🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Cơ Sở Văn Hóa Việt Nam - Trần Ngọc Thêm full mobi pdf epub azw3 [Biên Khảo]
Ebooks
Nhóm Zalo
CƠ SỞ VĂN HOÁ VIỆT NAM
CƠ SỞ VĂN HOÁ VIỆT NAM
Tái bản lần thứ 2
LỜI GIỚI THIỆU
Từ các chương trình được soạn thảo công phu của gần ba mươi trường đại học, một số giáo sư có kinh nghiệm về xây dựng chương trình đào tạo đã được Bộ Giáo dục và Đào tạo mời xây dựng Bộ chương trình Đại học đại cương dùng cho các năm đầu ở bậc đại học.
Bộ chương trình nêu trên đã được Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành dưới dạng Bộ chương trình mẫu (theo quyết định 3244/GD-ĐT ngày 12 tháng 9 năm 1995) và đang được các trường đại học và cao đẳng áp dụng. Đây là chuẩn mực tối thiểu về phần kiến thức nền tảng của bậc đại học để các cơ sở đào tạo đại học và cao đẳng áp dụng nhằm nâng dần mặt bằng kiến thức bậc đại học nước ta ngang tầm với các nước trong khu vực và trên thế giới. Mong mỏi chung của người học và người dạy là có được các sách giáo khoa phù hợp với bộ chương trình này do những chuyên gia có kinh nghiệm biên soạn.
Đáp ứng nguyện vọng trên, Ban chủ nhiệm Chương trình Giáo trình đại học đã mời PGS. TS. Trần Ngọc Thêm viết cuốn Cơ sở văn hoá Việt Nam phục vụ cho chương trình Đại học đại cương.
Ban chủ nhiệm Chương trình Giáo trình đại học trân trọng giới thiệu với bạn đọc và mong nhận được sự góp ý để cuốn sách ngày càng hoàn thiện.
Ban chủ nhiệm
CHƯƠNG TRÌNH GIÁO TRÌNH ĐẠI HỌC
Bộ Giáo dục và Đào tạo
LỜI NÓI ĐẦU BẢN IN NĂM 1997
Trong thời đại ngày nay, khi kinh tế ngày càng phát triển và các quốc gia trên thế giới ngày càng xích lại gần nhau thì văn hóa dân tộc ngày càng trở thành trung tâm của sự chú ý. Những năm gần đây, văn kiện của Đảng và Nhà nước Việt Nam nhiều lần khẳng định vai trò quan trọng của văn hóa trong việc bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người, đồng thời đặt mục tiêu "xây dựng một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc".
Chính là nhằm góp phần thực hiện mục tiêu đó, từ năm học 1990- 1991, trong khuôn khổ nhóm ngành ngoại ngữ của hệ thống đại học đã bắt đầu giảng dạy môn học Cơ sở văn hóa Việt Nam. Đây là môn học nhằm cung cấp cho sinh viên những tri thức cơ bản cần thiết cho việc hiểu một nền văn hóa, giúp họ nắm được các đặc trưng cơ bản cùng các quy luật hình thành và phát triển của văn hóa Việt Nam. Với một số bổ sung và điều chỉnh, chương trình Cơ sở văn hóa Việt Nam đã được chính thức ban hành năm 1995 trong bộ chương trình giáo dục đại học đại cương như một môn học bắt buộc cho chương trình 6 và lựa chọn cho các chương trình còn lại.
Với tư cách là Chủ tịch Hội đồng Ngữ học và Việt Nam học cho khối đại học ngoại ngữ của Bộ Giáo dục và Đào tạo và chủ trì xây dựng chương trình môn Cơ sở văn hóa Việt Nam từ năm 1990, chúng tôi đã nhận trách nhiệm xây dựng giáo trình môn học này theo tinh thần của văn hóa học - khoa học về văn hóa. Các kết quả
được công bố từng bước một cách thận trọng: từ những phác thảo đầu tiên năm 1991 (do Trường Đại học Ngoại ngữ Hà Nội xuất bản), rồi được nghiệm thu với tư cách đề tài khoa học cấp Bộ vào năm 1994 và được Bộ GD và ĐT tặng Bằng khen trong đợt bình tuyển các công trình nghiên cứu khoa học và công nghệ trong 5 năm 1991-1995, cho đến bản in tương đối hoàn chỉnh dày 504 trang vào năm 1995 (do Trường Đại học Tổng hợp Tp.HCM xuất bản). Bản in này đã thực sự thu hút sự chú ý rộng rãi của dư luận trong nước và Việt kiều ở nước ngoài.
Xuất phát từ cuốn Cơ sở văn hóa Việt Nam năm 1995, chúng tôi đã tiếp tục công việc theo hai hướng: Một mặt, bổ sung tư liệu và củng cố các lập luận để mở rộng thành một CHUYÊN LUẬN KHOA HỌC xuất bản dưới tên gọi Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam: cái nhìn hệ thống - loại hình (NXB Tp. HCM, tháng 7-1996, 672 trang) và tái bản sau 5 tháng (tháng 1-1997, 684 trang). Mặt khác, tiếp thu ý kiến của các nhà nghiên cứu, chúng tôi đã gạn lọc giữ lại những nội dung có sự thống nhất ở một mức độ nhất định trong giới khoa học để soạn thành GIÁO TRÌNH, theo hướng này, đã lần lượt ra đời các bản giáo trình Cơ sở văn hóa Việt Nam do Trường ĐHTH Tp. HCM xuất bản năm 1996 (381 trang), ĐHKHXH và NV thuộc ĐHQG Tp. HCM xuất bản tháng 2-1997 (283 trang). Cuốn sách bạn đọc đang cầm trong tay được hoàn thiện trên cơ sở bản in tháng 2-1997. Những nội dung gây tranh luận (như sự đối lập quá rạch ròi hai loại hình văn hóa, những lý giải về nguồn gốc âm dương, ngũ hành...), cũng như những gì quá đi sâu đều đã được loại bỏ hoặc đưa vào các phần chú thích, đọc thêm.
Giáo trình được biên soạn theo sát chương trình do Bộ GD và ĐT ban hành năm 1995. Theo đó, hệ thống văn hóa Việt Nam được
xem xét một cách đồng đại theo bốn thành tố, nhưng trong mỗi thành tố, một bộ phận của thành tố lại chú trọng tới tính lịch đại của nó. Tiến trình văn hóa Việt Nam không chỉ được phác thảo trong chương I (§3), mà còn bao trùm lên toàn bộ cuốn sách: Khởi đầu từ các điều kiện vật chất quy định và định vị văn hóa Việt Nam (chương I-§2), ta thu được cái tinh thần là văn hóa nhận thức và văn hóa tổ chức đời sống cộng đồng (chương II-IV), để rồi cái tinh thần đó lại tác động trở lại đời sống vật chất (chương V: ăn - mặc - ở - đi lại), cũng như cách thức ứng xử và thành quả giao lưu với môi trường xã hội (chương VI). Từ quá khứ (văn hóa bản địa và giao lưu với khu vực), chúng ta đã đi dần đến hiện lại (giao lưu với phương Tây), để rồi cuối cùng kết thúc bằng việc xem xét cuộc "đối mặt" đang diễn ra giữa văn hóa cổ truyền với nền kinh tế thị trường và sự thâm nhập của văn minh phương Tây hiện đại.
Trong sách, các thông tin bổ trợ để đọc thêm được phân biệt bằng kiểu chữ riêng, với cỡ chữ nhỏ hơn; để nắm được nội dung cơ bản, có thể bỏ qua không cần đọc những đoạn này. Ngược lại, để mở rộng kiến thức thì, ngoài những thông tin phụ in bằng kiểu chữ riêng, ở cuối sách giới thiệu một danh mục tài liệu đọc thêm tối thiểu. Để tiện cho việc sử dụng, cuối sách còn có các câu hỏi cho từng chương và một số câu hỏi chung, đòi hỏi sự tổng hợp kiến thức và suy luận; đây chỉ là những câu hỏi mang tính chất gợi ý, các thầy cô có thể cụ thể hóa hoặc tiếp tục bổ sung thêm.
Để có được giáo trình này, trong những năm qua, tác giả đã nhận được sự ủng hộ và giúp đỡ to lớn của Vụ Đào tạo đại học Bộ GD và ĐT, của Hội đồng liên ngành Ngoại ngữ, của Ban chủ nhiệm Chương trình mục tiêu về Giáo trình Đại học, của Trường ĐH Tổng hợp Tp. HCM (trước đây) và Trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân
văn thuộc Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh (hiện nay), của các nhà nghiên cứu lớp đàn anh như GS. Lương Duy Thứ, GS. Nguyễn Tài Cẩn, GS. Phạm Đức Dương. GS. Nguyên Tấn Đắc, TS. Dương Thiệu Tống, PGS.PTS. Tạ Văn Thành, PGS. Chu Xuân Diên, PGS. Trần Thanh Đạm, GS. Lý Chánh Trung, nhà nghiên cứu Phật học Minh Chi, cùng nhiều bậc đàn anh và nhiều đồng nghiệp bạn bè khác ở trong nước và nước ngoài.
Trước khi xuất bản, sách lại được GS. Phạm Đức Dương (Chủ tịch Hội Đông Nam Á học Việt Nam), GS. Đinh Gia Khánh (nguyên viện trưởng Viện Nghiên cứu văn hóa dân gian) và GS. Nguyễn Khắc Phi (chuyên gia văn học Trung Quốc, NXB Giáo dục) đọc góp ý. Đặc biệt, những nhận xét rất kỹ càng và chính xác của GS. Đinh Gia Khánh và GS. Nguyễn Khắc Phi đã giúp cho bản thảo hoàn thiện hơn rất nhiều. Chúng tôi cũng bày tỏ nơi đây lòng biết ơn chân thành đối với GS. Nguyễn Như Ý (Tổng biên tập NXB Giáo dục) và PTS. Tăng Kim Ngân (biên tập viên), những người đã góp phần quan trọng cho sự ra mắt chính thức của giáo trình.
Cuối cùng, dù cố gắng đến mấy, sách chắc vẫn chưa tránh khỏi hết mọi sai sót. Kính mong độc giả cùng các bạn sinh viên tiếp tục góp ý, phê bình để giáo trình này ngày một hoàn thiện hơn.
Tp. Hồ Chí Minh, mùa thu năm Đinh Sửu 1997
PGS.TS. TRẦN NGỌC THÊM
ĐÔI ĐIỀU VỀ TÁC GIẢ:
Trần Ngọc Thêm. Sinh năm 1952 tại x. Hiền Đa, h. Sông Thao, t. Phú Thọ
Tốt nghiệp ngành Ngôn ngữ toán Trường ĐH Tổng hợp Quốc gia Leningrad (nay là St-Petersburg, Nga) năm 1974. Bảo vệ Phó tiến sĩ năm 1987 và Tiến sĩ khoa học ngữ văn năm 1988 tại ĐHTH Quốc gia Leningrad. Được phong Phó giáo sư năm 1991. Được bầu làm Viện sĩ nước ngoài Viện Hàn lâm khoa học tự nhiên CHLB Nga năm 1999.
1975-1992 giảng dạy tại Khoa ngữ văn ĐHTH Hà Nội. Từ 1992 đến nay giảng dạy tại Trường ĐH KHXH & NV thuộc ĐHQG Tp.HCM và nhiều trường đại học khác. Trưởng Khoa Ngôn ngữ và Văn hoá Đông phương thuộc Trường ĐH Ngoại ngữ - Tin học Tp.HCM trong các năm 1995-1999, hiện là Phó Trưởng khoa Đông phương học Trường ĐH KHXH & NV thuộc ĐHQG Tp.HCM
Địa chỉ: 705B Bùi Đình Tuý, phường 12, quận Bình Thạnh, Tp.HCM
Email: [email protected]
Văn hoá là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ lịch sử của dân tộc, nó làm nên sức sống mãnh liệt, giúp cộng đồng dân tộc Việt Nam vượt qua biết bao sóng gió và thác ghềnh tưởng chừng không thể vượt qua được, để không ngừng phát triển và lớn mạnh.
Phạm Văn Đồng
Văn hoá là cái còn lại khi người ta đã quên đi tất cả, là cái vẫn thiếu khi người ta đã học tất cả
La culture, c’est ce qui reste quand on a tout oublié; c’est ce qui manque quand on a tout appris
Edouard HERRIOT
Chương I – VĂN HOÁ HỌC VÀ VĂN HOÁ VIỆT NAM
Dẫn nhập
Chương này chuẩn bị những tiền đề lí luận chung về văn hóa học và văn hóa Việt Nam làm nền tảng cho việc xem xét các đặc trưng của văn hóa Việt Nam, qua đó thấy được những quy luật hình thành và phát triển của nó. Để có cơ sở xuất phát, trước hết phải nắm được khái niệm văn hóa thông qua những đặc trưng cơ bản cần và đủ để phân biệt nó với các khái niệm khác, đặc biệt là phân biệt văn hóa với văn minh. Tiếp theo, cần xác định (định vị) được thế nào là văn hóa Việt Nam; công việc này bao gồm việc xác định loại hình của văn hóa Việt Nam, chủ thể (nguồn gốc dân tộc), không gian và thời gian của văn hóa Việt Nam. Sau khi định vị được rồi, cần phải có một cái nhìn bao quát về tiến trình phát triển của văn hóa Việt Nam, bao gồm các lớp văn hóa và các giai đoạn văn hóa.
Bởi vậy, trong chương này chúng ta sẽ tìm hiểu 3 vấn đề sau: 1- Văn hoá và văn hóa học;
2- Định vị văn hóa Việt Nam;
3- Tiến trình văn hóa Việt Nam.
Bài 1 - VĂN HÓA VÀ VĂN HÓA HỌC
1.1. Định nghĩa văn hóa
Từ "văn hóa" có rất nhiều nghĩa. Trong tiếng Việt, văn hóa được dùng theo nghĩa thông dụng để chỉ học thức (trình độ văn hóa), lối sống (nếp sống văn hóa); theo nghĩa chuyên biệt để chỉ trình độ phát triển của một giai đoạn (văn hóa Đông Sơn)... Trong
khi theo nghĩa rộng thì văn hóa bao gồm tất cả, từ những sản phẩm tinh vi hiện đại cho đến tín ngưỡng, phong tục, lối sống, lao động... Chính với cách hiểu rộng này, văn hoá mới là đối tượng đích thực của văn hóa học.
Tuy nhiên, ngay cả với cách hiểu rộng này trên thế giới cũng có hàng trăm định nghĩa khác nhau. Để định nghĩa một khái niệm, trước hết cần xác định được những đặc trưng cơ bản của nó. Đó là những nét riêng biệt và tiêu biểu, cần và đủ để phân biệt khái niệm (sự vật) ấy với khái niệm (sự vật) khác. Phân tích các cách tiếp cận văn hóa phổ biến hiện nay (coi văn hóa như tập hợp, như hệ thống, như giá trị, như hoạt động, như kí hiệu, như thuộc tính nhân cách, như thuộc tính xã hội...), có thể xác định được 4 đặc trưng cơ bản mà tổng hợp lại, ta có thể nêu ra một định nghĩa văn hoá như sau:
VĂN HOÁ là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích luỹ qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội.
Dưới đây, chúng ta đi vào xem xét từng đặc trưng của văn hóa được nói đến trong định nghĩa cùng các chức năng của nó.
1.2. Các đặc trưng và chức năng của văn hóa
1.2.1 Văn hóa trước hết phải có tính hệ thống.
Đặc trưng này cần để phân biệt hệ thống với tập hợp; nó giúp phát hiện những mối liên hệ mật thiết giữa các hiện tượng, sự kiện thuộc một nền văn hóa; phát hiện các đặc trưng, những quy luật hình thành và phát triển của nó.
Nhờ có tính hệ thống mà văn hóa, với tư cách là một thực thể bao trùm mọi hoạt động của xã hội, thực hiện được chức năng tổ chức xã hội. Chính văn hóa thường xuyên làm tăng độ ổn định của xã hội, cung cấp cho xã hội mọi phương tiện cần thiết để ứng phó với môi trường tự nhiên và xã hội của mình. Nó là nền tảng của xã hội - có lẽ chính vì vậy mà người Việt Nam ta dùng từ chỉ loại “nền” để xác định khái niệm văn hoá (nền văn hóa).
1.2.2. Đặc trưng quan trọng thứ hai của văn hóa là tính giá trị.
Văn hóa theo nghĩa đen nghĩa là "trở thành đẹp, thành có giá trị". Tính giá trị cần để phân biệt giá trị với phi giá trị (vd: thiên tai, mafia). Nó là thước đo mức độ nhân bản của xã hội và con người.
Các giá trị văn hóa, theo mục đích có thể chia thành giá trị vật chất (phục vụ cho nhu cầu vật chất) và giá trị tinh thần (phục vụ cho nhu cầu tinh thần); theo ý nghĩa có thể chia thành giá trị sử dụng, giá trị đạo đức và giá trị thẩm mĩ; theo thời gian có thể phân biệt các giá trị vĩnh cửu và giá trị nhất thời. Sự phân biệt các giá trị theo thời gian cho phép ta có được cái nhìn biện chứng và khách quan trong việc đánh giá tính giá trị của sự vật, hiện tượng; tránh được những xu hướng cực đoan - phủ nhận sạch trơn hoặc tán dương hết lời.
Vì vậy mà, về mặt đồng đại, cùng một hiện tượng có thể có giá trị nhiều hay ít tùy theo góc nhìn, theo bình diện được xem xét. Muốn kết luận một hiện tượng có thuộc phạm trù văn hóa hay không phải xem xét mối tương quan giữa các mức độ "giá trị" và “phi giá trị" của nó. Về mặt lịch đại, cùng một hiện tượng sẽ có thể có giá trị hay không tùy thuộc vào chuẩn mực văn hóa của từng giai đoạn lịch sử. Áp dụng vào Việt Nam, việc đánh giá chế độ phong kiến, vai trò
của Nho giáo, các triều đại nhà Hồ, nhà Nguyễn... đều đòi hỏi một tư duy biện chứng như thế.
Nhờ thường xuyên xem xét các giá trị mà văn hóa thực hiện được chức năng quan trọng thứ hai là chức năng điều chỉnh xã hội, giúp cho xã hội duy trì được trạng thái cân bằng động, không ngừng tự hoàn thiện và thích ứng với những biến đổi của môi trường, giúp định hướng các chuẩn mực, làm động lực cho sự phát triển của xã hội.
1.2.3. Đặc trưng thứ ba của văn hóa là tính nhân sinh.
Tính nhân sinh cho phép phân biệt văn hoá như một hiện tượng xã hội (do con người sáng tạo, nhân tạo) với các giá trị tự nhiên (thiên tạo). Văn hóa là cái tự nhiên được biến đổi bởi con người. Sự tác động của con người vào tự nhiên có thể mang tính vật chất (như việc luyện quặng, đẽo gỗ...) hoặc tinh thần (như việc đặt tên, truyền thuyết cho các cảnh quan thiên nhiên...).
Như vậy, văn hóa học không đồng nhất với đất nước học. Nhiệm vụ của đất nước học là giới thiệu thiên nhiên - đất nước - con người. Đối tượng của nó bao gồm cả các giá trị tự nhiên, và không nhất thiết chỉ bao gồm các giá trị. Về mặt này thì nó rộng hơn văn hoá học. Mặt khác, đất nước học chủ yếu quan tâm đến các vấn đề đương đại, về mặt này thì nó hẹp hơn văn hóa học.
Do mang tính nhân sinh, văn hóa trở thành sợi dây nối liền con người với con người, nó thực hiện chức năng giao tiếp và có tác dụng liên kết họ lại với nhau. Nếu ngôn ngữ là hình thức của giao tiếp thì văn hóa là nội dung của nó.
1.2.4. Văn hóa còn có tính lịch sử.
Nó cho phép phân biệt văn hóa như sản phẩm của một quá trình và được tích luỹ qua nhiều thế hệ với văn minh như sản phẩm cuối cùng, chỉ ra trình độ phát triển của từng giai đoạn. Tính lịch sử tạo cho văn hóa một bề dày, một chiều sâu; nó buộc văn hóa thường xuyên tự điều chỉnh, tiến hành phân loại và phân bố lại các giá trị. Tính lịch sử được duy trì bằng truyền thống văn hóa. Truyền thống văn hóa là những giá trị tương đối ổn định (những kinh nghiệm tập thể) được tích lũy và tái tạo trong cộng đồng người qua không gian và thời gian, được đúc kết thành những khuôn mẫu xã hội và cố định hóa dưới dạng ngôn ngữ, phong tục, tập quán. nghi lễ, luật pháp, dư luận...
Truyền thống văn hóa tồn tại nhờ giáo dục. Chức năng giáo dục là chức năng quan trọng thứ tư của văn hóa. Nhưng văn hóa thực hiện chức năng giáo dục không chỉ bằng những giá trị đã ổn định (truyền thống), mà còn bằng cả những giá trị đang hình thành. Hai loại giá trị này tạo thành một hệ thống chuẩn mực mà con người hướng tới. Nhờ nó mà văn hóa đóng vai trò quyết định trong việc hình thành nhân cách (trồng người). Từ chức năng giáo dục, văn hóa có chức năng phái sinh là đảm bảo tính kế tục của tịch sử: Nó là một thứ "gien" xã hội di truyền phẩm chất con người lại cho các thế hệ mai sau.
CAC DOI TUONG
HE THONG
TAP HOP
HT gia tri
HT phi gia tri
HTGT thien tao
HTGT nhan tao
HTGT NT co tinh lich su
HTGT NT khong co tinh lich su
Bảng 1.1: Xác định khái niệm "văn hóa"
Tóm lại, 4 đặc trưng vừa xét là cần và đủ để cho phép ta xác định khái niệm “văn hóa " (xem bảng 1.1).
1.3. Văn hóa với Văn minh, Văn hiến, Văn vật
1.3.1. Lâu nay, không ít người vẫn sử dụng văn minh (civilization) như một từ đồng nghĩa với văn hóa. Song thật ra, đây là hai khái niệm rất khác nhau. Trong các từ điển, từ "văn minh" có thể được định nghĩa theo nhiều cách, song chúng thường có một nét nghĩa chung là “trình độ phát triển": trong khi văn hóa luôn có bề dày của quá khứ (tính lịch sử) thì văn minh là một lát cắt đồng đại, nó cho biết trình độ phát triển của văn hóa ở từng giai đoạn. Nói đến văn minh, người ta còn nghĩ đến các tiện nghi. Như vậy, văn hóa và văn minh còn khác nhau ở tính giá trị: trong khi văn hóa chứa cả các giá trị vật chất lẫn tinh thần, thì văn minh chủ yếu thiên về các giá trị vật chất mà thôi.
Sự khác biệt của văn hóa và văn minh về giá trị tinh thần và tính lịch sự dẫn đến sự khác biệt về phạm vi: Văn hoá mang tính dân tộc; còn văn minh thì có tính quốc tế, nó đặc trưng cho một khu vực rộng lớn hoặc cả nhân loại, bởi lẽ cái vật chất thì dễ phổ biến, lây lan.
Và sự khác biệt thứ tư, về nguồn gốc: Văn hoá gắn bó nhiều hơn với phương Đông nông nghiệp, còn văn minh gắn bó nhiều hơn với phương Tây đô thị. Trong quá trình phát triển của lịch sử nhân loại, tại cựu lục địa Âu-Á (Eurasia) đã hình thành hai vùng văn hóa lớn là “phương Tây” và “phương Đông”: phương Tây là khu vực tây bắc gồm toàn bộ Châu Âu (đến dãy Uran); phương Đông là khu vực đông-nam gồm châu Á và châu Phi. Các nền văn hóa cổ đại lớn mà nhân loại từng biết đến đều xuất phát từ phương Đông: Trung Hoa,
Ấn Độ, Lưỡng Hà, Ai Cập. Nền văn hóa phương Tây sớm nhất là Hi-La (Hi Lạp và La Mã) cũng có nguồn gốc từ phương Đông, nó được hình thành trên cơ sở tiếp thu những thành tựu của các nền văn hóa Ai Cập và Lưỡng Hà. Các nền văn hóa phương Đông đều hình thành ở lưu vực các con sông lớn là những nơi có địa hình và khí hậu rất thuận tiện cho sản xuất nông nghiệp. Ở các ngôn ngữ phương Tây, từ “văn hóa” bắt nguồn từ chữ cultus tiếng Latinh có nghĩa là “trồng trọt”, còn từ “văn minh” thì bắt nguồn từ chữ civitas có nghĩa là “thành phố”
1.3.2. Ở Việt Nam còn có các khái niệm văn hiến và văn vật. Từ điển thường định nghĩa văn hiến là “truyền thống văn hóa lâu đời”, còn văn vật là “truyền thống văn hóa biểu hiện ở nhiều nhân tài và di tích lịch sử”. Các định nghĩa này cho thấy văn hiến và văn vật chỉ là những khái niệm bộ phận của "văn hóa", chúng khác văn hóa ở độ bao quát các giá trị: Văn hiến là văn hoá thiên về “truyền thống lâu đời", mà truyền thống lâu đời còn lưu giữ được chính là các giá trị tinh thần; còn văn vật là văn hóa thiên về các giá trị vật chất (nhân tài, di tích, hiện vật). Chính vì vậy mà ông cha ta thường nói đất nước 4000 năm văn hiến, nhưng lại nói Hà Nội - Thăng Long ngàn năm văn vật. Phương Tây không có các khái niệm văn hiến, văn vật, cho nên hai từ này không thể dịch ra các ngôn ngữ phương Tây được. Sự phân biệt bốn khái niệm văn hóa, văn minh, văn hiến, văn vật được trình bày trong bảng 1.2.
VĂN VẬT
VĂN HIẾN
VĂN HÓA
VĂN MINH
Thiên về giá trị vật
Thiên về giá trị tinh
Chứa cả giá trị vật chất lẫn
Thiên về giá trị vật chất - kĩ thuật
chất thần tinh thần
Có bề dày lịch sử
Chỉ trình độ phát triển
Có tính dân tộc
Có tính quốc tế
Gắn bó nhiều hơn với
phương Đông nông nghiệp
Gắn bó nhiều hơn với phương Tây đô thị
Bảng 1.2: So sánh văn hóa, văn minh, văn hiến, văn vật 1.4. Cấu trúc của hệ thống văn hóa
Văn hóa thường được chia đôi thành văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần. Bên cạnh đó là những cách chia ba, vd: văn hóa vật chất - văn hóa xã hội - văn hóa tinh thần; văn hóa vật chất - văn hóa tinh thần - văn hóa nghệ thuật; sinh hoạt kinh tế - sinh hoạt xã hội - sinh hoạt trí thức… Một số tác giả khác nói đến bốn thành tố như văn hóa sản xuất, văn hóa xã hội, văn hóa tư tưởng, văn hóa nghệ thuật; hoặc hoạt động sinh tồn, hoạt động xã hội, hoạt động tinh thần, hoạt động nghệ thuật…
Từ cách tiếp cận hệ thống, có thể xem văn hóa như một hệ thống gồm 4 thành tố (tiểu hệ) cơ bản với các vi hệ như sau:
Mỗi nền văn hóa là tài sản của một cộng đồng người (chủ thể văn hóa) nhất định. Trong quá trình tồn tại và phát triển, chủ thể văn hóa đó đã tích lũy được một kho tàng kinh nghiệm và tri thức phong phú về vũ trụ và về con người - đó là 2 vi hệ của tiểu hệ văn hóa nhận thức.
Tiểu hệ thứ hai liên quan đến những giá trị nội tại của chủ thể văn hóa: đó là văn hóa tổ chức cộng đồng. Nó bao gồm 2 vi hệ là văn hóa tổ chức đời sống tập thể (ở tầm vĩ mô như tổ chức nông
thôn, quốc gia, đô thị), và văn hóa tổ chức đời sống cá nhân (liên quan đến đời sống riêng mỗi người như tín ngưỡng, phong tục, giao tiếp, nghệ thuật...).
Cộng đồng chủ thể văn hóa tồn tại trong quan hệ với hai loại môi trường - môi trường tự nhiên (thiên nhiên, khí hậu...) và môi trường xã hội (các dân tộc, quốc gia khác). Cho nên, cấu trúc văn hóa còn chứa hai tiểu hệ liên quan đến thái độ của cộng đồng với hai loại môi trường đó là văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên và văn hóa ứng xử với môi trường xã hội.
Với mỗi loại môi trường, đều có thể có hai cách xử thế phù hợp với hai loại tác động của chúng (tạo nên 2 vi hệ): tận dụng môi trường (tác động tích cực) và ứng phó với môi trường (tác động tiêu cực). Với môi trường tự nhiên, có thể tận dụng để ăn uống, tạo ra các vật dụng hàng ngày...; đồng thời phải ứng phó với thiên tai (trị thủy), với khoảng cách (giao thông), với khí hậu và thời tiết (quần áo, nhà cửa...). Với môi trường xã hội, bằng các quá trình giao lưu và tiếp biến văn hóa, mỗi dân tộc đều cố gắng tận dụng những thành tựu của các dân tộc lân bang để làm giàu thêm cho nền văn hóa của mình; đồng thời lại phải lo ứng phó với họ trên các mặt trận quân sự, ngoại giao...
Dưới góc độ đồng đại, hệ thống văn hóa còn có thể có nhiều cách phân chia khác. Chẳng hạn, trong quan hệ với cộng đồng, có thể phân biệt văn hoá dân gian và văn hóa chính thống. Trong quan hệ với địa bàn cư trú, có thể phân biệt văn hóa biển, văn hóa đồng bằng và văn hóa núi. Cũng vậy, có sự khác biệt giữa văn hóa Việt với văn hóa các dân tộc ít người. Những cách phân chia này cần được vận dụng kết hợp với cách phân chia chính.
Cả 4 thành tố của hệ thống văn hóa đều bị quy định bởi một gốc chung là loại hình văn hóa. Nếu mô hình cấu trúc của hệ thống văn hóa cho ta thấy CÁI CHUNG, cái đồng nhất trong tính hệ thống của các nền văn hóa thì loại hình văn hóa sẽ cho ta thấy CÁI RIÊNG, cái khác biệt trong tính hệ thống của chúng. Cấu trúc của hệ thống văn hóa trong quan hệ với loại hình văn hóa được trình bày trong hình 1.1.
1.5. “Cơ sở văn hóa” và các bộ môn văn hóa học Văn hóa học (culturology) là khoa học nghiên cứu về văn hóa.
Vì văn hóa bao quát một phạm vi quá rộng cho nên trong một thời gian dài, người ta chỉ chú ý đến các khoa học bộ phận mà không có khoa học nào lấy văn hóa làm đối tượng. Ở phương Tây, mãi đến năm 1871, “văn hóa" mới được E.B.Taylor định nghĩa lần đầu tiên trong tác phẩm Văn hóa nguyên thủy (Primitive Culture) xuất bản ở London. Nhưng văn hóa như đối tượng của một khoa học độc lập thì phải đến năm 1885 mới hình thành rõ nét với công trình hai tập mang tên Khoa học chung về văn hóa của Klemm người Đức, trong đó trình bày sự phát sinh phát triển toàn diện của loài người như một lịch sử văn hóa. Bản thân thuật ngữ “văn hóa học” (t. Đức: Kulturkunde, t. Anh. Culturology) thì xuất hiện vào năm 1898 tại Đại hội giáo viên sinh ngữ họp ở Viên (thủ đô nước Áo), song mãi đến sau công trình The Science of Culture của L. White xuất bản ở Mĩ năm 1949, nó mới trở thành phổ biến.
Trong sự phát triển của văn hóa học nửa đầu tk. XX có sự đóng góp quan trọng của các nhà nhân học văn hóa Mĩ về việc mở rộng đối tượng và quy mô nghiên cứu (những năm 30-40, phong trào nghiên cứu văn hóa và ngôn ngữ của thổ dân Mĩ phát triển khá
rầm rộ) và của C. Lévi-Strauss về phương pháp nghiên cứu (cuốn Anthropologie Structutral của ông xuất bản tại Paris năm 1958 đánh dấu việc đưa phương pháp cấu trúc từ lĩnh vực ngôn ngữ học áp dụng vào việc nghiên cứu văn hóa).
Văn hoá có thể được xem xét từ nhiều hướng, do vậy văn hóa học có thể được nghiên cứu và trình bày dưới nhiều góc độ khác nhau, tạo nên nhiều môn, phân môn.
Dưới góc độ thời gian, môn lịch sử văn hóa (văn hóa sử) khảo sát tiến trình văn hóa của một dân tộc theo từng giai đoạn lịch sử với các tình tiết và sự kiện, mở rộng hiểu biết về văn hóa theo chiều dọc.
Dưới góc độ không gian, môn địa lí văn hóa (địa văn hóa) có trách nhiệm khảo sát văn hóa dân tộc theo chiều ngang, trong mối quan hệ với địa lí quốc gia, tìm hiểu đặc điểm của các vùng văn hóa.
Dưới góc độ lí luận khái quát chung, văn hóa học đại cương có trách nhiệm nghiên cứu các quan niệm, các học thuyết, các cách tiếp cận văn hóa và văn hóa học nói chung.
Cơ sở văn hóa là môn học trình bày những đặc trưng cơ bản cùng các quy luật hình thành và phát triển của một nền văn hóa cụ thể. Đối với sinh viên ngành văn hóa học, đây là một môn học mang tính chất nhập môn; còn đối với sinh viên các ngành khác, nó trang bị những hiểu biết tối thiểu về một nền văn hóa, một dân tộc để khi bước vào đời, có thể tham gia một cách có ý thức vào việc bảo tồn và phát triển văn hóa dân tộc.
Bài 2: ĐỊNH VỊ VĂN HÓA VIỆT NAM
2.1. Loại hình văn hóa gốc nông nghiệp
So sánh các nền văn hóa trên thế giới, người ta thấy chúng vô cùng đa dạng và phong phú. Song, cũng đã từ lâu, người ta nhận thấy giữa các nền văn hóa có không ít nét tương đồng.
Để giải thích sự tương đồng này, đã có nhiều thuyết khác nhau. Thuyết khuếch tán văn hóa (cultural diffusion) phổ biến ở châu Âu với quan niệm văn hóa được hình thành từ một trung tâm rồi “lan tỏa" ra các nơi khác. Thuyết vùng văn hóa (cultural areas) phổ biến ở Mĩ với quan điểm về khả năng tồn tại nhiều nền văn hóa của các dân tộc khác nhau trên cùng một vùng lãnh thổ. Thuyết loại hình kinh tế - văn hóa phổ biến trong dân tộc học Xô viết cho rằng trong lịch sử nhân loại từng tồn tại ba nhóm loại hình kinh tế - văn hóa: săn bắt - hái lượm - đánh cá; nông nghiệp dùng cuốc và chăn nuôi; nông nghiệp dùng cày với sức kéo động vật. Các thuyết trên thực ra không mâu thuẫn mà bổ sung cho nhau, mỗi thuyết thích hợp cho những điều kiện khác nhau. Thật vậy, nếu các dân tộc xuất phát từ cùng một gốc thì giữa văn hóa gốc và các nền văn hóa này có thể có quan hệ lan tỏa. Nếu các nền văn hóa gần gũi nhau về địa lí thì chúng có thể từ tiếp xúc đến giao lưu với nhau, tạo nên những vùng văn hoá. Nếu các nền văn hóa tuy ở cách xa nhau và chưa bao giờ gặp gỡ nhau nhưng lại nằm trong những điều kiện tự nhiên và xã hội tương đồng thì chúng cũng có thể có những nét giống nhau. Sản phẩm của hai trường hợp này là những đặc trưng loại hình. Đặc trưng loại hình càng mạnh và rõ ở các nền văn hóa cùng gốc và/hoặc gần gũi nhau về địa lí.
Như đã nói ở I-§1.3.1, trong lịch sử ở cựu lục địa Âu-Á đã hình thành hai vùng văn hóa lớn là "phương Tây" và "phương Đông" : Phương Tây là khu vực tây-bắc gồm toàn bộ châu Âu (đến dãy Uran) ; phương Đông gồm châu Á và châu Phi; nếu trừ ra một vùng đệm như một dải đường chéo chạy dài ở giữa từ tây- nam lên đông-
bắc thì phương Đông điển hình sẽ là khu vực đông-nam còn lại. Hai vùng này có sự khác biệt rõ rệt về mọi mặt: Trong khi các ngôn ngữ phương Tây biến hình thì các ngôn ngữ phương Đông chủ yếu là đơn lập; trong khi người phương Tây coi trọng cá nhân thì người phương Đông coi trọng cộng đồng; trong khi người phương Tây chìa tay ra bắt lúc gặp nhau thì người phương Đông khoanh tay cúi đầu.
Môi trường sống của cư dân phương Đông (= đông nam) là xứ nóng sinh ra mưa nhiều (ẩm), tạo nên các con sông lớn với những vùng đồng bằng trù phú. Còn phương Tây (= tây bắc) là xứ lạnh với khí hậu khô, không thích hợp cho thực vật sinh trưởng, có chăng chỉ là những vùng đồng cỏ mênh mông. Hai loại địa hình này khiến cho cư dân hai khu vực phải sinh sống bằng hai nghề khác nhau: trồng trọt và chăn nuôi.
Nghề chăn nuôi ở phương Tây phổ biến đến mức trong Kinh Thánh, từ "cừu" được nhắc tới trên 5.000 lần, tín đồ được gọi là "con chiên", Chúa là người "chăn chiên". Lịch sử cho biết người phương Tây xưa chủ yếu nuôi bò, cừu, dê ; ăn thịt và uống sữa bò ; áo quần dệt bằng lông cừu hoặc làm bằng da thú vật. W.Durant trong cuốn Nguồn gốc văn minh (1990, tr. 33) cho biết: "Tại những bộ lạc săn bắn và mục súc, loài bò là một đơn vị giá trị rất tiện... Vào thời đại Homer ở Hi Lạp, người ta đánh giá người và vật bằng số bò: bộ binh giáp của Diomède đáng giá 9 con bò, một người nô lệ khéo tay đáng giá 4 con. Người La Mã cũng vậy, họ dùng hai danh từ gần giống nhau - pecus và pecunia - để trỏ bò và tiền bạc". Về sau, các dân tộc ven biển thì phát triển thương nghiệp buôn bán, các dân tộc trong lục địa thì làm nông nghiệp, nhưng chăn nuôi vẫn là mối quan tâm chủ yếu của họ. Trong Hồi kí về cuộc chiến tranh ở Gôlơ, Xêda viết rằng vào thế kỉ II trước Công nguyên, người Giécmanh vẫn sống cuộc đời du mục ; đến giữa thế kỉ I trước Công nguyên, người
Giécmanh đã cấy trồng, song họ "không chí thú với cuộc sống định cư, sau mỗi năm lại chuyển đi nơi khác", họ "đặc biệt không chăm làm nông nghiệp mà sống chủ yếu bằng sữa và súc vật". Còn nhà sử học La Mã nổi tiếng K. Taxit (54-120 sau Công nguyên) trong tập Giécmani thì cho biết Giécmanh là đất nước "giàu gia súc", người Giécmanh "thích có nhiều gia súc" vì đó là "hình thức của cải duy nhất và dễ chịu nhất". Bộ Luật Salica cho biết vào đầu thế kỉ VI người Frăng làm nông nghiệp nhưng vẫn đặc biệt coi trọng chăn nuôi (bò, lợn), công xã có bãi chăn nuôi chung... (dẫn theo Pôlianxki, 1978, tr. 30-44).
Như vậy, mặc dù sau này các dân tộc phương Tây đã chuyển sang thương nghiệp, rồi phát triển công nghiệp và đô thị, những cái gốc du mục đã để lại dấu ấn quan trọng trong đời sống văn hóa của họ. Do đó, căn cứ vào nguồn gốc của hai khu vực văn hóa, ta có thể nêu ra khái niệm về hai loại hình văn hóa: loại hình văn hóa gốc nông nghiệp và loại hình văn hóa gốc du mục.
Việt Nam do ở góc tận cùng phía đông-nam nên thuộc loại văn hóa gốc nông nghiệp điển hình. Vậy những đặc trưng chủ yếu của loại hình văn hóa gốc nông nghiệp là gì?
Trong cách ứng xử với môi trường tự nhiên, nghề trồng trọt buộc người dân phải sống định cư để chờ cây cối lớn lên, ra hoa kết trái và thu hoạch. Do sống phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên nên dân nông nghiệp có ý thức tôn trọng và ước vọng sống hòa hợp với thiên nhiên. Người Việt Nam mở miệng là nói "lạy trời", "nhờ trời", "ơn trời"...
Vì nghề nông, nhất là nghề nông nghiệp lúa nước, cùng một lúc phụ thuộc vào tất cả mọi hiện tượng thiên nhiên (Trông trời,
trông đất, trông mây; trông mưa, trông gió, trông ngày, trông đêm...) cho nên, về mặt nhận thức, hình thành lối tư duy tổng hợp). Tổng hợp kéo theo biện chứng - cái mà người nông nghiệp quan tâm không phải là các yếu tố riêng rẽ, mà là những mối quan hệ qua lại giữa chúng. Tổng hợp là bao quát được mọi yếu tố, còn biện chứng là chú trọng đến các mối quan hệ giữa chúng. Người Việt tích lũy được một kho kinh nghiệm hết sức phong phú về các loại quan hệ này: Quạ tắm thì ráo, sáo tắm thì mưa; Ráng mỡ gà, ai có nhà phải chống; Được mùa lúa thì úa mùa cau, được mùa cau thì đau mùa lúa...
Về mặt tổ chức cộng đồng, con người nông nghiệp ưa sống theo nguyên tắc trọng tình. Hàng xóm sống cố định lâu dài với nhau phải tạo ra một cuộc sống hòa thuận trên cơ sở lấy tình nghĩa làm đầu: Một bồ cái lí không bằng một tí cái tình. Lối sống trọng tình cảm tất yếu dẫn đến thái độ trọng đức, trọng văn, trọng phụ nữ.
Trong truyền thống Việt Nam, tinh thần coi trọng ngôi nhà coi trọng cái bếp coi trọng người phụ nữ là hoàn toàn nhất quán và rõ nét: Phụ nữ Việt Nam là người quản lí kinh tế, tài chính trong gia đình - người nắm tay hòm chìa khóa. Chính bởi vậy mà người Việt Nam coi Nhất vợ nhì trời; Lệnh ông không bằng cồng bà...; còn theo kinh nghiệm dân gian thì Ruộng sâu trâu nái, không bằng con gái đầu lòng. Phụ nữ Việt Nam cũng chính là người có vai trò quyết định trong việc giáo dục con cái: Phúc đức tại mẫu, Con dại cái mang. Vì tầm quan trọng của người mẹ cho nên trong tiếng Việt, từ cái với nghĩa là "mẹ" đã mang thêm nghĩa "chính, quan trọng": sông cái, đường cái, đũa cái, cột cái, trống cái, ngón tay cái, máy cái...Tư tưởng coi thường phụ nữ là từ Trung Hoa truyền vào (Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô; Nam tôn nữ ti; Tam tòng; xem §3.2.3); đến khi
ảnh hưởng này trở nên đậm nét (từ lúc nhà Lê tôn Nho giáo làm quốc giáo), người dân đã phản ứng dữ dội về việc đề cao "Bà chúa Liễu" cùng những câu ca dao như: Ba đồng một mớ đàn ông, Đem bỏ vào lồng cho kiến nó tha, Ba trăm một mụ đàn bà, Đem về mà trải chiếu hoa cho ngồi !
Không phải ngẫu nhiên mà vùng nông nghiệp Đông Nam Á này được nhiều học giả phương Tây gọi là "xứ sở Mẫu hệ" (le Pays du Matriarcat). Cho đến tận bây giờ, ở các dân tộc ít chịu ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa như Chàm hoặc hoàn toàn không chịu ảnh hưởng như nhiều dân tộc Tây Nguyên (Êđê, Giarai...), vai trò của người phụ nữ vẫn rất lớn: phụ nữ chủ động trong hôn nhân, chồng về ở đằng nhà vợ, con cái đặt tên theo họ mẹ... Cũng không phải ngẫu nhiên mà cho đến nay, người Khmer vẫn gọi người đứng đầu phum, sóc của họ là mê phum, mê sóc (mê=mẹ), bất kể đó là đàn ông hay đàn bà.
Lối tư duy tổng hợp và biện chứng, luôn đắn đo cân nhắc của người làm nông nghiệp cộng với nguyên tắc trọng tình đã dẫn đến lối sống linh hoạt, luôn biến báo cho thích hợp với từng hoàn cảnh cụ thể, dẫn đến triết lí sống Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài; Đi với Bụt mặc áo cà-sa, đi với ma mặc áo giấy...
Sống theo tình cảm, con người còn phải biết tôn trọng và cư xử bình đẳng, dân chủ với nhau. Đó là nền dân chủ làng mạc, nó có trước nền quân chủ phong kiến phương Đông và nền dân chủ tư sản phương Tây. Lối sống trọng tình và cách cư xử dân chủ dẫn đến tâm lí coi trọng cộng đồng, tập thể. Người nông nghiệp làm gì cũng phải tính đến tập thể, luôn có tập thể đứng sau.
Mặt trái của tính linh hoạt là thói tùy tiện biểu hiện ở tật co giãn giờ giấc (giờ cao su), sự thiếu tôn trọng pháp luật... Lối sống trọng tình làm cho thói tùy tiện càng trở nên trầm trọng hơn: Một bồ cái lí không bằng một tí cái tình... Nó dẫn đến tệ "đi cửa sau" trong giải quyết công việc: Nhất quen, nhì thân, tam thần, tứ thế... Trọng tình và linh hoạt làm cho tính tổ chức của người nông nghiệp kém hơn so với cư dân các nền văn hóa gốc du mục.
Trong lối ứng xử với môi trường xã hội, tư duy tổng hợp và phong cách linh hoạt còn quy định thái độ dung hợp trong tiếp nhận: ở Việt Nam không những không có chiến tranh tôn giáo mà, ngược lại, mọi tôn giáo thế giới (Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo, Thiên chúa giáo...) đều được tiếp nhận. Đối phó với các cuộc chiến tranh xâm lược, người Việt Nam luôn hết sức mềm dẻo, hiếu hòa. Ngày xưa, trong kháng chiến chống ngoại xâm, mỗi khi thế thắng đã thuộc về ta một cách rõ ràng, cha ông ta thường dừng lại chủ động cầu hòa, "trải chiếu hoa" cho giặc về, mở đường cho chúng rút lui trong danh dự (xem VI-§6.1.1).
Các đặc trưng vừa phân tích của loại hình văn hóa gốc nông nghiệp có thể được trình bày trong bảng 1.3.
Loại hình văn hóa gốc du mục thường có đặc trưng trái ngược: Trong ứng xử với tự nhiên thì nghề chăn nuôi buộc người dân phải đưa gia súc đi tìm cỏ, sống du cư, và do nay đây mai đó, ít phụ thuộc vào thiên nhiên nên sinh ra coi thường tự nhiên, dẫn đến tham vọng chinh phục tự nhiên (cho nên phương Tâm đạt được nhiều thành tựu trong lĩnh vực này). Trong lĩnh vực nhận thức thì thiên về tư duy phân tích (theo lối khách quan, lí tính và thực nghiệm, dẫn đến kết quả là khoa học phương Tây phát triển), đồng thời chú trọng các yếu tố (dẫn đến lối sống thực dụng, thiên về vật chất). Trong tổ
chức cộng đồng thì coi trọng sức mạnh (kéo theo trọng tài, trọng võ, trọng nam giới), coi trọng vai trò cá nhân (dẫn đến lối sống ganh đua, cạnh tranh nhau một cách khốc liệt), ứng xử theo nguyên tắc (khiến cho người phương Tây có được thói quen sống theo pháp luật từ khá sớm). Trong ứng xử với môi trường xã hội thì độc đoán trong tiếp nhận, cứng rắn, hiếu thắng trong đối phó.
TIÊU CHÍ
VĂN HOÁ GỐC NÔNG NGHIỆP
Đặc trưng gốc
Khí hậu
Nghề chính
Nắng nóng lắm, mưa ẩm nhiều Trồng trọt
Ứng xử với môi trường tự nhiên
Sống định cư, thái độ tôn trọng, ước mong sống hoà hợp với thiên nhiên
Lối nhận thức, tư duy
Thiên về tổng hợp và biện chứng (trong quan hệ); chủ quan, cảm tính và kinh nghiệm
Tổ chức
cộng đồng
Nguyên tắc
Trọng tình, trọng đức, trọng văn, trọngnữ
Cách thức
Linh hoạt và dân chủ, trọng tập thể
Ứng xử với môi trường xã hội
Dung hợp trong tiếp nhận;
mềm dẻo, hiếu hoà trong đối phó
Bảng 1.3: Các đặc trưng của loại hình văn hóa gốc nông nghiệp 2.2. Chủ thể và thời gian văn hóa Việt Nam
Giống như một điểm trong không gian, vị trí của một nền văn hóa trong xã hội phải được xác định bởi một hệ tọa độ ba chiều: thời gian văn hóa, không gian văn hóa và chủ thể văn hóa.
Thời gian văn hoá được xác định từ lúc một nền văn hóa hình thành đến khi tàn lụi. Thời điểm khởi đầu của một nền văn hóa là do thời điểm hình thành dân tộc (chủ thể văn hóa) quy định.
Về nguồn gốc dân tộc Việt Nam - chủ thể văn hóa, từng có khá nhiều giả thuyết khác nhau. Gần đây, căn cứ vào những kết quả nghiên cứu về sự hình thành và phân bố các chủng người trên trái đất, có thể nói rằng chủ thể của văn hóa Việt Nam ra đời: (a) trong phạm vi của trung tâm hình thành loài người phía Đông và (b) trong khu vực hình thành của đại chủng phương Nam (Australoid). "Ngay từ buổi bình minh của lịch sử, - Ja. V. Chesnov (1976) viết - Đông Nam Á đã là một trong những cái nôi hình thành loài người. Đây chính là địa bàn hình thành đầu tiên của đại chủng phương Nam".
Trên nền của những sự kiện trên, quá trình hình thành các dân tộc Việt Nam có thể được hình dung theo ba giai đoạn:
a) Vào thời đồ đá giữa (khoảng 10.000 năm về trước), có một dòng người thuộc đại chủng Mongoloid từ phía dãy Himalaya thiên di về hướng đông nam, tới vùng Đông Nam Á cổ đại thì dừng lại và hợp chủng với cư dân Melanésien bản địa (thuộc đại chủng Australoid), dẫn đến sự hình thành chủng Indonésien (=cổ Mã Lai, Đông Nam Á tiền sử) với nước da ngăm đen, tóc quăn dợn sóng, tầm vóc thấp... Từ đây lan tỏa ra, người Indonésien cư trú trên toàn bộ địa bàn Đông Nam Á cổ đại: phía bắc tới sông Dương Tử, phía tây tới bang Assam của Ấn Độ, phía đông tới vùng quần đảo Philippin và phía nam tới các hải đảo Inđônêxia.
b) Từ cuối thời đá mới, đầu thời đại đồ đồng (khoảng 5.000 năm về trước), tại khu vực mà nay là nam Trung Hoa và bắc Đông Dương, trên cơ sở sự chuyển biến từ loại hình lndonésien bản địa dưới tác động của sự tiếp xúc thường xuyên với chủng Mongoloid từ phía bắc, đã hình thành một chủng mới là chủng Nam-Á (Austroasiatic, Austroasiatique). Với chủng Nam-Á, các nét Mongoloid lại càng nổi trội, do vậy nó được xếp vào ngành Mongoloid phương Nam. Dần dần, chủng Nam-Á này đã được chia tách thành một loạt dân tộc mà trong cổ thư Việt Nam và Trung Hoa được gọi bằng danh từ Bách Việt. Tuy "một trăm" (bách) chỉ là cách nói biểu trưng, nhưng đó thật sự là một cộng đồng cư dân hùng hậu, bao gồm nhiều tộc người Việt như Điền Việt, Dương Việt, Mân Việt, Đông Việt, Nam Việt, Lạc Việt... sinh sống khắp khu vực phía nam sông Dương Tử cho tới bắc Trung Bộ ngày nay, họp thành những khối cư dân lớn (mà ban đầu mỗi khối có một tiếng nói riêng) như Môn-Khmer, Việt-Mường, Tày-Thái, Mèo-Dao.
c) Quá trình chia tách này tiếp tục diễn tiến, dần dần đã dẫn đến sự hình thành các tộc người cụ thể (cùng với sự chia tách ngôn ngữ trong đó người Việt (Kinh) - tộc người chiếm gần 90% dân số cả nước - đã tách ra từ khối Việt-Mường chung vào khoảng cuối thời Bắc thuộc (thế kỉ VII-VIII).
Bảng 1.4: Sự hình thành các dân tộc Đông Nam Á
Chung INDONESIEN
(= Co Ma Lai, Dong Nam A tien su)
AUSTRONESIEN
(Nam Dao)
Chung NAM-A
(= Austroasiatic; Bach Viet)
Nhom
CHAM
Nhom
MON-
KHMER
Nhom
VIET
MUONG
Nhom
TAY-THAI
Nhom
MEO-DAO
Cham
Raglai
Eđe
Chru
Mnong
Khmer
Koho
Xtieng
Viet
Muong
Tho
Chut
Tay
Thai
Nung
Cao Lan
H’mong
(Meo)
Dao
Pa Then
Trong khi đó, ở phía Nam, dọc theo dải Trường Sơn, vẫn là địa bàn cư trú của người Indonésien. Cuộc sống biệt lập khiến cho khối người này lưu giữ được nhiều hơn những đặc điểm của truyền thống văn hóa cổ gần gũi với cư dân các hải đảo. Đó là tổ tiên của người Chăm, Giarai, Raglai, Êđê, Chru, Hroi... gọi chung là Nam Đảo (Austronésien).
Như vậy, người Việt cùng tuyệt đại bộ phận các tộc người trong thành phần dân tộc Việt Nam đều có cùng một nguồn gốc chung là nhóm loại hình Indonésien, chính điều đó đã tạo nên tính thống nhất cao - một tính thống nhất trong sự đa dạng - của con người và văn hóa Việt Nam, và rộng hơn là toàn vùng Đông Nam Á.
Trong sự đa dạng chung đó lại luôn có tính thống nhất bộ phận: của người Việt và Mường, của người Việt-Mường và các dân tộc cùng gốc Nam-Á- Bách Việt... (xem bảng 1.4).
2.3. Hoàn cảnh địa lí, không gian văn hóa và các vùng văn hóa Việt Nam
2.3.1. Văn hóa chịu sự chi phối đáng kể của HOÀN CẢNH ĐỊA LÍ – KHÍ HẬU. Hoàn cảnh địa lí - khí hậu Việt Nam có ba đặc điểm cơ bản: Thứ nhất, đây là xứ nóng. Nóng lắm sinh ra mưa nhiều. Việt Nam là nơi có lượng mưa trung bình trong năm khoảng trên 2.000mm (cá biệt có nơi như vườn quốc gia Bạch Mã (Thừa Thiên) đạt tới 7.977mm), vào loại cao nhất thế giới (x. biểu đồ so sánh ở hình 1.21). Hiện tượng này dẫn đến đặc điểm thứ hai: đây là một vùng sông nước. Sông nước đã để lại dấu ấn rất quan trọng trong tinh thần văn hóa khu vực này. Đây là một hằng số địa lí quan trọng, chính nó tạo nên nét độc đáo của nền văn hóa nông nghiệp lúa nước. Đặc điểm quan trọng thứ ba: Nơi đây là giao điểm ("ngã tư đường") của các nền văn hóa, văn minh.
Hình 1. 2: Biểu đồ so sánh lượng mưa trung bình tại Dresden (Đức), Bắc Kinh (Trung Quốc) và Huế (Việt Nam)
2.3.2. KHÔNG GIAN VĂN HÓA có phần phức tạp hơn: bởi lẽ văn hóa có tính lịch sử (yếu tố thời gian), cho nên không gian văn hóa liên quan đến lãnh thổ nhưng không đồng nhất với không gian lãnh thổ. Nó bao quát tất thảy những vùng lãnh thổ mà ở đó dân tộc đã tồn tại qua các thời đại. Do vậy, không gian văn hóa bao giờ cũng rộng hơn không gian lãnh thổ; không gian văn hóa của hai dân tộc ở cạnh nhau thường có phần chồng lên nhau, có miền giáp ranh.
Trong phạm vi hẹp, không gian gốc của văn hóa Việt Nam nằm trong khu vực cư trú của người Bách Việt. Có thể hình dung nó như một hình tam giác với cạnh đáy ở sông Dương Tử, và đỉnh là vùng bắc Trung Bộ Việt Nam. Đây là cái nôi của nghề nông nghiệp lúa nước, của nghệ thuật đúc đồng với những trống đồng Đông Sơn nổi tiếng. Đây cũng là bờ cõi đất nước của họ Hồng Bàng theo truyền thuyết (xem §3.1.2).
Ở một phạm vi rộng hơn, không gian văn hóa Việt Nam nằm trong khu vực cư trú của người Indonésien lục địa. Có thể hình dung nó như một hình tam giác với cạnh đáy vẫn là sông Dương Tử ở phía Bắc, còn đỉnh là vùng đồng bằng sông Mê Kông ở phía Nam. Đây là khu vực được tạo nên bởi hai con sông lớn cùng bắt nguồn từ cao nguyên Tây Tạng: Dương Tử Giang và Mê Kông. Nơi này phần lớn tên sông và địa danh liên quan đến sông đều vốn là biến âm của cùng một từ gốc Nam-Á cổ đại với nghĩa là sông nước: giang (Dương Tử Giang, Việt Giang, Chiết Giang, Linh Giang, Tam Giang, Tiền Giang,…); kiang; kung; khung (Khung Giang, Khung Bích – Thái Tây Bắc; Mèkhủng – Lào); kong (Mê Kông); krong, krông (Tây Nguyên: Krông Púc, Krông Pacô,…); sông (Việt); sung (Sung Lung, Sung Vang – phụ lưu sông Đà, sông Cả).
Hình 1.3: Không gian văn hóa Việt Nam
trên nền không gian văn hoá Đông Nam Á
Xét từ trong cội nguồn, không gian văn hoá Việt Nam vốn được định hình trên nền của không gian văn hoá khu vực Đông Nam Á. Ta có thể hình dung không gian văn hóa khu vực Đông Nam Á này như một hình tròn bao quát toàn bộ Đông Nam Á lục địa và Đông Nam Á hải đảo. Từ sau công nguyên, khu vực Đông Nam Á có phần thu hẹp lại do vùng phía Nam sông Dương Tử đã bị chính sách bành
trướng và đồng hóa của Trung Hoa dần dần thâu tóm. Mặc dù vậy, cho đến giờ ngay cả vùng này cũng hãy còn giữ được không ít nét trong số hàng loạt những đặc điểm chung của khu vực văn hóa Đông Nam Á mà G. Coedès (1948) đã liệt kê như sau "Về phương diện vật chất: làm ruộng cấy lúa, nuôi trâu bò, dùng đồ kim khí thô sơ, giỏi bơi thuyền. Về phương diện xã hội: địa vị quan trọng của phụ nữ, huyết tộc mẫu hệ, tổ chức xã hội theo nhu cầu tưới nước ruộng. Về phương diện tôn giáo: thuyết vạn vật hữu linh, thờ phụng tổ tiên và thờ thần đất, đặt đền thờ ở những chỗ cao, chôn người chết trong các chum vại hay các trác thạch. Về phương diện thần thoại: đối lập vũ trụ luận giữa núi và biển, giữa loài phi cầm với loài thủy tộc, giữa người thượng du với người hạ bạn. Về phương diện ngôn ngữ: dùng những ngôn ngữ đơn âm với năng lực dồi dào về phát triển từ…". Đây là địa bàn cư trú của người Indonésien cổ đại nói chung. Chính mối liên hệ này đã tạo nên sự thống nhất cao độ của vùng văn hóa Đông Nam Á mà ở trên đã nói. Hơn thế nữa, do vị trí đặc biệt của mình, Việt Nam là nơi hội tụ ở mức độ đầy đủ nhất mọi đặc trưng của văn hóa khu vực; không phải vô cớ mà các nhà Đông Nam Á học đã nói một cách hình ảnh rằng Việt Nam là một Đông Nam Á thu nhỏ.
2.3.3. Sự thống nhất do cùng cội nguồn đã tạo ra bản sắc chung của văn hóa Việt Nam, còn tính đa dạng của các tộc người lại làm nên những đặc trưng bản sắc riêng của từng VÙNG VĂN HÓA. Sự khác biệt này được phản ánh trong nhiều câu tục ngữ (đôi khi khá dí dỏm) về đặc sản và tính cách của mỗi vùng. Những năm gần đây, việc phân vùng văn hóa trong lãnh thổ Việt Nam hiện tại đã được nhiều học giả bàn đến (Ngô Đức Thịnh, 1993; Huỳnh Khái Vinh, 1995; Đinh Gia Khánh - Cù Huy Cận, 1995...); trong đó, để có
cái nhìn tổng quát thì cách phân thành 6 vùng (Trần Quốc Vượng, 1997) có thể xem là hợp lí.
1) Vùng văn hóa Tây Bắc là khu vực bao gồm hệ thống núi non trùng điệp bên hữu ngạn sông Hồng (lưu vực sông Đà) kéo dài tới bắc Thanh Nghệ. Ở đây có trên 20 tộc người cư trú, trong đó, các tộc Thái, Mường có thể xem là đại diện. Biểu tượng cho vùng văn hóa này là hệ thống mương phai ngăn suối dẫn nước vào đồng; là nghệ thuật trang trí tinh tế trên chiếc khăn piêu Thái, chiếc cạp váy Mường, bộ trang phục nữ H'mông; là âm nhạc với các loại nhạc cụ bộ hơi (khèn, sáo...) và những điệu múa xòe...
2) Vùng văn hóa Việt Bắc là khu vực bao gồm hệ thống núi non hiểm trở bên tả ngạn sông Hồng. Cư dân vùng này chủ yếu là người Tày, Nùng với trang phục tương đối giản dị, với lễ hội lồng tồng (xuống đồng) nổi tiếng; với hệ thống chữ Nôm Tày được xây dựng trong giai đoạn cận đại...
3) Vùng văn hóa Bắc Bộ có hình một tam giác bao gồm vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng, sông Thái Bình và sông Mã với cư dân Việt (Kinh) sống quần tụ thành làng xã. Đây là vùng đất đai trù phú, bởi vậy nó từng là cái nôi của văn hóa Đông Sơn thời thượng cổ, văn hóa Đại Việt thời trung cổ... với những thành tựu rất phong phú về mọi mặt. Nó cũng là cội nguồn của văn hóa Việt ở nam Trung Bộ và Nam Bộ sau này.
4) Vùng văn hóa Trung Bộ ở trên một dải đất hẹp chạy dài theo ven biển từ Quảng Bình tới Bình Thuận. Do khí hậu khắc nghiệt, đất đai khô cằn, nên con người ở đây đặc biệt cần cù, hiếu học. Họ thạo nghề đi biển, bữa ăn của con người cũng giàu chất biển; dân vùng này thích ăn cay (để bù cho cá lạnh). Trước khi người Việt tới sinh
sống, trong một thời gian dài nơi đây từng là địa bàn cư trú của người Chăm với một nền văn hóa đặc sắc, đến nay còn để lại sừng sững những tháp Chăm.
5) Vùng văn hóa Tây Nguyên nằm trên sườn đông của dải Trường Sơn, bắt đầu từ vùng núi Bình-Trị-Thiên với trung tâm là bốn tỉnh Gia Lai, Kontum, Đắc Lắc, Lâm Đồng. Ở đây có trên 20 tộc người nói các ngôn ngữ Môn-Khmer và Nam Đảo cư trú. Đây là vùng văn hóa đặc sắc với những trường ca (khan, h'ămon), những lễ hội đâm trâu, với loại nhạc cụ không thể thiếu được là những dàn cồng chiêng phát ra những phức hợp âm thanh hùng vĩ đặc thù cho núi rừng Tây Nguyên...
6) Vùng văn hóa Nam Bộ nằm trong lưu vực sông Đồng Nai và hệ thống sông Cửu Long, với khí hậu hai mùa (khô - mưa), với mênh mông sông nước và kênh rạch. Các cư dân Việt, Chăm, Hoa tới khai phá đã nhanh chóng hòa nhập với thiên nhiên và cuộc sống của cư dân bản địa (Khmer, Mạ, Xtiêng, Chơro, Mnông). Nhà ở có khuynh hướng trải dài ven kênh, ven lộ; bữa ăn giàu thủy sản; tính cách con người ưa phóng khoáng; tín ngưỡng tôn giáo hết sức phong phú và đa dạng; sớm tiếp cận và đi đầu trong quá trình giao lưu hội nhập với văn hóa phương Tây... - đó chỉ là vài nét phác thảo những đặc trưng văn hóa của vùng này.
Mối liên hệ mật thiết với Đông Nam Á và tính thống nhất trong sự đa dạng do tuyệt đại bộ phận cư dân đều bắt nguồn từ cùng một gốc nhân chủng, ngôn ngữ và văn hóa - đó là cơ sở làm nên sự khu biệt cơ bản giữa văn hóa Việt Nam với Trung Hoa.
2.4. Hoàn cảnh lịch sử - xã hội của văn hóa Việt Nam
Với vị trí địa lí giao điểm của các luồng văn hóa, quá trình phát triển lịch sử - xã hội của Việt Nam đã bị chi phối mạnh mẽ bởi các quan hệ giao lưu văn hóa rộng rãi với Đông Nam Á, Trung Hoa, Ấn Độ, và phương Tây. Trong đó, quan hệ với văn hóa vì Trung Hoa để lại dấu ấn sâu đậm hơn cả; nó khiến cho trong nhận thức của nhiều người có định kiến cho rằng văn hóa Việt Nam chỉ là sản phẩm của văn hóa Trung Hoa, là một bộ phận của nó; trong khi thực ra thì vấn đề phức tạp hơn nhiều.
Tổ tiên của người Hán có nguồn gốc du mục, xuất phát từ phía tây bắc (vùng Trung Á). Sự phát triển của dân tộc này trải qua hai giai đoạn.
Trong giai đoạn đầu, tổ tiên của người Hán sống định cư tại thượng nguồn sông Hoàng Hà và làm nông nghiệp khô (trồng kê, mạch). Rồi họ tiến dần từ tây sang đông, về hạ lưu và thâu tóm cả vùng lưu vực sông Hoàng Hà cùng nền văn hóa nông nghiệp khô ở đây. Dấu vết của thời kì "đông tiến" này là những cách nói trong tiếng Trung Hoa như đông cung (cung điện phía đông), đông sàng (giường phía đông)... Như vậy, du mục tây bắc + nông nghiệp khô bản địa là hai thành tố tạo nên nền văn hóa sông Hoàng Hà.
Ở giai đoạn thứ hai, hướng bành trướng lãnh thổ của tổ tiên người Hán là từ bắc xuống nam, đến đời Tần-Hán thì Trung Hoa đã trở thành một đế quốc rộng lớn. Thời kì "nam tiến" này để lại dấu vết trong những cách nói của người Trung Hoa như kim chỉ nam, "Thiên tử ngồi trông về phương nam mà cai trị thiên hạ". Cùng với sự bành trướng về phương nam, văn hoá sông Hoàng Hà đã hấp thụ tinh hoa của văn hóa nông nghiệp lúa nước Bách Việt ở phía nam sông Dương Tử và, với óc phân tích, đã nhanh chóng hệ thống hóa, quy phạm hóa để phát triển thành văn hóa Trung Hoa rực rỡ rồi, đến
lượt mình, phát huy ảnh hưởng trở lại phương nam và các dân tộc xung quanh.
Đúng như W.Durand đã viết trong cuốn Lịch sử văn minh Trung Quốc (1990. tr. 27-28), "Trung Hoa, cũng như Ấn Độ, phải đem so sánh với cả một lục địa, chẳng hạn như châu Âu, chứ không thể đem so sánh với một nước nào đó ở châu Âu; nó không gồm một dân tộc thuần nhất và duy nhất, mà là sự kết hợp của nhiều giống người khác nhau từ nguồn gốc tới ngôn ngữ, nghệ thuật, đặc tính; còn phong tục, luân lí và chế độ chính trị thì trái hẳn nhau".
Sự phức tạp đó đã gây ra nhiều ngộ nhận. Nhưng ngay từ năm 1887, một nhà Hán học người Pháp là T. de Lacouperie đã hiểu ra rằng "Niềm tin là nước Trung Hoa vốn đã lớn lao mãi từ xưa và thường xuyên như thế chỉ là một huyền thoại. Trái hẳn lại, đó là một việc mới xảy ra về sau. Văn minh Trung Hoa không phải tự nó sinh ra nó, mà là hậu quả của sự thâu hóa. Việc thâu hóa từ đâu thì xưa cho là từ phía tây, nhưng càng về sau thì càng có nhiều người cho là từ phía đông-nam".
Chính người Trung Hoa cũng hiểu rất rõ điều này. Không phải ngẫu nhiên mà ngay từ thời Hán, Ứng Thiệu đã khẳng định trong sách Hán quan nghi. "Khi cổ nhân mới mở ở bắc phương, đã liền giao tiếp ngay với nam phương để xây dựng nền tảng cho con cháu". Còn Lương Khải Siêu, một nhà hoạt động văn hóa Trung Quốc nổi tiếng (1873-1929), thì thừa nhận rằng tổ tiên của người Trung Hoa vốn là một sắc dân du mục "khởi lên từ phía tây-bắc, rồi tràn xuống chiến thắng những giống man tộc ở lưu vực sông Hoàng Hà, và càng ngày càng tràn ra khắp cả trên cõi đất đại lục… Nguyên nền văn minh Trung Hoa khởi xuất từ phương bắc là nơi khí hậu rét mướt, mầu đất sỏi cát khô cằn, ngay cả phần trời cũng bạc, cho nên
người phương bắc chỉ chuyên để tâm nghiên cứu những vấn đề tầm thường nhật dụng, vì thế tư tưởng chỉ thiên về đường thực tế".
Nhóm tác giả đề tài cấp nhà nước Tiếp xúc, giao lưu và phát triển văn hóa quan hệ giữa văn hóa Việt Nam và thế giới do GS. Phạm Đức Dương chủ trì đã từng kết luận (1994, tr. 7) rất đúng rằng "Nền văn minh Trung Hoa đã phát sáng do những người làm nông nghiệp khô thâm canh (trồng kê mạch) vùng Trung Nguyên lưu vực sông Hoàng Hà đã hỗn dung với văn hóa của cư dân du mục phía bắc và tây-bắc (rợ Khuyển, Nhung…), sau đó là với văn hóa của cư dân nông nghiệp lúa nước Đông Nam Á (vùng Hoa Nam với những trung tâm như Ba Thục, Kinh Sở, Ngô Việt…). Kết thúc cuộc "Hán Sở tranh hùng", nhà Hán đã thống nhất đất nước Trung Hoa từ bắc xuống nam (tiền bắc hậu nam) và phát triển đất nước theo một trật tự ngược lại: tiền nam hậu bắc".
Có thể hình dung cơ cấu của văn hóa Trung Hoa như sau:
VĂN HOÁ TRUNG HOA
Văn hoá lưu vực sông Hoàng =
Hà +
Văn hoá
nông nghiệp lúa nước
Đông Nam Á
Văn hoá du mục Tây Bắc
+
Văn hoá nông nghiệp khối Trung Nguyên
Mối liên hệ và sự tác động qua lại giữa văn hóa Việt Nam với Trung Hoa, giữa văn hóa phương Bắc cổ đại với văn hóa phương Nam cổ đại (trong đó có văn hóa Nam – Á - Bách Việt) có thể trình bày trong bảng 1.5.
VĂN HOÁ
P.BẮC CỔ ĐẠI
VĂN HOÁ PHƯƠNG NAM (= Đ.N.Á cổ đại)
Văn hoá Nam-Á (Bách Việt)
Văn hóa vùng lưu vực sông Hoàng Hà
Văn hóa vùng lưu vực sông Dương Tử
Văn hóa vùng lưu vực s.
Hồng, s. Mã
Văn hóa miền Trung và đồng bằng s. Mê
Kông
VĂN HOÁ TRUNG HOA
VĂN HOÁ VIỆT NAM
Bảng 1.5: Quan hệ cội nguồn giữa văn hóa Việt Nam và Trung Hoa Bài 3: TIẾN TRÌNH VĂN HÓA VIỆT NAM Tiến trình văn hóa Việt Nam có thể chia thành 6 giai đoạn: văn hóa tiền sử, văn hóa Văn Lang - Âu Lạc, văn hóa thời chống Bắc thuộc, văn hóa Đại Việt, văn hóa Đại Nam và văn hóa hiện đại. Sáu giai đoạn này tạo thành ba lớp: lớp văn hóa bản địa, lớp văn hóa giao lưu với Trung Hoa và khu vực, lớp văn hóa giao lưu với phương Tây.
3.1. Lớp văn hóa bản địa
Lớp văn hóa bản địa được hình thành qua hai giai đoạn: giai đoạn văn hóa tiền sử và giai đoạn văn hóa Văn Lang - Âu Lạc.
3.1.1. Thành tựu lớn nhất ở giai đoạn văn hóa tiền sử của cư dân Nam-Á là sự hình thành nghề nông nghiệp lúa nước.
Trong năm trung tâm xuất hiện cây trồng, Đông Nam Á là một. C.O.Sauer cho rằng đây chính là trung tâm nông nghiệp cổ xưa nhất. Còn theo các tài liệu cổ thực vật học thì việc cây lúa có nguồn gốc từ đây là điều không còn nghi ngờ gì: trung tâm thuần dưỡng lúa là vùng đông nam Himalaya và khu vực sông nước Đông Nam Á. Các tác giả Lịch sử Việt Nam khẳng định: "Trên cơ sở kinh tế hái lượm phát triển ở vùng rừng nhiệt đới, các bộ lạc Hòa Bình đã thực hiện một bước nhảy có ý nghĩa lớn lao trong đời sống nhân loại: phát minh nông nghiệp... Đông Nam Á là một trong những trung tâm phát sinh nông nghiệp sớm nhất". Ở các di chỉ khảo cổ khác nhau của Việt Nam như Sũng Sàm, Tràng Kênh, Gò Bông, Đồng Đậu, Gò Mun... đã phát hiện được những dấu tích của bào tử phấn lúa, vỏ trấu, gạo cháy, mảnh chõ xôi... có niên đại xưa tới vài nghìn năm trước Công nguyên.
Tổ tiên người Hán khi định cư ở lưu vực sông Hoàng Hà mới chỉ trồng kê, mạch, đậu. Nghề trồng lúa là học từ các dân tộc phương Nam. Những kết quả khảo cổ ở bắc Trung Hoa cho phép kết luận rằng việc này diễn ra vào cuối thiên niên kỉ thứ III trước Công nguyên. Nhà Đông phương học Nga nổi tiếng D.V. Deopik (1977, tr. 265) đã viết: "Vào thiên niên kỷ thứ III trước Công nguyên, ở trung tâm vùng Đông Á ta chỉ thấy một chấm nhỏ của văn minh trồng kê Ngưỡng Thiều (Janshao), lạc hậu hơn so với văn hóa đồ gốm có hoa văn vùng trung tâm Đông Dương. Ở bắc Đông Á không có những nôi nông nghiệp lớn… Những nền văn hóa trồng lúa vùng sông Dương Tử thời kì Long Sơn (Lunshan) và muộn hơn thực chất đều là ngoại vi của nôi trồng lúa Đông Dương".
Từ Đông Nam Á cổ đại, lúa và kĩ thuật trồng lúa đã lan tới bờ Địa Trung Hải vào nửa đầu của thiên niên kỉ I trước Công nguyên (Chesnov, 1976, tr. 86). Còn ở các hòn đảo Nhật Bản, nó mới chỉ được đưa tới qua con đường Hoa Bắc từ trước Công nguyên không lâu (Arutjunov 1962). Không chỉ chữ đạo trong tiếng Hán bắt nguồn từ chữ gạo mà ngay cả các chữ rice, riz, ris, Reis,… trong các ngôn ngữ châu Âu cũng có nguồn gốc từ tiếng Đông Nam Á cổ đại (dấu vết này còn thấy ở tên thần lúa Yang Sri của các dân tộc Tây Nguyên).
Ngoài cây lúa và kĩ thuật trồng lúa, còn phải kể đến một số thành tựu đặc biệt khác của Đông Nam Á cổ đại: (a) Việc trồng dâu nuôi tằm để làm đồ mặc và tục uống chè (xem V-§2.2.1.1 và V- §1.1.3); (b) Việc thuần dưỡng một số gia súc đặc thù như trâu, gà (tiếng Hán phải đặt ra kết hợp "thủy ngưu" (bò nước) để chỉ con trâu; còn trong cuốn Nguồn gốc các loài, E. Darwin đã khẳng định rằng nguồn gốc của con gà nuôi là xuất phát từ con gà rừng Đông Nam Á); (c) Việc làm nhà sàn để ở và dùng các cây thuốc để chữa bệnh. Truyền thuyết phương Nam đã đánh dấu giai đoạn văn hóa này bằng hình ảnh Thần Nông, nhân vật thần thoại này đã được bổ sung vào kho tàng văn hóa Trung Hoa.
3.1.2. Giai đoạn văn hóa Văn Lang – Âu Lạc kế tục giai đoạn tiền sử cả về không gian văn hóa, thời gian văn hóa và thành tựu văn hóa. Nếu dựa vào thư tịch cổ và truyền thuyết thì có thể hình dung giai đoạn này khởi đầu từ khoảng giữa thiên niên kỉ III trước Công nguyên.
Truyền thuyết Hồng Bàng thị (Họ Hồng Bàng) kể rằng vua đầu tiên của họ Hồng Bàng tên là Lộc Tục, cháu bốn đời của Viêm Đế (= vua xứ nóng) họ Thần Nông, con một nàng tiên ở núi Ngũ Lĩnh. Lộc
Tục lên làm vua phương Nam vào khoảng năm 2879 trước Công nguyên, lấy hiệu là Kinh Dương, đặt tên nước là Xích Quỷ (xích = đỏ - màu của phương Nam theo Ngũ hành; quỷ = thần; Xích Quỷ = Thần phương Nam). Bờ cõi nước Xích Quỷ phía bắc giáp hồ Động Đình, phía nam giáp nước Hồ Tôn (Chiêm Thành), phía tây giáp Ba Thục (Tứ Xuyên), phía đông giáp bể Nam Hải. Kinh Dương Vương Lộc Tục lấy con gái vua hồ Động Đình là Long Nữ, sinh ra Sùng Lãm, nối ngôi làm vua xưng là Lạc Long Quân. Lạc Long Quân lấy Âu Cơ, sinh ra bọc trăm trứng, nở thành trăm con trai. Một nửa theo cha xuống bể, nửa kia theo mẹ lên rừng. Đến đất Phong Châu (vùng Việt Trì ngày nay), cùng tôn người con trưởng làm vua nước Văn Lang, xưng là Vua Hùng.
Về mặt không gian, bờ cõi nước Xích Quỷ theo truyền thuyết trải dài từ Bắc Trung Bộ đến hồ Động Đình chính là địa bàn cư trú của người Nam-Á - Bách Việt, là khu vực tam giác không gian gốc của văn hóa Việt Nam. Bờ cõi nước Văn Lang của các vua Hùng sau này là một bộ phận của không gian gốc đó, cũng như người Lạc Việt là một bộ phận của khối cư dân Nam-Á - Bách Việt. Nhà sử học Nga P.V. Pozner (1980, tr. 89) khẳng định: "Sự tồn tại của các lãnh tụ người Lạc (Việt) với tên hiệu chung "Hùng" là một sự kiện lịch sử....; truyền thuyết về Kinh Dương Vương và Lạc Long Quân phản ánh truyền thống sử học truyền khẩu về địa bàn cư trú cổ xưa của các bộ lạc tiền Việt, cho nên, theo nghĩa đó, nó cũng mang tính lịch sử".
Về mặt thời gian, thiên niên kỉ thứ III trước Công nguyên (mà trong đó có mốc truyền thuyết là năm 2879!) ứng với giai đoạn đầu thời đại đồ đồng, cũng chính là thời điểm hình thành chủng Nam-Á (Bách Việt). Thành tựu văn hóa chủ yếu của giai đoạn Văn Lang -
Âu Lạc, sau nghề nông nghiệp lúa nước, chính là nghề luyện kim đồng. Cả trên phương diện này, vai trò của vùng văn hóa Nam-Á đối với khu vực cũng hết sức to lớn; đồ đồng Đông Sơn và ảnh hưởng của nó đã tìm thấy khắp nơi - từ nam Trung Hoa, Thái Lan đến toàn bộ vùng Đông Nam Á hải đảo.
Tập thể tác giả cuốn Văn hóa Đông Sơn ở Việt Nam (1994, tr. 302) đã viết: "Kĩ thuật luyện kim, đúc đồng của người Đông Sơn đã đạt đến trình độ điêu luyện đáng kinh ngạc. Trống đồng, thạp đồng là những di vật tiêu biểu nhất cho trình độ kĩ thuật và bàn tay tài hoa của những người thợ đúc Đông Sơn. Đỉnh cao không thể phủ nhận này đã khiến trước đây, nhiều học giả phương Tây không thể tin vào nguồn gốc bản địa của văn hóa Đông Sơn nói chung, kĩ thuật luyện kim Đông Sơn nói riêng. Họ đi tìm nguồn gốc ở tận đất Trung Nguyên, phương Bắc, thậm chí còn tìm ở nơi xa tít bên trời Tây… Kết quả nghiên cứu khảo cổ học vài thập kỉ qua đã chứng minh rằng, nghề luyện kim đồng thau đã ra đời ở đất này từ rất lâu trước sự ra đời của văn hóa Đông Sơn. Luyện kim Đông Sơn là sự phát triển kế tục, không đứt quãng của luyện kim các giai đoạn văn hóa tiền Đông Sơn". Theo Trần Quốc Vượng (1986, tr. 482) thì chữ "đồng" trong tiếng Hán được phiên âm từ tiếng Đông Nam Á cổ đại (Tày: toong; Việt: đồng).
Nhà Đông phương học Nga G.G. Stratanovich (1977) cho biết: "Bốn kiểu trống đồng Đông Sơn mà các nhà nghiên cứu khác nhau đã phân ra và ba kiểu chuông… của tôi thực ra chỉ là những biến thể của cùng một loại sản phẩm từ cùng một vùng sản xuất đồ đồng lớn nhất. Vùng này có thể hình dung dưới dạng một tam giác lớn: hai điểm tận cùng của cạnh đáy là Đông Sơn ở phía đông và Mogaung (bắc Mianma - TNT) ở phía tây. Đỉnh tam giác nằm trong khoảng
giữa hồ Động Đình và hồ Poian". Ông viết tiếp: "trước đây thậm chí cả đồ đồng Đông Sơn cũng bị tưởng rằng bắt nguồn từ phương Bắc. Bây giờ tình hình đã thay đổi, Người ta biết đến không chỉ nguồn quặng đồng phong phú của Việt Nam, mà cả những mỏ đồng, cũng như mỏ vàng và bạc khác nữa. Giả thuyết về nguồn gốc phương Nam của đồ đồng nhà Ân trở nên có cơ sở... Niên đại của văn hóa Đông Sơn giờ đây được đẩy về khoảng giáp ranh giữa các thiên niên kỉ II-I trước Công nguyên.
Một chuyên gia có tiếng về Đông Nam Á, giáo sư nhân chủng học Mĩ W.G. Solheim II đã viết (1971): "Các nhà sử học Âu, Mĩ thường hay lí luận rằng lối sống mà ta gọi là văn minh thoạt tiên bắt nguồn từ vòng cung phì nhiêu miền Cận Đông, hoặc trong những vùng sườn đồi lân cận… Tuy nhiên, những khám phá mới đây ở vùng Đông Nam Á đã buộc chúng ta phải xem xét lại những quan niệm này. Những vật dụng đã được đào lên và đem phân tích trong vòng 5 năm qua cho ta thấy rằng con người ở đây đã bắt đầu trồng cây, làm đồ gốm và đúc đồ dùng bằng đồng sớm hơn hết thảy mọi nơi trên trái đất… sớm hơn các dân tộc Cận Đông, Ấn Độ và Trung Hoa tới cả hàng mấy ngàn năm".
3.1.3. Giai đoạn từ 3-2 nghìn năm trước Công nguyên cho đến vài trăm năm trước Công nguyên đã tạo nên một đỉnh cao rực rỡ trong lịch sử văn hóa dân tộc và có ảnh hưởng lớn đến toàn khu vực. GS Hà Văn Tấn (1983) nhận định: "ảnh hưởng của văn hóa Đông Sơn lên phía Bắc, theo lưu vực sông Nguyên, sông Tương, đến đất Sở là đã rõ ràng". Vào đầu giai đoạn này, đỉnh cao đó là thành tựu chung của các dân tộc Đông Nam Á cổ đại. Không phải vô cớ mà D.V. Deopik (1977) gọi thế kỉ V trước Công nguyên là "thế kỉ của phương Nam". Đúng như Ja.V. Chesnov (1976, tr. 6) nhận xét:
"Về hàng loạt phương diện của văn hóa - từ sản xuất nông nghiệp cho đến lĩnh vực thần thoại - Đông Nam Á đã có những ảnh hưởng lớn, vượt rất xa ra ngoài ranh giới những láng giềng trực tiếp của nó... Việc tạo nên những thứ như cây lúa trồng, nghề luyện kim đồng, hoặc những thành tựu văn hóa khác... là kết quả sáng tạo của rất nhiều dân tộc lớn nhỏ đã tạo nên trong suốt chiều dài lịch sử nhiều nghìn năm của mình cái thế giới độc đáo được gọi là Đông Nam Á". Chính những thành tựu của thế giới Đông Nam Á cổ đại mà trong đó có phần đóng góp của tổ tiên các dân tộc Việt Nam ấy đã làm nên cái nền vững chắc cho sự phát triển của văn hóa Việt Nam sau này.
Hình 1.5: Các dấu vết của văn tự cổ.
a- trên đá ở thung lũng Sapa; b- trên qua đồng Thanh Hóa; c- trên lưỡi cày Đông Sơn; d- trên trống đồng Lũng Cú (Hà Giang); e- trong những sách cổ ở vùng Mường (Thanh Hóa)
Chữ viết của lớp văn hóa bản địa là vấn đề trước đây hầu như chưa được đặt ra. Đơn giản là vì, trong một thời gian dài, dưới áp lực của định kiến "lấy Trung Hoa làm trung tâm", người ta không thể hình dung được rằng phương Nam có thể có một nền văn hóa riêng chứ đừng nói gì đến chữ viết. Đến nay, dưới ánh sáng của: (a) Những nhận định mới về quy mô, tầm cỡ và vai trò của văn hóa phương Nam trong lịch sử văn hóa khu vực; (b) Những ghi chép của sử sách Trung Hoa về một thứ chữ "khoa đẩu" (hình con nòng nọc bơi) của người phương Nam. (c) Những cứ liệu về dấu vết chữ viết đã phát hiện được (xem hình 1.5): trên những phiến đá ở thung lũng Sapa, trên qua đồng Thanh Hóa, trên lưỡi cày Đông Sơn, trên trống đồng Lũng Cú, ở vùng Mường Thanh Hóa (hình nòng nọc!); ta hoàn
toàn có thể nghĩ đến giả thuyết về sự tồn tại của một nền văn tự phương Nam "trước Hán và khác Hán" (chữ dùng của GS. Hà Văn Tấn).
3.2. Lớp văn hóa giao lưu với Trung Hoa và khu vực
Lớp văn hóa giao lưu với Trung Hoa và khu vực còn lại được hình thành qua 2 giai đoạn: giai đoạn văn hóa chống Bắc thuộc và giai đoạn văn hóa Đại Việt. Đặc trưng chung của lớp văn hóa này là sự song song tồn tại của hai xu hướng trái ngược nhau: Một bên là xu hướng Hán hóa về mặt văn hóa và bên kia là xu hướng chống Hán hóa và Việt Nam hóa các ảnh hưởng Trung Hoa.
3.2.1. Giai đoạn văn hóa thời chống Bắc thuộc khởi đầu từ trước công nguyên và kéo dài đến khi Ngô Quyền giành lại được đất nước. Những đặc điểm chủ yếu của giai đoạn văn hóa này là:
a) Ý thức đối kháng bất khuất và thường trực trước nguy cơ xâm lăng từ phía phong kiến phương Bắc. Sự ra đời của quốc hiệu "Nam Việt" từ trước Công nguyên, trong đó yếu tố chỉ phương hướng "nam" lần đầu tiên xuất hiện (và sẽ tồn tại trong hầu hết các quốc hiệu về sau) đánh dấu một bước ngoặt trong nhận thức của dân tộc về hiểm họa xâm lăng thường trực từ phía phong kiến phương Bắc mà từ đời Tần-Hán trở đi đã trở thành một đế quốc hùng mạnh bậc nhất khu vực.
Tinh thần đối kháng thường trực và bất khuất ấy đã bộc lộ mạnh mẽ qua các cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng (40-43), Triệu Thị Trinh (246), Lí Bôn với nước Vạn Xuân (544-548), Triệu Quang Phục (548-571), Mai Thúc Loan (722), Phùng Hưng (791), cha con họ Khúc (906- 923), Dương Diên Nghệ (931- 937) và đạt đến đỉnh cao ở cuộc khởi nghĩa thắng lợi của Ngô Quyền (938).
a) Đặc điểm thứ hai của giai đoạn văn hóa chống Bắc thuộc là sự suy tàn của nền văn minh Văn Lang - Âu Lạc, sự suy tàn này bắt nguồn từ: (1) sự suy thoái tự nhiên có tính quy luật của một nền văn hóa sau khi đạt đến đỉnh cao; (2) sự tàn phá cố tình của kẻ xâm lược phương Bắc với âm mưu đồng hóa thâm độc.
Sử gia Tư Mã Thiên chép rằng từ đời Tần, Trung Hoa "đã chiếm cả thiên hạ, cướp lấy đất Dương Việt… đưa những người bị đày đến ở lẫn với người Việt". Thời Hán, Mã Viện đưa dân Trung Quốc sang ở lẫn để đồng hóa người Việt, sử cũ gọi họ là dân Mã lưu (do Mã Viện lưu lại). Năm 231, Tiết Tông dâng sớ lên vua Ngô Hoàng Võ kể rằng "Vua Hán Võ Đế giết Lữ Gia (thừa tường Nam Việt – TNT), chia nước Việt thành 9 quận, đặt ra quan thứ sử quận Giao Chỉ. Từ đó những tội nhân Trung Quốc chạy sang, ở lẫn với dân, dạy học sử sách (Trung Hoa - TNT) và phổ cập phong tục lễ hóa của Trung Quốc".
c) Đặc điểm thứ ba là giai đoạn văn hóa chống Bắc thuộc đã mở đầu cho quá trình giao lưu - tiếp nhận văn hóa Trung Hoa và khu vực, cũng tức là mở đầu cho quá trình văn hóa Việt Nam hội nhập vào văn hóa khu vực. Điều thú vị ở đây là, tuy tiếp xúc trực tiếp và thường xuyên với Trung Hoa, nhưng trong giai đoạn này, Việt Nam tiếp nhận văn hóa Trung Hoa chưa nhiều, Nho giáo hầu như chưa có chỗ đứng trong xã hội Việt Nam. Lí do của sự kiện này rất đơn giản: đó là văn hóa đến theo vó ngựa xâm lăng, do kẻ xâm lược tìm cách áp đặt vào. Trong khi đó thì Phật giáo đến Việt Nam (ban đầu trực tiếp từ Ấn Độ, sau đó qua ngả đường Trung Hoa) một cách hòa bình, nên được người Việt Nam tự giác tiếp nhận. Cho nên, cùng với sự chống Bắc thuộc quyết liệt về mặt chính trị, nét chủ đạo của
giai đoạn này là xu hướng chống Hán hóa về mặt văn hóa và Việt Nam hóa các ảnh hưởng Trung Hoa.
Chính do có xu hướng chống Hán hóa mạnh mẽ như vậy cho nên, mặc dù ngay từ đầu Công nguyên, các thái thú Tích Quang, Nhâm Diên ra sức truyền bá điển lễ hôn nhân và gia đình theo lối Trung Hoa; Sĩ Nhiếp vào thế kỉ II ra sức mở trường dạy học để truyền bá văn hóa Trung Hoa và thủ tiêu văn tự ngôn ngữ Việt; Tô Định, Mã Viện ra sức thiết lập nền pháp chế hà khắc bằng gươm giáo, suốt các thế kỷ này văn hóa Trung Hoa nói chung và Nho giáo nói riêng vẫn không thể nào bắt rễ sâu được vào làng xã Việt Nam. Trong sử sách Trung Hoa thời kì này, những đoạn viết về Phật giáo Giao Châu thì nhiều mà nói về Nho giáo thì rất ít. Dân Mã lưu do Mã Viện đưa sang không những không thực hiện được nhiệm vụ đồng hóa người Việt và làm chỗ dựa cho chính quyền mà, trái lại, còn bị Việt hóa hoàn toàn.
3.2.2. Nhờ đã có được nền móng vững vàng tạo nên từ đỉnh cao rực rỡ trong lớp văn hóa bản địa, tinh thần Văn Lang - Âu Lạc vẫn tồn tại như một mạch ngầm trong suốt thời kì chống Bắc thuộc, để khi bước sang giai đoạn văn hóa Đại Việt, chỉ sau ba triều đại (Ngô - Đinh - Tiền Lê) lo việc gây dựng lại, văn hóa Việt Nam đã khôi phục và thăng hoa nhanh chóng. Giai đoạn Đại Việt trở thành đỉnh cao thứ hai trong lịch sử văn hóa Việt Nam với hai cột mốc: Lí-Trần và Lê (Đại Việt là quốc hiệu chủ yếu của nước ta trong thời kì này).Truyền thống tổng hợp bao dung của văn hóa dân tộc (lớp văn hóa bản địa), được tiếp sức bởi văn hóa Phật giáo giàu lòng bác ái (giai đoạn chống Bắc thuộc), đã làm nên linh hồn của thời đại Lí Trần. Văn hóa Lí-Trần chứng kiến thời kì hưng thịnh nhất của Phật giáo và, cùng với nhu cầu xây dựng và củng cố nhà nước trung
ương tập quyền, đánh dấu thời điểm Việt Nam chính thức tiếp nhận Nho giáo. Đồng thời, với tinh thần tổng hợp bao dung, nó cũng mở rộng cửa cho việc tiếp thu cả Đạo giáo. "Tam giáo đồng quy " trên cơ sở truyền thống dân tộc đã khiến cho văn hóa Việt Nam thời Lí Trần phát triển mạnh mẽ về mọi phương diện.
Thế là, Nho giáo (và cùng với nó là văn hóa Trung Hoa) mà trong suốt thời Bắc thuộc đã không thể thâm nhập sâu rộng được, thì giờ đây, từ khi được nhà Lí mở cửa và đặt nền móng (xây Văn Miếu thờ Khổng Tử năm 1070, lập trường Quốc Tử Giám năm 1076,...), đã thâm nhập mỗi ngày một mạnh. Đến giữa thời Trần, Nho giáo Việt Nam đã trở thành một lực lượng đáng kể trong triều đình, các Nho sĩ tự khẳng định bằng cách quay lại công kích Phật giáo và các triều vua trước. Đến thời Lê, Nho giáo đạt đến độ thịnh vượng nhất và nắm trong tay toàn bộ guồng máy xã hội. Xu hướng tiếp nhận văn hóa Trung Hoa (Hán hóa) trở thành chủ đạo. Tính cách trọng động (cứng rắn, độc tôn...) đã thâm nhập dần vào xã hội Việt Nam; nhà nước tuyên bố lấy Nho giáo làm quốc giáo; pháp luật phỏng theo Trung Hoa; phụ nữ, con hát ngày một bị khinh rẻ... Văn hóa Việt Nam thời kì này chuyển sang một đỉnh cao kiểu khác: văn hóa Nho giáo.
3.2.3. Việc giao lưu với Trung Hoa dẫn đến việc dùng chữ Hán làm văn tự. Chữ Nôm - chữ của người Nam (chữ "nôm" gồm bộ khẩu và chữ "nam"), một trong những sản phẩm của cuộc giao lưu này - manh nha từ cuối giai đoạn chống Bắc thuộc và hình thành vào đầu giai đoạn Đại Việt, được dùng trong sáng tác văn chương và đặc biệt được đề cao dưới triều đại nhà Hồ và Tây Sơn. Vua Quang Trung đã sử dụng chữ Nôm làm văn tự chính thức trong các chiếu chỉ của mình và từng có kế hoạch giao cho La Sơn phu tử
Nguyễn Thiếp tổ chức dịch các sách vở kinh điển từ Hán sang Nôm.
3.3. Lớp văn hóa giao lưu với văn hóa phương Tây
Sau cùng là lớp văn hóa giao lưu với phương Tây. Cho đến nay, lớp này gồm hai giai đoạn: văn hóa Đại Nam và văn hóa hiện đại Tại đây cũng có hai xu hướng trái ngược: Một bên là xu hướng âu hóa, bên kia là xu hướng chống âu hóa và Việt Nam hóa các ảnh hưởng phương Tây. Song biểu hiện của chúng không phân rõ theo từng giai đoạn mà đan cài trong không gian và thời gian.
3.3.1. Giai đoạn văn hóa Đại Nam được chuẩn bị từ thời các chúa Nguyên và kéo dài hết thời Pháp thuộc và chống Pháp thuộc. Tên gọi Đại Nam xuất hiện từ thời Minh Mạng, đó là quốc hiệu chủ yêu của nước ta trong giai đoạn này (thời Gia Long, quát hiệu nước ta là Việt Nam). Văn hóa tại Nam có các đặc điểm:
a) Từ những tiền đề mà triều đại Tây Sơn đã chuẩn bị, với sự hoàn tất của nhà Nguyễn, lần đầu tiên nước ta có được sự thống nhất về lãnh thổ và tổ chức hành chính từ Đồng Văn đến Cà Mau.
b) Sau thời kì hỗn độn Lê-Mạc, Trịnh-Nguyễn, đến nhà Nguyên. Nho giáo lại được phục hồi làm quốc giáo, nhưng nó ngày một suy tàn.
c) Khởi đầu quá trình thâm nhập của văn hoá phương Tây, cũng là khởi đầu thời kì văn hóa Việt Nam hội nhập vào nền văn hoá nhân loại. Sự giao lưu đó đã làm văn hóa Việt Nam biến đổi về mọi phương diện: Lối tư duy phân tích phương Tây đã hổ sung khá nhuần nhuyễn cho lối tư duy tổng hợp truyền thống; ý thức về vai trò cá nhân được nâng cao dần bổ sung cho ý thức cộng đồng truyền thống; đô thị ngày càng có vai trò quan trọng trong đời sống xã hội,
quá trình đô thị hóa diễn ra ngày một nhanh hơn. Tất cả đã khiến cho lịch sử văn hoá Việt Nam lật sang trang mới.
3.3.2. Giai đoạn văn hóa hiện đại được chuẩn bị từ trong lòng văn hóa Đại Nam: Sự giao lưu với phương Tây mở đầu bằng giai đoạn Đại Nam đã thổi vào Việt Nam luồng gió mới với những tư tưởng của K. Marx, V.I. Lênin. Từ những năm 30-40 trở lại đây, rõ ràng là văn hóa Việt Nam đã bước sang một giai đoạn mới. Tuy nhiên, vì văn hóa là tiếp nối, thời gian văn hóa là khái niệm mờ, một giai đoạn văn hóa ngắn nhất (như Đại Nam) cũng phải tính bằng vài thế kỉ cho nên may chục năm tồn tại của giai đoạn văn hóa hiện đại chưa cho phép tổng kết đầy đủ những đặc điểm của nó: Đây là giai đoạn văn hóa đang định hình. Tuy nhiên, có thể dự đoán một cách chắc chắn rằng đây là giai đoạn mà, sau một thời kì suy thoái kéo dài, không những văn hóa Việt Nam sẽ phục hưng mà còn phát triển mạnh mẽ về mọi phương diện, đạt tới một đỉnh cao mới.
Lớp văn hóa giao lưu với phương Tây đem đến một sản phẩm của cuộc giao lưu mới: chữ Quốc ngữ
Bức tranh về các lớp, các giai đoạn văn hoá và văn tự được trình bày trong bảng 1.6. Hình ảnh khái quát về tiến trình văn hóa Viết Nam qua các giai đoạn được trình bày trong đồ thị ở hình 1.6.
I- Lớp VH,
bản địa
II- Lớp VH giao lưu với Trung
Hoa và khu vực
III- Lớp VH giao lưu với
phương Tây
GIAI
ĐOẠN
1. Giai đoạn VH tiền sử
1. Giai đoạn VH chống Bắc thuộc
5. Giai Đoạn VH Đại Nam
VĂN HOÁ
2. Giai đoạn VH Văn Lang – Âu Lạc
4. Giai đoạn VH Đại Việt
6. Giai đoạn VH hiện đại
GIAI
ĐOẠN
VĂN TỰ
A- Giai đoạn văn tự cổ
B- Giai đoạn chữ Hán, chữ Nôm
C- Giai đoạn
chữ quốc ngữ
Bảng 1.6: Cái giai đoan văn hóa và văn tự
Chương II - VĂN HOÁ NHẬN THỨC
Dẫn nhập
Chương này tìm hiểu những giá trị văn hóa nhận thức mà suốt lịch sử đã có ảnh hưởng đến nhiều lĩnh vực của văn hóa Việt Nam Nhân thức bao gồm nhận thức về vũ tru và nhận thức về con người Có những nhân thức có nguồn gốc cổ xưa (thuộc lớp văn hóa bản địa), và có những nhận thức mới được hình thành, bồi đắp trong những giai đoạn về sau (thuộc lớp văn hóa giao lưu với Trung Hoa và khu vực và lớp giao lưu với văn hóa phương Tây)
Thuộc loại nhận thức hình thành trong lớp văn hóa bản địa có triết lí âm dương giải thích bản chất của vũ trụ. Ngũ hành giải thích cấu trúc không gian của vũ trụ), lịch âm dương và hệ đếm can chi giải thích cấu trúc thời gian của vũ trụ. Cũng những tri thức đó đã được vận dụng để tìm hiểu và khám phá con người trên các phương diện tự nhiên và xã hội (trên phương diện tự nhiên, có thể nói rằng người xưa đã khá thành công).
Thuộc loại nhận thức được hình thành trong lớp văn hóa giao lưu với Trung Hoa và khu vực thì để lại dấu ấn sâu đậm hơn cả là những tri thức về vũ trụ quan và nhân sinh quan do Tam giáo (Nho giáo - Phật giáo – Đạo giáo) mang lại. Còn thuộc loại nhận thức được hình thành trong lớp văn hóa giao lưu với phương Tây thì có các tri thức khoa học Tuy nhiên, các tri thức khoa học hiện đại đã là sản phẩm của văn minh, phần lớn chúng trở thành tài sản chung của nhân loại, vì vậy mà chúng ta sẽ không nói tới
Các tư tưởng nhận thức Việt Nam nói riêng và phương Đông nói chung, dù là có nguồn gốc cổ xưa (như Âm dương, Ngũ hành)
hay mới được bồi đắp trong những giai đoạn về sau (như các tư tưởng Nho – Phật - Đạo), đều là những sản phẩm đặc thù của lối tư duy tổng hợp và trong quan hệ (biện chứng) của người nông nghiệp. Cho nên chúng đều là những tư tưởng mang tính TRIẾT Lí của nền Đạo học phương Đông, chứ không phải là những hệ thống TRIẾT HỌC như ở khoa học phương Tây.
Các tư tưởng nhận thức do Nho-Phật-Đạo mang lại đều là sản phẩm quá trình giao lưu của văn hóa Việt Nam với Trung Hoa và khu vực, nên chúng sẽ được trình bày riêng trong chương VI “Văn hóa ửng xử với môi trường xã hội”.
Như vậy, chương này sẽ chỉ tập trung nghiên cứu 4 vấn đề sau:
1 - Tư tưởng xuất phát về bản chất của vũ trụ: Triết lí Âm dương;
2 - Triết lí về cấu trúc không gian địa vũ trụ: Mô hình Tam tài. Ngũ hành;
3 - Triết lí về cấu trúc thời gian của vũ trụ: Lịch âm dương và hệ Can chi;
4 - Nhận thức về con người.
Bài 1: TƯ TƯỞNG XUẤT PHÁT VỀ BẢN CHẤT CỦA VŨ TRỤ: TRIẾT LÍ ÂM DƯƠNG
1.1. Triết lí âm dương: bản chất và khái niệm
Trong cuộc sống, dân tộc nào cũng va chạm với những cặp đối lập “đực-cái”, “nóng-lạnh”, “cao-thấp”... Người nông nghiệp thì, không những thế, còn luôn mong sao cho mùa màng bội thu và gia đình đông đúc, tức là quan tâm đến sự sinh sôi nảy nở của hoa màu
và con người với hai cặp đối lập Mẹ-Cha và Đất-Trời. Đối với nông nghiệp lúa nước, điều này lại càng bội phần hệ trọng: Nghề lúa nước mang tính thời vụ rất cao, do vậy cần rất nhiều sức người (Động tay hơn hay làm). Thời xưa, đất rộng thêm người thì thêm việc, tăng thu nhập, chưa phải lo thiếu ăn nên mới có triết lí Trời sinh voi, sinh cỏ; mặt khác, với cuộc sống định cư, việc sinh đẻ hầu như không ảnh hưởng đến sinh hoạt của cộng đồng.
Người ta cũng dần dần nhân ra rằng hai hình thái sinh sản này có cùng một bản chất: Đất được đồng nhất với mẹ, còn trời được đồng nhất với cha. Việc hợp nhất của hai cặp "mẹ-cha" và "đất- trời" chính là sự khái quát hóa đầu tiên trên con đường dẫn tới triết lí âm dương.
Chính từ quan niệm âm dương với hai cặp đối lập gốc "mẹ cha” và "đất-trời" này, người xưa đã dần dần suy ra vô số những đối lập mà, đến lượt mình, lại trở thành cơ sở để suy ra những đối lập mới (xem hàng 2. 1). Chẳng hạn, từ cặp "lạnh-nóng", có thể suy ra: (a) Về thời tiết thì mùa đông lạnh thuộc âm, mùa hè nóng thuộc dương; (b) Về phương hướng thì phương bắc lạnh thuộc âm, phương nam nóng thuộc dương; (c) Về thời gian thì ban đêm lạnh thuộc âm, ban ngày nóng thuộc dương. Tiếp tục, đêm thì tối nên màu đen thuộc âm, ngày thì nắng đỏ nên màu đỏ thuộc dương.
Bảng 2.1: Sự khái quát bước đầu của nguyên lí âm - dương AM DUONG
ME - CHA
mem (deo) – cung (ran)
tinh cam – li tri / vu luc
cham – nhanh
tinh – đong
huong noi – huong ngoai
on dinh – phat trien
so chan – so le
hinh vuong – hinh tron
………………………...
ME - CHA
thap - cao
lanh - nong
phuong bac – phuong nam
mua dong – mua ha
dem - ngay
………………………….
toi - sang
mau den – mau do
…………………………..
Từ cặp “mẹ-cha” (nữ-nam), có thể suy ra: (a) Vì giống cái có tiềm năng mang thai và sau khi sinh thì con gắn bó với mẹ cho nên về loại số, tuy một mà hai, âm ứng với số chẵn; giống đực thì không có khả năng ấy, cho nên dương ứng với số lẻ (bởi vậy mà thời xưa, người ta đã dùng hai vạch ngắn — — để kí hiệu cho âm và một vạch dài Ĝ để kí hiệu cho dương; cách ký hiệu này sau dược dùng trong Bát quái); (b) Về hình khối thì vì khối vuông ổn định, vững chãi, tĩnh nên hình vuông thuộc về âm; còn khối cầu dự chuyển động nên hình tròn thuộc dương. Thêm vào đó, tỉ lệ giữa cạnh và chu vi hình vuông là 1:4 - số 4 chẵn thuộc âm; còn tỉ lệ giữa đường kính và chu vi hình tròn là 1:3 - số 3 (số л) lẻ thuộc dương (người Việt Nam ưa dùng biểu tượng vuông-tròn này).
Về loại hình văn hóa thì văn hóa gốc nông nghiệp chứa những đặc trưng âm tính là chủ yếu: ở thì muốn yên ổn ở một chỗ, với thiên nhiên thì muốn hòa hợp, với mọi người thì nặng về tình cảm, với môi trường xã hội thì bao dung… Còn văn hóa gốc du mục thì lại chứa những đặc trưng dương tính là chủ yếu: ở thì nay đây mai đó, với thiên nhiên thì muốn chinh phục, với mọi người thì thiên về bạo lực, với môi trường xã hội thì ưa độc tôn... Xét dưới góc đô triết lí
âm dương có thể gọi văn hóa gốc nông nghiệp là loại văn hóa trọng âm; còn văn hóa gốc du mục là loại văn hóa trọng dương
Tuy nhiên, việc xác định bản chất âm/dương của các sự vật, hiện tượng xung quanh không phải lúc nào cũng dễ dàng. Chẳng hạn, cây lúa là âm hay dương? Cái cày là âm hay dương? Đối với mỗi trường hợp trên đều có hai cách trả lời. Chính từ thực tế này, người xưa đã dần dần tìm ra những đặc điểm mang tính quy luật của triết lí âm dương.
1.2. Hai quy luật của triết lí âm dương
Triết lí âm dương cả hai quy luật cơ bản:
1) Quy luật về THÀNH TỐ: Không có gì hoàn toàn âm hoặc hoàn toàn dương, trong âm có dương và trong dương có âm.
Trong cái nắng tiềm ẩn cái mưa (hơi nước bốc lên), trong cái mưa tiềm ẩn cái nắng (mây tan đi), trong lòng đất âm chứa cái nóng dương (ở tâm trái đất nhiệt độ lên tới trên 4 ngàn độ). Trong mỗi người đều tiềm ẩn chất khác giới nên giới tính có thể biến đổi bằng cơ chế thức ăn (xưa) hoặc giải phẫu (nay). Quy luật này cho thấy rằng việc xác định một vật là âm hay dương chỉ là tương đối, trong sự so sánh với một vật khác. Chính vì vậy mà với các cặp đối lập có sẵn (từ trái nghĩa), tức là có vật so sánh tiềm ẩn, thì việc xác định âm dương có thể thực hiện rất dễ dàng, còn với các vật đơn lẻ thì dễ sinh ra lúng túng. Từ đây suy ra hai hệ quả phục vụ cho việc xác định bản chất âm/dương của một đối tượng:
a- Muốn xác định tính chất âm dương của một vật, trước hết phải xác dinh được đối tượng so sánh.
Ví dụ: nam so với nữ thì mạnh mẽ (dương), nhưng so với hùm beo thì lại yếu đuối (âm); màu trắng so với màu đen thì dương, nhưng so với màu đỏ lại là âm... Nhờ sự so sánh này mà ta có thể xác lập được những thang độ âm dương cho từng lĩnh vực; chẳng hạn, về màu sắc ta có: đen trắng xanh vàng đỏ (từ đất đen nhú ra lá trắng, càng hấp thụ ánh nắng lá càng xanh, lâu dần lá chuyển sang vàng, rồi cuối cùng thành đỏ). Tuy nhiên, không phải cứ xác định được đối tượng so sánh rồi là có thể xác định được tính chất âm dương của chúng.
b- Để xác định tính chất âm dương của một vật, sau khi xác định được đối tượng so sánh, còn phải xác định cơ sở so sánh.
Đối với cùng một cặp hai vật, với các cơ sở so sánh khác nhau sẽ cho ta những kết quả khác nhau. Ví dụ: một người nữ so với một người nam xét về giới tính là âm nhưng xét về tính cách có thể lại là dương; nước so với đất, xét về độ cứng là âm, nhưng nếu xét về tính động thì lại là dương...
2) Quy luật về QUAN HỆ: âm và dương luôn gắn bó mật thiết với nhau và chuyển hóa cho nhau: âm cực sinh dương, dương cực sinh âm.
Chẳng hạn, ngày và đêm, mưa và nắng, nóng và lạnh... luôn đổi chỗ cho nhau. Ở xứ nóng (dương) phát triển nghề trồng trọt (âm); ngược lại, ở xứ lạnh (âm) phát triển nghề chăn nuôi (dương). Cây từ đất đen (âm) mọc lên, lá xanh sang vàng rồi hóa đã (dương) và cuối cùng trở lại đen để về với đất. Người càng lành hiền (âm) thì càng hay nóng cục (dương). Từ chất nước (âm) nếu làm lạnh đến cùng chỉ thì hóa thành băng đá (dương)
Biểu tượng âm-dương ở hình 2.1 (hình thành trong Đạo giáo vào đầu Công nguyên) phản ánh đầy đủ hai quy luật về bản chất hòa quyện và quan hệ chuyển hóa của triết lí âm dương.
Hình 2.1: Biểu tượng âm-dương
Trong thực tế ta còn có thể gặp những cặp khái niệm mà ngay cả sau khi đã vận dụng hai quy luật của triết lí âm dương, việc xác định bản chất âm dương của chúng vẫn không dễ dàng gì hơn bởi lẽ chúng còn bị chi phối bởi những quan niêm xã hội. Cặp “trái phải” thuộc loại như thế (xem: Trần Ngọc Thêm - Tìm và bản sắc văn hóa Việt Nam. NXB TP. HCM. 1996, tr 119-121)
1.3. Triết lí âm dương và tính cách người Việt
1.3.1. Như đã nói, triết lí âm dương là sản phẩm trừu tượng hóa từ ý niệm và ước mơ của cư dân nông nghiệp về sự sinh sản của hoa màu và con người. Từ hai cấp đối lập gốc “mẹ-cha” và “đất trời” người xưa dần dần suy ra hàng loạt cặp đối lập như những thuộc tính của âm dương. Lối tư duy đó tạo nên ở người Đông Nam
Á cổ đại một quan niêm lưỡng phân lưỡng hợp (= nhị nguyên) có phần chất phác và thô sơ về thế giới (duallsme cosmologique) mà nhiều nhà nghiên Cứu phương Tây đã từng nói tới (J. Przyluski, G Coedès, E Porée- Maspéro)
Từ tư duy lưỡng phân lưỡng hợp, trên cơ sở các cặp đối lập rõ nét, người Đông Nam Á xưa hơn đã mở rộng dần ra để tìm cách xác lập bản chất âm dương cho những khái niệm, sự vật biệt lập. Quá trình này chắc đã dẫn họ tời chỗ cảm nhận được tính hai mặt của âm dương và quan hệ chuyển hóa lẫn nhau giữa chúng. Có lẽ những ý niệm còn cô phần hồn nhiên và chất phác đó đã là tiền đề
giúp cho tổ tiên người Hán phạm trù hóa và hệ thống hóa chúng thành triết lí âm dương dưới dạng như chúng ta đã biết.
1.3.2. Ở người Việt Nam, TƯ DUY PHÂN LƯỠNG HỢP bộc lộ rất đậm nét qua khuynh hướng CẶP ĐÔI ở khắp nơi: từ tư duy đến cách sống, từ các dấu vết cổ xưa đến những thói quen hiện đại:
a) Trong khi trên thế giới, vật tổ của các dân tộc thường là một loài động vật cụ thể (chim ưng, đại bang, chó sói, bò...) thì vật tổ của người Việt là một cặp đôi trừu tưng Tiên-Rồng. Những khái niệm truyền thuyết mang tính cặp đôi cũng gặp ở người Mường (chim Ây - cái Ứa), người Tày (Báo Luông - Slao Cái), người Thái (nàng Kè - tạo Cặp)... - đó là những dấu vết của tư duy âm dương thời xa xưa.
b) Ở Việt Nam, mọi thứ thường đi đôi từng cặp theo nguyên tắc âm dương hài hòa: ông Đồng - bà Cốt, đồng Cô – đồng Cậu, đồng Đức Ông – đồng Đức Bà... Khi xin âm dương (= xin keo) thì hai đồng tiền phải một ngửa một sấp; ngói âm dương lợp nhà phải viên ngửa viên sấp; khi ghép gỗ thì phải một tấm có gờ lồi ra khớp với tấm kia có rãnh lõm vào... Lối tư duy âm dương khiến người Việt nói đến đất, núi liền nghĩ ngay đến nước, nói đến cha liền nghĩ ngay tới mẹ: Công CHA như núi Thái Sơn, Nghĩa MẸ như nước trong nguồn chảy ra.
c) Tổ quốc đối với người Việt Nam là một khối âm dương: ĐẤT NƯỚC. Đất-Nước, Núi-Nước, Non-Nước, Lửa-Nước là những cặp khái niệm thường trực. Ở Tây Nguyên, phần lớn các địa danh đều bắt đầu bằng chư (= núi, vd: Chư Sê) và krông, dak (= sông, nước, vd: Kroong Pa, Dak B’la). Một thời, ở Tây Nguyên đã từng tồn tại các vương quốc của Vua Lửa (Pơtao Pui) và Vua Nước (Pơtao la).
d) Ngay những khái niệm vay mượn đơn độc, khi vào Việt Nam cũng được nhân đôi thành cặp: ở Trung Hoa, thần mai mối là một ông Tơ Hồng thì vào Việt Nam được biến thành ông Tơ - bà Nguyệt; ở Ấn Độ chỉ có Phật ông thì vào Việt Nam xuất hiện Phật Ông - Phật Bà (người Mường gọi là Bụt đực, Bụt Cái)...
e) Biểu tượng âm-dương dùng phổ biến hiện nay (hình 2.1) mới được đặt ra từ đầu Công nguyên. Trong khi đó thì người Việt vẫn giữ được một biểu tượng âm-dương có truyền thống lâu đời hơn - biểu tượng vuông-tròn. Có vuông có tròn, tức là có âm có dương; nói "vuông tròn" là nói đến sự hoàn thiện. Thành ngữ có câu: Mẹ tròn con vuông, Ba vuông bảy tròn... Ca dao thì có: Ba vuông sánh với bảy tròn, Đời cha vinh hiển, đời con sang giàu...; Lạy trời cho đặng vuông tròn, Trăm năm cho trọn lòng son với chàng! Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du viết: Trăm năm tính cuộc vuông tròn, Phải dò cho đến ngọn nguồn lạch song; Nghĩ mình phận mỏng cánh chuồn, Khuôn xanh biết có vuông tròn mà hay?
Một điều rất lí thú là. gần đây, chúng tôi phát hơn ra rằng ở rìa ngoài mặt trống đồng Yên Bồng (Lạc Thủy, Hòa Bình) và trống Thôn Mống (Nho Quan, Ninh Bình) có các hình biểu tương âm dương vuông-tròn và tròn-vuông lồng vào nhau. Tiền đồng cổ Việt Nam qua các thời đại với lỗ vuông ờ giữa chính là dấu vết truyền thống của biểu tượng âm dương này. Trên cái nền rộng như thế mới hiểu được rằng cách giải thích quan niệm “Trời tròn đất vuông” theo lối dân gian (trời tròn như cái bát úp, đất như cái mâm vuông) chỉ là một cách lí giải ngây thơ: thực ra đó là một cách nói về triết lí âm dương mang tính hình tượng: Sở dĩ trời tròn vì trời là dương, mà biểu tượng của dương là tròn: đất vuông vì đất là âm, mà biểu tượng của âm là vuông.
1.3.3. Người Việt Nam còn nhận thức rõ về HAI QUY LUẬT của triết lí âm dương. Những quan niệm dân gian kiểu: "Trong rủi có may, trong dở có hay, trong họa có phúc"; "Chim sa, cá nhảy chớ mừng, Nhện sa, xà đón xin đừng có lo "... là gì nếu không phải là sự diễn đạt cụ thể của quy luật "trong dương có âm" và "trong âm có dương"? Những nhận thức dân gian về quan hệ nhân quả kiểu: Sướng lắm khổ nhiều; Trèo cao ngã đau; Yêu nhau lắm, cắn nhau đau; Nhất sĩ nhì nông, hết gạo chạy rông, nhất nông nhì sĩ; Con vua thì lại làm vua, Con sãi ở chùa lại quét lá đa, Bao giờ dân nổi can qua, Con vua thất thế lại ra quét chùa... là gì nếu không phải là sự diễn đạt cụ thể của quy luật “âm dương chuyển hóa”?
Chính nhờ có lối tư duy âm dương từ trong máu thịt mà người Việt Nam có được triết lí sống quân bình: Trong cuộc sống gắng không làm mất lòng ai; trong việc ăn ở, gắng giữ sự hài hòa âm dương trong cơ thể và hài hòa với môi trường thiên nhiên... Triết lí quân bình âm dương được vận dụng không chỉ cho người sống mà ngay cả cho người chết: Trong những ngôi mộ cổ ở Lạch Trường (Thanh Hóa) có niên đại vào thế kỉ III trCN được gióng theo hướng nam-bắc, các đồ vật bằng gỗ (dương) được đặt ở phía bắc (âm) và, ngược lại, các vật bằng gốm đất (âm) được đặt ở phía nam (dương). Cách sắp xếp âm dương bù trừ nhau này rõ ràng là để tạo ra sự quân bình. Do triết lí quân bình âm dương, ngay cả hộ pháp ở chùa cũng có ông Thiện ông Ác (Thiện trước Ác sau).
Chính triết lí quân bình âm dương này tạo ra ở người Việt một khả năng thích nghi cao và mọi hoàn cảnh (lối sống linh hoạt), dù khó khăn đến đâu vẫn không chán nản. Người Việt Nam là dân tộc sống bằng tương lai (tinh thần lạc quan): thời trẻ khổ thì tin rằng về già sẽ sướng, suốt đời khổ thì tin rằng đời con mình sẽ sướng
(Không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời...). Một ví dụ điển hình cho tinh thần lạc quan kì lạ đó là bài ca dao miền Trung về mười quả trứng.
1.4. Hai hướng phát triển của triết lí Âm Dương
Cùng xuất phát từ nguyên lí âm dương, người xưa đã theo hai ngả khác nhau để có hai sản phẩm rất khác nhau là Ngũ hành và Bát quái.
1.4.1. Một hướng gọi âm dương là Lưỡng nghi và, bằng phép phân đôi thuần túy, đã sản sinh ra những mô hình vũ trụ chặt chẽ với số lượng thành tố chẵn: 2 sinh 4 (Tứ tượng), 4 sinh 8 (Bát quái). Kinh dịch trình bày nguyên lí hình thành vũ trụ dưới dạng: Thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái, bát quái biến hoá vô cùng. Trong chuỗi này không có chỗ đứng cho ngũ hành. Điều này cho thấy quan niệm phổ biến xưa nay cho rằng âm dương - ngũ hành - bát quái đều là những sản phẩm của cùng một dân tộc là sai lầm biết chừng nào!
Quan sát thống kê cho thấy người phương Bắc dường như rất thích dùng những cách nói khái quát với những con số chẵn 4, 6, 8: Tử bàng (4 bên hàng xóm); tứ đức (4 đức của phụ nữ theo Nho giáo): tứ hải (4 biển); tứ mã (xe 4 ngựa), tứ phối (4 người được thờ chung với Khổng Tử); tứ thanh (4 thanh trong tiếng Hán), tứ trụ (4 vị đại thần): lục bộ (6 bộ trong triều đình): lục cực (6 điều khổ). Lục nghệ (6 môn học lễ-nhạc-xa-ngự-thư số), lục súc (6 loài vật nuôi: ngựa, bò, bê, gà, chó, lợn); lục tặc (6 thứ giặc), lục thư (6 cách đặt chữ Hán), lục vị (6 vị thuốc quý); bát âm (âm thanh của 8 loại nhạc cụ), bát bửu (8 vật quý); bát hiền (8 người tài Trung Quốc); bát tiên (8 vị tiên); bát trân (8 món ăn ngon); bát vị (bài thuốc 8 vị)…
1.4.2. Hướng thứ hai tạo nên những mô hình vũ trụ bí ẩn với số lượng thành tố lẻ: 2 sinh 3 (Tam tài), 3 sinh 5 (Ngũ hành).
Tư duy số lẻ dường như là nét đặc thù của người nông nghiệp phương Nam. Dân gian Việt Nam rất thích dùng những cách nói với các con số lẻ: 3 mặt 1 lời, 3 xôi nhồi 1 chỗ, 3 thưng cũng vào 1 đấu, Mua danh 3 vạn, bán danh 3 đồng, 3 bè 7 mối, 3 hồn 7 vía, 3 dãy 7 tòa, 3 lo 7 triệu, 3 vành 7 vẻ, 3 vợ 7 nàng hầu; 3 vuông 7 tròn, 3 chìm 7 nổi 9 lênh đênh, 3 hồn 9 vía, 3 bò 9 trâu, Túm 5 tụm 3, 5 cha 3 mẹ, 5 bè 7 mời, 5 lần 7 lượt, 5 lừa 7 lọc, 5 thê 7 thiếp, 5 liệu 7 lo,… Các số 18 (18 chim bay khắc trên nhiều trống đồng: 18 đời Hùng vương, 18 ụ hỏa công ở thành Cổ Loa, 18 thôn Vườn Trầu ờ Hóc Môn), 27 (đại tang 3 năm thực ra chỉ có 27 tháng): 36 (36 con chim cả bay và đứng trên mặt trống Ngọc Lũ: 36 phố phường Hà Nội; 36 chước, chước chuồn là hơn; 36 cái nõ nường…), v.v., thực chất đều là những bội số của các con số 3 và 9 (9 x 2, 9 x 3, 9 x 4)
Người Việt thích số lẻ, nhưng đồng thời cũng sợ số lẻ (tâm lí con người cái gì càng thích thì càng sợ), nên rất kiêng các số 3, 5, 7 và các số có tổng bằng 5 (1+4 và 2+3): Chớ đi ngày 7 chớ về ngày 3, Mồng năm, mười bốn, hai ba. Đi chơi cũng lỗ nữa là đi buôn; Mồng năm, mười bốn, hai ba, Lây vợ thì tránh, làm nhà thi kiêng; Mồng năm, mười bốn, hai ba, Trồng cây cây đổ, làm nhà nhà xiêu…
Hỗn Mang
Thái Cực
Âm Dương
Lưỡng Nghi
Tam Tài
Tứ Tượng
Ngũ Hành
Bát Quái
Bảng 2.2: Sự phát triển của triết lí âm dương
Hai hướng phát triển của triết lí âm dứng được trình bày ở bang 2.2. Dưới đây tập trung nói về tam tài và ngũ hành là những mô hình được sử dụng phổ biến hơn trong truyện thống văn hóa phương Nam.
Bài 2: CẤU TRÚC KHÔNG GIAN CỦA VŨ TRỤ MÔ HÌNH TAM TÀI – NGŨ HÀNH
2.1. Tam tài
Tam tài là một khái niệm bộ ba, "ba phép" (tài = phép, phương pháp): Thiên-Địa-Nhân. Song, có lẽ đây là một tên gọi xuất hiện về sau dùng để gọi sự vận dụng cụ thể một quan niệm triết lí cổ xưa về cấu trúc không gian của vũ trụ dưới dạng một mô hình ba yếu tố.
Con đường đi từ âm dương đến, tam tài có lẽ đã diễn ra như sau: với lối tư duy tổng hợp và biện chứng quen thuộc, người xưa sớm nhận ra rằng các cặp âm dương tưởng chừng riêng rẽ như trời-đất, trời-người, đất-người thực ra có mối liên hệ rất chặt chẽ với nhau, tạo nên một loại mô hình hệ thống gồm ba thành tố (hình 2.3). Trong tam tài “Trời-Đất-Người" này, Trời dương, Đất âm, còn Người ở giữa (âm so với Trời, nhưng dương so với Đất).
Hình 2.3: Nguyên lí hình thành tam tài
+
Nguoi
-
Nguoi
Dat
-
Dat
-
Troi
+
Troi
+
Trời – Đất – Người chỉ là một bộ ba điển hình đại diện cho hàng loạt những bộ ba khác: trời-đất-nước (tín ngưỡng Tam phủ), cha-mẹ-con, con người - không gian - thời gian, Sơn Tinh – Thủy Tinh – Mị Nương; bộ ba vợ-chồng-em chết đi biến thành bộ ba trầu cau-vôi, bộ ba vợ - chồng cũ – chồng mới chết đi biến thành bộ ba ông đầu rau ứng với bộ ba thần đất - thần bếp - thần chợ búa…
Trên trống đồng, Trơi-Đất-Người được thể hiện bâng bộ ba Chim Hươu-Người khắc trên ba vành từ ngoài vào trong. Trên những chiếc rìu Đông Sơn có các hình trang trí thể hiện con đường chuyến tiếp từ tư duy âm dương (cặp cá sấu - Rồng đang giao nhau) sang tư duy con số 3 - tam tài (một gia đình hươu, một gia đình người - 2 bố mẹ 1 con).
2.2. Những đặc trưng khái quát của Ngũ hành
Trong cuộc sống, người nông nghiệp tiếp xúc với đất trồng trọt, cây nuôi sống con người, nước tưới cây, lửa đuổi tro nuôi đất, sắt đá cho ta công cụ lao động nhưng làm cây cối cằn cỗi không mọc được... Từ những vật chất cụ thể và thiết thực ban đầu, ý nghĩa của chúng được phức tạp hóa dần thành các ý niệm trừu tượng, đa nghĩa kết hợp trong hai bộ tam tài "Thuỷ-Hỏa-Thổ" và "Mộc-Kim Thổ", trong đó có Thổ là yếu tố chung. Kết hợp chúng lại ta được một Bộ Năm với số mối quan hệ đa dạng và phong phú hơn hẳn,
trong đó “Thuỷ-Hỏa” là một cặp âm dương đối lập nhau rất rõ rệt, “Mộc-kim” là cặp thứ hai, “Thổ” ở giữa điều hòa (xem hình 2.5).
Hình 2.5: Nguyên lí hình thành Bộ Năm từ 2 bộ Tam tài Tho
Kim
Moc
Hoa
Thuy
Tho
Kim
Moc
Tho
Hoa
Thuy
+
=>
Do có mức độ trừu tượng hóa cao, Ngũ hành không phải là “5 yếu tố”, mà là 5 loại vận động (hành = sự vận động); Thủy, Hỏa... không chỉ và không nhất thiết là "nước", "lửa" mà còn là rất nhiều thứ khác. Đó là những khái niệm với nội hàm riêng biệt, những khái niệm không thể dịch được.
2.3. Hà Đồ - cơ sở của Ngũ hành
2.3.1. Hà Đồ (hình 2.6, trái) là một hệ thống gồm những nhóm châm đen hoặc trắng được sắp xếp theo những cách thức nhất định. Tên gọi “Hà Đồ” là theo truyền thuyết do người Trung Hoa đời
Hán đặt ra, theo đó thì khi vua Phục Hà đi chơi ở sông, thấy có con Long Mã (= con vật tưởng tượng mình ngựa đầu rồng) nổi lên, trên lưng có bức (bức vẽ): Phục Hi theo đó mà làm ra Hà Đồ.
Những nhóm chấm-vạch ấy chính là những kí hiệu biểu thị 10 số tự nhiên từ 1 đến 10 ở thời kì chưa có chữ viết, nhưng đã xuất hiện triết lí âm dương, bởi lẽ các chấm trắng chính là các số dương (số lẻ) và các chấm đen biểu thị các số âm (số chẵn). Bức đồ này có thể chuyển sang dạng các cột số hiện đại như ở hình 2.6 (phải).
N
7
2
8
3
1
4
9
1
6
Đ
B
Hình 2.6: (phải) - Giải mã Hà Đồ
2.3.2. Đây là sản phẩm mang tính triết lí sâu sắc của lối tư duy tổng hợp. Trước hết, đó là sự tổng hợp giữa số học và hình học (người làm nông phải vừa tính đếm, vừa đo đạc ruộng đất): 10 con số được chia thành 5 nhóm, mỗi nhóm có một số âm (chẵn) và một dương (lẻ), gắn với một phương: bắc-nam-đông-tây và trung ương (nơi con người đứng - không có trung ương thì không thể nào xác định bắc-nam-đông-tây được).
Thứ hai, đây là sự tổng hợp cuộc đời các con số với cuộc sống (của con người: Các số nhỏ (từ 1-5) gọi là số sinh, nằm ở vòng trong; các số lớn (từ 6-10) gọi là số thành, nằm ở vòng ngoài (ngay cả ở trung ương, số 5 cũng nằm trong số 10), cũng như con người, khi mới sinh ra còn quanh quẩn trong nhà, trưởng thành lên mới đi ra ngoài xã hội.
Hà Đồ thực sự là một thứ triết lí uyên thâm về các con số: Mỗi nhóm số có một chẵn một lẻ (một âm một dương); một nhỏ một lớn (một sinh một thành). Người nông nghiệp chú trọng nhiều đến các quan hệ, cho nên đặc biệt quan tâm đến chỗ giữa - con số 5 ở chỗ giữa của chính giữa, trung tâm của trung tâm, được gọi là số “tham thiên lưỡng địa” (3 trời 2 đất = 3 dương 2 âm).
Tại sao 5 được tổ họp từ 3+2 chữ không phải tử 4+1? Không có sách nào giải thích về vấn đề này, song căn cứ vào triết lí âm dương thì có thể thấy rằng trong vũ trụ, 2-3 chính là tỉ lệ âm dương hợp " hơn cả: Nó không quá chênh lệch tới mức mất cân đối như 1- 4 (dương bị âm lấn át), cũng không cân bằng tuyệt đối (đồng nghĩa với chết), mà là dương vừa vặn nhỉnh hơn âm một tí. Dương có lớn hơn âm thì vũ trụ mới phát triển, nhưng lớn hơn ở mức vừa phải thì vũ trụ mới phát triển một cách hài hòa, vững chắc.
Chính là căn cứ vào triết lí tham thiên lưỡng địa này mà vào năm 1957, hai nhà khoa học người Mĩ gốc Trung Quốc là Dương Chấn Ninh (Đại học Princeton) và Lí Chính Đạo (Đại học Columbia) đã được nhận giải thưởng Nobel về vật lí nhờ tìm ra rằng hạt nguyên tử khi nổ làm bắn ra những tia dương và âm có độ dài theo tỉ lệ 3-2 thước đó phổ biến luật song tiến: khi bị phóng xạ, các li tử âm dương được phóng ra song song); nếu có một nguyên tử khác
chặn đầu chúng thì từ tia dương lóe ra 3 tia nhỏ, còn từ đa âm chỉ lóe ra 2 tia thôi (Báo Time ngày 28-1-1957)
Vai trò của số 5 đối với nên văn hóa nông nghiệp Nam-Á lớn đến mức người Việt Nam ta có tục kính nể con số 5, kiêng con số 5 và kiêng luôn cả các cấp số cấu thành nên nó (xem ở trên): Mồng năm mười bốn, hai ba đi chơi cũng lỗ nữa là đi buôn!
2.4. Ngũ Hành theo Hà Đồ
Trong sự tồn tại và phát triển của mình, Hà Đồ đã trở thành cơ sở cho việc tạo nên Ngũ Hành. Mỗi phương - mỗi nhóm số Hà Đồ tiếp nhận một hành tương ứng theo thứ tự như sau (x. bảng 2.3):
STT
SỐ HÀ ĐỒ
PHƯƠNG
HÀNH
1
-
Phương bắc
hành Thuỷ
2
-
Phương nam
hành Hoả
3
-
Phương đông
hành Mộc
4
-
Phương tây
hành Kim
5
-
Trung ương
hành Thổ
Bảng 2.3: Tương ứng “Số Hà Đồ - Phương – Hành”
Ngũ hành xây dựng như thể chính là một mô hình 5 yêu tố về cấu trúc không gian của vũ trụ. Sự sắp xếp các hành theo phương cho thấy rõ nguồn gốc nông nghiệp của Ngũ hành: Đối với người nông nghiệp không gì quan trọng hơn đất, cho nên hành Thổ được
đặt vào trung ương, cai quản bốn phương (vị trí của số tham thiên lưỡng địa).
Sau đất thì đến nước. Đối với người làm nông nghiệp, không gì quan trọng hơn đất và nước; cho nên sau đất, nước trở thành quan trọng số một (Nhất nước, nhì phân...): Hành Thủy ứng với số 1 của Hà Đồ, là khởi đầu (nguyên thuỷ, thủy chung); Thủy là âm, cho nên phải ở phương bắc; còn hành Hỏa là dương, tất sẽ ở phương nam. Còn lại cặp Mộc-Kim thì hành Mộc (dương) bởi cây cối là sự sống, xanh tốt vào buổi sáng, mùa xuân - ứng với phương đông dương tính; còn hành Kim (âm, bởi kim loại tĩnh) ứng với phương tây âm tính.
Như vậy các hành được sắp xếp theo thứ tự của Hà Đồ - đó là thứ tự Thủy - Hỏa - Mộc - Kim - Thổ. Thứ tự quen dùng "Kim- Mộc Thuỷ-Hỏa-Thổ" là thứ tự đã bị sau này làm cho sai lạc.
Giữa các hành có quan hệ tương sinh (hành này hỗ trợ, giúp đỡ cho hành kia): quan hệ này xác định giữa từng cặp hai hành một theo trật tự thuận chiều kim đồng hồ của Ngũ hành theo Hà Đồ (hình 2.7):
Tho
Kim
Moc
Tho
Thuy
9
1
6
3
8
10
5
2
7
4
Hình 2.7: Ngũ hành tương sinh theo Hà Đồ
* Thủy sinh Mộc (ví dụ: nước giúp cho cây tươi tốt);
* Mộc sinh Hỏa (ví dụ: gỗ làm nhiên liệu cho lửa cháy); * Hỏa sinh Thổ (ví dụ: lửa đốt tro bụi làm cho đất màu mỡ); * Thổ sinh Kim (ví dụ: trong lòng đất sinh ra kim loại);
* Kim sinh Thủy (ví dụ: kim loại lương sinh theo Hà Đồ nóng chảy trở về thể lỏng).
Ngũ hành tương sinh thực chất là sự chi tiết hóa của quan hệ âm dương chuyển hóa (Thuỷ là cực âm và Hỏa là cực dương).
Giữa các hành còn có quan hệ tương khắc (hành này hạn chế, gây trở ngại cho hành kia) theo các cặp sau:
* Thủy khắc Hỏa (ví dụ: nước dập tắt lửa);
* Hỏa khắc Kim (ví dụ: lửa nung chảy kim loại);
* Kim khắc Mộc (ví dụ: dao chặt cây);
* Mộc khắc Thổ (ví dụ: cây hút chất màu của đất);
* Thổ khắc Thủy (ví dụ: đất đắp đê ngăn nước).
Quan hệ tương khắc giữa các hành Hạ thổ được xác định theo hướng ngược chiều kim đồng hồ trên Lạc Thư - bước phát triển tiếp theo của Hà Đồ (Lạc Thư gồm các số từ 1 đến 9 xếp thành hình vuông sao cho các số dương và âm cân bằng nhau, kết quả là bất kì 3 số nào trên một đường thẳng đều cho một tổng bất biến bằng 15).
Cả hai loại quan hệ tương sinh và tương khắc có thể được ghép lại, trình bày trong một hình ngôi sao lấy Ngũ hành theo Hà Đồ làm gốc và kéo hành Thổ từ trung tâm ra biên (hình 2.8): Các mũi tên theo vòng tròn thuận chiều kim đồng hồ biểu thị quan hệ Ngũ hành tương sinh, còn các mũi tên vẽ theo hình ngôi sao một nét bên trong biểu thị quan hệ Ngũ hành tương khắc.
Hình 2.8: Ngũ hành tương sinh tương khắc
Hoa
Kim
Thuy
Tho
Moc
Với tư cách một mô hình bộ 5 về cấu trúc không gian của vũ trụ, Ngũ hành có các ưu điểm: a) Có số lượng thành tố vừa phải (không nhiều quá, không ít quá); b) Có số lượng thành tố lẻ (bao quát được trung tâm); c) Có số lượng mối quan hệ tối đa. Về mặt toán học, người ta đã chứng minh rằng hệ thống 5 trung tâm chính là hệ thống tự điều chỉnh ưu việt nhất. Không phải ngẫu nhiên mà cơ thể con người là một hệ thống Ngũ hành (xem II- §4), bàn tay bàn chân con người cũng đều là những hệ thống Ngũ hành. Bàn tay người 5 ngón chính là sản phẩm cuối cùng của cả một quá trình tiến hóa từ động vật bậc thấp (cá với vây là 1 mái chèo), qua các loài trung gian (loài móng guốc; chim gà,...) mà đi lên.
2.5. Ứng dụng của Ngũ hành
2.5.1. Ngũ hành có ứng dụng rất rộng. Sở dĩ như vậy là vì, như đã nói, các hành trong Ngũ hành là những khái niệm vừa cụ thể vừa trừu tượng, chúng rất đa nghĩa (xem bảng 2.4).
Trong các ý nghĩa này thì về mặt văn hóa, đáng chú ý là hệ thống các màu biểu và vật biểu theo Ngũ hành. Về màu biểu thì hai màu đen, đỏ mang tính đối lập âm/dương rõ rệt nhất nên ứng với hai hành Thủy-Hỏa (hai phương bắc-nam). Hai màu xanh- trắng cũng đối lập âm/dương nhưng kém rõ rệt hơn, ứng với hai hành Mộc-Kim. Màu vàng ứng với hành Thổ ở trung ương.
STT
Lĩnh vực
THUỶ
HOẢ
MỘC
KIM
THỔ
1
Số Hà Đồ
1
2
3
4
5
2
Hành
được sinh
Mộc
Thổ
Hỏa
Thủy
Kim
3
Hành bị khắc
Hỏa
Kim
Thổ
Mộc
Thủy
4
Vật chất
nước
lửa
cây
kim
loại
đất
5
Phương
hướng
bắc
nam
đông
tây
trung ương
6
Thời tiết (mùa)
Đông
Hạ
Xuân
Thu
khoảng giữa các mùa
7
Mùi vị
mặn
đắng
chua
cay
ngọt
8
Thế đất
ngoằn
ngoèo
nhọn
dài
tròn
vuông
9
Màu biểu
đen
đỏ
xanh
trắng
vàng
10
Vật biểu
Rùa
Chim
Rồng
Hổ
Người
Bảng 2.4: Một số ứng dụng của Ngũ hành
Mang tính ước lệ hơn cả là bộ vật biểu. Đáng chú ý là trong số vật biểu cho 5 phương thì đã có 3 là những động vật tiêu biểu của vùng phương Nam sông nước - đó là Chim, Rồng và Rùa; thành ngữ Việt Nam có câu: Nhất điểu, nhì xà, tam ngư, tứ tượng.
Vật biểu cho phương chính nam là Chim. Đây là loài vật luôn quy tụ về phương nam ấm nắng. Không phải ngẫu nhiên mà người Lạc Việt tự xưng là dòng dõi họ Hồng Bàng (Hồng Bàng = một loài sếu lớn), và trên các trống đồng là cả một thế giới các loài chim, con người cũng dùng lông chim để hóa trang.
Vật biểu cho phương đông là Rồng. Đây là con vật do người Bách Việt tưởng tượng ra trên cơ sở nguyên mẫu là cá sấu và rắn (xem III-§1.2.2). Tính cách trọng tình cảm, hiếu hòa của người nông nghiệp đã biến con cá sấu nguyên mẫu ác độc thành con rồng tưởng tượng cao quý, hiền lành. Rồng còn là con vật mang đủ tính tổng hợp và linh hoạt của văn hóa nông nghiệp với các đối lập nước/lửa, nước/trời (sinh ra từ nước rồi bay lên trời và phun lửa), linh hoạt tới mức không cần có cánh mà vẫn có thể bay lên trời được.
Vật biểu cho phương tây là Hổ - con vật đại diện rất phù hợp cho văn hóa gốc du mục trọng động, trọng sức mạnh.
Vật biểu cho phương bắc là Rùa. Phương bắc xét trong hệ thống cũng thuộc vùng văn hóa gốc du mục trọng động, song lại là phương của hành Thủy: nước là cái có tầm quan trọng số một (sau đất) đối với nghề nông lúa nước, mà con rùa thì gắn liền với nước.
Vật biểu cho trung ương là Người. Con người đứng ở trung tâm cai quản muôn loài, cai quản bốn phương.
Vật biểu của hành/phương nào thì mang theo màu biểu của hành/phương ấy. Cho nên, khi xã hội có vua, mà vua thì cai quản con người, con người cai quản muôn loài, thành ra Vua mới giành lấy màu vàng (màu của hành Thổ, của Trung ương, của Con Người) làm của riêng cho mình. Vua mặc áo màu vàng là vì thế!
2.5.2. Trong truyền thống văn hóa dân gian, ta có thể gặp rất nhiều ứng dụng của Ngũ hành. Chẳng hạn, người Việt Nam trị tà ma bằng bùa Ngũ sắt (= Ngũ hành), bằng bức tranh dân gian Ngũ Hổ vẽ 5 con hổ ở 5 phương với 5 màu theo Ngũ hành (xem hình ở bìa 4) với ý nghĩa: Hổ tượng trưng cho sức mạnh, trấn trị ở khắp 5 phương, tà ma không còn lối thoát! Ở các lễ hội sử dụng những lá cờ hình vuông may hằng vải 5 màu theo Ngũ hành. Không gian vũ trụ đối với người Việt Nam không phải 4 phương mà là 5 phương theo Ngũ hành: Ngũ phương chi thần (thần 5 phương trời), Ngũ đạo chi thần (thần 5 ngả đường); không phải 8 hướng mà là 9 hướng (biến thể của 5 hướng): Lạy 9 phương lời, lạy 10 phương đất. Cũng không phải ngẫu nhiên mà 6 ngọn núi ở Non Nước (Quảng Nam được quy về 5 để gọi là Ngũ Hành Sơn. Ở lăng Trần Thủ Độ (Thái Bình) có đặt tượng hổ đá phía tây, rồng phía đông, phượng (chim) phía nam, rùa phía bắc, mộ Trần Thủ Độ ở giữa, theo đúng quy định vật biểu trong Ngũ hành.
Một điều rất đáng chú ý là trong các ứng dụng dân gian của Ngũ hành, ngoài trung ương là vị trí đặc biệt ra thì phương nam và đông (phương của văn hóa gốc nông nghiệp) thường được coi trọng hơn bắc và tây (phương của văn hóa gốc du mục): Chẳng hạn, trong truyền thuyết Năm Tào – Bắc Đẩu, trong khi thần Nam Tào giữ sổ sinh (coi sự sống) ở phương nam, bên trái Ngọc Hoàng, thì than
Bắc Đẩu giữ sổ tử (coi sự chết) lại ở phương bắc, bên phải Ngọc Hoàng.
Trong khi màu đỏ (phương nam) thường được xem là màu của niềm vui và mọi sự tốt lành (đám cưới, ngày tết, việc vui mừng đấu dùng màu đỏ): màu xanh (phương đông) được xem là màu của sự sống, thì màu trắng (phương tây) là màu của chết chóc (tang ma xưa dùng màu trắng), màu đen (phương bắc) là màu tang thứ hai (đám tang vua Lê Thánh Tông 1497 quy định cho các quan trong 100 ngày mặc đồ trắng, ngoài 100 ngày mặc đồ đen đến chầu). Ở các làng quê, nghĩa địa thường đặt ở phía tây. Ở nhiều vùng dân tộc, ngay cả rừng phía tây cũng được xem là nơi ở của ma quỷ. Người Chàm coi phía bắc là nơi của người chết (nghĩa địa), phía nam của người sống, phía tây của ma quỷ, phía đông của thánh thần. Trong thuật Phong thủy, việc tìm đất gọi là tầm Long (phương đông); công cụ tìm đất là cái tróc long; đất tốt có Tả Thanh Long, hữu Bạch Hổ thi tay Long (phương đông) phải dài hơn tay Hổ!
2.5.3. Như đã nói, một hướng khác đi theo con đường phân đôi cặp Lưỡng nghi “Âm-Dương" thành Tứ tượng (từ 2 mùa nóng lạnh thu được 4 mùa Xuân-Hạ-Thu-Đông; từ 2 phương chính nam bắc-đông-tây). Rồi từ tứ tượng phân đôi tiếp mà thành Bát quái. Bát quái có 8 quẻ (Càn, Đoài, Li, Chân, Tốn, Khảm, Cấn, Khôn); mỗi quẻ biểu thị bằng 3 vạch liền (= lẻ, dương) và/hoặc đứt (= chẵn, âm). Bát quái Tiên thiên (có trước), biểu tượng cho 8 hiện tượng tự nhiên: Trời-Đầm-Lửa-Sấm-Gió-Nước-Núi-Đất. Bát quái Hậu thiên (có sau), biểu tượng cho cha mẹ và 6 con trong một gia đình.
Để trừ tà ma, trong khi dân gian phương Nam sử dụng Ngũ hành (bùa ngũ sắc, tranh Ngũ hổ), thì người phương Bắc dùng Bát quái làm bùa. Ở Việt Nam, ứng dụng của Bát quái xuất hiện cùng
những ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa, nó thường chỉ giới hạn trong những người chịu ảnh hưởng của Nho học cùng một số tầng lớp thị dân.
Bài 3: TRIẾT LÍ VỀ CẤU TRÚC THỜI GIAN CỦA VŨ TRỤ
LỊCH ÂM DƯƠNG VÀ HỆ CAN CHI
3.1. Lịch và lịch âm dương
Nghề nông rất cần biết về thời tiết, khí hậu, vòng quay bốn mùa, cho nên trên thế giới này, mọi nền lịch pháp đều là sản phẩm của các vùng văn hóa nông nghiệp. Có ba loại lịch cơ bản: lịch thuần dương, lịch thuần âm, và lịch âm dương.
Lịch (thuần) dương phát sinh từ vùng văn hóa Ai Cập (lưu vực sông Nil vào khoảng 3000 năm trCN, dựa trên chu kì chuyển động biểu kiến của mặt trời, mỗi chu kì (gọi là một năm) có 365,25 ngày. Lịch (thuần) âm phát sinh từ vùng văn hóa Lưỡng Hà, dựa trên sự tuần hoàn của mặt trăng: mỗi chu kì trăng (gọi là một tháng) dài 29,5 ngày; một năm âm lịch có 354 ngày, tức là ít hơn năm dương lịch 11 ngày. Khoảng 3 năm thì lịch thuần âm sẽ nhanh hơn lịch thuần dương 1 tháng và khoảng 36 năm thì nó sẽ nhanh hơn 1 năm (cho nên đầu năm của lịch thuần âm chạy khắp các mùa trong năm của lịch thuần dương).
Vào khoảng thế kỉ thứ 7 trCN, lịch âm Lưỡng Hà đã được người Etruscan từ vùng Tiểu Á đưa đến Ý và truyền cho người La Mã. Đến năm 47 trên, hoàng đế Jullus Caesar mới thay nó bằng lịch dương Ai Cập mà ông đã dày công tìm hiểu trong thời gian quân đội La Mã do ông chỉ huy chiếm đóng vùng này. Cho đến nay hệ lịch
dương này, mặc dù còn rất nhiều nhược điểm, từ châu Âu đã được phổ biến ra hầu khắp thế giới. Lịch thuần âm cho đến nay chỉ còn được dùng hạn chế ở một số quốc gia Hồi giáo.
Lịch của Á Đông mà ta thường gọi là “lịch âm”, thực chất là một thứ lịch âm dương. Là sản phẩm của lối tư duy tổng hợp, nó đã kết hợp được cả chu kì mặt trăng lẫn mặt trời. Một cách đơn giản, việc xây dựng lịch này gồm 3 giai đoạn:
a) Định các ngày trong tháng theo mặt trăng bằng cách xác định trước hết là hai ngày sóc-vọng (sóc = bắt đầu, ngày đầu tháng; vọng = ngửa mặt nhìn lên, ngày giữa tháng trăng tròn - do tầm quan trọng của hai mốc thời gian này trong tháng cho nên đến nay, dân gian ta vẫn đều đặn hằng tháng cúng hai tuần sóc-vọng). Căn cứ vào thời điểm xuất hiện của trăng, hình dáng của trăng, dân gian đã tích lũy được kinh nghiệm xem trăng mà xác định chính xác từng ngày.
b) Định các tháng trong năm theo mặt trời bằng cách xác định các ngày tiết (tiết = thời tiết) mà trước hết là hai tiết đông chí và hạ chí (ngày lạnh nhất và ngày nóng nhất, chí = tột cùng); rồi thêm xuân Phân và thu Phân (ngày giữa xuân và giữa thu), ta được tứ thời. Rồi thêm 4 ngày khởi đầu cho 4 mùa (lập xuân, lập hạ, lập thu, lập đông), tổng cộng là đã được 8 mốc gọi là bát tiết. Rồi cứ tiếp tục như thế mà phân nhỏ ra nữa, kết cục là xác định được tất cả 24 tiết, mỗi tháng có 2 ngày tiết. Do tầm quan trọng của các mốc thời gian đó trong năm cho nên nhân dân ta định kì cúng bái vào các dịp này, rồi dần dần kết hợp với lịch lao động (cúng vào những dịp công việc rảnh rỗi), tạo thành những ngày Tết (Tết là biến âm của từ tiết, xem IV-§2.3).
c) Do mỗi năm theo mặt trời dài hơn 12 tháng theo mặt trăng là 11 ngày nên cứ sau gần 3 năm lại phải điều chỉnh cho hai chu kì này phù hợp với nhau bằng cách đặt tháng nhuận (nói chính xác ra là cứ 19 năm thì có 7 năm nhuận.
Do chỗ nghĩ rằng lịch này là lịch âm (không phân biệt được lịch âm với lịch âm dương), nên trước đây có những người từng phê phán lịch này là: (a) phản ánh chu kì hoạt động của mặt trăng là một hành tinh chết (mặt trăng không tự phát sáng mà chỉ phản xa lại ánh sáng mặt trời); (b) không chính xác do có tháng nhuận. Sự phê phán này là thiên cơ sở vì:
Thứ nhất, lịch này không phải là lịch thuần âm,mà là lịch âm dương. Về phần mặt trăng thi tuy nó đúng là chỉ phản xạ lại ánh sáng của mặt trời, nhưng bù vào đó nó lại là hành tinh gọn trái đất nhất và, do vậy, sức hút của nó đã gây nên hiện tượng thủy triều và ánh hưởng rất nhiều đến cuộc sống của loài người và sinh vật trên trái đất (chu kì kinh nguyệt cửa phụ nữ, chu kì tâm lí của con người, chu ki sinh trưởng của các loài côn trùng, hoạt động của núi lửa...)
Thứ hai, lịch nào cũng phải sử dụng khái niệm “nhuận”, khác nhau là ờ mức độ: lịch thuần dương 4 năm nhuận 1 ngày, lịch thuần âm 2 tháng nhuận 1 ngày, lịch âm dương gần 3 năm nhuận 1 tháng. Tuy nhuận nhiều nhưng, bù vào đó, lịch này lại tổng hợp được quy luật của cả mặt trăng lẫn mặt trời. Và đáng chú ý là, thứ nhất, lịch này phản ánh khá chính xác sự biến động của thời tiết (Mồng tám tháng tám không mưa, bỏ cả cày bừa mà nhổ lúa đi..); thứ hai,năm nhuận thường có thời tiết thất thường (hạn hán, bão, lụt…) và, thứ ba, theo một chu kì nhất định, tháng nhuận của các năm khác nhau rơi vào những thời điểm khác nhau, nó thực chất là một tháng được kéo dài ra.
Tháng nhuận phản ánh sự phối hợp tự nhiên giữa hai luồng ảnh hưởng của mặt trời rà mặt trăng cùng đồng thời tác động lên trái đất, tạo nên sự biến động thời tiết có tính chu kì của vũ trụ. Thiên văn học hiện đại đã xác định được rằng cứ sau gần 3 năm âm lịch thì Trái Đất lại phải chuyển động tiếp trên quỹ đạo một khoảng thời gian bằng một tháng âm lịch thì mới về được điểm giao hội. Còn theo cách định lịch âm dương như trên thì cứ sau gần 3 năm sẽ có một tháng chỉ có 1 ngày tiết, tháng đó sẽ phải kéo dài ra để có đủ 2 ngày tiết - đó chính là tháng nhuận, là khoảng thời gian mà Trái Đất phải chuyển động tiếp trên quỹ đạo để trở về điểm giao hội.
Những nghiên cứu gần đây cho thấy rằng "đây là một thứ lịch rất khoa học, bởi tính âm lịch của nó phản ánh rất tết nhiều hiện tượng liên quan đến mặt trăng như thủy triều, khí triều, sự sinh trưởng của sinh vật trong tháng" (Lê Thành Lân, 1991). GS. Hoàng Xuân Hãn (1982) kêu gọi: "Các nước Á Đông nên cùng nhau dự định chung sự cải cách để bảo tồn một hệ lịch rất khoa học, rất hợp thời, hợp người, bắt nguồn từ nền văn minh Á Đông, và đang làm tiêu biểu cho nền văn hóa ấy". Không chỉ gần đây mà ngay từ 1930, nhà thiên văn học người Pháp L. De Saussure đã mệnh danh hệ lịch này là "một nền lịch pháp thâm sâu nhất và đã là một danh dự cho trí khôn con người", nhiều lần ông gọi nó là tài tình (oeuvre géniale, chef d’oeuvre).
Nghiên cứu của L. De Saussure cho thấy lịch âm dương có một cơ sở thiên văn học chặt chẽ. Lấy chuôi sao Bắc Đẩu làm mốc, người xưa bằng mắt thường nhận thấy có mặt trời, mặt trăng và 5 ngôi sao tượng trưng cho Ngũ hành (Thủy, Hỏa, Mộc, Kim, Thổ) là những tinh cầu không những hàng ngày cùng vòm trời xoay một vòng quanh sao Bắc Đẩu, mà còn di chuyển chậm trên vòm trời. Do
vậy mà, theo số lượng, chúng được gọi là thất tinh, còn theo đặc tính thì chúng được gọi là các hành tinh.
Từ sao Bắc Đẩu kéo dọc xuống, sẽ xác định được một hệ thống 28 ngôi sao cố định trên vòm trời, hàng ngày cùng vòm trời xoay quanh sao Bắc Đẩu. Do vậy mà, theo số lượng, chúng được gọi là Nhị thập bát tú, còn theo đặc tính thì được gọi là những định tinh Chung chia thành 4 chòm; mỗi chòm trong đó có 7 sao, ứng với một mùa, một phương, và được đặt tên theo vật biểu và màu biểu tương ứng của Ngũ hành: chòm Huyền Vũ (rùa đen) xuất hiện ở phương bắc vào mùa Đông; chòm Chu Tước (chim sẻ đỏ) xuất hiện ở phương nam vào mùa Hạ; chòm Thanh Long (rồng xanh) xuất hiện ở phương đông vào mùa Xuân; chòm Bạch Hổ (hố trắng) xuất hiện ở phương tây vào mùa Thu. Mỗi mùa 3 tháng thì tháng đầu ứng với 2 sao, tháng giữa ứng với 3 sao, tháng cuối ứng với 2 sao. Mỗi sao trong chòm lại ứng với 1 trong 7 hành tinh và 1 ngày trong tuần lễ. Căn cứ vào việc chuôi sao Bắc Đẩu ứng với chòm nào, sao nào của Nhị thập bát tú, người ta có thể xác định được các mùa và các ngày tiết trong năm, các tháng trong mùa, các tuần trong tháng và các ngày trong tuần. Nhị thập bát tú đã trở thành biểu tượng của văn hóa (so sánh Hội Tao Đàn của vua Lê Thánh Tông); nhiều sao trong đó đã đi vào thơ ca, truyền thuyết, điển cố văn học (ví dụ: Ngưu, Đầu, Tâm, Khuê, Sang...).
Giá trị của lịch âm dương còn ở hệ đếm can chi độc đáo có một không hai của nó.
3.2. Hệ đếm can chi
Để định thứ tự và gọi tên các đơn vị thời gian, người xưa dùng một hệ đếm gọi là can chi, gồm hai hệ nhỏ là hệ can và hệ chi.