🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Chuyện Nhà, Chuyện Nước Ebooks Nhóm Zalo Chịu trách nhiệm xuất bản GIÁM ĐỐC - TỔNG BIÊN TẬP PGS.TS. PHẠM MINH TUẤN Chịu trách nhiệm nội dung PHÓ GIÁM ĐỐC - PHÓ TỔNG BIÊN TẬP ThS. PHẠM THỊ THINH Biên tập nội dung: ThS. PHẠM THỊ NGỌC BÍCH ThS. NGUYỄN THỊ HẢI BÌNH NGUYỄN THỊ HƯƠNG ThS. NGUYỄN VIỆT HÀ Trình bày bìa: ĐƯỜNG HỒNG MAI Chế bản vi tính: PHẠM NGUYỆT NGA Đọc sách mẫu: NGUYỄN THỊ HƯƠNG BÍCH LIỄU Số đăng ký kế hoạch xuất bản: 2266-2021/CXBIPH/4-23/CTQG. Số quyết định xuất bản: 416-QĐ/NXBCTQG, ngày 29/6/2021. Nộp lưu chiểu: tháng 7 năm 2021. Mã ISBN: 978-604-57-6889-1. Biªn môc trªn xuÊt b¶n phÈm cña Th− viÖn Quèc gia ViÖt Nam H÷u Thä ChuyÖn nhµ, chuyÖn n−íc / H÷u Thä. - XuÊt b¶n lÇn thø 3. - H. : ChÝnh trÞ Quèc gia, 2021. - 272tr. ; 21cm ISBN 9786045767115 1. Báo chí 2. Xà héi 3. øng xö 4. T¶n v¨n 5. TiÓu luËn 6. Việt Nam 070.44930209597 - dc23 CTF0549p-CIP N LỜI NHj XUẤT BẢN hà báo Hữu Thọ, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Tổng Biên tập báo Nhân Dân, nguyên Trưởng ban Tư tưởng - Văn hoá Trung ương (nay là Ban Tuyên giáo Trung ương)..., là người đã hơn 50 năm gắn bó, tâm huyết với nghề báo và có những đóng góp xuất sắc trong lĩnh vực báo chí. Ông vốn là cây bút sắc sảo trong các thiên phóng sự điều tra thời kỳ đổi mới. Theo hồi ký của ông, từ ngày giữ các cương vị quản lý ít có thời gian tiếp xúc, ở lâu với cơ sở, ông chuyển sang viết tiểu phẩm báo chí, đến nay đã tập hợp, chọn lọc in thành 6 cuốn sách dày gần 2.000 trang, trở thành cái tên “Người hay cãi” thân thuộc với đồng nghiệp và bạn đọc. Nhưng bên cạnh các luận văn (in trong tập Theo bước chân đổi mới), sách về nghiệp vụ báo chí và một số tiểu phẩm, hồi ký (in trong tập Công việc người viết báo; Mắt sáng, lòng trong, bút sắc; Đèn xanh, đèn đỏ; Chạy và Ô, dù, lọng), ông còn có mảng sách mà tác giả gọi là tản văn, tiểu luận, theo kiểu “gặp đâu ghi đó”, “thấy gì bàn đó”, ngắn gọn và không câu nệ thể loại. 5 Tản văn của Hữu Thọ cũng có những phong cách riêng, thâm trầm, dí dỏm và cũng đều phản ánh tư duy, phong cách của tác giả xuyên suốt các thể loại. Chuyện nhà, chuyện nước là tập tản văn, tiểu luận của tác giả viết trong khoảng thời gian 2001 - 2006, phản ánh những nét chấm phá về các vấn đề con người, làm người trong các mối ứng xử mới vào những năm đầu của thế kỷ XXI khi xã hội chuyển đổi mạnh mẽ sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Cuốn sách đã được Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật xuất bản lần đầu vào năm 2007; tái bản năm 2012. Năm 2021, cuốn sách được chúng tôi đưa vào tái bản trong seri các cuốn sách của nhà báo Hữu Thọ về chủ đề chống tham nhũng, tiêu cực trong xã hội. Xin trân trọng giới thiệu cuốn sách với bạn đọc. Tháng 4 năm 2021 NHj XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA SỰ THẬT 6 T CÁI DUYÊN ôi không phải là nhà ngôn ngữ học, nhưng tôi cảm nhận trong ngôn ngữ của ta cũng như nhiều dân tộc khác, có những từ không thể dịch ra các từ nước ngoài bằng một từ tương ứng vì những nội hàm riêng. Ngay trong thời hiện đại, từ Đổi mới hoàn toàn có thể dịch sang tiếng nước ngoài bằng một từ, nhưng trong nhiều Từ điển Bách khoa trên thế giới người ta để nguyên từ Đổi mới bằng tiếng Việt, vì sợ lẫn với cải tổ, cải cách; rồi từ V.A.C thì có thể dịch ra tiếng nước ngoài dài dòng của khái niệm Vườn - Ao - Chuồng nhưng vẫn để nguyên V.A.C để có địa chỉ Việt Nam về sự sáng tạo của một nền kinh tế sinh thái trong từng gia đình. Đó là những từ hiện đại có nội dung riêng mới có, nhưng lại có từ vốn có trong truyền thống, biểu hiện không chỉ ngữ nghĩa mà còn chuyển tải một tâm hồn, một giá trị của dân tộc thì lại rất phong phú và rất khó dịch. Nhân dịp kỷ niệm Ngày thành lập Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam (20/10), 7 thử bàn đến một từ liên quan tới người phụ nữ Việt Nam. Về vẻ đẹp dịu dàng, nết na, sắc sảo của người phụ nữ thì trên thế giới này có rất nhiều từ để miêu tả, để chuyển tải. Thuở sinh thời, anh Nguyễn Khắc Viện vốn được tôi khâm phục là một nhà văn hóa sâu sắc, hiểu kỹ văn hóa nước nhà và nhiều nước trên thế giới, vốn tiếng Pháp rất được kính nể, cho nên trong câu chuyện tâm sự, có lần tôi hỏi anh: “Từ duyên của Việt Nam thì anh dịch ra tiếng Pháp là gì?”. Duyên ở đây không phải là duyên nợ, duyên phận, duyên may của triết học tôn giáo mà là “cái duyên” của người con gái. Thậm chí già rồi mà vẫn còn duyên. Anh ngẫm nghĩ một lúc, đưa ra một số từ tiếng Pháp, rồi sau đó lại nói là chưa phải. Nó là “đẹp” - chưa phải. Nó là “dịu dàng” - chưa phải. Nó là “lịch sự” - chưa phải. Nó là “nết na” - chưa phải... Sau đó, anh nói: “Có lẽ phải dịch dài hơn mới đủ nghĩa”. Tất nhiên chữ duyên cũng phát triển theo chiều dài lịch sử nhưng duyên vẫn cứ là duyên. Chúng tôi bàn với nhau để tạm quy ước rằng: đó là biểu hiện của cái đẹp bề ngoài là xinh xắn, ưa nhìn, có vẻ đẹp thầm kín chứ không hẳn là đẹp phô trương; nhưng nó lại có 8 nội dung bên trong của tính tình và tấm lòng qua sự trung thực, cách cư xử tế nhị, lịch sự, có văn hóa; do đó mà hấp dẫn lâu dài với người giao tiếp chứ không phải là sức quyến rũ mạnh mẽ nhất thời. Duyên dáng thì cũng chỉ là cái dáng của duyên mà thôi. Rồi chúng tôi nói bông đùa với nhau: “Những bà vợ hay ghen rất sợ ông chồng nào giao thiệp với người phụ nữ có duyên. Lại còn duyên thầm nữa mới chết chứ”. Cái gì “thầm” mà không “phô” thường có giá trị bền vững; càng tiếp xúc càng ngây ngất. Cho nên cái từ duyên để chỉ một giá trị đậm đà sắc thái dân tộc, là một tiêu chí để chọn lựa sự ý hợp tâm đầu bền vững trong hạnh phúc gia đình. Cái duyên có phần trời cho, có phần do giữ gìn, rèn luyện, bảo ban nhau mà nên; không làm cái gì có tính chất phô trương, hợm sắc, hợm của, chơi trội, kém văn hóa mà trở thành vô duyên. Thế mà tra Từ điển Bách khoa Việt Nam, tập I, xuất bản lần đầu không thấy có từ duyên cũng như từ đồng bào để mà tra cứu. Vì đến nay, vẫn có người hỏi duyên là gì, để muốn biết cho đầy đủ. Tôi cũng chỉ nói mấy ý kiến riêng của mình để trao đổi mà thôi. Báo Sinh viên, ngày 16/10/2001 9 B MỘT CHÚT, MỘT CHÚT ây giờ, một tuần được nghỉ hai ngày. Thường thường, người ta có kế hoạch cho hai ngày đó. Nghỉ ngơi ở đâu, theo hình thức nào? Thăm bạn bè thì thăm ai? Làm việc nhà, giúp đỡ gia đình thì giúp việc gì? Đọc sách, viết bài thì sách gì, bài gì?... Thế là vừa nghỉ, vừa chơi, vừa làm việc có kế hoạch. Có bạn nói: “Đã nghỉ lại còn đặt kế hoạch, sao mà rắc rối, gò bó thế!”. Nhưng nghỉ ngơi có kế hoạch mới là nghỉ ngơi có hiệu quả chứ! Đối với nhiều người thì hai ngày nghỉ là nghỉ làm việc công, chứ có nghỉ ngơi hoàn toàn đâu. Đó là chưa kể có không ít người còn tranh thủ làm thêm để có thêm thu nhập. Và đối với nhiều người, thời gian nghỉ ngơi cũng là thời gian tự hoàn thiện theo một cách khác. Ngay một chuyến đi chơi, đi tham quan cũng là để tìm kiếm một sự hiểu biết thêm nào đó. Mấy ngày nghỉ vừa rồi, ngoài thời gian nghỉ ngơi hoàn toàn, lao động việc nhà, tôi có kế hoạch đọc một cuốn sách và viết một vài 10 trang. Đó là công việc hoàn toàn tự nguyện, không ai bắt buộc, không ai kiểm tra việc mình làm. Nhưng hình như giữa “làm” và “chơi”, sức đẩy quán tính thường cứ nghiêng về phía chơi, vì đọc thì cũng phải suy ngẫm, mà viết lại càng phải suy ngẫm, đều là những loại lao động, có loại cực nhọc. Rồi chợt lóe lên trong đầu sự bỏ cuộc, khi thấy người hơi mệt một chút, khi suy nghĩ vấp phải vấn đề khó, muốn dừng lại; đã có lúc buông sách, buông bút. Nhưng tôi tự nhủ “Cố lên một chút”, thế là tôi lại ngồi vào bàn. Công việc hoàn thành, thấy người nhẹ nhõm, thanh thản, vì rất phấn khởi tự nghĩ: “Một chút nữa thì lỡ dở, nếu không cố gắng một chút, vượt qua một chút trì trệ, nản lòng”. Đó là chuyện nhỏ nhặt trong thời kỳ hòa bình của một ngày rỗi rãi, nhưng lại gợi nhớ “một chút” lớn hơn trong thời kỳ chiến tranh. Lúc đó, vào năm 1966, tôi hành quân đến binh trạm 12, đường 15 trên đường mòn Hồ Chí Minh, dừng chân ở Ka Tang - Khe Ve để công tác, trước khi đi tiếp. Trong đoàn, tôi là người “nhẹ cân” nhất và cũng “cứng tuổi” nhất. Bom đạn thì cũng đã quen, nhưng luồn rừng, leo dốc, vượt đèo thì lại ngại với thân hình còm nhom chỉ có 43kg của tôi. Cách ngầm Ka Tang 11 một cây số, tôi thấy mệt, một tí gì bám trên vai như thấy gánh nặng cả tạ, cả tấn đè xuống đùi, xuống chân. Chợt loé lên trong đầu ý nghĩ nghỉ lại lán thanh niên xung phong ven đường, mà lúc đó tôi đề nghị nghỉ thì cả đoàn sẽ nghỉ lại, vì chúng tôi chỉ là mấy anh nhà báo, không phải giữ gìn “quân phong, quân kỷ” ghê gớm lắm. Nhưng kế hoạch làm việc đã định ra ở binh trạm không thể bỏ lỡ. Hãy cố lên “một chút” cho kịp bạn bè, cho khỏi lỡ kế hoạch. Thế là tôi chống gậy leo dốc, người mệt phờ nhưng đã đến nơi đúng hẹn. Đúng hẹn cho nên mới được chứng kiến tinh thần dũng cảm, lòng thương đồng đội của chị Nguyễn Thị Kim Huế, Trần Thị Thành vượt bom đạn, hiểm nguy cứu đồng đội bị bom vùi đêm hôm đó, mà sau này một người trở thành anh hùng, được gặp Bác Hồ, được Bác cho giò phong lan, cho chụp ảnh cùng mà cả nước đều biết. Thế là, hôm đó nếu không cố gắng “một chút” thì lỡ một việc lớn của đời làm báo. Một chút cố gắng vượt lên trên một chút trì trệ có thể làm được một chút việc có ý nghĩa, song có khi hoàn thành xong một việc chẳng có ý nghĩa gì lớn lao, nhưng điều quan trọng là một chút cố gắng đó là sự vượt qua sự trì trệ, làm cho mình lớn hơn bản thân mình 12 dù chỉ là một chút. Một chút dừng lại, sự tụt hậu, thậm chí rẽ ngang, ngả trái thì cuộc đời có khi bị co kéo bởi một chút nản chí, xao xuyến, một chút cám dỗ. Nghe những lời tâm sự của một số bạn trẻ lao vào con đường nghiện ngập ở trại giáo dưỡng Ba Vì thấy cũng là bắt đầu “thử một chút” cho vui vẻ, cho biết sự đời trước sự rủ rê của một vài đứa bạn xấu. Nghe một bạn trẻ ở trại Thanh Hóa vốn không phải con người hung hãn, nhưng chỉ một chút, một lát không kiềm chế được tính nóng, không tỉnh táo trước sự kích động, thế là nổi cơn lên, dùng dao búa vào những chuyện có thể bảo ban, góp ý, thậm chí có thể tranh cãi nhau, lâm vào vòng tội lỗi. “Một chút, một lát” chỉ một số lượng, khối lượng, khoảnh khắc rất nhỏ, rất ngắn. Trong cuộc đời, “một chút, một lát” chẳng đáng là bao. Nhưng tự chiêm nghiệm thấy cái thế vươn lên và cái đà xuống dốc, đôi khi bắt đầu từ một “chút cố gắng” kiên trì hoặc những “chút buông thả”, xiêu lòng. Báo Sinh viên, ngày 30/10/2001 13 Đ HOA Vj CÂN? ài báo tin Hoà thượng Thích Thiện Siêu viên tịch tại Huế lúc 17 giờ ngày 03/10/2001, tức 17 tháng Tám năm Tân Tỵ. Vì ở xa, tôi chỉ có thể viết thư chia buồn. Nhưng tôi vẫn nhớ những lời tâm tình của Hoà thượng, có buổi qua chùa Từ Đàm đàm đạo trong chuyến đi công tác ở Huế, nhớ mãi giọng nói từ tốn và sâu sắc của một vị cao tăng mà tôi rất kính trọng. Chợt nhớ năm 1993, Hoà thượng biếu tôi một cuốn sách, nhan đề Vô ngã là niết bàn với lời đề tặng thân thiết. Thú thật với vong linh Hoà thượng: sách cụ biếu tôi có đọc một hai chương, có gạch chân, đánh dấu chỗ cần suy ngẫm, nhưng chưa đọc hết, vì có quá nhiều việc phải làm, quá nhiều sách phải đọc. Cũng nhân ngày chủ nhật và cũng để nhớ Hoà thượng, tôi lục tủ sách lấy ra đọc kỹ. Trong nhà, tôi thờ cúng tổ tiên và thờ cụ Hồ, không theo đạo nào. Tuy không theo đạo Phật, nhưng thích vãn cảnh chùa, vì nơi đó có 14 không gian phù hợp với người hay ngẫm nghĩ sự đời. Cũng hay đọc sách các tôn giáo, để hiểu biết mặt triết học, đặc biệt là những lời giải, lời răn về đạo làm người. Hôm đó, tôi đọc sách của Hoà thượng cũng theo tinh thần đó, tôi thấy rõ tác giả đã phân tích nhiều vấn đề về triết lý nhân sinh rất sâu sắc và dễ hiểu, gần gũi cuộc sống bình thường. Đọc thì dễ hiểu nhưng suy nghĩ sâu xa đến đâu thì tùy từng người. Chợt thấy câu: “Bạn như hoa, bạn như cân, không phải là bạn”, bắt tôi phải dừng đọc để suy nghĩ. Đọc lời giải thích đại ý của Hoà thượng, tôi cứ ngẫm nghĩ mãi để hiểu thêm. Bạn như hoa là bạn đến làm quen vì lợi, vì danh, đến chơi nói toàn lời tán tụng đẹp như hoa, nhưng hoa nở rồi hoa lại tàn; hết lợi, hết quyền thì hết bạn, cho nên không phải là bạn tâm giao! Bạn như cân là những người bạn tính toán thiệt hơn trong quan hệ, chơi với nhau cũng mặc cả, cân đo sòng phẳng, không có chuyện chia sẻ, giúp nhau vô tư, không thể là bạn khi hoạn nạn!... Thật sâu xa lắm thay! Báo Sinh viên, ngày 13/11/2001 15 Đ MIẾU TIẾN SĨ ối với tôi, làng Sổ, Thái Bình như một quê hương thứ hai, vì mấy năm trong cuộc kháng chiến lần thứ nhất rất ác liệt, đã có thời gian tôi ở đó cùng chiến đấu với bà con. Sống chết có nhau, nên tôi cũng hiểu phong tục của làng, cũng như đường ngang ngõ tắt trong làng để luồn hầm đánh giặc. Ở đầu làng có một cái miếu nhỏ, nghe nói linh thiêng lắm. Bà con nói rằng: “Đó là miếu thờ một ông tiến sĩ, cho nên gọi là miếu tiến sĩ”. Tương truyền rằng, khi đỗ đạt, ông được vua cho phép vinh quy bái tổ. Khi ngựa xe qua đầu làng Sổ thì ông lâm bệnh. Quân hầu vào làng xin tá túc để ông dưỡng bệnh nhưng chức dịch không cho vì sợ lôi thôi. Sau đó chẳng may ông qua đời ở một quán bên đường. Dân làng đến thắp hương cúng viếng, sau đó quyên góp lập miếu thờ ông. Nhưng từ đó lan truyền lời nguyền: “Cái làng này không trọng kẻ sĩ nên sau này con cháu học hành chẳng ra gì!”. Bà con cứ tin như thế, nên cũng 16 chỉ cho con cháu học qua quýt dăm ba chữ để đọc thông cái văn tự, vì cho rằng có học thêm cũng chẳng ăn nhằm gì. Chính vì thế khi Cách mạng Tháng Tám thành công, người học khá nhất làng cũng chỉ có bằng sơ học yếu lược; cán bộ thôn xã đều ít chữ. Tất nhiên, trước đây con nhà nghèo cũng không thể lấy tiền đâu mà đi học bậc trên cái trường làng. Nhưng ngay cả mấy cô cậu con nhà giàu cũng không được cha mẹ cho học lên cao vì ám ảnh chuyện xưa. Thế rồi cách mạng thành công, câu chuyện cũ coi như “mê tín dị đoan”, nhưng trong dạ nhiều người vẫn không yên. Lân la tâm sự với bà con, chúng tôi phải nói: “Cho dù chuyện cũ là có thật đi nữa thì cũng là tội mấy anh chức dịch chứ vạ gì dân làng. Còn bà con mình thì quý trọng người có học chứ, nếu không sao lại dựng miếu thờ tạ!”. Không khí cách mạng đã cởi mở mọi điều cũ kỹ, bà con lại cho con đi học; bây giờ người nghèo cũng có thể cho con ăn học, chứ không chỉ mấy nhà giàu. Mấy năm vừa rồi, tôi có dịp về thăm lại làng xưa, thấy trai gái đỗ bằng cử nhân “vô thiên lủng” như các cụ khoe. Có cụ bấm đốt ngón tay đếm có đến hơn hai chục. Hôm đó, đúng dịp gặp một cậu ở xóm Cầu đỗ phó tiến sĩ, 17 bây giờ gọi là tiến sĩ, giày áo chỉnh tề đến thăm chú bác, bà con, chúng tôi lại cùng nhau nhắc chuyện xưa, về cái “miếu tiến sĩ”. Tôi cũng không tiện hỏi, nhưng tôi nhớ cậu An ấy, là cháu ông mặc khố đánh giậm bên đầu cầu đá thì phải. Rỉ tai hỏi mấy cụ, được trả lời: “Đích thị”. Rồi một cụ nói: “Đúng là ông Trời không cấm cửa ai! Có chí thì nên!”. Một ông cụ khác nói ngay: “Cách mạng về, có cấm cửa ai!”. Tôi chỉ vui vẻ cười theo, vì không phải nói thêm một câu gì nữa trong cái sự bàn luận hôm đó. Chỉ hỏi các cụ “Cái miếu tiến sĩ có còn không?” thì được trả lời là vẫn còn. Vì chuyện cũ coi như cho qua, những lời răn, lời nguyền “phải tôn trọng kẻ sĩ, tôn trọng người có học” thì vẫn còn chứ. Bây giờ làng mới có một ông tiến sĩ, chứ sau đây không khéo lại “vô thiên lủng”! Cái miếu tiến sĩ đầu làng trở thành một di tích trong truyền thống văn hóa làng Sổ. Báo Sinh viên, ngày 20/11/2001 18 CON NGƯỜI CỦA CÔNG CHÚNG G ần đây tôi được đọc tâm sự của một “ngôi sao”, phàn nàn mình “bị mất tự do”, mọi “cử chỉ” của mình đều bị theo dõi, bình phẩm. Điều đó là có thật, nhưng biết làm thế nào được. Việc đó hoàn toàn khác với việc “moi móc đời tư” của cá nhân, để bôi nhọ như một điều cấm kỵ về nhân cách và vi phạm luật pháp. Trong xã hội, có một số người được gọi là “nhân vật xã hội”. Đó là những người luôn luôn xuất hiện trước công chúng; việc làm của họ tác động tới đời sống của nhiều người, được công chúng yêu thích, thậm chí ngưỡng mộ. Nhiều hành vi và sinh hoạt của họ được bắt chước, noi theo. Ở nước ta, chưa ai thảo luận và kết luận xem những người nào được liệt vào “nhân vật xã hội”. Nhưng ở thế giới, người ta thường coi những nhà lãnh đạo, quản lý, những nhà khoa học, nhà giáo nổi tiếng, những “ngôi sao” nghệ thuật và thể thao là những “nhân vật xã hội”. Có những người 19 không nổi tiếng lắm, nhưng công việc của họ luôn luôn được trưng tên, trình diện trước công chúng như các nhà báo, những người dẫn chương trình truyền hình, ca nhạc... cũng đều được đặt vào diện “các nhân vật xã hội”. Đó là niềm vinh dự lớn lao mà xã hội dành cho họ với lòng quý mến, có những trường hợp kính trọng. Vì có biết bao người lao động trong xã hội này, có người có những cống hiến to lớn, nhưng không phải ai cũng được ký tên mình dưới các sản phẩm, được thường xuyên xuất hiện trước hàng vạn người, trở thành người quen thuộc với nhiều người. Nhưng vinh dự nào cũng kèm theo trách nhiệm. Ăn mặc trong nhà, thậm chí trong buồng phải khác khi trình diện trước công chúng. Ăn nói trong nhà, với bạn bè cũng khác với khi xuất hiện trước đông đảo nhân dân, vì trước mặt mình có người bằng tuổi mình, có người hơn tuổi mình. Những “ngôi sao” nghệ thuật và thể thao ở nước nào cũng thường có ảnh hưởng tới lớp trẻ, không chỉ về tài năng mà còn cả lối sống, cách ứng xử của họ nữa. Vì vậy, xã hội quan tâm tới tư cách của họ là điều tất nhiên. Vì lẽ đó, khi quyết định kỷ luật, cấm thi đấu một thời gian đối với một ngôi sao lớn của bóng đá nước Anh, 20 về những hành vi “phi thể thao”, “phi văn hóa”, người ta đã đưa ra một lý do: “Làm ảnh hưởng tới nhân cách của thế hệ trẻ!”. Đó đâu phải là chuyện gì bó buộc. Có rất nhiều nhà lãnh đạo, quản lý, nhiều “ngôi sao” nghệ thuật, thể thao không chỉ được công chúng mến mộ tài năng, mà còn được đánh giá là những người khiêm tốn, trung thực, dễ mến, hết lòng phục vụ khán giả, có cuộc sống riêng nêu gương tốt cho nhiều người. Và như vậy, tên tuổi và hình ảnh của họ mới bền vững trong lòng công chúng. Báo Sinh viên, ngày 11/12/2001 21 NGƯỜI MẸ Vj ĐỨA CON B uổi sáng nào tôi cũng dậy sớm tập thể dục. Với tuổi của tôi, cách tập tốt nhất là đi bộ, vừa đi vừa thở, rồi cũng phải tranh thủ về sớm để nghe “Chào buổi sáng” của Đài Truyền hình. Ở khu tập thể phố Lê Thánh Tông nơi tôi ở, buổi sáng nào tôi cũng gặp một bà luống tuổi rao bán bánh mì. Để có bánh bán vào buổi sáng trước giờ đi làm của mọi người ở nhiều điểm, chắc bà phải dậy từ trước bốn giờ, cọc cạch chiếc xe đạp đi nhận bánh để kịp bán. Ở bà vừa có cái gì thật thà, phúc hậu, lại vừa có cái vẻ sắc sảo, có hiểu biết. Lân la hỏi chuyện, tôi biết bà là bộ đội phục viên, mấy chục năm trong quân ngũ, được về nghỉ, đồng lương hưu quân đội cũng đủ sống. Một hôm, vì tò mò nên tôi hỏi: “Sao bà không nghỉ ở nhà cho khỏe, còn phải vất vả làm gì thế này!”. Bà cho biết là mải việc quân nên lấy chồng muộn, sinh con muộn. Bố mẹ nghỉ việc rồi mà con còn nhỏ cho nên phải kiếm thêm tiền cho con ăn học. Muốn có hàng 22 bán, chồng phải dậy từ trước bốn giờ sáng đi lấy bánh, vợ phải đạp xe từ bốn rưỡi đến các điểm bán. Nghe chuyện bà, tôi rất cảm động về sự hy sinh của bà mẹ, nhưng không thể có lời khuyên gì hơn được nữa vì mỗi người một cảnh, nhưng ngày nào tôi cũng mua của bà một hai tấm bánh, ép cả nhà cùng ăn, mặc dù không phải ngày nào mọi người cũng thích ăn sáng bằng bánh mì. Tôi cứ lặng lẽ làm cái việc nhỏ nhoi đó, vì có lúc tôi biếu bà ít tiền nhưng bà nhất định không nhận. Thế rồi bẵng đi đến hơn một năm, không thấy bà bán bánh mì đó đến bán ở khu tôi ở. Chắc là bà ốm đau gì đây, vì vào cái tuổi đó, lại làm việc khuya sớm, sức khỏe dễ bị suy sụp. Tôi cứ băn khoăn mãi, nhưng hỏi ai bây giờ về số phận của một người bán hàng rong trong một thành phố đô hội này? Một hôm tôi hỏi bà bán cháo sườn vì thấy hai bà có vẻ quen nhau, thì được trả lời: “Bà ấy bây giờ mát mặt rồi, thôi cái nghề vất vả này rồi!”. Thế là trong bụng tôi cũng mừng cho bà. Bỗng ngày giáp tết Tân Tỵ vừa rồi bà đến gõ cửa nhà tôi, lại dẫn theo một cậu thanh niên trông mặt mũi sáng sủa, tôi đoán chắc là đứa con của bà. Hai vợ chồng tôi mời bà vào trong nhà chơi; chúng tôi vui vẻ nói đùa: “Hơn năm nay 23 không gặp lại, cả nhà tôi nhớ bánh mì nóng giòn của bà quá!”. Bà nói: “Tôi biết ngày nào ông cũng mua cho tôi một hai chiếc, ngày mưa ế hàng ông lại mua tới bốn chiếc, tôi biết cái lòng của ông giúp tôi. Cho nên hôm nay tôi dẫn cháu đến để chào ông. Lúc đó tôi quá khó khăn. Cháu nó học năm cuối để thi đại học cho nên tốn kém. Tôi ít chữ, công tác thì lâu năm, phục vụ thì tận tụy nhưng không tiến lên được, đi đơn vị nào cũng chỉ làm chị nuôi, cho nên hai vợ chồng quyết chí cho con ăn học. Nó cũng ngoan lắm, hiểu được tấm lòng cha mẹ cho nên cố học, lúc rảnh rỗi lại đỡ đần việc nhà, ngày được nghỉ học lại dậy sớm thay bố lấy bánh cho mẹ đi bán. Mừng quá, cháu nó học bằng chị bằng em, lại thi đỗ và được đi Nhật học. Mới được một năm, đáng lẽ chưa về, nhưng nghe tin bố ốm, cháu dành tiền nhất định xin phép về thăm bố. Hôm nay, tôi dẫn nó đến thăm các thầy cô giáo, thăm ông bà, thăm những người đã giúp gia đình tôi. Chuyện mua bánh của ông, tôi đã kể cho cháu nó nghe cả!”. Tôi nói với bà: “Đó là chuyện rất nhỏ, không đáng gì. Có chăng là một dịp để chúng tôi mừng cho bà, cho cháu!”. Thật ra đó là chuyện rất nhỏ trong muôn vạn 24 chuyện to tát, quyết liệt diễn ra hằng ngày trong xã hội ta, của những con người vượt qua số phận. Nhưng tôi cứ nhìn họ, một bà mẹ bình thường hết lòng hy sinh vì con, hết lòng chăm sóc cho con nên người, hướng dẫn cho con nhớ ơn những người đã giúp mình dù là nhỏ, một người con hiểu nỗi lòng của cha mẹ, hết lòng học hành, giúp đỡ gia đình để đền ơn sinh thành, dưỡng dục, mà lòng thấy rất vui. Người ta cứ nói cao siêu về lòng yêu nước, yêu đồng bào nhưng phải chăng lòng yêu nước, thương nòi phải bắt đầu từ tình yêu quê hương, xứ sở, yêu thương bố mẹ, quý trọng thầy cô. Chẳng ai tin những người vỗ ngực là yêu nước, là trung thành với cách mạng mà bạc bẽo với người sinh ra mình, dạy dỗ mình. Tôi cứ quan sát những người chung quanh cái thời mình sống mà nghĩ đơn giản như thế. * * * Trên đây là những gì tôi ghi lại câu chuyện kể của một người bạn. Tôi có thể bảo đảm ghi đủ ý câu chuyện nhưng không dám chắc mình đã nhập thần được hết lòng cảm 25 thông, sự kính trọng qua sắc thái khuôn mặt, qua giọng nói khi kể chuyện của anh bạn sáng chủ nhật hôm đó. Giá như anh là nhà báo, nhà văn thì hay biết bao! Báo Sinh viên, ngày 25/12/2001 26 Đ CHUYỆN NHj ồng chí Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh thường được một số tổ chức biên tập mời viết bài cho những bộ sách lớn về cuộc đời hoạt động của những đồng chí lãnh đạo cao cấp của Đảng và Nhà nước ta. Hôm được Nhà xuất bản Chính trị quốc gia mời viết bài cho bộ sách về đồng chí Phạm Văn Đồng, đồng chí suy nghĩ rất lâu. Thông thường đồng chí trao đổi ý với các đồng chí chung quanh, trước hết là những người giúp việc về ý tưởng của mình. Gặp tôi, đồng chí chủ động nói ngay: - Mình thấy khó thật. Anh Tô là người học trò xuất sắc của Bác Hồ, là một nhà lãnh đạo nổi tiếng của Đảng và Nhà nước ta, là nhà văn hóa, nhà ngoại giao lớn của đất nước, rất nổi tiếng ở trong nước và thế giới. Đánh giá công lao của anh, đã có nhận định của Đảng, của Nhà nước trong Lễ trao tặng Huân chương Sao Vàng cho anh. Còn phân tích tỉ mỉ hơn cuộc đời hoạt động cách mạng của anh thì phải là các nhà viết sử, các nhà văn hóa, chứ đâu 27 phải cứ làm lãnh đạo là cái gì cũng biết. Còn nói đến những kỷ niệm về anh trong cuộc đời hoạt động thì lớp cán bộ chúng mình với lớp của anh đã tham gia thành lập Đảng thì có khoảng cách khá xa về thời gian hoạt động, làm sao mà có những kỷ niệm. Mà nói những kỷ niệm về anh Tô là phải nói đến những vấn đề lớn của đất nước, chứ làm sao mà nói chuyện lặt vặt được! - Anh khiêm tốn thế thôi, chứ thời kỳ anh làm Bí thư Tỉnh ủy, rồi vào Trung ương, công tác ở Trung ương chắc cũng có nhiều dịp gần gũi anh Tô, chắc cũng có nhiều chuyện đáng ghi nhớ, để viết. Những kỷ niệm thì không câu nệ nhỏ, to, có khi chuyện nhỏ mà có ý nghĩa lớn! Tôi trả lời anh. - Đúng là như vậy, để mình nghĩ tiếp!... Thời gian nộp bài cũng còn dài. Câu chuyện trao đổi cũng qua đi, nhưng chắc rằng anh cũng đang lục tìm trong ký ức, vì những kỷ niệm sâu sắc thường ghi nhớ sâu đậm trong bộ nhớ của mỗi người, tuy là những chuyện đã qua nhưng bao giờ cũng gợi mở những vấn đề hôm nay. Thế rồi bài đó cũng hình thành. Anh kể rất sảng khoái những buổi anh Tô gặp anh và có lần chủ động đến thăm nhà anh khi anh về 28 Trung ương công tác chứng tỏ sự săn sóc của các đồng chí cán bộ lớp trước với cán bộ trẻ. Nhưng có một chuyện nhỏ, đúng là nhỏ, là chuyện anh Tô nói chuyện với chị Mạnh khi đến thăm nhà. Trước khi chia tay, anh Tô cầm tay chị Mạnh nói thân mật: “Chị bây giờ đã là phu nhân. Nhưng tôi khuyên chị đừng học làm phu nhân, mà cố làm người vợ cho tốt, người mẹ cho tốt”. Chị Mạnh thưa lại: “Cháu cảm ơn bác. Cháu không biết làm phu nhân đâu. Cháu là công nhân, được nghỉ hưu sớm. Bây giờ cháu cố chăm lo việc gia đình, giáo dục con cái để anh ấy yên tâm công tác”... Thực ra, đó là chuyện nhỏ trong số những kỷ niệm về anh Tô trong những lần gặp anh Mạnh còn công tác ở Bắc Thái cũng như khi về Trung ương công tác. Anh Mạnh nói: “Đó là chuyện trao đổi giữa anh Tô và nhà tôi, nhưng hai vợ chồng tôi đều nhớ rất sâu sắc!”. Khi câu chuyện đó viết ra, in vào sách, nhiều người đọc gặp tôi cũng cho đó là chuyện giản dị và sâu sắc, đúng là phong cách của anh Tô và cũng đúng là phong cách của gia đình anh Mạnh, và nhất là có ý nghĩa rất thời sự lúc này. * * * 29 Câu chuyện nhỏ này lại làm cho tôi nhớ những kỷ niệm về Bác Hồ. Vào những năm đầu Cách mạng Tháng Tám thành công, ôtô làm gì đã có nhiều, có lẽ mỗi tỉnh chỉ có một, hai chiếc; cán bộ thì mới vừa từ đấu tranh gian khổ lúc bí mật, tù đày mà ra, nhưng Đảng ta đã là một đảng nắm chính quyền, cán bộ đã có chức, có quyền. Ngay từ năm 1946 - 1947, Bác Hồ của chúng ta luôn luôn quan tâm giáo dục cán bộ; Người còn răn: “các cô”, “các cậu” vợ, con cán bộ không được ỷ thế chồng, chơi sang, đi xe nhà nước cho oai, đòi hỏi đủ thứ, thậm chí trở thành “ông tướng, bà tướng” làm hại uy tín của cán bộ. Rồi vào đầu những năm 60 của thế kỷ XX, sau chiến thắng Điện Biên Phủ, một nửa nước đã có hòa bình, cán bộ kháng chiến từ chiến khu trở về thành phố, Bác Hồ lại nghĩ ngay tới “các cô”, “các cậu”, cho nên đã cử đồng chí Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, Ủy viên Bộ Chính trị “phụ trách” việc chăm nom, hướng dẫn “các cô”. Nghe anh Thanh kể lại, theo lệnh Bác Hồ, năm nào anh cũng phải họp với các chị là vợ các đồng chí Ủy viên Trung ương, Bộ trưởng một lần, vừa để hỏi thăm sức khỏe gia đình, xem đời sống ai có khó khăn thì tìm cách giúp đỡ, động viên các chị 30 giúp đỡ các anh trong công tác, đặc biệt khuyên các chị giữ gìn phẩm chất, không đua đòi, cố gắng dạy bảo con cái cho ngoan ngoãn, học hành chăm chỉ, để làm gương cho cán bộ khác, không làm gì hại đến thanh danh của cán bộ cao cấp. Có buổi anh Thanh đã thẳng thắn góp ý một vài trường hợp khi nghe có dư luận không hay. Liên hệ với tình hình hiện nay, lại càng thấy Bác Hồ ta thật sáng suốt, nhìn trước mọi việc, và xử sự mọi việc thật chu đáo vì “chuyện nhà” của cán bộ nhiều khi ảnh hưởng tới “chuyện nước”. * * * Và khi bế mạc Hội nghị Trung ương lần thứ ba (khóa IX), với tư cách Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng, tôi lại thấy đồng chí Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh nhấn mạnh tới trách nhiệm của cán bộ, trước hết là các đồng chí Ủy viên Trung ương đối với vợ chồng, con cái, để trở thành gia đình gương mẫu. Những chuyện nhỏ rời rạc, cách nhau bao nhiêu năm nhưng tôi cứ thấy như có gì gắn với nhau. Có hôm, trong một ngày cuối 31 năm 2002, tôi nói với anh, nhân một chuyện thời sự xảy ra trên thế giới: - Làm sao mà, một rồi hai đứa con tham nhũng, hối lộ bị xét hỏi, vào tù, mà ông ta vẫn yên vị Tổng thống? - Tất nhiên, chuyện con là của con, cha là cha, hai người đều là công dân. Lý thì như thế nhưng tình lại không hoàn toàn như thế vì uy tín vẫn bị sứt mẻ. Ở nước người ta thì có thể thế, còn ở nước ta thì không như thế đâu, có “tề gia” thì mới “trị quốc” được! Ngày 01/01/2002 32 T TỪ “ÁO DjI” ết đến, nhiều chị em ta thường mặc áo dài đi chơi, đến chúc Tết nhau. Cho nên cũng nhân dịp này mà lạm bàn về chiếc áo dài. Trên thế giới, có một số danh từ chung chỉ vật gì, sự kiện gì có đặc tính nổi bật tiêu biểu cho một dân tộc được quan tâm nghiên cứu, thường người ta để nguyên từ đó bằng tiếng nước đó. Hình như không có quy ước thành văn nào, nhưng nhiều người làm từ điển, viết sách thường thỏa thuận ngầm với nhau như thế. Từ áo dài của người con gái Việt Nam là một trong những từ tiếng Việt ở trong trường hợp đó. Áo dài khác áo cánh, áo bà ba hoặc các kiểu áo cộc khác. Nói cho khách quan thì trên thế giới không chỉ có phụ nữ Việt Nam mặc áo dài. Ít nhất, tôi cũng biết tới phụ nữ năm bảy nước thường mặc áo dài trong các ngày lễ, ngày hội; có những chiếc áo dài cũng rất nổi tiếng, tiêu biểu cho trang phục phụ nữ một số nước. 33 Cũng không phải từ áo dài Việt Nam không có từ nước ngoài tương ứng để chuyển dịch. Tiếng Pháp, tiếng Anh và tiếng của nhiều nước khác đều có những từ chỉ chiếc áo dài. Vậy vì sao, áo dài của người con gái Việt Nam lại được để nguyên tiếng Việt trong một số từ điển nước ngoài? Nhiều nhà nghiên cứu nước ta cũng đã có những công trình nghiên cứu về lịch sử chiếc áo dài Việt Nam. Khi là chiếc áo tứ thân, khi là áo hai thân, hai thân rưỡi... Khi nó chùng xuống, khi nó cao lên. Khi nó cổ cao, khi nó có cổ thấp vừa phải, khi hở cổ. Khi vai bồng, khi vai duỗi. Khi được may từ vải trơn, khi nó pha màu với nhiều hoa văn nổi và chìm... Nhưng rồi kiểu gì không thích hợp thì mất đi, thời gian chỉ còn giữ lại những gì hợp lý, phù hợp với quan điểm thẩm mỹ của dân tộc. Tôi không thuộc người am hiểu kỹ chuyện này cho nên không dám lạm bàn. Có những người ở trong nước và nước ngoài nghiên cứu những đặc điểm của chiếc áo dài Việt Nam có những nhận xét mà tôi đồng cảm, tâm đắc. Chẳng hạn một số người cho rằng: áo dài của người con gái Việt Nam có đặc điểm là cái gì đẹp tuyệt vời, cái đẹp trời cho ở đường cong cơ thể người con gái thì nó giúp phô ra; còn cái gì cần che đậy thì nó che đi: ngay cả đường nét đáng 34 cần phô ra thì cũng phô ra một cách kín đáo theo tính cách nhuần nhụy Việt Nam. Nó đủ dài tha thướt cho con người đi giữa đời thường mà cứ như múa, như bay, nhưng lại không kiểu cách, phô diễn như người biểu diễn trên sân khấu. Chính vì lẽ đó, mà chiếc áo dài lại hợp với vóc dáng thon thả và với tâm hồn, tính cách duyên dáng, dịu dàng, nết na của người con gái Việt Nam. Thế là chiếc áo, vóc dáng, tâm hồn, tính cách người con gái hài hoà với nhau, chiếc áo không chỉ là chiếc áo! Đôi lần được thấy có những phụ nữ nước ngoài yêu quý người Việt Nam, thấy vẻ đẹp của người con gái Việt Nam đã mua chiếc áo dài để mặc, tôi rất quý tấm lòng của họ, những chiếc áo dài thon thả của người con gái Việt Nam đâu có thích hợp với cơ thể đẫy đà của một số người! Bây giờ nhiều người đang cải tiến chiếc áo dài, cũng như trong lịch sử của nó đã có nhiều lần được cải tiến. Nhưng có kiểu áo thành công, được chấp nhận và gắn luôn cả tên tuổi tác giả vào đó, lại có kiểu không thích hợp, thậm chí kệch cỡm cũng gắn cả tên tuổi tác giả vào nó. Cứ tìm cách phô ra những cái gì cần che giấu, hoặc trắng trợn hoặc “ẫm ờ”, cứ tìm cách làm cho chiếc áo dài thêm cầu kỳ, 35 kiểu cách, điệu đà thì làm sao còn sự duyên dáng, nết na của người con gái Việt Nam mặc áo dài trong đời thường, nếu có chăng nó chỉ thích hợp trên các sàn diễn. Báo Sinh viên, Nhâm Ngọ, 2002 36 Ở DỰNG TƯỢNG nhiều nơi đang bàn chuyện dựng tượng. Ai sẽ là danh nhân được dựng tượng, tượng của nước ta khác gì tượng ở các nước và đắp tượng thế nào, đặt ở đâu đều là đại sự, không thể tùy tiện. Tôi thuộc loại người không am hiểu chuyện này lắm cho nên không thể ngồi chung chiếu để bàn luận, chỉ xin kể một chuyện nhỏ về một khía cạnh không nhỏ lắm chung quanh chuyện to tát này. Nhớ lại, năm 1968, tôi có một chuyến công tác đến Hunggari. Trong chuyến làm việc đó tôi có dịp tiếp xúc với lão Giáo sư Phôcốt, một nhà điêu khắc nổi tiếng của nước bạn, có nhiều tượng đài được dựng không chỉ ở Hunggari, mà ở một số nước châu Âu. Giáo sư rất quý Chủ tịch Hồ Chí Minh, muốn đắp tượng Người, nhưng đến lúc đó chưa một lần được gặp Bác. Giáo sư nói rằng, ông đã nhờ bạn bè ở nhiều nước cho xem phim ảnh và các sách viết về Bác nhưng chưa nắm bắt được ý tưởng mà đối với 37 nhà điêu khắc, xác định rõ ràng ý tưởng trước khi bắt tay vào dựng bao giờ cũng là điều quan trọng đầu tiên. Giáo sư muốn mời tôi đến thăm “xưởng” của ông để xem các mẫu và tham gia ý kiến. “Xưởng” điêu khắc của Giáo sư là một tòa nhà một tầng, mái rất cao, rộng hàng nghìn mét vuông. Giáo sư dẫn tôi đi xem có tới hơn mười mẫu tượng Bác Hồ thu nhỏ. Nhiều mẫu khá đẹp, nhưng xem ra Giáo sư vẫn chưa ưng ý mẫu nào. Xem xong, Giáo sư mời tôi uống trà ngoài hiên. Trong khi trò chuyện, Giáo sư trình bày ý tưởng của mình. Theo Giáo sư, trên thế giới này có hàng nghìn tượng danh nhân, mỗi tượng một vẻ, nhưng thực ra chỉ có vài “mô típ” cơ bản, rồi sau đó là các dòng tượng. Có “mô típ” danh nhân như là những triết gia, nhà văn hóa thể hiện dòng suy tư và những tư tưởng bao trùm không gian, vũ trụ, nhân quần. Có “mô típ” danh nhân nam chinh, bắc chiến, với hai vó ngựa chồm lên phía trước vươn tới chiến thắng. Có “mô típ” những danh nhân thuyết pháp, đang truyền bá tư tưởng của mình với công chúng... Dựng tượng Chủ tịch Hồ Chí Minh thì không thể theo hẳn một “mô típ” kinh điển nào, vì cuộc đời của Cụ có cả trong các “mô típ” đó. Giáo sư 38 nói: “Tôi đã xem hình ảnh Cụ cưỡi ngựa đi chiến dịch, nhưng lại thong dong như một nhà thơ. Tôi đã xem những hình ảnh Cụ đến với công chúng nhưng không phải đến giảng dạy, răn bảo mà là đến với những người trong cùng một gia đình, đưa ra những lời khuyên. Tôi cũng đã thấy hình ảnh Cụ bóp trán nghĩ vần thơ, nhưng lại giống như Cụ đang nghĩ đến một việc gì trong đời người... Và đặc biệt là tôi không thể dựng tượng Cụ đứng một mình. Đấy ông xem, tôi đã thử mấy mẫu Cụ đứng một mình nhưng không được, thấy lạnh lẽo quá. Cụ phải đứng với bạn bè, với con cháu mới đúng là Cụ... Ông thấy thế nào?”. Tôi thú thật với Giáo sư là tôi không am hiểu lĩnh vực này. Chỉ tỏ lòng quý trọng tấm lòng của Giáo sư, và thấy ý tưởng nghệ thuật của Giáo sư về Chủ tịch Hồ Chí Minh có phần trùng hợp với một người “ngoại đạo” là tôi. Nhân chuyện nước ta đang bàn việc dựng tượng danh nhân, đem kể mẩu chuyện này cũng là để tham khảo về sự cẩn trọng của một nhà điêu khắc lớn trên thế giới khi dựng tượng danh nhân. Báo Sinh viên, ngày 08/01/2002 39 MỖI NGƯỜI MỘT CẢNH K hông gì mừng đối với người viết khi được bạn đọc quan tâm, trao đổi ý kiến, tâm sự. Đó là tâm trạng của tôi khi nhận được thư của bạn sinh viên N. mà tôi phải giấu tên và giấu cả tên trường, vì có điều tế nhị đối với bạn đó. Đặc biệt không muốn đề cập công khai về mối quan hệ thầy trò, sinh viên với nhà trường cụ thể; chuyện đó chỉ có thể gặp riêng tâm sự. Bạn N. cho rằng “xã hội đại học”, bây giờ tuy cùng một mái trường, một sân chơi nhưng phân biệt quá rõ “giàu - nghèo”, “quê - tỉnh”, làm cho người nghèo, người ở “quê” lắm lúc tui tủi. Có một số bạn đi học là để có dịp “tiêu tiền cho bố mẹ”, ở nhà sang, đi xe sang, suốt ngày gọi điện thoại di động, tiêu tiền như những nhà doanh nghiệp thành đạt, tìm nhau mà chơi vì chỗ chơi của họ thì những bạn sinh viên nghèo không thể bén mảng tới. Còn đối với không ít bạn, “cơm áo, gạo tiền” luôn luôn là mối lo thường trực, 40 hết lo tiền đóng góp cho nhà trường lại lo nhiều khoản cho cuộc sống cá nhân, nào tiền ăn mặc, tiền sách, học thêm ngoại ngữ, vi tính... Bạn N. thân mến, Nhà nước ta và Đoàn Thanh niên luôn luôn quan tâm tới các bạn có cảnh ngộ khó khăn. “Thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục, tạo điều kiện cho người nghèo có cơ hội học tập”, “có chính sách hỗ trợ đặc biệt những học sinh có năng khiếu, hoàn cảnh sống khó khăn được theo học ở bậc học cao”,... là tư tưởng chính sách của Đảng ta, đã trở thành Nghị quyết Đại hội lần thứ IX của Đảng khi bước vào thế kỷ mới. Nhưng đúng là còn có việc thực thi các chính sách đó, và nếu có lo được thì chắc chắn cũng chỉ lo được ở mức tối thiểu, còn mỗi người một cảnh ngộ khác nhau làm sao mà có cuộc sống giống nhau. Bạn cũng đừng nên nghĩ rằng các bạn “con nhà giàu” nào cũng mải chơi mà oan cho họ. Cũng đừng mặc cảm với các kiểu tiêu xài “vung tiền qua cửa sổ” vì có hay hớm gì! Chỉ biết chắc rằng: Trước mắt các bạn học, người được tôn trọng nhất là người học giỏi, có đầu óc sáng tạo, và có cuộc sống trung thực, thủy chung với bạn bè, kính trọng thầy cô. Có những đôi bạn thân trong trường rồi thân nhau suốt đời không kể giàu nghèo. Cứ ngẫm 41 cái đời học trò của tôi và các bạn cùng lứa với tôi thì cũng thấy như thế. Bạn N. cũng tâm sự về cảnh ngộ của một số bạn, muốn gỡ cái mối bòng bong “cơm, áo, gạo, tiền”, đỡ gánh cho bố mẹ nên lao vào làm thêm, dạy thêm; do đó thời gian tự học đã hạn hẹp lại càng hạn hẹp. Theo tôi nghĩ: chuyện làm thêm, dạy thêm của các bạn sinh viên nghèo để có tiền mua sách, học thêm cũng là bình thường không những ở nước ta mà ngay ở các nước phát triển. Miễn là, làm thêm một cách chính đáng, bằng sức lực, tay nghề, trí tuệ của mình; không làm những điều phi pháp và thiếu nhân cách để kiếm tiền. Nhưng có điều là phải tính toán giữa việc làm thêm và việc học. Ở một số nước đã có những quy định cho sinh viên trong một năm học được lao động bao nhiêu giờ để kiếm thêm tiền. Nghĩa là họ cho rằng: việc làm thêm của sinh viên để có thêm thu nhập là việc làm hợp lý, hợp pháp, nhưng quy định thời gian để không ảnh hưởng tới việc học là việc quan trọng nhất của sinh viên. Vả lại, theo sự quan sát của chúng tôi khi tiếp xúc với một số bạn sinh viên Việt Nam đi du học tự túc ở Ôxtrâylia thấy không ít bạn có thời gian lao động thêm thường có những mặt trưởng thành sớm hơn 42 các bạn chỉ đóng cửa đọc sách, vì các bạn đó có điều kiện tiếp xúc với xã hội sớm hơn, nhiều hơn. Ở ta chưa có quy định về giờ lao động thêm trong một tuần của sinh viên, vì cũng chưa tính toán được. Cho nên, mỗi bạn cần tự biết, tự lo cho mình, xem làm thêm đến mức nào là phải. Đúng như bạn N. viết trong thư trao đổi ý kiến với tôi: bạn L. sau khi tốt nghiệp đã tâm sự: “Mình rất tiếc trong thời gian còn là sinh viên cứ lao đầu đi kiếm tiền, bây giờ hối hận vì thiếu hụt kiến thức!”. Bạn N. thân mến, nếu những lời tâm sự của bạn chính là cảnh ngộ bạn thì tôi chúc bạn vượt qua khó khăn. Nếu nói tới cảnh ngộ từng người, từng nhà thì còn rất nhiều cảnh ngộ éo le gấp nhiều lần mà không ít bạn đã vượt qua, học thành tài. Có lần tôi đã tâm sự: mỗi lần vượt qua thử thách, con người lại thêm trưởng thành, tự hào đã làm được những việc lớn hơn bản thân mình, để tăng thêm tự tin, mà tự tin là một phẩm chất rất quan trọng của con người khi bước vào đời. Báo Sinh viên, ngày 15/01/2002 43 N NHỊP SỐNG TỐC ĐỘ Vj TỆ NẠN ĐUA XE gười ta thường nói: Chúng ta đang sống trong một thời kỳ có những bước phát triển nhanh chưa từng có, nhịp sống của xã hội hối hả, đòi hỏi tốc độ nhanh. Nhìn trong xã hội công nghiệp, người ta thấy mọi người làm việc khẩn trương, đi nhanh hơn và ăn cũng nhanh hơn. Thậm chí có người còn đề xướng nhịp sống tốc độ như là một đặc điểm của thời kỳ mới. Điều đó có những lý do của nó. Khi mà kiến thức của loài người, như có nhà khoa học đã đề cập, tổng số kiến thức cứ 5 năm lại tăng gấp đôi. Với sự phát triển của tin học, tốc độ truyền bá thông tin tăng rất nhanh. Việc chạy đua với tốc độ càng nhanh càng tốt, để vươn lên nắm những tri thức mới của loài người là một nguyên nhân sự tồn tại và phát triển của mỗi người, mỗi cộng đồng và mỗi quốc gia. Học xong ở trong trường bước ra đời, lại tiếp tục học; những người có sức vươn lên luôn luôn cảm 44 thấy thiếu thời gian vì dù làm việc với nhịp độ nào cũng cảm thấy còn chậm. Sống trong một xã hội vận hành trong cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập kinh tế quốc tế, sự cạnh tranh sẽ ngày càng quyết liệt. Mặt hàng này hôm nay là mới, là tốt, là hợp thị hiếu, có khả năng tiêu thụ thì ngày mai có thể sẽ không còn những lợi thế đó. Cho nên áp dụng khoa học công nghệ mới, cải tiến quản lý, nắm bắt và đáp ứng thị hiếu tức thời của khách hàng là việc làm không ngơi nghỉ. Chậm chân là có thể thua cuộc, phá sản. Cho nên phải hối hả. Trong cuộc thi đua đó, thị trường sức lao động ngày càng đòi hỏi nguồn nhân lực có chất lượng cao, năng lực trí thức khoa học công nghệ mới, có kỷ luật, có sức khoẻ, luôn luôn cần cù và sáng tạo, đòi hỏi sự vươn lên gấp gáp của mỗi người để có thể ổn định việc làm, cống hiến cho đất nước ngày càng nhiều và có thu nhập ngày càng cao. Cũng là sự chạy đua tốc độ của mỗi người. Còn nếu nói về lứa tuổi thì lớp trẻ vốn là lớp người dồi dào sức sống của cái mới, của tốc độ. Nhịp sống tốc độ là trái với cách sống rề rà, đủng đỉnh, ưa nhàn nhã... không thích hợp với xã hội mới. Nhịp sống có tốc độ làm 45 cho xã hội thêm sôi động, nhưng khi nói tới tốc độ bao giờ người ta cũng nói tới giới hạn của tốc độ để bảo đảm bước đi vững chắc và an toàn, từ sự học cho đến việc đi lại. Vươn lên nắm tri thức mới, kỹ thuật mới, phải khẩn trương, nhưng phải bảo đảm nắm cho sâu, cho chắc, có thể hành động hiệu quả chứ không thể làm lướt qua. Đi lại với nhịp độ nhanh nhưng phải đúng luật pháp và giữ đúng mức độ an toàn cho phép. Không thể vin cớ nhịp sống tốc độ rồi dẫn đến làm bừa, làm ẩu, sống cẩu thả, đua xe tốc độ cao trên đường gây nguy hiểm cho mình và gây tai nạn cho nhiều người, là hành vi vượt ra ngoài kỷ cương xã hội dẫn tới phạm tội, là nỗi lo lắng của xã hội. Báo Sinh viên, ngày 10/02/2002 46 SỐNG SÂU SẮC, SAY SƯA Đ ối với thế hệ chúng tôi, khi bước chân vào cuộc đời hoạt động nghề nghiệp, luôn tâm niệm phải tìm mọi cách được xuống cơ sở, đi vào thực tiễn, vì thực tiễn là đầu nguồn của thông tin, là xuất phát của các yêu cầu và là nguồn cảm hứng sáng tạo, nghĩa là không phải ở đó chỉ là kho tàng tư liệu, đề tài, mà còn là nơi bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm, tâm hồn của mình. Sinh thời, đồng chí Phạm Văn Đồng, thỉnh thoảng đồng chí cho chúng tôi gặp và hỏi han công việc. Có một lần, khi hỏi về hoạt động của chúng tôi, tôi cũng mạnh dạn thưa với đồng chí về quyết tâm đi xuống cơ sở, đi vào thực tiễn trong hoạt động nghề nghiệp của mình. Nghe chúng tôi nói, đồng chí cười rất sảng khoái, rồi nói: “Đúng, đúng lắm. Nhưng tôi phải sửa lại một từ. Không phải “đi vào thực tiễn”, “đi xuống cơ sở” mà phải “sống trong thực tiễn”, “sống trong lòng đồng bào””. Ngừng một lát rồi đồng chí nói tiếp: “Phải sống sâu sắc và say sưa trong thực tiễn, với đồng bào!”. 47 Nói xong, đồng chí lại cười sảng khoái, như vui mừng vì vừa hoàn chỉnh một tư duy. Sau này, anh em chúng tôi cứ nhớ mãi buổi gặp mặt hôm đó, cứ nhắc nhau “sống” chứ không phải “đi”; bản thân chữ “đi”, chữ “đến” không có tội gì, nhưng đi và đến là đã thấy tách mình ra với thực tiễn, với cơ sở, với đồng bào. Rồi lại nhớ đến lời dặn của đồng chí mà chúng tôi hay nói là “5 chữ S” (sống sâu sắc, say sưa); nghĩa là phải sống tới chỗ hiểu sâu sắc bản chất sự việc và con người, sống mà say sưa, nhập thân, hứng thú, do đó mà đồng cảm. Đúng là làm được như thế thì hiệu quả công việc rất tốt. Nhưng còn cho sự lớn lên của bản thân mình như thế nào? Giật mình khi đọc được suy nghĩ của một nhà văn hóa lớn người Đức, khi ông nói: “Bản lĩnh chỉ có thể sinh ra từ trong thực tiễn đấu tranh, còn trong nhung lụa chỉ sinh ra âm mưu”. Một con người có bản lĩnh! Đó quả là sự đánh giá cao về một con người không bị những cám dỗ, mua chuộc, ép buộc mình làm trái với những gì mình cho là tốt, là đẹp trong lý tưởng và trong nhân cách. Báo Sinh viên, ngày 11/3/2002 48 N LÁ PHIẾU ỦY QUYỀN hân dân ta sắp đi bầu để bầu cử các đại biểu Quốc hội khóa XI, khóa đầu của thế kỷ thứ XXI. Trong cơ chế dân chủ có dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện. Dân chủ trực tiếp là cử tri trực tiếp quyết định nhiệm vụ và bầu ra các cơ quan lãnh đạo. Dân chủ đại diện là bầu ra những người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của mình trong các cơ quan quyền lực nhà nước, mà Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Bầu ra các đại biểu Quốc hội của nước ta theo phương pháp bầu cử trực tiếp, nghĩa là công dân trực tiếp thể hiện qua lá phiếu của mình chứ không qua một cấp đại diện cử tri nào, mà một số nước gọi là “đại cử tri” để các “đại cử tri” đó bầu ra đại biểu Quốc hội. Chọn lựa để bầu ra người đại diện cho quyền làm chủ của mình là một việc rất hệ trọng của công dân. Năm tiêu chuẩn đại biểu Quốc hội quy định trong Luật bầu cử đại biểu Quốc hội là những tiêu chuẩn về chính trị, 49 đạo đức, năng lực, mối quan hệ với nhân dân... là những tiêu chuẩn cần có để những người đại biểu được bầu có thể đại diện trung thành và làm việc có hiệu quả, thể hiện ý chí và nguyện vọng của cử tri, bảo đảm phát triển đất nước theo định hướng vì lợi ích của Tổ quốc và nhân dân. Đại biểu Quốc hội là người đại diện cho quyền lực của nhân dân. Nghĩa là nhân dân chọn mặt gửi vàng trao quyền của mình cho người đại diện của mình qua lá phiếu. Giữa người trao quyền và người nhận quyền bao giờ cũng có sự cam kết. Sự cam kết quan trọng nhất là người đại diện đó trong phạm vi trách nhiệm của mình trong việc xây dựng luật pháp, thực hiện quyền giám sát tối cao và quyết định những việc lớn của đất nước phải bảo đảm: Phát huy sức mạnh của toàn dân tộc, tiếp tục đổi mới, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Trước mắt, phải bảo đảm phát triển kinh tế cao và bền vững, giữ vững hòa bình, ổn định chính trị, đẩy lùi tệ tham nhũng, lãng phí, quan liêu, mất dân chủ, ngăn ngừa các tệ nạn xã hội, bảo vệ môi trường. 50 Không đủ phẩm chất và năng lực để đảm nhiệm sự ủy thác, cam kết đó thì người dân có quyền rút sự ủy nhiệm của mình với đại biểu đó theo luật định. Trong hoạt động xã hội, bao giờ người được trao quyền cũng phải chịu sự giám sát của người trao quyền, tức là nhân dân, để tránh lộng quyền, lạm quyền, hoặc vì một lý do nào đó không có khả năng hoàn thành nhiệm vụ được trao. Giám sát tối cao thật sự phải là quyền giám sát của nhân dân; nhưng việc đó không chỉ là lời tuyên bố, mà phải có cơ chế cụ thể, rõ ràng để cử tri giám sát người mình bầu ra, khi thì góp ý biểu dương, phê bình, khi cần thiết thì rút quyền ủy nhiệm. Làm được như thế thì tuy là thực hiện cơ chế dân chủ đại diện nhưng quyền lực vẫn thuộc về nhân dân, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Bao nhiêu lợi ích đều vì dân, bao nhiêu quyền hạn đều của dân”. Và người đại biểu được bầu phải luôn luôn có trách nhiệm trước nhân dân, với cử tri bầu ra mình. Báo Sinh viên, ngày 06/5/2002 51 C NHỚ BÁC ông tác ở báo Nhân Dân, thỉnh thoảng tôi được anh Hoàng Tùng (Tổng biên tập) cử đi công tác theo Bác Hồ, nhất là khi Bác đi công tác vùng nông thôn. Đó là vinh dự trong cuộc đời viết báo của tôi. Sau này, khi được ghi chép hồi ký của anh Lê Văn Lương là đồng chí được Bộ Chính trị cử làm Trưởng ban bảo vệ sức khỏe của Bác, chúng tôi mới biết tình hình sức khỏe của Bác, chứ lúc đó chúng tôi không hề biết gì, vì đó là bí mật quốc gia1. Nhưng quan sát những lần đi công tác năm đó chúng tôi đã thấy Bác rất yếu; đặc biệt là có buổi mít tinh, Bác ngồi sẵn trên Đoàn Chủ tịch rồi người ta mới kéo màn che ra, rất khác với tác phong linh hoạt, giản dị, gần gũi mọi người của Bác. Với linh tính nghề nghiệp, chúng tôi biết như vậy cho nên rất thương Bác và rất lo cho sức khỏe của Bác. _________ 1. Một phần hồi ký của anh Lê Văn Lương đã đăng trên báo Nhân Dân với đầu đề: Những ngày cuối cùng của Bác. 52 Mồng một Tết Kỷ Dậu (tháng 02/1969), tôi được tòa soạn cử đi theo Bác trồng cây. Bác ra lời kêu gọi Tết trồng cây ngày 28/11/1959, cho nên Tết này là Tết trồng cây thứ 10. Chúng tôi đã có kinh nghiệm đi công tác theo Bác, nghĩa là phải ăn mặc giản dị và phải chuẩn bị mọi thức ăn, đồ uống khi cần thiết để khỏi phiền hà ai. Cho nên tôi mặc chiếc quần tây, nhưng khoác trên mình chiếc áo bông xanh, mặc dù là ngày Tết. Tết đó, Bác trồng cây trên đồi Đồng Váng, Vật Lại, Sơn Tây. Trời đầu năm đó ấm, sáng ra có chút nắng nhưng Bác đi đã phải có người dìu. Bác trồng cây xong cùng mọi người quần tụ dưới tán cây nói chuyện ấm cúng. Bác hỏi chuyện cụ Chu Công Tự về đời sống dân làng; hỏi chuyện chị Đỗ Thị Soạn trưởng thành từ phong trào “Trai, gái Đại Phong” lúc đó là Bí thư Đảng ủy xã Tòng Bạt; hỏi chuyện Chủ nhiệm Hợp tác xã Đồng Thịnh. Bác dặn dò: “Phải dân chủ với dân. Phải để dân phê bình cán bộ, đảng viên”, “Cán bộ không nên tổ chức liên hoan, chè chén làm thiệt hại của dân”. Bác dặn: “Cán bộ phải hết lòng phục vụ nhân dân, phải mở rộng dân chủ và chăm lo đời sống nhân dân, không được tham ô, lãng phí. Đảng ta trước đây chỉ có ít đồng chí nhưng nhờ biết dựa vào nhân dân, 53 hết lòng chăm lo đến đời sống nhân dân cho nên được nhân dân hết lòng ủng hộ. Chi bộ đoàn kết nhất trí, lại được nhân dân ủng hộ thì việc lớn mấy cũng làm được”. Bây giờ, ngồi viết lại những dòng này, những chữ trong ngoặc kép là chép ra từ bài tường thuật đăng trên báo Nhân Dân, ngày 18/02/1969. Cách đó gần nửa tháng, nhân dịp kỷ niệm Ngày thành lập Đảng, Bác Hồ cho công bố bài báo Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân, như một Di chúc chính trị của Bác cùng với bản Di chúc lịch sử. Tôi cứ nghĩ, các việc đó đều có quan hệ với nhau trong một thời điểm, khi Người luôn luôn quan tâm tới việc “trồng người”, dặn dò cán bộ, đảng viên. Đó là “Tết trồng cây” cuối cùng của Bác Hồ. Trên đường về, các nhà quay phim lão thành Quang Huy và Hồng Nghi, những nhà báo đã nhiều lần được cầm máy đi công tác theo Bác hỏi tôi: “Ông Thọ thấy Tết trồng cây năm nay có gì mới?”. Hình như các bạn cũng linh tính điều gì đó! Tôi nói ý nghĩ của mình với các bạn đồng nghiệp: “Mình rất quan tâm lúc Bác nói chuyện, dặn dò cán bộ, đảng viên dưới tán cây rừng!”. Sau đó hai tháng, tháng 4/1969, tôi lại được cử viết tường thuật Bác Hồ đi bầu cử 54 Hội đồng nhân dân quận Ba Đình, khóa V. Đơn vị Bác bầu cử là đơn vị số 4 ở Nhà thuyền Hồ Tây. Bác đi lại vẫn phải có người dìu. Bác đến xem danh sách, lý lịch các ứng cử viên; rồi xếp hàng đưa thẻ cử tri nhận phiếu. Một số đồng chí và bà con cử tri xin mời Bác lên nhận phiếu trước nhưng Bác không nghe, nói: “Cụ nào, bác nào, cô chú nào xếp hàng trước nhận phiếu trước. Bác xếp hàng sau, nhận sau”. Khi Bác vào phòng bỏ phiếu, nhà quay phim Ma Cường xông tới giơ máy lên ghi hình. Bác quay lại nói: “Các chú không được vào đây. Chỗ này là phòng kín để nhân dân ghi phiếu bầu, các chú phải tuân theo luật pháp”. Không phải là chúng tôi không biết luật pháp, nhưng Ma Cường, tôi cũng như nhiều bạn đồng nghiệp ngày hôm đó không muốn bỏ sót một cử chỉ nào của Bác. Đó là lần đi bầu cuối cùng của Bác. Những chữ trong ngoặc kép cũng là chép ra từ bài tường thuật trên trang nhất báo Nhân Dân; ghi lại như lời dặn của Bác với chúng tôi. Bác Hồ là nhà báo cách mạng lớn nhất của nước ta. Bác bận trăm công nghìn việc nhưng vẫn viết 1.205 bài báo với 23 bút danh khác nhau cho báo Nhân Dân. Sáng nào Bác cũng xem báo đều đặn và khen những bài báo tốt, 55 phê bình những bài báo không tốt, cắt bài nêu gương người tốt việc tốt, cho kiểm tra, nếu đúng thì khen thưởng. Có một chuyện mà chúng tôi cứ nhớ mãi. Thông thường, cuối năm nào báo Nhân Dân cũng tập hợp những bài báo của Bác viết để trả nhuận bút cho Bác. Bác không dùng tiền nhuận bút để chi tiêu cho cá nhân, mà chia ra mấy phần để mua quà Tết cho các cháu thiếu nhi, tặng phẩm biếu các cụ cao tuổi. Một năm, báo làm nhuận bút chậm, thế là Bác gọi điện xuống nhắc: “Các chú quên trả nhuận bút cho Bác thì chắc rằng các chú đã quên trả nhuận bút của nhiều người!”. Bác là lãnh tụ của Đảng, của dân tộc, nhưng Bác luôn luôn muốn giữ ngòi bút nhà báo ngay khi giữ các trọng trách. Tôi cứ nghĩ mãi về những tác phẩm quan trọng của Bác Hồ khi Bác đã là Chủ tịch Đảng, Chủ tịch nước. Loạt bài báo ký tên X. Y. Z vào đầu những năm kháng chiến lần thứ nhất, sau đó in thành tập Sửa đổi lối làm việc (tháng 10/1947) là sách gối đầu giường của cán bộ, đảng viên về đạo đức, phong cách cho đến ngày nay lại ký bút danh một nhà báo. Tết trồng cây là một phong trào lớn được phát động như một “mỹ tục” mới của dân tộc bảo vệ môi trường sống, cũng từ một bài của Bác ký 56 bút danh Trần Lực đăng trên báo Nhân Dân, ngày 28/11/1959. Bài báo Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân như một Di chúc chính trị của Bác đăng trên báo Nhân Dân, ngày 03/02/1969, trước khi Bác qua đời 7 tháng, cũng ký bút danh T.L... Với các nội dung quan trọng đó, Bác Hồ có thể nhân danh lãnh tụ để ra chỉ thị, viết lời hô hào, bài giảng, nhưng Bác lại dùng bút danh để viết báo cổ vũ đồng bào, khuyên răn cán bộ. Tôi thấy Bác Hồ đánh giá rất cao nghề báo, mà chúng tôi đã làm báo nhưng nhiều khi vẫn chưa hiểu hết vị trí quan trọng và trách nhiệm nặng nề của nghề này. Trong cuộc đời làm báo của mình, có một số lần được theo Bác, nhưng thật ngẫu nhiên tôi được theo Bác trồng cây trong “Tết trồng cây” cuối cùng của Bác, theo Bác tường thuật buổi đi bầu cử làm nghĩa vụ công dân cuối cùng của Bác, và cũng là người được tòa soạn giao tường thuật Lễ tiễn biệt Bác. Đó không chỉ là kỷ niệm, mà còn để lại những bài học không thể nào quên! Theo Bác đi công tác, thấy làm việc vất vả, có mấy lần được Bác thưởng cho chiếc kẹo, điếu thuốc lá. Nhưng cũng có lần bị Bác phê bình. Nhớ một buổi đi công tác theo Bác thăm 57 đồng ruộng vụ đông xuân ở tỉnh Hà Đông. Thấy Bác bước chân xuống ruộng thăm bà con đang cấy, tôi rất lúng túng ở trên bờ cởi dây giày, vì lúc đó chưa có “giày lười”; ở trên bờ, càng luống cuống, cởi giày càng lâu. Xong việc, Bác nói: “Chú phóng viên này đi công tác mà không sẵn sàng. Đi với Bác là đi công tác chứ không phải đi chơi mà ăn diện”. Vào năm Bác mất, tôi sinh con thứ ba. Nhớ Bác, tôi đặt tên con là Nhân Nghĩa. Cũng là tiếp nối “đạo nhân nghĩa” của Nguyễn Trãi. Đặt tên con bao giờ cũng là một việc hệ trọng, thường thể hiện sự mong ước của bố mẹ với đứa bé và cuộc sống gia đình. Sinh cháu đầu lòng vào tháng 7/1962, giữa lúc miền Bắc mưa úng lớn, gần 20 nghìn hécta lúa bị ngập. Đêm đó tôi giở Vân đài loại ngữ của cụ Lê Quý Đôn ra đọc thấy cụ mô tả giống lúa Dự Hương vừa thơm ngon vừa chịu được úng ngập, cho nên đặt tên cháu là Dự Hương, ước mong nó vượt qua mọi phong ba bão táp mà lớn lên. Sinh con thứ hai năm 1965, đất nước còn rất nhiều khó khăn, lấy hai chữ Hoàng Miên - một giống bông tốt ở Tây Bắc, đặt tên cho con, mong có cơm no, áo ấm. Lần này, nhớ Bác, đặt tên con là Nhân Nghĩa, mong các con sống cho đúng đạo làm người, không chỉ có no ấm mà phải có tấm 58 lòng với nhau, với gia đình, với dân tộc, đất nước, để không chỉ ấm no mà còn hạnh phúc. Sau đó, trong hoạt động nghề nghiệp, để nhớ Bác, tôi lại ký thêm bút danh Nhân Nghĩa trong một số tiểu phẩm. Báo Sinh viên, ngày 13/5/2002 59 C “TRÊN TIỀN” ác nhà ngôn ngữ học thường cho rằng, ngôn ngữ ngày càng phong phú, ngày càng có thêm từ mới, nghĩa mới do sự sáng tạo của nhân dân. Mà sự sáng tạo từ mới, nghĩa mới nào cũng bắt nguồn từ thực tế cuộc sống. Và mỗi dân tộc lại có cách sáng tạo riêng của mình. Khi bắt nhập vào nền kinh tế thị trường, con người thường quan tâm tới lợi ích cá nhân, tính toán “lỗ lãi”; đồng tiền đang trở thành một thứ “thước đo” của nhiều giá trị. Và dân ta đã sáng tạo ra câu nói theo kiểu đồng dao về “đồng tiền”. “Tiền là tiên là Phật, là sức bật của cuộc đời, là tiếng cười của tuổi trẻ, là sức khỏe của ông già...”. Câu đó còn kéo theo một lô một lốc dài dài những thứ nó có thể “mua” được; chẳng thế mà đâu đó đã có người nói: “Cái gì cũng có giá!”. Sự mua, bán bây giờ thường ngã giá bằng tiền, bằng kim loại quý, khi là tiền “đồng”, khi là “đô”, khi tính thành “chỉ”, thành “cây”, thành “cara”... Nhưng gần đây, trong ngôn ngữ 60 dân gian lại có từ trên tiền. Nếu nói rằng, một từ mới nào xuất hiện cũng góp phần miêu tả một hiện tượng xã hội mới nào đó, thì có cái gì định giá chính xác hơn cả tiền được gọi là “trên tiền”. Đây là một vấn đề rất phức tạp vượt ra ngoài phạm vi khoa học tài chính - tiền tệ. Tại diễn đàn kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa X, tôi đã xin phép được nói lên sự hiểu biết của mình về cái từ mới đó. Nghĩa là người ta có thể bỏ ra một khoản rất nhiều tiền để mua cái “trên tiền”, nghĩa là mua chức tước, chạy tội lỗi. Mua được “chức tước” nào đó thì họ nghĩ rằng có thể làm ra nhiều hơn cả tiền bỏ ra mua vì đã bắt đầu có khái niệm quyền lực đẻ ra sở hữu do các hành vi tiêu cực của một số quan chức, cho nên có thể gọi là “trên tiền”. Chạy được tội thì cũng là một khoản “thu” về lớn hơn cả số tiền bỏ ra “chạy” án tù, vì “nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngoại”, không tiền nào có thể tính nổi. Chắc là không chỉ có như vậy. Đồng tiền nào cũng có mệnh giá của nó. Nhưng nếu họ làm được những việc như tôi đã nêu thì thật sự họ đã bỏ ra cái có giá để mua được cái vô giá, là lương tâm, danh dự, sự tin cậy của con người và phẩm giá của một số cán bộ công chức. Vì đã có một số người dại dột 61 đem “bán” cái vô giá của mình trong nhân cách để lấy cái có giá cầm trong lòng bàn tay. Đối với mỗi người, những thứ vô giá đó mới thực là “trên tiền”. Mang cái “trên tiền” mà đổi lấy tiền là sự dại dột vô cùng, không chỉ làm phá sản một doanh nghiệp mà còn làm bại hoại cả một đời người, làm ô danh một dòng họ. Báo Sinh viên, ngày 20/5/2002 62 KHI LỚP TRẺ GIỎI N ăm 1993, nước ta đăng cai giải Cờ vua lứa tuổi dưới 16 khu vực châu Á, ở Hải Phòng. Đây là lần đầu tiên chúng ta đăng cai một giải thi đấu một môn thể thao quốc tế của khu vực. Cho nên chúng ta lo cho chu đáo để vừa lòng bạn bè, nhưng là nước chủ nhà chúng ta phải phấn đấu có giải để không phụ lòng những người yêu Cờ trong cả nước, vừa để chứng tỏ cho bạn bè năm châu về tiềm năng to lớn của dân tộc ta. Đó là nỗi lo chung của cả Ban Chấp hành Hội Cờ, của địa phương đăng cai mà lúc đó tôi là Chủ tịch Hội. Thế rồi, nhờ sự giúp đỡ của mọi người trong Ban tổ chức, của các vận động viên, của địa phương, mọi việc đều tới đích tốt đẹp. Cuộc thi được tổ chức rất thành công, để lại dấu ấn rất sâu sắc với vận động viên các nước dự giải. Vận động viên nước ta đoạt một số giải, lại có cả giải vàng hẳn hoi. Chúng tôi mừng lắm. Nhưng cũng bảo nhau: “Đây mới là vàng trẻ”, “vàng trẻ con”, chưa có gì ghê gớm lắm, chưa vội tự mãn. 63 Giải cho người lớn, giải chuyên nghiệp mới quan trọng. Con đường còn gian nan, còn rất dài ở phía trước. Cuối cuộc thi, tôi gặp ông Ignatius Long, người Xingapo, Tổng trọng tài quốc tế, người được Tổ chức Cờ thế giới cử đến giám sát cuộc thi. Trong câu chuyện thân mật, tôi hỏi ông: “Làm sao có thể có những vận động viên giỏi ở lứa tuổi người lớn?”. Ông trả lời: “Nước ông đã có một lớp kỳ thủ trẻ giỏi. Theo kinh nghiệm lâu năm của tôi thì nước nào trẻ giỏi thì tương lai sẽ là quốc gia giỏi. Cốt tạo điều kiện cho các em có thầy giỏi và có dịp cọ xát với nhiều cao thủ của thế giới”. Ông kể cho tôi nghe một câu chuyện. Theo dõi giải này, ông thấy một bé gái, người Huế, đã có thứ hạng trong cuộc thi, tuy chưa đoạt giải cao nhất, nhưng có những tư duy rất sắc sảo, sáng tạo trong các nước đi, tương lai sẽ tiến rất xa. Ông ngỏ ý mời em đó sang Xinhgapo, vừa học tập thêm vừa tham gia huấn luyện cho các em nhỏ tuổi hơn ở các câu lạc bộ, có thu nhập gấp nhiều lần ở Việt Nam và điều kiện sống thì đàng hoàng hơn rất nhiều lần ở quê em. Và cũng sẽ mau chóng trở thành kiện tướng Cờ vì sẽ gặp nhiều thầy giỏi và có nhiều dịp cọ xát. Ông không 64 ngờ em đó trả lời: “Xin cảm ơn ông. Em muốn học tập để cùng các bạn trở thành kiện tướng Cờ ở quê hương Việt Nam của em, và thi đấu dưới màu cờ sắc áo Việt Nam trên các cuộc thi quốc tế!”. Sau khi kể chuyện đó với tôi, ông nói: “Nghe câu em đó trả lời, tôi nghĩ bụng: các ông có lớp trẻ tài năng, lại có ý chí vì Tổ quốc. Chắc rằng không lâu nữa, Việt Nam sẽ là một đất nước có nền Cờ ở bậc khá của thế giới...”. Câu chuyện đó, tôi đã viết trên báo vào dịp Tết Trung thu năm đó; bài báo đã được nhiều người viết thư hoan nghênh. Tuy nhiên, phải thú nhận rằng, khi viết bài đó, tôi cũng coi như để an ủi mình và động viên phong trào Cờ của nước ta, nhưng trong thâm tâm cũng không dám nghĩ tới những điều ông bạn đã nói. Vì lúc đó, đất nước còn khó khăn, chúng ta thiếu tiền, thiếu thầy..., nghĩa là thiếu đủ thứ cho việc rèn luyện kỳ thủ tài năng ở tầm cao thế giới. Thế rồi, nhờ sự quan tâm của các cấp, của Hội Cờ, đặc biệt là sự phấn đấu không mệt mỏi và lòng tự tin của các huấn luyện viên, vận động viên, mọi việc đến sớm hơn tôi nghĩ. Em bé trong câu chuyện đó đã là nữ kiện tướng Cờ vua của nước ta và thế giới, quê ở Thừa Thiên - Huế, 65 đã nhiều lần thi tài có thứ hạng trên các sân chơi chuyên nghiệp quốc tế. Và phong trào Cờ của nước ta đã có những đại kiện tướng thế giới và cũng không thể gọi là “vô danh” trong các cuộc thi tài. Báo Sinh viên, ngày 01/7/2002 66 A PHÁ NGANG nh bạn vong niên của tôi có một đứa con trai. “Thời trẻ, anh tham gia hoạt động cách mạng từ sớm, học hành không đến nơi đến chốn, cho nên hai vợ chồng quyết chí nuôi con ăn học, ít nhất phải có một bằng đại học. Cháu học hành cũng khá, nhưng học tài thi phận, cho nên một năm, rồi hai năm thi đại học đều không đỗ. Đến năm thứ ba, cháu chán nản, điểm thi càng thấp. Anh chị buồn lắm”. Lúc đó, chúng tôi cũng chưa hiểu được nhiều chuyện như ngày nay, nhưng cũng có lời khuyên để anh chị đỡ buồn: “Thế thì cho cháu đi học công nhân kỹ thuật, hoặc trung học chuyên nghiệp”. Hỏi ý kiến cháu thì cháu có vẻ chán đời, nói: “Đã không vào được đại học thì không đi học trung học chuyên nghiệp, đi học hẳn công nhân kỹ thuật”. Cũng may, cháu là người có chí, cho nên học hành vào loại khá, kết thúc khóa học là có việc làm ngay. Làm việc lại chăm chỉ, cháu vừa làm vừa học, thoắt cái đã đỗ kỹ sư, mà không phải 67 chỉ một bằng đại học, lại những hai, một bằng kỹ thuật, một bằng kinh tế. Cứ túc tắc từ hiệu quả công việc mà tiến lên. Vừa rồi cháu lại thăm vợ chồng tôi. Thì ra cháu đã được đề bạt Giám đốc một doanh nghiệp Nhà nước cũng vào loại “đứng được”. Cháu đến để hỏi tôi: “Cơ quan tổ chức gợi ý đề bạt cháu lên làm Phó Vụ trưởng một Vụ kỹ thuật của Bộ vì cháu vừa có kiến thức kỹ thuật, vừa có kiến thức quản lý, lại vừa có ngoại ngữ. Cháu có nên nhận lời không?”. Tôi hỏi cháu: - Sao cháu lại đến hỏi chú? - Bố cháu bảo: Bố đã yếu rồi, ít giao thiệp, không hiểu hết việc đời. Con nên đến hỏi chú. Chú đã góp ý đúng cho con một lần rồi, thì lần này chắc cũng đúng. Cứ theo chú mà làm! Tôi buồn cười nói với anh bạn trẻ (vì bây giờ không thể gọi một giám đốc là cháu được): “Lần trước chú gợi ý với bố cháu không phải có hiểu biết gì nhiều đâu, chỉ vì bí quá. Nhưng thành đạt như hôm nay lại chính là cháu. Giả dụ cháu không có ý chí thì làm sao được như ngày nay. Cho nên bây giờ là tùy cháu. Trước đây bố cháu chép miệng cho cháu “phá ngang”, nhưng có rẽ ngang đâu mà “tiến lên” đấy chứ”. Báo Sinh viên, ngày 12/8/2002 68 TIÊU DÙNG Vj XÃ HỘI TIÊU DÙNG S ống trên đời này, con người không chỉ lao động mà còn tiêu dùng. Ít nhất thì mọi người cũng phải đủ ăn, đủ mặc để đủ sống mà lao động. Cuộc sống mỗi ngày một tiến lên, nhu cầu tiêu dùng của con người ngày một nhiều và phong phú. Tiêu dùng cá nhân và gia đình lại trở thành một động lực quan trọng để mỗi người làm việc ngày một nhiều hơn, tốt hơn, có hiệu quả hơn. Người lao động cần cù, giỏi giang, sáng tạo phải ngày một giàu hơn, do đó nhu cầu tiêu dùng của họ cũng ngày một phong phú, đa dạng, sang trọng hơn. Ngay trong một quốc gia, có lúc phải “kích thích tiêu dùng” để kích thích lao động, kích thích sản xuất. Như vậy, tiêu dùng là một nhu cầu thiết yếu và ngày càng tăng của con người. Nhưng có bạn viết thư hỏi tôi: “Vì sao có khái niệm xã hội tiêu dùng với nghĩa không tốt đẹp, và chỉ số tiêu dùng đến mức nào thì gọi là xã hội tiêu dùng?”. Đây là một câu hỏi rất lý thú. “Xã hội tiêu dùng”, 69 “xã hội tiêu thụ” (viết trong ngoặc kép) là một khái niệm được dùng để cảnh báo một xu thế của một số xã hội mà nhiều nhà nghiên cứu kinh tế - xã hội cho là một xã hội không lành mạnh; nhưng tiêu chí của nó như thế nào thì hình như chưa có câu trả lời thống nhất. Theo tôi hiểu, xã hội nào cũng có tiêu thụ và tiêu dùng, nhưng khi gọi là “xã hội tiêu dùng”, “xã hội tiêu thụ”, thì có nghĩa ở đó tiêu dùng đang chi phối đời sống xã hội. Ở đó, tiêu dùng, chủ yếu là những hàng xa xỉ, đắt tiền, vượt quá mức làm ra. Người ta thường nói tới căn bệnh của một số nước đang phát triển chưa qua mức nghèo, nhưng có đủ các loại hàng xa xỉ (chưa kể các thứ độc hại) không thua kém, thậm chí còn cao hơn một số nước giàu. Ngay ở một số nước gọi là “con rồng nhỏ” cũng được một số nhà khoa học cảnh báo về tình trạng một lớp người, nhất là lớp trẻ chỉ quan tâm tới tiêu dùng, thay “mốt” hằng ngày, thậm chí còn học đòi các “ngôi sao” thế giới có thu nhập vài triệu đôla/năm, ít quan tâm tới nghiên cứu, lao động sáng tạo phát triển đất nước, chính đó là mối họa làm giảm động lực phát triển đất nước. Ở đây không phải là tiêu dùng kích thích lao động, mà tiêu dùng kích thích tiêu dùng, 70 con người đua đòi tiêu dùng vượt quá khả năng làm ra; và để có tiền thỏa mãn các nhu cầu phi lý đó họ làm bất cứ việc gì, kể cả tội ác. Do đó tệ nạn xã hội phát triển, không những làm tê liệt ý chí mà còn hủy hoại cả sức lực, nhân cách con người và băng hoại xã hội. Tôi không đưa ra những đánh giá về xã hội ta, chỉ góp phần bàn luận để các bạn đánh giá xã hội và con người mình. Người ta vẫn thường nói, một xã hội, một gia đình phát triển lành mạnh, vững chắc, xét về mặt thu chi là một xã hội, một gia đình tiêu dùng trong phạm vi thu nhập chính đáng và có một chút tích lũy đề phòng những lúc rủi ro. Làm ít tiêu nhiều, còn gọi là “bóc ngắn, cắn dài” sẽ tiềm tàng những hiểm họa. Báo Sinh viên, ngày 23/9/2002 71 XÂM LĂNG VĂN HÓA Lj GÌ C ó bạn viết thư hỏi tôi: “Có khái niệm xâm lăng văn hóa hay không? Ai đưa ra khái niệm này?”. Tôi hiểu băn khoăn của một số bạn, cho rằng đó là khái niệm do một số người bịa ra để ngăn ngừa quá trình giao lưu văn hóa quốc tế. Trước khi trao đổi ý kiến về vấn đề hệ trọng này, có lẽ phải nói vòng vo một chút. Trong quá trình giao lưu văn hóa, dân tộc ta luôn luôn tiếp thu tinh hoa văn hóa thế giới để làm phong phú văn hóa truyền thống của mình, như tiếp nhận hệ mẫu chữ Latinh hình thành chữ quốc ngữ, tiếp nhận những loại hình nghệ thuật mới như kịch nói, ôpêra... Từ một xã hội nông nghiệp tiến lên xây dựng xã hội công nghiệp, chắc chắn sẽ có những giá trị mới, tập quán mới được bổ sung vào hệ giá trị, tập quán truyền thống dân tộc. Ngay sau ngày thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, tháng 11/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Ta phải giữ cốt cách dân tộc, còn 72 phương Đông hay phương Tây có cái gì hay, cái gì tốt thì phải học lấy để tạo ra nền văn hóa Việt Nam”. Nghĩa là cùng với việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc phải mở rộng giao lưu để học hỏi cái hay, cái tốt, cái tiến bộ của các nền văn minh thế giới. Học cái hay, cái mới của người ta để làm giàu bản sắc của mình, chứ không phải tha lôi cái xấu, cái rác rưởi, độc hại về, không phải đua đòi, sao chép trở thành “cái bóng” của người. Có giữ được bản sắc dân tộc mới có thể giao lưu với thế giới vì trên đời này không ai cần giao lưu với cái “bóng” của mình. Đó là quan điểm của Đảng ta ngày nay, cũng là truyền thống của sự phát triển văn hóa Việt Nam. Hội nhập kinh tế quốc tế, giao lưu văn hóa thế giới là một tất yếu. Đóng cửa, khép kín là trì trệ. Nhưng trong quá trình hội nhập và giao lưu, với sức mạnh vật chất, ưu thế khoa học - công nghệ, nắm các phương tiện truyền thông đại chúng hùng hậu, có nước cho là chỉ có giá trị của nền văn hóa nước mình mới gọi là giá trị, sử dụng nhiều sức ép cùng với nghệ thuật quảng cáo để áp đặt các quan niệm giá trị của mình cho các dân tộc khác, mà có học giả gọi là “tính ngạo mạn văn hóa”. Khái niệm “chủ nghĩa đế quốc 73 văn hóa” ra đời từ đó, vào cuối thế kỷ XX. Tôi cũng chưa biết ai là người nói ra đầu tiên khái niệm đó, nhưng đọc sách được biết rằng nhà văn hóa học James Pétras đã nói: “Chủ nghĩa đế quốc văn hóa đóng vai trò quan trọng để tách rời nhân dân khỏi cội rễ văn hóa và truyền thống đoàn kết của họ”. Sự xâm lăng ở đây không phải bằng súng đạn, mà chủ yếu bằng kỹ thuật truyền thông, quảng cáo và sức ép về kinh tế, quân sự tác động vào nhu cầu tìm sự mới lạ, trước hết trong giới trẻ. Đầu tiên, nói như Neyre, nhà văn hoá, nguyên Tổng thống Tanzania: “Tội ác tệ hại nhất của chủ nghĩa thực dân về văn hóa là mưu toan làm cho chúng ta tin rằng chúng ta không có một nền văn hóa bản địa, hoặc nếu có thì cũng không có giá trị gì”. Do đó làm cho một số người sùng ngoại, quên đi hoặc coi thường văn hóa dân tộc mình, trở thành “người nước ngoài trong nước mình” như có nhà văn hóa thế giới chua xót nói như vậy. Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội ta, trước hết là hệ thống giá trị của nó. Đó là lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng, lòng nhân ái, bao dung, cần cù và sáng tạo trong lao động, tế nhị trong ứng xử, giản dị 74 trong lối sống... Chắc chắn trong thời kỳ mới, những giá trị mới sẽ được bổ sung, nhưng “cốt cách dân tộc” như Bác Hồ đã nói phải luôn luôn giữ gìn. Báo Sinh viên, ngày 04/11/2002 75 CÁC THẦY TÔI B ố mẹ tôi đều là người lao động chân lấm tay bùn, chưa bao giờ được cắp sách tới trường nhưng vẫn luôn luôn dạy tôi phải kính trọng thầy cô; bản thân các cụ cũng luôn luôn kính trọng thầy, cô giáo dạy tôi. Phải chăng, cái đạo lý quý trọng thầy cô ở bố mẹ tôi không từ một mối quan hệ thầy - trò cụ thể nào trong đời các cụ mà bắt nguồn từ truyền thống dân tộc, từ đạo lý ứng xử của xã hội. Thuở nhỏ, học tiểu học, có thầy tận tụy, dịu dàng răn bảo học trò, có thầy nóng nẩy hay mắng mỏ, thậm chí còn cầm roi quất vào tay, vào mông khi trò viết chữ xấu hoặc không thuộc bài (thời đó không ai nói gì về chuyện bạo lực này). Thú thật, không phải mọi thầy tôi đều yêu, nhưng nhớ lời bố mẹ, tôi không bao giờ dám hỗn xược với thầy cô. Không chỉ kính trọng thầy cô dạy lớp tôi, mà khi gặp các thầy, cô dạy các lớp khác trong trường, tôi đều lễ phép chào hỏi, nhường bước. Gần đây, ở Hà Nội, trong buổi gặp mặt 76 các bạn cùng học trường tiểu học Bờ Sông (Hà Nội) (nay là trường Trần Nhật Duật, thuở đầu năm 1940), nay đã ở lứa tuổi trên dưới 70, chúng tôi đều nhớ tới các thầy đã có công khai tâm, dạy những chữ, những nghĩa đầu tiên trong đời mình. Lớn lên, học trung học ở trường Bưởi rồi trường Phan Thanh, chúng tôi đã vào tuổi trưởng thành, biết phân biệt đúng, sai, tốt, xấu. Chúng tôi cũng phân biệt thầy dạy giỏi, thầy dạy kém, thầy dạy tận tụy, thầy dạy cho hết giờ. Sự giao lưu tình thầy trò đậm nhạt khác nhau nhưng có những thầy không bao giờ chúng tôi quên như các thầy Hoàng Như Mai, Nguyễn Tường Phượng... không chỉ vì những bài giảng hay, được chuẩn bị tận tình, công phu mà còn vì nhân cách của các thầy như những tấm gương đã theo chúng tôi đi suốt cuộc đời. Còn lên bậc đại học, thế hệ “xếp bút nghiên lên đường tranh đấu” như chúng tôi, không được học nền nếp như các bạn khác, mà chủ yếu vừa làm vừa học trong các lớp hàm thụ ban đêm, nhưng các bài giảng của các thầy Hoàng Như Mai, Hoàng Xuân Nhị, Đinh Gia Khánh, Nguyễn Trác... còn để lại cho tôi những ấn tượng sâu sắc cho tới bây giờ... 77 Trên bước đường trưởng thành, được giao một số trách nhiệm xã hội, phải xử lý nhiều việc phức tạp, nhưng có một việc mà tôi không bao giờ quên. Vào năm 64 tuổi, vào cái tuổi mà người ta muốn yên ổn, nhưng tôi lại phải có ý kiến về một việc mà tôi không muốn làm. Tuy rằng tôi không chủ trì nhưng theo trách nhiệm phải có ý kiến về một cuốn sách có liên quan tới người thầy mà tôi rất kính trọng cả về phẩm chất lẫn kiến thức. Tôi phải sắm một lễ mọn đến thăm thầy, thưa với thầy những ý kiến mà ngày mai tôi phải phát biểu. Tôi chắc thầy không đồng ý với tôi, nhưng thầy cũng không tranh luận lại. Điều tôi lo lắng đã không xảy ra, vì thầy không giận tôi; vì thầy hiểu rằng tuy có những ý kiến khác nhau kể cả khác với ý kiến thầy, vì bên cạnh tình thầy trò còn có cách tiếp cận chân lý khác nhau, nhưng tôi vẫn là đứa học trò luôn luôn kính trọng thầy. Vì vào tuổi này, khi gặp thầy, tôi vẫn xưng hô “thầy, con” như thuở còn học trung học, tôi còn dắt con, bây giờ đã là cán bộ nhà nước, tới chào thầy, không chỉ vì sự kính trọng thầy mà còn vì muốn nó sống tốt, sống có đạo lý, sống có nghĩa với thầy cô giáo dạy nó và dạy con nó. Báo Sinh viên, ngày 18/11/2002 78