với tuổi của mình, chàng là kẻ thân dài vai rộng và người khác dễ dàng tưởng là chàng đã hai mươi hai hay hai mươi ba. Chàng tìm cách ngụy trang sự ưu việt của mình để nó không có vẻ dọa nạt quá đáng đối với người khác, và cuối cùng rồi chàng cũng kéo được một em xinh đẹp lên giường để ... ”gài độ” mây mưa.
Em Marian Hawkins này là một nàng tóc vàng học hành giỏi giang nhưng cũng không từ chối những cuộc vui suốt sáng trận cười thâu đêm. Nàng là “đối tác tình dục kiên định” của chàng trong năm học ấy. Biết nếm mùi đời, chàng Rogan bắt đầu hơi bê trễ chuyện học hành, rượu bia hơi nhiều và phạm mọi chuyện hư đốn tự nhiên của một chàng trai bình thường đang lớn. Mẹ chàng tỏ vẻ buồn lo trước khúc quanh của những biến cố này nhưng Rogan không để cho sự buồn lo của mẹ làm bận lòng chàng, vẫn cứ vô tư làm những gì mình thích. Mặc dầu sẽ không bao giờ chàng chịu thừa nhận điều ấy với chính lòng mình, nhưng thực sự thì chàng không ưa bà mẹ cho lắm.
* *
Quân Nhật bất ngờ tấn công Trân châu Cảng (Pearl Harbor) vào đúng cái ngày chàng Rogan bảo vệ thành công Luận án Tiến sĩ. Lúc này Rogan đã ngán em Marian Hawkins – vì đã ăn nhiều quá nên bị bội thực - và chàng đang tìm một lối thoát đẹp. Chàng chán việc đào luyện trí tuệ và chàng cũng chán bà via của mình. Chàng thèm khát sự kích thích của phiêu lưu mạo hiểm. Ngày hôm sau sự kiện Trân châu Cảng chàng ngồi xuống và viết một bức thư dài cho vị Chỉ huy Tình báo Quân đội. Chàng ghi ra một danh sách đầy đủ những thành tích học tập của mình và đính kèm những bản sao các văn bằng với bức thư. Chưa đầy một tuần sau chàng nhận được điện tín từ Washington yêu cầu chàng trình diện cho một cuộc phỏng vấn.
Cuộc phỏng vấn là một trong những thời khắc vẻ vang của đời chàng. Chàng được sát hạch bởi một viên Đại úy Tình báo đầu tóc cắt rất ngắn. Anh ta liếc qua danh sách mà Rogan đã gửi đến với vẻ uể oải. Có vẻ như anh ta chẳng thấy ấn tượng gì, nhất là khi anh ta được biết rằng Rogan không có thành tích gì về hoạt động thể thao.
Đại úy Alexander nhét bộ hồ sơ giấy tờ của Rogan vào lại một bìa kẹp bằng giấy cứng và mang vào văn phòng bên trong. Anh ta đi một lác và khi trở lại anh ta cầm trong tay một tờ giấy in roneo. Anh ta đặt tờ giấy xuống bàn, trước mặt mình và dùng cây bút chì gõ gõ vào tờ giấy. ”Tờ giấy này ghi đầy một thông điệp mã hóa. Đó là một loại mật mã cũ, đã quá “đát” chúng tôi không còn sử dụng nữa. Nhưng tôi muốn thử xem anh bạn có thể hình dung ra được không. Đừng ngạc nhiên nếu như bạn thấy nó quá khó; dầu sao thì bạn cũng đâu đã được huấn luyện chuyên môn. ”Anh ta chí tờ giấy cho Rogan.
Rogan liếc nhìn qua tờ giấy. Có vẻ là một kiểu thay thế cho chữ mã hóa tiêu chuẩn, tương đối đơn giản. Rogan từng mày mò tự học phép viết mật mã và lý thuyết các loại mã khi mới mười một tuổi, như một trò chơi trí tuệ. Chàng cầm cây bút chì lên và làm việc, và
chỉ trong vòng năm phút chàng đọc bức thông điệp được dịch ra cho Đại úy Alexander.
Viên đại úy biến đi vào một phòng khác và quay lại với một bìa kẹp hồ sơ từ đó anh ta rút ra một tờ giấy chỉ ghi có hai đoạn văn. Đây là một loại mã khó hơn và sự ngắn gọn của nó càng làm cho việc giải mã gặp khó khăn hơn. Rogan phải mất gần cả tiếng đồng hồ để bẻ khóa. Đại úy Alexander nhìn bản dịch của chàng và lại biến đi vào văn phòng bên trong. Anh ta trở ra cùng với một viên đại tá tóc xám, ông này ngồi nơi một góc của phòng tiếp tân và chiếu tướng kỹ Rogan.
Bây giờ Đại úy Alexander trao cho Rogan ba tờ giấy đầy những biểu tượng. Lần này anh ta thoáng cười nhẹ. Rogan nhận ra nụ cười đó; chàng từng thấy kiểu cười ấy trên khuôn mặt của các thầy giáo và các chuyên gia khi họ nghĩ họ đã đưa chàng vào tình huống nan giải. Thế nên chàng rất thận trọng với mật mã đó và chàng phải mất đến ba tiếng đồng hồ mới bẻ khóa được. Chàng tập trung cao độ vào công việc đến nỗi chàng không để ý căn phòng đầy dần các sĩ quan, tất cả đều đang chú mục vào chàng. Khi Rogan kết thúc, chàng trao mấy tờ giấy làm bài cho viên đại úy. Đại úy Alexander liếc nhanh qua bản dịch và không một lời nào, trao nó lại cho viên đại tá tóc xám. Viên đại tá nhìn xuống tờ giấy và rồi nói vắn tắt với viên đại úy,” Dẫn anh chàng ấy vào phòng tôi.”
Với Rogan, toàn bộ chuyện này là một bài tập hứng thú, và chàng hơi sững lại khi thấy viên đại tá trông có vẻ bối rối. Điều đầu tiên mà ông nói với Rogan là,” Bạn đã biến ngày hôm nay thành một ngày khó ở cho tôi đấy, bạn trẻ ạ.”
“Tôi xin lỗi,” Rogan lịch sự đáp lời. Thật ra chàng đâu có làm gì sai.
“Không phải lỗi của anh bạn,” viên đại tá làu bàu. “Không ai trong chúng tôi nghĩ là bạn có thể bẻ khóa mật mã cuối. Đó là một trong
những mã tốt nhất của chúng tôi và giờ đây vì bạn đã biết nó chúng tôi sẽ phải đổi mã khác. Sau khi chúng tôi thanh tra nhân thân bạn và chấp nhận bạn vào làm việc thì có lẽ chúng tôi mới sử dụng lại bộ mã đó.”
Rogan nói giọng nghi ngờ,” Đại tá muốn nói mọi bộ mã đều dễ thế sao?”
Ông ta đáp với giọng khô khan,” Với anh thì chúng dễ, hẳn thế. Nhưng với bất kỳ ai khác thì chúng đều khó cả. Anh sẵn sàng nhập ngũ chưa?”
Rogan gật đầu. ”Ngay từ phút này, thưa Đại tá.”
Viên đại tá nhíu mày. ”Ồ, không đơn giản như thế. Bạn phải được thanh lọc về an ninh. Và cho đến khi bạn được làm sáng tỏ, chúng tôi phải tạm giữ bạn. Bạn đã biết quá nhiều nên không thể thả lõng bạn được. Nhưng đó chỉ là thủ tục thôi.”
Thủ tục được chứng tỏ là một nhà tù của Cục Tình báo, một nơi kiên cố và nghiêm ngặt đến độ nhà tù nổi tiếng Alcatraz so ra mới chỉ là một trại hè! Nhưng đối với Rogan thì cách đối xử này chẳng phải là tiêu biểu cho thái độ của cánh tình báo. Một tuần lễ sau chàng tuyên thệ nhập ngũ với chức trung úy. Ba tháng sau chàng phụ trách phiên hiệu chịu trách nhiệm bẻ khóa mọi mật mã châu Âu., trừ Nga. Mật mã của Nga do phiên hiệu châu Á chịu trách nhiệm.
Chàng cảm thấy hạnh phúc. Lần đầu tiên trong đời chàng đang làm chuyện gì đó đầy kịch tính và hào hứng. Ký tính của chàng, trí tuệ xuất sắc đến mức hoang đường của chàng đang góp phần giúp cho đất nước chàng thắng một cuộc chiến lớn. Và chàng đang được khối cô gái trẻ ở thủ đô Washington mê mệt vì tài năng quá vượt trội của mình.Và chẳng bao lâu chàng được đặc cách thăng chức. Đời còn gì đẹp hơn. Nhưng đến năm 1943 chàng bắt đầu cảm thấy có tội trở lại. Chàng nghĩ rằng mình đang dùng khả năng trí tuệ để tránh né việc phải ra tiền tuyến, và chàng tình nguyện qua phiên
hiệu tình báo chiến trường. Nhưng lời yêu cầu của chàng bị bác bỏ; bởi chàng quá có giá để đem phí phạm vào nơi nguy hiểm. Chính lúc đó chàng nghĩ ra ý tưởng biến mình thành một bảng mã di động (a walking code switchboard) để điều phối cuộc đổ bộ lên nước Pháp từ bên trong xứ sở này. Chàng chuẩn bị kế hoạch tỉ mỉ đến từng chi tiết; kế hoạch thật xuất sắc và các thủ trưởng đồng ý duyệt. Và thế là Đại úy Rogan, viên sĩ quan tình báo thượng thặng, được bí mật thả dù xuống đất Pháp.
Chàng tự hào về bản thân, và chàng biết rằng hương hồn bố mình hẳn là cũng lấy làm tự hào về những gì chàng đang làm. Nhưng mẹ chàng khóc lóc than trách vì chàng đang làm cho bộ não chàng phải chịu hiểm nguy, cái bộ não thần kỳ mà họ đã bảo bọc nuôi dưỡng biết bao lâu. Rogan chỉ nhứn vai. Chàng vẫn chưa làm nên điều gì kỳ diệu với bộ não của mình. Có lẽ sau chiến tranh chàng sẽ phát hiện được hứng thú thực sự và xác lập thiên tài đích thực của mình. Nhưng chàng đã học khá đủ để biết rằng trí thông minh ở dạng thô cần có nhiều năm rèn luyện để phát triển thích hợp. Rồi đây khi mùa dứt chiến chinh, Gió reo khúc nhạc thanh bình chàng sẽ còn đủ thời gian để làm việc đó mà. Còn bây giờ thiên hạ đại loạn thì người hào kiệt phải lo cứu nạn lớn lập công to, phải “ Chí làm trai dặm nghìn da ngựa, Gieo Thái sơn nhẹ tựa hồng mao, Giã nhà đeo bức chiến bào, Thét roi cầu Vị ào ào gió thu” chứ! Thế nên ngay vào Ngày Đầu Năm Mới, 1944, Đại úy Michael Rogan được bí mật thả dù xuống nước Pháp bị chiếm đóng như là Sĩ quan Chỉ huy Liên lạc của Đồng minh với Quân Kháng chiến Pháp. Chàng đã huấn luyện với các điệp viên Anh quốc, học cách vận hành một đài thu-phát thanh bí mật và mang một viên thuốc tự vẫn nhỏ xíu được phẫu thuật cấy vào lòng bàn tay trái.
Nơi ém quân của chàng là trong nhà của một gia đình người Pháp tên là Charney ở thị xã Vitry-sur-Seine, ngay phía nam Paris.
Tại đó Rogan dựng lên mạng lưới giao liên và điềm chỉ và phát đi thông tin mã hóa đến Anh quốc. Có lúc chàng nhận được yêu cầu chuyển qua radio về một số chi tiết cần thiết cho cuộc đổ bộ sắp đến ở châu Âu.
Có vẻ như chàng đang trải qua một cuộc sống thanh bình, yên ắng. Vào những chiều Chủ nhật đẹp trời chàng đi chơi dã ngoại với cô con gái ông chủ nhà, Christine Charney, một cô gái chân tay dài, cử chỉ ngọt ngào, với mái tóc màu hạt dẻ. Cô đang học nhạc ở trường đại học địa phương. Cô và Michael Rogan trở thành người tình của nhau và rồi sau những lần” dỡn chơi chút xíu” ai dè... cô có mang.
Đội mũ bê-rê và trưng ra những giấy chứng minh nhân thân giả mạo Rogan cưới Christine Charney ở tòa thị chính và họ quay về nhà bố mẹ cô để cùng thực hiện công tác bí mật bên nhau.
Khi quân Đồng minh đổ bộ xuống Normandy vào ngày 6 tháng sáu, 1944, Rogan có quá nhiều cuộc điện tín liên lạc khiến chàng trở nên thiếu cảnh giác. Hai tuần lễ sau bọn Mật vụ Gestapo ập vào nhà Charney và bắt hết mọi người trong nhà. Chúng đã mai phục và ra tay đúng lúc. Không những chúng bắt gia đình Charney và Mike Rogan chúng còn tóm được sáu người giao liên kháng chiến đang chờ nhận tin. Trong vòng một tháng tất cả đều bị thẩm vấn, bị tra tấn và rồi bị hành quyết. Tất cả, trừ Michael Rogan và vợ, Christine. Từ việc thẩm vấn những tù nhân khác bọn Đức đã biết được khả năng phi thường của Rogan trong việc ghi nhớ những mật mã rắc rối và chúng muốn dành cho chàng sự quan tâm đặc biệt. Vợ chàng được để cho sống ,” như một ân huệ đặc biệt” Rogan được chúng tươi cười cho biết như thế. Lúc đó nàng đang mang thai năm tháng.
Sáu tuần lễ sau khi bị bắt, Michael Rogan và vợ bị đẩy vào những chiếc xe riêng biệt của bọn Gestapo và chở đến Munich. Nơi quảng trường trung tâm nhộn nhịp của thành phố đó đứng sừng sững Tòa
án Munich và tại một trong những tòa nhà pháp đình kia, cuộc thẩm vấn cuối cùng và khủng khiếp nhất đối với Michael Rogan bắt đầu. Cuộc phỏng vấn kéo dài nhiều ngày đến vô tận, nhiều ngày hơn là chàng có thể đếm. Nhưng trong những năm sau đó trí nhớ thần kỳ của chàng đã không buông tha điều gì. Trí nhớ đó lặp lại cơn hấp hối của chàng từng giây từng giây, lặp đi lặp lại mãi. Chàng đã trải qua và đã chịu đựng hàng ngàn cơn ác mộng kinh hoàng. Và những cơn mộng dữ luôn bắt đầu với đội thẩm vấn bảy người chờ chàng trong căn phòng vòm cao của Tòa án Munich – chờ đợi một cách kiên nhẫn và với khiếu hài hước tốt (with good humour) cho cuộc đấu thể thao sẽ đem lại thích thú cho bọn họ.
Tất cả bảy đứa chúng nó đều mang băng tay có hình chữ vạn, nhưng có hai người mang áo thụng khác màu. Từ điểm đó và từ huy hiệu nơi cổ áo, Rogan biết rằng một đứa trong bọn thuộc quân đội Hung-ga-ry còn tên kia trong quân đội Ý. Hai tên này lúc đầu không tham gia vào việc thẩm vấn; chúng là quan sát viên chính thức.
Chỉ huy đội thẩm vấn là một sĩ quan cao dong dỏng, dáng vẻ dân quí tộc, với đôi mắt sâu. Y bảo đảm với Rogan rằng bọn y chỉ muốn những mật mã chứa trong đầu chàng và rồi Rogan và vợ chàng cùng đứa con chưa sinh sẽ được sống. Chúng thay nhau “bổ búa” vào đầu Rogan suốt ngày đầu tiên đó và Rogan vẫn im lặng. Chàng từ chối trả lời bất kỳ câu hỏi nào. Thế rồi vào đêm của ngày thứ nhì chàng nghe giọng của Christine la hét cầu cứu ở phòng bên cạnh. Nàng cứ gọi tên chàng,”Michel! Michel!” lặp đi lặp lại mãi. Nàng đang hấp hối. Rogan nhìn vào đôi mắt rực lửa của tay trưởng ban thẩm vấn và thì thầm, “Ngưng lại. Xin ngưng lại. Tôi sẽ khai hết.”
Trong năm ngày tiếp theo chàng nói cho chúng những phức hợp mã xưa cũ đã bỏ đi. Bằng cách nào đó, có lẽ do đối chiếu chúng với những thông điệp bắt được, bọn chúng biết chàng đã dở trò. Ngày tiếp theo chúng ấn chàng ngồi vào ghế còn cả bọn chúng đứng vây
quanh thành vòng tròn. Chúng không tra hỏi chàng; chúng không đụng vào người chàng. Tay sĩ quan mặc quân phục Ý biến đi vào một phòng khác. Một lác sau Rogan nghe lại vợ mình la hét trong cơn hấp hối. Sự đau đớn trong tiếng la của nàng vượt quá sức tưởng tượng. Rogan bắt đầu thì thầm rằng chàng sẽ khai hết mọi chuyện, bất kỳ chuyện gì họ muốn biết, nhưng tên trưởng ban thẩm vấn lắc đầu. Tất cả bọn chúng đều đứng yên lặng trong lúc những tiếng la hét xuyên thủng những bức tường và xoáy vào đầu óc họ, cho đến khi Rogan tụt người từ trên ghế xuống sàn nhà, nước mắt ràn rụa, gần như bất tỉnh vì cơn đau. Sau đó chúng kéo lê chàng qua sàn nhà của căn phòng vòm cao để vào phòng kế bên. Tay thẩm vấn trong bộ quân phục Ý ngồi kế bên cái máy ghi/phát âm. Cuộn băng màu đen quay tròn phát ra những tiếng la rú của Christine thét lên vang vang khắp Pháp đình.
“Mi chẳng bao gờ chơi lỡm được các ông đâu,” tên đầu sỏ phỏng vấn nói giọng khinh miệt. ”Các ông đây khôn hơn mi nhiều. Vợ mi đã chết vì cực hình ngay trong ngày đầu tiên. ”Rogan quan sát thật kỹ những gương mặt ác quỉ này. Nếu chúng để chàng sống thế nào một ngày kia chàng cũng sẽ giết sạch bọn chúng, không để sót mống nào.
Chỉ sau đó chàng mới nhận ra đấy chính là phản ứng mà chúng muốn. Chúng hứa sẽ để chàng sống nếu chàng giao cho chúng những mật mã đúng. Và trong cơn khao khát trả thù, chàng đã làm thế. Trong hai tuần tiếp theo chàng đã cho chúng những mã sau cùng mà chàng biết và giải thích cách chúng vận hành. Nhưng chàng nghĩ rằng từ khi chàng bị bắt thì bộ chỉ huy cũng đã biết và chắc là họ đã thay các bộ mã khác rồi. Chàng được trả về phòng biệt giam hình như là thêm mấy tháng nữa. Mỗi tuần một lần chàng lại được đưa lên căn phòng vòm cao để bảy người kia thẩm vấn mà dần dần chàng nhận ra rằng chuyện đó thuần túy chỉ còn là một thủ
tục thường lệ. Không có cách nào để Rogan biết được rằng trong những tháng đó Quân Đồng minh đã tràn qua khắp nước Pháp và tiến vào nước Đức và hiện đang ở cửa ngỏ Munich. Khi chàng bị triệu tập cho cuộc thẩm vấn cuối cùng chàng không thể biết rằng bảy tên thẩm vấn nọ sắp sửa đánh bài chuồn và ngụy trang lý lịch nhân thân của chúng để hòa lẩn vào trong đám đông những người Đức trong một cố gắng tuyệt vọng nhằm trốn tránh sự trừng phạt đối với những tội ác của chúng.
“Chúng tôi sắp trả tự do cho anh; chúng tôi giữ lời hứa của những sĩ quan Quốc xã biết trọng danh dự,” tay trưởng ban phỏng vấn có dáng vẻ quí tộc với đôi mắt sâu nói với Rogan như thế. Giọng nói vang lên với vẻ thành thật. Đó là giọng nói của một diễn viên hay của một nhà hùng biện. Một trong những người kia chỉ vào đống quần áo dân sự vắt trên phía sau ghế dựa. ”Hãy cỡi bỏ đống giẻ rách trên người anh và thay đồ đi.”
Không mấy tin tưởng nhưng Rogan vẫn thay quần áo trước mắt bọn chúng. Còn có cả một chiếc mũ fedora rộng vành mà một trong những con người kia chụp lên đầu anh. Cả bọn cười với anh có vẻ hữu hảo. Tay sĩ quan vẻ quí tộc nói bằng giọng thành thật, vang như chuông,” Chẳng đáng vui sao khi biết mình sắp được tự do, sắp được sống, phải không anh bạn ?”
Nhưng ngay lập tức Rogan biết hắn đang nói dối. Có điều gì đó không ổn. Chỉ có sáu người trong phòng cùng với chàng và bọn chúng đang mĩm cười một cách bí ẩn, hiểm ác.Vào lúc đó Rogan cảm nhận hơi lạnh kim khí từ khẩu súng chạm vào sau gáy chàng. Chiếc mũ chàng đang đội nghiêng về phía trước khi nòng súng ấn mạnh vào vành mũ, và Rogan cảm nhận nỗi kinh hoàng ghê tởm của một người sắp bị giết. Tất cả chỉ là một trò đùa độc ác, và chúng sắp giết chàng như giết một con vật, như diễn một trò vui, để cùng cười với nhau chơi.Và rồi một tiếng dội lớn ngập tràn đầu óc chàng,
như thể chàng bất thình lình từ trên cao bị rơi tòm xuống nước sâu, và thân thể chàng bị xé ra bởi khoảng không gian mà nó choán chỗ, nổ tung ra thành một hư không đen ngòm, vô tận...
Thế mà Rogan vẫn còn sống mới là phép lạ! Chàng đã bị bắn vào phía sau đầu và thân xác chàng được ném chung vào với một đống tử thi, vốn là những tù nhân khác bị hành hình nơi sân Tòa án Munich. Sáu giờ sau những toán quân tiền phương của Đệ tam Quân đoàn Mỹ tiến vào Munich và những đơn vị y tế của Quân đoàn tìm thấy một đống tử thi lớn. Khi đến sát bên Rogan họ thấy chàng vẫn còn sống. Viên đạn đã làm xương sọ chệch đi, khoét một lỗ trong xương sọ, nhưng không chui vào trong óc não – một loại thương tích không gì lạ thường đối với các miểng bom nhưng hiếm khi được gây ra bởi các loại vũ khí nhỏ.
Rogan được phẫu thuật trong một bệnh viện dã chiến tiền phương và gửi về nước Mỹ. Chàng mất hai năm nữa trong nhiều quân y viện khác nhau để được đặc trị. Vết thương đã làm cho tầm nhìn của chàng giảm biên độ; chàng chỉ còn có thể thấy thẳng phía trước với tầm nhìn hai bên rất hạn chế. Với sự luyện tập kiên trì, tầm nhìn hai bên của chàng được cải thiện đủ để cho chàng lấy được bằng lái xe và sống cuộc sống bình thường. Nhưng chàng đi đến chỗ tin cậy vào thính giác hơn là thị giác, bất cứ khi nào có thể. Sau hai năm tấm thẻ bạc đặt trong sọ chàng để giữ các mảnh xương sọ vỡ gắn lại với nhau dường như đã trở thành một phần tự nhiên của cơ thể chàng. Chỉ trừ những lúc bị stress. Lúc đó chàng có cảm giác như bao nhiêu máu trong óc não đều ùa đến đập dồn dập vào tấm thẻ bạc nọ.
Khi xuất viện, các bác sĩ bảo Rogan rằng việc uống rượu bia sẽ gây tổn hại cho chàng, chuyện làm tình quá độ cũng nguy hiểm, và tốt hơn chàng nên bỏ thuốc lá. Chàng được bảo đảm rằng những năng lực trí tuệ của chàng không bị tổn thương nhưng chàng cần
được nghỉ ngơi nhiều hơn người bình thường. Chàng cũng được kê toa thuốc cho những cơn nhức đầu. Nội áp sọ có lẽ sẽ tăng dần như là hậu quả tình trạng bị tổn thương của sọ và của tấm thẻ bạc.
Nói vắn tắt là óc não của chàng rất dễ bị tổn thương vì bất kỳ sự căng thẳng thể lý hay cảm xúc nào. Nếu bảo trọng đúng mức chàng có thể sống đến năm mươi, ngay cả là sáu mươi. Chàng cần tuân theo các chỉ định của bác sĩ, uống thuốc đều đặn – kể cả thuốc an thần – và báo cáo cho một bệnh viện hàng tháng để kiểm tra và thay đổi toa thuốc. Trí nhớ thần kỳ của chàng, Rogan được bảo đảm, không hề bị tổn thương tí nào. Và điều đó lại tỏ ra là một chuyện oái ăm không mấy dễ chịu.
Trong mười năm tiếp theo sau đó, chàng tuân thủ các chỉ định một cách nghiêm túc, uống thuốc đều đặn, báo cáo cho bệnh viện hàng tháng về tình trạng sức khỏe của mình. Nhưng cuối cùng điều chứng tỏ là nguyên nhân suy sụp tinh thần của chàng chính là cái trí nhớ ma thuật của chàng. Hàng đêm khi nằm lên giường thì như thể có một cuộn phim chạy qua trước mắt chàng. Chàng thấy bảy con người kia trong cái phòng vòm cao của Tòa án Munich trong từng chi tiết nhỏ nhặt. Chàng cảm nhận cái vành mũ của mình nghiêng tới trước, khẩu súng lạnh ngắt áp vào cổ. Và khoảng không đen ngòm vang lên, nuốt gọn chàng. Và khi nhắm mắt lại chàng nghe những tiếng la rú kinh hoàng của Christine từ phòng kế bên.
Mười năm trôi qua là một cơn mộng dữ liên tục.Khi được xuất viện chàng quyết định lấy Thành phố New York làm quê nhà. Mẹ chàng qua đời sau khi chàng được thông báo là đã mất tích trong khi thi hành nhiệm vụ, vậy nên chẳng có nghĩa lý gì đối với chàng trong việc trở lại thành phố quê nhà. Và chàng nghĩ rằng ở New York chàng có thể tìm được sở dụng thích hợp cho tài năng của mình.
Chàng tìm được một việc làm với một trong những công ty bảo hiểm khổng lồ. Công việc chỉ là phân tích thống kê đơn giản, thế
nhưng, ngạc nhiên chưa, chàng lại thấy việc ấy quá sức mình! Đơn giản chỉ vì chàng không còn khả năng tập trung tư tưởng trong thời gian lâu. Chàng bị cho thôi việc vì thiếu năng lực, một nỗi sỉ nhục khiến chàng nao núng tinh thần và suy sụp thể chất. Nó cũng làm tăng lòng nghi ngờ của chàng đối với đồng loại. Họ đang làm cái quái quỉ gì thế, sa thải chàng sau khi chàng đã chịu để suýt vỡ tung cái đầu ra vì bảo vệ mạng sống cho họ trong chiến tranh?
Chàng lại tìm được một chân thư ký trong Sở Cựu Chiến binh ở New York và được trả lương sáu mươi đô-la mỗi tuần và được yêu cầu chỉ làm công việc đơn giản nhất trong việc lập hồ sơ và phân loại. Hàng triệu hồ sơ mới được lập ra về những cựu chiến binh mới của Đệ nhị Thế chiến và chính chuyện này khiến chàng bắt đầu nghĩ về máy điện toán. Nhưng cần đến hai năm sau đó trước khi bộ óc chàng có thể thực sự tìm ra những công thức toán học phức hợp mà một hệ thống điện toán như thế cần đến.
Chàng sống cuộc đời buồn tẻ nơi một thành phố lớn. Sáu mươi đô-la một tuần chỉ vừa đủ để trang trải những chi phí cần thiết như trả tiền thuê căn hộ ở vùng ngoại ô Greenwich Village , thực phẩm đông lạnh và whiskey. Chàng cần whiskey để uống cho đủ say ngõ hầu sẽ không nằm mộng khi ngủ.
Trải qua từng ngày làm việc lập những tập hồ sơ chán ngắt, rồi trở về nhà trong căn hộ tồi tàn, ăn những món thực phẩm đông lạnh được hâm lên, chẳng có mùi vị gì. Và rồi chàng sẽ uống độ nửa chai whiskey rồi chìm vào giấc ngủ say mèm trên chiếc giường ọp ẹp, có khi còn để nguyên quần áo. Và tuy thế những cơn ác mộng vẫn đến. Nhưng những cơn ác mộng cũng không tệ hơn thực tế là mấy.
Trong tòa án Munich chúng đã lột sạch mọi phẩm giá của chàng. Chúng đã làm tương đương với điều mà những thằng nhóc đã dọa sẽ làm đối với chàng khi chàng mới lên mười ba. Chúng đã trộn thuốc xổ vào đồ ăn thức uống và cùng với nỗi sợ và món cháo lúa
mạch loãng được dùng làm bữa điểm tâm, bữa trưa và bữa tối đã làm cho đường ruột của chàng không còn có thể kiểm soát: thực phẩm cứ tự động chạy tuốt tuồn tuột qua người chàng. Khi chàng bị kéo ra khỏi phòng giam cho cuộc phỏng vấn thường ngày ở cái bàn dài chàng có thể cảm nhận đũng quần của mình dính vào mông và ngửi thấy mùi hôi thối. Nhưng còn tệ hơn thế nữa, chàng còn thấy những cái cười nhăn nhở đểu cáng trên bộ mặt của những kẻ thẩm vấn và chàng cảm thấy xấu hổ như một đứa bé thấy xấu hổ. Và tuy thế, theo một cách nào đó, chuyện ấy lại làm cho chàng cảm thấy gần hơn với bảy con người đang tra tấn chàng.
Giờ đây, nhiều năm sau, một mình nơi căn hộ riêng, chàng sống lại những sỉ nhục thể lý xưa kia. Chàng thấy xấu hổ và không muốn ra ngoài căn hộ để gặp người nào, chàng cũng chẳng muốn nhận lời mời đi dự các parties. Chàng gặp một cô gái đang làm thư ký trong Sở Cựu Chiến binh, và với một cố gắng mạnh mẽ của ý chí đã giúp chàng đáp ứng lại tình ý bộc lộ rõ của nàng. Nàng đến nhà chàng cùng nhau ăn uống vui vẻ và thẳng thắn tỏ ý rằng nàng muốn ở lại qua đêm. Nhưng khi Rogan lên giường với nàng thì lại lâm vào tình huống có súng có đạn nhưng đạn lại bị hóc, không nhảy lên nòng, nên chịu, không cách chi bắn được! Kể như... trớt hướt!
Mấy tuần sau vụ này, thủ trưởng gọi chàng vào phòng nhân viên. Thủ trưởng là một tay cựu chiến binh thời Đệ nhị Thế chiến; anh ta nghĩ rằng việc mình trông coi ba mươi thư ký lập hồ sơ chứng tỏ là mình cao hơn về mặt trí tuệ so với những kẻ dưới quyền. Cố gắng tỏ ra tử tế với Rogan, anh ta nói, “ Có lẽ công việc này hơi quá nặng đối với bạn trong lúc này; có lẽ bạn nên làm loại công việc nào đó chỉ đòi hỏi thể lực thôi; chẳng hạn như... gác thang máy. Bạn hiểu mình muốn nói gì chứ?”
Chính sự kiện là chuyện này được nói ra hoàn toàn với thiện ý – anh chàng này không có ý xỏ xiên hay mỉa mai gì Rogan cả - mới
càng làm cho Rogan tức lộn ruột! Trong tư cách một cựu chiến binh bị thương tật chàng có quyền kháng cáo việc sa thải mình. Nhưng tay trưởng phòng nhân viên khuyên Rogan đừng nên làm thế. ”Chúng tôi có thể chứng minh rằng bạn không đủ sáng để làm công việc này,” hắn ta nói với Rogan. ”Chúng tôi có bảng điểm các kỳ thi của bạn và chúng không nói được gì nhiều cho bạn. Vậy nêntôi nghĩ, nếu bạn khôn ngoan hơn một tí, có lẽ bạn nên lấy giấy cho nghỉ việc vì lý do sức khỏe. Rồi sau đó nếu bạn chịu khó đi học thêm ở các lớp bổ túc hay tại chức hay chuyên tu gì đó thì may ra trong tương lai bạn có thể làm việc... đỡ bết bát hơn!”
Rogan ngạc nhiên sửng sốt đến độ bùng nổ ra thành trận cười. Chàng lý luận rằng có lẽ một phần hồ sơ của chàng bị thất lạc hay là những người này nghĩ chàng ghi sai trên hồ sơ giấy tờ của chàng. Mà có lẽ vậy, chàng nghĩ, khi chàng thấy họ cười với chàng. Họ nghĩ là chàng đã giả mạo mọi thứ trong hồ sơ giáo dục của chàng. Rogan lại cười và bước ra khỏi phòng nhân viên, ra khỏi Sở, ra khỏi cái công việc buồn tẻ đã làm nhục chàng mà chàng lại không thể hoàn thành cho đúng mức. Chàng không bao giờ quay lại, và một tháng sau chàng nhận được giấy cho nghỉ việc qua đường bưu điện. Chàng buộc phải sống bằng khoản trợ cấp thương binh mà trước đây chàng không hề đụng đến.
Với nhiều thời gian quá “hưỡn” chẳng biết làm gì chàng bèn Thôi công đâu chuốc lấy sự đời, Tiêu khiển một vài chung lếu láo. Đoạn tống nhất sinh duy hữu tửu... Chàng thuê một căn phòng trọ gần quán nhậu bình dân Bowery và trở thành một trong vô số những tay bợm nhậu tiều tụy xác xơ suốt ngày nốc các loại rượu rẻ tiền cho đến khi say mèm hết biết càn khôn. Hai tháng sau chàng trở lại bệnh viện Cựu chiến binh như một bệnh nhân nhưng không phải vì vết thương nơi đầu. Chàng bị suy dinh dưỡng và bị suy nhược một
cách nguy hiểm đến độ một cơn cảm lạnh thông thường cũng đủ tống tiễn chàng về...phương trời khác.
Chính trong thời gian nằm viện mà chàng bất ngờ gặp lại một trong những người bạn thời thơ ấu, Philip Houke, đang nằm viện để trị chứng ung sang (ulcer). Chính Houke, hiện nay là một luật sư, đã tìm giúp cho Rogan công việc đầu tiên với máy điện toán. Chính Houke đã mang Rogan liên hệ trở lại với loài người bằng cách nhắc nhở chàng về sự ưu việt xưa kia của chàng.
Nhưng trở về quả là một con đường dài và đầy gian nan. Rogan nằm viện sáu tháng mà ba tháng đầu là để cai rượu. Còn ba tháng sau chàng trải qua những trắc nghiệm về tổn thương sọ não, cùng với những trắc nghiệm đặc biệt về mệt mỏi tinh thần. Lần đầu tiên một cuộc chẩn bệnh toàn diện và chính xác được thực hiện : Óc não của Michael Rogan vẫn còn giữ được ký tính hầu như siêu nhân và một phần năng lực sáng tạo xuất sắc. Nhưng nó không chịu nỗi việc động não lâu dài, liên tục hay sự căng thẳng kéo dài mà không bị cùn nhụt đi vì mệt mỏi. Có lẽ chàng sẽ không bao giờ có thể đắm mình trong nhiều giờ liền tập trung tư tưởng cao độ mà việc nghiên cứu sáng tạo đòi hỏi. Ngay cả những công việc đơn giản nhưng đòi hỏi nhiều giờ làm việc liên tục thì giờ đây đối với chàng cũng là chuyện... ngoài tầm tay với.
Thay vì tin này làm chàng thất vọng, Michael Rogan lại hài lòng rằng cuối cùng chàng biết chính xác mình đang đứng ở đâu. Chàng cũng thoát khỏi mặc cảm tội lỗi, vì chàng không còn phải chịu trách nhiệm với một “kho báu của nhân loại” nữa. Khi Philip Houke thu xếp cho chàng làm việc với một trong những hãng máy tính mới thành lập, Rogan thấy rằng một cách vô thức trí tuệ chàng vẫn âm thầm làm việc về những vấn đề cấu trúc máy điện toán kể từ khi chàng còn là một thư ký lập và phân loại hồ sơ ở Sở Cựu chiến binh. Nhờ thế trong vòng chưa đầy một năm chàng đã giải quyết
nhiều vấn đề cơ cấu kỹ thuật với kiến thức toán học của mình. Houke đòi hỏi một phần hùn trong hãng cho Rogan và trở thành nhà tư vấn tài chánh cho chàng. Chỉ trong mấy năm tiếp theo hãng điện toán của Rogan trở thành một trong mười hãng điện toán hàng đầu trong cả nước. Rồi hãng bán chứng khoán ra công chúng, và cổ phiếu của nó tăng gấp ba giá trị chỉ trong vòng một năm. Rogan nổi tiếng như một thiên tài trong lãnh vực điện toán và được yêu cầu tư vấn về những thủ tục hành chánh quản trị khi các Cục, Viện, Sở rời rạc được kiên cố hóa thành Bộ Quốc phòng. Chàng cũng trở thành triệu phú. Mười năm sau chiến tranh chàng là một doanh nhân thành đạt bất chấp sự kiện là chàng không thể làm việc quá một tiếng mỗi ngày.
Philip Houke lo liệu tất cả mọi công việc kinh doanh cho chàng về phương diện pháp lý và tài chánh và trở thành người bạn tốt nhất của chàng. Vợ của Houke cố gắng hướng Rogan quan tâm đến những cô bạn gái chưa chồng của mình nhưng rồi chẳng có đám nào trở nên nghiêm túc. Trí nhớ thần kỳ của chàng vẫn tiếp tục làm việc chống lại chàng. Trong những đêm không ngủ được chàng vẫn còn nghe Christine la hét nơi Tòa án Munich. Và chàng lại cảm nhận chất dính lầy nhầy ướt át nơi mông mình trong lúc bảy tên thẩm vấn nhìn chàng với cái cười đểu cáng khinh miệt. Chàng không bao giờ có thể bắt đầu một cuộc đời mới, chàng nghĩ thế, nhất là với một người đàn bà khác, lại càng không bao giờ.
*
* *
Trong những năm đó Rogan vẫn theo dõi từng vụ án tội nhân chiến tranh ở nước Đức hậu chiến. Chàng đăng ký thuê bao một dịch vụ cắt mẩu báo (newspaper clipping service) và chàng nhờ một công ty thám tử tư ở Đức gửi cho mình những tấm hình của mọi tội phạm chiến tranh bị lên án, dầu ở cấp bực nào. Có vẻ như là một
nhiệm vụ vô vọng khi muốn tìm bảy người mà tên tuổi chúng chàng chẳng biết và chắc chắn là chúng đang tìm mọi cách để ẩn mình giữa hàng trăm triệu người Âu.
Cú bẻ khóa mã thành công đầu tiên của chàng đến khi công ty thám tử tư nọ gửi cho chàng tấm hình của một viên chức thành phố người Áo trông dáng khả kính với đầu đề “Albert Moltke trắng án. Giữ lại vị trí bầu cử mặc dầu có những quan hệ Quốc xã xưa kia. ”Khuôn mặt chính là khuôn mặt của một trong bảy người mà chàng đang truy tìm.
Rogan không bao giờ tha thứ cho mình về lỗi bất cẩn trong việc truyền đi các thông điệp phát thanh vào ngày D, sự bất cẩn đã dẫn đến việc phát hiện và hủy diệt nhóm Kháng chiến bí mật của chàng. Nhưng chàng đã học được những điều bổ ích từ đó. Giờ đây chàng tiến hành công việc với sự thận trong và chính xác cao nhất. Chàng tăng khoản tiền thuê trả trước cho hãng thám tử tư ở Đức và dặn họ theo dõi sát Albert Moltke trong khoảng một năm.Đến cuối thời gian đó chàng có thêm ba tấm hình, với tên và địa chỉ, thêm ba bộ hồ sơ về những kẻ đã sát hại vợ chàng và tra tấn chàng nơi Tòa án Munich. Một người là Karl Pfann, làm trong ngành kinh doanh xuất nhập khẩu ở Hamburg. Hai người kia là anh em , Eric và Hans Freisling hiện làm chủ một cửa hàng cơ khí và một trạm xăng dầu ở Tây Berlin. Rogan quyết định rằng thời gian đã đến.
Chàng có những bước chuẩn bị thật chu đáo. Chàng dàn xếp với công ty bổ nhiệm mình làm đại diện mại vụ ở châu Âu với những thư giới thiệu cho các hãng điện toán ở Đức và Áo. Chàng không sợ bị nhận diện. Vết thương khủng khiếp và những năm tháng đau khổ tột cùng đã thay đổi ngoại hình của chàng rất nhiều ; và ngoài ra đối với chúng chàng đã chết. Theo mức độ hiểu biết của những tay thẩm vấn chàng, thì chúng đã giết chết Đại úy Michael Rogan rồi.
Rogan lên máy bay đến Vienna và dựng lên tổng hành dinh kinh doanh của chàng tại đó. Chàng lấy phòng ở Khách sạn Sacher, kêu một bữa ăn thịnh soạn, với món bánh Sachertorte nổi tiếng làm món tráng miệng và nhâm nhi rượu Brandy trong Red Bar cũng rất nổi tiếng của khách sạn. Sau đó chàng tản bộ nhàn du qua những con đường lờ mờ trong ánh hoàng hôn, nghe tiếng nhạc êm dịu của đàn cithare vẳng ra từ các quán cà-phê. Chàng tản bộ một thời gian khá lâu, cho đến khi chàng thư giãn đủ để quay về phòng khách sạn và ngủ.
Trong hai tuần tiếp theo, thông qua những người Áo thân thiện mà chàng gặp ở hai hãng điện toán, Rogan trở thành khách mời của những buổi tiệc tùng quan trọng ở Vienna. Cuối cùng, trong một cuộc dạ vũ của tòa thị chính, mà các viên chức của thành phố phải đến dự, chàng gặp Albert Moltke. Chàng ngạc nhiên rằng con người này thay đổi nhiều đến thế. Khuôn mặt hắn phì phị ra vì cuộc sống thoải mái với thực phẩm ngon lành thừa mứa. Tóc hắn ngã màu xám bạc. Tất cả bộ điệu của cơ thể hắn gợi ra cái vẻ lịch sự bề mặt của loại chính trị gia chiếu nhì, chiếu ba. Và bên cánh tay y là cô vợ dáng người thon thả, trông vẻ vui tươi, rõ ràng là trẻ hơn y nhiều và rõ ràng là đang yêu chiều y lắm lắm. Khi nhận thấy Rogan đang nhìn mình chăm chú, Moltke lịch sự cúi người xuống, như thể muốn nói,” Ồ vâng, cám ơn bạn đã bỏ phiếu cho mình. Tất nhiên là mình nhớ bạn rõ lắm, yên chí đi. Xin đến gặp mình bất cứ lúc nào nơi văn phòng mình. ”Đó là cái cúi người của một chính trị gia dày dạn.Không có gì ngạc nhiên là y đã được tha bổng lúc bị xét xử như một tội phạm chiến tranh, Rogan nghĩ. Và chàng cảm thấy đôi chút thích thú khi biết rằng chính lệnh tha bổng đi kèm tấm hình trong báo đã lên án tử Albert Moltke.
* *
Albert Moltke đã cúi chào người lạ mặc dầu đôi chân đang làm hắn đau muốn chết và hắn ao ước với tất cả tấm lòng phải chi có thể quay về nhà ngồi bên lò sưởi nhâm nhi ly cà-phê đen nóng bốc hơi thơm ngát và thưởng thức món bánh Sachertorte ngon vô địch thiên hạ. Chứ ba cái vụ tiệc tùng lễ lạc nhằm tranh thủ tình cảm cử tri kiểu này chỉ là chuyện chẳng đặng đừng, có chi mà hứng thú, nếu không muốn nói thẳng ra là... chán bỏ mẹ! Nhưng dầu sao thì Đảng cũng phải vận động quỹ bầu cử, bằng cách nào đó. Và y mang nợ những người cộng sự sau khi họ đã hậu thuẫn y hết mình trong những thời kỳ rối rắm vừa qua. Moltke cảm thấy vợ mình, Ursula, ấn người vào cánh tay hắn, và hắn lại cúi chào người lạ, mơ hồ nhận ra hẳn là một ai đó quan trọng, một người mà mình nên nhớ lại rõ ràng hơn.
Đúng thế, Đảng và Ursula yêu dấu đã đứng quanh nâng đỡ tinh thần hắn khi hắn bị lên án như một tội phạm chiến tranh Và sau khi được tha bổng thì vụ án hóa ra lại là một cơ may nhất đời của hắn. Hắn đã thắng cử tại một trong những đơn vị bầu cử địa phương, và tương lai chính trị của hắn, dầu hạn chế thôi, cũng được bảo đảm.Hạnh vận đó sẽ mang lại cho hắn một đời sống thoải mái. Thế nhưng cái ý nghĩ gây phiền não lại đến khuynh đảo tâm trí hắn như vẫn thường xảy đến: Chuyện gì sẽ xảy ra nếu như Đảng và Ursula phát hiện ra rằng những lời kết án kia là đúng? Vợ hắn sẽ còn yêu hắn không? Nàng có sẽ bỏ hắn nếu nàng biết sự thật? Không đâu, nàng không bao giờ có thể tin hắn đủ “năng lực” để phạm những tội ác ghê tởm như vậy, bất kể bằng chứng có rành rành đến thế nào. Huống chi giờ đây làm sao còn có bằng chứng hiển nhiên không thể chối cãi? Chính hắn nhiều khi cũng thấy khó tin là mình đã từng làm những chuyện như thế. Thuở ấy hắn là một con người khác – cứng rắn hơn, lạnh lùng hơn, mạnh mẽ hơn. Trong thời buổi ấy người ta phải như thế mới sống còn. Và tuy nhiên...và tuy thế...làm thế nào
mà chuyện ấy lại xảy ra. Khi hắn muốn nựng nịu hai đứa con nhỏ trong giường đôi tay hắn nhiều phen ngập ngừng khi chạm vào chúng. Đôi tay ấy không được phép chạm vào làm hoen ố sự ngây thơ vô tội như thế. Thế nhưng hội thẩm đoàn đã tha bổng hắn. Họ đã tha bổng hắn sau khi đã cân nhắc mọi bằng chứng, và hắn không thể bị xét xử lại. Hắn, Albert Moltke mãi mãi là vô tội, chiếu theo luật pháp. Và tuy thế... và tuy nhiên...
Người khách lạ đang tiến về phía hắn. Một con người cao to, mạnh mẽ, với một cái đầu có hình dáng hơi kỳ kỳ, tuy rằng không hẳn là thiếu phần đẹp trai, xét theo tiêu chí là phải...hơi quái một tí! Nhưng rồi sau đó Albert Moltke lưu ý đến bộ côm-lê cắt may rất khéo, rất điệu đàng. Không, hẳn nhiên cái anh chàng diện “kẻng” này phải là dân “ Ờ-mé-ri-keng” rồi chứ không thể nào là dân Đức. Moltke từng gặp nhiều tay loại này, kể từ sau chiến tranh, trong giao dịch kinh doanh. Hắn bèn “vun vén” một nụ cười cầu tài khá tươm tất và quay sang định giới thiệu bà vợ nhưng chị ta đã đi cách đó mấy bước và đang tán chuyện với một người khác. Và rồi tay “Mẽo” chủ động tự giới thiệu. Tên của anh ta nghe chừng như là Rogan và điều này nghe mơ hồ cũng quen quen với Moltke. ”Chúc mừng bạn thăng quan tiến chức. Và cũng chúc mừng bạn đã được trắng án trước đây.”
Moltke đáp lễ bằng một nụ cười lịch sự đủ định mức.Hắn đọc thuộc lòng bài diễn văn tiêu chuẩn của mình. ”Một hội thẩm đoàn yêu nước làm đúng phận sự của họ và đã phán quyết, thật may mắn cho tôi, đúng đắn cho một đồng bào Đức vô tội.”
Họ tán gẫu với nhau một hồi. Anh chàng Mỹ gợi ý rằng anh ta có thể vận dụng một số hỗ trợ pháp lý trong việc lập hệ thống kinh doanh máy tính ở đây. Moltke tỏ ra quan tâm. Hắn ta biết rằng tay người Mỹ thực sự muốn nói rằng anh ta muốn tránh né một số loại thuế của thành phố. Moltke biết từ kinh nghiệm quá khứ rằng
chuyện này có thể là cơ hội cho mình vớ món bở, bèn khoác tay anh bạn Mỹ và nói ân cần,” Tại sao chúng ta không ra ngoài tản bộ một tí, kiếm chút không khí mát mẻ, bạn nhỉ?” Anh chàng Mỹ tươi cười gật đầu. Thế là cá đã cắn câu. Vợ Moltke không để ý chuyện hai người ra đi.
Khi họ tản bộ qua các đường phố, anh chàng Mỹ hỏi, một cách bình thường,” Bạn không nhớ mặt mình sao?”
Moltke cười nhăn nhó và nói,” Thưa ông yêu quí, trông ông rất quen, nhưng ông thứ lỗi cho, tôi gặp nhiều người lắm. ”Hắn hơi mất kiên nhẫn; hắn muốn anh chàng Mỹ đừng có vòng vo tam quốc làm gì mà nên đi ngay vào chuyện làm ăn. Thời giờ là tiền bạc mà!
Với một chút cảm thức nhẹ về sự bất an, Moltke nhận ra rằng họ đang đi vào một con đường vắng. Thế rồi tay người Mỹ nghiêng người sát vào tai Moltke và thì thầm điều gì đó gần như làm cho tim hắn ngừng đập: ” Bạn có nhớ Ngày thứ hai hoa hồng, năm 1945? Ở Munich? Nơi Tòa án?”
Liền sau đó Moltke nhớ lại khuôn mặt; và hắn không ngạc nhiên khi tay người Mỹ nói,” Tên ta là Rogan. ”Với nỗi sợ ùa qua người y còn có cả nỗi xấu hổ ngập tràn, như thể lần đầu tiên hắn thực sự tin vào tội lỗi của mình.
Rogan nhìn thấy sự nhận ra trong đôi mắt Moltke. Chàng lái hắn ta đi sâu vào con đường hẻm vắng, cảm thấy toàn thân Moltke đang run lên , run rẩy dưới cánh tay chàng. “Ta không làm hại ngươi đâu,” chàng nói. ”Ta chỉ muốn vài thông tin về những người khác, đồng chí của ngươi đấy. Ta biết Karl Pfann và anh em nhà Freisling. Còn tên ba người kia là gì, và ta có thể tìm họ ở đâu?”
Moltke hoảng kinh.Hắn bắt đầu chạy loạng choạng xuống con đường hẻm. Rogan chạy sát bên hắn, thoải mái, như thể hai người đang chạy bộ để tập thể thao. Vượt lên phía bên trái của Moltke, Rogan rút khẩu Walther từ bao đeo ở vai ra. Vẫn tiếp tục chạy,
chàng ta lắp ống hãm thanh vào nòng súng. Chàng không cảm thấy thương hại. Tại sao lại đi thương hại một kẻ độc ác như hắn. Tội lỗi của Moltke đã ghim mảnh vào óc não chàng, ghi khắc hàng ngàn lần vào trí nhớ chàng. Chính tên Moltke này đã mĩm cười khi Christine la rú trong phòng kế bên, và hắn đã thì thầm vào tai chàng,” Thôi nào, đừng có làm anh hùng mà làm hại cô vợ tội nghiệp của bạn như thế. Bạn không muốn con của bạn được chào đời sao?” Giọng điệu nghe ra rất có tình có lý, rất thuyết phục, trong khi hắn thừa biết là Christine đã chết rồi. Moltke là kẻ đê tiện trong bọn chúng và những hoài niệm về hắn cần phải chết đi. Rogan bắn hai phát vào bên hông Moltke. Hắn ngã nhào ra trước ăn đất đầy mồm và Rogan tiếp tục chạy, ra khỏi con hẻm và đi vào đường chính. Ngày hôm sau chàng lấy máy bay đi Munich.
Ở Hamburg việc lần dấu Karl Pfann khá dễ dàng. Pfann là đứa tàn bạo nhất trong số những tên thẩm vấn nhưng theo một cách giống thú vật nên Rogan ít khinh bỉ hắn hơn là những tên khác. Pfann đã hành động theo đúng bản chất thực của hắn. Hắn là con người đơn giản, đần độn và độc ác. Rogan đã giết hắn với ít lòng thù ghét hơn là khi chàng giết Moltke. Chuyện diễn ra đúng theo kế hoạch. Nhưng lại có chuyện không diễn ra đúng theo kế hoạch đó là cuộc gặp gỡ của Rogan với cô gái Đức Rosalie, với mùi hương hoa hồng của cô và sự vô cảm lạ kỳ cùng sự ngây thơ phi luân của cô(her amoral innocence).
*
* *
Giờ đây nằm bên nàng nơi phòng khách sạn ở Hamburg, Rogan nhẹ nhàng táy máy đôi tay trên khắp người nàng. Chàng đã kể cho nàng nghe mọi chuyện, yên tâm rằng nàng sẽ không phản bội mình – hay có lẽ trong hy vọng rằng nàng sẽ, và như thế chấm dứt cuộc truy lùng sát nhân của chàng. ”Vẫn còn thích anh chứ?” chàng hỏi.
Rosalie gật đầu. Nàng cầm tay chàng rà lên vú mình. ”Hãy để em giúp anh,” nàng nói. ”Em chẳng quan tâm đến ai cả. Em chẳng bận tâm chuyện họ chết sống. Nhưng em quan tâm đến anh – chút chút thôi. Hãy mang em theo anh đến Berlin và em sẽ làm bất kỳ điều gì anh muốn em làm.”
Rogan biết là nàng chủ ý với từng lời. Chàng nhìn vào đôi mắt nàng và cảm thấy bối rối với vẻ ngây thơ vô tội mà chàng thấy nơi đó cùng với vẻ vô cảm như thể chuyện giết người và chuyện làm tình, đối với nàng, đều được phép như nhau.
Chàng quyết định “khuân vác” nàng theo. Chàng thích có nàng bên cạnh và nàng có lẽ là một hỗ trợ thực sự. Ngoài ra, dường như chẳng có chuyện gì hay chẳng có người nào mà nàng quan tâm. Và chàng sẽ không để nàng dính líu vào những cuộc hành quyết.
Ngày hôm sau chàng kéo nàng đi mua sắm ở khu phố Esplanade và khu vòm cung Baseler Hospitz. Chàng mua cho nàng hai bộ quần áo chúng làm tôn lên làn da hồng nhạt và màu xanh biếc trong đôi mắt nàng. Họ trở về khách sạn và sửa soạn va-li và sau bữa ăn tối họ bắt chuyến bay đêm đi Berlin.
..............................&................................
CHƯƠNG 4
N
hiều tháng sau khi chiến tranh chấm dứt Rogan đã được đưa lên máy bay từ bệnh viện Cựu chiến binh ở Mỹ đến tổng hành dinh tình báo Mỹ ở Berlin.Ở đó chàng đã được yêu cầu nhìn vào một số những kẻ bị tình nghi là tội phạm chiến tranh để xem có ai trong bọn chúng là những kẻ từng tra tấn chàng nơi Tòa án Munich. Vụ việc của chàng giờ đây là hồ sơ mang số A 23,486 trong các văn kiện của Ủy ban Tội ác Chiến tranh Đồng minh. Trong số những người tình nghi không có ai là những người chàng còn nhớ rõ đến thế. Chàng không thể nhận dạng dầu chỉ một người nào, vậy nên chàng lại bay về bệnh viện Cựu chiến binh. Nhưng chàng đã bỏ ra mấy ngày lang thang quanh thành phố và đống đổ nát của vô số căn nhà đem lại cho chàng một cảm giác thỏa mãn hoang dại.
Kể từ đó thành phố lớn kia đã thay đổi qua năm tháng. Chính quyền Tây Bá linh đã bỏ kế hoạch dọn sạch bảy mươi triệu tấn gạch đá đổ nát mà những oanh tạc cơ Đồng minh đã tạo ra trong chiến tranh. Họ đã đẩy gạch đá đổ nát thành những ngọn đồi nhân tạo nhỏ rồi trồng hoa và những cây bụi nhỏ trên đó. Họ đã dùng gạch đá đổ nát để xây nền cho những căn nhà chung cư mới, được xây dựng theo phong cách tận dụng mặt bằng hiện đại nhất. Berlin bây giờ là một khu bàn cờ rối rắm khổng lồ bằng thép và đá và ban đêm nó phô bày những hang ổ trụy lạc đồi bại nhất đẻ ra từ châu Âu hậu chiến điêu tàn.
Cùng với Rosalie, Rogan lấy phòng ở Khách sạn Kempinski ở phố Fasanenstrasse, có lẽ là khách sạn thanh lịch nhất ở Tây Đức thời đó. Sau đó chàng thực hiện vài cuộc gọi đến mấy hãng mà công ty chàng có giao dịch làm ăn và chàng thu xếp một cuộc hẹn với hãng thám tử tư đã ăn lương của chàng suốt năm năm qua.
Để cùng nhau ăn buổi trưa đầu tiên ở Berlin, chàng dẫn Rosalie đến nhà hàng Ritz, nơi phục vụ những món Đông phương ngon nhất. Chàng thích thú nhận ra là Rosalie ăn uống một lượng thực phẩm khổng lồ với sự khoái khẩu cao độ, không hề e lệ! Họ kêu món xúp yến sào, rồi đến một món hỗn hợp gồm tôm hùm, thịt đùi lợn, bò thăn, tiếp theo là sườn nướng kiểu barbecue và gà hầm đậu tuyết. Nàng dùng thử món tôm càng xanh với xốt đậu đen của chàng và gật đầu “duyệt”. Tất cả dùng kèm với cơm chiên và trà gừng thơm lừng. Một bữa trưa có lẽ đủ cho cả Gargantua và Pantagruel thế nhưng mỗi một mình nàng Rosalie vẫn chén sạch sành sanh, không chút cố gắng! Bởi nàng vừa mới được khai quang điểm nhãn cho cái chân lý tối đơn giản này là: Trên thế giới này còn có vô số món ăn khác ngoài bánh mì, thịt và khoai tây. Rogan tươi cười nhìn nàng đang thỏa mãn cơn khoái khẩu, nhìn nàng chén sạch những gì còn lại trên các đĩa mạ bạc.
Buổi chiều họ đi shopping dọc theo khu phố Kurfürstendamm mà những cửa hàng sáng choang mờ dần đi và trở nên những cửa hàng trống trơn khi đại lộ tiến gần đến Bức tường Berlin. Rogan mua cho Rosalie một đồng hồ đeo tay đắt tiền bằng vàng với các kim và số bằng đá quí. Rosalie cười rạng rỡ với hạnh phúc chưa từng dám nằm mơ và Rogan nghĩ một cách khôi hài rằng nếu như con đường đi đến trái tim người đàn ông thông qua cái bao tử của anh ta, thì con đường đi đến trái tim người đàn bà được lát bằng quà tặng. Nhưng khi nàng nghiêng người để hôn chàng, khi chàng cảm nhận đôi môi mềm run rẩy với ham hố của nàng dính vào môi chàng thì ý nghĩ khinh bạc của chàng liền tan biến đi.
Chiều tối hôm đó chàng dẫn nàng đến Eldorado Club, nơi các phục vụ nam ăn mặc như con gái còn các cô gái lại cải nam trang. Thế rồi trên sân khấu Cherchelle Femme nơi đó các cô gái đẹp khoan thai cỡi truồng như thể họ đang ở phòng ngủ riêng của mình
với những tư thế vặn vẹo quằn quại và những trò cào gãi mân mê nhìn thấy muốn phát ngứa! Cuối cùng các cô nường nhảy tưng tưng trước các tấm gương khổng lồ chỉ mang những cái ống đen dài và những chiếc mũ đỏ trông thật tếu trên đầu. Rogan và Rosalie kết thúc buổi tối ở nhà hàng Badewanne trên phố Nürnburg. Họ uống champagne và ăn những khoanh xúc xích nhỏ, dày, màu trắng đặt trên những đĩa lớn, dùng các ngón tay bốc thức ăn rồi chùi tay vào khăn bàn, như mọi thực khách khác.
Vào lúc họ quay lại phòng khách sạn, Rogan thèm chuyện “ấy” đến ...phát ốm! Chàng muốn đánh quả ngay lập tức, nhưng Rosalie cười cợt, đẩy chàng ra xa và biến đi vào phòng ngủ. Hơi bị hẫng, Rogan tháo tung áo jacket và cỡi cà-vạt ra và bắt đầu pha một ly cốc-tai ở quầy bar nhỏ vốn là một phần của mỗi dãy phòng. Mấy phút sau chàng nghe Rosalie gọi, “Michael” bằng cái giọng dịu dàng ngọt ngào hầu như trẻ thơ. Chàng quay sang phía nàng.
Trên cái đầu tóc vàng của nàng là chiếc mũ mới mà chàng đã mua cho nàng ở Hamburg, với một dãi ruy-băng màu xanh lá cây xinh xắn. Trên đôi chân nàng là cặp vớ lưới màu đen dài phủ gần khắp đùi nàng. Ở giữa chiếc mũ xanh lá cây và đôi vớ màu đen ấy là Rosalie bằng xương bằng thịt. Nàng nhẩn nha, nhởn nhơ bước đến với chàng, mĩm cười nụ cười rạng rỡ hạnh phúc của người nữ đang động dục tưng bừng.
Rogan vươn tay ra chộp nàng. Nàng lướt đi né cú chộp, và chàng theo nàng vào phòng ngủ, vội vàng tuột hết mọi thứ còn vướng víu trên người xuống đường đi, chỉ trừ những gì vốn là “thành phần bất khả phân” của thực thể sở hữu! Sau đó đôi lứa lăn lộn trên chiếc giường kích cỡ của vua (king-size bed) và chàng có thể ngửi thấy mùi hương hoa hồng tỏa ra từ thân thể nàng, cảm nhận làn da mịn như nhung trong lúc họ cùng nhau chìm vào cuộc đảo điên loan phụng nó xóa mờ những tiếng động xô bồ trong đêm Berlin và cả
những tiếng kêu thở than của những con thú bị nhốt ở Tiergarten ngay dưới các cửa sổ phòng họ, và cả những hình tượng ma quái của việc giết người và báo thù vẫn ám ảnh óc não dễ tổn thương của Rogan.
...............................&...............................
CHƯƠNG 5
R
ogan muốn cuộc tiếp xúc đầu tiên giữa mình với anh em nhà Freisling diễn ra bình thường. Ngày hôm sau chàng thuê một chiếc Mercedes lái đến trạm xăng dầu của hai anh em nhà họ, và nhờ kiểm tra xe. Chàng được Hans Freisling tiếp, và khi Rogan đi đến văn phòng để trả tiền hóa đơn thì Eric ở đó, trong chiếc ghế da, đang xem xét sổ sách về xuất nhập xăng dầu.
Hai anh em trông có vẻ già trước tuổi và ngoại hình chẳng có gì hấp dẫn. Tuổi tác đã siết lại những cái miệng trễ xuống, đầy vẻ ranh mãnh, láu cá của chúng. Chúng có vẻ lịch lãm hơn trong cách ăn mặc và ít dung tục hơn trong nói năng. Nhưng chúng chẳng hề thay đổi trong tính lọc lừa bịp bợm, mặc dầu bây giờ chỉ là những trò ăn cắp vặt chứ không còn là chuyện giết người như xưa kia.
Chiếc Mercedes ngày hôm trước đã được kiểm tra kỹ bởi đại lí cho thuê xe và ở trong tình trạng hoàn hảo. Nhưng Hans Freisling vẫn tính chàng phải trả hai mươi marks cho vài chỗ chỉnh sửa cơ khí nhỏ và bảo chàng là cái đai quạt của xe cần được thay. Rogan mĩm cười và yêu cầu hắn thay. Trong khi chuyện ấy đang được thực hiện thì chàng tán gẫu với Eric và nêu lên rằng chàng đang làm trong ngành sản xuất và kinh doanh máy tính và có lẽ sẽ còn lưu lại Berlin một thời gian khá dài. Chàng làm bộ không nhìn thấy vẻ hứng thú tham lam nhưng kín đáo trên khuôn mặt Eric Freisling. Khi Hans đi vào và bảo chàng rằng cái đai quạt đã được thay, Rogan cho hắn khoản tiền típ hậu hĩ và lái đi xa. Sau khi đỗ chiếc Maecedes phía trước khách sạn chàng kiểm tra bên dưới mui xe. Cái đai quạt đâu có được thay.
Rogan ghi nhớ việc viếng trạm xăng dầu cứ vài ba ngày một lần bằng chiếc Mercedes. Hai tên Freisling, ngoài việc gian lận chàng về
xăng dầu, lại tỏ ra tình hữu hảo khác thường. Hình như chúng còn nhắm đến khía cạnh khác để tác động lên chàng, Rogan biết thế, nhưng cũng thắc mắc không biết là góc độ gì. Chắc chắn chúng đã “chấm” chàng làm một nạn nhân cho sự lừa bịp của bọn chúng. Nhưng kẻ cắp lại gặp bà già, chàng cũng đã lên kế hoạch sẵn sàng cho chúng đây. Trước khi khử chúng, chàng sẽ tìm cách moi ra từ chúng lý lịch nhân thân và mọi chi tiết liên quan đến ba kẻ kia, đặc biệt là tay trưởng ban thẩm vấn. Trong khi đó chàng không muốn tỏ ra lo lắng và làm chúng kinh động. Chàng vung tiền ra chung quanh làm mồi nhử và chờ cho anh em nhà Freisling di động quân cờ của chúng rồi tùy cơ ứng biến.
Vào kỳ cuối tuần tiếp theo đó phòng tiếp tân khách sạn gọi lên, khá sớm trong buổi chiều Chủ nhật, để thông báo cho chàng rằng có hai người đàn ông muốn lên phòng chàng. Rogan cười nháy mắt với Rosalie. Chắc là hai anh em nhà này đã cắn câu. Nhưng, ngạc nhiên chưa? – chàng đã ...bé cái nhầm! Đây là hai người khách lạ, hoàn toàn ngoài dự kiến của chàng. Hay đúng hơn một người là khách lạ. Còn anh chàng cao hơn trong hai người thì Rogan hầu như nhận ra ngay là Arthur Bailey, chàng điệp viên tình báo Mẽo từng thẩm vấn Rogan về vụ chàng bị “hành hình” và yêu cầu chàng nhận dạng những kẻ tình nghi ở Berlin hơn chín năm trước đây. Bailey “ngâm kiếu” Rogan bằng đôi mắt lờ đờ thụ động trong lúc chìa ra mẩu lý lịch nhân thân của chàng.
“Tôi vừa mới coi qua hồ sơ của ông, ông Rogan à,” Bailey nói. ”Trông ông không còn giống với những tấm hình của ông trước đây nữa. Tôi chẳng nhận ra ông tí nào khi lần đầu gặp lại ông.” “Lúc nào vậy?” Rogan hỏi.
“Ở trạm xăng dầu Freisling tuần trước đây,” Bailey nói. Đấy là một anh chàng gầy, cao lêu nghêu, xuất thân vùng Trung tây Hoa kỳ, giọng nói lè nhè kiểu dân Texas, đặc trưng Mẽo không thể nhầm lẫn,
từ cách phát âm cho đến quần áo và điệu bộ. Rogan thắc mắc tại sao mình đã không nhận ra chàng ta ở trạm xăng dầu. Bailey cười kiểu “thấy thương liền” với chàng. ”Chúng tôi nghĩ hai anh em Freisling là điệp viên của Đông Đức.mang vỏ bọc doanh nhân. Bọn chúng là những tên điếm thúi, giỏi xoay xở lá mặt lá trái lắm. Vậy nên khi thấy bạn chường mặt ra nơi đó và tỏ vẻ thân thiện với bọn chúng, thì bọn này thấy cần phải kiểm định lại bạn. Gọi về Washington, kiểm tra visa của bạn và những thủ tục đại khái như rứa. Thế rồi mình ngồi xuống và đọc hồ sơ của bạn. Một điều gì khác bỗng nhá lên, và mình lật lại những hồ sơ về các đoạn cắt ra từ báo chí ở Đức. Và cuối cùng mình hình dung ra tất cả. Bạn đã tìm cách lần theo dấu bảy tên tội đồ ở Munich và hiện nay bạn đang quay lại để làm cho óc não chúng cùng với ý thức chúng “bùng vỡ. ”Bạn đã “xử” tên Moltke ở Vienna và Pfann ở Hamburg. Anh em nhà Freisling xếp hàng kế tiếp trên danh sách tử thần của bạn. Mình đoán mò thế thôi, nhưng có đúng không nào?”
“Tôi đến đây để bán máy điện toán,” Rogan nói một cách thận trọng để ... né đẹp. “Tất cả là như thế.”
Bailey nhún vai. “Bạn làm gì thì làm, tôi chẳng mắc mớ gì phải bận tâm; tôi đâu có trách nhiệm bảo vệ luật pháp, thi hành công lý, ở cái xứ quái quỉ này. Nhưng tôi nói điều này cho bạn rõ: Hãy dời tay bạn khỏi anh em nhà Freisling. Tôi đã mất rất nhiều thời gian để thu thập nguồn hàng quí giá về bọn chúng và khi tôi ra tay tôi sẽ tóm thâu nguyên cả một mạng lưới gián điệp Đông Đức. Tôi không muốn bạn đốn ngã chúng và khiến tôi chẳng còn biết đường nào mà lần.”
Bỗng nhiên câu chuyện trở nên sáng tỏ với Rogan về cái “khuỷnh” tại sao anh em nhà Freisling tỏ ra hữu hảo với chàng đến thế. ”Bọn chúng có theo dõi các dữ liệu của tôi về các máy điện toán mới?” chàng hỏi Bailey.
“Tôi sẽ không ngạc nhiên nếu chuyện ấy xảy ra,” Bailey trả lời. ”Máy điện toán - những loại mới – nằm trong danh sách cấm vận đối với những nước Đỏ (Red countries).
Nhưng tôi không quan tâm về chuyện đó; tôi biết bạn muốn “thân tặng” chúng cái gì. Và tôi long trọng cảnh cáo bạn: Nếu bạn làm thế là bạn biến tôi thành kẻ thù của bạn đấy.”
Rogan lạnh lùng trừng mắt nhìn anh chàng. ”Tôi chẳng biết anh bạn đang nói cái quái gì, nhưng xin để tôi cho anh bạn lời khuyên này nhé: Đừng có mà ngáng đường tôi, nếu không tôi sẽ chạy thẳng qua người bạn đấy. Và bạn sẽ chẳng làm quái gì tôi được. Tôi có những kênh liên lạc trực tiếp đến Lầu Năm Góc. Những máy điện toán mới của tôi còn quan trọng với họ hơn bất kỳ cái thứ nhảm nhí gì mà bạn có thể moi ra từ một bộ máy gián điệp nhị trùng.
Bailey nhìn chàng có vẻ trầm tư rồi nói, “OK, chúng tôi không thể đụng chạm gì đến bạn nhưng cô bạn gái thì sao nhỉ?” Chàng ta hất đầu về phía Rosalie đang ngồi trên chiếc sofa. ”Chắc chắn là chúng tôi có thể làm phiền cô ta được đấy. Thật ra là, chỉ cần một cú phôn và bạn sẽ chẳng bao giờ còn thấy lại người yêu dấu ơi nữa đâu.”
“Bạn đang nói cái quái gì vậy?”
Khuôn mặt nhìn nghiêng, góc cạnh của Bailey nhuốm vẻ biểu cảm của ngạc nhiên chế diễu. ”Nàng không nói cho bạn biết sao? Sáu tháng trước nàng ta trốn khỏi bệnh viện tâm thần ở Nordsee. Vào năm 1950 nàng ta bị bệnh tinh thần phân liệt. Những người hữu trách vẫn còn truy tìm nàng, không tích cực lắm, nhưng vẫn... Chỉ một cú phôn thôi và cảnh sát sẽ tóm lấy nàng. Rất mong anh bạn nhớ cho điều ấy. ”Bailey ngừng lời một lác, rồi chậm rãi nói,” Khi nào chúng tôi không cần hai tên đó nữa, tôi sẽ nói bạn biết. Tại sao bạn không tạm thời nhảy qua chúng và truy lùng những tên khác vẫn còn lọt sổ?”
“Bởi vì tôi không biết ba tên kia là ai. Tôi đang nhờ vào anh em Freisling để lần dò thông tin.”
Bailey lắc đầu. ”Chúng sẽ chẳng bao giờ tiết lộ đâu trừ phi bạn trả giá xứng đáng, và chúng là những kẻ mặc cả cứng cựa lắm. Tốt hơn bạn nên để chuyện đó cho chúng tôi.”
“Không,” Rogan nói. ”Tôi có một phương pháp rất hiệu quả. Chắc chắn tôi sẽ làm cho chúng nói ra. Sau đó tôi sẽ để chúng lại cho bạn.”
“Đừng nói dối , thưa ông Rogan thân mến. Tôi biết ông sẽ để lại chúng như thế nào. ”Anh ta chìa tay ra để bắt tay Rogan. ”Tôi chỉ làm bổn phận chính thức của tôi, nhưng sau khi đọc hồ sơ của anh tôi phải cầu chúc cho anh may mắn. Anh hãy trông chừng cẩn thận đám anh em nhà Freisling đó; chúng là một cặp con hoang rất xảo quyệt và nham hiểm.”
Khi Bailey và đối tác yên lặng của anh ta đã khép cửa lại phía sau họ Rogan quay sang Rosalie. ”Những điều họ nói về em có đúng không?”
Rosalie ngồi thẳng người lên, hai tay khép lại trong lòng. Đôi mắt nàng nhìn trực chỉ vào Rogan. ”Đúng,” nàng nói.
Chiều tối hôm đó họ không đi ra ngoài. Rogan kêu thức ăn và rượu champagne lên phòng mình, và sau khi dùng bữa xong họ lên giường. Rosalie đong đưa cái đầu tóc vàng của mình trong vòng tay chàng và rít mấy hơi khói từ điếu thuốc của chàng. ”Em sẽ kể mọi chuyện cho anh nghe nhé?” nàng ướm lời.
“Nếu em muốn thế,” Rogan nói. ”Thực sự cũng chẳng có gì quan trọng, em biết thế - chuyện em bị bệnh.”
“Bây giờ em ổn rồi,” nàng nói.
Rogan hôn nàng dịu dàng. ”Anh biết.”
“Em muốn kể anh nghe,” nàng nói. ”Có thể sau đó anh sẽ không còn yêu em, nhưng em vẫn muốn nói sự thật cho anh.” “Không thành vấn đề,” Rogan nhấn mạnh. ”Thực sự là không.” Rosalie vươn người ra và tắt ngọn đèn để bàn kế bên giường. Nàng thấy thoải mái hơn khi nói trong bóng tối.
.........................&.....................................
CHƯƠNG 6
T
rong cái ngày khủng khiếp vào mùa xuân năm 1945 ấy nàng đã khóc ngất đến lịm người đi. Đó là ngày tận thế khi nàng còn là cô gái mười bốn tuổi lòng vương đầy mộng mơ. Con Khủng Long Chiến Tranh đã cuốn nàng đi xa...
Sáng hôm đó nàng rời nhà sớm để ra đồng làm việc trên mảnh đất vườn của gia đình ở vùng ngoại ô thành phố quê nhà – thị xã Bublingshausen, bang Hesse. Sau đó, khi cô bé đang đào xới lớp đất mùn xẫm màu thì một cái bóng lớn phủ trùm xuống mặt đất. Cô ngước mắt lên và thấy cả một phi đội chiên đấu cơ đông đảo che rợp cả mặt trời và cô bé nghe tiếng sấm rền từ những quả bom thả xuống trên những sản phẩm bằng kính của cơ xưởng Wetzlar. Thế rồi những quả bom tràn ra như nước tràn khỏi ly, loang ra đến ngôi làng hiền hòa của nàng, vẫn còn mộc mạc như một làng quê thời Trung cổ. Cô bé hãi hùng tột độ, vùi mặt mình vào lớp đất xốp đầy sâu bọ trong khi đất rung lên dữ dội. Khi bầu trời lặng dần tiếng sấm rền vang và cái bóng che khuất mặt trời biến đi, cô bé quay trở về khu trung tâm Bublingshausen.
Nơi đó đang bốc cháy. Những căn nhà chuyển màu bánh mật, giống như những món đố chơi bị đốt cháy bởi bàn tay một đứa trẻ nghịch ngợm, đang tan ra thành những đống tro tàn. Rosalie chạy xuống những đường phố được trồng hoa mà nàng đã biết từ thuở bé đến giờ, len lỏi tìm lối đi qua những đống đổ nát vẫn còn âm ỉ cháy. Chắc là một giấc mộng thôi, cô bé nghĩ; làm thế nào mà tất cả những căn nhà mà cô từng biết từ thuở bé thơ lại biến đi nhanh chóng đến thế?
Và rồi cô bé quẹo vào con đường đưa về nhà mình ở Hintergasse, và cô thấy một dãy phòng trơ trụi kế tiếp nhau. Và
giống như ma thuật khi cô có thể thấy những căn nhà của láng giềng không có tường che chắn nào – những phòng ngủ, những phòng ăn, tất cả dựng lên trước mặt cô như một vở kịch đang diễn ra trên sân khấu. Rồi phòng ngủ của mẹ và nhà bếp mà cô đã quen thuộc suốt mười bốn năm của đời mình.
Rosalie tiến bước về phía lối vào nhưng lối đi bị phong tỏa bởi một đống đố nát lớn như một ngọn đồi. Thò ra bên ngoài đống gạch ngói bị nghiền vụn là đôi chân mang ủng màu nâu với hai ống chân của bố cô. Cô thấy những thi thể khác bị bụi đỏ và trắng phủ lên; và rồi cô thấy một cánh tay đơn độc chỉ lên trời trong cơn hấp hối lặng lẽ, trên một ngón tay cháy xám có chiếc nhẫn vàng là chiếc nhẫn cưới của mẹ nàng.
Đầu óc choáng váng, gan ruột rối bời, Rosalie gục người xuống đống đổ nát. Cô không cảm thấy đau đớn buồn phiền mà chỉ điếng người chết lặng. Nhiều giờ trôi qua. Cát bụi bắt đầu đổ xuống khi cô nghe tiếng ầm ầm, đùng đùng của sắt thép đập xuống trên đá đang vỡ vụn tan tành. Nhìn lên cô thấy một hàng dài xe tăng Mỹ đang rồng rắn chạy qua nơi mới mấy giờ trước đây là thị xã Bublingshausen. Chúng chạy qua cái thị xã hoang tàn, im ắng. Sau đó một xe tải nhỏ của quân đội với mái che bằng vải bạt chạy qua. Bỗng chiếc xe dừng lại và một chàng lính Mỹ trẻ nhảy ra từ chỗ ngồi của lái xe. Anh chàng tóc vàng và mặt mày tươi tỉnh. Chàng ta đứng phía bên trên nàng và nói bằng một thứ tiếng Đức ba rọi lam nham,” Này, Liebchen (Bé cưng ơi), muốn đi theo bọn anh không?”
Vì không có việc gì khác để làm và vì mọi người nàng quen biết đều đã chết, và bởi vì khu vườn mà nàng vừa trồng trọt sáng hôm đó sẽ không cho hoa quả nào trong nhiều tháng nữa, Rosalie chỉ còn nước đi theo chàng lính Mỹ trong chiếc xe tải có mái che kia.
Họ chạy xe cho đến tối. Rồi anh chàng lính tóc vàng bế nàng về phía sau chiếc xe tải, đặt nàng nằm xuống trên một đống chăn của
quân đội. Chàng ta quì gối xuống bên nàng. Chàng ta mở một cái hộp màu xanh sáng ra, lấy đưa cho nàng một thỏi phô-mai tròn cứng và ít kẹo sô-cô-la. Rồi chàng ta nằm kế bên nàng.
Người chàng ta ấm và Rosalie biết rằng bao lâu mà nàng còn cảm thấy hơi ấm đó thì nàng sẽ không bao giờ chết, không bao giờ nằm bên dưới những đống gạch ngói cháy âm ỉ nơi cha mẹ nàng hiện đang nằm. Khi người lính trẻ ôm sát nàng và nàng cảm nhận cây cột cứng bằng thịt áp vào giữa hai đùi nàng, nàng để mặc cho chàng ta muốn làm gì thì làm. Cuối cùng chàng ta để nàng nằm túm tụm giữa đống chăn màn đó và chàng ta đi ra phía trước và tiếp tục lái xe đi.
Trong buổi tối xe tải dừng và những người lính khác chui vào phía sau xe tải, nằm lên đống chăn màn với nàng. Nàng làm bộ ngủ và cũng để cho họ làm điều họ thèm muốn. Thôi thì, thấy các anh thèm quá em gái cũng mở lượng hải hà, “ủng hộ” mỗi anh một tí, Lẳng lơ thì cũng chẳng mòn, Chính chuyên cũng chẳng sơn son để thờ! Thời buổi chiến tranh loạn lạc, mạng người còn chẳng ra cái cóc rác gì, huống hồ là danh giá hão! Sáng hôm sau xe tiếp tục lăn bánh và dừng lại nơi trung tâm của một thành phố lớn đã bị tàn phá tan hoang.
Không khí se sắt hơn và lạnh hơn. Rosalie nhận ra khí hậu ẩm ướt của phương Bắc, nhưng mặc dầu nàng đã thường đọc về Bremen trong những sách giáo khoa nàng vẫn không nhận ra vùng đất hoang vu với những đổ nát điêu tàn vì bom đạn này lại là cái thành phố thương mại nổi danh mới chỉ trước đây không lâu.
Chàng lính tóc vàng giúp nàng ra khỏi chiếc xe tải và đi vào một tòa nhà lớn mà tầng trệt vẫn còn nguyên vẹn. Chàng ta dắt nàng vào một phòng ăn rộng lớn đầy những đồ đạc dụng cụ nhà binh, có một lò sưởi đen ngòm với đống lửa đang rực lên phừng phừng.Trong góc phòng là một chiếc giường với những chăn nệm
màu nâu. Anh lính tóc vàng dắt nàng vào giường và bảo nàng nằm lên đó. ”Tên anh là Roy,” chàng ta tự giới thiệu. Rồi sau đó chàng hạ thấp người đè xuống chàng.
Rosalie trải qua ba tuần tiếp theo trong chiếc giường đó. Roy dùng những tấm chăn nệm làm màn che để góc đó trở thành một căn buồng riêng. Ở đó Rosalie tiếp nhận cuộc diễu hành vô tận những “ người tình không chân dung” liên tục thay nhau” đi vào kiều diễm của thân em.” Nàng chẳng lấy làm điều. Nàng vẫn còn sống ở một nơi ấm áp, không bị đói lạnh bên đống hoang tàn giữa trời đất bơ vơ. Thế là tốt rồi. Còn chuyện bánh sáp đi thì phải có bánh qui lại cũng là hợp lẽ công bằng thôi.
Ở phía bên kia của bức màn bằng chăn nệm nàng có thể nghe rất nhiều giọng đàn ông đang cười hí hố; nàng có thể nghe tiếng vật các quân bài và tiếng leng keng của ly cốc chạm nhau. Khi một chiến sĩ rời trận địa và chiến sĩ khác liền thế chân để tiếp tục cuộc xa luân chiến liên miên, nàng luôn luôn đón chào người mới bằng một nụ cười tươi và đôi vòng tay rộng mở với vô lượng từ ái! Có anh còn đi vòng quanh huýt sáo để tỏ lòng ngưỡng mộ nữa chứ! Bởi ở tuổi mười bốn nàng đã nở rộ chín muồi thành đàn bà hẳn hoi, đầy đủ mọi thứ các cái, chẳng hề thua chị kém em ở cái “khuỷnh” nào!
Các anh chiến sĩ đối xử với nàng như đối với một bà hoàng. Họ mang đến cho nàng các đĩa đựng thức ăn đầy vun lên, những loại đồ ăn thức uống lạ miệng mà ngay cả trước chiến tranh nàng cũng chưa từng thưởng thức qua. Lương thực dường như đốt nóng xác thịt nàng với dục vọng sục sôi réo gọi. Có lần anh chàng Roy, người đã đón nàng lên chuyến xe định mệnh, nói với giọng hơi áy náy,” Này cô bé, cưng có muốn ngủ đôi chút không? Anh sẽ xua mọi người kia ra, để yên cho em ngủ. ”Nhưng nàng lắc đầu. Bởi vì bao lâu mà những người tình không chân dung còn đi qua bức màn chăn nệm kia thì nàng còn có thể tin đó chỉ là một giấc mơ – những
thanh củi da thịt kia, đôi chân thò ra ngoài đống đổ nát của bố nàng, bàn tay với chiếc nhẫn cưới chỉa lên trời của mẹ nàng. Tất cả chỉ là giấc mộng, không bao giờ là hiện thực.
Nhưng một ngày kia có những người lính khác đến, súng ngắn đeo bên hông, mũ trắng ở trên đầu. Họ bảo nàng mặc quần áo vào rồi đưa nàng đến một xe tải chất đầy những cô gái trẻ khác, có cô cười đùa, có cô khóc lóc. Rosalie hẳn là đã ngất đi trong chiếc xe tải đó bởi vì điều tiếp theo mà nàng biết là nàng đang nằm trong một chiếc giường bệnh viện. Rất lờ mờ và từ khoảng xa nàng thấy một bác sĩ nhìn nàng chăm chú. Ông ta mặc áo choàng trắng nhưng bên dưới là bộ đồng phục của quân đội Mỹ.
Nằm trên chiếc giường trắng lạnh nàng nghe vị bác sĩ nói,” Vậy ra đây là cô bé có đủ mọi chuyện, kể cả chuyện có bầu. Chúng ta phải trục cái thai ấy cho cô bé. Bao nhiêu là thuốc kháng sinh và cơn sốt cao đã giết chết thai nhi rồi. Một cô bé xinh đẹp như thế. Kể cũng tội thật.”
Rosalie cười. Nàng thấy mình đang mơ màng bên khu vườn nhỏ nhà mình ở thị trấn Bublingshausen, chờ về nhà với bố mẹ. Có lẽ sẽ có một bức thư từ anh nàng đang chiến đấu ở phía Đông chống lại nước Nga. Nhưng giấc mơ của nàng kéo dài thêm mãi không chấm dứt. Giờ đây nàng phát hoảng, giấc mơ trở nên quá kinh khiếp. Nàng bắt đầu khóc và cuối cùng nàng thực sự tỉnh dậy...
Hai bác sĩ đứng bên cạnh chiếc giường bệnh viện của nàng; một người Đức, một người Mỹ. Tay người Mỹ cười. ”Cô gái trẻ, vậy là cô đã trở về với thực tại, với chúng tôi.
Giấc mơ kia khép lại rồi. Bây giờ cô nói chuyện được chứ?” Rosalie gật đầu...
Ông bác sĩ Mỹ nói,” Cô có biết là cô đã đẩy năm mươi người lính Mỹ vào bệnh viện với bệnh phong tình? Cô gây ra tổn hại hơn cả
một đạo quân Đức. Này- cô có từng chung chạ với những người lính ở nơi nào khác nữa không?”
Ông bác sĩ Đức nghiêng người qua để dịch lại. Rosalie chống người lên trên một tay, tấm chăn che sơ sài bộ ngực nàng. Cô hỏi ông bác sĩ bằng giọng nghiêm trọng,” Vậy là không phải một giấc mơ?” Cô thấy cái nhìn ngơ ngác của ông. Cô bắt đầu khóc. ”Cháu muốn về nhà với mẹ cháu. Cháu muốn về nhà cháu ở Bublingshausen.”
Bốn ngày sau cô được đưa đến bệnh viện tâm thần ở Nordsee. * *
Trong bóng tối của căn phòng khách sạn ở Berlin, Rogan kéo nàng sát vào người mình. Bây giờ chàng hiểu vẻ vô cảm nơi nàng, cái vẻ thiếu bất kỳ giá trị đạo đức nào nơi nàng. ”“Bây giờ em ổn chứ ?” chàng hỏi.
“Vâng,” nàng nhỏ nhẹ đáp. ”Bây giờ thì em ổn rồi.”
CHƯƠNG 7
R
ogan lái chiếc Mercedes đến trạm xăng dầu của anh em Freislings ngày hôm sau và yêu cầu chúng làm vài chỉnh sửa nơi thân xe. Đặc biệt chàng muốn cái thân xe to rộng ở phía sau được làm thành kín khí. Trong khi công việc được thực hiện chàng trở nên rất thân thiết với hai anh em chúng, kể với chúng về việc sản xuất, kinh doanh máy điện toán và việc công ty chàng bấy lâu nay vẫn đang tìm kiếm cơ hội để bán những ý tưởng của họ cho các quốc gia bên kia bức màn sắt. ”Một cách hợp pháp, tất nhiên rồi, chỉ theo cách hợp pháp thôi. Rogan nói theo một giọng điệu ỡm ờ, nó mặc hàm rằng chàng chỉ nói thế theo nghi thức thôi chứ chàng vẫn sẵn lòng chào đón một thương vụ tuy bất hợp pháp nhưng có lợi.
Hai anh em nhà chúng cười một cách giảo quyệt, ranh ma. Về chuyện làm ăn móc ngoặc thì chúng “ rành sáu câu” lắm. Chúng hỏi chàng sát sườn hơn về công việc. Chúng mớm ý xem chàng có hứng thú làm một cuộc tham quan du lịch đến Đông Bá linh thăm công ty mẹ của chúng hay không. Rogan lộ vẻ mừng rỡ. ”Tất nhiên rồi,” chàng ta nói một cách hào hứng ra mặt và hối thúc chúng cho một cuộc hẹn đặc biệt. Nhưng chúng mĩm cười và nói,” Langsam, langsam. Cứ nhẩn nha đã.Từ từ thôi. Không nên vội.”
Nhiều lần chúng từng thấy người đẹp Rosalie bên cạnh chàng và chúng thèm rõ dãi cái trái táo sex trông quá bắt mắt kia. Có lần khi Rogan đi vào văn phòng để trả tiền hóa đơn và khi trở ra chàng thấy Eric Freisling, với cái đầu chui vào bên trong chiếc Mercedes đang nói chuyện sôi nổi hào hứng với Rosalie. Khi lái xe đi khỏi nơi đó Rogan hỏi Rosalie,” Hắn nói gì với em vậy?”
Rosalie trả lời tỉnh queo, ”Hắn muốn em ngủ với hắn và làm gián điệp theo dõi anh cho hắn.”
Rogan chẳng nói gì. Khi chàng đỗ xe lại phía trước khách sạn Rosalie hỏi, ”Đứa nói chuyện với em tên là gì vậy?”
“Eric,” Rogan đáp.
Rosalie cười ngọt ngào với chàng, ”Khi nào anh giết bọn chúng, hãy để em giúp anh giết Eric nhe.”
Ngày hôm sau Rogan bận rộn với việc tự mình thực hiện một số chỉnh sửa trên chiếc Mercedes cho phù hợp với “yêu cầu công tác” của riêng mình. Chàng dành phần còn lại của tuần lễ lái xe chạy vòng vòng Berlin để nghĩ ra những kế hoạch và cân nhắc xem kế hoạch nào là khả thi nhất và hoàn hảo nhất. Bằng cách nào chàng khiến cho anh em Freisling tiết lộ cho chàng tên và chỗ ở hiện nay của ba tên còn lại. Một ngày nọ tình cờ chàng lái xe qua một khu vực đỗ xe rộng lớn của nhà ga xe lửa chính ở Berlin. Hàng ngàn chiếc xe hơi đang đỗ ở đó. Rogan cười thích thú. Một nghĩa trang hoàn hảo, chàng gật gù.
Để tạo dựng nên hình ảnh một tay chơi tiêu tiền vung vít cho những thú vui dễ dãi, và điều này có thể gợi ý một sự thoái hóa biến chất về đạo đức, Rogan mang Rosalie đến những hộp đêm đắt tiền hơn và tai tiếng nhiều hơn, hết đêm này đến đêm khác. Chàng biết rằng anh em nhà Freisling, và có lẽ cả bộ máy phản gián Đông Đức, sẽ theo dõi và đánh giá chàng.
Khi anh em Freislings thu xếp được hộ chiếu du lịch cho chàng và Rosalie, chàng chờ đợi chuyện tiếp xúc để mặc cả sẽ được thực hiện lúc đó. Chàng có sẵn trong túi một xấp bản vẽ thiết kế máy điện toán để đem bán. Nhưng chẳng có cuộc tiếp xúc nào diễn ra. Họ đi tham quan cái boong-ke bằng bê-tông cốt thép đặt làm Tổng hành dinh tối cao trong đó Hitler đã chết. Người Nga đã cố phá hủy nó nhưng những bức tường bê-tông quá dày và quá kiên cố đã chứng tỏ là chúng không thể bị hủy diệt. Thế nên cái hầm tránh bom đầy tính lịch sử đó nơi đã chứng kiến cuộc tự tử của kẻ điên khùng được
người ta kinh sợ nhất của mọi thời đại, giờ đây trở thành một ngọn đồi nhỏ phủ đầy cỏ, nằm giữa một sân chơi cho trẻ em. Tản bộ xa hơn qua khu Hansa tua tủa những cao ốc khổng lồ xám xịt họ thấy chán ngắt chẳng có gì hứng thú, Rosalie nhún vai,” Chúng ta đi về thôi,” nàng nói. Nàng chẳng thích gì cái thế giới mới này hơn thế giới cũ chút nào.
Quay về Tây Bá linh họ vội vàng về lại khách sạn. Rogan mở khóa cửa dãy phòng của họ và mở cửa cho Rosalie, vỗ nhẹ vào cái mông tròn của nàng khi nàng đi qua. Chàng theo nàng vào bên trong và nghe tiếng thở hổn hển ngạc nhiên của nàng lúc chàng đóng cửa lại. Chàng quay tròn quanh một vòng.
Chúng đang chờ chàng. Hai anh em nhà Freisling ngồi đàng sau chiếc bàn cà-phê, phì phèo nhả khói. Hans lên tiếng. ”Thưa ông Rogan, mong ông đừng kinh động. Xin ông hiểu cho rằng trong công việc của chúng tôi người ta phải cẩn trọng. Chúng tôi không muốn bất kỳ ai biết chúng tôi đã tiếp xúc với ông.”
Rogan tiến tới trước để bắt tay chúng. Chàng mĩm cười trấn an. ”Tôi hiểu chứ,” chàng đáp lời. Thật ra chàng còn hiểu nhiều hơn thế. Rằng chúng đã đến sớm để lục soát phòng chàng.Để cố gắng tìm hiểu xem chàng có phải là một điệp viên không. Và có lẽ còn để lục lọi và ăn cắp những bản vẽ thiết kế để có thể không phải trả tiền cho chàng mà bỏ tiền vào túi riêng của chúng thì tiện hơn. Nhưng chúng không gặp hên nên buộc phải đợi chàng. Bởi những bản vẽ thiết kế chàng vẫn mang theo trong túi áo jacket của mình. Quan trọng hơn, bảy cái phong bì, thêm khẩu súng và ống hãm thanh, nằm trong một túi nhỏ mà chàng đã cất nơi hầm chứa của khách sạn.
Hans Freisling mĩm cười. Lần cuối cùng trước đây mà hắn mĩm cười như thế, thằng em Eric của hắn đã lẻn đứng phía sau Rogan và bắn viên đạn vào sọ chàng. ”Chúng tôi mong muốn mua một vài
bản vẽ thiết kế máy điện toán của anh, tất nhiên là trong sự bảo mật nghiêm nhặt. Anh đồng ý chứ?”
Rogan mĩm cười đáp lễ. ”Xin mời hai bạn chiều tối ngày mai đến đây dùng bữa với tôi,” chàng nói. ”Các bạn hiểu cho là mình phải thu xếp một vài chuyện. Mình không giữ mọi thứ mình cần ở trong phòng này.”
Eric Freisling mĩm cười xảo quyệt và nói,” Bọn này hiểu chứ. ”Hắn muốn Rogan biết rằng bọn hắn đã lục lọi dãy phòng của chàng; hắn muốn chàng biết rằng bọn hắn không phải là những kẻ để bị người ta giỡn mặt.
Rogan nhìn thẳng mặt hắn. ”Hãy đến vào lúc tám giờ tối mai,” chàng nói. Chàng tiễn chúng ra khỏi phòng.
Đêm đó chàng không trả bài cho Rosalie được, và khi cuối cùng chàng rơi vào giấc ngủ, Rogan đốt một điếu thuốc lá và chờ cơn ác mộng quen thuộc vẫn đến hàng đêm. Chàng đang hút dở điếu thứ ba và cơn mộng bắt đầu.
Và rồi trong đầu óc chàng một bức màn đen được kéo sang bên và chàng đang ở trong căn phòng vòm cao của Tòa án Munich. Xa xa trong những chiếc bóng không giới hạn của óc não chàng bảy con người vẫn giữ nguyên hình dáng đời đời. Năm trong số chúng đã mờ dần ; nhưng hai bóng hình – Eric và Hans Freisling – lại rất rõ ràng, rất phân biệt, như thể chúng đang đứng trong ánh đèn rọi. Khuôn mặt của Eric giống hệt như khuôn mặt chàng từng nhìn vào trong cái ngày định mệnh ấy, với cái miệng dày trễ xuống, đôi mắt đen láo liên giảo hoạt, cái mũi dày, và được đóng dấu trên mọi nét, là sự độc ác cộc cằn.
Khuôn mặt của Hans Freisling tương tự như của Eric nhưng với nét láu cá giảo hoạt nhiều hơn là sự độc ác trong biểu cảm. Chính Hans đã bước lên về phía người tù trẻ Rogan và khích lệ anh ta bằng sự tử tế giả vờ. Chính Hans đã nhìn thẳng vào đôi mắt Rogan
và trấn an chàng ta. ”Hãy mặc bộ quần áo tươm tất kia vào,” Hans thì thầm. “Chúng tôi sắp trả tự do cho bạn. Người Mỹ đã thắng cuộc chiến này và một ngày nào đó bạn có thể giúp lại chúng tôi. Hãy nhớ rằng chúng tôi đã để cho bạn sống, nhé. Bây giờ thay quần áo đi, lẹ lên.”
Và thế là, đầy tin tưởng, Rogan thay quần áo; tỏ vẻ biết ơn, chàng ta cười với bảy tên sát nhân đã giết vợ chàng. Khi Hans Freisling chìa bàn tay ra tỏ tình hữu hảo, người tù trẻ Rogan vươn người tới để bắt bàn tay đó. Và chỉ khi đó những khuôn mặt của năm người kia mới sáng ra với những nụ cười xảo trá. Và chàng chợt nghĩ: Còn người thứ bảy đâu nhỉ? Và ngay đúng lúc ấy cái vành chiếc mũ mới của chàng cụp về phía trước che bên trên đôi mắt chàng. Chàng cảm nhận hơi lạnh của kim khí toát ra từ nòng súng kê sát gáy mình. Chàng thấy dựng tóc gáy vì kinh hoàng. Và ngay trước khi viên đạn nổ trong sọ mình, chàng nghe tiếng kêu than kéo dài của mình “Aaaaaaaaa.” Và điều cuối cùng mà chàng thấy là nụ cười xảo quyệt đểu cáng, khoái chí với trò chơi hiểm độc, khiến chàng mắc lỡm ngay trước khi chết, để mua vui cho bọn chúng, của Hans Freisling.
Hẳn là chàng đã khóc ra tiếng trong cơn mơ. Rosalie thức giấc. Toàn thân chàng run rẩy, hoàn toàn vụt thoát khỏi sự kiểm soát. Rosalie ngồi lên và ra khỏi giường, rồi dùng một khăn vải mềm nàng lau mặt chàng với rượu ướp lạnh. Sau đó nàng dùng rượu lau toàn thân chàng. Tiếp đến nàng vặn nước nóng đầy bồn tắm và dìu chàng vào ngồi trong bồn để tắm hơi. Nàng ngồi trên cái viền cẩm thạch của bồn tắm trong khi chàng té nước lên người. Rogan có thể cảm nhận thân thể mình ngừng run rẩy, sự va đập của máu vào tấm thẻ bạc trong sọ chàng nhẹ dần và dịu đi.
“Em học được mọi chuyện này ở đâu vậy?” chàng hỏi nàng.
Rosalie cười. ”Ba năm cuối ở viện tâm thần em được dùng làm trợ lý điều dưỡng. Lúc đó hầu như em đã khỏe mạnh, tỉnh táo hoàn toàn. Nhưng em cần đến cả ba năm mới thu hết can đảm để chạy trốn.”
Rogan lấy điếu thuốc lá nàng đang hút để rít vài hơi. ”Tại sao họ không thả em ra?”
Nàng cười buồn. ”Bởi họ không biết trao em cho ai,” nàng nói. ”Em chẳng còn ai trên đời này.” Nàng lặng im một hồi lâu. ”Trừ anh.” * *
Ngày tiếp theo là một ngày cực kỳ bận rôn cho Rogan. Chàng cho Rosalie số tiền mark bằng trị giá cả năm trăm đô-la để cho nàng ra ngoài tự đi mua sắm thứ gì tùy thích. Rồi chàng cũng ra ngoài, theo một lộ trình khác, để mua sắm một vài thứ cần thiết cho việc “hành sự” của mình. Quan sát kỹ và yên tâm rằng mình không bị theo dõi, chàng lái xe ra vùng ngoại ô Berlin và đỗ chiếc Mercedes lại. Chàng vào một tiệm thuốc tây mua một cái phễu nhỏ và vài thứ hóa chất. Ở một cửa hàng kim khí điện máy chàng mua một ít dây điện, một cái tô để trộn bằng thủy tinh, đinh, cuộn băng và một số dụng cụ lặt vặt. Càng lái chiếc Mercedes đến một đường hẻm vắng vẻ, với những đống đổ nát còn để mặc kệ, chưa ai dọn dẹp hay xây dựng lại gì, và chàng làm việc bên trong chiếc xe trong gần ba tiếng đồng hồ. Chàng tháo rời mọi đường dây điện làm sáng lên đèn thắng phía sau và chạy những đường dây khác vào trong thân xe. Chàng xoi những lỗ nhỏ vào thân xe kín khí và đặt những ống cao su nhỏ xíu vào những lỗ đó. Chàng trộn các hóa chất rồi đổ chúng vào cái phễu nhỏ và đặt nó trên cái ống rỗng đi từ sàn xe đến tay lái.Tất cả các công đoạn này thật tỉ mỉ, rối rắm và Rogan hy vọng nó sẽ vận hành trơn tru. Chàng nhún vai. Nếu nó không vận hành trơn tru, thì chàng lại phải sử dụng đến khẩu súng và cái ống hãm thanh. Chuyện đó có thể hơi nguy hiểm. Nó có thể khiến chàng vướng víu
với những cuộc giết chóc khác khi cảnh sát đối chiếu các cuộc kiểm nghiệm đạn đạo. Rogan lại nhún vai. Thây kệ, chàng nghĩ. Đến thời điểm mà họ có thể thu thập mọi chứng cứ và đối chiếu với nhau thì lúc đó chàng cũng đã xong việc và bay vèo về Mỹ rồi. Hòa cả làng thôi. Làm gì nhau.
Chàng lái xe quay trở về khách sạn và đỗ xe nơi khu đặc biệt dành cho khách. Trước khi đi lên phòng mình chàng lôi chiếc va-li của mình từ ngăn chứa riêng trong hầm khách sạn ra. Rosalie đã đứng đợi sẵn trong dãy phòng riêng của họ. Nàng không mất nhiều thời giờ để tiêu hết khoản tiền kia. Nàng tạo dáng với chiếc áo dài hấp dẫn của thời trang Paris mà nàng mới mua, nó chỉ che bộ ngực nàng ở mức tối giản. ”Nếu như thế mà còn chưa hớp hồn hai thằng con hoang kia thì còn cái gì có thể làm được?” Rogan nói, với một cái liếc mắt ranh mãnh cố tình cường điệu đến lố lăng. “Giờ đây em có chắc là em biết phải làm những gì tối nay không?”
Rosalie gật đầu , nhưng chàng vẫn nhắc lại tóm tắt cho nàng, chậm rãi và xuyên suốt.
”Anh có nghĩ chúng sẽ nói với anh những gì anh muốn biết hay không?” Rosalie hỏi.
“Anh nghĩ thế,” Rogan nói với một nụ cười ảm đạm. ”Hoặc cách này hay cách khác,” Chàng nhấc điện thoại, đặt bữa ăn tối cho bốn người, mang lên phòng, lúc 8 giờ.
Anh em nhà Freisling rất đúng giờ; chúng đi lên cùng với chiếc xe đẩy thực phẩm. Rogan cho người phục vụ lui, và trong lúc ăn uống hai bên tranh thủ thương thảo những điều khoản của thương vụ. Khi kết thúc bữa ăn chàng rót bốn ly rượu mùi Pfefferminz, vốn là một hỗn hợp nửa là rượu mạnh brandy, nửa là rượu mùi peppermint. ”Thứ thức uống đúng ‘gu’ tôi đây,” Hans Freisling gật gù tán thưởng. Rogan mĩm cười kiểu “thấy thương”. Chàng đã nhớ lại mùi
peppermint trong phòng thẩm vấn, toát ra từ chai rượu mà Hans thường mang theo bên mình.
Khi mở chai rượu, Rogan nhanh tay khéo léo bỏ vào mấy viên thuốc nhỏ; hai anh em Freisling không hề phát hiện được chàng đang làm gì mặc dầu chúng đang nhìn thẳng vào chàng. Nhưng với tính đa nghi bẩm sinh, chúng chờ cho chàng uống trước. ”Prosit,” (Chúc sức khỏe!) Rogan nói và uống cạn một hơi. Thứ rượu mùi ngọt lợ này hầu như làm chàng muốn ói! Còn hai anh em chúng cạn ly, và Hans liếm đôi môi dày vẻ còn thèm thuồng.Rogan trao chai rượu cho hắn. ”Cứ dùng tự nhiên nhé,” chàng nói. ”Tôi còn phải đi lấy tài liệu. Xin phép.” Chàng đi qua chúng, vào phòng ngủ. Trong khi làm thế chàng thấy Hans tự rót đầy ly của hắn và uống cạn. Eric không uống nữa. Thế nhưng lúc đó Rosalie nghiêng người qua, và bộ ngực mượt mà như kem của nàng lồ lộ. Nàng rót đầy ly cho hắn và một tay xoa xoa đầu gối hắn. Eric nâng ly lên và uống, hai mắt dính keo vào bộ ngực thơm ngon như hai trái táo chín của em. Rogan khép lại cánh cửa phòng ngủ sau lưng mình.
Chàng mở va-li, lấy ra khẩu Walther và cái ống hãm thanh, nhanh chóng gắn chúng vào với nhau. Rồi cầm khẩu súng ngang tầm nhìn cho người ta thấy ngay, chàng mở cửa và quay lại phòng khách.
Thuốc bỏ vào rượu là một loại dược chất có tác dụng chậm, không phải loại hạ gục ngay. Nó được đặc chế nhằm làm suy yếu phản xạ của nạn nhân, khiến cho y di động và phản ứng rất chậm. Nó giống như hiệu ứng của việc nốc quá nhiều rượu đối với sự phối hợp cơ thể của một người, làm cho người đó mất thăng bằng nhưng vẫn để cho hắn ta có ảo tưởng rằng mình đang trình diễn tốt hơn bao giờ hết. Như thế, anh em nhà Freisling vẫn chưa ý thức được chuyện gì đang xảy ra cho cơ thể chúng. Khi nhìn thấy khẩu súng nơi tay Rogan cả hai nhảy ra khỏi ghế ngồi nhưng chúng chuyển động rất chậm.
Rogan đẩy chúng trở lại trong ghế. Chàng ngồi xuống đối diện chúng. Từ túi áo jacket chàng lấy ra viên đạn dẹt, hoen rỉ với thời gian và ném nó lên chiếc bàn giữa họ.
“Mi, Eric,” Rogan nói. ”Chính mi đã bắn viên đạn đó vào sau sọ ta mười năm trước đây. Nơi Tòa án Munich. Giờ đây mi còn nhớ ta không? Ta là thứ đồ chơi nhỏ nhoi mà bọn mi đem ra làm trò cười trong khi ta đang thay quần áo – và trong khi người anh em Hans của mi vẫn tiếp tục nói với ta là ta sắp được trả tự do. Ta đã thay đổi nhiều. Viên đạn của mi đã làm thay đổi hình dạng cái đầu ta. Nhưng hãy nhìn cho kỹ đi.Bây giờ bọn mi đã nhận ra ta chưa?” Chàng tạm dừng lời, rồi nói một cách ảm đạm,” Ta đã trở lại để cùng chấm dứt cái trò chơi nho nhỏ của chúng ta.”
Đầu óc mụ đi vì tác dụng của thuốc, cả hai đứa giương đôi mắt đờ đẫn, ngơ ngác,và nhìn trừng trừng một cách vô hồn vào Rogan. Hans là đứa đầu tiên tỏ vẻ nhận ra, mặt hắn biểu lộ vẻ bị sốc, sự sợ hãi và nỗi ngạc nhiên kinh hoàng. Thế rồi chúng cố tìm cách chuồn đi bằng chuyển động lờ đờ bập bềnh như người đang trôi dưới nước.Rogan vươn người tới và lại nhẹ nhàng ấn chúng ngồi xuống ghế. Chàng lần soát xem chúng có vũ khí không. Chúng không mang theo gì.
“Đừng sợ,” Rogan nói, cố tình bắt chước giọng nói và lời nói của Hans xưa kia. ”Ta không làm hại bọn mi đâu.” Chàng dừng lời. ”Tất nhiên là ta sẽ giao bọn mi cho nhà chức trách nhưng trước mắt ta chỉ muốn từ các người một ít thông tin. Giống như xưa kia bọn mi muốn moi ít thông tin từ ta vậy. Lúc đó ta đã tỏ ra thiện chí hợp tác, đúng không nào? Ta biết rằng bọn mi cũng không đến nỗi thiếu thông minh.”
Hans trả lời trước, giọng hắn dày lên vì tác dụng của thuốc nhưng vẫn còn láu cá. “Tất nhiên là chúng tôi hợp tác rồi; chúng tôi sẽ
thành thật khai báo bất kỳ chuyện gì chúng tôi biết để mong được anh khoan hồng, mở lượng hải hà, tha cho làm phước...” “Biết điều thế là tốt đấy,” Rogan gầm gừ vẻ đe dọa của kẻ đang nắm thế thượng phong.
“Nhưng trước hết chúng ta phải có cuộc mặc cả,” Eric càu nhàu vẻ rầu rĩ ảm đạm.
Bao lâu chúng còn ngồi yên thì hai anh em vẫn còn có vẻ như vận dụng mọi chức năng một cách bình thường. Bấy giờ, Hans nghiêng người tới trước và cố vận dụng mọi tài khéo trong khoa tu từ văn thể và nghệ thuật đắc nhân tâm của mình để lấy lòng Rogan, “Vâng. Anh bạn muốn biết gì và anh bạn sẽ làm gì cho chúng tôi nếu chúng tôi hợp tác?”
Rogan nói bình thản,” Ta muốn biết tên của những đứa kia, vốn cùng ngối với bọn mi để thẩm vấn ta ở Tòa án Munich. Ta muốn biết đứa nào đã tra tấn và giết vợ ta.”
Eric nghiêng người qua, song song với anh hắn, và nói chậm rãi, trịch thượng, ”Để mi có thể giết tất cả bọn ta, như mi đã giết Moltke và Pfann?”
“Ta đã giết chúng chỉ vì chúng không chịu nói cho ta tên của ba thằng kia,” Rogan nói. ”Ta đã bố thí cho chúng một cơ hội để sống cũng như hiện giờ ta cũng sẵn lòng bố thí cho bọn mi một cơ hội để sống, nếu bọn mi vâng lời ta.” Đến đây chàng ra hiệu cho Rosalie. Nàng mang đến mấy tờ giấy trắng và hai cây viết và trao chúng cho hai đứa nó.
Hans nhìn có vẻ ngạc nhiên, rồi cười nhăn nhở. ”Tôi sẽ nói cho bạn ngay bây giờ. Tên của chúng là... ” Trước khi Hans kịp thốt ra lời nào khác Rogan đã nhảy vụt đến và đập vào miệng tên Đức bằng cái báng súng nơi tay chàng. Miệng của Hans trở thành một lỗ đen từ đó những mảnh thịt vụn phập phồng cùng với những mảnh
răng vỡ. Eric cố gắng đứng lên bảo vệ anh mình nhưng Rogan đã ấn hắn ngồi lại xuống ghế. Chàng không tự tin để đánh Eric vì ngại rằng một khi đã hạ thủ chàng sẽ không dừng tay lại được cho đến khi nện hắn chết luôn.
“Ta không muốn nghe bất kỳ lời dối trá nào,” Rogan nói. ”Và để chắc ăn rằng bọn mi không nói dối với ta, thì mỗi đứa bọn mi - ngồi riêng ra – viết ra tên của ba thằng kia, ba đứa đã cùng với bọn mi ở Tòa án Munich. Bọn mi cũng phải viết ra từng đứa ấy hiện nay đang sống ở đâu, làm gì. Ta đặc biệt quan tâm thằng trưởng ban phỏng vấn. Ta cũng muốn biết đứa nào thực sự đã giết vợ ta. Khi bọn mi trả bài xong, ta sẽ đối chiếu hai danh sách. Nếu mọi thứ trùng khớp với nhau, chúng bay sẽ không bị giết. Còn nếu thông tin không khớp với nhau, nếu bọn mi nêu ra những cái tên và những sự kiện chệch choạc với nhau, thì cả hai đứa chúng bay đều bị giết ngay tức khắc. Đấy điều kiện thương lượng của ta là thế. Muốn sống hay chết là tùy bọn mi.”
Hans Friesling đang dùng tay tự bịt miệng, cào ra những mảnh răng vỡ và những miếng thịt vụn từ cái mồm bị đập nát của y. Hắn không nói được. Eric hỏi câu cuối: ” Nếu chúng tôi hợp tác, anh sẽ làm gì chúng tôi?”
Rogan cố gắng phát ra giọng nghe có vẻ sốt sắng và thành thật nhất, trong mức độ có thể. ”Nếu như cả hai đứa chúng bay viết ra cùng một thông tin giống nhau, ta sẽ không giết chúng bay. Tuy nhiên ta sẽ lên án chúng bay là những tội phạm chiến tranh và giao nộp chúng bay cho nhà chức trách. Sau đó chúng bay sẽ phải ra tòa và ...tùy theo hên xui may rủi của bọn bay. Ta không cần biết tới nữa.”
Chàng thấy thích thú khi bắt gặp những tia nhìn bí mật mà chúng trao đổi với nhau và bắt mạch đúng tim đen chúng đang nghĩ gì. Ngay cả khi bị bắt và bị xử án, cho dầu đã xác quyết, chúng vẫn có
thể kháng cáo và xin được đóng tiền thế chân để tại ngoại. Rồi chúng hình dung chúng sẽ đào tẩu qua Đông Đức và thế là an toàn, chúng có thể nhíu mũi chế diễu công lý. Rogan vờ như không nhận ra những tia nhìn chúng trao đổi với nhau, kéo Hans ra khỏi ghế và dẫn hắn đến đầu kia của cái bàn để cho không một đứa nào thấy được đứa kia đang viết gì. ”Làm việc đi,” chàng nói. ”Và tốt nhất là nên nghiêm túc nhá. Biết khôn thì liệu mà giữ cái thần hồn. Nếu không, trong đêm nay, ngay tại phòng này, hai bạn sẽ... ”giã từ cõi tạm” đấy nhé!” Chàng chỉa khẩu Walther vào đầu Eric trong khi vẫn tiếp tục để mắt cẩn thận đến Hans. Với ống hãm thanh ở đầu, khẩu súng có vẻ là một thứ vũ khí trông... rất đáng hãi!
Hai anh em bắt đầu viết. Bị tác động bởi thuốc, chúng viết thật nắn nót, chi li, chậm còn hơn ốc sên bò và dường như phải mất cả một khoảng thời gian rất lâu trước khi Eric, rồi Hans, làm bài xong. Rosalie, nãy giờ ngồi trên bàn ở khoảng giữa hai đứa để chắc cú rằng chúng nó không thể nháy nhó ra hiệu cho nhau, thu bài làm của chúng để giao lại cho Rogan. Chàng lắc đầu bảo,” Đọc cho anh nghe đi,” Chàng vẫn chỉa mũi súng vào đầu Eric. Chàng đã quyết định giết tên này trước.
Rosalie đọc lớn bảng danh sách của Eric. ”Sĩ quan chỉ huy của chúng tôi là Klaus von Osteen. Hiện nay ông là chánh hội thẩm đoàn trong các phiên tòa ở Munich. Hai người kia là quan sát viên. Người đến từ Quân đội Hung-ga-ri tên là Wenta Pajerski. Hiện nay ông ta là một Thủ trưởng Đỏ ở Budapest. Người thứ ba là Genco Bari. Ông ta là quan sát viên từ quân đội Ý. Hiện nay ông ta sống ở Sicily.”
Rosalie tạm ngừng. Nàng lật các tờ giấy để đọc những gì Hans đã viết. Rogan nín thở.
”Klause von Osteen là sĩ quan chỉ huy. Chính y đã giết vợ anh. ”Rosalie tạm ngưng khi thấy tia nhìn ưu tư thoáng qua khuôn mặt Rogan. Rồi nàng tiếp tục đọc.
Thông tin như vậy là trùng khớp nhau – hai anh em về cơ bản đã viết ra cùng một loại thông tin, cùng những cái tên đó, mặc dầu chỉ có Hans đã nêu ra tên kẻ giết Christine.Và khi đối chiếu hai tờ giấy, Rogan nhận ra rằng Eric đã đưa ra tối thiểu thông tin trong khi Hans còn đính kèm nhiều chi tiết bổ sung, chẳng hạn Genco Bari là một thành viên Mafia, có thể là một ”ông kẹ” của tổ chức đó. Tuy nhiên Rogan có cảm giác hai anh em nhà này vẫn còn giữ lại một điều gì đó mà chàng nên biết. Chúng đã trao đổi những tia nhìn giảo quyệt, đồng lõa.
Rogan lại cứ vờ như không để ý. “OK,” chàng nói. ”Bọn mi biết khôn đấy. Thế cho nên là ta sẽ thực hiện phần nghĩa vụ của ta theo như hợp đồng đã mặc cả. Ta sẽ giao bọn mi cho “phú líc. ”Chúng ta sẽ cùng nhau rời căn phòng này và đi xuống cầu thang phía sau. Nhưng liệu hồn, đừng có mưu đồ chạy trốn nhé! Ta ở ngay phía sau bọn bay đấy. Với súng cầm tay và đạn đã lên nòng, đang chỉa thẳng vào tim chúng mày đấy. Nếu như bọn mi có nhận ra bất kỳ người nào khi chúng ta ra bên ngoài, cũng đứng có mưu đồ nháy nhó hay hó hé để ra hiệu cho họ nhé. Ta lặp lại: Biết khôn thì liệu mà giữ cái thần hồn. Còn ấm ớ vớ vẩn là ăn đất ngay!”
Hai đứa chúng nó có vẻ không bận tâm lắm; Eric đang cười cầu tài với Rogan có vẻ rất cởi mở. Thằng này đúng là đồ khùng, chúng nghĩ. Tên Mẽo này hẳn là không nhận thức được rằng cảnh sát sẽ thả bọn mình ra ngay tức thì?
Rogan diễn vai có vẻ rất chân phương và rất ngu ngốc. ”Một điều khác nữa,” chàng nói. ”Xuống hết cầu thang ta sẽ cho bọn mi vào cốp xe sau. ”Chàng thấy vẻ hoảng sợ trên mặt chúng.. ”Đừng sợ và cũng đừng làm rối lên. Làm thế nào ta có thể kiểm soát bọn mi nếu ta phải lái xe?” chàng hỏi một cách rất có lý. ”Có cách nào khác để ta có thể giấu bọn mi từ những người bạn nào đấy họ có thể chờ bọn mi bên ngoài khi ta lái xe ra khỏi bãi đậu xe?”
Eric càu nhàu,” Chúng tôi đã làm cho cốp chiếc xe đó trở thành một buồng đệm kín không khí. Chúng tôi sẽ bị ngạt.Như vậy là không bằng cách này thì bằng cách khác anh cũng định giết chúng tôi.”
“Đừng lo. Ta đã cho khoan những lỗ thông khí đặc biệt vào cốp xe sau đó rồi.” Rogan nói tỉnh như ruồi.
Eric bất thần nhào xuống sàn. Hắn bỗng chộp vào Rosalie và dùng nàng làm lá chắn cho mình. Nhưng thuốc đã ngấm sâu và làm cho hắn yếu đến nỗi Rosalie dễ dàng xoay người thoát khỏi cú chộp của hắn. Và khi vừa thoát ra được thì một trong những ngón tay dài sơn đỏ của nàng đâm ngay vào mắt Eric. Hắn rú lên đau đớn và áp một bàn tay vào con mắt trái bị đâm. Rosalie bước vụt ra khỏi hỏa tuyến.
Cho đến lúc đó Rogan đã cố kiềm chế cơn giận. Giờ đây đầu chàng bắt đầu phập phồng với cơn đau thường lệ. ”Đồ con hoang thối tha!” chàng gầm lên với Eric. ”Mi đã cố tình chỉ xì ra càng ít thông tin càng tốt. Mi không cho ta biết rằng chính Klaus von Osteen đã giết vợ ta. Và ta dám cá rằng chính mi đã trợ thủ cho hắn trong tội ác hèn hạ đó. Giờ đây mi không muốn chui vào cốp xe vì mi nghĩ ta sắp giết mi. Được thôi, đồ chó đẻ. Ta giết mi ngay bây giờ đây. Ngay ở đây trong khách sạn này. Ta sẽ nện cho mi thành một đống xương thịt máu me bầy nhầy. Hay có thể là ta sẽ bắn vỡ sọ mi ra. Cách chi cũng được. Tùy ta muốn thôi.”
Hans vội giảng hòa. Gần như than khóc, qua đôi môi sưng vều máu me, hắn khẩn khoản với em,”Bình tĩnh nào,và hãy làm những gì ông Mỹ muốn chúng ta làm.Em không thấy ổng đã phát khùng lên rồi sao?”
Eric Freisling nhìn soi mói vào khuôn mặt Rogan. Sau đó hắn chịu phép. ”Vâng, em xin làm điều gì anh muốn.”
Rogan lặng im như phỗng đá.Rosalie tiến lên bên chàng, chạm vào người chàng như thể để mang chàng về với trạng thái tỉnh táo. Và cơn giận ghê hồn của chàng bắt đầu lùi đi. Chàng nói với nàng,” Em biết em phải làm gì sau khi bọn này rời đi chứ?”
“Vâng, em biết mà.”
Rogan lùa hai anh em bọn chúng ra khỏi phòng, xuống cầu thang sau của khách sạn.Chàng giữ khẩu súng trong túi. Khi cả ba ra khỏi lối vào phía sau vốn dẫn đến bãi đỗ xe, Rogan thì thầm hướng đi cho đến khi họ đến chỗ chiếc Mercedes đậu. Rogan bắt chúng quì gối xuống nền đá sỏi,bên chân chàng trong khi chàng mở cốp xe. Eric lóng ngóng chui vào trước, thuốc vẫn tiếp tục tác động lên mọi cử động của hắn. Hắn ngước lên Rogan với một tia nhìn nghi ngờ cuối cùng. Rogan đẩy hắn vào sàn xe. Trong khi Hans lồm cồm bò vào cái cốp xe rộng, miệng hắn cố nặn ra một cái cười mếu máo; đó là một cái cười ma mãnh tục tĩu bởi đôi môi hắn bị dập nát và những chiếc răng vỡ bể lộn xộn. Hắn nói một cách “khiêm tốn thấy thương”,” Anh biết mà, tôi hài lòng khi chuyện này xảy ra. Bao nhiêu năm qua những gì chúng tôi đã làm đối với anh vẫn đè nặng trên lương tâm tôi. Tôi nghĩ, về phương diện tâm lý, nếu tôi có bị trừng trị, thì điều đó sẽ là một liều thuốc tốt cho lương tâm tôi.”
“Bạn thực sự nghĩ thế sao? Quí hóa quá!” Rogan nói một cách lịch sự và đập mạnh trần xe xuống bên trên chúng.
CHƯƠNG 8
R
ogan lái chiếc Mercedes quanh Berlin trong mấy giờ tiếp theo sau đó. Chàng kiểm tra cho chắc là việc tiếp liệu không khí đi thông suốt qua ống cao su để vào đến thùng xe phía sau. Cuộc đi này là để cho Rosalie có đủ thời gian diễn vai của nàng. Nàng phải xuống phòng khiêu vũ của khách sạn, ở đó nàng sẽ cụng ly, tán tỉnh và nhảy nhót với những người không liên quan để sau này mọi người sẽ nhớ nàng đã từng có mặt ở đó. Điều này sẽ cho nàng một bằng chứng ngoại phạm (alibi) rất vững chắc.
Gần đến nửa đêm Rogan kéo sợi dây cột vào tay lái. Động tác này sẽ cắt đứt luồng không khí và đưa carbon monoxide vào thùng xe sau. Trong vòng ba mươi phút hoặc ít hơn, anh em Freisling sẽ chết. Bấy giờ Rogan lái xe về hướng nhà ga xe lửa Berlin.
Nhưng sau mười lăm phút Rogan dừng xe. Chàng đã dự định giết chúng như chúng đã sắp đặt việc giết chàng nơi Tòa án Munich mà không báo trước và vẫn để chàng tiếp tục hy vọng mình sắp được tự do. Chàng đã định giết chúng như người ta giết mổ những con thú, nhưng rồi chàng không làm được.
Chàng ra khỏi chiếc xe, đi vòng ra phía sau, và đập vào nắp thùng xe. ”Hans...Eric,” chàng gọi. Chàng không biết tại sao mình lại dùng tên đầu của chúng, như thể chúng đã trở thành hảo bằng hữu của mình! Chàng gọi lại lần nữa, với một giọng thấp nhưng khẩn trương, để cảnh báo chúng rằng chúng đang đi vào bóng tối vĩnh hằng của tử vong, để chúng có thể thu gom hồn phách – nếu như mỗi đứa chúng nó vẫn có một linh hồn – cho chúng đọc lời kinh cầu nào đó, theo tín ngưỡng của chúng – nếu như những con thú đội lốt người kia vẫn có một niềm tin – để chúng dọn mình dâng hiến cho hư không huyền mặc. Chàng lại đập vào thùng xe, lần này lớn hơn,
nhưng vẫn không có trả lời. Bỗng nhiên chàng liền nhận ra điều gì hẳn đã xảy đến. Trong tình trạng đã ngấm thuốc sâu có lẽ chúng đã chết chẳng mấy chốc sau khi Rogan mở van xả carbon monoxide. Để chắc ăn là chúng đã chết chứ không phải giả vờ, Rogan mở cốp xe và dỡ nắp đậy lên.
Dầu khi chưa lìa đời chúng quá đỗi xấu xa, nhưng trong những giây phút cuối cùng chúng đã tìm lại được một vài tia nhân tính. Trong những giây phút cuối cùng của cơn hấp hối hai anh em đã quay mặt vào nhau và chết trong vòng tay nhau. Khuôn mặt của họ đã xóa nhòa đi mọi vẻ láu cá xảo quyệt. Rogan nhìn trừng trừng vào chúng hồi lâu. Quả là sai lầm, chàng nghĩ, khi giết chúng chung với nhau. Ngẫu nhiên mà chàng đã phát sinh từ tâm vào một lúc không ngờ.
Chàng khóa thùng xe và lái xe về hướng nhà ga xe lửa. Chàng cho xe len lỏi vào bãi đậu xe rộng mênh mông, chất đầy hàng ngàn xe cộ và cho xe đỗ lại ở khu chàng nghĩ có lẽ sẽ luôn đầy xe nhất, gần lối vào phía đông. Sau đó chàng ra khỏi chiếc Mercedes và đi bộ về khách sạn. Trong lúc tản bộ chàng để chùm chìa khóa chiếc Mercedes tuột khỏi tay và rơi xuống ống cống.
Chàng đi bộ nguyên cả quãng đường trở về khách sạn và vì thế gần ba giờ sáng chàng mới về lại dãy phòng khách sạn của mình. Rosalie vẫn thức đợi chàng. Nàng mang đến cho chàng một ly nước lọc để uống thuốc, nhưng Rogan có thể cảm nhận máu dồn lên va vào thành đầu chàng, càng lúc càng mạnh hơn, càng lúc càng lớn hơn. Cái vị ngọt lợ, lờm lợm vẫn còn trong miệng chàng và rồi chàng cảm thấy cơn chóng mặt xoay tròn đáng sợ và chàng ngã xuống, lịm dần...lịm dần...
.........................&.....................................
CHƯƠNG 9
P
hải mất cả ba ngày trước khi Rogan lấy lại ý thức về những gì diễn ra chung quanh mình. Chàng vẫn còn ở trong dãy phòng khách sạn, nằm trong giường của mình, nhưng phòng ngủ có mùi thuốc khử trùng giống như trong bệnh viện. Rosalie vẫn lảng vảng gần chàng, ngay lập tức đến kế bên chàng khi thấy chàng thức giấc. Nhìn qua bên trên vai nàng là một người có khuôn mặt dễ cáu kỉnh với một hàng râu mép giống với hình tượng bác sĩ Đức hài hước trong nhiều phim.
“A” – giọng của tay bác sĩ nghe nặng trịch – “cuối cùng thì bạn cũng tìm được đường về với chúng tôi. May mắn lắm, thật là may mắn. Giờ đây tôi phải cố nài bạn đi bệnh viện mới được.”
Rogan lắc đầu. ”Tôi ở đây được rồi. Xin hãy cho tôi một đơn thuốc để mua thêm loại thuốc tôi vẫn dùng. Không có bệnh viện nào giúp gì được cho tôi đâu.”
Tay bác sĩ chỉnh lại cặp mắt kính và vê vê hàng ria. Bất chấp vẻ ngụy trang trên mặt, tay bác sĩ này trông còn trẻ và lộ rõ là chàng ta đã “xao xuyến tâm hồn” trước sắc đẹp của kiều nữ Rosalie. Giờ đây anh ta quay sang mắng mỏ em. ”Cô phải để yên cho anh chàng này nghỉ ngơi dưỡng sức nhé. Đừng bắt anh ta trả bài liên miên khiến anh ta khí tổn thần suy, nguy lắm đấy. Anh ta đang bị suy kiệt tinh thần. Anh ta phải được nghỉ ngơi hoàn toàn ít nhất là hai tuần để dưỡng uy súc nhuệ. Cô hiểu ý tôi muốn nói gì chứ?” Anh chàng bác sĩ trẻ giận giữ xé một tờ giấy từ xấp giấy để kê toa và trao nó cho cô.
Bỗng có tiếng gõ cửa và Rosalie đi ra trả lời. Chàng điệp viên tình báo Mỹ Bailey bước vào, được tháp tùng bởi hai tay thám tử Đức. Cái khuôn mặt dài ngoẳng giống khuôn mặt Gary Cooper của Bailey
coi bộ ”chua.” “Anh bạn trai của cô đâu?” anh ta hỏi Rosalie. Cô gật đầu hướng về phía cửa phòng ngủ. Ba anh chàng kia sấn sổ bước tới.
“Anh ấy ốm,” Rosalie nói. Nhưng ba anh chàng kia vẫn cứ xăm xăm bước vào phòng ngủ của người ta, phớt lờ lời can ngăn của Rosalie.
Bailey không lộ vẻ ngạc nhiên khi thấy Rogan trên giường. Chàng ta cũng chẳng tỏ ra chút đồng cảm nào với người bệnh. Chàng ta hạ cố một tia nhìn xuống Rogan và nói giọng phẳng lì,” Vậy là anh bạn đã đi trước bọn này một bước và đã nhanh tay giải quyết gọn nhẹ rồi. Hay đấy nhỉ!”
“Giải quyết chuyện gì?” Rogan nói. Giờ đây chàng đã thấy “phẻ” lại rồi. Chàng cười nhăn nhở với Bailey.
“Đừng có mà lảm nhảm vớ vẩn với tôi!” Bailey giận giữ sủa ra một tràng. ”Anh em nhà Freisling đã biến mất. Đúng như thế đấy. Họ rời trạm xăng dầu đã đóng cửa của họ; đồ đạc của họ vẫn còn nguyên; tiền bạc vẫn y nguyên trong nhà băng. Điều đó có nghĩa là – và chỉ có một nghĩa thôi: Họ đã ngoẽo.”
“Không tất yếu là như thế,” Rogan chống chế.
Bailey xua tay một cách thiếu kiên nhẫn. ”Anh sẽ phải trả lời một vài câu hỏi. Hai người này là từ Cục Cảnh sát Chính trị Đức. Anh phải mặc quần áo vào và đi đến tổng hành dinh của họ.”
Viên bác sĩ trẻ có hàng ria mép lên tiếng. Giọng ông ta giận giữ, như ra lệnh. ”Người này không thể bị di dời đi đâu cả.” Một trong những tay thám tử Đức nói với ông ta,” Liệu mà giữ mình. Chắc là anh không muốn bao nhiêu năm mài đũng quần nơi trường Y lại phải đem đổ sông đổ biển chỉ vì dính líu đến một tội phạm hình sự?”
Thay vì dọa dẫm được viên bác sĩ thì điều đó lại càng làm cho ông ta nổi sung hơn.
“Nếu các anh cưỡng chế di dời người này anh ta rất có thể chết đứ đừ. Lúc đó chính tôi sẽ lên án tội giết người chống lại các anh và cơ quan của các anh.”
Mấy tay thám tử Đức, bất ngờ trước thách thức này, nhất thời nín thinh chưa biết nói gì. Bailey gườm tay bác sĩ và hỏi gằn,” Ông tên gì?”
Tay bác sĩ cúi đầu, gần như đập hai gót chân vào nhau, và nói, lịch sự và kiểu cách có thừa,” Thulman. Xin hầu ngài. Còn quí tánh cao danh của ngài là gì, tôi có được phép biết không đấy?”
Bailey gườm gườm nhìn anh ta một hồi lâu có vẻ đe dọa; thế rồi, bằng vẻ chế diễu ra mặt, anh chàng cũng làm bộ cúi người, rập hai gót chân vào nhau,” Thưa, Bailey ạ. Và chúng tôi sắp lôi cổ tay này về Đại sảnh đường đây.”
Tay bác sĩ nhìn chàng ta với vẻ miệt thị. ”Ngay cả khi đi chân không ta cũng có thể rập hai gót chân với nhau to hơn là anh với đôi giày đấy. Ngữ như anh mà đòi đi bắt chước một nhà quí tộc nước Phổ chính hiệu, thì, xin lỗi, cũng chỉ là làm trò khỉ thôi. Nhưng đó chỉ là chuyện bên lề. Tôi cấm anh di dời người này bởi vì anh ta đang ốm nặng; sức khỏe của anh ta sẽ chịu nguy cơ nghiêm trọng nếu di chuyển. Tôi không nghĩ là các anh có thể chơi sang bằng cách không thèm coi lời cảnh báo của tôi ra cái quái gì.”
Rogan có thể thấy là cả ba anh chàng kia đều bối rối. Mà chính chàng cũng thế. Can cớ gì mà lão bác sĩ này lại đưa đầu chịu báng vì chàng nhỉ? Chuyện này lạ à nghen! Nhất thời chàng chưa kịp nghĩ ra, dầu chàng thuộc loại Thông minh nhất nam tử, Yếu vi thiên hạ kỳ (Một trang nam tử thông minh thì tất yếu phải làm những việc kỳ lạ cho thiên hạ lác mắt chơi!) Thực ra thì, nếu tinh ý một chút, chàng
đã thấy ra cái ánh mắt tham dâm hiếu sắc của chàng bác sĩ trẻ trước vẻ kiều mị sexy của em Rosalie, và thế là mọi sự sáng tỏ ngay thôi!
Bailey nói kiểu xỏ ngọt, ”Thế nếu, ngay ở đây và bây giờ, tôi hỏi anh ta vài câu, liệu chuyện ấy có làm anh ta đột tử không?” “Chuyện ấy thì không đâu,” bác sĩ phán. ”Có điều chuyện ấy e rằng sẽ làm cho anh ta mệt đấy.”
Bailey làm một cử chỉ tỏ vẻ sốt ruột và quay cái thân hình gầy cao lêu đêu của anh ta về phía Rogan. ”Các hộ chiếu du lịch ở Đức của anh đã bị thu hồi thời hạn,” anh ta nói. “Tôi đã cho thu xếp chuyện đó.Tôi chẳng thèm quan tâm những gì anh làm tại bất kỳ xứ sở nào khác, nhưng tôi muốn trục anh ra khỏi lãnh địa của tôi. Đừng có mà tìm cách quay lại xứ này với những giấy tờ giả mạo. Tôi sẽ để mắt đến anh bao lâu anh còn ở châu Âu. Ngay bây giờ anh có thể cám ơn vị bác sĩ này đã thi ân cho anh rất nhiều đấy. ”Bailey bước ra khỏi phòng ngủ, hai tay thám tử người Đức tiếp bước theo và Rosalie tiễn cả ba ra khỏi dãy phòng.
Rogan cười toe với tay bác sĩ. ”Có đúng là... tôi thực sự... không thể đi dời?”
Tay bác sĩ trẻ vê vê hàng ria. ”Tất nhiên. Tuy nhiên bạn có thể tự di động thì không sao, bởi vì lúc đó sẽ không có sức ép tâm lí nào trên hệ thần kinh của bạn. ”Anh ta cười với Rogan. ”Tôi không thích thấy những con người khỏe mạnh, đặc biệt là bọn cớm,đi cưỡng chế người bệnh. Tôi không biết bạn dính dáng đến chuyện gì, nhưng tôi đứng về phía bạn.”
Rosalie tiễn bác sĩ đến cửa, rồi quay lại và ngồi trên giường. Rogan đặt bàn tay mình lên tay nàng. ”Em có còn muốn ở cùng với anh không?” chàng hỏi. Nàng gật đầu. ”Vậy thì hãy thu gom mọi hành lý của chúng ta đi,” Rogan nói. ”Chúng ta sẽ rời nơi đây, đi
Munich. Anh muốn gặp Klaus von Osteen trước những đứa khác. Hắn là nhân vật quan trọng nhất.”
Rosalie cúi đầu trước chàng. ”Thế nào rồi họ cũng sẽ giết anh,” nàng than thở.
Rogan hôn nàng. ”Đấy là lý do tại sao anh phải quan tâm đến von Osteen trước tiên. Anh muốn chắc ăn là khử được hắn. Anh không tiếc lắm nếu để thoát hai tên kia. ”Chàng nhẹ nhàng đẩy nàng. ”Bắt đầu thu xếp hành trang đi em” chàng nói.
* *
Họ bắt một chuyến bay buổi sáng đi Munich và lấy phòng ở một nhà trọ nhỏ nơi Rogan hy vọng họ sẽ không bị để ý. Chàng biết rằng Bailey và đám cảnh sát Đức sẽ theo dấu chàng ở Munich, nhưng họ sẽ phải mất ít ra là vài ngày để khám phá hành tung chàng. Lúc đó có thể sứ mệnh của chàng đã hoàn tất và có lẽ chàng đã vù khỏi xứ này.
Chàng thuê một chiếc Opel nhỏ trong khi Rosalie đi đến thư viện tìm đọc về von Osteen trong báo chí lưu trữ và định vị địa chỉ nhà hắn.
Khi hai người gặp nhau trong bữa ăn tối Rosalie đã có một báo cáo đầy đủ. Klaus von Osteen hiện nay là thẩm phán cao cấp nhất của các tòa án ở Munich.Hắn ta lúc đầu là đứa con lười biếng vô tích sự của một danh gia vọng tộc quyền quí có dây mơ rễ má với Hoàng gia Anh quốc. Mặc dầu từng là một sĩ quan Đức trong thời chiến nhưng không có chứng tích gì về chuyện hắn có gia nhập Đảng Quốc xã hay không. Chẳng bao lâu trước khi chiến tranh kết thúc hắn đã bị thương nặng và điều đó dường như đã biến đổi hắn thành một con người mới ở tuổi bốn mươi ba. Trở về đời sống dân sự hắn đã đi học luật trở lại và trở thành một trong những luật sư tài giỏi nhất ở Đức. Sau đó hắn đã đi vào đấu trường chính trị như một người ôn hòa và một người hậu thuẫn Minh ước Mỹ-châu Âu. Hắn
được kỳ vọng rất nhiều và còn có khả năng là không chừng hắn lại trở nên Tổng chưởng lý của Tây Đức. Hắn được sự chống lưng của giới công thương kỹ nghệ gia Đức và giới chức quyền chiếm đóng của Mỹ, và có ảnh hưởng như sức hút nam châm đối với giai cấp lao động trong tư cách là một nhà hùng biện thượng thặng.
Rogan gật đầu một cách nghiêm trọng. ”Có vẻ đúng người rồi đấy. Hắn ta có một giọng nói rất lôi cuốn, nghe có vẻ thành thật lắm. Quả thực tên đại gian hùng này đã xóa dấu tích tội ác của hắn khéo lắm.”
Rosalie nói có vẻ lo lắng, ”Anh có chắc đã đúng người chưa?” “Đúng rồi; chắc hẳn thế rồi,” Rogan nói. ”Làm thế nào mà Eric và Hans lại nêu ra cùng một cái tên trừ phi sụ thật là thế?” Chàng dừng lời. ”Chúng ta sẽ đến nhà hắn ngay sau bữa ăn tối này. Khi thấy mặt hắn anh sẽ nhận ra ngay cho dù hắn có thay đổi đến đâu. Nhưng đúng là hắn, thế là được rồi. Hắn đúng là dân quí tộc mà.” Họ lái xe đến địa chỉ nhà von Osteen, dùng một bản đồ thành phố như người dẫn đường. Nhà của von Osteen ở khu ngoại ô sang trọng, và thực sự là một biệt thự bề thế. Rogan đỗ xe lại và họ bước lên những bậc thang bằng đá đi đến những cánh cửa khổng lồ, loại cửa nơi dinh thự của các nam tước. Có một tay cầm để gõ cửa bằng gỗ mang hình dáng đầu lợn rừng. Rogan cầm gõ hai lần vào tấm bảng gỗ. Một lác sau cánh cửa được mở ra bởi một viên quản gia béo tròn, vẻ khúm núm.Bằng giọng rất lạnh, ông ta nói, “Bitte mein Herr” (Nếu Ngài vui lòng).
“Chúng tôi muốn gặp Ngài Klaus von Osteen,” Rogan nói. ”Về công việc riêng tư. Xin nói với ông ấy rằng Eric Freisling có lời gửi gắm cho chúng tôi.”
Giọng viên quản gia bớt lạnh một chút. Rõ ràng là lão ta nhận ra cái tên Freisling. “Thật đáng tiếc,” lão nói. ”Ngài thẩm phán von Osteen và gia đình hiện đang đi nghỉ ngơi ở Thụy sĩ, và sau đó họ