"
Chuyện Người Tùy Nữ PDF EPUB
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Chuyện Người Tùy Nữ PDF EPUB
Ebooks
Nhóm Zalo
Margaret Atwood sinh năm 1939 ở Ottawa, lớn lên tại miền Bắc Ontario, Quebec và Toronto, lấy bằng cử nhân Đại học Toronto và bằng thạc sĩ Havard. Dù ban đầu nổi tiếng ở quê nhà qua tác phẩm khảo sát-nghiên cứu Survival: A Thematic Guide to Canadian Literature (“Sống sót: Tiếp cận văn học Canada theo hướng chủ đề”, 1972), bà lại chinh phục công chúng văn học Anh ngữ trước hết bằng thơ ca, và sau này, bằng những tiểu thuyết dày dặn và độc đáo.
Tuổi thơ trong những cánh rừng Canada với người cha là một nhà côn trùng học, niềm ham thích từ nhỏ đối với thần thoại và cổ tích, cộng với tâm thế một “người đàn bà-trí thức” lớn lên cùng thời kỳ với làn sóng nữ quyền thứ hai, tất cả đã để lại dấu ấn trong cách lựa chọn chủ đề của Atwood. Nhưng lối viết sắc bén mà hóm hỉnh hấp dẫn là tài sản của riêng bà. Trong số 13 cuốn tiểu thuyết đã và sắp xuất bản của bà, 5 cuốn đã từng được để cử Booker: The Handmaid’s Tale (“Chuyện người Tùy nữ’, 1985), Cat’s Eye (“Mắt mèo”, 1988), Alias Grace (“Còn gọi là Grace”, 1996), The Blind Assassin (“Tay sát thủ mù”, Booker 2000), Oryx and Crake (“Linh dương và gà nước”, 2003). Tính tổng thể các giải thưởng từng nhận được, Atwood đứng đầu các tiểu thuyết gia được tôn vinh theo ước tính của Awardannals.com.
Chuyện người Tùy nữ là tác phẩm được biết đến rộng rãi nhất của Margaret Atwood, đã dịch ra gần 30 thứ tiếng, được đưa lên màn ảnh năm 1990 (kịch bản Harold Pinter, đạo diễn Volker Schlondorff) và sân khấu opera năm 2000 nhờ nhà soạn nhạc Đan Mạch Poul Ruders. Được coi là một trong những sách kinh điển của văn học hiện đại và là tác phẩm bắt buộc trong nhiều trường phổ thông Âu-Mỹ, cuốn sách cũng đồng thời không ngớt gây
ra tranh cãi do ngôn từ táo bạo, cốt truyện nhiều ẩn ý và sự tấn công trực diện vào một số hệ giá trị đã bắt rễ sâu xa.
Dành tặng Mary Webster và Perry Miller
Khi bà Rachel thấy mình không sinh con cho ông Jacob thì ghen với chị và nói với ông Jacob: “Cho tôi có con đi, không thì tôi chết mất!”
Ông Jacob nổi nóng với bà Rachel và nói: “Tôi đâu có thay quyền Thiên chúa là Đấng đã không cho bà sinh đẻ!”
Bà nói: “Đây Bilhah, nữ tỳ của tôi, ông hãy đi lại với nó, để nó sinh con trên đầu gối tôi, và nhờ nó mà cả tôi nữa, cũng có con.”
Sáng thế ký 30:1-3
Nhưng về phần tôi, đã mòn mỏi tháng năm đề xuất những ý tưởng ngông cuồng, vô lý, vẩn vơ, và rốt cuộc đã tuyệt vọng không mong chờ thành công nữa, tôi chợt may mắn tìm ra kiến nghị này...
Jonathan Swift, Kiến nghị khiêm nhường
Trong sa mạc đâu có dấu hiệu rằng, Ngươi không được ăn đá. Ngạn ngữ Sufi
I – Đêm
1
Chúng tôi ngủ ở nơi từng là nhà thể chất. Sàn bằng gỗ đánh vecni, sơn những vòng tròn và vạch thẳng cho các trận đấu ngày xưa; các vành bóng rổ còn nguyên đó, dù lưới thì mất rồi. Một dãy bao lơn dài chạy dọc bốn bức tường, là nơi dành cho khán giả, và tôi cảm giác còn ngửi thấy, mơ hồ như một dư ảnh, mùi mồ hôi nồng nồng, điểm hơi kẹo cao su và nước hoa từ đám con gái đứng xem, mặc váy nỉ – tôi thấy trên phim – rồi theo thời gian đến váy mini, quần dài, cuối cùng xỏ khuyên một bên, tóc phẩy lai xanh vuốt keo lỉa chỉa. Có lẽ các vũ hội cũng tổ chức ở đây: tiếng nhạc còn lưu lại, bản chép chồng những lớp thanh âmkhông người nghe, điệu này phủ lên điệu khác, nhịp trống chìm lẫn, tiếng than van thê thiết, những tràng hoa làm từ giấy thấm, mặt nạ quỷ bằng bìa, quả cầu kính trên trần quay chầm chậm, rắc xuống các đôi nhảy từng chùm hoa ánh sáng.
Khi ấy trong phòng có mùi ân ái cũ và nỗi cô đơn, và niềm mong ngóng, chờ một cái gì không hình dạng cũng không tên gọi. Tôi còn nhớ nỗi mong mỏi ấy, mong một điều gì luôn luôn ở ngay phía trước và luôn luôn mới lạ, như những bàn tay đã đặt trên mình ở nơi đó, vào lúc đó, trên hõm lưng, hay xa hơn, trong bãi để xe, hay trong phòng đặt ti vi đã vặn nhỏ tiếng, chỉ còn hình ảnh chập chờn hắt lên xác thịt đang động cựa.
Chúng tôi mong mỏi tới tương lai. Từ đâu mà ra cái tài năng ấy, cái sự không bao giờ thỏa nguyện ấy? Nó vờ vẫn trong không trung; và nó vẫn còn giữa không trung, như một ý nghĩ đến muộn, khi chúng tôi cố dỗ giấc ngủ, trên giường gấp quân nhu xếp từng dãy, cách nhau một khoảng để ngăn ý đồ trò chuyện. Giường trải ga bằng vải giả flannel, như của trẻ con, và chăn đắp cũng hàng quân dụng, những tấm chăn cũ vẫn còn dấu U.S. Quần áo được gập gọn gàng đặt trên ghế đẩu cuối giường. Đèn lờ mờ nhưng không tắt hẳn. Dì Sara và dì Elizabeth lượn lờ giám sát, roi điện thúc bò lủng lẳng đầu dây nịt lưng da.
Nhưng súng thì không, ngay họ cũng không giao súng vào tay được. Súng là của riêng đám gác, là các Thiên sứ được cẩn trọng chọn ra. Đám gác không được vào trong ngôi trường trừ khi được triệu, còn chúng tôi không
được phép ra, trừ những chuyến đi dạo hai lần mỗi ngày, theo hàng đôi vòng quanh sân bóng đá, đã rào lại bằng lưới mắt cáo chăng thép gai. Bên ngoài các Thiên sứ đứng, xây lưng lại. Họ gây ra nỗi sợ hãi, và nhen cả những nỗi khác trong chúng tôi. Giá mà họ quay nhìn. Giá mà chúng tôi nói được với họ. Có thể trao đổi gì đó, chúng tôi hình dung, xác lập một thỏa thuận, một cuộc mua đi bán lại, chúng tôi vẫn còn thân thể mình. Mơ tưởng của chúng tôi là thế.
Chúng tôi đã học cách thầm thì gần như không ra tiếng. Trong bóng lờ mờ chúng tôi có thể đưa tay ra, khi các dì không để ý, chạm vào nhau qua khoảng trống giữa các giường. Chúng tôi học cách đọc lời trên môi nhau, má áp sát giường, nằm nghiêng sang bên, nhìn miệng nhau mấp máy. Bằng cách ấy những cái tên được truyền đi, từ giường này qua giường khác.
Alma. Janine. Dolores. Moira. June.
II – Mua sắm
2
Một ghế, một bàn, một đèn. Tít trên trần quét vôi trắng, một vòng hoa đắp nổi, chính giữa là khoảng trống hoác trát thạch cao, như hố rỗng trên mặt nơi con mắt đã bị lấy đi. Đây hẳn từng treo một bộ đèn chùm, lúc trước. Người ta đã bỏ đi tất cả những gì có thể dùng buộc dây vào.
Một cửa sổ, hai rèm trắng. Dưới là bệ cửa đặt cái gối tựa nhỏ. Khi cửa sổ mở hé – chẳng bao giờ mở hơn – gió lùa vào làm tấm rèm lay động. Tôi có thể ngồi trên ghế, hay trên bệ cửa, tay khoanh lại ngắm cảnh này. Nắng cũng vào qua cửa, rớt xuống nền nhà, bằng gỗ, ghép từng tấm hẹp, đánh xi bóng loáng. Tôi ngửi thấy được mùi xi. Sàn trải thảm, hình ô van, bện bằng giẻ. Họ thích lối chấm phá ấy: thủ công dân gian, hơi cổ, do phụ nữ làm, trong lúc rảnh rỗi, bằng những thứ vứt đi. Trở về với giá trị truyền thống. Không phí phạm sẽ không thiếu thốn. Tôi đâu bị lãng phí đi. Sao còn không đủ?
Trên tường phía trên ghế, một tranh, có khung nhưng không kính: vẽ hoa, diên vỹ xanh, màu nước. Hoa vẫn được cho phép. Có phải chúng tôi đều có tranh như nhau, ghế như nhau, rèm trắng như nhau? Hàng quân dụng?
Cứ coi như đang trong quân ngũ đi, dì Lydia bảo.
Có một giường. Giường đơn, đệm cứng vừa, ga trắng nhồi bông tái chế. Giường chẳng để làm gì khác ngoài việc ngủ – hoặc mất ngủ. Tôi cố gắng không nghĩ quá nhiều. Như mọi thứ lúc này, nghĩ cũng phải phân phối. Có rất nhiều thứ không nên mất công nghĩ. Nghĩ ngợi có thể ảnh hưởng tới cơ may, mà tôi thì muốn tồn tại. Tôi biết tại sao không có kính, che bức màu nước hoa diên vỹ, và tại sao cửa sổ lại chỉ mở hờ, lại dùng kính không vỡ. Không phải họ sợ bỏ trốn. Đằng nào cũng chẳng đi được xa. Mà sợ lối thoát kia, lối thoát chúng tôi có thể mở được trong mình, chỉ cần vật có cạnh sắc.
Thế. Ngoài những điểm đó, đây cũng giống như phòng khách ở trường đại học, dành cho thứ khách tầm xoàng nhất; hay một phòng trọ, thời xưa, cho các quý bà trong hoàn cảnh sa sút. Như là chúng tôi bây giờ đây. Hoàn cảnh sa sút cả rồi, ấy là với ai vẫn còn hoàn cảnh.
Nhưng mà ghế, nắng, và hoa: không nên chối. Tôi còn sống, tôi sống, tôi hít thở, tôi duỗi bàn tay, xòe rộng, vươn vào ánh nắng. Nơi tôi ở không phải nhà tù, mà là một đặc ân, dì Lydia bảo vậy, trung thành với công thức hoặc hoặc của mình.
Chuông báo giờ đang reo. Ở đây giờ báo bằng chuông, như tu viện ngày xưa. Cũng như tu viện, gương chẳng có mấy.
Tôi đứng lên khỏi ghế, bước chân vào nắng, trong đôi giày đỏ, đế bằng, để bảo vệ cột sống chứ không phải để nhảy. Đôi găng đỏ nằm trên giường. Tôi nhặt lên, đi vào tay, từng ngón một. Mọi thứ trừ đôi cánh hai bên mặt tôi đều đỏ: màu của máu, dấu hiệu của bọn tôi. Váy phồng chấm mắt cá, nịt bụng phẳng cao đến ngực, tay dài trùm kín. Cả đôi cánh trắng cũng là hàng đặc dụng: để chúng tôi không thấy được, nhưng cũng không bị thấy. Tôi mặc đồ đỏ không đẹp, không hợp gì tôi. Tôi nhặt giỏ hàng lên, khoác vào cánh tay.
Cánh cửa phòng này – không phải phòng tôi, tôi không nói phòng tôi – không khóa. Nói cho đúng là không đóng được. Tôi ra hành lang đánh bóng, giữa có thảm dài, màu hồng pha xám. Như lối mòn xuyên rừng, như thảm nhung cho nguyên thủ, nó đưa đường tôi đi.
Tấm thảm ngoặt góc đi xuống cầu thang trước và tôi xuống theo, trượt tay theo tay vịn, xưa từng là cây, đốn xuống vào một thế kỷ xưa hơn, đã cọ đến bóng nhoáng. Victorian hậu kỳ, nhà cho cả gia đình, một gia đình lớn, giàu có. Sảnh có cây đồng hồ ông nội, sẻn ra từng tí thời giờ, tiếp là cửa dẫn đến phòng nghỉ chính dáng dấp mẹ hiền, phảng phất màu xác thịt. Một phòng nghỉ chưa bao giờ tôi được ngồi hay nằm nghỉ, chỉ quỳ hoặc đứng. Ở đầu kia sảnh, bên trên cửa chính, một cửa sổ bán nguyệt kính màu: hình hoa, đỏ và xanh.
Vẫn còn một gương, trên tường trong sảnh. Nếu quay cổ sao cho hai cái cánh giới hạn xoay trường nhìn thẳng vào đó, sẽ thấy được nó khi xuống thang, tròn, lồi, dài bằng người, như mắt con cá, thấy tôi trong đó một cái bóng méo mó, không biết để nhái giễu gì – một nhân vật cổ tích choàng khăn đỏ, đang xuống dần đến một giây phút bất cẩn cũng ngang với hiểm nguy. Một Xơ, nhúng trong máu.
Cuối cầu thang có giá treo mũ và ô, bằng gỗ uốn, những thanh dài tròn cuộn nhẹ gá vào các móc trông như lá dương xỉ non đang duỗi. Vài cái ô bỏ đó: đen, của Chủ soái, lam, của Phu nhân Chủ soái, và cái dành cho tôi, màu đỏ. Tôi để cái ô đỏ yên, bởi nhìn qua cửa thấy trời hôm nay nắng. Tôi tự hỏi Phu nhân Chủ soái có trong phòng nghỉ không. Không phải lúc nào bà ta cũng nghỉ. Thỉnh thoảng tôi nghe tiếng bà đi đi lại lại, một bước nặng rồi một bước nhẹ, và tiếng cây can khẽ gõ trên thảm màu hồng đào sắc tro.
Tôi đi dọc sảnh, qua cửa phòng nghỉ và cửa dẫn vào phòng ăn, mở cửa cuối sảnh mà vào bếp. Không còn mùi xi gỗ nữa. Rita ở đây, đứng bên bàn bếp, mặt tráng men trắng mẻ mép. Chị mặc bộ áo thường lệ của Martha, màu lục xỉn, như áo choàng phẫu thuật thời xưa. Kiểu giống áo tôi, dài và kín mít, nhưng thêm tạp dề yếm và không có cánh trắng hay mạng trùm. Chị chỉ trùm mạng khi ra ngoài, nhưng có ai thấy mặt các chị Martha cũng chẳng sao. Tay áo xắn đến khuỷu, lộ cánh tay nâu. Chị đang làm bánh mì, ném từng ổ bánh để nhào sơ lần cuối đợi vào khuôn.
Thấy tôi Rita gật đầu, khó biết chào hay chỉ ra dấu biết tôi có đó, và chùi hai bàn tay đầy bột vào tạp dề để lục ngăn bếp tìm sổ phiếu. Mày cau lại, chị xé ra ba tờ đưa tôi. Khuôn mặt chị nếu cười chắc sẽ hiền hậu. Nhưng cái nhíu mày không nhằm vào cá nhân tôi: là chị khó chịu với cái áo đỏ, và cái ngụ ý của nó. Chị nghĩ tôi có thể lây lan, như bệnh dịch hoặc một thứ điềm gở.
Thi thoảng tôi có nghe lỏm ngoài cánh cửa đóng kín, một việc ngày xưa tôi không đời nào làm. Tôi không nghe lâu, bởi không muốn bị bắt quả tang. Tuy nhiên, có lần tôi nghe Rita nói với Cora, chị sẽ không cho phép mình thấp kém tới mức ấy.
Ai thèm hỏi chị? Cora nói. Mà nữa, chị sẽ làm gì, trong trường hợp ấy? Tới khu Kiều dân, Rita nói. Họ được quyền chọn.
Với đám Phế nữ, cùng chịu chết đói và Chúa biết những gỉ những gì nữa ư? Cora nói. Thôi xin chị.
Họ đang lột vỏ đậu; sau lần cửa đóng gần kín tôi vẫn nghe thấy tiếng những hạt đậu cứng rơi leng keng vào bát sắt. Tôi nghe tiếng Rita, làu nhàu hoặc thở hắt, phản đối hay đồng tình.
Sao đi nữa, họ làm thế cũng chỉ vì chúng mình, Cora nói, hoặc ít ra họ bảo vậy. Nếu tôi không thắt rồi, biết đâu chẳng đến lượt tôi, ấy là giá sử tôi trẻ lại mười năm. Không tệ đến thế đâu. Ít ra đâu có gì gọi là nặng nhọc.
Thà nó còn hơn tôi, Rita nói, và tôi đẩy cửa. Trên mặt họ hiện cùng cái vẻ của mọi đàn bà mải cuộc ngồi lê nghĩ đối tượng chắc đã nghe thấy: lúng túng, nhưng cũng có vẻ tự vệ, quyền của họ đấy chứ. Hôm đó, Cora tử tế với tôi hơn, Rita cáu kỉnh hơn mọi bận.
Hôm nay, kệ cho Rita mặt kín bưng, môi mím chặt, tôi vẫn muốn ở lại đây, trong bếp này. Cora có thể sẽ vào, từ ngóc ngách nào đó trong nhà, mang theo bình dầu chanh và giẻ, và Rita sẽ pha cà phê – trong nhà các Chủ soái vẫn còn có cà phê ra cà phê, và chúng tôi sẽ ngồi quanh bàn bếp của Rita, cũng chẳng phải của Rita, giống như bàn của tôi chẳng phải của tôi, và cùng nói chuyện, về nhức nhối và đau đớn, bệnh tật, bàn chân, cái lưng, mọi thứ trò tai quái cơ thể ưa nghĩ ra, như đám trẻ ngỗ nghịch. Chúng tôi sẽ gật gật đầu điểm nhịp cho lời những người kia, tỏ dấu rằng vâng, chúng tôi cũng qua hết mọi thứ đó. Chúng tôi sẽ bày cho nhau phương thuốc và đua nhau kể những khốn khổ thể xác; sẽ than phiền khẽ khàng, điệu thứ, u sầu như bồ câu trên máng đầu hồi. Tôi hiểu chị sao mà, chúng tôi bảo vậy. Hoặc có khi, một lối nói kỳ cục đôi lúc vẫn nghe thấy, ở miệng người già: Tôi nghe ra chị đến từ đâu, như thể bản thân giọng nói cũng là một lữ khách, từ nơi xa xôi lặn lội tới. Mà rồi sẽ như thế, mà nay như thế thật.
Trước tôi khinh những cuộc trò chuyện kiểu thế biết bao. Giờ tôi mong mỏi. Ít nhất cũng là trò chuyện. Là một kiểu trao đổi, ấy thế.
Hoặc chúng tôi buôn tin. Các chị Martha biết tất, nhờ những câu chuyện giữa họ với nhau, bản tin phi chính thống truyền nhà này qua nhà khác. Cũng như tôi, họ rình nghe ở cửa, đã hẳn, và nhìn thấu cả dù mắt xéo đi chỗ khác. Tôi đã đôi lúc nghe thấy, bắt chợt từng mẩu các cuộc chuyện riêng của họ. Thai lưu, thật đấy. Hoặc, Đâm cô ả bằng kim đan, ngay đúng bụng. Lòng ghen, còn gì nữa, đã nuốt chửng bà ta rồi. Hoặc, trêu ngươi không chịu được, Đúng là dùng nước cọ toa lét đấy. Công hiệu như thần, dù ai cũng nghĩ ông ta phải nếm nó rồi. Chắc say đáo để rồi; nhưng họ cũng truy ra cô ta ngay thôi.
Hoặc tôi sẽ giúp Rita làm bánh mì, nhúng ngập tay trong cái chất ấm mềm quanh quánh rất giống da thịt. Tôi thèm được đụng chạm đến điên lên, bất
cứ thứ gì không phải vải cũng không phải gỗ. Tôi thèm phạm phải hành vi đụng chạm.
Nhưng cho dù tôi mở miệng hỏi, dù tôi có phạm giới đến mức đó, Rita cũng sẽ không chấp thuận. Nỗi sợ của chị quá lớn. Các chị Martha không được phép huynh hảo với chúng tôi.
Huynh hảo, fraternize, có nghĩa là xử sự như anh em với nhau. Chính Luke cho tôi biết thế. Anh còn nói không có từ tương ứng để chỉ xử sự như chị em với nhau. Sororize, nếu có chắc là vậy, anh nói. Gốc từ La tinh. Anh ưa tìm hiểu những thứ tỉ mẩn như thế. Quá trình phái sinh từ ngữ, những cách dùng đặc thù. Tôi thường trêu chọc anh vì cái thói tầm chương ấy.
Tôi cầm mấy tờ phiếu từ bàn tay Rita đang chìa xa ra. Trên phiếu có hình vẽ, giá trị tờ phiếu đổi được: một tá trứng, miếng pho mát, một thứ nâu nâu hiểu là thịt nướng. Tôi bỏ hết vào túi khóa kéo trên ống tay áo, cùng với tờ thông hành.
“Bảo lấy loại tươi, trứng ấy,” chị nói. “Không phải như lần trước đâu. Và nhớ là thịt gà non, bảo thế, không phải gà mái. Cứ bảo lấy cho ai rồi nó sẽ không dám lờn.”
“Nhớ rồi,” tôi nói. Tôi không cười. Đem tình bạn cám dỗ chị ta làm gì chứ?
3
Tôi ra bằng cửa sau, vào vườn, rộng và sạch: bãi cỏ chính giữa, cây liễu, đám đuôi sóc rủ buồn; quanh mép vườn những luống hoa, thủy tiên vàng đang úa, uất kim hương he hé búp, màu lênh láng ra ngoài. Những đóa hoa màu đỏ, sậm hơn về gốc cánh, như vết cắt đang bắt đầu liền miệng.
Vườn đây là lãnh địa của Phu nhân Chủ soái. Từ cửa kính không vỡ của mình nhìn ra tôi thường thấy bà ta trong đó, quỳ trên gối tựa, mạng màu lam sáng vắt qua mũ làm vườn rộng vành, bên người một giỏ lớn đựng kéo xén cây và dây để buộc hoa vào đúng thế. Một Vệ binh phân riêng cho Chủ soái này gánh việc đào bới, Phu nhân Chủ soái chỉ đạo, cầm cây can dài chỉ trỏ. Rất nhiều Phu nhân có những mảnh vườn thế này, có cái mà xếp đặt, chăm nom, coi sóc.
Tôi từng có một mảnh vườn. Tôi còn nhớ mùi đất xới lên, những củ hoa bụ bẫm trong hai bàn tay khum, cảm giác nằng nặng, hạt giống loạt xoạt đổ qua kẽ tay. Thời gian trôi như thế nhanh hơn. Đôi lúc Phu nhân Chủ soái cho mang ghế ra, và cứ ngồi thế, trong vườn của mình. Nhìn từ xa trông như là bình an.
Giờ bà không ở đây, và tôi bắt đầu nghĩ xem bà ta ở đâu: tôi không khoái thình lình đụng phải bà. Có thể đang khâu, trong phòng nghỉ, chân trái gác trên ghế đẩu, do chứng thấp khớp mãn tính. Hoặc đang đan khăn, cho các Thiên sứ trên tiền tuyến. Tôi khó mà tin các Thiên sứ lại cần mấy cái khăn đó; mà dù sao, khăn của Phu nhân Chủ soái làm cũng quá cầu kỳ. Bà không màng mẫu chữ thập và sao như hầu hết các Phu nhân khác, làm thế không xứng tài. Dọc hai đuôi khăn bà đan sắp hai hàng cây vả, hay chim đại bàng, hay những hình nhân cứng đờ tí xíu, con trai con gái, con gái con trai. Không phải khăn của người lớn mà của lũ nhóc con.
Đôi lúc tôi nghĩ khăn ấy chẳng phải gửi cho Thiên sứ, mà sẽ tháo tung ra rồi trả lại về những cuộn len, chờ đến lượt đan lại từ đầu. Có thể chỉ để các Phu nhân có cái mà bận rộn, có một mục đích cho ngày tháng. Nhưng tôi ganh tị với trò đan lát của Phu nhân Chủ soái. Có những mục tiêu nho nhỏ dễ dàng đạt được, tốt biết mấy.
Bà ta ganh tị tôi gì đây?
Bà ta không nói chuyện với tôi, trừ khi bắt buộc. Tôi là lời trách móc sống, và là nhu cầu thiết yếu của bà ta.
Bà và tôi đối diện nhau lần đầu năm tuần trước, khi tôi đến nhận nhiệm sở. Người Vệ binh ở nhiệm sở cũ đưa tôi tới cửa trước. Những ngày đầu chúng tôi được phép đi cửa trước, nhưng sau phải dùng cửa phụ. Mọi việc vẫn chưa ổn định, vẫn còn quá sớm, người ta vẫn còn do dự về chuyện xác định địa vị chúng tôi. Ít lâu nữa sẽ là cửa sau cả, hoặc cửa trước cả.
Dì Lydia có nói đang vận động hậu trường cho cửa trước. Các cô ở một vị thế danh dự, dì bảo thế.
Người Vệ binh bấm chuông cửa cho tôi, nhưng ước chừng chưa kịp cho ai đó nghe thấy mà ra cửa, cánh cửa đã mở vào trong. Bà ấy chắc đã đợi sẵn, tôi nghĩ một chị Martha sẽ ra, nhưng lại là bà ta, trong tấm váy dài màu lam, không nhầm được.
Vậy cô là người mới, bà nói. Bà không bước sang bên cho tôi vào, mà cứ đứng đó chặn cửa. Bà muốn tôi hiểu rõkhông được vào nhà trừ khi bà cho phép. Có những trò kèn cựa kiểu ấy, thời buổi này, về những chuyện cỏn con như thế.
Vâng, tôi đáp.
Cứ để lại hiên. Bà nói với Vệ binh, đang xách túi của tôi. Túi bằng vinyl đỏ, không to. Còn một túi nữa, đựng áo rét và những đồ dày, nhưng sau mới đến.
Người Vệ binh đặt túi xuống và cúi chào bà ta. Rồi tôi nghe tiếng chân dội sau lưng, ngược trở lại lối vào, tiếng cổng trước đánh cạch, và cảm thấy như cánh quân yểm hộ vừa được lệnh rút lui. Ngưỡng cửa nhà mới luôn là một nơi cô độc.
Bà ta đợi đến khi xe rồ máy rời đi. Tôi không nhìn lên mặt bà, mà vào phần thân thể còn thấy được khi đầu đang cúi: cái eo lưng lam, bó dày; bàn tay trái đặt trên đầu can bằng ngà; những hạt kim cương lớn trên ngón nhẫn, hẳn một thời đẹp lắm và giờ vẫn được giữ gìn rất đẹp; trên ngón tay có các khớp lồi, móng dũa thành một hình cung uốn nhẹ. Trông như một nụ cười giễu cợt, nằm trên ngón; như cái gì đó đang nhạo báng bà ta.
Cô có thể vào được, bà ta nói. Bà quay lưng khập khiễng đi vào trong sảnh. Nhớ đóng cửa khi vào.
Tôi nhắc túi đỏ vào trong, rõ là ý định của bà, rồi đóng cửa. Tôi không nói gì với bà. Dì Lydia bảo tốt nhất là không mở miệng trừ phi được hỏi đích danh. Hãy thử đặt mình vào vị trí họ xem, dì nói, hai tay bắt vào nhau vặn vẹo, nụ cười van lơn căng thẳng. Với họ chuyện này không dễ dàng gì.
Trong này, Phu nhân Chủ soái nói. Khi tôi vào tới phòng nghỉ bà đã ngồi vào ghế rồi, chân trái gác ghế đẩu, trên cái gối tựa thêu mũi nhỏ, hoa hồng trong giỏ. Đồ đan trên sàn cạnh ghế, cắm kim đan chĩa lên.
Tôi đứng trước bà, hai tay khoanh. Vậy đấy, bà nói. Bà đang cầm điếu thuốc lá, và đặt lên môi mà bậm chặt trong khi châm lửa. Môi bà mím vậy rất mỏng, viền môi vẽ ra những đường dọc mảnh thường thấy trong quảng cáo son. Bật lửa màu ngà. Thuốc lá chắc mua chợ đen, tôi nghĩ, và bắt đầu hy vọng. Kể cả không còn tiền mặt nữa, ít nhất vẫn còn chợ đen. Luôn luôn có chợ đen, luôn luôn có gì đó đem trao đổi được. Vậy bà là một người có khả năng phớt luật. Nhưng tôi có gì để đổi chác đây?
Tôi nhìn điếu thuốc nôn nao. Với tôi, cũng như rượu và cà phê, thứ này bị cấm.
Già đến mức cái ấy không làm việc nữa, bà ta nói.
Dạ, thưa phu nhân, tôi nói.
Bà buông một tiếng vẻ như cười, rồi ho. Bất hạnh cho ngài, bà ta nói. Với cô là lượt thứ hai, phải không?
Thứ ba, thưa phu nhân, tôi nói.
Không may cho cả cô nữa, bà nói. Lại thêm một tràng cười kèm ho nữa. Cô ngồi xuống đi. Tôi không hay làm thế, nhưng lần này ngoại lệ.
Tôi ngồi xuống thật, ghé vào mép chiếc ghế tựa lưng thẳng đơ. Tôi không muốn giương mắt khắp phòng, không muốn tỏ ra lơ đễnh trước bà; bệ lò sưởi hoa cương ngay bên phải cùng tấm gương bên trên và mấy bó hoa thành ra chỉ chập chờn trong khóe mắt. Rồi đây tôi sẽ có thừa thời gian mà ngắm nghía.
Giờ mặt bà đã ngang tầm mắt tôi. Tôi cảm giác nhận ra bà, hoặc ít nhất cũng thấy có gì rất quen. Có thể nhìn thấy một phần mái tóc, ló ra dưới tấm
mạng trùm đầu. Vẫn còn màu vàng. Lúc đó tôi đã nghĩ có thể bà nhuộm vàng, nghĩ thuốc nhuộm tóc là một món khác kiếm được từ chợ đen, nhưng tới giờ thì biết là vàng thật. Lông mày tỉa thành hai vòm cung mảnh, khiến mặt thường trực mang vẻ ngạc nhiên, hay công phẫn, hay dò hỏi, như một đứa trẻ thảng thốt, nhưng hai hàng mi bên dưới lại trông mệt mỏi. Đôi mắt thì không thế, màu xanh trơ trơ thù nghịch như bầu trời giữa hạ trong nắng gắt, thứ màu ngăn chặn mọi sự xâm nhập sâu hơn. Mũi bà chắc xưa thuộc loại mi nhon nhưng bây giờ quá nhỏ so với mặt. Mặt bà không béo, nhưng to ngang. Hai nếp từ khóe miệng nhệch xuống, giữa là cái cằm, siết lại như nắm đấm.
Tôi muốn phải thấy cô càng ít càng tốt, bà ta nói. Tôi hy vọng cô cũng nghĩ tương tự về tôi.
Tôi không trả lời, vì vâng sẽ là xúc phạm, còn không là trái ý.
Tôi biết cô không ngu, bà ta tiếp. Bà hít vào, thở phì khói ra. Tôi đã đọc hồ sơ. Với tôi, đây hoàn toàn là một vụ giao dịch. Nhưng nếu gặp rắc rối, tôi sẽ trả lại đủ. Cô hiểu chứ?
Vâng, thưa phu nhân, tôi nói.
Đừng gọi tôi là phu nhân, bà ta gắt. Cô không phải Martha.
Tôi không hỏi cần gọi bà ta là gì, bởi dễ thấy bà hy vọng tôi sẽ không có cơ hội thưa gửi gì với bà nữa. Tôi phiền muộn. Khi ấy tôi đã muốn bà thành chị gái, thành một hình ảnh mẹ, một người sẽ thấu hiểu và bảo vệ tôi. Phu nhân ở nhiệm sở trước hầu như chỉ ở rịt trong phòng, các chị Martha bảo bà ta nghiện rượu. Tôi muốn lần này sẽ khác. Tôi muốn hình dung mình sẽ yêu được bà, giả thử là trong một không thời gian khác, một cuộc đời khác. Nhưng tôi đã thấy trước tôi sẽ không yêu bà, cũng như bà với tôi.
Bà ta dụi điếu thuốc, mới hút một nửa, trong một gạt tàn chạm trổ trên bàn để đèn bên cạnh. Cử chỉ rất quả quyết, dúi xuống rồi ấn mạnh, không phải gõ gõ kiểu cách như phần nhiều các Phu nhân.
Còn về chồng tôi, bà ta nói, ngài chỉ là thế. Chồng tôi. Tôi muốn điều này tuyệt đối rõ ràng. Chỉ cái chết chia lìa. Chấm hết.
Vâng, thưa phu nhân, tôi lặp lại, quên bẵng chuyện lúc nãy. Ngày xưa từng có cái gọi là búp bê, cho các cô gái nhỏ, mở miệng nói khi giật sợi dây đằng lưng; tôi nghĩ giọng mình cũng giống vậy, một giọng máy móc, một giọng
búp bê. Hẳn bà rất thèm vả vào mặt tôi. Họ có thể đánh chúng tôi, đã có tiền lệ chép trong sách thánh. Nhưng không được dùng gì cả. Chỉ dùng tay thôi.
Đó là một trong những thành quả đấu tranh của chúng ta, Phu nhân Chủ soái nói, và đột ngột không nhìn tôi nữa, mà nhìn xuống bàn tay nổi cục, khảm kim cương, và tôi biết đã thấy bà ở đâu.
Lần đầu là trên ti vi, hồi tôi lên tám hay chín gì đó. Đó là thời mẹ tôi thường ngủ nướng, mỗi sáng Chủ nhật, còn tôi dậy sớm chạy đến bên ti vi trong phòng làm việc của mẹ, chuyển hết kênh này đến kênh khác tìm xem hoạt hình. Đôi khi không có, tôi xem chương trình Phúc âm “Linh hồn đang lớn”, có chuyện Kinh thánh kể cho trẻ con và thánh ca. Trong các bà trên đó có một người tên Serena Joy. Bà dẫn bè nữ cao. Tóc vàng tro, nhỏ nhắn, mũi hếch, mắt to xanh mỗi lúc hát lại ngước lên trời. Bà có thể khóc cười cùng lúc, một hai giọt lệ lăn xuống má yểu điệu, như thể chực sẵn, trong khi giọng hát vút lên tới nốt cao chót vót, rung rẩy, như không. Phải sau này bà mới chuyển sang theo đuổi thứ khác.
Người ngồi trước mặt tôi đây là Serena Joy. Ít ra là ngày xưa. Vậy là chuyện tệ hơn tôi tưởng.
4
Tôi bước theo con đường rải sỏi rẽ đôi bãi cỏ sân sau, gọn ghẽ, như đường ngôi tóc. Đêm qua có mưa; cỏ hai bên lẹp nhẹp, không khí âm ẩm. Đây đó giun đất trồi lên, bằng cứ đất rất màu, bị nắng bẫy được, đã chết dở; nhũn nhẽo hồng hồng, như là môi.
Tôi đẩy cánh cổng cọc rào trắng và đi tiếp, qua bãi cỏ sân trước thẳng tới cổng. Trên lối xe vào, một trong những Vệ binh phân cho gia hộ đang rửa xe. Nghĩa là Chủ soái có nhà, trong văn phòng mình, đằng sau phòng ăn, nơi ông ta hình như ngồi cả ngày.
Xe thuộc loại cực đắt, một chiếc Gió lốc; khá hơn loại Xe ngựa, vượt xa chiếc Trâu đầm lực lưỡng, lùn bè. Xe màu đen, tất nhiên, màu riêng đánh dấu đặc quyền hay tang chế, dài và bóng loáng. Tài xế áp miếng da thuộc lướt qua toàn thân xe, âu yếm. Ít ra cái đó chưa đổi, cách đám đàn ông chăm chút xe ngon.
Anh tài mặc cùng cảnh phục Vệ binh, nhưng cái mũ kéo lệch một bên nghịch ngợm và tay áo xắn đến khuỷu, để lộ cánh tay, rám nắng tuy lớt phớt lông đen. Một điếu thuốc cắm chốt khóe miệng, chứng tỏ anh ta cũng có gì đổi chác ở chợ đen.
Tôi biết tên anh: Nick. Tôi biết vì đã nghe Rita và Cora nhắc đến anh, và một lần nghe Chủ soái nói với anh: Nick, hôm nay tôi không dùng xe.
Anh ta sống luôn đây, ngay trong nhà, đằng ga ra. Địa vị thấp: anh chưa được cấp đàn bà, một người cũng không. Anh ta không nằm trong xếp hạng: khiếm khuyết gì đó, thiếu các mối quan hệ. Nhưng anh cư xử như không biết, hoặc không đếm xỉa. Anh cứ suồng sã thế, anh không đủ tuân phục. Có thể do anh ngu, nhưng tôi không nghĩ thế. Khác mặt tanh lòng, như người ta nói, tôi đánh hơi ra chuột chết. Lạc loài báo hiệu qua mùi. Không chủ tâm, tôi chợt nghĩ anh có thể có mùi gì. Không phải mùi tanh hay chuột đang rữa; da rám nâu, âm ẩm vì nắng, lờ mờ trong khói. Tôi thở dài, hít mạnh.
Anh nhìn tôi, thấy tôi đang nhìn anh. Anh có khuôn mặt kiểu Pháp, gầy guộc, tưng tửng, toàn góc với cạnh, mép nhăn nhăn khi cười. Anh rít điếu thuốc một hơi cuối, buông rơi xuống đường, giẫm chân lên. Anh bắt đầu huýt sáo. Rồi nháy mắt.
Tôi cúi gằm xuống và xoay đầu để đôi cánh trắng che mất mặt, tiếp tục bước. Anh ta vừa đánh liều, nhưng để làm gì chứ? Nếu tôi mách lại thì sao?
Có thể chỉ là anh tỏ ra thân thiện. Có thể anh thấy vẻ mặt tôi và tưởng nhầm nguyên do. Thực ra tôi chỉ thèm điếu thuốc lá.
Có thể là phép thử, xem tôi đáp lại thế nào.
Có thể anh ta là một Con mắt.
~
Tôi đẩy cổng rồi khép lại sau lưng, nhìn xuống mà không ngoái lại. Vỉa hè gạch đỏ. Đó là khung cảnh tôi tập trung vào, một cánh đồng quả trám, hơi võng xuống chỗ nào đất bên dưới bị lõm, sau nhiều thập kỷ sương giá mùa đông. Gạch đã ngả màu, nhưng trông tươi và sạch. Vỉa hè được quét tước kỹ hơn xưa.
Tôi đi đến góc đường đứng đợi. Trước tôi không giỏi đợi. Cả những ai chỉ đứng mà đợi, họ cũng phụng vụ Người, dì Lydia bảo thế. Dì bắt chúng tôi thuộc lòng. Dì còn nói, Không phải các cô sẽ làm được cả. Vài cô sẽ rơi xuống đất cằn hay bụi gai. Vài cô chỉ bắt rễ hờ. Trên cằm dì có nốt ruồi cứ đưa lên đưa xuống khi dì nói. Dì bảo, Hãy coi mình là hạt giống, và khi đó giọng dì rủ rỉ như đồng lõa, như những cô giáo ba lê cho trẻ con ngày xưa, khi nói, Giơ tay lên nào, hãy vờ như ta là cây.
Tôi đứng ở góc đường, vờ như tôi là cây.
~
Một hình thù, vận đồ đỏ mặt khuất sau cánh trắng, một hình thù giống tôi, một người đàn bà không sắc thái mặc áo đỏ tay mang giỏ, đi dọc hè phố gạch về phía tôi. Cô tới chỗ tôi và cả hai chăm chú nhìn mặt nhau, đưa mắt nhìn cuối đường hầm vải trắng bọc lấy mình. Đúng là cô ấy.
“Chúc phúc cho hoa trái,” cô nói với tôi, lời chào quy định giữa những kẻ như tôi.
“Cầu Người ban xuất sanh,” tôi đáp, câu trả lời quy định. Chúng tôi quay đi bước song song qua khu nhà lớn, về trung tâm thành phố. Chúng tôi chỉ được phép tới đó từng cặp. Gọi là để bảo vệ chúng tôi, dù lối giải thích này phi lý: chúng tôi được bảo vệ kỹ lắm rồi. Thực tế cô nhằm rình mò tôi, còn
tôi rình cô. Nếu một đứa lọt lưới vì chuyện xảy ra trong cuộc đi, còn có người kia mà hạch.
Người này đã cặp với tôi hai tuần nay. Tôi không biết cô trước gặp chuyện gì. Một hôm cô ta không tới nữa, cô này thế chỗ, tất cả chỉ có thế. Mấy chuyện loại này không nên đặt câu hỏi, vì thường không nhận được câu trả lời cần nghe. Mà nói chung là không được câu trả lời nào.
Cô này mập hơn tôi chút ít. Mắt màu nâu. Tên là Ofglen, tôi biết về cô toàn bộ chỉ thế. Cô đi tư thế đoan chính, đầu cúi, hai tay đi găng đỏ siết chặt vào nhau trước ngực, bước từng bước ngắn như con lợn cảnh trên hai chân sau. Trong các cuộc đi cô chưa hề nói gì vượt ra ngoài phạm vi chính thống nghiêm ngặt, nhưng thực ra về phần tôi cũng không khác. Cô có thể là một tín đồ chân chính, một Tùy nữ không chỉ trên danh nghĩa. Tôi không được liều.
“Chiến sự đang khởi sắc, nghe đồn thế,” cô nói.
“Sáng danh,” tôi đáp.
“Chúng ta đã được ban thời tiết đẹp.”
“Khiến tôi xiết bao cảm tạ.”
“Đã đánh bại thêm nhiều phiến quân, từ hôm qua.”
“Sáng danh,” tôi nói. Tôi không hỏi sao cô biết. “Bọn nào?”
“Phái Tẩy lễ. Chúng có căn cứ trong dãy Đồi Xanh. Ta hun khói buộc chúng chạy ra.”
“Sáng danh.”
Đôi lúc tôi ước cô ta im mồm để tôi được yên thân mà đi. Nhưng tôi đói tin tức, tin gì cũng được; cho dù là tin giả, cũng phải có ý nghĩa gì đó.
Đã đến thanh chắn đầu tiên, cũng giống ở công trường làm đường, hay đặt ống nước: một thanh gỗ sơn vàng-đen chéo nhau, một hình bát giác đỏ “Stop”. Gần ngách qua có mấy cái đèn lồng, không thắp vì chưa tối. Trên cao kia, tôi biết, có đèn pha, gắn vào trụ điện thoại, phòng khi khẩn cấp, và có người cầm súng máy trong vọng gác hai bên đường. Tôi không nhìn thấy đèn pha và vọng gác, bởi có cánh che. Tôi chỉ biết là có chúng.
Đằng sau thanh chắn, gần ngách qua hẹp, đang đợi chúng tôi, có hai người, mặc cảnh phục xanh Vệ binh Đức tin, cầu vai và mũ có phù hiệu: hai thanh gươm bắt chéo, dưới là một tam giác trắng. Các Vệ binh không phải là lính chiến. Họ làm việc tuần cảnh và các phận sự lặt vặt khác, đào xới vườn cho Phu nhân Chủ soái chẳng hạn, và họ không ngu đần thì cũng già lão, què quặt hay quá non nớt, trừ những kẻ là Con mắt ẩn thân.
Hai người này thuộc loại chim non: một người râu mới lún phún, người kia mặt còn sần sùi. Vẻ măng tơ ấy dễ khiến mủi lòng, nhưng tôi biết không được phép bị lừa. Đám trẻ thường là đám nguy hiểm nhất, cuồng tín nhất, táy máy súng ống nhất. Chúng chưa học được thế nào là tồn tại qua thời gian. Cần phải thận trọng với chúng.
Tuần trước chúng đã bắn một người đàn bà, ngay gần đây. Một chị Martha. Chị ta lóng ngóng trong nếp áo, tìm giấy thông hành, và chúng nghĩ chị lần tìm một quả bom. Chúng nghĩ chị là đàn ông giả dạng. Đã từng có những vụ như thế rồi.
Rita và Cora biết chị ta. Tôi nghe họ nói chuyện đó, trong bếp. Làm việc phải làm thôi, Cora nói. Bảo vệ an toàn cho những đứa mình.
Chỉ chết là an toàn nhất, Rita rít lên. Chị ta chỉ lo việc mình. Không việc gì phải bắn. Đấy là tai nạn, Cora nói.
Quên câu đó đi, Rita nói. Cái gì cũng được tính toán cả.
Tôi nghe chị đập nồi niêu loảng xoảng, trong bồn rửa.
Ời, dù sao thì người ta cũng phải nghĩ kỹ trước khi thổi bay cái nhà này, Cora nói.
Như nhau cả thôi, Rita nói. Chị đó rất cần cù. Chết như thế quá tệ. Có nhiều cái tệ hơn nhiều, Cora nói. Ít ra cũng nhanh gọn.
Là ý cô thôi, Rita nói. Tôi thà có thêm thời gian, trước một chút chẳng hạn. Sắp đặt đâu đấy đã.
~
Hai Vệ binh trẻ chào chúng tôi, đưa ba ngón tay chạm vành mũ. Chúng tôi được dành cho nghi thức thế đấy. Họ phải tỏ lòng tôn kính, trước nhiệm vụ của chúng tôi.
Chúng tôi xuất giấy thông hành, từ túi khóa kéo trong ống tay áo rộng, giấy được soát và đóng dấu. Một người vào vọng gác bên phải, nhập mã số chúng tôi vào máy Kiểm vi tính.
Khi trả lại giấy, cậu gác để ria màu vỏ đào nghiêng đầu tìm cách nhìn vào mặt tôi. Tôi hơi ngửng lên một chút, để giúp, và cậu ta nhìn vào mắt tôi cũng như tôi nhìn mắt cậu, và má cậu ta ửng đỏ. Mặt cậu dài và rầu rĩ, như một con cừu, nhưng mắt tròn to như chó, giống spaniel tai rủ chứ không phải chó săn terrier. Da cậu trắng nhợt và trông mỏng manh muốn bệnh, như da non vết sẹo đang liền. Thế nhưng tôi vẫn hình dung đặt tay mình lên đó, lên khuôn mặt để trần. Cậu ta quay đi trước.
Sự kiện ấy, vi phạm nho nhỏ ấy, quá nhỏ đủ để không ai phát hiện ra, nhưng những khoảnh khắc như thế là phần thưởng tôi giữ riêng mình, như kẹo từng giấu giếm, hồi còn nhỏ, ở đáy ngăn kéo. Chúng là cơ hội, là những lỗ khóa tí xíu nhòm ra ngoài.
Nếu như tôi tới ban đêm, khi cậu trực một mình – dù cậu sẽ không bao giờ được hưởng sự cô độc đó – và cho phép cậu vào bên trong đôi cánh trắng? Nếu như tôi tuột bỏ tấm liệm đỏ này phô mình cho cậu, cho họ, trong ánh đèn lồng như có như không? Hẳn đôi lúc họ cũng phải nghĩ đến điều này, trong cuộc đứng canh vĩnh cửu sau thanh chắn, không ai đi qua bao giờ ngoài những Chủ soái Tín hữu trong xe hơi đen dài ầm ì, những Phu nhân màu lam và các cô con gái trùm mạng trắng cần mẫn trên đường tới Cứu chuộc hay Nguyện cải, hoặc các chị Martha màu lục lùn tì, hoặc các xe Vận sinh thi thoảng qua, hoặc những Tùy nữ đỏ, đều đi bộ. Hoặc đôi lúc một chiếc xe thùng sơn đen, bên sườn sơn trắng Con mắt có cánh. Các cửa xe đều lắp kính mờ, mấy người ngồi ghế trước mang mục kỉnh đen: mù mịt nhân đôi.
Xe thùng hẳn nhiên lặng lẽ hơn các xe còn lại. Khi chúng đi qua, chúng tôi nhìn lánh đi. Nếu có tiếng động trong xe, chúng tôi vờ không nghe thấy. Tim ai mà hoàn thiện đâu.
Khi có xe thùng đen tới chốt kiểm soát, người ta phẩy tay cho đi thẳng qua. Các Vệ binh không muốn liều ngó vào trong, tìm bới, ngờ vực uy quyền của chúng. Họ nghĩ gì cũng thế thôi.
Là nếu họ có nghĩ; nhìn họ thì không đoán được.
Nhưng nhiều khả năng họ không nghĩ về quần áo trút lại trên bãi cỏ. Nếu có nghĩ đến cái hôn, hẳn họ phải nghĩ ngay sang đèn pha đang chiếu, sang phát súng trường. Họ chuyển nghĩ về bổn phận và về viễn cảnh thăng lên Thiên sứ, và biết đâu được cho phép kết hôn, và rồi, nếu kiếm đủ quyền lực và sống tới đủ già, được phát riêng một Tùy nữ cho mình.
~
Cậu có ria mở ngách bộ hành nhỏ và lùi lại, tránh thật xa khỏi đó, và chúng tôi qua. Chân đi xa dần nhưng tôi biết họ đang nhìn, hai gã đàn ông trẻ, còn chưa được phép đụng tới đàn bà. Bù lại họ vuốt ve bằng mắt và tôi đánh hông một chút, cảm thấy chiếc váy phồng đỏ cuộn lên quanh thân. Không khác gì le lưỡi sau rào chắn hay nhử chó bằng khúc xương quá tầm xích, và tôi tự ngượng vì làm thế, bởi những chuyện này đâu phải lỗi của hai người này, họ còn quá trẻ.
Rồi tôi phát hiện ra mình hoàn toàn không ngượng. Tôi nhấm nháp cảm giác quyền lực; quyền lực của một khúc xương, thụ động, nhưng sờ sờ trước mũi. Tôi cầu cho chỉ cần nhìn chúng tôi họ đã cương lên và phải cọ vào thanh chắn sơn đen vàng, lén lút. Họ sẽ phải khổ sở, về sau, khi đêm đến, trong giường cá nhân được cấp riêng. Giờ họ không còn đầu ra nào ngoài bản thân, mà chuyện đó là báng Chúa. Không còn tạp chí, không còn phim, không còn đường thay thế; chỉ có tôi và cái bóng, đi dần xa khỏi hai chàng trai đang đứng nghiêm, cứng đờ, tại chốt kiểm soát, nhìn hai bóng dáng đang xa rời.
5
Mang theo phiên bản, tôi đi trên phố. Dù đã ra ngoài khu ở của các Chủ soái, ở đây cũng có nhà lớn. Trước cửa một ngôi nhà, có một Vệ binh đang đẩy máy xén cỏ. Bãi cỏ gọn gàng, mặt tiền choáng lộn, được tu bổ thường xuyên; trông như những bức tranh lộng lẫy in trong các tạp chí nhà- vườn nội thất ngày xưa. Cũng cùng sự thiếu vắng con người, cùng vẻ thiu thiu ngủ. Đường phố gần như bảo tàng, hay như trong một mô hình thành phố dựng lên để trưng bày xưa người ta sống ra sao. Cũng như những bức tranh kia, những bảo tàng kia, những thành phố kia, trẻ con không có mặt.
Đây là trái tim Gilead, nội chiến tranh không thể xâm nhập tới, trừ qua ti vi. Đường biên ở đâu không rõ, cái đó thường xê dịch, tùy theo các đợt tấn công và phản công; nhưng trung tâm thì ở đây, không bao giờ di dịch. Nước cộng hòa Gilead, dì Lydia bảo, không có biên giới. Gilead nằm trong chúng ta.
Các bác sĩ từng sống ở đây, cả luật sư, giảng viên đại học. Giờ thì không còn luật sư, trường đại học cũng đóng cửa rồi.
Luke và tôi thường sóng bước bên nhau, đôi lần, trên những phố này. Chúng tôi thường nói chuyện mua một ngôi nhà như ở đây, một nhà cổ thật to, sang sửa lại. Sẽ có cả vườn, trồng đu cho các con. Chúng tôi sẽ có con. Dù biết xác suất thực hiện những xa xỉ đó là khá thấp, chúng tôi vẫn ưa nói về nó, một trò giải khuây Chủ nhật. Thứ tự do ấy giờ cảm giác như phi thực.
Tới góc đường chúng tôi rẽ vào đường lớn, xe cộ dày hơn. Xe hơi bon qua, phần lớn màu đen, một sốxám và nâu. Thêm nhiều đàn bà mang giỏ, một số đồ đỏ, một số lục xỉn màu Martha, một số mặc áo sọc, đỏ và lam và lục và rẻ tiền và gọn vải, lối đàn bà của dân nghèo. Vợ cần kiệm, đấy là tên gọi họ. Những đàn bà này không được phân thành phận sự khác nhau. Họ phải làm tất, nếu được. Đôi lúc có người ăn vận toàn đen, một góa phụ. Ngày xưa nhiều hơn, nhưng hình như họ đang vắng dần đi. Không nhìn thấy Phu nhân Chủ soái nào trên hè phố. Họ luôn ngồi trong xe.
Vỉa hè ở đây bằng xi măng. Như trẻ nhỏ, tôi tránh giẫm vào kẽ nứt. Tôi đang nhớ lại bàn chân mình trên cùng hè phố ấy, thời xa xưa, nhớ những giày dép mình từng xỏ. Đôi khi là giày chạy, đế có đệm và lỗ thông khí, gắn sao bằng sợi phản quang, ban tối phát ra ánh sáng. Dù tôi đến tôi không bao giờ chạy; mà cả ban ngày, cũng chỉ trên những đường đã quen.
Thời đó đàn bà không được bảo vệ.
Tôi còn nhớ quy tắc, bắt thành văn nhưng đàn bà ai cũng biết: Không được mở cửa cho người lạ, kể cả khi hắn tự xưng là cảnh sát. Phải bắt hắn luồn căn cước vào dưới khe cửa. Không được dừng lại giữa đường giúp một tay lái mô tô vờ bị nạn. Hãy giữ nguyên nhịp mà đi tiếp. Nếu có kẻ huýt sáo gọi, đừng quay lại nhìn. Đừng đi tới hiệu giặt tự động một mình ban đêm.
Tôi lại nghĩ đến các hiệu giặt. Những thứ tôi mặc đi đến đó: quần soóc, quần bò, quần thể dục. Những thứ tôi bỏ vào đó: quần áo của tôi, xà phòng của tôi, tiền của tôi, tiền tôi kiếm được bằng sức mình. Tôi nghĩ về quyền làm chủ từng có được.
Nay chúng tôi đi trên cùng con phố ấy, từng cặp đỏ, và không có đàn ông hét những câu tục tĩu sau lưng chúng tôi, nói với chúng tôi, chạm vào chúng tôi. Không ai huýt sáo.
Không phải chỉ có một thứ tự do, dì Lydia bảo. Có tự do được hành động và có tự do nhờ giải thoát. Thời vô chính phủ, có tự do hành động. Giờ các cô được nhận tự do giải thoát. Đừng coi thường.
Ngay trước mặt, bên phải đường, là cửa hàng chúng tôi đặt áo. Có người gọi chúng là lệ bộ, thật chuẩn biết mấy. Cái gì thành lệ thì khó bỏ. Ngoài cửa treo tấm biển gỗ rất to, hình đóa huệ vàng; Hoa huệ trên đồng, tên cửa hàng là thế. Có thể nhìn thấy khoảng trống, ngay dưới bông huệ, xưa có chứ giờ đã bị bôi son xóa đi, theo ý kiến rằng ngay tên các cửa hàng cũng có sức cám dỗ quá lớn với chúng tôi. Giờ hàng quán chỉ còn phân biệt bằng biển hiệu.
Hoa huệ từng là một rạp phim, ngày trước. Sinh viên đến đó đông lắm; xuân nào cũng có liên hoan tưởng niệm Humphrey Bogart, có cả Lauren Bacall hay Katharine Hepburn, những phụ nữ tự chủ, tự quyết định cho mình. Họ mặc áo cánh gài hàng khuy trước ngực, gợi ý chữ cởi ra. Những phụ nữ đó có thể được cởi ra, hoặc không. Có vẻ họ có quyền lựa chọn.
Chúng tôi cũng có vẻ được lựa chọn, hồi đó. Chúng ta đã sống trong một xã hội đang chết ngạt, dì Lvdia bảo, dưới quá nhiều lựa chọn.
Tôi không biết khi nào thì họ thôi không tổ chức liên hoan nữa. Chắc lúc đó tôi đã trưởng thành. Nên không còn đổ ý.
Chúng tôi không vào Hoa huệ, mà sang đường rồi rẽ vào một đường phụ. Đích đến đầu tiên là một cửa hàng cũng trưng biển gỗ: ba quả trứng, một con ong, một con bò. Sữa và mật. Trước cửa xếp một hàng dài, và chúng tôi đợi lượt mình, từng cặp một. Tôi thấy hôm nay có cam. Kể từ khi Trung Mỹ mất về tay phái Tự do thần, cam trở thành khó kiếm, lúc có lúc không. Chiến sự đã cản trở đường cam đến từ California, và ngay cả Florida cũng không còn trông cậy được, khi có phong tỏa hay đường ray bị đánh bom. Tôi nhìn mấy quả cam, ước ao một quả. Nhưng tôi không mang theo phiếu cam nào. Về sẽ kể cho Rita chuyện cam, tôi nghĩ bụng. Chị ấy sẽ vui lòng. Sẽ là một điều đáng kể, một thành tích nhỏ, nếu làm cho cam xuất hiện.
Những người đã vào được đến nơi trao phiếu qua quầy cho hai người đàn ông mặc cảnh phục Vệ binh đứng bên kia. Không ai nói chuyện nhiều, dù vẫn có tiếng rì rầm, và đám đàn bà kín đáo quay đầu nhìn bên này rồi bên kia: ở đây, khi mua sắm, có thể gặp được ai quen mặt, ai đó đã biết từ ngày xưa, hoặc quen ở Trung tâm Đỏ. Chỉ cần nhìn thấy một gương mặt quen biết đã là khích lệ lớn lao. Giá tôi thấy được Moira, chỉ cần thấy thôi, biết cô còn tồn tại. Thật khó tưởng tượng chuyện đó lúc này - có một người bạn ư?
Nhưng Ofglen, bên cạnh tôi, không nhìn ngó gì. Có lẽ cô không còn quen ai nữa. Có lẽ họ biến mất hết rồi, mọi đàn bà cô quen lúc trước. Hoặc có lẽ cô không muốn bị ai nhìn thấy. Cô đứng im lặng, đầu cúi xuống.
Trong lúc đứng đợi hàng đôi như thế, cửa mở ra cho hai người nữa vào, cả hai đều áo đỏ cánh trắng trang phục Tùy nữ. Một trong hai người đã chửa vượt mặt; bụng cô, dưới lớp áo thùng thình, căng phồng hãnh diện. Cả phòng khẽ xáo động, có tiếng rì rầm, tiếng thở hắt; dù không muốn chúng tôi vẫn ngoảnh cả lại, lộ liễu, để nhìn rõ hơn; những ngón tay ngứa ngáy chỉ chực vươn ra chạm tới. Cô thật là một điều huyền diệu, đôi tượng ganh tị và khao khát, chúng tôi thèm thuồng nhìn cô. Cô là ngọn cờ cắm đỉnh đồi, chỉ cho tất cả vẫn con đường ra: cả chúng tôi cũng có thể được cứu rỗi.
Tất cả đàn bà trong phòng đang thì thầm, gần như lớn tiếng, họ kích động biết mấy.
“Ai đấy?” tôi nghe tiếng đằng sau mình.
“Ofwayne. Mà không phải. Ofwarren.”
“Đồ khoe mẽ,” một tiếng rít lên, mà quả là vậy. Một người mang thai đến tháng này không phải ra ngoài, không phải đi mua sắm nữa. Cũng không còn bắt buộc cuộc đi hàng ngày, vốn để duy trì cơ bụng hoạt động bình thường. Cô ta chỉ cần các bài thể dục tự do, các bài luyện hít thở. Cô ta có thể ở nhà. Chưa nói đi ra ngoài rất nguv hiểm, chắc chắn phải có Vệ binh đứng chờ cô ta ngoài kia. Nay đã mang trong mình sinh mệnh, cô càng gần kề cái chết hơn, và cần chế độ an ninh đặc biệt. Cô có thể là nạn nhân của lòng ghen, chuyện này từng xảy ra rồi. Mọi trẻ con giờ đều do ước muốn, nhưng không phải ước muốn của mọi người.
Nhưng cuộc đi hôm nay có thể là ý thích bất thường, và người ta dễ khoan thứ nhũng ỷ thích đó, khi đã giữ được đen mức này mà vẫn chưa bị sảy. Hoặc có thể cô ta thuộc cái tuýp ấy. Chất nữa đi, tôi chịu nổi mà, một kẻ tuẫn đạo. Tôi thoáng thấy khuôn mặt cô ta, khi cô ngước lên nhìn quanh. Người đứng sau tôi nói đúng. Cô ta đến đây để tự phô trương. Cô ta rạng rỡ, hồng hào, cô ta nếm náp từng chi tiết nhỏ.
“Trật tự,” một Vệ binh sau quầy nói, và chúng tôi suỵt nhau như đám học trò.
Ofglen và tôi đã đến bên quầy. Chúng tôi trao phiếu, và một Vệ binh nhập số vào máy Dụng vi tính trong lúc người kia giao hàng: sữa, trứng. Chúng tôi cho hết vào giỏ và lại đi ra, qua người đàn bà chửa và cô bạn cặp đôi, đứng đó khẳng khiu và teo tóp, như tất cả mọi người còn lại. Cái bụng bầu trông như một thứ quả khổng lồ. To đại cồ bự, chữ cửa miệng tôi thời nhỏ. Tay cô đặt trên bụng như bảo vệ, lại như tiếp nhận từ đó, hơi ấm và sức mạnh.
Khi tôi đi qua cô ta nhìn thẳng vào tôi, vào đúng mắt tôi, và tôi nhận ra cô. Cô cũng ở Trung tâm Đỏ với tôi, thuộc số cục cưng của dì Lydia. Tôi chưa bao giờ ưa cô này. Tên cô, ngày đó, Janine.
Janine nhìn tôi, thế đấy, và quanh khóe miệng nhíu bóng một cái cười khẩy. Cô ta trượt mắt xuống bụng tôi lép xẹp dưới tấm váy đỏ, rồi đôi cánh
che khuất mặt cô. Tôi chỉ còn thấy chỏm trán, và cái đàu mũi hồng hồng.
Tiếp đó chúng tôi vào Xương thịt, báo hiệu nhờ một tảng thịt sườn lớn bằng gỗ dòng xuống từ hai sợi xích. Hàng ở đây không quá dài: thịt lúc nào cũng đắt, và ngay cả chủ soái cũng không ăn hàng ngày được. Nhưng Ofglen vẫn lấy thịt nướng, mà đây là lần thứ hai tuần này rồi. Tôi sẽ kể cho các chị Martha: họ vẫn ưa nghe mấy chuyện đó. Họ rất hào hứng tìm xem các hộ khác sống ra sao; những chuyện mách lẻo nhỏ nhặt kiểu đó mang lại cho họ một dịp hãnh diện hay phật ý.
Tôi nhận con gà, quấn trong giấy phèn buộc dây. Đồ bằng chất dẻo không thấy mấy, không thấy nữa. Tôi nhớ đến thứ túi ni lông trắng to không thấy đáy, đựng đồ siêu thị mua về; tôi chẳng bao giờ muốn vứt chúng đi, toàn dúi vào dưới bồn rửa, tới một hôm nào đó khi tôi mở cửa tủ chúng đổ tràn ra, vung vãi trên sàn. Luke lúc nào cũng than phiền chuyện đó. Cứ đều đặn anh lại vơ tất cả đống túi quăng đi.
Nó có thể tròng một cái vào đầu, anh sẽ bảo vậy. Em biết trẻ con thích chơi thế nào rồi đấy. Không có đâu, tôi bảo vậy. Nó lớn lắm rồi. (Hoặc khôn lắm, hoặc may mắn lắm.) Nhưng tôi sẽ lạnh sống lưng, và tự oán mình bất cẩn. Quả thế, tôi quá tin vào những điều hằng hữu; tôi còn tin số phận, cái hồi xưa ấy. Rồi tôi nói, em sẽ cất lên tủ trên. Rồi anh nói, đừng có cất trừ tí nào nữa. Mình có bao giờ dùng đến đâu. Rồi tôi nói, túi rác đây chứ. Rồi anh nói...
Giờ không được, đây không được. Không được giữa nơi thiên hạ đang nhìn. Tôi quay mình, gặp bóng mình trên tấm kính cửa sổ. Chúng tôi đã ra đến ngoài, thế đấy, chúng tôi đã ra đến phố.
Một nhóm người đang tiến về phía chúng tôi. Một đoàn khách nước ngoài, nhìn có vẻ từ Nhật, một phái đoàn thương mại, có lẽ thế, đang đi tua các địa danh lịch sử hay ra đường hít thở mùi vị địa phương. Họ nhỏ nhắn và chải chuốt, mỗi người cầm máy ảnh riêng trong tay, mang nụ cười riêng trên mặt. Họ nhìn xung quanh, mắt ngời sáng, đầu nghiêng nghiêng sang bên như bầy chim cổ đỏ; nội cái hớn hả ấy đã đầy tính khiêu khích, và tôi không thể không chằm chằm nhìn. Lâu lắm rồi mới thấy đàn bà mặc váy ngắn cỡ đó. Váy chỉ xuống quá gối một tẹo, đôi chân thò ra bên dưới, tất mỏng gần như để trần, trơ trẽn, xỏ giày gót cao quai dính lấy chân như những dụng cụ tra tấn tinh vi. Đám đàn bà cập kênh trên đôi bàn chân nhọn
hoắt như trên cà kheo, nhưng không thăng bằng; lưng cong vòng ở đoạn eo, khiến mông vểnh ra sau. Đầu họ không trùm và tóc cũng phơi ra, đen nhánh đầy nhục cảm. Họ tô son, đỏ thắm, viền lấy cái khoang miệng ẩm ướt, như nét viết bậy loằng ngoằng trên vách nhà vệ sinh công cộng, ngày xưa.
Tôi dừng bước. Bên tôi Ofglen cũng ngừng lại và tôi biết cô ta cũng không thể rời mắt khỏi đám đàn bà kia. Chúng tôi mê hồn, nhưng cũng kinh tởm. Họ cứ như lõa thể. Chỉ sau chút ít thời gian đầu óc chúng tôi đã đổi cả, về những chuyện thế này.
Rồi tôi nghĩ: Mình cũng từng ăn mặc thế. Đấy gọi là tự do. Là Tây hóa đấy, họ từng gọi thế.
Đám du khách Nhật đi về phía chúng tôi, chuyện trò ríu rít, và chúng tôi quay đi nhưng quá muộn: mặt chúng tôi bị thấy rồi.
Có một người phiên dịch trong số họ, bộ com lê quy định màu lam với cà vạt nền đỏ, trâm cài hình con mắt có cánh. Chính anh ta bước tới, rời khỏi nhóm, đến trước chúng tôi, chắn ngang đường. Đám du khách xúm xít đằng sau, một người giương máy ảnh lên.
“Xin phép,” anh ta nói với cả hai chúng tôi, khá lễ phép. “Họ muốn hỏi chụp ảnh hai cô có được không.”
Tôi cắm mắt xuống vệ đường, lắc đầu tỏ ý từ chối. Họ chỉ được nhìn thấy đôi cánh trắng, một vệt mặt tôi, cái cằm và một góc miệng là đủ. Tránh mắt ra. Tôi biết khôn hồn thì đừng có nhìn thắng mặt tay phiên dịch. Phần lớn phiên dịch viên là Con mắt, hay ít ra nghe đồn thế.
Tôi cũng biết khôn hồn đừng nói vâng. Khiêm cung là phải vô hình, dì Lydia bảo thế. Đừng bao giờ quên. Bị nhìn thấy - bị nhìn thấy - cũng tức là - giọng dì run rẩy - bị xuyên thủng. Bổn phận của các cô là không để bị xuyên thấu, các cô bé ạ. Dì gọi chúng tôi là các cô bé.
Bên tôi, Ofglen cũng lặng yên. Cô đã thu hai bàn tay găng đỏ vào tay áo, để che đi.
Tay phiên dịch trở lại nhóm khách, liên thoắng nói chuyện với họ, ngắt rời từng âm. Tôi biết anh ta sẽ nói gì, tôi thuộc lòng lời thoại. Anh ta sẽ bảo họ rằng phụ nữ ở đây có phong tục khác, rằng bị nhìn qua ống kính máy ảnh, với họ, là một kiểu xâm hại.
Tôi vẫn đang nhìn xuống, ngắm vệ đường, mê mẩn nhìn chân đám đàn bà. Có một người đi xăng đan hở ngón, mười móng chân đánh hồng. Tôi vẫn nhớ mùi son móng tay, nhớ nó sẽ nhăn lại nếu tô lớp sau lên quá vội, nhớ quần tất mỏng dính cọ vào da lóe sáng, nhớ cảm giác trên ngón chân, khi xỏ vào đầu dép hở dưới sức nặng toàn cơ thể. Người đàn bà đánh móng chân đối trọng tâm. Tôi cảm thấy được dép cô ta, ngay dưới chân mình. Mùi son móng làm tôi đói.
“Xin phép,” người phiên dịch lại nói, để chúng tôi chú ý. Tôi gật, tỏ ý có nghe.
“Ông ấy hỏi các cô có vui không,” người phiên dịch nói. Tôi có thể tưởng tượng ra, cái sự tò mò của họ: May cô này có vui không? Làm thế nào họ vẫn vui được nhỉ? Tôi cảm thấy được ánh mắt đen sáng của họ sục sạo mình, thấy họ hơi cúi về trước đón lấy lời đáp, các bà háo hức nhất, nhưng cả các ông nữa: chúng tôi bí ẩn, bị cấm đoán, chúng tôi khêu gợi.
Ofglen không nói gì. Im lặng hồi lâu. Nhưng có lúc không nói gì cũng nguy hiểm không kém.
“Có, chúng tôi rất vui,” tôi nói khẽ. Tôi phải nói gì đó. Tôi còn nói được gì đây?
6
Quán Xương thịt một khu nhà, Ofglen dùng lại, như do dự nên theo lối nào. Chúng tôi có hai lựa chọn. Có thể đi thẳng về, hoặc đi vòng đường xa hơn. Chúng tôi đã biết sẽ đi đường nào, bởi lúc nào cũng đi đường đó.
“Tôi muốn đi qua nhà thờ,” Ofglen nói, có vẻ sùng đạo lắm lắm. “Được thôi,” tôi nói, dù cùng biết rõ như cô nguyên do thực sự là ǵ.
Chúng tôi bước đi, trầm mặc. Mặt trời đã khuất, trên trời mây trắng như bông, trông như đàn cừu thiếu đầu. Có đôi cánh, như miếng che mắt ngựa hai bên, chúng tôi rất khó nhìn lên, khó nhìn bao quát, bầu trời cũng như mọi vật. Nhưng chúng tôi vẫn làm được, từng mảnh một: đánh đầu thật nhanh, lên hoặc xuống, sang hai bên. Chúng tôi đã luyện cách nhìn thế giới ghép từ nhiều chớp nhoáng.
Bên phải, nếu được quyền đi, là một con phố dẫn ra sông. Có một nhà thuyền, bến đậu cho thứ thuyền đua hai mái, ngày xưa, có cả mấy cái cẩu nữa; cây, bờ cỏ xanh, có thể ngồi đó ngắm nước trôi, ngắm các chàng trai trẻ để tay trần, mái chèo vung trong nắng khi ganh nhau đòi thắng.
Đường tới sông sẽ ngang qua các tòa ký túc ngày xưa, già dùng làm việc khác, với những tháp tròn trông như cổ tích, sơn trắng, vàng, xanh. Khi nghĩ về quá khứ chúng ta chỉ chọn nhớ những gì đẹp đẽ. Ta muốn tin rằng tất thảy đều như vậy xưa kia.
Sân bóng đá cũng trên đường đó, nơi tổ chức các buổi Cứu chuộc Đàn ông. Và cả các trận bóng nữa. Vẫn còn có bóng.
Tôi không còn ra sông nữa, cũng không qua cầu. Không đi xe điện ngầm, dù có một bên ngay đằng kia. Chúng tôi không được phép lên, giờ xe có Vệ binh canh, không có lý do chính thức nào để chúng tôi xuống những bậc kia, lên chuyến xe dưới lòng sông kia, đi vào trung tâm thành phố. Chúng tôi muốn đi từ đây vào đó làm gì? Phải có ý đồ xấu và họ sẽ biết ngay.
Nhà thờ khá nhỏ, một trong những ngôi cất lên đầu tiên, từ nhiều trăm năm trước. Giờ không làm lễ nữa, chỉ làm bảo tàng, ở trong treo nhiều
tranh, vẽ đàn bà mặc váy dài ảm đạm, khăn trắng quấn kín tóc, và đàn ông đứng thẳng, ăn bận tối màu, miệng không cười. Tổ tiên chúng tôi đấy. Vào cửa tự do.
Nhưng chúng tôi không vào, mà đứng trên lối đi, nhìn sân nhà thờ. Những bia mộ cũ còn đó, tiều tụy, xói mòn, đầu lâu xươmg chéo, memento mori, thiên thần mặt bột, đồng hồ cát vỗ cánh nhắc nhở thời gian trần thế chóng qua, và, sang những thế kỷ sau, những bình tro và thùy liễu, làm chỗ gửi thương khóc.
Họ vẫn chưa làm gì mấy tấm bia, và cả nhà thờ nữa. Chỉ thời đại vừa qua mới chướng mắt họ.
Ofglen gục đầu, như thể đang cầu nguyện. Lần nào cũng thế. Có lẽ, tôi nghĩ, cũng có một người, một người đặc biệt đã mất, trong ký ức cô ta; một người đàn ông, hay một đứa trẻ. Nhưng tôi không thể hồn nhiên mà tin được. Tôi nghĩ cô ta thuộc loại người nhất cử nhất động đều là trình diễn, mỗi động tác đều được tính toán tác động. Cô ta làm thế để được vẻ, tôi nghĩ thế. Cô ta sẵn lòng khai thác mỗi cử chỉ của mình.
Nhưng hẳn tôi cũng vậy thôi, trong mắt cô ta. Làm sao khác được?
Giờ chúng tôi đã quay lưng lại nhà thờ và đối diện thứ mình thực tình tới viếng: Bức tường.
Bức tường cũng đã nhiều trăm tuổi; hoặc hơn trăm, ít nhất. Cũng như vỉa hè, tường xây bằng gạch đỏ, và chắc xưa kia từng trống trơn nhưng đẹp đẽ. Giờ các cổng có lính canh và mới gắn đèn pha, xấu xí, vào các trụ sắt trên cao, dây thép gai giăng dọc chân tường, mảnh chai cắm vào lớp xi măng bên trên.
Không ai tự ý vào qua những cổng này. Các biện pháp dự phòng là để ngừa những kẻ muốn thoát ra, dù ngay việc tới được tận Bức tường, từ trong ra, vượt hệ thống báo động điện tử, cũng đã gần như bất khả.
Bên cổng chính có thêm sáu xác ngưòi đang đu đưa, dây quanh cổ, tay buộc vào nhau trước bụng, đầu bọc túi trắng ngật sang bên trên vai. Chắc sáng nay có một đợt Cứu chuộc Đàn ông. Tôi không nghe chuông. Chắc vì đã quen rồi.
Chúng tôi dừng lại, cùng lúc, như theo hiệu lệnh, và đứng yên nhìn lên mấy cái xác. Nhìn cũng không sao. Chúng tôi cần nhìn là khác: chúng treo
ở đây, trên Bức tường này, chính là vì thế. Có lúc chúng ở đây suốt vài ngày, tới khi có loạt mới, để càng nhiều người có cơ hội nhìn thấy càng hay.
Những cái xác treo vào móc. Móc đóng thêm vào lớp gạch của Bức tường, chính vì mục đích này. Vẫn còn móc trống. Mấy cái móc trông như dụng cụ hỗ trợ người cụt tay. Hay những dấu hỏi bằng thép, lộn ngược, xoay ngang.
Chính những cái túi bọc đầu mới là đáng sợ nhất, đáng sợ hơn cả những khuôn mặt giấu bên trong. Chúng khiến những người này trông như đám búp bê chưa vẽ mặt; như bù nhìn, mà cách nào đó cũng đúng thế, bởi họ được đặt đây nhằm gây khiếp sợ. Hoặc như đầu họ chỉ là cái túi, nhồi đầy một chất gì đó mịn xốp, bột mì hay bột nhào chẳng hạn. Đấy là vì sức nặng sờ sờ của những cái đầu, sự trống rỗng, trọng lượng đang kéo chúng xuống mà không còn sự sống dựng chúng thẳng lên. Những đầu này là những số không.
Cho dù nếu nhìn thật lâu, như chúng tôi đang làm đây, vẫn có thể phân biệt các đường nét lờ mờ sau lớp vải trắng, như những bóng xám. Đầu họ là đầu người tuyết, khi mắt bằng than và mũi cà rốt đã rơi ra. Những đầu này đang tan chảy.
Nhưng trên một túi có máu, thấm qua lần vải trắng, chỗ lẽ ra là miệng. Nó vạch ra cái miệng thứ hai, màu đỏ nho nhỏ, cứ như có đám trẻ mẫu giáo cầm bút lông đậm tô vào. Khái niệm cười kiểu trẻ con. Miệng cười bằng máu này là cái rôt cuộc lưu mắt lại. Suy cho cùng không phải là người tuyết.
Mấy người này mặc áo choàng trắng, như bác sĩ hoặc khoa học gia. Không phải chỉ có bác sĩ và khoa học gia, còn những người khác, nhưng chắc sáng nay có một đợt thanh tẩy họ. Cổ mỗi người treo một tấm biển cho biết tội đem xử: hình vẽ bào thai người. Vậy họ là bác sĩ, ngày xưa, hồi những chuyện đó còn hợp pháp. Người tạo Thiên sứ, họ được gọi vậy, hay là gì khác nhỉ? Giờ họ bị lôi ra ánh sáng nhờ tra soát trong sổ sách bệnh viện, hoặc - khả năng này cao hơn, bởi hầu hết bệnh viện đã hủy toàn bộ giấy tờ kiểu đó ngay khi người ta thấy được có gì sắp xảy ra - nhờ những nguồn chỉ điểm: một bà cựu y tá chẳng hạn, hoặc hai bà thì đúng hơn, vì giờ lời chứng của riêng một người đàn bà không được chấp nhận nữa; hoặc một bác sĩ khác, hòng cứu lấy mạng mình; hoặc ai đó đã bị kết tội rồi, văng ra
một kẻ thù cũ, hoặc văng bừa ra người khác, tuyệt vọng mặc cả lấy an toàn. Dù không phải lúc nào người chỉ điểm cũng được khoan hồng.
Những người đó, chúng tôi được dạy, cũng như tội phạm chiến tranh. Không thể biện hộ rằng chuyện họ làm là họp pháp vào thời đó: quy định tội danh này có hiệu lực hồi tố. Họ đã làm những việc vô luân và phải đem ra bêu gương, cho đám còn lại. Dù cũng không cần mấy. Đàn bà, thời buổi này, không ai tỉnh táo mà còn tìm cách tránh sinh nở - là giả sử cô ta may mắn được thụ thai.
Trước những xác ấy, người ta muốn chúng tôi cảm thấy thù hận và khinh bỉ. Cảm giác tôi không thế. Những xác trên Bức tường kia là những kẻ vượt thời gian, lạc đến từ thời đại khác. Họ từ quá khứ về đây.
Cảm giác của tôi là vô cảm. Cảm giác của tôi là không được có cảm giác gì. Cảm giác của tôi phần nào còn là nhẹ nhõm, bởi trong số đó không có Luke. Luke ngày xưa không phải bác sĩ. Anh không phải là bác sĩ.
Tôi nhìn cái miệng cười màu đỏ lẻ loi. Màu đỏ ấy cũng là màu đỏ hoa uất kim hương trong vườn Serena Joy, gần đế hoa nơi bắt đầu lành lại. Cùng một màu đỏ nhưng không mối liên quan, uất kim hương không làm bằng máu, miệng cười đỏ không phải là hoa, cả hai không lý giải gì cho cái còn lại. Không thể vì hoa mà phủ nhận kẻ treo cổ, hay ngược lại. Mỗi vật đều có lý tồn tại riêng, và đều tồn tại đó. Và qua một rừng đầy những vật có lý như vậy tôi phải chọn lối mình, từng ngày, qua từng lối. Tôi bỏ rất nhiều sức cho những phân biệt đó. Tôi cần chúng. Tôi cần phải rạch ròi, trong tâm não.
Tôi cảm thấy còn run rẩy chạy qua người đàn bà bên cạnh. Cô ta khóc chăng? Như thế giúp cô ta tỏ vẻ ở chỗ nào được chứ? Tôi không thể trả giá để tìm hiểu được. Tay tôi đây đang siết chặt quai giỏ, tôi thấy thế, tôi sẽ không để lộ gì.
Bình thường, dì Lydia bảo, là những gì cô quen thấy xảy ra. Lúc này có thể cô nghĩ nó chưa bình thường, nhưng sau một thời gian sẽ khác. Nó sẽ trở thành bình thường.
III - Đêm
7
Đêm thuộc về tôi, thời gian của riêng tôi, được làm gì tôi muốn, miễn là yên lặng. Miễn là bất động. Miễn tôi nằm yên. Khác nhau gì giữa nằm và ngủ. Ngủ vẫn có khi là chủ động. Chẳng phải đàn ông ngày trước vẫn nói, Tôi muốn ngủ với cô nàng. Dù cũng có khi nói, Tôi muốn được cô nàng cho ngủ. Mọi điều này chỉ thuần là phỏng đoán. Tôi không biết chắc đàn ông ngày trước nói gì. Họ bảo sao thì biết vậy.
Vậy là tôi nằm, trong phòng, dưới con mắt thạch cao trên trần, sau đôi rèm trắng, giữa lớp ga giường, phang phiu tuyệt đối, và bước sang bên, ra ngoài thời gian của mình. Ra ngoài mọi hệ thời gian. Dù đây là thời gian, mà tôi cũng không ra khỏi đó.
Nhưng đêm là thời gian cho tôi ra ngoài. Nên đi đâu?
Nơi nào tốt đẹp.
Moira, ngồi trên mép giường tôi, chân phải ghếch lên gối trái, đánh quần yếm màu tía, khuyên tai một bên đong đưa, móng tay sơn vàng cho ra vẻ khác đời, điếu thuốc kẹp giữa những ngón mập mạp, đầu ngón ố vàng. Đi uống bia đi. Cậu rắc tàn đầy giường tớ rồi, tôi nói.
Nếu trót lọt cậu đã không gặp phải chuyện này, Moira nói.
Nửa tiếng nữa, tôi nói. Tôi có bài phải nộp hôm sau. Là bài gì? Tâm lý học, Anh văn, kinh tế. Chúng tôi học những thể loại như vậy, hồi ấy. Trên sàn toàn sách, lật úp xuống, khắp nơi, vung phí.
Đi luôn đi, Moira nói. Không phải bôi trát gì hết, mỗi tớ thôi. Cậu viết bài gì? Tớ vừa xong một cái về cưỡng hiếp hậu cuộc hẹn.
Cưỡng hiếp hậu cuộc hẹn, tôi nói. Cậu tân thời nhỉ. Nghe như một trào lưu mới trong giới trẻ không bằng. Hãm hiếp hậu hẹn hò.
Há há, Moira đáp. Mặc áo vào đi.
Cô tự đi lấy áo quăng cho tôi. Tớ mượn năm đồng nhé, okay?
Hoặc trong công viên đâu đó, bên mẹ. Hồi đó tôi lên mấy? Trời lạnh, hơi thở bốc hơi trước mắt, cây cành trơ trọi; màu trời xẩm, hai con vịt trong hồ, sầu muộn. Vụn bánh mì dưới những ngón tay, trong túi áo. Phải rồi: mẹ nói mình đến cho vịt ăn.
Nhưng có vài phụ nữ đang đốt sách, đấy mới là lý do mẹ đến đây. Để gặp bạn mình; mẹ nói dối tôi, thứ Bảy lẽ ra là ngày của tôi chứ. Tôi quay lưng lại mẹ, tôi hờn, định ra với lũ vịt, nhưng ngọn lửa hút tôi trở lại.
Có cả đàn ông nữa, giữa những phụ nữ, và đấy không phải sách mà là tạp chí. Chắc có đổ xăng, bởi lửa bốc lên rất cao, và rồi họ bắt đầu nhồi tạp chí vào, ít một, dốc trong hộp ra. Một số lầm rầm, những kẻ rỗi hơi xúm lại nhìn.
Trông mặt họ sung sướng, gần như ngây ngất. Lửa là thế đấy. Ngay cả mặt mẹ, bình thường tai tái gầy gò, cũng hồng hào và hớn hở, như trên thiếp Giáng sinh; và lại còn một bà khác, to con, một vệt tro trên mặt và mũ len đan màu cam. Tôi nhớ kỹ bà.
Ném một cuốn vào không bé? bà hỏi. Hồi đó tôi lên mấy?
Rác bẩn thì phải đốt cho sạch, bà nói, cười khúc khích. Nhé? bà hỏi mẹ tôi.
Tùy cháu nó thôi, mẹ nói; mẹ luôn nói với người khác về tôi cứ như tôi không có đó.
Bà kia đưa tôi một cuốn. Trên đó có một cô rất đẹp, không mặc gì, treo từ trần xuống bằng một sợi xích quấn cổ tay. Tôi tò mò ngắm. Nó không làm tôi sợ. Tôi nghĩ cô đang đu dây, như Tarzan đu cành nho, trên ti vi.
Đừng để cháu nhìn cái đó, mẹ nói. Đây con, mẹ bảo tôi, quăng vào đây, nhanh lên.
Tôi ném cuốn tạp chí vào lửa. Nó lả tả lật ra do luồng khí nóng bốc lên từ chính mình đang cháy, những tàn giấy lớn rời ra, bay vào không trung, vẫn ngun ngút cháy, những mảnh thân thể đàn bà, biến thành tro xám, ngay trên không, trước mắt tôi.
Nhưng rồi có gì xảy ra, nhưng rồi có gì xảy ra?
Tôi biết mình đã để mất thời gian.
Hẳn phải có kim tiêm, thuốc uống, hay tương tự thế. Tôi không thể mất đi chừng ấy thời gian chỉ do mình. Cô bị một cơn choáng, họ bảo vậy.
Để rồi tôi trồi lên qua gầm thét và hỗn loạn, như sóng cồn trắng xóa. Tôi còn nhớ đã khá bình tâm. Tôi còn nhớ đã gào thét, cảm giác như gào thét dù rất có thể chỉ là tiếng thì thầm, Nó đâu rồi? Các người làm gì nó rồi?
Không ra ngày hay đêm, chỉ là ánh nhập nhòa. Một lúc sau thấy lại ghế, và giường, và rồi cửa sổ.
Nó đang được chăm sóc tử tế, họ nói. Trong tay những người đủ năng lực. Cô không có năng lực, nhưng cô muốn dành cho nó những gì tốt nhất. Hay là không?
Họ cho tôi xem ảnh con, đứng ngoài trời trên bãi cỏ, khuôn mặt nhốt trong vành tóc trái xoan. Mái tóc sáng vuốt ngược ra túm chặt sau đầu. Nắm tay con là một bà xa lạ. Con chỉ cao tới khuỷu tay bà ta.
Các người giết nó rồi, tôi nói. Con trông như một thiên thần, nghiêm trang, cô đặc, từ không khí.
Con mặc tấm áo tôi chưa thấy bao giờ, trắng, buông kín chân.
Tôi những muốn tin mình chỉ đang kể chuyện. Tôi cần tin thế. Tôi phải tin thế. Ai tin được rằng chuyện kể chỉ là chuyện kể sẽ có cơ may cao hơn.
Nếu chỉ đang kể chuyện, tôi có toàn quyền làm chủ đoạn kết. Thế nên sẽ có đoạn kết, cho câu chuyện, và sau đó đời thực lại quay về. Tôi có thể nối tiếp chỗ đang bỏ dở.
Đây không phải tôi đang kể chuyện.
Đây cũng là tôi đang kể chuyện, trong đầu mình; trong lúc vẫn đang sống tiếp.
Kể, chứ không phải viết, bởi tôi không có đồ để viết và đằng nào viết lách cũng bị cấm. Nhưng nếu là kể chuyện, ngay cả chỉ trong đầu, cũng phải là tôi đang kể cho người nào đó. Không ai kể chuyện chỉ cho mình cả. Luôn luôn có người thứ hai.
Ngay cả nếu không có ai.
Một câu chuyện kể ra cũng như một lá thư. Người ơi, tôi nói. Chỉ là người thôi, không có tên. Gắn tên vào là người bị gắn vào thế giới hiện thực, là rước lấy may rủi, lấy hiểm nghèo: ai biết được ngoài kia cơ may là bao nhiêu, để sống sót, dành cho người? Tôi sẽ nói người ơi, người ơi, như một bài tình ca cổ. Người có thể chỉ nhiều hơn một người.
Người có thể chỉ hàng nghìn.
Giờ tôi không trực tiếp gặp hiểm nguy, tôi sẽ nói với người. Tôi sẽ vờ như người nghe thấy tôi.
Nhưng chẳng ích gì, vì tôi biết người không nghe được.
IV - Phòng đợi
8
Thời tiết đẹp vẫn nấn lại. Cứ như đã tháng Sáu, để ta lôi kính râm va xăng đan ra đi mua kem ốc quế. Có ba cái xác mới trên Bức tường. Một là linh mục, vẫn còn mặc áo thụng đen. Nó được khoác vào người ông ta, khi ra tòa, dù bản thân họ đã bỏ không mặc từ nhiều năm trước, khi hỗn chiến tông phái mới bắt đầu; áo giáo chức tố họ rành rành ra đấy. Hai người kia cổ đeo tấm biển màu tía: Phản bội giới. Xác còn mang cảnh phục Vệ binh. Bị bắt tại trận, hẳn rồi, nhưng ở đâu? Trong doanh trại, trong phòng tắm? Khó đoán được. Người tuyết miệng cười đỏ bị dỡ đi rồi.
“Chúng ta về thôi,” tôi bảo Ofglen. Lúc nào cũng là tôi lên tiếng. Đôi khi tôi tưởng giá mình không nói, cô ta sẽ đứng đây hết đời. Nhưng để thương khóc, hay đang khoái trá? Tôi vẫn không đoán được.
Không nói một lời cô xoay lại, như được điều khiển bằng giọng nói, như có lắp ở chân những bánh xe nhỏ bôi dầu, như con búp bê trong hộp nhạc. Tôi thù vẻ duyên dáng này. Tôi thù cái đầu lành hiền, cúi thấp như trước con gió mạnh. Mà có gió đâu.
Chúng tôi rời Bức tường, trả lại theo đường đã đến, trong nắng ấm.
“Một ngày tháng Năm rất đẹp,” Ofglen nói. Tôi cảm thấy, hơn là nhìn thấy, đầu cô ngoảnh về tôi, chờ được trả lời.
“Quả có thế,” tôi nói. “Sáng danh,” tôi thêm, như nghĩ lại. Ngày tháng Năm. Mayday. Đó từng là một tín hiệu gặp nạn, từ lâu lắm, một trong số những cuộc chiến ngày xưa có học ở trường. Tôi không ngớt lẫn lộn chúng với nhau, nhưng có thể phân biệt qua máy bay nếu chú tâm cho kỹ. Nhưng chính là Luke cho tôi biết về “mayday”. Mayday, mayday, cho những phi công khi máy bay trúng đạn, và tàu - cả tàu nữa nhỉ? - giữa khơi. Hình như là SOS cho tàu. Tôi ước mình có thể đi tra cái đó. Và một đoạn nhạc Beethoven, dân trước tin chiến thắng, ở một trong những cuộc chiến đó.
Em có biết nó từ đâu ra không? Luke nói. “Mayday” ấy?
Không, tôi nói. Từ đó dùng vào đây thì hơi lạ, đúng không?
Báo sáng và cà phê, các sáng Chủ nhật, trước khi con sinh. Van còn có báo, thời đó. Chúng tôi thường đọc ngay trong giường.
Đấy là tiếng Pháp, anh nói. Biến âm m’aidez.
Cứu tôi.
Đang tiến về phía chúng tôi một đoàn xe nhỏ, một đám tang: ba người đàn bà, mỗi người một tấm mạng đen mỏng tang trùm qua khăn trên đầu. Một Vợ cần kiệm và hai người khác, đám thân nhân, cũng là Vợ cần kiệm, chắc bạn cô ta. Những chiếc áo sọc đã tàn tạ, khuôn mặt cũng thế. Một ngày kia, thời buổi khá hơn, dì Lydia bảo, sẽ không ai phải làm Vợ cần kiệm nữa.
Đi đầu là người chịu tang, người mẹ; cô ta ôm cái lọ nhỏ màu đen. Kích cỡ lọ cho biết nó đã lớn chừng nào thì lụi đi, bên trong cô, trôi thẳng về cõi chết. Hai hoặc ba tháng, quá bé chưa đủ xác định có phải là Phế nhi hay không. Những đứa lớn hơn, những đứa chết lúc sinh sẽ được đặt trong hộp.
Chúng tôi dừng lại, tỏ lòng tôn kính, lúc họ đi qua. Tôi không hiểu Ofglen có cảm thấy giống mình không, đau như bị đâm, ngay giữa bụng. Chúng tôi đặt tay lên ngực trái để những phụ nữ xa lạ kia hiểu mình đồng cảm với mất mát của họ. Dưới tấm mạng người đi đầu quắc mắt nhìn. Một trong hai người kia quay đi, nhổ lên hè đường. Các Vợ cần kiệm không ưa chúng tôi.
Chúng tôi đi qua các của hàng và lại tới thanh chắn, và được cho qua. Chúng tôi tiếp tục đi giữa những tòa nhà lớn bề ngoài trống rỗng, những thảm cỏ sạch cây dại. Ở góc đường gân ngôi nhà tôi tại nhiệm, Ofglen dừng lại, quay sang.
“Trong mắt Người,” cô nói. Lời chia tay chuẩn.
“Trong mắt Người,” tôi đáp, và cô hơi gật đầu. Cô ngần ngừ, như còn định nói thêm, nhưng rồi lại quay đi bước dọc phố. Tôi nhìn theo. Cô tựa như bóng phản chiếu của tôi, trong một tấm gương tôi đang dần rồi xa.
Trên lối xe vào, Nick lại đang cọ rửa chiếc Gió lốc. Anh ta đã cọ đến phần đuôi xe bằng crom. Tôi đặt bàn tay đi găng lên then cổng, mở ra, đẩy vào. cổng đóng lại sau lưng lách cách. Uất kim hương bên mép vườn đỏ hơn bao giờ hết, nở to, không còn là ly rượu nữa mà là chén lớn; bung mình vươn lên, muốn đi đâu? Suy cho cùng, chúng đều rông cả. Khi đã già chúng lộn ra ngoài, rồi chầm chậm bục ra, cánh rũ xuống như những mảnh vỡ.
Nick nhìn lên và bắt đầu huýt sáo. Rồi anh ta hỏi, “Đi vui chứ?”
Tôi gật đầu, nhưng không mở giọng trả lời. Anh ta không được phép nói với tôi. Tất nhiên một số sẽ thử, dì Lydia bảo. Xương thịt đều yêu đuối. Xương thịt đều là cỏ, tôi chữa lại trong đầu. Họ không đừng được, dì bảo, Chúa tạo ra họ như thế nhưng Chúa không tạo ra các cô như thế. Chúa tạo ra các cô khác hẳn. Định ranh giới là ở các cô. Rồi sau các cô sẽ được cảm tạ.
Trong vườn sau nhà, Phu nhân Chủ soái đang ngồi, trong chiếc ghế đã cho mang ra. Serena Joy, tên gì mà ngu. “Niềm vui thanh tĩnh”; nghe như một thứ thuốc bôi lên tóc, hồi đó, hồi xa xưa, cho thắng. Serena Joy, dòng chữ trên nhãn, hình cắt bóng một cái đầu đàn bà trên nền ô van hồng, mép viên vàng lượn sóng. Có đủ loại tên trên đời mà chọn, sao lại đi chọn cái này? Tên thật của bà chưa bao giờ là Serena
Joy, ngay từ hồi ấy. Tên thật của bà là Pam. Tôi đọc được trong tiểu sử của bà, trên một tạp chí điểm tin, mãi lâu sau lần đầu xem bà hát trong lúc mẹ tôi ngủ vùi sáng Chủ nhật. Khi đó bà đã đủ hệ trọng cần có một cái tiểu sử: Thời báo hay Tuần tin tức gì đó, hẳn thế. Khi đó bà không còn hát nữa, mà đi diễn thuyết. Bà rất giỏi việc này. Bà phát ngôn về tính thiêng liêng của gia đình, cổ động phụ nữ ở nhà. Bản thân Serena Joy không ở nhà, mà đi lập ngôn, nhưng thất bại đó được bà coi như hy sinh cá nhân cho phúc lợi toàn thể.
Khoảng thời gian đó, có kẻ mưu toan bắn bà nhưng trượt; người thư ký, đang đứng ngay sau, đã chết thay. Kẻ khác đặt bom xe bà nhưng phát nổ quá sớm. Dù có người bảo bà tự cài bom xe mình, để mua lòng người. Tình hình căng đến mức ấy rồi vậy.
Luke và tôi đôi lúc thấy bà trong bản tin đêm. Áo choàng tắm, mũ ngủ. Chúng tôi xem mớ tóc xổ ra và cơn cuồng loạn của bà, và những giọt lệ vẫn điều ra được tùy ý, và mascara chảy đen má. Tới khi đó bà đã trang điểm
đậm hơn nhiều. Chúng tôi cho bà này hay hay. Hoặc ít ra là Luke cho bà ta hay hay. Tôi chỉ vờ thấy thế thôi. Thực tình tôi thấy bà hơi đáng sợ. Bà ta thành khẩn từ đầu đến cuối.
Giờ đây bà không còn lập ngôn nữa. Bà đã trở thành vô ngôn. Bà đã ở nhà, nhưng xem ra điều đó không hợp với bà. Giờ bà phải thịnh nộ tới mức nào, khi miệng muốn há thì quai lại mắc.
Bà đang nhìn những đóa uất kim hương. Cây can nằm bên cạnh, trên cỏ. Nửa mặt bà xoay về phía tôi, tôi thấy vậy khi đánh cái nhìn vội sang ngang lúc đi qua. Nhìn lâu chẳng ích gì. Không còn là khuôn mặt cắt bóng tròn trịa nữa, mặt bà giờ đang trên đà hóp lại, và tôi nghĩ về những thị trấn xây trên mạch nước ngầm, dãy dãy nhà cửa phố xá biến mất sau một đêm, thành cái đầm nhất dạ, hoặc những thị trấn mỏ sụp xuống hầm mỏ dưới chân. Hẳn có điều tương tự đã xảy ra với bà ta, một khi nhìn thấy chân tướng của những gì đang tới.
Bà không quay đầu lại. Bà không hề tỏ ý có thấy tôi, dù biết tôi ở đó. Tôi hiểu rõ bà có biết, nó như mùi ấy, cái sự biết của bà: một thứ mùi đồ chua, như sữa hỏng.
Không phải các ông chồng cần để mắt đề phòng, dì Lydia bảo, mà là các Phu nhân. Các cô phải luôn cố hình dung họ đang cảm thấy gì. Tất nhiên họ sẽ giết các cô. Đó là lẽ thường. Hãy cố thông cảm họ. Dì Lydia nghĩ mình rất giỏi thông cảm người khác. Hãy cố thương lấy họ. Tha thứ cho họ, vì họ không biết việc họ làm. Lần nữa nụ cười run rẩy, như kẻ ăn mày, hàng mi chơm chớp lối cận thị, đôi mắt ngước nhìn lên, qua mắt kính tròn vành thép, về phía cuối lớp học, như thể cái trần thạch cao sơn xanh đang mở ra và Chúa trên đám mây hồng ngọc trai màu phấn thoa mặt đang giáng thế qua mớ dây điện và vòi phun cứu hỏa. Các cô phải hiểu rằng họ là những người đàn bà thất bại. Họ không có khả năng...
Tới đây giọng dì vỡ ra, rồi khoảng lặng ngắn ngủi, và tôi nghe thấy tiếng thở dài, một tiếng thở dài tập thể dâng lên xung quanh. Sột soạt hay cựa quậy trong khoảng lặng là không khôn ngoan: dì Lydia trông lãng đãng thật đấy nhưng để mắt từng cử động. Vì vậy chỉ có thở dài.
Tươmg lai nằm trong tay các cô, dì tóm lại. Tay của dì dang về phía chúng tôi, cử chỉ cổ xưa vừa là cung hiến vừa là mời mọc, hãy tới đây, trong vòng tay ôm, trong tình đón nhận. Trong tay các cô, dì nói, nhìn
xuống tay mình, cứ như chúng đã gợi ý cho dì. Nhưng trong đó không có gì hết. Tay dì trống rỗng. Chính tay chúng tôi mới phải đầy ắp tương lai, thứ tương lai có thể nắm lấy, nhưng không nhìn thấy được.
Tôi đi vòng tới cửa sau, mở ra, vào nhà, đặt giỏ xuống bàn bếp. Bàn đã chà sạch, không vương chút bột; mẻ bánh hôm nay, vừa nướng tức thì, đang nguội đi trên giá. Bêp tỏa mùi men, một mủi nhung nhớ. Mùi ấy nhắc về những căn bếp khác, những căn bếp của tôi. ấy là mùi mẹ; mặc dù chính mẹ tôi không bao giờ làm bánh. Ấy là mùi tôi, thời trước, khi tôi còn là mẹ.
Đó là một mùi phản trắc, và tôi biết mình cần phải cấm cửa nó đi.
Rita có đó, đang ngồi bên bàn, gọt vỏ và xắt nhỏ cà rốt. Cà rốt đã già, rất dày, để qua đông, đã phun rễ qua thời gian cất trữ. Cà rốt mới, mềm và nhợt, còn phải đợi vài tuần nữa. Con dao trong tay chị sắc và sáng loáng, đầy cám dỗ. Có được một cái tôi cũng muốn lắm.
Rita ngừng thái cà rốt, đứng dậy, nhấc các gói khỏi giỏ, gần như háo hức. Chị nóng ruột xem tôi mang gì về, dù lúc nào cũng nhăn nhó khi tháo bọc ra. Chẳng có gì tôi mang về làm chị hài lòng hoàn toàn cả. Chị đang nghĩ nếu là mình sẽ khá hơn nhiều. Giá để chị tự đi mua sắm, lấy về đúng cái chị muốn; chị ganh tị cuộc đi của tôi. Ở nhà này ai cũng ganh ai cái gì đó.
“Có cam đấy,” tôi nói. “Ở tiệm Sữa và mật, vẫn còn lại một ít.” Tôi dâng ý tưởng này cho chị như là tiến lễ, tôi muốn mua lấy ít thiện cảm. Tôi nhìn thấy cam từ hôm qua, nhưng chưa nói với Rita; hôm qua chị gắt gỏng quá đỗi. “Mai tôi sẽ lấy về, nếu chị đưa tôi phiếu cam.” Tôi chìa con gà cho chị. Hôm nay chị muốn lấy thịt nướng, nhưng hết mất rồi.
Rita làu nhàu, không biểu lộ chút hài lòng hay chấp thuận nào. Chị sẽ nghĩ sau, cần hiểu là thế, khi được thư thái một mình. Chị cởi dây buộc con gà, tháo miếng giấy bao. Chị ấn lên thân, bẻ gập một cánh, thọc ngón tay vào hốc bụng, lần tìm đống lòng mề. Con gà nằm trơ đó, không đầu không chân, nổi da gà như đang rét run.
“Hôm nay ngày tắm,” Rita nói, không nhìn tôi.
Cora vào bếp tử phòng kho sau nhà, nơi để chổi và que cọ sàn. “Gà kìa,” chị nói, gần như mừng rỡ.
“Giơ cả xương,” Rita nói, “nhưng cũng phải chịu thôi.”
“Không còn gì hơn cả,” tôi nói. Rita lờ đi.
“Tôi thấy thế là to rồi,” Cora nói. Chị ta bênh vực tôi chăng? Tôi nhìn chị ta, để xem có nên cười không; nhưng không, chị chỉ đang nghĩ tới món đồ ăn. Chị ta trẻ hơn Rita; ánh nắng, xiên xiên chiếu vào qua cửa sổ đằng Tây, tô rạng mái tóc rẽ đôi buộc túm ra sau. Chị hắn từng đẹp, cách đây chưa lâu. Có hai vết nhỏ, như lúm đồng tiền, trên hai tai chị, vết bấm khuyên đã liền.
“Bự,” Rita nói, “nhưng toàn xương. Cô phải bảo chứ,” chị ta bảo, nhìn thẳng vào tôi lần đầu tiên. “Cô thuộc đám xoàng xĩnh kia đấy chắc.” Chị ta muốn nói địa vị của Chủ soái. Nhưng theo ý khác, ý của chị ta, chị ta có nghĩ tôi thuộc loại xoàng xĩnh. Chị ta đã hơn sáu mươi, mọi định kiến đã xây kiên cố.
Chị ra bồn rửa, khua tay qua dưới vòi nước, thấm vào khăn lau bát. Khăn màu trắng có sọc màu lam. Khăn lau bát vẫn y như trước. Đôi lúc những chớp nhoáng đời thường kiểu ấy ập vào tôi đang mất cảnh giác, như phục kích. Cái bình thường, cái quen thuộc, một điều gợi nhớ, như một cú thoi. Tôi nhìn thấy tấm khăn, tách rời bối cảnh, và cố nén hơi. Với một số, cách nào đó, mọi sự chưa thay đổi gì nhiều lắm.
“Ai lo tắm?” Rita hỏi Cora, không hỏi tôi. “Tôi phải làm mềm con chim này đã.”
“Tôi sẽ làm sau,” Cora nói, “khi nào lau bụi xong.”
“Sao xong thì thôi,” Rita nói.
Họ nói về tôi cứ như tôi không nghe thấy. Với họ tôi chỉ là một việc nhà, giữa bộn bề việc khác.
Tôi bị giải tán rồi. Tôi nhặt giỏ lên, ra khỏi bếp theo sảnh về phía cây đồng hồ ông nội. Cửa phòng nghỉ đóng. Nắng vào qua cửa vòm bán nguyệt, rơi xuống sàn nhuốm sắc màu: đỏ và lam, tía. Tôi dợm bước vào đó, xòe rộng đôi bàn tay: tay hứng đầy hoa nắng. Tôi lên cầu thang: mặt tôi, xa cách, trắng nhợt và méo mó, nhốt giữa tấm gươmg dài, phồng ra như con
mắt đang bị ấn. Tôi theo tấm thảm hồng pha xám dọc hành lang dài tầng trên, trở lại phòng.
Có ai đang đứng trên hành lang, gần cửa phỏng tôi ở. Hành lang nhập nhoạng, người này là đàn ông, lưng xoay về tôi; ông ta đang nhìn vào phòng, ánh sáng hắt ra khiến người ông tối sẫm. Giờ tôi thấy rồi, là Chủ soái, ông ta không được ở đây mới phải. Ông ta nghe tiếng tôi đến, quay lại, lưỡng lự, tiến lên, về phía tôi. Ông ta vi phạm luật, tôi làm gì đây?
Tôi dừng lại, ông ngừng bước, tôi không nhìn thấy mặt ông, ông ta đang nhìn tôi, ông ta muốn gì? Nhưng rồi ông lại tiến tới trước, bước tránh sang bên tránh chạm phải tôi, khẽ nghiêng đầu, đi mất.
Tôi đã được chỉ cho cái gì đó, nhưng là gì? Như quốc kỳ một nước chưa biết tên, thoáng hiện sau nếp đồi. Có thể là tấn công, có thể là dàn xếp, có thể là ranh giới, một lãnh địa lạ. Những tín hiệu giữa loài vật với nhau: mí mắt xanh cụp xuống, tai quặt ra sau, lông vũ trên cổ dựng lên. Răng nanh lộ ra chớp nhoáng, ông ta nghĩ mình đang làm cái chết tiệt gì đây chứ? Không có ai nhìn thấy ông ta. Hy vọng thế. Ông ta đã xâm nhập ư? Ồng ta đã vào phòng tôi ư? Tôi đã gọi là phòng tôi.
9
Ừ thì là phòng tôi. Rốt cuộc cũng phải có chốn nào đó tôi nhận là của mình chứ, ngay cả thời buổi này.
Tôi đang đợi, trong phòng mình, ngay lúc này đây là một phòng đợi. Khi tôi đi ngủ sẽ là phòng ngủ. Rèm vẫn còn lay động trong gió thoảng, mặt trời bên ngoài còn chiếu, dù không thẳng vào phòng. Mặt trời đã ngả về Tây. Tôi đang cố không kể chuyện, hay dù sao thì cũng không phải chuyện này.
Đã có ai đó sống trong phòng này, trước tôi. Ai đó cũng như tôi, hoặc tôi muốn tin là thế.
Tôi phát hiện ra ba ngày sau khi đến đây.
Tôi có nhiều thời gian cần tiêu đi. Tôi quyết định khám phá căn phòng. Không vội vã, cái kiểu vội vã trong phòng khách sạn, không chờ đợi bất ngờ nào, mở ra đóng vào hết ngăn kéo bàn lại đến cửa tủ, tháo vỏ quấn từng miếng xà phòng tí tẹo, ấn thử vào gối. Liệu có bao giờ tôi còn ở trong phòng khách sạn nữa không? Tôi đã lãng phí biết bao, những căn phòng ấy, thứ tự do không bị ai nhìn thay.
Phóng túng đi thuê.
Các buổi chiều, khi Luke vẫn còn phải trốn vợ anh, khi tôi vẫn còn là hư ảnh. Trước khi chúng tôi lấy nhau và tôi định hình. Tôi luôn luôn đến trước, nhận phòng. Không nhiều lần lắm, nhưng giờ như đã cả thập kỷ trước, cả thiên kỷ trước; tôi còn nhớ mình đã mặc gì, từng chiếc áo, tùng cái khăn. Tôi sẽ đi đi lại lại, chờ anh, bật ti vi lên rồi lại tắt, chấm nước hoa sau tai, Opium tôi nhớ. Đựng trong cái chai Trung Hoa, đỏ và vàng.
Tôi bồn chồn. Làm sao khi ấy tôi biết anh yêu tôi? Rất có thể chỉ là một cuộc tình loại đó. Sao chúng ta lại nói “chỉ” làm gì? Dù vào thời đó đàn ông đàn bà ướm thử nhau, vô định, như sắm bộ, bỏ đi cái nào không vừa.
Rồi sẽ có tiếng gõ cửa; tôi sẽ ra mở, vừa nhẹ nhõm vừa khao khát. Anh ngắn ngủi biết mấy, anh cô đọng biết mấy. Vậy mà anh cũng dường như bất
tận. Chúng tôi sẽ nằm trên những chiếc giường ban chiều, khi đã xong, tay đặt trên mình nhau, bàn đi bàn lại. Có thể, không thể. Làm được gì đây? Chúng ta đã nghĩ mình gặp những vấn đề không thể vượt qua. Làm sao khi ấy chúng ta biết mình đang hạnh phúc?
Nhưng giờ chính những căn phòng tôi cũng nhớ, nhớ luôn những bức tranh khủng khiếp trên tường, vẽ cảnh trút lá mùa thu hay tuyết tan trên rừng rậm, hoặc phụ nữ ăn bận cổ trang, mặt búp bê sứ, váy khung phồng và dù che nắng, hay những chú hề mặt buồn, hoặc bát hoa quả, cứng đà, bệt như phấn. Khăn bông trắng muốt chờ phá hoại, giỏ rác há hoác miệng mời chào, đón đợi món rác bay vào cẩu thả. Cẩu thả à. Tôi đã từng cẩu thả, trong những phòng ấy. Chỉ cần nhấc điện thoại là đồ ăn sẽ hiện ra trên khay, đồ ăn tôi chọn lấy. Loại đồ ăn không có lại cho sức khỏe, hẳn rồi, và đồ uống nữa. Có những cuốn kinh trong tủ quần áo, của hội phước thiện nào đó đặt vào, dù dễ thấy chẳng mấy ai sờ đến. Có cả bưu thiếp nữa, chụp hình khách sạn đang ở, có thể viết lên rồi gửi cho ai cũng được. Một điều phi khả thủ làm sao, lúc này; như là sản phẩm của trí tưởng tượng.
Thế là tôi đã khám phá căn phòng này, không vội vã, như ở phòng khách sạn, không phung phí. Tôi không muốn tìm hiểu xong một lúc, tôi muốn lâu dài. Tôi chia phòng thành từng khoảnh, trong đầu, dành cho mình mỗi ngày một khoảnh. Khoảnh đó tôi sẽ xem xét tỉ mỉ hết sức: lớp vừa lồi lõm dưới giấy dán tường, những vết xước xát trên ván chân tường và bệ cửa số, dưới lớp son trên cùng, những vết bẩn trên đệm, bởi tôi còn làm cả việc lật chăn và ga, cuốn lại, mỗi lần một chút, để có thể trả lại thật nhanh nếu có người đến.
Vết bẩn trên đệm. Như những cánh hoa khô. Lâu rồi. Yêu đương cũ; trong phòng này giờ không có lối yêu đương nào khác.
Khi trông thấy nó, bằng cứ do hai con người để lại, về tình yêu hay cái gì tương tự, ít ra là thèm muốn, ít ra đụng chạm, giữa hai người có thể đã già hay đã chết, tôi đậy lại giường và nằm lên trên. Tôi nhìn lên con mắt thạch cao mù trên trần. Tôi muốn cảm thấy Luke nằm cạnh. Tôi vẫn gặp chúng, những đợt tấn công từ quá khứ, như cơn mê, như đợt sóng táp qua đầu. Nhiều lúc thật khó mà chịu nổi. Phải làm gì đây, phải làm gì đây, tôi nghĩ. Chẳng làm gì được. Họ cũng phụng vụ Người, cả những ai chỉ đứng mà đợi. Hoặc nằm yên mà đợi. Tôi biết tại sao cửa sổ lại lắp kính không vỡ,
và tại sao họ tháo chùm đèn xuống. Tôi muốn cảm thấy Luke nằm cạnh, nhưng không đủ chỗ.
Tôi dành lại cái tủ đến ngày thứ ba. Tôi nhìn thật kỹ cánh cửa trước hết, hết trong lại ngoài, rồi vách tủ có những móc đồng - sao họ lại bỏ qua móc nhỉ? Sao không gỡ đi? Quá gần sàn ư? Nhưng có gì đâu, một chiếc tất dài, chỉ cần có thế. Và gióng ngang treo mắc áo nhựa, áo tôi đang mắc đó, tấm áo choàng len đỏ không tay phòng trời lạnh, chiếc khăn san. Tôi quỳ xuống xem xét sàn tủ, và kia, nét chữ li ti, vẻ còn khá mới, vạch bằng đầu kim hay có khi chỉ là móng tay, ở góc chìm trong bóng tối dày đặc nhất: Nolite te bastardes carborundorum.
Tôi không biết thế nghĩa là gì, thậm chí không biết là tiếng gì. Tôi đoán có thể là La tinh, nhưng tôi không biết tiếng La tinh. Dù sao nữa, vẫn là một thông điệp, một thông điệp bằng chữ, nội như thế đã đủ thành cấm vật, và đến tận giờ vẫn chưa bị phát hiện. Trừ tôi, đối tượng nó gửi tới. Nó gửi tới bất kỳ ai đến sau.
Ngầm nghĩ về thông điệp này làm tôi thích thú. Tôi thích thú mà nghĩ mình đang giao tiếp với cô, người đàn bà bí mật. Bởi cô ta quả là bí mật, hoặc nếu được biết tới đi nữa, cũng chưa bao giờ có ai nhắc đến cho tôi. Tôi thích thú biết rằng thông điệp cấm của cô đã vượt qua, tới được ít nhất một con người khác, khi đặt vào dán mình lên vách tủ tôi, đã được tôi mở ra và đọc. Đôi lúc tôi lặp lại từng chữ cho mình. Chúng mang lại một niềm vui nho nhỏ. Khi tưởng tượng người đàn bà đã viết dòng này, tôi mường tượng cô ta khoảng tuổi tôi, có thể trẻ hơn chút ít. Tôi biến cô thành Moira, Moira của thời đại học, ở phòng kế tôi: nhỏng nhảnh, hoạt bát, vận động viên cưỡi xe đạp một thời, và ba lô chuyên đổ đi bộ đường dài. Lắm tàn nhang, tôi hình dung; ưa nhạo báng, nhiều mưu lược.
Tôi tự hỏi cô tùng là ai, hay đang là ai, và đã trở thành gì.
Tôi đã thử khai thác Rita, hôm tìm thấy thông điệp.
Người từng ở trong phòng đó là ai? tôi hỏi. Trước tôi ấy? Nhỡ tôi đã hỏi khác đi, nhỡ tôi đã hỏi, Có người nào Ở phòng đó trước tôi phải không? Có
thể đã chẳng đi đến đâu.
Cô nào? chị ta hỏi; giọng chị ác cảm, ngờ vực, nhưng nghĩ lại hầu như lúc nào chị ta cũng giọng đó với tôi.
Nghĩa là không chỉ có một người. Có người không ở lại hết nhiệm kỳ hai năm. Có người đã phải chuyển đi, vì lý do nào ðó. Hoặc không phải chuyển ði - mà ra ði?
Cô lanh lợi ấy. Tôi đang mò. Cô có tàn nhang ấy.
Cô quen cô ta à? Rita hỏi, ngờ vực hơn bao giờ hết.
Hồi trước, tôi nói dối. Tôi nghe biết cô ta ở đây.
Rita chắp nhận lời này. Chị ta hiểu chắc phải tồn tại một mạng lưới thông tin, một dạng truyền thông ngầm nào đó.
Cô ta không thành công, chị nói.
Cụ thể ra sao? tôi hỏi, cô càng dửng dung càng tốt. Nhưng Rita đã mím chặt môi. Ở nhà này tôi như đứa trẻ, có những điều không được kể cho tôi. Điều gì không biết thì không hại đến cô, chị ta sẽ chỉ nói thế.
10
Đôi lúc tôi hát cho mình nghe, trong đầu: thứ gì đó thật bi thương, u sầu, nhuốm mùi Trưởng lão:
Ân sủng tuyệt trần, âm thanh huyền diệu.
Cứu nổi con kẻ khốn khó này.
Xua lạc lối, nhưng nay về lại lối.
Cởi xích xiềng xưa, lại tự do rồi.
Tôi không biết lời đã đúng chưa. Tôi không nhớ nổi. Những bài kiểu đó không còn hát tràn lan nữa, nhất là nếu có những chữ như “tự do”. Chúng được xếp vào loại tối nguy hiếm. Chúng thuộc về những tông phái phi pháp.
Cô đơn quá đỗi, cưng ơi,
Cô đơn quá đỗi.
Cô đơn buồn muốn chết rồi.
Cả bài này cũng phi pháp. Tôi học được từ một băng cát xét cũ của mẹ; mẹ có một cái máy lạo xạo ưa phản thùng, vẫn còn chơi được loại băng đó. Mẹ thường bật băng khi có bạn bè qua chén thím chén dì.
Tôi ít khi hát như thế này. Nó làm họng tôi đau nhức.
Trong nhà này ít có âm nhạc, trừ phát trên ti vi. Đôi lúc Rita cũng ư ử, trong lúc nhào bột hay gọt vỏ: một làn điệu không lời, không âm sắc, không đo. Và đôi lúc tù phòng nghỉ chính vang lên giọng eo éo của Serena Joy, trong một cái đĩa rất xưa già đem ra vặn rất nhỏ, để không ai bắt gặp đang nghe trong lúc ngồi đan lát, nhớ về vinh quang xưa cũ đã bị cắt lìa: Hallelujah.
So với tháng này thì trời khá ấm. Nhà xây kiểu này nóng hực lên khi trời nắng, độ cách nhiệt không đủ. Không khí quanh tôi vánh lại, dù có luồng gió nhẹ phả vào qua đôi rèm. Tôi những muốn đẩy cửa mở hết cỡ. sắp đến lúc được phép thay áo mùa hè rồi.
Áo hè đã bỏ khỏi gói và treo vào tủ, hai chiếc, trăm phần trăm cô tông, khá hơn mấy thứ rẻ tiền bằng vải tổng hợp dù khi trời nồm, quãng tháng
Bảy, Tám, mặc vào vẫn đổ mồ hôi. Dù sao cũng không phải lo bắt nắng, dì Lydia bảo. Mấy trò hề đàn bà ưa đóng. Bôi dầu đẫm người như thịt nướng xiên, phơi trần lưng và vai ra, trên phố, giữa bàn dân thiên hạ, cả chân nữa, tất cũng chang thèm đi, hèn nào mấy của ấy chẳng nảy ra. Của, chữ dì thường dùng khi cái thứ được nó đại diện dù là gì ghế tởm hoặc bẩn thỉu hoặc kinh khủng đến nỗi không thể cho phép lọt qua môi dì. Một cuộc đời viên mãn theo dì là cuộc đời tránh được mọi thứ của, loại trừ mọi thứ của. Những của ấy không nảy ra trong đời đàn bà ngoan. Lại không tốt cho da nữa, không tốt chút nào, làm các cô nhăn nheo như táo tàu. Nhưng chúng tôi không được phép lo tới da mình nữa, điều này thì dì quên.
Trong công viên, dì Lydia bảo, nằm ườn trên chăn, đôi lúc cả đàn ông đàn bà chung chạ, và tới đó dì bắt đầu khóc, vẫn đứng trên đó trước mắt chúng tôi, lồ lộ.
Tôi chỉ đang cố hết sức, dì nói. Tôi đang cố tạo cho các cô cơ hội tốt nhất có được. Dì hấp háy mắt, ánh sáng quá chói với dì, miệng dì run rẩy quanh hàng răng trước, hơi chìa ra, dài và cáu vàng, và tôi nhớ tới lũ chuột chết tìm thấy trên bậc cửa, hồi còn sống trong một ngôi nhà, tất cả ba chúng tôi, cả mèo là bốn, chính tác giả những lễ phẩm ấy.
Dì Lydia đưa tay bụm lên cái miệng chuột chết. Sau một phút dì bỏ tay ra. Tôi cũng muốn khóc bởi dì lại làm tôi nhớ. Giá cô ả đừng có chén trước nửa con, tôi bảo Luke.
Cũng đừng nghĩ với tôi thì dễ dàng, dì Lydia bảo.
Moira, ào vào phòng như gió, buông rơi áo bò lửng trên sàn. Có thuốc không, cô hỏi.
Trong túi xách ấy, tôi nói. Nhưng không có diêm. Moira lục túi tôi. Cậu nên quẳng mấy thứ bậu xậu này đi, cô nói. Tớ sắp tổ chức tiệc bán đồ lót.
Tiệc gì cơ? tôi hỏi. Cố làm việc cũng chẳng ăn thua, Moira sẽ không cho phép, cô như con mèo ưa ngôi phệt lên trang sách giữa lúc người ta cô đọc.
Ừm, thì giống như tiệc bán đồ bếp Tupperware đó, có điều là đồ lót thôi. Dành riêng cho bè lũ điếm đàng. Đũng viền ren với nịt tất chun nhé, áo chip nâng hàng. Cô tìm ra bật lửa của tôi, châm điếu thuốc móc từ túi tôi ra. Làm miếng không? Hẩy mấy thứ đồ qua, hào phóng quá đáng, nếu nhớ rằng toàn là đồ của tôi.
Vô vàn cảm tạ, tôi nói kháy. Cậu điên rồi. Ở đâu ra ý tưởng này vậy?
Làm việc để sống qua đại học thôi, Moira nói. Tớ có nhiều mối. Bạn bè của mẹ. Ở ngoại ô rầm rộ lắm, hễ da mồi một phát là các bà ấy nghĩ cần phải ganh đua bằng được. Rồi siêu thị kích dục và đủ thứ nữa.
Tôi cười bò ra. Cô lúc nào cũng khiến tôi cười.
Nhưng ở đây ư? tôi nói. Ai sẽ đến? Ai cần nó đây?
Học không có tuổi nào quá sớm, cô nói. Hào hứng lên đi, sẽ vui ra trò. Chúng mình sẽ cười vãi ra quần mà xem.
Chúng tôi đã sống thế ư, hồi ấy? Nhưng chúng tôi vẫn sống như thường. Mọi người đều vậy, nói chung luôn thế. Dù đang diễn ra gì nữa thì cũng như thường. Ngay cả giờ đây cũng như thường, như hiện nay.
Chúng tôi đã sống tiếp, như thường, bằng cách làm ngơ. Không phải như ai đã ngơ ngẩn sẵn, cái đó phải dụng công mới làm được.
Không có gì thay đổi ngay tức khắc: trong thùng tắm nóng dần đều người tắm sẽ bị đun đến chết trước khi kịp nhận ra. Trên báo có nhiều chuyện, tất nhiên, xác người dưới cống hay trong rừng, bị đập bằng chùy đến chết hay tùng xẻo, bị xâm hại, như người ta thường nói, nhưng là chuyện về những người đàn bà nào đó, và dính líu vào cũng là những đàn ông nào đó. Không ai trong số đàn ông chúng tôi quen. Chuyện trên báo giống như trong mơ, như cơn ác mộng của người nào đó. Kinh khủng quá, chúng tôi nói vậy, và quả là kinh khủng, nhưng kinh khủng mà không tin được. Chúng quá giống kịch, chúng thuộc chiều không gian khác, không phải trong đời chúng tôi.
Chúng tôi là những người không lên báo. Chúng tôi sống ở lề giấy trắng trơn. Như thế có tự do hơn.
Chúng tôi sống ở khoảng trống giữa các câu chuyện.
Từ bên dưới, lối xe vào, tiếng động vọng lên, xe nhà đang nổ máy. Khu này yên tĩnh, không mấy xe cộ, mọi âm thanh đều nghe rất rõ: tiếng động cơ xe, tiếng máy cắt cỏ, tiếng xén hàng giậu, tiếng cửa dập đánh sầm. Tiếng quát tháo cũng sẽ nghe rõ, hay tiếng súng, nếu có bao giờ vang lên ở đây. Đôi lúc xa xa có tiếng còi hụ.
Tôi ra cửa sổ ngồi lên bệ, quá chật không đủ thoải mái. Có cái gối cứng nho nhỏ đặt đó, vỏ thêu mũi nhỏ: ĐƯC TIN, chữ in hoa, xung quanh một vành hoa huệ. ĐỨC TIN màu lam đã bợt, lá huệ màu xanh lục xỉn. Gối này xưa đã dùng nơi khác, tã rồi nhưng chưa đáng vứt đi. Không hiểu vì sao người ta lại bỏ qua nó.
Tôi có thể ngồi hàng phút, hàng chục phút, đưa mắt săm soi hàng chữ: ĐỨC TIN. Thứ duy nhất có cho tôi đọc. Nếu tôi bị bắt gặp đang làm thế, thì có sao không? Tôi có tự mình đặt chiếc gối ở đây đâu cơ chứ.
Động cơ nổ ran, và tôi vươn người tới, kéo rèm trắng quá mặt, như tấm mạng. Rèm gân như trong suốt, nhìn qua được. Nếu tì trán vào kính nhìn xuống, tôi có thể thấy nửa sau chiếc Gió lốc. Không có ai, nhưng lát sau tôi thấy Nick đi vòng ra cửa sau, mở ra, đứng dơ người bên cạnh. Giờ mũ anh ta đội thẳng, ông tay thả xuống cài cúc cẩn thận. Nhìn từ trên xuống tôi không thấy mặt anh.
Giờ Chủ soái đang ra khỏi nhà. Tôi chỉ thoáng thấy ông ta một chốc, ngắn lại còn mẩu, đang bước tới xe. Ông ta không đội mũ, vậy là không dự họp hành chính thức gì. Tóc đã ngả xám. Tóc bạc, hãy gọi thế để làm con người nhân hậu. Tôi không có hứng làm người nhân hậu. Ông trước bình vôi trọc lốc, nên chắc đây có thể coi là tiến bộ.
Giá tôi biết nhổ bọt, từ cửa sổ, hay quăng cái gì đó xuống, cái gối này chẳng hạn, biết đâu sẽ trúng ông ta.
* * *
Moira và tôi, lô túi giấy căng phồng nước. Bom nước, gọi là thế. Vắt người qua cửa sổ phòng ký túc, quăng xuống đầu bọn con trai phía dưới. Là Moira nghĩ ra. Chúng đang cố làm gì chứ? Lấy thang trèo lên, muốn cướp một số thứ. Đồ lót của chúng tôi.
Ký túc xá đã từng chung cho hai giới, tầng chúng tôi một phòng vệ sinh vẫn còn bồn tiểu nam gắn trên tường. Nhưng khi tôi tới đó người ta đã trả lại mọi vật về như cũ.
Chủ soái khom người, vào xe, biến mất, và Nick đóng cửa lại. Một giây sau chiếc xe đã lùi lại, qua cổng, xuống đường, biến mất sau hàng giậu.
Tôi cần phải căm ghét người này. Tôi biết mình cần phải thế, nhưng lại thực không thấy thế. Cảm giác của tôi phức tạp hơn nhiều. Tôi không biết phải gọi là gì. Không phải là tình yêu.
11
Sáng hôm qua tôi đi khám. Được đưa đi, nhờ một Vệ binh, một trong đám mang băng tay đỏ chuyên trách loại việc này. Đi xe màu đỏ, anh ta ghế trước, tôi ghế sau. Không có cái bóng nào kèm theo, trong những dịp này tôi có một mình.
Tôi được đưa đi khám mỗi tháng một lần, làm đủ thứ xét nghiệm: nước tiểu, hooc môn, khám nghiệm ung thư, thử máu; cũng như ngày xưa, có điều giờ là bắt buộc.
Phòng khám nằm trong một tòa nhà văn phòng hiện đại. Chúng tôi đi thang máy lên, yên lặng, viên Vệ binh đối mặt với tôi. Nhìn vách thang máy đen bóng như gương tôi thấy được gáy anh ta. Tới phòng khám, tôi đi vào; anh ta đợi bên ngoài, trong sảnh, với các Vệ binh khác, trên dãy ghé đặt riêng cho họ.
Trong phòng đợi có mấy người đàn bà nữa, ba người tất cả, toàn áo đỏ: đây là phòng khám chuyên khoa. Chúng tôi lén lút nhìn nhau, đo cỡ bụng từng người: có ai số đỏ không? Hộ lý nhập tên chúng tôi và mã số trên thông hành vào máy Ý vi tính, xem có ai nhận xằng thân phận. Anh ta cao thước tám, quãng bốn mươi, có vết sẹo vắt chéo má; anh ta ngồi mà gõ, tay to quá khổ so với bàn phím, súng lục vẫn giắt trong bao trên vai.
Khi nghe gọi đến mình tôi đi qua cửa vào phòng trong. Phòng sơn trắng, bài trí sơ sài, cũng y như phòng ngoài, trừ tấm bình phong gập, vải đỏ căng trên khung, trên vẽ một Con mắt vàng, với thanh kiếm có đôi rắn quấn quanh dựng thẳng bên dưới, như một cái chuôi. Rắn và kiếm, những mảnh vụn biểu tượng còn sót lại.
Sau khi đi đày cái lọ nhỏ để sẵn trong ngăn vệ sinh, tôi cởi bỏ quần áo, sau tấm bình phong, gấp gọn lại để trên ghế. Người trần như nhộng, tôi nằm lên bàn khám, trên tấm ga giấy dùng một lần lạo xạo đến ghế răng. Tôi kéo tấm thứ hai, bằng vải, trùm kín người. Ngang cổ có một tấm nữa, buông từ trần xuống. Nó cắt đôi người để bác sĩ không nhìn thấy mặt tôi. Ông ta chỉ làm việc với một tấm thân.
Khi đã đâu vào đấy tôi vươn tay ra, lần tìm cái cần bên phải bàn, kéo lại. Chuông sẽ reo ở đâu đó, tôi không nghe được. Một phút sau cửa mở, tiếng
chân bước vào, tiếng thở. Ông ta không được nói chuyện với tôi trừ khi bắt buộc. Nhưng tay bác sĩ này khá lắm lời.
“Chúng mình ra sao rồi?” ông hỏi, một tật ngôn ngữ còn lại từ thời trước. Tấm ga được nhấc lên khỏi da thịt, luồng gió làm tôi nổi gai ốc. Một ngón tay, bọc cao su lạnh như thạch đông, luồn vào bên trong tôi, tôi bị sờ nắn, ấn thọc. Ngón tay rút ra, vào lối khác, rút lui.
“Không trục trặc gì cả,” viên bác sĩ nói, cứ như cho riêng mình nghe. “Có đau gì không, bé yêu?” Ông ta gọi tôi là bé yêu.
“Không,” tôi nói.
Đen lượt ngực tôi bị nắn bóp, tìm hiểu xem chín, rữa. Luồng hơi thở đến gần hơn. Tôi ngửi thấy mùi khói ám, nước hoa cạo râu, tàn thuốc bám trên tóc. Rồi giọng nói, rất nhẹ, ngay gần đầu tôi: ông ta đó, đầu chúi vào tấm màn.
“Tôi có thể giúp cô,” ông ta nói. Thầm thì.
“Sao?” tôi nói.
“Suỵt,” ông ta nói. “Tôi có thể giúp cô. Tôi đã giúp nhiều người rồi.”
“Giúp tôi?” tôi nói, giọng cũng khẽ như vậy. “Làm sao được?” Ông ta biết gì, ông ta có thấy Luke, ông ta đã tìm được, ông ta có mang được anh về?
“Thì cô nghĩ sao?” ông ta hỏi, vẫn thì thào khó nghe thấy. Có phải tay ông ta, đang lần ngược lên chân tôi? Ông ta đã tháo bỏ găng. “Cửa khóa rồi. Không ai vào đâu. Sẽ chẳng ai biết không phải của lão ấy.”
Ông ta vén tấm màn. Nửa mặt dưới lấp trong khẩu trang y tế trắng, đúng quy tắc. Hai mắt nâu, cái mũi, cái đầu tóc nâu. Bàn tay đang nằm giữa hai chân tôi. “Phần lớn đám sọm ấy không làm nối nữa,” ông ta nói. “Hoặc đã vô sinh.”
Tôi suýt hụt hơi: ông ta vừa nói một từ bị cấm. Vô sinh. Thời nay không còn tồn tại đàn ông vô sinh nữa, trên lý thuyết. Chỉ có đàn bà mắn và đàn bà điếc, theo luật định.
“Rất nhiều đàn bà làm thế,” ông ta tiếp. “Cô muốn có con, phải không?”
“ Phải,” tôi nói. Đúng vậy, và tôi không hỏi tại sao, vì đã biết. Cho tôi có con đi, không thì tôi chết mất. Lời đó không chỉ có một cách hiểu.
“Cô đã xốp rồi,” ông ta nói. “Đúng thời điểm. Hôm nay hoặc ngày mai là được, vậy sao để phí cơ hội? Sẽ chỉ mất chừng phút thôi, bé yêu.” Chắc ông ta từng gọi vợ thế, ngày xưa; có thể giờ vẫn vậy, nhưng thực tình đó là một thuật ngữ chỉ loại. Chúng tôi ai cũng là bé yêu.
Tôi lưỡng lự. Ông ta đang hiến bản thân mình cho tôi, để phục vụ tôi, tự mình cũng chấp nhận hiểm họa.
“Tôi ghét cái cảnh họ bắt cô trải qua,” ông ta rì rầm. Là thật, mối thông cảm thật; thế nhưng ông ta đang nhấm nháp chuyện này, thông cảm hay gì đi nữa. Mắt ông ta ướt vì xúc động, bàn tay di chuyển trên mình tôi, căng thẳng và nóng vội.
“Nguy hiểm lắm,” tôi nói. “Không. Tôi không làm được.” Đấy là tội chết. Nhưng phải bắt quả tang, với hai nhân chứng. Xác suất bao nhiêu, liệu phòng có gắn máy nghe, có ai đang rình bên cửa?
Bàn tay dùng lại. “Cứ nghĩ đi,” ông ta nói. “Tôi đã xem đồ thị của cô rồi. Cô không còn nhiều thời gian nữa. Nhưng đây là mạng sống của cô.”
“Cảm ơn,” tôi nói. Tôi phải tạo cảm giác mình không phẫn nộ, mình vẫn sẵn sàng lắng nghe. Ông ta rút tay về, gần như uể oải, cố tình nấn ná, đây chưa phải lời chót theo như ông hiểu. Ông ta có thể làm giả kết quả, kết luận tôi bị ung thư, không có khả năng sinh nở, đẩy tôi lên tàu tống ra khu Kiều dân, với đám Phê nữ. Không một điều nào được nói thành lời, nhưng ý thức về quyền lực đó vẫn lơ lửng trong không trung khi ông ta vỗ vào đùi non của tôi, rút lui sau tấm màn buông.
“Hẹn tháng sau,” ông ta nói.
Tôi mặc lại quần áo, sau bình phong. Hai tay run rẩy. Sao tôi sợ đến thế này? Tôi chưa vượt giới hạn nào, chưa đặt niềm tin nào, chưa liều gì cả, tất cả vẫn an toàn. Chính là việc có lựa chọn làm tôi khiếp hãi. Một lối thoát, một sự cứu rỗi.
12
Phòng tắm liền kề phòng ngủ. Giấy dán tường in hoa màu lam nhỏ, đừng-quên-tôi, màu rèm cũng hợp. Thảm chùi chân cũng màu lam, tam lót giả lông lam trên bệ xí; so với ngày xưa chỉ thiếu mồi con búp bê trùm váy che cuộn giấy dự phòng. Ngoại trừ gương trước bồn rửa đã bị lấy đi, thay bằng tấm thiếc thuôn dài, và cửa không ổ khóa, và không có dao cạo, dĩ nhiên. Ban đầu đã có vài vụ trong phòng tắm: cắt mạch, trầm mình. Trước khi người ta thanh toán xong mọi trục trặc. Cora ngồi trên ghế ngoài hành lang, trông chừng không cho ai vào. Trong phòng tắm, trong bồn tắm, các cô dễ bị tấn công, dì Lydia bảo. Dì không nói bởi cái gì.
Giờ tắm là bắt buộc, nhưng cũng là đặc ân. Chỉ cần nhấc bỏ đôi cánh trắng nặng trĩu với tấm mạng, chỉ cần lại cảm thấy tóc mình, trong tay mình, đã là đặc ân rồi. Tóc tôi giờ đã rất dài, không cắt. Tóc phải dài nhưng bọc kín. Dì Lydia bảo: thánh Paul đã phán hoặc thế, hoặc gọt nhẵn tận da. Dì cười, cái tiếng hí bị kìm nén đặc trưng, như vừa kể một chuyện vô cùng hài hước.
Cora đã vặn nước đầy bồn. Khói bốc mù như bát súp. Tôi trút nốt chỗ quần áo còn lại, áo choàng ngoài, áo cộc và váy lót trắng, tất dài đỏ, quần chẽn bằng cô tông. Quần tất làm háng thối ra, Moira thường nói thế. Dì Lydia sẽ không bao giờ dùng chữ háng thối. Với dì là thiểu vệ sinh. Dì muốn mọi thứ vệ sinh tuyệt đối.
Tấm thân để trần của chính mình đã kịp khiến tôi lạ lẫm. Thân thể tôi hình như đã lỗi thời. Thật sự là tôi từng mặc đồ tắm, trên bãi biển? Thật thế, không suy nghĩ, giữa đám đàn ông, không chút bận lòng chân tôi, tay tôi, đùi và lưng tôi đang phơi ra, ai cũng thấy. Dơ dáng, trơ tráo. Tôi tránh nhìn xuống cơ thể mình, không phải vì nó dơ dáng và trơ tráo, mà vì không muốn nhìn thấy nó. Không muốn nhìn một thứ định đoạt mình tuyệt đối đến vậy.
Tôi bước vào trong nước, nằm xuống, để nước ôm lấy mình. Nước như tay người mềm mại. Tôi nhắm mắt, và con đã ở đó bên tôi, đột ngột, không báo trước, chắc do hương xà phòng. Tôi úp mặt vào lớp tóc tơ sau gáy và hít mùi con, mùi phấn trẻ em và da thịt trẻ mới tắm cùng sữa gội, và ẩn hiện bên dưới, mùi nước tiểu lờ mờ. Con luôn ở tuổi ấy khi tôi vào bồn tắm. Con
trở lại trong nhiều độ tuổi khác nhau. Nhờ thế mà tôi biết con không hắn là ma. Nếu là ma, lúc nào con cũng sẽ cùng một tuổi.
Một hôm, khi con vừa mười một tháng, ngay trước khi tập đi, có người đàn bà đã bắt cóc con từ xe đẩy hàng siêu thị. Hôm đó thứ Bảy, nghĩa là dịp Luke cùng tôi đi mua hàng mỗi tuần, bởi hai chúng tôi đều đi làm suốt tuần. Con đang ngồi trên ghế trẻ em bé xíu, xe siêu thị thường lắp hồi đó, có chỗ thả chân. Con đang rất hứng chí, còn tôi quay lưng lại, khu thức ăn cho mèo thì phải; Luke ở đầu kia cửa hàng, khuất tầm mắt, bên quầy thịt. Anh thích tự chọn thịt cho nhà ăn cả tuần. Anh nói đàn ông cần nhiều thịt hơn phụ nữ, và đây không phải là mê tín, cũng không phải anh dở hơi, khoa học đã chứng minh rồi. vẫn có những khác biệt nào đó, anh nói. Anh ưa nói vậy, làm như tôi cố chứng minh là không có. Nhưng anh thường nói câu đó nhất khi có mẹ tôi. Anh khoái trêu tức mẹ.
Tôi nghe thấy con khóc thét lên. Tôi quay lại và con đang biến đi cuối dãy hàng, trong tay một người đàn bà lạ mặt. Tôi rú lên, chị ta bị giữ lại. Chị ta ước ba lăm. Chị ta đang khóc lóc nói đây là con mình, Chúa đã ban nó cho chị, Người đã cho chị dấu hiệu. Tôi thấy thương chị ta. Chủ của hàng xin lỗi và họ giữ chị ta tới khi cảnh sát đến.
Chị này điên thôi, Luke nói.
Tôi nghĩ đó là một vụ cá biệt, vào hồi đó.
Con nhạt nhòa đi, tôi không giữ được, con biến mất rồi. Có thể đúng là tôi cũng coi con như một bóng ma, bóng ma một cô bé đã chết, một bé gái chết khi vừa năm tuổi. Tôi nhớ những bức ảnh chụp hồi xưa, tôi bế con, điệu bộ mau, mẹ và bé, giam trong một khung hình, để giữ an toàn. Mắt nhắm lại tôi thấy tôi của bây giờ, ngồi bên ngăn kéo mở, hoặc một cái rương, trong hầm, quần áo sơ sinh gấp lại cất vào đó, một món tóc, cắt hồi con hai tuổi, bỏ trong phong bì, màu bạch kim. Sau này nó có sẫm hơn.
Tôi không còn chúng nữa, áo quần và món tóc. Tôi tự hỏi số phận mọi thứ đồ của mình ra sao. Bị nẫng, bị quẳng đi, bị lấy mất. Bị tịch biên.
Tôi đã học được cách sống không cần quá nhiều đồ đạc. Nếu có nhiều đồ đạc, dì Lydia bảo, các cô sẽ bị trói buộc vào thế giới vật chất này mà quên đi những giá trị tâm linh. Các cô cần nuôi dưỡng tâm hồn nghèo khó. Phước thay những kẻ lành hiền. Dì không nói thêm gì về chuyện được đất hứa làm gia nghiệp.
Tôi nằm, nước lấp xấp qua người, bên ngăn kéo mở không tồn tại, nghĩ về bé gái chưa từng chết hồi lên năm; một bé gái vẫn còn tồn tại, tôi hy vọng thế, dù không phải vì tôi. Tôi có tồn tại với con không? Tôi có phải một tấm hình đâu đó, trong khoảng tối tận đáy trí óc con?
Họ hẳn đã bảo con là tôi chết rồi. Đó hẳn là cách họ sẽ nghĩ ra. Họ sẽ bảo như thế giúp con dễ thích ứng hơn.
Tám tuổi, chắc phải từng ấy rồi. Tôi đã điền đủ quãng thời gian đánh mất, tôi biết đã qua bao lâu. Họ nói phải, sẽ dễ hơn, nếu coi như con đã chết. Tôi sẽ không phải hy vọng, hay cô gắng uổng công. Dì Lydia bảo, việc gì phải húc đầu vào tường? Đôi khi dì có cách diễn đạt rất hình tượng.
“Tôi không có cả ngày đâu,” giọng Cora cất lên sau cửa. Phải, chị ta không có cả ngày. Chẳng thứ gì chị ta có trọn vẹn. Tôi không được tước đoạt thời gian của chị ta. Tôi xát xà phòng, lấy bàn chải và đá kỳ chà cho hết lớp da chết. Có những vật phẩm kiểu thanh giáo như thế đấy. Tôi muốn được sạch sẽ vô trùng, vô vi khuẩn, như bề mặt mặt trăng. Tôi sẽ không được cọ rửa mình lần nữa, chiều nay, sau đó cũng không, suốt một ngày. Làm thế có thể cản trở, họ nói thế, liều lĩnh làm gì?
Giờ đây tôi không thể tránh nhìn thấy nó, hình xăm nhỏ trên mắt cá. Bốn chữ số, một con mắt, một thứ hộ chiếu tác dụng ngược. Nhằm bảo đảm tôi sẽ không bao giờ tan biến, vĩnh viễn, vào một xứ sở khác. Tôi quá quan trọng, quá hiếm hoi, chuyện đó không được phép xảy ra. Tôi là tài nguyên quốc gia.
Tôi gỡ nút thoát nước, lau khô mình, choàng áo bông tắm đỏ. Áo mặc hôm nay bỏ lại đây, Cora sẽ lấy đem đi giặt. Trở vào phòng tôi mặc đồ lại từ đầu. Cỗ khăn trùm trắng tối nay không cần đến, vì tôi sẽ không đi đâu. Nhà này ai cũng đã thấy mặt tôi cả. Tấm mạng đỏ, tuy nhiên, vẫn trùm lấy mớ
tóc ướt, lấy cái đầu chưa được gọt của tôi. Tôi đã xem phim ấy ở đâu nhỉ, đám đàn bà, quỳ giữa quảng trường thành phố, trong gọng kìm những bàn tay, tóc rớt xuống từng mảng? Họ đã làm gì? Chắc phải lâu lắm rồi, vì tôi không nhớ nổi.
Cora mang cho tôi bữa tối, đậy điệm kỹ, trên khay. Chị ta gõ cửa trước khi vào. Tôi ưa chị ở điểm đó. Chứng tỏ chị nghĩ tôi vẫn còn một ít cái trước kia gọi là quvền riêng tư.
“Cảm ơn chị,” tôi nói, đỡ lấy cái khay, và chị thực sự có cười với tôi, nhưng quay đi mà không trả lời. Khi còn có hai người chị có vẻ ngại tôi.
Tôi đặt khay lên cái bàn sơn trắng và kéo ghế lại. Tôi nhấc bỏ nắp đậy. Cái tỏi gà, nấu quá kỹ, vẫn hon là còn đỏ nguyên, chị ta chỉ có hai kiểu ấy. Rita có vô khối cách đánh tiếng sự ghẻ lạnh của mình. Khoai bỏ lò, đậu xanh, xa lát. Lê đóng hộp làm món tráng miệng. Dinh dưỡng đủ, dù có nhạt miệng. Có lợi cho sức khỏe. Các cô cần đủ sinh tố và khoáng chất, dì Lydia bẽn lẽn nói. Phải làm một bình chứa xứng đáng. Nhưng không được dùng cà phê hay trà, hay đồ uống có cồn. Khoa học chúng minh rồi. Còn có miếng khăn giấy, y như trong căng tin.
Tôi nghĩ đến những người khác, những người thiếu thốn. Đây là trung tâm, ở đây, tôi đang sống trong cảnh nuông chiều, cầu Chúa cho chúng con lòng thành tri ân, dì Lydia bảo, hay là tạ ân không biết, và tôi bắt đầu ăn. Tối nay tôi không đói. Bụng tôi nhộn nhạo lắm. Nhưng không biết bỏ thức ăn đi đâu, không có chậu cây nào, và tôi không có gan thử bồn cầu. Tôi căng thẳng quá, vậy thôi. Liệu có thể bỏ lại trên đĩa, nhờ Cora không mách? Tôi nhai rồi nuốt, nhai rồi nuốt, cảm giác mồ hôi vã ra. Trong bụng thức ăn vón thành cục, một nắm giấy bìa ẩm, nghiền ép chặt.
Dưới nhà, trong phòng ăn, sẽ có nến thắp trên bàn lớn bằng gỗ đào hoa tâm, khăn bàn trắng, dao nĩa bạc, hoa, ly đong đầy rượu. Sẽ nghe tiếng dao chạm đồ sứ lanh canh, tiếng keng khi bà bỏ nĩa xuống, thở dài một hơi khó nhận thấy, để lại gần nửa đĩa chưa đụng vào. Rất có thể bà sẽ nói mình không ngon miệng. Rất có thể bà sẽ chẳng nói gì. Nếu bà nói, liệu ông ta có
đáp lời không? Nếu không nói, liệu ông ta nhận thấy? Tôi tự hỏi làm thế nào bà vẫn tìm cách khiến ông nhận thấy mình được. Hẳn là khó lắm.
Có một chấm bơ trên cạnh đĩa. Tôi xé một góc giấy ăn, bọc lấy chỗ bơ, mang ra tủ và nhét vào sâu trong mũi giày phải, đôi dự trữ, như đã làm trước đây. Tôi vò nát miếng giấy còn lại: hiển nhiên, sẽ không ai rỗi hơi vuốt phẳng nó ra, để xem thiếu mất mảnh nào. Tôi sẽ dùng đến nó sau, khi đã khuya. Bốc mùi bơ, tối nay, sẽ chẳng ích gì hết.
Tôi đợi. Tôi soạn sửa mình. Mình tôi là một vật giờ cần soạn sửa, như người ta soạn bài diễn văn. Tôi cần trình ra một vật nhân tạo, không phải một vật trời sinh.
V - Chợp mắt
13
Vẫn con thừa thời gian. Đó là một trong những điều tôi không chuẩn bị đôi phó: khoảng thời gian trống, dấu ngoặc đơn rộng rãi gói cái không có gì. Thời gian làm âm thanh trắng. Giá tôi biết thêu thùa. Biết dệt, biết đan, bất cứ gì cho tay bận rộn. Tôi thèm thuốc. Tôi nhớ từng đi trong những gian trưng bày, xuyên qua thế kỷ mười chín: thời đó người ta cuồng đề tài hậu cung. Hàng chục tranh vẽ hậu cung, đàn bà béo lẳn ườn người trong điện
Thổ, đầu mang mũ quân hoặc mũ chỏm nhung, quạt đuôi công phe phẩy, hậu cảnh viên hoạn quan đứng gườm gườm. Những bài luyện tả xác thịt biếng lười, dưới tay những kẻ chưa bao giờ ở đó. Những tranh đó được coi là khêu gợi dục tình, và tôi nghĩ cũng đúng là như thế, vào thời đó; nhưng giờ tôi hiểu thực sự chúng nói gì. Chúng vẽ ra hoạt động bị ngưng trệ; vẽ sự đợi chợ, vẽ đồ vật không được sử dụng. Chúng vẽ ra nỗi buồn chán.
Nhưng có lẽ buồn chán là khêu gợi, đối với đàn ông, nếu là nỗi buồn chán đàn bà.
Tôi đợi, đã được tắm, chải chuốt, cho ăn, như con lợn nhận giải. Độ khoảng thập kỷ tám mươi họ nghĩ ra bóng lợn, dành cho lũ bạn đang phì ra trong chuồng. Đó là những quả bóng to nhiều màu, cho bầy lợn húc mõm đẩy đi vòng vòng. Dân lái lợn bảo như thế sẽ tăng cường độ căng cơ; đám lợn vốn tò mò, chúng sẽ mừng có cái mà nghĩ.
Cái đó tôi đọc trong bài nhập môn Tâm lý học; cái đó, cùng với chương về lũ chuột trong lồng tự gây sốc điện cho có việc. Và chương về đám bồ câu, được luyện mổ một cái nút sẽ đẩy ra một hạt ngô. Có ba nhóm: nhóm đầu lần nào cũng được, nhóm sau cách một lần lại được, nhóm cuối ngẫu nhiên. Khi người phụ trách không cho ngô nữa, nhóm đầu bỏ cuộc khá sớm, nhóm sau lâu hơn. Nhóm cuối không bỏ cuộc. Chúng thà mổ đến chết còn hơn dừng lại. Ai biết được thế nào là hơn?
Tôi ước mình có một quả bóng lợn.
Tôi ngả người nằm xuống tấm thảm bện. Các cô có thể tập lúc nào cũng được, dì Lydia bảo. Vài lần một ngày, xen giữa các việc khác. Hai tay trên hông, gối gập lại, nhấc hông lên, xương sống đẩy xuống. Ôm gối đu dậy. Làm lại. Hít vào đếm đến năm, nén hơi, thở ra. Chúng tôi tập ở nơi xưa là phòng
Gia chánh, đã dọn sạch máy khâu và máy giặt sấy; ðồng loạt, lưng đặt trên chiếu tatami hẹp, cát xét đang bật, Les Sylphides. Tôi còn nghe thấy lúc này, trong đầu, giữa lúc nhỏm lên, gập người, hít thả. Sau đôi mắt nhắm từng vũ công trắng mảnh mai loang loáng lướt đi giữa đám cây, uyển chuyển, chân chấp chới như cánh những con chim bị tóm chặt.
Các buổi chiều chúng tôi nằm trên giường khoảng một tiếng trong nhà thể chất, từ ba đến bốn giờ. Họ bảo đấy là giờ nghỉ ngơi suy niệm. Hồi đó tôi nghĩ chỉ vì chính họ cũng muốn giải thoát ít lâu, khỏi phải dạy dỗ, và tôi biết các dì ngoài phiên trực đi tới phòng giáo viên làm cốc cà phê, hoặc cái gì đó mệnh danh là cà phê. Nhưng giờ tôi nghĩ cả khoảng nghỉ ngơi cũng là luyện tập. Cho chúng tôi cơ hội làm quen với thời gian trống.
Giờ chợp mắt, dì Lydia gọi thế, bẽn lẽn như thường.
Lạ lùng là chúng tôi lại cần giờ nghỉ. Rất nhiều người thiếp ngủ. Ở đó chúng tôi rất mệt, hầu như lúc nào cũng thé. Có bị chuốc một thứ thuốc viên hay thuốc nước, tôi đoán vậy, bỏ vào thức ăn, để chúng tôi bình tâm. Cũng có thế không. Có thể do chính nơi này. Sau cú sốc ban đầu, sau khi đã thích nghi, tốt hơn nên giữ trạng thái bán tỉnh bán mê. Có thể tự nhủ mình chỉ đang bảo tồn sức lực.
Chắc tôi phải ở đó được ba tuần rồi thì Moira đến. Cô được mang vào nhà thể chất trong tay hai dì, như thường lệ, trong lúc chúng tôi đang chợp mắt. Cô vẫn còn mặc đồ cũ, quần bò, áo thun bó xanh - tóc cắt ngắn, cô vẫn bất chấp thời trang như mọi khi - nên tôi nhận ra tức khắc. Cô cũng thấy tôi, nhưng ngoảnh đi, cô đã kịp hiểu thế nào mới an toàn. Má trái có vết bầm, đang tím lại. Các dì đưa cô tới một giường trông đã vắt sẵn bộ áo đỏ. Cô cởi đồ, bắt đầu thay, không nói một lời, các dì đứng cuối giường, đám chúng tôi quan sát qua khe mắt hí. Khi cô cúi mình tôi nhìn thấy những khớp xương trên sống lưng.
Suốt vài ngày tôi không nói chuyện được với cô; chúng tôi chỉ trao đổi mắt nhìn, rất vội, từng hớp nhỏ. Tình bạn là thứ khả nghi, chúng tôi biết, và tránh nhau khi xếp hàng ăn trưa trong căng tin cũng như trong hành lang giữa các tiết học. Nhưng tới ngày thứ tư cô đã xếp cạnh tôi trong giờ đi dạo, thành hàng đôi diễu quanh sân bóng đá. Chúng tôi chưa nhận đôi cánh trắng vì chưa tốt nghiệp, chỉ có tấm mạng, nên có thể nói chuyện, miễn là thật khẽ và đừng có quay sang nhìn nhau. Các dì đi ở đầu và cuối hàng, nên nguy cơ duy nhất là đám còn lại. Một sô rất sùng tín, họ có thể mách lại chúng tôi.
Đúng là một cái trại rồ, Moira nói.
Gặp cậu tớ mừng bao nhiêu, tôi nói.
Nói chuyện ở đâu được? Moira nói.
Nhà vệ sinh, tôi nói. Nhớ nhìn đồng hồ. Ngăn cuối, hai rưỡi. Chúng tôi chỉ nói có thế.
Tôi cảm thấy an toàn hơn, Moira đang ở đây. Chúng tôi được phép ra nhà vệ sinh, chỉ cần giơ tay lên, dù có hạn định số lần đi mỗi ngày, có bảng đánh dấu lại. Tôi canh giờ, đồng hồ tròn chạy pin, ở đầu lớp phía trên bảng đen màu xanh. Hai giờ rưỡi là đúng giữa giờ Cáo mình. Dì Helena có đây, cùng với dì Lydia, bởi Cáo mình là một giờ đặc biệt. Dì Helena khá mập, ngày xưa từng đứng đầu chi nhánh Cảnh giác viên cân nặng ở Iowa. Nói chuyện Cáo mình thì dì rất thạo.
Lại là Janine, đang kể chuyện mình bị cưỡng dâm tập thể hồi mười bốn tuổi và phải đi nạo ra sao. Tuần trước cô cũng kể đúng chuyện này. Cô ta gần như tỏ ra hãnh diện nữa, trong lúc kể. Chuyện đó còn chắc gì có thật. Tới giờ Cáo mình, thà đặt chuyện ra còn an toàn hơn là nói không có gì khai báo. Nhưng với Janine, rất có thể đó ít nhiều là chuyện thật.
Nhưng là lỗi tại ai? dì Helena hỏi, một ngón tay mũm mĩm giơ lên. Tại cô ấy, tại cô ấy, tại cô ấy, chúng tôi rì rầm xướng.
Ai đã khuyến khích chúng? dì Helena rạng rỡ, rất đỗi hài lòng. Chính cô. Chính cô. Chính cô.
Lý do gì Chúa lại cho phép một chuyện kinh khủng như vậy? Để dạy cho cô bài học. Dạy cho cô bài học. Dạy cho cô bài học.
Tuần trước Janine đã khóc òa lên. Dì Helena bắt cô quỳ trên đầu lớp, tay chắp sau lưng, để chúng tôi cùng thấy rõ, khuôn mặt đỏ bừng, lem nhem mũi dãi. Tóc cô vàng xỉn, mi mắt quá thưa gần như không có, đôi mi mất tích trên mặt người vừa qua hỏa hoạn. Đôi mắt đã cháy xong. Trông cô thật tởm: yếu nhược, oằn oại, nhem nhuốc, da hồng hồng, như con chuột mới đẻ. Chúng tôi không ai muốn mình thành ra thế, không đời nào. Trong khoảnh khắc, dù biết cô đang phải chịu đựng gì, chúng tôi cũng thấy khinh miệt cô.
Khóc nhè chè thiu, khóc nhè chè thiu, khóc nhè chè thiu.
Chúng tôi nghĩ thế thật, đó là điều tệ nhất.
Tôi từng đánh giá mình rất cao. Lúc đó thì không.
Đấy là chuyện tuần trước. Tuần này Janine không đợi chúng tôi giễu cợt mình. Là tại con, cô nói. Tại một mình con. Con đã khuyến khích chúng. Con đáng nhận đau đớn.
Giỏi lắm, Janine, dì Lydia nói. Cô nêu gương rất tốt.
Tôi phải đợi hết vở mới giơ tay lên. Đôi khi nếu hỏi không đúng lúc, sẽ bị từ chối. Nếu quả thật có nhu cầu, sự tình có thể đâm ra rất tệ. Hôm qua Dolores đã tè ra sàn. Hai dì xốc nách cô, lôi xềnh xệch ra ngoài. Giờ đi dạo buổi chiều không thấy cô, nhưng đến đêm cô đã nằm trong giường. Suốt đêm nghe tiếng cô nức nở, lặng đi rồi lại trào lên.
Họ đã làm gì vậy? chúng tôi thì thầm giữa các giường.
Không biết nữa.
Không biết càng khiến tệ hơn.
Tôi giơ tay lên, dì Lydia gật. Tôi đứng dậy đi ra sảnh, hết sức tỏ ra ngây thơ vô tội. Bên ngoài phòng vệ sinh dì Elizabeth đứng gác. Dì gật, ra dấu tôi vào.
Xưa đây là phòng vệ sinh nam. Gương cũng đã thay hết bằng những tấm kim loại hình thoi xám xỉn, nhưng các bệ tiểu vẫn còn đó, trên một bức tường, sứ trắng ô những vệt vàng. Trông chúng kỳ cục như quan tài trẻ sơ sinh. Lần nữa tôi sửng sốt thấy đàn ông phơi mình ra lõa lồ đến thế: các vòi tắm không hề quây lại, thân thể phô bày cho con mắt xét nét và so sánh, những chỗ kín trưng ra công khai. Để làm gì đây? Nhằm mục đích trấn an gì cơ chứ? Phù hiệu sáng lóa, nhìn nhé mọi người, tất cả đâu vào đó, tôi thuộc về nơi này. Sao đàn bà không phải chứng minh cho nhau mình đúng là đàn bà? Một lối tuột khuy, một miếng dạng háng, cũng vô tình như thế. Mũi chó đánh hơi.
Ngôi trường này đã cũ, ngăn vệ sinh vách gỗ, một loại ván dăm. Tôi vào ngăn thứ hai tử trong ra, chặn cửa. Tất nhiên giờ không còn khóa. Trên vách gỗ có một lỗ nhỏ, ở tít sau, sát tường, khoảng ngang hông, kỷ niệm từ một vụ phá hoại cũ hay di sản một tay ưa nhìn lén ngày xưa. Toàn Trung tâm đều biết về cái lỗ này; ngoại trừ các dì.
Tôi chỉ sợ mình đến muộn, vì vướng vụ Cáo mình của Janine: biết đâu Moira đã tới rồi, biết đâu cô đã phải quay lại. Họ không cho la cà trong đây. Tôi thận trọng nhìn xuống, xéo qua tường ngăn, bên kia là đôi giày đỏ. Nhưng làm sao biết của ai?
Tôi áp miệng vào cái lỗ. Moira? tôi thì thào.
Cậu đấy à? cô đáp.
Tớ đây, tôi nói. Toàn thân nhẹ bông.
Chúa ơi, tớ thèm thuốc quá đi, Moira nói.
Tớ cũng thế, tôi đáp.
Tôi thấy sung sướng một cách quái đản.
Tôi lặn vào cơ thể mình như giữa đầm lầy, bãi lún, chỉ mình tôi biết đâu là đáy. Mặt bằng bất trắc, lãnh địa riêng tôi. Tôi trở thành mặt đất tự mình áp tai vào, lắng nghe mà đoán phỏng tương lai sắp tới. Mỗi cơn đau thắt, mỗi cơn nhưng nhức ầm ì, những lớp chất sống bong ra, các mô phồng rồi xẹp, da thịt chảy dãi, đều là dấu hiệu, những điều tôi cần nắm được. Mỗi tháng tôi trông chừng máu, trong kinh sợ, bởi máu đến là đưa tin thất bại. Thêm lần nữa tôi phụ kỳ vọng của người khác, cũng đã thành của chính mình.
Tôi từng coi thân thể mình là công cụ, đưa lại khoái lạc, là cỗ xe chuyên chở, phương tiện đạt tới ý nguyện mình. Tôi có thể đáp lên nó, bấm nút này nút khác, làm nên nhiều chuyện. Có giới hạn đấy, nhưng vẫn là cơ thể tôi linh hoạt, thống nhất, rắn đặc, nó với tôi là một.
Giờ đây da thịt tự cấu trúc lại theo kiểu khác. Tôi là một khối mây, đông lại quanh vật thể ở trung tâm, hình trái lê, rắn và thực hơn cả chính tôi, tỏa sáng đỏ rực bên trong lớp vỏ trong nhờ nhờ. Trong lòng nó là khoảng trống, bao la như trời đêm và cũng tối tăm, tròn trịa như thế, dù không hắn là đen mà ngả về đen-đỏ. Hàng chùm điểm sáng phồng lên, nhấp nhánh, nổ bùng rồi teo lại bên trong đó, ngàn vạn như sao. Mỗi tháng lại xuất hiện một mặt trăng, khổng lồ, tròn vành vạnh, nặng nề, một điềm triệu. Nó đi ngang, nghỉ
lại, lại lên đường tới khi khuất mắt, và tôi thấy nỗi tuyệt vọng ập về như cơn đói. Phải cảm thấy sự trống rỗng, lần nŕy, lần nŕy nữa. Tôi lắng nghe tim měnh, sóng dồi lęn sóng, mặn vŕ đỏ, nhẫn nại đập tiếp, đếm thời gian.
Tôi đang ở căn hộ đầu tięn của cả hai, trong phòng ngủ. Đang đứng trước tủ, cánh bằng gỗ gập được. Xung quanh tôi biết đều trống rỗng, đồ đạc mang đi cả rồi, sàn trống trơn, không cả thảm; nhưng ngược lại tủ đầy quần áo. Tôi nghĩ là đồ của mình, nhưng nhìn thì không phải của tôi, chưa bao giờ tôi thấy. Có thể là của vợ Luke, tôi cũng chưa bao giờ thấy; chỉ có ảnh và một giọng nói qua điện thoại, lúc đêm khuya, cô gọi đến chúng tôi, ngay trước khi ly dị. Nhưng không phải, đúng là đồ của tôi. Tôi cần áo, tôi cần thứ gì để mặc. Tôi lôi ra hết bộ này đến bộ khác, đen, lam, tía, áo chẽn, váy dài; không bộ nào hợp, thậm chí không bộ nào vừa, toàn rộng quá hay chật quá.
Luke ở đó, ngay sau lưng, tôi quay lại nhìn. Anh không chịu nhìn tôi, mắt anh nhìn xuống sàn, con mèo đang cọ mình vào chân anh, kêu meo meo thê thẳm. Nó đói, nhưng lấy gì cho nó ăn khi căn hộ trống rỗng thế này?
Luke, tôi gọi. Anh không trả lời. Có thể không nghe thấy tôi. Tôi sực nghĩ có thể anh không còn sống.
Tôi đang chạy, cùng con, nắm chặt tay con, lôi, kéo qua đống dương xỉ, con mắt mở mắt nhắm vì đã bị tôi cho uống thuốc, để không khóc hoặc thốt ra câu gì làm lộ, con còn không biết mình ở đâu. Mặt đất chỗ lồi chỗ lõm, đá tảng, cành khô, mùi đất ẩm, lá rụng, còn không chạy kịp đâu, một mình tôi có thể chạy nhanh hơn, tôi giỏi chạy mà. Giờ con khóc nữa, con sợ, tôi muốn cõng lên vai nhưng con nặng lắm. Tôi đang xỏ giày đường trường và tôi nghĩ, khi tới sông sẽ phải tuột ra, biết có lạnh không, biết con có bơi nổi xa đến thế, còn luồng nước nữa, mình không lường trước điều này. Im nào, tôi gắt con. Tôi hình dung con chết đuối và chậm lại. Rồi nhũng tiếng súng đuổi theo, không lớn, không đùng đoàng như pháo, mà sắc và đanh như cành khô gãy rắc. Nghe không bình thường, chẳng tiếng gì đúng như người
ta vẫn tưởng, và tôi nghe tiếng nói, Thụp xuống, tiếng người thật hay tiếng trong đầu tôi, hay tiếng chính tôi đang nói lớn?
Tôi kéo con xuống đất và nằm đè lên người con để chắn, để che. Im nào, tôi nhắc lại, mặt ướt đầm, mồ hôi hay nước mắt đây, tôi thấy bình yên và bồng bềnh, như đã thoát ra ngoài thân thể; ngay sát mắt có chiếc lá, màu đỏ, sớm ngả màu, tôi nh́n rơ từng đường gân trắng. Chưa bao giờ tôi thấy vật gì đẹp dường này. Tôi lỏng người, nhỡ làm ngạt con, tôi đổi tư thế co người ôm lấy con, đặt tay che miệng con. Có tiếng thở và tiếng tim tôi đập, nghe thình thình, như tiếng nện cửa nhà ban đêm, khi người ta đã tưởng về chốn an toàn. Không sao, mẹ đâỵ, tôi nói, thì thầm, Ngoan đi nào, nhưng làm sao nổi? Con quá nhỏ, quá muộn rồi, chúng tôi lìa nhau, tay tôi có kẻ tóm lấy, viền ngoài tối đen không còn thấy gì cả chỉ chừa lại một ô cửa nhỏ, một ô cửa vô cùng nhỏ, như nhìn ngược đầu ống nhòm, như ô cửa trên thiếp Giáng sinh, kiểu cũ, bên ngoài là đêm giá buốt, bên trong là nến, cây lấp lánh đen, một gia đình, tôi nghe cả tiếng chuông, chuông xe trượt, trên đài, bài hát xưa, nhưng ô cửa này chỉ cho tôi thấy, nhỏ nhưng rõ nét, tôi thấy con, đang rời xa tôi, giữa cây lá đã kịp ngả màu, xen vàng xen đỏ, đôi tay nhỏ giơ về phía tôi, bị mang đi mất.
Tiếng chuông đánh thức tôi; rồi đến Cora, đang gõ vào cửa. Tôi ngồi dậy, trên thảm, quệt ông tay chùi mặt. Không lần nào mơ đáng sợ bằng này.
VI - Gia hộ
14
Khi chuông đã dứt tôi xuống cầu thang, dạt vô thừa nhận trong chốc lát qua con mắt thủy tinh trên tường tầng dưới. Đồng hồ lên tiếng điểm giờ bằng con lắc, đôi bàn chân gọn gàng giày đỏ đếm nhịp xuống lầu.
Cửa phòng nghỉ mở rộng. Tôi vào: đến giờ vẫn chưa có ai. Tôi không ngồi, mà vào vị trí, quỳ chân, gần ghé tựa và ghế đẩu đặt chân mà chốc nữa Serena Joy sẽ thượng lên, tay tì trên can khi khom mình ngồi xuống. Có thể bà sẽ còn đặt tay lên vai tôi, cho vững, như một cái bàn hay ghế. Đã từng có lần.
Phòng nghỉ ngày xưa chắc đã từng mang tên là phòng tiếp tân, chẳng hạn; rồi sau đó, là phòng sinh hoạt. Hoặc khách sảnh, loại dành cho nhện và ruồi. Nhưng giờ nó chính thức tên là phòng nghỉ, bởi đó là việc người ta làm trong đó, một số người. Một số khác chỉ biết thế nào là phòng nghiêm. Tư thế cá thể có tầm quan trọng lớn, lúc này ở đây: mỗi bất tiện nhỏ đều mang tính khai sáng.
Phòng nghỉ sắc trầm và đối xứng; một trong những hình thái của tiền đóng băng. Tiền đã rỉ rách qua phòng này hàng năm trời, như chảy qua động ngầm dưới đất, đóng cặn rồi cứng lại như thạch nhũ thành nhiều hình dạng. Các loại bề mặt im lìm phô diễn: chất nhung hồng phấn trên cánh rèm buông rủ, nước sơn bóng loáng của ghế tựa đồng màu, thế kỷ mười tám, độ
êm ru của tấm thảm lông Trung Hoa trên sàn, mẫu đơn hồng nở rộ, lớp da âu yếm căng trên tay ghế Chủ soái, ánh đồng lóe lên từ cái hộp bên cạnh.
Tấm thảm là hàng thật. Trong phòng này một số là đồ thật, số khác thì không, ví như hai bức họa, đều vẽ đàn bà, mỗi bức một bên lò sưởi. Cả hai mặc đồ đen, như trong nhà thờ cổ, dù thuộc một thời kỳ muộn hơn. Hai bức họa có lẽ là thật. Tôi ngờ rằng khi rước chúng về, sau khi hiểu rõ rằng sẽ phải giới hạn bầu nhiệt huyết trong lĩnh vực tề gia thuần chất, Serena Joy có ý đồ để lại một báu vật truyền gia. Cũng có thể chúng có sẵn từ khi Chủ soái tậu được ngôi nhà. Chẳng cách nào biết được mấy chuyện đó. Dù sao nữa, họ vẫn treo đỏ, lưng miệng cứng đờ, ngực bó chặt, mặt nhăn nhúm, mũ hồ bột thẳng đơ, da trắng tai tái, đưa đôi mắt nhíu gác phòng.
Giữa họ, trên bệ lò, là tấm gương ô van, hai cặp để nến bạc hai bên, chính giữa thần ái tình sứ trắng, đôi tay ôm cổ chú chiên non. Sở thích của Serena Joy là một hỗn hợp lạ lùng: lên tới đỉnh cao chất lượng và xuống tận cùng thói ủy mị. Có hai đĩa cắm hoa khô hai bên lò sưởi, và một lọ thủy tiên vàng tươi trên cái bàn nhỏ gỗ dát đánh bóng cạnh xô pha.
Phòng bốc mùi dầu chanh, mùi vải bạt, mùi hoa tàn dở, mùi bếp núc còn vương len lỏi từ bếp hay phòng ăn sang, và mùi nước hoa của Serena Joy: Bông huệ trong thung. Nước hoa là thứ hàng xa xỉ, hẳn bà phải có nguồn riêng. Tôi hít vào, nghĩ mình phải biết quý lấy nó mới phải. Đó là mùi bé gái chưa dậy thì, mùi những món quà trẻ nhỏ thường mua tặng trong Ngày của Mẹ; mùi tất cô tông trắng và váy lót cô tông trắng, phấn rôm, mùi da thịt con gái bé thơ chưa nhường bước cho lông và máu. Mùi đó khiến tôi hơi khó ở, như ngồi xe đóng kín một ngày nóng bức với một bà đánh phấn quá nhiều. Phòng nghỉ chính là thế đấy, bất chấp vẻ tao nhã.
Tôi rất muốn đánh cắp thứ gì đó trong phòng này. Tôi muốn lấy đi cái gì nho nhỏ, cái gạt tàn chạm trổ, ống thuốc bạc nhỏ trên bệ lò sưởi chẳng hạn, hay bông hoa khô: giấu trong nép áo hay túi ống tay, tới hết tối nay, về trữ trong phòng mình, dưới đệm, trong giày, hay kẽ chiếc gối cứng thêu mũi nhỏ ĐỨC TIN. Chốc chốc tôi sẽ lấy ra ngắm nghía. Nó sẽ cho tôi cảm giác về sức mạnh.
Nhưng cảm giác đó nếu có cũng chỉ là huyễn tưởng, lại liều lĩnh nữa. Tay tôi ở đâu yên đó, xếp trong lòng. Đùi khép lại, gót gập bên dưới, thúc
vào nguời. Đầu cúi thấp. Miệng có vị kem đánh răng: giả bạc hà và thạch cao.
Tôi ngồi, đợi gia hộ về đủ. Gia hộ: chúng tôi là thế đấy. Chủ soái đứng đầu gia hộ. Gia đình được ông ta bảo hộ. Hưởng thụ và bảo hộ, chỉ có cái chết chia lìa.
Khoang một con thuyền. Khoảng rỗng.
Cora vào trước, rồi đến Rita, tay chùi vém. Cả họ cũng bị tiếng chuông triệu tới, họ thù nó, họ còn bao việc phải làm, bát đĩa chẳng hạn. Nhưng họ cần tới đây, tất cả đều cần tới đây, Lễ tháng đòi hỏi vậy. Chúng tôi đều buộc phải ngồi đến hết, làm cách nào thì tùy.
Rita quắc mắt với tôi trước khi lách vào đứng sau lưng. Lỗi tại tôi, chị mới phải phí thời gian thế này. Không phải tại tôi, tại thân thể tôi, nếu như thế có khác gì. Ngay cả Chủ soái cũng lệ thuộc vào những con bốc đồng của nó.
Nick đi vào, gật đầu chào cả ba, nhìn một vòng quanh phòng. Cả anh ta cũng tới đứng sau tôi. Gần tới nỗi mũi ủng chạm vào bàn chân tôi, cố ý chăng? Dù gì chúng tôi cũng đang chạm nhau, hai hình hài da thuộc. Tôi cảm thấy giày mình mềm đi, máu tuôn vào đó, nó ấm lên, trở thành làn da sống. Tôi khẽ nhích chân, xa khỏi đó.
“Mong ngài nhanh lên cho,” Cora nói.
“Nhanh lên còn đợi,” Nick nói. Anh ta cười to, nhích chân để lại chạm vào tôi. Không ai nhìn thấy, những nếp váy xòa rộng. Tôi xê dịch, trong này quá ấm, mùi nước hoa hả khiến tôi muốn nôn. Tôi nhích chân ra xa.
Chúng tôi nghe Serena đang đến, xuống thang, đi dọc sảnh, tiếng can gõ xuống thảm bùng bục, tiếng bên chân khỏe giẫm nặng. Bà tập tễnh đi vào cửa, liếc nhìn chúng tôi, đếm mà không thấy. Bà khẽ gật, với Nick, nhưng không nói gì. Bà đang mặc bộ áo váy thuộc loại diện nhất, màu da trời, mép mạng có thêu chỉ trắng: hoa lá và hình kỷ hà. Đến tuổi này bà vẫn có nhu cầu quấn hoa kín mình. Chẳng ích gì đâu, tôi nghĩ với bà, mặt không hề đổi, bà chẳng dùng được chúng nữa, bà héo úa rồi. Hoa là cơ quan sinh dục của cây. Tôi đã đọc thấy ở đâu đó, ngày trước.
Bà lần đến bên ghế và ghế đẩu, xoay người, khuỵu xuống, chạm đất rất không uyển chuyển. Bà vác cẳng trái lên ghế đẩu, mò tìm trong túi tay áo.
Tôi nghe tiếng sột soạt, tiếng bật lửa đánh cách, ngửi thấy mùi khói thuốc ấm khen khét, hít thật sâu.
“Lại muộn như mọi khi,” bà nói. Chúng tôi không trả lời. Nghe lịch kịch khi bà mò mẫm vặn đèn bàn, rồi tiếng tách, và ti vi bật lên.
Đội hợp xướng nam, da nửa vàng nửa xanh - màu chưa chuẩn; đang hát “Tới đây giáo đường bên rừng hoang”. Tới, tới, tới, tới, bè trầm xuống. Serena chuyển kênh. Hình nhiễu, toàn vân màu, âm thanh méo mó: đài vệ tinh Montreal bị chặn rồi. Rồi xuất hiện một linh mục, điệu bộ thành khẩn, mắt đen ngời sáng, đứng sau bàn nghiêng về phía chúng tôi. Nay họ trông chẳng khác doanh nhân là mấy. Serena cho phép ông ta nói vài giây, rồi chuyển tiếp.
Sau vài kênh trắng, đến bản tin. Là cái bà đang tìm. Bà ngả người ra sau, rít thuốc thật sâu. Ngược lại tôi chồm tới trước, đứa bé con được phép thức khuya cùng người lớn. Đây là điều duy nhất có ý nghĩa trong những tối này, những tối Lễ tháng: tôi được phép xem bản tin. Gần như thành quy ước ngầm trong gia hộ: chúng tôi luôn tới đúng giờ, ông ta lúc nào cũng muộn, Serena luôn để chúng tôi xem tin.
Có thế thì biết thế: ai biết được có gì đáng tin không?
Có thể hình quay từ trước, có thể làm giả. Nhưng tôi vẫn xem, hy vọng đọc được ẩn ý. Giờ đây, bất cứ tin gì vẫn hơn không có gì.
Trước hết là tiền tuyến. Thực tế cũng chẳng hẳn là “tuyên”: chiến sự dường như diễn ra cùng lúc tại rất nhiều nơi.
Mỏm đồi có cây, từ trời nhìn xuống, lá vàng khè bệnh hoạn. Tôi câu bà chỉnh lại màu cho rồi. Trên cao nguyên Appalachia, giọng thuyết minh nói, quân đoàn Thiên sứ Mạt thế, sư đoàn 4, đang hun khói đuổi một nhúm du kích Tẩy lễ, với sự trợ giúp bằng không lực của tiểu đoàn 21 quân đoàn Thiên sứ Ánh sáng. Chúng tôi được xem hai trực thăng, màu đen hai sườn vẽ cánh bạc. Bên dưới, một mảng cây nổ tung.
Giờ cận cảnh một tù binh, mặt bấn thỉu lởm chởm râu, kẹp giữa hai Thiên sứ quân phục đen phẳng phiu. Người tù nhận điếu thuốc từ tay một Thiên sứ, vụng về đặt lên môi với đôi tay bị trói. Anh ta hơi nhệch miệng cười. Phát ngôn viên đang nói gì đó, nhưng tôi không nghe: tôi nhìn vào
mắt người kia, cô đoán anh ta nghĩ gì. Anh ta biết có máy quay: nụ cười kia là khiêu khích, hay quy phục? Bị bắt rồi, anh ta hổ thẹn hay không?
Họ chỉ chiếu toàn thắng lợi, không bao giờ thấy thất bại. Ai muốn nghe tin xấu chứ?
Có thể chỉ là một diễn viên.
Giờ thì thấy mặt phát ngôn viên. Phong thái hết sức dịu dàng, vỗ về; ông ta nhìn chúng tôi từ màn hình, da rám nắng, tóc bạc phơ, mắt cương trực, những nếp nhăn thông tuệ, hình ảnh lý tưởng về một người ông. Ông ta bảo chúng tôi những chuyện này, nụ cười vững vàng kia nói thế, cũng chỉ là vì muốn tốt cho chúng tôi, sắp ổn cả rồi. Tôi hứa. Sẽ có hòa bình. Phải tin chứ. Đi ngủ đi, như mọi đứa trẻ ngoan.
Ông ta nói những điều chúng tôi muốn được tin. Ông ta rất thuyết phục.
Tôi cố sức cưỡng lại ông ta. Chỉ là một ngôi sao màn bạc cuối mùa thôi, tôi tự nhủ, trồng răng giả và buôn nước bọt. Cùng lúc tôi lại dao động về phía ông ta, như bị thôi miên. Giá mà là thật. Giá tôi tin được.
Giờ ông ta đang nói về ổ gián điệp ngầm đã bị một toán Con mắt đập tan, nhờ chỉ điểm viên nội bộ. Tổ chức này vận chuyển lậu tài nguyên quốc gia quý báu qua biên giới sang Canada.
“Năm tín đồ của tông phái dị giáo Quaker đã bị bắt giữ,” ông ta nói và cười nhàn nhạt, “và dự kiến sẽ còn những cuộc bắt giữ tiếp theo.”
Hai người Quaker xuất hiện trên màn hình, một đàn ông, một đàn bà. Họ mặt mày khiếp đảm, nhưng vẫn cố giữ phẩm giá trước ông kính. Người đàn ông trán có vết bầm lớn; người kia bị xé mất mạng, tóc lõa xòa từng dải quanh mặt. Cả hai độ khoảng năm mươi.
Giờ chúng tôi được thấy một thành phố, lại từ trên cao quay xuống. Xưa đây là Detroit. Làm nền cho giọng thuyết minh là tiếng trọng pháo thì thùm. Bên đường chân trời những cột khói bốc lên.
“Công cuộc tái định cư cho Dòng dõi Ham vẫn đang diễn ra đúng tiến độ,” khuôn mặt hồng hào đến yên lòng lại hiện ra. “Tuần này ba ngàn người đã tới Bản quán quốc gia 1, hai ngàn nữa đang trên đường.” Làm sao họ vận chuyển được từng ấy người một lúc? Tàu lửa hay xe? Chúng tôi không
được thấy hình ảnh nào cả. Bản quán quốc gia 1 nằm ở Bắc Dakota. Chúa biết người ta định cho họ làm gì, khi đến đó. Làm ruộng, đấy là lời đồn.
Serena Joy nghe tin thế đủ rồi. Sốt ruột, bà bấm đổi kênh, gặp phải một ca sĩ giọng trung-trầm luống tuổi, má xệ như vú bò. “Hy vọng khẽ khàng” là bài ông hát. Serena tắt ông ta đi.
Chúng tôi đợi, đồng hồ điểm giờ trong sảnh, Serena châm điếu nữa, tôi ngồi vào xe. Sáng nay thứ Bảy, tháng Chín, chúng tôi còn có xe. Những người khác đã phải bán hết. Tên tôi không phải là offred, tôi có tên khác, giờ đây không ai gọi vì đã cấm. Tôi nhủ mình không quan trọng, tên cũng như số điện thoại, chỉ để người khác dùng; nhưng điều tôi tự nhủ không đúng, nó có quan trọng. Tôi cất giữ ý thức về cái tên này như một vật tàng trữ, một của báu tôi sẽ quay lại đào lên, sau này. Tôi coi như tên ấy đã chôn. Cái tên nằm giữa vầng hào quang bao bọc, như tấm bùa hộ thân, câu thần chú đã cầm cự lại đời từ một thời xa xưa mất hút. Đêm đêm tôi nằm trên giường cá nhân, mắt nhắm, và cái tên lập lờ sau mí mắt, không hẳn trong tầm tay, ngời lên trong tối.
Sáng nay thứ Bảy vào tháng Chín, tôi còn đeo cái tên ngời sáng của mình. Bé gái nay đã chết đang ngồi ghé sau, mang theo hai con búp bê yêu nhất, cả chú thỏ bông, xơ xác vì tuổi tác và hôn hít. Tôi rõ đến từng tiểu tiết. Những tiểu tiết hết sức ủy mị, nhưng tôi không đừng được. Nhưng không thể nghĩ quá nhiều về con thỏ, không thể khóc lúc này, trên tấm thảm Trung Hoa, trong lúc hít vào thứ khói tù trong người Serena ra. Giờ không được, đây không được, để lúc khác.
Con cứ tưởng cả nhà đi picnic, mà đúng là có giỏ đồ ăn ở ghé sau, cạnh con, đồ ăn đàng hoàng, trứng luộc, bình tích và đủ thứ khác. Chúng tôi không muốn con biết thực sự đang đi đâu, không muốn con lỡ miệng mà nói ra, để lộ bất cứ gì, nếu chẳng may bị chặn. Không muốn đặt gánh nặng sự thực lên con.
Tôi xỏ đôi giày đường trường, con có giày thế thao. Dây buộc giày con trang trí những tim là tim, đỏ, hồng, vàng, tía. So với tháng này tiết trời khá ấm, lá bắt đầu ngả màu, trên lác đác vài cây; Luke cầm lái, tôi ngồi bên anh, mặt trời tỏa nắng, da trời xanh, nhà cửa bên đường trông ấm cúng và hết sức bình thường, mỗi ngôi nhà bỏ lại sau là biến mất vào quá khứ, sập
xuống trong nháy mắt như chưa từng tồn tại, vì tôi sẽ không còn nhìn thấy chúng thêm một lần sau; hoặc ít nhất tôi đã đinh ninh thế.
Chúng tôi hầu như không mang gì theo, không muốn tạo ấn tượng đang đi một chuyến xa hay lâu dài. Đã cầm hộ chiếu giả, rất đảm bảo, đáng đồng tiền. Đâu có trả bằng tiền được, tất nhiên, cũng không tính vào khoản vi tính: chúng tôi dùng cách khác, ít nữ trang bà tôi để lại, bộ tem Luke thừa hưởng từ ông bác. Những thứ đó trao đổi được lấy tiền, ở nước ngoài. Khi đến biên giới chúng tôi sẽ vờ như chỉ sáng đi chiều về; dấu thị thực giả có tác dụng trong ngày thôi. Trước đó tôi sẽ cho con uống thuốc ngủ để con ngủ khi qua biên giới. Như thế con sẽ không làm lộ chuyện. Không thể trông chờ trẻ con nói dối trơn tru được. Và tôi không muốn con khiếp sợ, không muốn con cảm thấy nỗi kinh hoàng đang siết chặt mỗi bắp cơ, kéo thẳng sống lưng, khiến tôi căng ra đến nỗi e mình sẽ vỡ vụn nếu có ai đụng phải. Mỗi điểm dừng là một vòng thử lửa. Chúng tôi sẽ ngủ đêm ở nhà nghỉ, hay tốt hơn là trong xe, ở một nhánh đường phụ để tránh những hỏi han ngờ vực. Sẽ vượt biên vào buổi sáng, qua cầu, hết sức đơn giản, chỉ như lái xe đi siêu thị.
Xe rẽ vào xa lộ, lên phía Bắc, đường vắng vẻ, đi bon bon. Từ độ khai mào chiến cuộc, giá ga đội lên, mà cũng hiếm tìm được. Ra khỏi thành phố là qua chốt kiểm soát đầu tiên. Họ chỉ đòi xem đúng có bằng lái, Luke xoay xở ổn. Bằng lái và hộ chiếu khớp nhau: cái đó tính rồi.
Khi lại lên đường, anh bóp chặt tay tôi, ngó qua tôi. Em trắng bệch như tờ giấy ấy, anh nói.
Và tôi cảm thấy y như thế: trắng, phẳng, mỏng dính. Tôi thấy mình trong suốt. Chắc chắn họ sẽ nhìn thấu tận tim gan tôi. Tệ hơn, làm sao tôi bám được vào Luke, vào con, nếu tôi phẳng thế này, trắng thế này? Tôi cảm thấy mình không còn lại bao nhiêu; hai người sẽ trượt khỏi vòng tay tôi, như thể tôi làm bằng khói, một ảo ảnh sa mạc, tan dần trước mắt họ. Đừng nghĩ thế, Moira ắt sẽ nói. Cứ nghĩ thế là chuyện sẽ xảy ra.
Cười lên nào, Luke nói. Giờ anh đi hơi nhanh. Máu đã bốc lên đầu. Giờ anh còn hát nữa. Cuộc đời vẫn đẹp sao, anh ngân nga.
Ngay chuyện đó cũng làm tôi lo. Người ta đã cảnh báo đừng tỏ ra hân hoan quá.
15
Chủ soái gõ lên cửa. Đấy là luật định: phòng nghỉ được coi là lãnh thổ của Serena Joy, ông ta phải xin phép mới được vào. Bà ta ưa bắt ông ta đợi. Một việc nhỏ nhặt thôi, nhưng trong gia hộ này từng việc nhỏ nhặt đều có ý nghĩa. Tuy nhiên đêm nay, bà không có được cả khoái thú ấy, bởi bà chưa kịp lên tiếng ông ta đã bước thẳng vào phòng. Có thể đơn giản là ông quên quy ước, mà cũng có thể cố tình. Ai biết được bên bàn ăn lấp lánh bạc, bà đã gì nói với ông? Hoặc không nói gì.
Chủ soái vận quân phục đen, trông như bảo vệ bảo tàng. Bán hưu trí, lịch thiệp nhưng nghi ngại, cả ngày ngồi nhàn. Nhưng là khi thoạt nhìn thôi. Kỹ hơn chút nữa, ông ta giống một chủ nhà băng miền Trung Tây, mái tóc bạc chải gọn, dáng điệu trịnh trọng, vai hơi khòm. Kỹ nữa thấy bộ ria cũng bạc, rồi nữa cái cằm, không ai có thể bỏ qua. Xuống tới cái cằm thì ông giống hình quảng cáo vodka, trên trang tạp chí giấy bóng, cái thời đã xa.
Ông ta có tác phong mềm mỏng, bàn tay lớn, ngón dày, ngón cái tham lam, đôi mắt xanh kín bưng, vô hại một cách giả dối. Ông ta nhìn tóm bọn tôi như kiểm kho. Một đàn bà quỳ màu đỏ, một đàn bà ngồi màu lam, hai xanh lục đứng, một đàn ông duy nhất, mặt xương, làm hậu cảnh. Ông ta khéo tỏ vẻ bối rối, như không nhớ rõ sao lại có cả đám ả đây. Như những thứ vừa do thừa ké mà có, một cây dương cầm đạp chân thời Victoria, ông chưa luận ra phải làm gì với chúng tôi. Hay chúng tôi giá trị cỡ nào.
Ông gật đầu đại khái về phía Serena Joy, bà này không mở miệng. Ông bước ngang phòng tới ghế bành da lớn dành riêng, lấy chìa trong túi, lần mò cái hộp bọc da bịt đồng tinh xảo đặt trên bàn con cạnh ghế. Ông tra chìa, mở hộp, nhấc ra cuốn Kinh thánh, bản thường, bìa đen, mép mạ vàng. Cuốn kinh khóa kỹ, như ngày xưa người ta khóa kỹ trà, để gia nhân không thó được. Một quả bom cháy: ai biết được chúng tôi sẽ làm gì với nó, nếu có chạm vào được? Chúng tôi được đọc cho, nhờ ông, nhưng không được phép đọc. Mấy cái đầu quay cả về ông, ngóng đợi, giờ kể chuyện cổ tích đến rồi.
Chủ soái ngồi xuống khoanh chân lại, giữa mười mắt cùng ngó. Thẻ đánh dấu trang đều đúng chỗ. Ồng ta mở cuốn kinh. Hơi hắng giọng, dường như ngượng nghịu.
“Cho tôi cốc nước,” ông nói vu vơ. “Được không?” ông thêm.
Sau lưng tôi, một trong hai người, Cora hoặc Rita, rời hoạt cảnh mà lạch bạch về phía bếp. Chủ soái ngồi đó, mắt nhìn sàn. Chủ soái thở dài, lôi từ túi áo trong ra đôi kính, gọng vàng, đẩy lên mũi. Giờ ông ta thành cụ thợ giày trong cuốn truyện cổ tích cũ. Cổ phải ông ta dự trừ một kho vô tận, những mặt nạ nhân tù?
Chúng tôi theo dõi: từng xăng ti, từng cái giật mình.
Làm đàn ông, giữa một đám đàn bà đang theo dõi. Hẳn phải rất lạ lùng. Khi để họ đó, chăm chú nhìn ông, mọi lúc. Khi đế họ đoán chửng, Ông sắp làm gì tiếp đây? Đe họ rúm người trước mỗi cử động, dù vô hại đến đâu, với lấy gạt tàn chẳng hạn. Để họ đo lường ông. Để họ nhủ thầm, Không được, không đâu, đành phải vậy, câu thứ ba như thể ông là một thứ trang phục, lôi thôi hay thứ phẩm, vẫn phải khoác vào vì nếu không cũng chẳng có gì.
Để họ mang ông vào, ướm lấy ông, thử nghiệm ông, trong khi chính ông cũng mang họ vào, như đi tất vào chân, bọc lấy cái mẩu đuôi cụt của ông, ngón cái thừa rất nhạy, cái xúc tu, con mắt cuống mềm yếu của sên trần, biết phóng tới, nở ra, rụt lại, hay cuộn trả vào trong mình nếu bị chạm vào không đúng cách, lại to ra, hơi phình lên ở đầu, tiến lên trước như dọc theo cuống lá, vào trong họ, háo hức muốn nhìn thấy. Nhìn thấy được bằng cách đó, bằng chuyến du hành vào bóng tối, thứ bóng tôi cấu tạo bởi đàn bà, bởi một người đàn bà biết nhìn trong bóng tối trong khi ông đây căng người tiến tới trong mù lòa.
Người ấy theo dõi ông từ bên trong. Chúng tôi thảy đều theo dõi ông. Việc duy nhất chúng tôi thực tình được phép làm, mà cũng không phải là vô nghĩa: nếu ông do dự, thua cuộc, nếu ông chết, chúng tôi sẽ ra cái gì? Chẳng trách ông như chiếc bốt, vỏ ngoài cứng rắn, bao bọc đôi chân trắng. Mà đây chỉ là ước muốn thôi. Tôi đã quan sát ông khá lâu và không thấy dấu hiệu yếu mềm nào cả.
"""