"Công Chúa Chăn Ngỗng - Shannon Hale full prc pdf epub azw3 [Best Seller] 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Công Chúa Chăn Ngỗng - Shannon Hale full prc pdf epub azw3 [Best Seller] Ebooks Nhóm Zalo Công chúa chăn ngỗng Shannon Hale Chia sẻ ebook: http://www.downloadsach.com Follow us on Facebook: https://www.facebook.com/caphebuoitoi Table of Contents Những lời khen tặng dành cho Công chúa chăn ngỗng PHẦN 1: CÔNG CHÚA NỐI NGÔI CHƯƠNG 1 CHƯƠNG 2 CHƯƠNG 3 CHƯƠNG 4 PHẦN 2: CÔ GÁI CHĂN NGỖNG CHƯƠNG 5 CHƯƠNG 6 CHƯƠNG 7 CHƯƠNG 8 CHƯƠNG 9 CHƯƠNG 10 CHƯƠNG 11 CHƯƠNG 12 CHƯƠNG 13 CHƯƠNG 14 CHƯƠNG 15 CHƯƠNG 16 PHẦN 3: TIỂU THƯ TÓC VÀNG CHƯƠNG 17 CHƯƠNG 18 CHƯƠNG 19 CHƯƠNG 20 CHƯƠNG 21 CHƯƠNG 22 Giới thiệu Công chúa chăn ngỗng (The Goose Girl) là một tác phẩm xuất sắc của Shannon Hale - tác giả của những tiểu thuyết bestselling theo bình chọn của tờ New York Times. Tác phẩm này nằm trong bộ 3 cuốn viết về vùng đất hư cấu Bayern - Công chúa chăn ngỗng, Enna Burning và Bí mật của dòng sông đã thu hút sự quan tâm theo dõi của hàng triệu độc giả trên toàn thế giới. Mượn ý tưởng từ những câu chuyện cổ châu Âu - một nàng công chúa bị thị nữ mạo danh và phải tìm cách khôi phục lại địa vị của mình - Công chúa chăn ngỗng là dạng truyện cổ hiện đại dành cho người lớn. Công chúa Anidori-Kiladra Talianna Isilee, với những tài năng đặc biệt như trò chuyện được với động vật, giao tiếp và điều khiển được một số hiện tượng thiên nhiên (gió, mây...)... đã được định sẵn từ khi sinh ra là công chúa nối ngôi - nữ hoàng của vương quốc Kildenree trong tương lai. Do những biến động lịch sử, hoàng tử em trai của công chúa được chọn nối ngôi vua, và công chúa Ani được hứa hôn với hoàng tử vương quốc lân cận để đổi lấy nền hòa bình cho hai dân tộc. Trong cuộc hành trình đưa dâu gần 3 tháng, công chúa Ani đã bị thị nữ theo hầu - một cô gái khôn ngoan sắc sảo, mưu hại. Những tùy tùng thân cận bị nhóm nổi loạn tàn sát, công chúa Ani may mắn trốn thoát, phải trà trộn sống cùng những người dân thấp cổ bé họng và chăn ngỗng để mưu sinh, tìm thời cơ khôi phục lại địa vị của mình - một cô dâu của hoàng gia, sứ giả hòa bình của đất nước Kildenree. Bằng trí thông minh, sự hỗ trợ của những người bạn mới, cộng với khả năng giao hòa và điều khiển được thiên nhiên, công chúa Ani cuối cùng đã tìm được ngôi vị và sống hạnh phúc bên người bạn đời của mình. Theo motip truyện cổ viết lại, có lồng những yếu tố siêu thực, Công chúa chăn ngỗng đề cao hình ảnh người phụ nữ hiện đại, dịu dàng và nhân hậu nhưng khi cần cũng biết đứng lên đấu tranh giành quyền sống, quyền hạnh phúc cho mình. Do đó, tiểu thuyết này không chỉ dành cho teen, mà còn phù hợp với những độc giả lớn tuổi - thích không khí lãng mạn mơ mộng và một kết thúc có hậu của những câu chuyện cổ nhưng cũng yêu chuộng những nhân vật mạnh mẽ, cá tính kiểu hiện đại. Tác phẩm này đã dành được nhiều lời khen tặng từ các nhà văn và những tạp chí uy tín trên thế giới: - Nằm trong danh sách “100 đầu sách đáng đọc và chia sẻ” của Thư viện công cộng New York - Giải thưởng Josstte Frank - Giải thưởng sách của bang Utah - Giải thưởng tiểu thuyết của bang Utah - Nằm trong danh sách sách Lone Star của Texas Giới thiệu tác giả Shannon Hale sống cùng với chồng và con ở gần thành phố Salt Lake, bang Utar. Bà đã được trao tặng gài thưởng Newbery Honor với cuốn sách Học viện công chúa, Cuốn sách của một ngàn ngày. Ngoài ra, loạt sách viết về vùng đất tưởng tượng Bayern-Công chúa chăn ngỗng, Enna Burning và Bí mật của dòng sông đã thu hút hàng triệu đọc giả trên toàn thế giới và giành được nhiều giải thưởng khác. Bà cũng là tác giả của tiểu thuyết Austenland và một tiểu thuyết đồ họa chung với chồng - Sự trả thù của Rapunzel. Mục lục Những lời khen tặng dành cho Công chúa chăn ngỗng PHẦN 1: CÔNG CHÚA NỐI NGÔI CHƯƠNG 1 CHƯƠNG 2 CHƯƠNG 3 CHƯƠNG 4 PHẦN 2: CÔ GÁI CHĂN NGỖNG CHƯƠNG 5 CHƯƠNG 6 CHƯƠNG 7 CHƯƠNG 8 CHƯƠNG 9 CHƯƠNG 10 CHƯƠNG 11 CHƯƠNG 12 CHƯƠNG 13 CHƯƠNG 14 CHƯƠNG 15 CHƯƠNG 16 PHẦN 3: TIỂUTHƯ TÓC VÀNG CHƯƠNG 17 CHƯƠNG 18 CHƯƠNG 19 CHƯƠNG 20 CHƯƠNG 21 CHƯƠNG 22 Những lời khen tặng dành cho Công chúa chăn ngỗng ★ Nằm trong danh sách “100 đầu sách đáng đọc và chia sẻ” của Thư viện công cộng New York Giải thưởng Josstte Frank Giải thưởng sách của bang Utah Giải thưởng tiểu thuyết của bang Utah Nằm trong danh sách sách Lone Star của Texas “Mê hoặc” - The New York Times ★ “Kể lại một cách kì diệu câu chuyện cổ của Grimm. Những trang sách của Hale phong phú tuyệt vời, mô tả sống động và đầy ắp những hình ảnh thú vị”. - SLJ Starred ★ “Một cuốn tiểu thuyết đầu tay ấn tượng. Những ai mơ mộng được lạc trong một thế giới đầy mê hoặc sẽ khám phá ra ở đây một câu chuyện được kể lại đầy sức thuyết phục từ một tác phẩm kinh điển mà giá trị truyền đạt vẫn còn thích hợp với độc giả đương đại”. - Published Weekly ★ “Mang nhiều tầng nghĩa phong phú, câu chuyện cổ tích với tình yêu, lòng trung thành, sự cần cù lao động đã làm nên những tình tiết đầy mê hoặc. Cả Ani và Hale đều đủ tài năng để được tán dương”. - VOYA ★ “Một phiên bản của câu chuyện cổ tích Công chúa chăn ngỗng của anh em nhà Grimm với kết cấu tuyệt vời và sự tái hiện lại sâu sắc. Ngôn ngữ hấp dẫn đưa đến những hình ảnh đẹp đẽ, kịch tính cao trào”. - Kirkus Reviews ★ “Một câu chuyện tuyệt vời với những khoảnh khắc nguy hiểm, hồi hộp, kết cấu đáng ngạc nhiên và một cái kết đầy thỏa mãn. Cốt truyện vốn đã hấp dẫn nhưng Hale đã mang lại nhiều hơn thế, diễn biến nội tâm của nhân vật nữ chính làm cho câu chuyện này trở thành một quyển sách về lòng quả cảm. Sự sắp đặt những văn hóa dân gian đa dạng thời Trung cổ cũng thêm vào sự hấp dẫn cho những trang sách”. - Booklist ★ “Hale dệt lại một hình mẫu phức tạp của sự kì diệu và lãng mạn trong một câu chuyện tồn tại mãi với thời gian. Ngôn ngữ trữ tình mang lại một nguồn năng lượng gợi cảm, truyền đến sự tinh tế cho từng câu văn. Cuốn tiểu thuyết này là một hành trình đáng để cho bạn phiêu lưu”. - BCCB PHẦN 1: CÔNG CHÚA NỐI NGÔI CHƯƠNG 1 Nàng chào đời với cái tên là Anidori-Kiladra Talianna Isilee, là vị công chúa sẽ nối ngôi của Vương triều Kildenree, và nàng không hề mở mắt suốt ba ngày qua, kể từ lúc được sinh ra! Hoàng hậu với xiết bao lo lắng, hối hả ra lệnh cho các mục sư cùng với vô số ngự y túc trực bên nôi. Họ lắng nghe hơi thở và trái tim đang đập nhanh như nhịp tim chim ruồi của công chúa sơ sinh. Họ cảm nhận được cái siết tay rất chặt, và những ngón tay mềm mại như nhung. Tất cả đều bình thường khỏe mạnh, chỉ trừ duy nhất một điều: đôi mắt nàng không hề hé mở. Ba ngày liền. Đám đông những người hầu với khuôn mặt bi thảm đến rồi đi. Họ khẽ lay nàng, dùng tay mở mi mắt khép hờ, cố rót những thìa xi-rô sền sệt màu vàng óng vào đôi môi khép chặt. “Con là một công chúa kia mà!”, Hoàng hậu thì thầm vào tai nàng. “Con mở mắt ra đi”. Nhưng công chúa bé bỏng vẫn thở từng hơi dịu dàng, chìm trong giấc ngủ. Buổi tối ngày thứ ba, khi mọi thứ thanh âm ban ngày chìm vào tĩnh lặng, bỗng có một bàn tay khẽ vén những tấm rèm mỏng của căn phòng dành riêng cho công chúa. Mọi thứ đều bất động giữa đêm khuya. Hoàng hậu chìm trong giấc ngủ chập chờn trên long sàng. Công chúa bé bỏng nằm trong nôi, môi khép hờ mơ về những giọt sữa trong lành. Người đàn bà trong chiếc váy xanh màu dương xỉ, lách qua những tấm rèm, rón rén từng bước chân trên thảm. Bà khẽ đưa hai bàn tay đầy những dấu chai sần của mình xuống bên dưới lưng và đầu công chúa, nâng cô bé lên cười thích chí. “Con đã gọi ta ra khỏi ngôi nhà của ta, để đến đây và kể chuyện cho con nghe, phải không?”, bà nói, “Ta sẽ làm thế! Con bé bỏng của ta, chỉ cần con lắng nghe...”. Hoàng hậu thức giấc khi nghe tiếng chiếc ghế đưa cót két. Giọng hát đang khẽ ngân nga giai điệu một ca khúc về những chú chim bồ câu. Bà đứng bật dậy, sẵn sàng hét lên gọi lính canh. Nhưng liền sau đó, bà nhận ra kia chính là em gái của mình, người đang khẽ hát cho đu71a trẻ mới chào đời nghe, và rằng công chúa bé bỏng của bà đang mở to đôi mắt long lanh, nhìn chăm chăm người dì của mình. Đó chính là người đã rút gọn tên công chúa, để công chúa có được cái tên ngắn là Ani. Vào những ngày trời quang đãng trong xanh, bà thường mang Ani đến góc phía Bắc hoàng cung, nơi không có bất kỳ bức tường nào xây lên ngăn cách. Xa xa phía bên ngoài, một khu vườn trải dài, với những cây tần bì, cây thông nằm lác đác. Bà cảm thấy thoải mái hơn ở đó. Rồi bà cầm bàn tay bé xíu của cô cháu gái của mình, khẽ gọi tên tất cả những gì bà thấy xung quanh cho cô bé nghe. “Con nhìn thấy con chim trên cành cây cao nhất đằng kia không, con chim với cái ức màu vàng óng ấy? Nó là loài chim di trú, đang bay về phương Bắc - nơi lúc này thời tiết đang ấm dần lên. Còn kia, con chim với đôi cánh xanh biêng biếc đang mải miết tìm cho được một cành con để đậu, và nó nhận ra rằng mình đang quá kén cá chọn canh...”. Ani bắt đầu nói được hàng nhiều câu dài khi mới tròn một tuổi. Người dì biết quá rõ chuyện người dân trong vương quốc không thích bất kỳ cái gì bất bình thường. Thế nên, bà cố giấu khả năng vượt trội của cô bé. Nhưng một người hầu trong lâu đài chú ý đến điều đó, và thế là những lời bàn tán đồn đại bắt đầu xôn xao khắp nơi. Hoàng hậu không thoải mái chút nào với những lời xầm xì đó và bắt đầu cẩn thận không gọi người bảo mẫu - cũng là em gái của mình - đến nữa. Nhưng đức vua thì cho rằng chẳng có gì để phải quá lo như thế. “Tại sao con gái ta lại không được phép học mọi thứ nhanh hơn bình thường? Nó là con gái chúng ta, là đứa trẻ mang trong người dòng máu tinh khiết hơn bất kỳ đứa trẻ nào khác trên đời này. Và đương nhiên là nó có quyền được nói trôi chảy trước những đứa khác!”. Tuy nhiên đức vua lại ít khi nào chịu để mắt đến đứa con đầu lòng của mình, còn hoàng hậu thì lại càng ít hơn. Hoàng tử Calib Loncris chào đời sau đó. Rồi đến Napralina-Victery, cô công chúa từ thuở chào đời đã giống mẹ như tạc, và thường được những bảo mẫu nghiêng mình nhún chân chào mỗi khi họ đến bên nôi. Với sự lơ là của những người cha người mẹ như thế, người dì vẫn vững vàng vị thế của mình: Là người kề cận sớm hôm bên công chúa Ani. Vào những đêm lạnh lẽo hay những ngày lất phất mưa xuân, người dì thường ngồi dưới sàn, chỗ dành cho các bảo mẫu và kể cho Ani nghe những câu chuyện cổ tích khó tin với đủ thứ lạ lùng: Như có vùng kia, những con ngựa cái hay dùng chân cào xuống đất để tìm những cục vàng, rồi cứ thế ngồm ngoàm nhai chúng để thở ra những điệu nhạc du dương; có người nướng những chiếc bánh hình con chim bằng bột, sau đó thả ra ngoài cửa sổ để nó đi tìm châu báu; hay có bà mẹ thương yêu con mình đến mức để đứa bé trong cái lồng kín treo bên cổ, khiến đứa bé không thể lớn lên. Người dì cứ hát hoài hát mãi những ca khúc cho đến khi Ani bắt đầu thuộc lời bài hát. Giọng đứa cháu chỉ mới lẫm chẫm biết đi của bà nghe mềm mại như tiếng chim sẻ véo von. Vào một ngày đầu mùa hè, lúc Ani lên năm, hai dì cháu ngồi dưới bóng cây liễu mát rượi cạnh hồ Thiên Nga trong vườn. Ani thích những con thiên nga to bằng cô và hay đút cho chúng ăn những mẩu bánh mì vụn. Khi hết bánh mì, chúng đập đập hai cánh và kêu lên ầm ĩ. “Chúng nói gì thế?”. “Chúng muốn biết còn bánh mì cho chúng ăn không, hay chúng nên quay trở lại hồ...”, người dì trả lời. Ani nhìn thẳng vào một con thiên nga gần nhất rồi nói. “Hết bánh mì rồi. Bạn có thể đi...!”. Con thiên nga đập cánh một lần nữa. “Điều đó nghĩa là gì?”. “Nó không hiểu được tiếng người đâu, bé ạ!”. Người dì quay lại nhưng mắt vẫn liếc nhìn con thiên nga và cố bắt chước giọng chúng, nhưng không giống lắm, chỉ giống như tiếng em bé khóc. Con thiên nga liền quay trở lại hồ. Ani nhìn theo một cách rất nghiêm nghị, sau đó bắt chước lại cái giọng mà cô bé đã nghe. “Phải vậy không dì?” “Chính xác”, người dì nói. “Con lặp lại xem nào!”. Cô bé lặp lại rồi cười. Người dì trầm ngâm nhìn cô bé, môi khẽ nhếch nụ cười thích thú. “Con có vui không?”, người dì hỏi. “Dạ vui!”, Ani gục gặc đầu đầy vẻ chắc chắn với điều mình nói. Người dì cũng khẽ gật đầu rồi ôm cô bé vào lòng và lại bắt đầu kể chuyện cho bé nghe. Ani tựa đầu vào ngực dì, lắng nghe những tình tiết và âm thanh trong câu chuyện. “Khi tạo hóa cất lên tiếng đầu tiên thì tất cả sinh vật đang sống trên mặt đất này cũng bắt đầu thức dậy, vươn vai, và mở miệng. Thông qua những vì sao trên cao, tất cả thì thầm nói chuyện. Cơn gió nói với diều hâu, ốc sên nói với tảng đá, con ếch nói với bụi sậy. Nhưng sau nhiều kiếp sinh tử luân hồi, các sinh vật quên ngôn ngữ chung của mình. Chỉ khi nào mặt trời sáng rực lên chiếu từng tia nắng xuống, những ngôi sao di chuyển trên bầu trời xanh, có những chuyển động ấy, có sự hòa hợp thì mới lại có tiếng nói chung”. Ani vẫn tựa đầu vào ngực dì, nghiêng người cố nhìn lên mặt trời trên cao. Cô bé hãy còn quá nhỏ, không biết rằng không nên nhìn mặt trời bằng mắt thường. “Một số người khi sinh ra đã có sẵn ngôn ngữ trên đầu lưỡi, mặc dù có thể phải mất một thời gian họ mới sử dụng được nó. Có ba loại tài năng. Con có biết mẹ con chính là người có tài năng thứ nhất không? Tài nói chuyện với con người. Những người trị vì thường có năng khiếu đó. Con biết không? Mọi người lắng nghe họ, tin tưởng họ và yêu mến họ. Dì nhớ hồi nhỏ rất khó thắng khi tranh luận với mẹ con. Lời nói của mẹ con làm dì bối rối, và ông bà ngoại thì lúc nào cũng tin tưởng mẹ con hơn dì. Đó là sức mạnh của khiếu ăn nói”. Người dì ngừng lại một chút. “Tài năng thứ nhất này là thứ duy nhất giúp cho đất nước nhỏ bé của chúng ta thoát khỏi sự thống trị của các vương quốc khác. Những người trị vì như mẹ con dùng lời nói của mình để thoát khỏi chiến tranh trong hàng nhiều thế kỷ. Tài năng đó có thể là sức mạnh và là điều rất tuyệt, tuy nhiên nó cũng có thể là mối nguy hiểm. Thật không may, dì của con không có năng khiếu bẩm sinh đó”. “Con có không dì?”. “Dì không biết. Có lẽ không. Nhưng con đừng lo, còn có những tài năng khác... Tài năng thứ hai là tài nói chuyện với động vật. Dì đã từng gặp một số người có khả năng học được ngôn ngữ động vật, giống như dì, những người đó cảm thấy dễ chịu khi được gần núi đồi, ở giữa rừng cây, và ở những nơi mà muông thú tung tăng tự do bay nhảy. Những người như thế không phải lúc nào cũng có cuộc sống dễ chịu đâu, bé cưng của dì à. Những người khác hay nghi ngờ người có thể nói chuyện được với động vật hoang dã. Trước đây rất nhiều người có khả năng đó ở Kildenree, nhưng bây giờ thì ít lắm. Còn tài năng thứ ba đã mất hoặc cực kỳ hiếm thấy. Dì chưa từng biết người nào có tài nói chuyện với thiên nhiên, mặc dù truyền thuyết cho rằng đã từng có loại tài năng này. Dì cố thử sử dụng tai, mắt, và những cảm nhận bên trong của mình”, bà gõ nhẹ nhẹ lên thái dương, “Nhưng dì không thể biết ngôn ngữ của lửa, gió, hay cây cối chung quanh. Song, một ngày nào đó, dì nghĩ, sẽ có người khám phá ra cách lắng nghe thiên nhiên”. Người dì thở dài, vuốt mái tóc vàng óng của cô cháu gái. “Không có nhiều người biết về chuyện ba tài năng đâu, Ani. Con phải nhớ nhé, nó quan trọng lắm. Dì cảm thấy như trời đất đã dành một chỗ cho con ngay từ khi con sinh ra, và vì thế dì đến để kể những câu chuyện cho con nghe ngay khi con còn bé. Cũng giống như dì, con sinh ra đã có ngôn ngữ trên đầu lưỡi. Dì không biết ngôn ngữ gì. Nhưng sau này con lớn lên sẽ tự khám phá ra nó mà không cần dì giúp đỡ...”. “Có thể là ngôn ngữ của thiên nhiên, của lửa, của gió hay của cây cối không dì?”, Ani hỏi. “Có thể, nhưng dì không biết những ngôn ngữ đó. Vì vậy dì không thể giúp con khám phá chúng được”. Ani vỗ nhẹ lên má người dì như thể bà là chị của mình vậy. “Nhưng dì có thể giúp con nói chuyện với thiên nga”. Mỗi ngày họ đều ra hồ. Khi không có những người làm vườn và những cận thần thì Ani tập nói thứ âm thanh mà cô bé nghe được từ đàn thiên nga. “Thế giới của chúng không phức tạp như thế giới của chúng ta, vì thế chúng chỉ cần một ít âm tiết”, người dì nói. “Đó, con nghe không? Cái con cao cao ở đằng kia đang chào con mất mấy cái lông đuôi. Chúng nó là anh em trai của nhau. Nếu là chị em gái thì âm thanh sau cùng sẽ vút lên hơn”. Ani lắng nghe. “Con nghe được, thích thật!”. Cô bé bắt chước tiếng chào, và lên giọng ở âm cuối. “Rất tốt. Con biết không, đa số mọi người không chú ý đến điều đó. Con có thể nghe những âm thanh khác nhau và bắt chước được. Con là một cô bé có tài bắt chước tốt lắm đấy. Nhưng nó đòi hỏi nhiều hơn thế. Con phải học ý nghĩa của nó, giống như học bất kỳ một ngôn ngữ nào. Không chỉ học phát âm. Hãy xem thử vì sao con ở đằng kia lắc đầu và vẫy đuôi. Hay con này nằm bất động. Tất cả đều chứa đựng một ý nghĩ, một ngôn ngữ bên trong...”. Trên đường đi, người dì gọi bầy chim nhỏ đang đậu trên nhánh cây tần bì và cây sồi, nhưng chúng hoảng sợ bay tán loạn. Ani học được một số điều từ mấy chú gà trong chuồng và cách đàn bồ câu thì thầm với nhau. Họ đi thăm chim ưng con màu xám và con diều hâu màu vàng, cả mấy con cú đang đậu trên xà ngang chuồng ngựa. Từ khu vườn hoang trở về, họ đi ngang qua chuồng ngựa. Cái mùi nồng ấm của đất kéo Ani đến gần. Cô bé đứng canh hàng rào nhìn người giữ ngựa cưỡi con ngựa xám một cách thật tao nhã. Cô bé chỉ tay. “Con muốn nói chuyện với con ngựa đó!”. “Con gái thông minh muốn hỏi gì nào?”, người dì cúi người từ phía sau Ani, áp má mình lên má Ani, xem con ngựa đang phi nước kiệu. “Dì đã cố nói chuyện với nhiều loài thú. Loại hoang dã như chó sói và hươu nai không chịu đứng yên để nói chuyện với mình và nghe mình nói. Còn thằn lằn, cóc, chuột, tất cả những con thú nhỏ, dì nghĩ ngôn ngữ của chúng quá đơn giản so với con người chúng ta. Những con thú nuôi trong nhà như chó, mèo thường ngủ quên trong sự an nhàn và quen giao tiếp với con người trong chừng mực giới hạn. Nhưng con thấy đó, chim thì lại là loài thích họp để nói chuyện hơn. Chúng nói rất nhiều. Những con thú lớn nói chuyện chậm rãi. Nhưng về con ngựa, Ani, dì sẽ kể cho con nghe một chuyện. Cách đây vài năm, dì giúp người bạn đỡ đẻ cho con ngựa, và con ngựa con rớt vào cánh tay của dì. Dì nghe âm thanh nhỏ từ con ngựa con, tiếng gì đó giống như “Yulee”. Đó là tên của nó. Con ngựa khi sinh ra đã có sẵn cái tên trên lưỡi của nó rồi, con biết không? Dì gọi lại tên nó, nó nghe được dì. Kể từ đó nó có thể nghe dì và dì có thể nghe nó. Đó là lần duy nhất con ngựa trao cho con người chiếc chìa khóa để nói chuyện với nó. Không có lần thứ hai. Dì cũng đã thử với con bê, mèo con, dê con, nhưng chỉ có ngựa con là có kết quả. Con nghĩ sao về chuyện đó?”. “Con rất muốn làm bạn với con ngựa”, Ani nói líu ríu. Biết đâu con ngựa sẽ không kiếm cách hùng hổ đâm sầm vào cô bé như cách nó làm với em trai cô. Con ngựa sẽ chăm sóc cô bé như chăm sóc bình hoa thủy tinh dễ vỡ, và luôn thì thầm với cô như một người bạn... Nhưng người dì lắc đầu. “Con hãy còn quá nhỏ. Một ngày nào đó khi con lớn hơn, con có thể đến chuồng ngựa mà mẹ con không cần phải căn vặn đủ thứ. Còn bây giờ, con phải lắng nghe những người bạn có cánh”. Ani rất háo hức học tiếng của tất cả các loại chim có tổ trong khuôn viên hoàng cung, nhưng hồ Thiên Nga luôn có sự thu hút đặc biệt với cô bé. Cô đến đó mỗi ngày, thích thú nhìn những con thiên nga bơi chầm chậm trên mặt hồ, tạo ra những gợn sóng lăn tăn. Cứ chăm chú nhìn những cử động nhẹ nhàng đầy ý nghĩa nên chẳng bao lâu sau, cô bé có thể phát âm được hầu hết những âm thanh của bầy thiên nga, và cô hay nói huyên thuyên với chúng một cách đầy sung sướng. “Im lặng một chút nào, Ani!”, người dì nói. Nữ tổng quản và cô con gái của bà, Selia, hay đi ngang qua hồ đến khu vườn. Người dì vẫy tay, và bà khẽ gật đầu chào. Cô con gái nhỏ của bà rất xinh xắn, ít nói, mái tóc dài tới thắt lưng. Cô đi với hai tay nắm chặt đặt phía trước và hai mắt nhìn thẳng. Hồi còn bé, cô nổi tiếng với trò sơn phết nghịch ngợm, đổi mọi thứ sang màu hồng và màu tím, quậy phá lung tung như con cá bị bỏ lên bờ. Nhưng bây giờ, cô đã bảy tuổi và nghiêm nghị như một quan tòa. “Chào công chúa. Mẹ con tôi đang đi vào vườn. Hôm nào công chúa đến uống trà nhé!”, Selia nói. “Ừm, cám ơn cậu!”. Ani không quen nói chuyện với những đứa trẻ khác. Hơn nữa, Selia lạ kỳ này làm cho công chúa bé bỏng cảm thấy không dễ chịu. Cô bé sẵn lòng làm theo những gì Selia yêu cầu, nhưng đồng thời cũng muốn né tránh khỏi Selia. Thật ra, Ani cũng có cảm giác như vậy đối với mẹ mình. Người dì nhướng mày bên trong vành nón màu xanh nhìn hai mẹ con Selia xa dần. “Đó là người có tài năng nói chuyện với con người. Đó có thể là sức mạnh. Để ý lời dì nói nhé!”. Người dì thì thầm. Ani nhìn theo Selia nghiêm nghị đi xa dần với một ý nghĩ trong đầu: Tài năng nói chuyện với con người. Cô bạn này có tài năng ấy. Năm đó, rừng cây bị cháy trụi lá vào cuối mùa hè và một lớp sương mờ bao phủ dòng sông dài, ẩm ướt, lạnh giá. Người dì từ cửa sổ nhà mình quan sát những bức tường xung quanh, tưởng tượng một mùa đông như đang hiện hữu. Bà nhận ra mình bắt đầu nhìn thế giới giống như con chim đằng sau chấn song. Bà khẽ cào nhẹ cánh tay bên dưới tay áo của mình. Người dì lại dẫn Ani đến bên hồ Thiên Nga, nơi có mấy cành cây rũ nhẹ, soi bóng nước và những đám lá xào xạc trong gió. Bà chỉ tay về hướng Bắc, nơi có rừng cây gai nhọn, dày và xanh thẫm quanh năm, nơi cô bé không được phép vào. “Dì đi về nhà đây”, bà nói. Bà hôn trán Ani nhưng mắt cô bé không rời khỏi chân trời. “Đừng quên những gì con đã học nhé. Nếu mẹ con biết được những điều dì dạy con, thì bà ấy sẽ phá hết mất. Dì biết mẹ con. Bà ấy chỉ muốn những gì sang trọng, bóng lộn của thế giới con người. Con giỏi hơn bà ta, ngỗng con à. Dì không muốn sự cô độc của mình ảnh hưởng đến con. Hãy ở lại và cố gắng học cách hạnh phúc!”. Công chúa ngồi trên tảng đá, chống tay lên trên lưng con thiên nga suy nghĩ, cảm nhận được sự bức bối trong lòng. Cô bé lo cảm giác ấy sẽ tồn tại mãi và nhìn theo bóng dì đi xa dần, biến mất trong rừng xanh. *** Buổi sáng hôm sau, Ani choáng váng khi biết mình có một bảo mẫu mới, nhút nhát, làn da trắng nhợt như sữa chua. Họ không đi ra hồ bởi vì “Công chúa có thể bị rơi xuống hồ và chết đuối, cái mặt sẽ sưng vù lên tím tái. Công chúa có muốn vậy không?”. Bất chấp những cảnh báo từ người dì, Ani tin chắc rằng mọi chuyện sẽ tốt đẹp nếu cô giải thích với người bảo mẫu rằng cô muốn nói chuyện với những con thiên nga. Chỉ đến khi người bảo mẫu tròn xoe mắt thì Ani mới biết mình đã mắc một sai lầm nghiêm trọng. “Con có thể hiểu những điều con thiên nga nói. Con sẽ chỉ bà cách nói chuyện nếu bà thích”. Người bảo mẫu bật dậy khỏi băng ghế trong vườn, há hốc mồm, bứt từng túm cỏ, vò nát và quăng vào khoảng không trước mặt, như để xua đuổi tà ma. “Sao con tự nguyền rủa mình thế. Con người không nói chuyện với thú vật. Đó không phải là trò chơi thông minh dành cho một công chúa”. Ani loáng thoáng nghe người bảo mẫu báo cáo lại với hoàng hậu bằng cái giọng thì thầm hối hả. Điều đó làm cho Ani cảm thấy như mình đã làm điều gì đó tồi tệ không thể tả xiết. Từ đấy, những buổi đi ra vườn bị hạn chế. Hoàng hậu bắt đầu lúc nào cũng xem chừng công chúa với một nét mặt cau có không hài lòng, và Ani quyết tâm chờ người dì quay lại mang cô vào thế giới tự do của núi rừng. Công chúa ngắm nhìn chân trời tím hàng nhiều giờ liền, trông mong người dì bước ra từ đó với vòng tay mở rộng. Cô bé nhớ những tiếng chim, nhớ tha thiết. Trong thế giới chỉ toàn là sàn đá hoa cương lạnh cóng, những gia sư già và những đứa trẻ ngoan ngoãn líu lo, thì chỉ có việc nói chuyện với những con thú là cô bé cảm thấy vui nhất. Cô xem hồ Thiên Nga chính là nhà của mình. Một hai lần khi người bảo mẫu bị cảm nằm liệt giường, Ani trốn đi ra nói chuyện với mấy con thiên nga. Nhưng khi cô đi gần tới hồ, thì lại bắt gặp hai người làm vườn. “Không thể đến đây, công chúa!”, người đàn ông rắn rỏi lên tiếng. “Nguy hiểm lắm!”. Khi cô bé cố bước đến gần chuồng chim ưng để nói chuyện, thì người coi sóc chuồng cẩn thận túm chặt cổ áo công chúa, áp giải cô ra khỏi khu vực đó. “Xin lỗi, công chúa!”, ông nói. “Hoàng hậu đã ra lệnh công chúa không được chơi gần mấy con chim”. Cô bé cố gắng thử nhiều lần trong hai năm chờ đợi người dì quay lại, và mỗi lần như vậy thì đều có một ai đó bỗng dưng nhảy xổ ra ngăn cô bé lại. Đôi khi Ani đành phải bí mật nằm sấp và cố bắt chước con chó con Lindy của cô rên rỉ gầm gừ. “Lắng nghe tớ nè. Hiểu tớ nói gì không, Lindy?”. Có lẽ người bảo mẫu nghe được điều đó, bởi vì khi Ani từ chỗ gia sư trở về phòng mình vào một buổi chiều thì chú chó con đã biến mất, và hoàng hậu nghiêm nghị đứng chờ giữa phòng. “Con chó đã được nhốt vào chuồng rồi. Mẹ nghĩ tốt nhất là con không nên giữ thú nuôi nữa”. “Con muốn có Lindy”. Ani bị tổn thương và giận dữ, cô bé nói to lên, to hơn mọi lần trước đây. “Mẹ trả nó lại cho con”. Hoàng hậu giáng một bạt tai vào mặt nàng công chúa bé nhỏ. “Không thể chấp nhận cái giọng đó. Tính khí bốc đồng của con đã không được kiểm soát trong một thời gian dài. Nếu mẹ mà biết dì con dạy con những thứ bậy bạ đó, thì mẹ đã đuổi cổ cô ta ra khỏi thành phố từ lâu rồi. Đã đến lúc con phải biết địa vị của mình chứ, công chúa. Con sẽ là một nữ hoàng! Dân chúng sẽ không thể nào tin tưởng con được nếu con là một nữ hoàng dựng chuyện và chuyên nói chuyện với thú vật hoang dã”. Ani không trả lời. Cô bé nén chặt cảm giác nhức nhối ở trên má và nhìn chằm chằm vào chân trời tím biếc xa xa. Hoàng hậu quay lưng bước ra, rồi dừng lại nơi cửa. “Mẹ đến để báo cho con biết. Chúng ta mới nhận được tin hôm nay là dì con đã mất hồi mùa đông vừa qua. Mẹ xin lỗi nếu điều đó làm con đau lòng”. Ani nhìn theo lưng mẹ đi khuất và cảm thấy thế giới bảy tuổi của mình như sụp đổ. Tối hôm đó, đức vua và hoàng hậu tổ chức một buổi khiêu vũ. Những người bảo mẫu đứng ngay trước cửa phòng trẻ em, cười với nhau trong tiếng nhạc vọng ra từ hành lang. Bà bảo mẫu “vô tích sự” ẵm công chúa mới, Susena-Ofelienna, áp vào ngực bà, miệng huyên thuyên bàn về váy áo và giày dép. Người bảo mẫu trẻ xinh đẹp to nhỏ chuyện đàn ông và vài điều bí mật gì đấy. Mỗi lời họ nói ra như khoét sâu vào nỗi trống trải của Ani. Cô bé giả vờ say sưa xây dựng thành phố với nhiều tòa tháp cao bằng những thỏi gỗ đồ chơi. Khi nhóm bảo mẫu đi xuống hành lang để xem cuộc vũ hội rõ hơn, thì Ani lẻn ra khỏi phòng và chạy. Ánh sáng phía sau lưng làm cho bóng cô bé đổ về trước, thành một người phụ nữ khổng lồ nhưng rất mỏng mảnh, có cái đầu hướng về hồ Thiên Nga. Cô chạy trên đám cỏ ẩm ướt ban đêm và cảm giác cơn gió nhẹ như đi xuyên qua bộ váy ngủ. Bây giờ mới là đầu mùa xuân. Trời còn rất lạnh vào ban đêm. Cô bé đến bên hồ và quay lại nhìn phòng khiêu vũ đang sáng rực đèn, những tấm kính, bức tường đã ngăn tiếng nhạc. Mọi người bên trong trông rất xinh đẹp, lịch lãm và vô tư thoải mái. Điều đó làm cho cô bé nhận ra rằng cô chẳng có tí gì giống họ cả. Nhưng khi cô bé quay lưng lại ánh đèn, cô nhận ra đêm tối đen, không thấy chuồng ngựa, không thấy cả những ngôi sao trời. Thế giới mênh mông như bầu trời đêm, mênh mông hơn tất cả những gì cô bé biết. Thình lình, cô bé hiểu rằng mình hãy còn quá nhỏ để trốn chạy, rồi cô ngồi trên nền đất ẩm ướt và khóc. Nước vỗ vào bờ hồ. Những con thiên nga đang ngủ, có màu xanh và ánh bạc trong đêm. Một con thiên nga bị đánh thức bởi tiếng nức nở của Ani, nó đến gần rồi nép người gần bên chân cô bé. Tớ mệt mỏi và cảm thấy xa lạ với những người xung quanh tớ quá, Ani nức nở với người bạn có cánh. Những ngôn từ của thiên nga mà cô bé thốt ra thoáng nghe như tiếng rên của một đứa trẻ. Ngủ ở đây đi, con thiên nga trả lời thật đơn giản. Ani nằm xuống, đưa một tay lên trán như thể đó là cái cánh, rồi cố gắng khép lại thế giới không thuộc về mình. Công chúa bé bỏng chỉ thức dậy khi có hai cánh tay khỏe mạnh nâng mình lên. “Công chúa, cô có sao không?”. Cô bé ngơ ngác tự hỏi sao không gian quanh mình lại tối đen đến thế. Rồi cô nhận ra đôi mắt mình hãy còn nhắm kín. Hai mí mắt nặng trĩu, có vẻ như quá “chặt” để có thể mở ra. Công chúa ngả đầu trên bờ vai rắn rỏi của người đàn ông, ngủi thấy mùi sữa dê rất đậm từ quần áo ông. Cứ thế, ông mang cô đi. “Ông là ai thế?”. “Talone, người gác cổng ở cổng thành phía đông. Cô đã ngủ gật bên những con thiên nga và không làm cách nào đánh thức được”. Ani nhíu nhíu một hồi mới hé được một mắt. Phía trên kia, cao hơn cả những ngọn núi là bầu trời nhợt nhạt màu vỏ trứng. Cô nhìn chằm chằm người đàn ông muốn hỏi một câu, trong khi cả người thì lại rùng mình thêm lần nữa. Cái rùng mình như từ xương tủy tỏa ra da. “Cô có bị đau ở đâu không, thưa công chúa?”. “Cháu chỉ lạnh thôi”. Người đàn ông kéo chiếc áo choàng ra khỏi vai mình, quấn nó quanh người cô. Hơi ấm tỏa ra lại cuốn cô trở về với giấc ngủ lạnh giá và chập chờn ban nãy. Phải mất đến ba tuần công chúa mới có vẻ khỏe lại, đủ để những nếp nhăn trên gương mặt các ngự y trong triều giãn ra thành một cái nháy mắt, và đủ để cô bảo mẫu trẻ nhất không hét toáng lên mừng rỡ mỗi khi công chúa mở mắt ra như những ngày đầu nữa. Thật lâu sau cơn sốt kinh hoàng ấy, thỉnh thoảng tên của công chúa vẫn được thay bằng cụm từ “đứa trẻ yếu ớt”. Cô được giữ trong nhà. Cô không bao giờ được cho ở một mình. Cô phải dùng bữa sáng trên giường và ăn bữa tối trên chiếc tràng kỷ dài. Cô không bao giờ được phép đi chân trần, thiếu đi đôi giày ấm áp. Chuyện xảy ra với những chú thiên nga đủ được đề cập đến bằng giọng thì thầm bí mật. “Suýt chút nữa thôi, chúng ta mất đi một nữ hoàng tương lai”. “Và không phải mất đi vì cái chết, mà mất đi chính vì những hành động đầy hoang dại”. “Chúng ta phải làm gì với công chúa bây giờ?”, những bảo mẫu băn khoăn. Hoàng hậu đứng bên giường nhìn xuống Ani, đứa con gái lúc này đang nửa tỉnh nửa thức, đôi mắt he hé, hai tai như dựng lên để nghe từng lời khuyên bảo, la mắng thốt ra từ cái miệng đầy quyền lực của bà. Bằng cách nào đó, với trận ốm kinh khủng của mình, Ani cảm thấy như thể mình đã phụ bạc nặng nề người phụ nữ này, và sự hối hận ăn năn cắn rứt cô, châm vào cô tạo nên những cơn rùng mình lạnh ngắt. Hoàng hậu trông như một con chim xinh đẹp lộng lẫy, với thứ ngôn ngữ mà cô không thể nào hiểu được. Công chúa cảm thấy thân hình mảnh mai của mình như lấp đầy bởi sự cung kính nghe lời, cố làm vui lòng mẹ. Hoàng hậu nheo mắt. Những đường chân chim lập tức xuất hiện quanh khóe mắt của bà. Bà đặt một bàn tay mát lạnh lên trán Ani, cử chỉ đầy vẻ bao dung của một người mẹ. “Cứ để công chúa nghỉ ngơi”, hoàng hậu nói khẽ với những người hầu, “Và phải tránh xa những con chim, nhớ đấy!”. CHƯƠNG 2 Ani đặt tách trà vị bạc hà the mát xuống, hi vọng mình vẫn còn giữ được nụ cười trên môi. Khung cảnh bên ngoài cửa sổ đập mạnh vào sự chú ý của nàng, trêu đùa nàng bằng những chuyển động mơ hồ thẳng hướng về nơi chuồng ngựa. Những đốm màu nâu linh hoạt đó có thể chính là những chú ngựa đang phi nước đại. Bị hấp dẫn, nhưng công chúa vẫn cố lịch sự giữ đôi mắt của mình thật “vững” trên những đốm tàn nhang ở phía trên má phải của bà tổng quản. “Để tôi vắn tắt lại lần nữa nhé, thưa công chúa. Chúng tôi thật vinh hạnh biết bao nếu công chúa nhận lời mời của chúng tôi chiều nay. Tôi hi vọng những món ăn sẽ đúng khẩu vị cô thích”. “Ồ vâng, cảm ơn bà”. Ani đáp. “Tôi đã mong suốt mấy tháng nay để có thể được mời cô đến thăm ngôi nhà của chúng tôi. Rồi một ngày nào đó, cô sẽ lớn lên, cao y như mẹ cô, để giúp đỡ bà. Mặc dù nói thật là chuyện đó không hoàn toàn tuyệt vời lắm đâu. Tôi cứ nghĩ rằng rồi lúc nào đó, cô sẽ bận rộn suốt ngày, phải học cách gánh vác những nhiệm vụ quan trọng đang chờ phía trước”. “Ừm, vâng... Cảm ơn bà!”. Ani cau mặt. Bà tổng quản đã phải chờ hàng tháng liền để có được buổi chiều nay, vì Ani đã bị ốm một trận tơi bời đủ để né tránh chuyện đó. Một việc nhìn bề ngoài thì thật thư giãn, thú vị và giúp cô hòa nhập với cuộc sống biết bao, nhưng giống như bất kỳ cuộc viếng thăm, bất kỳ tiệc trà hay tiệc lớn nào mà Ani tham dự, cô luôn nhận thấy rằng mọi người quanh cô chờ đợi ở cô những hành động, cử chỉ, lời nói và suy nghĩ của một công chúa nối ngôi, như mẹ cô vậy. Ani thấy như mình đang thổi nhẹ vào không khí. “Vâng”, cô lặp đi lặp lại những từ ngữ ấy. Rồi nhăn mặt, ngờ rằng những lời mình thốt ra nhẹ như gió thoảng. Sự im lặng nhẹ nhàng chao lượn giữa họ như một cánh bướm đêm mỏi mệt. Rõ ràng là người ta mong chờ ở cô một câu nói gì đó khác hơn nhưng cô thấy như từ ngữ trong đầu mình bay biến đi đâu hết. Nàng công chúa bé nhỏ liếc nhìn Selia, nhưng thái độ trầm lặng của cả hai mẹ con không lộ cho cô chút manh mối nào để biết cách trả lời họ. Đôi lúc, Selia gọi cho Ani những ý nghĩ về một con mèo, vẻ như chẳng muốn nói bất kỳ thứ gì ngoại trừ một ánh nhìn chằm chằm lười biếng, ở cái tuổi mười tám của mình, Selia lớn hơn Ani hai tuổi, các ngón tay ngắn hơn, mái tóc dài sậm hơn mái tóc vàng óng ả của Ani. Nhìn bề ngoài, hai cô thiếu nữ giống nhau như hai chị em ruột thịt. Ánh mắt công chúa vẫn dừng một hồi lâu ngắm Selia. Nàng nhận ra một ý nghĩ đang thoáng trong đầu mình. Cô ấy đóng vai trò một công chúa hẳn là tốt hơn mình. Ý nghĩ ấy như kim châm. Ani ao ước mãnh liệt rằng mình có thể làm mọi thứ thật đúng, thật chuẩn mực như một nàng công chúa với đầy đủ vương quyền trong tay. Nhưng rất... rất... nhiều lần, công chúa chỉ cảm thấy một niềm hạnh phúc thật sự ngự trị trong mình vào khoảnh khắc khi nàng được vỡ òa với sự tự do, được lén cả buổi chiều trên lưng ngựa. Vó câu hối hả. Phi nước đại ra khỏi chuồng và khiến cả khu vườn trở nên hoang dại theo nhịp phóng. Hai buồng phổi hít căng đầy khí lạnh. Cơ trên người run rẩy theo từng nhịp phóng của chú ngựa. Đã gần mười năm rồi kể từ cái lần cuối cùng nàng có ý định trốn đi, từ khoảnh khắc sợ hãi nhìn chăm chăm vào màn đêm bao la từ bờ hồ Thiên Nga dạo nọ. Nàng đã không bao giờ thử lại điều đó thêm lần nữa. Nàng là một công chúa nối ngôi, và nàng đã quyết định một ngày nào đó, mình sẽ trở thành một nữ hoàng quyền quý và tao nhã. Bà tổng quản tằng hắng làm Ani quay lại nhìn, thầm cảm ơn bà đã phá vỡ sự im lặng. “Tôi hi vọng tôi không đến nỗi thiếu nhún nhường khi nói rằng hoàng hậu, mẹ cô đã chọn Selia làm thành viên đầu tiên trong đoàn tùy tùng”. “Vâng”. Ani chỉnh lại vạt áo và như đang tìm kiếm một điều gì hay ho để nói. Nhưng cô chỉ cười và đáp: “Cảm ơn”. “Công chúa, hình như cô muốn hỏi điều gì thì phải?”, Selia cất tiếng. Ani quay sang Selia với vẻ biết ơn và gật đầu. Selia nâng tách trà lên. “Thêm trà không?”. “Ồ, vâng... Ừm, cảm ơn!”. Selia rót trà vào tách cô. Bà tổng quản nhìn xuống lầm bầm. “Trà, vâng”. “Thật sự”, Ani nói mà tim đập thình thịch, “Thật sự, nếu mọi người không phiền, cha và tôi sẽ đi cưỡi ngựa hôm nay, vì thế tôi sắp phải đi đây!”. “Ồ”. Bà tổng quản liếc nhìn con gái và gật đầu. Selia chạm vào tay Ani. “Công chúa, mẹ tôi đã mong chờ cuộc viếng thăm này suốt hai tuần nay”. Ani cảm thấy lời nói của Selia như đốt đỏ hai má cô, vì thế cô nhìn xuống đất. Ani nghĩ thầm: Tôi thật không phải. “Tôi xin lỗi”. Cô hớp một ngụm trà. Quá nóng. Cô cảm thấy tim mình như đang đập trên đầu lưỡi bị phỏng. “Cưỡi ngựa...”, bà tổng quản nhẹ nhàng. “Vâng, thưa mẹ! Hầu như ngày nào công chúa cũng dành thời gian cưỡi ngựa!”. “À, cưỡi con ngựa giống, mẹ nghĩ vậy. Công chúa, cô có nghĩ việc cưỡi con ngựa giống không thích hợp với một công chúa? Sao công chúa không cười con ngựa cái hiền lành dễ thương hay con ngựa thiến? Công chúa không sợ làm hỏng vương miện của mình sao?”. Bà tổng quản quay sang cô con gái của bà. “Đó là kiểu chơi chữ, con thân yêu. Hỏng vương miện”. Selia cười lớn. Những lời nói qua lại đó đã xúc phạm đến lòng tự trọng của Ani giống như tách trà nóng làm bỏng lưỡi cô lúc nãy. Cô để tách trà xuống và đáp lại một cách lúng túng ngượng ngùng. “Vâng, tôi cưỡi con ngựa giống, và nếu cha tôi, đức vua, nghĩ nó không thích hợp, thì ông ấy sẽ nói với tôi. Dù sao cũng cảm ơn vì bữa tiệc trà và bữa tối. Tôi phải đi đây. Tôi xin lỗi. Cảm ơn!”. Cô đứng dậy. Selia ngước nhìn theo, nháy mắt một cách kỳ lạ, và bà tổng quản trông có vẻ rất giận. Phải mất một lúc, bà mới lấy lại bình tĩnh và nói: “Vâng, vâng, công chúa đi. Tốt nhất là không nên để nhà vua đợi...”. Họ rời khỏi nhà của bà tổng quản, đi nhanh xuống hành lang. Gót giày của Selia giúp cô cao gần bằng Ani. Những bước chân trên sàn đá lát giống như bước chân của mèo hoang. “Công chúa ổn không?”, Selia hỏi. Ani thở ra và cười. “Tôi không biết tại sao mình lại hốt hoảng thế này”. “Tôi biết. Nhưng tôi nghĩ sẽ tốt cho công chúa nếu công chúa thực tập”. “Cô nói đúng, Selia. Tôi ghét phải trong tình trạng rối ren, nói sai, và nhận định mọi thứ đều sai”. “Một ngày nào đó công chúa sẽ là nữ hoàng, nên bây giờ phải học cách nói chuyện với những người mà công chúa không quan tâm”. “Ồ, không phải tôi không quan tâm đến mẹ cô hay bất cứ người nào đâu...”. Ani nghĩ có lẽ tại vì cô quá hoảng sợ. Cô lúc nào cũng lo lắng về việc người khác nghĩ về cô như thế nào và lo sợ mỗi từ cô nói ra có thể bị chỉ trích. Ani nghĩ xem làm cách nào để giải thích điều đó với Selia. Nhưng cuối cùng cô quyết định không nói. Việc Selia rất thoải mái với người lạ và bạn bè làm cho Ani chắc rằng cô ta sẽ không hiểu. Hơn nữa, Ani cũng muốn giũ sạch cảm giác không thoải mái vì lại thất bại lần nữa. Cô cảm thấy nhẹ nhàng đôi chút khi họ đến cổng vòm. Bây giờ là buổi chiều mùa đông, trời hãy còn sáng, không khí trong lành như buổi sáng sớm, tính khiết và ướt đẫm với tuyết trắng. Khi họ đến chuồng ngựa, Ani đi cưỡi ngựa, còn Selia vào vườn chờ như mọi khi. Selia rất dị ứng với loài ngựa, cô nói thế. Có lần, từ đằng xa, Ani bắt gặp Selia tay trong tay với một người đàn ông lạ đi vào chuồng ngụa. Nhưng Ani không tìm hiểu vì cho rằng ai cũng có điều bí mật riêng. Ani bước vào chuồng ngựa đầu tiên. Một mùi nồng ấm quen thuộc và mùi cỏ khô chào đón cô như cái bắt tay của bạn bè. Cô đi qua những người chăn ngựa đến cái chuồng tốt nhất. Falada, Ani nói. Con ngựa trắng ngước đầu lên và nói gì đó không thể nghe được. Lần đầu tiên Ani gọi cái tên đó là vào năm cô mười một tuổi. Lúc đó, tể tướng của Bayern, vương quốc bên kia dãy núi viếng thăm. Tất cả mọi người đều lo đón tiếp thượng khách, vì thế Ani có thể trốn ra chuồng ngựa một vài lần để thực hiện ước mơ hồi bé. Có lần Ani ở bên cạnh chuồng ngựa khi ngựa mẹ sinh ra chú ngựa con trắng muốt có những cái chân thon dài. Ani đã giúp mở túi ối và lau sạch dịch ở lỗ mũi cho chú. Cô giúp giữ thân hình khi nó cố gắng dứng dậy lần đầu tiên, cố gắng giữ cân bằng thân mình dài ngoẵng trên bốn cái chân bé nhỏ và nhìn thế giới xung quanh với cặp mắt mở to. Cô đã nghe được tên của chú ngựa con, cái tên đó đã có sẵn trên đầu lưỡi con ngựa ngay từ khi nó còn nằm trong bụng mẹ. Và khi cô lặp lại thì nó nghe được. Không lâu sau, công chúa khám phá ra rằng mình và chú ngựa này có thể nói chuyện với nhau mà những người khác không nghe thấy. Ani cảm thấy thích thú vì điều đó. Cô nhớ vua cha đã sử dụng quyền lực của mình để thuyết phục hoàng hậu cho Ani được giữ con ngựa của cô. Đáng lẽ con ngựa phải bị gửi đi vùng khác khi hoàng hậu nghi ngờ Ani và Falada thân thiết với nhau. Falada, tôi đến trễ. Tirean đã ra khỏi chuồng. Chắc cha tôi đang cưỡi nó. Gã chăn ngựa không cho tôi đủ cỏ, Falada nói. Giọng của con ngựa đi vào tâm trí cô tự nhiên như suy nghĩ của chính cô, rõ ràng như mùi của trái cam trái quýt. Ani cười vui vẻ, gạt bỏ những buồn bã khó chịu từ cuộc viếng thăm trước đó bằng cách vuốt vuốt thân hình trắng muốt của con ngựa. Đôi khi tôi cũng không biết bao nhiêu là đủ. Cô cho tôi đủ á. Bởi vì tôi rất yêu cậu nên tôi không thể nói không. Nhưng bây giờ ta phải đi bởi vì cha đang đợi. Công chúa leo lên yên ngựa, con ngựa trêu chọc cô bằng cách nín thở khi cô siết chặt đai yên. Cái gì, cô muốn tôi và cô té nhào đầu ở cửa chuồng à? Và thế là công chúa tháo dây cương, dắt Falada ra khỏi chuồng, bước vào không gian một buổi chiều rực rỡ. Lớp tuyết mỏng, cứng, vỡ răng rắc dưới chân, phản chiếu ánh mặt trời vào mắt công chúa. Ani cố nhìn đốm sáng xa xa nơi cha cô đang cưỡi con ngựa cái Tirean. Ông vẫy tay và phi đến. Đức vua có vóc dáng cao mảnh khảnh với mái tóc nhiều sợi bạc. Ani không thể phân biệt đâu là tóc, đâu là hàm râu quai nón cũng trắng lấp loáng, trừ khi cô đến gần và chạm vào chúng. “Con đến trễ”, ông nói. “Con là công chúa nối ngôi”, Ani đáp lời. Ông xuống ngựa và vỗ nhẹ con Falada một cách thân thiện. “Lại đi chơi với anh chị con, đúng không. Cha nghe tiếng cả nhóm đang ở sảnh phía tây!”. “Thôi nào, cha! Cha biết là mẹ sẽ không bao giờ cho phép con làm những chuyện vô lý như vậy. Mẹ sẽ bảo: Anidori, một công chúa nối ngôi, giống như một nữ hoàng, chỉ có thể kế vị bằng cách tách biệt mình ra. Tách biệt, nâng cao phẩm giá tôn quý”. Đức vua nhăn mặt. Ông đã dừng tranh cãi chuyện này với vợ cách đây rất lâu. “Nói cho cha biết con làm gì hồi sáng này - tách biệt, nâng cao phẩm giá tôn quý hả?”. Ông vỗ tay hai lần, như thể đang hát. “Ồ, con ăn sáng một mình và vẽ lại bản đồ Kildenree để nộp cho Thầy. Con tiếp những người có việc phải cầu xin, những cận thần và giải quyết vấn đề của họ bằng cách chỉ họ đến gặp những người khác. Và cuối cùng là cuộc viếng thăm xã giao mẹ của Selia”. Cô gật đầu, nhún chân cúi chào duyên dáng. “Thật là tuyệt vời, Anidori”, Đức vua thốt lên với tất cả lòng tự hào của người cha. “Và những chuyện đó thế nào?”. “Tốt ạ!”. Nhưng sự thật là từ sáng sớm đến giờ là một ngày khủng khiếp, toàn những chuyến đi, toàn những câu nói năng lắp bắp, ngớ ngẩn. Ani cảm thấy cằm mình run nhẹ trong bàn tay cha. Sự tin tưởng của ông vào cô - tin cô là một công chúa tuyệt vời - giống như con dao găm cắm thẳng vào sự tự ti của cô. Hơn bất kỳ ai khác, ông là người biết cô đã cố gắng như thế nào để được như mẹ, và biết mức độ thất bại của cô. Ông là người ôm cô vào lòng mỗi khi cô khóc khi còn nhỏ, và nói với cô rằng cô rất ngoan, rằng cô là đứa con gái tuyệt nhất của ông. Cô đã không tìm kiếm sự an ủi từ ông trong nhiều năm nay, cố gắng độc lập khi lớn lên và mạnh mẽ như mẹ để không bị tổn thương, nhưng bây giờ cô đang trông chờ sự giúp đỡ của ông. “Cũng có thể là... khá tốt”, giọng của cô hơi vỡ ra. Cô quay đi để leo lên con ngựa Falada. Nhưng đức vua giữ hai vai cô lại, kéo cô vào lòng. Đứa trẻ bé bỏng trong cô lập tức trỗi dậy, nức nở bên ngực cha. “Vậy là dễ chịu hơn rồi hả con gái?”, ông nói như thể đang vuốt ve con ngựa đang hoảng sợ. “Con sợ lắm, cha ơi. Con lo con sẽ nói sai và bọn họ sẽ nghĩ con là kẻ ngu đần bệnh hoạn, là kẻ chỉ biết nói chuyện với chim chóc. Con thật sự run sợ và đầu óc trống rỗng. Con chỉ muốn trốn chạy mà thôi”. Ông vuốt mái tóc cô và hôn lên đỉnh đầu. “Nhưng con không trốn chạy phải không, Anidori? Con ở lại và cố gắng. Con còn can đảm hơn cha nhiều. Và khi con cố gắng thì mọi điều tốt đẹp sẽ đến”. Cô gật đầu, đắm chìm trong niềm an ủi của người cha một lúc trong im lặng. Con Falada ngửi ngửi vai cô. Tôi nghĩ chúng ta nên đi đi. Ani cười, lau những giọt nước mắt trên má. “Con nghĩ con ngựa của con muốn được cưỡi rồi”. “Ừ, cưỡi ngựa thôi!”. Gương mặt đức vua sáng lên khi ông đặt hai tay lên vai con gái và cúi hôn lên trán cô. “Cha yêu con lắm, con gái. Cha e rằng Tirean và cha sẽ phải dạy cho con và con ngựa của con một bài học”. “Ồ, vậy sao?”. Ani bật cười vì biết rằng con ngựa của đức vua hiếm khi thắng được con Falada. “Ừ, ừ... Chúng ta đi nào!”. Đức vua nhanh chóng leo lên yên, bắt đầu phi nước kiệu, rồi phóng rất nhanh. Ông thẳng hướng ra hàng rào ngăn cách giữa sân huấn luyện ngựa và rừng cây thưa hoang dại. Rồi chuyển sang nước đại. Phi nước đại thật sự. Tốc độ của ông làm cô cảm thấy lo lắng. Cô gọi ông. Ông vẫy tay lại và tiếp tục lao ra hàng rào. “Nó cao lắm!”. Ani hét lên, nhưng ông chẳng nghe thấy gì. Cô leo lên con Falada giục nó chạy theo. Khoảng cách giữa họ giảm phân nửa khi đức vua đến hàng rào. Con Tirean bắt đầu nhảy lên. “Cha!”, Ani hét. Một âm thanh vang lên khi chân con ngựa của đức vua chạm mạnh vào cột hàng rào. Con Tirean mất thăng bằng. Đức vua rơi khỏi yên. Cảnh đó thật không ổn với Ani. Một con ngựa chân dài thanh nhả và một người đàn ông cao to phải ung dung chạy trên thảm cỏ chứ không thể bổ nhào xuống đất như đồ vứt đi. Con Tirean đứng lại được, nhưng nhà vua thì hãy còn nằm dưới đất. Ani vội nhảy xuống, chạy đến hàng rào. Mấy người chăn ngựa đã kịp lao đến đó trước cô. “Không sao, không sao!”, cô nghe nhiều giọng nói thốt lên khe khẽ, cố dỗ dành con ngựa. Đức vua đang nằm sõng soài, còn con Tirean thì hốt hoảng kêu thất thanh, bước chân ngang qua người đức vua và dạng chân phòng thủ. Mọi người từ từ bước tới. Con Tirean liếc nhìn bằng đôi mắt đen tròn, khịt khịt mũi tỏ ý tức giận. Những người chăn ngựa liền lùi lại vì sợ con ngựa giẫm lên đức vua. Ani đi qua hàng rào giơ tay lên. “Tirean, làm ơn bước xa ra”. Thật tình là cô không thể nói chuyện được với con ngựa này hay bất kỳ con ngựa nào khác, ngoại trừ con Falada của cô vì nó đã nghe cô gọi tên nó lúc mới sinh ra. Tirean không hiểu và lắc đầu trong tay Ani. Công chúa nắm lấy dây cương của Tirean. Nó ngước đầu lên rồi gật mạnh xuống, giật phăng giây cương rơi xuống tuyết. Ani cảm thấy rã rời. Cha cô đang nằm úp mặt, một tay bung ra ngoài, một tay kẹt dưới ngực. Cô không biết cha mình đã chết hay chỉ bất tỉnh, chỉ biết là ông không mở mắt. Ani quay sang con Falada đang ở bên kia hàng rào. Falada, giúp tớ... Nó cần phải đi! Falada quay vòng lại, bắt đầu chạy nước kiệu và nhảy qua hàng rào. Con Tirean nhìn theo nhưng vẫn không chịu đi ra xa đức vua. Falada lắc cái bờm, đi đến dùng mũi của mình chạm lên cái mũi của con Tirean. Nó lấy má mình thúc vào Tirean, thở phì phì vào cổ bạn. Con Tirean có vẻ như đang thở dài, một hơi thở mạnh, ấm đi thẳng vào bờm của Falada. Nó lùi lại một cách cẩn thận nhưng vẫn đụng vào một cái cây. Cổ và bờm của nó run bắn lên, đầu chúi xuống đất. Ani chạy đến bên con Falada, nghe tiếng thở là lạ trong ngực nó. Cô nhờ những người chăn ngựa khiêng đức vua đặt trên giường của người quản lý ngựa, và ông nằm ở đó ba ngày liền. Những ngự y trong hoàng cung không thể làm ông tỉnh dậy. Hoàng hậu ngồi cạnh bên, đã khóc hết nước mắt và không ngủ được. Calib, Napralina, Susena-Ofelienna, và bé Rianno-Hancery thay phiên nhau nắm tay ông. Ani ngồi trên ghế, nhìn chằm chằm vào gương mặt bất động của ông, cảm giác như ngày nào còn nhỏ từng vô vọng nhìn theo bóng người dì dần đi khuất vào chân trời tím. Vào ngày thứ tư, đức vua tỉnh dậy trong phút chốc và cười với Susena, người đang nắm tay ông lúc đó. Rồi ông nhắm mắt, đầu ngoẹo sang một bên và không thở nữa. Cả thành phố được bao phủ bằng màu trắng muốt trong đám tang ông. Gia đình hoàng gia cũng trong trang phục trắng, như những bóng ma sau chiếc xe tang. Ani nắm chặt váy mình, chăm chú nghe từng nốt nhạc của người thổi sáo và tiếng nức nở của Rianno Hancery hòa quyện vào nhau tạo thành giai điệu đau buồn khủng khiếp. Cô nhìn những bức tường trải dài của cung điện đá trắng trông giống như hai cái cánh của con thiên nga và ngọn tháp cao duy nhất giống như cái đầu đang ngẩng lên trong một ngày đông buồn. Cô lấy điều đó làm chút an ủi mặc dù cả cung điện đang đẫm lệ. Mẹ cô dẫn đầu hoàng gia, vẫn giữ nguyên vẻ thanh lịch, tự tin trong sự đau khổ. Ani nghĩ: Những người này đang nhìn mình, nữ hoàng tương lai của họ. Ta cần phải tỏ ra mạnh mẽ. Cô thẳng người lên và không khóc nữa, nhưng đứng kế bên mẹ, cô chỉ cảm thấy hài lòng phân nửa về mình. Sau những nghi lễ an táng, hoàng hậu bước lên đứng trước lăng mộ mới và cất tiếng nói để thu hút mọi người lại với nhau. Bà nhắc cho dân chúng nhớ đến những thành công của đức vua trong các hoạt động ngoại giao và quân sự, về khối liên minh mà ngài đã hình thành, và về nền thái bình thịnh trị vương quốc Kildenree được hưởng kể từ ngày đức vua làm lễ đăng quang. Nhưng đối với Ani, cô lại nhớ những điều khác, như đôi môi của ông khi cười có vẻ nhếch mạnh ở phía bên phải hơn là bên trái. Cô nhớ cái mùi dầu cừu trên hàm râu quai nón của ông, và chuyện những năm cuối đời ông nặng mùi chuồng ngựa hơn. Điều đó khiến công chúa mỉm cười. Hoàng hậu nói tiếp: “Các ngươi không cần lo sợ rằng sau sự băng hà của đức vua, mọi chuyện sẽ tệ hơn. Chúng ta sẽ tiếp tục tiến lên. Ta sẽ tiếp tục là hoàng hậu của các ngươi và sẽ tiếp tục trị vì đế chế này. Rồi một ngày trong tương lai, khi các ngươi mang thân xác ta đến nơi này, đứa con trai tôn quý và tài giỏi của ta, Calib-Loncris sẽ tiếp tục nối ngôi”. Ani nhìn lên há hốc mồm. Selia đứng kế bên véo vào tay cô. “Công chúa có nghe không?”. Ani lắc đầu một cách chậm rãi. “Mẹ đã nhầm. Có lẽ mẹ... mẹ lẫn lộn trong lúc đau buồn, vậy đó!”. “Calib không có vẻ gì bối rối”, Selia tiếp. Ani thấy người em trai mười lăm tuổi đang đứng bên phải mẹ mình. “Cậu ta lớn từ khi nào thế?”, cô tự hỏi. Em trai cô cao như mẹ, gương mặt giữ phong thái tự tin như mẹ. Hoàng hậu nói xong và bắt đầu đi xuống. Calib lần đầu tiên chịu nhìn Ani, với một chút lưỡng lự, rồi bước đến gần cô. “Em xin lỗi”, cậu nói, trán nhăn lại và đôi mắt đầy vẻ không chắc chắn của một chàng trai mới lón. “Em biết điều đó từ khi nào?”, Ani hỏi. Calib nhún vai, có vẻ gì đó đầy tự mãn khi không nở nụ cười. Rồi cậu đi theo mẹ. *** Selia thúc giục, nhưng Ani từ chối nói chuyện với hoàng hậu suốt sáu tuần liền kể từ sau ngày tang lễ. “Hoàng hậu là mẹ cô. Bà còn nợ cô một lời giải thích!”. Ani thở dài. “Thứ nhất, mẹ là hoàng hậu mà, nợ nần gì với tôi. Hơn nữa, tôi không muốn làm nhơ bẩn linh hồn cha tôi bằng bằng những ý nghĩ tham lam, sai trái”. Và Ani cũng tự nhận là mình sợ nghe câu trả lời. Liệu mẹ có thể thật sự bỏ qua tất cả mọi thứ cho Ani, cho cái tính thất thường hay lo lắng của cô trong công việc và học hành? Ani nắm lấy tay Selia, họ ngồi xuống băng ghế trong sân, hai mái đầu chạm vào nhau. “Đã sáu tuần trôi qua rồi. Nhưng tôi sẽ không để cô lảng tránh nó nhiều hơn nữa. Hoàng hậu đang phá hỏng tương lai của cô”. “Cảm ơn, Selia. Tôi sẽ cảm thấy cô đơn lắm nếu không có cô”. Selia vỗ nhẹ nhẹ vào tay công chúa. Ani đăm chiêu nhìn bầu trời mùa đông. Nỗi đau da diết sau cái chết của cha giờ đã nguôi ngoai, nhưng vẫn còn âm ỉ trong lòng Ani. “Selia, tại sao cô lại quan tâm đến lời mẹ tôi nói thế?”. Đột nhiên, Ani cảm thấy sự quan tâm mạnh mẽ của Selia về chuyện này vượt quá nỗi lo của bạn bè thông thường dành cho nhau. Nhưng Selia không trả lời. Họ ngồi trong im lặng, giữa họ là câu hỏi lơ lủng chưa được trả lời trong buổi chiều lạnh lẽo. *** Vào cuối tuần lễ thứ sáu sau đám tang, Ani đứng bên ngoài phòng làm việc của hoàng hậu, lấy lại bình tĩnh. Selia vẫy tay khuyến khích từ phía cuối hành lang, rồi đi vào phòng của cô ta, chờ kết quả. “Vào đi”, hoàng hậu cất tiếng. Ani hít thật sâu. Hoàng hậu là người có tài ăn nói. Ani biết tranh luận với mẹ là việc khó khăn, cũng ngang bằng với việc giải thích cho Selia nếu mẹ không trả lời. “Mẹ, con xin lỗi phải hỏi điều này trong lúc đám tang qua chưa bao lâu, nhưng con phải hỏi mẹ về lời tuyên bố cách đây vài tuần...”. “Đúng rồi, con gái, về chuyện Calib-Loncris. Ngồi xuống đây!”. Hoàng hậu ngồi ở bàn, nhìn vào mấy tấm giấy da. Bà chẳng thèm liếc nhìn Ani. Đó là một trong những chiến thuật của bà. Ani trông cứng cỏi vì đã chuẩn bị trước, cô ngồi đĩnh đạc chờ ý kiến của hoàng hậu. Cuối cùng, hoàng hậu cũng để tờ giấy da xuống và nhìn vào mắt con gái. Ani đang trông chờ cái nhìn buộc tội từ mẹ, nhưng thật bất ngờ, đó chỉ là một ánh mắt buồn buồn. Cô không thể nói nỗi buồn đó là dành cho đức vua quá cố hay cho mình. Một ý nghĩ chợt lóe lên trong đầu Ani: Mình chẳng biết gì về người phụ nữ này cả. Cô cảm thấy lo lắng. Hoàng hậu nhìn cô bằng cặp mắt xanh kiên quyết. “Con có nhớ, cách đây năm năm, chúng ta đón tiếp Tể tướng Odaccar của vương quốc Bayern?”. Ani gật đầu. Đó là năm con Falada được sinh ra. “Đó không phải là cuộc thăm viếng xã giao bình thường. Tể tướng không hề đi ba tháng trời chi để đến uống trà với hoàng hậu và đức vua của vương triều Kildenree. Đó là vấn đề về đất đai...”. Hoàng hậu đứng trước tấm bản đồ đang treo trên tường, đặt những ngón tay vươn dài lên trên dãy núi Bavara và một khu rừng lớn chia cắt hai vương quốc. Bà nhìn bàn tay mình một hồi rồi nói. “Bayern là vương quốc phồn thịnh lâu đời, họ duy trì sự giàu có của mình hàng nhiều thế kỷ bằng những cuộc chiến tranh bách chiến bách thắng. Hoàng đế hiện tại ít hiếu chiến hơn tổ tiên của ông ta. Cha và hai người anh của ông đã bị giết trong cuộc chiến khi ông còn nhỏ. Ông trị vì vương quốc cũng khác hơn. Nhưng chiến tranh là công việc làm ra của cải. Để thay thế nguồn thu nhập này, đức vua nhiều năm liền đã khai thác tài nguyên thiên nhiên ở các vùng núi của họ. Họ đã thành công. Lượng vàng dự trữ của họ càng ngày càng nhiều. Điều đó cũng đã mang họ ngày càng đến gần Kildenree. Đã năm năm kể từ chuyến viếng thăm của Odaccar, nên có lẽ họ đã thật sự rất gần... Không có con đường nào ở vùng núi này có một đường biên giới chính thức”. Hoàng hậu ngẩng lên nhìn Ani, nét mặt bà biểu hiện cảm xúc thật mạnh mẽ. “Đức vua Bayern trở nên tham lam. Ông ta tuyên bố phần lớn dãy núi thuộc sở hữu của Bayern, chúng ta chỉ có một dãy mỏng, làm cho việc phòng thủ gặp nhiều khó khăn trước một nước lớn hơn, và mạnh hơn chúng ta nhiều. Cha con sợ bị thôn tính. Ta cũng vậy. Nhưng cha con chỉ lo sợ mà không làm gì cả, còn ta... ta hành động!”. Những lời nói như có phép thuật của mẹ len lỏi vào tâm trí Ani. Cô nghĩ: Vâng, tốt thôi, mẹ làm cái gì cũng tốt cả. Cô nhắc mình tỉnh táo và cảnh giác để không rơi vào trạng thái thụ động của người nghe. Hoàng hậu ngồi xuống, lấy ngón tay chùi mạnh vào khóe mắt của mình. “Mẹ đã làm những gì nên làm và những gì tốt nhất cho Kildenree. Rặng núi rộng lớn và khu rừng bao la giúp chúng ta an toàn khỏi người láng giềng nguy hiểm. Trong quá khứ, quân đội phải mất ít nhất là bốn tháng đường rừng để đến được đất chúng ta. Bây giờ, chuyện gì sẽ xảy ra nếu con đường đó ngắn hơn nhiều? Cái gì sẽ ngăn cản đoàn quân khổng lồ từ trên núi cao tràn xuống thung lũng này? Gần một thế hệ người dân nước ta đã chết trong cuộc nội chiến trước khi cha con và ta nắm lại được quyền lực. Quân đội của chúng ta không đủ mạnh”. Hoàng hậu có vẻ như đang tự nói với chính mình, giọng của bà gần như là sự van nài. Ani cảm giác nỗi sợ hãi như đang lan ra khắp người cô. Mẹ cô chưa từng van nài ai. “Con là công chúa nối ngôi. Nếu có chuyện gì xảy đến với một trong những đứa con của ta, thì đó phải là Napralina. Đứa con thứ ba và là đứa con gái thứ hai trong gia đình, là cái giá phải chấp nhận cho sự xếp đặt này. Nhưng con bé còn trẻ quá, và con... con khác. Sau vấn đề với dì của con, ta lo dân chúng sẽ không tin tưởng con nữa vì đã lan truyền rộng rãi tin đồn con có thể nói chuyện với thú vật”. “Mẹ định làm gì, mẹ?”, Ani hỏi. Hoàng hậu phớt lờ câu hỏi. Bà nói bằng giọng mũi đầy tính phòng thủ. “Một hoàng hậu không thể nào an tâm phớt lờ những suy nghĩ của thần dân, Anidori”. “Mẹ định làm gì?”. “Có phải con đã qua sinh nhật lần thứ mười sáu trong kỳ tang lễ?”. Ani gật đầu. Hoàng hậu hít một hơi dài và nhìn trở lại vào bản đồ. “Thật may mắn, Odaccar cũng mong muốn hòa bình như ta. Bằng một cuộc bàn bạc riêng tư, chúng ta đã sắp xếp cuộc hôn nhân của con với người con trai đầu của đức vua. Sau khi con đã đủ mười sáu tuổi...”. Ani đứng dậy, chân ghế của cô cọ xuống sàn phát ra âm thanh như rên rỉ. Âm thanh đó làm cô thức tỉnh và nhận ra rằng mình có thể tranh cãi lại. “Cái gì? Nhưng... mẹ không thể!”. “Ta không muốn con bảo với ta rằng những việc ta làm là không công bằng, bởi vì ta biết là nó không công bằng”. “Nhưng con là công chúa nối ngôi. Con sẽ là nữ hoàng kế tiếp. Luật pháp quy định con sẽ là nữ hoàng kế tiếp”. “Động cơ thúc đẩy của con luôn có vẻ như bổn phận hơn là sự thèm muốn. Ta nghĩ điều đó có thể làm con yên lòng hơn”. “Mẹ đừng có giả vờ như đang làm điều tốt cho con. Mẹ không thể lấy đi địa vị của con... dù mẹ nghĩ con có đủ tốt để làm nữ hoàng của vương triều Kildenree hay không. Mẹ nuôi lớn con để con làm nữ hoàng mà. Đó là việc trọn đời của con!”. Ani nheo nheo mắt, cảm thấy những gì vừa nhận thức được đang đốt nóng huyết quản. Giọng của cô trở nên mềm yếu hơn trong niềm đau bị phản bội. “Đó là lý do tại sao mẹ ngăn cách con với các anh em trong suốt những năm qua? Không phải vì mẹ muốn huấn luyện con để trở thành nữ hoàng, mà mẹ muốn bảo vệ họ bởi vì mẹ biết mẹ sẽ gả con đi xa? Tách biệt, nâng cao phẩm giá tôn quý. Tất cả chỉ là trò bịp bợm!”. “Con vẫn sẽ là hoàng hậu, Anidori”. Ani lắc đầu. “Mẹ biết không phải vậy mà. Sẽ không phải là vương miện của con. Sẽ không phải là nhà của con. Ở đó, con sẽ là người lạ, là người vợ đến từ vương quốc khác của đức vua nước họ”. Hoàng hậu nhìn cô trừng trừng. “Vậy con muốn cái gì nào? Con muốn ta lúc nào cũng chiều chuộng và xót thương con?”. “Con chỉ...”. “Ta không muốn con chất vấn ta!”. Hoàng hậu ngắt lời ngay. Theo bản năng, Ani đưa bàn tay run rẩy lên che miệng. “Sự tức giận của con có thể hiểu được, nhưng điều đó sẽ không làm thay đổi lời hứa của ta, và cũng sẽ không làm thay đổi những việc con sẽ làm”. Nước mắt chảy dài trên gương mặt Ani, cô từ từ kéo tay xuống khỏi miệng. “Cha có biết không?”. “Không, ông ấy không biết!”. Hoàng hậu nói với cái vẻ bất chấp. “Ông ấy không muốn biết. Ta nói với ông ấy sẽ sắp xếp hôn lễ cho Napralina và sẽ thông báo cho nó khi nó mười lăm tuổi. Nhưng lúc ông ấy phát hiện ra là con, thì đã quá trễ để thay đổi. Nếu ông ấy biết sớm, chắc ông ấy sẽ ra sức bảo vệ con. Bảo vệ nữ hoàng tương lai! Đáng lẽ con phải mạnh mẽ lên, để không cần sự bảo vệ...”. “Con chỉ là đứa con gái nhỏ”. Hoàng hậu lắc đầu. “Con không bao giờ nên xem mình là đứa gái nhỏ, đáng lẽ con phải luôn xử sự như mình là một công chúa nối ngôi”. “Đủ rồi”, Ani nói, cảm thấy quá bị xúc phạm để nghe thêm nữa. Cô ngạc nhiên vì mẹ cô không trả lời lại. Tim cô đập thình thịch, run cả người. Cô đứng im lặng một hồi, cố nghĩ nhiều điều nên nói. Tranh cãi với mẹ làm cô mệt lử và cảm giác tuyệt vọng đã lấn át sự tức giận. Tấm bản đồ trên tường đang nhìn cô chằm chằm. Thung Lũng Vĩ Đại đang nằm trong lòng dãy núi Bavara. Đất trồng trọt và chăn nuôi tỏa ra theo hướng tây và nam giống như những ngón tay trên một bàn tay. Hướng bắc và đông bắc là những dãy núi hình mũi tên. Đông và đông nam là khu vực rừng. Phía bên ngoài những khu vực này, băng qua vùng biên cương là khoảng trắng trống, chính giữa có một chữ nhỏ BAYERN. Ánh mắt cô đi theo con đường dài bắt đầu từ phía nam thành phố chuyển lên hướng đông, vòng qua đông bắc, rồi bắc, cuối cùng là dừng lại ở điểm ba phần tư vòng tròn. Chắc phải mất nhiều tuần để đi xuyên qua rừng, đến khu vực trắng. Cô nhìn xuống những chỉ tay trong lòng bàn tay. Tất cả đều thẳng, không cong và dài như con đường này. “Bayern”, Ani nói. “Ta xin lỗi, Anidori”, hoàng hậu cất tiếng. Đây là lần đầu tiên cô nghe mẹ nói những lời như vậy. Nhưng nó chẳng có chút gì là an ủi. Cô chỉ nghe: Ta xin lỗi, ta buộc phải chọn điều đó cho con, và ta xin lỗi, vì con phải làm điều ta chọn. Ani cảm nhận mình rõ ràng trong khoảnh khắc đó, giống như gương mặt trong bóng tối tình cờ bắt gặp tia sáng lóe lên... một cô gái trẻ, một thứ ngốc nghếch, một chú cún con được nuông chiều, một con ngựa tuyệt vọng. Cô thực hiện những điều được bảo. Cô hiếm khi nghĩ về bổn phận của mình, hiếm khi trải qua những giờ căng thẳng hay phải hành động một mình. Cô nhận ra rằng cô không đủ khả năng để nhận lấy vị trí nữ hoàng. Sự thật đó cũng không mang lại sự dễ chịu cho Ani. Suy nghĩ về cuộc hành trình và một tương lai bất định đã làm cô rùng mình sợ hãi. “Con sẽ đi, nhưng mẹ đã biết điều đó, đúng không?”, Ani nhìn khung cửa sổ, nơi có những nhánh cây anh đào trơ lá che tầm mắt. “Con sẽ đi”. CHƯƠNG 3 Những tảng băng cuối mùa xuân đã tan ra, thời tiết trở nên ấm áp hơn để chuẩn bị bước sang mùa hè. Đối với Ani, việc bất ngờ từ bỏ trách nhiệm làm cô hoang mang. Cô và Selia đã nhiều ngày thơ thẩn trong các hành lang, mà không biết phải làm gì. Các cận thần gật đầu chào nhưng không thèm nhìn vào mắt công chúa nối ngôi, người giờ đây đã không còn giá trị theo pháp luật. Mọi người đã rút ngắn chức vị của cô thành “công chúa”, còn cụm từ “nối ngôi” đã chuyển sang cho em trai cô. Ngoại trừ Selia, trung thành một cách bướng bỉnh, vẫn gọi cô với đầy đủ chức danh “công chúa nối ngôi”. Dĩ nhiên, Selia rất tức giận khi biết những việc làm của hoàng hậu. “Tôi không thể lấy lại địa vị của mình vì ở đây tôi không còn quyền lực đâu, Selia”. Nhưng rất nhanh, khi Selia nhận ra đây là điều không thể tránh khỏi, cô đã không còn trách móc cái tính thụ động của Ani và bắt đầu hăm hở chuẩn bị cho chuyến đi. “Hãy nghĩ thế này, thưa công chúa nối ngôi, cô có thể bắt đầu cuộc sống mới với cơ hội mới. Cô được quyền quyết định mình sẽ trở thành người như thế nào”. Đó là chút ít an ủi hiếm hoi trong lúc này, khi Ani biết mình sẽ phải bỏ lại tất cả để thành hôn với một hoàng tử xa lạ, không ai biết. Cảm giác bị phản bội vẫn còn day dứt trong lòng. Ani biết rằng nếu mình đủ giỏi thì lẽ ra cô sẽ vẫn là công chúa nối ngôi, và Napralina chắc hẳn sẽ là người được trông chờ để thực hiện cuộc hành trình dài khi tròn mười sáu tuổi. Selia xin được ở bên mẹ trong thời gian còn lại, vì thế Ani có nhiều thời gian lang thang trong thế giới mùa hè của mình. Thật là dễ chịu khi ở bên con Falada, nó chẳng bao giờ quan tâm liệu có chữ “nối ngôi” phía sau “công chúa” không. Calib bận rộn với công việc mới và có vẻ như cảm thấy có lỗi nên tránh mặt Ani, nhưng Ani đã có được một buổi chiều với Napralina và Susena. Cô hối tiếc khi phát hiện ra rằng cô biết về các em ít quá. Ngày lại ngày trôi qua. Rồi ngày khởi hành cũng đã đến. *** Buổi sáng ngày lên đường, Ani thức dậy với những hơi thở hổn hển. Một màn đêm đen kịt làm cô lo sợ. Cô nhanh chóng ngồi dậy, lấy tay sờ lên mắt mình xem nó còn ở đó không. Một ánh trắng mỏng manh hắt qua màn cửa sổ làm cô cảm thấy an tâm hơn. Hãy còn sớm lắm. Cơn ác mộng vẫn còn bám lấy cô như mùi khói bám vào quần áo. Tiếng kèn trumpet báo hiệu, những người hầu cận nam đưa cô đến phòng yến tiệc, quỳ gối xuống. Cô mặc chiếc váy màu trắng, đôi mắt hoe đỏ, hai tay vươn ra như thể muốn bay đi. Họ để cô ngồi trước hoàng hậu. Bà cầm con dao chạm trổ tinh vi lên và nói: “Đây là bổn phận của con, con gái ạ”. Cô mỉm cười khi nhớ lại giấc mơ. “Đừng có đóng kịch như vậy chứ”, cô tự nhủ. “Chẳng phải bà gửi tôi đi để bị giết sao?”. Không nghi ngờ gì nữa, giấc mơ bị ảnh hưởng bởi buổi tiệc chia tay tối hôm qua: Món chính là mấy con thiên nga nướng trui. Ani mở tấm rèm cửa sổ và hít một hơi đầy không khí trong lành buổi tờ mờ sáng. Tiếng dế vang dội trong đêm. Cô muốn được mang nó theo. Chiếc áo màu nâu và cái váy rộng cho cuộc hành trình dài đang treo trên đầu ghế. Khi mặt trời mọc thì cô sẽ đi. Từ cửa sổ, Ani không thể nhìn thấy hướng con đường mà cô sắp đi, vì thế cô ngồi nhìn về phương bắc với quang cảnh quen thuộc. Cô tự bảo mình rằng không khóc nữa. Chẳng có gì khó vì hai mắt cô đã khô cạn và chỉ còn cảm giác đau đau. Ani định thần, cố hình dung những hình ảnh và cuộc sống của mình tại Kildenree, rồi gói ghém tất cả những điều đó vào một thân xác tưởng tượng khác và chôn thân xác ấy bên cạnh mộ cha trong lớp đất mềm của một ngày hè nắng ấm. Khi Ani còn dang ngồi ở cửa sổ ngắm nhìn cảnh mặt trời mọc với những sợi nắng vàng ấm trên nền trời trong xanh buổi sáng thì một thị nữ bước vào. Cô bé này giúp Ani mặc quần áo, thắt bím lại mái tóc dài sau lưng. Ani thật sự cảm thấy mình không có chút gì giống hoàng hậu, chỉ như đứa trẻ con bình thường. Cô cảm thấy lòng buồn rười rượi. Nhóm hộ tống đang chờ cô ở cổng trước. Hoàng hậu đã sắp xếp một nhóm bốn mươi người đàn ông hộ tống Ani trong suốt cuộc hành trình gần ba tháng để đến Bayern. Chỉ huy nhóm là ông Talone, người trước đây phụ trách cổng phía đông. Một phần năm nhóm hộ tống cưỡi những chiếc xe ngựa đầy vật dụng như trang phục, áo choàng, đồ mạ vàng, những thứ được cho là quà tặng cuối cùng dành cho Ani. Hai người em đứng trước xe ngựa. Napralina và Susena khóc âm thầm. Calib trông có vẻ xa lạ, mặc dù ánh mắt có nhiều cảm xúc. Ani ôm hai đứa em gái, rồi đến đứng trưởc Calib, đặt tay lên trên vai cậu trong khi cậu nhìn xuống đất. “Mọi việc không sao, Calib”, cô nói. “Lúc đầu chị có buồn, nhưng bây giờ đã hết rồi. Vương miện là của em. Hãy vui nhé, và cố gắng làm tốt hơn chị”. Cằm của cậu bé bắt đầu run lên. Cậu quay sang một bên và khóc. Đứng kế bên Calib là Selia đang cười, trên yên con ngựa xám của mình. Con Falada đang đứng một mình. Cái yên ngựa mới màu vàng đỏ trông rất ấn tượng trên bộ lông trắng toát của nó. Ít ra trông Falada cũng có được vẻ sang trọng của hoàng gia, Ani nghĩ. Cô thầm biết ơn vì đây là ân huệ hoàng hậu đã ban cho cô, bà đáp ứng lại ước nguyện của cô: Cô sẽ không phải trải qua những tuần lễ bất tận trên chặng đường dài trong chiếc xe ngựa tù túng như lồng chim kia. Trời còn sớm mà, Falada nói. Đúng rồi, nhưng tôi đã trễ, Ani thì thầm. Tôi không vui tí nào khi phải ra đi. Tôi cũng vậy. Cái chuồng của tôi thật đẹp và thức ăn ở đây cũng ngon nữa. Nhưng chỗ mới cũng có chuồng đẹp và thức ăn ngon. Ani tưởng tượng sẽ có điều đó, và cô cũng muốn dễ dàng chấp nhận sự thay đổi như con ngụa, nhưng chuyến đi dài phía trước làm cô lo lắng. Cô cũng không đủ khả năng để có thể tưởng tượng được cuộc sống của mình rồi sẽ ra sao. Cô cảm thấy nản lòng... một nơi xa xôi, những con người thích chiến tranh, một người chồng mà cô không hề biết mặt. Câu chuyện cổ tích về một cô gái trẻ ngây thơ cưới một gã chồng sát nhân hiện lên trong tâm trí cô. Ani ôm cổ con Falada và nhẹ nhàng vùi mặt mình vào bờm của nó. Hơi ấm từ con ngựa phần nào khích lệ cô. “Cẩn thận, con gái của ta”, hoàng hậu nói. Ani nhìn lên. Sự chú ý của bốn mươi người hộ tống, gia đình hoàng gia, và những người có thiện chí đều hướng về hoàng hậu. Bà đang cầm cái tách bằng vàng đưa lên cao. Sự phản chiếu ánh sáng làm cho Ani nhắm mắt lại và con Falada hạ thấp đầu xuống. A, Ani nghĩ, đã đến lúc tỏ ra thương mến. “Con đường rất dài. Công chúa sẽ đi qua rừng thông chứ không phải trên thảm nhung. Vì thế phải thường xuyên cho công chúa uống bằng cái tách này. Đôi môi con gái yêu của ta sẽ không bao giờ đụng vào những đồ vật tầm thường”. Ingras, người quản lý trại, gật đầu một cách trang trọng và đón lấy chiếc tách vàng từ tay hoàng hậu. “Và tất cả những người gặp con gái ta phải đối xử với con ta như là con gái của hoàng tộc, một công chúa”. Nói đến đó, hoàng hậu đặt chiếc vòng vàng có ba hạt hồng ngọc nhỏ lên đầu Ani. Chất vàng lạnh cóng. Hoàng hậu nhìn Ani với vẻ tha thiết của người mẹ, nhưng Ani nhìn lại một cách lạnh lùng. Tâm trạng hiện tại không thể cho phép cô giả vờ tỏ ra yêu thương bà. Cô không còn bổn phận gì với những người này. Trong ánh nhìn chằm chằm của Hoàng hậu có chút ái ngại, ẩn giấu cảm giác tội lỗi và buồn buồn. Ani nghĩ: Bà buồn vì mình? Cảm thấy hối tiếc vì mất mình? Hoàng hậu lấy cái khăn tay đã được xếp cẩn thận từ ống tay áo và vuốt thẳng ra. Nó được làm bằng lụa mỏng màu ngà, xung quanh có ren màu xanh lá cây và màu vàng. “Mẹ của ta may chiếc khăn này”. Bà nói với giọng mềm mỏng như thể chỉ để nói với Ani chứ không phải với đám đông. Bà tháo cái ghim hoa cài cổ áo. “Mẹ của ta thường mang nó, và bà đã đưa nó lại cho ta trước khi mất. Ta luôn xem nó là một phần của bà. Khi ta mang nó, ta cảm thấy như ánh mắt bà đang trông chừng ta, hướng dẫn, và bảo vệ cho ta. Vì thế ta sẽ bảo vệ cho con”. Hoàng hậu nhăn mặt khi lấy cây ghim chích vào ngón thứ ba. Bà nặn ba giọt máu vào cái khăn tay. Hai tay bà run run. “Ta gặp ác mộng. Khu rừng trông giống như con thú hoang có móng vuốt rất dài, nó nuốt chửng con đường đi trước mặt con, rồi cuộn luôn con vào miệng nó. Nếu có chuyện gì xảy ra với con, chắc ta sẽ đau buồn lắm”. Bà đặt cái khăn dính máu vào tay Ani, giữ tay Ani một lúc, chân mày bà nhướng lên lộ vẻ thành thật. “Chúng ta có cùng dòng máu. Ta sẽ bảo vệ cho con”. Cảm giác yêu thương bất ngờ trỗi dậy trong Ani. Liệu họ sẽ ôm nhau? Liệu cô sẽ hôn lên má bà? Họ đứng đó, hoàng hậu nghiêm nghị, Ani lúng túng, cho đến khi hoàng hậu quay lại vung tay kêu gọi sự chú ý của khoảng năm mười người tham dự. “Công chúa Anidori-Kiladra Talianna Isilee, viên ngọc của vương quốc Kildenree. Cầu chúc cho chuyến đi được an toàn, vì đó là con gái của ta”. Ani cảm thấy đám đông rùng mình vì giọng nói mạnh mẽ của hoàng hậu. Giọng nói này sẽ theo mình, chứ không phải cái khăn dính máu, Ani nghĩ. Cái khăn mỏng và ấm trong tay Ani. Cô bóp chặt nó với mong ước nó không chỉ là vật kỷ niệm quê nhà mà còn giúp mang lại sự an toàn và thể hiện tình yêu của mẹ. Nhóm hộ tống đã lên ngựa và đang chờ. Ani cất cái khăn vào áo chẽn và leo lên con Falada. Cô, người chưa từng cưỡi ngựa đi qua cổng chính của lâu đài, giờ là người dẫn đường. Mẹ của cô đứng thẳng bên cạnh họ như tượng đá. Một lần nữa Ani nghĩ: Bà duyên dáng làm sao, rồi lại nghĩ, Mình thật khác xa bà làm sao. Nhưng bây giờ, lần đầu tiên trong đời, cô cảm thấy khao khát được “tách biệt”, cái điều bà vẫn dạy cô trước đó, để cuối cùng được trở thành một người mà cô có thể. Hướng tây nam là nơi bắt đầu con đường rừng và cũng là nơi bắt đầu những câu trả lời mà cô có thể tìm gặp. Cô thúc hai chân vào hông con Falada, nên nó bắt đầu đi nhanh hơn. Cô cũng nghe tiếng than khóc thảm thiết giống như đưa đám ma của bà tổng quản. Nó theo họ cho đến khi đoàn người rẽ vào con đường khác. Cái giọng thảm thiết biến mất nhanh chóng như ngọn nến khi gặp những ngón tay ướt. Trời hãy còn sớm. Với ít nhất là hai xe ngựa đầy đồ vật quý báu, Ani cảm giác giống như những tên trộm đang bỏ trốn với chiến lợi phẩm hơn là một công chúa đang trên đường đến với người đã được hứa hôn. Nàng cảm thấy bất an, đau buồn và cô đơn trong nhóm dẫn đầu khi ra đến ngoài hoàng thành. Khi họ đi qua vòng thành ngoài cùng, Ani và Falada đi lùi lại phía sau, nhường cho Talone dẫn đầu. Những người bảo vệ đi thành hình tam giác xung quanh cô, điều đó làm Ani cảm thấy được an ủi. Selia đi với cô ở trung tâm. Con ngựa của Selia thấp hơn con Falada, nên Selia phải nhìn lên khi nói chuyện với cô chủ. “Chiều tối nay chúng ta sẽ đến vùng biên giới của thành phố. Công chúa có thể ăn tối và ngủ tại quán trọ bên ngoài cổng thành phố, quán trọ Con Chuột Xanh. Ungolad nói ở đây có món thịt lợn rất đặc biệt. Ông ấy bảo chúng ta sẽ được thưởng thức món ngon tại quán trọ”. “Ungolad?”. Selia chỉ người bảo vệ đi sau Talone. Ông ta có mái tóc dài hơn tất cả, thắt hai bím dài bỏ sau lưng. Ungolad không cao mặc dù dang ngồi trên lưng ngựa, song ông có đôi vai rộng và những bắp thịt cuồn cuộn trên tay, trên ngực ẩn hiện bên dưới bộ quân phục. Ông thật sự là một chiến binh. Ông quay đầu lại khi nghe nhắc tên mình nên Ani vội vàng nhìn sang chỗ khác. “Tôi thật vui, cuối cùng cũng đã bỏ hết mọi thứ ở sau lưng, giờ chỉ việc đi tới, công chúa thấy sao?”, Selia nói. Selia đang trong tâm trạng háo hức, cô ngắm nhìn cảnh vật xung quanh khi cưỡi ngựa. Một hai lần cô cố làm cho Ani cười. Không khí buổi sáng thật dễ chịu. Ani ngắm tất cả cảnh vật nổi tiếng của thành phố, một đại lộ rộng lớn và những con đường nhỏ, ngắm ánh lóe sáng trong cửa hiệu người thợ rèn, nghe tiếng kêu của con chim ưng, tiếng lách cách của bước chân ngựa trên đá cuội. Tất cả những người đang làm việc dọc đường, hay từ những cửa sổ đều nhìn cô đi qua. Tại sao trước đây cô chưa bao giờ hỏi mẹ cho ra khỏi thành? Cuộc sống bên trong những bức tường của hoàng cung có vẻ như thật ức chế và buồn tẻ. Họ đến quán trọ Con Chuột Xanh vào lúc xế chiều. Ingras sắp xếp cho Ani một phòng ăn tối riêng. Trong lúc Talone, Ingras, và Selia đưa cô đi ngang qua phòng chính, Ani nhìn thấy một đám lửa to, tề tựu quanh đấy là ca sĩ của quán trọ và một đám đông người lạ. Cô yêu cầu được ăn ở tầng trệt cùng với những người hộ tống nhưng biết rằng Ingras, người trung thành tuyệt đối với hoàng hậu, sẽ từ chối. Selia cũng có vẻ thích không khí ở phòng đưới. Trong suốt bữa ăn, cô nhìn ra ngoài cửa và gõ gõ ngón tay theo giai điệu bài hát vọng lên. “Cô có thể xuống tầng trệt nếu cô muốn, Selia!”, Ani nói. Selia cười. “Ồ không, tôi bị tê chân vì ngồi suốt chặng đường dài. Vả lại, tôi không muốn để cô một mình”. “Cô là người bạn tốt”. “Ừm”, Selia nói. Ani chú ý thấy Selia có vẻ lo sợ trong đêm đó và những đêm kế tiếp ở các nhà trọ. Ban ngày cô rất phấn chấn, hay nói nhưng cô có vẻ như bực bội khi phải dừng chân nghỉ dọc đường. Có lần cô nói: “Tôi muốn đi thẳng đến đó nếu có thể”. Ani không hiểu tại sao Selia lại muốn tới nơi sớm hơn. Đối với cô, hành trình này hoàn toàn thoải mái tự do, được biết nhiều khung cảnh mới, nhưng cuối đường thì phải trở về với vai trò một công chúa đã hứa hôn, cũng như sẽ đám cưới với... một người. Anh ta có thể giống như con ngựa non với những cái chăn yếu ớt hay con ngựa già ảo não phải đút cỏ cho ăn, Ani thì thầm với Falada. Con Falada đập mạnh cái đuôi của mình vào chân cô, tỏ vẻ hiểu điều cô nói, nhưng không trả lời. Ani biết nó chẳng quan tâm việc cô cưới ai bởi vì cô vẫn chải lông cho nó, vẫn cho nó ăn, vẫn cho nó chạy nhảy tung tăng. Ngày thứ ba sau khi rời hoàng cung, đoàn người đã bỏ thành phố lại phía sau và đi vào vùng đất thấp mênh mông lúa mì, bắp và cỏ khô, lác đác là mấy khu trang trại và cụm thị trấn nhỏ bé. Không khí có vị ngọt và khô. Cả đoàn đều giữ được tâm trạng vui vẻ. Họ dừng chân ở quán trọ hàng đêm và đôi lần họ là những người khách duy nhất của nhà trọ. Vào những đêm đó, Ingras cho Ani cùng ngồi ăn ở phòng ăn công cộng bên dưới. Yulan, Uril và một vài người khác ca hát ầm ĩ thay cho ca sĩ của quán trọ. Ingras còn cho Ani nếm thử rượu, nhưng cô chẳng thích tí nào. Talone, người chỉ huy của nhóm hộ tống cũng không bắt họ giữ im lặng cho đến khi, giống như một người cha của đám trẻ không theo nguyên tắc, ông cảm thấy đồ đạc mang theo bị nguy hiểm hay trời đã quá khuya. Ani chú ý vào những đêm đó Selia và Ungolad thường hay trò chuyện một cách bí mật. Có lần cô gặp ông ta nắm tay Selia với vẻ thân mật. Sau hai tuần, đường đi bắt đầu dốc lên, rải rác là những cây thông, cây linh sam xen lẫn với cây bu lô. Họ không thấy cánh đồng nào nữa. Đất hoang vu đầy cỏ mọc dày và các cây thạch lam thâm tím. Một điểm đen hiện ra mờ mờ cuối chân trời. Phía bên trái là những dây núi cây mọc dọc theo sườn, chỉ còn phần đỉnh là trống trải với mấy tảng đá xám xịt. Phía bên phải là vùng đất thấp đi về hướng nam. Và trước mặt họ là vùng Forest bao la nằm hướng đông và bắc. Đoàn người bỗng nhiên im lặng khi đến gần bìa rừng. Ani quay nhìn lại lần cuối vùng đất thấp thân thương, rồi cô hít vào một hơi dài. Cô cảm nhận được bóng cây mát rượi khi đi ngang qua và rùng mình. Một ngày trong rừng có cảm giác lâu bằng cả mấy ngày trước đó, âm thanh hoàn toàn mới lạ, mùi hương cũng mới, cái cảm giác ngột ngạt không dễ chịu chút nào so với trong hoàng cung hay các phòng trọ bằng đá. Đa số người trong đoàn chưa từng vào sâu trong rừng nên cảm thấy không thoải mái với bóng đêm, với những mùi hăng hắc ngòn ngọt của nhựa thông. Khi màn đêm từ từ buông xuống vào chiều tối, Ani nhận thấy nhiều người trong đoàn hộ tống cầm chặt cán kiếm. Đó là đêm đầu tiên ngủ ngoài trời. Ingras chuẩn bị một cái lều nhỏ riêng cho công chúa. Ngay cả khi đi dưới rừng cây, ông cũng cố đối xử với Ani như là mẹ cô mong muốn. Uống nước từ cái tách vàng tại nơi hoang vu này có vẻ như rất kỳ cục đối với Ani và đối với cả đoàn, cô nghĩ vậy, nhưng cô đã quen với việc được phục vụ nên không phản đối. Selia giúp cô thay quần áo trong lều, rồi chuẩn bị chỗ ngủ cho mình ngay bên ngoài. “Vẫn còn chỗ trong này”, Ani nói mặc dù chẳng còn đủ chỗ. “Không, tôi ở ngoài này ổn mà công chúa!”, Selia đáp. Ani nằm trong lều của mình tại một nơi hiu quạnh, xung quanh chỉ là những bức tường mỏng như giấy. Cô có thể nghe con Falada đang di chuyển gần đấy. Falada, người giữ ngựa muốn tôi cột Falada với những con ngựa khác. Tôi sẽ không chạy đi đâu. Tôi biết, cô nói. Buổi tối khá mát mẻ dù đang là mùa hè. Nằm trên tấm trải nhưng Ani vẫn cảm thấy những viên đá nhỏ cấn vào xương mình. Cây cỏ rì rào những âm thanh mà cô chưa từng nghe trước đây. Một con gió thổi qua của lều, chạm vào má cô, như muốn nói với cô điều gì mà cô không hiểu. *** Mấy ngày đầu trong rừng, Selia và mọi người khá im lặng. Nhưng Ani biết khu rừng không làm con Falada hoảng sợ. Cô thích cảm giác được bao bọc bởi rừng cây xung quanh, một cảm giác vừa an toàn trong trại, vừa huyền bí ngay bên ngoài, nơi có những giọt sương là thức ăn của rong rêu và địa y, nơi có tiếng cọt kẹt cựa mình lớn dậy của cây cối, và là nơi có chim chóc tâm sự cùng những nhánh cây đầy gai nhọn. Ani lắng nghe tiếng chim chóc, cảm thấy vui khi khám phá ra mình hiểu tiếng chim. Cô không biết đó là loại chim gì, nhưng tiếng của nó gần giống như se sẻ, loại chim mà cô đã biết từ khi còn ở trong vườn hoàng cung. Nghe giống như nghe một người nói cùng ngôn ngữ nhưng phát âm khác nhau vậy. Bên cạnh chim, trong rừng còn có những con vật khác như báo, hươu, heo rừng, và chó sói. Sau khoảng một tuần trong rừng, vào một đêm, Falada đánh thức Ani và nói: Sói điên đang đến trại. “Sói! Sói hoang!”. Ani bò ra khỏi lều và hét toáng lên. Người trực đêm giật mình thức dậy, báo động nhóm bắn cung. Họ dụi mắt và giương cung. “Ở đâu?”, người hộ vệ hỏi, nửa tỉnh nửa mơ. Falada báo cho cô biết, rồi cô chỉ lại cho bọn họ. Các con ngựa khác nhảy dựng lên nhưng bị những sợi dây thừng giữ lại. Cuộc báo động đánh thức cả trại, tất cả mọi người đều ngồi dậy trong túi ngủ và nhìn vào màn đêm đen kịt trước mặt. Ngoài đó, có cái gì đang chuyển động. Một cú nhảy. Những tàn lửa phản chiếu lấp loáng mắt và răng. Sau đó là mũi tên xám xịt đâm xuyên qua cổ. Con sói ngã xuống đất ngay trước người mặt người bắn cung thứ nhất. Hai con theo nó cũng ngã xuống tương tự sau tiếng vút mạnh của những mũi tên lao trong đêm. Sau một hồi im lặng, người ta nghe có tiếng thở phào nhẹ nhõm. Buổi sáng hôm sau, Ani chú ý thấy nhiều lính hộ vệ nhìn cô với ánh mắt y hệt như ánh mắt họ từng dùng để nhắc nhau tỏ ý cảnh giác với rừng sâu. Tôi cứ nghĩ họ sẽ biết ơn cơ đấy, Ani nói. Falada khịt khịt mũi, lấy chân cào cào xuống đất. Trong ý nghĩ của nó, con người chẳng thông minh gì cả. Ani tự trách chính mình, vì hiểu rằng dù rời Kildenree nhưng điều đó không có nghĩa là những người đồng hành sẽ dễ chấp nhận hơn năng lực kỳ diệu của cô - có thể nghe và hiểu ngôn ngữ của loài vật, điều từng làm người bảo mẫu với làn da trắng như sữa chua phải kinh sợ. Một con chim rừng có bộ lông đốm nâu líu lo khi cô đi qua, nhưng Ani cúi đầu nhìn xuống không thèm nghe. Một vài ngày sau, Ani cảm thấy sự căng thẳng cuối cùng cũng tan biến. Những cuộc trò chuyện và tiếng cười đã trở lại, chủ yếu là với Selia. Nhiều người trong toán hộ vệ tìm cơ hội cưỡi ngựa gần cô ta và Ungolad là một trong số đó. Ani đế ý thấy ông ta thường đi bên cạnh Selia, có vẻ như tìm cơ hội đụng chạm vào cô ta, khi thì gỡ những chiếc lá thông nhọn đang vướng trên váy, khi thì xem xét vết trầy xước trên tay cô. Ani hi vọng sự lãng mạn sẽ tạo nên chút thú vị trong chuyến đi cho người thị nữ trung thành. Ani đi phía sau nói chuyện với con Falada. Khi nghe tiếng cười từ nhóm phía trước, cô cho ngựa phi nước kiệu đến tham gia, nhưng ngay khi cô đến gần thì tiếng cười đã chấm dứt và không ai chịu nhìn đến cô. “Có phải tôi bỏ lỡ mất câu chuyện thú vị nào rồi không?”, Ani hỏi. “Không, không có đâu thưa công chúa”, Selia trả lời. Một người hộ vệ nói gì đó với Ungolad mà Ani không thể nghe. Thế rồi không ai lên tiếng nữa. “Mấy ngày nay trời đã ấm hơn”, Ani nói. “Vâng, thưa công chúa”, người hộ vệ Uril lễ phép đáp lời. “Ồ, cơn gió này thật là dễ chịu, phải không?” “Vâng, thưa công chúa”. “Ừm...”. Ani bối rối nhìn Selia. Người thị nữ liếc nhìn lại và nhún vai nhẹ tỏ ý: Cô muốn gì ở tôi? Rồi cô ta lạnh lùng nhìn sang những hàng cây bên đường, như thể Ani không tồn tại. Nàng công chúa mười sáu tuổi cau mày nhớ lại tất cả những điều cô đã nói và làm trong ngày hôm đó. Liệu cô đâ làm gì vô ý xúc phạm Selia và phân nửa số người hộ tống cô? Họ không thể tỏ ra bực bội chỉ vì chuyện cô biết việc đàn sói hoang trước họ. Cô chẳng thấy có lý do nào hợp lẽ cả, và sự im lặng thì không thể chịu đựng nổi. Cuối cùng, cô thúc con Falada chạy nhanh hơn. Khi cô bỏ nhóm người đó lại đằng sau, mọi người lại nói chuyện, và cô nghe cả tiếng cười vui vẻ của Selia. Cảm xúc nghẹn ngào trào dâng lên trong cổ họng Ani, cô đành ậm ừ trong yên lặng để giải tỏa bớt căng thẳng. Như thường lệ, Talone cưỡi ngựa đi trước đoàn người. Ông đảo mắt nhanh như thể sắp có tên cướp nào đó nhảy xổ đến tấn công. Ani bảo con Falada đi chậm lại bên cạnh ông. Sự im lặng của ông làm Ani lo lắng liệu ông có giống như những người khác, nhưng chẳng bao lâu sau, ông cất tiếng. “Tôi không biết cô còn nhớ không, thưa công chúa, nhưng trước đây chúng ta từng có lần bên cạnh nhau, chỉ cô và tôi như thế này...”. Gương mặt từng trải của ông giãn ra chút ít khi ông nhướng mày nói thế. Ani cố nhớ lại. Cô ít khi nào đơn độc một mình. “Chắc cách đây khoảng mười năm, tôi nghĩ thế”. “Ồ, có phải ông là người mang tôi từ bờ hồ Thiên Nga về?”. “Đúng rồi. Lúc đó cô còn bé lắm. Tôi rất sợ công chúa bị bệnh. Công chúa biết không, làm cho một người lính can đảm phải hoảng sợ không phải là chuyện dễ đâu”. “Tôi sẽ nhớ đến ông vào bất cứ khi nào cần một người lính can đảm”, Ani trêu chọc. “Vâng, tôi là người của công chúa. Nếu có bất cứ nguy hiểm nào đến, thanh gươm của tôi luôn bên cô!”. Ông cười với Ani và nhanh chóng quay lại quan sát đường đi. “Ông thật là thận trọng”, cô nói. “Vâng. Trong chuyến hành trình dài của chúng ta, địa hình này rất nguy hiểm. Nếu có con đường cắt ngang dãy núi Bavara, thì người ta có thể đến được Bayern trong khoảng hai tuần. Vùng Forest có rất nhiều hẻm núi, chúng ta chọn con đường dài hơn gấp đôi là để tránh những hẻm núi đó. Còn đường chim bay hẳn phải qua rất, rất nhiều cây cầu...”. Khi ông nói, Ani thấy lối đi phía trước họ dốc thẳng lên và cong về phía bên trái. Con đường đi trên sườn núi dài, chính giữa nơi này và sườn núi kế tiếp là khe núi hẹp và sâu. “Vực thẳm bên phải, núi bên trái!”, Ani cất tiếng. “Trong rừng cũng có nhiều nơi bằng phẳng, nhưng cũng có nhiều núi cao và vực sâu”. Khu rừng không có vẻ gì là nguy hiểm đối với cô, nó chỉ tối và âm u thôi. Cô ganh tỵ với những cây linh sam cao to sừng sững đã được đứng yên tại nơi này qua bao nhiêu năm tháng. Gia đình của cô lúc nào cũng sống ở Thung Lũng Vĩ Đại. Cô là đứa con đầu tiên, là công chúa nối ngôi, là người đầu tiên phải rời bỏ thung lũng, người đầu tiên thấy vùng Forest. Cô ước phải chi đó là quyết định của chính cô, phải chi chính cô là người đánh cắp một con ngựa và bỏ đi mạo hiểm giữa đêm khuya, chứ không phải là người thực hiện bổn phận của một đứa con. Con đường này dài quá. Còn bao lâu nữa chúng ta mới đến nơi? Falada hỏi. Vài tuần nữa, Ani trả lời. Làn gió ấm từ khe núi phía dưới thốc lên mái tóc họ. Con Falada vẫy đuôi và bước nhanh hơn một chút. *** Chiều hôm ấy, đang đi trên đường thì thấy có dòng suối ở gần đó, Talone liền cho mọi người dựng trại sớm. Đã một tuần kể từ ngày họ tìm thấy dòng nước cuối cùng. Nước dự trữ trong bình đã cạn, cả đoàn người đều cảm thấy khó chịu vì bụi, mùi hôi, và lông ngựa, Ingras xếp một cái bồn tắm bằng kim loại bên trong lều Ani và sửa soạn nước nóng để cô tắm. Khi Ani ngâm mình trong nước ấm thì những người còn lại trong đoàn kéo qua phía bên kia núi để tắm giặt. Selia ở thượng nguồn, còn những người đàn ông thì ở hạ nguồn. Talone ra lệnh cho Ishta, một gã hộ vệ dong dỏng ốm, mũi dài bảo vệ Ani, nhưng gã ta có vẻ không chú tâm lắm vào công việc. Trời đã bắt đầu tối mà mọi người vẫn chưa về. Ani ngồi hơ tóc bên đám lửa chờ mọi người. Ishta đứng phía bên kia đám lửa. Ánh lửa làm gương mặt gã trở thành màu cam. Cô có thể nghe thấy gã đang dùng con dao cạo cạo phía dưới móng tay. Khi Ishta nói, giọng gã mềm mại và du dương như phụ nữ: “Công chúa thấy thế nào khi tắm bằng bồn nước ấm trong cái lều nhỏ đó?”. “Rất dễ chịu, cảm ơn anh!”, Ani trả lời nhưng không thấy thoải mái. “Ừm, cô thích làm công chúa hả?”, gã bước đến một bước. “Tôi không biết. Tôi sinh ra đã là một công chúa. Hỏi như anh thì cũng như hỏi: Anh có thích làm một người đàn ông không?”. Gã bước thẳng về phía cô, những lá thông khô gây vỡ như mảnh kính vụn dưới đôi giày. Rồi gã cúi mình xuống, dựa vào cô. Cô cảm thấy cổ họng nghẹn lại. “Cô có thích tôi làm một người đàn ông không?”, Ishta cười để lộ những chân răng đã mòn, dơ bẩn. “Lùi lại”, cô thì thầm. Gương mặt gã trơ ra, trông rất ranh mãnh, dã man, gương mặt sắc nhọn như vũ khí, hơi thở chứa đầy những điều xấu xa. Ani nắm chặt một nhánh cây bằng cả hai tay và có vẻ như không muốn buông nó ra. Cô không đẩy gã, mà cũng không chạy đi. Cô chưa từng có cảm giác này bao giờ, vô vọng, cô đơn, không có người phục vụ để gọi, không có hộ vệ ngoài cửa, mà thật ra cũng chẳng có cửa. Và một gã đàn ông đang đến quá gần. “Lùi lại, Ishta”, cô nói một lần nữa, nhưng giọng cô không có chút quyền uy. Gã nhếch mép cười. Liền lúc đó, có tiếng động và giọng cười ở xa xa. Ishta đứng dậy từ từ đi ra trong khi một nhóm hộ vệ đang bước vào trại, mặt người nào cũng sáng sủa hồng hào. Talone bỏ thêm nhánh cây khô vào đống lửa và ngồi xuống cạnh cô. Ani len lén nhìn xuống đôi bàn tay vẫn còn đang run rẩy của mình. “Công chúa, có chuyện gì không ổn à?”. Cô thả nhánh cây trở lại vào đống củi, khoanh tay: “Tôi không sao”. Trước đây cô không bao giờ nghĩ có người nào đó dám xâm phạm cô... và dám thích thú tận hưởng cảm giác ấy. Nhận thức mới làm cô nhìn Talone với vẻ nghi ngờ. Ông là người ra lệnh cho Ishta bảo vệ cô. Vậy ông có biết? Liệu cô có nên tin ông ta? Ai là người thực sự bảo vệ cô? Ani đi vào lều của mình, cảm thấy như bị mù khi ngón chân vấp phải đá và gốc cây. Selia chuẩn bị sẵn chỗ ngủ cho mình ngay bên cạnh lều của Ani. Mái tóc ướt rượt của Selia như phát sáng trong bóng tối lờ mờ. Ani ngồi trong một góc chiếc chăn của Selia, ép sát đầu gối vào ngực mình, hi vọng có sự chia sẻ. Có chuyện mới xảy ra, cô muốn nói như thế. Có chuyện lạ, tôi muốn nói cho cô nghe, cô sẽ nói nếu Selia tỏ ý muốn nói chuyện, cũng giống như những cuộc trò chuyện nhiều giờ liền của họ ở ban công trong khi Selia chải mái tóc của cô, hay những khi cùng dạo bước trong hoàng cung. Ani đang chờ đợi những giờ phút như vậy, chờ đợi một cuộc nói chuyện thoải mái dễ chịu, chờ đợi một cái chăn ấm quấn xung quanh vai cô, để ngăn cách cô với bóng đen nặng nề phía sau lưng họ. Cô chờ đợi Selia, người mà lúc nào cũng muốn khởi đầu câu chuyện theo cách của riêng mình. Selia chuẩn bị xong chỗ ngủ cho mình. Cô ta đứng cạnh chiếc gối và không nói gì cả. “Cô đi tắm thế nào?”, Ani hỏi. “Lạnh”. “Ồ, tôi thật vô tâm, Selia. Lẽ ra cô nên tắm trong trại bằng nước ấm”. “Ý công chúa muốn nói là dùng nước sử dụng rồi của cô đó hả? Có ai nấu nước cho thị nữ bao giờ? Không, cảm ơn, tôi thích nước suối hơn!”. “Selia, cô giận à?”. Selia quay sang Ani và trong bóng đêm cách xa đám lửa, Ani chỉ thấy đường viền của gương mặt và cái nhìn lạnh lẽo của Selia. “Không, dĩ nhiên là không, thưa công chúa nối ngôi!”, Selia nói. Giọng cô ta bình thường trở lại, du dương, vui vẻ, và chân thật. “Khi chúng ta đến Bayern, thì sẽ có nước nóng và giường trở lại”, Ani nói. “Cảm ơn công chúa nối ngôi”. Giọng cô ta vẫn đằm thắm lịch sự. “Vâng, tôi tin ở Bayern sẽ có nhiều thứ chờ tôi hơn là chỉ có nước và lông ngỗng”. “Ý cô là sao?”. Selia không trả lời. Ai đó thêm củi vào đám lửa, và trong một lúc ánh sáng bùng lên, Ani thấy rõ mặt của Selia. Cô ta đang nhìn xung quanh trại. Ani quay sang, thấy Ungolad đứng bên đám lửa nhìn Ani. Ông ta mỉm cười, nhưng chẳng lộ ra cái răng nào. CHƯƠNG 4 Đã bốn tuần đi trong những rừng thông và linh sam bất tận. Mặc dù hơi căng thẳng nhưng Ani cảm thấy thích thú với chuyến đi, với những con gió nhè nhẹ thổi vào mặt. Cô tưởng tượng những làn gió thoảng là hơi thở của những cây thông hai bên đường. “Truyền thuyết nói rằng cây cối có thể chuyện trò, còn cơn gió sẽ ca hát”, Ani tự nói với mình. Đó là một giai điệu trong bài hát mà cô thường nài người bảo mẫu hát cho nghe hồi cô còn nhỏ. Giai điệu thật kỳ diệu và huyền bí, nó làm cho cô muốn cởi bỏ giày và nón để chạy ra nơi hoang dã ngay bên ngoài những ô cửa kính đóng chặt. Trước đây người dì của cô từng nói về kỹ năng nói chuyện với động vật và nói chuyện với thiên nhiên. Ani nhớ đến câu chuyện hồi mới sinh ra cô không mở mắt suốt ba ngày. Dì nói khi cô vừa chào đời đã có sẵn một từ trên lưỡi, và không tỉnh dậy vì đã cố thử “nếm” nó. “Từ gì nhỉ?”, cô tự hỏi. Cơn gió sẽ hát ca. Chỉ có vậy, cô không thể nhớ được giai điệu còn lại của bài hát. Ani thấy Talone đang kiểm tra hai bên đường. “Sẽ có một cái cây phía bên tay phải được đánh dấu chỉ nửa đường, thưa công chúa”, ông nói. “Một số dấu hiệu chúng ta vừa đi qua cho thấy chúng ta đang trong địa hình bất lọi, không ai trong chúng ta từng đi qua con đường này, ngoại trừ Ungolad”. “Ông có thể nói cho tôi nghe về Ungolad?”. “Ông ta đã từng đi bảo vệ cho các nhà buôn, nhưng đã mười năm nay ông ta không đi qua vùng Forest. Song, tôi nghĩ ông ta vẫn rất hữu ích cho chuyến đi như thế này. Ông tình nguyện đi chuyến này, thưa công chúa. Tất cả mọi người đều tình nguyện!”, Ani nhướng mày còn Talone thì gật gật đầu. “Hoàng hậu chẳng cần phải ra lệnh cho bất kỳ ai tham gia bảo vệ công chúa trong chuyến đi này”. “Nhưng tại sao lại như vậy?”, Ani hỏi. “Tôi nghĩ chuyện cưỡi ngựa băng qua rừng trong nhiều tuần sẽ làm mọi người nản chí chứ”. “Ồ, đa số chúng tôi đều không nghĩ vậy. Chúng tôi là những chiến binh kiên cường!”, ông đấm tay thình thịch vào ngực và cười. “Thực vậy, tôi quên là đã thấy rất nhiều chiến binh tay nắm chặt gươm và mắt luôn liếc nhìn hai bên đường suốt tuần đầu tiên trong rừng”. Talone bắt chước cô, liếc nhìn sâu trong cánh rừng bên đường một cách lo lắng. Cử chỉ của ông làm cô bật cười, và cô cảm thấy ông là người đáng tin cậy. “Nhưng có lọi ích gì mà người như Ungolad muốn đạt được trong chuyến đi như thế này?”. “Thật tình là tôi không biết, thưa công chúa. Tôi đã rất lưỡng lự trong việc nhận ông ấy đi cùng khi Ungolad tình nguyện. Ông ấy luôn có vẻ gì đó khó đoán trước, những người bảo vệ cho các nhà buôn thường ít được tôn trọng vì họ hay hám lợi. Nhưng hiện ông ấy là thành viên trong quân đội hoàng gia, và ông đã từng đến Bayern trước đây. Xem kìa, đây rồi!”. Phía bên tay phải họ, trên thân cây linh sam còn sống có khắc biểu tượng mặt trời và vương miện của Bayern. “Chúng ta đã đi được nửa đường rồi”, Talone nói. “Ký hiệu đó... là của đất nước Bayern làm trên con đường này hay sao?”. “Đây là vùng trung lập. Nhưng nếu người Kildenree không sống ở đây thì lấy cái gì để ngăn cản người Bayern nếu họ muốn tấn công?”. Giọng ông trở nên mềm hơn. “Nếu một vương quốc như Bayern cảm thấy thích Thung Lũng Vĩ Đại thì họ có thể lấy nó mà không gặp phải khó khăn nào”. Ingras cưỡi ngựa đến bên họ. “Thưa tướng quân, đã đến lúc tạm nghỉ giữa trưa”. “Tất cả tạm dừng chân!”. Khi Ani rời yên con ngựa Falada, cô nghe những người hộ vệ bàn tán một cách vui vẻ: “Nửa đường, chúng ta đã đi được nửa đường rồi”. “Nửa đường, không quá dài hả các anh em?”, giọng của Ungolad vang lên và ông ta vỗ lưng một vài người. Khi thấy Ani đang nhìn, ông thêm vào: “Không quá dài hả công chúa?”. Sau khi ăn, Ani muốn chải lại bờm cho con Falada và đi đến xe chở vật dụng. Selia đang đứng bên trong chiếc xe chở vật dụng thứ ba. Cô ta đang cầm chiếc áo choàng dài màu xanh của Ani ngắm nghía. “Selia”, Ani cất tiếng. Selia giật mình, đánh rơi cả chiếc áo. “Ồ, xin chào công chúa nối ngôi!”, cô ta nói, trở lại trạng thái bình thường một cách nhanh chóng. Ani không hiểu tại sao Selia có vẻ bối rối như thế. Cô chờ Selia mở lời trước. “Tôi chỉ muốn xem mấy món đồ xinh đẹp của cô”, Selia mỉm cười và nhặt cái áo lên lại, không còn vẻ bất ngờ nữa. “Tôi biết tôi không được công chúa chú ý, nhưng cô có nghĩ tôi sẽ rất đẹp khi mặc chiếc áo này? Cô cũng cùng kích cỡ với tôi!”. Ani không trả lời. Selia nghiêng đầu qua một bên. “Cô giận à, công chúa nối ngôi. Cô tức giận vì không muốn người hầu làm dơ bẩn những đồ đạc quý giá của cô?”. “Dĩ nhiên là tôi không để ý, nhưng Selia, cô tò mò quá, tôi không thể tin được”. “Tôi xin lỗi”, Selia nói. “Không, tôi phải xin lỗi mới phải. Cô không vui khi phải đi Bayern phải không?'. “Tuyệt đối không phải như vậy”. “Vậy chứ chuyện gì? Tôi hi vọng tôi vẫn là bạn của cô...”. “Vâng, sự hạ mình của cô là điều thú vị nhất, thưa công chúa nối ngôi”, Selia bước xuống khỏi chiếc xe. “Cô phải tự chúc mừng mình vì cô đã đối xử với tôi tốt hơn kiểu đối xử với người hầu”. Giọng nói của Selia làm cho Ani cảm thấy lạnh ở những đầu ngón tay. Cô nuốt nước bọt một cách lo lắng. “Một người hầu”, Selia nói lại. Cô ta nhìn xuống với gương mặt ửng hồng và cái cằm run run. “Tôi muốn tất cả những điều cô có. Còn cô, cô thậm chí không quan tâm đến việc cô là ai. Tôi phải phục vụ cô, gọi cô là cô chủ, lúc nào cũng chờ đợi, chờ đợi, và chờ đợi...”, Selia đặt tay lên mắt, hai vai run lên. “Thật là một chức danh nghe kinh khủng làm sao, thị-nữ-chuyên-chờ-đợi. Tôi đã chờ và chờ cho đến khi xương tôi muốn nứt ra, các bắp thịt muốn đóng băng lại, và tâm trí thì nhăn nheo như trái nho khô. Còn cô thì cứ tung tăng ở đó với những con ngựa, những gia sư, với áo khoác dài lộng lẫy, với những người hầu và tất cả những điều cô làm là chỉ việc trốn ở trong phòng”. Ani cảm thấy kinh ngạc. Làm sao cô có thể mù quáng trong ngần ấy năm được chứ? “Ồ, Selia, tôi xin lỗi đã không nhận ra điều đó...”, Ani đặt tay lên vai Selia nhưng cô ta lập tức hất ra. “Đó là bởi vì tôi đã chăm sóc cô quá tốt đến mức cô không nhận ra!”, Selia nói. “Tôi đã chờ đợi cơ hội của mình trong nhiều năm, và giờ thì nó đã đến. Đừng đụng vào người tôi và đừng ra lệnh cho tôi. Tôi không còn là con hầu của cô nữa. Cô, cô là ai? Là đứa con hỗn xược của một đôi cha mẹ may mắn - những người có họ hàng bà con với một vị vua không có con cái. Không có tí ti dòng máu hoàng gia nào cả. Tôi tin mỗi người chúng ta đều có quyền vươn tới để trở thành người mình muốn. Vì thế, cô, công chúa nối ngôi, cô chẳng là gì cả!”. Selia nói như thể cô ta đã kiềm chế những từ đó trong lòng lâu lắm rồi, giờ nó tuôn ra như dòng lửa. “Nhưng tôi... chính cô bảo... tôi nghĩ cô muốn đi theo mà!”. Ani biết điều đó thật không công bằng nhưng cô cảm thấy quá khó khăn trong việc tự bảo vệ mình. Đầu óc cô quay cuồng loạn xạ như đứa trẻ bị hoa mắt choáng váng. Liệu đây có phải là hiệu ứng của kỹ năng nói chuyện với con người chăng? Mỗi từ Selia thốt ra đều có vẻ như là một sự thật không thể phủ nhận. Cô không là gì cả. Chính cô đã làm cho mình không là gì cả. Cô lùi bước, như thường lệ sẵn sàng xin lỗi và chờ một thời gian để xoa dịu ký ức. Một làn gió ấm từ những gốc cây sâu trong rừng thổi qua cổ Ani, làm một góc khăn của mẹ cô thò ra khỏi chiếc áo chẽn. Lại thêm một con gió thổi thẳng vào ngực cô. Ani nghĩ con gió cố tình khuấy động làm cho con tim cô đập nhanh hơn, làm cho làn da cảm thấy ngứa ngáy, làm cho dòng máu chảy ấm hai chân và hai tay. Món quà từ mẹ, Ani nghĩ, Món quà của mẹ bảo vệ mình, như bà từng nói. Ani bắt gặp cái liếc xéo của Selia và cô vươn thẳng người trở lại. “Hãy bỏ cái áo xuống, Selia”, cô nói. Selia lưỡng lự. Ani chưa bao giờ ra lệnh cho cô bất cứ điều gì. “Hãy bỏ cái áo xuống”, cô lặp lại một lần nữa. Selia bỏ cái áo trở lại trong xe chở vật dụng, mặt đầy vẻ bức xúc. “Hãy đi nói lại mọi việc với những người hộ vệ của cô đi, công chúa nối ngôi. Đi báo động cho quân lính. Hãy sử dụng quyền lực của mình để dạy cho tôi một bài học đi. Tôi thách cô đó!”. “Tôi không còn là công chúa nối ngôi”, Ani nói bằng giọng vững chắc. “Cô chế nhạo tôi bằng chức danh đó. Kể từ nay về sau, cô chỉ cần gọi tôi là công chúa, hoặc cô chủ, nếu cô thích bởi vì cô chưa bao giờ cảm thấy thoải mái khi gọi tôi bằng tên. Những người bạn của tôi đều gọi tôi bằng tên”. “Cô chẳng có người bạn nào”. “Không phải tôi không muốn cô là bạn của tôi hay chỉ là người hầu của tôi, Selia. Tôi nghĩ cô đóng cả hai vai trò. Cô vừa giúp tôi biết rằng tôi đã sai. Thế nên, cô đã dám đối xử với tôi bằng cách đó. Cô nhầm rồi!”. “Ồ, công chúa của tôi, cô chẳng biết tí gì...”, Selia cười nhưng không nhìn vào Ani và bỏ đi. Ani đứng như trời trồng cho đến khi lấy lại bình tĩnh. Con giận đã làm cô đỏ cả mặt và giọng nói trở nên cứng rắn hơn nhưng giờ cô cảm thấy lạnh và mệt mỏi. Có điều, chỉ trong chốc lát cô cảm thấy thật tự tin giống như mẹ của mình. Cô lấy làm lạ không biết động cơ nào làm cho Selia nổi loạn. Ani kéo chiếc khăn tay ra khỏi cái áo chẽn. Chiếc khăn đã cũ, màu trắng giờ biến thành màu ngà ngà. Những giọt máu của mẹ cô vẫn còn hiện rõ trên chiếc khăn, ba giọt màu nâu sậm. Cô nghĩ, có lẽ đây là điều kỳ diệu. Có lẽ máu của mẹ đã tái tạo nên sức mạnh. Cô miên man nhớ lại câu chuyện cổ tích về người mẹ và giọt máu được kể bên giường ngủ. Người mẹ nuôi con bằng một bên ngực sữa và một bên ngực máu. Con trai bà lớn lên trở thành một chiến binh hùng dũng. Lại một truyện khác kể về một cô gái trẻ bị nguyền không thể lớn thành một người phụ nữ được, và khi mẹ của cô già yếu, sắp qua đời, bà đã tự cắt cổ tay mình lấy máu tắm cho con gái, thế là lời nguyền được xóa bỏ. Những câu chuyện như vậy hấp dẫn cô bằng cảm giác lẫn lộn giữa bạo lực và tình yêu, không giống như cách cư xử lạnh nhạt, điềm tính của mẹ cô. Cô đã nghĩ, đã hi vọng chiếc khăn tay này cũng sẽ làm nên điều phi thường cho cô, giống như một phần của những câu chuyện thần thoại, nhưng sự thật là với cô, chiếc khăn giống như một biểu tượng ẩn chứa tình yêu của mẹ. Cô thật tình muốn có một điều gì đó thật kỳ diệu, điều gì đó thật mạnh mẽ, một điều gì đó thể hiện tình yêu mẹ dành cho cô, chứ không phải sự lạnh lùng ghét bỏ. Ani cất chiếc khăn trở lại nơi áo chẽn và tự nhủ rằng kể từ khi bước chân ra khỏi cổng hoàng cung, chiếc khăn này phần nào đó đã bảo vệ cô. Tối hôm ấy, Ani tự mình chuẩn bị chỗ ngủ. Ingras bất ngờ thông báo Selia từ chối phục vụ, nhưng Ani không yêu cầu một ai khác làm người hầu cho cô, hay làm bạn với cô. Trong lều, Ani tự nhủ thật ngốc nghếch nếu tin một ai đó. Qua một khe hở trong lều, cô có thể thấy Talone huớng dẫn nhóm trực đêm. Cô chỉ muốn tin ông ta, nhưng vụ sàm sỡ của Ishta và sự phản bội của Selia là hai nỗi đau không nguôi. Ít ra thì mình có con Falada là người bạn thật sự và chiếc khăn là vật bảo vệ, cô nghĩ. *** Hai tuần sau kể từ ngày gặp cái cây có dấu chỉ nửa đường, cả đoàn gặp một con suối to cắt ngang, chảy qua cây cầu gỗ. Talone đề nghị dừng chân nghỉ sớm và kiểm tra cây cầu xem nó có bị mục không trước khi cho đoàn đi qua vào sáng hôm sau. Ungolad có vẻ hài lòng với việc dừng chân sớm này, ông nói về phía thượng nguồn cách đây khoảng vài dặm có một thác nước. “Một khung cảnh tuyệt vời cho những đôi mắt suốt mấy tuần nay bị giam hãm trong rừng sâu chỉ có cây là cây bất tận”, ông gật đầu với Ani. Nhóm chính trong đoàn đi theo Ungolad lên thượng nguồn dọc theo dòng suối. Ani ở lại, và Ungolad lộ vẻ thất vọng. Khi cô chải lông cho con Falada, một làn gió từ dòng sông mang theo không khí ẩm ướt thổi vào mái tóc của cô, khiến hơi lạnh bao bọc xung quanh mặt. Trong khoảnh khắc, Ani bỗng cảm thấy được lờ mờ hình ảnh của thác nước ngay trước mắt. Nhưng sự tưởng tượng của cô tan biến ngay sau đó. Thật ra cô chưa bao giờ thấy một thác nước và thật đáng tiếc khi bỏ qua cơ hội. Trong khi Talone và những người khác kiểm tra cây cầu thì Ani thả bộ theo con đường mòn của hươu. Đất rừng xốp nhưng đi rất dễ chịu, nhất là sau hàng tuần cưỡi ngựa. Cô thích cái cảm giác được đi trên đất lồi lõm, bước đi êm đềm không một tiếng động. Mùi cây thông và hơi nước lạnh làm cho thế giới xung quanh rất trong lành, Ani cảm thấy thích thú vô cùng. Những ngày cuối cùng trở nên căng thẳng kỳ lạ với sự lạnh lùng của rất nhiều hộ vệ, gương mặt đầy bức xúc, ánh mắt giận dữ và căm hờn của Selia, những tiếng đập bí ẩn của chiếc khăn trên trái tim Ani... Nhưng bây giờ, không khí trong rừng thật dễ chịu, phủ toàn một màu xanh như cây lúa mì vào mùa xuân. Những nhánh cây trên cao lắc lư cùng những con gió rừng mạnh mẽ. Phía dưới là tiếng tí tách từ dòng sông. Ani cảm thấy cô đang di chuyển trong cuộc nói chuyện giữa bầu trời và mặt đất. Chẳng bao lâu sau, tiếng đổ ầm ầm xuống của thác nước lấn át tất cả. Ani tiến đến gần âm thanh đó và núp xuống những tán cây thông. Ngay dưới chân cô tóe lên một dòng nước trong làm rung rinh mặt đất, tạo thành một lớp sương mù làm ướt mái tóc cô. Nước đổ xuống từ trên cao, nơi có ba người đàn ông, rồi tiếp tục chảy qua những tảng đá và những dốc nhỏ hơn cho đến khi xuôi theo làn nước phẳng lặng phía xa hạ nguồn. Cô có thể nhìn thấy nhóm Ungolad phía trên thác và quyết định không tham gia vào nhóm của họ, mà ở đây vui với sự cô độc một mình. Đâu đó phía sau, cô nghe loáng thoáng tiếng con chim gọi bạn tình. Bay đi, nguy hiểm. Đó là tiếng kêu thông thường của loài chim rừng mà cô đã từng nghe hồi còn nhỏ, và tiếng kêu quen thuộc đó ở nơi này làm cô cảm giác như những lời đó dành cho cô. Nguy hiểm. Bay đi. Cô với tay nắm chặt cành cây trên đầu và bắt đầu rời khỏi bờ dốc. Cùng lúc đó, có cái gì vướng mắt cá chân làm cô trượt té. Ani nắm vội một cái cây để đứng dậy, và nhìn hòn đá ngáng chân cô rơi tõm xuống nước. Đất dưới chân cô trơn trượt và ướt. Nếu không kịp nắm cành cây, thì có thể đầu cô đã va vào đá, có thể cô đã bị dìm xuống dưới dòng nước và chết đuối. Cô nhìn xung quanh để xem cái gì đã tác động đến hòn đá ban nãy. Chẳng có ai. Nhưng có thể..., cô nghĩ khi chợt thấy có ánh vàng lóe lên... Có thể đó là một sợi dây buột tóc màu vàng và cái bóng của ai đó vừa mất hút vào rừng. Ani chạy ngược về trại và cảm thấy đau ở mắt cá chân trong từng bước đi. Ungolad thấy cô, mắt lóe lên tia nhìn tỏ vẻ ngạc nhiên khi cô vẫn còn sống và không bị ướt, nhưng ông ta nhanh chóng thay đổi thái độ, nhanh đến nỗi Ani tự hỏi gương mặt ngạc nhiên mới hồi nãy có thật hay không. Ông ta đi ngang qua cô, vỗ nhẹ lên vai cô và nói: “Cô đã bỏ lỡ thác nước, thưa công chúa”. Cô không chắc liệu ông ta hay ai khác ném hòn đá đó. Nhưng ngay cả khi ông ta làm thì mình vẫn được bảo vệ. Mình không cần phải sợ, Ani nghĩ. Cô vỗ nhẹ nhẹ chiếc khăn ở ngực và tin một cách mãnh liệt rằng chính nó đã bảo vệ cho cô, rằng cô có thể nghe giọng nói từ những giọt máu của mẹ ngay lúc nghe những con chim nói. *** Một tuần sau vụ thác nước, đoàn người đụng phải một khúc rừng dày đặc cây đến nổi năm người đàn ông phải té ngã trên đường. Trong khi một số hộ vệ lo dọn dẹp chướng ngại vật cho xe chở vật dụng, thì những người còn lại tự tìm cách vượt qua khu rừng. Ani và Falada đi len lỏi trong rùng cây, cách một khoảng khá xa so với những người khác. Có cái gì đó không ổn, con Falada nói. Là cái gì? Tôi không biết. Tai Falada xoắn lên để nghe ngóng tứ bề, nhưng nó vẫn tiếp tục bước. Dừng lại một chút nào, Ani nói. Cô nghiêng về phía trước vỗ nhẹ lên cổ nó. Đột nhiên Falada hí vang và lồng lên. Ani nắm chặt bờm, hai chân kẹp bên hông con ngựa, nói chầm chậm: Bình tĩnh nào, Falada, không có gì đâu, bình tĩnh nào. Falada đưa chân trở lại mặt đất và bình tĩnh dần. Da nó nổi gai dưới yên ngựa. Có thứ gì đó vụt qua tôi, nó nói. Ani ngoái nhìn lại sau lưng. Chẳng có ai cả. Liền sau đó, công chúa bé bỏng nhận ra hướng bên phải dẫn đến một hẻm núi dài, một cái dốc sâu đủ để ngã gãy cổ. Ani và Falada dừng lại nghỉ ngơi bên đường, chờ đợi Ungolad ở cuối đoàn người tiến lên. Cô nhìn người hộ vệ. Bím tóc của ông ta rũ xuống lung giống như một con vật bị giết chết được vắt trên vai người thợ săn. Ông ta đeo một thanh kiếm dài bên hông, thẳng người về phía trước, liếc mắt lên trời. Chút dũng khí đâu đó trong lòng thôi thúc Ani, nài xin cô hành động. Cô xem xét con ngựa của Ungolad, một con ngựa hồng cao gần bằng Falada. Falada, cậu có thể nói cho tớ biết về con ngựa này và việc nó nghĩ gì về người kị sĩ đang cưỡi nó không? Falada vẫy đuôi, chuyển ánh mắt sang con ngựa bên canh. Có một sự thay đổi trong nhịp bước của nó. Nó cúi thấp đầu. Con ngụa hồng lắc lắc và đưa móng lên cao hơn. Với khả năng thấu cảm từ xưa đến nay với Falada, Ani nghĩ cô có thể phát hiện ra từng phản ứng của con ngựa hồng nhưng cô chờ đợi những phán đoán của Falada để chắc chắn hơn. Ungolad nhận thấy sự chú ý của công chúa. Ông ta mỉm cười với cô: “Cô có vẻ thích thú con ngựa của tôi, thưa công chúa?”. Cô gật đầu. “Nó đẹp lắm, và ông lại cưỡi rất cừ. Nó có vẻ dễ bảo nhưng tôi phải nói rằng ông vẫn muốn hơn mức đó, muốn được kiểm soát hoàn toàn”. Ungolad chớp mắt một cách ngạc nhiên. Ani cũng ngạc nhiên với chính mình, và cô mỉm cười hài lòng. “Cô là một người hiểu về đàn ông và ngựa đấy”, gã hộ vệ nói. “Và tôi có nghe nói tất cả điều cô biết đủ để cô kết hôn với một hoàng tử rồi sinh ra những hoàng tử bé con”. Lời nhận xét của Ungolad đầy vẻ châm chọc, nhưng nó cho thấy cô đã làm ông ta giật mình. Được thể, cô tiếp tục: “Với hiểu biết của tôi về loài ngựa, tôi có thể nói đúng đôi điều về con ngựa của ông”, Ani nói trong khi Falada im lặng thuật cho cô tất cả những gì mà nó đã biết được. “Con ngựa này là một con ngựa hoang, bị bắt và được huấn luyện muộn hơn bình thường, huấn luyện một cách triệt để, làm cho nó dễ bảo hơn. Nó đã có rất nhiều người chủ và bị đánh nhiều lần mới nghe lời. Đến lúc vào tay ông thì nó đã dễ bảo như một con bò. Nó nghĩ ông là một người khó đoán và nặng nề hơn ông nghĩ. Và nó đang bị mắc một viên đá ở cái móng bên phải chân trước”. Ungolad cười gượng gạo. “Thôi nào, công chúa! Cô thích đùa giỡn hơn tôi nghĩ đấy...”. Ông ta mỉm cười. Những cái răng hàm trên thoắt ẩn thoắt hiện khi môi cử động. “Cảm ơn”, Ani nói, mỉm cười một cách duyên dáng, và thúc vào hông Falada phi nước kiệu vượt lên phía trước. Tay cô run lên, máu dồn vào những ngón tay và cô gần như cười lớn. Công chúa bé nhỏ chạm khẽ vào một góc của chiếc khăn tay. Máu của mẹ đang bảo vệ mình, cô nghĩ. Mình không có gì phải sợ cả. Tại trạm dừng chân tiếp theo, cô nhìn Ungolad. Lúc này ông ta đang trừng trừng xem xét và lấy một viên đá nhỏ khỏi cái móng bên phải chân trước con ngựa của mình. *** Khi đoàn người đến gần Bayern, con đường như bỏ lại những hàng cây ở phía xa, và vào giữa ngày, đã không thấy bóng dáng rừng cây đâu nữa. Những người đồng hành với công chúa Ani có vẻ mệt mỏi và bị say nắng. Cũng phải thôi, hôm đó là một ngày nắng chói chang. Khi họ vượt qua một nhóm thương gia nhỏ đang tiến về Kildenree, Talone lên tiếng hỏi: “Ồ, thưa ông, ông đã rời Bayern được bao nhiêu ngày rồi?”. “Sáu ngày để anh đến được thành phố, nếu đó đúng là nơi anh đang muốn tới”. Người thương gia nâng cái mũ che nắng rộng vành lên khi bắt gặp cái nhìn của Ani. Cô mỉm cười vì giọng của ông. Ông nói một cách thận trọng, để mỗi từ bật ra trong câu tiếp theo, những nguyên âm ngắn và phụ âm phát ra ngoài từ trong cổ họng. Cô quay sang nhìn Selia, tự hỏi cô thị nữ có nhớ cái giọng đó từ lần mà tể tướng của Bayern đến thăm Kildenree năm năm về trước không, nhưng Selia đang còn mải mê với những người lính hộ vệ ở phía sau. Những nhà buôn không nhìn thấy cô. “Các anh đã đi qua bao nhiêu thị trấn hoặc khu dân cư rồi?”, Ungolad hỏi. “Ồ, hai lần!”. Ani nhìn thấy Ungolad và Selia trao cho nhau một cái nhìn. Ban đêm họ dừng lại cắm trại, đốt lên hai ngọn lửa. Dano, người đầu bếp, nhóm một đống lửa trước và Talone, Ingras, những người đánh xe ngựa, những lính canh tụ tập xung quanh nó. Ungolad nhóm đống lửa thứ hai, lôi kéo Selia và một nhóm đông lính canh khác. Ani leo xuống khỏi con Falada để nhìn thấy chỗ hạ trại được chia làm hai phần, và cô cảm thấy rằng điều gì đó rõ ràng đã được quyết định. Cô đứng giữa họ, không biết phải làm gì. Talone nhận ra cô và bước lại phía cô. “Công chúa, trông cô có vẻ lo lắng”. Mặt ông đã hằn lên tuổi tác, bên thái dương đã có nhiều sợi tóc bạc. Ông đã trung thành với mẹ cô trong nhiều năm, nhưng điều đó có nghĩa là ông sẽ trung thành với cô không? “Chuyện gì thế?”, ông nói. Ani vò chiếc khăn tay giữa hai ngón tay và buộc mình nhìn thẳng vào mắt người lính. “Talone, tôi có thể tin ông không?”. Ông chớp mắt và nhìn như thể cô đã giật một mũi tên ghim từ bên hông của ông ra vậy. “Có lẽ tôi đã làm cô thất vọng nên cô phải hỏi câu đó?”. Ông đặt một nắm tay lên trái tim và nói với giọng mạnh mẽ, chắc nịch, “Tôi xin thề trung thành với cô, công chúa Anidori Kiladra, và hứa che chở cô để cô được an toàn. Nếu cô mong muốn, tôi sẽ là người hộ vệ riêng của cô cho đến khi tôi già và chết đi”. Cô chớp mắt trước lời cam kết của Talone, trong lòng tràn ngập niềm vui và sự biết ơn. Cảm thấy rằng lời tuyên thệ vừa rồi đang mong chờ một dấu hiệu chấp thuận từ phía cô, cô vội tìm kiếm trong người thứ gì đó để đưa cho ông. Tất cả thứ giá trị trên người cô là hai chiếc nhẫn. Cô tháo một chiếc nhẫn cẩn một hạt ruby từ ngón tay áp út và đặt nó vào tay ông. “Cảm ơn ông, Talone”. Talone dường như xao động, ông cúi thấp đầu trong một lúc nên cô không thể nhìn thấy mắt ông. Rồi ông đút chiếc nhẫn vào trong túi áo. “Cảm ơn cô, công chúa!”. Ông dẫn cô đến đống lửa của mình, nơi cuộc thảo luận đang sôi lên với sự khó chịu của các bên trong nhóm. “Tôi không thích thái độ của họ”, Adon nói. Anh là một người đàn ông trẻ, thích hành động. “Bạn bè của Ungolad thể hiện rõ là họ chỉ theo ông ta chứ không phải ngài, thưa đội trưởng. Tôi thề rằng họ càng không phục tùng khi chúng ta càng đến gần Bayern. Có gì đó giống như sắp nổi loạn”. “Ungolad dường như rất hào hứng để biết bao lâu nữa chúng ta sẽ đến thị trấn đầu tiên”, Ani thì thầm. “Có lẽ họ có đồng minh ở đó”, Radal nói. “Hoặc họ lên kế hoạch làm gì đó trước khi chúng ta có chứng cớ”, Adon tiếp lời. “Hoặc họ đang hăm hở với cảnh lại được ngủ trên một chiếc giường đàng hoàng và ăn những thức ăn đúng nghĩa”, Radal lưỡng lự, “Có phải tất cả chúng ta đều mong muốn như thế không?”. “Ùm”, Talone nhìn công chúa. “Tôi không biết điều đó có nghĩa là gì. Có thể là họ dự định ở lại Bayern và không quay về Kildenree vào mùa xuân tới. Nhưng, thưa công chúa, nếu có bất cứ dấu hiệu nào không ổn, cô hãy nhảy lên con ngựa gần nhất và cưỡi nó đi. Đừng dừng lại cho đến khi cô đến được chỗ đức vua và an toàn”. Ani rùng mình: “An toàn? Ông nghĩ họ sẽ làm gì?”. “Không gì cả. Tôi chỉ thận trọng thế thôi!”. Talone đứng dậy, tiến đến nhóm của Ungolad. Những chuyện tầm phào lắng xuống và bữa tiệc sớm bị giải tán. Talone phân công ca trực đêm với những người mà ông tin tưởng nhất, nhưng Ani vẫn cảm thấy khó ngủ. Cô giữ chặt chiếc khăn tay trong ngực. Buổi sáng tiếp theo bắt đầu với ánh nắng gay gắt. Đoàn người cưỡi ngựa thành một hàng dài, hi vọng đón được những ngọn gió mát từ khu rừng hoặc tìm thấy bóng cây. Họ dừng lại cắm trại sau khi mặt trời lặn được khoảng hai giờ, ai cũng cảm thấy mệt mỏi rã rời bởi cái nóng và nhức đầu choáng váng với ánh nắng gay gắt. Buổi tối nóng hầm hập và nhạt nhẽo diễn ra dưới vòm mái che nặng nề của căn lều, không khí quyện lại với mùi gỗ thông dường như quá nồng để thở. Có một con đường nhỏ thoáng đãng nơi họ dựng trại. Ani, bị thúc ép bởi tiếng càu nhàu khát nước của Falada, tách khỏi nhóm của mình và dắt Falada xuyên qua đám cây dày đặc hướng về tiếng róc rách của một dòng suối. Cô tháo bỏ chiếc mũ che nắng đẫm mồ hôi, cúi xuống để múc nước bằng cái tách bằng vàng. Khi cô nhúng chiếc tách trong nước, nước lạnh thấm vào làn da nóng bức của cô, làm cô giật mình, thả rơi nó. Chiếc tách vàng lấp lánh vài giây trước khi làn nước kéo nó chìm hẳn xuống. Ani nghĩ, mình lại mất thêm một thứ có thể phân biệt mình với những người khác, rồi cô gập người lại, vốc nước bằng hai tay đưa lên môi. Từ ống tay đến khuỷu tay áo đều thấm nước. Công chúa cảm thấy làn nước lạnh vương trên cổ và trên ngực mình. Cô rùng mình hớp một ngụm nước. Công chúa, cô đánh mất thứ gì đó dưới suối rồi, Falada nói bên cạnh cô. Ừ, tôi đánh mất chiếc tách của tôi, cô nói. Công chúa, Falada gọi lần nữa. Bỗng nhiên, có tiếng hét từ phía lều trại. Ani đứng phắt lên và quay lại. Có điều gì đó đang xảy ra, cô nói. Cô có thể nghe thấy âm vang của từ cuối cùng mà Falada nói với cô: Công chúa. Nhưng cô quay đi, hướng về phía lều trại và đám người hỗn loạn. Bối rối vì vùng ngực áo bị thấm ướt, Ani quyết định nép vào một bụi cây nhỏ, ngăn cách cô khỏi những người khác và tránh bị nhìn thấy. Xuyên qua một lỗ nhỏ trong đám lá cây dày đặc, cô đưa mắt dò xét những gì diễn ra trong lán trại. Yulan đang thét lên. Ông ta đã cởi bỏ áo sơ mi vì nóng bức. Talone đứng bên cạnh. Bàn tay ông đặt hờ trên chuôi kiếm. Ani ngoái nhìn Falada, nó vẫn còn đang uống nước ở bờ sông, và cảm thấy có một khoảng cách khá xa giữa cô với nó. Nhưng cô tự thuyết phục mình rằng không thể có bất cứ nguy hiểm thực sự nào. Cô chạm vào ngực, nơi cô cất chiếc khăn tay, và bị hối thúc bởi sự tò mò, cô nhích qua những bụi cây, tiến đến đủ gần để có thể nghe thấy tiếng nói nhưng vẫn nằm ngoài tầm nhìn của họ. “Yulan, khi có những quý cô ở trong trại, thì anh sẽ phải mặc cho tử tế đàng hoàng”, Talone nói. “Selia không cảm thấy phiền, đúng không, thưa quý cô?”, một người lính canh bên cạnh Yulan lên tiếng, và sau đó là một trận cười lớn nhuốm màu giễu cợt. “Hãy để họ thoải mái, thưa tướng quân!”. Ani nghe Selia nói, mặc dù không thể nhìn thấy cô ta. “Tôi sẽ cải thiện tình trạng của mình”, Yulan nói với hàm răng nghiến chặt. “Khi không có quý cô nào trong trại, anh cũng sẽ phải mặc áo tử tế và cư xử như một quý ông. Chúng ta là những người lính hoàng gia bảo vệ công chúa, và chúng ta sẽ phải hành động sao cho xứng với danh hiệu đó”. “Những người lính hoàng gia bảo vệ công chúa”, Teme cười lớn. “Cô ta không phải là công chúa, không phải ở đây. Kildenree không thừa nhận cô ta, và chúng ta vẫn chưa đến Bayern”. Talone tảng lờ Teme. “Với tư cách là tướng quân, đội trưởng đội hộ vệ, Yulan, đây là mệnh lệnh của tôi và không tuân lệnh là làm phản”. Yulan nhìn qua Ungolad. Ông ta đang ngồi trên một khúc gỗ cách đó vài bước chân. “Bình tĩnh nào, các chàng trai!”. Ungolad đứng dậy. “Đây không phải là cách để giải quyết mọi chuyện, nhưng tôi nghĩ cuối cùng đã đến lúc nói ra sự thật”. “Không phải bây giờ”, Selia nói. Ungolad liếc mắt về phía cô ta. “Đừng lo lắng, quý cô của tôi!”. Ông ta lại nhìn Talone và trừng mắt, mặc dù Ani không chắc liệu đó có phải chỉ là phản úng tự nhiên sau một ngày nắng nóng quá hay không. “Chúng ta không muốn một cuộc chiến, nhưng có thứ gì đó đã thay đổi”. “Đúng, tất cả hoan nghênh công chúa Selia!”, Yulan nói. “Công chúa Selia”. Một vài người đàn ông hét lên và giơ thanh kiếm lên đầu. “Im lặng nào”, Ungolad nói, với một sự giận dữ cực độ. Talone bước lại gần Ungolad. Ani có thể nhìn thấy, trong số họ chỉ có hai người không rút kiếm ra, cả hai bên đều sẵn sàng, chờ đợi hiệu lệnh từ người đứng đầu của họ. “Tất cả những chuyện này là vì cái gì, những tên lính đánh thuê phản trắc kia?”, Talone dường như không nhận thức rằng ông đang lắc đầu. “Có phải chúng mày đang rắp tâm đánh tráo công chúa thực sự và thay thế cô ấy bằng một kẻ lừa đảo?”. Ani nắm chặt một cành cây để giữ bình tĩnh. Đánh tráo công chúa. Một trò lừa đảo. Họ đang cố gắng giết cô. Cho đến lúc này cô chưa bao giờ thực sự tin vào điều đó. Tại sao họ lại cố gắng giết cô? Để Selia có thể là một công chúa. Cô nhớ lời đề nghị của Talone rằng cô nên chạy đi nếu có dấu hiệu của rắc rối. Nhưng ở đó vẫn chưa có gì đe dọa cả, cô nghĩ. Chiếc khăn tay của mẹ sẽ bảo vệ mình. Cùng lúc, cô nghĩ, tốt hơn cô nên đến gần Falada. Cô gọi tên nó, nhưng nó đang nhìn chăm chăm vào dòng sông và không phản ứng lại. Chậm chạp, không gây ra một tiếng ồn nào, cô bắt đầu rón rén tìm đường trở lại gần con ngựa yêu quý. “Kẻ lừa đảo?”, đến lượt Selia cất tiếng. “Hoàng gia không phải lúc nào cũng cầm quyền, thưa tướng quân. Sự phục tùng của những người đi theo người cai trị là những gì đưa lại quyền lực cho cô ta. Ở nơi này, với những con người này, tôi là người đã được lựa chọn. Những người đàn ông này mệt mỏi vì phải nghe lời người mà họ đi theo. Bây giờ, họ có một cơ hội, họ tận dụng cơ hội đó để gọi tôi là công chúa!”. Những lời của Selia dường như có sức thuyết phục kỳ lạ. Ngay cả Ani, chăm chú theo dõi sự việc qua những nhành cây, cũng phải cố gắng để không gật đầu. Nhưng Adon đã bước lại bên cạnh Talone và nhìn Selia với vẻ thách thức. “Cô là công chúa Anidori, có phải không? Thứ cô muốn không chỉ là địa vị của cô ấy mà còn cả cái tên - tên của cô ấy nữa!”. “Tôi cho là như thế, chàng chiến binh của tôi. Nhưng tôi phải nói rằng chính địa vị công chúa là điều hấp dẫn tôi nhất!”. Ani bắt gặp một cái nhìn lướt qua của Ungolad khi gã mỉm cười với Selia. Hai người đàn ông gần Talone thì cười thành tiếng với ý tưởng của Selia là trở thành công chúa. Nhưng một nửa số người còn lại đứng cứng đờ, khiến tiếng cười giống như nước đập vào một bức tường đá. Falada, Ani thì thầm gọi lần nữa. Nó không đáp trả lại. “Cô điên rồi”, Talone gằn từng tiếng sau khi đã nghe bí mật cuối cùng được tiết lộ ra. “Nếu chúng tôi điên”, Ungolad nói, “Thì chúng tôi là một đám đông điên loạn, và đông hơn nhóm của ông!”. “Cô ta đâu rồi?”, Selia lại cất tiếng. Ani đưa hai tay lên che miệng trước khi cô hiểu được tình hình. Bọn chúng sẽ tìm kiếm cô bây giờ. Bọn chúng sẽ giết chết cô như cách chúng đã thử làm ở thác nước lần trước. Tại sao chiếc khăn tay không bảo vệ cô, không thì thầm với cô thông qua những con chim hoặc thúc vào khuỷu tay để báo cô biết. “Cô ta ở bên dòng suối”, một người nói. Ani có thể nhìn thấy Teme, một trong những tên lính của Ungolad, chạy ra khỏi nhóm và tiến đến nơi Falada lướt qua. Teme đang đứng giữa cô và con ngựa. Những ngón tay lạnh lẽo của cô lần mò thớ vải ướt ở ngực, nơi có chiếc khăn tay, nơi nó phải ở đó. Ani tìm kiếm, vỗ nhẹ vào ngực áo mình, nhìn vào khoảng đất xung quanh chân cô. Nó đã biến mất! Cô nhận ra rằng cô đã đánh rơi chiếc khăn lúc ở bên dòng suối. Bây giờ nó đã trôi đi xa rồi. Ai sẽ bảo vệ cô đây? Falada, cậu có thể đến với tớ không? Cô thì thào. Nó vẫn không đáp trả lại. Talone hét lên vẻ phía Falada đứng: “Công chúa, làm như tôi nói!”. Ungolad ra hiệu cho một tên lính khác theo sau kẻ đầu tiên tiến về phía dòng suối. Làm như tôi nói, Talone đã nói thế. Chạy trốn. Ani quay vào khu rừng tối và rón rén từng bước chân nhẹ nhàng, lo ngại những chiếc lá kim của cây linh sam gãy răng rắc dưới chân cô, lo ngại rằng nếu cô chạy trên đôi chân run rẩy của mình, cô sẽ ngã. Chỉ một chút nữa thôi, cô nghĩ, đến chỗ bụi cây nhỏ tiếp theo, và sau đó bỏ chạy. “Cô ta ở đây”, Selia hét lớn. Ani quay nhìn lại. Hul rời khỏi Ungolad và đuổi theo cô. Adon hét lên, xông về phía hắn. Ông chỉ bước được một bước trước khi thanh kiếm đẫm máu xuyên thẳng vào giữa ngực. Mặt ông rúm lại trong đau đớn và sau đó tắt thở ngay tại chỗ. Ishta rút thanh kiếm ra khỏi lưng người đàn ông đã chết và cười nhăn nhở với cái răng nhọn hoắt của hắn. Ani há hốc mồm kinh ngạc. Đột nhiên mọi thứ trở thành sự thật kinh hoàng. Cô bước nhẹ, quay người lại, rồi bỏ chạy. Tiếng những thanh kiếm chạm nhau ầm ĩ sau lưng cô. Những con ngựa hí vang. Những người đàn ông la hét và ngã xuống. Cô chạy. Cô lao qua một bụi cây gai và tóc vướng vào những chiếc gai. Cô giằng ra. Một người đàn ông tiến sát đến gần cô. Đó là Ungolad. Hắn đang cố sức đuổi kịp. Cô có thể nghe thấy tiếng thình thịch của đôi giày bốt đập vào chỗ trũng của mặt đất giống như một nhịp tim đập hỗn loạn phía sau. Hắn ta đang đến gần cô hơn. Falada, cô nói, Falada, làm ơn! Nó ở quá xa, hoặc có lẽ nó cũng đã bị giết. “Falada”. Cô nghe thấy tiếng Ungolad đầy cáu tiết và nhận ra hắn vừa vấp phải một chiếc rễ cây đưa ra ngáng đường. Có một con ngựa ở bên phải cô. Đó là con ngựa màu nâu của Radal, không có người cười, chạy nước kiệu và kéo lê dây cương. Một vết cắt dài, nông đánh dấu ở mông nó. Ani chạy đến chỗ nó. Con ngựa dừng lại khi đường chạy bị chặn bởi một bụi cây linh sam và giật mình khi Ani túm lấy dây cương. Dây cương đã được tháo ra, và cô cố gắng túm lấy một sợi dây, phóng người lên. Cô cúi xuống cổ con ngựa để túm lấy sợi dây cương còn lại. Một lần nữa, Ungolad đuổi kịp cô. Hắn gầm gừ nhảy lên. Ani thúc vào con ngựa. Nó lắc lư, tung vó lên không khi Ungolad túm lấy gót chân cô. Công chúa nhỏ nắm chặt dây cương, ôm lấy bờm con ngựa để ngồi thật vững. Con ngựa chồm lên khiến Ungolad trượt tay. Cô kẹp chặt đầu gối quanh hông con vật. Khi hai chân trước của con ngựa tiếp xúc với mặt đất lần nữa, nó chồm người lên, phi nước đại thẳng tiến về phía trước. PHẦN 2: CÔ GÁI CHĂN NGỖNG CHƯƠNG 5 Ani phi ngựa nhanh đến mức không kịp nhận thấy những hàng cây vụt qua mình và cành lá thì như chiếc rìu chém sát đầu. Con ngựa chạy không định hướng, chỉ nhằm một mục đích duy nhất: Chạy trốn thật xa. Mỗi khi con vật có dấu hiệu chậm lại, Ani lại thúc gối khuyến khích nó, đồng thời nghe ngóng tiếng vó ngựa của Ungolad ngay phía sau mình. Đôi khi cô nghĩ mình nhìn thấy đôi bím tóc vàng của hắn trong tầm mắt. Con ngựa phi nhanh đến nỗi mình nó ướt đẫm mồ hôi, mỗi nhịp phi nước đại, nước bọt lại nhễu ra từ miệng con vật tội nghiệp. Dây cương thấm đẫm mồ hôi nên cô nắm sang bờm ngựa. Ani nới lỏng hai chân và khi móng ngựa chạm đất, cô ngồi xuống yên một cách khó khăn. Đột nhiên, một cành cây thấp vướng vào vai, gạt cô ra khỏi bàn đạp và cô chỉ nhận ra mình đang nằm trên mặt đất khi con ngựa đã phi nước đại thật xa mà không có cô trên lưng. Cô ngồi một lúc lâu để thở. Nếu Ungolad vẫn còn ở phía sau, hắn sẽ dễ dàng tìm ra và nhanh chóng giết chết cô bởi giờ đây cô không thể di chuyển nổi. Cô nghĩ mình nghe tiếng răng rắc của cành cây khô bị đè gãy nơi bàn chân. Cô nhúc nhích chân định chạy nhưng bước đi đầu tiên khiến cô ngã sõng soài xuống đất. Cô nằm im phó mặc số phận. Ani tỉnh dậy sau một lúc lâu và cảm thấy lạnh. Một đám cỏ linh thông đâm vào má cô. Lúc này cô thực sự không biết phải làm gì. Cô gọi khẽ: Falada. Ani cố đứng dậy. Khu rừng thật tối và nàng công chúa bé nhỏ biết giờ cô chỉ nhìn bằng cảm giác. Một tiếng quạ kêu, cô hốt hoảng nhảy lên. Nó lại kêu lần nữa. Cô khoanh tay trước ngực cố suy nghĩ. Cô phải ngủ một lúc để lấy sức, nhưng trước đó chuyện gì đã xảy ra? Cô đang chạy trốn. Cô cố nhớ và mường tượng được trong đầu cảnh Adon chạy về phía mình để bảo vệ cô. Rồi một lưỡi gươm tàn bạo đâm thẳng vào ngực người lính. Cô rùng mình, lại nằm xuống, lấy tay che mặt và cố gắng ngủ để né tránh sự tăm tối đang bao quanh. Ani thức dậy lúc bình minh và bắt đầu đi bộ. Hướng nào của khu rừng cũng giống nhau. Cô nhận ra rằng mình chỉ mới cách thị trấn một vài dặm và đã lang thang trong rừng một vài ngày. Ánh mặt trời xuyên qua tán cây cho cô một vài gợi ý về phương hướng. Cô chọn hướng mà cô nghĩ là hướng đông và bước tới. Dạ dày cồn cào vì đói, trong đời Ani chưa bao giờ lâm vào cảnh như vậy. Quãng thời gian trước đây, trong lâu đài bằng đá hoa cương cùng những khay đồ ăn mạ bạc, cô chưa bao giờ bỏ bữa.... Cô cảm thấy khát hơn, cô bắt đầu nghĩ đến việc đào rễ cây để xem liệu chúng lấy nước từ đâu. Sau nhiều giờ, Ani nghe thấy tiếng nước và nghĩ rằng đó có lẽ là âm thanh kỳ diệu nhất trên thế gian. Âm thanh bị nhiễu loạn qua những thân cây, làm rối những giác quan của cô cho đến khi cô tìm ra dòng suối và trầm mình vào nước. Cô uống nước nhiều đến độ dạ dày phải sôi lên, sau đó cô bước dọc theo dòng suối, nghĩ rằng chắc chắn phải có cách đi qua những dãy núi và tìm thấy đường cái. Khi đã gặp đường cái, có nghĩa là có phương hướng. Ani đi dọc theo dòng suối hai ngày. Cô chỉ rời xa bờ suối một khoảng ngắn để tìm kiếm nấm. Dựa trên những ký ức từ thời thơ ấu, những bài học của dì về các loài thực vật có thể ăn được, Ani cho phép mình ăn vài thứ hoa quả, cũng như những cây hành dại mọc trên vùng đất đen ẩm cạnh bờ suối. Miệng cô cay bỏng và nước mắt ứa ra bởi vị cay hăng nồng của chúng. Ngày thứ ba, cô đến điểm cuối của dòng suối. Lúc này, dòng suối nhỏ dần như một chú rắn nước và cuối cùng dừng lại ở một cái hồ hình chiếc nhẫn. Cô đi vòng quanh hồ tìm kiếm một lối ra, sau đó dựa vào gốc cây và khóc. Cô không biết mình đang ở đâu, cũng không có gì để mang nước theo và giờ đây cũng không còn dòng suối nào để đi bên cạnh. Cô trải qua phần còn lại của ngày hôm đó và cả đêm đó nữa bên cạnh điểm cuối cùng của dòng suối. Con khát ám cả vào giấc mơ, cùng với âm thanh tiếng giày bốt nặng nề của Ungolad phía sau lưng. Cô tỉnh giấc với nhịp tim đập theo từng tiếng kêu của một con quạ đâu đó. Sáng hôm sau, Ani ngồi thêm một lúc cạnh bờ suối, nghịch ngón tay trong nước. Cô nghĩ: “Nếu mình không đánh rơi chiếc khăn tay, nếu mình không làm mất nó thì những chuyện này đã không xảy ra”. Ngay khi vừa nảy ra ý tưởng này, cô cảm thấy nó thật buồn cười, như một câu chuyện cổ tích, không có thật. Cô tự cười chính mình, nhưng nụ cười cũng đồng thời bóp chặt trái tim cô, ép nước mắt tuôn rơi trước khi cô kịp dừng lại. “Mình đã nghĩ đó là phép màu. Mình nghĩ mình đã rất an toàn. Một chú chim nhỏ báo cho mình biết về thác nước. Và Falada...”, cô lắc đầu, cười buồn, “Mình chính là người chống lại Selia và cũng chính mình là người không chịu chạy sớm, không đủ sớm cho Adon, Talone hay Falada thoát nạn”. Cô ngả đầu ra sau để nước mắt không chảy xuống mặt và thấy một con cú nâu trên cây thông đối diện nó, đang ngắm nhìn buổi sáng qua đôi mắt thủy tinh màu vàng. Cô thì thầm: “Có phải mi đã đánh thức ta dậy không? Ta không biết tại sao đêm qua tiếng kêu của mi lại khiến ta rùng mình. Mi trông không đến nỗi đáng sợ như thế!”. Cô từng biết cách nói chuyện với những con chim cú sống trên các xà nhà kiên cố. Nhưng đã rất lâu rồi, và ký ức trỗi dậy trong sự bối rối, trống rỗng của nỗi nhớ nhà. Cô cố làm quen với con cú bằng tiếng kêu thử nghiệm. Con cú không phản ứng lại. Ani nghĩ thầm: Giá mà nó là một con thiên nga. Với cô, ngôn ngữ của tất cả loài chim chỉ là một, có điều nó có nhiều “phương ngữ” khác nhau, một vài loài khác biệt hơn so với những loài khác. Và cô nhớ nhất là ngôn ngữ của những con thiên nga. Cô cố chào nó lần nữa, con cú hơi quay đầu về phía cô và lần đầu tiên nhận ra sự hiện diện của cô. Sau một vài giây nhìn không chớp mắt, con cú chào lại cô. Cô chống tay suy nghĩ với niềm hi vọng nhỏ nhoi. Ani tiếp tục cuộc nói chuyện như giữa hai con cú với nhau bằng cách hỏi xem nó ăn gì. Con cú trả lời nó ăn chuột. Cô muốn hỏi nó đường thoát khỏi khu rừng nhưng lại phân vân không biết làm cách nào diễn đạt cho rõ. Ani hỏi: “Đâu là nơi những cái cây này dừng lại?”. Con cú không biết hay không hiểu. Có lẽ nó biết về nơi con người sống nhưng Ani lại không biết làm thế nào để hỏi về đường phố hay nhà cửa. Đâu là nơi có khói? Một chuyến đi dưới ánh nắng buổi sáng. Con cú trả lời. Sau đó nó bay từ cây này sang cây khác vẽ nên đường thẳng theo hướng đó. Ani cảm ơn nó, uống một ngụm nước lớn từ dòng suối và khởi hành, cầu mong chuyến đi này không lâu hơn một ngày. Ani cố gắng tập trung vào hướng đi, cô chọn một cây phía trước mặt làm đích đến, đến được nó rồi lại chọn một cây khác xa hơn. Việc này khiến mắt cô đau nhói. Không khí ẩm đọng trên da cô nhưng mặt đất lại khô ráo, chứng tỏ không có dấu hiệu gì của sông hay suối. Lúc đầu cô không nhìn thấy căn nhà, bởi những bức tường xung quanh được làm bằng gỗ cứng, mái nhà lợp bằng lá thông còn xanh, bên cạnh là mảnh vườn nhỏ bao quanh bởi hàng rào gỗ mỏng. Ani chú ý những trái táo chín đỏ trên cây, những củ cà rốt đỏ rực trồi lên khỏi mặt đất dưới những chiếc lá xanh ngắt. Dạ dày cô lại lên tiếng. Một chú dê màu nâu bị buộc vào cái cột ngoài vườn, quay lại nhìn cô và kêu một cách giận dữ. “Mày nhìn thấy gì vậy, Poppo?”. Một người phụ nữ từ trong nhà đi ra. Bà choàng một chiếc khăn màu đỏ trên đầu, một chiếc áo dài thắt ngang lưng và một chiếc váy dài đến mắt cá làm bằng vải thô màu xanh. Bà thấy Ani và tỏ vẻ lo lắng. “Được rồi, Poppo, đây không phải một con thú hoang hay chó sói đâu, mặc dù nó cũng muốn ăn những thứ trong vườn của ta như một chú thỏ vậy”. Giọng người phụ nữ phát ra ồm ồm và với nguyên âm ngắn khiến Ani nghĩ bà là người vùng Bayern. Công chúa nuốt nước bọt. Người phụ nữ đang chờ cô lên tiếng trước. “Xin chào”, Ani lúng túng. Những ngày gần đây cô nói rất ít, cô cảm thấy thật khó khăn để lên tiếng. Cô nuốt nước bọt lần nữa. “Hả?”. “Xin chào, cháu bị lạc!”. “Uh, tôi thấy rồi”. Người phụ nữ khoanh tay và nhìn từ đầu đến chân bộ váy rách nát bẩn thỉu của Ani. Bà chớp mắt, chờ đợi thêm thông tin. “Sẽ có ích nếu tôi biết cô bị lạc từ đâu, cô định đi tới đâu và nếu cô hiểu ý tôi, tôi sẽ chỉ cô đi đúng hướng!”. Ani định nói nhưng chựng lại. Chẳng lẽ cô bảo: “Tôi đã từng là công chúa của Kildenree, người đã đính hôn với con trai đức vua vương quốc này, đức vua tên là gì nhỉ? Tôi không thể nhớ được, rồi thật không may, một nửa số lính hộ vệ trong đoàn tùy tùng của tôi đã tấn công những người khác và cố giết tôi để đưa người thị nữ của tôi lên thay thế”. Nghe có vẻ vô lý quá. Ani ước gì có được cảm giác tự tin như khi có chiếc khăn tay cài trên áo, nhưng cô tự nhắc bản thân rằng mình đã mất nó, và nếu có thì cũng chẳng ích gì. Giờ cô chỉ có thể học cách dựa vào chính mình thôi. Cảm giác đó khiến cô sợ hãi, giống như bị lạc trong khu rừng lạ. “Rồi cô bé, tôi đang nghe đây!”, người phụ nữ nói. Ani chợt nhận ra rằng mình khát quá. Đã nhiều giờ trôi qua kể từ khi cô rời dòng suối nhỏ và rằng cô gần như ngất đi vì sợ hãi, đói, kiệt sức. Khi suy nghĩ ấy ập tới, hàng ngàn chấm đen lập tức bao trùm trước mắt cô. May thay, người phụ nữ, ngôi nhà và con dê này đã xuất hiện thay thế cho bóng tối. Ani tỉnh dậy, nhìn thấy cửa sổ của một ngôi nhà tranh. Cô nhìn quanh cảnh giác, rồi thở dài nhẹ nhõm khi nhận ra mình đang ở trong một ngôi nhà và nằm trên một tấm nệm cỏ khô. “Cô tỉnh rồi à? Thế nào rồi?”. Người phụ nữ đã bỏ chiếc khăn trùm đầu ra và Ani có thể nhận thấy mái tóc đen dày ngắn ngang vai của bà. Bà đang ngồi đan trên chiếc ghế đẩu dưới ánh sáng phát ra từ lò sưởi. “Cô nên nói với tôi rằng cô khát nước, để không phí phạm sức con trai Finn của tôi khi phải khiêng cô vào đây. Tôi nghi ngờ cô cố tình ngất xỉu để vào nhà và nằm lên giường của tôi, hừm!”. Ani cười lịch sự bởi cô tin người phụ nữ chỉ nói đùa như vậy thôi. “Tôi nghĩ cô có thể ở đây qua đêm”. Bà vẫn tiếp tục đan, và Ani nhìn những mũi len đi lên đi xuống với một tốc độ cô chưa từng thấy bao giờ. Người phụ nữ gật đầu chỉ vào đĩa thức ăn gần đấy chứa đầy súp cà rốt và một ly sứ đầy nước. Ani nhanh chóng uống hết ly nước và ăn hết đĩa súp trong yên lặng. Cô có thể cảm nhận được nước và nước súp đi từ cổ họng xuống dạ dày với cảm giác rộn ràng ấm áp. “Rồi cô gái”, người phụ nữ hỏi sau vài phút, “Hãy nói ta nghe cô định sẽ làm gì?”. “Cháu bị lạc trong rừng và phải tìm đường trở về Bayern”. Khi nói, trong đầu cô luôn ý thức về cách phát âm theo kiểu giọng của người Kildenree, và ước gì mình có thể bắt chước cách nói theo kiểu của người Bayern. Cô nghĩ mình có thể học nó dễ dàng như lần đầu tiên cô học theo các âm thanh của thiên nga, nhưng giờ có vẻ đã quá trễ để cố gắng với người phụ nữ này. Người phụ nữ để que đan xuống vạt áo và ngắm nhìn Ani một cách chăm chú. “Cô không phải là người ở đây”, bà nói. Ani lắc đầu. “Cô đang gặp chuyện gì rắc rối à?”. “Vâng, cháu nghĩ vậy!”. “Ừ, tôi không muốn nghe chuyện đó...”, bà nhanh chóng nói. “Tôi biết càng ít càng tốt. Nhìn cô, tôi thấy điều bất hạnh đang đến. Cô có mái tóc vàng và dài, phải không? Quá dài để là một người đi lang thang ngoài đường. Rõ ràng là không phải đến từ Bayern, cô là người xuất thân quyền quý, chắc chắn là như vậy, hãy nhìn đôi tay mềm mại nhỏ nhắn của cô xem”. Ani đan hai tay vào nhau. “Và giọng của cô, chậc, cô bé, cô có rất nhiều vấn đề. Tôi phải đan để có áo bán vào phiên chợ tuần này. Cô hiểu không?”. Ani gật đầu. “Sao cô không nói gì vậy?”. Người phụ nữ hơi cúi về phía trước, chờ đợi câu trả lời. “Cháu cảm thấy xấu hổ về giọng nói của mình”, Ani nói, “Và cháu cảm thấy rất bối rối... Cháu không biết phải làm gì...”. Cô cố nén nhưng không thể kìm nén tiếng nức nở đầu tiên rồi thứ hai, thứ ba. Dạ dày thắt lại, cô cúi xuống và khóc nức nở. Tóc che phủ hết khuôn mặt cô. Cô nhận thấy người phụ nữ vỗ vỗ vào vai mình. “Thôi... Thôi được rồi, không khóc nữa, mọi thứ đều ướt át và thế này thì không thoải mái chút nào”. Ani nghĩ bà ta đúng vì cô cảm thấy tồi tệ hơn cả lúc trước, vì thế cô lấy tay gạt nước mắt và cố gắng không khóc nữa. Hơi thở cô nghẹn lại nơi cổ họng. “Cháu xin lỗi”, cô nói. “Cháu sẽ không khóc nữa, cháu xin lỗi!”. “Được rồi, cô bé, được rồi. Bây giờ hãy nói cho ta biết ta có thể làm gì để giúp cháu, miễn là ta không có liên quan gì hết nhé”. Ani gật đầu. Sau đó, cô nhận ra rằng bà đang yêu cầu cô đưa ra quyết định. Cô cầu cứu ai được đây? Talone, đức vua của vương quốc Bayern, Selia (không, không, không thể là Selia), Falada, chiếc khăn tay bị mất (cái này cũng không được)? Mình thật là trẻ con, Ani nghĩ. Cô ngồi thẳng lưng, đặt tay lên đùi và nhìn chăm chăm vào ngọn lửa lò sưởi. Ngay cả khi ở khoảng cách khá xa, ngọn lửa vẫn như thiêu đốt ánh mắt cô. Hãy người lớn lên nào. Hãy suy nghĩ đi. Mình cần gì? Mình phải tìm được đường, nhưng đường đi tới đâu? Ý nghĩ một mình quay trở về Kildenree thật ngớ ngẩn. Cô không có thức ăn cũng như phương tiện, không ngựa, còn nếu đi bộ thì phải mất hàng tháng và tuyết sẽ rơi trước khi cô về tới nơi. Talone nói cô hãy tới Bayern và tìm đức vua. Có thể Talone và người của ông đã đánh bại Ungolad, và nếu như vậy thì họ có thể đang ở chỗ đức vua. Bên cạnh đức vua còn có tể tướng. Cô đã từng gặp ông ta một lần khi cô còn nhỏ - có lẽ ông ta sẽ nhớ mặt cô và làm chứng cho cô. Và nếu Selia cùng những kẻ phản bội đang ở đó chờ đợi nàng công chúa bỏ trốn thì sao? Cô nghe tiếng trái tim mình đập nhanh như tiếng vó ngựa của Ungolad khi đang đuổi theo cô vậy. Nếu như vậy, liệu cô có được cung cấp một chiếc xe ngựa để trở về Kildenree? Cô không thể đi cho đến khi tìm ra Falada, biết tin tức về số phận Talone và những người lính trung thành. Bayern. Đó là lựa chọn của cô. “Kinh thành cách đây bao xa ạ?”. “Một ngày rưỡi đi xe ngựa. Cô đừng nghĩ đến chuyện đi bộ tới đó để rồi lại bị lạc trong rừng cho tới khi ai đó lại trông thấy cô nhìn chằm chằm vào vườn cà rốt như ta đã thấy!”. “Cháu có thể đi với bà tới thành phố vào phiên chợ tới không?”. Người phụ nữ suy nghĩ một lúc rồi trả lời: “Được! Và ta hi vọng cháu sẽ tìm được cho mình một bộ cánh mới để đừng có nổi bật như một cái cây đầy màu sắc như thế này nhé. Finn sẽ dẫn cháu đi vào cuối tuần tới và lúc đó thì ta sẽ xong nhiệm vụ”, bà gật đầu rồi tiếp tục đan. Một thanh niên vào nhà, bước đến gần lò sưởi hôn mẹ. Anh lửa từ lò sưởi bén vào vài sợi len trắng bám nơi ống tay áo anh ta. Người mới vào chìa một tay cho Ani: “Chào cô!”. Ani đáp lại: “Chào anh, Finn!”. Chàng trai cười và biến vào góc tối của căn phòng, nơi có chiếc giường của mình. Người phụ nữ hơi cao giọng: “Giờ hãy đi ngủ đi”. “Vâng, thưa bà!”. “Gilsa”, người phụ nữ nói, “Tôi không phải là quý bà đâu, cô không cần trịnh trọng quá!”. “Bác Gilsa, thế khi nào thì đến phiên chợ cuối tuần tới ạ?”. “Tám ngày nữa, cô bé!”. Ani nằm nghiêng sang bên, ngắm nhìn ánh lửa màu cam cuối cùng của khúc gỗ trong lò sưởi và nghĩ rằng cô sẽ không bao giờ cảm thấy buồn ngủ. Tưởng như mới chỉ sau đó một phút nhưng khi cô mở mắt ra thì căn phòng đã bàng bạc ánh bình minh. Cửa mở và Gilsa bước vào với đầy trứng gà trên tay, tóc bà chưa chải, còn vương vài cọng cỏ khô và vài sợi len. “Ồ”, Ani nói và ngay lập tức ngồi dậy, “Đây là giường của bác ạ?”. “Tất nhiên nó là giường của ta rồi. Cháu nghĩ là đêm nào ta cũng ngủ trong chuồng gia súc à?”. “Cháu không nghĩ vậy đâu ạ”. Ani đứng dậy và vuốt thẳng chiếc chăn xếp lên trên cái gối. Cô chưa bao giờ phải tự hỏi rằng mọi người ngủ ở đâu. Ở trong cung, ai cũng có chỗ của mình, cô chưa bao giờ chú ý điều đó cả, cô nhận ra rằng mình thật vô tâm và ích kỷ. “Cháu xin lỗi”, Ani nói, “Cảm ơn bác. Tối nay bác sẽ không phải ngủ ở đó nữa đâu ạ”. “Điều đó là hiển nhiên rồi. Lòng tốt của ta khiến ta trải qua một đêm trên cỏ khô và giờ ta cảm thấy rất ngứa ngáy khó chịu”. Ani quyết định rằng từ giờ cho đến lúc đi, cô sẽ không là gánh nặng của họ. Ngày đầu tiên, trong khi Gilsa ngồi đan miệt mài trên chiếc ghế đẩu thì Ani cố gắng chuẩn bị bữa trưa. Sau khi bữa ăn được tiêu thụ một cách miễn cưỡng, Finn quyết định quay trở lại với công việc nấu nướng thường nhật của mình và Ani với cảm giác hơi thất vọng, chỉ dám ngồi quan sát một cách cẩn thận. Bà Gilsa khám phá ra rằng Ani rất giỏi trong việc tìm rễ cây cần cho việc nhuộm chỉ. Vì thế, Ani nhanh chóng được sai làm các việc vặt như tìm rễ cây trong rừng. Sau một lần làm các thứ linh tinh, khi cô đi ngang qua một cái sân rất sạch sẽ với đầy rễ cây trong tạp dề, cô nghe tiếng gà kêu loạn xạ trong chuồng. Chúng kêu hốt hoảng: Chuột chuột, chúng ta sẽ không ở đây đâu, lũ chuột đang ở đây, đó đó, ở dưới kìa. “Ta không biết có chuyện gì xảy ra nữa”, Gilsa đặt tay trên cửa chuồng gà. “Chúng sợ, như thể có rắn lục trong tổ hay có một con cáo ở dưới chuồng gà. Nhưng ta đã dọn chuồng gà hai lần rồi và không tìm thấy gì cả”. “Có một con chuột ạ”, Ani nói. “Một con chuột chết, ở dưới sàn, và những con gà mái ngửi thấy mùi của nó”. Ani đem rễ cây vào trong và phân loại chúng trước khi nhận ra rằng mình phải giải thích về những lời nói vừa rồi. Khi cô bước ra, Gilsa đang hướng dẫn Finn dịch chuyển miếng lót sàn nơi Ani đã chỉ. Bên dưới đó là một cái xác chuột mới chết. “Làm thế nào mà cháu...?”, Gilsa nhìn cô chằm chằm. “Cha mẹ cháu từng nuôi gà”, cô trả lời. Sau đêm đầu tiên, Ani ngủ trên miếng gỗ lót sàn phủ cỏ khô trong chuồng gia súc. Lúc đầu cô không thể ngủ được, cô bị đánh thức bởi tiếng cót két của những tấm ván, tiếng rên rỉ của cây. Liệu Ungolad có lần theo dấu vết cô ở đây? Cô không biết nhưng sau đêm đầu tiên trong chuồng gia súc, cô nài xin một tấm ván để chặn cửa lại. Finn đồng ý mà không thắc mắc gì. Đêm trước ngày lên kinh thành, Ani ngồi cạnh lò sưởi, cuộn những chiếc áo len của Gilsa thành bó chặt và xếp chúng thành những kiện hàng. Finn chuẩn bị thức ăn cho chuyến đi. Gilsa hoàn thành nốt ống tay còn lại của chiếc áo cuối cùng. Hình ảnh một quả cam sống động với mặt trời và những chú chim nổi lên trên ngực áo và lưng áo. Bà ngân nga một giai điệu nhẹ nhàng dễ gây buồn ngủ, một bài hát ru. Nó gọi cho Ani nhở đến những ký ức xa xăm. Cô dừng việc cuộn áo, quay sang nhìn người hát. “Cháu chưa làm xong mà?”, Gilsa nói. “Cháu biết bài hát này. Bác có thuộc hết lời không ạ? Có phải bác vừa hát bài những câu chuyện cây kể, những câu chuyện gió hát?”. “Lắng nghe cây kể chuyện, cảm nhận lửa thì thầm, hãy xem gió đang kể những giấc mơ của khu rừng... Đó là một giai điệu cổ, ta từng hát bài này cho con trai ta nghe”. “Bài hát này có ý nghĩa gì ạ?”, Ani hỏi. Những que đan của Gilsa va vào nhau tạo nên âm thanh giống như tiếng một loài thú lạ đang ăn. “Ta nghĩ, nó kể về những câu chuyện cổ ở nơi xa xôi nào đó, nơi có loài người, nhưng những gì được đề cập trong bài hát thì lại không phải là về con người mà là về gió và cây cối hay đại loại là những thứ như vậy. Chim ưng nghe tiếng lợn lời, trẻ con nói chuyện với dòng suối, và về loài vật nữa...”. Gilsa nhìn sang Ani. “Điều đó có thể xảy ra không nhỉ? Cháu có biết những điều đó không, cô bé?”. Ani tiếp tục đóng gói những chiếc áo. “Có thể có bác ạ, cháu đã từng nghe những câu chuyện kể về thời kỳ sau khi đáng sáng tạo tạo ra vạn vật, khi tất cả các ngôn ngữ đều được biết đến. Người ta hay nhớ và kể về những con quái thú. Nhưng những câu chuyện về gió, cây, về dòng suối hay tất cả những thứ đại loại như vậy, thì người ta nghĩ chúng chỉ là những câu chuyện kể cho trẻ con”. “Ừ, có thể. Nhưng tất cả mọi thứ đều có ngôn ngữ riêng của chúng, phải không?”. “Cháu nghĩ vậy, nhưng không thực sự hiểu rõ ràng cho lắm!”. Gilsa nhìn Ani như thể cô là một đứa trẻ bất thường vậy. “Tất cả chúng ta đều nói chuyện với điều gì đó ngoài bản thân mình, từ xưa đến nay đều như vậy. Ta nói chuyện với chú dê nhỏ, với những con gà, với cây táo của ta. Ta không biết chúng có nghe thấy ta nói gì không và ta cũng không nghĩ chúng có thể trả lời ta, nhưng đó không phải là vấn đề. Nào, hãy nghĩ đến điều này, rằng một người có thể nói chuyện với lửa hoặc nói chuyện với một con dê và lửa, dê cũng có thể trả lời lại. Sao lại có thể như vậy?”. “Liệu có những điều như vậy ở Bayern? Những điều kỳ diệu?”. “Đó là những nhà ảo thuật, thầy phép hay thầy phù thủy”, Finn nói, anh chàng xoay qua xoay lại trên giường khiến nó kêu cót két. “Những người đó có thủ thuật riêng, con trai ạ”, Gilsa nói, “Đó không phải là những gì cô bé này muốn nói”. “Con đã từng thấy rồi”, Finn nói rất khẽ, “Ở chợ... Con thấy một phù thủy nhìn người ta và nói những gì đang khiến người ta sầu não, một thầy phép có thể biến thứ này thành thứ khác”. “Đúng, đúng rồi con trai!”, Gilsa vẫy tay một cách thô bạo. “Họ có nhiều cách để nhìn thấy và trình diễn nhưng tất cả đều rất hài hước, mọi người tự đưa tiền để nghe những gì mình đã biết. Cô bé này muốn nói điều khác cơ, theo cách cổ xưa ấy, phải không cô bé?”. “Cháu nghĩ vậy. Có quá nhiều câu chuyện cổ, những câu chuyện rất kỳ lạ, tuyệt vời và hoàn hảo. Chúng không có thật nhưng tuyệt hơn những gì đã từng tồn tại. Cháu từng có một điều mà cháu nghĩ rất kỳ diệu, nhưng cháu đã đánh mất nó và giờ không nghĩ nó còn kỳ diệu nữa”. Cô chạm vào ngực nơi chiếc khăn tay đã từng ở đó và cau mày. “Ước gì có phép thuật. Nếu tất cả những câu chuyện cổ đều có thật thì chúng có thể cho cháu biết mình đang làm gì và cháu phải làm gì bây giờ”. “Thôi đừng khóc lóc cho thời gian đã mất và những gì đã rơi vào lãng quên nữa. Những câu chuyện cổ chỉ kể những gì chúng có thể kể, phần còn lại là những gì chúng ta cần phải học. Vấn đề là liệu chúng ta có đủ thông minh để tự khám phá bản thân mình? Giờ đó mới là điều ta cần biết”. Ani không trả lời. Có tiếng gió rít nhẹ qua ống khói. Trong một phút, tiếng nổ lách tách của ngọn lửa, tiếng chim rên gãy cánh như nghe rõ hơn. CHƯƠNG 6 Sáng sớm hôm sau, Ani chỉnh tề trong chiếc áo thắt ngang lưng màu vàng và chiếc váy len xanh da trời. Cô mang đôi bốt cũ của Finn được buộc chặt bởi dây da mềm. Bà Gilsa nói người Bayern chẳng ai có mái tóc vàng nên Ani đã hỏi mượn chiếc khăn choàng để giấu đi mái tóc óng ả của mình. Với kiểu ăn mặc cải trang như một người Bayern, Ani hi vọng rằng cô sẽ có nhiều cơ hội tiếp cận đức vua hơn trước khi bị người của Ungolad phát hiện. Sau khi cô đã an toàn ở nơi có sự hiện diện của đức vua xứ Bayern, thì việc giở bỏ chiếc khăn trùm đầu để lộ mái tóc sẽ góp phần chứng tỏ nguồn gốc hoàng tộc của cô. Bà Gilsa giúp cô thắt khăn thành chiếc nơ nhỏ và vỗ nhẹ vào má cô như bà vẫn thường vỗ vào cổ chú dê mỗi lần vắt sữa. “Đây là quần áo của bác ạ?”, Ani hỏi. “Ừ, chúng từng là quần áo của ta!”, Gilsa trả lời. Ani rút chiếc nhẫn vàng còn lại từ ngón tay út ra. “Cháu muốn đền đáp lòng tốt của bác. Cháu rất mong bác hãy nhận lấy chiếc nhẫn này”. Gilsa nhìn xuống chiếc nhẫn vàng óng ánh. “Ta sẽ làm gì với nó đây, cô gái?”, bà cười đôn hậu, “Trước khi đạt được mục đích, cháu có thể sẽ cần đến nó đấy. Đừng lo, chắc chắn là cháu sẽ có nhiều cách khác để trả ơn ta mà”. Ani nài nỉ một lúc, nhưng sau đó vẫn phải cất chiếc nhẫn lại. Cô hơi thất vọng vì cảm thấy mình vẫn nợ người phụ nữ này nhiều quá, khi đã ăn uống, ngủ nghỉ ở đây suốt những ngày qua. Tròi vẫn còn rất sớm khi Finn và Ani gồng gánh hành lý trên vai khỏi hành. Khu rừng còn ẩm ướt hơi sương, rất yên tĩnh trong buổi tờ mờ trước khi ánh bình minh ló dạng. Finn có vẻ thích sự yên tĩnh nên Ani bước xa anh một khoảng, một mình lắng nghe câu chuyện tầm phào của lũ chim rừng và nghe hơi thở ngày càng nặng nề, gấp gáp của mình khi quãng đường đi ngày một xa. Khi Finn đề nghị dừng lại nghỉ ngơi, Ani nghĩ sức nặng của túi hành lý đã kéo tuột một mảng da trên vai cô. Cả hai dừng lại lần nữa vào buổi chiều khi thấy lối mòn đang đi trở thành con đường màu xanh có những vệt bánh xe rất mới. Cây cối ở đây ít hơn nên khu rừng sáng hẳn. Ani ngoái lại sau lưng, ngạc nhiên với chính cô khi nhận ra mơ hồ trong lòng mình là nỗi khao khát được ở lại với rừng. Ngôi nhà của bà Gilsa nhỏ dần và mất hút sau những rặng cây. Với cô, đó là nơi đúng nghĩa là nhà nhất suốt từ bé đến giờ, đúng nghĩa nhà hơn cả cung điện nơi mẹ cô đang ở. Dường như Ani không muốn quay lại chốn cũ, dù ở đó có chiếc giường rất êm, có thức ăn ngon và là nơi cô quen thuộc. Nhưng, Ani tự nhắc nhở mình, Kildenree không còn là nơi của mình nữa, nhà của bà Gilsa cũng vậy. Cô quay lại nhìn con đường. Có tiếng vó ngựa xuyên qua những lời thì thầm của khu rừng. Finn đứng dậy, căng mắt nhìn ra xa và Ani lùi lại nấp sau những gốc cây. Tim cô đập nhanh, hơi thở gấp gáp. Cô thậm chí không dám gọi tên Finn. Nhưng khi cô nghe kỹ âm thanh và giai điệu của vó ngựa, cô nhận ra rằng đó chỉ là tiếng của một con ngựa chân ngắn và đơn lẻ, không giống như những người đang đuổi theo mình. Rồi khi chiếc mũi màu nâu của chú ngựa tới gần khúc quanh, vẻ mặt của Finn cho thấy anh đã nhận ra ai đó. “Xin chào, xin chào!”, người điều khiển xe, một chàng trai nhỏ tuổi hơn Finn cất tiếng. Trong xe còn có một cậu thanh niên khác và một cô gái với mái tóc quấn trong chiếc khăn trùm đầu màu đỏ. Quần áo của họ được nhuộm màu sáng giống như Ani. Điều này phần nào khiến cô an tâm, mất đi sự e dè vì nghĩ mình có phần lòe loẹt với chiếc áo màu vàng sáng và chiếc váy xanh da trời giữa khu rừng chỉ toàn màu xanh của lá và màu nâu của những thân cây. Chiếc xe ngựa dừng ngay bên cạnh họ, người lái xe đứng dậy. Ani giơ tay lên đầu làm ra vẻ chỉnh chiếc khăn choàng, để nó rủ xuống che đôi chân mày màu sáng của mình. Người lái xe ngạc nhiên: “Cô gái này là ai vậy, Finn?”. “Mẹ mình bảo cô ấy đi cùng để giúp mình ở chợ”, Finn trả lời. Những người khác nhìn Ani chờ đợi. Ani định dùng tên của bà ngoại mình, nhưng rồi cô cảm thấy không ổn, vì dù đã an toàn trước Ungolad nhưng ở đây, trong rừng bên cạnh chiếc xe ngựa cũ kỹ, tồi tàn này, cái tên Isalee của bà ngoại vẫn có vẻ gì quá cao quý và xa lạ. “Tớ là Isi. Rất vui được gặp các bạn!”, Ani nói. Finn quay lại nhìn cô. Ani nói lướt nguyên âm rất nhanh và luyến âm rất trôi chảy theo kiểu giọng Bayern như thể đã được luyện tập nhiều ngày khi đi hái rễ cây ở nhà Gilsa. Finn cau mày tỏ vẻ không hài lòng nhưng anh không nói gì. Cô mỉm cười nhìn anh với vẻ biết ơn. Những người trên xe ngựa vẫn tiếp tục nhìn chằm chằm. “Có chuyện gì ấy nhỉ?”, cậu thanh niên còn lại trên xe nói, “Nghe giọng có vẻ như cô ấy đến từ đâu đó ở Darkpond nhưng rõ ràng cô ấy không phải là người Darkpond. Finn, cậu có nghe tớ nói không vậy?”. “Đúng thế, tốt nhất cậu nên nói cô ấy từ đâu đến?”. “Từ khu rừng”, Finn lầm bầm. Người thanh niên lái xe lắc đầu. “Tớ không thích việc này và chắc chắn con Nod cũng vậy, nó không quen chở năm người. Chúng tớ cũng không thấy thoải mái với người lạ. Tớ nghĩ mình có thể cho hành lý của cô ấy lên xe, giờ thì cô ấy không còn có ích gì cho cậu nữa, tớ nghĩ tốt nhất cô ấy nên đi theo đường của mình”. Ani không ngạc nhiên. Cô chờ đợi cảm giác đôi vai mình nhẹ đi khi Finn nhấc hành lý xuống và cô cũng chờ đợi cảnh bị bỏ lại một mình trong rừng. Nhưng Finn chỉ nói: “Thôi được rồi”, và chạm vào khuỷu tay Ani, bắt đầu đi bộ dọc theo con đường. “Anh có thể đi với họ”, Ani nói rất nhỏ. “Tôi không sao đâu, Finn, anh không thể bỏ lỡ phiên chợ hôm nay được”. Finn nhún vai và tiếp tục bước. Ani có thể nghe tiếng kĩu kịt của chiếc xe ngựa khi con Nod tiến đến bên cạnh họ với khoảng cách rất gần. “Đừng có bướng bỉnh như vậy, Finn!”, anh chàng lái xe nói. “Đúng thế, lên xe đi!”. “Thôi đi hai anh chàng ngốc”, cô gái trên xe lên tiếng, “Chắc chắn Finn có mang theo bánh hạt của bác Gilsa và chúng ta sẽ không có mẩu bánh nào đâu nếu cứ như thế này”. “Thôi mà Finn!”, người còn lại nói, “Chúng tớ chỉ muốn biết cô ấy là ai thôi mà”. Finn vẫn bước đi. Anh chàng đánh xe ghì dây cương lầm bầm. “Lên đi, cả hai người, hai cậu là hai kẻ bướng bỉnh nhất mà tớ từng thấy đấy!”. Ani và Finn trèo lên phía sau xe ngựa. Thùng xe đầy những bao tải nằm trên sàn. Ani nghe theo sự chỉ dẫn của Finn, ngồi lên một đống bao tải, như thể đứa trẻ vừa thắng trò chơi Đức vua của những ngọn đồi. Finn với lấy cái túi của mình, lôi ra một chiếc bánh nhỏ được gói ghém cẩn thận. “Bánh mới làm hôm qua đó”, Finn đưa chiếc bánh cho cô gái trong xe để bẻ nhỏ ra. Ani cười với cô, nhưng cô ta đang nhìn sang phía khác. “Tiến lên, Nod!”, anh chàng đánh xe nói. Cậu ta nhìn Finn một cách ngờ vực và kéo dây cương cho ngựa chạy. Xe đi đến tận đêm. Ani thu mình lại, lấy những chiếc bao tải làm chăn đắp và ngắm nhìn ánh sáng lấp lánh dưới tán cây khi xe chạy lướt qua. Ba người bạn đồng hành nói chuyện không ngớt với nhau, thậm chí còn tìm cách tán tỉnh nhau mỗi khi Finn không chú ý. Finn có vẻ không để tâm lắm đến cuộc chuyện trò rộn ràng ấy, anh đang lo cho một chú gà con bị tật ở chân và nghĩ tới mẹ đang ở nhà một mình, ngồi đan trong bóng tối. Khi họ kể cho nhau những gì đã xảy ra ở nhà kể từ phiên chợ trước, Ani lắng nghe và cố gắng kết nối các dữ kiện để xem liệu cuộc sống sẽ diễn ra như thế nào khi sinh sống ở nơi bìa rừng - khó khăn, nghèo khổ, những công việc nặng nhọc và những câu hỏi dai dẳng ám ảnh rằng liệu họ có thể sống qua một mùa đông nữa không, cô đoán thế. Tuy vậy, Ani vẫn thầm ganh tỵ với sự hồn nhiên và tương đồng của họ. Cô không có câu chuyện nào để chia sẻ, và những người đó cũng không nói gì với cô cả. Ani thu mình lại chặt hơn trong chiếc bao tải của mình, cố gắng để chiếm càng ít diện tích càng tốt. Chiếc xe ngựa dừng nghỉ đêm ở hốc cây tối om, nhưng chẳng mấy chốc sau lửa đã rực sáng. Khi những người bạn đồng hành chuẩn bị bữa ăn và dọn dẹp tìm chỗ trải túi ngủ, Ani thầm cảm ơn vì trong chặng đường rừng đi với Selia trước đây, cô thị nữ này từng từ chối giúp cô chuẩn bị chỗ ngủ. Ít nhất điều đó cũng đã cho cô chút ít kinh nghiệm, để bây giờ có thể tự lo liệu, sửa soạn chỗ ngủ cho mình. Finn nhận thấy sự lạc lõng của Ani trong khi ăn nên nhanh chóng tìm cách giải cứu cô khỏi những tình huống khó xử. Ani mỉm cười, cảm ơn anh bằng giọng Bayern của mình. Sáng hôm sau, Ani thức dậy sớm nhất. Cô nhìn khuôn mặt mọi người trong ánh sáng lờ mờ của buổi rạng đông và cảm thấy thật cô đơn. Khi ngủ, ngay cả khuôn mặt khá quen thuộc của Finn cũng trông thật khác. Họ như thể những người hoàn toàn xa lạ, mái tóc đen, móng tay cắt ngắn, bàn tay bẩn thỉu, tiếng ngáy yên bình cho thấy họ hoàn toàn thư thái khi sống trong thế giới đầy cây cỏ này. Cô đứng dậy vươn vai, như thể kéo căng sự căng thẳng của trạng thái cô độc đang tràn ngập trong tim mình. Con ngựa ngái ngủ rên khe khẽ. Âm thanh này khiến vết thương lòng cô trỗi dậy và cô mong muốn được về với Falada biết bao. Bàn chải lông ngựa và yên cương để trên phiến đá bên cạnh. Ani vuốt ve lớp lông ngựa màu nâu. Cô vừa chải lông cho nó vừa thì thầm vào đôi tai đang giật giật của nó, bắt chước theo kiểu ngựa mẹ nựng ngựa con và cố gắng tìm hiểu xem con ngựa này thích được chà xát vào chỗ nào nhất. Mặc dù cô không thể nói chuyện với con ngựa này, mặc dù ngôn ngữ của nó không tồn tại sẵn trong đầu óc cô như với Falada, nhưng cơ thể con ngựa vẫn rất thân thuộc dưới những ngón tay cô. Những cử động của con ngựa như ngầm nhắn nhủ với cô điều đó. “Nod có vẻ thích cô đấy!”. Ani quay lại, thấy anh chàng đánh xe đang ngáp và dụi mắt. Cậu ta tiến lại vỗ vào cổ con ngựa. “Nào nói nghe xem, cô có vẻ đối xử tốt với thú vật nhỉ?”. “Tôi nghĩ vậy”. Cô không biết cách người Bayern nhìn nhận người yêu động vật như thế nào nhưng anh chàng này không có vẻ gì đáng nghi ngờ cả. Cậu ta vỗ mông chú ngựa của mình. “Nếu thấy mệt, cô có thể dừng việc chăm sóc con ngựa lại!”. Những người bạn đồng hành thức dậy và ăn sáng trong sự im lặng nặng nề. Trong khi mọi người trèo lên xe, Ani nhặt một mẩu than đen nhẻm từ đống lửa đã tàn và bỏ nó vào túi chiếc váy đang mặc. Mẩu than này sẽ giúp chân mày cô đen hơn và hoàn tất việc giả dạng làm người Bayern của cô. Họ đi gần như cả ngày. Cảnh vật mở ra ngày càng rộng hơn. Khi mặt trời bắt đầu lặn về phía tây, cả nhóm hòa vào hàng trăm chiếc xe ngựa khác trên một con đường lớn. Phía trước là kinh thành rồi. Bên ngoài khu rừng, Bayern là vùng đất trùng điệp với đồi và những khoảnh đất thấp xen kẽ. Kinh thành Bayern được xây dựng trên ngọn đồi lớn nhất, được bao bọc bởi bức tường cao bằng chiều cao của năm người, bên trong là những ngôi nhà nhỏ, những con đường đầy gió, những ngọn tháp và mái nhà hình chóp. Kinh thành giống như một chiếc bánh lớn được thắp đầy nến là những mái nhà lọp ngói đỏ. Ớ trung tâm, một lâu đài nguy nga sừng sững với nhiều tháp canh được trang hoàng lộng lẫy. Bên cạnh lâu đài là hoàng thành, nơi được xem là trung tâm hành chính của kinh đô. Ani nhảy ra khỏi xe và liếc nhìn mọi thứ xung quanh. Một rừng mũ nón và những chiếc khăn trùm đầu, khuôn mặt với đôi chân mày và hàng mi rất rậm, những người lính mang những cây giáo mũi bọc thép và những chiếc khiên được sơn sáng loáng. Chỉ một người trong số họ có mái tóc màu vàng. Ani thấy hắn ta trước khi hắn bắt gặp cô và cô nhanh chóng nhìn đi chỗ khác. Đó là Yulan. Hắn ngồi trên một tảng đá trước bức tường thành, nhìn từng khuôn mặt lướt qua một cách kỹ càng, vừa liếc nhìn vầng mặt trời đang lặn, một tay cầm chuôi thanh kiếm của mình. Ani bỏ túi đồ xuống và ngồi lên sàn xe. Cô nghe rõ từng nhịp tim mình đập. Tiếng ầm ì của những chiếc xe ngựa và tiếng người cười nói ồn ào dường như nhỏ lại, biến dần đi. Yulan đang ở trong thành phố. Ungolad và Selia chắc hẳn cũng ở đây. Cô tự hỏi liệu điều này có đồng nghĩa với việc họ đã đánh bại Talone, có nghĩa là tất cả những người lính trung thành đã chết, và nơi này không an toàn? Cô sờ gáy mình và cúi đầu xuống. Bằng cách nào đó, cô vẫn phải vào được trong cung. Ở Kildenree, thường có những ngày dành cho thành viên trong hoàng gia tiếp kiến với những thần dân có việc phải cầu xin, và Ani mong ở đây cũng như vậy. Giá như cô có thể vào cung mà không bị Yulan và đồng bọn nhận ra, cô sẽ bẩm báo trường hợp của mình với đức vua. Nếu ngài không tin, cô sẽ cầu xin được gặp tể tướng. Cô hi vọng rằng sau hơn năm năm ghé thăm Kilderee, ông vẫn còn nhận ra gương mặt cô. Rất nhiều xe ngựa đổ qua cổng thành và xếp hàng ở dải đất trống trước trung tâm chợ phiên. Nhóm của Finn bị đẩy ngược xuống phía sau tòa nhà ba tầng đối diện với chợ. Ani kiếm chỗ ngủ bên dưới chiếc xe ngựa, nằm nép vào đó, chờ đợi bóng đêm sẽ nhanh chóng kéo về che giấu thân phận mình. Finn ngồi bên cạnh cô, im lặng đưa cô lát bánh mì và pho mát mà những người khác chia cho để ăn bữa khuya. “Finn, ở nơi này, thần dân có ai được diện kiến đức vua, hoàng hậu, hay hoàng tử không?”. “Không còn hoàng hậu nữa rồi...”. Finn trệu trạo nhai một mẩu bánh mì, không nhận ra rằng Ani đang rùng mình vì lạnh trong khi chờ đợi câu trả lời. “Trong ngày diễn ra phiên chợ, tôi thấy nhiều người xếp hàng để xin được diện kiến đức vua!”. “Mai là ngày diễn ra phiên chợ phải không?”. Anh ta gật đầu và cả hai tiếp tục ăn trong im lặng. “Cô sẽ muốn bỏ đi sớm cho mà xem...”. Finn chỉ về phía con đường không rộng lắm dẫn ra khỏi chợ. Sáng sớm, Ani tỉnh giấc bởi tiếng của những nhà buôn ngái ngủ xếp đồ đạc cá nhân và kéo những chiếc thùng gỗ ra khỏi mớ bao tải phủ giờ đã ướt đẫm sương. Cô gấp chăn mền, gật đầu chào tạm biệt Finn và lên đường. Đi chưa được xa lắm, Ani dừng lại ở vệ đường trống sửa sang lại khăn trùm đầu để trông thật tự nhiên. Cô lấy mẩu than trong túi ra, cúi xuống soi mình trước một cửa sổ có rèm, cố tình tô đen chân mày. Nếu những người Kildenree đang tìm kiếm một cô gái tóc vàng trong đám đông thì họ có thể bỏ qua cô. Ani không thể để bị phát hiện trước khi có được sự bảo vệ của đức vua. Không nghi ngờ gì nữa, nếu có cơ hội thì Ungolad sẽ lôi cô đi và giết chết cô ngay lập tức. Đi càng xa càng, có nhiều người sóng bước cùng Ani. Vài người trong số họ mặc trang phục màu sáng, đon giản của người ở ngoại ô, những người khác mặc trang phục lộng lẫy hơn, ra dáng người ở kinh thành. Lúc cô đến gần cung điện cũng là lúc mặt trời ngang tường thành. Đã có một hàng người thỉnh cầu đứng xếp hàng dài từ cổng cung điện cho đến sân trong. Cô bước vào hàng, phía sau người cuối cùng với hi vọng họ có thể che cho cô khỏi tầm ngắm của những kẻ thuộc phe Yulan. Mặc dù hàng người rất dài nhưng họ di chuyển nhanh chóng, và Ani chợt ước gì cô mang theo một ít thức ăn bà Gilsa đã đặt sẵn trong túi đồ. Con đói khiến cô khó chịu. Ani nghĩ: Thật không công bằng, không công bằng, phải ăn đồ ăn của người khác, chờ đợi lòng thương hại và sự từ tâm của người khác, không tiền bạc không chẽ trú ngụ. Trong khi cung điện này lẽ ra phải là nơi ở của ta! Cô ngước nhìn chiều cao thẳng đứng của những ngọn tháp trong cung, mỗi ngọn tháp đều trang hoàng rực rỡ với các ngọn cờ bay phấp phới trong gió. Cô nhìn xuống bản thân mình: Cô đang dựa vào tường trong bộ quần áo nhàu nát, đứng gần như cuối hàng những người nông dân rất kiên nhẫn này, bụng đói, lòng bàn chân đau buốt bởi đôi bốt của Finn. Đây không phải là mình, cô nghĩ, vậy đây là ai? Cô không thể trả lời được câu hỏi của chính mình. Đầu óc cô tràn ngập ý nghĩ về các món ăn sáng - bánh mì phết mật ong, táo, trứng luộc với phô mai, bánh mì bơ, xúc xích tươi. Cô nuốt nước bọt để trấn an cái dạ dày trống rỗng và chờ đợi. Dòng người nhích tới từng tí một. Cuối cùng, Ani cũng đến được nơi bóng mát của cửa cung. Cô bước tới và cảm thấy mình gần như chạm vào mùi hương quen thuộc của hoàng gia. Dạ dày cô nhảy múa như thể nó sắp bật ra khỏi cổ và bóp nghẹt cô đến khi bật khóc. Sàn nhà bóng loáng, sạch bong, rèm cửa thơm phức, đồ dùng kiểu cổ, các phiến đá sang trọng, nước uống, vườn hoa hồng, dầu thơm, sữa dưỡng da, nước hoa hồng. Những thứ này khiến cô nhớ về cha mình, cảm thấy thoải mái và yên bình. Cô chỉ mới xa nhà vài tháng nhưng những mùi hương thế này như vang dội lại từ trong sâu thẳm ký ức, nhắc cô nhớ về người cha kính yêu đã vĩnh viễn ra đi. Cô bước về phía trước mỗi khi dòng người di chuyển nhưng đầu óc vẫn chìm trong ký ức. Người đàn ông xếp hàng trước cô đã bước vào cung điện. Đúng lúc ấy thì cô nhìn thấy Selia! CHƯƠNG 7 Mái tóc sáng của Selia nổi bật giữa những màu tóc đen, cô ta che giấu nó trong chiếc mũ vành phủ lưới lộng lẫy. Selia mặc một trong những chiếc áo lẽ ra là của Ani, một chiếc áo màu ghi với áo lót kiểu đơn giản. Cô nàng bước chậm rãi với vẻ tự tin, quá hài lòng với bản thân mình đến nỗi không ai còn nhận ra đấy chỉ là một thị nữ. Đi cùng cô ta là hai phụ nữ khác mặc trang phục theo kiểu Bayern, áo dài với váy rộng. Họ đang huyên thuyên cười đùa. Ani không thể di chuyển, hai chân nàng công chúa bé nhỏ nặng trịch như đeo đá. Cô cúi đầu căng thẳng, lắng nghe tiếng tiếng váy của Selia sột soạt, tiếng dòng người thỉnh cầu đang di chuyển trong tư thế cúi đầu. Khi những người phụ nữ đó rẽ sang hành lang khác, Ani ngẩng đầu lên, thấy một thị nữ của đức vua đang ra hiệu cho cô bước vào. Selia đang ở đây, trong cung điện của ta, mặc trang phục của ta. “Vào đi, đến lượt cô đó”, thị nữ nói. Selia đang ở đây, điều đó chứng tỏ cô ta đã giết hết bọn họ - Talone, Adon, Dano, Radal, tất cả. “Bước nhanh nào cô gái. Còn một hàng dài đến tận ngày mai cơ!”. Ani nín thở bước vào trong. Đó là một căn phòng dài và hẹp có một cửa sổ trên trần đổ những tia nắng chói lọi xuống sàn nhà lát cẩm thạch màu xám. Ani muốn ngắm nhìn sự chói lóa xa hoa này. Nhưng hình ảnh Selia cứ hiện diện trong tâm trí cô, như thể đang ngắm ngọn lửa sáng rực thì đột ngột quay sang bóng tối vậy. Cô bước về phía trước mà hầu như không nhìn thấy gì. Ani biết có lính canh ở mỗi góc hành lang và bên cạnh mỗi cột nhà sáng loáng kia nhưng cô không để mắt tới họ. Ungolad chỉ có thể ở đâu đó bên cạnh Selia. Thuộc hạ của hắn ta đang ở trong thành phố tìm kiếm cô, còn cô thì đã đến được cung điện của nhà vua, chú chuột sắp với được miếng pho mát rồi, cô sẽ thông báo về nhân thân của mình trước họ, mời họ cứ thử làm cái việc đơn giản là giết chết cô như những người đồng hành của cô. Ani dừng lại, e sợ rằng nếu tiếp tục di chuyển thì cô sẽ bỏ cuộc mất. “Lại gần đây chút nữa, cô gái!”, đức vua lên tiếng. Đức vua là một người đàn ông to lớn. Ông có vẻ rất cao, ngay cả khi đang ngồi. Đôi tay to và khỏe của ngài đặt trên chiếc ghế bành được chạm trổ tinh vi. Ani tưởng tượng rằng nếu cần, ngài vẫn có thể cầm gươm ra chiến trường. Ngài có vẻ mệt mỏi nhưng dễ gần, có lẽ bởi vẻ do dự, e dè của cô. Ani tiến thêm vài bước và nhún chân cúi chào một cách cung kính nhất - cách cúi chào chỉ áp dụng cho nghi lễ hoàng gia cô vốn được dạy dỗ cách đây nhiều năm. Không người thầy nào có thể chuẩn bị tinh thần cho cô về cuộc gặp gỡ kỳ lạ này, cuộc gặp gỡ một vị vua, nhưng trong trang phục của thường dân, đi ra từ trong rừng với đôi bốt mượn của một chàng trai, đôi lông mày vẽ bằng than củi và một giọng nói bắt chước. “Lòi thỉnh cầu của cô là gì?”, người thị nữ nhắc. “Tôi_ không biết!”, cô nói với giọng rất nặng của người sống ở vùng rừng thẳm. Ngu ngốc, thật là ngu ngốc. Ani tự mắng bản thân mình. Cô không thể để lộ thân phận với đức vua bây giờ được bởi cô biết Selia đã thành công trong việc xâm nhập vào cung. Cô có chứng cứ gì chứ? Một khi cô nói ra, tất nhiên đức vua sẽ gọi Selia đến để giải thích. Selia và tất cả những tên lính gác sẽ phủ nhận câu chuyện của cô và Ani sẽ bị tống vào tù vì tội mạo danh hay tệ hơn sẽ được thả ra như một kẻ điên và ngay lập tức rơi vào tay của Ungolad. Không có sự lựa chọn nào cả. Ani cảm thấy mất phương hướng. Đức vua thở dài: “Cô mới đến thành phố này?”. “Vâng, thưa bệ hạ”. “Cô có nơi nào để ở chưa?”. “Dạ chưa ạ!”, cô thú nhận. “Cô có thể làm gì?”. Nghĩ đến việc có thể tìm thấy Falada, Ani trả lời một cách đầy hi vọng: “Tôi có thể làm việc với những chú ngựa”. Đức vua ra hiệu cho một viên cận thần đang đứng bên phải ngài. “Giờ không cần thêm người làm việc ở chuồng ngựa thưa bệ hạ!”. Viên cận thần là một người đàn ông cao lớn với khuôn mặt xương xương. Ông nhìn một mảnh giấy da dán trên tấm bảng nhỏ. “Tuy vậy, cậu bé chăn ngỗng đang rất đơn độc và lẻ loi với bầy ngỗng năm mươi con”. “Tốt”, đức vua ra hiệu cho Ani đi theo viên cận thần ra khỏi phòng. “Khoan đã, muôn tâu bệ hạ. Cháu... cháu có một thỉnh cầu. Cháu có thể nói chuyện với Tể tướng một phút không ạ?”. Nhà vua ra hiệu cho viên cận thần đang chờ đợi một cách kiên nhẫn. “Được, như cô muốn!”. Ani chớp mắt, ngạc nhiên không tin được đức vua lại đáp ứng lời thỉnh cầu của cô nhanh chóng như vậy. Cô cảm ơn ngài và nhún chân cúi chào lần nữa khi người thỉnh cầu khác đang sẵn sàng bước vào. Khi cô đứng thẳng lên, cô nhận ra có nét gì đó khác lạ trên khuôn mặt đức vua. Có vẻ như đây là lần đầu tiên ngài nhìn kỹ cô và những nếp nhăn quanh miệng ngài dường như hằn sâu thêm. Cô cảm giác như đức vua đang dò xét kiểm tra và khuôn mặt cô lập tức đỏ lựng lên. “Tốt”, đức vua lặp lại lần nữa và thoáng mỉm cười với cô trước khi thị nữ nhắc ngài tập trung. Sau sự hào nhoáng, chói lòa của căn phòng đón khách, những bức tường gỗ và những tấm thảm thêu sẫm màu của hành lang giúp Ani cảm thấy dễ chịu phần nào. Cô sắp đi gặp Tể tướng. Cô chờ đợi viên cận thần sẽ dẫn đường cho cô nhưng thay vào đó, ông ta gọi một cậu bé hầu cận nhỏ tuổi, hướng dẫn cậu ta đưa Ani tới khu nhà nghỉ dành cho tôi tớ trong cung ở phía tây và dợm người quay trở lại phòng khách của nhà vua. “Đọi đã, thưa ngài. Đức vua nói tôi có thể nói chuyện với tể tướng mà”. “Ta là tể tướng đây”. “Không phải ngài. Ý tôi là tôi đã gặp tể tướng một lần khi tôi còn nhỏ...”. Tể tướng thở dài một cách khó chịu. “Có lẽ đó là người khác. Ta là Thiaddag, tể tướng của Bayern trong bốn năm qua. Xin lỗi, ta không thể rời bỏ nhiệm vụ của mình để sum họp với cô và người bạn cũ của cô được”. Ông ta phẩy phẩy tay vừa như chào, vừa như xua cô đi và quay trở lại phòng với đức vua. “Thôi đi nào!”, cậu bé nói. Ani lưỡng lự. Làm việc với cậu bé chăn ngỗng không nằm trong kế hoạch của cô. Nhưng lúc này, kế hoạch của cô đã gần như sụp đổ bởi sự xuất hiện của Selia và vị tể tướng mới. Cô phải tìm cách ở lại thành phố này cho tới khi có thể tìm ra và giải cứu Falada. “Vâng, được rồi!”, cô nói và theo sau cậu bé. Khi họ bước ra ngoài sân, dưới ánh nắng mặt trời, cậu bé dừng lại, vươn vai hít đầy lồng ngực, mỉm cười với một ngày nắng nóng như thiêu đốt. Cậu ta gợi cho Ani nhớ tới loài chim cổ đỏ bởi chiếc áo dài màu đỏ, mái tóc thả lỏng giống như những chiếc lông vũ. “Tôi tên là Tatto. Tôi là con trai của viên đội trưởng dẫn đầu hai mươi người lính, bởi vậy nên tôi được làm một người hầu trong cung dù chỉ mới mười hai tuổi”. “Ồ, xin chúc mừng!”, Ani nói. Cậu ta nhìn chằm chằm vào cô để xem trong lời chúc mừng kia liệu có ý chế giễu không. Ani rùng mình, cô cũng không biết liệu có tốt không khi trở thành một người hầu ở tuổi mười hai. Cậu bé lắc đầu và lẩm bẩm: “Đúng là dân trong rừng!”. Cậu bé nói rất nhiều lúc họ đi bộ xuống những con đường dốc của thành phố, giới thiệu cho cô biết những nhiệm vụ phức tạp của một người hầu trong cung và đủ thứ chuyện linh tinh về chốn kinh đô phồn hoa này. Một lúc lâu sau, họ đến bức tường thành cao ngất và bắt đầu đi dọc theo đó. “Phía bên kia bức tường là đồng cỏ, có bò, cừu, ngỗng và các loại gia súc, gia cầm nuôi ở đó. Đấy là nơi cô sẽ làm việc!”. “Thế đâu là nơi nhốt ngựa?”, Ani hỏi. “À, chúng phía sau cung điện, một mảnh đất rộng đến nỗi cô phải chạy mới qua hết nó trước bữa sáng”. Phía sau bức tường cung điện, Ani nghĩ thầm một cách rầu rĩ, đó là cả một vấn đề. Cuối cùng Tatto dẫn cô tới một ngôi nhà dài cao hai tầng, những bức tường sơn màu vàng giống màu chiếc áo cô đang mặc. Người phụ nữ trong ngôi nhà đó ốm và có đôi mắt đờ đẫn. Khi nói, giọng bà kéo lê ra khỏi cổ họng một cách do dự, ngắt quãng bởi những lần dừng và tiếng ậm ừ. Bà tự giới thiệu mình tên Ideca, quản lý những người làm công khu phía tây, bà cảnh báo Tatto không được la cà trên đường về, nếu không chỉ huy của cậu sẽ trả cậu lại khu hầm ở nhà bếp. Tatto quắc mắt nhìn bà vì đã bôi xấu hình ảnh cậu, rồi chạy ào ra cửa. Ideca nhìn Ani. “Cô sẽ không, ừmm... nhớ nhà, nhớ khu rừng của cô mà bỏ trốn chứ?”. “Không, tôi sẽ không bỏ trốn đâu!”, Ani đáp. “Tôi không biết sao cô lại đến thẳng chỗ đức vua thay vì đến trực tiếp đây. Cô cho rằng đó là một lối vào rộng mở và cô sẽ được đối xử khác ư? Không! Tất cả chúng ta đều phải làm việc. Những gì chúng ta phải làm ở đây là làm việc và làm việc!”. Ani gật đầu, hi vọng điều đó đã đủ cho câu trả lời. Ideca mím môi. “Đây là nơi cô lấy thức ăn của mình, vào buổi sáng và buổi tối, vì vậy giờ cô có thể bắt đầu luôn được rồi đấy, ừm...”. Bà ném cho cô một tô súp đậu và một ly nước lớn. Ani chộp ngay lấy ly nước uống ừng ực để rồi sau đó cô ước gì mình chừa lại một vài ngụm để giúp tiêu hóa tô súp nguội lạnh. Ideca dẫn Ani lên lầu, đến một tủ quần áo bừa bộn đưa cô chiếc váy thừa và chiếc áo dài, cả hai đều màu cam nhạt như hoa hồng. Một cây gậy dài cong một đầu để lùa bầy ngỗng thành đàn, một chiếc mũ với vành bằng rơm và dải ruy băng để buộc lại dưới cằm. Ani nghĩ, chiếc mũ đó sẽ là vật ngụy trang lý tưởng cho mái tóc của cô. “Cô sẽ sống trong ngôi nhà thứ ba tính từ phía nam, phía bờ tường. Thời gian còn lại của ngày hôm nay cô được tự do. Hãy trở lại đây vào sáng sớm ngày mai”. Bà đẩy Ani ra ngoài và đóng cửa lại. Đối diện với ngôi nhà của bà là một dãy nhà ở khác, mỗi nhà có một cửa sổ và một cửa ra vào riêng biệt. Ani tìm thấy ngôi nhà thứ ba, bước vào. Ngôi nhà không khác gì một căn phòng, một căn phòng rất nhỏ. Nếu cô dang thẳng tay ra, cô sẽ chạm vào bức tường hai bên. Căn nhà dùng chung hai bức vách bằng gỗ với hai căn bên cạnh và mượn bức tường thành phía tây làm tường sau. Nó ám mùi thị thành - mùi rác, mùi khói bụi, thức ăn, mùi của người và động vật sống quá gần nhau. Ngôi nhà nằm ngay bên cạnh con đường lát đá cuội và cô cảm thấy như thể mình vẫn đang đứng trên đường vậy. Bất kỳ lúc nào người bán hàng rong cũng có thể bước vào cửa nhà cô hay bọn trẻ chơi trò đuổi bắt có thể bò qua cửa sổ và nhảy qua giường để trèo lên những phiến đá cứng của bức tường sau. Một chiếc giường nhỏ, một chiếc bàn và ba cái móc bằng sắt treo trên tường là tất cả đồ đạc có trong phòng. Ani nhớ đến nơi ở của cô ở cung điện Đá Trắng, chỉ cần căn phòng đầu tiên đã rộng gấp mười lăm lần nơi này, và cô mường tượng những bức tường phòng mình, tường màu trắng sáng với những tấm thảm thêu hình trẻ con, chim chóc, hình những ngọn đồi mùa thu hòa quyện vào nhau. Những tấm thảm dưới chân cô như dòng suối tràn bờ, chiếc giường êm với rất nhiều gối và chăn lông ngỗng, tủ sách trên tường, những chú mèo dưới chân, đồ ăn bày sẵn trên bàn, một thị nữ đứng ở cửa luôn chực chờ nói: “Công chúa có cần nô tì giúp thay áo quần không ạ?”. Giờ không còn vương miện công chúa, không còn là công chúa nữa. Khuôn mặt những thị nữ tan biến vào viên đá tròn trên tường. Hiện thực lại quay về, ảm đạm, khó khăn, buồn bã. Ani ngồi trên giường và liếc nhìn đôi tay mềm mại, thuôn dài của mình. Sau khi đi bộ qua lại, lên xuống các hang cùng ngõ hẹp, ngửi những mùi vị cay xè của thịt bò trên phố bán thịt, mùi hoa nồng nàn đến chóng mặt của hàng trăm giỏ hoa bày bán trong những cửa hàng, Ani cuối cùng cũng tìm thấy trung tâm chợ phiên bằng cách đi theo tiếng ồn. Mọi người trên những chiếc xe ngựa yên tĩnh tối qua giờ đã chuyển thành những người bán hàng rong náo nhiệt trong thành phố, vẫy tay chào hàng với những người đi qua, la hét từ chỗ ngồi trên xe, thậm chí đứng lên và rao lanh lảnh. “Táo đây, táo đây, thảo mộc đây, mứt hạnh nhân đây. Chăn bông đây, chăn cho mùa đông đây, mua chăn cho mùa đông sắp đến nào...”. Ani tìm thấy những người bạn đường của mình, họ đang buôn bán rất nhộn nhịp, với một nửa các túi hàng đã hết. Đám đông người mua đang chuyền tay nhau những chiếc áo len nhuộm màu của bà Gilsa. Ngay cả Finn cũng nói huyên thuyên gì đó và vẫy vẫy chiếc áo len trên không. Cô nhận ra anh chàng đang vẫy chào mình. Cô tiến lại gần, vẫn cảm thấy lâng lâng bởi tiếng ồn và sự náo nhiệt của phiên chợ. “Xin chào, Isi”. Anh chào cô trước, lúc này cô mới nhớ ra rằng Isi là tên mình. Nhóm của anh đã bán được khá nhiều hàng, mặc dù vẫn còn gần một nửa và họ sẽ phải ở lại đây cho đến hết phiên chợ. “Phiên chợ tháng tới thế nào cũng bán nhanh hơn”, cô gái với chiếc khăn màu đỏ nói, “Lúc đó thời tiết sẽ lạnh giá và mọi người sẽ sợ cái lạnh của mùa đông, hối hả mua áo len cho xem!”. “Finn, tôi đã tìm được việc ở đây!”. Ani cố gắng nói khẽ nhưng thật ra cô cũng gần như phải hét lên để Finn có thể nghe thấy trong sự ồn ào náo nhiệt quá mức này. “Tôi sẽ chăm sóc bầy ngỗng của đức vua”. Cô cười, mặc dù đó là một công việc lao động tay chân bình dị nhưng với cô nó có vẻ thật cao quý, và cô nghe thấy giọng nói hài lòng của Tatto: “Đó là một công việc tốt đấy”. “Tôi chỉ muốn đến để nói với anh điều đó, để anh không phải lo lắng rằng tôi đã đi đâu mất...”. Finn vỗ vai cô và nhìn đầy vẻ trêu chọc. Rồi anh dụi mắt, cười bí hiểm. Cô tự hỏi không biết điều này có nghĩa gì, chỉ hi vọng rằng vết than vẽ trên chân mày không bị mờ đi. “Thôi, tôi nên đi thì hơn. Cảm ơn lòng tốt của anh nhé!”. Cô quay người định đi nhưng ngay lập tức trở lại và nói thầm vào tai Finn. “Finn, có thể sẽ có người biết anh quen tôi, họ sẽ đến tìm anh hay mẹ anh. Họ sẽ giả vờ là bạn tôi, hỏi tôi đang ở đâu, làm ơn đừng nói cho họ biết nhé”. Cô mỉm cười một cách đau khổ. “Tôi chỉ có anh và bác Gilsa là bạn ở vương quốc này thôi”. Finn gật đầu: “Tôi cho cô một ít đồ ăn trưa nhé!”. Anh lôi trong xe ra một quả táo xanh căng mọng, mùi giống như mùi gắt của cỏ ướt ở các dòng suối trong rừng. “Chúc may mắn!”, anh nói, đưa cô quả táo và quay lại với công việc bán hàng của mình. Ani lách qua những bãi đậu xe, những chiếc xe ngựa, xe chở hàng, những tay lái buôn, những người bán hàng từ ngoại ô, và những người dân thành phố cũng ra ngoài để tham gia mua bán. Một đám đông nhỏ đang tụ tập quanh người đàn ông tung hứng bóng. Một trong số những quả bóng biến thành một chú bồ câu, nó bay qua vòng tròn nhỏ. Ani đứng xem, miệng há hốc. “Thủ thuật thôi!”. Người phụ nữ với chiếc khăn trùm đầu màu xanh vẫy tay với Ani. Bà ta ngồi trên một chiếc mền đang để chật cứng các loại rễ cây, những chùm quả mọng và đống lá khô đến nỗi bà không thể nào di chuyển được. “Tất cả chỉ là kỹ xảo thôi”, người phụ nữ chỉ vào người tung hứng, “Không phải phép thuật thật sự đâu”. “Ô vâng, tất nhiên!”, Ani nói. Người phụ nữ liếc nhìn cô và ho khẽ, hay có lẽ là mỉm cười. “Bên trong cô thì lại có điều đó phải không?”. Ani cau mày. “Bên trong con người cô, tôi nghĩ là có nhiều thứ hơn cô nghĩ...”. “Bà nói gì, ý bà... Thứ tôi có liệu có phải là phép thuật không?”. “Cô có biết mình có gì không?”. Ani nhún vai. “Tôi cũng nghĩ cô muốn mua thứ gì đó ở đây”. Bà phủi bàn tay bẩn của mình trên đống hàng hóa đã được gom lại. “Vâng, tôi muốn mua một ít rễ cây gai để làm thuốc nhuộm”, Ani nói, “Nhưng tôi không có tiền”. Người phụ nữ khịt khịt mũi: “Đổi quả táo đi”. Bà lấy từ đống đất ra một đoạn rễ cây. “Đây là tất cả những gì tôi có. Mà tôi thì lại không có nhu cầu với thứ này!”. Họ trao đổi hàng hóa và trước khi Ani có thể hỏi thêm câu gì, bà đã xua cô đi. Ani tìm đường đến bức tường thành trong sự lộn xộn của phiên chợ. Cô đi dọc theo hướng tây, tay trái miết theo phiến đá. Khi đi khỏi chợ chưa xa lắm, cô thoáng thấy những vật gì đó dài dài treo trên tường. Ani chớp mắt nhìn, cố đoán xem đó là gì, nhưng trước khi thấy rõ, cô đã ngửi thấy mùi của nó. Những cái xác chết bốc mùi dưới ánh nắng gay gắt. Mùi thịt ôi và máu tươi xộc vào cổ họng cô. Người cô run bần bật, ước gì có thể quay lại đường cũ, cô cố chạy thật nhanh qua và chỉ dừng lại cách đó một khoảng xa. Một người đàn ông đứng dựa vào tường, nhai miếng bánh bích quy và nhìn những gì treo trên bức tường. “Xin lỗi, thưa ngài...”, cô lắp bắp. Người đàn ông nhìn cô từ trên xuống dưới và nói: “Tôi không phải là quý ông đâu, đừng gọi tôi bằng cách đó. Cô gái, cô đến từ vùng đất trong rùng à? Tôi là Amout!”. “Amout, ông làm ơn nói cho tôi biết tại sao những... những cái xác ấy lại bị treo lên đó vậy?”. Ông nhún vai. “Những kẻ phạm tội. Có thể là giết người, lấy trộm gia súc, hay bắt một cô gái. Nói chung là làm những điều xấu. Nhưng không phải sự hèn nhát. Kẻ nào phạm tội hèn nhát thì theo luật của đức vua sẽ bị chôn trong bùn cho đến chết. Sẽ là cái chết bị che giấu. Đó là tục lệ!”. Ông ta cười với cái miệng đầy bánh và vỗ đầu cô. “Kinh thành không giống như khu rừng nhỏ của cô, phải không cô bé? Nhưng cô sẽ phải làm quen với nó thôi”. Ani bước đi không dám ngoảnh lại. Cô nhận ra rằng mình thậm chí còn không biết liệu những kẻ phạm tội có bị giết ở Kildenree hay không. Có lẽ là có. Có lẽ điều đó được giấu diếm không cho cô biết, nằm ngoài thế giới của cô. Có lẽ mẹ cô đã nghĩ rằng cô quá yếu đuối để nhận biết về thế giới. Sau một hồi đi bộ rất lâu, Ani cũng về tới khu nhà của người làm công. Cô gõ cửa nhà Ideca để xin một ít giấm. Cô có một ít giấm trong chiếc ly mượn sau một hồi nghe bà càm ràm than phiền và trách mắng qua loa. Ani bước vào căn nhà thứ ba trong dãy nhà. Để tránh sự buồn tẻ và không gian tù túng, cô bắt tay vào làm việc. Ở hội chợ, cô đã đổi được một thứ rễ cây gai màu nâu. Nó vốn bị lu mờ và lãng quên giữa những quả mọng, rễ cây và những thứ có màu sắc rực rỡ mà người Bayern tìm thấy. Với hòn đá cuội dẹt, Ani cắt những chuỗi rễ màu tối, mọng nước cho vào lỗ hõm trên sàn nhà rồi đổ lên đó vài giọt giấm để được thứ thuốc nhuộm như từng làm ở nhà bà Gilsa. Cô dùng ít cỏ bó lại làm cọ, rồi cẩn thận quét hỗn họp thuốc nhuộm lên đôi chân mày sáng màu của mình. Để nhuộm màu cho mái tóc, cô cần nhiều rễ cây hơn cô tưởng. Trong quá trình nhuộm, màu dính khắp tay và người cô. Nhưng vẫn phải làm. Cô lau sạch vết thuốc nhuộm khô bằng lớp vải trong của chiếc váy và nằm co tròn trên giường. Thậm chí trong giấc ngủ, cô cũng nhận ra thanh nan lát giường đang đâm vào lưng mình qua lớp nệm mỏng. CHƯƠNG 8 Trời vừa tờ mờ sáng, Ani đã nghe tiếng những người hàng xóm của mình khua động mọi thứ. Tiếng khung giường gỗ cọt kẹt vì thời gian, tiếng những đôi bốt lẹt xẹt trên nền đá. Cô vớ lấy chiếc áo dài vàng và chiếc váy màu xanh từ trên cái móc thay vì bộ đồ mới màu cam. Cô thích mặc bộ đồ cũ hơn trong buổi sáng này. Ani quấn tóc thành búi trên đầu và giấu nó vào trong mũ. Cô hi vọng không ai thắc mắc tại sao cô lại đội một chiếc mũ rộng vành trong khi bình minh mới hé rạng và ánh mặt trời không thể chiếu qua những tòa nhà cao để rọi ánh nắng xuống con đường đá cuội. Cô cột dải ruy băng thành gút dưới cằm và lèn búi tóc cho chặt hơn. Cầm lấy cây gậy, Ani ra khỏi căn phòng nhỏ, tiến tới bàn ăn sáng của Ideca. Vừa mở cửa, Ani đã ngửi thấy mùi thức ăn nóng lẫn với mùi của chuồng bò, mùi bánh mì cho bữa sáng quyện với mùi của những con người vốn dành nhiều thời gian cho súc vật, ít khi kịp tắm táp. Ani tự hỏi liệu mình có thể ăn với những mùi như thế không, mặc dù có hơn ba mươi người làm công đang ăn như thể đói lâu ngày trên những băng ghế dài. Họ đều còn rất trẻ, một vài cậu bé trạc tuổi Tatto, vài cô gái trông lớn hơn Ani, hầu hết đều có mái tóc màu nâu của vỏ cây phong hay màu đen của bùn. Căn phòng ồn ã tiếng trò chuyện, tiếng muỗng kim loại va vào đĩa sứ, tiếng cửa nhà bếp đóng mở mỗi khi những cô con gái của Ideca mang những đĩa thức ăn đầy ụ vào và đi ra với những chiếc đĩa bẩn. Tiếng những người bạn gọi nhau í ới từ bàn này sang bàn kia. Ani nhận ra không có cô gái nào đội mũ cả. Cô sờ sờ vành mũ một cách hồi hộp và tìm kiếm chỗ ngồi cho mình. Không lâu sau cô đã bị chú ý. “Conrad, cô gái của cậu kìa!”, ai đó hét lên. “Một cô gái mới”. “Nào, Conrad, hãy lại hôn cô ấy một cái đi”, một cậu bé nói. Cậu ta đẩy một cậu bé khác đội chiếc nón màu cam ra khỏi hàng ghế. Cậu bé đó nhanh chóng kéo chân cậu ta và chộp lấy những quả trứng luộc. Nhưng trước khi bàn tay nhớp nháp của cậu ta chạm được vào mặt cậu bé gây sự, Ideca đã bước tới, một tay nắm lấy cổ tay và nón của cậu ta, một tay nắm tóc cậu. “Conrad, ta sẽ phạt cậu lau trứng trên sàn nhà vào giờ ngủ, tin ta đi, ta sẽ làm thế đó, giờ thì hãy đi gặp Isi đi và ngồi xuống”. Conrad sụt sịt. Cậu nhặt trứng vào đĩa, phủi phủi những vết bẩn dính ở ống quần và đưa tay cho Ani. Cậu ta có đôi mắt màu xám buồn với rất nhiều vết tàn nhang trên mặt. “Tôi tên là Conrad”, cậu nói, “Tôi chăn đàn ngỗng”. “Hôn cô ấy đi”, ai đó hét lên trong tiếng ồn ào. Conrad quay ngoắt đầu về phía người vừa hét và gào lên. “Ngậm miệng lại, nếu không tao sẽ nhét đồ ăn vào lỗ mũi mày, và nếu có phải dọn bàn, dọn sàn nhà cho đến sáng mai tao cũng làm!”. Cậu ta quay lại, tiếp tục cử chỉ ôm người chào đón Ani và cô nắm tay cậu, sau đó bí mật phủi vết trứng bám phía sau lưng mình. “Rất vui được gặp cậu”, cô nói. “Cậu từ đâu tới?”, một cô gái ở phía sau hỏi. “Từ trong rừng”, Ani trả lời. “Tất nhiên là từ rừng rồi, cô bé chim sẻ ạ. Nhưng từ vùng nào?”. Ani nhận ra rằng hầu hết những người ở đây đều đến từ vùng Forest, tới kinh thành làm việc rồi gửi tiền về cho gia đình họ. “Gần Darkpond”, cô nói, lặp lại tên vùng đất cô từng nghe bạn của Finn nói đến. “Nghe giọng cô ấy như một người tôi quen ở Darkpond”, Ani nghe tiếng một cô gái nói. Vài người gật đầu, và mọi người quay trở lại bữa sáng, không chú ý Ani nữa. Ani ăn chậm, cố gắng nuốt thứ thức ăn nóng, khó tiêu và có vẻ như chưa chín kỹ lắm. Cô nhìn Conrad và bạn cậu ta, chú ý vào rất nhiều đĩa trứng, đậu, những miếng thịt cừu với những chiếc bánh yến mạch nướng béo ngậy được họ tiêu thụ với tốc độ chóng mặt. Khi những chiếc đĩa trống trơn, họ lau miệng bằng mu bàn tay và lau tay vào quần hay phủi phủi hai tay vào nhau, những dãy ghế bắt đầu trống dần kèm với tiếng kèn kẹt của ghế gỗ cọ vào sàn đá. “Cầm lấy gậy đi”, Conrad nói và cầm lấy gậy của cậu ta đặt cùng với những chiếc gậy khác ở gần cửa. Khi đi ra, họ nghe mọi người đồng thanh nói: “Conrad có một cô gái, Conrad có một cô gái”. “Lẹ lên, cô gái chăn ngỗng!”, Conrad nói một cách gắt gỏng, và họ đi về phía con đường hẹp. Ani dùng đầu gậy chống để trèo lên các tảng đá. Conrad không đợi cô. Ani đuổi kịp cậu ta khi độ dốc giảm dần. Cuối cùng Ani cũng có thể nghe tiếng kêu của các loài vật - cừu, heo, gà, dê - chúng lẫn vào nhau không thể biết số lượng chính xác từng loài. Conrad mở một cánh cửa thấp. Tiếng huyên thuyên từ chuồng ngỗng chào đón sự xuất hiện của họ và ngay lập tức Ani nhận ra rằng ngôn ngữ của chúng khác xa ngôn ngữ của những con thiên nga. Cô nhận thấy mình không thể hiểu được từ nào trong mớ âm thanh hỗn độn của chúng. “Trước đây cô đã từng chăn ngỗng chưa?”, Conrad hỏi. Ani lắc đầu. Cậu chớp mắt: “Trước hết cứ bình tĩnh, được chứ? Hãy để tôi làm trước và cậu chỉ đứng phía sau thôi, phải chắc chắn chúng không bỏ chạy. Ngỗng không thích người mới, nhưng con gái thì cũng đỡ hơn con trai. Những chú ngỗng đực gần như đã cắn vào đầu gối của cậu bé vừa rồi cũng đến từ Forest vào kinh thành tìm việc. Cậu ta không thể ở lâu với tôi được. Giờ cậu ấy chăn heo...”. “Cảm ơn vì đã nhắc nhở tôi”, Ani líu ríu. “Tôi không quan tâm nếu chúng cắn đầu gối cô, cô gái chăn ngỗng ạ, tôi chỉ nói để cô biết thôi”. Cậu ta nhún vai và mở chỗ quây ngỗng ra. Ngỗng nhỏ hơn và ít bệ vệ hơn những con thiên nga mà Ani biết. Mặc dù hình dạng giống thiên nga nhưng ngỗng có vẻ thanh thoát hơn với cái đầu lớn, cổ ngắn, chân và mỏ màu cam giống như loại trái cây nào đấy. Khu lâu đài ở Kildenree không có chuồng nuôi ngỗng nên Ani chỉ có thể thấy chúng từ xa thôi. Thỉnh thoảng từ cửa sổ thư viện, cô nhìn thấy một cô gái nhà quê tóc ngắn, chân trần với cây gậy và chiếc mũ làm bằng giấy cứng dày cuộn lại giống một miếng gỗ được trau chuốt kỹ. Cô này thường lùa đàn ngỗng dọc theo bờ sông ra đồng cỏ rộng lớn bên rìa thành phố. Lúc đó Ani cảm giác việc đó thật thảnh thơi, và cô gái đã tạo nên ấn tượng tốt đẹp về công việc chăn ngỗng. Suy nghĩ của Ani được kéo trở lại thực tại bởi tiếng kêu của những con ngỗng khó chịu. Một con ngỗng đực đầu to lách ra khỏi chuồng và mổ vào chân Ani. Cô ngã ngửa ra sau trong sự ngạc nhiên. Khi cô nhìn lại, đầu và cổ nó gập xuống đất hướng về phía trước như thể nó đang chuẩn bị sẵn một thanh gươm. Nó lao thẳng về phía trước, mỏ há rộng đâm thẳng vào mặt Ani. Cô giơ hai tay lên che đầu và chờ đợi cảm giác bị ngỗng tấn công. Chờ mãi không thấy chuyện gì xảy ra, cô mở mắt và thấy cây gậy có móc của Conrad đã ngoắc gọn vào cổ con ngỗng hung dữ. “Đứng dậy đi”, cậu ta nói, “Hành động vừa rồi của cô thật là ngốc nghếch”. Ani bò dậy, dựa vào cây gậy để đứng lên và mắt vẫn nhìn chăm chăm vào con ngỗng. “Tôi xin lỗi”, cô nói khẽ. “Hừ. Đi thôi!”. Phải đi qua một vài con đường dài ngoằn ngoèo mới tới được đồng cỏ. Năm mươi con ngỗng là quá nhiều đối với một cậu trai và càng tệ hơn khi đi cùng với cậu là một cô gái không biết gì về việc chăn ngỗng, thậm chí còn không thể tìm thấy mình giữa bầy ngỗng. Chân cô rõ ràng phải di chuyển rất nhanh. Conrad vẫn ở phía sau, điều khiển bầy ngỗng di chuyển bằng tiếng huýt sáo và cú huých tay. Thỉnh thoảng cậu ta hét lên: “Cô gái chăn ngỗng, bầy ngỗng đang di chuyển kìa!” và lại chạy nháo nhào mỗi khi có chú ngỗng nào đó hơi tách khỏi bầy. Ani cố lắng nghe tiếng chúng nói chuyện để tìm ra từ nào đó quen thuộc nhưng vô ích. Cô thử nói vài tiếng của thiên nga nhưng chúng có vẻ như còn cười nhạo cô và dẫm lên chân cô mạnh hơn. Cuối cùng họ cũng tới cửa ngõ hẹp hình cung giao với tường thành. Liền sau đó là đồng cỏ xanh ngắt nằm phía ngoài bức tường. Phía kia được bao bọc bởi những hàng cây cao và dòng suối nhỏ. Dấu hiệu của đồng cỏ thu hút sự chú ý của bầy ngỗng giống như mùi thức ăn. Cổ chúng dài ra và những cặp mắt nhỏ tí của chúng nhìn chăm chăm vào bãi cỏ xanh mướt cùng dòng suối nhỏ lung linh phía xa. Ani nhảy về phía trước để đếm khi chúng đi qua. Cả một làn sóng toàn màu trắng với những chiếc mỏ màu cam và đôi mắt xanh. “Bốn mươi bảy”, Ani nói. “Đáng lẽ là phải có năm mươi con nhưng tôi thề là chúng ta không bỏ sót con nào cả!”. Conrad nhún vai. “Cậu không quan tâm sao?”, cô hỏi. “Liệu chúng ta có nên quay lại và tìm chúng không?”. Cô bắt gặp ánh mắt không đồng tình của Conrad. “Trước đó chúng đã bị mất rồi. Một mình tôi với cả đàn ngỗng lộn xộn này hơn một tuần nay. Tôi có thể làm gì với ba chú ngỗng biến mất trong khi còn phải canh chừng bốn mươi bảy con còn lại mà mỗi con mỗi hướng chứ? Tôi hy vọng cô sẽ làm tốt hơn đó!”. Ngày dần trôi qua một cách chậm chạp dưới ánh mặt trời. Ani ngồi dưới bóng cây sồi duy nhất trên đồng cỏ. Cách đó không xa là một hồ nước nhỏ được bao bọc bởi dòng suối. Lũ ngỗng đi loanh quanh gần hồ theo từng nhóm năm con hoặc nhiều hơn để tìm kiếm chỗ cỏ nào dài hoặc đào bới phần đất mềm cạnh bờ hồ. Đồng cỏ không lớn lắm nhưng rất dài và mọi phía đều được bao bọc bởi bờ giậu như hàng rào, phía xa xa Ani có thể thấy một bên là đàn cừu và phía bên kia hình như là những chú bò đang gặm cỏ. Ani cố gắng nhìn xung quanh, hi vọng có thể thấy đàn ngựa đang gặm cỏ và trong số đó có con Falada yêu dấu của mình. Nhưng Tatto đã nói với cô rằng đàn ngựa được nuôi ở đồng cỏ phía sau lâu đài. Để xoa dịu cảm giác có lỗi của mình, Ani tự nhủ rằng có lẽ đang được ở trong tình trạng tốt hơn cô nhiều, nó sẽ được ăn những cọng yến mạch và được ngủ thoải mái trong chuồng ngựa hoàng gia. Đó là nếu nó chưa chết! Ý nghĩ ấy khiến lòng cô đau nhói. Nếu đúng như vậy, cô làm thế nào thoát được mà không bị giết? Mọi suy đoán đều vô ích. Không có dịp nào để rời khỏi cánh đồng cả ngày hôm đó. Mình đang chờ đợi điều gì nhỉ, Ani nghĩ, chẳng lẽ đây là cách nghỉ giải lao một lúc để uống trà ư? Quá trưa, một người bán hàng rong đi ngang qua đồng cỏ bán bánh mì thịt nóng với tiếng rao lảnh lót dõng dạc. Conrad phẩy tay ra dấu cho anh ta đi đi một cách buồn bã. Cả cô lẫn Conrad đều chẳng ai có tiền mà mua. Khi tia nắng màu cam của buổi chiều tà lặn xuống phía chân trời, Conrad gọi cô, báo đã đến giờ về. Cả ngày nay cậu không đi cùng Ani, cậu ngồi dưới bóng cây bu lô mọc gần bờ suối, ném những hòn đá xuống suối hay đuổi theo lũ ngỗng chọc ghẹo cho chúng kêu. Việc lùa đàn ngỗng về chuồng có vẻ đơn giản hơn. Đàn ngỗng đã hoạt động cả ngày và giờ sẵn sàng đi ngủ. Chỉ có duy nhất một lần chiếc gậy lùa ngỗng được sử dụng khi hai chú ngỗng đực quang quác với con mèo hoang gẫy chân khi nó tiến lại quá gần một con ngỗng cái. Khi đã khóa cửa chuồng ngỗng và bước vào nhà ăn, Ani cuối cùng cũng hiểu được tại sao mọi người lại ăn ngấu nghiến bữa sáng như vậy. Dạ dày cô cồn cào, sôi réo bởi mùi thức ăn. Bữa tối với những người làm công cũng náo nhiệt như bữa sáng, dù Ani nhận ra rằng họ chỉ được cho ăn đậu và bánh làm bằng mỡ lợn, khoai tây nấu không có bơ và đậu xanh được nấu thành cháo. Mọi người ăn một cách háo hức và Ani nhận thấy mình cũng ăn như vậy. Mùi súc vật tỏa ra từ mọi người chua loét nhưng bữa tối của cô vẫn hết sức ngon lành. Bất chợt, tiếng ồn từ phía cửa khiến cô chú ý. Cửa đóng sầm sau khi cô gái trạc tuổi Ani bước vào, mặt đỏ nhừ và thở hổn hển vì mệt. Mái tóc đen của cô ta xõa sau vai. Cô có đôi mắt to đến nỗi Ani liên tưởng đến một con cú. Cô gái mới đến dựa vào cánh cửa và vẫy tay với nhóm con trai đứng bên cạnh, nuốt nước bọt rồi nói lí nhí trong cổ họng. “Nhanh lên, Razo, Beier. Con cừu đực đó lại giở chứng... Nó phá hỏng một lỗ trong chuồng, đột nhập vào ổ gà con của tôi. Tôi đã cố ngăn nó nhưng tôi...”. Không nói một lời, hai cậu bé nhặt lấy chiếc gậy gần nhất và chạy biến khỏi phòng ăn. Cánh cửa đóng lại. Cô gái đối mặt với mọi người trong phòng ăn. Ngay lúc đó Ani nhận ra rằng gương mặt của cô đã thay đổi. Cô không còn thở hổn hển nữa, nụ cười tinh quái dần dần hiện ra để lộ hai lúm đồng tiền trên má cô. “... Nhưng tôi không thể ngăn nó lại bởi tôi đang bận treo xô bùn nhão lên cánh cửa!”. Tiếng cười rộ lên ở góc phòng ăn và chỉ một lúc sau mọi người đều cười. Ani cũng cười và lắc đầu bởi trí tưởng tượng của cô đã đi đến chỗ chuồng gà nơi những cậu bé tội nghiệp đang vội vàng mở cửa. Cô gái khẽ nhún đầu gối cúi chào và ngồi xuống dãy ghế của Ani. “Tôi làm thế để trả đũa họ”. Cô nói, chộp lấy cái bánh đậu nguội lạnh. “Họ để những quả trứng sơn màu vào một trong những ổ trứng gà của tôi. Thế là tôi đã bắt con gà mái tội nghiệp của mình uống tất cả những loại thuốc mà tôi biết, đồng thời đặt những thứ bùa chú một bà phù thủy cho tôi quanh ổ của nó cho đến khi cuối cùng tôi thấy một vài vệt sơn trên những cọng cỏ khô. Họ đúng là quỷ sứ mà!”. Cô gái mỉm cười với trò đùa trả đũa của mình, Ani cũng cười đáp lại cho đến khi cô cảm thấy xấu hổ vì vẻ xinh xắn và tự tin của cô gái. Cô nhìn xuống. “Cô đến từ Darkpond?”, cô gái hỏi, “Tôi là Enna, từ vùng Sprucegrove, cô biết đấy, chỉ bên kia con suối”. Ani gật đầu. “Cô đừng lo. Conrad không có gì thú vị lắm nhưng tính tình cậu ấy khá ổn. Cậu ấy cần thời gian để hòa nhập với người mới, giống như mấy con vật vậy”. “Tôi chỉ mới đến thành phố này thôi. Thực ra đây là lần đầu tiên tôi đến đây!”, Ani nói. Enna nhướng mày, và Ani gật đầu, cảm thấy nhẹ nhõm bởi dù gì thì mình cũng nói sự thật. “Cô có thể cho tôi biết một vài thông tin được không? Cuộc sống ở đây thế nào?”. Cậu bé ngồi phía bên kia bàn nghe cô hỏi liền khịt khịt mũi trả lời. “Không có gì nhiều, cô thấy đấy. Chúng ta không được nghỉ!”. “Trừ những hôm là ngày diễn ra phiên chợ”, một người khác nói.