"
Chuyện trong Cung Cấm Tập 1 - Hướng Tư full prc pdf epub azw3 [Bí ẩn]
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Chuyện trong Cung Cấm Tập 1 - Hướng Tư full prc pdf epub azw3 [Bí ẩn]
Ebooks
Nhóm Zalo
Chương I
Sự khó xử và phiền muộn của Tần Thủy Hoàng
I. Thân thế bất hạnh
Tần Thuỷ Hoàng Doanh Chính dẹp loạn 6 nước, thống nhất thiên hạ, lập nên đế quốc chuyên chế tập quyền to lớn đầu tiên của Trung Quốc.
Tuy nhiên, chính nhân vật oai phong lẫm liệt với sự thống trị cứng rắn, làm cho hoàng thất, quý tộc 6 nước nghe tên phải biến sắc, chính vị hoàng đế đầu tiên của đại đế quốc chuyên chế đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc này, vì có một người mẹ họ Triệu đa tình và xinh đẹp, có một thân thế bất hạnh không rõ ràng, làm cho ông bắt đầu cảm thấy khó xử từ khi hiểu chuyện đời, làm cho một người đã cô độc, hướng nội ngày càng trầm lặng ít lời hơn, không buồn nói cười hơn; sau khi lên ngôi hoàng đế, cũng chính sự phong lưu đa tình của người mẹ họ Triệu, làm cho ông ngày càng rơi sâu xuống sự buồn khổ, ông đành phải bó tay, đi vào đường cùng, cuối cùng ông giải quyết bằng trận chiến tàn sát đẫm máu do đoàn cấm vệ quân của mình thực hiện, loại trừ người tình mà mẹ ông yêu thương hết mực, tức người cha giả của Tần Thủy Hoàng, giam mẹ vào lãnh cung lạnh lẽo.
Thân thế bất hạnh của Tần Thuỷ Hoàng là sự lẫn lộn khó phân biệt trong lịch sử.
Mẹ của Tần Thuỷ Hoàng họ Triệu, Triệu Cơ, là người phụ nữ như thế nào? Làm thế nào mà bà ta có thể từ một ca kỹ phong lưu xinh đẹp trở thành thái hậu được muôn vạn thần dân ngưỡng mộ? Đó thật sự là một câu đố trong thâm cung đế quốc Đại Tần làm mọi người phải lẫn lộn và được cấm cung giữ kín như bưng.
Tổ tiên của nhà Tần là một quan giữ ngựa của thiên tử nhà Chu, vì giữ ngựa có công, nên được thiên tử nhà Chu coi trọng, phong làm Thái Ba. Đất phong của Thái Ba hiện là huyện Long Tây tỉnh Cam Túc. Thiên tử nhà Chu phong tặng họ Doanh, gọi là Tần Doanh.
Trải qua mấy trăm năm thử thách, vào những năm cuối của thời Chiến Quốc chiến đấu quần hùng, nhà Tần mạnh lên nhanh chóng, do không ngừng thôn tính và mở rộng, cuối cùng cũng trở thành một trong bảy nước chư hầu có thực lực hùng mạnh nhất.
Khu vực của nhà Tần rất rộng lớn, thực lực hùng hậu, binh quyền hùng mạnh. Trên danh nghĩa, thiên tử nhà Chu cai quản tất cả thiên hạ, nhưng thực tế lại chỉ là hư danh, hiệu lệnh chẳng qua chỉ là vùng Vương Kỳ nhỏ bé. Thiên tử nhà Chu ngày đêm nơm nớp lo sợ, biết rằng vận mệnh của mình nằm trong tay của các chư hầu, không biết ngày nào làm chư hầu nổi giận, chư hầu dấy binh đánh vào, thay thế chỗ của mình. Thiên tử nhà Chu sống cẩn thận qua ngày, hơn nữa lại tham sống mà cố thủ Vương Kỳ nhỏ bé, luôn lo sợ hành động hoặc lời nói đụng chạm đến những chư hầu có binh lực mạnh, nhất là một nước Tần luôn nhòm ngó vào lãnh địa của mình.
Năm 256 trước Công Nguyên, thiên tử nhà Chu luôn cẩn thận sống qua ngày cuối cùng cũng làm Tần Vương tức giận, Tần Vương quắc mắt lạnh lùng, thiên tử nhà Chu sợ đến vỡ mật, nhanh chóng hiến tặng 36 thành và 3 vạn hộ dân của Vương Kỳ cho Tần Vương để được tha mạng sống, để bảo vệ địa vị thiên tử hữu danh vô thực của mình. Tần Chiêu Tương Vương tự nhiên chuyển giận thành vui, ngang nhiên tiếp nhận cống vật từng là vùng đất quan trọng của thiên tử, đường đường chính chính trở thành người thống trị của 36 thành và 3 vạn hộ dân của Vương Kỳ.
Thiên tử nhà Chu oan ức cầu toàn, chỉ muốn giữ lại địa vị thiên tử của mình. Nhưng, tham vọng của chư hầu quá lớn, thứ muốn đoạt đến cuối cùng chính là vị trí thiên tử của thiên hạ. Nhượng bộ và tham vọng không thể điều hoà được, cuối cùng thiên tử nhà Chu cũng đã hết đường lui, cùng với sự diệt vong của nhà Chu, thiên tử nhà Chu cũng bước vào đường cùng. Lịch sử Trung Quốc bước vào thời đại Chiến Quốc tranh hùng như thế đấy. Thay thế cho vị trí của thiên tử đương nhiên là nước Tần hùng mạnh nhất,
Tần Chiêu Tương Vương đột nhiên trở thành lãnh tụ của các nước chư hầu.
Tần Chiêu Tương Vương hơn 70 tuổi đã rong ruổi trên sa trường hơn nửa thế kỷ, ông biết rằng ngày tháng của mình đã không còn lâu nữa. Ai sẽ thay thế vương vị? Thái tử Trụ hiệu là An Quốc Quân, thái tử đương nhiên là người thừa kế vương vị sau này, nhưng Chiêu Tương Vương vẫn còn do dự. Thái tử Trụ sa vào nữ sắc, mỹ nữ tì thiếp ở hậu cung quá nhiều, người được sủng ái nhất là mỹ nữ nước Sở eo thon ngực đầy, ông lập nàng ta làm chính phi, gọi là Hoa Dương phu nhân, mà chính phi phu nhân này cuối cùng cũng chỉ biết hưởng lạc, nhưng lại không thể sinh con trai. Tương lai của vương thất nhà Tần càng làm cho Chiêu Tương Vương lo lắng hơn.
Trong số rất nhiều phi của Thái tử Trụ, Hạ Cơ bị đối xử lạnh lùng nhất, con trai của Hạ Cơ là Tử Sở đương nhiên cũng bị thất sủng. Tử Sở nằm trong số rất nhiều con trai của Thái tử Trụ, và cũng là vị hoàng tôn không được sự chú ý của Chiêu Tương Vương. Khi đó là thời đại tranh hùng Chiến Quốc, các nước kiêng kỵ lẫn nhau, lại lợi dụng lẫn nhau, thế là, các nước cử vương tộc tử tôn của mình sang các nước khác làm con tin, để tạo sự tín nhiệm lẫn nhau. Tử Sở bị Chiêu Tương Vương đưa sang nước Triệu làm con tin.
Có một lần nước Tần giết chết 40 vạn binh sĩ của nước Triệu, quan hệ giữa Tần, Triệu luôn ở vào thế căng thẳng. Người nước Triệu căm ghét Tây Tần, trước tình hình đó, với vai trò là con tin, cuộc sống của Tử Sở trở nên thảm hại là điều tất nhiên. Tần, Triệu hai nước gần nhau, có khi xảy ra công phạt chinh chiến, hơn nữa nước Triệu gần như lần nào cũng thất bại, người Triệu tràn đầy căm hận đương nhiên không thể đối xử với con tin Tử Sở bằng lễ nghi được.
Vương tôn Tử Sở đang giãy giụa tuyệt vọng trong dầu sôi lửa bỏng, thì gặp đại thương nhân có tri thức hơn người Lã Bất Vi. Từ đó về sau, vận mệnh của Tử Sở được thay đổi nhanh chóng, địa vị chính trị của ông cũng thay đổi theo, cuối cùng được bước lên hoàng vị, quân giám thiên hạ, và từ đó trở đi phu nhân của Tử Sở Triệu Cơ cũng có thế lực hơn, sinh ra đứa con trai của Lã Bất Vi, đặt tên là Doanh Chính.
Đại thương nhân nước Hàn Lã Bất Vi là người Dương Cù, chính là huyện Vũ, tỉnh Hà Nam. Ông là người rất sáng suốt, thường buôn bán giữa hai nước Hàn, Triệu, kiếm được rất nhiều tiền, và khá nổi tiếng tại Hàm Đan, có thể ra vào đại viện hoàng cung. Một Lã Bất Vi vừa là thương gia giỏi giang vừa là nhà chính trị thông minh thừa biết mối quan hệ giữa Triệu, Tần và phía sau thâm cung của nhà Tần hùng mạnh, Lã Bất Vi chuyển sang đầu cơ chính trị sau khi trở nên giàu có, chuyển tiền đánh bạc sang một Tử Sở không có địa vị nào trong cung nhà Tần và chịu hết mọi cực khổ dày vò. Lã Bất Vi rất tự tin với bản thân mình.
Cuộc đối thọai giữa Lã Bất Vi và phụ thân ông ta đã thể hiện kiến thức phi phàm của Lã Bất Vi. Lã Bất Vi hỏi, cha ông trả lời:
- Ra sức cày ruộng thì lãi mấy phần?
- Nếu bội thu, thì lãi được mười phần.
- Buôn bán châu báu thì được mấy phần?
- Nếu làm giỏi, thì được trăm phần.
- Nếu đầu tư vào một con người, giúp anh ta có được vương vị, cai quản thiên hạ, nếu lần đầu tư lớn này thành công thì có được lãi bao nhiêu phần?
Cha của Lã Bất Vi bị bắt bí. Đúng vậy, câu hỏi đó không ai có thể trả lời, chỉ có thể nói đó là kẻ si mê đang nói mơ. Do đó, cha của Lã Bất Vi mắng ông, bảo ông hãy sống cho thật tốt, đừng có mà nằm mơ giữa ban ngày.
Lã Bất Vi cứ muốn nằm mơ giữa ban ngày. Ông mặc quần áo đẹp, cưỡi ngựa chắc khỏe, chạy thẳng một mạch đến quán xá của Tử Sở tại thành đô nhà Triệu Hàm Đan, cầu kiến vị hoàng tôn u buồn không vui này. Tử Sở nhìn thấy người khách có phong thái hiên ngang, trang phục hoa lệ, nên hỏi người khách: Có gì chỉ giáo? Không ngờ người khách lại quá thẳng thắn, nói rằng có cách để đưa Tử Sở bước vào lầu cao đệ
nhất!
Sau một hồi thăm dò, Lã Bất Vi trình bày kế họach của mình: Tần Chiêu Tương Vương đã hơn 70 tuổi, thái tử An Quốc Quân không bao lâu nữa sẽ lên ngôi. Tuy nhiên, thái tử sủng hạnh chính phi, nhưng chính phi Hoa Dương phu nhân lại không có con trai. An Quốc Quân lại có hơn 20 người con trai, Tử Hề sống lâu, có binh sĩ hỗ trợ, thanh danh rất tốt, rất có khả năng trở thành người thừa kế sau này. Công tử ở giữa các anh em của ngài, lại làm con tin bên ngoài lâu ngày, hoàng tổ và phụ thân đều rất ít thân cận, trong cung thì không có người tương trợ, một khi An Quốc Quân lên ngôi, muốn lập làm đích tử, cũng không có khả năng nữa. Muốn thay đổi hoàn cảnh trước mắt, kết thúc cuộc sống như giam cầm này, kế họach trước mắt là chỉ cần cố gắng, việc do ta tự làm, còn kịp!
Tử Sở bị chấn động bởi sự phân tích của Lã Bất Vi. Tiếp đó, Lã Bất Vi cho biết ông sẽ cố gắng hết sức, giúp Tử Sở lấy lại vai trò người thừa kế vương vị: giúp đỡ tiền bạc hậu hĩnh, đến kinh đô nhà Tần họat động khắp nơi vì Tử Sở, nhất là lấy lòng Hoa Dương phu nhân; Hoa Dương phu nhân không có con trai, một khi bà nhận lời, nhờ bà nói vài câu trước mặt An Quốc Quân, thì Tử Sở rất có khả năng trở thành người thừa kế.
Tử Sở bị tác động bởi kế họach này, cảm kích hứa với Lã Bất Vi rằng: một khi kế họach thành công, có được nước Tần thì sẽ cùng nhau tận hưởng. Cục đá trên vai của Lã Bất Vi cuối cùng cũng rơi xuống đất. Tiếp đó Lã Bất Vi tặng 500 lạng vàng cho Tử Sở, để ông kết giao với các nhân vật nổi tiếng của nước Tần và các nước khác, lễ hiền hạ sĩ, lấy danh tiếng. Nhất là phải đối xử hậu hĩnh với các quan trong cung nhà Tần, nên bày tỏ ý ngưỡng mộ An Quốc Quân và Hoa Dương phu nhân, khiêm ti lễ nhường, để tiếng thơm lan truyền ra ngoài.
Mọi việc đều được thực hiện theo kế họach, hết sức thuận lợi. Tử Sở được sự yêu mến của Hoa Dương phu nhân, An Quốc Quân khắc một ngọc phù làm tín vật xác định địa vị người thừa kế của ông, người thừa kế vương vị Tử Sở đang đợi ngày lên ngôi. Lã Bất Vi cũng đường đường chính chính từ một thương nhân buôn bán trở thành người thầy bảo vệ Tử Sở.
Lã Bất Vi giàu có một phương, phủ đệ vàng ngọc huy hoàng, mỹ nữ nhiều vô kể. Trong đó có giai nhân tuyệt sắc hát giỏi ca hay mà Lã Bất Vi rất sủng ái, tên là Triệu Cơ. Lã Bất Vi và Triệu Cơ chung tình hưởng lạc, hình bóng không rời; không lâu thì Triệu Cơ có mang. Lúc này, Tử Sở đến Lã phủ dự yến tiệc lần đầu, tình cờ gặp được tuyệt sắc giai nhân Triệu Cơ, Tử Sở vừa gặp đã chung tình, đòi Lã Bất Vi tác hợp. Sau khi suy nghĩ kỹ, Lã Bất Vi kiến thức hơn người khảng khái tặng người đẹp cho Tử Sở. Tử Sở quá đỗi vui mừng, vô cùng cảm kích Lã Bất Vi. Không lâu sau, Triệu Cơ được Tử Sở sủng ái đã sinh ra đứa con trai của Lã Bất Vi. Tử Sở cứ ngỡ rằng đó là con ruột của mình, vui mừng khôn xiết, đặt tên con là Doanh Chính. Đó chính là Tần Thuỷ Hoàng sau này.
II. Diệu kế kim thiền thoát xác
Năm 255 trước Công Nguyên, Tần, Triệu hai nước giao tranh ác liệt. Đại tướng của Tần lãnh binh bao vây thành Hàm Đan. Tử Sở và Lã Bất Vi bị vây hãm trong thành rơi vào cảnh hết sức nguy hiểm. Lã Bất Vi mua chuộc người giữ cổng thành bằng số tiền hậu hĩnh, dễ dàng chạy khỏi thành Hàm Đan cùng với Tử Sở, trở về nước Tần. Phu nhân của Tử Sở Triệu Cơ hoá trang chạy trốn, dẫn theo con trai sống lẫn trong dân gian, để bảo toàn tính mạng.
Năm 250 trước Công Nguyên, Chiêu Tương Vương băng hà, An Quốc Quân kế vị, chính là Tần Hiếu Văn Vương. Hoa Dương phu nhân được lập làm hoàng hậu, Tử Sở được lập làm thái tử. Hiếu Văn Vương cho sứ giả đến nước Triệu, đón phu nhân của Tử Sở - Triệu Cơ và con trai về nước. Chưa tới một năm, Hiếu Văn Vương bệnh nặng băng hà, Tử Sở kế vị, lấy tên Tần Trang Tương Vương, Hoa Dương phu nhân trở thành Hoa Dương thái hậu, mẹ ruột của Tử Sở - Hạ thị được tôn làm Hạ thái hậu. Phu nhân Triệu thị được lập làm hoàng hậu, con trai Doanh Chính lập làm thái tử. Lã Bất Vi được bái làm tướng quốc, tước Văn Tín Hầu, có 10 vạn hộ.
Trang Tương Vương ở ngôi vua 3 năm thì qua đời, thái tử Doanh Chính kế vị, lúc 13 tuổi. Doanh Chính tôn mẹ ruột - Triệu thị lên làm thái hậu. Lã Bất Vi vẫn làm tướng quốc, tôn xưng trọng phụ, mọi việc trong triều đình dường như hoàn toàn nằm trong tay của Văn Tín Hầu Lã Bất Vi. Thiên hạ lúc này đã không còn là thiên hạ của nhà Tần nữa, mà là thiên hạ của cha con Lã Bất Vi và Triệu Cơ, nhưng Doanh Chính lại không biết cha thật của mình là ai, chỉ biết mình là con trai của Trang Tương Vương, máu chảy trong người là máu của Tần Vương. Nhưng sự buồn phiền và khó xử của Doanh Chính ngày càng tăng lên theo thời gian.
Triệu thái hậu biết cha ruột của con trai là ai. Bà yêu con nhưng chịu góa khi còn quá trẻ, nên càng quyến luyến người tình Lã Bất Vi của mình. Thâm cung đêm dài cô độc, Triệu thái hậu phải đối mặt với hai mong muốn trong người, đó là trở thành một quốc mẫu mẫu nghi thiên hạ hay là một người bình thường được hưởng lạc cuộc đời, và bà đang nghiêng dần về loại người thứ hai. Triệu thái hậu sống trong cung, thường triệu kiến Lã Bất Vi vào buổi sáng và đêm khuya, họ gặp nhau đương nhiên không phải bàn bạc quốc gia đại sự, mà là nối lại tình xưa, kể về sự ly biệt.
Triệu thị của ngày xưa chẳng qua chỉ là một ca kỹ có địa vị thấp kém, là thứ đồ chơi được thương nhân Lã Bất Vi gọi thì đến đuổi thì đi. Sự ân ái của Lã Bất Vi dành cho Triệu thị không ít chút nào, nhưng lúc đó Triệu thị đang thuộc về Lã Bất Vi, là sủng vật cá nhân của Lã Bất Vi.
Nhưng ngày nay lại khác rồi. Triệu thị đã là mẫu thân của Tần Vương của cả thiên hạ, là thái hậu của nước Tần hùng mạnh, Triệu thị sống trong thâm cung cửu trùng. Lúc này về mặt tâm lý đương nhiên Lã Bất Vi muốn chiếm hữu người phụ nữ chí tôn cao qúy lại rất thướt tha này. Nhưng tình cảm của họ không được công khai, chỉ có thể cố hết sức che giấu sự vụng trộm của mình. Cảm giác này đương nhiên là vừa kích thích, vừa mới mẻ, vừa hưng phấn nhưng cũng bế tắc.
Doanh Chính ngày càng lớn ngày càng làm cho mọi người sợ hãi. Doanh Chính có cái mũi diều hâu, mặt dài, vóc dáng cao to nhưng lại có ngực gà, tiếng nói như tiếng con sài, sắc mặt u buồn. Triệu thái hậu chỉ muốn ngày nào cũng có Lã Bất Vi bên cạnh, chỉ hận là không thể ngày nào cũng có được ông ta trong cung. Tuy nhiên, một Lã Bất Vi giỏi giang hơn người lại không thể làm thế, mặc dù ông rất thèm muốn sắc đẹp của Triệu thị, nhưng ông quyết không chìm đắm trong đó, không thể tự mình thoát ra lại không biết cách phòng ngừa hậu họa khi chưa xảy ra. Trên thực tế, Lã Bất Vi là người có lòng dạ rất thâm sâu, rất nhiều mưu lược, luôn đề phòng trước mọi việc, đương nhiên khi ông nhìn thấy mối nguy hiểm khi vụng
trộm với thái hậu, nhất là khi phát hiện Tần Vương ngày càng lớn, Lã Bất Vi càng biết rõ nên quyết định thoát khỏi cuộc tình với thái hậu ngay.
Làm sao để thỏa mãn dục vọng của thái hậu, lại có thể khéo léo thoát thân? Lã Bất Vi suy nghĩ tìm kế sách, và rất nhanh đã tìm ra diệu kế kim thiền thoát xác. Lần này con người tài trí hơn người Lã Bất Vi lại thành công.
III. Cuộc tình sinh tử của thái hậu
Dục vọng của thái hậu mãnh liệt lạ thường. Lã Bất Vi biết, chỉ cần Triệu thái hậu động lòng, thì không có Lã Bất Vi cũng chẳng sao. Mà người có thể thay thế Lã Bất Vi làm thái hậu rung động nhất định phải là một người đỉnh thiên lập địa, rất có sức hút và cá tính của đàn ông, chỉ cần tìm được người đàn ông như thế, thì Lã Bất Vi tin rằng mình có thể dễ dàng thoát thân, chẳng những không đắc tội với thái hậu, mà còn được sự tín nhiệm của thái hậu.
Lã Bất Vi phái tâm phúc của mình đi tìm kiếm khắp nơi, cuối cùng cũng tìm được một người tên Lao Ái: không biết anh ta xuất thân từ đâu, không biết tại sao lại đến kinh sư, chỉ biết rằng anh ta rất đàn ông, lại rất đẹp trai phong độ. Sau khi gặp mặt, Lã Bất Vi hài lòng ngay, nên giữ Lao Ái lại tướng phủ, đối đãi với hắn bằng rượu ngon cơm ngọt, đồng thời thường gọi ca nữ để họ cả gan hành lạc.
Công phu của Lao Ái làm cho các kỹ nữ thán phục. Nhưng chỉ làm cho những kỹ nữ này thán phục thì không đủ. Lã Bất Vi bèn mời bạn thân ở kinh sư đến dự tiệc. Rượu hơn 3 tuần, Lã Bất Vi gọi Lao Ái ra, để anh ta thoát y, biểu diễn công phu của mình trước mặt bạn bè binh sĩ. Họ dùng một chiếc xe được làm bằng gỗ khá nặng làm đạo cụ. Lao Ái nhẹ nhàng như không, chỉ một chốc là đã kéo được chiếc xe này đi quanh nhà, dương vật của anh ta vẫn chẳng hề hấn gì, vẫn mạnh mẽ như cũ. Mọi người ai nấy đều thán phục. Công phu của Lao Ái được lan truyền vào trong cung một cách nhanh chóng. Thái hậu nghe được tin, hơi rung động, rất muốn gặp gỡ nhân vật xuất chúng này. Thái hậu bảo Lã Bất Vi tìm cách đưa Lao Ái vào cung.
Đó chính là câu nói mà Lã Bất Vi đã chờ đợi từ lâu. Lã Bất Vi cử người vu khống Lao Ái có tội lớn, sau khi xét thẩm, lập tức phán xử cung hình. Thái hậu và Lã Bất Vi ra lệnh cho viên quan phụ trách hành hình chỉ được giả bộ hành hình, chỉ được cạo sạch râu và lông mày của Lao Ái. Thế là, Lao Ái được đưa vào cung, ở bên thái hậu với thân phận một họan quan. Thái hậu chờ đợi mỏi mòn cuối cùng cũng được gặp Lao Ái, ngay cái nhìn đầu tiên, thái hậu đã rung động ngay, và nhanh chóng rơi vào lưới tình, đồng thời càng vướng càng sâu. Từ đó, Lao Ái không rời thái hậu nửa bước, ngày đêm chìm vào dòng sông tình ái, Lã Bất Vi dễ dàng thoát khỏi mối tình nguy hiểm này.
Thái hậu và Lao Ái bất kể ngày đêm, bất kể nơi nào, miễn là nơi có thể ân ái là quên đi tất cả. Kết quả, thái hậu nhiều năm không có mang nay lại mang thai ngoài ý muốn. Sau khi biết chuyện, thái hậu không hề sợ hãi, mà ngược lại còn rất vui, quyết định sinh con, nhưng góa phụ mang thai, không bao giờ là chuyện tốt, tốt nhất vẫn là không nên cho ai biết. Thái hậu bỏ thai vốn là chuyện rất dễ dàng, nhưng điều lạ lùng là, một thái hậu si mê Lao Ái hết mực này lại muốn mạo hiểm sinh con, và không sợ vì chuyện đó mà mất đứa con trai Doanh Chính đang làm vua Tần.
Thái hậu mời người bói cho một quẻ, nói với Doanh Chính rằng, quẻ nói rằng bà phải dời cung để tránh nạn. Doanh Chính trẻ tuổi đành nghe theo số mệnh. Thái hậu dẫn theo họan quan Lao Ái, dời đến Ưng Thành cách xa hoàng cung. Ưng Thành là một ngôi thành độc lập, cảnh vật đẹp đẽ, có phong cách rất khác biệt, nhất là rất bí mật. Sau khi đến Ưng Thành, thái hậu và Lao Ái không lo ngại gì cả, công khai ăn nằm chung với nhau như một đôi vợ chồng ân ái.
Thái hậu sống với Lao Ái rất lâu tại Ưng Thành, kết quả sinh được hai con trai. Thái hậu si tình Lao Ái, nhưng bà biết, hai đứa con đã được sinh ra, cứ tiếp tục như thế chắc chắn sẽ không giấu được lâu, một khi sự việc bại lộ, thì nên lo liệu mọi chuyện sao đây? Thế là bà bàn mưu với Lao Ái: nếu sự tình bại lộ, thì không cần nghĩ ngợi gì cả, cùng nhau khởi binh, giết Tần Vương, để Lao Ái thế chỗ, và lập hai đứa con trai làm người kế vị.
Lao Ái được sự yêu thương của thái hậu, sự ban tặng của thái hậu dành cho Lao Ái có tăng không giảm. Thái hậu phong Lao Ái làm Trường Tín Hầu, ban tặng quận Thái Nguyên Hà Tây giàu có cho Lao Ái làm đất phong. Mọi việc trong cung Ưng Thành đều được quyết định bởi Lao Ái, hơn nữa, mọi việc quân chính trong Ưng Thành đều do Lao Ái quyết định, trên thực tế, Lao Ái trở thành quốc quân của vương quốc Ưng Thành nhỏ bé này. Lao Ái giàu có thiên hạ, oai phong lẫm liệt. Người hầu của Lao Ái hơn ngàn người, binh khách đầu quân dưới trướng của Lao Ái hơn ngàn người. Cửa phủ của Lao Ái tấp nập như chợ, không đâu sánh bằng.
Được sự yêu qúy của thái hậu, Lao Ái chẳng lo lắng gì cả, dường như quên đi tất cả, kết quả đã chuốc họa diệt vong. Năm Tần Thuỷ Hoàng thứ 9, một lần Lao Ái và triều thần uống rượu. Sau khi say, hai người tranh cãi qua lại. Lao Ái mượn rượu nổi giận, không ngại gì nói hết những bí mật của mình. Lao Ái tự xưng mình là người được đương kim thái hậu yêu thương nhất, là tình phu không thể rời của thái hậu, là cha giả của đương thế Tần Vương, thân phận như thế, thì như kẻ thân phận hèn kém có còn dám cãi lại ông hay không?
Sau khi những chuyện bí mật của Lao Ái được tiết lộ, tin tức không chân mà đi rất nhanh. Có người kể chuyện đó với Tần Vương Doanh Chính đã trưởng thành, bảo rằng Lao Ái không phải là họan quan, mà là mạo nhận họan quan; Lao Ái và thái hậu sống với nhau bao nhiêu năm, và công nhiên sinh hai đứa con trai, nuôi nấng tại Ưng Thành; không chỉ có thế, Lao Ái còn âm mưu với thái hậu, một khi có biến, thì sẽ cho Lao Ái lên thay thế Tần Vương, và để cho con của họ kế ngôi vua. Một Tần Vương Doanh Chính luôn ấm ức và phiền não dày vò không thể nào tha thứ cho người mẹ ruột của mình nữa.
IV. Huyết chiến Kỳ Niên Cung
Sau khi được tin báo, Tần Thuỷ Hoàng hết sức phẫn nộ, lập tức phái người điều tra sự thật. Kết quả điều tra đương nhiên phù hợp với tin báo, hơn nữa chuyện này còn liên quan đến tướng quốc Lã Bất Vi. Tần Thuỷ Hoàng bèn giúp mẹ kết thúc cuộc gian tình làm mình xấu hổ đến toát cả mồ hôi này. Trường Tín Hầu Lao Ái có được Thái Nguyên Hà Tây làm nước Lao, tận hưởng bổng lộc xe ngựa mà chỉ vương hầu mới có, sống cuộc sống rung chuông là có người bưng thức ăn lên phục dịch. Lao Ái đương nhiên không thể để mất đi những thứ này.
Thế là Lao Ái làm phản trước. Vào tháng 4 đẹp trời, Tần Thuỷ Hoàng Doanh Chính hành quán lễ tại cung Kỳ Niên, Ưng Thành. Lao Ái bất ngờ đoạt quyền trước, cướp đi ngự ấn của Tần Vương và ngọc ấn của thái hậu, ra lệnh điều động quân tấn công vào cung Kỳ Niên. Sau khi biết tin binh biến, Doanh Chính bắt đầu ứng chiến, ra lệnh cho tướng quốc Xương Bình Quân, Xương Văn Quân dẫn binh Hàm Dương dẹp loạn, tấn công Lao Ái. Binh mã hai bên đại chiến tại Hàm Dương.
Ngay vào lúc quan trọng nhất, Doanh Chính từng chinh chiến lâu ngày ra lệnh: Phàm là người có công đều được phong tước hậu thưởng; những ai có tham chiến được tăng một bậc; ai bắt sống Lao Ái sẽ được thưởng tiền 1 triệu; ai giết Lao Ái được thưởng 50 vạn. Qua một lượt giao tranh, sau trận chiến tàn ác, Lao Ái bại trận bị bắt, quân phiến loạn bị tử thương vô số.
V. Cuộc hành quyết và trừng phạt tàn nhẫn
Doanh Chính dùng trọng hình với Lao Ái: ngũ mã phanh thây Lao Ái, tru di tam tộc. Đồng đảng của Lao Ái hai mươi mấy người bị bêu đầu; những binh sĩ đi theo Lao Ái bị tội nhẹ thì đưa vào làm việc không lương trong tông miếu, hơn 4 ngàn người tội nặng thì bị đoạt tước, xung quân Tây Thục lao dịch 3 năm. Hai đứa con của thái hậu và Lao Ái bị bỏ vào ràng và giết chết. Thái hậu bị trục xuất khỏi hoàng cung Hàm Dương, đến sống tại cung Cống Dương tại ngoại thành, đoạn tuyệt quan hệ mẹ con, vĩnh viễn không được gặp lại. Doanh Chính còn ra một sắc lệnh: những người dám can gián cách xử trí thái hậu, đều bị xử tội chết ngay lập tức, bị chặt tứ chi, phơi thây ngoài cung.
VI. Dũng sĩ mạo hiểm với cái chết để can gián
Hành vi của Triệu thái hậu tuy có chút quá đáng, nhưng vẫn là chuyện tình lý, hơn nữa rốt cuộc thì bà cũng là mẫu thân của Doanh Chính. Doanh Chính xử chết cha giả, giết chết hai em trai, lại tuyệt tình như thế với mẫu thân, triều thần đều cảm thấy không thỏa đáng. Tuy đã có lệnh cấm, nhưng vẫn có người khéo léo can gián, kết quả, lần lượt có 27 người bị xử chết, và thật sự là xác của từng người từng người bị phơi ngoài cung.
Cung nhà Tần trở nên u ám, chết chóc làm mọi người kinh hãi. Trước tình hình đó, xuất hiện một người nước Tề tên là Mao Tiêu. Mao Tiêu ung dung, coi cái chết như không, đi thẳng đến cửa cung Tần Thuỷ Hoàng cầu kiến Doanh Chính. Doanh Chính đương nhiên biết ý đồ của anh ta, bèn bảo người hầu nói với anh ta rằng: có nhìn thấy 27 cái thây phơi ngoài cửa cung không? 27 người này đều là những người nói giúp cho thái hậu, đều có kết cục như vậy cả, chẳng lẽ anh ta còn muốn tìm đến cái chết hay sao?
Mao Tiêu từ tốn nói: Hãy bẩm với Tần Hoàng, trên trời có 28 tinh tú, giờ chỉ mới có 27 người, thêm tôi nữa là vừa đủ 28; nếu sợ chết thì tôi đã không đến! Người hầu vào báo với Tần Thuỷ Hoàng. Doanh Chính cười một cách lạnh lùng, dặn người hầu: chuẩn bị vạc dầu, nấu cho sôi. Nét mặt lạnh lùng của Doanh Chính thoáng một nụ cười, nghĩ rằng vừa đủ con số 28, sau này sẽ không còn đại thần nào dám can gián nữa.
Mao Tiêu theo người hầu đi vào cửa cung với đội cấm vệ quân uy nghiêm. Cây cối hai bên đường nhiều vô số, chúng đang đung đưa trong gió, dường như cáo biệt với vị hiệp sĩ nhân nghĩa này. Mao Tiêu bước vào đại điện, Tần Doanh Chính mặt lạnh như băng, ngồi uy nghiêm trên long kỷ, mắt giận dữ nhìn Mao Tiêu.
Mao Tiêu không chút sợ hãi đi đến trước ngự tọa, khấu đầu rồi nói: Sở dĩ tiểu thần dám đến cầu xin bệ hạ, là vì tiểu thần cảm thấy, từ xưa đến nay, những người yêu quý mạng sống của mình đều không sợ cái chết; cũng như một quân chủ luôn lấy quốc gia làm trọng, biết được đạo lý hưng vong của quốc gia, cũng sẽ không sợ người khác nói quốc gia của mình nguy vong; đạo lý này rất đơn giản, nếu chỉ biết sợ chết, thì nhất định không thể sống lâu; nếu chỉ biết sợ vong quốc, thì quốc gia chắc chắn cũng không thể không vong, cho nên, đạo lý sinh tử tồn vong của thế gian, đó là điều mà mọi bậc quân chủ hiền minh trí tuệ đều muốn biết, chẳng lẽ bệ hạ không muốn biết sao?
Tần Doanh Chính âm thầm nhìn vào anh ta, ý là đã âm thầm đồng ý, và để cho anh ta nói tiếp. Nhưng, nét mặt của Doanh Chính vẫn không thay đổi, hơn nữa, vạc dầu đã sôi sùng sục, từng cuộn khói trắng bốc lên, thật hung tợn đáng sợ. Mao Tiêu phát hiện Tần Thuỷ Hoàng đã lắng nghe phần mở đầu của mình, trong lòng thấy nhẹ nhõm rất nhiều. Mao Tiêu càng cảm nhận rằng, những gì mà mình nói sẽ thuyết phục được vị quân chủ bảo thủ cố chấp không ai sánh bằng này.
Mao Tiêu ngưng một lát, tiếp tục nói: Bệ hạ tuy thánh minh, nhưng những hành vi hung tàn gần đây của bệ hạ mà bệ hạ cảm nhận được như ngũ mã phanh thây cha giả, dìm chết hai em trai, đẩy mẹ ruột vào thâm cung, tàn sát người can gián nói thẳng; bệ hạ nghĩ xem, những hành vi có khác gì của vua Trụ nhà Thương, vua Kiệt nhà Hạ hay không? Nếu thiên hạ thần dân biết được những chuyện này, thần dân có thể tín phục bệ hạ hay không? Thần dân ly tâm, thiên hạ hỗn loạn, sẽ còn có ai một lòng hướng về nước Tần nữa không? Tiểu thần chỉ là lo lắng thay cho bệ hạ mà thôi. Tiểu thần chỉ nói có thế.
Khi Mao Tiêu nói xong, tự đi đến vạc dầu đang sôi sùng sục, ung dung cởi y phục ra, chuẩn bị nhảy vào vạc dầu. Tần Doanh Chính nghe xong những lời đó, mắt nhìn vào phong cách hơn người của Mao Tiêu, trong lòng thấy khâm phục, cảm thán rằng: thật là một anh hùng hào kiệt đỉnh thiên lập địa, nhân
nghĩa can vân! Nét mặt lạnh lùng của Tần Doanh Chính đã bớt lạnh hơn, nhà vua đích thân đi xuống, đỡ Mao Tiêu đứng dậy, nói một cách chân thành rằng: Mời tiên sinh đứng dậy, tiên sinh nói thật có lý, quả nhân nguyện ý nghe theo trung ngôn của ngài. Thế là, Doanh Chính dặn dò, bái Mao Tiêu là thượng khanh. Một trận tàn sát đẫm máu đã khói tiêu mây tan, phong thái nghĩa hiệp của Mao Tiêu đã xua đi mùi máu tanh hôi trong hoàng cung nhà Tần. Mao Tiêu chính là một anh kiệt. Quần thần thán phục, cũng như đã trút được một gánh nặng.
Tần Vương Doanh Chính ra lệnh chuẩn bị xe ngựa, đích thân đánh xe, dẫn theo tuỳ tùng, tiến đến cung Cống Dương nơi mẹ ruột Triệu thị đang bị giam cầm, ông muốn đích thân đón mẹ trở về. Mẹ con gặp nhau, nước mắt như mưa. Triệu thị vẫn ở ngôi thái hậu, trở về thâm cung Hàm Dương - Nam Cung Cam Tuyền. Từ đó trở đi Triệu thị sống một cuộc sống giàu sang dư giả và yên lặng thư thái. Triệu thị sống trong cung Cam Tuyền được 10 năm, 10 năm ăn sung mặc sướng, 10 năm trống không cô quạnh. Đối với Triệu thị, 10 năm, nghĩa là 3 ngàn ngày mặt trời mọc và lặn, cũng là 3 ngàn đêm dài dằng dặc cô quạnh khó bề chịu đựng.
Chương II
Hoàng hậu Lữ Trĩ
I. Con mắt tinh tường chọn rể tốt
Lữ Trĩ là phu nhân chính phối của Hán Cao Tổ Lưu Bang, lịch sử gọi bà là Lữ Hậu. Lưu Bang là người huyện Phối, xuất thân từ nông dân, nhưng trời sinh không thích đọc sách, chán ghét việc nông, tối ngày lấy việc giao du kết bạn làm thú vui. Lưu Bang khôi ngô tuấn tú, gương mặt chữ điền, mũi cao, râu hùm, giữa mày tỏa ra khí anh hùng, cả người đạo cốt tiên phong.
Tướng mạo của Lưu Bang thuộc tướng cực quý trong tướng số. Tay ông dài quá gối, trên mông trái có 72 nốt ruồi đen. Tính tình ông phóng khoáng, lòng ôm chí lớn, giao du với anh hùng hào kiệt bốn phương, trở thành một nhân vật có tiếng khắp huyện Phối, khiến cho các danh sĩ hiệp nghĩa đều kính phục.
Lưu Bang tự Lý, là người huyện Phối quận Tứ Thuỷ triều Tần, chính là huyện Phối tỉnh Giang Tô hiện nay. Lưu Bang có 4 anh em: anh cả chết yểu, anh hai Lưu Trung, siêng năng làm nông, lo liệu gia đình, là tay giúp việc rất giỏi của cha; Lưu Bang thứ ba; em trai út hiếu học. Trong 4 anh em, ngoài anh cả đã chết yểu, 3 con trai, chỉ có mỗi Lưu Bang thích du ngoạn nhàn hạ, không có nghề nghiệp gì, làm cho cha ông rất lo lắng sợ hãi, và rất tức giận. Lưu phụ thường trách mắng Lưu Bang, bảo ông chẳng có tiền đồ gì cả. Lưu Bang mặc kệ lời trách của cha, vẫn thích gì làm nấy.
Danh tiếng của Lưu Bang rất tốt, nhanh chóng trở thành một đình trưởng của làng Tứ Thuỷ Đông, huyện Phối. Đình trưởng chỉ là một cấp quan thấp bé. Triều Tần lúc đó quy định, 10 dặm là một đình, 10 đình là một hương, đình trưởng chính là một viên quan nhỏ cai quản vùng đất rộng 10 dặm, chức vị tuy thấp bé, nhưng cũng cho là một viên quan của triều đình.
Trời sinh Lưu Bang phóng khoáng, thích uống rượu với bạn bè, háo rượu và háo sắc, thường mắc nợ. Có vị Lữ Công, là người Đan Phụ, chính là người Nhữ Nam Hà Nam ngày nay, do trốn tránh kẻ thù, nên lưu lạc đến huyện Phối. Lữ Công và huyện lệnh huyện Phối là tri giao. Quan dân biết được điều này lần lượt đem quà cáp đến thăm hỏi Lữ Công. Huyện sử Tiêu Hà giúp Lữ Công lo liệu yến tiệc, nên nói trước với khách rằng: lễ mừng dưới ngàn lạng thì xếp cho ngồi dưới.
Lưu Bang lúc đó chỉ là một đình trưởng nhỏ bé, cả ngày uống rượu hưởng lạc, tiền nợ trả còn chưa hết, nói gì đến tiền mừng? Lại càng không thể có tiền mừng hơn ngàn lạng. Nhưng, Lưu Bang biết, đó là một cơ hội để vượt qua mọi người, tuyệt đối không thể bỏ qua. Nhưng nếu phải ngồi phía dưới thì làm sao làm cho mọi người chú ý? Suy đi nghĩ lại, Lưu Bang nghĩ ra một diệu kế.
Vào hôm yến hội của Lữ Công, Lưu Bang trịnh trọng viết một tấm bái thiệp, trên tấm thiệp viết tiền mừng một vạn. Con số này thật sự là con số làm cho mọi người phải kinh ngạc vào lúc bấy giờ, đừng nói huyện sử Tiêu Hà kinh ngạc, mà cả Lữ Công cũng chẳng khác gì, lập tức đích thân ra nghênh đón đình trưởng Lưu Bang. Lưu Bang phong thái hiên ngang, lễ độ vô cùng.
Lữ Công quan sát Lưu Bang thật kỹ, trong lòng thấy đáng phục. Vị đình trưởng phong thái khác thường, ăn nói lễ độ nho nhã, ngày sau có thể trở thành người không thể coi thường. Lữ Công đã gặp gỡ rất nhiều người, trong lòng coi trọng Lưu Bang, tự nhiên rất khiêm nhường trong hành động, mời Lưu Bang vào trong sảnh đường, ngồi vào vị trí thượng toạ. Huyện sử Tiêu Hà là bạn thân của Lưu Bang, hai người biết nhau quá rõ. Đương nhiên Tiêu Hà biết rất rõ tài sản và nợ nần của Lưu Bang, nhưng nhìn thấy bức thiệp, Tiêu Hà hết sức kinh ngạc nhưng cũng không dám thờ ơ, mà ngược lại muốn xem làm thế nào mà người anh em họ xa của mình vượt qua được cửa ải này, và sẽ có kết cục ra sao?
Lưu Bang được ngồi ghế thượng tọa, ăn nói lưu loát, coi như chẳng có ai, khí chất, phong độ đều thể hiện là người giỏi giang, quan khách có mặt tại đó không ai không biến sắc. Lữ Công luôn quan sát Lưu Bang trong suốt buổi yến tiệc, và lắng nghe từng lời nói của anh ta, nhìn thật kỹ gương mặt của anh ta, rồi
trong lòng Lữ Công thầm lên kế họach của mình. Sau khi tiệc tàn, Lưu Bang uống no ăn đủ bèn đứng dậy cáo từ, Lữ Công bèn mời người ở lại.
Khách về hết. Sau khi chiêu đãi Lưu Bang bằng trà thơm, Lữ Công mới nói thật với Lưu Bang rằng: Tôi luôn nghiên cứu về tướng số, những người coi qua tướng thì đã rất nhiều, không ai là không linh nghiệm cả; hôm nay nhìn thấy các hạ, nhìn kỹ diện mạo, diện tướng của các hạ thấy qúy không thể tả, mong các hạ hãy tự trân trọng; tôi có một con gái lớn, tướng mạo nhân phẩm không phải là không tốt, tôi có ý kết thân với các hạ, nhận các hạ làm con rể, các hạ thấy sao?
Lưu Bang vui mừng khôn xiết, không chỉ được ăn không một buổi thịnh soạn của khách qúy, số tiền nợ một vạn đồng còn chưa tính, thì đã được một Lữ Công có thân phận, hoàn cảnh như thế coi trọng, còn muốn gả con gái cho, tặng hậu lễ. Lưu Bang hết sức cảm kích, lập tức đồng ý. Lưu Bang vui mừng cực độ từ giã Lữ Công, chạy nhanh về nhà với tâm trạng hưng phấn.
Lữ Công vui mừng đi về nội thất, nói chuyện này với phu nhân. Lữ phu nhân nghe xong cảm thấy hết sức hoang đường, một thằng nhóc lang thang ăn không uống không, khẩu xuất cuồng ngôn đi lừa một buổi nhậu thì thôi, lại còn không dưng đi dâng khuê nữ của mình cho nó! Lữ phu nhân mắng Lữ Công, bảo ông già lẩm cẩm, và quát Lữ Công rằng: nói ông biết coi tướng, nói tướng mạo con gái cực quý, quý không thể tả, nhất định gả cho quý nhân, nay quý nhân đến rồi, thì ra lại là một đình trưởng, quý đến thế đấy? Con gái không đáng giá như thế sao? Huyện lệnh và ông là tri giao bao nhiêu năm, nay lại nằm dưới quyền của ông ấy, ông ấy muốn cầu thân với ông, ông một mực từ chối, nay lại gả con gái cho một đình trưởng nhỏ bé không có một xu, nằm dưới quyền của huyện lệnh! Thật là chỉ có ông già lẩm cẩm như ông mới làm chuyện đó!
Lữ Công lắc đầu, cảm thấy vợ mình có tầm nhìn quá ngắn, không thể quá so đo tính toán. Lữ Công bèn tự làm theo ý mình, quyết định gả con gái cho Lưu Bang, và tặng hậu lễ. Con gái lớn đương nhiên nghe theo số trời, nhất loạt nghe theo lời của phụ thân. Người con gái lớn này của Lữ Công chính là hoàng hậu Lữ Trĩ của Hán Cao Tổ Lưu Bang sau này.
II. Cuộc sống của nông phu
Lữ Trĩ tự Hủ Nga. Đứa con gái trưởng của Lữ Công này được gả cho đình trưởng Lưu Bang dưới sự kiên trì của cha. Lúc bấy giờ, nhà của Lưu Bang chẳng giàu có, sau khi thành gia, dọn ra ở riêng. Lưu Bang vẫn du hiệp khắp nơi như cũ, quan hệ bạn bè nhiều, cuộc suống trong gia đình đều do một tay Lữ Trĩ lo liệu. Thấm thoắt đã mấy năm, Lữ Trĩ từ một tiểu thư đài các trở thành một nông phu, một năm bốn mùa, xuống ruộng làm đồng, lo liệu chuyện nhà cửa, lần lượt sinh cho Lưu Bang một con trai và một con gái, con trai gọi là Lưu Doanh, con gái sau này trở thành công chúa Lữ Nguyên.
Từ chức vụ đình trưởng ban đầu, Lưu Bang dần dần trở nên có thế lực, cho đến khi sáng lập ra vương triều nhà Hán, những chuyện thần thọai liên quan đến Lưu Bang đương nhiên cũng không ít. Lưu Bang nhậm chức đình trưởng, cai quản tất cả mọi việc trong phạm vi một đình, nhất là chuyện tô thuế và an ninh trong đình. Lúc bấy giờ đang là thời kỳ cuối nhà Tần, cướp bóc khắp nơi, làng Tứ Thuỷ thỉnh thỏang cũng bị bọn cướp quấy nhiễu, lúc ẩn lúc hiện. Lưu Bang chế tạo ra một loại nón làm bằng tre, phía trên thì nhọn, phía dưới thì vuông, hình dạng cổ quái, trông rất vui mắt. Lưu Bang thường đội chiếc nón đó khi ra vào rừng bắt trộm cướp.
Một hôm, Lưu Bang về nhà nghỉ, đang nằm tại nhà. Lữ Trĩ và con cái đều làm việc ngoài đồng. Một ông lão đi ngang qua, khát nước và muốn xin một ít nước uống. Ông lão vừa uống nước, vừa trò chuyện thân mật với Lữ Trĩ. Ông lão này giỏi xem tướng, vừa nhìn thấy Lữ Trĩ đã kinh ngạc ngay, sau khi quan sát thật kĩ, ông càng không dám tin. Ông lão nói với Lữ Trĩ, mệnh của cô rất qúy, dung mạo quý không thể tả. Ông lão lại bảo Lữ Trĩ gọi con trai và con gái đến để ông xem tướng.
Sau khi nhìn kỹ hai người con của Lữ Trĩ, ông lão nói với cô rằng, ngày sau cô có thể đại quý là nhờ vào đứa con trai này, tướng mạo đứa con trai là đại quý; còn con gái, cũng quý không thể tả. Ông lão uống nước xong, thì từ biệt Lữ Trĩ, tiếp tục con đường của mình. Một lát sau, Lưu Bang ra đồng, Lữ thị nói cho Lưu Bang về mọi chuyện lúc nãy. Nghe xong, Lưu Bang lập tức đuổi theo ông lão đó.
Quả nhiên Lưu Bang đuổi kịp ông lão, sau một vài lời cung kính khiêm nhường, Lưu Bang cũng nhờ ông lão xem tướng. Ông lão nhìn thật kĩ, hết sức kinh ngạc. Ông nói với Lưu Bang, vợ ông và con cái đại quý được là nhờ vào đại quý của anh, quý không thể tả. Ông lão hy vọng Lưu Bang hãy tự trân trọng. Lưu Bang cung tiễn ông lão đi xa, trong lòng rất vui, tưởng tượng mình quý không thể tả, muốn thì có thể vào triều bái tướng? Trở thành một vị đại thần? E rằng Lưu Bang với chức vụ đình trưởng này còn chưa dám mơ làm hoàng đế.
Trong lòng tràn đầy hy vọng nhưng Lưu Bang không bao lâu phạm tội, chạy trốn ra ngoài. Mẹ con Lữ Trĩ cũng vì Lưu Bang mà bị quan phủ bắt, giam vào trong lao. Năm 208 trước Công Nguyên, Lưu Bang 38 tuổi, con trai Lưu Doanh vừa mới 5 tuổi, Lưu Bang tổ chức quật khởi, dấy binh phản Tần. Từ đó về sau, Lưu Bang bắt đầu chiêu binh mãi mã, nam chinh bắc chiến, bổ sung thực lực và bắt đầu ngày tháng tranh giành thiên hạ.
III. Sắc lập hoàng hậu
Năm 205 trước Công Nguyên, Lưu Bang đã có trong tay một đội quân hùng mạnh liền kéo sang phía Đông, nhân cơ hội hậu phương của Hạng Vũ bỏ trống, liền tiến quân đến gần Bành Thành, giành được chiến thắng lớn. Hạng Vũ tức giận nhanh chóng rút quân về, đánh tan tác quân Hán của Lưu Bang tại Hoản Bắc, Linh Bích. Lưu Bang thua trận thảm hại chỉ còn vài chục hộ vệ. Chạy về ngang qua làng Tứ Thuỷ Đông của huyện Phối, Lưu Bang muốn đưa vợ con cùng chạy trốn. Nhưng đáng giận là Hạng Vũ đã nhanh tay hơn, sai quân đến bắt hết cả nhà của Lưu Bang. Thì ra, khi chiến loạn, Lữ Công và Lữ thị đã nhanh chân chạy thoát trước khi quân của Hạng Vũ đến, không ngờ lại chạy sai đường, đụng phải quân Sở của Hạng Vũ, bị quân Sở bắt về giao cho Hạng Vũ. Còn hai đứa con của Lưu Bang thì chạy một đường khác nên gặp Lưu Bang, thoát được nguy hiểm.
Trận Linh Bích làm Lưu Bang tổn binh mất tướng, gần như trở về trắng tay. Nhưng sau khi Lưu Bang chạy thoát về Quan Trung, thì nhanh chóng chỉnh đốn lại quân mã, tổ chức lại binh lực lớn mạnh, chống đối Hạng Vũ. Quân Hán, quân Sở đối đầu với nhau tại Huỳnh Dương. Hán, Sở đối đầu với nhau 3 năm, hai bên đều không thể giành thắng lợi. Đại tướng của nhà Hán, là Hàn Tín dẫn một đội binh mã, tiết ra Thái Hành Sơn, qua Hà Bắc, đến Sơn Đông, tiến thẳng vào hậu phương lớn của Hạng Vũ. Hạng Vũ trở tay không kịp, trong lúc bức bách, nghĩ ngay đến cha của Lưu Bang đang bị giam trong doanh trại.
Hạng Vũ oai phong lẫm liệt thủ trấn dưới thành Quảng Vũ, ra lệnh đưa cha của Lưu Bang, Lưu Thái Công. Lưu Bang đối diện với họ nhìn thấy tất cả, nhưng vẫn ung dung bình tĩnh. Hạng Vũ nói với Lưu Bang, trừ phi hai quân Hán, Sở lập tức xuất trận, quyết một trận sống mái, nếu không, thì sẽ giết Lưu Thái Công! Không ngờ, đại trượng phu Lưu Bang lại trả lời thế này: Hạng Vương trước đây cùng tôi cung sự Sở Hoài Vương, hai người tình như thủ túc, hơn cả huynh đệ; nay, cha tôi chính là cha của Hạng Vương ông, nếu ông giết cha ông, thì ông hãy chia cho tôi một bát canh vậy!
Nghe xong câu nói này, Hạng Vũ ngây người ra, chẳng biết nói gì. Một tướng tên là Hạng Bá nói: Người tranh đạo thiên hạ ngày nay, phần lớn đều không màng đến gia thất, nếu giết đi thì chúng sẽ không bị liên luỵ gì nữa, càng làm tăng thêm thù hận, chi bằng không giết. Hạng Vũ không còn cách nào khác, đành phải tiếp nhận ý kiến của Hạng Bá.
Tháng 9 năm đó, Hán, Sở đạt thành hiệp nghị đình chiến, lấy Hồng Câu làm biên giới, phía tây Hồng Câu thuộc về Hán, phía đông Hồng Câu thuộc về Sở. Hạng Vũ còn rất nghĩa khí khi đưa Lưu Thái Công và Lữ Trĩ trở về Hán. Lưu Thái Công và Lữ Trĩ được đưa về cung Hán, sống ở doanh trại của Sở hết 29 tháng, thế mới gọi là đại nạn không chết, tất có hậu phúc. Sau này Lữ Trĩ quả nhiên được hưởng đại phúc đại quý.
Từ tháng mười năm Hán Vương thứ nhất, Lưu Bang từ dưới đánh lên, ép Tử Anh của Tần Vương đầu hàng, Lưu Bang và dân Tần có ước pháp tam chương, loại bỏ pháp luật hà khắc của nhà Tần, Lưu Bang luôn được sự ủng hộ của nhân dân, thần dân bên trong quan ải rất hoan nghênh Lưu Bang. Sau khi Hạng Vũ vào quan ải, Lưu Bang nghe theo kế của Trương Lương, cầu hòa với Hạng Vũ, chịu thiệt nhận phong tước Hán Vương, thống trị Ba Thục, Hán Trung. Tiếp đó, là bốn năm chiến tranh triền miên giữa Hán và Sở. Mùa đông năm Hán Vương thứ năm, Lưu Bang chiến thắng Hạng Vũ, bước lên ngôi hoàng đế tại Định Đào, định đô tại Lạc Dương, sau đó dời về Trường An.
Sau khi Lưu Bang lên ngôi hoàng đế, sắc lập Lữ Trĩ làm hoàng hậu, con trai trưởng Lưu Doanh làm hoàng thái tử, con gái phong làm Lỗ Nguyên công chúa. Sau khi Hạng Vũ tự vẫn tại Ô Giang, quân Sở lớn mạnh nay đã diệt vong tan tác, đế quốc Hán mới kiến lập chỉ có một kẻ thù lớn nhất đó là Hung Nô. Khi đó Hung Nô do Đan Vu thống trị, Đan Vu dũng cảm thiện chiến, nhân cơ hội Trung Nguyên đại chiến, không
ngừng quấy nhiễu phương Bắc. Đế quốc Hán mới thành lập, Hung Nô vẫn tiếp tục nhiều lần xâm phạm biên cương.
IV. Sóng gió khi đưa Lỗ Nguyên công chúa đi lấy chồng xa
Đối mặt với sự khiêu chiến của Hung Nô, Lưu Bang mới đoạt được thiên hạ với trái tim anh hùng của mình, quyết kế đích thân dẫn quân ra trận, quét bằng sa mạc. Năm 200 trước Công Nguyên, Hung Nô Đan Vu dẫn 300 ngàn quân mã, ra lệnh bao vây Tấn Dương, đó chính là Thái Nguyên, Sơn Tây ngày nay. Lưu Bang đích thân chỉ huy 300 ngàn đại quân, nghênh chiến Hung Nô. Quân Hán tiến đến núi Bạch Đăng, thì đột nhiên bị Hung Nô bao vây. Chút nữa thì Lưu Bang mất mạng. Nhờ mua được hoàng hậu Đan Vu, Lưu Bang mới chạy thoát về Cung Hán.
Lưu Bang hiểu rõ Hung Nô lớn mạnh nên nhất thời không thể đối phó được, ngày đêm lo lắng, u buồn. Đại thần Lưu Kính hiến kế cho Lưu Bang, chủ trương cải thiện quan hệ với Hung Nô bằng cách hòa thân, chính là gả công chúa của hoàng thất nhà Hán cho Hung Nô Đan Vu, để cầu hòa. Lưu Bang cảm thấy thế cũng tốt, chấp nhận ý kiến đó, nhưng chọn ai gả đi bây giờ? Lúc đó công chúa đủ tuổi và phù hợp chỉ có thể là công chúa Lỗ Nguyên. Lưu Bang đương nhiên không đành lòng giao con gái của mình cho Hung Nô, thế là nghĩ cách tìm một thiên kim tiểu thư trong tôn thất giả làm công chúa, gả sang Hung Nô xa xăm.
Lưu Bang rất đắc ý với ý nghĩ của mình, nhưng đại thần lại không đồng ý, nhất là đại thần chủ trương hoà thân, Lưu Kính, cho rằng như thế không chỉ giúp ích được gì, mà ngược lại chỉ tổ làm hỏng chuyện – thử nghĩ xem chỉ lừa được Đan Vu một thời gian, nếu một ngày nào đó Đan Vu phát hiện, thì không phát điên lên mà trả thù hay sao? Hơn nữa, từ đó về sau có muốn hòa thân, thì cũng không được sự tín nhiệm của Hung Nô. Lưu Bang nghe xong lời nói này, ngẩn người ra một lúc, không thể không thừa nhận có lý, đành phải quyết định gả công chúa Lỗ Nguyên.
Trên thực tế, Lỗ Nguyên công chúa lúc này đã được gả đi, chồng là Trương Ngạo. Lưu Bang tiếp nhận ý kiến của Lưu Kính, phải tách rời con gái và con rể, gả con gái đến Hung Nô, để tìm lại an ninh tại phía Bắc. Hoàng hậu biết được tin này, tức giận vô cùng! Làm sao hoàng hậu có thể tha thứ cho việc lấy thân thể và sự bất hạnh của con gái đổi lấy sự an ninh ở biên cương! Hoàng hậu gào khóc, thét lên. Lưu Bang bó tay chịu trận, đành phải từ bỏ chuyện gả công chúa Lỗ Nguyên cho Hung Nô.
V. Uy hiếp đoạt ngôi
Khi Lỗ Nguyên công chúa được sống một cách bình yên, thì địa vị thái tử của con trai Lưu Doanh lại bị uy hiếp nghiêm trọng bởi mỹ nữ Thích phu nhân. Thích phu nhân là người đẹp nổi tiếng gần xa tại Định Đào, Sơn Đông, khi trú quân tại Định Đào, một Lưu Bang háo sắc chẳng lẽ lại không muốn chiếm hữu mỹ nữ này sao? Thật ra, Lưu Bang không tài nào rời khỏi mỹ nữ. Ngoài Lữ Trĩ ra, Lưu Bang còn có rất nhiều người đàn bà, nhưng trong vô số thần thiếp của Lưu Bang, người được sủng ái nhất chính là Thích phu nhân.
Thích phu nhân được Lưu Bang sủng ái, được hầu hạ hoàng đế lâu ngày, nên có mang, sau này, sinh một con trai, đặt tên Như Ý. Lưu Bang bị mê hoặc bởi sự dịu dàng và vẻ đẹp của Thích phu nhân, đắm chìm trong đó, không thể thoát ra. Đứa con trai do Thích phu nhân và Lưu Bang sinh ra, đương nhiên được Lưu Bang coi như châu báu. Nhất là khi đứa trẻ càng lớn càng giống Lưu Bang, mỗi một cử chỉ, một động tác, một nụ cười, một lời nói dường như đều giống như Lưu Bang còn nhỏ, Lưu Bang càng yêu đứa trẻ hơn.
Khi Như Ý 10 tuổi, Lưu Bang phong Như Ý làm Triệu Vương. Lúc này, thời thanh xuân của Lữ hậu đã qua đi, người già đi, còn Thích phu nhân thì phong nhã hào hoa hết mực, tình cảm muôn vẻ, nên càng có phong độ hơn. Lữ hậu ở tại Trường An lâu ngày, bảo vệ thái tử Lưu Doanh. Lưu Bang nam chinh bắc phạt dẫn theo Thích phu nhân, ngày đêm hầu hạ bên cạnh. Thích phu nhân là một phụ nữ rất toan tính, bà biết hạnh phúc trước mắt của mình là hưởng không hết, nhưng còn ngày sau thì sao? Một khi Lưu Bang qua đời, thái tử Lưu Doanh kế vị, một Lữ hậu tàn ác có thể bỏ qua cho mình sao? Thích phu nhân bèn dựa vào sự sủng ái của Lưu Bang, thường khóc lóc, đòi Lưu Bang đổi lập Như Ý làm thái tử.
Lưu Bang đã có ý này từ lâu. Thái tử Lưu Doanh trời sinh nhân hậu, khác xa với Lưu Bang, Lưu Bang vẫn không thích thái tử cho lắm, cho rằng hắn quá nhu nhược vô dụng, không thể làm đại sự. Lưu Bang bèn nói với đại thần về ý muốn đổi thái tử của mình, mong rằng được sự đồng ý của đại thần, ít nhất không phản đối là được, bởi vì phế lập thái tử không chỉ là chuyện của riêng hoàng gia, mà là người kế vị của quốc gia, người chờ kế vị quyết định vận mệnh tương lai của quốc gia, đại thần không thể không tham gia quyết định, lại càng không thể bàng quan đứng nhìn.
Điều bất ngờ là, triều thần nhất loạt phản đối, cho rằng Lưu Doanh được lập làm thái tử đã được 8 năm, danh vị đã được khẳng định từ lâu, hơn nữa lại nhân từ, khoan dung với mọi người, nếu không tội mà phế truất, rồi lập Như Ý được cá nhân yêu thích làm hoàng tử sẽ làm mất lòng người, dao động thiên hạ. Tấu chương phản đối của đại thần được gởi đến tới tấp. Lưu Bang sủng ái Thích phu nhân, không thể thay đổi quyết tâm phế lập thái tử. Việc phế lập thái tử tạo nên trạng thái đối lập giữa phe Lưu Bang, Thích phu nhân, Như Ý và phe Lữ hậu, Lưu Doanh, triều thần.
Vào thời khắc nguy hiểm, ngự sử Châu Xương hiên ngang đứng ra, cố sức bảo vệ vị trí thái tử của Lưu Doanh. Châu Xương có tật nói lắp, nhưng trong việc bảo vệ thái tử, Châu Xương là người ra sức nhiều nhất. Lưu Bang nổi giận đùng đùng, cố ý chất vấn ông trước triều đình, tại sao không thể cải lập thái tử? Châu Xương lắp ba lắp bắp, nhưng vẫn kiên quyết bày tỏ hoàn chỉnh ý kiến phản đối việc cải lập thái tử. Châu Xương ấp a ấp úng, trông rất buồn cười, một trận tranh luận nghiêm túc căng thẳng được làm dịu đi bởi sự buồn cười này, khiến cho Lưu Bang đang tức giận cũng phải phì cười. Buổi tranh luận này đã chấm dứt trong nỗi buồn. Lữ hậu trốn trong phòng bên nghe trộm thở phào nhẹ nhõm, sau đó, gọi Châu Xương đến, bái tạ nói: Nếu không phải là khanh ra sức tranh luận, chắc là thái tử đã bị phế, cảm tạ lời nói thẳng của khanh!
Quyết tâm cải lập thái tử vẫn rất vững chắc, thêm vào nước mắt của sủng phi Thích phu nhân, lòng quyết tâm này của Lưu Bang dường như không thể lay động. Chỉ dựa vào sức cản của đại thần là được sao? Lữ hậu không dám tin tưởng, ngày đêm lo lắng. Lúc này, có một mưu sĩ hiến kế, nói Lưu Hầu Trương Lương rất giỏi mưu kế, sao không thỉnh giáo chuyện này với Trương Lương? Lữ hậu bỗng thấy sáng ra, lập tức bí mật bảo anh trai mình là Kiến Thành Hầu Lữ Thích đến phủ Lưu Hầu thỉnh giáo Trương Lương, khấu mời ông ấy hiến kế, để giữ vững ngôi vị thái tử. Lữ Thích thân mang trọng trách, đến phủ Lưu Hầu.
Sau một vài lời khiêm nhường và xã giao, một Trương Lương luôn hướng về việc bảo vệ địa vị thái tử cuối cùng cũng nghĩ ra một diệu kế: Khi hoàng thượng được thiên hạ, có bốn vị cao sĩ Đông Viên Công, Hạ Hoàng Công, Kỳ Lý Lý, Giác Lý tiên sinh, bốn người trốn tránh chiến loạn, ẩn cư Thương Sơn; vì bốn người đức cao vọng trọng, lại là cao sĩ cao tuổi, do đó nổi tiếng gần xa, được gọi là Thương Sơn Tứ Hạo; sau khi được thiên hạ, từng trọng lễ mời họ xuống núi, họ chê hoàng thượng thích mắng Nho sinh, nên không nhận lời, không muốn làm thần tử của hoàng thượng; nếu thái tử có thể khiêm nhường kính lễ, cung thỉnh bốn người xuống núi, đến làm khách tại phủ thái tử, một khi hoàng thượng biết được, Thương Sơn Tứ Hạo mà ông không mời được lại muốn theo chân thái tử, tất nhiên có lợi cho danh tiếng của thái tử, hoàng thượng chắc sẽ bỏ đi ý định phế bỏ thái tử.
Lữ Thích thật lòng phục tùng, thật sự bị thuyết phục bởi vị mưu sĩ này. Lữ Thích trở về báo lại với thái hậu, thái tử thảo ngay một bức thư, tình chân ý thật, cử một mưu sĩ mang theo hậu lễ đến Thương Sơn, khấu thỉnh Tứ Hạo. Tứ Hạo cảm động sâu sắc thái tử, nhận lời ngay, xuống núi vào hoàng cung, làm khách của thái tử trong phủ thái tử. Lữ hậu thở phào một hơi nhẹ nhõm.
Hán Cao Tổ năm thứ 11, năm 196 trước Công Nguyên, Hoài Nam Vương Anh Bố tạo phản. Lưu Bang đang mang bệnh muốn thái tử Lưu Doanh lãnh binh dẹp loạn. Lưu Doanh chưa hề đánh trận, chỉ sống trong hoàng cung thanh bình ca múa, làm sao có thể đối phó với Anh Bố dày kinh nghiệm sa trường? Anh Bố từng là một dũng tướng dưới tay của Hạng Vũ, có công nên được phong làm Cửu Giang Vương. Khi chiến tranh Hán Sở, Anh Bố có mảnh đất rộng lớn bị Lưu Bang thuyết phục ra hàng, phản kích Hạng Vũ. Hạng Vũ diệt vong, Lưu Bang phong Anh Bố làm Hoài Nam Vương.
Thái tử nhân hậu không thể nào đảm nhận trọng trách này, lại không thể nhường cho người khác, nếu không, Lưu Bang sẽ nổi giận, nhân cơ hội đó phế truất thái tử. Đối mặt với khó khăn này, một trong Tứ Hạo đã là khách của thái tử, Đông Viên Công hiến một diệu kế, gọi anh của Lữ hậu là Lữ Thích, để Lữ Thích đến gặp Lữ hậu, để Lữ hậu nói năng uyển chuyển làm động lòng Lưu Bang, bảo thái tử đơn độc xuất binh, mà những người mà thái tử thống lãnh đều là lão tướng dưới tay Lưu Bang năm nào, người mà thái tử phải đối phó lại chính là Anh Bố tài trí thâm hiểm, như thế thì e rằng tướng lĩnh không phục, làm sao có thể dẹp loạn? Nếu Anh Bố biết được thì sẽ càng dũng mãnh hơn, tiến sâu về phía tây; tuy hoàng thượng mang bệnh trong người, nhưng nếu có tuỳ quân đi theo bảo vệ, thì các tướng sẽ nghe theo mệnh lệnh ngay; hoàng thượng phải chịu khổ, nhưng vì vợ con và xã tắc, hoàng thượng hãy chịu khổ một chút đi vậy.
Dụng ý của kế này là, thái tử đơn độc lãnh binh, thành công thì địa vị cũng chẳng tăng thêm được chút nào, còn thất bại thì e sẽ lay động đến vị trí thái tử, do đó, phải biết cách sắp xếp để không cần mạo hiểm. Lữ hậu nghe xong lời phân tích của Lữ Thích, cảm thấy rất có lý, bèn tìm cơ hội nói chuyện với Lưu Bang. Lưu Bang đang mang bệnh đương nhiên không hài lòng, không ngờ đã ngần này tuổi, mang bệnh trong người, lại chẳng thể hy vọng vào thái tử đã trưởng thành từ lâu, thật là chẳng thể nào nói gì được! Lưu Bang nổi giận nói: Hừm, thái tử cái gì, trẫm chỉ biết thằng nhóc đó chẳng có ích gì, không thể đảm đương trọng trách, ông già này đành phải đích thân thống soái!
Lưu Bang lệnh cho thái tử cố thủ Trường An, còn mình thì thân chinh chinh phạt Anh Bố. Năm sau, cuộc nổi loạn của Anh Bố được dẹp yên, Lưu Bang trở về Trường An, giận dữ vẫn chưa tan hết nên Lưu Bang vẫn tiếp tục nhắc đến chuyện phế truất thái tử. Đại thần triều đình vẫn kiên trì phản đối như xưa,
nhưng hiển nhiên không có tác dụng. Mưu sĩ Trương Lương cũng tiến tấu Lưu Bang, nói như thế không được, Lưu Bang không nghe. Tình hình hết sức bất lợi cho thái tử. Đúng lúc đó triều đình tổ chức buổi tiệc mừng công lớn, Lưu Bang đang đắc chí cùng vui yến tiệc với quần thần, chúc mừng thắng lợi, thì vô tình phát hiện, tại sao lại có bốn ông lão râu tóc bạc phơ đi theo sau lưng thái tử Lưu Doanh?
Lưu Bang hỏi thái tử mới biết bốn ông lão tinh thần khỏe mạnh, dáng người quắc thước, râu tóc bạc phơ, vừa nhìn là biết nhân sĩ học rộng tài cao. Lưu Bang vặn hỏi bốn người đó là ai? Tứ Hạo tự báo tên. Lưu Bang kinh ngạc, đó chẳng phải là Thương Sơn Tứ Hạo mà mình đã mời nhiều lần mà vẫn không mời được đó sao? Lưu Bang kinh ngạc hỏi: Lúc trước ta mời các người, các người lại trốn tránh ta, tại sao nay lại đi theo con trai của ta?
Tứ Hạo cung kính trả lời: Hoàng thượng chinh phục tứ hải, làm cho thiên hạ thần phục, là anh hùng hào kiệt. Nhưng, hoàng thượng vẫn coi thường Nho sinh, hễ một chút là mắng người; chúng thần không thể chịu đựng được, đương nhiên đành phải chạy trốn. Thái tử cung kính nhân hiếu, khoan dung độ lượng, lễ hiền nho sĩ, nổi tiếng khắp nơi, thiên hạ hào kiệt chí sĩ đều muốn phục vụ cho thái tử, cho nên, chúng thần đây tự nguyện đi theo thái tử.
Sau khi đại yến kết thúc, Tứ Hạo ung dung hộ tống thái tử quay về. Lưu Bang nhìn thái tử đi rất xa, nói với người hầu của Thích phu nhân đứng bên cạnh: Ta vẫn rất muốn phế thái tử, nhưng, nay thái tử đã có bốn vị cao sĩ phò tá, tiếng tăm ngày càng tăng, đã đủ lông đủ cánh, e rằng khó mà lay động được!
Thái tử Lưu Doanh giữ lại được địa vị thái tử như thế đấy, từ đó quyết định kết cục sau này, Lữ hậu thống lãnh hậu cung với vai trò thái hậu, Thích phu nhân cũng không thể thoát được vận mệnh bi thảm của mình.
Hán Cao Tổ năm 12, Lưu Bang qua đời. Thái tử Lưu Doanh kế vị, trở thành Hán Huệ Đế, năm đó 17 tuổi. Lữ hậu trở thành thái hậu, đại quyền trong tay, giám sát cả triều chính. Việc đầu tiên mà Lữ hậu chấp chính là tàn sát Thích phu nhân, người mà ghét cay ghét đắng bà. Hán cung diễn ra một trận đẫm máu, không thể an ninh.
VI. Vận mệnh của sủng phi Thích phu nhân
Câu chuyện về Nhân Trệ được mọi người Trung Quốc biết đến. Chủ nhân của Nhân Trệ chính là mỹ nữ xứ Định Đào Thích thị được Hán Cao Tổ Lưu Bang sủng ái. Thích thị lấy lòng Lưu Bang bằng sự dịu dàng và vẻ đẹp hoa nhường nguyệt thẹn. Hoàng hậu Lữ thị bị lạnh nhạt. Sau khi Thích phu nhân đắc sủng, lại muốn đoạt ngôi, ép Lưu Bang phế truất thái tử Lưu Doanh, con trai của Lữ hậu, cải lập con trai của mình là Như Ý. Lữ hậu hận Thích phu nhân tận xương tuỷ, sau khi nắm quyền, biến tuyệt sắc mỹ nhân này thành Nhân Trệ hết sức đáng thương.
Nhân Trệ là kết quả của cuộc tàn sát đẫm máu tranh giành sự sủng ái trong cung đình. Trên thực tế, trong cung đình Trung Quốc, vô số phụ nữ hầu hạ một người chồng, bản thân việc đó đã tàn hại người phụ nữ. Khả năng của một người chồng có lớn đến mấy, thì cũng chỉ có thể ở chung với một người phụ nữ trong một đêm, có người đắc sủng thì đương nhiên cũng có người thất sủng, có người vui sướng thì đương nhiên có người đau khổ. Thế là hậu cung trở thành chiến trường không tiếng súng giữa vô số phụ nữ tranh giành sự sủng ái, người chiến thắng trong trận chiến đó sẽ được vinh hoa phú qúy, còn kẻ bại trận sẽ đau khổ vô biên, phải sống lạnh lẽo cô đơn trong nước mắt, hoặc là chịu cực hình, vận mệnh càng thảm hại hơn.
Thích thị là mỹ nhân nổi tiếng gần xa Định Đào. Làn da nàng trắng mịn, trắng như ngọc như tuyết, mịn màng. Đôi mắt cô to tròn, dịu dàng làm mất hồn người. Thân hình nàng đầy đặn, khí chất tao nhã. Điều hiếm có là, nàng có giọng hát êm dịu, eo thon như cành liễu, nhảy múa rất nhẹ nhàng, như gió lướt, như mây bay, làm say đắm lòng người.
Khi Lưu Bang khởi binh chinh chiến, ông trú tại Định Đào vào năm đầu tiên của nhà Hán. Thủ lĩnh nghĩa quân lòng mang chí lớn lại rất háo sắc, nghe tin báo, vùng này có một tiên nữ đẹp như hoa như ngọc, làm sao mà không động lòng cho được? Lưu Bang phái người đi tìm Thích thị, tặng hậu lễ, nên nhanh chóng chiếm được mỹ nhân làm say đắm lòng người này.
Từ đó về sau, Lưu Bang không hề rời xa nàng. Hành quân đánh giặc, nam chinh bắc chiến, đều có Thích thị đi theo, vừa tìm khoái lạc vừa chăm lo cho cuộc sống, giải tỏa sự cô đơn. Dù chiến sự có khó khăn cực khổ đến đâu, dù phải đối mặt với hoàn cảnh khốn đốn đến đâu, dù có mệt mỏi đến đâu, chỉ cần về đến nhà, nằm trong lòng người đẹp thoang thỏang mùi thơm là Thích phu nhân, thì Lưu Bang có thể ngủ ngon giấc, mọi phiền não mệt nhọc đều tan biến hết.
Một Lưu Bang thương hoa tiếc ngọc luôn coi mỹ sắc là thứ nhất. Năm nào Lữ Công có mắt nhìn người, quyết gả con gái Lữ Trĩ cho Lưu Bang, Lữ Trĩ không chê bỏ ông, một lòng theo hầu ông, sinh con nuôi con cho ông, còn phải xuống ruộng làm đồng, để nuôi gia đình, mặc cho Lưu Bang du ngoạn thỏa thích. Lưu Bang vẫn hết mực cảm kích Lữ Công, cảm thương Lữ Trĩ.
Nhưng, sự nghiệp của Lưu Bang ngày càng hưng thịnh, tuổi xuân của người vợ cả Lữ Trĩ trôi qua, người già héo hon. Lưu Bang tuy còn cảm kích vợ cả như xưa, nhưng đó chỉ tồn tại trong lòng, khi có mỹ nữ nhiều như thế bên cạnh, Lưu Bang háo sắc làm sao có thể giữ đạo làm chồng, coi mỹ nữ như không, một lòng một dạ sủng ái Lữ Trĩ?
Nếu làm được như thế, vậy thì không phải là Lưu Bang nữa. Dường như bất cứ người đàn ông nào thành công trên chính trị đều lấy mình làm trung tâm, khi để suy nghĩ mọi việc, lấy niềm vui của mình làm điểm xuất phát mà sắp xếp mọi thứ, cay độc, quyết đoán, tuyệt đối không lôi thôi rườm rà. Người phụ nữ thành công chẳng phải cũng thế sao? Cho nên, Lưu Bang có được Thích phu nhân, liền quên Lữ Trĩ, ăn chơi trác táng, vừa chỉ huy tranh giành giang sơn, lại được ngày đêm hưởng lạc mỹ sắc, ông làm gì còn
nhớ đến Lữ Trĩ giúp ông khởi sự hưng binh năm nào?
Thích phu nhân được Lưu Bang sủng ái, ngày đêm đắm chìm trong đó, không bao lâu, Thích phu nhân phát hiện mình đã mang thai. Thích phu nhân hết sức vui mừng, nghĩ rằng mình đã mang cốt nhục của Lưu Bang, Lưu Bang yêu thương mình như thế, sau này sẽ bỏ rơi không quan tâm đến mình nữa sao? Thích phu nhân chăm lo tỉ mỉ đến đứa trẻ trong bụng với tâm trạng hài lòng và tự đắc, mong rằng đó là đứa con trai tuấn tú, sau khi nó ra đời, mọi việc giữa mình và Lưu Bang sẽ thuận tâm như ý.
Mang thai mười tháng, cuối cùng cũng đến ngày sinh nở. Cuối cùng Thích phu nhân cũng vượt qua sự đau đớn khi sinh, và bà rất vui mừng khi đó là một đứa con trai khỏe mạnh. Thích phu nhân tươi như hoa. Hán Cao Tổ Lưu Bang nhìn thấy đứa con trai do mình và sủng phi sinh ra giống mình như đúc, đương nhiên vui mừng khôn xiết, càng yêu qúy Thích phu nhân hơn. Họ đặt tên cho con là Như Ý. Năm Như Ý 7 tuổi, Lưu Bang phong Như Ý làm Đại Vương.
Đại Vương Như Ý càng lớn càng giống Hán Cao Tổ Lưu Bang. Lưu Bang yêu qúy Thích phu nhân không gì sánh bằng, hơn nữa do từng cử chỉ, từng nụ cười của con trai Như Ý đều rất giống mình, nên coi hai mẹ con như châu báu, rất mực cưng chiều. Năm thứ 10 khi Lưu Bang ở ngôi hoàng đế, Đại tướng Trần Hi tạo phản, Lưu Bang lĩnh binh chinh phạt, dẹp loạn. Lữ hậu cũng bắt được đại công thần Hoài Âm Hầu Hàn Tín âm mưu chính biến tại kinh sư, vẫn chưa tra hỏi, đã giết chết Hàn Tín tại cung Trường Lạc. Một Hàn Tín thống binh trăm vạn, nhiều mưu lược và cơ biến không thể tin rằng mình anh minh một thời mà lại chết bởi tay một người đàn bà, thật là ý trời đã rõ! Hàn Tín không cam tâm, cuối cùng cũng vẫn về chầu trời trước nụ cười lạnh lùng của Lữ hậu.
Sau khi Trần Hi, Hàn Tín diệt vong, một đại công thần khác trong cuộc sáng lập nhà Hán, được phong đất tại Sơn Đông Định Đào, là Bành Việt hoảng sợ ngày đêm, lo sợ mình cũng sẽ rước họa diệt thân. Lưu Bang triệu kiến Bành Việt, Bành Việt không dám đi. Đại tướng Hộ Triếp của Bành Việt khuyên ông nên khởi binh tạo phản, Bành Việt do dự không quyết. Lưu Bang được tin Bành Việt, Hộ Triếp mưu phản, lập tức cử binh bao vây Bành Việt, bắt sống hắn, tước hết danh hiệu của hắn, giáng xuống làm lính, xung quân Tứ Xuyên.
Bành Việt đau lòng bắt đầu lên đường. Trên đường đi, cũng may Bành Việt gặp được Lữ Trĩ từ Trường An đi ra. Bành Việt xin bái kiến Lữ hậu. Gặp nhau, Bành Việt đau đớn cầu xin Lữ hậu, tuy không dám cầu xin hoàng đế miễn cho vô tội, nhưng xin Lữ hậu cầu xin giúp, đừng đày đi biên ải Tứ Xuyên xa xôi, mà xin cho về quê nhà tại Sơn Đông, ấp Xương.
Lữ hậu nghe xong, đồng ý ngay. Bành Việt vui mừng lộ ra mặt, cảm kích vô cùng. Lữ hậu tự quyết định, dẫn Bành Việt theo về Lạc Dương. Lữ hậu gặp Lưu Bang, nói với Lưu Bang: Thiếp gặp Bành Việt trên đường, nên dẫn hắn về đây. Lưu Bang thấy lạ, nhưng không có ý trách cứ gì, mà chỉ muốn nghe xem người vợ quyết đoán đa mưu, khôn ngoan trong chính trị của mình có cao kiến gì.
Lữ hậu nói với Lưu Bang, Bành Việt cực khổ công to, là đại công thần khi sáng lập giang sơn Đại Hán, tài năng và công trạng của hắn rất có sức kêu gọi trong cả nước; nếu đày hắn ta đến Tứ Xuyên xa xôi, vậy thì sẽ ngoài tầm kiểm soát của ta, nên không thể khống chế hắn được, mà những người có dã tâm và oán hận từ bốn phương nhất định sẽ đi theo hắn. Tứ Xuyên là vùng đất kho trời, giàu có một phương, một khi Bành Việt hình thành thế lực tại đó, khởi binh tạo phản, thế chẳng phải là để lại hậu họan về sau sao?
Lưu Bang như tỉnh ra. Năm đó khi Hán Sở giao tranh, trong tay mình có 10 vạn hùng binh nhưng vẫn không phải là đối thủ của Hạng Vũ, rồi chẳng phải lúc đó mình cũng được phong Hán Vương tại nơi xa xôi, rồi dựng cờ khởi nghĩa, cuối cùng ép một Hạng Vũ chiến đấu cả đời lại có trong tay mấy chục vạn hùng binh phải tự sát bên bờ Ô Giang đó sao? May mà người vợ thông minh hơn người của mình nghĩ đến điều này, dẫn Bành Việt về, nếu không người tự sát bên bờ sông Ô Giang nói không chừng lại là mình đấy! Lưu Bang nhìn Lữ hậu một cách cảm kích, hỏi bà nên xử lý thế nào, có nên cải chiếu cho Bành Việt đi
lính Sơn Đông, để khống chế hắn? Lữ hậu lắc đầu. Lữ hậu hận chết người Sơn Đông, cho dù là vương hầu được phong đất tại Sơn Đông cũng làm cho bà chán ghét. Lữ hậu thấy Lưu Bang trúng ý mình, nên làm dấu chém đầu, chính là kiên quyết dứt khoát đem Bành Việt ra chém đầu, để tuyệt trừ hậu họa.
Khi hiểu ra, Lưu Bang mới khâm phục vợ tận đáy lòng, ngược lại cảm thấy mình thua xa người đàn bà này, người đàn bà này chẳng biết động lòng chút nào, còn mình ngược lại lại có chút nhân từ của người phụ nữ.
Sau khi Lưu Bang gật đầu, Lữ hậu bèn dặn dò tuỳ tùng, gọi người lập tức báo cho Bành Việt, nói Bành Việt mưu phản lần nữa. Bành Việt như là cá nằm trên thớt, đành để mặc người khác chém giết. Rồi ông bị chém đầu một cách không rõ ràng, ngay cả tam tộc cũng bị chém sạch. Lưu Bang vẫn chưa hả giận, lại dặn dò đao phủ, chặt tay chân của Bành Việt, băm thành tương, sau đó chia làm nhiều phần, lần lượt chia cho các chư hầu được phong đất ở khắp nơi. Ý của ông đã quá rõ, chính là muốn họ sống một cách cẩn thận, đừng âm mưu gì nữa, nếu không sẽ có kết cục giống như thế.
Sau khi loại trừ được những đại thần cùng ông giành lấy giang sơn như Trần Hi, Hàn Tín, Bành Việt rồi, Lưu Bang chẳng còn tin vào những tướng lĩnh và văn sĩ trọng thần từng cùng mình giết giặc, cùng định thiên hạ với mình ngày xưa. Những văn thần võ tướng trí tuệ anh dũng, văn thao võ lược này đều không đáng tin cậy, vậy mình còn có thể tin ai đây? Đương nhiên là cốt nhục của mình, là con cái nối dõi và trong họ tộc.
Đó là vào năm Hán Cao Tổ Lưu Bang thứ 10. Năm đó chính biến liên hồi, cung đình và ngoài triều giết chóc đẫm máu. Năm đó Đại Vương Như Ý được Lưu Bang cưng yêu hết mực vừa tròn 10 tuổi. Lưu Bang phong Như Ý làm Triệu Vương. Lữ hậu Lữ Trĩ đã bước vào tuổi trung niên, vết chân chim đã đuổi đi tuổi thanh xuân. Lưu Bang và Lữ hậu chỉ còn là tình phu thê trên lễ nghi, ông để bà và thái tử giữ kinh sư Trường An, còn Thích phu nhân ngày đêm hầu hạ bên cạnh ông.
Thích phu nhân dịu dàng ân ái, chiếc eo thon nhỏ mềm mại làm Lưu Bang ngất ngây mất hồn. Lưu Bang quyết tâm phế thái tử Lưu Doanh, cải lập Như Ý trong nước mắt và nụ cười của Thích phu nhân, nhưng lần nào cũng bị đại thần và Lữ hậu ngăn cản. Hôm đó tổ chức đại yến, Lưu Bang nhìn thấy Tứ Hạo Thương Sơn cùng với thái tử rời khỏi nơi tổ chức yến tiệc, bèn nói với Thích phu nhân: Chẳng còn cách nào khác, thái tử đã trưởng thành, e rằng khó mà thay đổi được! Sau khi ta trăm năm, Lữ hậu chính là chủ nhân của nàng.
Thích phu nhân đau lòng rơi lệ, đau đớn khôn cùng. Thích phu nhân được hưởng thụ sự ân ái tình nồng của Lưu Bang, đồng thời cũng rất hoảng sợ khi tưởng tượng đến tương lai của mình. Sức khỏe của Lưu Bang đã ngày một yếu hơn, sau khi Lưu Bang qua đời, thái tử Lưu Doanh kế vị, Lữ hậu đương quyền, lúc đó nên làm sao đây? Lòng dạ ác độc của Lữ hậu ai nấy đều biết, bà ta sẽ đối xử với mình thế nào đây?
Thích phu nhân tuy đau lòng, nhưng lại cảm thấy mình chưa hề xung đột với Lữ hậu, chắc đến lúc đó Lữ hậu không quá tuyệt tình. Lưu Bang sủng ái mình, đó không phải là lỗi của mình, Lưu Bang muốn thích ai, đó là điều không thể gượng ép của người đó. Nếu nói cải lập thái tử, cũng xuất phát từ sự sợ hãi nên mới có cách nghĩ như thế, mà đó là chủ ý của Lưu Bang, cuối cùng chẳng phải cũng không nhắc đến nữa là gì? Thái tử Lưu Doanh chẳng phải vẫn là thái tử đó sao? Lữ hậu chắc sẽ nể chút tình với mình?
Thích phu nhân không còn cách nào khác, đứng trong điện, chỉ cúi đầu khóc lóc. Lưu Bang thương hoa tiếc ngọc không khỏi chạnh lòng khi nhìn thấy cảnh này, trái tim anh hùng ngày xưa cứng rắn như thế nay lại trở nên mềm yếu đến thế. Anh hùng yêu mỹ nhân, nhưng giờ đây, anh hùng đã già, không những không thể bảo vệ mỹ nhân mình yêu thích, mà ngay cả mình cũng phải ăn bữa hôm lo bữa mai, không biết ngày nào mình sẽ rời khỏi thế giới này!
Lưu Bang vuốt ve Thích phu nhân. Thích phu nhân run sợ nép mình, như chú cún con bị thương. Đến khi bình tĩnh hơn, Lưu Bang nhẹ nhàng nói rằng: Tiểu mỹ nhân, đứng dậy đi, trước đây chúng ta là người
nước Sở, nào, cùng múa một điệu múa nhé, ta sẽ múa điệu múa nước Sở cùng nàng. Thích phu nhân nghe vậy, nước mắt tuôn trào. Bà đứng dậy, mặc cho nước mắt chảy dài trên gương mặt nhỏ nhắn. Thích phu nhân ca hay múa giỏi, nhất là điệu múa nước Sở, nhảy đến nỗi kinh thiên địa, khóc quỷ thần. Thích phu nhân nhẹ nhàng đứng lên, giơ cao cánh tay, đung đưa chiếc eo thon nhỏ, bắt đầu điệu múa nước Sở mê hồn người. Nước mắt vẫn tuôn trên gương mặt, Lưu Bang râu tóc bạc phơ vừa thưởng thức điệu múa nước Sở, vừa vỗ tay theo nhịp, hát lên khúc hát ai oán của nước Sở: Hồng hạc bay cao, một sải ngàn dặm.
Lông cánh đã đủ, tung hoành tứ hải.
Tung hoành tứ hải, lại được gì đâu.
Tuy có lụa là, muốn yên có được!
Lời hát đau buồn của Lưu Bang cứ vang mãi trong cung điện. Tiếng hát biến mất, điệu múa cũng dừng lại, Thích phu nhân mềm nhũn ra như chiếc lá mùa thu, khóc như một người chỉ có nước mắt, khóc không thành tiếng. Lưu Bang ôm chặt Thích phu nhân, đi vào phòng trong. Từ đó về sau, Lưu Bang cũng chẳng hề nhắc đến chuyện phế lập thái tử.
Nỗi đau của Thích phu nhân đương nhiên làm cho Lưu Bang ăn ngủ không ngon. Lưu Bang từ một người dân bình thường đến thiên tử của cả thiên hạ, đương nhiên biết được kết cục của Thích phu nhân sau khi ông qua đời. Lưu Bang cũng thừa biết Lữ hậu hết sức thâm độc, thái tử Lưu Doanh thì lại quá nhân từ, Thích phu nhân và đứa con yêu Như Ý làm sao là đối thủ của Lữ hậu được?
Đại thần Triệu Nghiêu mấy lần nhìn thấy hoàng thượng âu sầu không vui, tâm trạng nặng nề, nên đoán được chút gì đó, biết được hoàng thượng không sống được bao lâu đang lo lắng chuyện gì. Hôm đó, Triệu Nghiêu gặp Lưu Bang đang mặt mày ủ rũ, nhẹ nhàng nói: Bệ hạ, ngày nào hoàng thượng cũng u sầu lo lắng, có phải vì Thích phu nhân và Triệu Vương Như Ý? Lo rằng họ sẽ gặp rắc rối với hoàng hậu, sợ rằng mai sau không an toàn?
Lưu Bang ngẩng đầu lên nhìn Triệu Nghiêu, gật đầu với tâm trạng nặng trĩu. Triệu Nghiêu thật hiểu ý người khác, có thể nhìn thấy sự buồn khổ của hoàng thượng. Lưu Bang thở dài, hỏi Triệu Nghiêu: Đúng thế, trẫm đang lo lắng về chuyện này, khanh túc trí đa mưu, có cách nào hay không? Vốn đã định liệu kỹ càng, Triệu Nghiêu ngưng một lát, mới tiến tấu: Xin hỏi hoàng thượng, có một cách, không biết có thỏa đáng không.
Lưu Bang nghe nói có cách, bèn bảo Triệu Nghiêu mau chóng nói ra. Lúc này Triệu Nghiêu mới mở miệng: Tại sao bệ hạ không chọn ra một đại thần tinh anh kiên cường, đức cao vọng trọng để hầu hạ Triệu Vương, làm thừa tướng của Triệu Vương? Vị đại thần này phải ngay thẳng, không sợ cường quyền, lại không tự kiêu, làm cho hoàng hậu, thái tử và đại thần phải kính nể vài phân; được vị đại thần như thế phò trợ, chắc sẽ có tác dụng đối với Triệu Vương.
Lưu Bang nghe xong, tuy thấy kế ấy khá hay, nhưng không thể loại bỏ nguồn gốc của nguy hiểm, nhưng theo tình hình trước mắt, cũng chỉ có cách này là thỏa đáng nhất, làm được nhất. Lưu Bang nghĩ một hồi, lại hỏi tiếp: Người xem ai là người phù hợp nhất? Triệu Nghiêu trả lời: Tiểu thần suy đi tính lại, chỉ có ngự sử đại phu, Phân Âm Hầu Châu Xương là người thích hợp nhất.
Lưu Bang ngẫm lại, ngự sử đại phu Châu Xương đích thật là đức cao vọng trọng, tinh anh có tài, chính trực vô tư, còn làm hoàng hậu cảm kích vài phần, thái tử và đại thần đều kính nể ông vài phân, tuy có tật nói lắp, nhưng chỉ có ông ta là thích hợp nhất. Lưu Bang bèn bí mật triệu Châu Xương, trịnh trọng giao phó Triệu Vương Như Ý cho ông, để ông chăm sóc chu đáo. Châu Xương nhận trọng trách của hoàng thượng đến nhận chức tại đất phong của Triệu Vương.
Năm sau, cũng chính là năm thứ 12 của Hán Cao Tổ, mùa xuân năm 195 trước Công Nguyên, Lưu Bang bị trúng tên khi đang thảo phạt phản quân Hoài Nam vương Anh Bố, bệnh nằm trong cung, cuối cùng
rời khỏi trần thế, thọ 71 tuổi. Trước khi lâm chung, Lưu Bang triệu thừa tướng, thái tử, thái uý và giao di chiếu lại cho họ, sắp xếp hậu sự. Sau khi Lưu Bang qua đời, nhập táng Trường Lăng, miếu hiệu Cao Tổ, Ích Cao hoàng đế.
Thái tử Lưu Doanh được phong Hán Vương khi mới 5 tuổi, 7 tuổi được phong làm thái tử, năm Lưu Bang qua đời, Lưu Doanh 17 tuổi, kế vị hoàng đế, làm Hán Huệ Đế. Lưu Doanh kế vị, tôn mẫu thân Lữ Trĩ làm thái hậu, do Lưu Doanh còn nhỏ, trời sinh nhân từ, yếu đuối, đại sự trong triều đều do Lữ hậu quyết định. Lữ hậu dễ dàng nắm đại quyền trong triều và trong cung. Sau khi ổn định quyền lực, Lữ hậu bắt đầu làm mưa làm gió, trút hết mọi bực tức phải dồn nén bao năm nay, và người đầu tiên là Thích phu nhân.
Thật ra, trước khi Lưu Bang tắt thở, Lữ hậu giỏi về mưu lược chính trị đã bắt đầu hành động, âm thầm khống chế cả hậu cung. Lưu Bang vừa tắt thở, Lữ hậu đã phong tỏa hậu cung. Bà triệu tập tâm phúc, bí mật điều động binh lực, bày binh bố trận. Lữ hậu giữ bí mật không phát tang trong vòng 4 ngày.
Sau khi khống chế triều chính, Lữ hậu lập tức cho gọi vài vị đại thần tâm phúc, nhân cơ hội này giết hết mọi tướng soái của Lưu Bang nắm trọng quyền và trung thành với giang sơn họ Lưu. Mấy vị tâm phúc như Lệ Thương, Thẩm Thực Kỳ kiên quyết phản đối, cho rằng lúc này không được, quá vội vàng sẽ không mang lại kết quả cao.
Lệ Thương, Thẩm Thực Kỳ khuyên răn nhiều lần, phân tích lợi hại, lúc này Lữ hậu đang giận sôi lên đành phải thu lại sát khí, giữ lại tính mạng của đám tướng thần đi theo người chồng quá cố Lưu Bang, lo liệu cho hài cốt chưa lạnh của chồng. Thái tử Lưu Doanh từ lúc lên ngôi, nhất nhất mọi thứ đều nghe theo mệnh lệnh của thái hậu.
Lữ hậu cử tâm phúc giam lỏng Thích phu nhân trong lãnh cung. Mái tóc đen tuyền mượt mà từng làm Lưu Bang ngày mơ đêm nhớ của Thích phu nhân làm cho Lữ hậu tức giận vì mình không được như thế. Sau khi Thích phu nhân bị giam, mệnh lệnh đầu tiên của Lữ hậu là cắt bỏ mái tóc mượt mà của Thích phu nhân, cạo thành đầu trọc. Thích phu nhân chỉ đành giương mắt nhìn mà la hét, nhưng cuối cùng đành phải đau lòng chấp nhận sự thật tàn khốc này.
Lữ hậu nhìn thấy cái đầu trọc của Thích phu nhân, một nụ cười lạnh lùng nở trên môi. Thích phu nhân đau khổ buồn bã, nhìn chằm chằm Lữ hậu bằng đôi mắt sưng đỏ. Lữ hậu lạnh lùng dặn dò: Khóa tay chân, cởi bỏ quần áo, cho mặc áo tù, ngày nào cũng phải giã gạo trong viện. Người hầu nghe xong mệnh lệnh, lập tức làm theo, ai dám chậm trễ phút nào?
Y phục của Thích phu nhân bị lột bỏ hết, thay vào đó là bộ áo tù màu đỏ dơ không thể tả. Một Thích phu nhân sống quen cuộc sống nhung gấm lụa là vinh hoa phú quý, làm gì có chuẩn bị đến việc này? Nhưng, sự thật đã là như thế. Thích phu nhân chấp nhận tất cả, nghĩ rằng đầu trọc thì vẫn sẽ mọc lại tóc; tay chân bị khóa, đợi đến khi Lữ hậu hết giận, thì sẽ bỏ còng; bộ áo rách rưới dơ bẩn này, chẳng bao lâu nữa cũng được cởi bỏ, được mặc lại áo tơ mà mình yêu thích. Còn về cơm thừa canh cặn hàng ngày, cho dù Thích phu nhân thấy buồn nôn mỗi khi ăn, nhưng sau vài ngày chịu đói, cuối cùng cũng cố gắng ăn, tự ép mình phải ăn, một lòng trông chờ con trai Triệu Vương đến cứu mình.
Công việc giã gạo quả thật rất vất vả. Đau khổ, bi thương, phẫn hận, cô độc cùng nhau tấn công Thích phu nhân, làm cho nước mắt không ngừng tuôn trào. Từ mặt trời mọc, bà mong cho mặt trời lặn, từ mặt trời lặn, mong cho mặt trời mọc, bao nhiêu ngày đêm trôi qua trong sự mong chờ và đau khổ. Nhưng, trông chờ vào cái gì? Tính mạng của con trai Triệu Vương còn khó mà giữ được, thì làm sao có thể đến cứu mình? Tuy nhiên, Thích phu nhân thì có thể làm gì? Con trai là tia hy vọng duy nhất của bà, ngoài việc trông chờ vào con trai thì còn có thể trông chờ vào ai nữa? Thích phu nhân đau khổ vừa giã gạo, vừa nghĩ về đứa con trai của mình, bất chợt hát lên vài câu:
Con làm chúa, mẹ làm tù.
Từ sáng giã gạo đến tối,
Làm bạn với cái chết.
Xa nhau ba ngàn dặm,
Chẳng biết ai tỏ giúp mình.
Thích phu nhân nổi tiếng trong cung nhờ vào tiếng hát, sắc đẹp và điệu múa, nhất là giỏi đánh trống gảy đàn, đồng thời làm cho các phi tần phải thán phục bởi điệu múa eo như bay như lượn của mình. Hàng trăm kẻ nô bộc phải cảm động bởi tiếng hát, các ca khúc tuyệt vời của bà như “Xuất hàn”, “Nhập hàn”, ‘Vọng qui”, nên theo học tiếng hát vang đến mây hồng. Tiếng hát vang xa của Thích phu nhân đã chinh phục hết phụ nữ trong hậu cung.
Thích phu nhân bị giam cầm phải giải sầu bằng các bài hát bi ai, mọi người ai cũng biết được nỗi đau xé lòng của bà. Mỗi khi hát xong, Thích phu nhân thấy nỗi buồn vơi bớt đi, thấy lòng nhẹ nhõm hơn. Các tì nữ phụ trách canh chừng bà cũng thưởng thức thật lòng những bài hát bi ai của bà. Nhưng, các tì nữ này đều trung thành với Lữ hậu, sứ mệnh của họ là báo cáo từng hành động, lời nói và tình hình mỗi ngày của Thích phu nhân với Lữ hậu.
Lữ hậu nghe được tình hình chi tiết về các bài hát bi ai của Thích phu nhân, trong lòng cũng thấy chột dạ. Người đàn bà lẳng lơ này vẫn còn một tia hy vọng, mong con trai đến cứu mình? Tốt, gọi con trai của ngươi về kinh sư, để hầu hạ cho tốt người đàn bà thối tha này! Để ngươi tận mắt nhìn thấy con trai của ngươi, xem nó cứu ngươi như thế nào?
Lữ hậu lập tức hạ chỉ, cử tâm phúc đến đất phong của Triệu Vương truyền chỉ, triệu Triệu Vương Như Ý nhập cung. Sứ thần phụng chỉ đến đất phong của Triệu Vương, truyền đạt thánh ý. Thừa tướng Châu Xương của Triệu Vương ra mặt, uyển chuyển từ chối. Một loạt 3 sứ thần phụng chỉ Lữ hậu đến triệu Triệu Vương, đều bị Châu Xương nhất nhất cản trở.
Đương nhiên Lữ hậu không cam tâm, nhưng thái tử Lưu Doanh có thể bảo vệ ngôi vị thái tử, đồng thời từ đó có thể bước lên đại vị, đều được sự bảo vệ hết sức của đại thần, nhất là sự giúp đỡ đắc lực của Châu Xương. Có Châu Xương chống đỡ tại Triệu phủ, ai có thể động đến Triệu Vương Như Ý. Nhưng Lữ hậu thông minh hơn người, chuyện cỏn con này làm sao cản được bà? Hạ một thánh chỉ, triệu Châu Xương về kinh, Châu Xương còn dám kháng chỉ?
Châu Xương cản trở không cho Triệu Vương vào kinh, nói rất rõ ràng với sứ giả rằng: Nghe nói hoàng thái hậu oán hận Thích phu nhân, nay triệu Triệu Vương đến Trường An, e rằng tính mạng của mẹ con họ khó mà giữ được; năm đó Cao Tổ phái tôi đến đất Triệu, làm thừa tướng của Triệu Vương, chính là muốn tôi bảo vệ và phò tá Triệu Vương, tôi không thể để cho Triệu Vương đến Trường An nộp mạng; hiện giờ Triệu Vương đang bệnh nằm trên giường, mời ông chuyển báo với thái hậu, tiểu thần không thể phụng chỉ.
Đất phong của Triệu Vương tại Hà Bắc. Lữ hậu phái sứ giả triệu Châu Xương vào kinh trước, Châu Xương đành phải phụng chỉ lên đường, trước khi đi còn dặn dò Triệu Vương đừng rời khỏi đất Triệu. Nhưng, Châu Xương vừa mới lên đường, sứ thần thứ hai đã đến ngay Triệu phủ, triệu Triệu Vương vào kinh. Triệu Vương mất đi sự bảo vệ của Châu Xương, đành phải cúi đầu nghe lệnh, theo sứ thần vào kinh. Năm đó, Triệu Vương Như Ý mới 12 tuổi.
Lữ hậu độc ác nham hiểm, thái tử Lưu Doanh lại quá nhân từ. Lưu Doanh rất yêu mến em trai Như Ý, nghe nói mẫu thân triệu Như Ý vào kinh, biết rằng Như Ý đang đi vào chỗ nguy hiểm, nên lập tức tìm cách cứu viện. Thế là lập tức xuất cung, đích thân nghênh đón Triệu Vương Như Ý tại Đông Bá ngoại thành Trường An, đón người em trai đang gặp nguy hiểm của mình về phủ của mình, cùng nhau ăn uống, không rời một bước.
Lữ hậu nhận được báo cáo của tâm phúc, giận điên lên, nhưng lại làm gì được? Hoàng thượng đưa em trai của mình về ở cung, là đạo lý hiển nhiên, làm sao có thể ra quân ồ ạt và trách mắng họ được? Triệu Vương Như Ý sống chung với hoàng thượng. Người của Lữ hậu không ai dám ra tay, đương nhiên an toàn
rất nhiều. Nhưng, hoàng đế Lưu Doanh vẫn còn là một đứa trẻ, mà đứa trẻ thì làm gì bảo vệ được một đứa trẻ khác như Như Ý?
Một thời gian sau, mọi việc đều bình an vô sự. Hoàng đế Lưu Doanh thấy nguy hiểm đã qua, không còn để ý nữa. Một hôm, sáng sớm thức dậy, Lưu Doanh luyện kiếm trong vườn như thường lệ, nhìn thấy Như Ý ngủ say, không đành lòng gọi dậy, nên một mình xuất cung, đi luyện kiếm bắn tên. Tâm phúc của Lữ hậu nhân cơ hội này xâm nhập tẩm cung của hoàng đế, chuẩn bị thuốc độc cho Triệu Vương Như Ý. Bắn tên luyện kiếm xong, Huệ Đế Lưu Doanh nhanh chóng trở về tẩm cung, khi nhìn thấy gương mặt trắng bệch của Triệu Vương, miệng vụt ra một tia máu tươi, bất giác khóc thét lên, đau khổ tột cùng.
Như Ý rời khỏi nhân gian như thế đấy. Nhưng Lữ hậu vẫn chưa hả giận, còn kiếm một cách khác để dày vò Thích phu nhân. Thích phu nhân được biết con trai của mình đã bị đầu độc chết, nước mắt chảy đến khô cả, đôi mắt cũng mất đi ánh sáng. Lữ hậu không thích bộ dạng này của Thích phu nhân, nên dặn dò thuộc hạ chặt phăng tứ chi của Thích phu nhân, rồi lệnh cho người móc đi đôi mắt từng làm say đắm mê hồn Lưu Bang của Thích phu nhân, sau đó, sai người xông thuốc làm điếc Thích phu nhân, cuối cùng chuẩn bị một phần thuốc câm, ép Thích phu nhân uống.
Thích phu nhân mất đi tứ chi, đôi mắt mất nốt, tai nghe không được, lại không thể nói chuyện, mọi tàn khốc của nhân thế không thể vượt hơn thế này nữa. Thích phu nhân bị bỏ rơi trong hố xí, hô hấp mùi hôi thối, gọi là nhân trệ (người heo). Nhưng bà vẫn không chết, Lữ hậu không cho bà chết, chính vì muốn bà phải nếm trải hết mọi đau khổ của cuộc sống bằng thủ đoạn này, sau đó chết đi từ từ. Chỉ có như thế, Lữ hậu mới báo được cái hận đoạt sủng của Thích phu nhân, như thế mới trút được mọi oán hận tích tụ bao năm nay.
Lữ hậu dương dương đắc ý. Hôm đó hết sức vui mừng, nên gọi Huệ Đế Lưu Doanh, bảo hoàng đế đến hố xí xem người heo. Lưu Doanh trời sinh nhân hậu, giật nảy mình khi nhìn thấy một thứ như thế, không biết là cái gì. Có đầu, đương nhiên là người, còn có lỗ mũi, da dẻ lại trắng trẻo, giống như một phụ nữ. Lưu Doanh càng nhìn càng sợ, hỏi đó là ai? Trả lời đó là Thích phu nhân.
Lưu Doanh đứng ngây người ra đó. Chẳng lẽ đó chính là Thích phu nhân xinh đẹp tuyệt trần đó sao? Lưu Doanh không tài nào liên tưởng được hai hình ảnh hoàn toàn khác biệt này lại với nhau. Sau một lúc ngẩn người, Lưu Doanh đau khổ khóc thét lên, trách mẹ mình quá ư là tàn nhẫn, giết chết con trai của bà ấy, lại biến bà ấy thành hình dạng như thế. Sau khi bình tĩnh lại, Lưu Doanh lạnh lùng nói với Lữ hậu: Đó không thể nào là việc mà một con người có thể làm được, bà là thái hậu mà lại làm như thế; tôi thân làm con trai của bà, còn mặt mũi nào mà chỉnh đốn thiên hạ? Từ đó về sau, Huệ Đế Lưu Doanh không còn hỏi về chính sự nữa, cả ngày chìm trong rượu và gái.
VII. Sự lạm quyền của thái hậu Lữ Trĩ
Lữ Trĩ không phải là một phụ nữ bình thường. Thủ đoạn chính trị và quyết đoán tàn độc của bà đã thể hiện từ trước khi trở thành thái hậu nắm đại quyền, tập trung phản ánh trong việc bà trợ giúp Lưu Bang, xử lý những Bành Việt, Hàn Tín có trọng quyền, vì vậy, Lưu Bang phải nhìn bà bằng con mắt khác, đồng thời lo lắng cho vận mệnh của sủng phi Thích phu nhân.
Thương Sơn Tứ Hạo phò tá Lưu Doanh, ngôi vị thái tử của Lưu Doanh được đảm bảo. Sau khi Lưu Bang qua đời, Lưu Doanh kế vị, trở thành Hán Huệ Đế, hoàng hậu Lữ Trĩ trở thành hoàng thái hậu. Lưu Doanh còn nhỏ, quá nhân từ với mọi người, mọi chuyện đại sự trong triều do hoàng thái hậu quyết định. Chuyện lớn đầu tiên Lữ hậu làm sau khi nắm quyền chính là xử lý Thích phu nhân đã đoạt sủng và đoạt ngôi của thái tử năm nào.
Lữ hậu ghen ghét và đối xử tàn ác với Thích phu nhân vì Thích phu nhân tuyệt đẹp đoạt sủng của bà. Cũng vì ganh ghét, Lữ hậu quyết không để mình thua thiệt, phải ngẩng đầu lên tìm cách trả thù cho hả giận, thế mới nhẹ nhõm vui vẻ được. Lữ hậu cơ bản là một người phụ nữ bình thường, bà bảo vệ tính mạng của cả nhà mình theo bản năng, bảo vệ sự bình an của con cái, một khi có người xâm phạm đến lợi ích của bà, thì bà sẽ chẳng chút nể nang, cho dù phải làm những chuyện động trời, tổn thương đạo lý thì bà cũng không từ.
Lữ hậu vốn là một phụ nữ lo cho gia đình, muốn bình yên sống qua ngày, bà buộc phải lấy Lưu Bang, người trở thành hoàng đế sau này, được sống cuộc sống của hoàng gia phú qúy. Cuộc sống lạnh nhạt đã dẫn đến sự tàn nhẫn của bà, khiến cho bà chẳng màng đến gì cả. Lữ hậu bình sinh chỉ yêu một người đàn ông là Lưu Bang, sau này, bà phát hiện Lưu Bang háo sắc, công thành danh toại, thì tìm vui ở người phụ nữ khác, thế là bà chuyển hết tình yêu đó cho hai người con của mình.
Vì an ninh tại biên cương, Lưu Bang phải gả công chúa Lỗ Nguyên sang Hung Nô. Điều này làm Lữ hậu rất kích động, lúc này bà mơ hồ nhận ra rằng, vợ, con gái chẳng qua chỉ là một thứ đồ vật trong tay của Lưu Bang, khi không cần nữa, thì có thể quăng đi không hề tiếc nuối. Tiếp đó, Lưu Bang lại yêu mến Thích phu nhân, suýt nữa bỏ mất ngôi thái tử của Lưu Doanh. Nhiều năm nay, Lữ hậu cứ phải sống trong sự hoang mang sợ hãi, trong lòng chất đầy thù hận và phẫn nộ, mất đi sự cân bằng về tâm lý và ổn định trong lòng, nhưng bà kiên trì chịu đựng, mong cho Lưu Bang chết sớm, con trai sớm kế vị, mình sẽ được trút hết mọi phẫn nộ trong lòng.
Vì Lưu Doanh là con yêu nên được phong làm thái tử, nếu theo trật tự trưởng ấu, Lưu Doanh còn có một người anh cả tên là Lưu Phì. Lưu Phì là con trai của Lưu Bang với một phụ nữ khác trước khi kết hôn. Sau khi Lưu Bang lên chức hoàng đế, phong Lưu Phì làm Tề Vương, bảy mươi mấy thành tại ấp Thực, Sơn Đông. Lữ hậu vốn không thích đứa con của Lưu Bang thông gian với người phụ nữ khác, lại còn được phong vương, có bảy mươi mấy thành, đương nhiên trong lòng không thoải mái tí nào.
Một lần, Huệ Đế Lưu Doanh triệu kiến Lưu Phì. Lưu Phì hết đỗi vui mừng mà vào triều, vào hoàng cung, gặp mặt huynh đệ Lưu Doanh. Huệ Đế Lưu Doanh và huynh trưởng Lưu Phì mở tiệc mừng, đó đương nhiên là tiệc gia đình bình thường. Đã là yến tiệc của gia đình, thì Huệ Đế Lưu Doanh hiền hậu nhân ái đương nhiên phải tôn ca ca Lưu Phì làm trưởng, để Lưu Phì thượng tọa. Lưu Phì không biết trời cao đất dày, dám ngồi ở vị trí huynh trưởng.
Lữ hậu nhìn thấy mà hận trong lòng. Bà chẳng nói gì cả, chỉ là sai người rót hai ly rượu, trong rượu có độc trẩm, ra hiệu cho họ kính rượu thượng thọ Lưu Phì. Lưu Phì đứng dậy, nâng ly rượu lên, đi về phía thái hậu. Lưu Doanh cũng đứng dậy theo, đi về phía thái hậu. Hai huynh đệ mỗi người cầm lấy một ly rượu,
kính thái hậu, nâng ly muốn uống. Lữ hậu kinh sợ ngay, sợ con mình uống ly rượu này, nên nhanh chóng đi xuống, giựt lấy ly rượu của Lưu Doanh, quăng sang một bên. Lưu Phì nhìn thấy có chuyện, nên hoảng sợ không dám uống ly rượu trong tay đó nữa.
Lưu Phì trở về nơi ở, được biết hai ly rượu lúc nãy chính là hai ly rượu độc, làm anh ta hồn vía lên mây. Lưu Phì thấp thỏm lo âu, biết thái hậu oán hận mình, chắc là sẽ không có ngày tháng yên lành, càng không biết nên làm thế nào cho tốt. Nhất là tại kinh sư, nếu thái hậu không muốn thả mình về đất phong của mình, vậy thì mình sẽ chẳng có ngày nào yên!
Lưu Phì lo sợ ngày đêm. Thấy chuyện rất nghiêm trọng, tuỳ tùng của Lưu Phì hiến cho ông một kế, nói thái hậu chỉ có một đứa con gái, coi như minh châu trên tay, vương có đất phong hơn 70 thành, còn ấp Thái của công chúa Lỗ Nguyên chỉ có vài thành, Lữ hậu nhất định không hài lòng về chuyện này; nếu vương tặng cho thái hậu một quận, hiếu kính cho công chúa làm Thang Mục Ba, thái hậu tất nhiên sẽ rất mừng, như vậy, vương có thể thoát họa, rời khỏi kinh sư, trở về đất phong.
Lưu Phì cho rằng kế đó rất hay, nên đã tiếp nhận ý kiến này. Lưu Phì khấu kiến thái hậu, tỏ ý muốn hiến tặng quận Thành Dương, hiếu kính công chúa, đồng thời bằng lòng nhận công chúa Lỗ Nguyên làm mẹ, tôn công chúa làm Tề Vương thái hậu. Lữ hậu hết sức vui mừng. Lữ hậu đúng là dùng uy quyền để ép buộc Lưu Phì, làm cho Lưu Phì, người anh cùng cha khác mẹ này, nhận em gái của mình làm thái hậu, đồng thời cung phụng theo lễ mẹ con! Nhưng chỉ có như thế, mới làm vui lòng được thái hậu, Lưu Phì mới an toàn thoát thân trở về đất phong.
Lữ hậu luôn lấy mình làm trung tâm, bất kể luân thường đạo lý. Huệ Đế Lưu Doanh ngày càng trưởng thành, nên để Huệ Đế kết hôn, sắc định một vị hoàng hậu. Chọn ai làm hoàng hậu bây giờ? Đương nhiên Lữ hậu phải suy nghĩ cho thật kỹ. Chọn người ngoài họ làm hoàng hậu, tất nhiên sẽ nảy sinh thế lực hậu tộc mới, chia đình kháng lễ với thái hậu, biện pháp tốt nhất đương nhiên là chọn ngay trong thân tộc.
Huệ Đế kế vị khi 17 tuổi, 3 năm sau vừa đúng 20. Lữ hậu suy nghĩ khác người, gả con gái của Lỗ Nguyên công chúa, cho Lưu Doanh, sắc lập làm hoàng hậu! Lỗ Nguyên công chúa chẳng qua chỉ lớn hơn Lưu Doanh vài tuổi, nhưng tuyệt đối không lớn hơn mười mấy tuổi, chắc chắn con gái của cô lúc này vẫn chưa thành niên. Lữ hậu bất chấp luân lý như thế, Lưu Doanh lại không lo âu buồn phiền hay sao?
Lưu Doanh vẫn luôn thân thể khiếm an, u uất trong lòng. Ông chưa hề đụng đến cô cháu gái đã là hoàng hậu Trương thị của mình, do đó Trương thị không mang thai sinh con. Lưu Doanh không có con nối dõi, đương nhiên không phù hợp với yêu cầu của Lữ hậu, nhưng Lữ hậu lại không thể ép Lưu Doanh sinh con cho bà. Làm sao đây? Một Lữ hậu lo xa tính kỹ, nhiều mưu đồ xấu đã nghĩ ra một kế: lấy con của người khác giả làm con của hoàng hậu Trương thị, giết mẹ ruột của đứa trẻ, ôm vào thâm cung nuôi dưỡng. Lữ hậu nuôi rất nhiều đứa con giả như thế trong cung. 4 năm sau Lưu Doanh qua đời, Lữ hậu lập tức đưa con giả của Lưu Doanh lên kế vị, gọi là Hán Thiếu Đế, Lữ hậu tạm nắm quyền.
Huệ Đế Lưu Doanh u uất mà chết, Lữ hậu lập con giả làm đế, việc này đương nhiên gây nên sự bất bình trong hoàng tộc và tướng lĩnh đại thần. Lữ hậu hiểu rất rõ điều này. Trong mắt của Lữ hậu chứa đầy mưu tính giết người, do đó khi khóc đưa tang con trai Lưu Doanh, bà chỉ khóc khô, chứ không có nước mắt. Trương Bích Cương, con trai của mưu sĩ Trương Lương, nhìn thấy cảnh đó bèn mật báo với thừa tướng Tào Tham.
Trướng Bích Cương hỏi Tào Tham: Thừa tướng, ngài biết hoàng thượng đã đi rồi, tại sao thái hậu lại khóc mà không đau lòng không? Tào Tham kinh ngạc, không ngờ chàng thiếu niên này lại nhìn ra sự việc này, hơn nữa lại nói ngắn gọn và trúng vào điểm chính. Việc này chính là việc Tào Tham đang lo lắng, không biết nên làm thế nào. Tào Tham nhìn dò xét vào Trương Bích Cương, bảo anh nói tiếp.
Trương Bích Cương nói: Điều này rất đơn giản, Huệ Đế có mấy người con trai, nhưng đều quá nhỏ; thái hậu sợ khó chế ngự lão thần, nên lo lắng trong lòng; tướng lĩnh đại thần trong đình sẽ rơi vào cảnh
nguy khốn! Tào Tham hỏi có diệu kế gì không? Trương Bích Cương nói: Nếu thừa tướng kiến nghị với thái hậu, bái họ Lữ làm tướng, để họ thống lĩnh cấm quân kinh sư, địa vị quan trọng, thái hậu nhất định rất vui mừng, còn tướng lĩnh trong triều cũng thoát khỏi nguy hiểm.
Tào Tham thấy đây cũng là kế hay, nên làm theo. Thừa tướng chủ động nhường chức nhường quyền, thái hậu Lữ Trĩ đương nhiên cầu còn chẳng được. Tào Tham đợi đến khi tướng thần giữ được tính mạng, nhưng giang sơn lại rơi vào tay của nhà họ Lữ. Lữ Trĩ có hai người anh: Lữ Trạch, Lữ Thích Chi; một cô em gái. Hai huynh đệ Lữ Trạch, Lữ Thích Chi đều được phong hầu tước, lần lượt cáo bệnh về quê khi Huệ Đế Lưu Doanh chấp chính. Lữ Trạch có hai con trai: Lữ Đài, Lữ Sản. Lữ Thích Chi có một con trai: Lữ Lộc. Tộc nhà họ Lữ còn có rất nhiều con cháu khác.
Lữ thái hậu hiển nhiên chấp nhận lời kiến nghị của thừa tướng Tào Tham, đại phong họ Lữ. Có 4 người trong tộc họ Lữ được phong vương: Lữ Lộc phong Triệu Vương, Lữ Sản phong Lương Vương, Lữ Đài phong Lữ Vương, Lữ Thông phong Yến Vương. Có 8 người được phong hầu. Lữ Tu trở thành vợ của Phàn Khoái, phong Lâm Quang Hầu. Cùng lúc với việc thái hậu đại phong nhà họ Lữ, lại cố hết sức gả con gái trong họ Lữ cho vương hầu họ Lưu. Triệu Ưu Vương Lưu Hữu, Triệu Công Vương Lưu Hồi, Doanh Lăng hầu Lưu Trạch, Chu Hư hầu Lưu Đồng đều lấy con gái nhà họ Lữ làm vợ.
Lữ hậu phong con trai nhà họ Lữ làm vương hầu, gả con gái họ Lữ cho vương hầu nhà họ Lưu, chỉ có một mục đích, đó chính là củng cố sự thống trị của bà. Lữ hậu biết rằng, chỉ cần có quyền lực trong tay, thì chẳng còn sợ gì cả. Năm Lưu Bang thống trị thiên hạ, chỉ phong họ Lưu làm vương, cho rằng cả thiên hạ là của họ Lưu. Nay con cái họ Lữ đều lần lượt được phong vương hầu, đại thần trong triều ai dám lên tiếng? Lưu Bang còn có 6 người con ở bên ngoài, tướng thần trong triều hàng trăm hàng ngàn, ai dám phản đối?
Vương hầu nhà họ Lưu lấy con gái nhà họ Lữ làm vợ, chẳng khác gì lấy phải một vị bồ tát phải cung phụng ngày đêm. Nếu không như thế, con gái nhà họ Lữ sẽ không tha cho những vương hầu dòng dõi qúy tộc này. Một Triệu Ưu Vương Lưu Hữu đường đường là người hơi ngạo mạn, ông chúa ghét người vợ nhà họ Lữ của mình, ngôn ngữ hành động có vẻ hơi khinh thường, kết quả, con gái nhà họ Lữ bẩm báo với Lữ hậu, hãm hại Lưu Hữu. Lữ hậu triệu Lưu Hữu vào cung. Lưu Hữu thản nhiên tiến vào Trường An, bước vào hậu cung, không ngờ bị Lữ hậu giam lại trong lãnh cung, để ông đói chết!
Cuộc sống của những vương hầu họ Lưu lấy những cô gái họ Lữ làm vợ khác cũng chẳng tốt đẹp hơn. Triệu Cung vương Lưu Hồi bất mãn với sự kiêu căng của họ Lữ, Lữ Sản Nữ giám sát từng hành động của Lưu Hồi, làm cho Lưu Hồi không có chút tự do. Lưu Hồi nhìn con gái họ Lưu với ánh mắt căm thù, nên dành tình cảm sang cho người thiếp yêu, không ngờ cô gái họ Lữ bị lạnh nhạt lại bỏ độc vào rượu, độc chết thiếp yêu của Lưu Hồi. Lưu Hồi phẫn nộ vô cùng, thân làm một vương gia, lại không thể bảo vệ người phụ nữ của mình, Lưu Hồi đành phải u phẫn tự vẫn. Yến Linh vương Lưu Kiến bệnh chết, để lại một đứa con trai, Lữ hậu không chỉ không cho con trai họ Lưu thừa kế đất phong, ngược lại cử người giết chết hắn, để tuyệt hậu Lưu Kiến.
Tề vương Lưu Phì nhân nhượng vì lợi ích toàn cục, miễn cưỡng giành lại được tính mạng từ tay Lữ hậu. Có thể nói con trai của Lưu Phì, Lưu Chương là một người tài đức hơn người trong số con em vương hầu nhà họ Lưu. Lưu Chương được phong Chu Hư hầu, dưới sự thao túng của Lữ hậu, đành phải lấy con gái của Lữ Lộc làm vợ. Lưu Chương đối xử phóng khoáng với mọi người, không hề kiêng cữ gì cả, vợ ông Lữ thị cũng không dám làm gì thất lễ với ông. Có một lần, Lữ hậu bày yến trong cung, lệnh cho khách uống rượu. Lưu Chương cầu xin Lữ hậu, giám rượu theo quân pháp. Lữ hậu hiển nhiên đồng ý. Kết quả, có một qúy tộc họ Lữ trốn rượu, bị Lưu Chương bắt được, đem chém ngay tại đó. Lưu Chương là người có khí phách anh hùng, mượn vài ly rượu, ngâm lên bài ca làm ruộng, Lữ hậu cũng hết sức kinh ngạc. Lời ca trong bài ca làm ruộng là thế này:
Thâm canh tức chủng, lập miêu dục sơ.
Phi kỳ chủng giả, sừ nhĩ khứ chi.
(Tạm dịch là: Thâm canh tức là trồng trọt, cấy mầm mong lên rau. Không phải là người trồng trọt, thì nên vác cuốc mà rời khỏi đó.)
VIII. Chuyện bí ẩn trong thâm cung
Lữ hậu nắm đại quyền trong tay, sau khi củng cố quyền vị, bắt đầu đùa giỡn với đàn ông. Lữ hậu sủng tín Bích Dương hầu Thẩm Thực Kỳ, thích vẻ đẹp của Thẩm Thực Kỳ, thông gian với ông. Thẩm Thực Kỳ là xá nhân do Lưu Bang cử đến cho thái hậu, chức trách là lo liệu chuyện nhà, là một phó quan trong cung. Lữ thị thích Thẩm Thực Kỳ. Hai người gian díu trong cung, chuyện xấu này đã được bàn tán xôn xao khi Lưu Bang còn sống, lan truyền ra ngoài, Lưu Bang cũng biết chuyện. Một Lưu Bang chỉ coi đàn bà là quần áo không coi trọng chuyện này, chẳng tính toán gì. Lữ hậu cũng nể mặt Lưu Bang, bà và Thẩm Thực Kỳ thông gian, chỉ là thỏa mãn dục vọng về mặt sinh lý, chứ chẳng quá đáng gì cả. Thẩm Thực Kỳ cũng rất thật thà, không dám kiêu ngạo vì được sủng ái, càng không dám ngạo mạn khoe khoang.
Quán Cao mưu phản bị bại lộ, mẹ của Lịch Vương Hoài Nam bị liên luỵ, bị bắt vào trong lao. Em trai của bà không còn đường thoát, nhớ lại rằng chỉ có Lữ hậu hạ chiếu miễn tội thì mới được cứu, mà muốn thuyết phục được Lữ hậu, chỉ có cầu xin tư sủng Bích Dương hầu của Lữ hậu. Sau khi gặp được Bích Dương Hầu Thẩm Thực Kỳ, kể rõ đầu đuôi ngọn ngành của vụ án, mong Bích Dương hầu cầu xin với Lữ hậu. Mẹ của Lịch Vương là người được Lưu Bang sủng ái mới sinh ra Lịch Vương, đó cũng là một đối thủ đoạt sủng của Lữ hậu, chẳng lẽ Lữ hậu không oán hận sao? Bích Dương hầu chỉ mong mình bình yên vô sự, nên cũng không dám tranh luận để cầu an, sợ dẫn đến sự ác cảm của Lữ hậu, người lại tự rước họa vào thân, kết quả, mẹ của Lịch Vương không thể thoát nguy, đành phải tự vẫn thân vong.
Huệ Đế kế vị, Lữ hậu chấp chính, Lữ hậu càng bất chấp tất cả, càng già càng dẻo dai, công nhiên tư thông với Bích Dương hầu Thẩm Thực Kỳ. Có người mật báo với Huệ Đế, Huệ Đế làm sao có thể chịu đựng chuyện xấu này! Huệ Đế muốn giết Bích Dương hầu, dặn dò giam hắn lại trước. Lữ hậu cảm thấy không còn mặt mũi cầu xin con trai về chuyện này, nên im lặng không nói gì cả. Bích Dương hầu không còn đường thoát cầu đến Bình Nguyên Quân, được Bình Nguyên Quân giới thiệu đến gặp sủng thần của Huệ Đế, Hồng Tịch Nhụ. Hồng Tịch Nhụ giúp Thẩm Thực Kỳ cầu xin Huệ Đế, sự phẫn nộ của Huệ Đế lại hạ xuống, tha cho Thẩm Thực Kỳ.
Hán Văn Đế kế vị, Lữ thái hậu cũng không còn trên thế gian nữa. Lịch Vương tố cáo mọi tội trạng của Bích Dương hầu với Văn Đế, nức nở kể lại, một trong số những tội trạng của hắn là năm đó Bích Dương hầu được thái hậu đắc sủng, không cố gắng hết sức cầu xin cho mẹ của mình. Do đó, Lịch Vương ép chết Bích Dương hầu với nỗi hận tận xương tuỷ.
Cuối đời của Lữ thái hậu giống như đại đa số quân vương khác của Trung Quốc, tính toán đa nghi. Thiếu Đế trưởng thành dần trong sự nâng niu của Lữ thái hậu. Thiếu Đế dần dần biết được Trương hoàng hậu không phải là mẫu thân của mình, còn mẫu thân của mình đã bị Lữ thái hậu giết chết. Thiếu Đế hết sức phẫn hận, tuổi tác còn nhỏ, mà đã nói ra những lời như thế này: Thái hậu giết chết mẫu thân của ta, khi trưởng thành ta nhất định sẽ báo thù cho mẫu thân! Lữ thái hậu được tấu báo, hết sức giận dữ, bèn giam lỏng Thiếu Đế, giết hại Thiếu Đế, lập một người con giả khác là Hằng Sơn vương Tề Nghị làm hoàng đế.
Tuy Lữ thái hậu nghi thần nghi quỷ, nhưng lại rất tin thần. Có một năm, bà dẫn theo tuỳ tùng xuất cung kính thần, trên đường về cung, hoảng hốt nhìn thấy một con chó trắng nhảy xộc vào bà, cào một vết dưới nách của bà, bà kinh sợ thất sắc. Lữ thái hậu về cung bói một quẻ, quẻ tướng cho thấy do Triệu Vương Như Ý quậy phá. Từ đó về sau, Lữ thái hậu luôn thấy đau ngầm dưới nách, hễ bệnh là 3,4 tháng, hơn nữa bệnh tình ngày càng trầm trọng.
IX. Sự diệt vong của gia tộc họ Lữ
Lữ thái hậu biết mình không còn trên thế gian bao lâu. Lữ thái hậu lo lắng, sau khi bà chết, giang sơn xã tắc này sẽ do ai thống trị đây? Là vương hầu họ Lưu hay là vương hầu họ Lữ? Lữ thái hậu hướng về họ Lữ làm chủ, bà điều chỉnh lớn chế độ lễ pháp trong vương triều, nếu quyền vị trở về họ Lưu thì chẳng phải mọi công sức đều đổ sông đổ biển hết cả sao?
Lữ thái hậu bệnh nằm liệt trên giường, phát ra một chiếu thư, phong Triệu Vương Lữ Lộc làm tướng quân, thống lĩnh cấm quân Bắc quân; Lương Vương Lữ Sản thống lĩnh cấm quân Nam quân. Nam quân, Bắc quân đều là cấm vệ quân trong kinh sư, Bắc quân bảo vệ kinh sư, Nam quân bảo vệ hoàng cung.
Lữ thái hậu triệu Lữ Lộc, Lữ Sản đến trước giường bệnh, nói với hai người họ: Nhà họ Lữ được phong vương, tướng thần trong triều đều thấy bất bình; sau khi ta chết, hoàng đế còn trẻ, e rằng tướng thần trong triều sẽ sinh biến; các người nhất định phải nắm chắc binh quyền quân Nam, Bắc, bảo vệ kinh sư, bảo vệ hoàng cung, cho dù có phải mặc tang phục cũng không thể rời khỏi quân ngũ, nếu không sẽ bị người khác khống chế.
Năm 179 trước Công Nguyên, cuối cùng Lữ thái hậu cũng rời khỏi nhân thế. Nhà họ Lữ điều động binh lực, âm mưu tạo phản, giết hết đại thần. Vợ của Chu Hư Hầu Lưu Chương là con gái của Lữ Lộc, Lưu Chương biết trước sẽ có binh biến trong cung. Lưu Chương báo trước tình hình nguy hiểm cho anh của mình là Tề Vương Lưu Nhượng, để anh chuẩn bị khởi binh, giết hết nhà họ Lữ. Đồng thời, Lưu Chương bí mật liên lạc với thái uý Châu Bộc, thừa tướng Trần Bình, báo cho họ biết mọi chuyện trong cung.
Tề Vương Lưu Nhượng khởi binh phản kích nhà họ Lữ. Tướng quốc Lưu Sản phái tướng quân Quán Anh dẫn binh nghênh chiến. Quán Anh dẫn binh đến Huỳnh Dương, ngưng binh không tiến, ngược lại liên hợp với Tề Vương, cùng đối phó với họ Lữ. Con trai của Khúc Châu Hầu Lệ Thương, Lệ Kỳ quan hệ mật thiết với Lữ Lộc. Thái uý đã bị tước mất binh quyền Châu Bộc định kế với thừa tướng Trần Bình, cử người tiến vào Bắc quân, lừa được tướng ấn của tướng quân Lữ Lộc, hiệu lệnh tướng sĩ. Người tiến vào Bắc quân đương nhiên chính là Lệ Kỳ.
Châu Bộc, Trần Bình phái người bắt Lệ Thương, uy hiếp Lệ Kỳ ra Bắc quân, lừa Lữ Lộc nói: Để tránh xảy ra chuyện ngoài ý muốn, đại tướng quân nên giao ra binh quyền, tướng ấn, mau chóng trở về đất phong. Nhà họ Lữ do dự không quyết. Châu Bộc giả chiếu chỉ của hoàng đế, tiến vào Bắc quân, nói với tướng sĩ: Người đi theo nhà họ Lữ thì đứng sang bên phải, người đi theo nhà họ Lưu thì đứng sang bên trái. Tướng sĩ đều đứng sang trái, nhà họ Lữ mất đi binh quyền. Lưu Chương vào cung, giết Lữ Sản, bắt giết Lữ Lộc, già trẻ trai gái nhà họ Lữ đều bị giết sạch.
Chương III
Vị hoàng hậu đầu tiên của Hán Vũ Đế
I. Kim ốc tàng Kiều
Câu chuyện “Kim ốc tàng Kiều” được lưu truyền rộng rãi tại Trung Quốc, dường như nhà nhà đều biết, già trẻ lớn bé đều hiểu. Nhất là những văn nhân yêu thích phong hoa tuyết nguyệt của Trung Quốc, càng thích thú với câu chuyện tình tuyệt đẹp của đôi giai nhân đế vương, thích ngâm thơ ca vịnh, tô điểm làm cho câu chuyện trở nên sống động, đủ màu sắc hơn.
Các đại thi nhân đời Đường đương nhiên không thể bỏ qua đề vịnh của câu chuyện tình tuyệt đẹp này. Trong bài “Oán tình”, Lý Bạch có câu thơ như sau: “Thỉnh khán Trần hậu hoàng kim ốc, thúc thúc chu liễm sinh mạng tơ”. (Tạm dịch là: hãy nhìn ngôi nhà bằng vàng của Trần hoàng hậu, cô tịch vắng vẻ đến nỗi nhện giăng tơ ở trên rèm cửa). Trong bài “Tục cổ thi” của Bạch Cư Dị có câu: Tuế mục vọng Hán cung, thử tại hoàng kim ốc? (Năm tháng nhìn vào cung nhà Hán, xin hỏi ai sống trong ngôi nhà bằng vàng). Ngôi nhà vàng đã trở thành điển cố và từ đó không thể tách rời Hán Vũ Đế kim ốc tàng Kiều.
Bài thơ “Giới lạc trung hạnh hoa” của nhà thơ thời Nguyên Nguyên Hảo Vấn có câu thơ như sau: A Kiều tân sủng trữ kim ốc, minh phi viễn giá sầu thanh gia”. Bài “Bần phụ dao” của Hoàng Tấn viết: Quân bất kiến, nhân gian sủng nhục đa phản phúc, A Kiều lão trú hoàng kim ốc (Tạm dịch: Nhà vua không gặp, sự sủng ái và ruồng bỏ của nhân gian lặp lại nhiều lần, A Kiều vẫn cứ sống mãi trong ngôi nhà vàng). A Kiều trữ kim ốc trở thành tên gọi của sự gặp gỡ vô thường của con người.
Kim ốc tàng Kiều, kim ốc trữ Kiều, tàng Kiều, trữ Kiều, A Kiều trữ kim ốc, kim ốc, hoàng kim ốc..., đều là điển cố thịnh hành tại Trung Quốc, nói về khi mới cưới vợ hiền thiếp đẹp, thì rất sủng ái, hoặc là thể hiện thê thiếp do bị thất sủng, mà bị lạnh nhạt trong căn phòng u ám lạnh lẽo.
Vậy thì, rốt cuộc kim ốc tàng Kiều là câu chuyện gì? Hà cớ gì làm rung động trái tim đa tình của các nhà văn nhà thơ suốt hàng ngàn năm nay? Hán Vũ Đế tài trí song toàn, phong lưu đa tình, tại sao lại không thể giữ được cô gái mà ông đã hứa cho kim ốc tàng Kiều?
Chủ nhân của kim ốc tàng Kiều chính là hoàng hậu đầu tiên Trần A Kiều của Hán Vũ Đế Lưu Triệt. Mẹ của A Kiều là trưởng công chúa Quản Đào, chính là con gái Lưu Phiêu của Hán Văn Đế Lưu Hoằng và Đậu hoàng hậu. Lưu Phiêu được gả cho Đường Ấp Hầu Trần Ngọ, tình cảm hai người rất tốt, sinh được một đứa con gái ngang tàng kiêu căng, thông minh hơn người, được cưng như trứng mỏng, đặt tên A Kiều.
Hán Cảnh Đế Lưu Khải là anh em của trưởng công chúa Lưu Phiêu. Lưu Triệt là con trai thứ 9 của Hán Cảnh Đế Lưu Khải, sau này Lưu Triệt kế vị thành Hán Vũ Đế, người hứa xây kim ốc trữ A Kiều chính là Lưu Triệt. Lưu Phiêu là cô mẫu thân thuộc của Lưu Triệt, con gái A Kiều của Lưu Phiêu và Lưu Triệt là anh em họ. Lưu Triệt vì được sự yêu mến của A Kiều nên mới chiếm được sự yêu mến của cô mẫu Lưu Phiêu, Lưu Phiêu thuyết phục được Hán Cảnh Đế, lập Lưu Triệt làm thái tử, từ đó bước lên đại vị. Sau 10 năm ân ái, Lưu Triệt bỏ rơi A Kiều, một kim ốc tàng Kiều kiêu ngạo ngang bướng trở thành oán nữ Trường Môn rửa mặt bằng nước mắt.
Lưu Triệt tự Thông, từ nhỏ đã rất anh võ, rất được người yêu. Khi còn nhỏ thường đến nhà của cô mẫu trưởng công chúa Quản Đào, cậu ta thích người chị họ A Kiều, hai người thường chơi đùa chung với nhau. A Kiều rất xinh đẹp, có đôi mắt làm rung động lòng người. Lưu Triệt được Cảnh Đế Lưu Khải phong làm Giao Đông vương khi mới 4 tuổi. Lưu Triệt càng năng đến nhà của cô mẫu tìm A Kiều sau khi được phong vương.
Một lần, trưởng công chúa Quản Đào âu yếm ôm Giao Đông vương Lưu Triệt vào lòng, đặt trên gối, hỏi Lưu Triệt: Con có muốn một người vợ không? Lưu Triệt gật gật đầu. Trưởng công chúa Quản Đào thấy rất thú vị, không ngờ thằng bé nhỏ tuổi như thế mà đã muốn có vợ! Trưởng công chúa Quản Đào nhất
thời hưng phấn, bèn gọi khoảng trăm tì nữ trong phủ cho Lưu Triệt lựa chọn.
Không ngờ Lưu Triệt đều lắc đầu, cái đầu nho nhỏ lắc qua lắc lại thật giống như một cái trống, bĩu môi lại, nét mặt trở nên nghiêm túc. Trưởng công chúa Quản Đào bất giác thấy rất vui, cảm thấy tiểu vương tử này rất thú vị, càng lúc càng yêu mến hắn hơn. Hơn một trăm người hầu hắn cũng chẳng cần, chỉ còn mỗi con gái A Kiều của mình. Quản Đào công chúa chỉ A Kiều, hỏi Lưu Triệt: A Kiều thế nào? Lưu Triệt nghiêm mặt lại gật gật đầu.
Trưởng công chúa Quản Đào vui mừng cười phá lên, không ngờ thằng bé này cũng có lòng như thế, nhỏ như thế mà đã định A Kiều! Trưởng công chúa Quản Đào hưng phấn tột cùng hỏi tiếp Lưu Triệt: A Kiều tốt không? Lưu Triệt trả lời: Tốt! Tiếp đó, Lưu Triệt nói như người lớn rằng: Nếu cưới A Kiều về làm vợ, con nhất định sẽ xây một ngôi nhà bằng vàng, để A Kiều sống trong đó!
Nghe xong, trưởng công chúa Quản Đào cười đến nỗi không thể ngậm miệng lại được. Trưởng công chúa Quản Đào hưng phấn đi tìm mẫu thân Vương phu nhân của Lưu Triệt, kể lại câu chuyện lúc nãy. Không ngờ một Vương phu nhân thông minh hơn người lập tức định luôn chuyện kết thân này, hai nhà đã kết thân với nhau như thế đấy. Con cái lấy nhau, đương nhiên là người một nhà. Một trưởng công chúa quan hệ mật thiết với Hán Cảnh Đế Lưu Khải đương nhiên nói vài câu tốt đẹp cho con rể tương lai Lưu Triệt của mình chứ, làm cho Hán Cảnh Đế chọn Lưu Triệt làm thái tử trong số rất nhiều con trai của mình.
Trưởng công chúa Quản Đào hễ có cơ hội là nói về Lưu Triệt với người anh Cảnh Đế Lưu Khải, khen Lưu Triệt thông minh hơn người. Lưu Triệt được sự chú ý của Lưu Khải. Lưu Khải nhiều lần quan sát Lưu Triệt, phát hiện đứa con trai thứ 9 này quả thật có tư thế long phụng, là người con có thể trông chờ được. Khi Lưu Triệt lên 7 thì được phong làm thái tử. Văn Đế Lưu Hoằng tại vị 23 năm, qua đời năm 46 tuổi. Cảnh Đế Lưu Khải cũng mạng trời không dài, tại vị chỉ 16 năm, qua đời khi 48 tuổi. Lưu Triệt kế vị hoàng đế năm 16 tuổi, lấy danh Hán Vũ Đế.
Khi Lưu Triệt làm thái tử, thì đã cưới A Kiều mới 14 tuổi làm vợ, chính là thái tử phi. Lưu Triệt kế vị hoàng đế, A Kiều được sắc lập làm hoàng hậu. Hoàng hậu A Kiều luôn sống trong nhung lụa, cuộc sống dồi dào sung túc, được bố mẹ nuông chiều nên quen thói hư thân, từ nhỏ đến lớn không biết u sầu là gì, cũng không biết nhường nhịn người khác. Sau khi làm hoàng hậu, vẫn được Hán Vũ Đế sủng ái như cũ. A Kiều đẹp mê người, hết sức phong tình, một Hán Vũ Đế Lưu Triệt đang tuổi xuân tình luôn bị A Kiều thu hút, vừa quyến luyến nàng, vừa có chút sợ hãi nàng.
II. Thất sủng
Một A Kiều được nuông chiều quen thói hư thân vẫn luôn hưởng thụ cuộc sống, ngày nào cũng mong cho Vũ Đế hạ triều, tận hưởng tình vợ chồng, du thưởng hậu cung. Cuộc sống vui vẻ qua nhanh như gió, chớp mắt đã 10 năm trôi qua. A Kiều được hưởng vô số hoan lạc trong vòng 10 năm được Hán Vũ Đế Lưu Triệt sủng ái, và cũng hưởng thụ được không biết bao ân ái của Vũ Đế. Nhưng, ngay cả A Kiều cũng thấy lạ là, 10 năm, mà bà chẳng mang thai lần nào.
Một A Kiều luôn được hưởng thụ sự ân ái của hoàng thượng ngày nào cũng sống những tháng ngày vui vẻ vô ưu, chẳng chú ý nhiều đến chuyện chưa hề mang thai, chỉ cảm thấy ngày tháng còn dài, ân ái của hoàng thượng bất tận, huống hồ Lưu Triệt được ở trên ngôi hoàng đế chẳng phải do công của mẫu thân nói giúp đó sao? A Kiều cảm thấy mình thao túng được Lưu Triệt, Lưu Triệt sẽ một lòng một dạ, và yêu mình hết mực, tuyệt đối không thay đổi tình cảm, có lòng dạ khác.
Vũ Đế Lưu Triệt là người mang chí lớn, ông thông minh, quyết đoán, dựa vào phán đoán của mình và yêu thích việc triều chính, tuyệt đối không nghe theo sự xếp đặt của người khác. Về mặt tình cảm, Lưu Triệt rất say mê người chị họ của mình, lưu luyến những ngày tháng thanh mai trúc mã của mình với chị họ. Điều mà chàng phải cảm ơn nhất chính là, sở dĩ được lập làm thái tử trong số nhiều anh em, công lao hoàn toàn thuộc về cô mẫu trưởng công chúa Quản Đào. Lưu Triệt vẫn luôn sủng ái A Kiều, nhường nhịn nàng, cho dù nàng ngang ngạnh làm loạn, thậm chí cố tình gây rắc rối, Lưu Triệt cũng nhẫn nhịn, cố gắng khoan dung cho người chị họ tuyệt đẹp này.
Mười mùa xuân trôi qua như thoi. Đối với Trần hoàng hậu A Kiều, 10 năm đó dường như chỉ là chớp mắt. Nhưng, đối với Vũ Đế Lưu Triệt, 10 năm này lại quá dài, lại quá phong phú. Lưu Triệt từ một thiếu niên 16 tuổi lớn lên thành một thiên tử rất có sức hấp dẫn và trí tuệ, biết văn biết võ, giỏi chinh chiến. Lưu Triệt rất quen thuộc với công việc triều chính, xử lý mọi việc đâu ra đó, đối với hậu cung phức tạp, triều thần chính đảng nắm rõ như trong lòng bàn tay, phối hợp với nhau rất thành thạo.
Có một điều mà ngay cả Lưu Triệt cũng kinh ngạc là, tình cảm của mình lại có thể thay đổi. Lưu Triệt phát hiện, A Kiều xinh đẹp mê người, luôn thu hút người khác chẳng qua chỉ là một cô gái qúy tộc kiêu căng, ngạo mạn, có lúc làm cho người khác không vui, ở bên nàng ta thường thấy không thoải mái, thậm chí có chút chán ghét. Lưu Triệt tràn đầy tinh lực thường thấy cô độc, ý định thay đổi tình cảm không ngừng kích thích, làm cho Lưu Triệt có chút chần chừ khi tan triều. Lưu Triệt không muốn đi về tẩm cung của hoàng hậu, chỉ muốn ở một mình.
Cũng chính vào lúc này, một Vệ Tử Phu chim sa cá lặn xuất hiện trong cuộc đời của Lưu Triệt, Lưu Triệt dường như cảm nhận được ánh sáng chói lọi tỏa ra trong cuộc sống tăm tối của mình. Tâm hồn cô độc của Lưu Triệt tràn đầy hình bóng của người đẹp yêu kiều, một trái tim cô độc cuối cùng cũng tìm được chỗ dựa. Lưu Triệt ngày càng rời xa A Kiều, tình cảm cũng phai dần. Đến khi A Kiều nhận thấy sự thay đổi này thì mọi việc đã quá muộn.
A Kiều ý thức được rằng không có mang là điều hết sức nghiêm trọng, hoàng tử nối ngôi là đại sự của giang sơn xã tắc, tuyệt đối không thể coi thường. Nhưng, gấp thì làm gì được? Có thể mang thai liền hay sao? A Kiều muốn mình có mang, nhưng lại không thành công. Mẫu thân trưởng công chúa Quản Đào của A Kiều cũng rất sốt ruột, nghĩ hết trăm phương ngàn cách, tìm thầy uống thuốc, bói quẻ cầu thần, thử qua hết tất cả mọi cách, nhưng vẫn chẳng có tác dụng gì.
Vũ Đế Lưu Triệt gặp được ca nữ Vệ Tử Phu hoa nhường nguyệt thẹn tại nhà của chị mình là Bình Dương công chúa, đồng thời sủng hạnh cô ngay tại phòng thay đồ. Sau đó Bình Dương công chúa trang
điểm lại cho Vệ Tử Phu rồi đưa vào hậu cung của Lưu Triệt. Tình cảm của Lưu Triệt thay đổi dần dần, sau khi tan triều bèn đến ngay phòng của Vệ Tử Phu, hoặc là sủng hạnh mỹ nữ khác. Cuộc sống phú qúy của A Kiều mất đi sự yên bình.
Vệ Tử Phu có đẹp hơn đi nữa thì cũng chỉ là một ca nữ. Một ca nữ thấp kém như thế mà lại đoạt sủng của hoàng hậu, Trần hoàng hậu A Kiều không chịu được điều đó. Quản Đào trưởng công chúa Lưu Phiêu mẫu thân của A Kiều, mẫu thân của hoàng đế Vương thái hậu cũng bất bình về việc này, bắt tay với mẹ con A Kiều, cùng nhau đối phó với Vệ Tử Phu, muốn kéo hoàng đế Lưu Triệt anh võ trở về bên cạnh A Kiều, ôn lại giấc mơ êm đềm, ra vào có nhau của ngày xưa.
Đáng tiếc Vệ Tử Phu quá đẹp, Lưu Triệt cũng quá si tình. Sau khi Lưu Triệt thật sự nhận thấy vẻ đẹp tuyệt sắc của Vệ Tử Phu thì không thể rời xa nàng nữa. Vệ Tử Phu không chỉ dày dạn sương gió, mà không chịu thua kém, dường như cố ý trêu tức hoàng hậu A Kiều, một thời gian sau, Tử Phu mang thai, sinh một lượt 3 đứa con gái.
Hoàng hậu A Kiều tức giận, căm hận, bất lực khi nhìn sự thay đổi cái bụng của Vệ Tử Phu từ bằng phẳng đến khi phình to lên, rồi từ phình to trở nên bằng phẳng lại, nhìn từng đứa từng đứa trẻ lần lượt chào đời tại thẩm cung. Điều an ủi duy nhất là, Vệ Tử Phu không sinh được con trai, nên biết rằng, huyết mạch do con trai truyền thừa, huyết mạch hoàng gia cũng như thế, không có con trai thì căn bản không thể uy hiếp được ai.
Vệ Tử Phu cũng thấy hơi căng thẳng. Hoàng thượng quan tâm đến mình do háo sắc, sinh liên tiếp 3 đứa con gái, tuổi thanh xuân trôi dần đi, một khi nhan sắc phai tàn, một khi hoàng thượng thay đổi tình cảm, vậy thì có còn được sự sủng ái này không? Phải nhanh chóng sinh một đứa con trai khi hoàng thượng còn yêu mình sâu đậm. Vệ Tử Phu cầu khẩn trời xanh, khẩn cầu thần linh. Vệ Tử Phu lại mang thai một lần nữa, hơn nữa, trời lại chiều theo lòng người, quả thật ban cho cô một đứa con trai. Vũ Đế Lưu Triệt đương nhiên hết sức sung sướng, đặt tên cho con là Lưu Cư, không lâu sau, bèn lập làm thái tử.
Lịch sử hậu cung Trung Quốc là nhiều mỹ nữ hầu hạ một người đàn ông, người đàn ông này chính là hoàng đế. Hoàng đế có thể quan hệ với bất kỳ người phụ nữ nào trong số những những người này. Trong mối quan hệ nam nữ này, hoàng hậu chẳng qua chỉ là một trong số những phụ nữ đấy, chẳng có chỗ đặc biệt nào để hoàng đế để ý nhiều hay ít.
Hoàng đế yêu thích hoàng hậu, có lúc chỉ xuất phát từ sự tôn trọng, là nhu cầu về mặt lễ nghĩa; có lúc lại xuất phát từ tình cảm thật sự, như Vũ Đế Lưu Triệt đối với hoàng hậu A Kiều. Nhưng, thời gian làm thay đổi mọi thứ, đương nhiên có thể làm thay đổi cả tình cảm. Đó là điều mà không ai có thể chống lại được, không ai có sức chống lại nó.
Lưu Triệt sủng ái Vệ Tử Phu, càng chuyển tình cảm sang mỹ nữ khác, nhiệt tình hơn, quan tâm hơn, tơ tưởng nhiều hơn người phụ nữ khác, hoàng hậu A Kiều càng đau khổ hơn, đau lòng hơn, cô độc hơn, đau đớn hơn.
A Kiều đau lòng hơn những người phụ nữ bị hoàng đế đắc sủng rồi lại thất sủng. Lưu Triệt là bạn từ nhỏ của nàng, cũng là người bạn mà nàng hằng tin tưởng, hằng dựa vào, Lưu Triệt rời khỏi nàng, chẳng khác gì là sự phản bội tuổi thơ trong sáng của họ, là nhẫn tâm xé nát tình cảm tốt đẹp mà họ đã có được. A Kiều từng hả hê có được Lưu Triệt, tận hưởng những niềm vui mà chưa có người phụ nữ nào có được, dường như chỉ trong chớp mắt, màu vàng ngũ sắc được xây trong 10 năm nay đã tan tành theo mây khói. Trái tim của A Kiều dường như bị đâm một nhát kiếm, đang âm thầm rỉ từng giọt máu.
A Kiều chẳng buồn ăn uống lắng nghe tiếng nô đùa từ cung phòng truyền qua, càng khó ăn khó ngủ hơn. Ngày nào A Kiều cũng trông chờ, không biết bắt đầu từ khi nào, nàng đã không nhìn thấy Lưu Triệt, và cũng không biết lần gặp mặt cuối cùng là ngày nào tháng nào? A Kiều càng không nhớ bắt đầu từ khi nào, tẩm cung này của hoàng hậu không có hình bóng của Lưu Triệt, cô mỏi mắt mong chờ, lắng nghe
từng động tĩnh của cửa cung, chờ đợi Lưu Triệt.
III. Cô độc Trường Môn cung
A Kiều cay đắng chịu đựng từng đêm từng đêm dài dằng dặc, mắt cũng đã đỏ lên, quầng mắt cũng thâm đi, mặt cũng trắng bệch ra, dung nhan cũng tiều tuỵ hẳn đi. Lúc này, có một bà đồng tên là Sở Phục đến tẩm cung của hoàng hậu. Sở Phục đương nhiên biết được tâm trạng của hoàng hậu, biết nỗi đau của hoàng hậu. Sở Phục dạy hoàng hậu thuật mê hoặc, niệm chú mỗi ngày, niệm chết những người đáng căm hận.
A Kiều thần trí hoảng hốt như người phụ nữ chìm trong nước đã lâu, phát hiện ra một ngọn cỏ thì phải ôm chặt không thể buông ra. A Kiều học được thuật chú này, nên giữ như châu ngọc. A Kiều coi trọng bà đồng Sở Phục, làm theo cách của Sở Phục, làm một người bằng vải, gọi người vải đó là Vệ Tử Phu, ngày nào cũng dùng kim châm vào hình nhân bằng vải đó.
Hoàng cung nhà Hán tuyệt đối cấm thuật bùa chú. Theo cách nói của đồng cốt, sau khi làm chú, thì người bị niệm chú sẽ chết. Hoàng hậu A Kiều làm thuật bùa chú trong tẩm cung, niệm chú sủng phu Vệ Tử Phu của Lưu Triệt, những người được A Kiều yêu mến trong cung đã tố giác A Kiều.
Vũ Đế Lưu Triệt nổi giận đùng đùng, ra lệnh điều tra kỹ càng, kết quả điều tra quả đúng như sự thật. Lưu Triệt vốn rất sủng ái mỹ nữ Vệ Tử Phu, hơn nữa Vệ Tử Phu lại có 3 con gái và 1 con trai, Lưu Triệt đã có ý phế hậu từ lâu, nhưng không thể mở miệng. Nay có cái cớ hoàng hậu dùng bùa chú trong cung, Trần hoàng hậu A Kiều đương nhiên cũng khó mà thoát được.
Ngọc ấn của A Kiều hoàng hậu bị tước đi, hoàng hậu bị phế, đương nhiên phải dời sang cung khác. A Kiều đau khổ khôn cùng khi phải dời đến Trường Môn cung. Trường Môn cung rất vắng lặng, đâu đâu cũng là cỏ dại. Nước sơn của Trường Môn cung cũng đã bong tróc ra từng mảng, làm cho cảnh vật càng buồn bã thê lương hơn. A Kiều phải sống trong đó, ngày nào cũng nước mắt như mưa, nước mắt làm bạn với sự hoang tàn vắng vẻ.
Mặt trời chiếu sáng cả Trường Môn cung, màu chiều như máu như đang nuốt chửng cả Trường Môn cung, hoa cỏ cây cối trong Trường Môn cung dường như mất hết cả sức sống. Nước mắt của A Kiều cũng đã cạn. Sau một thời gian tu tỉnh, khát vọng sống của A Kiều lại trỗi dậy. Nàng không cam tâm rời khỏi Lưu Triệt như thế, nàng muốn thức tỉnh ký ức của Lưu Triệt, ôn lại giấc mơ xưa, làm lại một người phụ nữ dịu dàng chu đáo.
A Kiều biết Lưu Triệt rất thích đọc phú, nhất là phú của đại thủ bút Tư Mã Tương Như. Năm đó Lưu Triệt khen ngợi hết lời khi đọc “Thiên hư phú”, tiếc rằng văn thơ bay bổng như thế mà không thể tìm được tác giả, không được nhìn tác giả phong thái, thật sự phải ôm hận suốt đời! Người hầu nói với ông, tác giả của “Tử hư phú” vẫn đang còn sống, chính là thần dân của bệ hạ. Lưu Triệt lập tức triệu kiến, đó chính là Tư Mã Tương Như. Tư Mã Tương Như bèn ở lại kinh sư Trường An, phục vụ hoàng đế.
A Kiều và mẫu hậu của cô cùng nhau chuẩn bị trăm lượng vàng, mời đại tài tử Tư Mã Tương Như. A Kiều vừa khóc vừa kể nỗi khổ của mình cho Tư Mã Tương Như. Tư Mã Tương Như rung động bởi người phụ nữ si tình này, nên chấp bút đề ngay, viết nên một bài “Trường Môn phú” lưu truyền thiên cổ: Phu hà nhất giai nhân hề, bộ tiêu diêu dĩ tự ngu.
Hồn du thất dĩ bất phản hề, hình khô cảo dĩ độc cư.
Ngôn ngộ triều vãng dĩ mục lại hề, ẩm thực lạc dĩ vong nhân.
Tâm khiêm di dĩ bất sảng cố hề, giao đắc ý dĩ tương thân.
… …
Một bức tranh oán phụ tư phu đầy nước mắt. Vũ Đế Lưu Triệt đọc xong bài phú này, khen ngợi hết lời.
Nhưng Lưu Triệt chỉ là bảo bài phú này rất hay, chứ không bị rung động bởi người oán phụ mong tình trong bài phú này. Lưu Triệt vẫn lạnh nhạt tại Trường Môn cung, không nhớ đến A Kiều, không hồi tâm chuyển ý. A Kiều trông mòn con mắt, lòng như chết đi.
Sự si tình của oán phụ Trường Môn không đánh động đến trái tim anh hùng của Lưu Triệt, nhưng lại làm cảm động cả một đời lại một đời văn nhân. Các văn nhân mài mực chấp bút, ru tình ngâm vịnh, sáng tác ra rất nhiều điển cố. Từ đó về sau, “chuyện Trường Môn”, “khóc Trường Môn”, “đóng Trường Môn”, “cách Trường Môn” đều trở thành danh từ đại diện cho việc thất sủng, mất vui. Còn thiên kim mại phú, hoàng kim mại phú (ngàn vàng mua bài phú) cũng trở thành điển cố được người đời khen ngợi tài năng, tác phẩm của văn nhân.
Chương IV
Hoàng hậu thứ hai của Hán Vũ Đế
I. Nghề ca kỹ
Vệ Tử Phu là hoàng hậu nổi tiếng đời nhà Hán, nàng chinh phục Hán Vũ Đế Lưu Triệt tài giỏi không ai sánh bằng, bằng giọng hát và vẻ đẹp của mình, từ đó thay chỗ của Trần hoàng hậu A Kiều, trở thành hoàng hậu thứ hai của Lưu Triệt. Vệ Tử Phu đạt được thành công với vai trò là một phụ nữ.
Vệ Tử Phu xinh đẹp xuất thân nghèo hèn, thân thế cũng rất long đong lận đận. Mẹ của Vệ Tử Phu là Vệ Ôn, một phụ nữ xinh đẹp đa tình. Vệ Ôn phục vụ trong Bình Dương phủ của anh rể Tào Thọ của hoàng đế Lưu Triệt, là một thê thiếp trong nhà họ Tào. Vệ Ôn vốn rất đa tình, không hài lòng với việc hưởng thụ một người đàn ông, nên thường thông gian với người ngoài.
Vệ Ôn quan hệ với rất nhiều đàn ông, kết quả, không biết cha ruột của những đứa trẻ là ai, Vệ Ôn bèn kiên quyết để con theo họ của mình. Vệ Ôn thông gian lần lượt sinh được 1 con trai và 3 con gái. Sau này, Vệ Ôn ở tại nhà Bình Dương hầu Tào Thọ, lại thông gian với Trịnh Lý làm việc trong phủ, mang thai rồi sinh ra một đứa con trai.
Vệ Ôn lần lượt sinh ra 6 đứa con: 3 trai, 3 gái. Con trai trưởng tên Vệ Trường Quân, con trai thứ hai tên Vệ Thanh, con trai thứ ba tên Vệ Bộ; con gái cả tên Vệ Quân Nho, con gái thứ hai tên Vệ Thiếu Nhi, con gái thứ ba là Vệ Tử Phu. Xem ra khả năng sinh sản của người phụ nữ xinh đẹp Vệ Ôn này rất mạnh, sau này Vệ Tử Phu liên tục mang thai trong cung, chắc là được kế thừa từ người mẹ Vệ Ôn của mình.
Vệ Ôn tuy là một thê thiếp, thông gian với rất nhiều đàn ông, sinh ra một đám trẻ, nhưng những đứa trẻ này đều thành danh tài giỏi khi trưởng thành. Trong số 3 người con trai, Vệ Thanh là người nổi tiếng nhất, lưu danh trong lịch sử, trở thành anh hùng dân tộc chống Hung Nô, bảo vệ biên cương rộng lớn của vương triều nhà Hán.
3 người con gái của Vệ Ôn, người sau giỏi hơn người trước. Con gái trưởng Vệ Quân Nho được gả cho Công Tôn Hạ, Công Tôn Hạ là người Hồ, phong lưu khẳng khái, nổi tiếng khắp nơi. Con gái thứ hai Vệ Thiếu Nhi rất xinh đẹp yểu điệu, giống mẹ Vệ Ôn nhất, thường thông gian vụng trộm với đàn ông. Vệ Thiếu Nhi thông gian với Hoắc Trung Nho đầu tiên, thông gian trong thời gian dài, kết quả sinh ra một đứa con trai, lấy tên là Hoắc Khứ Bệnh – đó chính là một anh hùng dân tộc của vương triều nhà Hán làm cho Hung Nô khiếp sợ vỡ mật khi nghe tên, và được thế hệ ngày sau kính nể.
Sau khi sinh ra Hoắc Khứ Bệnh, Vệ Thiếu Nhi dần dần chán Hoắc Trung Nho, tình cảm chuyển sang chàng trai trẻ tuấn tú Trần Chưởng. Trần Chưởng là cháu của thừa tướng Trần Bình, bái quan làm việc, tiền đồ vô cùng. Vệ Thiếu Nhi tỏ ra mến Trần Chưởng, không làm thì thôi, đã làm thì làm đến cùng, công khai sống chung với Trần Chưởng. Vệ Thiếu Nhi cũng là một phụ nữ dám nghĩ dám làm.
So với hai người chị Vệ Quân Nho, Vệ Thiếu Nhi, con gái thứ ba Vệ Tử Phu càng đẹp mê hồn hơn. Vệ Tử Phu không được sự giáo dục tốt, nhưng lại được trời phú cho giọng hát tuyệt hay, Vệ Tử Phu được đưa đến phủ Bình Dương hầu Tào Thọ học ca hát từ khi còn rất nhỏ. Vệ Tử Phu nhỏ nhắn xinh xắn, có cả sắc lẫn tài nên rất được công chúa Bình Dương yêu mến, cho nàng hầu hạ bên cạnh.
II. Vào cung
Vũ Đế Lưu Triệt cô độc một mình ra ngoài lang thang. Chẳng biết làm thế nào mà đi đến nhà của chị mình là công chúa Bình Dương, công chúa Bình Dương hết sức vui mừng, lập tức bày yến tiệc chiêu đãi hoàng đế em trai của mình. Lưu Triệt ngồi trong đó, từ từ nhấm nháp rượu. Những mỹ nữ ăn mặc đẹp mà Bình Dương công chúa tìm kiếm cho em trai lần lượt đi ra, không ngờ Lưu Triệt chỉ lắc đầu.
Công chúa Bình Dương tiếp tục rót rượu cho Lưu Triệt, không hề hoang mang, dặn dò để ca nữ Vệ Tử Phu ra hiến một bài. Vệ Tử Phu từ rèm bước ra, giống hệt như một vầng thái dương, làm ai cũng phải ngắm nhìn. Lưu Triệt mỉm cười, ngồi thừ tại đó, không nói một lời nào cả!
Vệ Tử Phu quả thật đẹp! Dưới đôi lông mày cong cong, đôi mắt to long lanh, như biết nói chuyện vậy. Một mái tóc đen tuyền cột thành hai cái bím, bay bay trong gió. Một gương mặt mịn màng trắng trẻo, chiếc mũi nhỏ thon cao, cộng thêm chiếc môi nho nhỏ như hoa đào, rất ngọt ngào.
Vệ Tử Phu nhỏ nhắn, thật hợp với khẩu vị của người thích chinh phục tứ hải như Lưu Triệt. Vẻ đẹp vô cùng của Vệ Tử Phu cộng với giọng hát tuyệt vời, tiếng hát trong trẻo, làm rung động cả lòng người. Vệ Tử Phu vừa hát vừa liếc mắt đưa tình. Lưu Triệt nghe như say như si, một đôi mắt nhìn trân trân vào Vệ Tử Phu, như mất đi cả hồn.
Vũ Đế Lưu Triệt cô đơn đã quá lâu, lúc này lại không thể khống chế nổi mình, đứng dậy, muốn đến phòng khác thay áo, chỉ tên Vệ Tử Phu hầu hạ. Vệ Tử Phu đương nhiên rất vui vẻ nhận lời, đồng thời, cũng rất sợ hãi. Đường đường một thiên tử ở trên cao như thế, chỉ có thể đứng nhìn từ xa chứ không dám đến gần, ngày nào cũng mong được gặp hoàng thượng, nay được gặp rồi, còn phải thay áo cho ngài, đó chẳng phải chỉ có trong mơ thôi sao?
Vệ Tử Phu thấy mơ mơ hồ hồ, đi theo Lưu Triệt vào phòng khác. Vẫn chưa rõ chuyện gì đang xảy ra, thì Lưu Triệt bước đến. Và đã chiếm hữu nàng ngay trong căn phòng thay áo tồi tàn đó. Sau chuyện đó, Lưu Triệt mặc lại quần áo, lại nhập tiệc. Lưu Triệt đang tuổi xuân phơi phới thấy rất hài lòng thỏai mái, dặn dò thưởng cho chị Bình Dương công chúa của mình 1 ngàn cân vàng. Sau khi cảm ơn, Bình Dương công chúa nghĩ ra một chủ ý: Nếu hoàng thượng đã không tiếc một ngàn cân vàng chỉ vì một phút vui chơi, thì nhất định là người đẹp này đã làm rung động hoàng đế em trai mình, tại sao mình lại không tặng một lễ cho người, đưa người con gái đẹp người xấu nết này vào trong cung! Bình Dương công chúa bày tỏ ý này với hoàng đế, Lưu Triệt đương nhiên rất vui mừng, lại trọng thưởng cho công chúa. Ngày hôm sau, công chúa Bình Dương bèn trang điểm cho Vệ Tử Phu, tặng nàng nhiều quần áo đẹp, đưa Vệ Tử Phu tiến cung như đang gả con gái cho nhà quyền quý. Trước khi đi, Bình Dương công chúa còn chân thành dặn dò rằng: Đi đi, nhớ bảo trọng, sau này vinh hoa phú qúy rồi, đừng quên ta. Vệ Tử Phu hết sức cảm kích khóc lóc từ biệt công chúa Bình Dương, ôm giấc mơ đẹp tiến vào tẩm cung sâu thăm thẳm.
Vệ Tử Phu bất giác thấy tim đập thình thịch khi nghĩ lại hành động điên cuồng của hoàng đế Lưu Triệt lúc ấy, tiến cung rồi, hoàng thượng có còn như ngày đó không? Vệ Tử Phu ôm sự thẹn thùng đó đi vào hoàng cung, mong lại giây phút kích động đó. Tuy nhiên, tiến vào thâm cung, tuy ngày nào cũng được ăn uống đầy đủ, nhưng giây phút kích động đó lại không hề xuất hiện lại, ngay cả bóng dáng của hoàng thượng cũng chẳng thấy.
Vệ Tử Phu vẫn chờ đợi trong từng đêm từng đêm dài đằng đẵng, trái tim cũng nguội dần đi. Vệ Tử Phu hiểu rõ, hoàng cung là một nơi khác, người đẹp quá nhiều, hoàng thượng còn nghĩ đến mình sao? Bản thân mình chẳng qua chỉ là một trong số những người đẹp được hoàng thượng yêu mến , hoàng thượng chẳng
qua chỉ là gặp dịp thì chơi, gặp sắc đẹp thì cần vậy thôi, chứ chẳng hề có gì đặc biệt với mình. Vệ Tử Phu chờ đợi hoàng đế Lưu Triệt trong sự đau khổ, cô độc, bi thương và thất vọng, hơn một năm đã trôi qua, thế mà chẳng được gặp Lưu Triệt.
Vệ Tử Phu nước mắt đầm đìa, bị dày vò bởi nỗi đau bị lạnh nhạt và thất vọng. Tuy nhiên, nỗi đau khổ lớn hơn là hoàng đế Lưu Triệt cảm thấy người đẹp trong cung thật sự quá nhiều, bèn ra lệnh cho một phần cung nữ xuất cung. Hoàng đế hạ chiếu cho cung nữ ra khỏi cung, vốn là một đại đức của hoàng đế. Để những cô gái đã ở lâu trong cung mà không được hoàng đế sủng hạnh được xuất cung lấy chồng khi tuổi xuân vẫn còn, đó cũng là điều mà các cô gái này hằng mong.
Tuy nhiên, đối với Vệ Tử Phu tuyệt đẹp lại từng được hoàng đế sủng hạnh, đó lại là kết quả đáng thương của hơn 400 ngày đêm chờ đợi, đó chẳng phải là quá tàn nhẫn đó sao. Vệ Tử Phu nghe được tin này, dường như chẳng dám tin, bản thân tràn trề hy vọng khi bước vào cung, cuối cùng lại có kết cục như thế sao? Như thế là đã kết thúc sao?
III. Giữa cái họa và cái phúc
Dù có đau lòng, buồn khổ đến đâu, thì Vệ Tử Phu cũng phải đối mặt với sự thật tàn nhẫn này: nàng bị liệt vào danh sách ra khỏi cung. Vệ Tử Phu than số mệnh mình không tốt, vừa thu dọn hành trang, vừa cúi đầu rơi lệ. Vệ Tử Phu nước mắt đầm đìa khó khăn lắm mới bước từng bước ra khỏi cung phòng mà mình đã sống hơn 400 ngày đêm, đến cửa, nàng còn không cam tâm quay đầu lại nhìn.
Vĩnh biệt rồi, cung phòng ấm cúng thoải mái, ngói xanh tường đỏ có một không hai này. Điều làm cho Vệ Tử Phu lưu luyến nhất là sự vắng lặng của khu vườn, những đóa hoa đinh hương trong khu vườn tĩnh lặng, và cả những khung cửa sổ có hoa văn xanh đỏ ngang dọc, và những bức tranh nhiều màu tuyệt đẹp, những đoá hoa xuân tươi đẹp và những chú ve sầu.
Vệ Tử Phu bước đến quảng trường rộng lớn với tâm trạng hỗn loạn. Ngẩng đầu nhìn lên, một mảng màu đen tuyền, đều là những cô gái có mái tóc đen mượt như mực, ai ai cũng có đôi lông mi tuyệt đẹp cùng với đôi mắt long lanh. Lúc này Vệ Tử Phu mới hiểu ra, đó đều là những cô gái có số phận giống mình, đều ngỡ rằng mình là tuyệt sắc giai nhân, sẽ được sự ưu ái của hoàng thượng, không ngờ đều là hồng nhan khổ mệnh. Một trái tim đau khổ của Vệ Tử Phu dường như thấy dễ chịu hơn.
Vệ Tử Phu ngẩng đầu lên, phát hiện trước mặt mình là một người đàn ông anh vũ ngồi uy nghiêm trên bệ rồng, đó chẳng phải là Lưu Triệt điên cuồng chiếm hữu mình vào hôm đó đấy sao? Vệ Tử Phu ngẩn người ra một lát, suy đi nghĩ lại, không cầm được nước mắt tuôn rơi. Vệ Tử Phu là mỹ nữ tuyệt sắc đó, nổi trội hơn hẳn trong số những cô gái đó. Vệ Tử Phu chỉ thoáng thấy Lưu Triệt, Lưu Triệt dường như cũng cảm giác được một điều gì đó, phát hiện ra Vệ Tử Phu, rồi nhìn thấy gương mặt đẫm lệ đáng thương của Vệ Tử Phu, càng rung động lòng người hơn, trái tim anh hùng không gì cản nổi bất ngờ bị ngất ngây đi.
Lần này Vũ Đế Lưu Triệt từ biệt các cô gái được ra khỏi cung là theo nghi thức, trên thực tế là lần kiểm tra cuối cùng, xem có giai nhân có điểm hay nào bị thả ra ngoài hay không. Không ngờ lại phát hiện được mỹ nữ tuyệt thế này. Lưu Triệt bước đến, nhìn rõ Vệ Tử Phu, giờ đây mới nhớ ra, đó chẳng phải là mỹ nữ có giọng hát làm rung động lòng người tại phủ công chúa Bình Dương đó sao?
Vệ Tử Phu nhìn thấy Lưu Triệt đi về phía mình, tỏ ra rất xúc động, ánh mắt lộ vẻ vui mừng và ngượng ngùng. Vệ Tử Phu dần dần không đứng nổi nữa, khuỵu xuống từ từ như chiếc lá mùa thu rời khỏi cành. Lưu Triệt nhanh chóng chạy gần đến, đỡ Vệ Tử Phu yếu đuối yêu kiều, sau đó im lặng dìu nàng đi về cung phòng hoa lệ đường hoàng.
Tấm rèm lụa xinh đẹp lất phất trước gió, tấm trướng nặng nề cũng tỏa ra ánh sáng ngũ sắc. Bên trong tấm trướng, chính là chiếc giường hoan hỉ được phủ bởi chiếc mền nhung. Vệ Tử Phu tắm xong với một mùi hương ngọt ngào đi vào tẩm cung hoa lệ này.
Hai người yêu nhau trong căn phòng màu sắc rực rỡ này đương nhiên càng làm cho Lưu Triệt say đắm hơn, huống hồ chi cô gái tuyệt sắc có mái tóc đẹp như thế, da dẻ mịn màng đến thế, dịu dàng tình cảm như thế! Lưu Triệt cảm nhận được một niềm vui chưa từng có, cảm giác thư thái ngây dại chạy khắp toàn thân. Từ đó về sau, Lưu Triệt càng say đắm mỹ sắc của Vệ Tử Phu hơn, ngày đêm đắm chìm trong đó. Vệ Tử Phu cũng chiếm hết ân sủng của hoàng đế, hạnh phúc nhất hậu cung.
Sau bao nhiêu ngày đêm ân ái mặn nồng và cháy bỏng như lửa, không lâu sau Vệ Tử Phu phát hiện đang diễn ra một sự thay đổi: nàng đã tắt kinh. Tiếp đó, Vệ Tử Phu kinh ngạc phát hiện: nàng đã mang cốt nhục của hoàng thượng! Vệ Tử Phu vui mừng khôn xiết, không kiềm được bật khóc ngay tại cung phòng. Đúng vậy, đúng là vận mệnh đang trêu đùa với nàng: tại yến tiệc trong phủ Bình Dương công chúa, gặp được hoàng đế uy phục bốn phương mà chẳng ai ngờ mình sẽ có cơ may đó; gặp được hoàng đế rồi tưởng
rằng sẽ không được hoàng đế chú ý nhưng bất ngờ lại được hoàng đế chọn trong số rất nhiều chị em, rồi lại được một lần ân ái điên cuồng trong phòng thay áo; vốn nghĩ rằng lần vào hậu cung này sẽ được hoàng đế ân ái ngày đêm, nhưng vừa vào đến thâm cung đã bị lạnh lùng hết 1 năm; vốn đau lòng cực độ khi có tên trong danh sách ra khỏi cung, không còn hy vọng gì nữa, nhưng may mà được gặp hoàng thượng trước khi rời khỏi cung; được hoàng thượng hết sức sủng ái, không ngờ lại được mang thai rồng, nên biết rằng, hoàng hậu vẫn luôn muốn được mang thai nhưng rốt cuộc cũng không mang thai được!
Vệ Tử Phu vui buồn lẫn lộn cuối cùng cũng sinh ra một đứa trẻ sau 10 tháng chờ đợi mỏi mòn. Tiếng khóc non nớt của đứa trẻ đã phá vỡ giấc mộng đẹp của Vệ Tử Phu: đó là con gái, không phải là con trai. Điều an ủi nàng duy nhất là, con gái rất xinh. Vệ Tử Phu cũng nhìn thấy một giấc mơ đẹp khác từ giấc mơ bị tan vỡ này: nếu sinh được con gái, thì chứng tỏ khả năng sinh sản của nàng rất tốt, rất dễ mang thai, cứ sinh liên tục, thì không sợ không sinh được con trai!
IV. Tẩm cung hiểm ác
Vệ Tử Phu đắc sủng vì có sắc đẹp, lại mang thai, điều này đương nhiên trở thành sự uy hiếp nghiêm trọng đối với hoàng hậu A Kiều đã lâu mà vẫn không mang thai, đúng là họa vô đơn chí khi tình cảm của hoàng thượng dành cho mình giảm dần đi. Sau khi Vệ Tử Phu mang thai, Lưu Triệt hạ chỉ để Vệ Tử Phu dời vào cung Kiến Chương. Cung Kiến Chương hoa lệ, thoải mái, rất gần nơi của Lưu Triệt, tất cả những gì cần có trong sinh họat đều có đủ, Vệ Tử Phu cảm thấy rất thoải mái, hài lòng.
Người anh thứ ba Vệ Thanh cũng được thăng chức làm hộ vệ cung Kiến Chương nhờ Vệ Tử Phu đắc sủng. Mẫu thân của Trần hoàng hậu Quản Đào trưởng công chúa được biết Vệ Tử Phu mang thai, bèn trút giận lên Vệ Thanh: trưởng công chúa hạ lệnh cho bắt Vệ Thanh, giam vào trong lao, chuẩn bị giết Vệ Thanh để trút giận. Bạn thân của Vệ Thanh, Kỳ Lang Công Tôn Ngao, dẫn theo vài vệ sĩ cung đình hàng ngày rất thân với Vệ Thanh đi cứu Vệ Thanh ra. Vệ Thanh thoát chết.
Vệ Tử Phu rất tức giận khi được báo, bèn khóc lóc kể hết tất cả những chuyện đó với Lưu Triệt và hy vọng Lưu Triệt nghĩ cách để nàng và anh em nàng thoát khỏi cảnh nguy khốn khi Lưu Triệt đến thăm và hoan lạc với nàng. Lưu Triệt lập tức triệu kiến Vệ Thanh, phong Vệ Thanh lên làm tổng quản cung Kiến Chương. Vệ Thanh vốn là người rất khỏe mạnh tráng kiện, võ nghệ bất phàm, thăng chức tổng quản tay nắm binh quyền, lại càng oai phong lẫm liệt hơn. Có Vệ Thanh bảo vệ cung Kiến Chương, ai dám kiếm cớ gây chuyện với Vệ Thanh? Càng không có ai dám xâm phạm chủ nhân của cung Kiến Chương, Vệ Tử Phu.
Vệ Thanh làm tốt chức trách của mình nên trở thành tâm phúc thân cận của Vũ Đế Lưu Triệt. Tiếp đó, Lưu Triệt lần lượt giao những chức trách quan trọng cho anh chị em của Vệ Tử Phu: 3 chị em Vệ Tử Phu, chị cả Vệ Quân Nho gả cho Công Tôn Hạ, Công Tôn Hạ người Hồ nhậm chức thái phó; chị thứ hai Vệ Thiếu Nhi được tái giá cho cháu của Trần Bình là Trần Chưởng, và giao chức trách quan trọng trong cung. Vệ Thanh được thăng làm Đại Trung đại phu.
Năm 129 trước Công Nguyên, Vũ Đế Lưu Triệt phong Vệ Thanh làm tướng quân. Đó là năm thứ 12 sau khi Vũ Đế kế vị. Vũ Đế cảm thấy, trải qua hơn một trăm năm tích luỹ, vương triều nhà Hán đã có đủ tài lực và binh lực đủ mạnh để đối phó với Hung Nô. Vũ Đế cho Vệ Thanh thống lĩnh một vạn quân tinh nhuệ, xuất quân đánh Hung Nô. Vệ Thanh tung hoành trên biên giới phía bắc, chém hơn 700 tên Hung Nô, giành được trận thắng lớn đầu tiên của triều đình nhà Hán. Vũ Đế rất vui mừng, phân bố chiếu thư, phong Vệ Thanh làm Quan Nội hầu.
Từ đó về sau, trong vòng 10 năm dài, Vệ Thanh uy vũ lần lượt dẫn tinh binh bắc phạt 10 lần. Hoắc Khứ Bệnh mà Vệ Thiếu Nhi sinh cho Hoắc Trung Nho trước khi được tái giá với Trần Chưởng cũng là cháu gọi bằng cậu của Vệ Thanh, năm 18 tuổi đã theo Vệ Thanh xuất chinh 5 lần, đồng thời được khen ngợi vì chiến đấu dũng mãnh. Hoắc Khứ Bệnh từng dẫn 800 binh mã, xông thẳng vào quân Hung Nô, chém được hơn 2000 người Hung Nô. Sau khi Lưu Triệt được báo, vui mừng khôn xiết, hạ chiếu thư phong Hoắc Khứ Bệnh làm Quán Quân hầu sau khi hưởng lạc với Vệ Tử Phu.
V. Vệ Thanh và Bình Dương công chúa
Vệ Tử Phu phất lên từ nhà của Bình Dương công chúa, chị của Vũ Đế. Ban đầu Vệ Thanh chẳng qua cũng chỉ là tuỳ tùng của Bình Dương công chúa, do Vệ Tử Phu đắc sủng, nên được giao cho chức trách quan trọng. Vệ Thanh tài hoa xuất chúng, đánh đâu thắng đó, phong quan bái tước, cuối cùng được thưởng Trưởng Bình hầu, phong đại tướng quân, trở thành nhân vật tôn quý nhất trong quan võ của triều đình. Bình Dương công chúa vẫn luôn không hài lòng với trượng phu của mình là Bình Dương hầu Tào Thọ, điều quan trọng nhất là sức khỏe Tào Thọ rất yếu, không thể làm hài lòng công chúa Bình Dương. Công chúa Bình Dương bèn mượn đó làm cớ, từ bỏ Tào Thọ. Chị của hoàng đế muốn thôi hôn, ai dám nói chữ không?
Bình Dương công chúa thôi hôn, nhưng quyết không sống một mình. Vậy thì, tái giá ai đây? Công chúa Bình Dương không phải là người phụ nữ bình thường. Người phụ nữ bình thường nếu ly hôn rồi tái giá, thường không có cơ hội lựa chọn, nếu được người khác chịu là được. Nhưng Bình Dương công chúa là chị của hoàng đế, văn võ trong triều đương nhiên tuỳ nàng chọn, hơn nữa phải chọn người trẻ tuổi cường tráng và có địa vị cao qúy được tôn trọng trong triều.
Điều kiện của Bình Dương công chúa là: địa vị cao, có tiếng hiền, được phong hầu tước. Bình Dương công chúa hỏi tâm phúc hầu cận, ai là người thích hợp nhất? Người hầu cận không hẹn mà đồng thanh nói: Đại tướng quân Vệ Thanh. Họ cho rằng Vệ Thanh thể chất tráng kiện, đang tuổi sung mãn, được phong hầu tước, quan chức đại tướng quân, võ công cao cường, rực rỡ sử sách, đó đều là những điểm không ai sánh bằng. Nghe xong Bình Dương công chúa phá lên cười: Vệ Thanh là tuỳ tùng năm nào của ta, chọn anh ta làm phò mã, chẳng phải đã hạ thấp mình rồi sao?
Tâm phúc thân cận lần lượt lắc đầu, cho rằng không phải thế, lúc này, giờ này đã không là như thế. Họ nói, khoan nói về võ công Vệ Thanh cao cường, sức khỏe tráng kiện, bái quan phong hầu, chỉ tính hai điều đơn giản này thôi: một là trẻ tuổi như thế mà được làm đại tướng quân thứ nhất trong quan võ; hai là anh ta là em ruột của đương kim hoàng hậu Vệ Tử Phu. Chỉ hai điều đó thôi, cũng xứng với tất cả công chúa quý phái nhất trong thiên hạ. Bình Dương công chúa tuy còn phản đối nhưng trong lòng lại rất ưng ý, hơn nữa so với tất cả hầu tước trong triều, đích thật chỉ có Vệ Thanh là số một. Thế là Bình Dương công chúa bèn tỏ ý này với Vệ Tử Phu vẫn mong được báo ân cho mình, Vệ Tử Phu đương nhiên hết đỗi vui mừng: em trai của mình được lấy chị của hoàng thượng, thân lại càng thân, địa vị trong cung tuyệt đối ổn định. Hoàng hậu Vệ Tử Phu bèn báo tin tốt đẹp này với Lưu Triệt, Lưu Triệt đích thân làm mai, tác thành cho cuộc hôn nhân này.
VI. Bước vào hậu cung
Năm Vũ Đế thứ 13, sau khi Vệ Tử Phu lần lượt sinh 3 đứa con gái, cuối cùng cũng sinh được một đứa con trai, lấy tên Lưu Cứ. Năm đó, Lưu Triệt 29 tuổi. Vệ Tử Phu thay thế Trần hoàng hậu, trở thành hoàng hậu cai quản 6 cung, con trai Lưu Cứ được sắc lập làm thái tử khi 6 tuổi. Thái tử thông minh dễ thương, rất thích đọc sách. Vũ Đế Lưu Triệt rất yêu thích con trai, cố ý dặn dò rằng, xây một nơi gọi là Bác Vọng Uyển trong cung thái tử để thái tử học tập, quảng nạp văn sĩ.
VII. Vụ án oan lớn thứ nhất trong thâm cung (phần 1)
Trong thâm cung nhiều đời của Trung Quốc có rất nhiều rất nhiều án oan đếm không xuể, do cung thất quá sâu, rất nhiều án oan trôi theo dòng thời gian, không ai biết đến. Nhưng, có hai vụ án oan lớn nhất được ghi chép trong sử sách, khiến cho hai vị hoàng hậu chết trong oan ức, sự phức tạp và rùng rợn của nó thật sự hiếm chưa từng có, làm người đời phải thở dài não ruột. Hai vụ án oan lớn đó chính là vụ án “Vu cổ” cung nhà Hán và án “Thập hương từ” cung nhà Nguyên.
Người tạo ra vụ án “Vu cổ” nhà Hán chính là Vũ Đế Lưu Triệt, nguồn gốc có 2 mặt: một là do Vũ Đế Lưu Triệt tham sắc đa tình; hai là do Vũ Đế Lưu Triệt đa nghi, hay tin lời kẻ tiểu nhân. Người đầu tiên gây ra và sắp đặt vụ án này chính là tâm phúc của Vũ Đế Lưu Triệt, nịnh thần Giang Sung. Sở dĩ Giang Sung dám to gan vu khống hãm hại thái tử, bức hoàng hậu phải tự sát, là do bình thường thái tử không đối phó với hạng người tiểu nhân như Giang Sung. Giang Sung biết rõ, một khi hoàng thượng qua đời, thái tử sẽ lên ngôi, không thể tha cho mình. Cho nên, Giang Sung bí mật lập kế họach, rồi chế tạo thành công vụ án oan này.
Vũ Đế Lưu Triệt độc sủng ca kỹ Vệ Tử Phu, đồng thời đưa Vệ Tử Phu xuất thân hèn kém lên ngôi vị hoàng hậu mẫu nghi thiên hạ, hành động này làm cho thiên hạ thấy lạ. Thật ra, điều này một mặt quyết định bởi sự háo sắc của Vũ Đế Lưu Triệt, mặt khác là do chế độ lễ pháp của nhà Hán chưa đủ hoàn chỉnh, cuộc sống con người khá tuỳ tiện, trong lòng cũng thấy thỏai mái.
Mẫu thân của Vũ Đế Lưu Triệt Vương thị cũng chính là Vương hoàng hậu của Cảnh Đế Lưu Khải. Mẫu thân của Vương hoàng hậu tên Tàng Nhi, là thê tử của một người dân bình thường Vương Trung. Vương Trung và Tàng Nhi sống cuộc sống yên bình, tĩnh lặng, ngày ngày bôn ba vì miếng ăn cái mặc, ban đêm lại có thú vui vợ chồng. Tàng Nhi sinh cho Vương Trung hai con gái, con gái lớn chính là Vương hoàng hậu sau này.
Vương thị xuất thân bình dân sao lại được tiến cung? Thật ra, Vương thị cũng sống cuộc sống bình thường của nàng dân nữ. Vương thị trưởng thành, có vóc dáng thanh mảnh, dung mạo rất đẹp, lại rất đầy đặn. Đến tuổi lấy chồng, Vương thị được gả cho Kim Vương Tôn làm thê tử. Kim Vương Tôn rất mực yêu thương người phụ nữ dễ thương này, Vương thị sinh cho Kim Vương Tôn một con gái.
Tàng Nhi không cam chịu sự cô độc, cũng không muốn con gái xinh đẹp của mình sống một cuộc đời như mình. Tàng Nhi bèn đi coi một quẻ bói cho con gái, quẻ nói cô gái này là người đại quý. Tàng Nhi đã không làm thì thôi, đã làm thì làm đến cùng, dẫn người đi cướp con gái Vương thị về nhà, buộc Kim Vương Tôn phải ly dị với Vương thị, đồng thời để con gái của Vương thị ở nhà họ Vương, chỉ để Kim Vương Tôn về nhà một mình. Kim Vương Tôn nổi giận đùng đùng, kiên quyết không đồng ý.
Tàng Nhi bị Kim Vương Tôn tranh chấp không lại, dứt khoát đưa con gái Vương thị vào hoàng cung, trực tiếp đưa vào Đông cung hầu hạ thái tử Lưu Khải. Thái tử Lưu Khải bị mê hoặc bởi vẻ đẹp và phong thái của Vương thị, chìm đắm trong tửu sắc, không thể tự thoát ra được. Sau khi Văn Đế tạ thế, thái tử Lưu Khải kế ngôi, thành Hán Cảnh Đế, do đó Vương thị được sắc phong làm hoàng hậu, cai quản lục cung.
Vương hoàng hậu lần lượt sinh cho Cảnh Đế 3 con gái và một con trai, con gái lớn chính là Bình Dương công chúa, con trai là Lưu Triệt. Bình Dương công chúa là chị ruột của Lưu Triệt, Lưu Triệt là đứa con trai thứ 9 trong số những người con trai của Cảnh Đế, nhưng, Lưu Triệt lại do hoàng hậu sinh, là đích xuất.
Mẫu thân của Vương hoàng hậu Tàng Nhi là người phụ nữ rất tài giỏi, bà không chỉ cướp hôn đưa con gái vào cung để rồi vượt trội hơn người, đồng thời, bản thân bà cũng từ giã cuộc sống bình dân với Vương
Trung, cải giá cho Điền gia địa vị cao quý, đồng thời sinh ra Điền Phần, Điền Thắng. Sau khi Lưu Triệt kế vị hoàng đế, tôn Vương thị làm hoàng thái hậu, tôn mẫu thân của Vương thái hậu Tàng Nhi làm Bình Nguyên quân, đồng thời phong Điền Phần làm Võ An hầu, Điền Thắng làm Châu Dương hầu.
Lưu Triệt là hoàng đế háo sắc đa tình. Lưu Triệt háo nữ sắc, và cũng mê nam sắc, một trong những người nam được ông sủng ái chính là Hàn Yên. Hàn Yên như hoa như ngọc, thông minh lanh lợi. Sở dĩ Hàn Yên được sự sủng ái lâu dài của Vũ Đế Lưu Triệt là vì thường làm thỏa đáng những việc mà Vũ Đế Lưu Triệt nghĩ không chu đáo.
Vương hoàng hậu rời khỏi bình dân Kim Vương Tôn, vào cung thái tử, cao thăng từng bước, cuối cùng được làm hoàng hậu. Vương hoàng hậu có thân phận, địa vị như thế đương nhiên không muốn nhắc lại chồng cũ Kim Vương Tôn, bà càng không muốn nhắc đến con gái của bà với Kim Vương Tôn, cảm thấy đó là sự sỉ nhục của mình, là một câu chuyện không tốt đẹp cho lắm.
Nhưng Hàn Yên lại nói hết tất cả mọi chuyện với Vũ Đế Lưu Triệt. Hàn Yên biết, con gái lớn của Vương thái hậu tức chị cùng mẹ khác cha của Vũ Đế Lưu Triệt vẫn sống cuộc sống bình dân yên ổn tại thành phố nhỏ Trường Lăng, mà không ai biết đến. Hàn Yên bèn kể bí mật này cho Vũ Đế Lưu Triệt nghe. Vũ Đế Lưu Triệt mới biết thái hậu còn có một con gái như thế, sống trong nhân gian, cuộc sống bình dân, hơn nữa còn rất cực khổ, nàng ấy là chị của mình.
Vũ Đế Lưu Triệt cho khởi giá, đến thị trấn Trường Lăng thăm chị mình. Thị trấn Trường Lăng nhỏ bé làm gì mà thấy được bóng dáng của hoàng đế? Uy nghiêm của Vũ Đế dường như làm quan viên ở Trường Lăng sợ chết khiếp. Nhưng Vũ Đế Lưu Triệt hoàn toàn không quan tâm đến quan viên, mà trực tiếp đi thăm chị mình.
Ngự giá của hoàng đế đến nơi, bình dân ai không sợ vỡ mật? Người trong nhà không biết nội tình, cứ ngỡ rằng đã phạm tội gì, hoang mang chạy trốn. Cận vệ của Lưu Triệt tìm được chị của Lưu Triệt, dìu nàng ấy ra ngoài, bái kiến Lưu Triệt. Lưu Triệt xuống xe, dìu chị mình đứng dậy, nhìn nét mặt trắng bệch của chị mình mà áy náy nói rằng: đại tỉ vẫn luôn sống ở đây, ta không biết, nếu không, trẫm đã rước chị vào cung từ lâu.
Vũ Đế Lưu Triệt dẫn chị mình trở về hoàng cung, để nàng sống trong cung Trường Lạc, sau đó báo cho Vương thái hậu. Thái hậu được tin, quá đỗi vui mừng, một trái tim nhung nhớ cuối cùng cũng có được kết quả. Mẹ con gặp mặt, nước mắt như mưa, ôm nhau khóc suốt. Vũ Đế Lưu Triệt cảm thấy đó là chuyện vui lớn trong cung, nên hạ chỉ tổ chức tiệc mừng, thưởng cho chị 1000 vạn tiền, nô tì 300 đứa, ruộng đất 100 mẫu, nhà thượng lưu một khu, hiệu Tu Thành Quân.
Vũ Đế Lưu Triệt tài giỏi mưu lược dám làm dám chịu, không kiêng kỵ điều gì, không hề giấu giếm tình cảm của mình. Lưu Triệt vẫn sủng ái Vệ Tử Phu nhan sắc mặn nồng, lập làm hoàng hậu, cai quản hậu cung. Nhưng, vào tuổi trung niên, nhan sắc của Vệ Tử Phu cũng phai tàn theo thời gian, một Vũ Đế Lưu Triệt có tính háo sắc và dám nghĩ dám làm cũng vì nhan sắc Vệ Tử Phu tàn phai mà bắt đầu lạnh nhạt với nàng, sủng ái một mỹ nữ khác. Những mỹ nữ như Triệu phu nhân, Lý phu nhân lần lượt được đắc sủng.
Thời gian thấm thoát trôi qua. Tinh lực, khí phách không ai sánh bằng cũng dần dần rời bỏ mình. Lưu Triệt cảm thấy sợ sệt suy sụp, sự sợ hãi về sinh mạng bắt đầu vây quanh ông, ép ông cầu trời đất thần linh, tin theo lời của các thuật sĩ. Vũ Đế Lưu Triệt đi theo con đường tìm thuốc trường sinh như Tần Thuỷ Hoàng năm nào, không ngừng cử người đi mời phương sĩ, tìm thuốc trường sinh bất lão, đồng thời tuần du thiên hạ, cầu trường thọ thần tiên.
Dù Vũ Đế Lưu Triệt cố hết tài lực và tâm lực đến thế nào đi nữa, thuốc tiên và thần tiên nào cũng không thể cứu vãn tuổi già của ông. Vũ Đế Lưu Triệt không biết những điều này, ông buồn phiền, sợ hãi, nổi giận như sấm. Nhưng tất cả đều không có tác dụng, bệnh tật vẫn thường xuyên hành hạ ông. Vũ Đế Lưu Triệt không thừa nhận kết quả tất nhiên của cuộc sống, lại nghi ngờ, suy đoán lung tung, cho rằng đó
là có người trong cung do hận ông mà làm bùa phép hại ông. Do đó, phàm là người có chút nghi ngờ nhất loạt đều bị xử tội giết. Thế là nịnh thần Giang Sung thừa cơ dựng lên một trong những vụ án oan lớn nhất trong lịch sử.
Ban đầu Giang Sung không ở trong cung, càng không được tiếp cận Lưu Triệt, làm sao mà ông có được sự sủng tín của Lưu Triệt, từ đó giữ vị trí nội thần, làm cho cả triều thần phải xu nịnh ông? Chủ yếu là do Giang Sung biết nắm bắt thời cơ, biết nịnh nọt, nói những gì mà Lưu Triệt thích nghe. Lưu Triệt dần dần tín nhiệm ông, trọng dụng ông, giao cho ông từ việc lớn đến việc nhỏ, coi ông là tâm phúc. Đó là tai ương vĩnh hằng của loài người: thích nghe lời nói ngọt, thích người khác xu nịnh; người giỏi nịnh hót chỉ việc không cần da mặt, hoặc da mặt dày hơn và đen hơn, đi đến đâu thắng đến đó, tất cả mọi mục đích đều đạt được.
Lưu Bành Tổ là anh em khác mẹ của Vũ Đế Lưu Triệt, được phong làm Triệu Kính Tiêu Vương. Ban đầu Giang Sung nhậm chức trong phủ Triệu Kính Tiêu Vương, là quân thần được Tiêu Vương sủng tín. Triệu Thái Tử Đan không thích Giang Sung, cho rằng ông ta thâm hiểm hung ác. Giang Sung đã làm một việc làm Thái Tử Đan tức giận, Thái Tử Đan muốn trừng trị ông. Giang Sung rất sợ hãi, bèn trốn khỏi vương phủ, chạy thẳng đến kinh sư Trường An, mật báo Triệu Thái Tử Đan lòng dạ khôn lường, nhòm ngó ngai vàng.
Sau khi Vũ Đế Lưu Triệt biết tin, lập tức cử người đến Triệu Kính Tiêu Vương điều tra, kết quả đúng là như thế. Vũ Đế Lưu Triệt bèn hạ chỉ phế Triệu Thái Tử Đan làm thường dân, cố ý triệu kiến Giang Sung. Giang Sung cao to khôi ngô, dáng vẻ đàng hoàng, Vũ Đế Lưu Triệt nhìn thấy rất vui mừng, ứng đối cũng rất hợp ý, Vũ Đế Lưu Triệt bèn giữ Giang Sung bên cạnh, giao ông làm cẩm y sứ giả, hầu hạ bên cạnh hoàng đế, thay hoàng đế điều tra giám sát những hành vi lời nói thất thố của hoàng thân quốc thích, triều đình đại thần. Trên thực tế là “mật thám” riêng, “đặc vụ” của hoàng đế. Sứ mệnh này chứng tỏ hoàng đế coi hắn là tâm phúc, hơn nữa ngày nào hắn cũng được gặp hoàng thượng, hầu hạ bên cạnh. Chính điều đó đã cung cấp cho một Giang Sung thông minh hơn người, giỏi nghe ngóng thăm dò cơ hội thể hiện tài năng của mình. Từ đó về sau, Vũ Đế Lưu Triệt không rời bỏ Giang Sung nữa.
Giang Sung có được sự tín nhiệm của hoàng thượng, bèn cố hết sức bán mạng cho hoàng đế. Ông chiêu binh mãi mã, tập hợp thành tổ chức tâm phúc, chuyên do thám các thành viên quan trọng ngoại trừ hoàng đế, đồng thời bẩm báo hết mọi lời nói họat động thường ngày của họ cho Vũ Đế Lưu Triệt đa nghi. Vũ Đế Lưu Triệt có những tâm phúc tai mắt như thế thấy mình nắm rõ mọi hành động của đại thần như lòng bàn tay, nên rất yên tâm, và cũng rất vui mừng. Vũ Đế Lưu Triệt đương nhiên tín nhiệm hoàn toàn và phân biệt đối xử với Giang Sung trung thành tuyệt đối này.
Có một lần, gia thần của thái tử Lưu Cứ vào cung, tấu việc theo thường lệ, ngồi trên xe đi vào cung. Đó đương nhiên là việc cấm kỵ, con đường này chỉ có hoàng đế được đi, là tượng trưng cho sự tôn qúy, không ai được phép vượt quyền đi vào. Gia thần của thái tử đã làm như thế, đương nhiên bị tâm phúc của Giang Sung báo cáo với Giang Sung, Giang Sung bèn bắt gia thần của thái tử lại, giao cho thuộc hạ của mình xử lý.
Sau khi được tin báo, thái tử nổi giận đùng đùng, lập tức phái người đi gặp Giang Sung, và hy vọng không làm lớn chuyện này, đừng truy cứu thuộc hạ của thái tử. Mục đích của thái tử rất rõ ràng, chính là biến việc lớn thành chuyện nhỏ, chuyện nhỏ coi như không, không muốn để hoàng thượng biết. Nếu hoàng thượng Lưu Triệt biết chuyện, chắc chắn sẽ nghi ngờ thái tử, nhẹ thì trách thái tử quản giáo thuộc hạ không nghiêm, nặng thì nghi ngờ thái tử có ý định cướp quyền, vượt lễ khi hoàng đế nhiễm bệnh.
Giang Sung bất chấp mong muốn của thái tử, bèn nghĩ sao làm vậy, nói hết tất cả mọi chuyện với Vũ Đế Lưu Triệt. Vũ Đế Lưu Triệt đương nhiên rất tức giận hành vi của thuộc hạ thái tử, từ đó nghi ngờ thái tử, còn Vũ Đế Lưu Triệt lại tin như thật tất cả những lời bẩm báo của Giang Sung về thái tử, càng nhìn
thấy lòng trung thành tuyệt đối của Giang Sung, càng tin tưởng Giang Sung, rời xa thái tử. Giang Sung càng coi thường thái tử, triều thần không ai không kinh sợ. Giang Sung đắc sủng, môn sinh của hắn cũng nườm nượp kéo đến, những người phục vụ hết mình cũng đông như trẩy hội. Giang Sung làm khuynh đảo cả triều đình.
Vũ Đế Lưu Triệt kế vị năm 17 tuổi, tại vị 54 năm, từ giã cõi đời năm 71 tuổi. Vũ Đế Lưu Triệt nhiều bệnh tật khi vào tuổi già, luôn nghi thần ngờ quỷ. 3 năm trước khi Lưu Triệt qua đời, chính là năm thứ 51, khi ông đến cung Kiến Chương, vô tình nhìn thấy một người đeo một thanh bảo kiếm, Vũ Đế Lưu Triệt cho rằng người này rất khả nghi, chắc chắn không phải là hậu vệ trong cung, bèn dặn đóng chặt cửa, lập tức tìm bắt. Rất nhiều cận thần được điều động, lùng sục khắp nơi, nhưng chẳng tìm được gì. Lưu Triệt tức giận, hạ lệnh tất cả vệ sĩ trong cung phải lục soát cung thất và cả vườn thượng uyển, đồng thời ra lệnh đóng cửa thành Trường An lục soát, tìm kiếm liên tục 11 ngày mà chẳng tìm thấy gì.
Vũ Đế Lưu Triệt càng bụng dạ rối bời, tâm trí vui buồn thất thường, lòng nghi ngờ càng nặng hơn, thậm chí thích bịa đặt vô lý, chém giết vô tội. Án Vu cổ (thuật niệm chú búp bê để hại người) trong cung được lật lại, giết chết vô số người, trong đó bao gồm cả con gái của Lưu Triệt Dương Thạch công chúa, Chư Ba công chúa, thái tử Lưu Cứ và hoàng hậu Vệ Tử Phu. Đến cuối cùng, Vũ Đế Lưu Triệt mới biết rằng, đó là một bản án oan. Nhưng tất cả đã không gì có thể cứu vãn được.
Vu cổ là một loại thuật bùa chú lưu truyền rộng rãi trong dân gian, sau này được truyền vào trong cung, trở thành một loại thủ đoạn đẩy đối phương vào chỗ chết do những kẻ tranh giành sự sủng ái, quyền lực trong cung thực hiện. Vu cổ chính là niệm chú người mà mình căm ghét, đồng thời làm một người gỗ chôn dưới đất, thay thế cho người mà mình căm hận, dùng kim mà đâm, ngày tháng lâu dần, thì có thể đẩy đối phương vào chỗ chết, gọi là vu cổ.
Án oan vu cổ trong cung Hán bắt đầu từ Công Tôn Hạ. Công Tôn Hạ là người Hồ, do vợ Vệ Quân Nho là chị của hoàng hậu Vệ Tử Phu, Công Tôn Hạ được thăng làm thừa tướng. Công Tôn Hạ có một con trai, tên Kính Thanh, nâng niu như trứng, được nuông chiều hư thói. Kính Thanh kiêu ngạo, hoang dâm vô độ, dẫn đến tự ý lạm dụng hơn 19 triệu lượng của quân phí của quân Bắc. Sau khi vụ án xảy ra, Kính Thanh bị bắt giam vào ngục. Một khi phán tội, đương nhiên bị trọng hình.
Công Tôn Hạ là người tài giỏi, lại là thừa tướng quyền cao chức trọng, hơn nữa lại rất yêu con trai của mình. Vì muốn cứu con trai Kính Thanh, Công Tôn Hạ bèn chủ động xin được đi bắt Chu An Thế, để giải tỏa tâm bệnh của hoàng đế Lưu Triệt. Chu An Thế là đại tặc ở Dương Lăng, dân gian coi là một bậc đại hiệp, chuyên chống đối quan phủ, quan phủ điều động binh tướng nhưng cả cái bóng của hắn cũng không tìm được, Vũ Đế Lưu Triệt rất buồn bực về chuyện này.
Công Tôn Hạ chủ động xin đi bắt, muốn lấy công chuộc tội để cứu con trai của mình, huống hồ ông lại là quốc thích của mình, Lưu Triệt đồng ý lời thỉnh cầu của Công Tôn Hạ. Công Tôn Hạ tập trung tướng lĩnh tâm phúc của mình, họ ai nấy đều có công phu tuyệt kỹ, cùng nhau bắt Chu An Thế. Không bao lâu sau, quả nhiên Công Tôn Hạ bắt được Chu An Thế. Vũ Đế Lưu Triệt đương nhiên rất vui mừng, bèn xá tội cho Kính Thanh. Cha con Công Tôn Hạ đoàn tụ vui vẻ. Nhưng, cha con Công Tôn Hạ vui mừng quá sớm, không ngờ bị Chu An Thế cắn ngược lại một miếng.
Chu An Thế là anh hùng một đời, bỗng nhiên bị Công Tôn Hạ bắt giữ, trong lòng không thể nuốt trôi mối hận này. Nhưng Chu An Thế đã bị bắt, trở thành tù nhân của Công Tôn Hạ, không phục cũng phải phục. Thế là Chu An Thế nghĩ ra một kế, dù gì thì cũng không sống được nữa, thế thì hà cớ gì không để Công Tôn Hạ thâm độc đó chết theo mình? Chu An Thế bèn ngồi trong lao viết một bức thư kể hết mọi chuyện cho Vũ Đế Lưu Triệt.
Trong thư, Chu An Thế liệt kê hết mọi tội trạng của Công Tôn Hạ, đồng thời vạch ra rằng Công Tôn Hạ không hài lòng với thê tử, chị của hoàng hậu, còn tìm kiếm mỹ nữ, không gì mà không làm; đó còn
chưa đáng gì, con trai của Công Tôn Hạ, Kính Thanh còn công nhiên thông gian với con gái của hoàng thượng là công chúa Dương Thạch, đồng thời âm mưu đoạt ngôi hoàng thượng, và còn chôn một người gỗ dưới con đường của cung Cam Tuyền mà hoàng thượng thường hay ra vào, bùa chú hoàng thượng. Bức thư này được chuyển đến tay của Vũ Đế Lưu Triệt.
Vũ Đế Lưu Triệt đa nghi xem xong bức thư, làm sao mà chịu đựng nổi việc này? Hết sức tức giận, Vũ Đế Lưu Triệt ra lệnh lập tức điều tra. Việc điều tra này đương nhiên giao cho Giang Sung phụ trách, Giang Sung cử sai nha đi khắp nơi, tìm kiếm tội danh, mượn cơ hội này để đánh cùng diệt tận nhà thừa tướng Công Tôn Hạ. Cha con Công Tôn Hạ bị bắt vào lao, bị tra khảo nghiêm hình, liên lụy đến nhiều người, làm cho rất nhiều người vô can bị bắt tội. Cha con Công Tôn Hạ chết thảm trong ngục. Giang Sung cảm thấy chưa đủ, còn diệt gia tộc Công Tôn Hạ, cả chị của hoàng hậu Vệ Quân Nho cũng không tránh khỏi bất hạnh.
Giang Sung tiêu diệt Công Tôn Hạ, lại chuyển mũi giùi sang hoàng thân quốc thích nắm trọng quyền khác. Con gái của Vũ Đế Lưu Triệt, Dương Thạch công chúa, Chư Ấp công chúa, con trai của Vệ Thanh - Trưởng Bình hầu Vệ Kháng cũng bị liên luỵ, hơn nữa đều bị giết chết. Giang Sung rất đắc ý, từ đó chuyển ngọn kiếm hận thù sang thái tử Lưu Cứ từng đắc tội với hắn.
Thái tử Lưu Cứ vốn không thích Giang Sung. Giang Sung biết rất rõ điều đó, Vũ Đế Lưu Triệt đa bệnh đa nghi không còn sống bao lâu nữa, một khi Vũ Đế qua đời, thái tử kế vị, thì ngày tàn của mình sẽ đến. Giang Sung mượn lần điều tra Công Tôn Hạ này để lập ra một kế họach đưa thái tử vào trong vụ án đó, tốt nhất là giống như Công Tôn Hạ vậy, loại trừ vô số, giết cùng diệt tận.
Trời sinh thái tử hiền hậu, khoan dung có hiếu. Vũ Đế Lưu Triệt cảm thấy con trai không giống mình, nhân hậu là tốt, nhưng, trong thời đại thủ thành, thái tử phải là một quân chủ thánh minh thông đạt. Có một lần Vũ Đế Lưu Triệt nói với đại tướng quân Vệ Thanh: Nhà Hán lập quốc chưa bao lâu, các quy chế đều chưa hoàn chỉnh, giặc ngoài bốn phương không ngừng xâm lược quấy nhiễu, đó đều là những vấn đề phải giải quyết gấp rút; nếu ta không thay đổi chế độ, định ra pháp chế, thì hậu thế có gì để nương tựa? Nếu không dùng binh thảo phạt, chinh phục giặc ngoài, thì làm sao thiên hạ được an ninh? Chỉ do kết quả như thế, tất nhiên phải lao dân thương tài; số mạng của ta có hạn, nếu người thừa kế vương vị vẫn tiếp tục thay đổi chế độ như ta đang làm, không kiêng dè khi hưng binh, quốc gia sẽ lâm nguy, cũng giống như Tần Thủy Hoàng vậy, đi theo vết xe của Tần; thái tử đôn hậu hiền hòa, trời sinh tính nết hiền lành, là quân chủ có thể thủ thành an thiên hạ, chẳng có ai thích hợp hơn thái tử.
Điều đáng tiếc là, đại tướng quân Vệ Thanh chết trước Vũ Đế, không thể ngăn chặn tai ương vô cớ này. Lưu Triệt sử dụng luật pháp vô độ khi đến tuổi già, thái tử khoan hậu, hay làm ngược lại, thường chỉnh sửa một số sai lầm của Lưu Triệt. Nhưng, vô hình trung đắc tội với những đại thần thích dùng trọng hình tàn khốc mà Vũ Đế Lưu Triệt tin dùng, những người này thường làm điên đảo thị phi, nói xấu thái tử trước mặt Vũ Đế Lưu Triệt, vì vậy mà Vũ Đế Lưu Triệt và thái tử cứ xa nhau dần.
Sau khi nhan sắc của hoàng hậu Vệ Tử Phu tàn phai, Vũ Đế Lưu Triệt chuyển tình cảm sang Triệu phi. Triệu phi sống trong cung Cam Tuyền hoa lệ, Vũ Đế Lưu Triệt thường đến cung Cam Tuyền. Vũ Đế Lưu Triệt càng ngày càng ít đến cung thất của hoàng hậu, đương nhiên ít gặp mặt thái tử và hoàng hậu, khoảng cách đương nhiên không thể nào loại bỏ, tình cảm cứ nhạt dần theo từng ngày.
VIII. Vụ án oan lớn thứ nhất trong thâm cung (phần 2)
Một hôm, Vũ Đế Lưu Triệt hoảng hốt, mơ màng nhìn thấy hàng ngàn người gỗ, tay cầm binh khí, đằng đằng sát khí tiến về phía ông. Khi tỉnh dậy, ông toát mồ hôi hột, thấy toàn thân mệt mỏi, không còn chút sức lực nào, tinh lực cũng không còn. Từ đó về sau, cảm thấy tinh khí giảm hẳn, sức khỏe sa sút. Lưu Triệt nghi ngờ đó là do vu cổ tạo thành, thế là bảo Giang Sung tăng cường điều tra.
Giang Sung mượn cơ hội này để đổ thêm dầu vào lửa, nói rằng trong cung có rất nhiều người căm hận hoàng thượng, mong hoàng thượng sớm chầu trời, họ dùng tà thuật vu cổ để làm điều ác. Lưu Triệt càng tin đó là sự thật, phong Giang Sung làm cẩm y sứ giả, chịu trách nhiệm tìm kiếm và lập tức nghiêm trị những người làm tà thuật vu cổ. Giang Sung hết sức đắc ý, tiếp chỉ rồi cử sai nha đi bắt khắp nơi, chủ yếu là loại bỏ những người mà hắm căm hận, nhất là thái tử.
Kinh sư Trường An và khắp các đất phong quận quốc, khắp nơi đều bị lục tung cả lên, hễ có người gỗ hoặc những thứ khả nghi, đều nhất loạt bị lùng bắt, rồi tra hình tàn khốc để bức cung họ, sau đó lôi ra xử chém. Hàng vạn người bị chém đầu sau khi bị tra khảo tàn khốc. Vụ án lớn nào cũng do Giang Sung đích thân xét xử, và đều trình lên Lưu Triệt. Lưu Triệt không chỉ chấp nhận những gì Giang Sung làm, mà còn hậu thưởng cho Giang Sung.
Giang Sung không kiêng cữ điều gì, kiên quyết làm cho Lưu Triệt vui lòng. Giang Sung bẩm báo với Lưu Triệt, nói đại sứ quan sát thiên tượng bẩm báo, trong cung có một luồng âm khí, chính là khí vu cổ, nếu không thanh trừ khí này, e rằng bệnh tật của hoàng thượng ngày càng nặng. Lưu Triệt lập tức lệnh cho Giang Sung dẫn người vào cung lục soát, thanh trừ khí vu cổ.
Giang Sung thống lãnh tâm phúc An Đạo hầu Hàn Thuyết, ngự sử Chương Cống dẫn theo rất nhiều sai nha cùng nhau tiến vào cung, đào bới từng cung từng cung một, đào sâu xuống 3 tấc đất, tìm người gỗ. Phía dưới chỗ ngồi của hoàng thượng cũng bị đào xới, mọi cung mọi phòng đều ngổn ngang, cuối cùng đến Trung cung của hoàng hậu và Đông cung của thái tử, cũng bị đào xâu xuống 3 tấc đất.
Hoàng hậu Vệ Tử Phu và thái tử Lưu Cứ giận dữ khôn cùng, nhưng có thánh chỉ tại đó, hoàng hậu và thái tử đành phải nghe theo. Đào xới xong, Giang Sung bẩm với Vũ Đế, nói đào thấy rất nhiều người gỗ tại Trung cung và Đông cung, hơn nữa mỗi một người gỗ đều có viết rất nhiều lời chú, niệm chú bệ hạ, câu văn không thể coi được. Đương nhiên Lưu Triệt hết sức tức giận, nhưng nghĩ lại cũng không đến nỗi thế, muốn triệu thái tử vào cung hỏi cho rõ ràng.
Lưu Triệt sống tại cung Cam Tuyền bên ngoài thành. Thái tử Lưu Cứ biết Giang Sung hãm hại mình, hết sức sợ hãi. Muốn ra ngoại thành gặp phụ hoàng, giải thích rõ ràng, lại ngần ngại không dám, sợ phụ hoàng không hỏi thị phi rõ ràng mà đã xử mình tội chết. Thái tử chẳng biết nên làm gì, bèn hỏi kế của Thạch Đức. Thạch Đức lại là người ham sống sợ chết và rất nhát gan, ông cũng sợ hoàng thượng trách tội thái tử, từ đó liên luỵ đến mình, rất sợ hãi.
Thạch Đức nói với thái tử, cách đây không lâu cha con thừa tướng Công Tôn Hạ và công chúa Dương Thạch, công chúa Chư Ấp, đều bị tội vu cổ, lần lượt bị xử tử, liên luỵ đến vô số người; nay, Giang Sung muốn vu cáo thái tử, không ai có thể tấu lên trên, tình hình hết sức nguy cấp; hoàng thượng có bệnh, nằm tại cung Cam Tuyền, hoàng hậu và thái tử muốn hỏi thăm bệnh tình, đều không có hồi âm, hoàng thượng lành dữ thế nào đều không biết; Giang Sung to gan làm càn như thế, chẳng phải là hành vi của Triệu Cao đó sao? Tần thái tử Phù Tô chính là chết trong tay của gian thần; lúc này, đã không còn sự chọn lựa nào khác, tốt nhất là lấy danh nghĩa của hoàng thượng, bắt giữ Giang Sung, rồi giết hắn, như thế có lẽ sẽ thoát được cơn nguy này.
Thái tử nhân hậu khoan dung chưa từng nghĩ đến cách này, cứ do dự không quyết. Thái tử cảm thấy, không có mệnh lệnh của phụ hoàng, làm sao có thể bắt giết sứ giả của phụ hoàng? Nếu đã như thế, chi bằng đến cung Cam Tuyền, bái kiến phụ hoàng, nói rõ chân tướng. Nhưng, Giang Sung cản trở thái tử vào cung Cam Tuyền. Vệ hoàng hậu cũng không ý thức đến sự việc nghiêm trọng đến thế, trong cung không có động tĩnh gì. Thái tử không còn cách nào khác, đành phải chấp nhận kế của Thạch Đức trong tình huống bó tay đó, cử người giả mạo sứ giả thiên tử, bắt Giang Sung, vừa gặp là giết ngay Giang Sung và tay chân của hắn.
Sau khi giết chết Giang Sung, ngay vào tối hôm đó, thái tử cử tâm phúc giả danh làm sứ giả thiên tử, tiến vào cung của hoàng hậu - cung Vị Ương, báo cho hoàng hậu tất cả những gì đã xảy ra, lúc này hoàng hậu mới biết tai nạn lớn sắp giáng xuống. Tình hình hết sức nguy cấp, thái tử điều động binh mã, xạ thủ của hoàng hậu, cử người mở kho vũ khí trong cung Trường Lạc, điều động gấp vệ sĩ cung Trường Lạc, cùng nhau bắt giết đồng đảng của Giang Sung. Máu bắt đầu chảy thành sông trong cung, kinh sư Trường An khói đen mù mịt, một cuộc đại loạn diễn ra.
Lòng người ở kinh sư bắt đầu hoảng loạn, không biết xảy ra chuyện gì, chỉ nghe nói thái tử mưu phản. Triều thần trong triều từ thừa tướng trở xuống, đều chẳng ai biết gì. Đồng đảng của Giang Sung – Tô Văn chạy khỏi kinh thành trong cuộc đại loạn tại kinh sư, chạy thẳng đến cung Cam Tuyền, bẩm báo với Vũ Đế Lưu Triệt, nói thái tử hưng binh trong cung tạo phản, còn giết luôn sứ giả Giang Sung.
Vũ Đế Lưu Triệt phái sứ thần gặp mặt thái tử, hỏi rõ tình hình. Sứ giả nhát gan sợ chết, không dám vào thành Trường An, bèn quay về bẩm báo với Vũ Đế, nói thái tử tạo phản đã thành, phản binh cực kỳ hung ác, nếu không phải mình chạy cho nhanh, thì sớm đã đầu lìa khỏi cổ! Vũ Đế Lưu Triệt không ôm mộng tưởng nữa, thật sự tin rằng thái tử mưu phản, muốn thay thế chỗ của mình, thế là quyết định trừng phạt thái tử.
Hoàng đế không có mặt tại kinh sư, kinh sư xảy ra biến cố, đương nhiên do thái tử và thừa tướng phụ trách đối phó; nay thái tử tạo phản, đương nhiên do thừa tướng ra mặt đối phó. Khi đó, thừa tướng là anh thứ của Vũ Đế Lưu Triệt, tên Lưu Khuất Mao. Sau khi binh lính thái tử tiến vào phủ thừa tướng, đó cũng trở thành một nơi đại loạn. Thừa tướng chạy thoát khỏi phủ thừa tướng trong sự hỗn loạn, ngay cả đại ấn thừa tướng cũng không biết mất đi đâu. Thừa tướng Lưu Khuất Mao hoảng hốt lo sợ không biết xảy ra chuyện gì, bèn phái trưởng sử tướng phủ phi ngựa đến bẩm báo với Vũ Đế Lưu Triệt.
Vũ Đế Lưu Triệt hết sức tức giận, hỏi trưởng sử tướng phủ: Kinh sư đại loạn, thừa tướng có biện pháp đối phó gì? Trưởng sử tướng phủ quỳ tấu, nói thừa tướng không dám công bố thái tử mưu phản, chỉ biết chạy lấy mạng. Lưu Triệt mắng nói: Sự thật đã như thế, có gì mà không dám công bố, thừa tướng thật là quá bất tài! Lưu Triệt hạ lệnh cho thừa tướng phụ trách phải lo dẹp loạn; lệnh cho binh lính trong ngoài kinh sư và các quận huyện phụ cận đồng loạt do thừa tướng chỉ huy.
Thái tử kiểm soát được hoàng cung. Thái tử tuyên bố với bá tính trong thành là: hoàng thượng đang ở cung Cam Tuyền, bệnh tình nghiêm trọng, không có tin tức gì, e rằng trong cung có biến, gian thần thừa cơ đoạt quyền, nên khởi binh bắt gian thần. Chính vào lúc này, Vũ Đế Lưu Triệt đích thân dẫn quân tiến vào cung Kiến Chương, trực tiếp chỉ huy quân đội, chuẩn bị dẹp yên quân phản loạn.
Binh sĩ do thái tử chỉ huy thật sự quá ít. Thái tử cử người đến quân Bắc, mong rằng có thể chỉ huy quân Bắc, nhưng bị sứ giả quân Bắc là Nhậm An từ chối. Thái tử đành phải thống lĩnh binh sĩ ít ỏi đó quyết chiến với số binh sĩ gấp nhiều lần do thừa tướng Lưu Khuất Mao chỉ huy, chiến đấu cả 5 ngày 5 đêm, bị chết và bị thương vô số, tiếng hô chém giết trong thành Trường An chấn động cả trời, thi thể chất như núi.
Thái tử binh hết bại trận, dẫn tàn binh chạy khỏi kinh sư Trường An. Sau khi quân của thừa tướng thống lĩnh chiếm lĩnh kinh sư, lùng bắt kẻ chủ mưu tạo phản lần này, Thạch Đức và rất nhiều binh khách, già trẻ lớn bé của thái tử, đều bị giết chết. Hoàng hậu Vệ Tử Phu cảm thấy không thể thoát, con cái đều bị
giết hết, bản thân sống để làm gì? Thế là tự sát.
Sau khi thái tử Lưu Cứ dẫn tàn quân của mình chạy khỏi Trường An, chạy trốn ở một ngôi nhà của nông dân tại Hương Văn Hà Nam hiện nay. Nhà nông này rất hiền lành, rất thông cảm với hoàn cảnh của thái tử, đồng ý che giấu thái tử, thoát khỏi đại nạn này. Nhưng nông dân nghèo khổ, chỉ có thể cung phụng thái tử bằng việc bán giày cỏ.
Thái tử chạy thoát, đương nhiên là cái gốc của tai họa. Vũ Đế Lưu Triệt hạ lệnh khắp các quận huyện, kiểm tra lùng sục nghiêm ngặt. Khắp các quận huyện nhận được thánh chỉ, đều tăng cường kiểm tra, hy vọng bắt được thái tử lãnh thưởng với Vũ Đế Lưu Triệt. Quan phủ sai nha được tung ra khắp nơi, chú ý đến từng hành tung của thái tử.
Đã hết đường chạy, nghèo đói khôn cùng, thái tử nhớ lại trong Hương Văn này có một người bạn rất thân với mình. Người bạn này vốn rất trung thực, thái tử bèn phái tâm phúc đi cầu cứu. Điều không may là, sự việc bị tiết lộ, quan phủ sai nha phát hiện hành tung của thái tử, binh sĩ nhanh chóng vây bắt thái tử. Quân binh bao vây dày đặc, vây quanh 3 lớp bên ngoài ngôi nhà nông dân mà thái tử đang trú ẩn. Thái tử nhận ra đã không còn hy vọng gì, bèn đóng chặt cửa, tự treo cổ chết, hai người con trai của thái tử cũng theo cha mình rời khỏi cõi đời.
Cả nhà thái tử chết hết. Vũ Đế Lưu Triệt không hiểu rõ, liên tục cử người đi điều tra việc này. Một năm sau, chân tướng của sự việc mới sáng tỏ, thái tử vô tội, hoàng hậu cũng chết oan, hoàn toàn do nịnh thần Giang Sung đạo diễn toàn bộ vụ án oan này. Vũ Đế Lưu Triệt hết sức hối hận, nhưng hối hận thì được gì? Người cũng đã mất đi, không thể sống lại. Vũ Đế Lưu Triệt bị một đòn quá đau, tinh thần ngày càng suy sụp.
Vào lúc này, một người được giao trông coi lăng miếu của Hán Cao Tổ tên Điền Thiên Thu, chỉ là một quan chức nhỏ nhoi mà dám vượt cấp dâng thượng sách lên Vũ Đế Lưu Triệt, xin trả lại sự trong sáng cho thái tử và hoàng hậu. Điền Thiên Thu tình thật ý sâu, điều nào cũng có tình có lý, chứng cứ rõ ràng để minh oan cho thái tử. Trong sách nói: chuyện này, nếu nói thái tử có tội, chẳng qua chỉ là bị ép dấy binh, nếu phải trị tội thì cũng chỉ là tội nhẹ; con của thiên tử vì nhầm lẫn mà ngộ sát một người, nên định tội gì đây?
Vũ Đế Lưu Triệt đang đau như cắt nhìn thấy bản sớ của Điền Thiên Thu, lòng càng hối hận hơn, càng cảm thấy mình xử lý không thỏa đáng trong sự việc này. Vũ Đế Lưu Triệt hết đau nhưng vẫn còn nhớ đến nỗi đau đó, hào khí và tinh lực năm nào cũng không còn như xưa. Bản tính không câu nệ theo một khuôn mẫu nào khi sử dụng nhân tài của Vũ Đế Lưu Triệt lại sống dậy một lần nữa. Thế là, Vũ Đế Lưu Triệt triệu kiến Điền Thiên Thu, coi Điền Thiên Thu như tâm phúc.
Vũ Đế Lưu Triệt nhìn thấy Điền Thiên Thu, thành thật nói với Điền Thiên Thu rằng: Chuyện giữa cha con thì người thường không thể nói rõ, huống hồ là hoàng thượng và thái tử? Không ai dám nhiều lời. Ngươi có thể nói thẳng không tránh, hơn nữa lại nói rất có lý, đó là thần linh Cao hoàng đế phù hộ, bảo ngươi đến phò tá cho ta, làm sự nghiệp lớn. Vũ Đế Lưu Triệt tiếp đón viên quan giữ lăng này theo nghi thức trịnh trọng.
Vũ Đế Lưu Triệt bổ nhiệm Điền Thiên Thu làm Đại Hồng Lô. Không lâu sau, Vũ Đế Lưu Triệt lại đặc cách phong Điền Thiên Thu làm thừa tướng do tài năng xử lý công việc của ông. Vũ Đế Lưu Triệt thật sự là một hoàng đế thánh minh biết yêu mến và sử dụng nhân tài.
Điền Thiên Thu chỉ nhờ vào một bức sớ mà thể hiện tài năng và trí tuệ hơn người của mình, may được Vũ Đế Lưu Triệt sáng suốt trọng dụng, thật là sinh thế gặp thời. Không lâu sau, Lưu Triệt do nhớ thái tử, bèn xây một cung điện trong kinh sư Trường An, đặt tên cung Tư Tử (cung nhớ con), đồng thời xây một đài tưởng nhớ tại Văn Hương, để gởi gắm nỗi nhớ nhung thái tử.
Chương V
Lý Phi nghiêng nước nghiêng thành
I. Nghệ nhân âm nhạc Lý Diên Niên
Hoàng đế Trung Quốc rất hiếm người không háo sắc, nhất là hoàng đế đời Hán, vừa háo nam sắc, vừa háo nữ sắc. Hoàng đế đời Hán có sở thích kỳ quặc đối với nam sắc, nhưng không có ai là người đồng tính hẳn, họ vừa cần nam, vừa cần nữ, chỉ cần có sắc đẹp tuyệt trần là được.
Hoàng đế nhà Hán ham thích nam sắc đã được ghi lại trong lịch sử, hơn nữa rất mãnh liệt, rất si tình. Hán Cao Tổ Lưu Bang có nam sủng Tịch Nho. Hán Huệ Đế Lưu Doanh có nam sủng Hoằng Nho. Văn Đế Lưu Hoằng được mệnh danh là Hiền Đế cũng ân sủng hoàng đầu lang Đặng Thông. Vũ Đế Lưu Triệt văn võ hơn người si mê hai anh em hầu tôn Hàn Yên, Hàn Thuyết, mê nghệ nhân âm nhạc Lý Diên Niên, mê đến mức chết đi sống lại. Hán Ai Đế sủng ái xá nhân của thái tử Đổng Hiền. Những người này đều là những người đàn ông đẹp như tiên, đều là kẻ đồng tính luyến ái của hoàng đế.
Sủng ái cả nam lẫn nữ, hoàng đế nhà Hán làm được xuất sắc nhất phải kể đến Hán Vũ Đế Lưu Triệt. Lưu Triệt giỏi văn giỏi võ, tài văn của ông ai cũng rõ như ban ngày, làm cho mọi văn sĩ phải gọi là tuyệt bút; võ lược lại không ai sánh bằng, được gọi là đệ nhất trong thiên hạ. Vũ Đế Lưu Triệt cũng không thua ai về mặt yêu nam mến nữ, làm rất đến nơi đến chốn.
Hầu tôn Hàn Yên từ nhỏ đã sống với Vũ Đế Lưu Triệt, hai người sống với nhau rất vui. Hàn Yên có làn da rất trắng trẻo, đôi mắt long lanh, đẹp như phụ nữ, hết sức xinh đẹp. Hàn Yên và Vũ Đế Lưu Triệt sớm tối gặp nhau, ngày tháng lâu dần, tình bạn hữu sâu sắc, rồi nảy sinh tình cảm. Khi trưởng thành, một Vũ Đế Lưu Triệt háo sắc thành thói đã yêu Hàn Yên. Vũ Đế Lưu Triệt kế vị năm 17 tuổi, Hàn Yên hầu hạ bên cạnh. Sau này, Vũ Đế Lưu Triệt có càng nhiều nam sủng hơn, nhất là nghệ nhân âm nhạc Lý Diên Niên.
Lý Diên Niên là người Trung Sơn, tướng mạo tuấn tú dịu dàng, có chút giống mỹ nữ. Lý Diên Niên biết nhiều về âm luật, giọng hát trầm ấm, lại múa giỏi. Lý Diên Niên luôn được sự chú ý của Vũ Đế nhờ vào tướng mạo và đa tài đa nghệ, hầu hạ trong cung. Có một lần, Lý Diên Niên phạm cung quy, theo luật phải xử cung hình. Lý Diên Niên không có tiền thoát tội, đành phải chịu cung hình. Nỗi thống khổ và bi ai của cung hình quả là không có từ nào có thể hình dung được, Lý Diên Niên như mới đi về từ cõi chết.
Điều kỳ lạ là, Lý Diên Niên càng đẹp hơn sau khi bị cung hình, chất giọng càng rung động lòng người hơn, điệu múa càng uyển chuyển dịu dàng hơn. Lưu Triệt háo sắc có lẽ muốn xem Lý Diên Niên sau khi bị cung hình có phải càng say mê lòng người hơn hay không, không ngờ Lý Diên Niên quả thực trở thành một giai nhân tuyệt sắc. Vũ Đế Lưu Triệt sủng ái Lý Diên Niên đến mức tột đỉnh. Lưu Triệt để Lý Diên Niên hầu hạ bên cạnh, lúc hứng chí lên thì triệu Lý Diên Niên ca hát nhảy múa. Lý Diên Niên trở thành một món đồ chơi sống mà Lưu Triệt si mê.
Đương nhiên Lý Diên Niên biết rằng, hoàng thượng sủng ái nam sắc chẳng qua chỉ là sở thích nhất thời, người thật sự nắm trọn trái tim của hoàng thượng, làm hoàng thượng thần hồn điên đảo cũng vẫn là nữ sắc; chỉ có người phụ nữ thông minh hơn người lại có vẻ đẹp tuyệt sắc mới thật sự lấy được trái tim cô độc nhưng ngạo mạn của hoàng thượng; cũng chỉ giành được sự sủng ái của hoàng thượng, mới được phú qúy mãi mãi, hạnh phúc dài lâu.
Có người phụ nữ như thế sao? Lý Diên Niên biết có, hơn nữa đang ở bên cạnh, đó chính là Lý thị, chị em của mình. Lý Diên Niên biết rằng, chỉ cần thu hút sự chú ý của hoàng thượng, chỉ cần để hoàng thượng nhìn thấy em gái mình, Lưu Triệt sẽ không thể không xao xuyến.
Vũ Đế Lưu Triệt yêu thích vẻ đẹp đầy đặn, phong thái tú nhã của Lý Diên Niên, càng ngất ngây hơn bởi giọng hát mê người của Lý Diên Niên. Hễ Lưu Triệt rảnh rỗi, thì triệu Lý Diên Niên đến hầu hạ ngay,
ca hát nhảy múa, tiêu sầu trợ hứng. Có một hôm, Lý Diên Niên được triệu vào hầu. Trông tâm trạng của Lưu Triệt rất tốt, trên mặt luôn nở nụ cười. Lý Diên Niên biết cơ hội đã đến, bèn thể hiện hết điệu múa nhẹ nhàng thanh thoát, cất ca giọng hát trầm ấm ngây người của mình:
Phương Bắc hữu giai nhân, tuyệt thế dĩ độc lập.
Nhất cố khuynh nhân thành, tái cố khuynh nhân quốc.
Ninh bất tri khuynh thành dữ khuynh quốc, giai nhân nan tái đắc.
(Tạm dịch là: Phương Bắc có một người đẹp, đẹp tuyệt trần nhưng vẫn còn độc thân. Gặp lần thứ nhất làm người nghiêng ngả, gặp lại lần nữa làm nghiêng cả quốc gia. Thà không biết nghiêng nước nghiêng thành, người đẹp khó mà có lại được)
Vũ Đế nghe xong khúc hát này, thử hỏi một người mê sắc đẹp hơn cả mạng sống như ông làm sao mà không say không si? Giai nhân phương Bắc nghiêng nước nghiêng thành, hoa nhường nguyệt thẹn, chỉ được gặp trong mơ, còn người thật thì chẳng biết ở đâu, đi đâu tìm bây giờ! Lưu Triệt nghe xong, cho rằng khó mà có được giai nhân, nên lắc đầu thở dài. Lý Diên Niên nhìn thấy tất cả những phản ứng của hoàng đế, nên trong lòng rất vui mừng.
Vũ Đế Lưu Triệt tơ tưởng về giai nhân phương Bắc, luôn âu sầu than thở, chẳng buồn ăn uống, hình bóng của giai nhân cứ quẩn quanh ngày đêm, có đuổi cũng chẳng đi. Lưu Triệt cảm thấy kỳ lạ, khúc hát giai nhân của Lý Diên Niên đã làm ngất ngây hồn người như thế, đi vào lòng người như thế, tại sao mình lại khổ sở như thế? Phương Bắc có giai nhân này sao? Đó chẳng qua chỉ là khúc hát mà Lý Diên Niên xướng lên khi đang cao hứng, chỉ là người đẹp trong khúc ca mà thôi, hà cớ gì phải xem là thật?
II. Giai nhân phương Bắc
Lưu Triệt âu sầu buồn bã, không thể nào tận hưởng một mối tình sâu đậm như thế. Lưu Triệt thong thả đến nhà của chị mình là công chúa Bình Dương trong tâm trạng trống rỗng. Công chúa Bình Dương biết em trai thân làm hoàng đế của mình đang tương tư giai nhân phương Bắc trong bài hát của Lý Diên Niên. Trong lòng Bình Dương công chúa đã tính sẵn, dâng rượu ngon, nhưng Vũ Đế Lưu Triệt không màng đến, chỉ than rằng khó có được giai nhân.
Bình Dương công chúa mỉm cười, dặn dò bày một bàn tiệc thịnh soạn, nói có một phương thuốc hay có thể giải sầu trong lòng của hoàng thượng. Lưu Triệt mỉm cười lắc đầu, lặng lẽ nhập tiệc, chỉ buồn bã uống rượu. Bình Dương công chúa nói, chẳng phải hoàng thượng đang than khổ rằng phương Bắc không có giai nhân sao? Có! Nếu không tin, thì hãy đến nhà của Lý Diên Niên xem sao, em gái của hắn chính là giai nhân tuyệt sắc nghiêng nước nghiêng thành.
Vũ Đế Lưu Triệt nở nửa nụ cười, cả ngày trời cũng chưa lấy lại thần. Đến khi hiểu rõ chuyện gì đang xảy ra, Lưu Triệt bèn đứng dậy, vui vẻ từ biệt chị mình, lập tức triệu kiến em gái Lý thị của Lý Diên Niên. Trái tim vốn không yên phận của Lưu Triệt lúc này lại càng cuồn cuộn dâng lên, ngăn sông lấp biển, ông không tài nào tưởng tượng Lý thị là người phụ nữ như thế nào, chắc là cũng chẳng hơn gì các cô gái trong hậu cung!
Lưu Triệt chờ đợi người đẹp trong sự bất an sốt ruột, thời gian sao mà chậm đến thế, tại sao Lý thị vẫn chưa đến? Bên tai Lưu Triệt luôn văng vẳng tiếng hát ngọt ngào, khúc hát làm ông say mê mất hồn của Lý Diên Niên. Lý thị có phải thật là tuyệt thế và một mình không? Sẽ nghiêng thành khi gặp lần đầu, rồi nghiêng nước khi gặp lần hai? Chắc không phải là cô gái có làn da trắng nõn và yếu đuối như liễu chứ?
Lưu Triệt như đang ngồi trên đống lửa, cứ đi qua đi lại trong cung điện huy hoàng, sốt ruột chờ đợi Lý thị mà ông càng nghĩ càng thấy người ta xấu như ma. Lưu Triệt đột nhiên quay đầu lại, chỉ nhìn thấy trước cửa điện, có một cô gái thon thả dịu dàng, ăn mặc rất thanh thoát, tư thế đó, gương mặt đó, sự trong sáng đó, xinh đẹp đó, quả thật là một tiên nữ giáng trần.
Lưu Triệt đứng ngây ra đó. Cô tiên nữ trước cửa tuy thanh thoát dịu dàng nhưng lại giống như mặt trời mới mọc, thật rực rỡ loá mắt. Quả thật Lý thị quá đẹp, đẹp như thoát tục, đẹp xuất thế, đẹp đến nỗi không vướng chút bụi trần, quả thật là tuyệt sắc mà độc đáo, làm sao mà không nghiêng nước nghiêng thành cho được.
Lưu Triệt mơ mơ hồ hồ ngồi trên long kỷ, đôi mắt chỉ chăm chăm nhìn vào Lý thị. Lý thị nửa sợ nửa thẹn thi lễ trước hoàng thượng, sau đó, hát nhẹ một bài hát, múa một điệu múa. Lý thị vẫn là người phụ nữ, điệu múa, giọng hát của phụ nữ có thể lấy mất hồn người, Vũ Đế Lưu Triệt như say như si bởi giọng hát của Lý Diên Niên nay lại càng mất hết hồn phách bởi giọng hát và điệu múa của Lý thị. Vũ Đế Lưu Triệt biết, từ đó về sau, ông sẽ không rời xa nàng.
III. Lý phi từ chối gặp hoàng đế
Lưu Triệt có được giai nhân phương Bắc Lý thị, yêu thương đến tột đỉnh. Lưu Triệt luôn để Lý thị hầu hạ bên cạnh ngày đêm với lòng yêu thương và lòng ham muốn nhục dục rừng rực. Lý thị được hoàng thượng rất mực ân sủng, được tắm trong ánh nắng và nước mưa của hoàng thượng, được sủng ái nhất hậu cung. Không lâu sau, Lý thị đẹp tuyệt thế mang thai, khi đủ tháng, sinh hạ một đứa con trai. Nhưng không bao lâu sau, đứa con yếu ớt đó bất hạnh chết đi, được phong làm Xương Ấp Ai vương.
Do sức khỏe suy nhược, Lý thị xinh đẹp và thanh thoát không thể kiềm được lòng ham muốn không có biên giới của hoàng thượng và sự ồn ào phức tạp trong cung, nên bệnh liệt giường. Tất cả mọi ngự y trong cung đều được mời đến, nhưng đều không có tác dụng gì, bệnh tình không có chuyển biến tốt, mà ngày càng nặng thêm. Lý thị nằm liệt giường như thế trong thời gian rất dài, dung nhan tuyệt sắc của Lý thị cũng bị ma bệnh lấy mất, còn lại chỉ là gương mặt xanh xao và trắng nhợt, một gương mặt vàng vọt bệnh họan.
Vũ Đế Lưu Triệt sốt ruột muốn gặp Lý thị, nhưng lần nào cũng bị ngự y và Lý thị ngăn cản. Theo quy định trong cung, một khi con gái trong hậu cung nhiễm bệnh, thì tuyệt đối không cho đến gần hoàng thượng, hoàng thượng cũng bị nghiêm cấm tiếp xúc với người bệnh. Ngự y ra sức khuyên can Lưu Triệt đừng đến thăm Lý thị, đợi đến khi bệnh tình đỡ hơn, ngọc thể hồi phục thì hãy đi. Lý thị cũng biết, dung nhan của mình đã tiều tuỵ, làm sao để hoàng thượng gặp mặt mình được? Lý thị kiên quyết từ chối hoàng thượng gặp mình.
Nhưng, Vũ Đế Lưu Triệt luôn độc đoán một mình, đâu chịu nghe theo lời khuyên của ngự y? Càng không có lòng nhẫn nại lâu đến thế để chờ đợi lời hứa của Lý thị. Lưu Triệt nghe nói bệnh tình của Lý thị ngày càng nặng, ông không tài nào chịu được việc không được đi gặp người đẹp đã làm ông say đắm, huống hồ người đẹp lại đang ở trong cung, chỉ cách nhau có mấy bước mà thôi! Đợi được mấy ngày, Lưu Triệt thật sự không chịu được nữa, bèn xông thẳng vào tẩm cung của Lý thị.
Lý thị bệnh tình trầm trọng, đang nằm trên giường, mặt mũi hốc hác xanh xao, đang nói chuyện với các chị em trong cung. Khi Lý thị được biết hoàng thượng đã đến, bèn mặc kệ tất cả, kéo tấm mền lên che hết cả người lẫn gương mặt. Các cung nữ vội vàng qùy xuống nghênh đón Lưu Triệt. Khi Lưu Triệt tiến vào tẩm cung của Lý thị, không để ý đến những cô gái khác, mà đi ngay đến giường, gọi ngay tên Lý thị, hỏi han bệnh tình.
Lý thị không nói chuyện, chỉ kéo tấm chăn che kín gương mặt của mình. Lưu Triệt thấy rất lạ, nói mình đến thăm bệnh, tại sao lại như thế, tại sao không để trẫm nhìn một lần? Lý thị đau lòng nằm trong chăn nói: xin hoàng thượng hãy dung thứ cho nô tì vô lễ, nô tì bệnh đã lâu, dung mạo hình dáng bị huỷ họai, không thể gặp mặt hoàng thượng; chỉ là, con trai và anh em xin giao lại cho người, thiếp cũng yên tâm.
Vũ Đế Lưu Triệt ngồi bên giường, lòng nóng như lửa, muốn nhìn mặt người đẹp mà mình hằng nhung nhớ, không ngờ người đẹp lại trốn dưới tấm chăn, chính là vì không muốn để ta gặp mặt, hơn nữa, lại còn giao phó con trai và anh em một cách quái gở như thế. Vũ Đế Lưu Triệt cố nén cơn giận đang sôi sục trong lòng, nhẫn nại nói với Lý thị: Phu nhân, bệnh của nàng cũng đã lâu, đúng là hơi nặng, nhưng vẫn có thể chữa khỏi; cho dù khó có chuyển biến tốt, thì cũng cho trẫm gặp một lần, hãy nhìn thẳng mặt trẫm mà giao phó con trai và anh em cho trẫm, như thế chẳng phải sẽ tốt hơn sao?
Lưu Triệt vừa nói vừa lấy tay kéo tấm chăn. Lý thị cứ nắm chặt góc chăn, bật khóc. Lý thị vừa khóc vừa đau khổ nói: Bệ hạ, hiện nay thiếp không trang điểm gì, không dám gặp quân phu, dung mạo của thiếp đã tàn tạ như thế, không dám gặp mặt hoàng thượng. Lưu Triệt ngồi bên giường sốt ruột lo lắng, vừa kéo
tấm chăn vừa khẩn cầu Lý thị: Phu nhân, chỉ cần nàng để trẫm nhìn một lần, trẫm sẽ phong anh em nàng làm quan, thưởng cho nàng 1000 lạng vàng.
Lý phu nhân vẫn khóc lóc, kiên quyết từ chối. Lý thị trả lời: Bệ hạ, phong hay không phong anh em thiếp làm quan, không phụ thuộc vào lần gặp mặt này, mà tùy bệ hạ. Vũ Đế Lưu Triệt hết sức tức giận, lại giơ tay kéo đi tấm chăn, muốn nhìn người đẹp đang bệnh. Lý thị thông minh hơn người đã có chuẩn bị từ lâu, không buông tay, giữ tấm chăn càng chặt hơn. Hai người kéo qua kéo lại một hồi, tay của Lý thị không còn sức nữa, bèn trở người qua bên kia, mặt quay vào tường, ôm mặt đau khổ. Một Lưu Triệt háo sắc không ngờ có kết cục như thế, nên tức giận đứng dậy, nhìn trân trân vào người đẹp đang trốn trong chăn, giận dữ bỏ đi.
Sau khi Vũ Đế Lưu Triệt rời khỏi, các cung nữ quỳ dưới đất trong hậu thất nhanh chóng tụ tập lại. Họ đã tận mắt nhìn thấy tất cả, ai cũng thấy kỳ lạ. Hoàng thượng si tình một người phụ nữ như thế, có thể phá lệ đến thăm bệnh, chỉ muốn nhìn một lần, đó đã là rất có phúc lắm rồi, thế mà Lý thị lại không nhận, mà còn ngoảnh mặt đi, không để hoàng thượng gặp mặt, thật không thể giải thích nổi. Lý thị vẫn còn đang khóc. Các chị em vây quanh nàng, kéo tấm chăn xuống, nói hoàng thượng đã tức giận bỏ đi. Các chị em mồm năm miệng mười, lần lượt quở trách Lý thị, nói làm sao mà lại đối xử với hoàng thượng như thế? Để hoàng thượng gặp một lần, giao phó vương và anh em trước mặt hoàng thượng, chẳng phải càng tốt hơn sao? Tại sao lại oán hận hoàng thượng như thế? Chẳng phải làm cho hoàng thượng nổi giận sao? Hoàng thượng nổi giận rồi, thì còn có thể chăm sóc tốt cho vương và anh em của nàng được sao?
Lý thị không nói một lời, cung nữ lau khô nước mắt cho nàng. Đợi đến khi các chị em đã nói xong, Lý thị mới đau khổ nói: Cảm ơn ý tốt của các chị, nhưng, các chị không biết, sở dĩ tôi không gặp hoàng thượng, không phải do oán hận hoàng thượng, cũng không phải cố ý làm hoàng thượng nổi giận, mà vì muốn giao phó con trai, anh em một cách tốt hơn. Lý thị vừa nói, nước mắt vừa tuôn rơi. Các chị em càng nghe càng mơ hồ, chỉ nhìn chằm chằm vào Lý thị.
Lý thị bình tĩnh lại, lau khô nước mũi và nước mắt, bình tĩnh nói: Ta xuất thân nghèo hèn, nhờ dung mạo khá đẹp nên mới được hoàng thượng sủng ái; nhưng, từ xưa đến nay, phàm là người làm vui lòng người khác bằng sắc đẹp, nếu sắc mà tàn thì tình yêu cũng giảm, mà tình yêu đã giảm thì ân chắc sẽ tuyệt; mấy năm nay, sở dĩ hoàng thượng quyến luyến ta, chăm sóc nhung nhớ ta, không phải vì cái gì khác, mà chính vì dung mạo xinh đẹp của ta; nay, bệnh của ta rất nặng, dung mạo cũng tàn phai, hoàng thượng nhìn thấy hình dáng này của ta, chắc chắn sẽ cảm thấy chán, bỏ rơi ta, đến lúc đó, làm sao mà hoàng thượng còn chăm sóc cho con trai của ta, anh em của ta?
Lý thị nói rất bình tĩnh, nhưng câu nào câu nấy vững chắc, xuất phát từ trong đáy lòng. Các chị em nghe xong thấy tâm phục khẩu phục, im lặng không nói gì. Lời nói của Lý thị quả là rất có lý, kiến thức của Lý thị quả là sâu sắc, lời nói tuy ngắn gọn nhưng trúng vào trọng điểm.
IV. Thiên tử si tình
Từ đó về sau, Lý thị từ chối gặp lại hoàng thượng. Không lâu sau, Lý thị qua đời. Sau khi Lý thị ra đi, vẻ đẹp và tất cả những gì tốt đẹp của nàng đều để lại trong lòng Vũ Đế Lưu Triệt, làm ông luôn hồi tưởng lại, mỗi khi hồi tưởng lại là nỗi nhung nhớ vô tận và khát vọng đau tận tim phổi. Hễ Vũ Đế Lưu Triệt rảnh rỗi, hễ nhắm mắt lại, tiếng nói, nụ cười và vẻ đẹp mê hồn của Lý thị lại xuất hiện trước mặt người, dù có làm gì thì cũng không xua tan được những hình ảnh, âm thanh đó. Vũ Đế Lưu Triệt nhớ nhung Lý thị, khao khát được gặp lại dung nhan nghiêng nước nghiêng thành của Lý thị, khát khao có lại một lần mất hồn bạt vía vì người đẹp phương Bắc. Nhưng, rốt cuộc thì Lý thị cũng đã ra đi, tất cả giấc mơ đều không thể trở thành hiện thực.
Nỗi khát khao nóng bỏng của Lưu Triệt không tài nào biến đi, lòng đầy tâm sự chẳng biết bày tỏ như thế nào. Lưu Triệt nhung nhớ Lý thị, hồi tưởng lại tất cả những gì liên quan đến Lý thị, hồi tưởng lại lần gặp mặt cuối cùng. Lưu Triệt nhớ lại lời giao phó của Lý thị trước khi lâm chung, giống như tìm được một con đường để giải tỏa tâm sự, thế là hạ chỉ, phong anh trai của Lý thị Lý Quảng Lợi làm Nhị Sư tướng quân, tước Hải Tây hầu; phong anh trai Lý Diên Niên của Lý thị làm Hiệp Luật đô úy.
Thời gian lặng lẽ trôi. Vũ Đế Lưu Triệt ngày càng tương tư về Lý thị chim sa cá lặn, sắc đẹp say đắm lòng người hơn. Lưu Triệt nhìn vào cung, nhìn chiếc giường, nghe tiếng gió thổi, nghe tiếng mưa rơi, không một thứ gì không gợi lại nỗi nhớ vô hạn về người đẹp đã quá cố. Lưu Triệt thường uống rượu khóc lóc một mình, không thể tự thoát khỏi đó. Lưu Triệt thích ngâm thơ, cũng giỏi làm thơ phú, nỗi đau khổ tương tư đang dày vò Lưu Triệt, làm Lưu Triệt ăn không ngon, ngủ không yên, thế là ông mở một tờ giấy, viết lên bài thơ “Lạc diệp ai thiền” để tưởng nhớ người đẹp:
La duệ hề vô thanh, ngọc trì hề trần sinh.
Hư phòng lãnh dĩ tịch mạc, lạc diệp y vu trùng quynh.
Vọng mỹ chi nữ hề, an đắc cảm dự tâm chi vị ninh.
Vũ Đế Lưu Triệt sầu khổ tưởng nhớ Lý thị, tưởng nhớ quả là quá đau khổ, như tương tư một mối tình đơn phương vậy. Lưu Triệt không thể vực dậy, cả ngày chỉ trăn trở loanh quanh, sầu tư trăm mối. Ông không thể chịu đựng cuộc sống không có Lý thị, nhưng Lý thị đã ra đi và không thể sống lại, làm sao đây? Lưu Triệt đau khổ tưởng nhớ, cuối cùng cũng nghĩ ra một cách: Tại sao không bảo các họa sư trong cung, vẽ một bức ảnh Lý thị, như thế chẳng phải ngày nào cũng được nhìn thấy như được nhìn người thật vậy?
Lưu Triệt lập tức cho gọi họa sư cung đình có trình độ cao thâm nhất đến, miêu tả tỉ mỉ dung mạo, hình dáng, đặc trưng của Lý thị, họa sư chuyên tâm vẽ, qua bao nhiêu lần chỉnh sửa, cuối cùng cũng vẽ được hình Lý thị sống động như thật. Bức vẽ quá thật, giống y như người thật, chẳng qua là không biết lên tiếng, không có nhiệt độ, không phải là một người sống mà thôi.
Lưu Triệt cưng không rời tay, ngày nào cũng xem đi xem lại nhiều lần, ngỏ lời yêu dấu với bức vẽ. Sau khi xem đã mắt, thì đem treo tại cung Cam Tuyền mà sớm tối mình hay ra vào. Lưu Triệt nằm mơ nhiều lần, thấy mình tìm thấy Lý thị, cùng vui vẻ với nàng. Tuy nhiên, trong cuộc sống thật đã không còn Lý thị, mà chỉ còn lại một bức tranh. Tuy bức tranh có thần có hình, nhưng lại không thể cử động, lại càng không có sự sống, nếu có người biết chiêu hồn, để bức tranh sống lại thì tốt quá!
V. Chiêu hồn
Cũng may, vào đúng lúc đó, kinh sư xuất hiện một phương sĩ có tuyệt kỹ, mọi người gọi là Thiếu Ông, là người đất Tề, truyền rằng ông có thuật chiêu hồn tuyệt diệu, có thể làm cho người chết hồi sinh. Lưu Triệt nghe được lời tấu, vui mừng tột độ, truyền lệnh lập tức triệu Tề Thiếu Ông vào cung. Tề Thiếu Ông được dẫn vào cung, lập tức được yết kiến Lưu Triệt.
Thiếu Ông phụng chỉ vào cung chiêu hồn cho Lý thị. Lưu Triệt chọn ra một cung phòng yên tĩnh, để Thiếu Ông bố trí. Những thứ mà Thiếu Ông cần, được chuẩn bị đầy đủ. Căn phòng tối tăm vì rất ít đèn, các bức trướng bay phất phơ, màu sắc lẫn lộn dưới ánh đèn mờ ảo. Chiếc bàn phía trước tấm trướng được chất đầy sơn hào hải vị, thịt ngon rượu ngon.
Sau một hồi niệm chú và nhảy múa điên cuồng, Thiếu Ông bắt đầu nhập tịnh. Thiếu Ông bảo Lưu Triệt ngồi dưới một tấm trướng khác cách đó không xa. Đến giờ tí nửa đêm, Thiếu Ông chính thức dùng phép. Bức trướng được chiếu sáng bởi ánh đèn bỗng nhiên xuất hiện khói mù mịt, phất phơ trong không trung với âm thanh rất nhỏ. Vũ Đế Lưu Triệt đang ngồi ngay ngắn trong một tấm trướng khác, toàn tâm chú ý, mắt không chớp.
Không biết bao lâu đã trôi qua, Lưu Triệt nhìn đến nỗi có chút mệt mỏi bỗng nhiên nhìn thấy một bóng người trong bức mành đối diện, bóng người đang động đậy, bóng nghiêng ấy rất đẹp, đúng là một người đẹp. Người đẹp chuyển động, rồi ngồi xuống. Lưu Triệt nhìn kỹ lại lần nữa, đó chẳng phải là Lý thị đó sao? Tuyệt đối không sai, là Lý thị! Ngồi một lát, Lý thị đứng dậy, giống y như lúc nàng còn sống, khi chậm bước từ từ lại càng giống thật hơn! Đó đương nhiên là Lý thị sống lại rồi!
Vũ Đế Lưu Triệt không dám tin vào mình, bật dậy, chạy đến ôm chặt người đẹp mà mình tưởng nhớ nay đã sống lại. Thiếu Ông đột ngột xuất hiện trước mặt Lưu Triệt, giơ tay ra, cản Lưu Triệt lại, và lắc đầu, tỏ ý ông không thể làm thế, nếu không sẽ làm kinh động linh hồn của người đẹp, người đẹp sẽ biến mất rất nhanh. Quả nhiên, một lát sau, mây mù tan dần, Lý thị cũng không biết biến đi đâu.
Phép chiêu hồn của Thiếu Ông rất thành công, Vũ Đế Lưu Triệt tin tưởng hết lòng, bèn hậu thưởng cho Thiếu Ông. Nhưng lần gặp hương hồn của Lý thị này, càng gợi nhớ nỗi nhớ người đẹp của Lưu Triệt. Một Lưu Triệt quá đau khổ vì tương tư không thể vui lên, cầm bút lên, viết thơ gởi nỗi nhung nhớ. Vũ Đế Lưu Triệt đã viết nên bài “Thị tà phi tà” trong tâm trạng đó:
Thị tà phi tà?
Lập dĩ vọng chi,
Phiến hà san san kỳ lại trì?
(Tạm dịch: Là thật hay giả?
Chỉ dám ngước nhìn
Vì lẽ gì nàng lững thững đến muộn?)
Đó là cảm giác thật của Lưu Triệt lúc đó, là trực giác bán tín bán nghi, vui buồn lẫn lộn khi gặp được người đẹp mà mình đau khổ tương tư. Lưu Triệt giao bài thơ tâm huyết của mình cho nhạc phủ, để nhạc sư phối khúc ca xướng. Trong cung bèn hát truyền bài “Thị tà phi tà” buồn bã này.
Hương hồn của Lý thị đã gợi nên nỗi tưởng nhớ vô bờ bến của Vũ Đế Lưu Triệt. Lưu Triệt không buồn ăn uống, dù có hoan lạc với các mỹ nữ khác thì cũng chỉ là sự miễn cưỡng, không khi nào mà ông không nhớ đến Lý thị. Từng tiếng nói, từng nụ cười của Lý thị, mái tóc mượt mà, tình cảm của Lý thị đều hiện diện trong lòng của Lưu Triệt, làm cho Lưu Triệt ngày đêm không ngủ được, khó mà lãng quên. Nỗi nhung nhớ của Lưu Triệt quá sâu sắc, bèn chấp bút viết nên bài “Lý phu nhân phú”.
Chương VI
Xuân sắc Hán cung – Câu chuyện của chị em họ Triệu
I. Cuộc sống tuổi thơ cực khổ
Chị em Triệu thị là một đôi mỹ nữ nổi tiếng trong lịch sử Trung Quốc. Chị Triệu Phi Yến, sắc đẹp, giọng ca, điệu múa đều tuyệt thế, nhất là thân nhẹ như yến nổi danh lịch sử. Một Triệu Phi Yến nghệ sắc vẹn toàn làm cho Hán Thành Đế nghiêng lòng, nhận vào cung, sủng hạnh không ai bằng, cuối cùng phong làm hoàng hậu mẫu nghi thiên hạ. Sau khi Triệu Phi Yến vào cung, bèn giới thiệu đưa em gái đẹp hơn cả mình là Triệu Hợp Đức vào cung, Thành Đế mê muội thành thói, ngày đêm đắm chìm trong sự dịu dàng của Triệu Hợp Đức, cuối cùng chết do ăn chơi trác táng.
Triệu Phi Yến có sắc đẹp mê hồn, nhưng lại có xuất thân hơi kỳ quặc. Triệu Phi Yến vừa họ Triệu, vừa họ Phùng. Tại sao một người lại có hai họ? Là họ của cha và mẹ? Không, điều này liên quan đến thân thế độc đáo của Triệu Phi Yến. Cũng tương tự với tình hình tạo thành thân thế độc lập của Triệu Phi Yến, chính là kinh nghiệm cuộc đời phong phú của Triệu Phi Yến, từ đó tạo nên thân hình tuyệt đẹp thon thả, có điệu múa mê người và giọng hát làm người ngất ngây.
Sử sách ghi chép rằng, Triệu Phi Yến xuất thân từ một gia đình họan quan, mẹ của Triệu Phi Yến là quận chúa của Giang Đô Nhũng Vương, đẹp tuyệt trần. Quận chúa được gả cho viên quan Triệu Mạn. Quận chúa không hài lòng với sự ân ái của Triệu Mạn, bèn tư thông với Phùng Vạn Kim đang độ tuổi sung mãn, kết quả là lần lượt sinh ra hai đứa con gái, đó chính là chị em Triệu thị, nhưng quận chúa là vợ của Triệu Mạn trên danh nghĩa, nên hai đứa con gái đành phải mang họ Triệu.
Quận chúa là người phụ nữ phong lưu đa tình, bà không muốn mang thai sinh con, nhưng mang thai sinh con là việc không thể tránh, là kết quả của việc ăn chơi trác táng. Bà bất lực trước điều đó, nên đành phải chịu đựng mang thai đủ 10 tháng, sinh con cho xong chuyện. Con gái được sinh ra, quận chúa bực mình vì thời gian vui chơi không đủ, làm gì còn thời gian dưỡng dục con gái? Huống hồ đó là đứa con riêng của mình với gã tình nhân tư thông sinh ra!
Ba ngày sau khi sinh ra Triệu Phi Yến, quận chúa đã ôm nó ra khỏi nhà, ném bên ngoài. Ba ngày ba đêm trôi qua, người làm mẹ còn một chút xíu lương tâm, bèn đi xem sao, không ngờ sinh mạng nhỏ bé đó vẫn còn sống, mà lại chẳng có thương tích gì? Tình mẹ của quận chúa trỗi dậy, bèn giơ tay ra ẵm đứa con gái mới chào đời được mấy ngày lên, trở về nhà, thử nuôi dưỡng xem sao.
Có lẽ số mệnh của Triệu Phi Yến quá rắn, hoặc có lẽ dục vọng của quận chúa làm cho trượng phu Triệu Mạn không chịu đựng nổi, Triệu Mạn đã từ giã cõi đời khi Triệu Phi Yến ra đời không bao lâu. Lúc này, chị em Triệu Phi Yến, Triệu Hợp Đức đều đã ra đời, đều là mang họ của Phùng Vạn Kim. Sau khi Triệu Mạn chết, gánh nặng cuộc sống đều đổ lên vai quận chúa. Quận chúa lại không phải là một người mẹ biết chịu khổ, gánh trách nhiệm gia đình, một lòng chăm lo cho con, mà là một phụ nữ tham thú hưởng lạc, làm sao bà lại chịu gánh trọng trách gia đình như thế được?
Quận chúa ẵm hai đứa con gái, đến nhà của tình nhân Phùng Vạn Kim. Phùng Vạn Kim cũng biết hai đứa con gái đó là cốt nhục của mình, ông lại thích hai cô con gái, lại càng yêu thích mẹ của chúng. Nhưng, sau khi quận chúa để lại hai đứa con, bà bỏ đi một mình, tự đi hưởng lạc, sống cuộc sống an nhàn tự tại, ăn chơi trác táng. Trọng trách nuôi dưỡng hai đứa con gái đặt lên vai cha chúng, Phùng Vạn Kim.
Phùng Vạn Kim cũng không phải là loại đàn ông tính toán tỉ mỉ, thích cuộc sống êm đềm, cuộc sống của mình đã chẳng đâu ra đâu, đột nhiên giờ lại xuất hiện thêm hai đứa con gái còn nhỏ, những ngày tháng khó khăn như thế thật không thể tưởng tượng nổi. Phùng Vạn Kim muốn chăm sóc hết lòng cho con gái, nhưng khả năng không cho phép, ngày càng khó khăn hơn, từ cảnh túng quẫn, đi đến đường cùng. Không bao lâu sau, Phùng Vạn Kim cũng buông tay ra đi, để lại hai đứa con gái chỉ mới mấy tuổi.
Phùng Vạn Kim đi rồi, chị em Triệu Phi Yến, Triệu Hợp Đức ngày nào cũng lưu lạc ở đầu đường xó chợ, quần áo rách rưới. Ngày hôm đó, Triệu Phi Yến đang xin ăn tại kinh sư, gặp một cô gái dáng vẻ phú quý, dẫn theo cả bầy nô bộc. Chị em họ Triệu không dám bước lên xin ăn, nhưng cô gái đó lại bước đến chỗ của chị em họ Triệu. Cô gái này quan sát hai chị em mới mấy tuổi đầu này, phát hiện đôi mắt lông mày của họ rất đẹp, đôi mắt rất mê người, tuy mặt mũi nhem nhuốc, nhưng da dẻ trắng hồng, là đôi ngọc có thể mài giũa lại. Cô gái giàu sang đó bèn mua hai chị em họ, dẫn họ về phủ.
II. Bước vào phủ công chúa
Cô gái giàu sang đó không ai khác, chính là công chúa Dương A, chị của hoàng đế thứ 9 của nhà Hán, Hán Thành Đế Lưu Ngạo. Chị em họ Triệu mở to đôi mắt mê người, đi theo công chúa Dương A bước vào phủ công chúa hoa lệ huy hoàng. Trong phủ có trân châu la liệt, châu ngọc khắp nơi, nô bộc từng đám. Chị em họ Triệu được dẫn đến nhà sau tắm rửa thay áo, sau đó mới đi bái kiến công chúa. Công chúa nhìn kỹ lại họ, quả nhiên là một đôi tiên nữ: mắt đẹp mi đẹp, nhỏ nhắn xinh xắn, đôi mắt có thần có một không hai, chỉ là làn da hơi thô và đen, đó là kết quả của mưa gió phong sương, còn có chút vàng vọt gầy yếu, chắc là chăm sóc lại một thời gian thì sẽ thay da đổi thịt.
Từ đó chị em họ Triệu sống trong phủ công chúa ăn ngon mặc đẹp, học ca hát trong phủ với thân phận của một ca kỹ. Tuy chị em họ Triệu có địa vị thấp kém trong phủ, thân phận lại không khác gì với nô tì, nhưng đó vẫn là phủ đệ hào hoa của công chúa, hoàn cảnh ở đây rất tốt, quần áo mới mẻ sạch sẽ, có rất nhiều bộ y phục được thay đổi trong bốn mùa, nhất là ăn uống hàng ngày, tuy là bộc dịch nô tì, tuy không phải là sơn hào hải vị có mùi vị tuyệt vời, nhưng vẫn là những bữa ăn khá thịnh soạn, hơn nữa một ngày 3 bữa, bữa nào cũng được ăn no uống đủ. Đó thật sự khác một trời một vực với những ngày sống lưu lạc ở đầu đường xó chợ, không có ăn uống, không có quần áo!
Lưu Ngạo là con trai của Hán Nguyên Đế Lưu Thịnh, mẫu thân là Vương Chính Quân, hoàng hậu của Nguyên Đế. Vương Chính Quân là cô mẫu của nhân vật nổi tiếng cuối nhà Hán Lưu Bôn. Vương Chính Quân được chọn vào cung khi Nguyên Đế còn làm thái tử, sinh ra con trai Lưu Ngạo. Nguyên Đế kế vị, Vương Chính Quân được phong làm hoàng hậu, Lưu Ngạo được lập làm thái tử. Nguyên Đế rời khỏi nhân thế khi 44 tuổi, thái tử Lưu Ngạo kế vị hoàng đế, là Hán Thành Đế, khi đó 19 tuổi.
Khi Hán Thành Đế tại vị, vương triều Tây Hán hưng thịnh đã đi vào giai đoạn cuối, bắt đầu xuống dốc. Thân thích bên ngoại họ Vương tiếng tăm hiển hách do Vương Chính Quân được làm hoàng hậu, dần dần khống chế được triều đình và thâm cung. Trong họ Vương, có 9 người được phong hầu, còn các cữu cữu (người cậu) của hoàng đế Vương Phụng, Vương Thương, Vương Âm, Vương Căn... và con trai của Vương Ngạo lần lượt được phong hầu và nắm trọng quyền như đại tư mã, đại tướng quân. Đại quyền quân chính của triều đình đều tập trung trong tay của nhà họ Vương, hơn nữa những viên quan trọng yếu bên ngoài kinh sư và chốn biên cương dường như đều xuất thân từ nhà họ Vương. Trước cục diện đó, hoàng đế 19 tuổi Lưu Ngạo làm được gì? Huống hồ Lưu Ngạo vốn không phải là một minh chủ thánh minh thiên hạ.
Lưu Ngạo được sinh ra khi Nguyên Đế Lưu Thịnh còn là thái tử, khi đó Hán Tuyên Đế Lưu Tốn vẫn còn tại vị. Khi Lưu Ngạo ra đời, tiếng khóc nho nhỏ, rất dễ thương, Tuyên Đế hết sức vui mừng, rất yêu thích đứa cháu này, bèn ban cho “tự” là Vương Tôn. Khi Lưu Ngạo vừa lên 3, vị hoàng đế Lưu Tốn hết sức yêu mến Lưu Ngạo qua đời, thái tử Lưu Thịnh kế vị. Lưu Ngạo lớn lên trong cung, rất thích đọc sách, yêu thích văn nghệ, trời sinh tính lãng mạn.
Trời sinh Lưu Ngạo tính nết hiền hậu khoan dung, làm người cẩn thận tỉ mỉ, hành vi cử chỉ đều tuân thủ lễ nghi, tiếng hiền vang khắp trong cung, cả người ngoài cũng biết. Có một lần, Nguyên Đế triệu Lưu Ngạo, có việc khẩn cấp và quan trọng. Nguyên Đế đợi rất lâu, vẫn không thấy bóng dáng của Lưu Ngạo. Đến khi Lưu Ngạo tới nơi, Nguyên Đế đã tái mặt, hỏi có chuyện gì. Lưu Ngạo hết sức hoảng sợ, cẩn thận trả lời, Nguyên Đế chuyển nộ thành vui. Thì ra, Lưu Ngạo làm theo quy chế trong cung, không dám đi trên con đường chỉ dành cho hoàng thượng dùng, thế là phải đi đường vòng, nên mất rất nhiều thời gian.
Nguyên Đế cho rằng Lưu Ngạo luôn ung dung, giữ lễ pháp dù có việc gấp, sau này chắc chắn là một minh chủ, nên hết sức coi trọng, phong làm thái tử. Sau khi Lưu Ngạo trở thành thái tử, bề ngoài vẫn cung
cẩn giữ pháp, nhưng ngoài thú vui đọc sách ra, tính háo sắc háo rượu, đa tình trác táng dần dần lộ rõ. Thật ra, cha của Lưu Ngạo, Nguyên Đế Lưu Thịnh cũng là một người đàn ông đa tình lãng mạn, ông cũng đa tài đa nghệ, yêu thích âm nhạc, giỏi đánh đàn, trống, thổi tiêu, nhất là thổi sáo, làm người nghe ngây ngất. Nguyên Đế ít nhiều cũng biết đến sự đa tình phóng khoáng của thái tử, nhưng cho rằng không liên quan đến chuyện lớn, nên dung thứ cho.
Lưu Ngạo lớn dần lên trong tiếng ca múa, tửu sắc của cuộc sống phú quý, quanh mình luôn là mỹ nữ xinh đẹp. Một Lưu Ngạo lớn lên trong tửu sắc, đương nhiên không thể rời xa mỹ tửu, mỹ nữ. Sau khi Nguyên Đế qua đời, Lưu Ngạo kế vị, nhà họ Vương nắm quyền hành trong tay về mặt chính trị, Lưu Ngạo chìm đắm trong tửu sắc, thế là hai chị em Triệu thị bèn trở thành trụ cột trong cuộc sống của Thành Đế Lưu Ngạo.
III. Cá tính của Hứa hoàng hậu
Sau khi Lưu Ngạo kế hoàng vị, năm sau lập con gái của tướng quân Hứa Gia làm hoàng hậu. Tiếp đó, Thành Đế Lưu Ngạo háo tửu háo sắc bèn cử người đi khắp thiên hạ, tìm kiếm mỹ nữ, bị quần chúng lên án khắp nơi. Vương thái hậu nắm quyền chính trong tay, những quyền cụ thể khác do anh của Vương thái hậu, đại tư mã, đại tướng quân Vương Phụng nắm giữ. Vương Phụng và tâm phúc của Vương Phụng đều biết Thành Đế háo sắc, bèn nghĩ ra trăm phương ngàn kế để lấy lòng ông, để Thành Đế chìm đắm trong đó.
Vương Phụng có một tâm phúc tên Đỗ Khâm, là vũ kho lệnh cai quản binh khí, Đỗ Khâm tiến tấu với Vương Phụng, hy vọng kiến lập chế độ hậu cung theo lễ xưa, chính là chọn nhiều mỹ nữ, bổ sung cho hậu cung, danh chính ngôn thuận sắc lập nhiều hậu phi. Vào đầu nhà Hán, ngoài hoàng hậu ra, chỉ có cơ và phu nhân. Vào thời Vũ Đế, định ra nhiều danh hiệu, trong hậu cung có tiệp dư, kinh nga, dung hoa, sung y, mỹ nhân. Kiến nghị của Đỗ Khâm thì không chỉ có thế, mà muốn lập càng nhiều danh hiệu hơn, nhưng nhất thiết phải nghiêm ngặt.
Đỗ Khâm viết trong tấu sớ rằng, hoàng đế xuất thân từ hậu đích, chiêu nạp nhiều mỹ nữ bổ sung vào hậu cung, đó là điều nên làm, đó là quy chế xưa từ đời Hạ Thương đến nay; nhưng, phải cẩn thận khi chọn các cô gái vào hậu cung, nên chọn người hiền đức, chứ đừng nên để các phụ nữ có thanh sắc vô độ vào hậu cung, nếu không, tranh phong ghen tuông, tranh quyền tranh sủng, hậu cung sẽ không có ngày yên, càng nguy đến hoàng đế.
Tất cả những quy định và ràng buộc đều mất đi tác dụng trước Thành Đế tối cao, Thành Đế ngày đêm chìm đắm trong thanh sắc, ăn chơi trác táng. Hứa hoàng hậu dung mạo đoan trang, tri thư đạt lễ, Thành Đế hết sức yêu thích, sủng ái hết mình. Ban phi dung dị đoan chính, thông thuộc kinh sử, cao nhã siêu tục, khí chất hơn người, Thành Đế cũng hết sức yêu mến người này. Phần lớn thời gian của Thành Đế dùng để làm bạn và chung vui với Hứa hoàng hậu và Ban tiệp dư (Ban phi). Nhưng điều đáng tiếc là, Hứa hoàng hậu, Ban phi được hưởng tận sủng ái nhưng lại không mang thai, không sinh con.
Năm Thành Đế thứ 5, quan viên phụ trách thiên tượng tấu báo xuất hiện nhật thực, nói đó là lời cảnh báo của thiên tượng. Thành Đế có chút sợ hãi, theo lệ hạ chiếu thư, lệnh cho công khanh bá quan dâng tấu, trình rõ thiệt hơn của việc đó đối với chính sự. Quang Lộc đại phu Lưu Hướng lúc này đại diện cho quyền thần Vương Phụng, đứng ra dâng sớ. Hứa thị là người được chọn làm thái tử phi khi Thành Đế còn là thái tử, sau khi Thành Đế lên ngôi mới phong làm hoàng hậu. Hứa thị lên làm hoàng hậu, Thành Đế thi ân hậu tộc: Nhạc phụ Hứa Gia nhậm chức đại tư mã đại tướng quân, lại phong làm Bình Ân hầu. Cùng lúc với việc hậu tộc được huy hoàng, đương nhiên Thành Đế không coi thường gia tộc họ Vương của thái hậu: thăng Vương Phụng làm đại tư mã đại tướng quân lĩnh việc thượng thư. Từ đó, gia tộc họ Vương của thái hậu và gia tộc họ Hứa của hoàng hậu phân chia triều đình, tranh quyền đoạt lợi. Đương nhiên, một Hứa hoàng hậu có gốc không vững mấy không thể là đối thủ của gia tộc họ Vương của thái hậu.
Học giả Lưu Hướng và Cốc Vĩnh tiến tấu, viết đâu ra đó. Lưu Hướng nói, tai ương liên tiếp không ngừng, họa họan liên miên không dứt, hiện tượng trên trời cho thấy, mọi việc xuất phát từ hậu cung, hậu cung nên tăng cường chỉnh đốn, để lấp tai ương. Chủ nhân của hậu cung là ai? Theo quy chế trong cung, là hoàng hậu, hoàng hậu là chủ của lục cung, nhưng người thao túng thật sự lại là thái hậu. Câu nói xuất phát từ trong hậu cung của Lưu Hướng đương nhiên nhằm vào Hứa hoàng hậu, là chỉ trách Hứa hoàng hậu thất trách, không lo liệu hậu cung cho tốt.
Thành Đế Lưu Ngạo không biết được sự tranh đấu quyền lực của hai tộc Vương, Hứa, xem xong tấu chương của học giả, cảm thấy nói rất có lý, bèn hạ chỉ theo lệ quở trách. Hứa hoàng hậu xuất thân từ danh
môn, thông hiểu thiên văn, địa lý, kinh sử. Hứa hoàng hậu không phải là loại người bình thường mà có văn tài xuất chúng, nghe xong tấu báo và xem xong thánh chỉ quở trách của hoàng đế, cảm thấy tất cả những gì do thiên tượng gây nên thật tức cười, hoàn toàn vô lý. Hứa hoàng hậu tài hoa giỏi giang cho rằng nhất thiết phải tự biện hộ cho mình, tay cũng có chút ngứa ngáy, bèn viết một bài “Thượng sớ ngôn thúc phòng dụng độ”. Nhưng bà không biết nguy hiểm đang đến gần.
Thượng sớ của Hứa hoàng hậu thể hiện văn tài xuất chúng, bài văn có tình có lý, thật đúng là tác phẩm tuyệt vời. Thượng sớ được đưa đến ngự án, Thành Đế xem xong, bèn ngẩn người ra, không biết nên trả lời như thế nào, chỉ cảm thấy tất cả những gì mà hoàng hậu viết đều có lý, lời quở trách dường như không thỏa đáng lắm. Thành Đế đọc sách không nhiều bằng hoàng hậu, kiến thức, tài năng trời phú không bằng hoàng hậu, và đương nhiên Thành Đế không phải là đối thủ của hoàng hậu về mặt văn chương, chấp bút.
Thành Đế không phải là đối thủ, đại thần học phú ngũ xa cũng không phải loại người thường, nhất là học giả Lưu Hướng. Thành Đế bèn giao tấu sớ của hoàng hậu cho Lưu Hướng, Cốc Vĩnh, để xem họ trả lời như thế nào. Lưu Hướng cũng xuất thân từ danh môn, là con cháu của tôn thất, quán thông kinh sử. Con trai của Lưu Hướng là Lưu Hâm là một tài tử, tài cao tám đẩu, là quốc sư của Vương thị. Chức vụ của Cốc Vĩnh trong triều đình là ngự sử đại phu phụ trách đốc sát. Cốc Vĩnh giỏi về học thuyết âm dương, thông hiểu kinh sử chư tử, là tâm phúc của đại tư mã đại tướng quân Vương Phụng.
Lưu Hướng, Cốc Vĩnh xem xong tấu sớ của Hứa hoàng hậu, bèn viết một bài đáp văn, phản bác lại Hứa hoàng hậu. Đáp văn nói, gần đây tai ương liên miên, hồ cạn, giếng khô, nhật thực, chuột leo lên cây, tất cả những thứ đó đều do âm xâm dương, nên nói tai ương xuất phát từ hậu cung đương nhiên người chủ hậu cung phải chịu trách nhiệm. Hứa hoàng hậu cảm thấy cuộc tranh luận này thật sự quá đáng cười, nên không để ý đến nữa.
Nhưng, cuộc tranh luận vô vị này lại dẫn đến một kết quả không tốt: Hứa hoàng hậu bị Thành Đế lạnh nhạt. Ban đầu Hứa hoàng hậu không để ý, đến khi ý thức được sự nghiêm trọng của sự việc thì đã quá muộn, bởi vì chị em họ Triệu vào cung, điều mà Hứa hoàng hậu phải đối mặt là nguy cơ bị truất phế. Hứa hoàng hậu bị phế ngôi do chị em họ Triệu gây nên, hai chị em xinh đẹp tuyệt trần này đã cướp đi sự sủng ái của Thành Đế đối với Hứa hoàng hậu, và cũng đoạt đi sự tự tôn và giữ ý giữ tứ mà mình hay tự hào.
Để lấy lại sự sủng ái, Hứa hoàng hậu bèn kết hợp với chị mình là Hứa Ma niệm chú Vương mỹ nhân đang có mang trong hậu cung. Triệu Phi Yến biết được, lập tức tấu lên nói hoàng hậu làm thuật vu cổ trong cung, niệm chú Vương mỹ nhân và đại tư mã Vương Phụng. Thành Đế lập tức cử người điều tra sự thật, truất phế Hứa hoàng hậu. Hứa hoàng hậu bị phế, lại hại đến một tài nữ khác là Ban phi mà Thành Đế sủng ái. Thành Đế đã thật sự là một người bạc tình hay thay đổi tình cảm, có chị em họ Triệu rồi, thì quên đi tình nghĩa ấm cúng ngày xưa, đích thân tra hỏi tài nữ Ban phi lúc trước ân ái với mình, lại được thái hậu khen ngợi này.
IV. Tài nữ Ban tiệp dư (Ban phi)
Ban thị được chọn vào cung sau khi Thành Đế lên ngôi không bao lâu, lúc đó còn ít danh hiệu, đứng thứ 10 trong hậu phi. Vào cung không bao lâu, tài hoa xuất chúng của Ban thị dần dần hiện rõ, Thành Đế phải nhìn nàng với con mắt khác. Mỹ nhân được hoàng thượng nhìn với con mắt khác đương nhiên nhận được sự sủng hạnh, Ban thị thăng làm tiệp dư chỉ đứng sau chiêu nghĩa trong hậu cung. Địa vị đã cao, điều tương ứng với danh hiệu đương nhiên là sự đối đãi. Ban tiệp dư dời vào cung Tăng Thành trong khu thứ 3 của cung Vị Ương. Thành Đế thường lâm hạnh, ân ái thường xuyên, không bao lâu sau thì Ban thị mang thai, đủ tháng thì sinh ra một đứa con trai. Nhưng, đứa con đó đã rời khỏi nhân thế chỉ sau vài tháng chào đời. Con trai không giữ được, tương lai của Ban thị đương nhiên lành ít dữ nhiều.
Thành Đế Lưu Ngạo là một hoàng đế ăn chơi hưởng lạc thành tính. Thành Đế thích đến hậu uyển nhàn du, khi nhàn du lại thích gọi mỹ nhân trong cung đi theo. Thành Đế yêu mến Ban thị có tài hoa xuất chúng đến nỗi dường như gì cũng biết, thường triệu Ban thị cùng đi du ngoạn. Có một lần, Thành Đế nghĩ ra một cách, muốn ngồi chung xe tuần du với Ban thị. Ban tiệp dư lại từ chối thẳng thừng.
Ban tiệp dư nổi tiếng cung cấm nhờ vào bác học thông tài của mình, đương nhiên hết sức thông thuộc kinh sử. Ban tiệp dư nói với Thành Đế: Thiếp xem qua đồ họa của các danh quân nhiều đời, các thánh hiền quân chủ thời xưa, tuỳ tùng bên cạnh đều có danh thần đợi giá, chỉ có ba vị quân chủ ngu muội, để tỳ nữ hầu hạ bên cạnh; hiện tại, hoàng thượng muốn ngồi cùng xe với thiếp, đó chẳng phải là gần giống với ba vị quân vương vong quốc đó sao? Thành Đế cảm thấy rất có lý, bèn thu hồi thành lệnh, từ bỏ ý nghĩ ban đầu.
Chuyện Ban tiệp dư cự tuyệt ngồi chung xe du ngoạn với hoàng thượng được truyền vào cung rất nhanh. Vương thái hậu nghe xong lời tấu báo chi tiết, than rằng: Cổ đại có vị hiền phu nhân gọi Phàm Cơ, nay có người con gái tốt chính là Ban tiệp dư. Phàm Cơ là phu nhân của Sở Trang Vương thời Xuân Thu, nhân trí hiền tuyệt, tri thư đạt lý. Phàm Cơ từng can gián Trang Vương, không muốn hở một tí là xuất cung săn bắn, và khích lệ Sở tướng Lô Khưu Tử tiến cử hiền nhân Tôn Thúc Ngao, Trang Vương phong Tôn Thúc Ngao làm lệnh doãn, nắm quyền triều chính. Nước Sở nhanh chóng có nhân tài đến đông như kiến, xưng bá thiên hạ trong 3 năm.
Thái hậu so sánh giữa Phàm Cơ và Ban tiệp dư, cho thấy thái hậu rất nể trọng Ban tiệp dư. Thành Đế đương nhiên quý trọng, sủng ái Ban tiệp dư. Tuy nhiên, do chị em họ Triệu vào cung nên những cô gái tài đức vẹn toàn, văn nhã đạm bạc như Ban thị và hoàng hậu Hứa thị làm sao có thể giữ lại Thành Đế, khiến nhà vua khỏi bị mê hoặc bởi mỹ nữ phong lưu hơn người, sắc nghệ đều giỏi như hai chị em họ Triệu?
Mối họa vu cổ của Hứa hoàng hậu chẳng qua chỉ là một mắt xích, vận mệnh của Hứa hoàng hậu và Ban tiệp dư đã được ấn định sau khi chị em họ Triệu vào cung. Thành Đế mê muội cả người, quên đi những ân ái của ngày xưa, đích thân thẩm vấn Ban tiệp dư: Tại sao lại cùng tham gia vu cổ với hoàng hậu? Ban tiệp dư hết sức bình tĩnh, từ tốn trả lời rằng: Giữa trời và đất, sinh tử có số, phú quý tại trời; tiềm tu hành thiện lại không che giấu ân trạch và phúc lộc, hà cớ gì phải làm tà thuật vu cổ? Nếu quỷ thần biết được, nhất định sẽ nghe được lời của thiếp; nếu quỷ thần không biết, dù kêu oan thì có được gì? Chẳng muốn nói gì cả, tất thảy đều vâng theo mệnh trời vậy!
Thành Đế khuất phục trước sự ung dung bình tĩnh của Ban tiệp dư, bèn hạ đạo thánh chỉ, miễn truy cứu Ban tiệp dư. Nhưng từ đó về sau, Ban tiệp dư lạnh lùng với cuộc sống trong cung, mất đi hy vọng và nhiệt tình. Ban tiệp dư tấu thỉnh hoàng đế, xin lui về ở cung Trường Tín, cuối cùng hầu hạ Vương thái hậu. Ban tiệp dư đang tuổi sung mãn, không muốn hầu hạ hoàng đế mà lại đòi hầu hạ thái hậu, đó vốn đã là điều vạn bất đắc dĩ, chứ thật ra trong lòng chẳng muốn. Nỗi cô tịch một mình thật khó mà chịu đựng, tài nữ Ban tiệp
dư bèn viết bài “Tự thương điếu phú” khiến người đọc rơi nước mắt về những tháng ngày khó khăn đó.
V. Sủng quán hậu cung
Đối lập rõ ràng với Hứa hoàng hậu, Ban tiệp dư chính là chị em họ Triệu được Thành Đế hết mực sủng ái. Việc vào cung của chị em họ Triệu mang càng nhiều màu sắc kịch tính hơn. Thành Đế lên làm hoàng đế năm 19 tuổi, vào năm ông 32 tuổi, tức là Hùng Gia nguyên niên, năm 20 trước Công Nguyên, ông đã làm hoàng đế 13 năm. Hậu cung có bổ sung người đẹp đến đâu thì cũng trở nên quá thường đối với một Thành Đế đã tận hưởng hết mười mấy năm, ông thấy ngán ngẩm, vô vị, bèn dự định vi phục xuất cung, đi tìm chút kích thích mới mẻ.
Thành Đế bản tính lang du, chỉ biết say mê trong tửu sắc. Thành Đế đổi tên thành Trương công tử, cùng vi phục xuất cung với con cháu quý tộc như Phú Bình hầu Trương Phóng, Định Lăng hầu Hưởng Vu Trường, ra ngoài ngoại thành đến các thôn làng xem đá gà đua ngựa, cướp đoạt các cô gái có sắc đẹp. Trương Phóng là huyền tôn của đại kỳ tướng quân Trương An Thế, là con trai của chị Nguyên Đế là Kính Võ công chúa và phò mã Trương Lâm, về mặt vai vế, là anh em bà con với Thành Đế Lưu Ngạo, còn phu nhân của anh ta là em gái ruột của Hứa hoàng hậu. Hưởng Vu Trường là con trai của chị hoàng thái hậu Vương Chính Quân, rất được thái hậu yêu chiều. Một nhóm hoàng thân quốc thích, vương tôn qúy tộc cùng hoàng đế ra ngoài du lạc, chẳng lẽ lại không làm những gì mình muốn, làm đảo lộn thiên hạ hay sao? Họ còn kiêng sợ điều gì nữa chứ?
Một hôm, nhóm người của Thành Đế đến nhà của Dương A công chúa, công chúa hết sức vui mừng nhanh chóng bày biện yến tiệc. Rượu say tai nóng, để trợ vui cho em trai, công chúa cho người ra ca múa. Đằng sau tấm rèm tơ mềm mại bước ra một cô gái, da như ngọc, mềm yếu như không xương, eo thon lá liễu, chầm chậm bước ra, uyển chuyển như liễu lay trước gió. Thành Đế há hốc mồm, ngẩn người giây lát. Cô gái ấy có giọng hát hay như họa mi, múa đẹp như yến bay, Thành Đế nhất thời mất đi hồn vía, không biết mình là ai? Mình đang ở đâu?
Thành Đế cũng ngồi không yên được nữa, bèn ôm chặt lấy mỹ nhân này, đi vào phòng ngủ, nới rộng lưng áo, rồi lập tức chiếm hữu cô ấy. Tiếp đó, đưa nàng vào cung, sủng hạnh ngày đêm, trác táng hưởng lạc. Mỹ nữ này chính là Triệu thị thân mỏng manh như chim én tức Triệu Phi Yến. Triệu Phi Yến biết rằng, mình mê hoặc được hoàng thượng không phải nhờ vào nhan sắc mà là điệu múa và giọng hát, là nghệ không phải là sắc, nếu nói rằng tuyệt sắc mới có thể mê hoặc hoàng thượng dài lâu, vậy thì phải nhờ vào em gái Triệu Đức Hợp của mình. Thế là, Triệu Phi Yến không chỉ muốn được hưởng lạc một mình mà muốn nhân lúc Thành Đế đang đắc sủng mình mà giới thiệu em gái Triệu Đức Hợp với Thành Đế ngay trong những giây phút ân ái mặn nồng, để em gái cùng hưởng lạc với mình, cùng chiếm hữu hoàng thượng, đối phó với những mỹ nữ khác. Trên thực tế, hành động này của Triệu Phi Yến hết sức thành công.
Tuyệt sắc giai nhân Triệu Đức Hợp được tiến cung. Triệu Đức Hợp không chỉ có sắc đẹp trời cho, mà còn có một nét phong tình đặc biệt, có thể đoạt hồn phách con người trong im lặng, làm cho đàn ông đa tình phải hồn siêu phách lạc, tinh thần điên đảo. Một Thành Đế Lưu Ngạo háo sắc thành thói đương nhiên nhìn đến thì ngây dại cả người trước giai nhân tuyệt sắc này. Thành Đế vốn chìm đắm trong nồng tình của Triệu Phi Yến, bị mê hoặc bởi mỹ sắc và tài nghệ của Triệu Phi Yến, dường như không thể thoát ra được, không ngờ, Triệu Đức Hợp lại càng đẹp hơn, càng phong tình hơn cả chị Triệu Phi Yến của mình.
Thành Đế Lưu Ngạo ngẩn người ra, nhìn đắm đuối người đẹp trước mặt. Tuỳ tùng thân cận của Thành Đế cũng nhìn dại cả người, không dám tin rằng đó là con gái của trần gian, nhân gian lại có một cô gái siêu phàm thoát tục đến thế? Tiến sĩ Náo Phương Thành chỉ nhìn thấy mỹ nhân được miêu tả trên sách vở, không ngờ lại gặp được người như thế trong đời thật. Tiến sĩ học vấn uyên thâm cũng không cưỡng nổi sự
mê hoặc của mỹ nhân, nước dãi trong miệng trào cả lên, chảy ra ngoài. Tiến sĩ Náo Phương Thành nuốt lại nước miếng, nói một cách khó khăn rằng: Đó là nước nồi đấy, dùng để dập lửa thì không sao! Tiến sĩ cũng đã oán than như thế, huống hồ gì một Thành Đế yêu sắc như yêu mạng.
Thành Đế chiếm hữu được chị em họ Triệu, ngày nào cũng ở bên hai người, ăn chơi trác táng. Những phụ nữ khác trong hậu cung đành chấp nhận số mệnh, chỉ biết thở dài mà thôi. Thời gian lâu dần, Thành Đế thỉnh thỏang cũng lâm hạnh những phụ nữ khác. Năm Hồng Gia thứ 3, Vương mỹ nhân mang thai. Chị ruột Hứa Ma của Hứa hoàng hậu đã nhân cơ hội này làm tà thuật bùa chú Vương mỹ nhân, muốn để Thành Đế hồi tâm chuyển ý. Triệu Phi Yến biết rất rõ chuyện này, bèn mật báo với Vương thái hậu. Kết quả, qua tra khảo sự thật, Vương thái hậu liền xử lý Hứa hoàng hậu, đồng thời vu họa cho gia tộc hoàng hậu; những người như Hứa Ma đều bị xử chết do đại nghịch bất đạo; Hứa hoàng hậu bị phế và phải vào ở trong Chiêu Đài cung; người nhà trong gia tộc của hoàng hậu nhất loạt bị đuổi về quê Sơn Dương quận. Một năm sau, Hứa hoàng hậu mới dời đến Trường Định cung, bị giam lỏng trong 9 năm, do vụ án của Hưởng Vu Trường nên bị buộc phải chết tại cung Trường Định.
"""