"
Chuyện Những Người An Nam Ở Paris Hay Sự Thật Về Đông Dương - Phan Văn Trường & Sity Maria Cotika (dịch) & Huỳnh Mai (dịch) full mobi pdf epub azw3 [Hồi Ký]
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Chuyện Những Người An Nam Ở Paris Hay Sự Thật Về Đông Dương - Phan Văn Trường & Sity Maria Cotika (dịch) & Huỳnh Mai (dịch) full mobi pdf epub azw3 [Hồi Ký]
Ebooks
Nhóm Zalo
CHUYỆN NHỮNG NGƯỜI AN NAM Ở PARIS hay SỰ THẬT VỀ ĐÔNG DƯƠNG
Tác giả:Phan Văn Trường
Dịch giả: Sity Maria Cotika - Huỳnh Mai
OMEGA và NXB Đà Nẵng
ebook©vctvegroup
Cuốn hồi ký này đã từng được xuất bản nhiều kỳ trên tạp chí “La Cloche Fêlée” (Chuông rè hay Chuông nứt) từ số ra ngày 30 tháng Mười một năm 1925 đến số ra ngày 15 tháng Ba năm 1926.
Được nhà in Đông Pháp - Ng. kim-Dinh, Gia Định in lại thành sách năm 1928. Bản tiếng Việt năm 2020 được dịch dựa trên bản in năm 1928 của nhà in Đông Pháp.
LỜI NGỎ
Lịch sử Việt Nam đầu thế kỷ XX đứng trước một bước ngoặt then chốt: Lựa chọn con đường giải phóng dân tộc nào cho phù hợp với xứ sở và bối cảnh lịch sử thế giới lúc bấy giờ.
Để phần nào hiểu được những gì đã xảy ra trong quá khứ, để có thể lý giải những lựa chọn mà tiền nhân của đất nước đã phải thực hiện, chúng ta cần truy lại dấu chân của người đương thời, mà cụ thể là những trí thức Việt Nam từng bôn ba ở ngay chính mẫu quốc Pháp để tìm tòi những đường hướng đấu tranh giải phóng dân tộc. Bởi lẽ, bối cảnh của buổi đầu thế kỷ XX đó chính là sự lụi tàn của phong trào Cần Vương, cùng với đó là sự lỗi thời không thể chối cãi của đường hướng đấu tranh chống ngoại xâm như cha ông từng thực hiện chống lại các thế lực phương Bắc. Thực dân phương Tây không phải là các triều đình Trung Hoa quân chủ khi xưa, và do vậy phương hướng đấu tranh của người Việt cũng phải có sự điều chỉnh cho bắt kịp với thời đại, để thích nghi với đối thủ mới có trong tay sự vượt trội về khoa học-kỹ thuật-vũ khí.
Phương hướng mới đó khởi từ lớp thanh niên trẻ sẵn sàng dấn thân chu du, học hỏi ở ngay chính quốc Pháp. Và một trong những tài liệu hữu ích để tìm hiểu hành trình này của thế hệ trẻ Việt Nam thời bấy giờ chính là Chuyện những người An Nam ở Paris hay sự thật về Đông Dương, hồi ký của Luật sư-Tiến sĩ Luật Phan Văn Trường, người được xem như luật sư đầu tiên của Việt Nam.
Phan Văn Trường (1878-1933) sinh ra trong một gia đình có truyền thống Nho học ở Đông Ngạc, Hà Nội. Kể từ khi sang Pháp học Luật năm
1908 cho đến năm 1923 khi trở về Tổ quốc, ông đã không ngừng trau dồi học hỏi nhằm tự trang bị cho mình hai “vũ khí” quan trọng là kiến thức về luật pháp và quốc tịch Pháp; có thể nói, đó chính là những công cụ hữu ích để ông tiến hành cuộc đấu tranh dài lâu bên những người đồng chí như Phan Châu Trinh, Nguyễn Ái Quốc, Nguyễn Thế Truyền... hòng vận động, đòi hỏi quyền lợi cho người dân An Nam và các xứ thuộc địa, đấu tranh đòi quyền lợi giáo dục cho người dân bản xứ, cũng như chống lại những sách nhiễu của mật thám Pháp và trò vu khống của chính quyền thuộc địa...
Hiểu được tầm quan trọng về mặt tư liệu của Chuyện những người An Nam ở Paris hay sự thật về Đông Dương, OMEGA+ trân trọng giới thiệu đến quý độc giả cuốn hồi ký của Luật sư Phan Văn Trường, cũng là cuốn sách tiếp theo trong “Tủ sách Pháp ngữ - Góc nhìn sử Việt”. Tuy nhiên, hiểu rõ được khoảng cách thời đại lên đến gần một thế kỷ có thể ít nhiều gây khó khăn cho chúng ta trong việc thấu hiểu một số quan điểm và cách nhìn nhận của cha ông khi xưa, OMEGA+ đã có những chú thích kỹ lưỡng ở những chi tiết này. Mong rằng tác phẩm sẽ góp phần giúp quý độc giả khám phá những chi tiết và sự kiện quan trọng của một thời, cũng như quan điểm của người trong cuộc, để ta có thể thấu suốt hơn những gì đã xảy ra, và cũng để hiểu cho người xưa.
Trân trọng,
CÔNG TY CỔ PHẦN SÁCH OMEGA VIỆT NAM
I
Ở QUÊ HƯƠNG AN NAM CỦA TÔI
Cái tôi thì đáng ghét. Mà chẳng phải chính vì cái thói ấy mà con người ta mới lấy làm vênh váo trước những cách biệt xã hội nhỏ nhất, về những điều bất tương xứng chẳng mấy đáng kể để rồi dương dương tự đắc về những điều đó với ít nhiều vẻ đạo đức giả trước mặt đồng loại của chính mình đó sao? Nhưng chắc chắn cái tôi sẽ bớt đáng ghét hơn nếu người ta nói về bản thân nhưng không hề tỏ ra kiêu căng vênh váo, cũng không làm bộ khiêm tốn, mà chỉ nói nhằm đưa ra những luận giải thẳng thắn, rõ ràng khi kể câu chuyện riêng của mình.
Như bao người An Nam khác, tôi sinh ra trong một gia đình trí thức thấm nhuần đạo lý làm người truyền thống mà chúng tôi kế thừa từ những bậc thánh hiền Trung Hoa, đó là phải biết sống vị tha và vô vụ lợi. Đây là một điểm chung giữa người An Nam chúng tôi và chúng tôi có thể phô trương đức tính đó của mình mà không sợ bị cho là huênh hoang, khoác lác. Vậy tôi có biết tận dụng cái đức tính vốn như một di sản luân lý mà ông cha để lại cho mình hay không? Thú thật là tôi chẳng dám khẳng định gì. Lúc nào cũng vậy, chẳng hề làm ra vẻ coi thường đối với mọi của cải trên thế giới này, ngay từ khi còn trẻ, tôi chưa bao giờ bị dục vọng có được sự giàu sang phú quý và những danh vọng giả tạo dằn vặt, trong khi đó là những thứ mà ở đâu người ta cũng ham thích vô cùng, ngay cả ở các đất nước theo đạo Cơ Đốc, nơi người ta được dạy dỗ phải trở thành người chỉ
tích lũy những gia tài mà ngay cả kẻ trộm hay cái chết cũng không thể cướp đi được. Chẳng có chút tham vọng, tôi sống mà không hề cầu đến mánh khóe, thủ đoạn, những thứ mà tôi nhận thấy mình chẳng có chút năng khiếu nào.
Vào cái thời mà đất nước An Nam vẫn còn thuộc về người An Nam và bề ngoài chịu thần phục Trung Hoa - tức chỉ giữ mối quan hệ truyền thừa về nòi giống với dân tộc này, bởi lịch sử đã cho chúng ta biết rằng tổ tiên của người An Nam là nhánh tách ra từ một dòng họ có nguồn gốc ở Trung Hoa - thì chủ nghĩa anh hùng, đức tính vị tha, tinh thần hy sinh quên mình, nhất là sự coi khinh tài phú, không phải là những phẩm chất hiếm thấy ở một giống nòi vốn là hậu duệ của Thần Nông. Theo những trang sử biên niên đầu tiên của dân tộc chúng tôi, Kinh Dương Vương đã dẫn dắt con cháu Thần Nông xuống những vùng đất ở phía Nam Á Châu để định dân, lập nên nước Giao Chỉ, một nước chư hầu cuối cùng được Trung Hoa - nước thiên tử - ban cho các quốc hiệu Nam Việt và An Nam. Lịch sử của chúng tôi cho chúng tôi biết rằng dưới các triều đại cũ, trong tầng lớp trí thức An Nam có những người được xem như là hình mẫu cho sự đức độ và tính liêm khiết, và vì thế họ xứng đáng được xếp vào hàng ngũ các bậc hiền nhân. Về vấn đề này, tôi mạn phép trích dẫn một tấm gương trong gia đình tôi, không phải để khoe khoang về gia thế của mình mà chỉ nhằm nói về những gì tôi thực sự thấu suốt, và bên cạnh đó cũng nhằm chỉ ra rằng tấm gương này không hề là một ngoại lệ trong thời kỳ yên bình khi người An Nam chúng tôi còn giữ được quyền tự chủ của mình. Vả chăng, chung quy thì người ta ai cũng có thể xuất thân từ một gia đình tầm thường, không có chút tài sản nào, một gia đình tiện dân nghèo khó, và đều có thể thành tài và trở nên con người có phẩm hạnh đạo đức cao đẹp, trong khi lịch sử luôn cho ta biết rằng ở đầu cũng vậy, ở khắp các quốc gia trên thế giới, người ta gặp không ít những kẻ đần độn, ngu xuẩn, những kẻ nhơ
nhớp, bẩn thỉu về mọi phương diện ở giữa những hậu duệ hoàng gia hay con cháu của các vị quyền cao chức trọng của nhà nước.
Cùng với những trí thức danh tiếng nhất của dân tộc, cụ của tôi được khắc tên lên bia tiến sĩ đặt tại Văn Miếu-Quốc Tử Giám ở Hà Nội, nơi được ví như điện Panthéon của người An Nam. Cụ làm quan dưới triều nhà Lê và là một tấm gương cho sự thanh liêm. Cha mẹ của cụ, tức là các kỵ của tôi không hề là những người phú quý, nhưng đã truyền lại cho cụ đức tính chính trực, biết hành xử tiết chế, và trong các chặng hoạn lộ của mình, cụ được hầu hết mọi người thừa nhận là có phẩm cách đạo đức cao quý. Từ hồi còn rất trẻ, cụ đã được nhận vào các lớp bậc cao ở Quốc Tử Giám và được bổ nhiệm làm quan, thăng tiến rất nhanh và cuối cùng đạt đến đỉnh cao quyền lực khi nắm giữ chức vụ thừa tướng trong triều đình nhà Lê, được phong tước hầu, chức quan này tương đương với chức thủ tướng ngày nay. Kỳ thực, cụ là một hầu tước chẳng có chút tài sản nào, luôn sống đạm bạc, thậm chí có thể nói là chật vật. Tất cả tài sản cụ để lại cho các con mình chỉ là một ngôi nhà nhỏ nằm ở làng Đông Ngạc, Hà Nội, nơi cụ đã sống những năm tháng cuối đời. Dẫu vậy, cụ vẫn để lại cho con cháu một món gia tài vô giá, món gia tài mà tôi muốn nói đến đó là sự giáo dục cẩn trọng và nề nếp gia đình thông qua những hành động làm gương, tỏ rõ một cuộc đời đã sống và giữ được trọn vẹn phẩm giá, danh dự chân xác của một con người.
Ở An Nam, dưới những triều đại cũ, những vị quan có chức tước cao nhưng lại tình nguyện sống đời đạm bạc để làm gương cho người dân không phải hiếm. Ta có thể dẫn ra đây một nhân vật được nhiều người Pháp biết đến, đó là ngài Phan Thanh Giản, vị đại thần từng giữ chức Kinh lược sứ, tức quản toàn bộ vùng đất bao gồm Nam kỳ lục tỉnh mà nay đã thành Nam kỳ thuộc Pháp, trong những năm đầu tiên xảy ra chiến tranh giữa An Nam và Pháp. Vị đại thần này, người thực hiện nhiệm vụ nghị hòa
với Pháp quốc, sau khi thay mặt hoàng đế An Nam ký một hòa ước nhượng lại vùng đất phía Nam của đất nước, đã lui về sống ẩn dật ở một căn nhà nhỏ tồi tàn vốn là tư dinh và cũng là tài sản duy nhất của ông. Cuối cùng, ông đã tự tử để khỏi phải sống trong nỗi ô nhục và trong cảnh nước mất nhà tan.
Thế nhưng, chắc chắn là tinh thần hy sinh quên mình này, vốn là phẩm chất đạo đức mà người An Nam chúng tôi xem trọng nhất, lại không có giá trị như thế ở các nước tư bản châu Âu. Ngày nay, nếu có người sống ở một nước tư bản châu Âu cho rằng cần phải ca ngợi tinh thần coi thường vinh hoa phú quý và xem đó như một phẩm chất đạo đức cao quý, người ta sẽ không quên cười vào mũi anh ta, xem anh ta chẳng khác gì một kẻ ngây thơ, ngốc nghếch, và ranh mãnh nói với anh ta rằng anh ta đã sinh nhầm thời rồi. Vì rằng trong cái thời thống trị của chủ nghĩa tư bản, tiền không chỉ là động lực thúc đẩy chiến tranh mà còn là một thứ gì đó tốt đẹp hơn nữa, một thứ rất hữu ích trong thời bình: tiền cho phép người ta muốn làm gì thì làm, tiền là chiếc chìa khóa vạn năng giúp người ta mở ra mọi cánh cửa, tiền là thứ bùa mê thu hút tất cả những người có danh vọng, địa vị trong giới thượng lưu đến với nó. Kể từ thời khắc một kẻ hãnh tiến sở hữu được nhiều tiền bạc, trong tay nắm đầy tiền mà y có thể tùy ý sử dụng thì quá khứ ít nhiều đáng khinh bỉ của y nào có sá chi. Vụ án Bolo[1] và bao vụ việc khác không diễn ra để thuyết phục những người hoài nghi nhất, không tính vào số này những kẻ ưa phiêu lưu có cùng một giuộc với công chúng vô tri, chỉ bằng cái lý lẽ đó là trong quá khứ họ không hề có vinh dự xem một vụ án lớn được xét xử công khai.
Chúng ta hãy nghe lời biện hộ của luật sư Moro-Giafferi dành cho thần chủ của ông là ông Caillaux trước Tòa Nghị viện (Revue des causes célèbres (Tạp chí những vụ kiện nổi tiếng), số 66, ngày 1 tháng Bảy năm 1920): “Ở chỗ ông Bolo, một nhân vật rất Paris đã tiếp đón cả Paris, người
ta đã gặp được các viện sĩ viện hàn lâm, Chúa tha thứ cho con, những nghị viên của Thượng viện lẫn Viện Đại biểu,[2]các vị bộ trưởng, các vị tỉnh trưởng, các nhà báo lớn, một người thú vị tên Henri Caïn và tướng Quincandon. Ở nhà Bolo tại Biarritz, nếu tôi không nhầm thì vào đúng dịp, người ta có thể nghe được quan điểm sắc bén tuyệt vời không sao bì được của ông Barthou và một vài bài nói chuyện quen thuộc về liên hiệp quốc từ người đồng nghiệp của tôi, luật sư Hennessy. Cuối cùng mọi người đều đã thấy điều đó...
“Đó là đời sống ở Paris, khi một người được nhìn thấy đi ăn tối trong một khách sạn hạng sang, anh ta là một người Paris. Nếu thi thoảng anh ta đến chỗ một người có danh vọng, địa vị ăn tối thì anh ta là một nhân vật rất Paris; nhưng nếu anh ta có một cái bàn ăn và có thể mở cửa đón khách thì ta hãy chắc một điều: anh ta luôn có khách đến thăm và đó là một nhân vật lớn của Paris. Tầm cỡ của anh ta có khi phụ thuộc vào vị đầu bếp và cái bàn ăn của anh ta.”
Tóm lại, chuyện ăn uống, những thú vui phàm tục, trong sự tiện nghi hiện đại thoải mái nhất, đó là những thứ lý tưởng trong xã hội hiện tại của chúng ta. Để có được những thứ này thì phải có tiền, có tiền nữa và có tiền mãi.
Hãy tiếp tục, vì chúng ta đang nói về vấn đề phong tục, lối sống của thời đại mình. Tốt hơn hay tệ hơn còn tùy vào cách nhìn nhận của mỗi người: vì thực ra, có lẽ chẳng có gì là tốt hay xấu trên thế giới này, điều gì cũng có hai mặt ý nghĩa. Chúng ta có thể nói về những bà chủ của các dinh thự hạng nhất luôn kín cổng cao tường, những nữ thương gia lớn bị xem là kiểu người tấm thường, hoặc giả bạn thích nói thế này hơn, là những người phụ nữ một khi đã tích lũy đủ một tài sản sẵn có là rút lui, không kinh doanh nữa và trở thành những bà chủ lâu đài được người dân ở nơi
mà họ đã tạo dựng sản nghiệp kính trọng, quý mến. Vì họ giàu có và còn có tầm ảnh hưởng nữa, hai thứ này thường phải đi cùng nhau, nên nhiều người đến tìm kiếm sự bảo trợ của họ cho các việc từ thiện. Ôi, mỉa mai làm sao! Chúng ta có thể tự tưởng tượng ra cái cảnh người khác van nài họ chấp nhận ngồi vào chiếc ghế chủ tịch của một hội được lập ra nhằm bảo vệ và phục hồi tinh thần cho những cô gái trẻ bất hạnh chẳng may bị đàn ông quyến rũ và bỏ rơi. Sau rốt, có một điều không quá nghịch lý là trước hết người ta có thể đã tin tưởng họ: dường như họ là những quý bà cao thượng, những người có nhiều kinh nghiệm trên trường đời, những người có phẩm chất tốt hơn bất kỳ ai trong việc giúp những cô gái là nạn nhân của ái tình và những người bị tước quyền thừa kế tài sản có thể vực dậy tinh thần vì họ có nhiều sự từng trải trong quá khứ.
Ở quê hương tôi, cũng có một kiểu phụ nữ bị xem là có lối sống phóng túng. Đó là những người phụ nữ sau một thời gian dài sống leo lắt với nghề nghiệp tầm thường của mình, bằng một sự tình cờ may mắn, đã dùng được vẻ duyên dáng của bản thân để quyến rũ thành công một ông chủ thầu công trình công lớn người Pháp. Trong một thời gian ngắn, người tình này sẽ tạo dựng cho cô ấy một cơ ngơi khá lớn bằng cách giao cho cô một phần lớn việc làm ăn của mình. Trở nên giàu có, người phụ nữ đó sẽ tạo ra những mối quan hệ quyền lực với những người có ảnh hưởng trong cộng đồng người Pháp, đó là những người có thể tác động để họ được chính quyền Pháp trao tặng tước hiệu mệnh phụ cao quý mà thuở xưa triều đình An Nam đã ban để tôn vinh những người phụ nữ đức cao vọng trọng, những người phụ nữ khác xa với họ. Người đàn bà tầm thường bỗng dưng trở thành một mệnh phụ và được phong tước vì mục đích vinh danh.
Cô ta có kẻ hầu người hạ, có xe ngựa đưa đón. Người ta bảo rằng cô ta thường lui tới giao du với những quý bà châu Âu, những người thường thường chỉ nhìn người An Nam bằng nửa con mắt và đối xử như thể đó là
một giống nòi bẩn thỉu; kể ra, không hẳn là không có lý do khi thừa nhận rằng một giống nòi bị bắt phải phục tùng một giống nòi khác thì đó hẳn là một giống nòi thấp hèn. Người ta cũng nói rằng cô ta có những người bạn là người da trắng, những người thường ghé thăm và gửi cho cô ta các tấm thiệp kèm những lời xã giao khách khí nhất. Nhưng việc đó có gì là lạ lùng? Nếu lối sống của người đàn bà giảo hoạt đó là đáng khinh khi, đáng bị xem nhẹ thì đồng tiền của cô ta vẫn có sức nặng và không hề bốc mùi kia mà.
Dù ở quê hương mình hay ở bất kỳ nơi nào khác, tôi luôn sống một cuộc sống nghèo túng, nhưng lương thiện và bình lặng khi tuân theo thiên tính của mình, có thể là do cái tính thờ ơ, hoặc giả là do cái tính lãnh đạm, hoặc chỉ vì không có khả năng làm tốt hơn. Không hề tìm cách tạo lập mối quan hệ nào, tôi chỉ qua lại với một vài người quen, những người cũng được liệt vào dạng có cuộc sống bình lặng nhất. Tôi dứt khoát đứng ngoài vòng tranh đấu chính trị hay bất kỳ một sự tranh đấu nào khác, và nhờ vào thái độ trung lập này, tôi chưa bao giờ phải đụng độ với một thế lực cầm quyền nào. Cách hành xử này của tôi không xuất phát từ sự thận trọng hay nỗi sợ hãi, mà chỉ là do quan niệm sống thừa hưởng từ thứ triết lý mờ mịt của các thi sĩ Trung Hoa mà nói như họ thì đó là thiên hướng so sánh thế sự với những áng mây lơ lửng trên trời, để ngẫm ra rằng sự đời chẳng có gì đáng mà bận tâm (Thế sự phù vân hà túc vấn?).[3]
II
VAI TRÒ NGƯỜI QUAN SÁT CHÍ CÔNG VÔ TƯ CỦA TÔI VÀ SỰ HÈN HẠ KHI LÀM NGƯỜI AN NAM
Trong lĩnh vực chính sách thuộc địa, tôi luôn lấy làm hài lòng khi ở vào vị trí người chứng kiến, một người quan sát chí công vô tư. Đó là một vai trò đơn giản, dễ làm và thoải mái. Nhưng cũng có thể tôi thấy như vậy là vì tôi tự thấy mình chẳng có chút tài năng diễn xuất nào. Ấy vậy mà giờ đây, mặc dù không hề muốn nhưng tôi vẫn phải làm một diễn viên bất đắc dĩ trong một vở bi hài kịch chính trị, một vở kịch mà rồi chúng ta sẽ rõ ai chính là tác giả; chính biến cố đặc biệt trong đời này đã khiến tôi phải viết một bản tường thuật, một nghiên cứu phê bình về nó.
Để hoàn thiện nghiên cứu này, việc chỉ xem xét những nguyên nhân trực tiếp và tức thì của cái âm mưu tưởng tượng, không có thực mà tôi đột nhiên bị dính vào là không đủ; trước hết, tôi sẽ phải truy tìm những nguyên nhân gián tiếp, những nguyên nhân sâu xa đưa dẫn đến âm mưu đó, tôi phải tìm hiểu để biết tại làm sao mà toàn bộ các sự việc đó lại có thể dẫn đến một vụ án như thế. Chắc chắn, nếu tình thế không thuận hợp cho việc này, nếu người An Nam và người Pháp không sống trong không khí ngờ vực, hoài nghi lẫn nhau, nếu chính sách thuộc địa không phải là một thứ chính sách chỉ toàn mưu mẹo thì tất cả những thủ đoạn bí mật nhắm vào tôi,
nhằm chống lại tôi đã chẳng thành công, chúng sẽ không đạt được kết quả như chúng đã đạt được.
Thế nên, tôi phải nói về đất nước An Nam trong quá khứ, các quan hệ giữa người An Nam và người Pháp cùng những xung đột dữ dội nảy sinh từ những quan hệ này. Tôi biết rằng làm như vậy nghĩa là tôi sẽ phải đưa ra những nhận xét tế nhị, gây khó xử, nhưng tôi tự hỏi liệu mọi điều trong xã hội con người có không trở nên quá phức tạp và quá khó xử chỉ vì con người luôn che giấu và xuyên tạc sự thật để lừa dối lẫn nhau thay vì lấy hết can đảm nhìn thẳng vào những sự thật đó đúng như chúng vẫn là và thẳng thắn nói ra để định hướng cho nhau khi cùng nhau chung sống. Thật là một suy nghĩ không tưởng, mơ mộng viển vông! Tôi phải công nhận điều đó trong khi thành thật thừa nhận rằng tôi là một người sống quá lý tưởng và là một kẻ mơ mộng bẩm sinh.
Một số người Pháp đã nói và viết rất nhiều về những khuyết điểm, những kém cỏi của người An Nam và vì lẽ đó, người Pháp đã mang đến cho người An Nam sự giúp đỡ và ơn huệ to lớn với ý tứ như là con người ta sẽ chẳng bao giờ thấy rõ những khiếm khuyết đạo đức của mình để tự mà sửa đổi vậy.
Cũng thường nghe nói rằng người An Nam sống rất khép kín và khó mà nhìn thấu được lòng họ. Nhưng chẳng phải nước Pháp, đất nước của tự do ngôn luận, chưa từng cho người An Nam được bày tỏ suy nghĩ và tình cảm của mình đó sao? Có người còn nói người An Nam là những kẻ xảo quyệt và dối trá. Điều này hẳn là đúng vì đó là những gì được những kẻ có địa vị, được trọng vọng nói ra. Nhưng khi người An Nam muốn nói lên sự thật, mà nếu sự thật ấy khó nghe thì người ta sẽ bịt miệng họ, bức hại họ, xé họ thành trăm mảnh bằng cách gán cho họ những cái nhãn khoa trương là những kẻ làm cách mạng và chống Pháp, gán cho họ mớ lý lẽ dễ dãi được
dùng và lạm dụng ở các thuộc địa. Người An Nam, như có người nói, là những kẻ xun xoe, luồn cúi, hèn hạ. Có thể là vậy thật. Nhưng khi người An Nam tự cho phép mình cảm thấy tự hào và mong muốn gìn giữ phẩm giá làm người của bản thân thì người ta lại hét lên rằng họ ngạo mạn, xấc láo, nổi loạn rồi bức hại họ.
Tóm lại, cần phải nói rằng sinh ra làm người An Nam đã là một việc thấp hèn (trong mắt người Pháp).
III
CÁC LIÊN HỆ THÂN THUỘC VÀ QUAN HỆ BANG GIAO GIỮA TRUNG QUỐC VÀ AN NAM
Nói cho đúng, liệu có thể nói rằng An Nam đã từng nhiều lần nằm dưới ách đô hộ của Trung Quốc hay không? Câu hỏi này là vấn đề mà tôi định giải quyết trong chương này.
Tôi thường đọc được những dòng hay nghe được những lời của người Pháp ủng hộ, bảo vệ cho những luận điểm hết sức ngông cuồng về tình thế của dân tộc An Nam trước cuộc xâm lược của thực dân Pháp. Có những người Pháp khẳng định rằng khi xâm chiếm đất nước của người An Nam, nước Pháp đã giải phóng quốc gia này khỏi ách đô hộ của nước láng giềng Trung Quốc và do đó mang đến cho nơi đây nền độc lập, việc này tôi không đùa đâu, những người này chiếm đa số ấy chứ; số khác thậm chí còn đi đến chỗ khẳng định rằng trước khi người Pháp kéo đến An Nam, dân tộc này không hề biết đến sự tồn tại của luật pháp và không sống theo luật pháp, rằng đất nước này chỉ là một vùng đất mênh mông đâu đâu cũng là đầm lầy và rừng rậm, rằng dân An Nam chỉ là một vài bộ tộc sống hoang dã, rằng nước Pháp đã biến xứ sở này thành một quốc gia trật tự, có tổ chức, có thể chế. Nếu những kẻ tuyên truyền ngông cuồng đó biết rằng người An Nam cười giễu và coi khinh những lời khẳng định quá đỗi nực cười của họ đến nhường nào, theo tôi biết là vậy, hẳn họ sẽ nhanh chóng thay đổi ý kiến và tỏ ra thận trọng hơn trong chiến dịch tuyên truyền của
bản thân, vì họ sẽ nhận thấy rằng thay vì giúp ích cho sự nghiệp của dân tộc Pháp và uy tín của Pháp quốc thì hóa ra họ lại đang làm tổn hại lớn đến những sự nghiệp đó bằng sự dốt nát và vụng về của mình.
Nguồn gốc của dân tộc An Nam và lịch sử mở mang bờ cõi của dân tộc này đã được xác lập và chứng minh rõ ràng qua rất nhiêu tài liệu, mà trong số đó, các bộ biên niên sử của An Nam và của Trung Quốc[4] là những tài liệu nên được trích dẫn ra. Từ các tài liệu này, có thể thấy rằng thủy tổ của người An Nam chúng tôi là những hậu duệ của một dòng dõi đến từ vùng trung tâm của Trung Quốc,[5] xuống vùng đất phương Nam định cư vào một thời kỳ rất xa xưa từ hơn bốn ngàn năm trước và hợp nhất với các tộc người bản địa sinh sống ở vùng đất này. Các triều đại phong kiến phương Bắc cũng bành trướng và mở rộng về phương Nam và trong quá trình đó họ từng bước thâu tóm cả vùng đất hiện tại là xứ Bắc kỳ. Vùng đất này cùng với phần lớn vùng phía Nam của Trung Quốc - ngày nay là Quảng Đông và Quảng Tây, một phần của tỉnh Vân Nam và một phần của tỉnh Phúc Kiến - từng là cương vực của một xứ sở được người Trung Hoa cổ xưa gọi gộp lại bằng nhiều cái tên, trong đó có hai tên Nam Việt và An Nam, những cái tên mà chúng tôi vẫn giữ gìn và bảo tồn cho đến ngày nay. Chính nhờ vào sự hợp nhất và hòa lẫn dần dần giữa dòng máu của các tộc người bản địa và dòng máu của người Trung Quốc mà dân tộc An Nam được sinh ra và đến lượt mình, người An Nam ngày càng đi xuống và mở rộng về phương Nam để rồi cuối cùng lập ra vương quốc An Nam. Sự thực đó dẫn ta đến một điều không thể chối cãi là người Trung Quốc và người An Nam có cùng dòng dõi, cùng nguồn gốc và cùng lịch sử. Vả lại, bản sắc phong tục tập quán của hai dân tộc là bằng chứng cụ thể thuyết phục nhất cho quan hệ họ hàng gần gũi của họ, và chúng ta sẽ thấy rằng thật ra An Nam chỉ là một phần lãnh thổ có khi bị Trung Quốc thâu tóm và
sáp nhập thành một tỉnh[6] của nó, có khi lại tách khỏi Trung Quốc để tự lập thành một Quốc gia độc lập với sự làm chủ của tinh thần dân tộc.
Thực tế, lịch sử chứng minh rằng nước An Nam chỉ tồn tại như một quốc gia về mặt lịch sử từ khi những di dân Trung Quốc đầu tiên đến định cư ở đây vào khoảng năm 2879 TCN, sử xưa chép lại cũng cho thấy rằng kể từ thời kỳ này cho đến triều đại của nhà Triệu, tức là vào khoảng năm 111 TCN, tất cả các vị vua của An Nam đều có nguồn gốc người Trung Quốc.
Triệu Đà, vị vua lập ra triều đại Triệu, vốn là một quan viên cấp cao của Trung Quốc, nhận lãnh nhiệm vụ ở biên giới An Nam. ông ta đã tận dụng thời cơ đất nước Trung Quốc lâm vào rối ren vào khoảng thời gian giữa mạt kỳ nhà Tần và sơ kỳ nhà Hán để chiếm lĩnh An Nam và tự xưng là vương của vùng đất này; rồi sau đó Triệu Đà mở rộng bờ cõi vương quốc của mình bằng cách thôn tính và sáp nhập những nước láng giềng nhỏ bé, trong số đó có Đông Âu (Dông-Au), ngày nay thuộc Phúc Kiến (Fou Kien), và Viêt-Dông, ngày nay thuộc Quảng Đông (Kouang-Toung). Ngôi đền được dựng lên để tưởng niệm, thờ cúng Triệu Đà đến nay vẫn còn tồn tại ở một tỉnh của Quảng Đông.
Từ đây, thế đôi ngả tương tự lặp đi lặp lại nhiều lần: theo nguồn gốc của lịch sử dân tộc, An Nam - vốn là một quốc gia do người Trung Quốc lập ra - lúc thành một tỉnh của Trung Quốc, lúc lại là một quốc gia độc lập. Nhưng những gì đáng lưu ý trong hiện tượng xã hội này và cũng là đặc trưng cho tinh thần của văn minh Trung Hoa, đó là mặc dù sự ly khai luôn diễn ra bằng những cuộc đấu tranh vũ trang, An Nam không tách khỏi Trung Quốc như một nước bị trị thoát khỏi ách đô hộ của nước thống trị, mà đúng hơn là như một đứa con trai tách khỏi gia tộc để xây dựng gia đình, ngôi nhà của riêng mình trong khi vẫn giữ quan hệ họ hàng thân thuộc
với gia tộc một cách đầy thành kính - hình ảnh so sánh này không gượng ép chút nào. Bằng chứng chứng minh cho điều này nằm ở việc tất cả các vị vua An Nam, ngay từ khi lên ngôi, không chỉ nhận được sự ca tụng, mà còn có nghĩa vụ nhận lễ thụ phong từ triều đình Trung Quốc để trở thành vị vương danh chính ngôn thuận.
Ngoài ra, cẩn phải chú ý là sự thay đổi nhà nước này ít làm thay đổi hoàn cảnh xã hội của người dân An Nam. Khi An Nam bị Trung Quốc sáp nhập thành một tỉnh của quốc gia này, những quan viên người Trung Quốc cai trị nó cũng giống hệt như cai trị các tỉnh khác của Trung Quốc. Tốt hay xấu gì thì họ cũng đều cai trị mọi người như nhau, không có sự phân biệt nào giữa người Trung Quốc và người An Nam, tất cả đều là con dân của Đế chế Trung Hoa. Và khi An Nam là một quốc gia độc lập, người Trung Quốc và người An Nam bước vào đất này đều buộc phải tuân theo cùng các luật lệ và phải phục tùng cùng những nhà cầm quyền mà không hề có một khác biệt nào. Sự chuyển đổi này càng trở nên dễ dàng hơn vì nhờ vào bản sắc phong tục tập quán của mình mà cả hai đất nước đều xây dựng luật lệ và tổ chức cộng đồng dựa trên cùng những nguyên tắc nền tảng.
Với hoàn cảnh trên, nếu nói rằng dân tộc An Nam đã nhiều lần chịu sự đô hộ của Trung Quốc thì đây là một biểu đạt không thỏa đáng: Thực tế là giữa Trung Quốc và An Nam chỉ là đã có những giai đoạn hợp nhất và những giai đoạn lỵ khai.
Trường hợp tương tự khác, phải kể ra Tân Tây Lan, vốn là một vương quốc độc lập cũng từng rơi vào ách đô hộ của người Anh, hay những công quốc độc lập cũ ở vùng Bretagne và vùng Bourgogne ngày nay nằm dưới sự thống trị của một thế lực ngoại bang không phải ai khác mà chính là nước Pháp.
Nhân tiện, ta cũng nên lưu ý rằng trong chủ nghĩa tự do kinh tế của người Trung Quốc có bí quyết tạo nên sức sống cho vương quốc 450 triệu dân này, một vương quốc thật sự tạo thành một thế giới riêng trong thế giới chung này, tồn tại qua mọi biến động và thăng trầm chính trị mà không làm mất đi sức mạnh bành trướng trong hòa bình của mình.
Chắc chắn, Trung Quốc từ đầu không phải là một đất nước rộng lớn như ta thấy ngày nay; nó cũng từng là một quốc gia nhỏ bé và dần được mở rộng cương thổ; nhưng, nhờ vào những lý tưởng chính trị truyền thống của mình, những lý tưởng vốn loại trừ định kiến về chủng tộc và dân tộc mà Trung Quốc đã biết đồng hóa các dân tộc mà họ chinh phục được và dần hợp nhất với các dân tộc này để tạo thành một dòng giống thuần nhất có truyền thống và phong tục tập quán tương đối giống nhau.
Sẽ rất thú vị khi so sánh đất nước Trung Quốc bất diệt, cái nôi của nền văn minh Viễn Đông của chúng tôi, đất nước có nguyên tắc cao thượng về tình bác ái phổ quát được diễn đạt thành câu nói rất mãnh liệt và đẹp đẽ: “Tứ hải giai huynh đệ”, với Đế quốc La Mã, cái nôi của văn minh phương Tây nhưng lại chỉ tồn tại ngắn ngủi, một đế quốc không biết xây dựng những xã hội bền vững vì ở nhiều cấp bậc nó luôn xây dựng khẩu hiệu chính trị: Divide ut imperes (Chia để trị).
Từ những sự kiện và những suy xét, nghiên cứu được nêu ra ở trên, có thể kết luận rằng dân tộc An Nam, trước khi bị người Pháp xâm lược, chưa bao giờ nằm dưới ách đô hộ của một thế lực ngoại bang nào.
IV
CHIẾN TRANH PHÁP - AN NAM VÀ CUỘC KHÁNG CHIẾN CỦA NGƯỜI AN NAM CHỐNG LẠI QUÂN XÂM LƯỢC PHÁP
Ở chương này, chúng ta cũng vẫn đi vào lĩnh vực lịch sử, và trong lĩnh vực này cũng như trong tất cả những lĩnh vực còn lại, điều trước nhất là phải tôn trọng sự thật. Và ta càng phải tôn trọng sự thật hơn thế nữa vì theo ý kiến của tôi thì người Pháp và người An Nam sẽ không đi đến chỗ thấu hiểu và quý mến lẫn nhau theo một cách bền vững, một cách mà nếu cả hai bên đều lấy hết can đảm để nhìn vào những sự thật trước mắt và thẳng thắn nói ra những sự thật đó thay vì che giấu và xuyên tạc chúng để lừa bịp lẫn nhau thì sự nhồi sọ sẽ không phải là một mặt hàng xuất khẩu cho những quốc gia châu Á.
Trong khoảng thời gian hai mươi lăm năm, từ năm 1860 đến năm 1885, vương quốc An Nam đã phải chịu ba cuộc chiến tranh với nước Pháp, cuộc chiến đầu tiên là vào năm 1861, cuộc chiến thứ hai vào năm 1873, tức là sau chiến tranh Pháp-Phổ năm 1870, và cuộc chiến thứ ba diễn ra từ năm 1883 đến năm 1885. Cuộc chiến đầu tiên đã khiến An Nam bị tước mất sáu tỉnh Nam kỳ mà toàn bộ sáu tỉnh đó ngày nay chính là Nam kỳ thuộc Pháp. Sau cuộc chiến thứ hai và thứ ba thì An Nam bị mất phần lãnh thổ còn lại, kể từ đó, toàn bộ vương quốc An Nam đã trở thành thuộc địa và xứ bảo hộ của Pháp.
Nếu triều đình Huế chẳng bao giờ tính trước được điều gì và luôn luôn đầu hàng trong nhục nhã ngay khi có dịp thì những nhà ái quốc vĩ đại của An Nam đã đứng lên tiến hành một cuộc đấu tranh bất khả và tất cả đều hy sinh như những vị anh hùng thật sự trong cuộc tranh đấu đó. Ở Nam kỳ thuộc Pháp, hầu hết những thân hào bản xứ đều đã trốn tránh cuộc xâm lược bằng cách bỏ rơi đất nước; nhưng một vài người thì kéo dài cuộc đấu tranh bằng những cuộc chiến du kích. Nhưng trong cuộc đấu tranh lẩn thứ ba từ năm 1883 đến năm 1885, ở Trung kỳ và Bắc kỳ, cuộc kháng chiến đã kéo dài hơn và đẫm máu hơn nhờ vào sự hậu thuẫn của Trung Quốc, và nhiều người An Nam đã khắc họa mình bằng lòng can đảm và tinh thần yêu nước. Trong số các vị anh hùng đó, nổi bật lên là ngài Hoàng Diệu - người giữ chức tổng đốc Hà Ninh khi thành lũy nằm ở thủ phủ tỉnh này bị những đội quân Pháp đánh chiếm, còn có cả vị cử nhân nổi tiếng Thu-Khoa Cao[7] và nhà nho lớn Phan Đình Phùng.
Ngài Hoàng Diệu, nhìn thấy trước thất bại, đã đồng ý với tất cả các quan văn lẫn quan võ cho làm nổ tất cả bằng cách đốt kho thuốc súng trong thành khi các đội quân Pháp phá chiến lũy; nhưng khi thời khắc quyết định đến, ông đau buồn nhìn thấy các vị chỉ huy đều đã chạy trốn, vì thế ông đi đến Võ Miếu, cúi lạy theo đúng quy cách để cầu nguyện cho Tổ quốc, sau khi đã hoàn thành nghi thức, ông treo cổ trên cây. Các sĩ phu đã ca ngợi ông là một người anh hùng và lên án những kẻ phản bội trong những sự tích anh hùng và trong những bài văn tế cho đến nay vẫn còn trong ký ức của người An Nam.
Còn vị cử nhân nổi tiếng Thu-Khoa Cao thì đã tiến hành một cuộc chiến du kích kéo dài với các đội quân Pháp. Khi bị bắt giữ và giao nộp cho những quan viên phục tùng người Pháp, ông đã chết như một vị anh hùng thật sự. Trong một buổi hỏi cung, ông tự vạch áo của mình và nói với
những kẻ phán xử ông rằng: “Các vị không cần phải xét hỏi tôi. Đây là trái tim người An Nam của tôi: hãy nhìn nó và chỉ cần thế thôi.”
Câu chuyện của ngài Phan Đình Phùng cũng như thế, sau một cuộc đấu tranh dài, và khi sự nghiệp tranh đấu của mình thất bại đến mức không thể cứu vãn, ông đã kết liễu đời mình để không phải sống mà nhìn thấy cảnh đất nước trong vòng nô lệ.
V
VIÊN CHỨC AN NAM NGÀY NAY
Sống thế nào, nhận được thế nấy. Chúng ta hãy bắt đầu bằng việc quan sát những viên chức An Nam hiện nay để có thể so sánh họ với các viên chức An Nam dưới chế độ cũ. Vả chăng, cùng với những người lao động làm công ăn lương khác cho người Pháp, những viên chức này là những người An Nam bản xứ duy nhất tiếp xúc liên tục với người Pháp, bởi vì ngoài những mối quan hệ công việc và phục vụ, người Pháp và người An Nam vẫn thấy lạ lẫm với nhau như thể là những cư dân đến từ hai hành tinh xa lạ.
Tôi đã nói về sự cao thượng lớn lao trong tâm hồn và tinh thần hy sinh quên mình của các vị quan chủ tâm sống trong nghèo khó thuở xưa, để làm gương, để dạy cho con dân của mình rằng nhân phẩm thì cao quý và quan trọng hơn của cải vật chất. Có phải dòng giống An Nam đã mất đi phẩm chất thanh cao này kể từ khi họ rơi vào vòng thống trị của một ngoại bang hùng mạnh lần đầu tiên? Tôi vẫn chưa chịu tin điều đó dù có những dấu hiệu đáng lo ngại về nó. Dựa vào các nguyên lý sơ đẳng trong luận thuyết đạo đức đã tồn tại hàng nghìn năm nay của chúng tôi thì dường như phẩm chất cao quý đó không thể mất đi nhanh chóng đến vậy mặc cho đổi phong bại tục, mặc cho sự va chạm và xung đột giữa hai nền văn minh khác biệt.
Để đánh giá các viên chức An Nam ngày nay về phương diện đạo đức, ta cần phải phân họ vào một trong ba loại:
Trước nhất, tôi xếp riêng những người An Nam tuy có khả năng tìm được một “chân” công chức nhưng lại chẳng bao giờ muốn bước vào công việc đó vì những lý do dễ đoán. Nhiều người An Nam đã sang Trung Quốc và Nhật Bản sinh sống và được người dân ở những quốc gia này dang rộng tay đón nhận, xem như những người anh em bất hạnh. Một vài người An Nam còn trẻ, sau khi hoàn thành xuất sắc việc học ở các trường đại học của Trung Quốc và Nhật Bản, đã trở thành viên chức ở chính quốc gia đã tiếp đón họ ân cần và đầy hữu nghị.
Những người An Nam ở lại quê hương thì khéo léo sống một cách vô tri, thờ ơ nhất có thể để tránh “con mắt cú vọ” của những tên mật thám mà nước Pháp văn minh, hiện đại đã cài vào xứ An Nam - đất nước thuở xưa chẳng có chút ý niệm nào về việc này - và bằng cách sống thận trọng, kín đáo, những người An Nam này tránh được những trừng phạt của hệ thống tư pháp hà khắc chưa bao giờ ngừng giữ vai trò thống trị và nghiêm trị một cách tàn nhẫn xét trên phương diện chính sách đối xử với người bản xứ.
Ngoài các nhóm trí thức vừa nêu, giới viên chức An Nam có thể được phân loại như sau:
1. Loại viên chức thứ nhất là những người, sau một thời gian phục vụ cho người Pháp, dù không bị người Pháp đối xử tệ bạc về mặt cá nhân mà thậm chí còn nhận được một vài sự quan tâm, kính trọng, song họ lại cảm thấy nản lòng khi nhìn rõ những điều khốn nạn và những sự áp bức mà quê hương mình phải gánh chịu. Họ tự thấy ô nhục nếu tiếp tục làm việc cho một chính quyền đã cai trị đất nước của mình bằng biết bao nỗi khinh miệt và bất công. Có những người đột ngột ra đi để tham gia cùng những đồng bào yêu nước khác đang lưu vong ở nước ngoài, những người khác thì từ chức ngay khi tìm thấy một kế sinh nhai khác.
2. Loại viên chức thứ hai là những người cũng có những cảm nhận giống như loại thứ nhất, nhưng họ thấy mình buộc phải giữ lấy công việc này vì nhiều lý do khác nhau. Họ có thể đã lớn tuổi và thấy thay đổi công việc ở tuổi của họ thì chẳng khôn ngoan, thận trọng chút nào. Họ cũng có thể là những người gánh trên vai trách nhiệm nuôi sống gia đình, khi chẳng hề có chút vốn làm ăn, họ không dám thử làm một việc mới lạ vì sợ sẽ để vợ con mình lâm vào cảnh sống khốn cùng. Hơn nữa, họ càng không dám thử là vì họ nhận thấy sự ngờ vực mà chính quyền cai trị dành cho người dân ở đất nước bị trị là lẽ tự nhiên nhằm bóp nghẹt sáng kiến mà hơi một chút họ thấy là táo bạo, cho đến người cuối cùng, hay kìm hãm những người bản xứ có thể cạnh tranh với người Da Trắng. Chúng ta đều biết rằng chính quyền Pháp thường dùng đủ biện pháp để không cho bất cứ người An Nam nào có thể di chuyển từ vùng này sang miền khác mà không cần phải có giấy thông hành hay giấy tờ tương tự.
3. Loại viên chức thứ ba là những người từ trong ý thức đã bằng lòng làm tròn chức trách của mình và sống lay lắt qua ngày với việc đó. Họ là những người lương thiện, trung thực nhưng nghèo khó và nhút nhát. Là những viên chức kiểu mẫu, họ không thể làm sai chức trách của mình và không bao giờ phạm phải một điều gian dối nào dù là nhỏ nhất, ngay cả trong những hoàn cảnh họ có thể làm việc đó mà không gặp chút nguy cơ tổn hại đến thanh danh hay bản thân. Họ cũng bất bình, nhưng âm thầm, về chế độ áp bức mà đất nước của mình phải gánh chịu, nhưng họ lại thấy lực bất tòng tâm.
4. Trong số các viên chức trung thực, lương thiện kể trên, có những người cần phải được xếp vào loại trung gian vì họ không hoàn toàn là người lương thiện, trung thực nhưng về bản chất lại không phải người bất lương, xấu xa. Tôi tin là có thể mô tả họ đầy đủ khi gọi họ là những kẻ cơ
hội. Về mặt bản chất, họ không phải là người độc ác và cũng chẳng dính líu gì đến những việc tàn ác, bất lương, nhưng họ là những người có thể mua chuộc được nếu đúng thời cơ và có thể bán rẻ chính mình nếu nhận được giá hời.
5. Loại viên chức thứ năm, cũng là loại cuối cùng, không may lại khá đông. Rất nhiều người trong số này là những con người của chế độ mới. Đây là những kẻ chẳng có chút ngại ngùng hay đắn đo nào. Bất kỳ phương tiện, cách thức nào có thể giúp họ đạt được lợi ích nhất định đều được cho là tốt. Dễ bị mua chuộc, dễ thành kẻ lừa lọc và phản trắc, họ không ngần ngại mà sẵn sàng phản bội bạn bè, cha mẹ và Tổ quốc của mình. Mánh lới và xu nịnh, những người này thường biết cách giành lấy ơn huệ, sự chiếu cố từ các vị sếp của mình và chiếm được niềm tin của họ. Ta thường thấy trong số này có những kẻ ở cấp bậc cao thường được chính quyền Pháp trao tặng huân chương Bắc Đẩu Bội tinh với danh hiệu “tận tầm phụng sự cho sự nghiệp của nước Pháp”. Họ là những kẻ trung thành đẩy phô trương trong mắt người Pháp và những người khác, nhưng có một điều chắc chắn là nếu một ngày nào đó chủ của họ thất thế, họ sẽ không phải là những người cuối trong hàng ngũ đâm sau lưng chủ khi thấy việc đó có lợi cho mình. Giới lãnh đạo trong chính quyền cai trị đã thấy rõ và tin chắc họ hai mặt nhưng cũng nhận rõ rằng những kẻ này vô cùng hữu ích với mình.
VI
VỀ THÁI ĐỘ CỦA NGƯỜI PHÁP ĐỐI VỚI NGƯỜI AN NAM
Ta cần phải trả lại cho người An Nam công đạo này, đó là khi có việc cần giải quyết với người châu Âu thì người An Nam luôn tỏ thái độ đứng đắn, lịch sự và trịnh trọng. Ai ai cũng có thể thấy cảnh người An Nam đẩy các lễ nghi xã giao thành hành động xun xoe hay khép nép, đôi khi còn tỏ ra khúm núm và luồn cúi. Nói ngắn gọn, trong mối quan hệ với người Âu châu, người An Nam luôn lịch sự, đôi lúc còn lịch sự thái quá.
Về phía những người Pháp sống ở thuộc địa này, thành kiến chủng tộc - thứ định kiến thâm căn cố đế và không thể trừ tiệt được trong nền văn minh Âu châu - khiến họ có một quan niệm về uy tín cá nhân và uy thế tập thể hoàn toàn trái ngược với quan niệm của phần lớn người Á Đông ở phương diện này. Đa số người Pháp ở thuộc địa tin rằng để giữ được uy thế chủng tộc thượng đẳng của mình, họ cần phải nhắc cho dân bản địa nhớ rằng họ là những kẻ đi chinh phục và là ông chủ ở đây bất cứ lúc nào có thể. Theo đó, làm quen, xuôi theo khi đối diện với thái độ trịch thượng, khinh thường dành cho người dân bản địa hèn mọn là việc thức thời đó mà. Khởi từ thái độ này, rất dễ để người ta đi chệch sang lối hành xử thô tục, thô bạo và tàn nhẫn. Thực vậy, ở thuộc địa này, ta có thể bắt gặp những người châu Âu thể hiện lối hành xử hung tợn chưa từng thấy với người dân bản địa. Lối hành xử này, bạo ngược không kém những lối hành xử
khác, nếu không muốn nói là bạo ngược hơn nhiều, cũng bị áp đặt bằng sức mạnh lên những người da trắng khác, những người can đảm không tuân theo nó, dám chấp nhận nguy cơ bị đồng hương của mình coi khinh. Thái độ này chính là lời giải thích tại sao những vụ người châu Âu sát hại người dân bản địa ở các thuộc địa của thực dân Pháp không bao giờ được đưa ra xét xử và trừng trị.
Nhưng ngay ở Đông Dương, có những trường hợp ngoại lệ nên được đặc biệt nhắc đến vì chúng không nhiều, thậm chí phải nói rằng chúng là những ca hiếm có, thật sự rất hiếm. Thi thoảng, người ta bắt gặp ở vùng đất này những người Pháp công khai bày tỏ sự đồng cảm thật sự với người An Nam và xử sự với họ bằng thái độ lịch sự, trân trọng và công bằng. Theo lẽ đó, nếu những người Pháp này nhận được sự yêu mến sâu sắc và sự tôn trọng chân thành từ người An Nam nhờ thái độ cao thượng của mình thì ngược lại, họ bị tẩy chay bởi những người đồng hương nhìn họ như những kẻ có đầu óc bất thường; họ lại càng xứng nhận tất cả những điều đó vì họ chịu hoàn toàn trách nhiệm cho cách hành xử của mình. Là viên chức, họ chấp nhận nguy cơ bị bổ nhiệm vào những vị trí bất lợi, khó khăn trên con đường thăng tiến; và nếu lúc nào đó họ buộc phải can thiệp vào một xung đột giữa người châu Âu và người dân bản xứ, họ chắc hẳn phải chịu áp lực tồi tệ mà áp lực này rốt cuộc sẽ khiến họ chệch khỏi lối hành xử cao quý của mình. Trong khi đó, những kẻ thực dân lại thường không được lòng người dân ở chính môi trường các nước châu Âu, đến nỗi nếu họ mong muốn nắm được một chức vụ dân cử nào đó thì họ sẽ chẳng có cơ hội chiến thắng nào khi ứng cử vào chức vụ đó. Họ cũng không thể tin cậy vào chính quyền thuộc địa vốn không phải đồng minh của những người châu Âu yêu quý người dân thuộc địa bản xứ.
Ngoài ra, còn có một loại người Pháp khác, đó là những người nhìn chung luôn tỏ thái độ ân cần với những người An Nam làm việc với họ.
Trong mối quan hệ giữa người với người, họ thích mang đến cho người khác những giúp đỡ nho nhỏ, nhưng khi động chạm đến các vấn đề liên quan đến lợi ích chung nhất của người An Nam thì người An Nam khó thể tin cậy ở họ, vì trong trường hợp này, họ cương quyết đứng về phía của phe thống trị cho đến cùng.
Tôi biết rằng có đôi khi, ta bắt gặp ở nước Pháp và ở thuộc địa này những người Pháp, hoặc vì tinh thần nhân đạo hoặc vì nguyên nhân tranh đua trong chính trị mà cố gắng kháng nghị, khiếu nại những sự lạm quyền chuyên chế của chính quyền cai trị ở thuộc địa, nhưng họ chỉ là một bộ phận thiểu số rất nhỏ, và tiếng nói của họ cho dù có cất lên cũng sẽ nhanh chóng bị những tiếng la ó, gào thét của phe đối lập lấn át.
VII
VỀ THÁI ĐỘ CỦA NGƯỜI AN NAM ĐỐI VỚI SỰ THỐNG TRỊ CỦA NGƯỜI PHÁP
Trong chương này, chúng tôi sẽ đề cập đến vấn đề tâm lý của người An Nam. Có những lời giải thích trái ngược nhau về vấn đề này. Các lời giải thích được gợi ý hay xuất phát từ những nguồn chính thức đều rất lạc quan. Ta có thể tóm gọn chúng trong ý sau: dân chúng An Nam sống rất hạnh phúc dưới sự giám hộ và bảo trợ của nước Pháp, do vậy, họ hết lòng kiên trung với nước Pháp. Nếu thi thoảng có những người Pháp “xấu xa” dám cho phép bản thân nói điều ngược lại thì những điều họ nói chỉ là một thứ tài liệu độc hại không xứng nhận được sự chú ý nào dù là nhỏ nhất. Những cây bút độc lập - những người bị chê trách vì đã viết ra thứ tài liệu độc hại này - lại khẳng định rằng người Pháp đã phạm những sai lầm không thể vãn hồi ở Đông Dương và do vậy đã đánh mất hoàn toàn niềm tin nơi người bản xứ.
Hiện nay, tìm kiếm những tài liệu ghi chép quan điểm của người An Nam về vấn đề này là một việc hoàn toàn vô ích vì chúng không hề tồn tại, tình trạng lệ thuộc của người An Nam không chỉ không cho phép họ nói những điều họ nghĩ mà còn thường xuyên buộc họ phải nói điều trái ngược với suy nghĩ của mình. Người dân nơi đây cũng không có quyền tự do báo chí. Cũng có một vài tờ báo viết bằng ngôn ngữ của người An Nam, nhưng
chúng đều là những cơ quan do chính quyền thuộc địa tạo ra và duy trì, nói theo cách hiện thời thì các tờ báo này là những công cụ “nhồi sọ”.
Ở Đông Dương, không có một xuất bản phẩm định kỳ nào, dù bằng ngoại ngữ hay bằng ngôn ngữ của người An Nam có thể thực hiện mà không cần được chính quyền thuộc địa cấp phép cũng như không bị chính quyền kiểm duyệt thường xuyên. Vậy trong tình trạng đó, ta phải khảo cứu các sự kiện, vả chăng, các sự kiện này là những tài liệu tốt nhất vì chúng không hề nói dối. Có điều, một vài trong số những sự kiện chính trị nghiêm trọng nối tiếp nhau xảy ra trong hai mươi năm qua mà tôi sẽ nêu ra sau đây chính là luận đề bi quan có thể đối lập với luận đề lạc quan về vấn đề tâm lý của người An Nam.
Vào năm 1898, một cuộc tổng nổi dậy đã bất ngờ nổ ra ở khắp các tỉnh Bắc kỳ. Được nghiêm túc ấp ủ nhưng cuộc nổi dậy lại rất nực cười ở mặt cách thức và phương tiện thực hiện. Về khía cạnh thần bí, nó cho thấy sự tương đồng với phong trào Nghĩa Hòa Đoàn[8] ở Trung Quốc vào năm 1901. Những người dân An Nam được vũ trang bằng gậy gộc và một vài vũ khí giáo mác cũ kỹ, lỗi thời, ít nhiều bị sứt mẻ đã tụ tập trước tư dinh của các quan lại và quan chức người Pháp trong đêm để tiến hành nổi dậy. Họ nhanh chóng bị đánh tan mà chưa kịp để lại một nạn nhân hay thiệt hại vật chất nào. Một kiều dân châu Âu sống một mình ở tỉnh Kiến An[9] đã bị giết trong đêm xảy ra cuộc nổi dậy, nhưng vụ giết người này dường như chỉ là một sự trùng hợp bởi tội ác này là do những người ngoại quốc gây ra ngẫu nhiên đồng thời với lúc đang diễn ra cuộc nổi dậy. Dù sao đi nữa thì trong ngày tiếp theo, vụ việc này đã bị trấn áp theo cách cực kỳ đẫm máu. Trong suốt nhiều tháng, hàng chục cái đầu của người An Nam rơi xuống mỗi ngày ở khắp các tỉnh khác nhau. Ở tỉnh Thái Bình, người ta còn thấy độ ba chục người An Nam bị hành hình trong cùng một ngày. Tay công sứ
Pháp ở tỉnh Hải Dương đặc biệt gây chú ý do sự tàn ác của y, sự tàn ác này rốt cuộc còn đánh động đến cấp trên của y nữa.
Khi bình luận về sự kiện này, các tờ báo địa phương cho rằng sở dĩ dấy lên cuộc nổi dậy tuyệt vọng này là do tình cảnh khốn khổ của người dân An Nam, những người phải oằn mình vì gánh nặng sưu thuế mới. Các tờ báo đó đã nhìn thấy nguyên nhân chính của cuộc nổi dậy là nằm ở sự bất mãn rộng khắp do ba thế độc quyền lớn mới được tạo ra gây nên, và hiện nay, ta có thể thấy ba thế độc quyền này tiếp tục làm giàu cho một vài nhà tư bản lớn trong khi gây thiệt hại cho sức khỏe của phần đông người bản địa. Ba thế độc quyền này là: (1) Độc quyền muối, việc này gợi nhắc đến thuế muối tai tiếng thời xưa; (2) Độc quyền rượu; (3) Độc quyền nha phiến. Việc tạo ra thế độc quyền rượu lập tức đã hủy hoại rất nhiều ngôi làng vì nó đã khiến người dân mất đi nguồn bã rượu mà họ dùng để nuôi lợn. Sự thi hành thế độc quyền rượu cũng đã gây ra nhiều vụ việc vô cùng đáng tiếc. Để làm lợi cho các công ty đại lý đặc quyền, chính quyền thuộc địa ngầm gây sức ép lên bộ máy quản lý làng xã nhằm buộc mỗi làng đều phải tiêu thụ số lượng rượu nhiều nhất có thể. Dù thế nào đi nữa, thật ngao ngán khi nhận thấy rằng trong khi Nhật Bản và Trung Quốc cấm người dân sử dụng thuốc phiện và nhiều nước ở châu Âu cũng như châu Mỹ dần hạn chế việc tiêu thụ rượu để đi đến việc bỏ hoàn toàn thì nước Pháp vẫn tiếp tục đầu độc những đứa con nuôi của mình ở Đông Dương bằng hai thứ thuốc độc là rượu và nha phiến.
Sau mưu toan tổng nổi dậy năm 1898, một nhà báo Pháp độc lập đã viết ra một nhận xét rất đáng ghi nhớ trên tờ báo mà theo tôi nhớ thì có tên L'Avenir du Tonkin (Tương lai của xứ Bắc kỳ), nhận xét đó như sau: “Đó là những con người nghèo khổ mà chúng ta đã sát hại bằng cách quy kết họ là những kẻ nổi loạn, những tên cướp, trong khi nếu họ là người thuộc phe ta thì ta chắc chắn sẽ tôn xưng họ là anh hùng”.
Khoảng vài năm sau vụ nổi dậy năm 1898 được nhiều người biết đến đó, thêm một sự kiện để lại ký ức đau buồn trong lòng người An Nam đã xảy ra. Đó là cuộc tuyển mộ một lượng lớn dân phu An Nam để thực hiện và hoàn thành gấp công trình xây dựng tuyến đường sắt từ Yên Bái đến thủ phủ của tỉnh Vân Nam, Trung Quốc (Yunnan-Sen).[10] Tôi không biết con số chính xác trong cuộc mộ phu cưỡng bách đó là bao nhiêu, nhưng người ta ước tính ít nhất cũng có hai trăm ngàn nông dân An Nam bị buộc phải rời khỏi làng quê của họ và bị tống đến các vùng quanh sông Nậm Thi,[11] gần tỉnh Lào Cai, ở đó, dân phu An Nam phải chịu đựng thời tiết xấu và điều kiện sống vô cùng thiếu thốn, họ chết như rạ, vì họ phải làm việc trong những môi trường rất độc hại cho sức khỏe, cũng vì họ là nạn nhân của tình trạng điều trị y tế tồi tệ không tả nổi. Những nơi này có môi trường nổi tiếng là độc đến mức người ta chẳng thể tìm thấy người lao động phổ thông Trung Quốc nào chịu đến làm việc. Người dân An Nam đã không thể, cũng như không dám phản kháng, nhưng vụ tai tiếng này lớn đến mức làm rúng động báo chí Pháp, và như thường lệ, những tờ báo ở Pháp chẳng tỏ mấy tình thương cho người dân bản địa ở An Nam. Chỉ có một tờ báo đã cho đăng một loạt bài phản đối việc người ta bất chấp tất cả, kể cả hy sinh mạng sống con người, để làm lợi cho công ty thầu tuyến đường sắt đã nói đến ở trên. Nhưng dường như vấn đề ở đây không chỉ có việc làm lợi cho công ty thầu đặc quyền, còn có vấn đề khác quan trọng hơn rất nhiều. Theo báo chí Trung Quốc thì vấn đề đó là chính quyền Pháp muốn cho hoàn thành nhanh công trình đường sắt đang dang dở này để tiến hành xâm lược tỉnh Vân Nam trù phú.
Mặc cho những vụ trả thù cực kỳ đẫm máu của chính quyền thuộc địa vì cuộc nổi dậy chẳng gây được thiệt hại gì vào năm 1898, những người An Nam “mưu phản” không hề chậm trễ quay trở lại với trách nhiệm của mình. Vào năm 1908, một âm mưu táo bạo bị phát giác. Đó là âm mưu đầu
độc quân đội Pháp đồn trú ở Hà Nội gây rúng động dư luận. Người dân Pháp thì kinh hoàng về vụ việc này đến mức họ đã đồng loạt hướng mắt về dinh thự của toàn quyền Đông Dương để bày tỏ thái độ và yêu cầu vị quan chức đứng đầu thuộc địa này tìm đủ các cách xử lý mà tình huống lúc đó đòi hỏi. Khi âm mưu bị phát hiện, có ba người lính An Nam bản xứ đã hy sinh bản thân khi tự nhận hết tội vào mình và đòi được chịu trách nhiệm hoàn toàn cho âm mưu này: họ ngay lập tức bị bắt và bị giữ kín trong nhà giam bí mật cho đến khi chịu hành hình. Để giữ các phiên xét xử vụ án chính trị lớn này tránh khỏi con mắt tò mò của công chúng, chính quyền thuộc địa đã dựng lên một thứ tòa án rất hà khắc. Tại Bắc kỳ, tất cả người bản xứ bị buộc tội trong các vụ việc được cho là âm mưu ám sát hay phạm tội mang tính chính trị ở ngay thuộc địa này đều bị giao cho tòa án hà khắc như thế xét xử. Trong hoàn cảnh đó, vụ xử này không được công khai để công chúng dự thẩm và trực tiếp nghe lời khai của các bị cáo, nhưng có một lời đồn đã lan truyền khắp nơi trong cộng đồng người An Nam, đó là trong buổi hỏi cung đầu tiên của tổng đốc Hà Đông đối với ba người lính An Nam tự nhận trách nhiệm cho âm mưu đầu độc, ba người này đã thẳng thừng nói với vị tổng đốc những lời như sau: “Chúng tôi lấy làm lạ trước mấy câu hỏi của ông. Chúng tôi tự hỏi tại sao ông cần phải tra khảo chúng tôi: vì rốt cuộc, cũng là người An Nam, ông phải hiểu những gì ba người lính khốn khổ chúng tôi đã cố gắng làm, là các ông, các vị quan, các bậc đại công quyền quý lẽ ra phải thực hiện việc này trước mọi người.” Lời đồn đó hẳn phải là sự thật, vì chắc chắn ba người lính An Nam đó đã tỏ thái độ kiêu hãnh và can trường trước quan tòa trong khi biết chắc về kết cục dành cho họ. Vài ngày sau, họ bị kết án tử hình và bị chặt đầu với nghi thức hành hình nghiêm trang. Để hình phạt trở nên tàn nhẫn nhất có thể, chính quyền thuộc địa đã cưỡng ép vợ con họ đến pháp trường, tham dự và tận mắt chứng kiến họ bị hành hình. Đó có lẽ là lần duy nhất trong đời mà
vợ con của những người lính đó bị ép buộc phải tham dự và chứng kiến chồng mình, cha mình bị hành hình. Đầu của ba người lính bị phơi thị chúng trong nhiều ngày nhằm khiến cho sự trừng phạt phát huy tối đa tác dụng đe dọa của nó.
Đàn áp vẫn tiếp tục diễn ra. Sau cuộc hành hình ba người lính An Nam, rất nhiều người khác bị kết án khổ sai và nhiều án phạt khác nhau. Danh sách nghi phạm được lập ra và những người này bị vây bắt không khác gì họ là những con ác thú; các viên mật phái và mật thám cũng không hề ăn không ngồi rồi mà làm một công việc nhìn chung là có lợi cho họ hơn là cho chính quyền. Chính trong thời kỳ này, nhiều trí thức An Nam đã vượt biên, bỏ lại gia đình lẫn tài sản để đến sống ở những đất nước tự do, thân thiện và hiếu khách hơn quê hương của mình.
Thế nhưng chế độ khủng bố này chưa hẳn là mối buồn lo và tuyệt vọng của những người An Nam phản kháng lại chính quyền. Đến lượt mình, người dân Trung kỳ rục rịch thể hiện sự bất mãn, nhưng bằng một hình thức hòa bình và hoàn toàn bất bạo động. Đó là những cuộc biểu tình của người dân vào năm 1908 ở tỉnh Quảng Nam. Vả chăng, người dân An Nam vốn đã có cuộc sống rất khốn khổ, luôn oằn mình dưới gánh nặng sưu thuế, phải nộp thuế thân và thực hiện nghĩa vụ lao dịch không giới hạn, lại còn phải chịu thêm sự sách nhiễu tiền bạc của bọn quan lại là con đẻ của chế độ mới, của bọn tay sai cho chính quyền và của rất nhiều kẻ bịp bợm dưới con mắt thờ ơ, “sống chết mặc bây” của những quan chức cai trị thuộc địa người Pháp. Khi sự nhẫn nại trong một thời gian dài của họ đã cạn kiệt, họ - những người đàn ông, những người đàn bà cùng những đứa trẻ ăn bận rách rưới và chẳng mang theo một thứ vũ khí nào - đã tụ tập trước tư dinh của các quan chức người Pháp để phản đối sự bất công và áp bức mà họ đã phải gánh chịu với thái độ kính cẩn. Vậy mà trước thì họ bị bọn lính canh chặn lại, rồi sau đó phải giải tán khi bị tấn công bằng súng và
lưỡi lê, người chết và bị thương nằm la liệt trên mặt đất. Nhưng sự đàn áp này đã không dừng lại ở đó. Khi những người biểu tình rút lui, trở về nhà của mình và đành cam chịu nhẫn nhịn thì đến lượt các trí thức và các nhà nho, rất nhiều trong số họ bị bắt giữ chỉ vì bị nghi ngờ là những kẻ xúi giục người dân đi biểu tình. Nhiều người bị chặt đầu sau một phiên tòa xét xử vờ vịt, nhiều người khác thì bị tống đến nhà tù Côn Sơn (Poulo-Condore) [12] và nhà tù Lao Bảo,[13] ở đó, đa số họ đều không sống sót nổi sau khi bị tra tấn liên tục. Chính trong cuộc đấu tranh này mà nhà nho Phan Châu Trinh ban đầu đã bị kết án tử, nhưng sau đó được ngài Toàn quyền Beau[14] miễn xá kịp thời, và tôi sẽ kể lại nỗi đau khổ dai dẳng của ông ấy trong một chương khác.
Người ta đã bảo rằng người An Nam phải kìm nén sự bất mãn chung trong tầm hồn đau đớn của họ vì sức mạnh cưỡng ép của các cuộc trả thù đẫm máu, nhưng sự bất mãn đó lại lan tỏa qua những hoảng hốt giật thót từng cơn. Người An Nam, đại đa số vốn rất hiền lành và ôn hòa, đến lúc này lại phải tìm đến và sử dụng những vụ tấn công mưu sát đầy bạo lực. Vào năm 1913, một người lạ đã quăng một quả bom lên thềm của một quán cà phê ngay giữa ban ngày, làm cho hai sĩ quan người Pháp thiệt mạng.
Sự kiện này đã gây chấn động đến người dân châu Âu. Tấn bi kịch đó lại bắt đầu. Tội ác đó lại tái diễn. Cảnh sát lại lập danh sách nghi phạm, tùy ý bắt giữ những người đã từng đến gần hiện trường mà không bị tổn hại và giao nộp họ cho một tòa án hà khắc, một số người bị tòa án này kết án tử hình bằng hình thức chém đầu, số khác thì bị tống đến nhà tù khổ sai. Một lần nữa, máu của người An Nam lại chảy thành sông để thỏa mãn cho ham muốn trả thù của thế lực thực dân ở thuộc địa.
Bất hạnh thay cho người dân An Nam, những người bị cho là có tội trong thời kỳ này chỉ vì đã phê phán chính quyền bảo hộ thay vì tán dương
nó với những lời cam kết trung thành khoa trương, ầm ĩ ngay cả khi những lời phê phán đó được thốt ra trong các cuộc trò chuyện riêng tư, bởi chính quyền luôn thành công trong việc bắt giữ và kết án họ vì những tội mà họ chưa tùng phạm phải! Với những người có hiểu biết sơ về lịch sử thì điều này chẳng có gì đáng phải ngạc nhiên. Chẳng phải Hoàng đế Napoléon I đã lợi dụng vụ ám sát ông bằng thuốc nổ[15] để khiến cho 130 người vô tội bị lưu đày trong khi những người này không phải ai khác ngoài các đối thủ chính trị của ông đó sao? Huống chi, vấn đề giữa người An Nam và người Pháp ở đây là sự khác dòng khác giống, là kẻ đi xâm lược và người chịu khuất nhục.
Báo chí ở thuộc địa đã cố gắng mô tả những người An Nam bị kết tội trong vụ án chính trị này như những kẻ hung ác đáng bị lăng trì; nhưng kết quả lại là khi dự thẩm phiên tòa xét xử những người bị cho là côn đồ đó, người ta lại nghe được những lời nói cao thượng nhất của những người anh hùng đúng theo lý tưởng, tuyên ngôn này sau đó đã được đăng trên các tờ báo ở Pháp (trên tạp chí Revue Indigène vào năm 1913 và trên tờ báo Tribune Annamite vào năm 1921). Một người trong số họ đã đáp lời vị quan thẩm vấn như sau: “Ông cũng là người An Nam giống như tôi, tại sao ông lại hỏi tôi những câu hỏi này? Để tôi nói cho ông rõ tất cả những suy nghĩ của tôi: chết ngay bây giờ, chết vào ngày mai hay vào một ngày nào đó sau này thì có gì khác biệt? Ước mơ của tôi, đó là nền Cộng hòa dành cho toàn thể con người trên thế giới này, đó là tình hữu nghị, bác ái giữa các dân tộc, các giống nòi. Nếu ông cho là tôi đã phạm phải một tội ác tàn bạo, ghê rợn thì cứ chặt đầu tôi, tôi rất sẵn sàng. Ông tra khảo tôi để làm gì? Động cơ khiến tôi làm việc đó chẳng phải rõ ràng như nước từ khe đá chảy ra rồi đó sao? Vài người chúng tôi chết thì có hề chi, những người khác sẽ tiếp bước chúng tôi, ông không giết hết tất cả chúng tôi nổi đâu.”
Cũng trong năm 1913, người ta phát hiện ra âm mưu tấn công bằng bom ở Nam kỳ. Vụ án này do Tòa Đại hình Sài Gòn cùng ngài Tổng Chưởng lý Michel xét xử. Thậm chí, vào lúc đó, vị tổng chưởng lý này còn đọc một bản cáo buộc chính trị dài ngoằng.
Chúng ta hãy đi đến năm tiếp theo - năm 1914 đầy bi thảm, tang tóc. Trong khi cuộc chiến về pháp lý và sự khai hóa bắt đầu diễn ra ở nước Pháp thì triều đình An Nam chỉ lo thể hiện lòng trung thành với chính quyền bảo hộ. Trong hoàn cảnh nặng nề đó, những hậu duệ khốn khổ của vua Gia Long đã cố gắng phá bỏ xiềng xích, thoát ra khỏi vòng nô lệ của thực dân, người ta những tưởng họ đã chấp nhận mãi sống phận nô lệ trong lầu son gác tía với sự bạc nhược đầy u mê, nhưng rồi họ lại được một tiếng nói nào đó từ thế giới bên kia thức tỉnh, đó có thể là tiếng nói của vua Tự Đức, vị vua bất hạnh đã bị chính quyền thực dân khai quật quan tài vào năm 1912 tức hai năm trước đó để xem có đúng là không hề tìm thấy vàng bạc hay đá quý gì trong đó hay không. Một mưu toan tổng khởi nghĩa đã bị phát hiện, và người đứng đầu chính là vua An Nam lúc đó, vua Duy Tân.
Vua Duy Tân sau đó đã bị bắt giữ và bị đày đến đảo Réunion (thuộc Pháp). Ông là vị vua thứ ba của An Nam bị chính quyền Pháp lưu đày sau vua Hàm Nghi và vua Thành Thái. Mưu toan nổi dậy lần này cũng bị đàn áp giống như những mưu toan trước đó: rất nhiều người bị bắt giữ, bị hành hình, bị lưu đày, bị tù khổ sai.
Phương châm chính thức bấy giờ là khiến cho thế giới tin rằng trong khi nước Pháp đang đấu tranh chống lại những kẻ ngoại xâm đến từ nước Đức thì người dân bản địa ở Đông Dương - vốn chỉ lờ mờ nghe nói đến những kẻ đang xâm lược nước Pháp và thậm chí còn chẳng biết họ sống ở nơi nào trên trái đất, là ở phía Đông, phía Tây, phía Bắc hay phía Nam
nước Pháp, vì dốt nát do phải sống dưới một hệ thống chính sách ngu dân khôn khéo - hoàn toàn ngoan ngoãn giữ yên lặng và chỉ biết cầu trời khấn phật để kẻ thù chung này nhanh chóng bị đánh bại. Thế nhưng, cả xứ Đông Dương đã phải sống trong tình trạng giới nghiêm và tòa án binh ở xứ này không hề rỗi rãi, Chúa biết có bao nhiêu người An Nam đã bị xử tử và bỏ tù. Dù có trung thành với chính quyền bảo hộ hay không, người dân không có vũ trang chắc chắn không thể làm gì khác hơn ngoài giữ thái độ yên lặng và chịu khuất phục trước họng súng của chính quyền này, nhưng ta biết là có một đội quân nhỏ bao gồm những người An Nam yêu nước lưu vong ở nước ngoài đã tiến hành tấn công các bưu điện và tất cả các tỉnh ở vùng Thượng du Bắc kỳ (Haut-Tonkin) bằng súng và một vài đại bác nhỏ. Họ đã thành công chiếm được vài tỉnh, nhưng do vũ khí quá nghèo nàn, ít ỏi, họ đã phải rút khỏi các tỉnh này sau thời gian chiếm đóng ngắn ngủi.
Về những bài diễn văn, những phát ngôn thể hiện lòng trung thành với chính quyền bảo hộ của người An Nam, người ta kể lại câu chuyện sau rất đáng để suy ngẫm. Trong khi chiến tranh đang diễn ra thì tại miền Nam nước Pháp, có một viên chức người An Nam - một kẻ trung thành kiểu mẫu - đã bày tỏ tình cảm trung kiên của mình với nước Pháp theo cung cách rất phô trương. Sau đó, anh ta giành được cái ghế giám đốc của một nhà hát, nơi đã cho người này lên sân khấu đọc bài diễn văn đúng chất của một kẻ trung thành về vấn đề chiến tranh trong một buổi diễn. Vào lúc nghỉ chuyển hồi lần thứ nhất, người ta thông báo việc đó. Hình như ở sân khấu đó, công chúng chào theo nghi thức của quân đội và đọc một bài diễn văn là một mớ tạp nham toàn những câu từ kiểu cách nhặt nhạnh từ các tờ báo đương thời, lên án sự man rợ của người Đức và thể hiện ước nguyện cháy bỏng về chiến thắng sắp tới của dân tộc văn minh trước bọn man di mọi rợ. Vài ngày sau đó, một người bạn học cũ của anh ta khi gặp anh ta nơi phố thị, liền nhắc đến sự việc này và chúc mừng về chuyện đang được nói đến.
Vì diễn giả trung thành, rất đắc chí và thích thú trước lời khen của anh bạn cũ, bèn xui bạn cũng làm giống như mình. Người bạn này, vốn là một người ưa mỉa mai lạnh lùng, đã nói với anh ta rằng: “Tôi rất vui lòng; nhưng mà anh biết đó, tôi nhất thiết phải nói cho anh nghe suy nghĩ này. Có thể sau chiến tranh sẽ có một vài người Đức đến Đông Dương. À! Nếu có ngày đó thì một người trong số họ sẽ chứng tỏ cho anh thấy sự man rợ của họ một cách mạnh mẽ bằng cách tiễn anh đến thế giới bên kia với những cú đá mạnh hết sức vào mông khiến anh gãy hết xương chậu dù anh chẳng khiêu khích gì anh ta, vậy anh có tin rằng anh ta sẽ bị kết án vì tội ác man rợ đó hay không? Tôi có thể nói cho anh biết, là không: để bảo vệ uy thế của người da trắng, họ sẽ không xử tội anh ta.” Điên tiết, con người trung thành luôn ton hót của chúng ta vô tình tự vạch mặt, để lộ ý đổ của mình khi hung hăng đáp trả: “Tôi không cần anh dạy cho biết điều này, nhưng anh có tin là bằng mật ngọt, người ta có thể giết chết ruồi không?” Những con ruồi! Câu chuyện mang tính phúng dụ này không thuận tai cho lắm với những người hay được ngợi khen, chẳng phải là thế sao?
Cùng các lý lẽ vững chắc rút ra từ một số sự kiện được trình bày ở trên, luận đề bi quan về tâm lý của người An Nam có thể làm nảy sinh vô số luận đề bi quan khác cùng chủ đề này bằng việc phê phán chung chung về chế độ này. Còn luận đề lạc quan có thể lật lại bằng cách viện dẫn các số liệu sẵn có về những cải thiện ở xứ sở về mặt kinh tế. Rủi thay, những sự cải thiện này chắc chắn chẳng chứng tỏ được điều gì về vấn đề thân phận của người dân bản địa. Cũng như thuở xưa, các nông nô và nô lệ ở Pháp cũng như ở các nước châu Âu khác đã phải lao động cật lực, vất vả cả đời mình để làm giàu cho lãnh chúa và chủ của mình mà chẳng hưởng được lợi gì từ sự lao động khó nhọc ngoài cái lợi “được” sống và chết trong cảnh khốn khổ, cực nhục; bây giờ cũng như vậy, người dân bị cai trị ở các thuộc
địa có thể phải luôn làm giàu cho các ông chủ bằng việc lao động liên tục, dù vậy, điều đó chẳng giảm nhẹ chút nào gánh nặng thân phận nô lệ của họ.
VIII
NỀN GIÁO DỤC DÀNH CHO NGƯỜI BẢN XỨ Ở ĐÔNG DƯƠNG - MỘT VẤN ĐỀ GAI GÓC
Đối với các dân tộc chịu ảnh hưởng của nền văn minh Trung Hoa như dân tộc An Nam, khai hóa có nghĩa là giáo dục, nói đến sự khai hóa nghĩa là nói đến giáo dục. Điều này được chứng tỏ rõ chỉ bằng hai từ Hán Việt có thể dùng để chuyển ngữ từ “civiliser” (khai hóa) trong tiếng Pháp: “giáo hóa”, nghĩa là giáo dục và chuyển hóa. Nòi giống Trung Hoa, khi mở rộng về phương Nam để định dân ở đất nước Giao Chỉ và trong khi hợp nhất dần dần với các giống nòi bản xứ, đã đào tạo cho người dân An Nam, hào phóng trao cho dân tộc này tất cả những gì có trong nền văn minh của mình bằng cách truyền đạt hết mọi thứ về nghệ thuật, các phong tục, văn chương và các luận thuyết triết học của Trung Hoa.
Điều đó có nghĩa là vào thời điểm nước Pháp xâm chiếm An Nam, nay thuộc Đông Dương nằm dưới sự cai trị của Pháp, thì An Nam không phải là một dân tộc man di hoàn toàn vô văn hóa như một số bộ tộc ở châu Phi và châu Đại Dương, mà là một dân tộc có quá khứ rực rỡ, vinh quang và đã phát triển đến một tầm vóc đủ lớn vẽ mặt văn hóa tinh thần và văn chương dù không có các nền khoa học hiện đại như ở châu Âu. Vào thời còn tự chủ, An Nam là một dân tộc có quan niệm phải phân biệt người với người bằng phẩm cách đạo đức và tri thức của từng cá nhân thay vì bằng tài phú có trong tay. Giống như ở Trung Quốc, giáo dục ở An Nam là hoạt động
hoàn toàn tự do, và những chức vụ khác nhau trong chính quyền công đều được giao phó thông qua con đường thi tuyển mà ai cũng có thể tham gia. Chính điểm này giúp ta hiểu rằng dân tộc An Nam, một dân tộc luôn tôn vinh tột bậc đạo đức và tri thức, một dân tộc mà con em luôn yêu quý và tôn trọng người thầy như cha mẹ của mình, phải là một dân tộc hiếu học và chăm chỉ trong việc học hành.
Nếu chính quyền Pháp, những kẻ đã chinh phục dân tộc An Nam bằng sức mạnh quân sự, biết suy tính hợp lý dựa trên các thiên hướng đáng khen này thì hẳn họ đã chiếm được niềm tin và tình cảm của người dân nơi đây. Nhưng than ôi, cần phải nói ra điều này, với những toan tính chẳng có chút rộng lượng, hào phóng nào, chính quyền Pháp thích củng cố sự thống trị của mình bằng một chế độ ngu dân. Không cần phải tiến hành một nghiên cứu dài, kỹ càng để có được bằng chứng cho việc này, chỉ cần đọc các tờ báo Pháp ở Đông Dương và sách vở do người Pháp đã và đang sống ở đây xuất bản là đủ, và những sự ngờ vực cuối cùng về vấn đề này lẽ ra đã được giải tỏa nhanh chóng bằng một kỳ thi công minh và được chú trọng, chăm chút ở đất nước mà ngày nay vẫn còn các tổ chức giáo dục dành cho người bản xứ ở Đông Dương. Trên thực tế, trong khi các nước láng giềng như Nhật Bản, Trung Quốc, Xiêm La và thậm chí cả Ấn Độ - một thuộc địa của Anh - đều đã được trang bị rộng rãi các thiết chế, cơ sở giáo dục có khả năng tranh đua với các thiết chế, cơ sở giáo dục ở châu Âu thì Đông Dương thuộc Pháp vẫn là nơi người ta còn đang tranh luận, bàn cãi về mức độ giáo dục dành cho người An Nam và về vấn đề cần biết liệu phải giáo dục người An Nam hay để cho họ có quyền tự do tự học.
Tôi biết là chúng ta đã gặp được một vài người Pháp tán thành và ủng hộ việc giáo dục toàn diện cho người dân An Nam, nhưng số này hiếm đến mức người ta có thể đếm được họ mà chẳng cần phải tìm hiểu gì nhiều. Ta vẫn phải kể đến điều sau đây, đó là ở thuộc địa, người Pháp thường có thái
độ rất thất thường: hôm nay họ thật sự rất khoan dung, rất ủng hộ chủ nghĩa tự do, ngày mai họ có thể trở nên cực đoan, quá khích. Paul Bert đã thành lập Bắc kỳ Hàn lâm Viện (Académie Tonkinoise), nhưng ông ấy lại mất trước khi có thể khánh thành cơ quan này, và từ khi ông ấy không còn, người mà ông ấy đã dẫn theo bên mình để thực hiện việc tổ chức nền giáo dục ở thuộc địa này, ông Dumoutier, đã tự ý nhận về bản thân mình cái nhiệm vụ dẹp bỏ các dự án của vị sếp quá cố bằng cách rao giảng trên các báo và trong các sách rằng không cần phải giáo dục cho người An Nam, chỉ cần dạy một vài từ tiếng Pháp cần thiết cho riêng một vài người An Nam để đào tạo ra một số ít ký lục là đủ. Chúng ta có một ví dụ xảy ra gần đầy hơn ở Viện Đại học Đông Dương (Université Indochinoise)[16] do ngài Toàn quyền Beau thành lập. Kể từ khi ông qua đời, sự nghiệp của ông đã bị đánh đổ bởi chính những kẻ mà khi ông vẫn còn, để nịnh hót, bợ đỡ ông, tất cả đã rất cố gắng tỏ ra là những người ủng hộ vì thấy thuyết phục trước quan điểm của ông về giáo dục ở thuộc địa.
Tôi biết rằng vấn đề giáo dục người dân thuộc địa là một vấn đề tế nhị, khó xử mà cách giải quyết phụ thuộc vào mục đích của cuộc chinh phục thuộc địa.
Vấn đề có phải là chinh phục để khai hóa?
Câu hỏi trên có thể sẽ không được đặt ra, giáo dục người dân thuộc địa là việc chính yếu, thậm chí phải nói rằng đó là mục đích duy nhất của cuộc chinh phục thuộc địa. chỉ có một cường quốc duy nhất trên thế giới này mà tôi biết là có thể được viện dẫn ra để minh chứng cho chính sách nhân văn này: đó là Trung Quốc. Bằng lịch sử có sẵn, chúng ta có thể nói rằng Trung Quốc chưa bao giờ chinh phục một đất nước để bóc lột người dân ở đất nước đó và qua đó làm giàu thêm cho mình. Dù những nhà cai trị Trung Quốc đã cai trị một cách tốt đẹp hay tồi tệ thì đó không phải là vấn đề ở
đây, nhưng dù tốt hay xấu, họ đối với tất cả mọi người đều như nhau, không hề có bất cứ sự phân biệt giống nòi hay dân tộc, đây là một sự thực và là một sự thực lịch sử. Cũng như trong các thời kỳ đất nước An Nam bị sáp nhập vào Trung Hoa và thành một phần của nước này, người Trung Hoa và người An Nam đều sống dưới cùng một chế độ, cũng như vậy, trong các thời kỳ ly khai, độc lập, người Trung Hoa sống ở An Nam cũng đã tuân thủ cùng những luật lệ như người An Nam mà không có bất kỳ sự giới hạn nào. Sở dĩ như thế là vì chính quyền Trung Hoa, trong mọi cuộc chinh phục của mình, đã chỉ theo đuổi mục đích cao quý là cố đạt đến tầm vóc vĩ đại về mặt tinh thần của đất nước Trung Quốc thông qua truyền bá nền văn minh Trung Hoa. Có thể nói, chính sách đồng hóa ở quy mô lớn, rõ ràng, trung thành và nhân đạo này là bí mật cho những nguồn sức mạnh cốt yếu đã khiến cho Trung Quốc trở nên bất diệt, trong khi luôn ưu tiên cho việc mở rộng bờ cõi của mình. Chắc chắn là Trung Quốc đã không bỗng dưng mà trở thành một vương quốc lớn mạnh chỉ trong một đêm, làm thành một thế giới trong thế giới và qua tất cả các cuộc cách mạng trong lẫn ngoài nước, vẫn tiếp tục tồn tại sau khi các vương quốc khác chỉ kéo dài hơi tàn để sau đó chết vì sự vĩ đại hão huyền của mình. Trung Quốc cũng từng là một hạt nhân từng bước phát triển nhưng trong quá trình mở rộng dân của mình, dân tộc này đã hợp nhất một cách hòa bình và dần dần hòa cùng các giống nòi bản xứ để tạo thành một giống nòi thuần nhất thay vì hủy diệt các giống nòi hay cầm giữ họ dưới một ách đô hộ hung tàn, ích kỷ và khiến họ trở thành kẻ thù của mình. Ở Đông Dương, chúng ta cũng có các ví dụ về sự hòa nhập dần dần này ở dạng hợp nhất các giống nòi có gốc Ấn như người Chiêm Thành và người chân Lạp với giống nòi An Nam. Sự thực xã hội học này, sự thực làm vẻ vang cho Trung Quốc, tạo nên một mối dây ràng buộc bền chắc đến mức các quốc gia đã tách khỏi Trung Quốc để lập thành những đất nước độc lập, như Triều Tiên và An Nam, đã
luôn xem việc vẫn ở dưới quyền lãnh đạo về mặt tinh thần của mẫu quốc trong thời gian ly khai, độc lập như một bổn phận hiếu thuận. Chúng ta biết rằng thuở xưa, các vị quân chủ Triều Tiên và An Nam đã luôn trung thành, chính xác tuân thủ truyền thống lâu đời là để tước vị của mình được thừa nhận bằng một lễ tấn phong của Trung Quốc.
Ngược lại, vấn đề có phải là chinh phục thuộc địa để tạo ra của cải bằng cách khai thác thuộc địa và bóc lột người dân thuộc địa?
Trong trường hợp này, giáo dục cho người dân bản xứ là một vấn đề phức tạp hơn, khó giải quyết hơn, vì nếu đúng như trên thì việc giáo dục người dân thuộc địa không phải là mục đích của việc đi chinh phục thuộc địa. Nhưng trước khi đề cập đến các giải pháp khác nhau cho vấn đề này mà chính quyền Pháp đã thử ở Đông Dương, điều quan trọng là cần phải nói ngắn gọn về các phương thức được dùng trong công cuộc khai thác thuộc địa của người châu Âu. Những phương thức này, nếu không kể đến sự khác biệt trong chi tiết thì có thể được rút lại thành hai loại như sau: phương thức diệt chủng và phương thức đô hộ.
Đặc biệt, phương thức diệt chủng trong khai thác thuộc địa đã được áp dụng một cách chặt chẽ, chính xác ở châu Mỹ và châu Đại Dương. Ngài J. L. de Lanessan - một nhân vật quyền cao chức trọng ở thuộc địa, giáo sư có học vị thạc sĩ về lịch sử tự nhiên ở Trường Y Paris (Faculté de médecine de Paris), nghị viên và cựu Toàn quyền Đông Dương - đã mô tả phương thức này một cách tài tình trong hai công trình chính của ông về công cuộc khai thác thuộc địa của người châu Âu. Tôi xin trích đăng lại đúng nguyên văn những dòng viết về phương thức này trong các công trình của ông de Lanessan:
I - Các nguyên tắc trong công cuộc khai thác thuộc địa, trang 24:
“Những tiến bộ có được thông qua công cuộc văn minh hóa kể từ thời kỳ xa xưa khi La Mã phá hủy toàn bộ Carthage và Corinthe để loại bỏ các đối thủ thương mại, các kình địch trên biển, và khi La Mã lập ra vùng Narbonne với mục đích phá hoại công cuộc thực dân của Phénicie và Hy Lạp ở Marseille, vả chăng đã không thành được, những tiến bộ đó không thuần hóa được bao nhiêu phong tục tập quán của các dân tộc thuộc địa. Ở những thuộc địa có khí hậu ôn hòa, nơi mà người châu Âu có thể sống và làm việc, dường như họ chỉ chăm chăm triệt hạ người bản xứ để thủ tiêu, loại bỏ các đối thủ cạnh tranh. Lịch sử của Hoa Kỳ, của Canada, của Úc, của Nouvelle-Calédonie đầy các câu chuyện dã man vượt ngoài sức tưởng tượng của chúng ta. Đó là về các bộ tộc ở Bắc Mỹ đã bị người Anh tiêu diệt, về các cư dân bản địa đã bị người Anh lấy mất các vùng đất săn bắt và bị dồn vào tình cảnh khốn khổ.”
II - Đông Dương, trang 52:
“Ở khắp mọi nơi, bất cứ đâu mà người da trắng có thể thuận lợi sinh con đẻ cái, duy trì được nòi giống thì họ sẽ diệt các giống nòi bản địa ở bậc thấp hơn họ về mặt nhân học. Sau khi hoàn thành việc thế người châu Âu vào chỗ các cư dân bản địa ở Bắc Mỹ, họ lại xúc tiến việc này ở Nam Mỹ, việc này cũng tiến triển nhanh chóng ở Úc, ở Nouvelle-Calédonie, ở Taïti, ở quần đảo Marquises... tóm lại là ở hầu hết những nơi có khí hậu cho phép giống nòi da trắng chúng ta sinh con đẻ cái, duy trì nòi giống mãi mãi. Ở những vùng đất này, kẻ thực dân, trong khi tự mình làm đất trồng trọt, miệt mài với việc buôn bán hay công việc vất vả ở các xí nghiệp công nghiệp, chỉ có một mối bận tâm duy nhất: đuổi người dân bản xứ khỏi những vùng đất màu mỡ nhất và khỏi những nơi có vị trí đắc địa nhất cho việc thông thương, về phần chính quyền thực dân, họ có thể phản đối việc những người theo chủ nghĩa dân tộc của chúng ta dồn ép hay thậm chí là
tiêu diệt người dân bản xứ như thế nào? Phải chăng những người này không tiêu thụ các sản phẩm của chính quốc nhiều hơn những kẻ man di khốn khổ và hầu như chẳng có nhu cầu kia? Vậy là chẳng ai lo ngại về việc người dân bản địa bị tiêu diệt và biến mất khi người ta tự nhiên tin rằng cấn ưu ái hơn cho sự phát triển của thuộc địa châu Âu.
Cách thức diệt người bản xứ thay đổi tùy theo thái độ của họ. Nếu nhận thấy dân bản xứ là những kẻ ương ngạnh, ngoan cố, kẻ đi thực dân sẽ dùng sức mạnh của vũ khí để khuất phục hoặc thủ tiêu họ; nếu họ tỏ ra là những người ngoan ngoãn, dễ bảo và hiền lành, ôn hòa thì lực lượng thực dân sẽ hủy hoại họ, từng người một, bằng cách khiến họ bị tiêm nhiễm những thói hư tật xấu mà vốn dĩ các giống nòi bản địa vẫn luôn lạm dụng, trong khi lại chẳng hề biết gì về tài nghệ làm băng hoại, tha hóa con người mà không giết chết họ của các dân tộc văn minh. Thông thường, trong hai cách thức tiêu diệt người bản xứ, cách thức này sẽ được dùng đến sau khi đã thực hiện cách thức kia, trừ phi cả hai được thực thi đồng thời. Người ta sẽ xá cho tôi việc nhắc lại chuyện người Tây Ban Nha xâm chiếm Mexico và chuyện người Anh chinh phục Bắc Mỹ và biết bao chuyện khác xảy ra gần đây hơn mà độc giả của tôi vẫn còn nhớ. Bởi vì những gì là thật trong quá khứ thì vẫn là thật ở hiện tại và vẫn là thật đối với tất cả những người đang sống.
Tôi biết ông de Lanessan cho rằng ông cũng đã thấy được trò chơi chính sách diệt chủng người bản địa đó trong các cuộc chinh phục trước đầy của Trung Quốc vì ông tin vào tính phổ quát của quy luật chọn lọc tự nhiên trong thế giới loài vật của Darwin. Đó là một sai lầm lớn và sai lầm này xuất phát từ việc ông de Lanessan, như biết bao tác giả châu Âu khác, đã không đào sâu nghiên cứu phong tục tập quán của người dân vùng Viễn Đông và lịch sử của các quốc gia chịu ảnh hưởng của văn minh Trung Hoa, do đó mới có những sự đánh đồng vội vã về mặt xã hội.
Nhưng kinh nghiệm đã cho ta thấy rằng chính sách diệt chủng người dân bản địa này đã gây ra các bất lợi lớn cho chính những kẻ thực thi. Sau khi đã diệt các tộc người bản địa, những người châu Âu di thực lại thấy thiếu lực lượng lao động và để sinh sống được ở thuộc địa, họ thấy mình bị buộc phải lao động vất vả, nặng nhọc hơn khi ở quê hương. Vì số người châu Âu di cư sang các thuộc địa còn hoang vắng vẫn chưa đủ để tái định dần và cung ứng lao động giá rẻ, thực dân châu Âu đã phải đưa hàng triệu người da đen từ châu Phi sang các thuộc địa của mình và khiến họ làm việc như nô lệ, việc này vì thế đã thiết lập lại một chế độ nô lệ bên ngoài châu Âu, tính tàn ác của chế độ này về bất cứ mặt nào cũng không thua kém gì các chế độ nô lệ đã tồn tại ở phương Tây vào thời La Mã cổ đại. Việc buôn bán nô lệ da đen đã tạo thành một vết nhơ lớn trong lịch sử văn minh châu Âu.
Vì chính sách diệt chủng toàn bộ người bản địa đã tỏ ra có hại cho lợi ích vật chất của người da trắng ở các thuộc địa có khí hậu không thuận lợi cho việc sinh con đẻ cái, duy trì nòi giống của họ nên họ đã đặt ra chính sách đô hộ nơi đây. Đó là những thuộc địa được khai khẩn theo hướng chính quốc tạo ra của cải cho mình bằng cách khai thác những đất nước bị xâm chiếm và bóc lột người dân bản xứ. Nếu trong chính sách diệt chủng, vấn đề giáo dục người dân bản địa không được đặt ra thì ngược lại, trong chính sách đô hộ, đây lại là một vấn đề gay go và là đề tài luôn gây tranh cãi không ngừng, ở chỗ người ta cần quyết định xem liệu có phải giáo dục cho người bản xứ hay không và nếu có thì định mức độ giáo dục ra sao để có thể áp chế họ mãi mãi và biến họ thành những kẻ luôn ngoan ngoãn và phục tùng đối với chủ nhân của mình.
Dĩ nhiên, ý tưởng đầu tiên mà vấn đề này gợi ra cho những người tán thành, ủng hộ chính sách đô hộ đến cùng đó là luôn luôn giữ cho người dân
thuộc địa ở trong tình trạng bạc nhược cả về thể chất lẫn tinh thần đến nỗi họ chẳng còn đủ khả năng nghĩ về quyền tự do, độc lập dù chỉ là thoáng qua bằng việc thực thi một chế độ đàn áp và một chính sách ngu dân tinh vi, khéo léo. Nhưng dù sao thì những người Pháp sống ở Đông Dương vẫn chưa nhất trí và hầu như vẫn cho rằng hoàn toàn không cần phải giáo dục cho người An Nam cũng như không cho phép họ học gì cả khi thể hiện ý kiến của mình trên báo chí và trong sách. Những lý lẽ dùng cho quan điểm ủng hộ chính sách ngu dân này có thể được tóm gọn lại thành câu sau: “Giáo dục cho người An Nam hay để họ tự học nghĩa là cung cấp cho họ súng ống chống lại người Pháp chúng ta”. Phát ngôn mang tính tiêu biểu cho quan niệm này không phải do tôi nghĩ ra mà ta có thể dễ dàng tìm thấy lời này trên các tờ báo Pháp ở Đông Dương. Vả chăng, cần phải nhận thấy rằng chính những tờ báo này, không biết rằng bản thân đang phát biểu mâu thuẫn nhau, đã cùng lúc quả quyết rằng người An Nam hoàn toàn không có đủ khả năng tiếp nhận nền giáo dục phương Tây, rằng nếu thử giáo dục người An Nam bằng phương pháp giáo dục của người Pháp thì cũng sẽ chỉ dạy ra những con vẹt hay những con chó thống thái mà thôi. Có những người Pháp tin chắc vào điều đó đến mức khi họ bắt gặp một người An Nam đang dành thời gian đọc một cuốn sách tiếng Pháp trên tàu, họ liền lật đật hỏi người đó với một vẻ mặt ganh tỵ và một giọng điệu không thể khinh khỉnh hơn: “Mày có hiểu những gì mày đọc trong đó không?”. Và người An Nam ấy, vội vàng đóng cuốn sách lại trước lời dò xét bất ngờ sẽ phải thấy hạnh phúc nếu cái vị người Pháp đã rất lịch sự chất vấn mình kia cũng dùng chính thái độ lịch sự đó mà giật cuốn sách khỏi tay anh ta, ném qua cửa toa tàu. - Chắc hẳn là tôi chưa cho mọi người biết điều này: tôi không nói rằng tất cả người Pháp đều quen thói dạy cho người An Nam những bài học về phép cư xử văn minh kỳ lạ đến thế; tôi thích tin là những trường hợp đã xảy ra đó chỉ là cá biệt mà thôi; nhưng thực tế, việc như vậy
đã từng diễn ra. Dù thế nào đi nữa, người ta cũng thấy rằng ở thuộc địa, rất nhiều người Pháp có ác cảm đặc biệt với những người An Nam biết tiếng Pháp. Đó là lề thói ở thuộc địa, không cần phải ngạc nhiên về điều đó vì nếu không như thế thì thuộc địa sẽ chẳng còn là thuộc địa nữa.
Khi người Pháp đến xâm chiếm An Nam, đất nước này đã có một hệ thống giáo dục chỉ bao gồm các môn văn giống như hệ thống giáo dục xưa của Trung Quốc. Việc Trung Quốc chậm trễ trong các tiến bộ khoa học kỹ thuật đã khiến người ta tin rằng chữ Hán, một văn tự phức tạp hơn các chữ viết dùng bảng chữ cái La-tinh, là một trở ngại lớn cho việc học, cho việc nghiên cứu các môn khoa học của phương Tây. Cho rằng đã tìm thấy ở văn tự này một công cụ tuyệt vời để thực hiện thành công những ý đồ đen tối của mình, có thể tóm gọn các ý đồ này là dời sự chú ý của người An Nam khỏi các môn khoa học của phương Tây, phe chủ trương chính sách ngu dân đã vội vã biện minh và bảo vệ việc duy trì hệ thống giáo dục chữ Hán cho người An Nam trong khi đợi đến lúc thủ tiêu hết toàn bộ nền giáo dục dành cho người dần bản xứ ở nước này. Hầu hết thực dân và viên chức đều đã bày tỏ ý kiến là người ta có thể tạm thời để cho người An Nam học chữ Hán như họ đã từng học trước kia, nghĩa là để họ học theo phương pháp cũ nhưng phải giảm bớt việc dạy tiếng Pháp đến mức tối thiểu, chỉ đủ để đào tạo ra một vài người làm ký lục thôi. Nhưng trong một thời gian dài, những người ủng hộ chính sách ngu dân này lại không hề biết rằng Trung Quốc đã tái tổ chức nền giáo dục của họ dựa trên các nền tảng mới, những người này không biết rằng Trung Quốc đã dịch và bình chú các công trình của hầu hết các tác giả lớn của phương Tây và xuất bản rất nhiều sách chuyên luận về các môn khoa học của phương Tây. Đó là lý do tại sao nhiều nhà nho An Nam nắm được nhiều khái niệm chung về các môn khoa học và nghệ thuật, địa lý và lịch sử của năm châu lục trên thế giới chỉ bằng việc đọc một vài xuất bản phẩm hiện đại của Trung Quốc, trong khi những
người An Nam được đào tạo trong các trường An Nam-Pháp lại không hề biết gì về các tri thức này, trừ những người ham hiểu biết, tự học bằng cách đọc sách. Từng có một nhà nho lớn tuổi ở Hà Nội sau khi tự học vật lý và hóa học qua một vài cuốn sách nhỏ của Trung Quốc đã thực hiện các ứng dụng thú vị ở hai lĩnh vực này. Ngày nay, người ta vẫn bắt gặp những nhà nho An Nam, dù không biết một từ tiếng Pháp, vẫn rành lịch sử của nước Pháp và châu Âu hơn cả những người An Nam được đào tạo trong các trường học của Pháp.
Nhưng cần phải có chiến thắng áp đảo vang dội khắp thế giới của Nhật Bản trong cuộc chiến tranh với nước Nga (1904-1905) để thuyết phục người châu Âu tin rằng chữ Hán, nếu được dạy đúng phương pháp, thì không khó học hơn các ngôn ngữ khác là bao và cũng không hề là một trở ngại cho việc học, nghiên cứu các môn khoa học phương Tây. Về phương diện ngôn ngữ, Nhật Bản cũng ở trong tình cảnh tương tự như An Nam: họ có một ngôn ngữ nói của riêng mình như người An Nam và ngôn ngữ viết của họ cũng là chữ Hán. Ở Nhật Bản ngày nay, các công văn, tạp chí, các tờ báo lớn và sách giáo khoa quan trọng vẫn được viết bằng chữ Hán, ngôn ngữ chính bắt buộc ở nhiều cấp bậc trong nền giáo dục Nhật Bản.
Những khẩu đại bác đã bắn tan tác quân đội Nga trên bộ lẫn trên biển giống như những cú sét đánh làm thức tỉnh thế giới người châu Á da vàng, để khiến họ phải đối mặt với mối hiểm họa từ người da trắng. Mặc cho các biện pháp cực kỳ nghiêm ngặt mà chính quyền Pháp ở Đông Dương đã thực hiện để cản trở báo và tạp chí đương thời của Trung Quốc và Nhật Bản du nhập vào An Nam, các hệ quả từ cuộc chiến vẫn xảy ra ở đất nước này. Những người An Nam quả cảm, bất chấp sự cấm cản của chính quyền và những hiểm họa của việc vượt biên, lén vượt qua biên giới, chạy sang Trung Quốc hay Nhật Bản, đi tìm các trường học mà họ đã không tìm thấy ở khắp nơi trên quê hương mình.
Chính quyền Pháp bị đánh động, họ tập hợp hết ban bệ này đến ban bệ khác để thảo luận về vấn đề giáo dục cho người bản xứ vốn rất phức tạp vì nó đặt ra một câu hỏi cực kỳ đáng lo ngại, đó là phải biết liệu nếu Đông Dương bị một cường quốc khác tấn công, nước Pháp có thể tin cậy vào người An Nam hòng bảo vệ Đông Dương được hay không. Bằng chế độ ngu dân, họ sẽ có được những nô lệ biết phục tùng dưới ách thống trị của họ; nhưng có vẻ như trong trường hợp hiểm họa đến từ bên ngoài thì phải có những đội quân gồm những chiến sĩ thật sự, nhất là ở một đất nước thuộc địa, chứ không phải là những bầy đàn nô lệ có thể đâm sau lưng chủ nhân của mình khi những người chủ này ở vào tình thế bất lợi.
Cuộc tranh luận của các hội đồng chính phủ về vấn đề này đôi khi trở nên rất kịch liệt. Lần này, phe chủ trương chính sách ngu dân lúc nào cũng luôn chiếm đa số không còn tạo được thế nhất trí tuyệt đối nữa: họ đụng độ một vài đối thủ không hoàn toàn chia sẻ cách nhìn nhận vấn đề với họ. Phía bất đồng quan điểm ủng hộ việc giáo dục cho người An Nam, họ đưa ra các lý lẽ khác nhau và tất cả có thể được tóm gọn trong cầu sau:
“Nếu nước Pháp một mực khăng khăng từ chối cho người An Nam được hưởng sự giáo dục và cản trở họ tự học, họ sẽ tự học mà không cần có nước Pháp và tự học để chống lại nước Pháp.”
Một người trong số này, tướng Pennequin, đã đề xuất một chương trình khá táo bạo. Mong muốn của ông là: về mặt dân sự, phải cho người An Nam hưởng nền giáo dục phương Tây ở phạm vi rộng rãi, phải dần dần giảm bớt những sự bất bình đẳng trong các quyền giữa hai dân tộc; và về mặt quân sự, phải đào tạo các sĩ quan người An Nam trong các trường quân sự của Pháp và phải lập ra các binh đoàn lính An Nam do các sĩ quan người Pháp và người An Nam chỉ huy. Để chứng minh cho quan điểm và lý lẽ của mình, vị tướng này bày tỏ rằng không có sự hợp tác tận tụy của người An
Nam, Đông Dương sẽ không thể đứng vững được trước sự tấn công của một cường quốc khác. Dự án này, giống như đã được dự đoán, chẳng đạt được kết quả gì. Để đi theo chính sách thống trị đến cùng và để bảo vệ thuộc địa, chính quyền Pháp thích dùng đến các chiêu trò, mưu mô ngoại giao hơn. Do đó, để phòng ngừa một cuộc xung đột với Nhật Bản, nước Pháp đã vội vã hành động để đảm bảo có được sự hợp tác của nước Anh bằng cách ký kết với người Anh thỏa thuận “Entente Cordiale”[17] khi báo chí ở thuộc địa mới vừa kịch liệt phê phán chính sách ngoại giao toàn những hành vi nham hiểm, hai mặt, phản trắc của nước Anh và đồng minh của nước này ở châu Á trong cuộc chiến tranh Nga-Nhật. Chắc hẳn thỏa thuận này không chỉ nhắm vào vấn đề Đông Dương, nhưng Đông Dương là một trong những nhân tố chính của thỏa thuận này. Tướng Pennequin đã cho tổ chức nhiều hội nghị để trình bày dự án của ông với người dân Pháp ở thuộc địa Đông Dương. Chừng nào ông vẫn còn là chỉ huy cấp cao của quân đội Đông Dương thì sự tuyên truyền này không làm dấy lên một cuộc luận chiến lớn nào; nhưng kể từ khi ông rời khỏi thuộc địa Đông Dương để trở vê Pháp mà không hề có ý định quay lại, tư tưởng tự do của ông đã trở thành mục tiêu phê phán dữ dội của báo chí thuộc địa. Một sĩ quan thậm chí còn khẳng định bừa và vô căn cứ rằng trong một trận đánh dàn hàng, lính An Nam sẽ giơ súng đầu hàng ngay khi những phát đại bác đầu tiên được bắn ra. Lời tiên đoán này, như ta biết, đã không trở thành sự thật trong cuộc chiến tranh 1914-1918 ở châu Âu, mà ngược lại, các tờ báo Pháp còn ra sức ca ngợi hành động xông pha rất dũng cảm của những người lính An Nam trong các trận đánh vô cùng khốc liệt, đẫm máu.
Cuối cùng, những cuộc thảo luận kéo dài đã cho ra một vài bài luận vội vàng bị giới hạn và cắt xén nhiều đến nỗi những kết quả đạt được còn xa mới tương xứng với chi phí cần thiết đã bỏ ra cho chúng. Vào năm 1908, ngài Toàn quyền Đông Dương Beau đã thành lập Viện Đại học Đông
Dương, ông hy vọng rằng ngôi trường này sẽ không chỉ dành cho người An Nam mà còn thu hút được sinh viên đến từ các nước láng giềng. Rất nhanh chóng, các tờ báo ở thuộc địa đều nhất tề viết rằng: “Chúng tôi không hiểu nổi làm sao mà chính quyền này lại nghĩ ra được cái ý tưởng điên rồ là đem phần tinh túy, cốt lõi trong các môn khoa học của chúng ta dạy cho giống nòi An Nam ti bỉ. Viện Đại học Đông Dương là cái ổ của cách mạng, cái ổ của bọn mưu phản...” Trên thực tế, chẳng có gì đáng để họ phải đánh động nhanh đến vậy. Phần tinh túy của các môn khoa học do các giáo sư tạm thời giảng dạy - những người có rất ít thời gian để chuẩn bị thích đáng cho bài giảng trên lớp vì còn bận những việc khác bên ngoài - không thể ngay lập tức đào tạo một số học trò An Nam của họ thành những người uyên bác, những người có thể trở thành đối thủ đáng gờm của người Pháp.
Dù sao đi nữa, phe chủ trương chính sách ngu dân đã âm thẩm cảnh giác và bố trí sẵn. Sau khi ngài Beau rời khỏi cái ghế Toàn quyền Đông Dương, vào năm sau đó, Viện Đại học Đông Dương bị đóng cửa, và sau đó để thế chỗ nó, người ta đã đặt ra một vài lớp thuộc một chương trình giáo dục ma, được gọi là giáo dục cao đẳng thực hành, tôi tin là vậy. Để dẹp yên một chút những lời ta thán của người dân bản xứ Đông Dương vào thời kỳ này, chính quyền thuộc địa đã chấp thuận việc cho phép con cái của các thân hào và quan lại người An Nam đã thể hiện lòng trung thành mà họ thấy chẳng có gì đáng ngờ sang Pháp học tập; thậm chí chính quyền còn trao học bổng cho vài người trong số này. Nhưng ở đây cũng cần nói rằng sự hào phóng của chính quyền đã không đạt được hiệu quả vì bị ngăn trở bởi sự can thiệp ầm thầm của phe chủ trương chính sách ngu dân, những người đã lén lút cho tiến hành hoạt động giám sát, theo dõi sinh viên An Nam ở Pháp. Tôi đang muốn nói đến cơ quan giám sát được lập ra ở Paris trong một tổ chức được gọi là “Hội Liên minh Pháp” (Alliance Française), có tên là ủy ban Paul Bert (Comité Paul-Bert) để theo dõi, giám sát tất cả học
sinh, sinh viên An Nam ở Pháp. Tôi sẽ phải bàn lại về cơ quan giám sát này khi mà hoạt động của nó đã gây ra những vụ tai tiếng lớn do sai lỗi của người chịu trách nhiệm quản nó, để chứng minh rằng chính quyền thuộc địa đã mong muốn biến một vụ cãi vã ở trường tư tồi thành một chuyện quốc gia đại sự bằng cách buộc tội tôi cùng một người An Nam khác có âm mưu chính trị chống lại nước Pháp ra sao. Chính qua việc này, tôi sẽ bắt đầu kể lại câu chuyện của những người An Nam “mưu phản” ở Paris mà những gì đã có chỉ là một bài tựa thuyết minh. Trong lúc này, tôi chỉ có thể nói rằng ủy ban Paul Bert đã làm mọi thứ để khiến những người An Nam đến Pháp du học phải ở dưới sự bảo trợ của tổ chức này và để sắp xếp cho họ vào học ở những trường được lựa chọn theo tiêu chí làm sao để kiến thức mà họ có thể đạt được không bao giờ vượt quá trình độ giáo dục sơ cấp.
Tôi biết là ở Hà Nội có một trường y mỗi năm đều đào tạo ra độ hai mươi y sĩ người An Nam chỉ với mục đích trợ giúp cho các bác sĩ người Pháp, chứ bản thân họ không có quyền tự mình hành nghề. Ở đô thị này cũng có một trường trung học hằng năm đều cho ra hai hay ba tú tài là người da vàng. Nhưng sự chênh lệch giữa chi phí tiêu tốn cho hai cơ sở trường học này và các kết quả xoàng xĩnh như thế, chiếu theo số lượng học sinh An Nam ít ỏi, không đáng kể được nhận vào học mỗi năm, có vẻ là rất quá đáng. Nếu người An Nam được tự cầm quyền thì chắc chắn rằng chỉ với một phần mười số chi phí này, họ có thể gửi rất nhiều thanh niên An Nam đến học ở các trường đại học của các quốc gia láng giềng như Trung Quốc, Nhật Bản hay thậm chí Thái Lan; sau một vài năm học tập ở đó, những người này sẽ trở về nước với lượng kiến thức ít nhất cũng tương đương với lượng kiến thức mà họ có thể đạt được nếu học ở hai ngôi trường mà tôi vừa nhắc đến ở trên.
Tóm lại, tình trạng này của người dân An Nam đã dẫn đến việc dân tộc An Nam, dù chắc chắn không phải là dân tộc kém thông minh nhất ở châu Á, và như đã nói, trong số các môi trường thuộc địa phát triển dưới sự bảo hộ của nước Pháp, dân tộc An Nam là dân tộc chậm tiến và kém cỏi nhất trong số các dân tộc Á Đông hiện nay.
IX
VIỆC TÔI ĐẾN NƯỚC PHÁP VÀ BA NĂM ĐẦU TÔI SỐNG Ở ĐẤT NƯỚC NÀY
Tôi đến Pháp vào khoảng cuối năm 1908. Đó là một năm để lại hồi ức tang tóc cho quê hương tôi. Máu của người An Nam đã chảy thành sông ở tỉnh Quảng Nam và tiếp sau đó, ở các nơi khác đã diễn ra các cuộc biểu tình của người dân mà tôi đã nhắc đến ở một chương trước. Tôi đã lấy làm bằng lòng vì có thể tha hương để không phải thấy những cảnh tượng nhọc lòng của cuộc sống ở thuộc địa. Tôi đến Marseille, và hai ngày sau đó, tôi đã đi Paris, nơi tôi sống cho đến tận cuộc chiến tranh 1914-1918. Trong ba năm đó, tôi đã chia sẻ và dành thời gian của mình cho hai nơi: Trường Ngôn ngữ Đông Phương (École des langues orientales), nơi tôi đã làm công việc phụ giảng tiếng An Nam, và trường luật, nơi tôi đã theo học một vài lớp dù không đều đặn. Tôi cũng đã dành những lúc rảnh rỗi để thăm các kỳ quan của thủ đô nước Pháp; nhưng với tâm hồn mơ mộng, chẳng có gì thuộc về nghệ thuật do con người tạo ra lại có dáng vẻ vĩ đại đối với tôi. Nghĩa là, theo lối diễn đạt hư ảo, huyền hoặc của các nhà thơ An Nam, khi một người Á Đông mơ mộng ngoảnh đầu nhìn phía sau mình, anh ta thấy rằng thế giới mà mình đang sống là một thứ gì đó rất nhỏ bé.
Trong thời kỳ này, có một vài thanh niên An Nam đã học tập ở Paris và Joinville-le-Pont. Phần lớn họ đã được giao phó cho một cơ quan giám sát đặc biệt có tên là ủy ban Paul Bert, cơ quan này đã điều chỉnh, thu xếp việc
học của họ theo ý mình; một vài người thì thuộc quyền quản lý của văn phòng thuộc địa, một cơ quan phụ của Bộ Thuộc địa; sáu hay bảy người là học sinh nội trú ở khu người bản xứ của Trường Thuộc địa (Êcole coloniale). Sau hai năm học ở ngôi trường này, những học sinh đó được tốt nghiệp với một hành trang tri thức không nặng hơn những gì họ mang theo khi vào học ở đây.Tôi đã có dịp gặp gỡ và trò chuyện với những người trẻ đó.
X
NHÀ NHO PHAN CHÂU TRINH VÀ NỖI ĐAU KHỔ DAI DẲNG CỦA ÔNG
Tôi phải nói về ông Phan Châu Trinh vì đó là người đã bị chính quyền thuộc địa buộc tội âm mưu chống lại nước Pháp cùng với tôi. Tôi chưa từng gặp mặt ông ở quê hương chúng tôi; đến năm 1912, ở Paris, tôi mới làm quen với ông. Vào thời kỳ này, ông vẫn còn khá trẻ, nhưng chòm râu hoa râm và các nếp nhăn trước tuổi của ông đã tiết lộ những lao khổ mà ông phải chịu.
Được nhận học vị phó bảng, học vị tiến sĩ của chế độ khoa cử xưa của người An Nam, ông Phan Châu Trinh đã bắt đầu bước vào quan trường với vị trí là quan viên Lễ bộ. Nhưng ông không ở đó lâu. Cho rằng dưới chế độ mới, người làm quan có thể sẽ có những lúc khó mà giữ vững được tiết tháo, ông đã từ chức để đi sang Trung Quốc và Nhật Bản. Ông đã phải ra đi một cách lén lút vì kể từ chiến tranh Nga-Nhật, không có người An Nam nào có thể ra nước ngoài mà không có sự cho phép đặc biệt của chính quyền, vốn dĩ khó khăn lắm mới có được. Nhận được sự tiếp đón thân tình ở hai quốc gia này, ông giữ nó như một kỷ niệm đẹp, một kỷ niệm mà ông rất thích mang ra để chuyện trò với người khác. Nhưng điều đặc biệt gây ấn tượng mạnh cho ông Phan châu Trinh ở hai đất nước này lại là các tiến bộ giáo dục nơi đây đã thực hiện được. Ông buồn bã nhận thấy rằng trong khi các quốc gia láng giềng lớn, nhất là Nhật Bản, đã sở hữu những trường
đại học đủ sức cạnh tranh với những trường đại học ở châu Âu thì ngay ở sở tại, người An Nam vẫn chưa có một trường học nào sánh ngang được với ngôi trường bình thường hạng bét của Nhật. Một ngày nọ, trong khi đang trò chuyện với một vị giáo sư người Nhật đã làm công việc giảng dạy lâu năm, ông Phan Châu Trinh thổ lộ ông rất ngưỡng mộ các trường học ở Nhật Bản, vị giáo sư này mỉm cười nói: “Nhưng những gì mà chúng tôi đã làm được sau khoảng ba mươi năm nỗ lực và kiên trì thì các bạn - những người sống dưới sự bảo hộ của nước Pháp, một trong những dân tộc thông thái nhất châu Âu - có thể đạt được trong một khoảng thời gian ngắn hơn và với ít công sức hơn”. Lời nhận xét này, được ông Phan Châu Trinh diễn giải theo đúng nghĩa đen của từng từ, đã khiến ông quyết định ngay lập tức quay về An Nam để trình vấn đề giáo dục cho người bản xứ lên chính quyền thuộc địa.
Cách ông quay về cũng giống như cách ông ra đi, nghĩa là bằng cách lén lút, vì bất cứ người An Nam nào trở về từ Trung Quốc hay Nhật Bản đều có nguy cơ bị bắt giữ khi qua biên giới; nhưng, ngay khi về đến quê hương của mình là tỉnh Quảng Nam, ông Phan Châu Trinh ngay lập tức đến trình diện vị quan chức người Pháp là tỉnh trưởng của tỉnh này, thú nhận tội đã đi sang Trung Quốc và Nhật Bản trái phép. Vị quan chức này đã chứng và ghi lại lời khai của ông và cho ông về. Thú tội thì được khoan hồng. Ông Phan Châu Trinh lẽ ra đã có thể sống bình yên và không bị truy hại nếu như sau việc ấy ông không dám bàn chuyện chính trị và không dám gửi cho chính phủ Pháp một bản kiến nghị để yêu cầu họ cho người An Nam được hưởng sự giáo dục.
Trước khi thảo thư thỉnh nguyện, ông đã hỏi ý kiến nhiều nhà nho là bạn bè của ông. Họ đã can ngăn ông chớ làm việc này bằng những lời lẽ như sau: “Chính sách thuộc địa chỉ dựa trên các trù tính lợi ích mà thôi. Mà, về mặt giáo dục, người Pháp thấy rằng lợi ích của họ đối lập biết bao nhiêu
với lợi ích của chúng ta, không thể dung hòa được. Vậy nên, dù nếu có một trăm, một nghìn, hay thậm chí là toàn bộ người dân An Nam ký vào bản kiến nghị mà ông định thực hiện, chính phủ Pháp cũng sẽ không đồng ý thuận theo bản kiến nghị của ông nếu họ không thấy cần thiết phải chấp thuận chúng. Nhưng nếu như họ thấy mở trường học cho người An Nam là cần thiết cho lợi ích của người Pháp trong việc thống trị xứ này thì chẳng cần ông yêu cầu, họ cũng sẽ thực hiện điều đó. Chúng tôi thấy rằng trong hoàn cảnh này, đưa ra một yêu cầu như thế thì thật vô ích: ông có thể sẽ mất thời gian, mất công tốn sức, nếu không muốn nói là ông có thể tự tạo ra và chuốc lấy các rắc rối, phiền lụy càng nghiêm trọng hơn”.
Ông Phan Châu Trinh là một người được trời phú cho trí thông minh sắc sảo, ông còn có học thức uyên bác và cả trải nghiệm, cũng là một người nói chuyện rất thú vị và dễ mến; nhưng dường như tất cả các phẩm chất này giống như đã bị một sự nhẹ dạ khó tin và một sự ngây thơ lạ lùng làm cho hỏng mất. Bạn bè của ông không thuyết phục được ông tin rằng những vận động mà ông dự tính thực hiện là vô ích, ông vẫn soạn và gửi cho ngài Toàn quyền một bản thỉnh nguyện dài mà trong đó ông đã cố gắng chứng minh rằng giáo dục cho người An Nam và cho họ được học tập một cách tự do là việc làm có lợi cho nước Pháp.
Thư thỉnh nguyện của ông Phan Châu Trinh đã được trình bày bằng lời lẽ van nài nhiều đến mức nó không còn có thể làm tổn hại bất cứ tâm hồn dễ tự ái nào nữa: tuy vậy, điều đó đã không ngăn trở nổi lời tiên đoán không tốt lành mà tôi vừa nhắc đến trở thành sự thực. Tác giả của thư thỉnh nguyện này vì nó mà đã bị trừng phạt nặng nề vào dịp diễn ra một sự kiện chính trị một thời gian sau đó. Người dân tỉnh Quảng Nam, quê hương của ông Phan Châu Trinh, những người oằn mình dưới gánh nặng sưu thuế và lao dịch, bị đẩy vào tình cảnh khốn cùng nhất vì tính tham tàn của bọn quan lại đang dồn ép họ nhờ có sự dung túng và tiếp tay của các nhà cầm
quyền người Pháp, họ đã kéo nhau đến trước dinh thự của vị tỉnh trưởng, một đám đông có cả đàn ông, phụ nữ, trẻ em, ăn mặc rách rưới, mặt mày xanh xao hốc hác, để kính cẩn cầu xin vị quan chức này chấm dứt, ngăn chặn các bức hiếp mà họ đang chịu. Trong thời gian diễn ra cuộc biểu tình đó, một cuộc biểu tình dù rất ôn hòa vẫn bị đàn áp một cách tàn nhẫn, ông Phan Châu Trinh đang ở Hà Nội, Bắc kỳ. Ông đã bị bí mật bắt giữ và đưa lên tàu đi Huế, và ngay khi đến Huế, ông liền bị giao nộp cho một vài quan viên, những người này đã kết án tử hình ông sau một màn xét xử vờ vịt. May thay, nhờ vào chuyến đi bằng đường biển kéo dài quá lâu, Hội Nhân quyền (Ligue des droits de l'homme) đã có thể can thiệp kịp thời để cứu ông sau khi nắm rõ vụ việc. Sau khi ra lệnh hoãn thi hành bản án dành cho ông Phan Châu Trinh bằng bức điện báo, ngài Toàn quyền đã cải giảm hình phạt tử hình của ông thành hình phạt lưu đày ra nước ngoài. Bị xiềng xích như một tên tù khổ sai nguy hiểm, ông Phan Châu Trinh đã bị đẩy đến đảo Poulo-Condore. Sau ba năm lưu đày, ông được đặc xá hoàn toàn. Nhưng những bức hại mà ông đã phải chịu vì bản kiến nghị có lợi cho sự giáo dục dành cho người bản xứ đã thu hút cái nhìn đầy thông cảm và thương cảm của mọi người dân An Nam về phía ông, thế nên chính quyền thuộc địa thay vì để ông tự do trở về quê nhà thì đã giam giữ ông ở Đông Dương, trong gia đình của một thân hào An Nam, người này tất nhiên được chọn ra từ những người trung thành và tận tụy nhất với sự nghiệp của nước Pháp. Buồn phiền và chán nản khi phải sống trong sự tự do bị hạn chế như thế, ông đã xin và được đến Paris sống cùng con trai mười hai tuổi của mình, bỏ lại người vợ và hai cô con gái ở quê hương. Chính quyền đã cấp cho ông một khoản tiền trợ cấp hằng tháng là 450 franc cho cả hai cha con. Trong khoảng thời gian đầu sống ở Paris, họ đã được sắp xếp cho ở tại một nhà trọ gia đình, ở đây, một vài viên chức thuộc địa cấp cao quan tâm đến họ thi thoảng lại đến thăm. Mặt khác, những xui rủi của ông Phan châu
Trinh trong chính trị và bản án mà ông phải chịu vì những xui rủi đó giúp ông nhận được sự thông cảm và cảm tình rộng rãi từ những đồng bào của mình, những người An Nam ở Paris cũng đã đến thăm ông, và vì họ thấy ông là một người trò chuyện nhã nhặn và đáng mến nên họ càng thích lui đến thăm ông hơn - vị nho sĩ là hiện thân của xã hội An Nam xưa cũ - để quên đi một chút nỗi niềm hoài hương của mình. Ông thường xuyên đến các cơ quan của Bộ Thuộc địa như một nhân vật được hoan nghênh để trình bày các quan điểm chính trị của mình và đặc biệt là để xin cho những người bạn bất hạnh sống sót sau khi chịu hình phạt cũng được đặc xá và chiếu cố như thế, dù ông chẳng bao giờ nhận được một lời hồi đáp nào ngoài sự im lặng coi thường.
Thái độ ân cần hời hợt mà chính quyền thuộc địa thể hiện với ông Phan Châu Trinh dần nguội lạnh để rồi cuối cùng chuyển thành ác cảm và thù ghét.
Sự thay đổi này bị thúc đẩy nhanh hơn sau một vài sự việc nực cười, vì quả tình chúng có nhiều phần nực cười hơn là nghiêm trọng, cùng với lòng tự ái và tính hay tự ái của một vài tay thực dân mà sự bất mãn của họ đã lan sang tất cả những người của phe thuộc địa nhờ tinh thần đoàn kết. Tôi sẽ trình bày các sự kiện này ở những chương sau.
Chính quyền thuộc địa đã tiếp tục cấp cho ông Phan Châu Trinh khoản tiền 450 franc hằng tháng; nhưng họ chỉ chăm lo cho ông vì nghĩ đến cách trừng phạt ông vào một ngày nào đó do những lời luyên thuyên của ông về chính trị ở Đông Dương và nhất là vì ông đã dám cầu viện Hội Nhân quyền để xin đặc xá cho những người An Nam bị kết án cùng lúc với ông nhân sự kiện biểu tình của người dân Trung kỳ năm 1908 (Bulletin de la Ligue des droits de l'homme et du citoyen (Tập san của Hội Nhân quyền và Dân quyền), số 20, ngày 31 tháng Mười năm 1912). - Trong khi chờ thời
cơ để làm việc đó, một chiến dịch truyền thông đã được dẫn dắt triển khai trên các tờ báo Pháp ở Đông Dương, dù không nói rõ ra nhưng các tờ báo này đã gợi ý rằng thật đáng tiếc khi chính quyền Đông Dương đã không cho thi hành đúng cái bản án tử hình đã được tuyên cho nhà cách mạng này. Tôi chưa đọc các tờ báo đó; nhưng người ta đã bảo tôi rằng tôi cũng bị công kích và buộc tội nhiều lần trong chiến dịch đó. Đây là việc hiển nhiên vì tôi đã công khai giúp đỡ ông Phan Châu Trinh trong việc ông vận động Hội Nhân quyền mà không có chút giấu giếm nào, chưa kể các sự việc khác mà tôi sẽ kể lại sau. Trong thời gian này, “nhà cách mạng nguy hiểm” của chúng ta đang sống chật vật ở Paris vì không có nguồn thu nhập nào khác ngoài khoản tiền trợ cấp 450 franc ít ỏi. Để có thể chi tiêu vừa khít trong khoản tiền đó, ông đã sắp xếp cho con trai mình học nội trú ở một trường nhỏ ở tinh lẻ trong khi bản thân ông thì ở trọ trong một phòng khách sạn và ăn uống ở các nhà hàng bình dân.
Nhưng ông Phan Châu Trinh là một người rất bền chí. Mặc cho tình cảnh khốn khổ và mất thể diện bất đắc dĩ của mình, ông vẫn hy vọng một ngày nào đó sẽ giành được thiện ý và sự chiếu cố của chính quyền thuộc địa, vậy nên ông vẫn tiếp tục lui đến Bộ Thuộc địa, tìm cách bắt chuyện với các viên chức cấp cao phụ trách Đông Dương để thể hiện lòng trung thành của mình. Chúng ta sẽ thấy ông đã tìm cách chứng tỏ mình ra sao và thấy rằng điều đó đã chẳng ngăn nổi việc chính quyền lợi dụng tình hình chiến tranh để buộc tội ông cùng với tôi là đã có âm mưu chính trị chống lại nước Pháp và nhốt chúng tôi vào ngục trong suốt mười một tháng.
Sau mười một tháng bị giam giữ để xét hỏi tội trạng trong một nhà tù dân sự của Paris, ông Phan Châu Trinh đã được trả tự do vào tháng Bảy năm 1915. Sau đó, trong thời gian diễn ra chiến tranh, chính quyền thuộc địa bất thình lình quăng ông ra đường bằng cách hủy bỏ việc cấp cho ông khoản tiền trợ cấp 450 franc hằng tháng, có lẽ họ hy vọng rằng vì không
biết tiếng Pháp lẫn không biết thành thạo một nghề nào ở mẫu quốc, ông có thể sẽ buộc phải xin được hồi hương để khỏi chết đói ở Pháp, và một khi ông đã về đến Đông Dương, người ta sẽ có thể tự ý yêu câu ông giải thích về vụ cãi vã ở trường tư tồi mà tôi sẽ thuật lại sau. Biết điều mình có thể hứng chịu ở Đông Dương, nơi đang ở trong tình trạng giới nghiêm, ông không chấp nhận để cho người ta đưa mình hồi hương, và để sống, để ứng biến, ông đã phải làm thợ phóng ảnh sau khi vội vàng học việc. Nghề nghiệp mới này đã tước mất những khoảng thời gian rỗi rãi mà ông có trong lúc sống chật vật bằng khoản tiền trợ cấp 450 franc; nhưng với công việc này, ông kiếm được nhiều tiền hơn một chút và có thể sống đỡ kham khổ hơn.
Người ta nghĩ rằng sau khi nhận những bài học nghiệt ngã như thế, ông Phan Châu Trinh hẳn không còn lạc quan được nữa, rằng lần này ông phải thật sự từ bỏ hy vọng trở về dưới sự chiếu cố và thiện ý của chính quyền thuộc địa. Nhưng không! Là một bậc quân tử theo cách của mình, ông đã hành xử như thể chẳng có gì xảy ra: ông đã nối lại quan hệ với Bộ Thuộc địa, ông lại tìm cách bắt chuyện với những người đã truy hại ông, ông hết lần này đến lần khác xin gặp ngài Albert Sarraut, người mà tôi tin là không có dính dáng gì trong âm mưu nực cười mà chúng tôi bị buộc tội dù tên của ông có trên nhiều giấy tờ trong hồ sơ vụ án này.
Và phải nói rằng - lời này không có ý khinh miệt gì - ông Phan Châu Trinh là người luôn bám dính lấy chính quyền thuộc địa, ông là một người không thể tống khứ đi được, bị đuổi cửa trước thì luồn vào cửa sau, người mà chính quyền thuộc địa đã hai lần buộc tội có âm mưu đe dọa an ninh nước Pháp.
Ông Phan Châu Trinh là một người thông minh, tử tế, là một người bạn tốt; nhưng tất cả các đức tính này vẫn chưa đủ để giúp ông trở thành một
nhà cách mạng. Tôi tin rằng bất cứ người nào không mờ mắt vì thành kiến và biết ông Phan Châu Trinh rõ như tôi chắc sẽ cười ruồi cùng tôi nếu nghe người ta nói ông ấy là một kẻ nguy hiểm, một nhà cách mạng, một kẻ “mưu phản” có thể làm lung lay ách thống trị của người Pháp ở Đông Dương. Tôi không biết dùng tính từ chỉ phẩm chất nào cho ông trong lĩnh vực chính trị; nhưng tôi tin là người ta có thể còn không biết đúng ra phải gọi ông ấy là người theo chủ nghĩa cải lương. Nhưng đúng là trong giới thuộc địa, chẳng cần làm gì nhiều thì đã được tôn vinh là nhà cách mạng và kẻ mưu phản rồi.
XI
ỦY BAN PAUL BERT VÀ NHŨNG ĐỨA TRẺ ĐƯỢC ỦY BAN NÀY GIÁM HỘ - ÔNG ANDRÉ SALLES VÀ PHE CHỦ TRƯƠNG CHÍNH SÁCH NGU DÂN
Trong chương này và các chương sau, tôi sẽ nói về những người đã góp phần bịa ra âm mưu không có thực mà tôi đã bị buộc tội can phạm, và những chuyện nho nhỏ đã xảy ra trước và sau vụ việc. Tôi đã sống mà không hề giữ lòng căm ghét, hằn thù và cũng không muốn có cớ nào để căm ghét, thù hằn người khác. Đó là lý do tôi chưa bao giờ lo lắng, bận tâm về những kẻ thù của mình lẫn các mánh khóe của họ. Vì tôi chẳng bao giờ cố tình gây ra điều lầm lỗi, sai trái dù là nhỏ nhất với ai và luôn hành xử một cách quang minh chính đại nên tôi thường quên mất rằng tôi có thể có kẻ thù. Vậy nên, nếu tôi có nói về họ thì chỉ là vì họ đóng một vai cần thiết nào đó trong vở kịch mà tôi thấy thú vị khi được tường thuật lại, vì tôi cũng là một diễn viên trong vở kịch đó dù không hề muốn. Vả chăng, tôi tin đa số họ chỉ đóng vai phụ chẳng mấy quan trọng, vì họ hành động thay mặt cho phe chủ trương chính sách ngu dân, một phe cánh bí ẩn và hẳn phải có một sức ảnh hưởng rất lớn trong chính quyền thuộc địa.
Về kẻ thù của mình, tôi chỉ thực sự biết trực tiếp một người duy nhất. Sự thù ghét của ông ấy đối với tôi lớn đến mức ông ấy đã tìm cách thỏa mãn nó cả trong những hoàn cảnh bi thảm của chiến tranh, khi mà Tổ quốc
của ông ấy đang lâm nguy, tình cảnh hẳn sẽ khiến những người Pháp có lương tâm nguôi đi mọi hận thù dù hận thù đó có là gì. Từ việc đó, tôi đã suy ra rằng, tôi ắt đã khiến cho ông ấy phải chịu đựng rất nhiều dù tôi không chủ tâm làm thế, và suy nghĩ ấy đã luôn gợi lên trong tôi lòng thương hại mãnh liệt vì những nỗi giày vò, dằn vặt tinh thần mà tôi đã lỡ bắt ông ấy phải chịu đựng. Dù sao đi nữa, tôi chẳng mấy lo lắng, bận tâm đến mối hiểm thù ông dành cho tôi, và tôi rất sẵn lòng tránh nói về nó nếu như tôi có thể làm như vậy mà không khiến cho câu chuyện về vụ kiện của mình trở nên khó hiểu. Người đó là ông André Salles. Vậy ông André Salles đó, ông ấy là ai? Những người không theo dõi, cập nhật các sự vụ về Đông Dương sẽ hỏi tôi câu này. Ông ấy không phải là một nhân vật được cả Paris biết đến. - Không, vì nếu như ông ấy có các mối quan hệ qua lại trong giới thuộc địa thì ông ấy dường như không được biết đến mấy trong các giới khác. Vậy nên, tôi phải giới thiệu về ông ấy một chút.
Ông André Salles là một viên thanh tra thuộc địa đã về hưu. Chúng ta phải thêm vào một thông tin rằng ông là người được thưởng huân chương Bắc Đẩu Bội tinh. Ông biết Đông Dương vì ông đã từng đến đây thanh tra hai hay ba lần. - Tôi không biết ông; nhưng sau đây là cách thức ông đã làm quen với tôi. Vài ngày sau khi tôi đến Paris, tôi đã thấy danh thiếp của ông ở Trường Ngôn ngữ Đông Phương cùng với một lời ngắn gọn bày tỏ rằng ông mong được gặp tôi. Tôi đã đến nhà của ông André Salles ở đường Vaneau và ông đã cho tôi biết mục đích của cuộc gặp này. Ông là thư ký của ủy ban Paul Bert thuộc Hội Liên minh Pháp. Tôi biết rằng Hội Liên minh Pháp là một hiệp hội tồn tại để truyền bá ngôn ngữ Pháp ở trong nước và cả ở nước ngoài; nhưng tôi không biết rằng có tồn tại một cơ quan tên là ủy ban Paul Bert và cũng không biết rằng ủy ban này là một cơ quan được tạo ra nhằm âm thầm giám sát, kiểm soát những người An Nam học tập ở Pháp. Vào thời kỳ này, tức năm 1909, hầu như tất cả người An Nam
đến Pháp học đều được giao phó cho ủy ban này, và ông Salles chính là người phụ trách quản lý, dẫn dắt việc học của họ. Hầu hết những đứa trẻ An Nam này đều được thu xếp vào học ở một trường cấp một tư thục, nằm ở Joinville-le Pont, dưới cái tên là Trường Parangon (Ecole du Parangon). Ông Salles đã bày tỏ với tôi về việc lập ra một lớp dạy về nền đạo đức của người An Nam ở ngôi trường đó, lớp học này sẽ dạy cho những đứa trẻ do ông giám hộ và ông còn đề nghị tôi phụ trách lớp. Đáp lại, tôi đã thoái thác, vì tôi thấy ý tưởng này quá mù mờ để có thể được khai thác một cách hữu ích. Nói cho đúng, tôi đã nghĩ rằng chỉ có thể có một nền đạo đức chung cho cả nhân loại và một người dù có được giáo dục tốt hay không, một người dù được giáo dục ở Pháp hay ở nơi khác, hẳn phải biết tôn trọng các quy tắc ứng xử phổ quát ở khắp mọi nơi, các quy tắc mà quan điểm chung rất dễ lẫn lộn với các nguyên tắc đạo đức.
Rồi sau đó, ông Salles thường xuyên dành cho tôi những cử chỉ ân cần như gửi cho tôi thiếp mời dự các hội nghị mà ông tin hẳn sẽ khiến tôi thấy hứng thú, gọi tôi đến cùng với tất cả những người An Nam ở Paris mà ông quen biết, bao gồm cả ông Phan Châu Trinh, người mà tôi đã nói đến ở chương trước, hay mời tôi đến mỗi khi có một buổi lễ nào đó ở chỗ những đứa trẻ được ông giám hộ ở Trường Parangon. Như vậy, chúng tôi đã giữ quan hệ tốt đẹp trong một thời gian dài cho đến cái ngày mà do một sự việc không đáng kể, và theo quan điểm Á Đông của mình, tôi không gán cho sự việc này bất kỳ tầm quan trọng nào, ông đã nổi cơn thịnh nộ và thể sẽ hủy hoại tôi bằng mọi cách. Chúng ta sẽ thấy ông Salles đã dùng trăm phương nghìn kế để đạt được mục đích ấy như thế nào và làm sao mà chính quyền thuộc địa, vì đồng ý với ông, đã trả thù cho ông bằng cách truy hại tôi cũng như gia đình tôi, cụ thể là hai người anh của tôi.
Tôi không biết Trường Parangon đó hoạt động như thế nào và tôi chưa bao giờ tìm cách biết được điều đó, vì tôi không có thói quen tọc mạch
chuyện của người khác. Tôi chỉ đôi khi đến đó theo lời mời của ông Salles. Có vẻ như ông Salles rất quan tâm đến những đứa trẻ mà ông giám hộ. Ông được những đứa nhỏ nhất gọi là “ba” và thỉnh thoảng, ông âu yếm ôm hôn chúng như một người cha cưng nựng những đứa con của mình, chao ôi! Mặc những cử chỉ thể hiện tình cảm trìu mến mà ông đã không tiếc cho bọn trẻ được ông giám hộ, chúng vẫn không bằng lòng về ông và cuối cùng, rất nhiều đứa trong bọn trẻ An Nam này đã nổi loạn chống lại ông bố người Pháp trong sự tán thành của cha mẹ chúng. Liệu những đứa trẻ này và cha mẹ chúng đã làm đúng hay sai, bàn điều đó không phải là việc thuộc trách nhiệm của tôi; nhưng những đứa trẻ ấy đã kể lại với mọi người rằng chúng gần như chẳng học được gì ở cái trường cấp một tư thục đó và còn nói rằng nếu chúng biết đến Pháp mà bị cho vào học ở một ngôi trường như thế thì có lẽ chúng đã tránh được việc phải rời xa gia đình mình và bị bắt phải chịu bao điều hy sinh vô ích như thế. Đó là chuyện có thực. Chúng đã tố cáo ông bố người Pháp định mức quá thấp khối lượng kiến thức mà ông ấy cho chúng học. Về phần cha mẹ của những đứa trẻ này, họ rất buồn tiếc khi thấy con mình, những đứa trẻ không phải không có thiên tư trí tuệ, sau nhiều năm học hành ở nước Pháp, trở về nhà trong tình trạng hoặc là chẳng có bằng cấp gì hoặc là với một cái bằng giáo dục sơ cấp nào đó, trong khi tự trách mình đã mất biết bao nhiêu tiền của chỉ để đạt được một kết quả quá khiêm tốn như thế.
Rất nhiều đứa trẻ trong số này đã khiếu nại; nhưng đáp lại, người giám hộ của chúng đã lấy chuyện tàu chở khách ra dọa nạt chúng, tàu chở khách là thứ ám chỉ về việc chúng sẽ bị ép buộc hồi hương. Một vài đứa trẻ thực sự đã bị đưa về nước vì các nguyên do bí hiểm. Vì thấy được rằng đã có thành kiến chống lại mình và biết không thể khiến người ta nghe lý lẽ của mình, những đứa trẻ táo bạo nhất đã rời khỏi Trường Parangon và tự thu xếp cho mình vào học ở các trường trung học để sau khi đậu tú tài, chúng
có thể ghi danh vào các trường đại học hay các trường giáo dục bậc cao. Tôi biết riêng một người đã làm như thế; sau nhiều năm học tập ở Trường Đại học Toulouse, người này đã được nhận bằng cử nhân khoa học, vật lý học và kỹ sư hóa học, hiện nay, cậu ấy đang ở Paris, đang chuẩn bị để lấy bằng tiến sĩ khoa học và bằng cử nhân triết học.
Tôi đã chẳng mấy quan tâm đến các xung đột bất thần xảy ra giữa ủy ban Paul Bert và những đứa trẻ An Nam do ủy ban này giám hộ, nhưng có một điều về việc này tôi thấy có vẻ là hữu ích khi nêu ra. Tiết lộ một bí mật xấu xí, một điều tai tiếng mà ai trong cộng đồng người An Nam cũng biết, việc này được thực hiện không phải với mục đích bỉ ổi, đáng khinh, mà là vì sau khi đã biết về xung đột này và các xung đột khác, tôi muốn tránh can thiệp vào chúng bằng cách từ chối đi gặp ông Salles sau khi ông ấy mời tôi đến gặp thông qua sự trung gian chuyển lời của người quản lý Trường Ngôn ngữ Đông Phương. Chính sự từ chối này đã khiến ông Salles tức giận và thúc đẩy bè cánh của mình hành động chống lại tôi. Có một người Nam kỳ giàu có đã giao gửi, phó thác hai trong số các con trai của mình cho ủy ban Paul Bert. Sau một thời gian, vì thấy rằng hai đứa con của mình chẳng có chút tiến bộ nào, người này đã nhiều lần viết thư cho ông Salles để xin ông ấy sắp xếp cho các con mình được học ở một trường tốt hơn Trường Parangon; nhưng người cha này đã không được thỏa nguyện. Chán nản và mệt mỏi vì cứ phải lặp đi lặp lại lời khẩn nài vô ích của mình, ông đã tìm hỏi một luật sư và yêu cầu vị này can thiệp. Người ta đã nói với tôi, vị luật sư ấy đã viết cho ngài cảnh sát trưởng, qua đó khiến cho ngài cảnh sát trưởng nhận ra rằng việc ông Salles giữ hai đứa trẻ này dưới sự giám hộ của mình qua ủy ban Paul Bert dù bản thân chúng và cha mẹ chúng không muốn là một việc xâm phạm đến tự do cá nhân. Công nhận giá trị của lời khiếu nại chính đáng này, ngài cảnh sát trưởng đã gửi một viên cảnh sát của mình đến chỗ ông Salles để yêu cầu ông lập tức trả tự do cho hai đứa trẻ
đó, để chúng đi học ở nơi mà chúng cho là tốt. Hành động can thiệp này của cảnh sát đã làm cho ông Salles thêm phẫn nộ; nhưng ông ấy vẫn phải thực hiện yêu cầu đó.
Tôi không biết ông Salles làm việc cho phe phái nào; nhưng chắc chắn là phe này phải có ảnh hưởng rất lớn trong chính quyền thuộc địa. Nếu không, ta không tài nào lý giải được làm sao mà một người chỉ là thanh tra đã về hưu lại có thể huy động toàn bộ chính quyền thuộc địa ở Đông Dương và ở Pháp chống lại những người An Nam đã làm phật ý mình. Trên thực tế, ta biết rằng về phần những đứa trẻ do ông Salles giám hộ mà ông ấy đánh giá là không đủ phục tùng, vâng lời, ông ấy đã báo cho chính quyền Đông Dương biết về chúng, và chính quyền Đông Dương đã thực hiện các biện pháp ít nhiều độc đoán chống lại cha mẹ của những đứa trẻ đó. Đại để là khi một đứa trong số bọn trẻ này bị trình báo, hoặc là vì những đòi hỏi của nó, hoặc là vì những đòi hỏi của cha nó, chính quyền sẽ gọi người cha đến và khiển trách ông ta, trong khi nói cho ông ta biết về các biện pháp nặng nề hơn nếu như người cha và đứa con không tỏ ra khôn ngoan hơn. Nếu người cha là viên chức, chính quyền sẽ không quên giúp cho ông ta hiểu ra rằng nếu ông ta cứ tiếp tục tỏ ra ương ngạnh, ngoan cố thì nhẹ nhất là ông ta sẽ bị cách chức. Tôi không nêu tên bất cứ nạn nhân nào của những hành động quấy nhiễu, đe nạt này để tránh việc khiến cho họ phải chịu các đòn trả thù mới.
Dù thế nào đi nữa, đây vẫn là sự việc có thực vốn không giải thích được là liệu trên thực tế ông André Salles đã không làm việc này vì chính quyền thuộc địa hay ít nhất là cho phe chủ trương chính sách ngu dần vốn là chủ của ông ấy, tức là, theo đó tôi không biết được là do mánh khóe nào, lời tố cáo nào mà chính quyền thuộc địa muốn biến vụ cãi vã ở trường tư tồi này thành một chuyện quốc gia đại sự bằng cách buộc tội tôi cùng với ông Phan
Châu Trinh có một âm mưu chính trị, một âm mưu chỉ có thể tồn tại trong trí tưởng tượng ác ý, hiểm độc của những kẻ buộc tội chúng tôi.
Tiếp sau đây, chúng ta sẽ biết vụ án này đã phát sinh như thế nào.
XII
MỘT TÌNH TIẾT: VỞ KỊCH “CHÂU CHẤU” (LES SAUTERELLES)
Chỉ là về một vở kịch, thế nhưng vở kịch này đã gây ấn tượng mạnh cho công chúng ở chính quốc và đã tạo nên một xúc cảm mãnh liệt trong giới thuộc địa. Vở kịch này đã làm nảy sinh một vụ rắc rối không phải là không quan trọng trong mạch diễn biến của hàng loạt sự kiện đã dẫn đến việc tôi bị buộc tội là có âm mưu chống lại nước Pháp.
Vào năm 1912, một vở kịch có nhan đề mang tính phúng dụ “Châu chấu” (Les Sauterelles) được công diễn, vở kịch này đã chỉ trích, phê phán lề thói, hành động của chính quyền Đông Dương một cách đẩy tinh tế, khéo léo. Tác giả của vở kịch này, ông Emile Fabre, một nhà văn nổi tiếng nhờ vào những tác phẩm thành công vang dội ở các sân khấu lớn, có vẻ như đã dựa trên rất nhiều tư liệu để sáng tác vở kịch. Bằng một loạt âm mưu chính trị, những cuộc thảo luận của chính quyền và những cuộc chè chén trác táng của các quan chức, toàn bộ các tình tiết này gợi nhắc một cách kỳ diệu về thời kỳ rối ren, nhiễu nhương và bi thảm mà đất nước khốn khổ của người An Nam vừa trải qua, tác giả đã đưa cuộc sống đầy các thú ăn chơi và các quan hệ tằng tịu, vụng trộm của tầng lớp thượng lưu ở thuộc địa lớn nhất của nước Pháp lên sân khấu một cách tài tình. Tác giả còn khéo léo chỉ ra trong khi người dân ở đây giãy giụa, vật lộn trong cảnh khốn cùng tăm tối nhất thì những nhà cầm quyền, những người sống ở
thuộc địa trong cảnh huy hoàng, lộng lẫy nhất, lại đối xử với dân chúng bằng một thái độ trịch thượng, hạ cố ban ơn, và chỉ lo đến họ để dồn ép họ trong chừng mực có thể, và bóp nghẹt tiếng kêu than của họ trong các cuộc đàn áp bạo ngược. Người ta nhảy nhót, người ta ve vãn, tán tỉnh, người ta uống rượu sâm-panh và trà, người ta hút thuốc phiện mà chẳng mảy may bận tâm đến cảnh tuyệt vọng không thể gọi tên của đám đông quần chúng bị áp bức đang gào thét bên ngoài với những tiếng kêu la không còn giống tiếng kêu của con người nữa.
Vở kịch này chỉ được diễn đúng một lần ở nhà hát Vaudeville de Paris, nhưng lại đạt được thành công phi thường. Rất đông công chúng, vì tò mò muốn xem những cảnh tượng về đời sống ở thuộc địa, đã lấp đầy tất cả chỗ ngồi trong nhà hát này. Vào buổi tối công diễn vở kịch, tôi cũng ở đó xem với một vài người đồng hương. Vai nào cũng được thể hiện và được diễn một cách hoàn hảo, trừ vai vị vua An Nam vì người thủ vai này là một nữ diễn viên quá lớn tuổi nên khó lòng diễn cho tròn vai một vị vua vốn chỉ là một cậu bé mới mười hai tuổi. Những người đến xem đã vỗ tay tán thưởng một cách cuồng nhiệt cho mỗi màn trình diễn, những khán giả người An Nam cũng vỗ tay như mọi người, có lẽ là nhiều hơn một chút, vì màn diễn xuất đó hẳn phải gây ấn tượng cho họ nhiều hơn.
Ngày hôm sau, có một sự náo động lớn trong giới thuộc địa. “Lạ chưa! - người ta thốt lên - dân An Nam đã đến xem vở kịch ‘Châu chấu’, và còn dám vỗ tay tán thưởng nữa? Phải lấy được tên của những kẻ phạm tội này”. Và nói là làm: Bộ Thuộc địa bắt đầu cuộc điều tra nghiêm túc. Hiệu trưởng của một trường học ở Versailles, một người có lui đến giao thiệp với vài người An Nam, đã nhận được một bức điện báo chính thức đòi ông ấy phải đi hỏi những người An Nam này là liệu họ có dành cả buổi tối hôm trước xem kịch ở nhà hát Vaudeville de Paris hay không. Băn khoăn với câu hỏi đó, ông ấy đã chuyển bức điện báo cho các học sinh người An Nam
của mình, nói với họ rằng: “Mà thầy tự hỏi việc các em có mặt ở nhà hát đó vào tối hôm qua là phạm phải tội ác nào”.
Mặc cho thành công vang dội đạt được ngay trong buổi công diễn đầu tiên, vở kịch “Châu chấu” kể từ đó không còn được diễn ở bất kỳ sân khấu nào nữa. Tôi không biết làm sao mà người ta lại tạo ra được sự im lặng này; nhưng chắc chắn cái giá đã phải trả cho nó là rất đắt.
Kịch bản “Châu chấu” cũng đã được phát hành hàng nghìn bản ở Đông Dương; nhưng chính quyền ở đây đã mua lại toàn bộ và mang thiêu hủy hết để ngăn người An Nam đọc được chúng.
Tôi tin rằng kể từ lúc đó, tôi đã trở thành một kẻ bị tình nghi để rồi sau một vài sự việc mới đây, tôi được tôn vinh bằng những cái danh to lớn: nhà cách mạng và kẻ mưu phản.
XIII
TÌNH THÂN ÁI CỦA CÁC HỌC SINH, SINH VIÊN AN NAM Ở PHÁP - TÌNH CẢM NÀY ĐÃ LÀM CHÍNH QUYỀN THUỘC ĐỊA PHIỀN LÒNG
Vào một ngày trong năm 1912, lúc rời khỏi lễ mai táng của một bạn trẻ An Nam, học sinh của Trường Parangon, những người đồng hương của tôi đã đưa ra ý tưởng thành lập một hội ái hữu cho học sinh, sinh viên An Nam tại Pháp. Họ đã cho tôi biết ý tưởng đó và nhờ tôi xem xét dự trình cho ý tưởng này để đưa vào thực hiện càng sớm càng tốt. Tôi trả lời họ ngay: “Việc này thì dễ thôi, tự do lập hội nhóm đã tồn tại ở Pháp kể từ đạo luật ngày 1 tháng Bảy năm 1901. Nhưng không chỉ có vấn đề luật pháp thôi đâu, còn phải tính đến chính sách thuộc địa nữa. Tôi nhất thiết phải nói với các bạn điều này, nếu các bạn thành lập một hội mà không được chính quyền thuộc địa ưng thuận, họ sẽ tìm cách triệt tiêu nó. Chắc hẳn là họ sẽ không thể khiến cho hiệp hội của các bạn bị tuyên bố giải thể qua con đường tư pháp vì các bạn lập hội không nhằm đạt được một mục đích đáng chê trách nào và việc lập hội của các bạn hoàn toàn hợp pháp; nhưng họ có thể sẽ đe dọa cá nhân các bạn cũng như gia đình các bạn, và chắc chắn là các bạn sẽ không dám coi thường việc này. Có lẽ tôi là người cuối cùng chịu theo và tôi tin mọi người sẽ không tức giận với tôi; nhưng hội này sẽ dừng hoạt động vì thiếu hội viên. Vậy bắt đầu một việc mà chúng ta thấy trước là sẽ chết yểu thì có ích gì, thêm vào đó, còn chưa kể đến các phiền lụy mà chúng ta có thể sẽ chuốc lấy vì việc này? Còn về việc đi xin chính
quyền thuộc địa bảo trợ, tôi sẽ không nhận đảm đương đâu, và tôi cũng không muốn làm vì trong trường hợp này tôi thấy trước rằng một hiệp hội, nếu không được tự do, sẽ sớm trở thành một cái ổ cho các mánh khóe, một bè đảng đáng khinh, một cơ quan biến chất, như chúng ta đã thấy ví dụ ở những hiệp hội, tổ chức như thế ở đất nước mình”.
Lời nhận xét của tôi đã không thuyết phục được những người nói chuyện với tôi vốn đang chìm đắm trong ảo tưởng và không nhìn nhận vấn đề ở mức sâu hơn. Họ cứ khăng khăng muốn thực hiện ý tưởng của mình đến mức cứ đeo đẳng theo tôi để nằn nì nhiều ngày liền. Cuối cùng, mệt nhoài vì những lời khẩn nài của họ, tôi nói: “Được, tôi sẽ làm theo ý các bạn. Hay đúng hơn, tôi phải nói đây là một bài học, và bài học này, các bạn sẽ học nó bằng kinh nghiệm xương máu của mình và bằng cả kinh nghiệm xương máu của tôi nữa. Hãy nhớ những lời nhận xét hôm nay của tôi và rồi sau này, các bạn sẽ nhận ra tôi đã có lý biết bao nhiêu”.
Tôi bắt đầu thực hiện việc này. Tôi soạn các điều lệ của hội và viết một chương trình hành động dài. Hiệp hội này đã ra đời trong sự hào hứng của những người đồng hương của tôi, những người đã đòi tôi sinh ra nó. Tôi trìu mến đặt tên cho hội là Hội Đồng bào Thân ái (La Fraternité). Hội này được lập ra với mục đích: thứ nhất là giúp cho các học sinh, sinh viên Đông Dương đi học xa nhà gặp gỡ, kết bạn với nhau, thăm hỏi lẫn nhau và giúp đỡ nhau khi gặp tai họa hay bệnh tật; thứ hai là có thể học tập, làm việc chung để phổ biến,trao đổi các kiến thức hữu ích, các tri thức khoa học và văn chương.
Hội Thân ái đã tổ chức nhiều cuộc họp mặt theo tháng. Những cuộc trò chuyện thân mật giữa bạn bè trong hội đã giúp thu về nhiều để xuất khai thác được nhằm làm cho những ngày tháng lưu trú ở Pháp của các bạn học sinh, sinh viên Đông Dương được dễ dàng hơn, có thể làm cho hội ngày
"""