"
Cô Gái Trong Chiếc Thùng Gỗ PDF EPUB
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Cô Gái Trong Chiếc Thùng Gỗ PDF EPUB
Ebooks
Nhóm Zalo
LISA GARDNER Phạm Hoa Phượng dịch —★—
• FIND HER •
(Detective D.D. Warren, #8)
ĐINH TỊ & NXB LAO ĐỘNG ebook♥vctvegroup | 16-02-2021
CHƯƠNG 1
Đây là những điều tôi đã không biết:
Khi thức giấc lần đầu tiên trong một chiếc thùng gỗ tối tăm, bạn sẽ tự nhủ, điều này không thể xảy ra. Bạn sẽ đẩy nắp thùng, tất nhiên là như vậy. Không được. Bạn đấm mạnh các cạnh bằng nắm tay mình, đạp gót chân xuống phần đáy. Bạn sẽ đập đầu mình liên tục vào thành thùng, lần nữa rồi lần nữa, mặc dù từng cú đập đều khiến bạn đau nhói. Và bạn sẽ hét lên. Bạn gào lên, bạn la hét, và tiếp tục như vậy. Dòng nước sền sệt từ mũi bạn chảy ra. Nước mắt cũng không ngừng tuôn rơi trên má. Tiếng gào trở nên khản đặc, giật cục. Rồi bạn nghe thấy những âm thanh lạ lùng, buồn bã, thê lương. Và bạn hình dung ra được cái thùng gỗ. Này, mình đang bị nhốt trong một cái thùng gỗ tối tăm. Bạn nhận ra những âm thanh đó xuất phát từ chính mình.
Những cái thùng gỗ thông dạng này không có bề mặt trơn nhẵn toàn bộ. Những lỗ thông khí được khoan một cách sơ sài. Khi miết tay chạy tròn theo cạnh của chúng, khi chọc ngón tay vào kiếm tìm một cái gì đó trong tuyệt vọng… bạn sẽ chỉ thấy được những mẩu
vụn gỗ mà thôi. Bạn sẽ nhai những mảnh gỗ cứng. Bạn sẽ mút những ngón tay trầy xước của mình, liếm những chỗ máu ứa ra, miệng phát ra những âm thanh ư ử như chó con bị đau.
Bạn chỉ có một mình trong chiếc thùng. Thật đáng sợ. Kinh hãi. Khủng khiếp. Phần lớn là bởi bạn chưa biết mình sẽ còn phải sợ hãi đến mức nào nữa.
Dần dần, bạn biết rõ chiếc thùng hơn, nơi đã trở thành nhà bạn, xa thật xa ngôi nhà thân quen của mình. Bạn lắc lư đôi vai để xác định bề rộng. Bạn đo chiều dài bằng đôi tay. Bạn nâng chân mình lên. Không đủ chỗ để co đầu gối. Không đủ chỗ để lăn người qua. Chiếc thùng chính xác bằng kích cỡ của bạn. Như thể nó được làm cho riêng bạn. Một cỗ quan tài gỗ thông của riêng bạn, đang làm căng cứng phần thắt lưng, bầm giập hai vai, đau nhói phía sau đầu bạn.
Tiện nghi duy nhất: giấy báo lót dưới đáy thùng. Thoạt đầu bạn không để ý đến chi tiết này. Khi nhận ra sự tồn tại của chúng, bạn không hiểu chúng để làm gì. Cho đến khi bạn đi tiểu lần đầu tiên. Rồi ngày qua ngày, nằm trên đống bẩn thỉu của mình. Như một con vật, bạn sẽ thầm nghĩ như vậy. Ngoại trừ phần lớn các con vật đều được đối xử tử tế hơn thế.
Miệng bạn sẽ trở nên khô khốc, đôi môi nứt nẻ. Bạn sẽ bắt đầu miết ngón tay vào những lỗ thông khí sẽ cào mạnh da mình, chỉ để có chút gì đó cho vào miệng, để nuốt, để mút. Bạn sẽ biết được bản thân mình ở một khía cạnh bạn chưa từng biết đến trước đó. Suy sụp. Mãnh liệt. Mùi khai nồng của nước tiểu. Vị mặn của máu.
Nhưng bạn vẫn chưa biết gì cả.
Khi nghe tiếng bước chân bạn sẽ không tin được. Mình hoang tưởng thôi, bạn tự nhủ. Mình mơ thôi. Bạn chỉ là một mớ rác thảm hại trong tấm da người. Một con bé ngốc nghếch lẽ ra đã biết nhiều hơn và giờ nhìn lại mình xem. Thế nhưng, âm thanh của chiếc khóa kim loại vang lên ở bên ngoài thành thùng, chỉ cách tai bạn một chút…
Có thể bạn lại khóc. Và lại khóc, nếu vẫn còn chút nước sót lại trong người.
Khi bạn nhìn thấy khuôn mặt hắn, người đã làm điều này với bạn, bạn cảm thấy nhẹ nhõm. Thậm chí vui mừng. Bạn nhìn chăm chăm vào đôi má béo phị của hắn, đôi mắt tròn, cái miệng đang mở ra, để lộ hàm răng ố vàng, và bạn nghĩ tạ ơn Chúa. Tạ ơn Chúa, tạ ơn Chúa, tạ ơn Chúa.
Hắn để cho bạn ra khỏi thùng. Hắn nhấc bạn lên, thực tế là như vậy, bởi đôi chân bạn không thể đứng được nữa, các bắp cơ của bạn mất tất cả sức mạnh vốn có của nó, và đầu bạn ngắc ngoẻo. Ngắc ngoẻo. Từ này khiến bạn buồn cười. Một trong những từ bạn chưa bao giờ hiểu được ý nghĩa. Nhưng giờ thì bạn đã rõ. Ngắc ngoẻo. Đầu bạn ngắc ngoẻo.
Chúa ơi, mùi gì thật kinh khiếp. Mùi tỏi, mùi cơ thể, mùi quần áo chưa giặt và mùi tóc bẩn thỉu. Thứ mùi đó là từ người bạn sao? Hay từ hắn? Bạn nôn ọe, không cưỡng lại được. Và điều đó khiến hắn cười thành tiếng. Khi hắn cầm chai nước lên. Khi hắn nói chính xác điều bạn phải làm để có được chai nước ấy. Hắn trông ục ịch. Già nua. Gớm guốc. Kinh tởm. Bộ râu rối bù, mái tóc bết dính, mấy vệt tương cà lốm đốm trước ngực chiếc sơ mi ca rô rẻ tiền.
Bạn quá cao sang so với hắn. Trẻ trung, tươi tắn, xinh đẹp. Kiểu những cô gái được xếp vào hạng top trong buổi tiệc trường. Bạn có tất cả. Hay từng có tất cả?
Bạn khóc khi nghĩ đến mẹ. Bạn van nài hắn thả bạn, khi bạn nằm phủ phục dưới chân hắn. Và rồi cuối cùng, sau rốt, với chút sức lực còn sót lại, bạn cởi bỏ bộ đồ đang mặc trên người. Bạn để hắn làm cái điều mà hắn muốn. Bạn hét lên, nhưng cổ họng bạn khô khốc không thể cất thành lời. Bạn nôn ọe, nhưng bụng bạn trống rỗng không còn chút gì trong đó.
Bạn sống sót.
Và sau đó, khi hắn ta cuối cùng cũng đưa cho bạn chai nước đó, bằng cách đổ thẳng lên đầu bạn. Bạn không chút hổ thẹn nâng tay mình lên hứng càng nhiều càng tốt dòng chất lỏng quý giá ấy. Bạn liếm lòng bàn tay mình. Bạn mút những lọn tóc bết dính, bẩn thỉu của mình. Và đợi lúc hắn không để ý, bạn liếm đốm tương cà từ chiếc sơ mi cởi ra của hắn.
Trở về lại cái thùng. Cái thùng. Cái thùng.
Nắp thùng đóng lại. Khóa bấm lại. Gã đàn ông kinh tởm ấy đi khỏi. Để lại bạn một lần nữa, chỉ một mình. Trần truồng. Bầm tím. Rớm máu. Biết những điều bạn không bao giờ muốn biết. “Mẹ ơi!” Bạn thì thầm.
Nhưng con quái vật ấy là có thật. Không ai có thể làm bất cứ điều gì để cứu bạn nữa.
Đây là điều tôi biết:
Không có gì nhiều để làm ngày qua ngày trong cái thùng gỗ có kích cỡ như một cỗ quan tài ấy. Trên thực tế chỉ có duy nhất một điều đáng để ám ảnh, tưởng tượng, trù tính trong từng phút kinh hoàng, từng giờ hãi hùng. Một lý do duy nhất khiến bạn tiếp tục. Một ý nghĩ duy nhất đem lại cho bạn sức mạnh. Bạn sẽ tìm thấy nó. Bạn sẽ hun đúc nó. Và nếu bạn giống tôi, bạn sẽ không bao giờ để nó biến mất.
Trả thù.
Nhưng hãy cẩn thận với điều ước của bạn, đặc biệt khi bạn chỉ là một con bé ngốc nghếch bị giam cầm trong cái thùng gỗ có kích cỡ như chiếc quan tài.
CHƯƠNG 2
Cô bắt đầu với ly martini lựu. Cái giá quá đắt, tất nhiên là thế rồi. Những quán bar ở Boston lúc nào cũng đắt đỏ. Nước lựu cũng là món thời thượng. Nhưng hôm đó là tối thứ Sáu. Thêm một tuần nữa sống sót, và thề có Chúa, cô xứng đáng với ít nhất là một ly cocktail trái cây loại đắt nhất.
Ngoài ra, cô có chút ít niềm tin vào bản thân. Cởi thêm một nút nữa của chiếc áo sơ mi trắng vừa vặn, hất vài lọn tóc lòa xòa từ mái tóc vàng ngang vai. Cô hai mươi bảy, thon thả, với cặp mông thuộc dạng gây chú ý. Cô có thể mua cho mình ly đầu tiên. Nhưng cơ may là cô sẽ không phải mua ly thứ hai.
Cô nhấp một ngụm. Mát. Ngọt. Tê buốt. Làm nóng một chút trên lưỡi mình, rồi cô để dòng vodka chảy thẳng qua cuống họng. Đáng từng đồng xu của cái giá mười bốn đô.
Trong một khoảnh khắc, cô nhắm mắt lại. Căn phòng biến mất. Sàn nhà nhớp nháp, giàn đèn nhấp nháy, tiếng hát rít cao của ban nhạc mở màn, tất cả vẫn còn đang khởi động.
Cô đứng trong khoảng trống thinh lặng. Ở một nơi của riêng cô.
Khi cô mở mắt ra, hắn đã ở đó.
Hắn mua cho cô ly rượu thứ hai. Rồi ly thứ ba, thậm chí còn đề nghị ly thứ tư. Nhưng lúc đó, rượu vodka và ánh đèn sàn nhảy đã bắt đầu trộn lẫn theo cách sẽ không mấy dễ chịu vào buổi sáng hôm sau. Hơn nữa, cô không phải là đứa ngốc. Suốt thời gian anh chàng Tôi Đã Thấy Em Ở Đây Bao Giờ Chưa tiếp tế martini cho cô, hắn chỉ uống mỗi bia.
Hắn cũng khá dễ coi, cô kết luận như thế ở đâu đó gần cuối ly martini thứ hai. Cũng khá cơ bắp, rõ ràng là người có luyện tập. Nhưng gu ăn mặc không mấy nổi bật với quần tây màu nâu và áo sơ mi sọc xanh dương. Một gã công sở trẻ, cô đoán, nhưng cô để ý thấy gấu quần tây của hắn đã sờn, áo sơ mi bạc màu vì đã trải qua quá nhiều lần giặt. Khi cô hỏi hắn làm nghề gì, hắn cố tỏ ra quyến rũ. Ồ, chút này, chút kia - hắn nói, kèm theo cái nháy mắt và nụ cười tươi. Nhưng đôi mắt hắn vẫn phẳng lặng, thậm chí xa xăm, và lần đầu tiên cô cảm thấy có chút không thoải mái.
Hắn trấn tĩnh nhanh chóng. Gọi thêm một ly martini thứ ba. Hắn không đeo đồng hồ, cô để ý thấy điều đó, khi hắn cố thu hút tay pha chế bằng tờ hai mươi đô, nhưng thất bại, bởi những vị khách khác giơ cao những tờ một trăm. Cũng không nhẫn cưới. Không ràng buộc. Thân hình cơ bắp. Có thể đây là đêm cô tìm kiếm.
Cô mỉm cười, nhưng không có vẻ tươi vui. Điều gì đó lướt qua nét mặt cô, lại cái trống rỗng ấy, cái nhận thức ấy, rằng bằng ấy giờ đồng hồ, bằng ấy ngày, bằng ấy tuần đã trôi qua, cô vẫn cảm thấy lẻ loi một mình. Sẽ luôn cảm thấy lẻ loi một mình. Ngay cả trong một căn phòng đầy ắp người.
Nếu hắn không quay lại thì thật tốt.
Cuối cùng, hắn cũng tóm được tay pha chế - sơ mi trắng, cà vạt đen, dạng người khiến người khác phải tip lớn - và lấy được cho cô phần nước ngon lành.
Lúc đó, cô đã sẵn sàng cho ly martini thứ tư. Tại sao lại không chứ? Nó giúp cô có thể nói về chút ít điều này, chút ít điều kia của mình với cái nháy mắt và nụ cười phù hợp với tia sáng le lói trong đôi mắt. Và khi ánh mắt hắn không dứt tia nhìn về phía trước chiếc áo sơ mi, nơi chiếc nút đã được cởi ra vài phút trước, cô không tránh đi. Cô để hắn chăm chăm ngắm nghía lớp ren trên chiếc áo ngực màu hồng đậm của cô. Cô để hắn ngắm nhìn một cách thèm thuồng bộ ngực của cô.
Tại sao lại không chứ? Tối thứ Sáu. Tối cuối tuần. Cô đã kiếm được điều này.
Hắn muốn rời khỏi quán bar lúc nửa đêm. Cô bắt hắn đợi đến khi quán đóng cửa. Ban nhạc chơi hay một cách đáng ngạc nhiên. Cô thích cảm giác mà âm nhạc đã mang đến cho cô, như thể máu cô vẫn cuộn chảy, trái tim cô vẫn đập trong lồng ngực. Hắn rõ ràng không thoải mái chút nào trên sàn nhảy, nhưng điều đó có hề gì, cô nhảy đủ giỏi cho cả hai.
Phần thân áo sơ mi trắng vừa vặn giờ được cột dưới ngực cô, kiểu Daisy Duke. Chiếc quần jean đen lưng trễ ôm sát từng đường cong. Đôi boot cao bằng da đập mạnh theo từng nhịp trống. Sau một hồi, hắn không bận tâm tới việc nhảy nhót nữa, chỉ đứng lắc lư theo
nhạc và ngắm nhìn cô. Đôi tay cô đưa cao khỏi đầu, nâng bộ ngực nẩy lên. Hông cô xoay tròn, vùng bụng trần lấp lánh ánh mồ hôi. Hắn có cặp mắt nâu - cô để ý. Tối. Phẳng lặng. Cảnh giác. Phường trộm cướp, cô nghĩ. Nhưng lần này, thay vì hoảng sợ, cô lại cảm thấy một luồng adrenaline tươi mới. Tay pha chế nước cũng đang nhìn cô chằm chằm. Cô di chuyển xung quanh sàn nhảy cho cả hai người chiêm ngưỡng. Chấp nhận ly martini thứ tư, miệng cô giờ ngọt và tím ngắt, trong khi tay chân nhũn ra như nước. Cô có thể nhảy cả đêm. Làm chủ sàn nhảy này, làm chủ quầy bar này, làm chủ cả thành phố này.
Nhưng đó không phải là điều mà gã Tôi Đã Thấy Em Ở Đây Bao Giờ Chưa mong muốn. Chẳng gã đàn ông nào mua cho một cô gái ba ly rượu đắt tiền chỉ đổi lấy đặc quyền nhìn cô ấy nhảy.
Ban nhạc ngừng chơi, bắt đầu thu dọn nhạc cụ của mình. Cô cảm thấy hụt hẫng kinh khủng. Như thể một nỗi đau nhói lên trong tâm hồn. Không còn những giai điệu làm nhún nhảy đôi chân cô, giúp che giấu nỗi đau bên trong cô. Giờ chỉ còn lại cô, gã Tôi Đã Thấy Em Ở Đây Bao Giờ Chưa và viễn cảnh không thể tránh khỏi của một cơn nôn nao, quay cuồng.
Hắn đề nghị cả hai cùng ra ngoài hít thở ít khí trời. Cô muốn bật cười. Muốn bảo rằng hắn chẳng biết cái quái gì cả.
Nhưng thay vào đó, cô bước theo hắn vào con ngõ hẹp phủ đầy tàn thuốc. Hắn hỏi cô có muốn hút thuốc không. Cô từ chối. Thế rồi, hắn đè mạnh cô vào bên hông chiếc thùng rác sơn xanh, tay trái ghì chặt bầu ngực cô, lòng bàn tay chà xát núm vú.
Đôi mắt hắn không còn phẳng lặng nữa. Chúng bừng lên. Như mãnh thú đã khóa chặt con mồi.
“Nhà em hay nhà tôi?” Hắn yêu cầu.
Cô không thể nhịn được nữa. Cô bắt đầu cười sặc sụa. Và đó là khi buổi tối thực sự trở nên tồi tệ hơn.
Gã Tôi Đã Thấy Em Ở Đây Bao Giờ Chưa không quan tâm tới việc bị cười. Hắn ra tay nhanh chóng. Bàn tay phải tát vào một bên má cô. Đầu cô đập mạnh vào thùng rác kim loại. Cô nghe tiếng va chạm. Cô cảm thấy đau. Nhưng nhờ bốn ly martini, tất cả đều như xa xăm, như thể điều tồi tệ này xảy ra với một ai khác, không phải cô.
“Trêu chọc sao?” Hắn hét lên với cô, tay vẫn nhào nặn bộ ngực, khuôn mặt quát thét chỉ cách mặt cô vài phân.
Ở khoảng cách này, cô ngửi được mùi bia trong hơi thở hắn, thấy được vùng tĩnh mạch màu đỏ xung quanh mũi hắn. Một gã nghiện. Lẽ ra cô đã nhận ra điều này sớm hơn. Dạng đàn ông tranh thủ uống trước khi đến quầy bar bởi như vậy sẽ tốn ít tiền hơn. Có nghĩa hắn đến đó không phải để uống, mà để câu cá. Để tìm một cô gái như cô và đưa về nhà.
Nói cách khác, hắn hoàn hảo với cô.
Cô nên nói gì đó. Hoặc giẫm gót giày vào mu bàn chân hắn. Hoặc chộp lấy tay hắn - không phải toàn bộ bàn tay, chỉ một ngón - và bẻ ngược ra sau cho tới khi nó chạm vào cổ tay.
Hắn sẽ la lên. Sẽ để cô đi.
Hắn sẽ nhìn vào mắt cô và nhận ra sai lầm của mình. Bởi những thành phố lớn như Boston đầy rẫy những gã như hắn. Nhưng cũng đầy ắp những cô gái như cô.
Cô không bao giờ có được cơ hội đó.
Hắn la hét. Cô mỉm cười. Thậm chí còn có thể là cười sằng sặc. Với cái đầu ong ong và vị máu mằn mặn trên lưỡi. Thế rồi gã Tôi Đã Thấy Em Ở Đây Bao Giờ Chưa không còn hiện hữu nữa.
Hắn mới ở đó. Rồi biến mất. Thay vào đó là tay pha chế cao lớn với bộ ngực cơ bắp đáng kinh ngạc và vẻ quan tâm trên khuôn mặt. “Cô ổn chứ?” Hắn hỏi. “Gã đó làm cô đau không? Cô cần giúp chứ? Cô muốn gọi cảnh sát không?”
Hắn chìa tay ra cho cô. Cô nắm lấy, bước chân qua người gã Tôi Đã Thấy Em Ở Đây Bao Giờ Chưa vừa mới bị hạ gục, nằm há hốc mồm trên mặt đất.
“Hắn không được đụng chạm cô như vậy.” Tay pha chế điềm đạm nói. Hắn dẫn cô đi khỏi những người tò mò đang tụ tập xung quanh. Tiến sâu hơn vào bóng tối bên ngoài chu vi ánh đèn nhấp nháy của quán bar.
“Ổn rồi. Tôi sẽ chăm sóc cô từ bây giờ.”
Lần đầu tiên, cô nhận ra hắn bấu chặt cánh tay cô hơn mức cần thiết. Không để cô rời đi.
Cô cố lên tiếng. Ngay cả khi bạn biết nhiều điều hơn thế, thì đó cũng là cách tự nhiên để bắt đầu. Này, anh chàng to lớn, anh vội gì thế? Ta không thể đi chậm lại à? Này, anh đang làm tôi đau đấy.
Nhưng tất nhiên hắn không thay đổi nhịp bước, không nới lỏng nắm tay chặt cứng đang khóa chặt đến mức bầm tím phía trên khuỷu tay cô.
Hắn bước đi một cách lạ lùng, giữ cô rúc vào bên cạnh mình, như cặp tình nhân đang nhanh chân sải bước dạo bộ, nhưng đầu hắn cúi xuống và nghiêng sang một bên. Để giữ khuôn mặt mình trong bóng tối, cô nhận ra như vậy. Để không ai có thể trông thấy hắn.
Thế rồi, cô đột nhiên nhận ra. Dáng vóc hắn, cách hắn di chuyển. Cô đã nhìn thấy trước đây. Không phải khuôn mặt hắn, không phải những nét đặc trưng trên mặt, nhưng là chỗ xương lồi trên đôi vai, là phần cong của chiếc cổ. Ba hay bốn tháng trước, vào mùa hè, trên bản tin tối, khi một sinh viên Đại học Boston đi uống nước và rồi không bao giờ trở về nhà lần nữa. Các đài địa phương đã liên tục phát sóng một đoạn băng hình trích từ một camera an ninh gần đó, ghi lại khoảnh khắc cuối cùng được biết đến của cô gái, khi cô bị đưa đi bởi một gã đàn ông bí ẩn, đầu quay ngược hướng với tầm nhìn.
“Không.” Cô thở ra.
Hắn không nhận ra sự chống đối của cô. Họ đến một ngã tư. Không do dự, hắn lôi mạnh cô về phía bên trái, xuống một con đường tối hơn, nhỏ hơn nồng nặc mùi nước tiểu, rác thải và những thứ tối tăm không bao giờ được nhắc đến lần nữa.
Cô ghì chặt đôi gót chân của mình, nhanh chóng trở nên tỉnh táo hơn, cố hết sức kháng cự. Nhưng với năm mươi kilôgam cân nặng so với gần chín mươi kilôgam của hắn, sự cố gắng của cô không mang lại điều gì khác biệt. Hắn kẹp chặt cô hơn nữa, cánh tay phải vòng quanh hông cô, và vẫn tiếp tục bước.
“Ngừng lại!” Cô cố la lên.
Nhưng không âm thanh nào thoát ra khỏi miệng cô. Mọi âm thanh nghẽn lại trong cuống họng. Cô không thở nổi, phổi quá co thắt để có thể thét lên. Thay vào đó là tiếng rên rỉ yếu ớt, âm thanh cô ngượng ngùng khi thừa nhận là của chính mình, nhưng từ kinh nghiệm đã qua thì đúng là như vậy.
“Tôi có gia đình.” Cuối cùng cô hổn hển.
Hắn ta không đáp lại. Một ngã tư khác, lần rẽ khác. Trượt giữa những tòa nhà gạch cao tầng, xa khỏi tầm nhìn công cộng. Cô rõ ràng không biết họ đang ở đâu.
“Làm ơn… dừng lại…” Cô cố nặn ra từng chữ. Cánh tay hắn ghì quá chặt quanh hông cô, làm bầm tím những thanh xương sườn. Cô muốn nôn. Cô khấp khởi vui mừng vì nó sắp xảy ra, bởi điều đó có thể khiến hắn kinh tởm mà thả cô ra.
Không may mắn như vậy. Cô đột ngột thở dốc, thứ chất lỏng màu tím bắn ra từ miệng cô, phun đầy chân cô và một bên quần hắn. Hắn nhăn nhó, giật mạnh ra theo phản xạ, rồi nhanh chóng trấn tĩnh và kéo mạnh cô một lần nữa về phía trước, lôi cô đi bằng khuỷu tay.
“Tôi sẽ còn nôn nữa.” Cô rên rỉ, hai chân quấn vào nhau, cuối cùng cũng làm chậm tốc độ của hắn.
“Uống quá nhiều.” Giọng hắn đầy vẻ khinh miệt.
“Anh không hiểu. Anh không biết tôi là ai.”
Hắn dừng lại đủ lâu để chỉnh lại cái nắm chặt trên cánh tay cô. “Không nên đến quán bar một mình.”
“Nhưng tôi luôn một mình.”
Hắn không hiểu điều đó. Hoặc có thể hắn không quan tâm. Hắn nhìn chằm chằm vào cô, cái nhìn bàng quan, khuôn mặt không cảm xúc. Rồi, cánh tay hắn phóng về trước, thụi cô một quả vào mắt.
Cổ cô nảy ngược lại. Má cô nổ tung. Đôi mắt cô ngập tràn nước mắt.
Cô có một suy nghĩ. Thoáng qua. Mờ nhạt. Nhưng rồi nó tan biến. Và cũng như gã Tôi Đã Thấy Em Ở Đây Bao Giờ Chưa, cô không còn hiện hữu nữa.
Tối thứ Sáu. Kết thúc một tuần dài. Cô kiếm được điều này.
Hắn di chuyển cô. Đi bộ, hay bằng xe hơi, cô không hay biết. Nhưng khi lấy lại được ý thức, cô đã không còn đi trên những con phố tồi tàn ở Boston nữa, mà chui rúc vào một nơi nào đó tối tăm và nhớp nháp. Mặt sàn dưới đôi chân trần của cô lạnh cóng. Bê tông. Nứt nẻ và không bằng phẳng. Một tầng hầm, cô nghĩ, hoặc có thể là một gara để xe.
Cô có thể thấy lờ mờ. Vừa đủ ánh sáng từ ba ô cửa sổ nhỏ nằm cao trên một bức tường. Không phải ánh mặt trời ban ngày mà là làn sương mù màu vàng mờ ảo. Như thể có một cây đèn đường bên ngoài những cửa sổ đó, tỏa một quầng sáng ra xung quanh.
Cô dùng nguồn sáng ấy để xác định nhiều thứ cùng một lúc: Đôi tay cô bị cột về phía trước bằng dây nhựa; cô bị lột trần; và lúc đó, ít nhất thì cô được ở một mình.
Nhịp tim cô gấp gáp. Đầu cô ong ong, làn da sởn hết cả gai ốc. Nhưng sớm thôi, cô sẽ nhớ tình trạng tương đối an toàn này. Gã đàn
ông đã đánh cô đến bất tỉnh, đã cởi từng tấc quần áo trên người cô, hắn không phải là dạng người chịu để yên cho cô được lâu. Thậm chí ngay lúc này, hắn có thể đang chuẩn bị cho những hoạt động vui vẻ tối nay. Ngân nga một giai điệu nào đó. Dự tính những trò chơi hắn sẽ làm với món đồ chơi mới. Có cảm giác như thể hắn là tên khốn tồi tệ nhất, xấu xa nhất trong thành phố.
Cô cười mỉm. Mặc dù một lần nữa, đó không phải là một biểu hiện hạnh phúc trên khuôn mặt cô.
Trước hết, kiểm kê. Tầng hầm hoặc nhà để xe chắc chắn là nơi lưu trữ, và như câu nói, thùng rác của người này là kho báu của người kia.
Hắn đã ngu ngốc không trói cả mắt cá chân cô. Không nhiều kinh nghiệm như hắn nghĩ. Không đủ thông minh như hắn mong. Nhưng rồi, người ta trông thấy điều họ muốn thấy. Cô bị dẫn dụ bởi cơ bắp của hắn. Còn hắn, không nghi ngờ gì, cũng đánh giá cô như một cô tóc vàng dễ dãi. Hóa ra, cả hai đều gặp đôi chút bất ngờ tối nay.
Cô tìm thấy một chiếc bàn làm việc nặng nề. Nâng cổ tay bị trói của mình lên, cô lướt ngón tay dọc theo bề mặt gỗ. Cô nhận ra một thanh kim loại dày gắn vào một góc bàn. Di chuyển nhanh hơn để tìm kiếm thứ gì đó mà cô hy vọng có thể sử dụng như một công cụ. Nhưng không, hắn không ngu ngốc đến thế, và cô cũng không may mắn như vậy.
Không vật sắc nhọn, kìm, búa nào bị bỏ quên. Tiếp theo, cô tìm kiếm khắp căn phòng, suýt vấp phải một thùng kim loại. Cô vội vàng vươn người ra chộp lấy nó trước khi nó đổ nhào. Không nên cảnh báo hắn về tình trạng tỉnh táo của cô sớm hơn cần thiết. Chiếc nắp
thùng vẫn chắc chắn, thần kinh cô thì run rẩy, nhưng cô bắt mình phải tiếp tục.
Cái thùng kim loại chứa một bọc rác đầy. Cô đặt nó sang một bên, rồi tiếp tục với hai bức tường còn lại. Cô xác định được cả một bộ sưu tập các can xăng rỗng và hai bình nhựa khác. Ngửi mùi, cô biết phần còn lại trong một bình cỡ một gallon* là nước rửa kính chắn gió xe hơi, bình kia là nước làm mát động cơ. Vậy là cô đang ở trong một gara xe. Ở Boston, khả năng đây là căn nhà riêng biệt không chung vách với bất kỳ nhà nào khác, cho phép gã pha chế có một không gian kín đáo.
Gallon là một trong những đơn vị được dùng để đo lường cả chất khô và chất lỏng ở Anh và Mỹ. 1 gallon = 3,785 lít.
Cô không bận tâm đến điều gì có thể xảy ra tiếp theo, tại sao một gã đàn ông như hắn ta lại yêu cầu sự riêng tư như vậy? Vì lẽ đó, cô không để mình bị cuốn vào mặt sàn nhớp dính phía góc sau. Hay thứ mùi gần như không thể bỏ qua được. Mùi tương tự vị máu trên lưỡi cô.
Cô cầm bình nước làm mát lên, mang nó đến cái bàn gỗ trơ trọi. Sai lầm đầu tiên của hắn. Chiến thắng đầu tiên của cô. Cô tìm thấy một cái xẻng đang đặt dựa vào tường. Với sức sống mới mẻ vừa hồi phục, cô đưa sợi dây nhựa đang cột đôi tay mình đặt ngang lưỡi xẻng, liên tục cọ xát thật mạnh. Sau một hay hai phút, cô thở nặng nề, mồ hôi nhỏ vào làm cay sè đôi mắt sưng phồng. Nhưng kiểm tra sợi dây nhựa… Không suy suyển. Lưỡi xẻng quá cùn, hoặc sợi dây nhựa quá bền. Cô cố thêm một lúc, nhưng rồi buộc mình phải từ bỏ.
Sợi dây nhựa quá cứng. Thật lòng, cô thích còng tay kim loại hơn. Nhưng ít nhất hắn ta cũng đã lịch sự trói tay cô ra phía trước, nơi cô vẫn sử dụng được chúng một cách đáng kể trong khi không kéo căng sợi dây nhựa chặt đến mức khiến cô mất cả cảm giác ở những đầu ngón tay.
Cô có thể di chuyển đôi chân mình; cô có thể vận động đôi tay mình.
Cô có thể nâng thân mình lên một cách hoàn hảo, đứng im và cảm nhận sự trống trải, ngay tại đó. Tối đen. Khuây khỏa. Thinh lặng. Cô nghĩ bản thân đang ở một mình trong căn phòng đông đúc, và trong một khoảnh khắc, cơ thể cô đung đưa, lắng nghe điệu nhạc mà chỉ một mình cô có thể nghe thấy.
Rồi cô nghiêm túc trở lại. Rác. Đã đến lúc.
Cô dùng ngón tay xé rách bọc nhựa mỏng. Điều đầu tiên ập vào cô là mùi hôi thối. Thức ăn ôi thiu, thịt thối rữa, thứ gì đó còn tệ hơn. Cô mím miệng, cảm thấy nước mắt trào ra trên khóe mắt, cố nén cơn cáu giận. Đây không phải lúc để khó chịu, khi cô chọc những ngón tay mình vào đống rác rưởi rỉ nước mà cô có thể cảm nhận nhưng không nhìn thấy. Khăn giấy. Những đống nhớp nháp mà chỉ có Chúa mới biết là gì. Hộp đồ ăn rỗng. Thức ăn mua từ tiệm mang về nhà, từ trong nhà, hay thức ăn hắn mang đến đây để nhấm nháp lúc nghỉ ngơi giữa những trò giải trí của mình.
Đến lưng chừng bịch rác, cô chạm đến phần rác mới, đậm mùi hữu cơ hơn trước. Mười ngón tay cô lục lọi nhanh hơn. Những cánh
hoa khô, những thân cây mềm rũ. Một bó hoa. Bên cạnh thức ăn, hắn còn tặng quà cho món đồ chơi của mình ư?
Nhiều khả năng, cô nghĩ, mẹo cuối cùng hắn dùng để dụ dỗ nạn nhân không cảnh giác của mình. Thế rồi, ở khoảnh khắc tiếp theo, một suy nghĩ ập đến: bó hoa rẻ tiền ấy đâu…
Cả hai tay di chuyển nhanh hơn. Lặn ngụp giữa đống rác. Bới sâu hơn đống thức ăn Trung Hoa đã bốc mùi và nước xốt vịt nhớp nháp. Bỏ qua bên cạnh những ly cà phê rỗng và càng lúc càng nhiều hơn những xác hoa rữa. Nhựa, cô đang tìm cảm giác của một gói nhựa mỏng. Nhỏ, vuông, với cạnh sắc…
Ầm.
Âm thanh phát ra ngay phía sau cô. Tiếng động của một bàn tay, một bàn chân, đập vào cửa sắt của gara. Cô không thể trấn tĩnh. Cô cứng người lại. Trần truồng. Run rẩy. Hai tay ngập sâu trong đống rác. Và lắng nghe một lần nữa thông báo về sự xuất hiện của hắn.
Bởi hắn muốn cô biết hắn đang đến. Hắn muốn cô run rẩy, kinh hoàng, cuộn người lại, sợ hãi trước những điều tồi tệ nhất. Hắn chính là dạng người ấy.
Cô mỉm cười.
Và lần này, đó là biểu hiện hạnh phúc trên khuôn mặt cô. Bởi lúc này, trong tay phải mình, cô đã có nó: một gói mỏng thuốc dưỡng hoa, được hào phóng đính kèm mọi bó hoa và chính xác là thứ cô tìm kiếm.
Cô đã không nói dối hắn. Hắn không biết cô. Sai lầm đầu tiên, và giờ đây cũng là cuối cùng, của hắn.
Phía sau cô, cánh cửa gara bắt đầu rung lên. Hắn ta kéo dài sự hồi hộp khi từ từ kéo cửa.
Không còn thời gian chờ đợi thêm nữa. Không còn thời gian lên kế hoạch. Cô nắm chặt gói bột trong lòng bàn tay, rồi chộp lấy cái bình gần như trống rỗng đựng dung dịch làm mát gần đó. Nhẹ nhàng di chuyển qua sàn nhà bê tông nứt nẻ cho đến khi đứng dưới hàng cửa sổ vòm cong. Luồng ánh sáng yếu ớt nằm phía trên cô, chiếu đẫm khoảng không ở giữa trong quầng sáng mờ ảo, trong khi giấu cô trong bóng tối.
Cửa gara. Mở ra một phần tư. Rồi một phần ba. Một nửa. Cô thả nắm tay đang bấu chặt gói bột. Đầu tiên là chộp lấy bình dung dịch làm mát, đặt giữa hai chân, rồi dùng cả hai bàn tay ấn nắp an toàn dành cho trẻ em và vặn mạnh. Cái nắp nhựa rơi xuống sàn, nhưng âm thanh ràn rạt của cánh cửa sắt nặng nề đang mở ra đã lấn át tiếng rơi.
Cửa mở hai phần ba. Giờ là ba phần tư. Đủ để một người đàn ông trưởng thành bước vào.
Cô đặt bình nước làm mát sang bên cạnh. Buộc bản thân bình tĩnh lắc gói bột để những tinh thể dồn hết xuống phần đáy. Không thể lãng phí chút bột nào nếu muốn thành công.
Hắn bước vào căn phòng.
Gã pha chế với lồng ngực ấn tượng. Áo sơ mi đã cởi ra sẵn. Những múi cơ bắp gợn lên dưới ánh trăng. Một cơ thể đẹp. Cô nên cảm thấy tội lỗi cho những gì mình định làm tiếp theo. Nhưng cô không cảm thấy thế.
Cô tiến về trước, bước vào luồng sáng mờ ảo. Thân thể trần truồng của cô lộ rõ. Cổ tay cô rõ ràng bị buộc chặt.
Hắn mỉm cười, bàn tay phải đã đưa về phía thắt lưng quần jean của mình.
“Mày không biết tao là ai.” Cô nói rõ ràng.
Hắn ngừng lại, quắc mắt nhìn cô, như thể cô thách đố hắn bằng một đề toán phức tạp.
Thế rồi… gã pha chế tiến về phía cô.
Cô mở gói thuốc dưỡng hoa, tiến ba bước nhanh gọn về trước rồi hắt toàn bộ gói bột vào mặt hắn.
Hắn lùi lại, ho khù khụ, chớp chớp mắt bởi lớp bột phấn bám vào mắt, mũi, miệng hắn.
“Cái gì…”
Cô chộp lấy bình dung dịch làm mát đã mở sẵn, lắc ba lần, và rồi…
Một khoảnh khắc ngưng đọng. Hắn nhìn cô. Chằm chằm. Trong khoảnh khắc ấy, cuối cùng họ cũng nhìn thấy nhau. Không phải một gã pha chế cơ bắp. Không phải một cô tóc vàng ngu ngốc. Mà một trái tim đen tối nhìn vào một tâm hồn trống rỗng.
Cô hắt dung dịch làm mát thẳng vào mặt hắn. Đổ nó trên phần da lộ ra với những bột thuốc tím vẫn còn bám dính.
Một khoảnh khắc nữa. Và rồi…
Gợn khói đầu tiên. Từ tóc hắn. Má hắn. Lông mi hắn. Gã đàn ông đưa cả hai tay lên mặt.
Rồi phản ứng hóa học cơ bản qua đi, làn da của gã pha chế bốc cháy.
Hắn thét lên. Hắn bỏ chạy. Hắn đập vào đầu mình như thể điều đó có thể làm thay đổi tình hình. Hắn làm mọi thứ thay vì ngừng lại, nằm xuống và lăn người. Để mặc cơn hoảng loạn dẫn dắt.
Cô đứng đó. Không cử động lấy một cơ bắp. Không nói một lời nào. Cô nhìn cho đến khi cuối cùng hắn sụp xuống thành một đống hoang tàn bốc khói. Âm thanh khác lọt đến. Những người hàng xóm la lên trong bóng tối, muốn biết điều gì đang diễn ra. Tiếng hú xe cảnh sát từ xa vọng lại, khi rõ ràng một trong số họ đã gọi cho 911.
Cô gái cuối cùng bước về trước. Cô nhìn xuống đống đổ nát còn lại của gã tấn công cô, nhìn những gợn khói bốc lên từ làn da đã đen kịt lại của hắn.
Tối thứ Sáu, cô nghĩ. Cô đã kiếm được thứ này.
CHƯƠNG 3
“Cô ấy là ai?”
“Không biết. Người hàng xóm ở kia, Kyle Petrakis, khai anh ta thấy cô ấy đứng cạnh cái xác. Trần truồng, hai tay bị trói, mặt bầm tím.”
“Cô ấy làm tất cả thứ này với hai tay bị trói ư?” Thanh tra D.D. Warren quỳ xuống, xem xét tàn tích cháy đen của… nạn nhân ư? Hay thủ phạm? Thi thể cuộn lại gần như trong tư thế thai nhi, hai tay siết chặt khuôn mặt trai trẻ. Hành động tự vệ, điều mà từ những vết cháy trên đầu, vai, mặt của anh ta, là quá ít ỏi, là quá trễ.
“Cháy do hóa chất.” Vị thanh tra thứ ba nói. “Kết hợp giữa thuốc tím với nước làm mát và bùm.”
D.D. phớt lờ vị thanh tra thứ ba, thay vào đó liếc nhìn Phil. “Chúng ta biết được những gì?”
“Ngôi nhà thuộc về Allen và Joyce Goulding.” Đồng đội cũ của cô nói nhanh. “Cặp vợ chồng lớn tuổi, hiện đang nghỉ đông ở Florida. Nhưng họ để con trai út của mình là Devon Goulding, hai mươi tám
tuổi, ở lại. Anh ta là một huấn luyện viên thể hình vào ban ngày, và làm thêm công việc pha chế vào ban đêm.”
“Devon đây ư?” D.D. hỏi, chỉ vào cái xác.
“Tốt hơn hết là chờ cho đến khi lấy được dấu vân tay cái đã.” D.D. nhăn mặt, sai lầm hít một hơi, khiến cô nhăn nhó hơn nữa. “Nạn nhân hóa cáo của chúng ta đâu?”
“Phía sau xe của đội. Từ chối chăm sóc y tế. Đang chờ nhân viên FBI, người cô ấy đã gọi điện trực tiếp.”
“FBI?” D.D. đứng dậy, giọng cụt lủn. “Anh nói cô ấy mời nhân viên liên bang tham gia bữa tiệc của chúng ta sao? Cô gái này là nhân vật quái quỷ nào vậy?”
Thanh tra số ba nhận lãnh vinh dự: “Cô ấy gọi đến văn phòng Cục ở Boston và đề nghị được gặp Samuel Keynes. Cô ấy đã lưu sẵn số trong đầu và chỉ việc lấy ra dùng, tôi có thể thêm vào như vậy. Cô vẫn gọi nó là một bữa tiệc được sao?” Nhân viên mới nhất của bộ phận điều tra án mạng hỏi. “Hay nó giống bữa tiệc nướng hơn?”
D.D. bước đi. Quay gót chân mình, rời khỏi cái xác cháy, ra khỏi gara. Trong vai trò giám sát mới và cải tiến của mình, cô có thể bỏ đi trước những thứ như vậy. Hoặc có thể do sự sắp xếp hiện tại dựa vào danh sách nhiệm vụ hạn chế của cô.
Thực tế là thanh tra số ba đang đảm nhiệm vị trí trước đây của D.D. trong đội cũ của cô - một nhiệm vụ D.D. không còn giữ bởi chấn thương gần đây - đó hoàn toàn không phải là lý do để tránh né thành viên mới ba mươi lăm tuổi ấy. Không, D.D. không ưa cái tên của cô. Carol. Như trong Carol Manley. Nghe như một nhân viên bảo hiểm.
Hoặc một bà mẹ mê bóng đá. Hoàn toàn không thích hợp cho một cảnh sát. Không một thanh tra thực thụ nào phù hợp với cái tên Carol cả.
Tất nhiên, chẳng có thể loại sĩ quan nghiêm túc nào thuộc đơn vị điều tra án mạng lại bị ám ảnh với cái tên của vị thanh tra mới, hay nhỏ nhen đến nỗi khó chịu với cô ấy chỉ vì nó cả. Có thể nói như vậy.
Một năm trước, D.D. không hề lo lắng về người phụ nữ với cái tên Carol. Hay tương lai của đội ba người của cô. Hay vai trò mới của cô trong đơn vị điều tra án mạng trực thuộc BPD*. Cô đã sống, đã ăn, đã thở cùng những vụ điều tra án mạng và là một người lấy đó làm niềm hạnh phúc. Cho đến một tối nọ, cô quay trở lại hiện trường vụ án khá khuya để phân tích, đánh động kẻ giết người vẫn còn ẩn náu ở đó. Sau cuộc chiến ngắn ngủi, D.D. ngã nhào xuống cầu thang và bị gãy tay trái. Không còn nâng súng được nữa. Không bế bồng thiên thần nhỏ của mình được nữa.
Viết tắt của Boston Police Department, nghĩa là Sở Cảnh sát Boston. Trong suốt sáu tháng tiếp theo, D.D. phải ở nhà. Chăm sóc vết thương, lo lắng về tương lai của mình, và, không thể điều khiển tâm trí mình nữa. Nhưng chậm rãi và chắc chắn, như Russ - chuyên gia vật lý trị liệu của cô đã hứa, công sức bỏ ra cuối cùng cũng được đền đáp. Cho đến một ngày, cô có thể so vai, và ngày khác, cô có thể từ từ nâng cánh tay của mình lên.
Sức mạnh không trở lại ngay được. Hay toàn bộ khả năng vận động cũng thế. Cô vẫn không thể thực hiện được một số việc, ví dụ như thế bắn hai tay Weaver* chẳng hạn. Nhưng cơn đau của cô đã được xử lý, vết thương được cải thiện, và trạng thái sức khỏe chung
hoàn hảo. Đủ để thuyết phục cấp trên cho phép cô trở lại dưới tình trạng hạn chế nhiệm vụ. Nghĩa là giờ đây, cô dành thời gian giám sát với tư cách một sĩ quan cảnh sát hơn là trực tiếp nhúng tay vào điều tra như một thanh tra thực thụ. Cô tự nhủ với bản thân rằng mình có thể xử lý được điều đó. Công việc là công việc, và dù thế nào thì cô cũng đang làm công việc xử lý tội phạm.
Thế bắn hai tay Weaver là một kỹ thuật bắn súng ngắn, được phát triển bởi Phó Cảnh sát trưởng hạt Los Angeles - Jack Weaver trong cuộc thi súng ngắn tự do ở Nam California vào cuối những năm 1950.
Tất nhiên, cô vẫn tiếp tục các buổi trị liệu nghề nghiệp ba lần mỗi tuần, nơi cô sử dụng tạ tay thay cho súng ngắn và luyện tập hành động tháo bao da, rút súng và bắn hết lần này đến lần khác. Cô cũng dành chút ít thời gian ở trường bắn. Một tay. Không mấy tốt. Không đúng quy trình chuẩn của sở. Nhưng cô phải bắt đầu từ đâu đó mới được.
Nếu không, Phil và Neil, hai thanh tra giỏi nhất của lực lượng, sẽ mãi mãi chịu đựng gánh nặng của một tân binh.
Gara của nhà Goulding là một nhà để xe riêng biệt, sức chứa là một chiếc xe, nằm ở phía sau mảnh đất. Sải bước về trước, D.D. rời khỏi khu nhà, băng qua mảnh sân khiêm tốn, tiến ra đường. Mặt trời vừa lên. Bình minh xám xịt, lạnh lẽo càng làm bi thương hơn tình trạng hiện tại. Xe điều tra xếp hàng dọc theo hai bên con đường nhộn nhịp gần đó, cùng với xe của tổ pháp y và nhiều xe tải to hơn, ấn tượng hơn của giới truyền thông.
Tổ phản ứng khẩn cấp đã thực hiện được một công việc đáng nể khi chăng dây toàn bộ khu vực liên quan. Từ ngôi nhà hai tầng sơn
xám đến gara xiêu vẹo phía sau, những cảnh sát viên đã chăng dây vàng dành cho hiện trường tội phạm, tạo thành khu vực không xâm phạm nghiêm ngặt, giúp công việc của D.D. dễ dàng hơn rất nhiều. Dồn những người hàng xóm tò mò vào vỉa hè bên kia đường? Đã xong. Vây những phóng viên nhanh nhảu cách xa khu vực của nhân viên thực thi pháp luật gần nhất năm mươi mét? Đã xong. Và giờ thì đến điều thứ ba…
D.D. phát hiện ra người phụ nữ ngồi sau chiếc xe tuần tra thứ ba, đôi vai run nhẹ bên dưới chiếc chăn của cảnh sát, mặt nhìn thẳng về phía trước. Một thanh tra quận ngồi cạnh cô. Cửa xe tuần tra vẫn mở, như thể họ đang chờ đợi một điều gì đó hay một ai đó. Không ai nói với nhau lời nào.
“Chào Margaret!” D.D. nhận ra viên cảnh sát ngồi phía bên kia. Ở khoảng cách gần như thế này, cô nhận ra lý do tại sao cửa lại để mở. Bên trong hiện trường, những điều tra viên tìm thấy một bọc thức ăn ôi thiu được lôi khỏi từ thùng rác và bị xé toạc ra. Người phụ nữ này hẳn đã nhúng ngập cả khuỷu tay vào đống hỗn độn ấy, dựa vào mùi thịt ôi và sữa thiu từ làn da, chưa kể những vệt nhơn nhớt trên má cô và vương cả lên tóc.
“Chào D.D.!” Viên thanh tra đáp lại với vẻ chịu đựng. “Nghe nói cô đã quay lại. Chúc mừng nhé!”
“Cảm ơn!” Cái nhìn của D.D. vẫn tập trung vào người phụ nữ. Kẻ sát nhân tình nghi. Nạn nhân chưa xác định. Cô gái còn khá trẻ. D.D. đoán chỉ khoảng nửa cuối tuổi đôi mươi. Với mái tóc vàng đến ngang vai và những đường nét mảnh dẻ có thể được xem như hấp dẫn, nhưng không phải với những chỗ tím bầm, những vệt máu hay vết
bẩn thối rữa kia. Cô gái không nhìn cô, mà tiếp tục tập trung nhìn chăm chăm vào phía sau ghế tài xế.
Cảm xúc phẳng lặng, D.D. để ý. Một biểu hiện thường thấy ở các nhân viên cảnh sát điều tra án mạng hay nạn nhân bị bạo hành thường xuyên.
Đứng ngoài xe điều tra, D.D. nghiêng người để mặt cô ngang bằng với mặt cô gái trẻ. “Tôi là Thượng sĩ Thanh tra D.D. Warren.” Cô giới thiệu. “Và cô là?”
Cô gái cuối cùng cũng quay đầu lại, nhìn chăm chăm vào D.D. Dường như nghiên cứu cô để tìm kiếm điều gì đó. Rồi, cô quay trở lại kiểm tra phía sau ghế tài xế.
D.D. cân nhắc vài ý nghĩ. “Cảnh trong gara ấn tượng đấy. Vụ cháy hóa chất, tôi nghe nói như vậy. Về cơ bản, cô đã thiêu sống một người đàn ông bằng chất gì đó trộn lẫn nước làm mát. Cô học điều đó từ đội nữ hướng đạo sinh à?”
Im lặng.
“Để tôi đoán nhé. Devon có vẻ tử tế khi hai người gặp gỡ lần đầu. Một anh chàng bảnh trai, làm việc chăm chỉ. Cô quyết định cho tình yêu một cơ hội.”
“Devon ư?” Cô gái cuối cùng cất tiếng, cái nhìn vẫn thẳng về trước không suy suyển. Giọng cô khàn khàn. Như thể cô hút thuốc quá nhiều. Hoặc la hét quá lớn.
“Tên của nạn nhân. Devon Goulding. Sao cơ, cô chưa từng có cơ hội để hỏi sao?”
Đôi mắt xanh lạnh lùng. Xám xịt, D.D. nghĩ khi cô gái liếc qua.
“Không biết hắn.” Cô gái nói. “Chúng tôi chưa từng gặp.” “Thế cơ à.”
“Hắn là người pha chế.” Cô gái nói, như thể điều đó sẽ có ý nghĩa gì đó với D.D. Quả là thế thật.
“Cô đã ra ngoài tối qua. Tới quán bar Devon làm việc. Vậy đó là lý do hai người gặp nhau.”
“Chúng tôi không gặp nhau.” Cô gái khăng khăng. “Tôi đã ở đó với người khác. Gã pha chế… anh ta theo chúng tôi ra ngoài.” Cô nhìn D.D. lần nữa. “Hắn đã làm thế trước đây.” Cô nói một cách hiển nhiên. “Tháng Tám. Cô gái đã mất tích, Stacey Summers. Cách hắn chộp lấy tôi, nghiêng đầu để giấu khuôn mặt khỏi máy quay khi kéo tôi xuống cuối phố… Hắn trùng khớp với người đàn ông trên đoạn quay cảnh bắt cóc. Tôi sẽ lục soát kĩ khu vực nhà anh ta.”
Stacey Summers là sinh viên Đại học Boston đã biến mất vào tháng Tám. Trẻ trung, xinh đẹp, tóc vàng, cô có nụ cười tỏa nắng và khuôn mặt xinh đẹp, đảm bảo thu hút sự chú ý của cả nước. Vụ án đó đúng là như thế thật. Không may, ba tháng sau, cảnh sát chỉ có được duy nhất một đoạn quay không rõ nét cảnh cô bị kéo đi từ một quán bar ở địa phương bởi một một gã cao to, mờ ảo. Chỉ có vậy. Không nhân chứng. Không kẻ tình nghi. Không thông tin. Vụ án bị đóng băng, ngay cả khi sự chú ý của truyền thông không ngừng sôi sùng sục.
“Cô biết Stacey Summers chứ?” D.D. hỏi.
Cô gái lắc đầu.
“Người quen của gia đình? Sinh viên khóa sau? Người cô từng gặp ở quán bar?”
“Không.”
“Cô là cảnh sát hả?”
“Không.”
“FBI?”
Một cái lắc đầu khác.
“Vậy cô quan tâm đến vụ án Stacey Summers…”
“Tôi có đọc tin tức.”
“Đương nhiên rồi.” D.D. nghiêng đầu qua một bên, lặng ngắm đối tượng của mình. “Cô quen đặc vụ liên bang.” Cô nói. “Bạn bè của gia đình? Hàng xóm? Nhưng cô biết đủ rõ để gọi điện thoại trực tiếp.” “Ông ấy không phải bạn bè.”
“Thế ông ấy là ai?”
Một cái nhếch mép yếu ớt. “Tôi không biết. Cô phải hỏi ông ấy.” “Tên cô là gì?” D.D. đứng thẳng người dậy. Lúc này, bên vai trái đã bắt đầu làm phiền cô. Chưa kể mẩu đối thoại thử thách lòng kiên nhẫn này.
“Hắn không biết tên tôi.” Cô gái nói. “Tên pha chế, gã Devon này ấy, hắn không quan tâm tôi là ai. Tôi đến quán bar một mình. Theo hắn, như thế là đủ để khiến tôi trở thành một nạn nhân.”
“Cô đến quán bar một mình sao? Uống rượu một mình?” “Chỉ ly thứ nhất. Chuyện thường xảy ra như vậy.”
“Cô uống bao nhiêu ly?”
“Sao? Bởi nếu tôi say, tôi xứng đáng bị như vậy sao?” “Không, bởi nếu cô say, cô không thể là một nhân chứng đáng tin cậy được.”
“Tôi nhảy với một gã gần cả tối. Những người khác trông thấy chúng tôi. Họ có thể chứng thực.”
D.D. cau mày, vẫn không thích những câu trả lời của cô gái, cả từ chứng thực cô dùng, thuật ngữ thường được dùng bởi những nhân viên trong ngành, không phải người dân bình thường. “Tên người nhảy cùng cô là gì?”
“Gã Tôi Đã Thấy Em Ở Đây Bao Giờ Chưa à?” Cô gái lẩm bẩm. Bên cạnh cô gái, viên thanh tra quận đảo mắt. Rõ ràng D.D. không phải người đầu tiên hỏi những câu hỏi này, hay nhận được những câu trả lời này.
“Anh ta có thể chứng thực chứ?” D.D. nhấn mạnh.
“Trong trường hợp anh ta lấy lại ý thức.”
“Cô gái à…”
“Cô nên lục soát gara. Có máu ở phía góc bên trái. Tôi có thể ngửi thấy khi bới rác tìm vũ khí.”
“Đó là lúc cô tìm được thuốc tím?”
“Hắn là người đã vứt bó hoa, có thể là sau khi dùng nó để dụ dỗ nạn nhân nào đó. Tôi không phải là người đầu tiên. Tôi có thể nói với cô điều đó. Hắn ta quá tự tin, chuẩn bị quá kĩ. Nếu đây là nhà hắn, hãy lục soát phòng hắn. Hắn sẽ có những chiến tích. Những tên săn
mồi như hắn thích tận hưởng niềm vui tưởng nhớ lại các chiến công trong quá khứ.”
D.D. nhìn chằm chằm vào cô gái trẻ. Suốt những năm tháng làm trong đơn vị điều tra án mạng, cô đã phỏng vấn những nạn nhân hoảng loạn. Cô đã thấy những nạn nhân bị chấn động. Khi liên quan đến án mạng, không có thứ như chuẩn mực tình cảm. Và cô chưa bao giờ gặp một nạn nhân nào như thế này. Những lời đáp của cô gái vượt ngoài dự liệu. Bên ngoài tầm hiểu biết thông thường.
“Cô có biết Devon đã…”
“Gã pha chế.”
“Gã pha chế đã làm gì với những cô gái khác? Có thể một người bạn kể với cô điều gì đó. Điều kinh khủng cô ấy đã trải qua. Hay tin đồn về thứ đã có thể xảy ra với bạn của một người bạn?” “Không.”
“Nhưng cô đã nghi ngờ điều gì đó?” D.D. tiếp tục, giọng cứng rắn. “Ít nhất, cô nghĩ anh ta liên quan tới sự mất tích của một cô gái khác, vụ án trám kín mọi bảng tin. Rồi sao nữa? Cô quyết định tự mình điều tra, biến bản thân mình thành một dạng nữ hiệp và trở thành tin nóng chiếm đóng trang nhất của mọi bảng tin?”
“Tôi chưa từng gặp gã pha chế trước tối qua. Tôi rời đi với một gã khác. Anh ta mới là người tôi có ý định ở bên.” Cô gái nhún vai, ánh mắt một lần nữa khóa chặt ở mặt sau ghế tài xế. “Buổi tối đầy rẫy những bất ngờ. Ngay cả với người như tôi, những điều như thế vẫn có thể xảy ra.”
“Cô là ai?”
Mỉm cười lần nữa, nhưng đó không phải là một nụ cười, mà là thứ gì đó đáng sợ hơn nhiều gợn lên trên khuôn mặt cô. “Tôi không biết gã. Tôi đã đọc về vụ Stacey Summers, có ai mà không đọc chứ? Nhưng tôi chưa bao giờ nghĩ… Nói đơn giản thế này, tôi không lên kế hoạch việc một gã nhân viên cơ bắp của hộp đêm hạ tôi bất tỉnh và mang tôi đi như món đồ chơi riêng. Dù vậy, khi nó xảy ra, tôi biết một số kỹ năng sinh tồn. Tôi biết tự vệ. Tôi sử dụng mọi công cụ tôi tìm thấy…”
“Cô lục lọi thùng rác của hắn.”
“Cô sẽ không làm thế sao?”
Cô gái nhìn chằm chằm vào cô. Lần này, D.D. là người quay mặt nhìn ra hướng khác.
“Hắn bắt đầu cuộc chiến.” Cô gái nói một cách mạch lạc. “Tôi chỉ đơn giản kết thúc nó.”
“Rồi gọi FBI.”
“Tôi không có sự lựa chọn nào khác về chuyện đó.”
D.D. đột nhiên có một linh cảm. Không phải một cảm giác tốt. Cô nhìn kĩ nạn nhân, một cô gái giữa tuổi đôi mươi rõ ràng đã có kinh nghiệm với giới công quyền và những phương pháp tự vệ cá nhân. “Nhân viên đặc vụ? Là cha cô sao?”
Cuối cùng, cô gái cũng nghiêm túc với câu hỏi của cô. Cô nói: “Tệ hơn thế.”
CHƯƠNG 4
Thoạt đầu, tôi khóc. Điều mà lúc ấy chỉ gây ra tiếng rên rỉ vô thức, tạo nên âm thanh nhằm cho có tiếng động, bởi thật khó khăn khi ở một mình trong cái thùng gỗ tối đen. Mọi giác quan biến mất. Phương thức tra tấn được sử dụng để bẻ gãy ý chí của những sát thủ cứng rắn và những tên khủng bố cực đoan. Bởi nó hiệu nghiệm.
Đau đớn là thứ tệ nhất. Bề mặt gỗ cứng liên tục ấn vào phần mềm phía sau đầu tôi, làm căng cứng thắt lưng và bầm tím hai gót chân tôi. Tôi có thể cảm thấy cơn đau như ngọn lửa đâm xuyên qua da, cho đến khi toàn bộ hệ thần kinh kêu gào giận dữ. Nhưng tôi không thể làm được gì. Không thể chuyển sang một tư thế mới, không thể vặn vẹo chỗ này, khuỵu cong chỗ kia để giảm áp lực. Bị nhốt bị ghim chặt, thẳng lưng trên một tấm ván gỗ thông cứng, từng phút rồi lại từng phút trôi qua.
Tôi nghĩ đã có những lúc, đặc biệt là lúc ban đầu, tôi không được tỉnh táo.
Nhưng loài người rất thú vị. Khả năng thích ứng của chúng ta thật sự ấn tượng. Cơn thịnh nộ trước nỗi đau khổ của bản thân. Nhu cầu
không ngừng tìm lối thoát, làm điều gì đó, bất cứ thứ gì, nhằm cải thiện chỗ đứng của mình trong cuộc đời.
Tôi tìm ra cách cải thiện điều kiện sống của mình lần đầu tiên một cách tình cờ. Trong cơn giận dữ chống lại cơn đau phía sau đầu, tôi ngóc đầu dậy, đập trán vào nắp gỗ. Có thể bởi tôi hy vọng đánh mình bất tỉnh. Tôi ngạc nhiên là mình không được như ý.
Thứ tôi nhận được là cái đau nhói ở phía mang tai bên phải, ít nhất tạm thời giúp giảm bớt cơn đau sau đầu. Điều này dẫn đến những khám phá mới. Lưng bạn nhức ư? Đập một bên đầu gối. Đầu gối bạn đau ư? Miết mạnh ngón chân. Ngón chân buốt? Kẹp chặt một ngón tay.
Cơn đau là một bản giao hưởng. Một bài hát có nhiều cường độ khác nhau và rất, rất nhiều nốt. Tôi học cách chơi chúng. Không còn là một nạn nhân bất lực trong biển khổ đau, mà tôi trở thành một thiên tài trong dàn nhạc đang chỉ đạo thứ âm nhạc của chính cuộc đời mình.
Cô độc, bị nhốt trong chiếc thùng có kích cỡ chiếc quan tài, tôi tìm ra từng khoảng âm nhỏ của nỗi khó chịu và điều khiển nó. Điều này dẫn đến những lượt nhấc chân, nhún vai và bài tập cơ tay trước ngắn gọn nhất thế giới.
Hắn đến. Hắn mở khóa. Hắn nhấc nắp thùng lên. Hắn nâng tôi lên khỏi nơi sâu thẳm và say sưa trong quyền lực thần thánh của hắn. Sau đó, hắn cho tôi một chút nước, có thể là mẩu thức ăn thừa như ném cho chó một khúc xương. Hắn sẽ xem, sẽ cười sằng sặc khi tôi bẻ miếng cánh gà khô đét, tham lam mút đến tận tủy xương.
Rồi, trở lại thùng. Hắn sẽ đi. Và tôi lại thuộc về bản thân mình lần nữa.
Cô độc trong bóng tối.
Điều khiển cơn đau của mình.
Tôi khóc. Tôi oán trách Đức Chúa Trời. Tôi nài xin có ai đó, bất cứ ai, xuất hiện để cứu tôi.
Nhưng tất cả chỉ là khởi đầu.
Chậm chạp nhưng chắc chắn, lờ mờ rồi dần rõ ràng hơn, tôi bắt đầu suy nghĩ, mưu tính, vạch kế hoạch.
Bằng cách này hay cách khác, tôi phải thoát khỏi nơi đây. Tôi sẽ làm bất kỳ điều gì để sống sót.
Và rồi…
Tôi sẽ trở về nhà.
CHƯƠNG 5
D.D. phát hiện Neil đang có mặt trong phòng ngủ phía sau thuộc tầng trên của ngôi nhà hai tầng. Là thành viên trẻ nhất của đội-ba người, Neil nổi tiếng với mái tóc đỏ và khuôn mặt trẻ trung vĩnh cửu. Hầu hết nghi phạm đều không cảnh giác với anh vì cho rằng anh là người mới toanh, điều mà D.D. và Phil chưa bao giờ ngừng sử dụng như một lợi thế của họ.
Những ngày này, Neil hoạt động tự chủ hơn. Từ vài năm trước, D.D. và Phil luôn thúc đẩy anh tiến lên, nắm lấy vị trí chủ đạo. Điều này đã dẫn đến một vài trận chiến, khiến Neil vẫn phần lớn ở lại quan sát các cuộc giải phẫu tử thi ở nhà xác. Nhưng D.D. thích nghĩ rằng cô đã đào tạo anh một cách đúng đắn. Rõ ràng, với sự ra đi của cô và Phil giờ nắm vị trí thanh tra trưởng của đội, Neil tốt hơn nên trên cơ Carol, D.D. nghĩ vậy. Ít nhất, đó là thứ anh có thể làm cho cô.
Neil ngước lên khi cô bước vào. Anh đang quỳ trên sàn, bên cạnh chiếc giường cỡ lớn nhàu nhĩ, cầm chiếc hộp giày lôi ra từ bên dưới tấm nệm. D.D. bước vào khoảng không gian tù túng, ẩm ướt bên trong và nhăn mũi. Căn phòng có mùi như ga trải giường chưa giặt,
nước hoa rẻ tiền, và tất tập gym. Nói cách khác, y như nhà của một thanh niên độc thân.
“Phòng riêng của Devon Goulding à?” Cô hỏi.
“Có vẻ như vậy.”
“Khủng khiếp thật.” Cô lẩm bẩm.
Neil nhướng mày. “Chúng ta không thể đều là Alex được.” Anh nhận xét.
Alex là chồng của D.D. Một chuyên gia tái tạo hiện trường tội phạm và là giảng viên tại Học viện cảnh sát. Một trong những nhân tố tinh tế hơn cả của giống loài, D.D. thích nghĩ như vậy, anh có gu hoàn hảo ở quần áo, thức ăn và tất nhiên, vợ mình. Anh cũng trông rất tuyệt với những mảnh Cheerios* mềm nhão dính trên má - cảnh tượng lúc kết thúc phần lớn những bữa sáng với cậu con trai bốn tuổi của hai người. Alex rất thích giặt giũ. Devon Goulding, mặt khác…
Một loại ngũ cốc.
“Có tìm được gì không?” D.D. chỉ vào hộp giày trong tay Neil. “Như đống kỷ niệm chương từ những nạn nhân trước? Theo cô nàng yêu nữ của chúng ta, người rõ ràng chưa từng gặp Goulding trước tối qua, hắn chắc chắn đã làm điều này trước đây và thậm chí còn có thể là thủ phạm chịu trách nhiệm cho vụ án cô sinh viên Đại học Boston đã mất tích vào tháng Tám vừa rồi.”
Neil nháy mắt. “Ý cô là vụ Stacey Summers?”
“Tôi nghe bảo vậy.”
“Bởi cô gái đã châm đuốc Devon trong gara riêng của hắn với đôi tay vẫn bị trói?”
“Chính cô ấy và chỉ có cô ấy.”
“Nói lại tôi nghe cô ấy là ai?”
“Thú vị là cô ấy tập trung vào những cáo buộc phạm tội đối với Devon hơn là quan tâm đến chính bản thân mình. Cô ấy đã khăng khăng rằng hắn chính là một tên sát nhân hàng loạt, và chúng ta chắc chắn nên tìm kiếm những kỷ niệm chương của hắn.”
“Cô gái này trông quen quen.” Neil nói. “Tôi không thể nhớ chính xác. Nhưng khi tôi vừa đến và trông thấy cô ấy… tôi nghĩ mình đã biết cô ấy ở đâu đó rồi.”
“Học viện Quantico à?” D.D. gợi ý, bởi gần đây Neil có tham gia huấn luyện dành cho thanh tra tại đó, và rõ ràng điều này có thể giúp giải thích kiến thức của cô ấy về hành vi tội phạm.
Nhưng Neil lắc đầu. “Tôi không nghĩ vậy. Rồi một lần nữa…” “Anh đã từng nghe về cháy hóa chất như thế này chưa?” Cô hỏi, bởi Neil có nền tảng khoa học rộng nhất trong cả đội của cô. Đội cũ của cô.
“Có. Một trong những mẹo sống sót khi bị lạc nơi hoang dã, dạng như vậy. Nhưng phải thừa nhận nếu tôi tỉnh dậy và thấy mình bị nhốt trong gara với cả hai tay bị trói… Không chắc đó là điều đầu tiên xuất hiện trong đầu tôi.”
“Có vẻ là kỹ năng tự vệ cao-hơn-trung-bình.”
“Vấn đề là ở đây.” Neil tiếp tục nói trong lúc đứng dậy. “Nó không thể giết chết Goulding. Tàn phế, thương tật, chấn thương, có thể.
Nhưng cháy cục bộ, nhiệt độ tương đối thấp… Cô sẽ ngạc nhiên trước khả năng chịu đựng và vượt qua của con người. Tôi đã từng thấy những nạn nhân được lôi ra từ những đám cháy xe hơi với hai phần ba da toàn thân bị nướng cháy, nhưng với thời gian và điều trị thích hợp, họ hồi phục được.”
D.D. rùng mình. Cô không thích những vết bỏng. Từng có lần cô được phân công phỏng vấn một người sống sót tại khoa bỏng, người phải chịu đựng việc cạo da chết - theo nghĩa đen - ra khỏi vết bỏng ở lưng. Dựa vào tiếng gào thét của người đàn ông ấy, cô cho rằng ông ấy sẽ chết mất, nhưng cô được cho biết rằng toàn bộ việc điều trị được thiết kế riêng để chữa cho ông ta. Không đủ morphine trên thế giới để có thể làm dịu đi sự đau đớn ấy.
“Có khả năng Devon hít khí nóng và khói vào cổ họng.” Neil nói. “Làm bỏng thực quản, khiến thực quản sưng phồng lên, chặn đường thở. Nhưng điều nhân chứng mô tả có vẻ tức thời hơn. Khiến tôi nghĩ có thể anh ta bị sốc và tim ngừng đập.”
“Được rồi.” D.D. nói. Cô vẫn không biết họ sẽ đi đến đâu với câu chuyện này, nhưng Neil từng là một chuyên viên cấp cứu y tế trước khi trở thành cảnh sát. Anh thường trông thấy những điều mà cô và Phil không thấy.
“Tất nhiên, người chết là một chàng trai trẻ, rõ ràng là cơ thể cân đối. Một huấn luyện viên thể hình, theo những gì ta thấy.” “Anh có thể thấy điều ấy?” D.D. ngờ vực, nhớ lại đống tàn tích còng queo cháy đen.
“Cô không thấy sao?”
“Đừng quan tâm.”
“Điều này dẫn đến những suy xét xa hơn. Người tập thể hình thường được biết sử dụng chất anabolic steroids để tạo cơ, điều này có thể dẫn đến một loạt những triệu chứng bao gồm huyết áp cao và tim to.”
“Và teo tinh hoàn.” D.D. tiếp lời. “Huyết áp cao là tin mới đối với tôi, nhưng teo tinh hoàn thì tôi biết khá chắc.”
Neil đảo mắt. “Chúng ta sẽ để bác sĩ pháp y đo kích cỡ tinh hoàn. Dựa vào đó, cả hai ta có thể đều đúng.” Anh lắc nhẹ hộp giày, và D.D. có thể nghe thấy tiếng thủy tinh chạm vào nhau. “Devon Goulding chắc chắn tiêm steroid. Bao lâu thì tôi không thể nói. Nhưng ngay cả việc sử dụng ngắn hạn cũng có thể ảnh hưởng đến tim, và trở thành nhân tố đóng góp vào cái chết của anh ta.”
“Còn những cơn thịnh nộ do steroid thì sao?” D.D. hỏi, suy xét vấn đề. “Tôi luôn nghĩ nó có nghĩa là những cơn mất kiểm soát thình lình, nhưng có khi nào nó khiến hắn ta bắt cóc một cô gái ở quán rượu không?”
“Ngoài tầm của tôi rồi.” Neil nói với một cái nhún vai. “Về lý thuyết, lạm dụng steroid lâu dài dẫn đến giảm ham muốn tình dục, vậy thì tại sao anh ta lại muốn bắt cóc một cô gái từ quán bar chứ?”
“Khuất phục những thôi thúc đen tối là cách duy nhất anh ta có thể hào hứng hơn? Bạo lực là cách cuối cùng còn lại để giúp anh ta hứng lên?”
Neil nhún vai. “Phán đoán của cô cũng ngon lành như của tôi vậy. Dựa vào cái hộp này, tôi nghĩ chúng ta có thể giả định an toàn là
Devon Goulding sử dụng steroid và nó có thể là một nhân tố trong cái chết của anh ta. Còn về bằng chứng cho những tội ác trong quá khứ, cho những nạn nhân khác, chỉ có một cách để biết.” Neil đặt hộp giày xuống, bước một bước đến tủ áo hẹp dựa vào tường, bắt đầu lôi các ngăn kéo ra.
D.D. để anh làm điều đó. Xét cho cùng, cô đang ở trong tình trạng hạn chế nhiệm vụ. Neil có thể lục soát cả căn phòng. Cô bước đến giường, kiểm tra những thứ bên trong hộp đựng giày. Ngoài những lọ thủy tinh được dán nhãn màu sắc, còn có nhiều túi không nhãn mác đựng thuốc viên, thực phẩm bổ sung, hormones, chỉ có Chúa mới biết chúng là gì. Có thể nào việc lạm dụng steroid đã dẫn đến hành vi phạm tội của Goulding? Người sống sót duy nhất đã nói rằng cô không hề biết hắn, đã ở quán bar với một anh chàng khác cho đến khi Goulding hạ gã A và trốn đi với cô gái. Nghe khá là thuyết phục. Nó cũng nghe có vẻ bốc đồng với D.D. Những tên giết người hàng loạt thường lén theo dõi nạn nhân của chúng, lên kế hoạch bắt cóc. Còn tóm lấy một cô gái ở bên ngoài một quán rượu thì…
“Này.” Neil cắt ngang dòng suy nghĩ của cô. Anh đã từ bỏ những ngăn kéo và một lần nữa quỳ xuống, sờ mó bằng bàn tay đeo găng bên dưới chiếc bàn.
“Có gì à?”
“Có thể.”
Nhiều lần kéo mạnh, cuối cùng thì anh lôi ra được một phong bì trơn màu vàng được dán dưới đáy ngăn kéo. Anh lắc phong bì, và D.D. trông thấy nhiều vật hình chữ nhật nhỏ di chuyển bên dưới lớp giấy.
Neil mang phong bì đến giường. Nắp phong bì không dán keo, nhưng được đóng lại bằng các nút kim loại. Anh gỡ nút, rồi nhận vinh dự mở phong bì ra, đổ toàn bộ những gì bên trong lên giường.
D.D. thấy có hai vật cỡ bằng tấm thẻ tín dụng. Nhưng chúng không phải là thẻ tín dụng.
“Bằng lái xe.” Neil nói. “Hai phụ nữ. Kristy Kilker. Natalie Draga.” “Nhưng không có Stacey Summers sao?”
“Không có Stacey Summers. Một lần nữa…” Neil cầm một trong hai chiếc bằng lái xe lên, chỉ một vệt máu in hằn dấu vân tay. “Tôi nghĩ Nữ Hướng đạo sinh nguy hiểm nhất thế giới của chúng ta cuối cùng cũng có lý.”
Họ chia nhau lục soát phần còn lại của căn phòng. D.D. bắt đầu với chiếc giường, Neil tiếp tục với những hộc tủ. Họ di chuyển hiệu quả và có phương pháp, những đồng đội đã từng làm những việc như thế này trước kia. Lát nữa, chuyên gia khám nghiệm hiện trường sẽ quay trở lại với bột lấy vân tay, luminol và nguồn ánh sáng thay thế. Họ sẽ lấy dấu vân tay, dịch thể, và hy vọng là cả những mẩu nhỏ tóc và sợi.
Lúc này, D.D. và Neil tìm kiếm những thứ rõ ràng hơn. Quần áo, đồ trang sức của phụ nữ, hay bất cứ thứ gì có thể dẫn đến những nạn nhân khác. Các hóa đơn thanh toán, tờ hóa đơn của quán bar có thể chỉ ra những khu vực săn mồi khác. Và, những thứ quái quỷ, như nhật ký giết người. Bạn sẽ chẳng bao giờ biết khi nào mình sẽ gặp may mắn đâu.
D.D. phải cần đến sự hỗ trợ của Neil để nâng tấm nệm trên cùng. Vai cô đã đau nhức, còn tay trái cô quá yếu cho việc này. Neil không nói gì. Anh chỉ bước đến. Cả hai người cùng nâng tấm nệm lên; rồi anh trở lại góc của mình và cô tiếp tục nghiên cứu chiếc giường.
Cô biết ơn vì sự im lặng của người cộng sự, hay chính xác hơn là cộng sự cũ. Anh không bình luận gì về những giọt mồ hôi rịn ra trên trán cô, hay hơi thở gấp gáp rõ ràng của cô. Người giám sát hiếm khi được trông mong thực nghiệm hiện trường, D.D. tự nhắc bản thân. Yêu cầu giấy tờ về vụ án, rà soát tất cả các ghi chú, chắc chắn là như thế rồi. Nhưng còn những công việc thực tế này… Không, lẽ ra cô nên ổn định một cách an toàn ở văn phòng điều hành, nơi việc thiếu khả năng nhấc một bên cánh tay của cô sẽ không là gánh nặng cho bản thân cô và những người khác.
D.D. tìm kiếm từng mét vuông bên dưới tấm nệm, rồi xem xét đến lớp lò xo. Có thể cô sẽ phải vừa chườm đá sau đó, vừa chịu đựng ánh mắt “biết ngay mà” của Alex. Nhưng cô làm việc cô phải làm. Anh ấy biết điều đó. Neil cũng biết. Chỉ có Sở Cảnh sát Boston là cô xác định dùng biện pháp lừa phỉnh.
“Có thứ gì đó.” Cô có thể cảm thấy nó. Một chỗ cứng lồi lên ở góc trên bên phải nơi có hộp lò xo. Đến gần, cô có thể thấy đường may nơi hộp lò xo tiếp xúc với lớp phủ mỏng đã bị sờn. Cô dùng ngón tay đeo găng của mình chọc xung quanh, và trúng phóc, chêm vào giữa cuộn lò xo… “Một cái hộp. Chờ đã. Thứ trơn tuột chết tiệt. Nhưng… lấy được rồi.”
Một cách thận trọng, D.D. lôi ra một hộp kim loại. Toàn bộ cánh tay trái của cô run rẩy vì đuối sức. Tạ phải nặng hơn nữa, cô nghĩ lơ
đãng. Phải nhiều tạ hơn, nhiều bài tập hơn, nhiều bất cứ thứ gì hơn để không cảm thấy sự yếu ớt này nữa, để không lộ rõ vẻ yếu đuối thảm thương như thế này trước mặt người khác.
Nhưng lần nữa, Neil không bình luận gì cả. Anh đơn giản đón lấy cái hộp nhỏ có khóa từ đôi tay run rẩy của cô và mang nó đến cái bàn ở góc phòng, nơi có nhiều ánh sáng hơn.
Chiếc hộp có vẻ khá xoàng xĩnh. Màu xám. Rộng khoảng chừng mười lăm phân, cao năm phân. Để đựng những món đồ quý giá hoặc riêng tư, không thể khác được.
“Hình chụp.” Neil nói.
“Sao?” D.D. nghiêng người gần hơn, cố nhìn xấp hình bên dưới cái đèn bàn.
“Một phụ nữ tóc đen. Hết tấm này đến tấm khác.” Neil lướt qua xấp hình. Mỗi bức hình đều chỉ có một đối tượng duy nhất. Đi bộ trong công viên, ngồi uống cà phê, đọc sách, cười với ai đó bên ngoài tầm ngắm chiếc camera. Người phụ nữ ấy tuổi chừng đầu ba mươi, xinh đẹp, theo một cách tối tăm, ngột ngạt. “Bạn gái cũ à?”
“Giấu trong cái hộp bên trong cuộn lò xo à?” D.D. lắc đầu. “Tôi không nghĩ vậy. Có giống ai anh biết không? Stacey Summers? Chờ đã, cô ấy tóc vàng, trong khi cô gái này…”
“Không phải Stacey Summers.” Neil đồng tình. “Còn nạn nhân dưới lầu của chúng ta thì sao? Lần cuối tôi trông thấy thì cô ấy phủ đầy rác. Tôi chẳng nhớ màu tóc nữa.”
“Cũng vàng, với mắt màu xám nhạt. Cũng không phải người này.”
“D.D.” Neil thấp giọng. Anh đã xem đến những tấm cuối cùng. Cả hai người cứng đờ. Cũng cô gái ấy. Nhưng cô không cười nữa. Đôi mắt sẫm màu mở to, khuôn mặt nhợt nhạt. Cô nhìn thẳng vào ống kính và nét mặt của cô gái…
Giờ thì đến lượt bàn tay của Neil thoáng run rẩy, và D.D. không nói nửa lời.
Neil đặt những tấm hình xuống, rồi trở lại với hai chiếc bằng lái họ đã tìm thấy.
“Là Natalie Draga.” Anh nói. Anh đặt chiếc bằng lái bên cạnh xấp hình. Cả hai người nhìn người phụ nữ bên trong xấp hình và trong tấm hình trên bằng lái, rồi từ từ gật đầu. “Ba mươi mốt tuổi, địa chỉ ở Chelsea.”
“Nhưng không có bức hình nào của nạn nhân thứ hai?” “Không. Chỉ Natalie.”
“Mối quan hệ cá nhân.” D.D. lẩm bẩm. “Cô ấy có ý nghĩa nào đó với hắn. Vì thế nên mới có những tấm hình.”
“Tôn sùng cô ấy từ xa.” Neil phỏng đoán.
“Hoặc thậm chí là bạn gái. Nhưng kết thúc tệ quá. Có thể cô ấy từ chối hắn. Và hắn trả thù.”
“Còn nạn nhân thứ hai, Kristy? Và cả cô gái bên dưới nữa.” “Có thể hắn thích thế.” D.D. nói ra giả thuyết. “Lần đầu là chuyện cá nhân. Lần thứ hai và thứ ba để cho vui.”
“Chẳng có cách nào để biết được những tấm hình được chụp ở đâu.” Neil nói. “Khung hình quá gần, không có phông nền gì cả.”
“Cô gái sống sót cho rằng có máu trong gara.”
“Tôi có thể ngửi thấy gì đó.” Neil tán thành.
“Hãy để các chuyên gia khám nghiệm hiện trường thu thập các mẫu vật. Và cho người đến quán bar nơi Devon Goulding làm việc, với những tấm hình của ba nạn nhân. Để xem có phải đó là nơi hắn săn mồi. Mang theo cả hình của Stacey Summers nữa, hỏi cô ấy có thường xuyên đến đó hay không.”
“Lần cuối cô ấy xuất hiện là ở nơi khác, tiệm Birches ở Lexington.”
“Tôi biết. Nhưng biết đâu cô ấy cũng từng đến quán bar của Goulding… bao nhiêu gã đa nhân cách mà một cô gái tội nghiệp có thể gặp phải chứ?”
D.D. đứng thẳng dậy, co rúm lại vì chuyển động làm chấn động vai cô, làm cơn đau lan đến lưng.
“Cô nên về nhà đi.” Neil nói. “Công việc của chúng tôi là xử lý tất cả những chuyện này, còn việc của cô là nói cho chúng tôi biết cách làm thế nào cho tốt hơn.”
Nhưng D.D. không nghe anh. Cô đang mải nghĩ, về cái gara, về Devon Goulding, về nạn nhân mới nhất của hắn, người đã hạ gục hắn ở trò chơi của chính hắn và giờ thì đang ngồi phía sau xe tuần tra. Một cô gái tóc vàng có mối quan hệ với FBI và kiến thức để tạo một đám cháy hóa chất. Người mà Neil nghĩ là anh nhận ra.
Lẽ ra cô nên biết điều này, cô nghĩ. Có thể cảm nhận điều gì đó đang khuấy động đằng sau tâm trí mình.
Tiếng gõ cửa vang lên phía sau cô, thanh tra học việc Carol Manley nhoài đầu ngó vào phòng.
“D.D., đặc vụ mà cô gái nạn nhân đã gọi ở FBI đang ở đây.”
CHƯƠNG 6
Ngày xửa ngày xưa, tôi từng có thể kể cho bạn nghe tất cả về bản thân tôi.
Tôi từng có thể nói một cách chắc chắn, rằng tôi tên là Florence Dane. Mẹ tôi, người có những ước mơ lớn lao cho con cái mình, đặt tên tôi theo Florence Nightingale - người sáng lập ngành điều dưỡng, và anh trai tôi để vinh danh nhà bác học Charles Darwin.
Tôi từng có thể nói rằng nơi hạnh phúc nhất trên trái đất này là tại trang trại của mẹ tôi, nơi miền trung Maine. Hàng núi việt quất chín vào mùa hè, từng mẫu từng mẫu khoai tây vào mùa thu. Tôi lớn lên, yêu thích mùi đất mới vỡ. Cảm giác của lớp đất dưới đầu ngón tay tôi. Tiếng thở ra mãn nguyện của mẹ tôi vào cuối ngày, khi bà nhìn vào tất cả những gì bà đã hoàn thành và cảm thấy hài lòng.
Hàng xóm của chúng tôi bao gồm rất nhiều cáo, cũng như gấu và nai sừng tấm. Mẹ tôi không phiền trước những vị khách lang thang này trong khu vực của chúng tôi, nhưng bà là một người tin tưởng vững chắc ở việc không nên cho động vật hoang dã ăn. Chúng tôi sống chan hòa cùng thiên nhiên, không can thiệp vào nó. Mẹ tôi đã
lớn lên trong một cộng đồng. Bà có nhiều lý thuyết về cuộc sống, nhưng không phải tất cả đều hợp lý với anh em tôi.
Về cá nhân, tôi thích cáo nhất. Tôi có thể ngồi hàng giờ ngoài hang của chúng, hy vọng được nhìn thấy bầy cáo con. Cáo rất nghịch, vừa như mèo con, vừa như chó con. Chúng thích đuổi theo những quả bóng golf hoặc quẳng những món đồ chơi nhỏ trên không. Tôi biết được điều này theo cách bọn trẻ con học về mọi thứ, bằng việc lang thang hàng giờ bên ngoài với ánh mặt trời nung đỏ khuôn mặt, bằng việc thử một chút này hay một chút nọ. Tôi mang đến cho chúng một quả bóng cao su cũ, một con chuột nhồi bông, thậm chí cả một con vịt cao su nhỏ. Những con cáo trưởng thành sẽ ngửi những món đồ đó một cách do dự, trong khi bọn cáo con sẽ nhảy vọt lên khỏi hang, chụp ngay lấy những món đồ chơi mới không một thoáng ngập ngừng. Đôi khi, tôi để lại cho chúng một hoặc hai củ cà rốt. Hoặc nếu mẹ tôi đang bận hoặc không để ý, thì cả những mẩu xúc xích còn dư nữa.
Chỉ là làm thân với láng giềng, tôi cố giải thích với mẹ như vậy vào một chiều đầu tiên bà bắt gặp tôi rải phô mai bên ngoài hang cáo. Bà không bằng lòng: “Mọi sinh vật phải học cách dựa vào bản thân. Khuyến khích sự phụ thuộc sẽ chẳng giúp ích gì cho ai cả, Flora.”
Nhưng sau đó, sau một trận bão tuyết kinh hoàng vào đầu tháng Mười một, tôi bắt gặp mẹ tôi mang thức ăn thừa từ bữa tối đến chiếc hang cũ.
Bà không nói gì, và tôi cũng vậy. Nó trở thành bí mật của riêng hai mẹ con tôi, bởi lúc đó, chúng tôi không nghĩ đến bất kỳ điều gì có thể gây tranh cãi hơn việc thuần hóa những con cáo hoang.
Thế nên ngày xửa ngày xưa, đây là điều tôi có thể đã nói với bạn về bản thân tôi: tôi thích cáo. Hoặc ít nhất tôi từng rất thích chúng. Đó không phải điều dễ dàng thay đổi ở một người. Nhưng tôi không ngồi nhìn chúng nữa, hay mang đồ chơi cho chúng, hay lén cho chúng ăn. Bốn trăm bảy mươi hai ngày sau đó… tôi cố tìm kiếm bình an nơi khu rừng. Chắc chắn tôi thích không gian mở bên ngoài hơn là khoảng không chật chội trong nhà.
Nhưng vài phần bản thân tôi, một vài cảm giác… không còn như vậy nữa. Tôi có thể lặp lại những điều tôi từng làm, thăm lại những nơi cũ, nhìn thấy những người xưa. Nhưng tôi không còn cảm thấy những cảm giác như trước nữa. Có những ngày, tôi thậm chí còn không chắc mình có thể cảm thấy bất kỳ điều gì không.
Tháng Tư là tháng yêu thích nhất của tôi. Tôi khá chắc chắn điều đó vẫn còn đúng. Trang trại có một nhà kính cũ ọp ẹp. Làm sao nó có thể đứng vững mỗi mùa đông dài khắc nghiệt, chúng tôi không bao giờ biết được. Nhưng vào cuối tháng Tư, khi tuyết cuối cùng cũng tan, chúng tôi bước trong lớp bùn nhão và phá toang cánh cửa đã biến dạng, trong khi toàn bộ kết cấu căn nhà rền rĩ phản đối. Darwin sẽ lãnh nhiệm vụ chính bên trong, người đàn ông duy nhất và tự cho mình là người bảo vệ gia đình.
Mẹ tôi sẽ đến tiếp theo với một xe cút kít đầy những bao mùn và đất phủ. Tôi sẽ ở đằng sau, vác theo những khay nhựa và tất nhiên, những bao hạt giống.
Anh trai tôi, Darwin, làm rất nhanh. Hất tung những nắm đất, ném mạnh hạt giống. Ngay cả khi ấy, anh tôi đã thiếu kiên nhẫn, muốn có mặt ở bất kỳ nơi nào khác ngoại trừ nơi đó. Mẹ đã đặt tên cho anh khá đúng. Anh yêu chúng tôi, nhưng từ khi còn nhỏ, cả hai anh em tôi đã có thể thấy quanh quẩn ở nhà không phải là điều anh yêu thích. Nếu rừng sâu ngân nga bài ca với mẹ con tôi, thì với anh, cả thế giới mới là bài ca không dứt. Thế nên anh làm việc bên cạnh chúng tôi, nhanh nhẹn, hiệu quả, nhưng tâm trí anh luôn ở nơi nào khác. Mẹ tôi thường nhìn anh và thở dài. Một tâm hồn trai trẻ với trái tim dịu dàng - bà nói vậy.
Mẹ lo lắng cho anh tôi. Nhưng không bao giờ lo lắng cho tôi. Tôi luôn là một người hạnh phúc. Ít nhất, đó là cách câu chuyện tiến triển.
Anh trai tôi từ trường đại học trở về nhà ngay giây phút nghe được tin về sự biến mất của tôi. Anh ấy ở bên cạnh mẹ, đầu tiên như chiếc neo an toàn của bà. Rồi, khi tấm bưu thiếp đầu tiên được gửi đến và mọi thứ trở nên rõ ràng hơn rằng tôi đã bị bắt cóc, anh trai tôi, từ một người phiêu lưu đã trở thành chiến binh. Facebook, Twitter trở thành những mặt trận của anh. Anh tạo ra toàn bộ các chiến dịch tập hợp những người thậm chí hoàn toàn không quen biết lại để giúp tìm kiếm tôi. Và anh mang tôi trở lại sự sống, đã tạo nên một cá nhân tôi sống động cho công chúng, với những tấm hình tôi trong ngày sinh nhật đầu tiên, tôi ở trang trại, và vâng, tôi ngồi trên đồi với đàn cáo nhỏ. Nhưng những tấm hình ấy không thực sự dành cho công chúng. Chúng là để dành cho kẻ đã bắt tôi đi, khiến hắn nhìn tôi như một cô gái nhỏ, một đứa em gái, một cô con gái. Anh trai tôi đã thực
hiện sứ mệnh của mình là nhân tính hóa bản thân tôi, nhằm giúp tôi giữ mạng sống mình.
Tôi nghĩ đó là lý do anh tôi cảm thấy khó khăn vô cùng khi tôi trở về nhà, và không còn là cô gái trẻ từ những bức hình đó. Tôi không nhếch môi. Tôi không cười. Tôi không nghịch đất hay đi tìm đàn cáo. Thấy không, tên bắt cóc đã có sứ mệnh của riêng hắn, là quét sạch mọi mảnh nhân tính khỏi con người tôi. Đã lộn trái con người tôi, đã bẻ gãy bản thân tôi, đã biến tôi thành hư không.
Bạn nghĩ bạn sẽ chiến đấu, hay ít nhất sẽ chịu đựng. Bạn tự hứa với bản thân sẽ đủ mạnh mẽ. Nhưng bốn trăm bảy mươi hai ngày sau đó…
Anh tôi buộc phải rời trang trại sau khi tôi trở về. Anh phải chạy trốn khỏi đứa em gái mà không bao giờ trở lại như trước nữa. Tôi nhìn anh đi và phần lớn cảm thấy dễ chịu. Ít đi một cặp mắt dõi theo tôi mọi nơi mọi lúc. Ít đi một người giật mình bởi một Flora Dane mới mẻ và rõ ràng không cải thiện chút nào.
Ngày xửa ngày xưa, tôi có thể đã buồn bã bởi sự ra đi của anh trai tôi. Tôi có thể nói tôi thương anh, nhớ anh, mong gặp anh sớm. Ngày xửa ngày xưa, tôi có thể nói với bạn rằng tôi yêu mẹ tôi. Bà là người bạn thân nhất của tôi trên cõi đời này, và dù thật háo hức khi được đi học đại học, tôi vẫn mong những cuối tuần được trở về nhà.
Ngày xửa ngày xưa, tôi là một cô gái như thế. Thích không gian ngoài trời, vui tươi, hạnh phúc.
Bây giờ, đó là những điều tôi vẫn không thể nói với bạn về bản thân tôi.
Đó là những điều tôi vẫn đang học từng ngày.
Mặt trời đang mọc. Ngồi ở phía sau xe điều tra, tấm chăn choàng qua vai, rác bết trên mặt, tôi cảm thấy bầu trời sáng dần lên quanh mình. Tôi không ngẩng đầu lên. Tôi không quay đầu sang xung quanh. Tôi không cần phải nhìn để biết điều gì đang diễn ra.
Bên trái tôi, bên trong căn nhà của kẻ suýt tấn công tôi, những chuyên gia khám nghiệm hiện trường đang lùng sục từng mét vuông. Một nhóm thanh tra đang kiểm tra từng căn phòng một, phân loại những thiết bị điện tử, xem từng tập thư, lục soát kĩ càng căn phòng của gã pha chế.
Tôi đã không nói dối. Tôi không phải cảnh sát hay đặc vụ FBI. Tôi chưa từng gặp Stacey Summers, cô gái đã biến mất ba tháng trước. Như phần lớn người dân ở Boston, hay ở đất nước này, tôi chỉ theo dõi vụ án của cô qua mục tin tức.
Nhưng rồi đồng thời… tôi biết cô ấy. Tôi nhận ra nụ cười rạng rỡ ở những bức hình chụp vào năm cuối trung học, với mái tóc vàng và đôi mắt xanh to tròn. Tôi nhận ra sức sống tươi trẻ của cô ấy trong những bức hình cổ vũ ở trường trung học, với chùm bông tua rua màu đỏ tung lên trời cao. Sau đó là một đoạn phim đáng lo ngại: cảnh quay an ninh của một cô gái tóc vàng bị kéo đi bởi một gã cao lớn. Bản tin sáng, bản tin trưa và bản tin tối. Không bao giờ có thứ gọi là thời gian không phù hợp để các nhà sản xuất tin tức ngừng phát
những hình ảnh giật gân về một cô gái mười chín tuổi, cựu cổ động viên, bị kéo lê xuống một con hẻm tăm tối.
Tôi đọc mọi bài viết trên báo chí về vụ bắt cóc của cô ấy. Tôi ngồi xem không chớp mắt sự xuất hiện của cha mẹ cô trong chương trình bản tin sáng trên kênh truyền hình quốc gia, dù về lý thuyết, tôi đã thề không dính líu đến những điều đó. Tôi nhìn thấy người cha, một doanh nhân mạnh mẽ, đấu tranh để giữ bình tĩnh, trong khi người mẹ, một phụ nữ lớn tuổi, vẫn còn xinh đẹp, tay bấu chặt trong lòng bàn tay của chồng mình, khẩn cầu sự trở về an toàn của cô con gái.
Stacey Summers xinh đẹp, hạnh phúc, sôi nổi. Một cô gái mà theo cha mẹ của cô, không bao giờ làm hại đến một con ruồi. Tôi tự hỏi những điều gì cô ấy từng không biết. Tôi tự hỏi những bài học nào cô ấy đã bị buộc phải học qua.
Sự thật là, tôi biết Stacey Summers. Tôi không muốn biết. Tôi không cố ý biết. Nhưng tôi biết Stacey Summers. Không cần phải là tiến sĩ ngành tâm lý học mới hiểu rằng mỗi lần tôi nhìn vào bức hình của cô ấy, hay đọc một bài báo về cô ấy, tôi lại đang nhìn thấy chính bản thân tôi.
Không ai gọi điện thoại cho mẹ tôi trong hai mươi bốn tiếng đồng hồ đầu tiên sau khi tôi mất tích. Không ai biết tôi mất tích. Thay vào đó, mẹ nhận được một tin nhắn bối rối bốn ngày sau kỳ nghỉ xuân từ bạn cùng phòng đại học của tôi: Flora có đang ở với cô không? Sao bạn ấy không nói với tụi cháu bạn ấy về nhà sớm?
Tất nhiên, mẹ tôi không hiểu Stella đang nói gì. Rõ ràng, mất hai mươi phút để xác định chính xác tôi không ở Florida với Stella, cũng không thần kỳ trở về trang trại ở Maine của mẹ hay quay về ký túc xá
của tôi một cách kỳ diệu. Thực tế là đã không ai nhìn thấy tôi trong suốt nhiều ngày liền.
Mẹ tôi không phải dạng người dễ hoảng loạn. Bà đặt điện thoại xuống và cân nhắc hành động để đối phó với tình hình thực tế. Liên lạc với anh trai tôi. Kiểm tra email. Đọc lướt qua trang Facebook của tôi. Nhịp tim bà tăng lên. Đôi tay bà bắt đầu run rẩy.
Bà lái xe đến đồn cảnh sát. Sau này bà kể lại với tôi rằng bà cảm thấy cần phải nói chuyện trực tiếp với một ai đó. Nhưng ngay cả việc báo cáo của bà cũng rối rắm. Mẹ tôi sống ở Maine, nhưng tôi học đại học tại Boston và theo giả thuyết tôi đã biến mất trong kỳ nghỉ xuân ở Florida. Điều tra viên ở Maine đã khá tử tế. Ông lắng nghe mẹ tôi nói, đã tỏ ra đồng ý rằng tôi không phải kiểu con gái có thể bỏ trốn, dù trong hoàn cảnh này, họ không thể bỏ qua suy nghĩ đó có thể là một tai nạn không may do say rượu. Ông khuyến khích bà điền vào báo cáo mất tích, thứ được gửi fax đến đồn cảnh sát địa phương ở Florida.
Và rồi… không gì cả.
Mặt trời mọc, mặt trời lặn. Các bạn bè đại học của tôi đến gặp gỡ cảnh sát ở Florida. Họ trở về trường ở Boston. Họ tham gia với các lớp học. Trong khi mẹ tôi ngồi hóa đá cạnh chiếc điện thoại vẫn không reo chuông.
Và rồi:
Một tấm bưu thiếp được chuyển đến qua đường bưu điện. Nét chữ của tôi, nhưng lời của một người khác. Và đột nhiên, tôi không còn là một sinh viên đại học mất tích nữa. Tôi là một nạn nhân nghi ngờ bị bắt cóc, người bị lôi đi qua khắp các tiểu bang. Chỉ trong một
đêm, vụ án của tôi trở thành tin sốt dẻo và thế giới của gia đình tôi nổ tung bởi nó.
Là một người mẹ, mẹ tôi nói với tôi sau này, rằng bạn sẽ mong muốn có chút quyền kiểm soát nào đó đối với vụ bắt cóc của con bạn. Nhưng nó không diễn ra như vậy. Luật đầu tiên các nhân viên thực thi pháp luật thiết lập là: bà không được gọi cho họ; họ sẽ là người gọi cho bà. Trên thực tế, mẹ tôi chưa từng được gặp nhiều nhân viên FBI làm việc về vụ án của tôi cho đến lần họp báo đầu tiên.
Thay vào đó, bà phải gặp những người bạn mới của mình: những chuyên gia hỗ trợ nạn nhân. Những người mà, dựa trên chức danh của họ, bạn có thể sẽ nhận định sai lầm cho rằng họ làm việc nhân danh bà, người là nạn nhân. Không đâu, người hỗ trợ nạn nhân làm việc cho cơ quan thực thi pháp luật hay văn phòng luật sư. Điều đó phụ thuộc vào thẩm quyền. Mẹ tôi phải liên hệ với sáu người trong số họ suốt vụ bắt cóc của tôi. Địa phương, tiểu bang, liên bang. Họ thay phiên nhau. Bởi đặc biệt trong các tuần đầu tiên ấy, các thành viên gia đình không bao giờ bị bỏ rơi.
Các chuyên viên hỗ trợ bảo mẹ tôi rằng điều đó chỉ vì lợi ích của chính bà. Khi họ lần đầu tiên bắt đầu trả lời những cuộc điện thoại không ngừng của bà, bà cảm ơn họ. Khi họ đặt tấm bảng ở sân trước cảnh cáo giới truyền thông rằng đây là tài sản cá nhân và họ không được phép xâm nhập, bà cảm thấy biết ơn. Và khi họ cung cấp bữa ăn một cách kỳ diệu, trong khi khéo léo đưa bà đến một khách sạn trả trước để bà có thể có ít nhất một đêm yên giấc, bà tự hỏi làm sao có thể sống sót qua thử thách này nếu không có họ.
Nhưng mẹ tôi không ngu ngốc.
Không mất quá nhiều thời gian để mẹ tôi nhận ra rằng những người hỗ trợ nạn nhân luôn luôn đặt câu hỏi. Về cuộc sống của các con bà, về các mối tình đã qua. Về cuộc sống của bà, về các mối tình đã qua. Và này, giờ bà đã có cái ăn rồi, sao không nói chuyện đôi chút với các thanh tra? Điều mà, thoạt đầu, bà nghĩ là để những thanh tra có thể cập nhật cho bà về những gì họ đang làm để tìm ra tôi, nhưng sau đó, bà hiểu ra là để họ có thể quay bà với thậm chí còn nhiều câu hỏi hơn nữa. Và vâng, buổi sáng hôm nay chuyên viên hỗ trợ nạn nhân tử tế, độ lượng có thể dẫn bà đi vòng quanh căn nhà để thu thập những mẩu thông tin có thể có - điện thoại, máy tính bảng, nhật ký cá nhân. Thì sáng hôm sau, chuyên viên hỗ trợ nạn nhân của bà có thể líu lo, này, hãy thực hiện một bài kiểm tra nói dối nào, giống giọng điệu các bạn bà từng sử dụng để rủ bà đi làm móng vậy.
Tôi biến mất ở Florida. Và cuộc đời mẹ tôi trở thành một vở kịch điều tra nổi tiếng, chỉ huy mọi lúc bởi những vú em. Cả hai chúng tôi, tôi đoán, có được những bài học về sinh tồn. Và cả hai chúng tôi đều biết những điều mà chúng tôi ước ao mình không phải biết.
Ví dụ như, tôi biết chuyên gia hỗ trợ nạn nhân sẽ xuất hiện nơi ngưỡng cửa nhà Stacey Summers sáng hôm nay. Nhiều khả năng là người gần gũi với vụ của cô ấy. Có thể, cũng giống như tôi, cha mẹ của cô ấy thực sự trân trọng người hỗ trợ mình, đã tiến triển một quan hệ gắn bó. Hoặc có thể, như mẹ tôi, họ đơn thuần chấp nhận mối quan hệ, một sự xâm nhập vào cuộc sống mà rõ ràng không còn là cuộc sống của họ nữa.
Người hỗ trợ sẽ mang theo tấm hình của Devon Goulding, giờ đây là gã tấn công đã chết của tôi, và gần như rõ ràng là một tên tội phạm lặp lại. Người ấy sẽ hỏi họ có nhận ra người đàn ông này không, có thể nào Stacey biết hắn không? Gia đình Summers sẽ ngay lập tức đủ táo bạo, đủ nổi điên lên, để đặt ra câu hỏi của riêng họ: Là hắn đây sao? Đây có phải là tên đã bắt con gái họ? Điều gì đã xảy ra với Stacey? Cô ấy đang ở đâu? Khi nào họ có thể gặp cô ấy?
Người hỗ trợ sẽ không nói gì. Và cuối cùng, gia đình Summers sẽ không chịu nổi sự yên lặng hoang mang ấy, mỗi mẩu thông tin sẽ chỉ dẫn đến nhiều câu hỏi hơn mà thôi. Họ sẽ không thể hỏi Devon Goulding bất kỳ câu hỏi nào nữa. Lỗi đó là của tôi. Nhưng kết thúc, khám phá thực sự về con gái họ…
Tôi liếc nhìn căn nhà. Tôi hy vọng những thanh tra có thể tìm thấy câu trả lời mà tôi đã không có cơ hội tìm kiếm. Ví dụ như vết máu ở góc gara là của ai. Và có phải Devon là người đã bắt cóc Stacey Summers xinh đẹp, hạnh phúc? Và hắn đã làm gì với cô ấy sau đó?
Bởi tôi biết tôi đã xem đoạn phim Stacey bị bắt nhiều hơn số lần mình nên xem. Tôi biết tôi ngủ trong căn phòng treo đầy tường những câu chuyện về người mất tích chưa trở về nhà. Tôi biết khi ra ngoài tối hôm qua, tôi tìm kiếm điều mà lẽ ra tôi không nên tìm kiếm.
Trước đây, tôi đã kể bạn nghe tất cả về bản thân tôi. Những con cáo. Mùa xuân. Gia đình.
Và giờ…
Tôi hy vọng Stacey Summers mạnh mẽ hơn tôi.
Tôi muốn ngủ. Gục đầu xuống phía sau xe điều tra và mơ về những ngày trước đây tôi từng nghĩ về đại học hay kỳ nghỉ xuân quyến rũ, đến bãi biển Florida hứa hẹn ngập tràn nắng đẹp.
Trở về những ngày trước đây tôi luôn luôn và mãi mãi đơn độc một mình.
Tiếng la hét vang lên từ phía bên kia đường. Tôi cảm nhận sự thay đổi và khuấy động của đám đông, báo hiệu sự xuất hiện mới mẻ và chính thức tại hiện trường vụ án. Tôi không cần phải nhìn lên để biết người đó là ai. Tôi đã gọi và thế là ông ấy đến. Bởi đó là cách thức giữa hai chúng tôi. Mẹ tôi có những vú em, nhưng với tôi, mối quan hệ đã luôn là gì đó hơn thế.
Một phút trôi qua. Hai phút. Ba phút.
Rồi, ông ấy đã ở đây, đứng bên ngoài cánh cửa xe đang mở, hoàn toàn chỉn chu như thường lệ, với áo khoác dài, hai hàng nút được cài cao để chống lạnh.
“Ồ, Flora.” Chuyên gia hỗ trợ nạn nhân FBI Samuel Keynes thở ra nặng nề. “Cô đã làm gì thế?”
CHƯƠNG 7
Vào thời điểm D.D. xuống cầu thang và bước ra khỏi nhà Goulding, điện thoại di động của cô đã réo chuông ba lần và cô đã phải ngừng lại hai lần. Cô có tin tốt, cô có tin xấu, và cô có cơn đau đầu càng lúc càng tăng từ một vụ án tiến triển nhanh chóng và một đêm dài không ngủ.
Theo giám đốc đơn vị điều tra án mạng, tức sếp cô, cô đang được lệnh nghiêm ngặt là gói ghém hiện trường, rời ngay khỏi Dodge trước khi những thanh tra đang kiệt sức của cô không tránh khỏi xì ra điều gì đó trước giới truyền thông ầm ĩ và toàn bộ điều này sẽ lại nổ tung trước mắt họ. D.D. đồng ý. Ngắn gọn và ngọt ngào không bao giờ là một kế hoạch tồi khi đối phó với một vụ điều tra án mạng. Không may, cô có linh cảm họ sẽ không may mắn như thế.
D.D. cuối cùng cũng bước ra bên ngoài. Tiếng la hét nổi lên từ cánh phóng viên đang tụ tập bên kia đường. Như thể có một trung phong bóng bầu dục vô địch nào đó xuất hiện vậy, cô lãnh đạm nghĩ, chứ không phải là một viên cảnh sát làm việc quá sức nổi lên giữa đám đông công chúng. Cô đưa một tay lên theo phản xạ. Không cần
phải chặn rừng đèn flash lóe lên từ khắp các hướng vào buổi sáng tháng Mười một rực rỡ, nắng đẹp này. Cô chỉ không muốn khuyến khích bất kỳ câu hỏi hét toáng nào khác.
Cô tiến thẳng đến nơi lần cuối trông thấy nạn nhân trở thành người báo thù của mình ngồi gắn chặt trên ghế sau chiếc xe tuần tra, và quả thật như thế… D.D. tiến lại gần.
Một người đàn ông da đen cao ráo, điển trai đứng cạnh chiếc xe tuần tra. Không, một người đàn ông da đen cao và rất đẹp mới đúng. Xương gò má được tạc một cách hoàn hảo. Mái đầu cạo mượt, ngắt quãng bởi hàng tóc mai được tỉa không tì vết. Đôi mắt sẫm màu viền quanh bởi hàng mi dài đến không tưởng. Ông ta mặc chiếc áo khoác len màu đen có hai hàng nút, loại được các nhà quản lý doanh nghiệp và đặc vụ FBI ưa chuộng. Ngoại trừ, khi đến gần, D.D. không chắc nó là len. Có vẻ giống len cashmere hơn, kết hợp với chiếc khăn choàng lụa màu đỏ đậm. Tất cả chúng, trong thời điểm này, hoàn toàn hợp lý với cô. Một người đàn ông đẹp trai với khuôn mặt thông minh như thế và ánh mắt thẳng thắn như thế, tất nhiên ông ta mang chiếc áo khoác một-ngàn-đô-la rồi. Và chiếc xe không-phải công-vụ của ông ta hẳn phải là một chiếc Bentley.
Bất chợt, cô nhận ra mình đang nhìn chằm chằm, miệng hơi há ra. Cô khép hàm lại, ưỡn thẳng đôi vai đau nhức của mình, và, khỉ thật, giả vờ mình chuyên nghiệp.
Ông ta đưa tay ra khi cô tiến lại gần. “Tiến sĩ Samuel Keyes. Chuyên gia hỗ trợ nạn nhân. FBI.”
“Ừm…” Cô đáp trả cái bắt tay. Ông ta có cái nắm tay chặt. Một cách tự nhiên.
“Và cô là?” Ông đợi cô đáp lại một cách kiên nhẫn. Đôi mắt sẫm màu sâu thẳm. Như sô cô la tan chảy. Và rõ ràng nhìn cô như thể cô là một kẻ mất trí.
“Thượng sĩ Thanh tra D.D. Warren.” Cô xoay xở câu trả lời. “Giám sát viên. Đơn vị điều tra án mạng. Vụ án này. Đợi chút nào.” Cô cau mày, lấy lại sự điềm tĩnh. “Chuyên gia hỗ trợ nạn nhân. Chúng ta đã gặp nhau trước đây chưa nhỉ? Vụ đánh bom cuộc đua marathon ở Boston…”
“Tôi đã hỗ trợ nhiều gia đình, đúng thế.”
D.D. gật đầu. Giờ thì cô đã nhớ lại. Sở Cảnh sát Boston đã hỗ trợ cuộc điều tra của FBI trong vụ đánh bom cuộc đua marathon ở Boston vào tháng Tư năm 2013. D.D. đã tự mình xử lý rất nhiều cuộc phỏng vấn, bởi số lượng nhân chứng cần phải thẩm vấn. Trong những cuộc họp ngắn phân chia nhiệm vụ, cô đã thấy Tiến sĩ Keynes cũng như nhiều chuyên gia hỗ trợ nạn nhân khác, dù lúc đó có quá nhiều việc phải làm khiến họ không có thời gian để giới thiệu bản thân. Họ đều bận rộn vật lộn với sự kinh hoàng của vụ đánh bom, chưa kể đó là một vụ án cực kỳ phức tạp.
“Ông biết kẻ tình nghi của chúng ta à?” Cô hỏi, hướng về nạn nhân/nghi phạm của mình, người vẫn đang ngồi lặng yên ở ghế sau xe tuần tra.
“Flora à?” Ông khẽ khàng nói.
Cô gái cuối cùng cũng ngước mắt lên. Vết bầm đã bắt đầu đen lại quanh mắt cô, khiến da cô tím thẫm, trong khi sống mũi đỏ ửng.
Dòng adrenaline đã qua đi, D.D. quan sát, và giờ trông cô thật tơi bời.
“Ông nên nói với cô ấy.” Cô nói. Ngồi ở ghế sau xe tuần tra, quấn mình trong chiếc chăn xanh của cảnh sát, cô nhún vai, vẫn không tiếp xúc mắt. “Từ phía ông, cô ấy có thể tin. Trong khi đó, bất cứ thứ gì tôi nói…”
“Có thể được sử dụng để chống lại cô trước tòa?” D.D. hỗ trợ. Cô gái liếc nhìn cô. “Chính xác.”
“Thượng sĩ Thanh tra Warren.” Tiến sĩ Keynes bắt đầu. “Là D.D. được rồi.”
“D.D., chúng ta nói chuyện được chứ? Nơi nào đó yên tĩnh hơn?” Ông không cần chỉ rõ những phóng viên. Tiếng ồn đã yên tĩnh hơn, thích hợp cho giới truyền thông nghe lén.
D.D. thoáng cân nhắc, rồi hất đầu về phía căn nhà của Goulding. Nơi đó đang nhộn nhịp các chuyên gia khám nghiệm hiện trường, nhưng không có nhà báo, tức có thể riêng tư hơn.
Cô dẫn đường, Tiến sĩ Keynes bước cạnh cô. “Áo khoác đẹp đấy.” Cô nói. “Len cashmere à?”
“Đúng vậy.”
“Khăn choàng lụa?”
“Đúng vậy.”
“Tôi phải nói, Sở Cảnh sát Boston không hào phóng đến vậy. Vả lại, tôi không có danh vị Tiến sĩ trước tên mình.”
“Ông tôi đánh giày để kiếm sống.” Tiến sĩ Keynes nói nhẹ nhàng. “Cha tôi, mặt khác, lại là một bác sĩ phẫu thuật tim. Tốt nghiệp Đại học Harvard.”
“Và ông tiếp tục hướng phát triển của gia đình… trong FBI?” D.D. trao cho ông một cái nhìn hồ nghi.
Họ đến cửa chính. Tiến sĩ Keynes mở nó ra, một hành động lịch thiệp với phụ nữ có vẻ không cần thiết tại hiện trường vụ án. “Tôi yêu thích công việc của mình. Và tôi may mắn được ở một nơi mà tôi có thể đủ khả năng làm những gì mình thích.” “Tôi bắt đầu nhìn thấy điểm chung giữa ông và cô gái tình nghi của chúng ta đấy. Cả hai người đều làm rất xuất sắc việc không bao giờ thực sự trả lời các câu hỏi của tôi.” Cánh cửa chính của ngôi nhà mở ra một tiền sảnh khiêm tốn, với một cầu thang ở ngay phía trước. Bởi hai chuyên gia khám nghiệm hiện trường đang phủ bụi những mẫu trang trí bằng gỗ và cầu thang để tìm dấu vân tay, nên D.D. rẽ sang tay trái, tránh xa khỏi sự hỗn loạn. Cô và vị tiến sĩ tốt lành đến phòng khách phía trước, với một chiếc xô pha, một bàn cà phê chất chồng tạp chí thủ công, và một rổ đầy những cuộn len. Ai đó, khả năng nhiều nhất là bà Goulding, chắc hẳn thích đan len. Có điều gì đó ở chi tiết nhỏ ấy khiến D.D. đau xót. Làm sao mà từ một phụ nữ được biết đến với những tấm khăn choàng tự đan, chuyển thành mẹ của một gã cưỡng hiếp bị cáo buộc?
D.D. dừng lại ở chiếc bàn cà phê. Có vẻ quá tùy tiện khi ngồi xuống, nên cô vẫn đứng yên, và Tiến sĩ Keynes cũng vậy. Căn phòng nhỏ ấm hơn nhiều so với bên ngoài, không khí ngột ngạt. Keynes cởi nút áo khoác, nới lỏng khăn choàng của mình. Bên dưới,
ông mặc một bộ vest đen. Tiêu chuẩn cung cấp của chính phủ, cô nghĩ, ngoại trừ một lần nữa, đường cắt và vải đẹp hơn nhiều so với một đặc vụ bình thường.
“Tiến sĩ Keynes.” Cô mở lời, rồi ngừng một nhịp để xem liệu ông có đề nghị được gọi bằng tên hay không. Nhưng không. “Tôi chưa làm việc với quá nhiều chuyên gia hỗ trợ nạn nhân.” D.D. cuối cùng cũng tiếp tục. “Nhưng trong trí nhớ của tôi thì trong FBI, ông không giống một đặc vụ. Vai trò của ông là…?” “Tôi là chuyên gia hỗ trợ nạn nhân. Tôi báo cáo cho OVA*: Văn phòng Hỗ trợ nạn nhân.”
Viết tắt của cụm từ Office for Victim Assistance.
“Và ông là bác sĩ.”
“Bác sĩ tâm lý.”
“Chuyên ngành?”
“Chấn thương. Tôi làm việc phần lớn với nạn nhân các vụ bắt cóc, mọi thứ từ bắt cóc trẻ em đến bắt cóc các nhà điều hành dầu mỏ để đòi tiền chuộc ở Nigeria.”
D.D. chăm chú nhìn ông. “Tôi không nghĩ… Flora?… Là một nhà điều hành công ty dầu mỏ ư?”
“Florence Dane.” Ông cung cấp cái tên, rồi nhìn chăm chăm vào cô vẻ chờ đợi.
Cái tên khuấy động trí nhớ của cô. Dựa vào vẻ mặt của ông, nên là như vậy. Hơn nữa, từ lời nói của Neil trước đó, anh biết mặt cô gái này ở đâu đó…
D.D. cuối cùng cũng nhớ ra. “Bảy năm trước. Cô ấy còn là sinh viên đại học. UMass. Đi nghỉ xuân ở Palm Beach rồi biến mất. FBI thực hiện vụ điều tra…” Cô phải suy nghĩ. “Bởi những tấm bưu thiếp, phải không? Người mẹ bắt đầu nhận được những tấm bưu thiếp, nghi ngờ được viết bởi cô con gái, nhưng từ các bang khác nhau. Người mẹ xuất hiện trên TV, tổ chức nhiều cuộc họp báo cố lôi kéo sự chú ý của kẻ bắt cóc.”
“Hơn cả những tấm bưu thiếp. Hắn gửi email, thậm chí vài đoạn phim. Gửi đến người mẹ, giày vò bà, dường như để làm thỏa mãn hắn ta như chính vụ bắt cóc.”
D.D. cau mày. “Florence Dane đã mất tích khá lâu.”
“Bốn trăm bảy mươi hai ngày.”
“Chúa ơi!” D.D. chớp mắt kinh ngạc. Rất ít nạn nhân được tìm thấy còn sống sau thời gian dài ấy. Và người làm được… “Tài xế xe container đường dài phải không?” Cô hỏi. “Thủ phạm đi khắp nơi vì công việc, lái xe container, hay thứ gì đó tương tự?”
“Đúng. Jacob Ness. Hắn đã đóng một cái thùng gỗ đặt ở phía sau cabin xe mình, để giữ nạn nhân bên mình mọi lúc. Rất có khả năng Flora không phải là nạn nhân đầu tiên.”
“Hắn đã chết, tôi nhớ như thế. Các ông đã có được đầu mối. Đội SWAT* tấn công. Florence vượt qua được, còn Jacob Ness thì không.”
Viết tắt của cụm từ Special Weapons And Tactics - Đội chiến thuật và vũ khí đặc biệt.
Tiến sĩ Keynes không nói gì. Thật theo phong cách FBI, D.D. nghĩ. Cô không hỏi, nên ông không trả lời.
“Được rồi.” Cô hoạt bát hơn. “Người bị tình nghi của chúng tôi, Flora, là nạn nhân của ông, Florence. Cô ấy từng bị bắt cóc bởi tên tâm thần điên cuồng, và giờ… sao nào? Cô ấy theo dõi người ở quán bar sao?”
“Chỉ mỗi Flora có thể trả lời câu hỏi đó.”
“Và cô ấy không trả lời. Cho đến giờ, tất cả những gì tôi có thể lấy được từ cô ấy, là những giả thuyết về tội ác của Devon Goulding, không phải của chính cô ấy.”
“Đó là người pha chế? Người bị tình nghi tấn công cô ấy?” “Đó là nạn nhân.” D.D. sửa lại. “Một người đàn ông khỏe mạnh, giờ biến thành đống tro tàn nằm còng queo trong gara của chính anh ta nhờ kiến thức về cháy hóa chất từ cô gái của ông.” Tiến sĩ Keynes quan sát cô, tư thế thư giãn, tay đút vào túi chiếc áo khoác đắt tiền một cách nực cười của ông. “Tôi chắc cô đã đặt một số câu hỏi.”
“Một số thanh tra đã kiểm tra đoạn quay an ninh của quán bar. Họ có thể chứng thực rằng Devon Goulding làm việc vào tối qua. Dựa vào đoạn phim cũng như các nhân chứng, Flora cũng có mặt, dù cô ấy dành phần lớn thời gian nhảy với một gã khác, Mark Zeilan. Thú vị là Zeilan đã báo cảnh sát khoảng sau ba giờ sáng, cho là gã pha chế từ quán Tonic đã tấn công anh ta bên ngoài quán rượu.”
“Cũng phù hợp với lời khai của Flora.” Tiến sĩ Keynes nhận xét.
“Một đoạn camera từ máy ATM cách đó một dãy nhà quay được cảnh có vẻ như Devon dùng tay kéo Flora đi. Về việc cô ấy có sẵn lòng không… tôi được bảo rằng cũng khó mà nói được.” “Tiến nhanh về phía hiện trường này…”
“Tất nhiên. Tiến về gara nhà Goulding.”
D.D. nói tiếp:
“Đội phản ứng khẩn cấp phát hiện Flora trần truồng, với đôi bàn tay bị cột ra phía trước.”
“Có vẻ cô có được thông tin đầy đủ chi tiết.”
Ông rút lại nhận xét đó, thay vào đó, nói: “Cổ tay bị cột có vẻ như không thể hiện sự sẵn sàng.”
“Xin lỗi. Trong thế giới của Năm mươi sắc thái, tôi không thể đưa ra giả định như vậy. Nói tôi nghe nào, Tiến sĩ Keynes. Ông là chuyên gia hỗ trợ nạn nhân của Flora, hay bác sĩ tâm lý của cô ấy?”
“Tôi là một chuyên gia hỗ trợ nạn nhân.” Tiến sĩ Keynes nói rõ ràng. “Không phải bác sĩ tâm lý.”
“Nhưng cô ấy đã gọi cho ông. Không phải mẹ cô ấy. Không phải luật sư. Cô ấy gọi ông. Tại sao?”
“Cô nên hỏi Flora câu hỏi đó.”
“Hai người có mối quan hệ nào đó.” D.D. quả quyết.
“Không.”
“Ừm, được thôi. Giữa khủng hoảng, cô ấy gọi cho ông. Và tôi sẵn sàng cá đây không phải là lần đầu tiên.”
Tiến sĩ Keynes mím môi. Thật là một người đàn ông đẹp, D.D. nhủ thầm lần nữa. Đẹp, giàu, thành công. Cây thánh giá ông phải mang. Và vẫn còn điều gì đó về ông. Vẻ nghiêm trang. Vẻ buồn bã? Cô không thể xác định được điều đó. Nhưng có chút gì đó ảm đạm trong sự điềm tĩnh của ông khiến cô không thể ghét được.
“Cô nên hỏi Flora nhiều hơn.” Cuối cùng ông nói. “Cô ấy thích sự chân thật. Cách tiếp cận thẳng thắn. Tôi nghĩ cô sẽ thấy… Cô ấy cảm thấy cô đơn, Thượng sĩ ạ. Những kinh nghiệm của cô ấy, những điều cô ấy đã trải qua. Cô ấy là một người rất đặc biệt, rất mạnh mẽ. Nhưng cô ấy cũng rất cô đơn. Có rất ít người sống sót sau những gì cô ấy đã trải qua.”
“Nghĩa là trong khi khủng hoảng.” D.D. thì thầm. “Cô ấy tìm đến người cô ấy nghĩ là hiểu mình nhất. Không phải gia đình. Mà là ông.” “Cô nên hỏi cô ấy nhiều hơn.” Ông lặp lại. “Và đừng bỏ qua những câu trả lời. Từ khi quay về năm năm trước, Flora đã chọn hành vi tội phạm làm chuyên môn của mình.”
“Thật vậy sao?”
“Nếu cô ấy cho rằng gã pha chế đã bắt các cô gái khác, tôi sẽ không ngạc nhiên khi phát hiện đúng là như vậy.”
“Ông có làm việc với gia đình Stacey Summers không?” D.D. đột nhiên hỏi.
Keynes lắc đầu. Nếu có ngạc nhiên trước việc thay đổi chủ đề một cách đột ngột này, thì ông đã không để lộ ra điều đó. “Một đồng nghiệp của tôi, Pam Mason, được phân công phụ trách vụ án đó.”
“Flora đã bao giờ nói chuyện với ông về sự biến mất của Stacey chưa? Hay việc theo dõi nó ở mục tin tức?”
“Trái ngược với những gì có vẻ như cô đang tin, Flora và tôi không nói chuyện với nhau thường xuyên.”
“Chỉ khi nào cô ấy bị cảnh sát bắt giữ thôi ư?” D.D. khiêu khích. “Dựa vào những vết bầm tím của cô ấy, cô ấy có vẻ nói thật về việc bị bắt cóc bởi Devon Goulding.” Tiến sĩ Keynes nói một cách trung lập. “Nghĩa là bất cứ cách nào cô ấy thực hiện để tự vệ…” “Tại sao cô ấy lại không chấp nhận chăm sóc y tế? Nếu cô ấy vô tội đến thế, sao không để chuyên gia y tế thực hiện cuộc kiểm tra chính thức, giúp chứng thực cho câu chuyện của cô ấy?” “Nạn nhân của những vụ hiếp dâm và các tội phạm bạo hành khác không thích sự tiếp xúc cơ thể.”
“Thật sao? Điều đó giải thích tại sao Flora Dane xuất hiện ở quán bar, nốc nhiều ly martini và rồi nhảy cả đêm với một người hoàn toàn xa lạ?”
“Tôi không phải là kẻ thù ở đây, Thượng sĩ Thanh tra Warren. Tôi chỉ cố gắng cung cấp một số thông tin chi tiết có thể dẫn đến việc giải quyết nhanh hơn tình huống này.”
“Tình huống nạn nhân của ông đặt bản thân mình vào con đường nguy hiểm là nhằm mục đích gì? Bẫy một gã săn mồi? Cứu vãn tình thế? Trả thù cho những gì từng xảy ra với mình trước kia?”
Tiến sĩ Keynes không nói gì cả. Đột ngột, D.D. mất hết cả kiên nhẫn.
“Ông muốn giải pháp nhanh chóng? Hãy cho cả hai chúng ta một ân huệ và ngừng cuộc đuổi bắt này lại. Đã bao nhiêu lần Flora từng làm điều này trước đây? Đã bao nhiêu cú điện thoại giữa đêm mà ông phải trả lời? Ông nên trả lời tôi, bởi ông biết tôi có thể tìm hiểu mà.”
“Bốn.”
“Bốn lần?” D.D. kinh ngạc. “Flora Dane đã giết người bốn lần trước đây? Cái quỷ quái…”
“Không giết.” Tiến sĩ Keynes xen vào, giọng cứng cỏi. “Mức độ tự vệ như thế này là lần đầu tiên.”
“Sao cơ? Cô ấy chỉ làm cháy xém những người khác? Đốt họ bằng một cái bật lửa so với một đám cháy hóa chất thực sự?” “Flora đã bị tấn công trước vụ này. Nếu cô đọc báo cáo, cô sẽ thấy rằng cô ấy đã phản ứng ở một mức độ sức mạnh thích hợp và không phải đối mặt với bất kỳ trách nhiệm nào.”
“Cô ấy là một hiệp sĩ. Cô gái của ông, nạn nhân của ông…” “Flora Dane là người sống sót.”
“Flora Dane là kẻ điên rồ. Cô ấy đến những quán bar đó tìm kiếm rắc rối. Cô ấy săn lùng chúng.”
Tiến sĩ Keynes không nói ngay. Thông minh đấy, D.D. nghĩ, bởi vì, đến mức này, còn gì để nói nữa?
“Tôi sẽ theo đuổi chuyện này.” Cô tuyên bố rõ ràng. Căn phòng nhỏ. Giọng cô vang vọng và cô để yên như vậy. “Có thể hết vụ này đến vụ khác ông bỏ qua hành vi của Flora, nhưng về tổng thể thì
sao? Với tất cả sự tôn trọng, Tiến sĩ Keynes ạ, hành vi của Flora Dane là đe dọa cho bản thân cô ấy và cả những người khác.” “Để tôi cũng nói rõ ràng tương tự, Thượng sĩ Thanh tra Warren. Theo Flora, cô ấy không hề biết người pha chế tên Devon Goulding trước buổi tối hôm qua. Cô ấy không lên kế hoạch gặp anh ta, cũng không dính líu đến bất kỳ hành động nào nhằm đảm bảo anh ta bắt cóc cô ấy bên ngoài quán bar, rồi cột cô ấy lại trần truồng trong gara của anh ta. Với những gì xảy ra sau đó, hãy thận trọng trong việc đổ lỗi cho nạn nhân. Flora không gọi cho tôi đến để bảo lãnh cho cô ấy, cô ấy không bao giờ cần phải bảo lãnh. Điều cô ấy cần là một chuyến xe về nhà.”
D.D. trợn mắt nhìn ông. “Nghiêm túc chứ. Cô ấy gọi ông, một đặc vụ FBI…”
“Một chuyên gia hỗ trợ nạn nhân.”
“Để chở cô ấy về nhà.”
“Như vậy là đúng hơn đấy.”
“Ý ông là, ví dụ như khi ông ở đây, ông có thể giúp giải quyết vấn đề với cảnh sát?”
“Không, ví dụ như khi tôi đưa cô ấy trở về nhà, tôi có thể giúp giải quyết vấn đề với mẹ cô ấy.”
CHƯƠNG 8
Tôi mơ đến món khoai tây chiên. Nóng rẫy, tẩm dầu vàng ươm. Lấm tấm muối bên ngoài. Tôi liếm chúng, nghiền nát chúng, nhét chúng vào miệng. Tôi muốn thật nhiều. Những bịch đầy. Những hộp đầy. Nhúng trong tương cà. Bọc trong xốt mayonnaise. Phủ trong xốt kem.
Và một miếng bò nướng phô mai nóng chảy nằm trên lớp bánh mì trắng mềm mại, chất cao với những lát cà chua mới cắt, hành tây và dưa muối. Tôi sẽ tham lam nhai ngấu nghiến, sẽ cắn ngập răng, cảm nhận chất béo và chất bột đường tràn ngập trong miệng mình.
Tôi mơ thấy thức ăn. Bởi bụng tôi sôi ùng ục, các cơ bắp siết chặt và tôi rên rỉ trong nỗi đau đớn thể xác.
Thế rồi tôi tỉnh giấc.
Và tôi có thể ngửi thấy nó. Ở đây, ngay trong căn phòng này. Đầy đủ những món thức ăn nhanh. Bánh mì phô mai. Khoai tây chiên. Gà McNuggets. Tôi cũng có thể nghe thấy nó, tiếng lạo xạo của lớp giấy gói, tiếng póc của ống hút đút vào nắp nhựa.
Tôi nghĩ tôi lại rên rỉ lần nữa. Không có chút sĩ diện nào khi đói. Chỉ còn sự tuyệt vọng.
Bước chân đến gần hơn. Trong một thoáng, tôi cầu nguyện hắn bước nhanh hơn, tiến nhanh hơn. Cho chìa khóa vào ổ, xoay nó mở ra, Làm ơn. Làm ơn đi mà!
Bất cứ điều gì hắn muốn tôi làm. Bất cứ điều gì hắn cần. Khoai tây chiên. Mùi khoai tây chiên.
Khi hắn nhấc nắp thùng ra, tôi phải nheo mắt trước cơn lũ ánh sáng quét qua. Từ những tia sáng hẹp chiếu qua những lỗ cỡ ngón tay đến nguồn sáng ngập tràn. Mắt tôi mọng nước. Có thể là phản ứng với những kích thích thị giác đột ngột, nhưng phần lớn là do mùi. Mùi thơm ngất ngây, tuyệt vời.
Những ký ức. Xa xôi. Sống động. Tôi chạy băng qua những vòi xịt nước trên đôi chân ngắn mũm mĩm, cười lớn trong niềm hân hoan trẻ thơ khi cố bắt lấy những tia nước trên lưỡi mình. Rồi một giọng nói xa xôi nhưng quen thuộc. “Mệt chưa, bé cưng? Đi mua một ly sữa lắc nhé…”
Lướt nhanh qua nhiều năm. Những ký ức mới mẻ: đôi tay đồi mồi do tuổi tác thoáng run rẩy không vững khi đặt chiếc khay nhựa màu nâu nặng nề xuống. “Tương cà à? Không đâu. Thứ ngon nhất ăn với khoai tây chiên là xốt mayonnaise. Nè, nhìn đây…”
Trong một khoảnh khắc, tôi lên bốn hay sáu hay tám, hay mười. Tôi là một đứa trẻ, một cô gái, một người phụ nữ. Tôi là tôi. Với quá khứ và hiện tại. Với gia đình và bè bạn. Với những người yêu mến tôi.
Rồi hắn cất tiếng nói và tôi biến mất lần nữa.
Chỉ có thức ăn và tôi sẽ làm bất cứ điều gì vì chúng.
Hắn phải giúp tôi ra khỏi thùng. Tôi cố gắng hết sức để tập thể dục nhiều nhất có thể trong không gian chật hẹp đó, nhưng thời gian kéo dài ra và tôi không nhớ được mình nên làm gì hay mình đã làm nó chưa. Tôi ngủ nhiều. Ngủ và ngủ và ngủ.
Khi đó, tôi không phải đau đớn nhiều như thế nữa.
Khi cuối cùng tôi nâng người dậy để đứng lên, đôi chân tôi run rẩy không kiểm soát được. Tôi gập người theo phản xạ, như thể vừa nhận một cú đánh, nhưng tôi không thể đổ lỗi cho tư thế khom người của mình trong thùng. Tôi đã luôn phải nằm thẳng trong chiếc thùng ấy.
“Đói không?” Hắn hỏi tôi.
Tôi không trả lời. Tôi không chắc mình có nên trả lời không. Bên cạnh đó, bao tử tôi sôi sùng sục đủ to để thay thế cho lời nói. Hắn cười. Hắn đang có tâm trạng tốt. Thậm chí vui vẻ. Tôi thấy mình đứng thẳng hơn. Tối nay hắn sạch sẽ hơn, tôi để ý thấy điều đó. Mái tóc ẩm ướt, như thể hắn vừa gội đầu. Và hắn đứng vững vàng trên đôi chân, mắt sáng, điều không thường xảy ra. Tôi thấy mình nhìn qua hắn, đến cái bàn vuông màu xám mòn vẹt. Thức ăn. Hàng túi. McDonald’s. Gà rán Kentucky. Burger King. Bánh kẹp subway. Một bữa tiệc thức ăn nhanh.
Hắn đang say sưa, tôi nhận ra. Thức ăn, lần này không phải ma túy. Nhưng tại sao? Và tôi thì sao?
“Mày đói không?” Hắn hỏi lại.
Tôi vẫn không biết phải nói gì. Thay vào đó, tôi rên rỉ. Hắn cười một cách dễ dãi. Căn phòng này là vương quốc của hắn. Tôi hiểu điều đó. Ở đây, tôi là vật sở hữu của hắn và hắn đã vui chơi trong quyền lực của mình. Ngoài những bức tường này, không nghi ngờ hắn là một kẻ Thua cuộc, với chữ T viết hoa. Phụ nữ cười vào mặt hắn. Vì thế hắn cần căn phòng này, cái thùng này, nạn nhân bất lực này.
Và giờ, bài tập kinh hoàng này.
Tôi di chuyển một cách dò xét. Đến lúc này tôi đã học được rằng sự cho phép của hắn là vô cùng quan trọng. Và mọi thứ hắn cho, hắn cũng có thể lấy lại, nên tôi phải tiến hành một cách thận trọng. Khi hắn không phản đối, không đưa tay ra để ngăn tôi lại, tôi tiến lại gần cái bàn phủ đầy thức ăn. Rồi tôi đứng đó, cúi đầu, tay siết chặt phía trước. Tôi chờ đợi, dù đó là sự chờ đợi đau đớn nhất tôi từng làm. Mỗi bó cơ run rẩy, bụng tôi siết chặt đến không thể chịu được.
“Mày muốn gì?” Hắn hỏi.
Tôi cau mày, câu hỏi của hắn khiến tôi bối rối. Tôi không biết mình muốn gì. Tôi đã được đào tạo mấy tuần vừa qua để trở thành không ai cả, để muốn không gì cả. Đó là công việc của tôi. Giờ, tôi cảm thấy sợ. Bởi mùi hương quá hấp dẫn, choáng ngợp. Tôi có thể cảm thấy sự tự chủ của mình trôi tuột đi và tôi không đủ sức để gây rối.
Tệ hơn đói, đó là vây quanh bởi thức ăn và vẫn đói.
“Mày nên ăn.” Cuối cùng hắn nói. Hắn chộp lấy cánh tay xương xẩu của tôi, véo chỗ xương sườn nhô ra. “Quá gầy ốm. Mày biết không, mày trông như đống cứt.”
Hắn nhặt lấy túi thức ăn gần hắn nhất. Mở nó ra, vung vẩy dưới mũi tôi.
Khoai tây chiên McDonald’s. Nóng, vàng và có vị mặn. Tôi có thể nghe thấy tiếng ông tôi lần nữa. “Nhìn này, nhóc, thứ ngon nhất ăn cùng khoai tây chiên là xốt mayo.”
Tôi tự hỏi không biết cuối cùng ông có xuất hiện ở đây để mang tôi đi không. Ngoại trừ việc tôi không muốn đi cùng ông nữa. Tôi muốn được ở ngay đây, trong căn phòng tồi tàn này, với gã đàn ông kinh khủng này, và những miếng khoai tây chiên tuyệt vốn béo ngậy này. Làm ơn, làm ơn, làm ơn cho tôi ăn, dù chỉ một miếng…
Tôi sẽ làm bất cứ điều gì, sẽ là bất cứ ai…
Gã đàn ông tháo vòng cuộn phía trên túi giấy. Giờ thì hắn cho tay vào. Hắn rút ra một hộp đỏ với một chữ M duy nhất màu vàng. Những miếng khoai tây chiên chen chúc lỏng lẻo phần miệng hộp. Chúng rớt xuống sàn, trên tấm thảm dơ bẩn. Tôi nhìn chúng đáp xuống, những ngón tay tôi siết chặt rồi thả lỏng, toàn thân tôi căng ra.
Hắn chuẩn bị ăn chúng. Hắn chuẩn bị đứng trước mặt tôi và nhai từng miếng khoai hoàn hảo, mặn mòi. Cười lớn, hả hê vui sướng. Và tôi không có sự lựa chọn nào khác ngoài việc giết hắn. Tôi sẽ mất tự chủ, tôi sẽ tấn công, và hắn sẽ… Hắn sẽ…
Hắn đưa tôi chiếc hộp. “Này, thật đấy. Đắp ít thịt vào xương của mày đi.”
Tôi chộp lấy hộp khoai tây chiên. Cả hai tay vồ lấy cái hộp đỏ. Nó không còn nóng nữa. Những miếng khoai chỉ hơi ấm, mỡ bắt đầu đóng lại. Nhưng tôi không quan tâm. Tôi nhét khoảng chừng nửa hộp
khoai vào miệng, nuốt chúng nhanh hơn mình có thể nhai. Thức ăn, thức ăn, thức ăn. Tôi cần thức ăn, tôi phải có thức ăn. Chúa ơi, Chúa ơi, Chúa ơi!
Hắn bắt đầu cười. Tôi không nhìn hắn, giữ sự tập trung của mình vào túi thức ăn. Tôi cần ăn. Tôi phải ăn. Dạ dày tôi, cơ thể tôi, mọi tế bào gào thét đòi hỏi chất dinh dưỡng.
Miệng tôi quá khô, những miếng khoai quá dày. Tôi cố nuốt, nhưng chỉ có thể nén trong miệng cho đến khi nước mắt trào ra. Tôi chuẩn bị ói, tôi nghĩ, nhưng tôi không thể ói. Tôi không thể phí phạm nhiều calo như thế. Tôi cố đẩy thức ăn xuống, một khối khổng lồ khoai tây đông cứng. Mắt tôi mọng nước, cổ họng tôi co thắt đau đớn. Dạ dày tôi căng lên phản đối…
Hắn đặt tay hắn trên cánh tay tôi.
Tôi nhìn chòng chọc vào hắn, tê liệt. Là nó đấy: hắn chuẩn bị lấy thức ăn ra khỏi miệng tôi. Sẽ dùng ngón tay và móc ra toàn bộ lượng thức ăn lần đầu tiên tôi có trong suốt nhiều ngày qua. Và sẽ như thế. Hắn sẽ đưa tôi trở về cái thùng gỗ có kích cỡ như cỗ quan tài và tôi sẽ chết ở đó.
“Chậm lại.” Hắn ra lệnh. “Uống chút nước. Từ từ thôi. Nếu không, mày sẽ nôn đấy.”
Hắn đưa tôi một chai nước. Tôi uống từng ngụm nhỏ, từng chút, từng chút một, làm mềm khối thức ăn, nuốt nó xuống. Khi tôi đưa tay định lấy thêm một nắm khoai tây khác, hắn lấy cái hộp khỏi tôi. Lần này, hắn chia từng miếng khoai trên mặt bàn vuông mòn vẹt. Từng cái một, tôi nhặt lên. Từng cái một, dưới đôi mắt trông chừng của hắn, tôi nhai nuốt, nhai lần nữa.
"""