"
Chuyện Tình Tự Kể - Lyudmila Uvarova full prc pdf epub azw3 [Lãng Mạn]
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Chuyện Tình Tự Kể - Lyudmila Uvarova full prc pdf epub azw3 [Lãng Mạn]
Ebooks
Nhóm Zalo
CHUYỆN TÌNH TỰ KỂ
Nguyên tác: Истории от первого лица (1984) —★—
Tác giả: Lyudmila Uvarova
Dịch giả: Nguyễn Văn Trọng
NXB Long An – 1986
—★—
Chuyển text: Bánh Ngọt
Tạo ebook: Caruri
tve-4u.org
16-03-2019
Lời giới thiệu
Lyudmila Zakharovna Uvarova* xuất hiện trên văn đàn Xô-viết vào giữa những năm 60 bằng những truyện ngắn mang sắc thái riêng – trữ tình, tinh tế và sâu sắc, đã thu hút ngay cảm tình của đông đảo bạn đọc, nhất là giới trẻ. Từ đó tới nay, L. Uvarova đã cho ra đời hơn mười cuốn sách. Đáng chú ý hơn cả là các tập truyện ngắn và truyện vừa: Vừa giữa trưa đã hoàng hôn, Mới đây hoặc trước kia, Sẽ có âm nhạc, Chuyện tình tự kể…
Qua những cảnh đời thường, những chuyện xảy ra hàng ngày, ngòi bút của L. Uvarova đã tái tạo được những tính cách đặc sắc, những con người có đời sống nội tâm phong phú và luôn khao khát tự vượt lên chính mình để vươn tới một thái độ sống trung thực, nhân hậu… Nữ văn sĩ không hề “khua chuông gõ mõ” về các phẩm chất nhân vật của mình. Văn của chị không trực tiếp miêu tả thế giới bên trong con người nhưng tất cả cái vẻ bề ngoài của mọi sự vật được khắc họa một cách hết sức tinh tế ấy lại toát ra những bài học đạo đức rất sâu sắc.
Bạn đọc Việt Nam đã được biết tới tài năng của L. Uvarova lần đầu tiên qua truyện ngắn Chú gà trống trên ban công (trong tập truyện Tiếng nhạc trên sân ga – Nhà xuất bản Văn học 1973), sau đó là các truyện ngắn: Chòm sao Song tử xanh, Hồi ức triệu năm qua…, Bé Olya của tôi và truyện vừa Vừa giữa trưa đã hoàng hôn
(trong tập truyện Nửa đời nhìn lại – Nhà xuất bản Tác phẩm mới 1982).
CHUYỆN TÌNH TỰ KỂ in trong tập truyện cùng tên (Nhà xuất bản Nước Nga Xô-viết 1984) đã được đông đảo bạn đọc Xô-viết đón nhận nồng nhiệt và góp phần đưa tác giả của nó lên hàng những cây bút văn xuôi được mến mộ nhất hiện nay ở đất nước Xô-viết.
NHÀ XUẤT BẢN LONG AN
Đây là lời giới thiệu của nhà xuất bản ở thời điểm tác phẩm được in (1986). Lyudmila Uvarova là nhà văn và nhà viết kịch Liên Xô, sinh 21 tháng 11 năm 1918 và mất 24 tháng 8 năm 1990 đều tại Moskva.
Irina
Tôi không hề có ảo tưởng. Tôi biết tại sao anh ấy muốn lấy tôi làm vợ. Anh đã yêu một người phụ nữ khác, nhưng đột nhiên cô ta đã bỏ anh, rồi vì buồn, vì uất ức, vì nỗi giận hờn đắng cay của mình, và cũng có thể do muốn vươn tới một sự tự khẳng định nào đó, anh bỗng ngỏ lời hỏi tôi làm vợ.
Chúng tôi quen biết nhau đã nhiều năm, đã sống hàng xóm láng giềng với nhau trên cùng một đường phố. Anh lớn hơn tôi ba tuổi rưỡi, thuở nào khi tôi học lớp bốn chẳng hạn thì anh học lớp bảy, cái đó đã tạo nên một khoảng cách lớn giữa chúng tôi.
Nhưng về sau, khi tôi tròn hai mươi ba tuổi, còn anh – hai mươi sáu, thì chúng tôi đã bằng vai với nhau. Hơn nữa, người ta vẫn bảo rằng phụ nữ bao giờ cũng trưởng thành sớm hơn về mặt sinh học.
Thực ra tôi không hề thấy mình trưởng thành hơn anh. Ngược lại, tôi luôn cảm thấy anh trưởng thành hơn, thông minh hơn và lớn lao hơn tôi.
Có lẽ trên thực tế cũng là như vậy.
Chúng tôi tốt nghiệp đại học vào thời gian khác nhau – anh ở đại học xây dựng, còn tôi – đại học kinh tế kế hoạch. Tôi mới
qua tuổi hai mươi ba, làm việc ở một cơ quan thiết kế với mức lương tương đối khá, còn anh là kỹ sư trưởng của một công ty xây dựng.
Một buổi sáng nọ, vào thứ bảy, anh bỗng đến nhà tôi. Chúng tôi đã lâu không gặp nhau, thế mà bây giờ bỗng nhiên anh lại đến. Ông chú Oleg Georgievich của tôi hỏi: - Tôi phải nói với cháu nó thế nào, ai đến thăm nó? Anh đã trả lời:
- Xin ông nói giùm là có Pikaskin đến.
Ông chú có thói quen không hề ngạc nhiên trước chuyện gì bao giờ, hỏi lại một cách lịch sự:
- Xin lỗi, thế nào? Pikaskin ư? Tôi nghe có đúng không? - Hoàn toàn đúng – anh đáp – Chính thế. Pikaskin. - Xin anh chờ một chút ở đây, tại phòng ngoài này. – Ông chú nói.
Ông chú, mà tôi đã sống kề bên suốt cả tuổi thơ và thời niên thiếu, nổi bật ở phong cách lịch sự thuần túy kiểu cổ. Ông kéo ghế mời khách ngồi, bật đèn lên rồi gõ cửa buồng tôi. Tôi đã thức, vẫn nằm trên giường đọc cuốn tạp chí “Moskva” số ra từ năm ngoái.
- Xin lỗi cháu nhé, ở ngoài kia có người hỏi cháu, một người có cái họ tức cười kinh khủng.
- Họ thế nào kia ạ? – Tôi vội hỏi.
- Pikaskin, – ông chú đáp. – Nào, cháu xem có tức cười không cơ chứ?
- Đó là Marik đấy mà, – tôi nói. – Marik Simakov, ông nhớ chứ, cái cậu mà cổ áo sơ mi lúc nào cũng dính mực ấy? Có lần ông còn nhận xét là chắc cậu ta đi uống mực ở đâu đó…
- Marik Simakov ư? – ông chú nhắc lại. – Cố nhiên rồi, ông nhớ rõ anh ta mà. Có lần anh ta đã tuyên bố hoàn toàn nghiêm chỉnh rằng lần mới đây nhất mà anh ta phải mỉm cười là vào cuối thế kỷ trước. Chẳng hiểu tại sao ông lại không nhận ra cậu ta ngay thế nhỉ?
Chính ông chú cũng mỉm cười khi nhớ lại câu nói đùa của Marik vẫn lưu truyền trong bọn chúng tôi dạo đó, nhưng tôi thì không sao cười nổi vì thương ông quá: mắt của ông ngày mỗi kém đi, tất cả các bác sĩ đều bảo thiên đầu thống là một thứ bệnh quái ác và không ưa đứng yên ở một mức…
Tôi vội mặc quần áo trong nháy mắt, gọi với vào cuối hành lang:
- Marik, đợi một chút nhé!
Tôi nhanh chóng tắm qua bằng nước lạnh, đã hơn một tháng nay nhà tôi bị cắt nước nóng do sửa đường ống. Rồi tôi chải đầu cũng nhanh như vậy. Qua tấm gương, tôi thấy gương mặt mình hơi bị húp lên sau giấc ngủ, hàng lông mi dài, vầng trán cao – thậm chí tôi nghĩ là quá rộng và cao đối với người phụ nữ.
Mái tóc vàng của tôi nhuộm một ít màu tím nhạt vì vậy mà có màu thẫm ánh bạc đầy bí ẩn. Mái tóc lập tức ngả ngay ra hai phía, đúng như tôi muốn, phía sau dài hơn phía trước. Tôi tự nghĩ: “Có lẽ mình trông cũng không đến nỗi nào…”
Sau đó tôi bước ra hành lang và gọi Marik vào trong bếp, nơi duy nhất trong nhà tôi mà mỗi buổi sáng trông còn ngăn nắp đôi chút.
Marik người cao và rất gầy, trông hơi giống nghệ sĩ Nikolai Cherkasov đóng vai Paganel trong phim “Những đứa con của thuyền trưởng Grant”.
Ở trường người ta đặt cho Marik biệt hiệu Pikaskin trước hết vì anh hết mê họa sĩ Picasso, thu thập bản sao các bức vẽ của ông, rồi sau nữa còn vì bạ chỗ nào anh cũng vẽ con chim bồ câu – trên các quyển vở, trên bảng ở trường, trên tường, trên cửa và trên hè phố.
Anh luyện tới mức vẽ xong con chim trong chớp mắt, con chim mập mạp, cổ tròn và hai cánh xòe rộng.
Mẹ anh – bà Alla Ivanovna – thường nói về anh:
- Marik là một chú bé rất nhạy cảm và tài năng khác thường. Sự nhạy cảm và tài năng của nó làm tôi nhớ tới Levitan, không phải cái ông nói trên đài đâu, mà là nhà danh họa bạn của Chekhov, và phần nào cũng làm tôi nhớ đến Chopin…
Alla Ivanovna từ thời còn trẻ đã làm việc ở nhiều thư viện. Trải qua thời gian dài ở đó, bà đã đọc đi đọc lại hầu như tất cả mọi cuốn sách đã nằm yên qua bao năm tháng trên các giá sách của thư viện. Bà đã tích lũy đủ loại kiến thức về những lĩnh vực hoàn toàn khác nhau của khoa học kĩ thuật và nghệ thuật. Bà lại rất ưa phô trương kiến thức của mình và nhiều khi trích dẫn chúng ra rất không phải chỗ.
Nhưng chuyện đó chẳng hề làm bà ngượng nghịu chút nào. Bà đặt tên cho con trai là Mark* để kỷ niệm nhân vật trong
cuốn tiểu thuyết “Bờ dốc” của Goncharov.
Mark là tên gọi đầy đủ, Marik là tên gọi thân mật. Cha của Marik không còn. Ông ấy chết cách đây mấy năm. - Anh có chuyện nhờ em đây. – Marik nói.
- Nói ra xem nào, anh Pikaskin, – tôi nói.
Anh lấy từ trong túi áo ra một cái gì đó được bọc cẩn thận bằng giấy trắng mỏng, anh mở giấy ra và tôi nhìn thấy tấm hình.
- Đây chính là cô ta. – Pikaskin nói.
- Cô ta là ai vậy? – Tôi hỏi.
- Là người mà anh yêu.
- Thì anh cứ việc mà yêu cho khỏe, chỉ có điều là anh hãy giải thích cho biết, em thì dính dáng gì ở đây?
- Em phải giúp anh.
Hồi chúng tôi học đại học, tôi học năm thứ nhất, còn anh học năm áp chót, tôi với anh rất hay gặp nhau trên phương diện hàng xóm, trao đổi sách truyện cho nhau, cả hai chúng tôi đều mê truyện tình báo. Hồi đó mắt ông chú còn rất tốt, Marik mượn về cho ông những truyện trinh thám Anh, Pháp. Ông chú rất giỏi ngoại ngữ, đã dịch miệng trực tiếp ngay ra tiếng Nga, còn tôi thì đánh máy ghi lại trên chiếc máy chữ cũ kỹ Remington làm bốn bản. Sau đó Marik đóng xấp giấy lại thành quyển có bìa cứng màu đỏ. Anh cho tôi một bản, nhờ vậy tôi đã tập hợp được một tủ sách trinh thám rất khá – Agatha Christie, Edgar Wallace, Ellery Queen và dĩ nhiên là Simenon*.
Georges Simenon, nhà văn trinh thám nổi tiếng người Bỉ.
Và còn cả những cuốn sách của các tác giả không ai biết tên tuổi nữa.
Tôi có là bạn bè thân thiết với Marik không? Tôi cũng không biết liệu có thể gọi quan hệ của chúng tôi là tình bạn được không?
Anh bao giờ cũng đối xử với tôi như một cô bé không mấy lý thú đối với anh mặc dù nói chung là có thiện cảm, nhưng hoàn toàn thờ ơ, và cố nhiên là anh không ngờ rằng tôi đã yêu anh ngay từ hồi còn học lớp bảy.
Và như về sau này tôi suy nghĩ, mặc dù trong những năm đó đã có lúc có những say mê khác, tôi sẽ vẫn yêu anh và sẽ chung thủy với anh đến trọn cuộc đời còn lại của mình. - Em phải giúp anh thế nào đây? – Tôi hỏi.
- Ngày mai anh sẽ đưa Taya về gặp gia đình anh, – anh nói – Em cũng đến đi, để làm giảm sốc.
Trong tấm hình là một khuôn mặt thiếu nữ hơi choắt với cái miệng rộng có đường nét rõ ràng và dữ dằn.
Cái miệng đúng là rất nổi bật: rộng, dữ dằn, tham lam. Ngoài ra có lẽ khuôn mặt ấy chẳng còn cái gì đặc biệt đáng ghi nhớ cả. Nhưng cũng có thể đơn thuần là do tôi không muốn tìm thấy một cái gì hấp dẫn ở đó chăng?
Tôi nhìn cặp lông mày tô phớt nhẹ, đôi má hơi trễ xuống, có lẽ là hơi nhạt và hài lòng nghĩ thầm: “Một cô nàng cũng thường thôi, chả có gì đặc biệt!”
- Thế nào, em sẽ đến chứ? – Pikaskin hỏi.
- Vào giờ nào?
- Trước 5 giờ.
- Em sẽ đến.
- Chỉ có điều đừng làm hại anh. – anh nói. – Anh trông cậy vào em đấy.
- Thế có khi nào em làm hại anh chưa?
Anh mỉm cười:
- Không, chưa bao giờ em hại anh cả, nhưng em cũng biết mẹ anh rồi đấy, trên trái đất này không tìm đâu ra người nào hay có thành kiến hơn mẹ anh. Khi không bà cứ nhất định là Taya không hợp với anh.
- Bà quen biết cô ta sao?
- Bà mới nhìn thấy có một lần. Anh lấy vé cho bà đi xem phim, còn anh thì đi cùng Taya. Ngồi xem ở những hàng ghế khác nhau, thế mà sau đó mẹ anh bảo rằng Taya dứt khoát không hợp với anh, rằng cô ấy tuyệt nhiên không phải là người mà anh cần. Và nói là đã nhìn thấy trước số phận bất hạnh của anh giống như số phận của nhân vật Osip Dymov, em cũng biết tính bà rồi đấy…
- Em biết. – Tôi nói. – Chắc là Alla Ivanovna ngay sau đó đã lập tức dẫn một đoạn ngắn trong cuốn “Người đàn bà hay nhảy” phải không?
- Đại loại như vậy. – Anh đồng ý. – Lần này thì trích Tolstoy, dùng bài báo trong tập “Phạm vi đọc” làm thí dụ. Nhân tiện nói về sách, em có cuốn trinh thám nào khá không?
- Em có thể cho anh mượn những số năm kia của tạp chí “Người tìm tòi”. Đôi khi trong đó có những truyện trinh thám
không tồi.
- Em giữ mà đọc. – Anh thành thật khuyên tôi. Anh đứng dậy, chìa cánh tay dài ra cho tôi.
- Vậy là em sẽ đến nhé…
Anh mỉm cười, hơi nhếch miệng, và tôi lại thầm nghĩ: “Sao mà giống Cherkasov trong vai Jacques Paganel đến thế!” Ngày hôm sau tôi đến nhà anh như đã hẹn, vào lúc năm giờ kém mười lăm, và thấy ở nhà chỉ có mỗi mình Alla Ivanovna. Bà đang dọn bữa trưa lên bàn, xếp ra những chồng đĩa sâu, rồi đĩa nông, rồi đĩa nhỏ để đựng đồ nhậu.
Bà lôi từ tủ buýp-phê ra bộ đồ đựng muối, tương ớt và dấm, hai cái lọ nhỏ có nút bằng kim loại mà tôi vẫn nhớ từ hồi còn thơ ấu. Bà vừa làm vừa khóc. Những giọt nước mắt đọng lại hồi lâu trên đỉnh mũi rồi rơi xuống tấm khăn trải bàn trắng mỏng.
Vừa nhìn thấy tôi, Alla Ivanovna vội lau mắt bằng tấm khăn ăn hồ bột tiện cầm sẵn trong tay, mỉm cười một cách vui vẻ quá mức rồi reo lên:
- Rất vui mừng, tất nhiên rồi, chỉ có điều bác đề nghị cháu đừng lại gần bàn nhé!
Chuyện từ hồi nảo hồi nào: có lần tôi tới nhà Pikaskin, chưa đầy ba phút sau tôi đã vô tình làm bể cái chén bằng sành dùng để đựng trứng đặt ở trên bàn.
Nhưng thế vẫn còn ít, bởi vì lần sau đến nhà anh, tôi lại vướng tay vào chậu hoa cổ – chậu hoa bằng sứ, toàn bộ dường như được tết bằng đăng-ten, một thứ tuyệt đẹp và thật đáng tiếc khi phải nhìn những mảnh sứ hình đăng-ten bể tan tành…
Alla Ivanovna lúc đó không rầy la tôi, chỉ nói tôi thật đúng là mẫu nhân vật Epikhodov trong “Vườn anh đào” của Chekhov. Bây giờ mới thấy qua nhiều năm rồi mà bà vẫn nhớ cái tính vụng về của tôi.
Bà nghiêng đầu ngắm nghía những chén bát đích thực là đồ cổ của mình đang được đặt trên tấm khăn trải bàn trắng không gợn một nếp nhăn. Trên môi bà thoáng một nụ cười thỏa mãn. Nếu tôi mà không tình cờ thấy những giọt lệ trên sống mũi bà thì tôi đã không thể nào tin được rằng chỉ mới chừng năm phút trước đây thôi bà đã vừa dọn bữa ăn lên bàn vừa khóc.
Bá có cặp mắt lơ đãng màu xanh nhạt, tóc nhuộm thành màu loang lổ trông rất xấu. Cũng giống như Marik, bà người gầy gò, chân tay dài, khi nói chuyện miệng bà cũng hơi nhếch lên.
Bà nhìn tôi bằng cặp mắt thẫn thờ (chắc lúc ấy bà đang nghĩ về một chuyện khác) rồi hỏi:
- Cháu tới gặp Marik à?
- Vâng ạ, chúng cháu có hẹn gặp nhau. – Tôi đáp. - Hiện giờ nó không ở nhà, lát nữa mới về.
- Vậy thì cháu sẽ đợi một lát. – Tôi nói. – Có được không ạ? - Được chứ. Chỉ có điều xin cháu ngồi xa xa cái bàn một chút.
Bà đi vào trong bếp, còn tôi đưa mắt nhìn lên bức tường trước mặt và thấy bức tranh. Trên bức tranh vẽ hình một con bồ câu to màu tím mang mặt người, lông mày cau lại buồn bã, cái miệng đẹp, cặp má hơi trễ xuống.
Tôi nhận ra Taya – người trong tấm hình mà Marik đã từng cho tôi xem. Chính cái cô Taya mà anh đã yêu.
Tôi chợt thấy ghen tị: chắc anh yêu cô ta rất tha thiết! Hồi tôi còn học lớp mười, có lần các bạn cùng lớp quyết định mỗi người đều viết ra một cách thành thật, không giấu giếm chút nào hết, những suy nghĩ của mình về bản thân, tự đánh giá mình ra sao và kể hết ra những ưu điểm, khuyết điểm của mình.
Tôi đã viết:
“Khuyết điểm: tính tản mạn, bướng bỉnh, hay thù dai. Ưu điểm: yêu súc vật, có tính rộng rãi.”
Cũng có thể tôi đã vô tình bỏ qua ưu điểm nào đó, nhưng khi kể ra các khuyết điểm, tôi đã cố ý giấu kín một cái mà tôi rất xấu hổ về nó. Đó là tính hay ghen ghét.
Tôi hiểu rằng tính ghen ghét là rất xấu xa, nhưng tôi không làm sao khắc phục được bản thân mình.
Tôi ghen ghét các bạn gái xinh đẹp hơn, các bạn cùng lớp có được điểm tốt, các nhà hàng xóm có được cửa sổ hướng về phía mặt trời…
Nhưng người mà tôi ghen ghét nhiều nhất là Vera Krasikova. Cô ta đã được cậu Stasik Kubatsky, một nhà thơ được tất cả chúng tôi khâm phục, đem lòng yêu. Stasik đã làm thơ và mọi bài thơ đều viết về Vera.
Tôi ghen tị với cô ta tưởng đến mức phát điên lên, bởi tôi rất biết: chẳng khi nào tôi có thể mong được ai gọi tôi là “ngôi sao xanh xa xăm” và “chuyện thần tiên chẳng bao giờ kết thúc”
cũng như chẳng bao giờ có những vần thơ viết về tôi như thế này:
Em là lửa cháy và giá băng, là biển cả và trời cao
Và xin em hãy nhớ, dù anh ở nơi đâu, dù anh sống chốn nào Anh cũng chẳng làm sao quên nổi
Về em, về sắc đẹp em, như thần thoại tuyệt vời!
Những vần thơ ấy dù không được hoàn hảo lắm về vần điệu, nhưng vẫn thường xuyên ám ảnh tôi; chao ôi, giá như khi nào có ai đó lại viết một cái gì đó tương tự về tôi nhỉ?
Tuy nhiên không một ai, kể cả ông chú đã nuôi dạy tôi, được tôi thú nhận rằng tôi bị ám ảnh bởi lòng ghen ghét, bởi vì tôi hiểu rằng đó là thứ cảm xúc xấu xa ti tiện đến chừng nào.
Bây giờ tôi cũng ghen ghét cái cô Taya mà cho tới nay tôi chưa hề biết, vì Marik yêu cô ta. Nhưng tôi tự chuẩn bị trước cho mình, quyết không để lộ ra lòng ghen ghét, ngược lại, tôi cố gắng tươi cười niềm nở, tỏ ra dễ thương để không ai có thể chê trách tôi điều gì, để không ai, cả Marik, cả Taya, cả Alla Ivanovna đoán được là tôi ghen ghét.
Chừng hai mươi phút sau thì họ tới, Marik và Taya. Hóa ra người thực Taya trông rất lộng lẫy. Trong tấm hình cô ta bị mất đi màu sắc rực rỡ của khuôn mặt, những màu sắc đa dạng tươi tắn: da trắng như sữa, má hồng tươi, cái miệng rất xinh, đầy biểu cảm, đồng thời lại rất dịu dàng… Pikaskin thấy tôi nhìn ngắm Taya với vẻ khâm phục không giấu giếm hẳn là rất sung sướng.
Anh mỉm cười hỏi tôi:
- Thế nào, thích không?
- Khỏi phải nói! – Tôi đáp và ngượng đỏ mặt lên vì hồi sáng tôi đã ngắm nghía mình trong gương ra sao. Vâng, đã ngắm nghía! Nhưng lẽ nào có thể so sánh tôi với Taya được, dù chỉ một chút thôi?
Ông chú tôi thường nói:
- Lòng ghen ghét và tính hay thù hằn đặc trưng cho bản chất ti tiện.
Tuy nhiên, trong khi vẫn ý thức được rằng lòng ghen ghét là một xúc cảm xấu xa, đặc trưng cho bản chất ti tiện, tôi vẫn không làm sao khắc phục được bản thân.
Quả là đúng với câu nói của người xưa rằng chiến thắng bản thân mình là khó hơn cả.
Taya nói:
- Mark kể với tôi rất nhiều về chị.
Giọng của cô ta trầm. “Chắc cô ta hát hay.” – tôi thầm nghĩ. - Tôi với anh ấy rất ít khi gặp nhau. – Tôi nói với Taya. – Anh ấy có thể kể gì về tôi thế?
- Cả hai người đều mê truyện trinh thám. – Cô ta đáp. – Đúng không nào?
- Đúng thế. – Tôi đáp. – Có dạo cả hai chúng tôi còn say mê phim phiêu lưu mạo hiểm nữa.
- Còn tôi thì không thích truyện trinh thám. – Taya nói. – Theo tôi thì những cuốn sách hay nhất là những cuốn hồi ký… Cô ta không kịp nói hết câu. Alla Ivanovna vừa bước vào phòng, vừa chùi tay vào cái tạp dề màu xanh dương có viền rất
điệu đàng.
- Rất vui mừng được đón tiếp, – bà nói giọng kiểu cách. – Chúng ta sẽ thành chỗ quen biết…
Bà làm điệu uốn cong môi làm cho chữ “Chúng” hóa thành chữ “Chiúng”. Rồi bà mỉm cười, mặc dù ánh mắt bà vẫn còn vẻ dò hỏi và đau khổ.
Có thể là trong thâm tâm bà nghĩ rằng tất cả những trò vè này để làm gì vậy? Taya hoàn toàn không phải là người yêu thích hợp với con trai bà, và nói chung, anh tự trói buộc mình ở cái tuổi này mà làm gì?…
Tôi biết Alla Ivanovna vẫn coi anh là chú bé con mặc dù anh đã ở tuổi hai mươi bảy.
Bà chuyển cái nhìn sang tôi và ánh mắt bà trở nên ấm áp. Dù sao thì bà cũng ưa tôi hơn Taya.
Chúng tôi ngồi bên bàn và ăn món thịt không ngon, rán còn chưa kỹ. Alla Ivanovna không phải là người nấu ăn khéo, chúng tôi uống thứ rượu ngâm thật kinh khủng do tự tay bà làm từ hồi mùa hè bằng quả anh đào và phúc bồn tử, thỉnh thoảng lại nói về chuyện gì đó, về một cuốn phim mới, về chuyện máy thu hình nào tốt hơn, máy thu hình màu hay máy thu hình đen trắng, và mùa hè nên đi chơi đâu thì thú vị hơn, xuống miền nam hay ngược lại, đi lên miền bắc – đến vùng Kizhi và Solovki?
Đôi lúc, khi câu chuyện đột nhiên lặng đi hoặc Alla Ivanovna và Taya bỗng im bặt, tựa như không biết nói gì nữa, Marik khẽ đạp vào chân tôi. Lúc ấy tôi lại cố làm cho câu chuyện trở nên sinh động lên.
Tôi bắt đầu kể về những chuyện nào đó đã xảy ra với tôi hoặc với các bạn tôi ngày xưa, nhớ lại những chuyện cười đã cũ và tự mình cười trước tiên, và Marik cũng cười với tôi, mặc dù tôi tin rằng anh biết tất cả những chuyện cười ấy từ thuở còn là học trò.
Alla Ivanovna và Taya lịch sự mỉm cười, nhưng im lặng. Rõ ràng là cả hai đều cảm thấy chẳng ưa nhau qua luồng điện giao cảm truyền từ người này qua người kia.
Lát sau Taya và Marik đi khỏi. Taya đã hứa với mẹ cô ta rằng cô ta sẽ có mặt ở nhà vào buổi tối nên cần phải về, và Marik đưa tiễn cô ta.
Còn lại hai người: tôi và Alla Ivanovna.
- Đơn thuần là nó bị mất trí vì say mê cái cô gái ấy. – Alla Ivanovna nói. Nước mắt tuôn ra từ mắt bà và chảy trên cặp má thoa phấn thành những đường lộ ra nền da sạch.
- Thôi mà bác, – tôi nói, bởi vì cần phải nói gì đó, mà nói gì thì tôi không biết. – Bác khóc thế làm gì? Đừng nên thế bác… - Cháu hiểu cho bác, – Alla Ivanovna nói, lấy vạt áo chùi má. – Nó thì yêu đến mất trí, còn cô ta thì thờ ơ với nó, bác cảm thấy rằng cô ta chỉ hạ cố tới nó, còn trong lòng hoàn toàn dửng dưng.
Mặc dù tôi thấy ghen ghét, nhưng cảm giác bẩm sinh về sự công bằng vẫn trỗi dậy trong tôi.
- Nếu thế thì cô ta cần anh ấy làm gì? – Tôi hỏi. – Nào phải anh ấy là phi công vũ trụ hay nhà bác học nổi tiếng gì? Hoặc giả là người được tặng vô số giải thưởng?
Alla Ivanovna lạnh lùng nhìn tôi bằng cặp mắt lập tức ráo hoảnh.
- Sao cháu lại có thể nói như vậy được? Marik là một họa sĩ thiên tài. Nó đi làm về là vẽ, vẽ hoài, và bác nhớ Jules Renard đã từng nói rằng: thiên tài – đó là ý chí. Sau nữa nó là một người rất khả ái. Không phải vì nó là con trai bác đâu, bác nói hoàn toàn khách quan: nó rất trung thực, thông minh, đôn hậu. Mà bác nói làm gì kia, cứ làm như cháu không biết ấy?
- Vâng ạ, tất nhiên rồi. – Tôi đáp và đứng dậy. – Có lẽ cháu cũng tới lúc phải đi đây, bác Alla Ivanovna ạ.
Bà lại cố gắng trở lại giọng điệu kiểu cách tự nhiên, vẻ lịch sự.
- Tới thăm luôn nhé, cháu yêu quý, đừng quên gia đình bác. Cả nhà bác đều rất vui mừng được gặp cháu…
Tôi nói:
- Cháu sẽ đến, cháu sẽ không quên đâu.
Ở nhà, ông chú cho tôi coi quyển vở học sinh có dòng kẻ nghiêng đã vàng ố vì thời gian, ngoài bìa có đề: “Irina Tretyakova, học sinh lớp 7A”.
Ông thu thập các quyển vở của tôi và cất giữ chúng trong một cái vali cũ.
- Cháu xem này, ông đã tìm thấy cái này trên bàn viết của ông đấy. – Ông chú nói.
Trên trang đầu tiên có vẽ một con chim bồ câu. Nó không khác chút nào so với những con bồ câu khác của Pikaskin, họa
chăng có khác chỉ là ở chỗ con bồ câu này cười, ngả đầu về phía sau và mỏ hơi hé ra, tựa như quá mệt vì cười.
- Đó là Pikaskin có lần đã vẽ cháu để làm kỷ niệm, – tôi nói, – khi cháu học hết lớp bảy.
- Thảo nào ông thấy con bồ câu hơi giống cháu, cháu có nhận thấy thế không? – Ông chú hỏi.
- Cháu có thấy, – tôi đáp. – Chẳng lẽ quyển vở ấy không ở trong vali của ông sao?
- Cháu thấy đấy, không hiểu sao nó lại ở trên bàn của ông. – Ông chú nói.
Pikaskin gọi điện thoại cho tôi vào lúc khuya. Ông chú đã đi nằm từ lâu, còn tôi nằm trong phòng của mình đọc cuốn truyện trinh thám đã cũ của nước ngoài được xuất bản vào những năm bảy mươi.
Anh hỏi:
- Quả thực em thích cô ấy thật à?
- Đúng. – Tôi nói. – Quả thực như vậy.
- Tại sao em lại trả lời nhát gừng thế? – Anh ngạc nhiên. Tôi phá lên cười.
- Những chàng trai thật tức cười! Lúc nào cũng cảm thấy người ta như không đánh giá hết đối tượng của họ, rằng lẽ ra người ta phải khâm phục nhiều hơn nữa người mà họ khâm phục…
- Nhiều câu phụ dài dòng quá, em không đủ sức thể hiện trọn vẹn chúng đâu. – Anh nói rồi đặt ống nói xuống.
Tôi thấy thương hại anh, ân hận vì câu châm chọc của mình – mà theo tôi hiểu thì cũng là do tính ghen ghét. Tôi lập tức quay số gọi cho anh, anh trả lời ngay, tựa như chờ tôi gọi tới. - Anh Pikaskin này, – tôi nói, – cô ấy thật tuyệt.
Thậm chí là qua điện thoại tôi cũng cảm thấy anh sung sướng biết chừng nào. Tôi thầm nghĩ rằng chắc hẳn lúc này mắt anh phải sáng hết mức và nụ cười phải rộng đến mang tai…
- Thật à? Em cũng thấy như vậy sao? Thế mà mẹ thì chẳng chịu một chút nào!
- Có lẽ do sự không tương hợp về tâm lý chăng?
- Nếu em muốn thì cứ gọi như vậy cũng được. Bây giờ đang có cái mốt cứ giải thích mọi thứ va chạm bất hòa bằng cách đó, bằng sự không tương hợp về tâm lý.
- Không sao đâu, kiên nhẫn một chút rồi sẽ thấy mến nhau. – Tôi nói và vào lúc đó cảm thấy mình đúng là con quạ già tinh khôn.
Anh hỏi tôi với niềm hi vọng:
- Em tin vậy à?
- Em tin chắc thế.
Anh lặng thinh một lát rồi mới nói:
- Chúng tôi đã đưa đơn xin kết hôn.
- Em xin chúc mừng. – Tôi nói. – Em hình dung trước tất cả những gì sẽ xảy ra tiếp theo đây: Chiếc xe Volga trang hoàng những sợi băng với một con búp bê dung tục trên đệm xe, cô
dâu bận đồ trắng, anh trong bộ com-lê đen đi thuê bởi vì anh chắc là không có com-lê đen và may nó thì anh không kịp. - Đúng thế, – anh thốt lên. – Anh không ưa màu đen, nhưng anh cũng không định thuê bộ com-lê. Anh sẽ mua chịu nó ở cửa hàng dành cho những người mới cưới.
- Thế thì càng tốt, – tôi nói. – Sau đó sẽ đến lâu đài Hạnh phúc. Các chú rể và cô dâu xếp hàng chờ đợi, trông giống nhau như đúc, những nụ cười, những ly rượu sâm-panh, thợ chụp hình chụp cảnh vợ chồng trẻ với khách tới dự, các diễn từ của bà phụ trách cái lâu đài hạnh phúc nhất ấy được nói bằng giọng nói rắn như sắt thép bê tông: “Các đồng chí thân mến, hôm nay các đồng chí tạo lập nên một gia đình mới đầy hạnh phúc vì lợi ích của xã hội…”
Và rồi lại những sợi băng trên xe hơi và những con búp bê trên đệm xe, rồi bữa tiệc ở khách sạn với tiếng reo hò “cay lắm”*, và lại những lời nâng cốc chúc tụng có dàn nhạc đệm…
Trong đám cưới Nga có tục lệ: khi khách dự tiệc hô lên “cay lắm” thì cô dâu chú rể phải đứng dậy hôn nhau trước đám tiệc. Anh lắng nghe tôi nói rồi hỏi với giọng không khỏi không có ác ý:
- Do đâu mà em biết rõ mọi chuyện như vậy? Dường như em chưa từng đi trên chiếc xe có búp bê ấy kia mà?
- Thế mà đã từng phải đi rồi đấy. – Tôi nói. – Hai bạn gái của em kế tiếp nhau đi lấy chồng và em đã đi cùng họ tới lâu đài kết hôn ở trên phố Shchepkina và trông thấy tận mắt tất cả những gì em vừa kể cho anh, chỉ có điều trên một chiếc xe thay vì con búp bê họ đã gắn một con gấu nhung với dải băng hồng ở cổ.
- Cái đó là để cho thêm đa dạng. – Pikaskin nói.
- Một sự dung tục ghê gớm. – Tôi nói. – Giả sử như anh mà nhìn thấy con gấu khủng khiếp ấy, cái sợi băng ấy! Em tin là một họa sĩ như anh sẽ muốn ói ra vì kinh tởm.
- Cũng có thể là anh sẽ chẳng để ý đến chi tiết ấy. – Anh thốt lên. – Anh còn định nói với em chuyện gì nữa nhỉ? A, phải rồi. Em có biết anh với cô ấy làm quen với nhau thế nào không? - Tất nhiên là không rồi.
- Dạo đó là mùa thu, anh xem truyền hình buổi hòa nhạc ở phòng truyền hình Ostankino, và rồi bỗng người ta chiếu hình một cô gái ở hàng ghế thứ hai, em cũng đã thấy cô ấy rồi, tự em cũng hiểu là cô ấy có thể gây ấn tượng như thế nào.
- Hình như máy thu hình ở nhà anh là loại thu màu phải không?
- Loại thu màu. Nhãn hiệu Rubin-107. Mẹ anh mua theo phương thức trả dần, đến bây giờ vẫn còn đang trả, còn phải trả gần nửa năm nữa, hai mươi rúp một tháng. Mà tại sao em lại hỏi phải là máy thu hình màu hay không?
- Bởi vì Taya có màu sắc rất tuyệt, hình màu cô ấy trông sẽ đẹp hơn bình thường.
- Có thể là như vậy. Tóm lại là người điều khiển máy thu phát đã nhiều lần đưa hình cô ấy, lúc thì ở tư thế nghiêng, lúc chính diện, lại còn hình xa gần thế nào đó nữa. Nói chung là anh hiểu ra rằng trước mặt anh đúng là cô gái trong mộng ước của anh.
- Thế anh đã làm gì?
- Anh còn làm gì được nữa kia? Trong chớp mắt anh lao đến Ostankino, tới phòng hòa nhạc truyền hình. May vừa kịp lúc buổi hòa nhạc chấm dứt, và thật là kỳ diệu, cô ấy đang bước ra khỏi cửa, còn anh đang bước tới !
- Thế anh đã nói gì với cô ấy?
- Anh nói: “Xin cô thứ lỗi cho, nhưng tôi cần phải nói chuyện với cô.”
- Chắc anh mạo nhận mình là đạo diễn điện ảnh đang tìm một mẫu người thích hợp, hoặc giả thú nhận mình là họa sĩ và cô ấy hết sức thích hợp cho mẫu vẽ.
- Đâu có, và thậm chí anh cũng không hề nghĩ tới chuyện như vậy! Anh và cô ấy cùng bước ra phố và anh giải thích cho cô ấy mọi chuyện.
- Thế cô ấy có thái độ ra sao đối với lời giải thích của anh? - Giống như những người bình thường thôi. Thoạt tiên cũng mỉm cười, rồi sau nổi giận lên và nói là không ưa nói chuyện với người lạ mặt, tuy nhiên rồi anh cũng thuyết phục được cô ấy và cô ấy thú nhận rằng cô ấy cũng thấy mát lòng mát dạ. - Khỏi cần phải nói! Giá như em thì em cũng cho rằng anh đã lập cả một chiến công vì em!
- Hơn nữa nếu tính đến tình huống chiếc xe Zaporozhets của anh vẫn nằm ở chỗ sửa chữa như thường lệ, nhưng anh đã tóm được một chiếc taxi.
- Vậy thì đó là chuyện khởi thủy phải không?
- Phải. – Anh nói. – Khởi thủy. Khởi thủy của mọi bắt đầu.
Nếu để mặc sức thì chắc anh còn nói cả tiếng đồng hồ hay cả một thời gian vô tận nữa, những người si tình thật sự không để ý đến thời gian và không biết cách dừng lại.
Nhưng tôi đã ngắt lời anh.
- Anh này, – tôi nói, – ngày mai em còn phải dậy sớm đấy. Anh sực nhớ ra, và sau khi nói thêm chỉ chừng năm phút nữa về Taya, về sắc đẹp và trí thông minh của cô ta, anh đặt ống nói xuống.
Còn tôi thì nằm nghĩ ngợi và thầm ghen tị với Taya cho đến khi chợp mắt được. Lúc đó đã vào khoảng bốn giờ sáng.
Marik
Tôi rất ghét chuyện đã giã từ xong rồi mà còn quay trở lại. Tưởng chừng như có bao nhiêu tay thì cũng bắt đủ cả rồi, những lời từ giã cũng đã nói xong cả, chúc tụng mọi điều tốt đẹp và mời mọc tới thăm, gọi điện thoại và dặn dò đừng quên nhau…
Đầy đủ mọi nghi thức rồi. Chủ nhân mỉm cười, bề ngoài tỏ ý tiếc vì khách ra về, tiễn đưa khách với sự nhẹ nhõm trong lòng. Về phần mình, khách cũng mỉm cười, chạy xuống cầu thang. Thế rồi một lát sau khách lại quay trở lại, quên cái cặp, khăn quàng, hay bao tay, hoặc còn cái gì đó nữa…
Vẻ duyên dáng khả ái đã bị phá hủy. Chủ nhân đã bận làm công chuyện quen thuộc của mình, thí dụ như rửa chén bát sau bữa tiệc, hoặc quét nhà hay trải giường, và khách bắt gặp họ không phải lúc.
Lẽ cố nhiên là chủ nhân mỉm cười, còn biết làm sao khác được, nhưng đã đượm vẻ chế giễu với một chút bực mình bởi vì khách bất ngờ quay trở lại, có thể nhìn thấy cái mà đáng lẽ người lạ không nên thấy.
Còn khách, hiểu tất cả mọi điều đó, chụp vội lấy cái gì đó mà mình đã bỏ quên, hấp tấp biến đi cho nhanh. Lần này thì không mỉm cười, chẳng nhắc lại lời mời tới thăm, gọi điện
thoại và dặn dò đừng quên. Và người ta cũng không nhắc lại những lời ấy với khách. Chẳng còn bụng dạ nào nghĩ tới chuyện đó.
Và trong cả khách lẫn chủ đều còn đọng lại một cái gì đó chẳng mấy tốt đẹp.
Chuyện như thế đã xảy ra với tôi, khi lần đầu tiên tôi tới nhà Taya. Mẹ cô ấy tỏ ra lịch sự và hiếu khách. Chúng tôi ngồi đàm luận về những chuyện gì đó mà tôi cũng không nhớ nữa, bởi vì tôi nói, mỉm cười, đưa đẩy, nhưng trong lòng thì chỉ toàn nghĩ về cô ấy – Taya.
Rồi mẹ cô ấy hai lần vô tình ngáp, làm như muốn giấu, nhưng thực ra lại muốn cho tôi thấy, và liếc nhìn vào đồng hồ. Tôi đứng dậy bắt đầu từ biệt.
Chúng tôi chia tay sau đó rất lâu, mẹ Taya đòi tôi phải ngồi chơi thêm chút nữa, trách tôi quá vội bỏ họ lại, còn tôi thì thuyết phục họ rằng đã muộn lắm rồi, đã đến lúc tôi phải ra về để họ được nghỉ ngơi.
Taya không nài ép tôi, cô ấy nói một cách giản dị: - Thôi được, anh đi đi, kẻo không quả thực cũng đến lúc em phải đi ngủ rồi…
Và lại một lần nữa cô ấy làm tôi phải khâm phục, như đã bao lần tôi từng khâm phục tính chân thành bình dị của cô ấy. Lúc tôi rời nhà họ và chạy xuống cầu thang, tôi cảm thấy rõ nụ cười còn đọng trên khuôn mặt mình, nụ cười ấy bắt đầu từ ngưỡng cửa nhà họ mà mãi vẫn chưa muốn kết thúc. Khi tôi chạy xuống tới dưới đất, thò tay vào túi thì không thấy bao tay đâu. Cả trong túi này lẫn túi kia. Trong bao tay
bên phải có tờ 3 rúp mà tôi dự phòng để đi taxi trong trường hợp tôi về muộn lúc xe điện ngầm đã ngừng chạy. Xe điện ngầm đã ngừng chạy, tờ 3 rúp thì không có. Taya sống với mẹ ở đường bờ sông phố Kotelnich, còn tôi ở gần đại lộ Kutuzov, trong quận Dorogomilov Lớn. Đi bộ từ nhà họ đến nhà tôi không thể nào mất ít hơn một tiếng đồng hồ. Tôi tự hình dung ra cảnh mình quay lại lấy bao tay thế nào và không muốn đi trở lại nữa.
Thế là tôi đi bộ về tận nhà. Trời rất lạnh, mười bốn độ dưới không, gió nhiều.
Té ra tôi nhầm, đi bộ từ nhà họ về nhà tôi mất không phải một tiếng, mà là một tiếng hai mươi ba phút.
Sáng ra tôi không sao ngóc đầu dậy nổi, tôi sốt với nhiệt độ rất cao. Mẹ tôi gọi bác sĩ tới. Bác sĩ nói rằng phải đề phòng sưng phổi và người ta bắt đầu tống cho tôi đủ các loại thuốc đại loại như: rônđômixin, ôreanđrômixin, êtazol, giác lưng và đắp hạt cải.
Mẹ tôi đi dép lê trong nhà vì tôi rất nhức đầu và không sao chịu nổi tiếng giày cao gót của bà, mọi thứ bà làm đều chả ra sao, bà thở dài ầm ĩ và khóc nhiều lần.
Mẹ tôi bao giờ cũng nổi bật ở tính vụng về. Những khi tôi bị cúm hay bị viêm họng, nằm ở giường, mẹ tôi cho tôi uống nước và lỡ tay làm đổ nước vào cổ tôi. Khi dán cao hạt cải cho tôi thì thể nào bà cũng nhầm, dán ngược lá cao. Còn mang túi cao su chườm nước nóng cho tôi thì bà lại vặn nút không chặt khiến nước nóng bỗng trào ra làm tôi bị phỏng.
Nhưng mẹ tôi lại là người rất đôn hậu. Tôi cho rằng tính đôn hậu là cái quý nhất của con người, chỉ tiếc rằng hiếm khi gặp được nó. Theo tôi nghĩ thì cha tôi đã chọn mẹ tôi chính vì bà rất đôn hậu.
Cha tôi lớn tuổi hơn mẹ tôi nhiều. Ông đã tham gia chiến đấu ngoài mặt trận, đã chiến đấu ở Polesie, ở Kursk, ở Berlin và kết thúc chiến tranh ở Budapest.
Sau khi ở mặt trận về, ông lại tới đâu đó trên sông Volga xây dựng nhà máy thủy điện rất lớn.
Ông là kỹ sư xây dựng, tự gọi mình là dân du mục, ưa chuyển từ thành phố này sang thành phố khác. Và suốt nhiều năm luôn chuyển từ công trường này tới công trường kia.
Một lần nọ trên sông Đông, ở công trường Volga Đông, ông đã làm quen với mẹ tôi. Mẹ tôi tốt nghiệp đại học thư viện, được phân công về một thành phố nhỏ mới xây dựng là Tsimlyansk.
Một lần cha tôi tới thư viện của bà, đề nghị bà cho mượn cuốn sách nào đó để đọc.
Mẹ tôi hỏi:
- Chắc phải cho ông mượn cuốn sách gì nghiêm chỉnh phải không?
- Sách nghiêm chỉnh là nghĩa thế nào? – Ông hỏi lại. - Là cuốn sách nào đó về khoa học hay triết học, hoặc viết về những người nổi tiếng thuở trước.
Cha tôi ngó bà, nhếch mép cười. Sau này ba tôi kể lại, lúc đó bà trông rất tức cười, mũi hếch, mắt nhạt màu và trông màu
nhạt càng nổi rõ hơn vì khuôn mặt hơi rám nắng đầu mùa xuân.
- Chị cho tôi đọc về tình yêu đi. – Cha tôi đề nghị. – Chị giới thiệu cho tôi cuốn nào đó.
- Ông có muốn đọc Bunin không? – Mẹ tôi hỏi.
- Muốn. – Cha tôi đáp. – Thế ông ấy viết gì về tình yêu, cái ông Bunin ấy?
Cha tôi giả bộ làm người chỉ chú tâm vào công việc chuyên môn, không hiểu biết rộng, ít khi đọc sách và hoàn toàn không nhớ nổi tên các nhà văn. Nhưng thực ra cha tôi rất ham đọc sách. Ở mức độ nào đó ông là người đọc nhiều và ít ra cũng từng đọc khá nhiều truyện ngắn của Bunin.
Vậy mà bà thì tin rằng ông chưa hề được nghe nói về Bunin. Bà là người chất phác và suy xét người khác qua bản thân, cho rằng thông thường người ta không nói dối, không bịa đặt mà chỉ có các nhà văn mới sáng tác, bịa đặt và đó là công việc quen thuộc, hữu ích của họ.
Cố nhiên là mẹ tôi suy luận hơi thô thiển, nhưng thế thì có sao đâu? Dù thế này hay thế khác thì bà cũng không làm cho cha tôi phải chán ghét mình.
Thoạt tiên bà giảng cho ông một bài giảng nhỏ về bản chất sáng tác của Ivan Bunin, tiện thể kể ra những tác phẩm nổi tiếng nhất của ông: Ông lớn từ San Francisco, Những quả táo loại Anton, Làng quê, Sân nhà vui vẻ… rồi lập sổ mượn sách cho cha tôi ở thư viện, viết vào sổ bằng nét chữ cẩn thận, hơi giống chữ trẻ em: “I. Bunin. Một tập.”
Tôi được biết tất cả những chuyện này không phải qua mẹ tôi, mà là do cha tôi kể lại. Năm ấy tôi sắp kết thúc bậc trung học phổ thông. Vào kỳ nghỉ đông tôi đã cùng cha tôi đến vùng Suzdal, tới nhà một người bà con xa của ông, đi câu cá.
Lúc ngồi trong xe, trên đường đi, cha tôi hỏi, mắt vẫn không rời khỏi con đường:
- Con đã có cô gái nào chưa?
- Cô gái nào kia? – Tôi không hiểu.
- Một cô gái lạ. Con đã theo đuổi ai chưa, đã kịp say mê người nào rồi, hay tạm thời con còn chưa quan tâm đến khía cạnh ấy của cuộc sống?
Dạo đó tôi luôn luôn yêu hết người này đến người khác, mỗi lần cứ tưởng rằng đây đúng là tình yêu thật của mình, nhưng rồi lần nào tôi cũng nhanh chóng thất vọng.
- Thế mà ba chỉ yêu có một lần và yêu đến trọn đời. – Cha tôi nói.
- Hồi nào vậy? – Tôi hỏi.
- Mười tám năm về trước.
- Yêu người nào thế?
- Khó đoán lắm sao? Lẽ tất nhiên là mẹ con đó.
Tôi ngạc nhiên:
- Chẳng lẽ mẹ con là tình yêu đầu tiên của ba sao? - Thì cũng có thể không phải là đầu tiên nhất, – cha tôi đáp, vừa mỉm cười bằng khóe miệng, – cũng có chuyện này chuyện nọ, nhưng chắc chắn đó là tình yêu mãnh liệt nhất.
Tôi biết rằng cha tôi nói thật. Phải, quả thực đúng là như thế đó.
- Mà này, – cha tôi nói, – nét chữ của mẹ con vẫn cứ giống như chữ trẻ em. Cả giọng nói cũng vậy.
Cha tôi mỉm cười nhắc lại một lần nữa:
- Cũng vẫn giọng nói như trước kia…
Cha tôi mất sau đó bốn năm, khi tôi đang học năm thứ ba ở trường đại học.
Tôi nhớ đó là một ngày tháng Chín nóng nực. Từ trường về nhà sớm hơn thường lệ, tôi lấy chìa khóa trong túi ra định tra vào ổ, đột nhiên cánh cửa mở ra và tôi nhìn thấy mẹ tôi trên ngưỡng cửa.
Tôi vui vẻ hỏi:
- Làm sao mà mẹ linh cảm thấy được con trai mẹ đang về vào cuối giờ làm việc, lại đang đói cồn cào thế này? Bà đứng lặng thinh, ngó đi đâu đó phía trên đầu tôi. - Mẹ làm sao vậy? – Tôi vẫn vui vẻ hỏi. – Sao mẹ cứ nhìn con như nhìn người mới quen thế hả mẹ?
Mẹ tôi hé môi nói, tựa như phải gắng sức lắm:
- Cha con mất rồi.
- Ai kia? – Tôi hỏi lại. – Cha con ấy à?
Bà quay vào trong nhà và tôi vội bước theo.
Cha tôi đang đi công tác ở Bulgaria. Ông đến đó để trao đổi kinh nghiệm của mình với những người xây dựng các khu nhà mới ở Soa. Ông đã công tác ở đó được mười ngày, đôi khi gọi điện thoại cho chúng tôi. Giọng nói oang oang của ông không
chứa nổi trong cái ống nghe chật hẹp và nó như muốn bung ra ngoài – tựa như một con chim bị lọt vào phòng vậy. “Mọi người ở nhà thế nào? Kể cho tôi nghe đi…” Mẹ tôi ngồi vào bàn, tôi ngồi bên cạnh ôm lấy vai bà. Tôi vẫn không sao nhận thức được hết ý nghĩa của những lời mẹ tôi nói: “Cha con đã mất rồi…”
Vậy là cha tôi đã không còn nữa rồi sao? Và sẽ không bao giờ có nữa? Nhưng chuyện ấy không thể nào có được! Không lẽ tôi sẽ không bao giờ, không khi nào nữa còn được nhìn thấy cha tôi, nghe thấy tiếng nói vang to của ông, và chiều chiều ông sẽ không còn ghé vào phòng tôi, sẽ không còn đi câu cá dưới băng với tôi, ngủ đêm trong lán mùa hè và kể lại những chuyện khác nhau về cuộc đời “lang thang” của ông – như ông thường ưa gọi như vậy?
Và ông sẽ không còn đeo đủ hết các huân chương vào mỗi ngày lễ chiến thắng 9-5 rồi đi đến Nhà hát Lớn, như ông vẫn đi như thế từ năm này qua năm khác.
Và sẽ không còn lúc ông về đến nhà liền thốt lên: - Thế là bọn chúng tôi còn lại mỗi ngày mỗi ít đi… Và ông sẽ không còn dặn dò tôi như vẫn thường dặn mỗi khi ông đi đâu xa:
- Con nhớ chăm sóc mẹ. Chúng ta chỉ có mỗi mình mẹ con thôi.
Tôi không hề nhớ có khi nào cha tôi cãi lộn với mẹ tôi. Không ít lần bà đay nghiến ông vì chuyện gì đó mà bà không vừa ý. Đay nghiến tới nơi tới chốn, đầy đủ bài bản, dai dẳng, dẫn ra rất nhiều thí dụ văn chương, trích dẫn lời nói của đủ các
nhà văn vĩ đại, thế mà cha tôi cứ im lặng, rồi dần dần mẹ tôi cũng nguôi đi.
Nhưng có một lần mẹ tôi hành hạ cha tôi đến mức ông nổi nóng thật sự. Ông chụp lấy tay bà và nhấc bà đặt lên nóc tủ. Trong giây lát mẹ tôi không nói nên lời, còn ông thì nói: - Như thế nhé!
Rồi ông bước ra ngoài, sập cửa lại thật mạnh.
Thật ra thì chừng năm phút sau ông đã quay trở lại. Mẹ tôi vẫn ngồi trên tủ, khóc thút thít. Thế là ông nhấc mẹ tôi xuống, bắt đầu dỗ dành như dỗ một đứa trẻ…
Đó cũng là lần duy nhất. Cha tôi bao giờ cũng kiềm chế mình, bình thản. Mẹ tôi rầy la, ông vẫn im lặng, chỉ thỉnh thoảng nhếch mép cười một mình. Và sau đó thì mẹ tôi nói với tôi:
- Đấy, đàn ông chân chính cần phải như thế đấy con ạ, điềm tĩnh và mạnh mẽ. Và còn điều này nữa: biết bao dung với những nhược điểm của phụ nữ…
… Tôi ôm lấy mẹ tôi và ngồi không nhúc nhích.
Tôi không biết tìm những lời nào nói với mẹ tôi. Cả hai chúng tôi cùng im lặng, rồi mẹ tôi nói:
- Ngày mai quan tài sẽ được đưa từ Soa tới. Bằng máy bay. - Vào lúc mấy giờ ạ?
- Vào ba giờ trưa. Ở Cục sẽ có người ra đón.
- Con cũng sẽ ra đó, – tôi nói.
- Cha con chết sáng nay, lúc gần bảy giờ, – mẹ tôi nói. – Cha con đang ngồi cạo râu, đặt điện thoại nói chuyện với Moskva và
đột nhiên gục xuống. Khi người phục vụ khách sạn mang bữa ăn sáng vào phòng ông hãy còn thở…
Mẹ tôi im lặng, rồi hỏi tôi với niềm hy vọng:
- Chắc cha con chết nhẹ nhàng, không đau đớn đâu nhỉ, con nghĩ thế nào?
Tôi lặng thinh. Tôi còn biết nói sao với mẹ tôi? Giờ đây tôi không còn là cậu sinh viên năm thứ ba, không còn là anh chàng cao kều nhất trong lứa cùng năm học, mà là một anh chàng bé nhỏ, gầy gò; cha tôi gọi tôi là “con giun nhỏ”, với những vết sứt sẹo ở tay và mái tóc cháy xém, giống như thuở nào, khi cha tôi còn khỏe mạnh và tôi vẫn thấy ông hàng ngày…
Chao ôi! Dạo ấy tôi đã hạnh phúc biết chừng nào! Hạnh phúc vô cùng, tột đỉnh, mặc dù – lẽ tự nhiên vẫn thường như vậy – tôi không ý thức được hạnh phúc của mình…
Không bao giờ tôi sẽ quên được những giây phút chờ đợi nặng nề ở sân bay Sheremetyevo.
Máy bay từ Uganda, từ London, New York, Paris đến hạ cánh. Nhưng từ Soa thì không thấy có.
Tại ô cửa sổ chỉ dẫn người ta nói với chúng tôi rằng máy bay tới trễ.
Một người nào đó, hình như là người phó của cha tôi, một gã mập mạp với cặp mắt lồi, tựa như lúc nào cũng ngơ ngác, mặc áo vest phanh ngực và áo sơ mi không gài nút cổ – lúc nào gã cũng thấy nóng nực – chán ngán than thở:
- Thế mới khổ! Mà cũng chẳng ai biết là còn phải đợi bao lâu nữa…
Borya Boriskov, Bí thư đoàn thanh niên của Cục, một anh chàng vui vẻ, tốt bụng, liếc mắt trao đổi với kỹ sư trưởng, Ivan Fomich:
- Có sao nào, chúng ta sẽ đợi…
Cha tôi cho rằng tôi đã thừa kế được khả năng chủ yếu của ông – sự mẫn cảm đối với người cùng trò chuyện. Cha tôi hầu như không bao giờ nhầm lẫn, biết người bên cạnh đang nghĩ về chuyện gì, cảm thấy thế nào.
Nhiều khi tôi cũng chợt thấy bằng một tri giác đặc biệt nào đó, hiểu được người đang trò chuyện với mình muốn gì, muốn để tôi im lặng hay ngược lại, để tôi nói nữa, hoặc là muốn để tôi đừng vô tình nói ra điều gì đó, để tôi bỏ đi hay ở lại. Nhờ vậy mà có lẽ tôi ít khi bị nhầm lẫn trong việc kết bạn và số bạn bè ít ỏi của tôi không bao giờ phản lại tôi…
Tôi ngó nhìn người phó của cha tôi, nhìn Borya, nhìn Ivan Fomich và chẳng cần lời nào cũng lập tức hiểu ngay mọi chuyện: tất cả bọn họ đều muốn tranh thủ đi ăn. Ngay khi ấy tôi thoáng nhớ là từ sáng tôi mới chỉ uống một ly nước trà mà thôi. Thậm chí chưa ăn một miếng bánh mì nào.
Borya ngước mặt lên trời. Từ trên trời nhỏ xuống một giọt nước nặng hạt. Rồi thêm nhiều giọt nữa…
Bắt đầu một trận mưa buồn tẻ, theo kiểu mưa mùa thu, dầm dề không dứt, mặc dù mới vào giữa tháng Chín.
- Người nào ra đi thì tốt lắm đây. – Ivan Fomich nói. – Đi gặp mưa là điềm tốt!
Nói xong rồi ông mới phát hoảng. Tự ông cũng hiểu những lời nói về điềm tốt của ông vào lúc này thật là lố.
Suýt nữa thì tôi đã hỏi:
- Thế đối với những người đón đợi máy bay như chúng ta chẳng hạn thì đó là điềm gì vậy?
Nhưng tôi đã không hỏi. Cũng chẳng để làm gì. Thay vào đó tôi nói:
- Chúng ta đi ăn chút gì đi…
Và cả ba người đều mừng rỡ, nhìn tôi với vẻ biết ơn, mặc dù gã phó của cha tôi – một kẻ giả dối nhất hạng – làm bộ như không bằng lòng, nói:
- Chẳng biết có nên không?
- Nên đấy. – Borya đáp.
Tôi với Borya đi trước, còn gã phó với Ivan Fomich đi sau. Borya nói:
- Tôi không sao chịu nổi cái con chuột ấy!
Tôi lặng thinh, nhưng trong lòng thầm nghĩ rằng tôi cũng không chịu nổi gã phó này, rằng nếu như “con chuột ấy” nằm thế vào chỗ cha tôi thì tốt hơn biết chừng nào…
Không có mấy khách trong tiệm ăn của sân bay, một tiệm ăn lớn trang hoàng đẹp đẽ, đầy không khí chờ đợi một cái gì đó phi thường và trang trọng.
Thỉnh thoảng lại vang lên giọng nói phụ nữ đều đều, tựa như có tráng một lớp kim loại óng ánh:
- Chuyến bay từ Vienna đã hạ cánh…
- Đang kết thúc việc cho hành khách lên máy bay chuyến Moskva – Brussels.
Người ta mang đến cho chúng tôi món nấm trộn dấm, thịt giăm bông với đậu ve xanh, salad trộn kiểu thủ đô và một bình rượu trắng.
Gã phó với vẻ buồn rầu rót rượu vào ly cho mọi người, thở dài:
- Nào ta bắt đầu chăng…
Ivan Fomich e dè nhấc ly của mình nhấp một hớp. Tôi cảm thấy ông ta hơi ngượng với tôi vì ông ta thích ngồi trong gian phòng đẹp đẽ, lịch sự này, uống rượu trắng để lạnh, nhắm món thịt giăm bông nạc cho vừa muối…
Bởi vậy, tựa hồ như miễn cưỡng, ông ta bẻ một miếng bánh mì. Và để cho ông ta được tự nhiên hơn, để cho ông ta khỏi ngần ngại khi nếm hưởng những thú vui trần thế, tôi uống một hơi cạn ly của mình. Sau đó lấy salad đặt vào đĩa.
Borya hỏi:
- Sao anh lấy ít thế? Salad rất ngon.
- Thế đủ rồi. – Tôi đáp.
Mưa lúc thì tạnh, lúc thì như trút nước.
Tôi gọi người phục vụ, trả tiền cho tôi và Borya. Borya đồng ý, còn gã phó và Ivan Fomich không cho phép trả tiền cho họ. Sau đó Borya đi gọi điện thoại, còn tôi thì quay trở lại sân bay, biết chắc chắn rằng cả gã phó lẫn Ivan Fomich đều hài lòng vì tôi đi khỏi, bởi vì bây giờ họ cảm thấy được thoải mái, ấm cúng và chắc là sẽ gọi thêm một bình gì đó uống với đồ nhắm.
Đã hơn năm giờ một chút. Mưa đã ngớt, nhưng trên bầu trời đầy mây vần vũ vẫn lóe lên những tia chớp báo hiệu một cơn
giông. Tôi nghĩ thầm: nếu có giông thì Moskva sẽ từ chối tiếp nhận máy bay.
Tuy nhiên cũng có thể chớp lóe hồi lâu rồi sẽ hết, và cơn giông cùng với mưa sẽ trút xuống một nơi nào khác, ở cách xa thủ đô.
Chuyện như thế cũng thường xảy ra.
Tôi đi đi lại lại bên sân bay rất rộng màu đen, trên đó những máy bay vận tải khổng lồ đang nghỉ ngơi, đậu xuống hay đang chuẩn bị cất cánh. Vừa đi tôi vừa nghĩ về cha tôi.
Cách đây không lâu, mới ngày hôm qua thôi, vào giờ này, cuộc đời tôi còn đầy tươi đẹp. Tôi có người cha mà tôi yêu quý. Trên đời này, ông là con người tốt nhất đối với tôi.
Và cái chính là chúng tôi rất hiểu nhau. Chúng tôi tựa như hai người bạn, một người lớn tuổi hơn, một người trẻ hơn. Ông cũng ưa thích những gì mà tôi ưa thích, và tôi cũng không chịu nổi những gì mà ông không chịu đựng được.
Thẩm mỹ, quan điểm giống nhau, khát vọng trùng hợp… Còn ước mong gì hơn nữa?
Tôi đã không ý thức được hạnh phúc của mình. Lẽ nào con người có thể coi việc có khả năng thở đầy lồng ngực mà không bị tắc nghẽn, không bị khò khè là hạnh phúc được chăng? Có lần tôi đã nói:
- Giả sử như ba con mình mà là vợ chồng thì chắc hẳn đó là một cuộc hôn nhân lý tưởng.
- Sao lại nói thế, – ông đáp, – người ta vẫn bảo tính tình trái ngược thì thường hợp nhau hơn…
Tôi tự nhiên phì cười, cả cha tôi cũng mỉm cười. Cả hai chúng tôi đều cùng nghĩ về một chuyện: tính tình của ông và của mẹ tôi khác hẳn nhau, thế nhưng vẫn không thành được cuộc hôn nhân lý tưởng.
Mặc dù cả hai người đều gắn bó với nhau bằng cách riêng của mình, hoặc ít nhất thì họ cũng cho rằng như thế, nhưng để được như vậy cũng tốn bao nỗ lực!
Tôi vẫn nhớ những câu chuyện kể về cuộc chiến tranh đã qua của cha tôi. Ông đã đi đến tận Berlin, ký tên mình vào cột nhà Quốc hội Đức. Cha tôi nói rằng ở đó có viết rất nhiều câu: “Chúng tôi từ Ryazan đến”, “Cuối cùng thì chúng ta cũng đi đến nơi!”, “Thế là chúng ta đã chiến thắng” và bao nhiêu là chữ ký…
- Ba ký vào cái cột ngoài cùng, ở phía dưới. – Cha tôi nói. - Thế nhà Quốc hội đó ở bên Đông Đức hay Tây Đức? – Tôi hỏi.
- Ở bên Tây Đức. – Ông đáp. – Ba rất muốn có dịp nào cùng con tới đó, con có thể tận mắt nhìn thấy họ của mình trên cái cột Đức.
Có một lần, hồi đại học năm thứ nhất, tôi bị bệnh, hình như là viêm phổi, bị ho, nhiệt độ cao. Tôi thường hay mê man, mỗi lần tỉnh lại là tôi thấy mẹ tôi ngồi bên giường nhìn tôi buồn bã. Cửa mở, cha tôi bước vào, miệng cười, nhưng cặp mắt đầy lo âu…
- Không sao hết, – ông nói. – Rồi sẽ khỏi thôi…
Cúi xuống bên tôi, ông liệng một trái cam lên tấm mền. - Khẽ chứ nào… – mẹ tôi nói.
- Việc gì mà phải khẽ. – Cha tôi đáp.
Còn tôi thì mỉm cười. Tôi cảm thấy sung sướng, ấm cúng đến mức tôi nhắm mắt lại và cơn sốt như bị đẩy lùi đi. Cả gian phòng như tỏa đầy hương thơm tươi mát của trái cam. Tôi thèm được ăn một miếng cam nhỏ và tôi thì thào rất khẽ, nhưng cha mẹ tôi đều nghe thấy.
- Con muốn ăn cam…
Rồi mẹ cắt cho tôi một miếng cam và tôi mỉm cười, sung sướng vì cha mẹ thương yêu tôi, tôi biết, thương yêu và lo lắng cho tôi, tôi là cái quý báu nhất của họ.
Từ khi ấy, hương thơm của trái cam đã trở thành hương thơm của tuổi thơ tôi, của sự vô tư lự, của sự ấm cúng, của ý thức nhẹ nhàng và thanh thản về sự tối cần thiết của tôi đối với hai người đang sống kề cận – cha tôi và mẹ tôi…
Ngay từ xa tôi đã nhìn thấy Ivan Fomich và gã phó của cha tôi đang từ tiệm ăn lại phía sân bay.
Họ đi thong thả, không nhìn thấy tôi, và sôi nổi nói với nhau về điều gì đó mà tôi nghe không rõ, vừa cười và hình như họ vừa ngắt lời nhau.
Khi họ gần hơn, tôi thấy gã phó đang kể gì đó, hẳn là rất tức cười, bởi vì tự gã cười trước tiên về những lời gã nói, còn Ivan Fomich mỉm cười vẻ hạ cố, vừa đi vừa nhai bánh rán.
Ngay lúc ấy họ nhìn thấy tôi. Ivan Fomich lập tức làm cho cặp mắt có vẻ buồn rầu. Gã phó dừng lại và im bặt, tựa như bên trong gã vừa bấm một nút tắt nào đó.
Tôi bước lại gần họ.
- Vẫn chưa có máy bay à? – Không hiểu sao Ivan Fomich lại hỏi tôi bằng giọng thì thào, cố nuốt vội cái bánh. - Chưa có. – Tôi đáp. – Tôi sẽ lại chỗ chỉ dẫn hỏi thêm một lần nữa.
- Borya Boriskov đã đi lại đó rồi. – Gã phó nói.
Ivan Fomich cuối cùng cũng nuốt xong miếng bánh. Ông ta cúi đầu, thở dài, móc túi lấy khăn ăn và với vẻ u buồn dùng nó lau cặp má hồng tươi của mình.
Borya Boriskov chạy lại rất nhanh và vội vã nói: - Còn hai mươi phút nữa…
- Ta đi thôi. – Gã phó ra lệnh và rảo bước lên trước. Chẳng bao lâu chúng tôi đã nghe thấy:
- Chuyến bay từ Soa đang tới…
Sau đó trên sân bay hiện ra cái bóng khổng lồ xòe ra hai bên đôi cánh rất lớn và chiếc máy bay dần hạ xuống thấp…
Taya
Khi tròn mười sáu tuổi, tôi đã yêu lần đầu tiên trong đời. Anh ấy lớn hơn tôi khá nhiều. Ít nhất cũng khoảng mười lăm tuổi.
Chúng tôi ở cách nhau cũng không xa. Nhà tôi ở đại lộ Sretensky, anh ấy ở phố Golovin Nhỏ. Ngôi nhà tôi ở rất to đẹp, hồi xưa thuộc Hội bảo hiểm “Nước Nga”. Các căn hộ trong ngôi nhà rất rộng, có nhiều phòng, trần nhà cao, bếp lớn, hành lang có thể đi xe đạp được, mà quả thực bọn trẻ chúng tôi cũng đã làm như vậy.
Anh ấy sống trong một ngôi nhà nhỏ, trông có vẻ hoàn toàn kiểu tỉnh lẻ, có sân bao quanh; chiều chiều những cửa sổ nhỏ trong ngôi nhà tỏa ánh sáng ấm cúng nom thật cổ xưa!
Mùa xuân, trên sân ngôi nhà phủ đầy cỏ xanh tươi trông thật sạch sẽ. Lá non của những cây mọc trong sân – những cây bạch dương rì rào thật giống như ở làng quê!
Không một ai, mà trước hết là người tôi yêu, lại ngờ được rằng vào những buổi tối, tôi đã đứng rất lâu bên ô cửa sổ nhà anh ấy – những cửa sổ có treo rèm sọc màu xanh nhạt và trong suốt.
Cứ hết buổi tối này qua buổi tối khác tôi quan sát cuộc sống của anh ấy. Nó như bị tách khỏi cái sân lạnh lẽo tối tăm phía ngoài cửa sổ, tách khỏi phố Sretensky ồn ào ở đâu đó gần bên, tách khỏi những khách bộ hành đang rảo bước trên đường phố Golovin Nhỏ…
Anh ấy là thầy giáo, dạy vẽ ở trường phổ thông tôi học, sống với một cô em gái lùn và gù lưng. Mỗi tối tôi thấy cô ta ngồi bên cái giường cũ phủ một tấm vải đã bạc màu, còn anh ngồi quay ghế lại phía cô ta, cầm lấy những tờ giấy gì đó từ trên bàn viết và đọc to lên.
Cô ta lắng nghe anh đọc, tay mân mê mớ tóc vàng phủ dài xuống trán.
Cô ta xấu một cách bi thảm, gù lưng, bé nhỏ, gầy gò, mặt tái nhợt, mũi quá lõ, chỉ có mái tóc là đẹp, dày dặn và dài, màu vàng sẫm tuyệt đẹp. Nhưng thực lòng, trong giây phút đó, tôi chỉ muốn được ở vào địa vị của cô ta, dù cho có vì thế mà phải mọc bướu trên lưng như cô ta thì tôi cũng cam lòng!
Không biết anh đọc cái gì cho cô ta? Thơ hay văn xuôi? Hay đó là một vở kịch? Hay hồi ký?
Tôi nhìn thấy cái cổ ngăm đen của anh, đường nét trông nghiêng rõ ràng của anh – mũi thẳng, cằm nhọn, môi trên có một chỗ lõm chút xíu. Thỉnh thoảng anh lại vung tay – anh có những ngón tay dài và đẹp như của người nhạc sĩ bẩm sinh, mặc dù hình như anh không chơi một nhạc cụ nào.
Căn phòng không lớn, khá ấm cúng, được chiếu đủ sáng bởi một cái đèn bàn có chụp màu xanh lá cây đặt trên bàn viết.
Căn phòng đập vào mắt bởi sự xếp đặt những đồ vật tưởng như không thể hòa hợp được với nhau nhất, thí dụ như cái bàn viết trên mặt có xếp sách vở và cái thảm treo tường kết bằng những mảnh vải khác nhau, những tấm thảm như thế thường gặp trong những ngôi nhà tranh của nông dân; trên sàn nhà là tấm thảm chùi chân kiểu hoàn toàn thôn quê, trong khi ở góc nhà là một cái tủ sách cổ kính ở cánh cửa có rèm màu đỏ thẫm.
Và còn lại cái tủ đặt ngay đầu giường, trên mặt có ấm nước samovar bằng đồng. Cái ấm samovar như thế thường thấy ở các nhà thôn quê chứ không thể có ở nhà riêng của một giáo viên phổ thông ở Moskva được.
Tôi thường đứng rất lâu. Nếu là mùa đông thì có khi tôi về nhà bị cóng lạnh hết cả.
Nhưng cuộc sống ở phía bên kia cửa sổ, sau bức rèm màu xanh nhạt, vẫn tiếp diễn theo trình tự của nó. Hai anh em uống trà, sau đó cô em dọn bàn, và người anh lại ngồi vào bàn viết, viết gì đó vào những tờ giấy ngay ngắn. Cô em ngồi khâu trên giường, xỏ chỉ vào kim, cắn đầu sợi chỉ, dùng cái đê đè đường chỉ khâu, rồi lại khâu tiếp. Khâu cái gì thì tôi nhìn không rõ, nhưng tôi đoán cô em hoặc đang sửa áo sơ mi, hoặc mạng đồ lót cho anh…
Tôi cứ đứng hoài, nhìn vào cửa sổ, nếu như có ai đó đi ngang qua, tôi cố làm ra vẻ thản nhiên, tựa như đang đứng đợi bạn gái chẳng hạn thì có sao đâu?
Nhưng sân nhà rất vắng vẻ, hầu như chẳng có ai đi qua, hơn nữa trong bóng tối khó mà nhận ra tôi.
Ở trường, tôi điềm đạm ngồi sau bàn học, lắng nghe anh, nhìn anh ghi điểm vào sổ của lớp.
“Liệu anh có thể hình dung nổi – tôi nghĩ thầm – rằng ngày hôm qua, suốt buổi tối tôi đã đứng bên cửa sổ nhà anh nhìn thấy cô em gái anh vặn máy hát. Máy hát vang lên một điệu nhạc vui vẻ nào đó, thậm chí qua cửa sổ đóng kín cũng lọt ra những âm thanh nhảy múa. Rồi anh nắm lấy tay cô em, ôm cô, bắt đầu quay tròn trong phòng và cười vui. Cả cô em cũng cười, còn tôi thì thấy thương cô em kinh khủng: bị gù, thấp chưa đến cằm anh; và thấy thương cả anh nữa. Nhưng dù sao thì tôi cũng càng yêu anh mãnh liệt hơn, vì anh thật đôn hậu, vì anh thương em gái anh và còn vì anh hoàn toàn thờ ơ với tôi cũng như với các cô gái khác trong lớp – mà tôi thì tôi biết, theo sự thừa nhận chung, rằng tôi rất xinh, xinh nhất trong đám.”
Đến năm lớp mười, tình yêu của tôi kết thúc. Tại sao? Tôi không biết. Đơn giản là tôi trở lại trường sau kỳ nghỉ hè. Người đầu tiên tôi nhìn thấy là anh. Anh đứng cạnh cầu thang, rám nắng, mặc áo sơ mi trắng. Anh mỉm cười với tôi, nhưng tim tôi không hề thấy thắt lại. Không một chút nào hết. Đột nhiên tôi bỗng kinh ngạc khi thấy mình hoàn toàn dửng dưng đối với anh. Rằng tất cả đã hết. Sao lại thế? Tại sao? Giá mà tôi hiểu được.
Sau này tôi nghe nói anh đã lấy vợ, rằng vợ anh là cô nuôi dạy trẻ trong nhà trẻ đã không hòa thuận được với cô em gù, và cô em tội nghiệp buộc phải đi nuôi trẻ cho nhà ai đó.
Tôi rất thương cô ta. Cuộc sống êm đềm cùng người anh của cô ta mà tôi đã lén quan sát từ thuở nào kết thúc thật đáng buồn…
Thuở nào ư? Tôi có cảm giác chuyện ấy đã lâu lắm rồi, gần cả trăm năm về trước. Và tôi thường thật sự kinh ngạc tự hỏi mình: “Lẽ nào lại chính là tôi, tự nguyện đứng hàng giờ bên cạnh cửa sổ nhà anh? Rồi kiên nhẫn đứng ngắm anh. Rồi cho rằng mình yêu anh và sẽ không bao giờ yêu một ai khác ngoài anh?…”
Sau đó tôi mê diễn viên điện ảnh Albert Stakh-Zaborsky. Ông ấy nổi danh như sấm vào thời mẹ tôi còn trẻ, cả lúc thơ ấu của tôi ông vẫn còn nổi tiếng, nhưng giờ đây tiếng tăm của ông dần dần lụi tàn. Ông già đi rất nhanh và những tài năng trẻ lấn át ông, như đợt sóng tràn vào điện ảnh.
Ông đã có vợ, nhưng như người ta thường nói, quan hệ giữa ông ấy và vợ rất phức tạp, mỗi người sống cuộc sống riêng, không ai thắc mắc ai.
- Chúng tôi là bè bạn, – ông giải thích với tôi. – Bạn bè thực sự và thủy chung nhất!
Một hôm ông mời tôi đi coi một bộ phim cũ trong đó ông đóng một vai phụ. Thuở ấy chính nhờ bộ phim này mà đạo diễn điện ảnh danh tiếng Muravsky đã để ý đến ông, khuyên người bạn mình là nhà đạo diễn điện ảnh Kholmogorov “thử” cậu bé, và người ta đã giao cho Stakh-Zaborsky đóng vai chính trong bộ phim kế tiếp của Kholmogorov.
Tôi thấy trên màn ảnh một cậu thiếu niên gầy gò, vai so. Cặp mắt màu nhạt của cậu tựa hồ như chỉ hướng vào tôi. Cậu chạy
băng băng trên đồng cỏ, vừa bắn súng, vừa nhảy lên toa tàu hỏa đang chạy ngang qua, mái tóc vàng của cậu tung bay trước gió.
Giống như một tên cướp biển trẻ, cậu làm điệu công khai. Cậu làm duyên làm dáng bằng ánh mắt, bằng nụ cười, bằng hàm răng trắng, bằng cả thân hình mảnh mai khỏe mạnh của mình.
Tôi liếc nhìn người ngồi cạnh mình. Và tôi bỗng thấy những giọt lệ chảy trên má ông. Tôi vội đưa mắt nhìn đi chỗ khác giả bộ như không thấy gì hết.
“Hẳn là bây giờ ông ấy khổ sở lắm khi thấy mình thuở trước.” – tôi thầm nghĩ.
Chúng tôi bước ra khỏi rạp chiếu phim. Ông hỏi: - Em có thích bộ phim không?
- Không thích lắm, – tôi đáp.
- Thế có thích tôi không?
- Thích ạ.
Chúng tôi lặng thinh bước tiếp vài bước. Ông nói: - Em hình dung mà xem, đó là tôi tự nhảy đấy, bằng chính chân của mình!
- Thế mà em tưởng rằng có người đóng lồng vai. – Tôi nói. - Đâu có! Hồi đó thì tôi đã giận rồi, nếu có ai đó lại nghĩ rằng tôi gặp khó khăn trong việc nhảy…
- Vậy mà anh không hề sợ hãi ư? – Tôi hỏi.
- Một chút xíu thôi, nếu nói thành thật. – Ông đáp. Tôi biết ông thích tôi. Có lần ông nói với tôi:
- Với em thì anh thấy trẻ ra, anh lại là cậu thiếu niên… Thật là tức cười khi nghe những lời nói ấy từ miệng một người không còn trẻ, thân hình đã nặng nề, một người thích hợp với cái câu mòn sáo: trên khuôn mặt của ông ấy vẫn còn giữ được dấu vết của sắc đẹp thuở xưa.
Quả thực là những dấu vết ấy vẫn còn lưu lại. Ông có cái mũi thuần chủng, cặp môi đẹp, mái tóc đến giờ vẫn còn rậm. Nhưng mà không! Lẽ ra ông không nên dẫn tôi đi xem bộ phim cũ. Sự khác biệt giữa cậu bé mắt to, thân hình mảnh dẻ với người đàn ông đẹp đẽ nay đã luống tuổi thật quá lớn.
Tôi cảm thấy rõ ràng là sự si mê lần này của tôi tắt đột ngột. Đồng thời tôi thấy thương hại Stakh-Zaborsky, mặc dù tôi tránh gặp ông, nhưng hầu như chiều tối nào ông cũng đến nhà tôi. Lần nào ông cũng tìm được những lí do nghe có vẻ rất chu đáo: lúc thì chợt đi ngang qua và ngó thấy ngọn lửa nhỏ, lúc thì mang đến cho mẹ tôi cuốn sách đã hứa, lúc thì lấy được vé xem hát cho cha mẹ tôi, lúc thì vé cho tôi đi nghe hòa nhạc ở nhạc viện…
Tôi vừa bước vào phòng là ông liền phấn chấn hẳn lên. Ông nói bông đùa và cười trước nhất về những câu đùa của mình, đồng thời không ngừng đưa mắt theo dõi tôi, cặp mắt trung thành như một con chó không rời khỏi tôi, còn tôi thì thấy tức cười, rồi bắt đầu thương hại ông. Ngay sau đó, tôi lại tự giận mình vì đã thương hại ông, rồi tôi bực tức ông: vì cớ gì mà tối nào ông cũng đến nhà tôi? Tôi cố châm chọc ông, thật đau. Bằng lời nói cay độc, tôi hầu như thẳng thừng chế nhạo tuổi tác đã xế bóng của ông như cách tôi diễn tả; thân hình nặng nề,
sự cố công làm cho mình trẻ lại. Ông còn chịu đựng tất cả và nhìn tôi bằng con mắt trung thành như chó.
Sau đó tôi thi đậu vào trường đại học tổng hợp. Ngay năm đầu tôi đã đi nông trường thu hoạch khoai tây. Khi trở về thì tôi được biết là Stakh-Zaborsky đã chết. Cái chết của ông thật nhẹ nhàng: sáng ra ông không còn thức giấc nữa.
Mẹ tôi rất thương hại ông. Thậm chí bà còn khóc mỗi khi nhớ lại rằng ông đã có thời đẹp trai, hào hoa phong nhã thế nào…
- Tuổi trẻ của tôi cũng chết theo ông ấy. – Mẹ tôi nói. Mẹ tôi thật tội nghiệp! Dù có yêu thương bà đến mấy thì tôi cũng không thể không thú nhận rằng tuổi trẻ của bà đã kết thúc từ sớm hơn rất nhiều, bởi mẹ tôi đã bốn mươi lăm. Mà theo tôi thì ở tuổi đó, bà tuy chưa hẳn đã già thực sự nhưng ít nhất cũng khá đứng tuổi.
Ông ấy đã biến khỏi cuộc sống của tôi như vậy. Có lẽ ông ấy là người duy nhất yêu tôi vào dạo đó, và thật lạ lùng, lúc ấy tôi đột nhiên cảm thấy rằng mình thiếu thốn ông ấy.
Khi có ai đó bấm chuông ngoài cửa nhà tôi, tôi chạy ra mở cửa, và luôn có cảm giác là ông ấy đang đứng bên ngưỡng cửa, cao lớn, tóc bạc, dáng nặng nề, nhìn tôi bằng cặp mắt thuở nào còn tuyệt đẹp và nói một câu gì đó đại loại như: “Tôi tiện thể đi ngang qua nên ghé vào chơi…”
Cũng có thể chính con người ấy, người mà tôi đã nhạo báng gần như thẳng thừng, đã dạy cho tôi biết phân biệt tình cảm chân thực với tình yêu chốc lát, trò tán tỉnh hoa lá, niềm say mê vừa bùng lên đó rồi lại tắt đi ngay…
Tôi tốt nghiệp đại học, bắt đầu dạy tiếng Đức ở trường dành cho thanh niên công nhân.
Dạo đó cha mẹ tôi được phân một căn hộ mới ở đường bờ sông Kotelnich, cách tòa nhà chọc trời không xa. Chúng tôi dọn nhà khỏi khu chung cư trên đại lộ Sretensky, nơi tôi đã sinh ra và lớn lên, để dọn về một căn hộ riêng biệt. Lần đầu tiên trong đời tôi có được một phòng riêng của mình. Đó thật là một chuyện không quen đối với tôi – bất cứ lúc nào, vào bất cứ giờ nào tôi cũng có thể đóng cửa, khóa trái lại, ở trong phòng một mình và làm bất cứ việc gì mà tôi thích: đọc sách hoặc ngủ, hoặc nghe nhạc, hoặc nghĩ ngợi một chuyện gì đó… Và không một ai, không một người nào có thể quấy rầy tôi.
Thường những lúc đó tôi nghĩ về Valentin Zdrokov. Anh ấy học ở lớp mười một, trẻ hơn tôi hai tuổi, làm phó quản trị một câu lạc bộ sáng tác.
Công việc của anh, như người ta thường nói, cũng sạch sẽ. Cần phải biết cách nói chuyện với vô số khách tới thăm, cấp giấy vào cửa, chỉ huy một cách lịch sự ba nhân viên kiểm soát và bốn người trực nhật.
Anh hoàn tất công việc của mình rất tốt – rất khéo léo, lịch sự, tỏ ra rất có giáo dục, mặc dù mẹ anh ít chú ý tới anh. Bà là một nhà nghiên cứu vi sinh vật, suốt từ sáng tới chiều làm việc ở viện nghiên cứu – nơi bà phụ trách một phòng thí nghiệm. Bà thường hay đi công tác, kiếm được khá nhiều tiền, nhưng bà là người bừa bãi, không biết gì về nội trợ, chẳng khi nào biết
mình có bao nhiêu tiền, liệu có đủ sống cho tới kỳ lương tới hay không.
Bù lại, Valentin biết rõ họ có bao nhiêu tiền và có đủ sống hay không.
Anh biết điều hành những vấn đề tài chính một cách khéo léo, bởi qua một vài chi tiết, tôi hiểu rằng anh khá keo kiệt nhưng lại ra sức che giấu tính keo kiệt của mình và rất thích đóng vai chàng trai khờ khạo, tiêu xài rộng rãi, không tiếc cái gì hết.
“Cứ việc ăn xài đi, Vasya ạ, tiền bạc hồi này rẻ rề.” – đó là câu nói cửa miệng ưa thích của anh. Nhưng thực ra thì tiền bạc của anh không hề rẻ rề chút nào. Anh biết giá trị của nó và biết tính từng đồng rúp một.
Tất cả những cái đó mãi về sau này tôi mới hiểu, còn dạo ấy thì tôi rất ưa anh: đẹp trai, thông minh và dường như không độc ác.
Thực ra thì anh có vẻ hơi u sầu, đa cảm – tôi kết luận như thế vì anh thường hay khóc mỗi khi coi những phim Ấn Độ mùi mẫn hay một vở kịch cảm động trên ti-vi.
Anh kể với tôi rằng cha anh ly dị mẹ khi anh mới được năm tuổi. Anh vừa kể vừa khóc, nói rằng đến tận bây giờ anh vẫn thấy thiếu một người cha. Anh khóc vì thương bản thân mình.
Mẹ anh cho rằng trước hết anh là một diễn viên bẩm sinh. Theo bà thì thiên tư diễn xuất của anh thật xuất chúng. Anh biết nhập vào cái vai mà anh thấy thú vị với mình hơn cả. Lúc thì anh giả vờ làm một chàng trai ruột để ngoài da; lúc thì lại là một người lao động chăm chỉ nghiêm túc, không nghĩ gì khác
ngoài việc học hành; lúc thì lại làm một người nhẹ dạ, vui vẻ, gần gũi mọi người.
Cần phải công bằng mà nói rằng trong mỗi vai anh đều rất chân thành theo cách riêng của mình, để hết tâm hồn vào chúng.
Nhưng điều chủ yếu nhất là anh rất yêu bản thân mình. Và anh rất biết cách xoay xở. Tôi chưa hề bao giờ gặp một người nào lại biết cách xoay xở, thu xếp cuộc sống một cách ấm cúng, tiện nghi đến như anh.
Anh biết với ai thì cần tán dóc những chuyện vặt vãnh, với ai thì cần hỏi thăm kỹ càng về tình hình sức khỏe, với ai thì cần phải kiếm một cuốn sách mới nhất để tặng, với ai thì nên cùng đi xem một trận đấu khúc côn cầu, người nào cần mời đi xem ở nhạc viện, nghe hòa nhạc; còn ai thì phải mời đến câu lạc bộ sáng tác xem buổi tạp kỹ nghiệp dư.
Cái vẻ hồn nhiên của anh, tính vui vẻ tự nhiên và nhất là vẻ hấp dẫn bẩm sinh đã phục vụ anh đắc lực, cho nên lúc nào anh cũng thành công.
Anh chuyển từ lớp mười sang lớp mười một ở trường thanh niên công nhân là có suy nghĩ chín chắn. Trước hết hiệu trưởng ở đây là cha của người bạn thời ấu thơ của anh, thuở nào vẫn cùng nhau đi nhà trẻ. Vậy là có thể hy vọng cha của người bạn sẽ giúp anh có được bằng tốt nghiệp loại tươm tất. Cái đó sẽ quyết định việc vươn lên cao nữa – sẽ giúp anh thi đậu vào đại học. Sau nữa, khác với trường phổ thông bình thường, ở đây có tới ba ngày nghỉ và có thể, như cách anh nói, đi kiếm thêm được.
Anh rất cần cù, chăm chỉ, điều này không ai có thể phủ nhận được, có chí và rất muốn mau chóng tự lập.
Người ta giúp anh trở thành phó quản trị câu lạc bộ sáng tác, tiền lương cũng thấp, nhưng anh đã tạo dựng được những mối quen biết cần thiết và có ích. Ngoài ra, sống cùng mẹ bằng tiền lương của bà, anh có thể dành toàn bộ tiền lương của mình vào sổ tiết kiệm, dành dụm để mua ô tô.
Chúng tôi gặp gỡ nhau trong khoảng gần một năm. Thú thật, tôi cũng không hiểu có phải anh thực sự say đắm tôi, hay là anh đã khéo léo – theo thói quen thông thường của mình – đóng vai và nhập vào vai mà anh cần.
Mẹ tôi khẳng định:
- Cố nhiên là nó say mê con, chứ còn sao nữa?
Theo ý của mẹ tôi thì không thể nào lại không say mê tôi được. Tôi cũng không trách bà điều này. Sự mù quáng của tình mẹ con bao giờ cũng mạnh.
Ngoài ra, bà cũng ưa Valentin, bởi vì anh có một đặc tính hiếm thấy: hấp dẫn được bất cứ ai mà anh muốn, nhất là với các bà đứng tuổi.
Anh đã vừa cười vừa thú nhận với tôi:
- Anh tác động vào bản năng người mẹ luôn có trong họ, và còn vào tuyến nước mắt của họ nữa nên không bao giờ sai cả. Anh cười rũ ra, còn tôi thì giận anh, và nói rằng tính trơ tráo làm khô héo tâm hồn còn tệ hơn gió hanh thổi vào đồng cỏ.
Tuy nhiên rồi tôi cũng tha thứ cho anh về cái thói trơ tráo ấy… Tha thứ cả cái tính hưởng thụ ai cũng biết và thậm chí cả thói giả dối của anh nữa. Tôi có cảm giác rằng tất cả những cái đó có thể chấp nhận được và chúng sẽ qua đi với thời gian, suy cho cùng thì ai mà chả có nhược điểm?
Tôi đã tin vào điều đó. Bởi vì tôi cứ muốn tin như vậy. Và anh cũng hiểu là tôi muốn tin. Đối với anh thì mọi cái đều được kiểm nghiệm, cân nhắc chính xác như trong toán học.
Giờ đây, khi đã trôi qua một khoảng thời gian, tôi đã hiểu ra tất cả những gì đáng lẽ phải hiểu từ hồi ấy.
Trước khi anh tốt nghiệp ở trường, tôi đã trao đổi, dặn dò, gửi gắm với tất cả các đồng nghiệp của tôi và các ủy viên hội đồng sư phạm.
Người ta đã chiếu cố cho anh. Tuy nhiên cũng phải công bằng để thấy rằng anh đã học ngày học đêm và cuối cùng anh đã nhận bằng tốt nghiệp tươm tất. Mọi chuyện sau này chỉ còn phụ thuộc vào mỗi mình anh mà thôi – thi đậu vào Học viện quan hệ quốc tế.
Anh nói với tôi:
- Dù sao thì anh cũng phải thi vào cho bằng được! Anh không còn thời gian nữa!
- Tại sao lại không còn? – tôi hỏi.
- Bởi vì… nếu anh thi trượt, người ta sẽ lấy anh vào quân đội.
- Thế thì đã sao nào? Em có người anh em họ phục vụ hai năm trong quân đội, sau đó trở về khỏe mạnh, rắn rỏi hẳn lên và mùa thu năm ngoái anh ấy đã thi đậu đại học, đúng vào trường mà anh ấy muốn…
Valentin không cười, chăm chú nhìn tôi.
- Thế nào, em nói nghiêm chỉnh đấy à?
- Hoàn toàn nghiêm chỉnh.
- Nếu như vậy thì em thật quá ngờ nghệch.
- Ngờ nghệch theo nghĩa nào kia? – Tôi hỏi.
- Theo mọi nghĩa. Ngờ nghệch như tiếng nghé vậy. Tôi đã định giận anh, nhưng sau lại đổi ý. Tuy vậy những câu đó của anh vẫn đọng lại trong tâm hồn tôi. Vậy là tôi ngờ nghệch như tiếng nghé hay sao?
Cứ giả thử như vậy đi. Nhưng thế thì anh phức tạp cỡ nào? Cấp hai, cấp ba hay loại siêu cấp không sao tính nổi? Rồi sau thì mọi chuyện được quên đi, cả những lời nói của anh, cả nỗi giận không nói ra của tôi và bắt đầu thời kỳ thi cử của anh.
Valentin suốt ngày ngồi lỳ ở thư viện, đọc đủ mọi thứ sách giáo khoa và tài liệu.
Cứ cách một ngày tôi lại tới anh, cố “đẩy” anh lên về môn tiếng Đức. Tôi biết học viện quan hệ quốc tế Moskva rất chú ý đến kiến thức ngoại ngữ.
Ngoài tôi ra, còn có một người bạn của mẹ anh, một nhà sư phạm về tiếng Nga và văn học, cũng đến với anh. Anh viết chính tả do ông này đọc cho và dần dần ít mắc lỗi hơn.
Cũng như đa số đàn ông, anh không có mấy năng khiếu về ngôn ngữ, tôi đã phải tốn nhiều công sức để anh nắm được sự tương hợp của các thời và nhớ cách chia động từ trong văn phạm tiếng Đức – một trong những văn phạm phức tạp nhất thế giới.
Mẹ tôi và cha tôi rầy tôi là tôi nghỉ hè không ra sao cả. Mẹ tôi buồn bã nói:
- Con hoàn toàn không nghỉ ngơi gì hết…
Cha tôi cũng phụ họa:
- Rồi thì cả năm tới con sẽ làm việc thế nào, nếu con không nghỉ ngơi chút nào?
Tôi vô tư lự đáp lại:
- Con sẽ còn có nghỉ đông và nghỉ xuân nữa. Rồi con sẽ tìm cách bù lại.
Tôi rất muốn cho Valentin trở thành sinh viên của Học viện quan hệ quốc tế Moskva.
Hồi trước, có lần mẹ tôi đã nói:
- Tất cả những người đàn bà trong gia đình ta, cả mẹ, cả bà, cả bà cố, mọi người đều giống nhau ở một điểm: đều biết yêu mãnh liệt, gắn bó cả tâm hồn với người mình yêu, và thậm chí nếu cần, biết hy sinh cả đời mình cho người yêu. Thế nhưng nếu có cái gì đó không vừa ý, không thích, làm tách đẩy xa ra, thì cũng có thể trong phút chốc, quyết liệt dứt bỏ những mối quan hệ chặt chẽ vững bền nhất.
Tôi được biết hồi xưa bà ngoại tôi đã bỏ chồng. Vào những năm ấy, đầu thế kỷ của chúng ta, việc đó thật nghiêm trọng.
Ông chồng của bà ngoại tôi là một quan chức đặc nhiệm bên cạnh tổng đốc khu Penza, một ông lớn giàu sang về đủ mọi phương diện.
Đã xảy ra chuyện gì đó, chuyện gì thì mẹ tôi không nhớ, hoặc vì lẽ gì đó mà không muốn kể cho tôi nghe, rồi một đêm kia bà ngoại tôi lén bỏ đi khỏi nhà ông kia về Moskva, sống nhờ nhà người bạn gái. Người bạn gái này giúp bà tìm được việc dạy học thêm.
Sau đó, bà gặp một sinh viên, cũng giống như bà, dạy học cho lũ con cái bọn thương nhân. Họ đã yêu nhau và lấy nhau theo hôn nhân trước pháp luật bởi vì bà vẫn còn bị coi là vợ của viên quan chức đặc nhiệm do đã kết hôn với ông kia ở nhà thờ.
Bà cùng với ông sống bên nhau gần bốn chục năm rồi cùng chết trong vòng một tháng. Bà chết trước. Ông chết sau bà hai tuần lễ. Mẹ tôi bảo rằng hai người yêu nhau rất ít khi gặp được cái hạnh phúc ấy – chết gần như cùng một lúc.
Mà ông bà ngoại tôi đã yêu nhau rất tha thiết. Mẹ tôi được sinh ra vào cuối những năm ba mươi, là người đầu tiên đã tự giễu mình:
- Tôi nhất định phải là người hạnh phúc lắm vì tôi là đứa con ngoài hôn thú mà!
Bởi quả thực là cha mẹ của bà cho đến chết vẫn chưa hề làm lễ thành hôn.
Tôi cho rằng mẹ tôi có hạnh phúc trước hết là nhờ vào tính cách nhu thuận hay chiều ý bà của cha tôi. Lúc nào ông cũng
mềm như sáp hay đúng hơn là như bơ, muốn trát sao thì nên thế…
Không, tính cách của Valentin hoàn toàn không dễ bảo. Tôi đã hiểu ra điều đó từ lâu, nhưng tôi đã cố gắng chấp nhận tất cả những gì tôi không thích trong anh. Mẹ tôi vẫn dạy tôi phải biết tiếp nhận con người ta với tất cả những ưu cũng như khuyết điểm.
Đến giữa tháng Tám thì tôi được biết Valentin thi đậu vào Học viện quan hệ quốc tế Moskva.
Theo tôi hiểu thì tôi còn vui mừng nhiều hơn cả anh. Anh tiếp nhận niềm hân hoan của tôi với một vẻ hạ cố, tựa như đã biết trước rằng không thể nào lại khác được.
Và chính khi đó, hai tuần lễ trước khi nhập học, đã xảy ra vụ xích mích đầu tiên giữa chúng tôi.
Tôi đến nhà anh vào một buổi tối thứ Bảy.
Chúng tôi định đi coi phim, bộ phim Pháp Những chứng cớ hiển nhiên.
Valentin cạo râu, tắm rửa, mặc chiếc áo sơ mi trắng và chiếc áo khoác thể thao màu xanh dương với những cái nút áo sáng loáng.
Vừa chải tóc ướt do vừa tắm xong, vừa chăm chú ngắm nghía mình trong gương, anh hỏi:
- Trông anh cũng được đấy chứ, em thấy thế nào? Tôi nói:
- Em không chịu nổi những người đàn ông quá ngắm nghía mình trước gương.
Anh mỉm cười quay người lại phía tôi:
- Vậy theo em thì người đàn ông không được soi gương, cạo râu, rửa mặt, mà phải lôi thôi lếch thếch hay sao? - Nói phóng đại làm chi vậy? – Tôi hỏi. – Có thể soi gương, nhưng không ngắm nghía mình hàng giờ, có thể cạo râu nhưng không xoa mặt mày hồi lâu và không nói rằng trông mình cũng được đấy chứ!
Anh cau mày, làu bàu:
- Thật khó tính và ác độc!
Rồi ngay đó anh nở nụ cười thật rộng để nhấn mạnh rằng anh nói đùa và gọi tôi là ác độc chỉ vì thuận miệng thôi… Chúng tôi đã định đi ra thì tôi nhìn thấy phía trên bàn – gần cửa sổ – có treo một bím tóc không dài, màu hạt dẻ, tết rất chặt.
- Lại còn cái gì thế này? – Tôi hỏi.
Anh thản nhiên đáp:
- Chuyện dài lắm.
- Thì anh cứ kể đi, – tôi đề nghị.
Anh hỏi:
- Em muốn anh kể lại câu chuyện về cái bím tóc này phải không?
- Tất nhiên là em muốn, nếu không thì em đã chẳng đề nghị. - Thế thì em nghe đây, – anh ngồi xuống giường và bắt đầu. – Trước đây có một cô gái, nói đúng hơn thì cô ta vẫn còn tồn tại cho tới ngày nay. Cô ta yêu anh. Rất yêu. – Anh nhắc lại, rút từ trong túi áo khoác ra bao thuốc lá “Thủ đô”.
Tôi lắng nghe, không ngắt lời. Anh châm thuốc hút. - Còn anh thì rất tiếc là không yêu cô ta.
- Tại sao vậy? – Tôi không kìm được, hỏi.
- Bởi vì anh đã yêu người khác – đó là em! Em hài lòng chứ? Tôi im lặng, anh nói tiếp:
- Anh với cô ta có trận dàn xếp với nhau rất nóng bỏng và phức tạp.
- Khi nào vậy?
- Đã lâu rồi. Từ trước tết cơ. Anh đã nói hết với cô ta, đã giải thích rằng giữa anh và cô ta không còn gì nữa, rằng anh không biết làm thế nào với bản thân mình, nhưng không thể yêu cô ta được.
- Thế cô ấy nói sao?
- Cô ta hỏi: “Điều đó là dứt khoát rồi à? Mãi mãi và vĩnh viễn phải không?” Anh bảo cô ta: “Phải rồi, mãi mãi.” Cô ta nói rằng dù bất kể thế nào vẫn yêu anh nồng cháy và sẽ không bao giờ hết yêu. Anh không tin. Anh nói rằng nói chung anh chẳng tin vào tình yêu. Nhưng đấy là anh nói bề ngoài vậy thôi. – Anh lập tức nói chữa ngay. – Em hiểu không, anh không nói nhăng cuội để cô ta khỏi bám lấy anh. Thì cũng phải thuyết phục cô ta bằng cách nào vậy chứ! Anh nói với cô ta rằng anh chẳng tin ai hết, cả cô ta với chuyện cô ta yêu anh, lẫn tình yêu nói chung.
Rồi anh nói tiếp:
- Lúc ấy cô ta hỏi rằng phải làm gì để anh tin cô ta? Cô ta sẽ làm mọi chuyện, chỉ cốt sao để anh tin. Và em có tưởng tượng được không…
Anh phá lên cười.
- Anh bỗng nhiên lại nói: “Cô có dám cắt bím tóc của mình không? Nếu yêu thì hãy cắt đi.” Mà bím tóc của cô ta thì tuyệt đẹp, có đúng không nào? Và rồi thì sao? Anh chưa kịp ngoái lại thì cô ta đã chộp lấy cái kéo trên bàn và xoẹt một cái – đã cắt mất bím tóc tuyệt vời của mình.
- Ngay lập tức thì cô ta không thể cắt được. – Tôi nói. - Thế nào, ngay lập tức ấy à? – Anh hỏi lại và chợt hiểu ra ngay. – Cố nhiên là cô ta phải loay hoay một chút, bím tóc dày, kéo tuy sắc, anh mới mài, nhưng cũng không làm đứt được cả bím tóc, nhưng rồi thì cuối cùng cô ta cũng cắt được. - Và suốt thời gian ấy anh cứ đứng nhìn cô ta cắt cái bím tóc đó? – Tôi hỏi.
Anh nhún vai.
- Thì anh biết làm gì được? Giá em mà biết cô ta cương quyết và dứt khoát thế nào!
- Em không muốn biết. – Tôi làu bàu nói.
Tôi hình dung ra cảnh cô gái ấy, một tay giữ bím tóc, còn tay kia cầm kéo. Và cô ráng cắt cái bím tóc, nhưng lọn tóc tết chặt không chịu đứt…
- Cuối cùng thì cô ấy cũng cắt được bím tóc à?
- Thì như em thấy đấy.
- Rồi cầm lấy trao tận tay anh?
Sau một lúc im lặng, anh đáp:
- Cô ta quẳng bím tóc vào mặt anh.
Tôi vỗ tay tán thưởng.
- Rồi lập tức bỏ đi ngay? Phải không? Thậm chí không thèm ngó tới anh và bỏ đi chứ gì?
Anh kinh ngạc hỏi:
- Làm sao em biết?
Tôi phá lên cười.
- Cái cô ấy khá thật! Phải là em thì em cũng đã làm vậy rồi! Quẳng cái bím tóc vào mặt anh rồi bỏ chạy đi. Còn thì mặc xác anh.
Thế là tôi cứ cười, cười hoài, không sao dừng lại được. Vậy là chúng tôi không đi coi bộ phim Pháp.
Bởi tôi bỏ về nhà. Cười chán rồi bỏ đi. Chạy ra ngoài hành lang, đóng sập cửa lại, lao xuống cầu thang. Phải chi mà trông thấy tôi lúc đó…
Suốt mấy ngày liền anh không xuất hiện. Tôi cũng không đến nhà anh. Chúng tôi không còn gọi điện thoại cho nhau mỗi ngày vài lượt nữa. Mặc dù dĩ nhiên là tôi rất buồn. Tôi đã gắn bó với anh. Nhiều lần tôi chợt thấy mình buồn nhớ và chờ mong anh. Mỗi lần có chuông điện thoại tôi lại chạy bổ tới bên máy, nhưng anh vẫn không gọi điện thoại và không tới…
Tôi tự hứa với mình là không khi nào chịu gọi điện thoại trước cả.
Cuối cùng thì anh đến gặp tôi để xin lỗi. Anh nói: - Thôi nào, bà già ơi, ta giảng hòa nhé. Quả thực làm sao mà chúng ta thiếu nhau được kia chứ?
Và tôi đã đầu hàng. Chính tôi cũng muốn làm lành với anh đến chết đi được. Và mọi chuyện lại đâu vào đấy. Trong lòng tôi
tất cả lại bình yên, êm ả.
Nhưng dù thế nào đi nữa thì mỗi khi nhớ lại chuyện cái bím tóc treo trên tường phòng anh tôi lại thấy khó chịu. Tựa hồ như tôi nuốt phải cái đinh dài và nó bị mắc nghẽn trong họng, chẳng vào mà cũng chẳng ra…
Rồi sau thì mọi chuyện cũng nhòa đi và rơi vào quên lãng. Anh bắt đầu học năm thứ nhất và thoạt đầu tỏ ra rất thích thú…
Anh thừa nhận:
- Ở đó lý thú thật…
Lúc nào anh cũng hứa sẽ dẫn tôi tới trường anh dự liên hoan. Theo lời anh thì ở đó thường tổ chức các tối vui khác nhau với số công chúng tham dự khá lý thú – các sinh viên, các giảng viên, các nhà ngoại giao ai cũng thông minh hóm hỉnh, miệng lưỡi sắc như dao, rất vui vẻ yêu đời. Tóm lại là rất hiện đại.
Có một lần, lúc ấy là vừa bắt đầu kỳ nghỉ của sinh viên, tôi tới nhà anh. Ngay từ sáng anh đã gọi điện thoại, nói rằng anh không được khỏe, thậm chí không đi học được, đề nghị tôi tới thăm, bởi vì anh rất buồn và cảm thấy tâm hồn cô đơn kinh khủng.
Tôi không đến một mình, mà cùng đi với Milka, một cô bạn từ thời thơ ấu, đã sống với nhau rất nhiều năm trong ngôi nhà lớn và đông đúc trên đại lộ Sretensky.
Milka cũng dạy học, dạy môn địa lý ở trường trung cấp kỹ thuật. Cũng giống như tôi, cô ấy đã cùng với mẹ chuyển sang một căn hộ riêng ở Mnevniki. Thỉnh thoảng Milka cũng lại
nhà tôi, nhưng tôi chưa lần nào tới nhà cô ấy, thứ nhất vì cô ấy sống rất xa chỗ tôi ở, hai nữa là phần lớn thời gian rảnh tôi đều ở bên Valentin và chẳng còn thời gian nào để gặp bạn cũ cả.
Milka hồi nhỏ không được đẹp: miệng rộng, mắt lồi lại ở sát nhau quá, cằm lúc nào cũng đầy mụn trứng cá, nhưng khi trưởng thành cô đã thay đổi hẳn: khiếu thẩm mỹ bẩm sinh và cách trang điểm khéo léo đã mang lại thành công: lông mi được tô trở nên có vẻ như dài và rậm hơn, mặt được thoa phấn màu vàng tươi nên mọi chỗ sần sùi trở nên bằng phẳng, cặp môi dày được tô một chút son trở nên rất mốt. Milka khẳng định:
- Khắp thế giới bây giờ người ta mang cặp môi như thế đấy! Milka ăn mặc theo lối thể thao, quần dài, kiểu thợ lặn, áo jacket và bludông gắn đầy những khóa kéo.
Tóc nhuộm màu đen ánh biêng biếc.
Lẽ dĩ nhiên không phải ai cũng ưa thích Milka. Cô ấy là một người có con mắt nhận xét sắc sảo, biết nhận ra cái tức cười trong mỗi con người. Cô ấy cũng chẳng tha cả mình và nhận xét thẳng thắn về bản thân:
- Mới thoạt nhìn thì tôi trông cũng được, nhưng phải dè chừng cái nhìn lần thứ hai. Ấy là tôi còn chưa nói đến những cái nhìn sau nữa…
Valentin đón tiếp chúng tôi rất tốt. Đang nằm trên giường, anh nhảy ngay xuống, chạy vào bếp, sau khi nói trước rằng bây giờ anh sẽ pha cà phê theo một kiểu đặc biệt.
Trong phòng còn tôi và Milka.
Milka ngó quanh rồi nói:
- Một nơi ở cũng khá đấy. Anh ta sống một mình ở đây hay sao?
- Anh ấy sống với mẹ. Bà ấy ở buồng khác.
- Bà ấy đang có nhà ư?
- Đang đi làm.
- Đặng kiếm tiền đảm bảo cho cậu con trai có đủ mọi tiện nghi cần thiết phải không?
Tôi phản đối:
- Cậu nói thế làm gì? Anh ấy cũng tự kiếm ra tiền. Cô bạn cười nhạt.
- Ai chả biết số tiền kiếm được ấy như thế nào. Đủ mua cá cho mèo!
- Sao cậu lại nói thế?
Milka khoát tay.
- Thôi được, có vậy cũng chả chết ai. Thế chuyện của cậu với anh ta hoàn toàn nghiêm chỉnh đấy à?
- Theo mình thì đúng như thế. – Tôi đáp. – Mọi chuyện có vẻ ổn cả.
Milka trầm ngâm ngắm nghía tôi.
- Không đâu. Anh ta sẽ không lấy cậu đâu.
- Vì sao kia?
- Bởi vì cậu không thích hợp cho anh ta. Cậu quá xinh đẹp, đồng thời lại không có triển vọng.
- Thế kia à? – Tôi phá lên cười. – “Không có triển vọng” nghĩa là thế nào?
- Cậu đừng vội cười. – Milka khuyên. – Cậu mà vẫn cười thì cậu sẽ còn lạc hậu với đòi hỏi của thời đại đấy; đây không phải chuyện đáng cười, mà cần phải hiểu đâu vào đó. - Nói tiếp xem nào. – Tôi giục.
Milka nói tiếp:
- Một cô gái có triển vọng – đó là con gái của thủ trưởng trực tiếp, trưởng khoa nào đấy chẳng hạn hoặc có người cha tiếng tăm lừng lẫy, hoặc chính bản thân có danh vọng, một diễn viên ba lê nổi tiếng, một nhà địa chất nổi tiếng hoặc cái gì đó đại loại như vậy. Thế còn cậu thì là gì? Một cô giáo dạy phổ thông, thế là hết chứ gì? Thêm vào đó lại còn người cha đang hưu trí, đang lãnh một trăm hai mươi chục đồng hào mỗi tháng phải không?
Cuộc chuyện trò làm tôi khó chịu. Lẽ ra theo cách đúng nhất là phải im đi, hoặc chuyển câu chuyện sang đề tài khác, nhưng tôi đã phát cáu lên và không muốn kiềm chế mình nữa.
- Cậu nói vậy để làm gì? – Tôi hỏi. – Anh ấy yêu tôi, tôi tin là anh ấy yêu!
- Bọn họ thì người nào mà chả yêu. – Milka nói. Cô lấy một điếu thuốc lá trong bao thuốc để trên bàn, bật lửa, châm thuốc. - Không, anh ấy yêu thật mà. – Tôi nhắc lại. – Dù cho tôi có là gì đi nữa, có triển vọng hay là không thì anh ấy vẫn cứ yêu tôi!
- Và sẽ lấy cậu?
- Đúng thế.
- Có chắc không?
- Chắc cả trăm phần trăm.
- Thế mẹ anh ta đối với cậu thế nào?
- Này, – tôi nói. – Tất cả những chuyện này ăn nhằm gì tới cậu kia chứ?
Milka chưa kịp trả lời thì Valentin bưng cái khay có ba ly cà phê bước vào phòng. Đặt khay lên cái bàn nhỏ, anh quay trở vào bếp mang một cái khay khác đựng bánh bích quy, đường và bánh kem. Anh hỏi:
- Thế nào, các cô gái, đói chưa nào?
- Hơi hơi đói. – Milka đáp. – Liệu có thể xin được một miếng bánh mì nhỏ kẹp nhân ở cái nhà này không?
Mắt cô sáng long lanh. Tôi phát cáu lên, ai đời mới đến nhà người lạ lần đầu đã đòi xin bánh mì kẹp nhân!
Valentin nói với vẻ tiếc rẻ:
- Chẳng có gì hết! Tôi bệnh, mẹ tôi lại chưa kịp mua gì cả, bởi vì ở nhà này tôi là người nội trợ. Mẹ tôi là một bà bác học, những thứ tầm thường của đời sống không dính dáng tới bà… - Thôi được, – Milka nói.
Tôi cầm lấy ly cà phê, hớp một hớp cà phê nóng và rất ngọt. - Có ngon không? – Valentin hỏi. – Pha theo kiểu Thổ Nhĩ Kỳ đấy. Tôi cho cà phê vào ấm pha rồi đổ nước lạnh vào, đun nóng lên nhưng không để nước sôi. Trước khi nước sôi thì tôi nhắc ấm ra.
Anh đập tay vào trán.
- Khoan đã nào, các cô gái, hình như trong bếp có thứ dầu thơm Riga thì phải.
- Hoan hô! – Milka reo lên.
Anh bước ra khỏi phòng.
Milka nói:
- Một người đàn ông giỏi nội trợ, chắc hẳn sẽ là người chồng tốt.
- Để còn xem đã. – Tôi nói.
- Chả việc gì phải xem cả. Nếu cậu không muốn thì chuyển lại cho tôi, tôi sẽ không từ chối đâu!
Tôi phá lên cười hoàn toàn chân thành.
- Nhưng nếu như anh ấy không muốn thì sao?
- Thế là cậu yêu anh ta rồi. – Milka trầm ngâm nói. - Đúng thế. – Tôi nói. – Tôi yêu và không khi nào đồng ý nhượng lại cho cậu dầu chỉ một phút. Rõ chưa nào? Lúc đó anh lại bước vào, mang theo chai dầu thơm Riga. - Thế nào, các cô gái, có được không?
- Đối với tôi thì được rồi. – Milka nói.
- Còn đối với tôi thì không. – Tôi nói.
Anh ngoảnh lại phía tôi:
- Cô bé ơi, tôi cũng có cái này dành cho cô đây… Và anh lại đi vào trong bếp.
- Hay thật, không biết là cái gì thế nhỉ? – Milka nói. Tôi bực tức đáp:
- Thì ăn nhằm gì đến cậu nào?
Milka làm tôi rất khó chịu và tôi không buồn giấu giếm nỗi bực tức của mình. Tôi khó chịu với cái giọng quyết đoán, sự
làm duyên làm dáng lộ liễu và trò ve vãn công khai của cô ta với Valentin. Và tôi có cảm giác hình như anh cũng không tự nhiên thế nào đó, không giống với mọi khi.
- Thế mà có ăn nhằm đấy. – Milka đáp. – Và nói chung là đừng nên bực tức nữa, kẻo không rồi anh ta sẽ phát chán lên vì phải nhìn cái mặt sưng sỉa của cậu!
- Không hề chán đâu. – Tôi nói.
Cô ta nheo cặp mắt tô rất đậm.
- Cậu tin chắc vào anh ta đến thế kia à?
- Phải, tin chắc đấy. Cả trăm phần trăm!
- Thật dại dột.
- Tại sao lại dại dột?
- Không thể tin chắc vào bất cứ người đàn ông nào được cả trăm phần trăm hết.
- Thế mà tôi tin đấy.
- Tin càng nhiều thì nỗi thất vọng càng chua cay. - Chuyện ấy thì cậu khỏi phải lo.
Cô ta mỉm cười:
- Đừng cáu. Tôi không định giật mất anh ta của cậu đâu. - Dù có định đi chăng nữa thì cũng chẳng được gì. - Cậu nghĩ vậy à?
- Phải, tôi vẫn quen nghĩ như vậy.
- Tôi cũng thế. Vậy là cậu tin chắc ở anh ấy?
Tôi tức giận đến mức trong giây lát không thốt nên lời. Tôi cũng không biết câu chuyện của chúng tôi sẽ kết thúc thế nào
nếu Valentin không lại bước vào phòng. Anh mang cho tôi một chai nước cam ép.
- Hình như em thích cái này phải không?
- Hình như vậy. – Tôi đáp.
Anh ngả mình lên giường, vòng tay kê dưới đầu. - Cả hai cô đều dễ coi hết, người này loại trừ người kia. - Thế là thế nào, khen tôi hay khen cô ấy? – Milka hỏi. Anh không đáp, chuyển cái nhìn từ cô ấy sang tôi, rồi hỏi: - Các cô đối với tôi tốt chứ?
- Rất tốt. Phải thế không nào, Taya?
- Tại sao anh lại hỏi như vậy? – Tôi ngạc nhiên.
- Bây giờ tôi sẽ biết thực sự các cô đối với tôi thế nào? Valentin vừa nói, vừa quay mình nằm nghiêng. Anh nhấc cái gối dài lên. Dưới cái gối có giấu chiếc máy ghi âm Nhật Bản mà anh mới mua gần đây.
- Các cô hãy nghe đây. – Valentin nói và nhấn nút. Và chúng tôi đã nghe thấy:
“Anh ta sống một mình ở đây hay sao? Anh ấy sống với mẹ, bà ấy ở buồng khác?…”
Giọng nói của chúng tôi, – của tôi và của Milka – đã không còn thuộc về chúng tôi nữa. Chúng tồn tại một cách tách biệt khỏi chúng tôi và ngoan ngoãn nhắc lại tất cả những gì chúng tôi đã nói ra trước đó, khi chúng tôi cho rằng chỉ có hai đứa ở trong phòng…
Đôi má của Milka dù phủ dưới lớp phấn dày, đột nhiên tái nhợt.
- Cái gì vậy? – Cô hét lên. – Cái gì thế này hả?
Tôi cũng bàng hoàng không kém gì cô. Valentin mỉm cười, còn trong phòng vang lên giọng nói của chúng tôi, nhưng không còn thuộc về chúng tôi nữa…
- Cái này… Cái này là một sự đểu cáng. – Milka đột nhiên bùng lên giận dữ. – Một sự đểu cáng chính cống! Valentin cười sằng sặc, chùi nước mắt đang trào ra vì không kìm nổi trận cười.
Milka đứng phắt dậy, chộp lấy cái túi của mình để trên bàn, lao ra cửa. Cô ngoảnh lại phía Valentin.
- Anh có biết anh là người thế nào không?
- Không, – Valentin vừa cười vừa đáp, – mách cho tôi biết với nào!
- Đồ đểu! – Milka hét lên, dùng hết sức sập mạnh cửa lại. Anh tiếp tục cười, nước mắt trào ra má.
- Cô ta không ngờ… – Cuối cùng anh thốt lên. – Hoàn toàn không thể ngờ…
Tôi lặng thinh. Anh dụi mắt thật mạnh rồi hỏi:
- Còn em thấy thế nào?
- Hoàn toàn cũng như cô ấy đấy.
Anh hỏi lại:
- Thế là nghĩa thế nào?
Không muốn nói ra cái câu đó, tôi ngoảnh mặt đi, bóp chặt tay, rồi dứt khoát quyết định chạy ra khỏi phòng anh, lao xuống cầu thang.
Tôi chạy trên đường phố và không ngớt suy nghĩ: “Sao anh lại có thể làm như vậy? Lẽ nào anh lại không hiểu rằng cái lối ấy thật phi đạo đức, thật đểu cáng?”
Rất lâu sau, tôi không sao bình tĩnh lại được. Mẹ tôi không ngừng gặng hỏi:
- Con làm sao thế? Tại sao trông con buồn vậy?
- Đấy là mẹ tưởng tượng vậy thôi. – Tôi đáp. – Mọi chuyện tốt đẹp cả, không có chuyện gì đâu ạ…
Rồi những lời hỏi han và vẻ lo lắng lộ rõ trên mặt mẹ làm tôi phát chán và tôi khóa cửa buồng tôi lại.
Tôi muốn không nghĩ ngợi gì về anh nữa, nhưng không nổi. Những tháng qua anh đã thâm nhập vào tôi và tôi không sao hình dung được cuộc đời mình lại thiếu anh.
Nhưng bên tai tôi vẫn văng vẳng giọng nói của chính tôi khi nó được thu lại trên băng máy ghi âm của anh. Tôi bịt chặt tai lại tựa hồ như giọng nói của tôi thực đang vẳng lên ở đâu đó rất gần.
Mẹ tôi gõ nhẹ vào cửa buồng tôi, lắng nghe tiếng tôi thở, nhưng tôi không cho bà vào.
Tôi muốn tách hẳn mình ra, không muốn nhìn thấy bất cứ ai, bất cứ cái gì…
Một vài ngày trôi qua. Vào buổi tối thứ Bảy tôi từ trường thanh niên công nhân trở về nhà rất muộn.
Tôi cảm thấy rất mệt. Tôi không những phải dạy bốn tiết của mình mà còn phải dạy thay cho một cô giáo ở lớp bên cạnh bị bệnh.
Tôi không nghĩ nổi về chuyện gì khác, không muốn một điều gì khác ngoài chuyện muốn uống một ly trà nóng với lát chanh rồi lập tức đi nằm, tắt đèn, ngủ và ngủ…
Từ trong bóng tối ở dưới cầu thang nhà tôi, ai đó bước lại gần tôi. Tôi giật mình vì bất ngờ.
- Em hoảng sợ thật à? – Valentin hỏi tôi.
Anh ôm lấy tôi, ghé sát mặt vào mặt tôi.
- Thiếu em anh sống thật hết sức khó khăn, em hiểu không? Tôi những muốn đẩy anh ra, nói vô số những lời nặng nề, độc địa.
Chao ôi, biết bao lần tôi đã hình dung trong đầu cuộc nói chuyện với anh, giết chết anh bằng sự khinh bỉ của mình, ném vào mặt anh những câu châm chọc giận dữ. Thế rồi bây giờ – khi chúng tôi gặp nhau thật sự – thì tôi lại cứ lặng thinh, giống như kẻ chết đuối, chẳng còn hơi sức nào để gạt bỏ tay anh, quay mặt đi đuổi anh, rồi thản nhiên bước qua…
Không, tôi không thể quay mặt đi, cũng chẳng thể đuổi anh. Và anh rất biết điều đó. Anh lặng lẽ cầm lấy tay tôi, kéo tôi đi theo anh. Ngọn đèn đường yếu ớt soi sáng chiếc xe hơi màu hoa cà đang đậu ở phía bên kia đường.
- Xe hơi đã tới đón, liệu cô nương có vui lòng ngồi vào và đi dạo hay không?
- Xe của anh đấy à? – Tôi hỏi.
- Của anh. Cuối cùng thì giấc mộng của gã ngốc đã thành. Em cũng biết là anh dành dụm đã bốn năm rồi và bây giờ – em đã thấy đó !
- Chắc mẹ anh cũng phụ vào kha khá. – Tôi nói.
Anh mỉm cười.
- Cũng có. Sự thật vẫn là sự thật.
Tôi ngồi vào xe, bên cạnh anh. Anh nổ máy.
Rồi chúng tôi đến nhà anh và lần đầu tiên tôi ngủ lại chỗ anh; đến sáng tôi mới giật mình hoảng sợ – tôi đã không nói trước với cha mẹ tôi, chắc là họ phát điên lên vì không hiểu tôi ở đâu, có làm sao không?
Valentin ngủ trên chiếc giường sát bên. Trong giấc ngủ trông anh có vẻ hiền hậu, như cần được che chở. Tuy nhiên, trong thâm tâm tôi vẫn biết rằng, cái vẻ hiền hậu, cần được che chở ấy chỉ là ảo giác chứ không thực. Và có nhiều khả năng là anh thờ ơ với mọi thứ, không phải do bất mãn, chua chát. Không, đơn giản là anh chẳng quan tâm đến chuyện có việc gì đó xảy ra với bất kỳ ai…
“Biết đâu mình ngộ nhận? – Tôi thầm tự hỏi. – Có thể là anh đôn hậu thật thì sao? Ừ, thôi thì cứ cho rằng anh lạnh lùng, thờ ơ đi nữa, nhưng lẽ nào vì điều đó mà mình sẽ yêu anh ít hơn chăng?”
Rồi tôi tự trả lời:
“Không, mình sẽ không yêu ít hơn.”
Tôi ngồi dậy, nhẹ nhàng mặc quần áo. Nhưng anh tỉnh dậy ngay trong khoảnh khắc, ngóc đầu lên khỏi gối, tỉnh táo như không.
- Em đi đâu vậy, Taya?
- Phải gọi điện thoại cho mẹ…
- Em hãy gọi điện đi và nói rằng em đã lấy chồng rồi. – Anh nói. – Em hãy nói rằng hôm nay chúng mình sẽ cùng đến gặp cha mẹ em và sẽ nói mọi chuyện.
Tôi quay số điện thoại nhà tôi, mẹ tôi lập tức đáp lại ngay. - Con đây, mẹ ạ. – Tôi nói. – Xin mẹ tha lỗi cho con vì đã không gọi điện cho mẹ biết.
- Taya. – Mẹ tôi thốt lên. – Con gái nhỏ của mẹ… Câu nói của bà bị ngắt. Cha tôi cầm lấy ống nói.
- Taya, con làm sao thế? Con ở đâu vậy? Ba mẹ đến phát điên cái đầu lên vì không biết con ở đâu, có chuyện gì xảy ra với con…
- Con đã đi lấy chồng. Lấy anh Valentin.
Và ngay lúc đó tôi nghe thấy cha tôi, một người xưa nay vẫn điềm tĩnh tự chủ, bỗng hét to lên:
- Musya này, con nó đi lấy chồng! Lấy chồng rồi, em hiểu không? Em hãy nín đi, đừng khóc nữa!
Đúng ba giờ, tôi và Valentin đi chiếc xe màu hoa cà của anh đến nhà tôi.
Chúng tôi vừa bước vào cửa là mẹ tôi ôm chầm lấy tôi, còn cha tôi đứng đó húng hắng ho rất lâu. Mẹ tôi khóc, hôn tôi và không ngớt nói rằng ngày hôm qua bà đã không còn hiểu vì sao, chẳng biết phải làm gì, phải chạy đi đâu…
Tôi nhìn mẹ tôi, cha tôi và tôi có cảm tưởng là qua một đêm ấy cả hai người đã già hẳn đi, thậm chí còng cả người xuống vì nỗi lo âu kinh khủng cho tôi. Và lần đầu tiên tôi cảm thấy ân hận. Tôi thầm trách mình đã quá vô tâm, tàn nhẫn, đã chỉ nghĩ
đến bản thân mình, còn đối với họ, những người yêu thương tôi nhất trên đời này thì tôi thậm chí còn không nhớ đến nữa… Valentin luôn miệng cười đùa, kể những câu chuyện tức cười. Nói chung anh là người biết chủ động dẫn dắt cuộc trò
chuyện, ở chỗ nào anh cũng trở thành linh hồn của đám đông. Cha tôi và mẹ tôi cười vui, nghe những câu chuyện của anh kể về sinh viên của Học viện quan hệ quốc tế, về những chuyện rắc rối xảy ra ở chính cái câu lạc bộ sáng tác mà anh làm quản trị.
Valentin thản nhiên nói về những nhân vật tên tuổi lừng danh mà anh hẳn phải quen thân, và khi anh nhắc tới một nhà văn nổi tiếng, hay một diễn viên, hay một nhạc sĩ một cách đơn giản bằng tên gọi thân mật: Kolya, Petya, Vasya… thì cha mẹ tôi lại đưa mắt nhìn nhau; sự chú ý và nỗi tò mò không che giấu của họ càng cổ vũ Valentin mạnh mẽ hơn và anh tiếp tục bốc lên trên đôi cánh của những câu chuyện do chính anh kể.
Và mặc dù trong những năm qua tôi đã nghiên cứu khá kỹ tất cả các tiết mục của Valentin, tôi vẫn bất chợt thấy mình thích thú khi nghe những câu chuyện kể ấy, tuy tôi đã biết chúng từ đầu đến cuối.
Buổi tối hôm ấy chúng tôi còn ngồi rất lâu ở nhà cha mẹ tôi. Tôi nói là ở nhà cha mẹ tôi, bởi vì đó đã không còn là nhà tôi nữa. Tôi chuyển về ở với Valentin.
Vừa lúc cũng là dịp mẹ anh đi công tác trở về.
Bà rất ít nói, khuôn mặt xương xương, đeo kính gọng to, hiếm khi mỉm cười. Một bà bác học điển hình.
- Đây này, – Valentin nói. – Mẹ ơi, đây là vợ con!
Bà nhìn tôi từ đầu tới chân. Chìa tay ra cho tôi, bà bắt rất chặt, bàn tay bà thật mạnh.
Bà ngoảnh lại nói với con trai:
- Con bao giờ cũng nổi bật ở óc thẩm mỹ cao.
Tôi cảm thấy mình đỏ mặt lên. Tôi nhận thấy ngay cả Valentin đột nhiên cũng bối rối chớp mắt. Còn bà vẫn tỉnh khô nói tiếp:
- Mẹ có ý nói rằng con biết khéo tổ chức cuộc sống của mình. Bà đưa mắt nhìn tôi một lần nữa và hơi mỉm cười. Nụ cười làm cho khuôn mặt xương xương của bà trở nên dịu dàng hơn, có vẻ phụ nữ hơn.
- Cô bé thân mến ơi, ngoài ra tôi không có ý gì khác hết. Cô tin tôi chứ?
Tôi gật đầu với bà. Tôi lập tức hiểu rằng tôi và bà sẽ có thể vẫn sống một cách chẳng hề dính líu đến nhau nhưng vẫn giữ được cả trật tự tôn ti, cả sự tôn trọng chừng mực đối với nhau, cả tình thân hữu. Mà đã được như vậy thì cũng không phải là ít…
Nếp sống chung của tôi với Valentin hình thành như sau: anh tự lo bữa ăn sáng cho mình, tự rửa lấy chén bát ở bếp – những công việc này anh đã được một bà già giúp việc huấn luyện cho; bà này đã ở nhà họ suốt ba chục năm và chỉ mới chết cách đây hai năm, rồi anh đến học viện.
Tôi thức dậy cùng một lúc với bà Veronika Kuzminichna. Trước hết, tôi thu dọn căn phòng của chúng tôi, rồi chuẩn bị bữa sáng cho tôi và bà. Khi bà đến Viện nghiên cứu khoa học của mình thì tôi đi mua bán. Kế đó, tôi lo chuẩn bị bữa ăn trưa.
Tôi không phải là người nội trợ giỏi và tôi làm bữa ăn trưa khá vụng về: tôi bỏ một miếng thịt vào nồi, đổ nước vào, đun sôi lên và bỏ thêm một ít hạt ngũ cốc gì vào đó nữa – đó là món xúp. Rồi tôi bỏ miếng thịt vào chảo rán – đó là món thứ hai. Thức độn cho món thứ hai gồm khoai tây, mì ống và gạo.
Sau bữa ăn trưa, chúng tôi uống trà, ăn kẹo hoặc thỉnh thoảng ăn bánh ngọt. Còn bữa chiều thì ăn xúc xích, hoặc mấy khúc dồi thịt do tôi luộc, hoặc hai gói bánh bột nhân thịt cho ba người, và cố nhiên còn món sữa chua nữa. Đôi khi tôi chiên khoai tây.
May cho tôi là cả Valentin lẫn mẹ anh đều không khó tính trong chuyện ăn uống và không đòi tôi phải thay đổi món gì rắc rối. Họ ngoan ngoãn ăn hết tất cả những món mà tôi bày lên bàn, không rầy rà gì về khả năng nấu nướng của tôi và không bao giờ chế nhạo tôi.
Đối với Veronika Kuzminichna thì đúng như tôi đã dự đoán: chúng tôi giữ mối quan hệ thân hữu ở mức bình thường. Nói chung bà là một người khô khan, thực sự biết tự kiềm chế. Niềm vui lớn nhất của bà, lẽ sống cao nhất đối với bà là công việc của bà. Chỉ sau đó, ở vị trí thứ hai, mới đến con trai. Anh yêu mẹ theo cách riêng của mình. Anh gọi bà là “Lomonosov của chúng ta”, “Faraday của chúng ta”. Anh bông đùa về những bộ quần áo đôi khi khá kỳ cục của bà (bà hoàn toàn không có óc thẩm mỹ và chẳng hiểu biết gì về chuyện ở vào tuổi bà thì đồ gì có thể mặc được, đồ gì thì không nên). Tuy nhiên, tôi thấy anh gắn bó với bà và mỗi khi bà đi công tác mà lâu không có tin tức là anh thực sự lo lắng.
Vả chăng nỗi lo lắng của anh còn do một nguyên nhân khác: anh hiểu mẹ anh là nguồn sức mạnh chính bảo đảm sự cân bằng nhất định về nhu cầu vật chất của anh.
Lương tôi kiếm được không nhiều, học bổng của Valentin dĩ nhiên lại càng ít, và chủ yếu chúng tôi sống bằng lương của bà. Hơn nữa, chẳng bao lâu sau Valentin buộc phải bỏ câu lạc bộ sáng tác – việc học ở Học viện không để anh còn chút thời gian nào dành cho công việc thường xuyên vào mỗi buổi tối ở đó nữa.
Mỗi khi nhớ lại tất cả những gì đã xảy ra trong quá khứ của mình, tôi không khỏi băn khoăn:
- Tôi đã hạnh phúc hay không? Valentin đã từng yêu tôi chưa? Anh đối với tôi nói chung là như thế nào? Và lần nào tôi cũng tự trả lời mình:
- Có, tôi có hạnh phúc! Trước hết là vì tôi đã yêu. Nhưng cả anh cũng yêu tôi nữa, nhất định là có yêu!
Những khi chúng tôi cãi nhau, anh là người đầu tiên đề nghị hòa giải. Và anh nói rằng anh không thể chịu nổi chuyện bất hòa giữa chúng tôi.
Tôi tin anh và hẳn thực sự cũng đúng như vậy.
Veronika Kuzminichna là một người sáng suốt và công bằng. Mặc dù Valentin là con ruột của bà, nhưng bà đối xử một cách khách quan đối với anh. Đó mới là người hoàn toàn không bị mù quáng bởi tình mẫu tử. Nhưng cũng có thể đó chính là biểu hiện cao nhất của tình yêu – nhìn thấy rõ mọi khuyết điểm mà vẫn cứ yêu chăng? Bởi tôi cũng nhìn thấy hết, cả chuyện anh yêu bản thân mình trước nhất, cả chuyện anh biết điều chỉnh
"""