"
Chuyện Làng Ngày Ấy - Võ Văn Trực full mobi pdf epub azw3 [Hiện Thực]
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Chuyện Làng Ngày Ấy - Võ Văn Trực full mobi pdf epub azw3 [Hiện Thực]
Ebooks
Nhóm Zalo
võ văn trực
chuyện làng ngày ấy
tạp chí văn học
2006
Contents
1
bác chắt kế đã về
2
một buổi sáng cờ bay
3
mẹ tôi
IV
tết độc lập
V
đám cưới o theo anh mẫn VI
chúng mình sắp được ở chung rồi! VII
vĩnh biệt những cây cổ thụ VIII
tập trung tổ ên
IX
tập trung thần, thánh, phật X
tập trung mồ mả
XI
núi hai vai xệ một bên vai
XI
thuế khả năng
XIII
đấu tranh chính trị
XIV
bác chắt kế cũng bị đấu
XV
ngày mẹ qua đời
XVI
xây lại nhà thờ đại tôn
XVII
thăm nghĩa địa
I
bác chắt kế đã về
- Bác Chắt Kế đã về!
- Bác Chắt Kế đã về!
Lũ trẻ chúng tôi đang chăn trâu dưới đồng Lao thì cái n ấy truyền đến. Lời truyền chỉ thì thầm từ tai đứa này qua tai đứa khác, không thành ếng, nhưng truyền đi rất nhanh. Chỉ chốc lát là tất cả chúng tôi sững sờ, bỏ mọi cuộc chơi. Đứa đang chơi khăng, bỏ hồn củ lăn long lóc. Đứa đang chơi “dọn cỗ thi”, bỏ vầy và cỏ gà, cỏ sữa trong lòng nón. Đứa đang tắm cho nghé cũng bỏ mặc đấy. Tất cả đúng túm tụm lại, bàn tán với những vẻ mặt đầy quan trọng:
- Bác Chắt Kể về thật rồi à?
- Về thật! Nhật thua Tây thua thì bác Chết Kế mới được về chú? - Sao hôm qua bang Trân vào nhà tao bắt nộp lúa tạ?
- Trốn về thì sao?
- Nếu bác Chắt Kế về thật thì ta sắp sung sướng rồi!
Một đứa nhỡ mồm suýt reo to bị thằng Bá giơ tay bịt chặt mồm lại: - Chết! Chết! Mày lau chau nói ra, mất cái đội nón như chơi!
Bỗng ông tuần Chư từ xa đi tới, chúng tôi xì xào: “Ông tuần Chư là người của nó”, rồi lảng mỗi đứa một nơi. Thằng Bá làm ra vẻ đàn anh, nhảy nhóc lên lưng trâu, hát nghêu ngao một bài đồng dao:
Nghé bông hay là nghe hoa Như cà mới nở
Ở nghé nghé ...
Cả lũ chúng tôi cùng giong trâu hát theo. Đàn trâu nối nhau từ cánh đồng Lao thanh thả đi về cổng làng. Bụng đói meo mà sao tôi cảm thấy vui sướng đến thế, ngồi trên lưng trâu cứ ngỡ như mình bay theo ngọn gió nồm cùng với những đám mây nhuộm vàng ráng chiều...
Bác Chắt Kế về rồi! Thế là mình sắp được đi học, sắp được tập hát tập múa, sắp được ăn chung ở chung với bạn bè cùng lứa tuổi trong làng. Còn gì sung sướng hơn. Sao làng mình có bác Chắt Kế mà làng khác lại không có. Thế làng mình đánh được Tây được Nhật thì làng khác cũng đánh được chứ? Bác Chắt Kế là người của thiên hạ chứ đâu có phải của riêng làng mình? Trong ý nghĩ trẻ thơ, tôi tưởng tượng bác Chắt kế như vị thần của một ngôi miếu thâm u cổ thụ nào đó được thế giới thần linh phải ra để cứu dân khổ đau. Tôi chưa hề một lần nào được thấy bác, được gặp bác. Tôi chỉ nghe lõm bõm về bác trong khi người lớn trò chuyện với nhau. Nhất là một buổi sáng, chao ơi cái buổi sáng ấy tôi nhớ mãi. Cụ Tú Vệ làng Kẻ Sụm xuống chơi với ông tôi. Hai cụ uống rượu và nói chuyện đến tận mặt trời đứng bóng. Gọi là uống rượu chứ thật ra đạm bạc lắm, rượu chỉ vừa một nậm với một con cá rô đặt trong đĩa sứ vẽ hình cây trúc. Hai cụ nâng chén bạch định lên môi nhấp rồi lại đặt xuống. Hai cụ cầm đũa gây gây con cá gắp từng một. Tôi có cảm giác hai cụ uống vờ và ăn vạ. Đến khi cụ Tú Vệ cắp ô ra về, con cá mới hết một nửa và rượu cũng chỉ hết lưng nậm. Hai cụ đó thanh bạch quá chừng, hình như chỉ cốt dùng rượu làm cái cớ để giãi bày thế sự, chứ không cần sự hưởng thụ xô bồ vật chất... Sở dĩ hôm đó tôi được chứng kiến một cách kỹ càng “ệc rượu” của cụ Tú Vệ với ông tôi là vì tôi vờ đứng bên cạnh hầu điều đóm để nghe chuyện bác Chắt Kê. Tôi chắp nhặt từng mẩu vụn vặt, rồi đi kể cho bạn bè mục đồng nghe. Tôi thêm thắt,
xâu chuỗi lại, tưởng tượng thêm và trong tâm trí tôi hình thành một bác Chắt kế của chuyện cổ ch, của thần thoại.
Ở cánh đồng phía tây làng tôi có một cái giếng hình bàn chân khổng lồ, gọi là giếng Thần. Từ xưa từ xưa người ta truyền lại rằng có một vị thần gánh núi đi qua và bàn chân dẫm lõm xuống thành cái giếng. Bao nhiêu chuyện kể huyền ảo và kỳ vĩ về cái giếng này... Trong kho tàng chuyện kể ấy, có chuyện “thanh gươm cố Kế”. Cố Kế là cụ thân sinh bác Chất Kế, một lần đi vận động phong trào Văn Thân từ Yên Thành về, qua giếng Thần, Thần hiện lên và trao cho thanh gươm, đêm ấy bà thân sinh có mang rồi đẻ ra bác Chắt Kế. Các cụ đồ trong làng bảo rằng bác Chắt Kế là người của thần linh sai phái xuống để cứu nhân độ thế. Từ mười lăm mười sáu tuổi, bác đã tham gia các hoạt động của “hội kín”. Năm 1927, bác đứng ra thành lập chi bộ Thanh Niên Cách Mạng Đông Chí Hội của làng tôi. Bác đi khắp bốn phương trời, vào Tây Cống, sang Xiêm La, tới Hương Cảng, sang Luangprabang, đến Nông Pênh... Rồi bác bị đi đày ở Lao Bảo, Ban Mê Thuột...
Lao Bảo là nơi đâu? Ban Mê Thuột là nơi đâu? Nghe nói đó là những chốn ma thiêng nước độc, chứa đầy những quỷ sứ có sừng, răn đỏ mào, rết mắt xanh. Bác Chắt Kế bị ném vào địa ngục ấy và chịu đựng muôn nghìn cực hình. Bác bị xẻo thịt, bị dẫm chân lên lưỡi cày nướng đỏ, bị tuột cật nứa, bị ném vào ổ rắn độc... Bác vẫn không chết bởi vì bác có phép thiêng của Thần ban cho.
Ôi những cái địa danh Lao Bảo, Ban Mê Thuột rùng rợn đến thế mà kích thích trí tưởng tượng, lòng khao khát của tuổi thơ biết bao. Khi nào mình được đặt chân tới đó để nhìn tận mắt cảnh địa ngục trần gian - nơi bác Chắt Kế, người của làng mình, đã từng chống chọi với diêm vương, quỷ sứ?
Có phải bác là con đại bàng trong truyện cổ đã tung cánh làm đổ vỡ bao nhiêu thành lũy lao tù để trở về với làng xóm, với bà con thân thuộc...
Hôm nay bác đã về làng thật rồi ư? Chắc chắn lần này mình sẽ m kỳ được để nhìn thấy bác. Một buổi sáng, tôi vừa giong trâu ra khỏi cổng thì gặp một người đàn ông lạ mặt bước vào. Người ấy trạc năm mươi tuổi, mặc bộ quần áo xanh bạc màu. Cha tôi vồn vã chạy ra ếp. Tôi linh cảm: đây là bác Chắt Kế! Đúng là bác Chắt Kể thật. Bác ấy vào nhà mình chơi, tôi cảm thấy như ai trao cho mình niềm vinh dự bất ngờ. Mấy người hàng xóm cũng chạy sang hỏi thăm ríu rít. Tôi cột trâu vào gốc cau, chạy vào buồng, chăm chú nhìn qua lỗ phèn để thấy rõ bác Chắt Kể là người như thế nào: vâng trán rộng, mắt sáng, tóc chải ngược điểm hoa râm. Quả thật là gương mặt của một người thông minh khác thường. Trong câu chuyện trao đi đổi lại giữa bác với bà con làng xóm, tôi không hề nghe ai nói đến việc đánh Nhật đuổi Tây. Tôi chi thấy gương mặt bác rạng rỡ, tươi cười, hỏi thăm chuyện mùa màng, đồng áng. Từ người trung niên đến cụ già đều trả lời bác với thái độ lễ phép, kính trọng.
Mọi người đang vui vẻ trò chuyện, bỗng ông mõ từ ngõ xồng xộc đi vào báo có bang Trân cùng mấy tên lính đã đến cổng làng. Thoắt một cái, bác Chắt kế lần ra cửa sau, sang nhà bên cạnh, rồi đi biệt. Tôi nhảy lên lưng trâu, hát nghêu ngao lững thững ra đồng.
Ngày hôm sau, hôm sau, rồi hôm sau nữa... không hề thấy bác Chắt kế trong làng. Con đại bàng ấy lại bay tới phương nào?...
II
một buổi sáng cờ bay
Tôi đang ngủ li bì sau một đêm nơm cá dưới đồng sâu, bỗng nghe ếng mẹ gọi:
- Dây con! Dậy con! Dậy mà đi nghe bác Chắt Kế hiểu thị.
- Bác Chết Kế à?
Tôi choàng thức dậy. Tôi chẳng biết “hiểu thị” là thế nào, nhưng nghe đến tên bác Chắt Kể là tội linh cảm có điều gì không bình thường đã đến. Chạy ra cổng, tôi thấy người đi rầm rập ngoài đường, mỗi người cầm một lá cờ đỏ sao vàng. Không kịp rửa mặt, tôi chạy đến nhà thằng Bá để rủ Bá cùng đi. Niềm vui lớn này mà thiếu bạn thân thì vui sẽ giảm đi rất nhiều. Nhưng
Bá không còn ở nhà nữa. Tôi chạy thẳng ra nhà thờ đại tôn. Ôi chao, người đông đến thế. Trên ngọn cây phượng, một lá cờ to bay phấp phới - không phải lá cờ đại thường treo trong những
ngày tế lễ, mà là cờ đỏ, cờ của cách mạng. Cách mạng đã về thật rồi! Bác Chất Kế đã về thật rồi!
Tôi bồn chồn cả người. Ngước nhìn màu cờ đỏ tung bay trên cây phượng ngay trước sân nhà thờ đẹp, đẹp quá. Biết bao nhiêu mùa nắng, lũ trẻ chúng tôi thường trèo lên cây phượng này để hái hoa rồi đến mùa quả lại hái quả để làm những thanh gươm đấu nhau như các vị tướng trong tuồng cổ. Bây giờ trên tán cây đơm đầy kỷ niệm đó đã bay hồng ước mơ của chúng tôi. Sắp qua những buổi chiều chăn trâu bụng đói meo. Sắp qua những ban trưa cắt cỏ đói lả người. Tôi chưa biết cách mạng là gì, chỉ nghe
người lớn bàn tán: bác Chắt Kế là cách mạng, bác Chắt Kế về là cách mạng về, là ăn no mặc ấm, được đến trường học hành...
Tôi trèo lên cây ruối nhìn xuống. Giữa vòng vây kín bác Chắt Kế đang đứng “hiểu thị”. Nhưng xa quá không nhìn rõ, tôi lách đám đông chui vào. Bình thường như các đám hội khác, chen lấn thế này là bị người này mắng người kia quát, nhưng hôm nay ai cũng tránh ra cho tôi đi.
Vừa chui lọt vào giữa vòng người, chợt thấy thằng Bá đang ngồi chồm hổm, tôi vỗ vào lưng nó reo to một ếng: “Bá!”. Bá quay lại, trợn mắt ra hiệu cho tôi phải trật tự. Tôi ngoan ngoãn làm theo sự điều khiển của Bá. Tôi chễm chệ ngồi xếp bằng lưng thẳng, đầu ngẩng cao, làm ra vẻ mình cũng là một người quan trọng của cuộc lễ này. Thỉnh thoảng tôi đưa mắt nhìn xung quanh để m người quen: Cha tôi đứng kia... mẹ tôi đúng kia. chị tôi đứng kia... Cả nhà tôi đều có mặt đầy đủ. Và cả các bạn chăn trâu chăn bò: thằng Bàng, thằng Nha, thằng Lương... Ông mõ cu Lợi cùng đứng lẫn với ông lý trưởng, ông hương kiểm. Có ông hàn Hạp nữa. Ông hàn Hạp làm quan, về hưu, khi nào có việc làng ông cũng ngồi chiếu trên, được mọi người trọng vọng. Có lần ông đánh mấy cụ già chảy máu giữa đình làng. Hôm nay ông đứng xen vào giữa mấy bác suốt đời đi cày thuê.
Lạ lắm! Cách mạng lạ lắm! Đổi đời đến nơi rồi. Sung sướng đến nơi rồi. Tôi như ngồi trên tổ kiến lửa, chân tay cứ ngọ nguậy, thỉnh thoảng lại bấm vào người thằng Bá một cái.
Bác Chắt kế đúng chính giữa, mặc bộ đồ soóc vải nâu mới nguyên. Bác nói những gì dài lắm. Nào là đồng minh thắng rồi, trục phát xít bại trận rồi. Nào là nước Nga Xô viết vạn tuế. Nào là chủ nghĩa Mã Khắc Tư vô địch... Hai tay bác giơ lên rồi hạ xuống, trông rất oai vệ. Tôi như bị thôi miên theo từng cử chỉ của bác.
Lạ nhất là chốc chốc người ta lại vỗ tay. Từ trước đến nay, giữa hội hè đình đám người ta có vỗ tay đâu, mà chi reo lên. Có một người vỗ tay trước, rồi mọi người vỗ theo. Tôi ngơ ngác, không hiểu mình có vỗ tay hay không? Liếc nhìn sang thằng Bá xem hắn thế nào? Hắn ngập ngừng giơ hai bàn tay rồi vỗ. Tôi cũng làm theo hắn. Lúc nào tôi chậm chạp, hắn hích tôi một cái, ý bảo “hãy vỗ tay thật to”. Bao giờ hắn cũng tỏ ra hiểu biết hơn tôi.
Sau khi nói một hơi tràng giang đại hải, bác Chắt Kế đến trước mặt ông hàn Hạp. Hàng trăm cặp mắt dõi theo. Bác nói với ông hàn Hạp một cách đĩnh đạc: “Việt Minh khoan hồng những người trước đây làm tay sai cho Pháp cho Nhật. Mọi người phải ủng hộ Việt Minh. Ai chống lại Việt Minh thì bị xử tử...”. Ông hàn Hạp chắp hai tay, miệng lẩm bẩm “Dạ... dạ...”.
Quá nửa buổi, dân làng giải tán. Bác Chắt Kế dẫn một đoàn thanh niên lực lưỡng cầm cờ cầm mác đi giành chính quyền ở các làng khác trong huyện Diễn Châu. Từ nhà thờ đại tôn, đoàn người đi rất uy nghi, chân bước dài, miệng đểm “ắc ê... ắc “...”.
Tôi đứng ở cổng làng nhìn theo, người rạo rực, ngực đập thình thình. Bác Chắt kế đi đầu, vai mang khẩu súng trường, hai thanh niên cầm dao sáng quắc đi hai bên để bảo vệ.
Đoàn người đi theo con đường dẫn qua cánh đồng trũng, soi bóng xuống nước, trông càng đẹp mắt. Con đường này có hai đoạn bị đứt, nước chảy xiết, thường ngày chúng tôi phải cỡi trâu qua, thế mà đêm hôm trước cách mạng đã bắc cầu tre vững vàng. Đoàn người đến làng nào thì làng ấy nổi trống, dân kéo ra đông như ngày hội. Bác Chắt Kể lại hiểu thị lại diễn thuyết. Tiếng trống vang dội chuyện từ làng này sang làng khác. Khắp cả huyện, ếng trống rộn lên như vỡ trời vỡ đất. Tôi ngước nhìn lên núi Hai Vai. Kìa đỉnh núi cũng tung bay cờ đỏ. Cách mạng tài thật! Ai đã trèo lên tận chót vót núi để cắm cờ? Ôi, ngọn núi ông Đùng, ngọn núi thần thoại,
ngọn núi mang đầy khát vọng tuổi thơ, đã rực hồng cánh đại bàng, chờ tâm hồn tôi bay lên thiên đường của thế giới đại đồng.
Suốt ngày hôm đó, tôi cứ bàng hoàng, tôi cứ ngơ ngác như không phải là chính tôi nữa. Tôi đã là một con người khác, đã là thành viên của cái làng Hậu Luật cách mạng sản sinh ra bác Chắt Kế. Tôi cứ chạy lông nhông nhập vào đám trẻ này rồi nhập vào đám trẻ khác để kháo chuyện, để bộc lộ niềm vui sướng vô hạn của mình. Thả trâu ngoài đồng, mải vui với bạn bè, trâu ăn lúa, không bị ông tuần Chư mắng mỏ và bắt trâu nữa. Ông tuần Chư gọi tôi lại bảo nhỏ: “Cháu để trâu ăn lúa như thế này thì lấy thóc gạo đâu mà nuôi cách mạng. Cách mạng phải đi đánh Tây đánh Nhật, phải đi cướp chính quyền suốt ngày, cần nhiều gạo để ăn...”. Lần đầu ên nghe ếng ông tuần Chư nói nhỏ nhé, tôi ứa nước mắt. Hôm qua hôm kia ông là “người của nó”, hôm nay ông là “người của ta” rồi, ông không ác với trẻ con nữa. Cây ổi sau vườn nhà cố cựu Tuấn, chúng tôi thường hái trộm, bị cố đuổi nhiều phen bỏ chạy ngã dập mặt, trưa nay chúng tôi đi qua cố gọi vào nói ngọt ngào: “Các cháu ra vườn mà hái ổi. Thích ăn bao nhiêu cứ hái. Tất cả của cải sắp thành của chung rồi. Cây ổi là của chung của các cháu”.
Tối đến. Trăng mùa thu sáng đầy trời. Tuy đang trong trận đói, nhưng không khí trong làng xóm thanh bình như thời Nghiêu Thuấn. Nhà nào nhà nấy cửa bỏ ngỏ, ríu rít mời nhau uống nước chè xanh. Không biết từ thời nào, vùng quê tôi có phong tục bà con láng giềng gọi nhau uống nước chè xanh, trò chuyện thân mật, nh cảm đậm đà. Có lẽ bát nước chè xanh đêm nay ngon hơn rất nhiều. Hầu như cả làng không ngủ. Từng đám người tụ họp lại kháo chuyện thậu canh suốt sáng. Chủ nhà nấu ấm nước thật đặc, mời hết lần này đến lượt khác. Sân nhà tôi cũng thành một điểm tập trung tới gần hai chục người. Mấy bác hàng xóm đi làm thuê ở miền ngược vừa mới về lúc chiều, cũng kéo nhau sang hóng chuyện. Quen như mọi khi, các bác nghĩ mình “phận nghèo hèn” cứ ngồi rụt rè trong góc tối, mẹ tôi nói:
“Mời các bác các chú ra giữa sáng ngồi đàng hoàng, bây giờ cách mạng rồi, mọi người bình đẳng như nhau, không phân biệt giàu nghèo sang hèn nữa”.
Tiếng trống từ nhà thờ đại tôn vang lên liên hồi. Tiếng trống từ các làng dội đến. Cả một trời trăng rung lên nhịp trống mừng cách mạng thành công. Từng bát nước chè xanh trên tay người nông dân chân lấm tay bùn cũng rung lên nhịp trống hân hoan
III
mẹ tôi
Hôm nay có cuộc biểu nh rất to ở huyện. Dân chúng tất cả các làng nườm nượp kéo nhau xuống ngã ba Diễn Châu để nghe Việt Minh tuyên bố giành chính quyền.
Từ nh mơ, dân làng tôi đã tập trung rất đông ở bãi cỏ đầu thôn. Mẹ tôi cùng mấy bà hàng xóm thức dậy từ gà gáy canh hai để nấu cơm. Khi tôi tỉnh dậy đã thấy hàng chục nắm cơm gói sẵn vào lá chuối. Mẹ dặn tôi: “Trưa nay bố mẹ không về kịp thì con ăn cơm mẹ để sẵn trong nồi”. Thế rồi mẹ nhanh nhẹn xếp những nắm cơm đó vào hai thúng gánh ra đầu làng để phân phát cho những người đi biểu nh.
Tôi chạy theo mẹ, đôi chân nhẹ nhàng như bay trong mây. Người đâu mà đông đến thế. Cả bãi cỏ chật ních những đàn ông, đàn bà, cụ già, con trẻ. Ngày hội rước kiệu cũng không đông vui như thế này. Ông Lời mù mắt từ nhỏ cũng lập cập chống gậy, vừa đi vừa nói: “Tôi không được nhìn thấy, tôi nghe bằng hai tai đủ sướng cái đời tôi. Đuổi được Tây được Nhật, cách mạng thành công, tôi chết cũng thỏa trong lòng”.
Vừa hừng sáng. Các làng miệt trên đã lũ lũ kéo đi như kiển cỏ dọc đường số Bảy. Mấy chục người ăn mày ở chợ Mới cũng tập họp thành đoàn. Suốt hàng năm, sáu tháng trời, những người này từ các tỉnh ngoài Bắc vào đây tha phương cầu thực, ngày đi ăn xin, đêm về ngủ lều chợ. Thỉnh thoảng lại có một người chết, tuần định bó rơm khiêng lên chốn ở nghĩa địa. Nghe n Việt Minh đã đánh đuổi được Tây được Nhật, họ sướng lắm, họ dắt díu bế con bế cháu đi tham gia cướp huyện.
- Tất cả mọi người nghiêm chỉnh tuân theo mệnh lệnh của tôi! Phía đầu bãi cỏ ếng anh Uẩn vang lên. Anh dõng dạc nói ếp - Đội ngũ đã phân công, ai nấy chấp hành theo kỷ luật sắt!
Khắp bãi cỏ, ếng người chạy sàn sạt tập hợp theo từng đội hình: Các cụ ông, các cụ bà, nam thanh niên, nữ thanh niên. Chị tôi đi đầu bịt khăn mỏ quạ, lưng thắt khăn hoa lý, cầm con dao dơ lên, hô: “Chị em chú ý, tập họp!” Mấy chục cô gái sắp hàng dài sau lưng chị. Tôi bỗng thấy nóng ran cả người. Bây giờ tôi mới biết: Chị được làm trung đội trưởng nữ tự vệ. Hằng ngày chị hiền lành thế, chị đi cấy đồng sâu, đi hát ví phường vải, mà bây giờ chị trở thành “người chỉ huy” trông rất oai vệ.
Cha tôi đầu thắt khăn trắng đại tang, đứng vào hàng ngũ phụ lão. Theo phong tục từ lâu đời, ai đang có tang thì không được dự các cuộc hội hè đình đám. Nhưng hôm nay là ngày Việt Minh cướp chính quyền, ngày hội nghìn năm có một, phải gạt bỏ mọi phong tục cổ hủ, cha vẫn đi biểu nh.
Mẹ tôi cũng vậy, đầu thắt khăn tang, mặc váy mới và áo nâu mới, Ngang lưng giắt lưỡi liềm. Chân đất. Đứng trong hàng ngũ im như tượng.
Sau ếng hô “đi đều... bước!” của anh Uẩn tổng chỉ huy, đám người chuyển động, rồi kéo dài ra theo đường thôn lên đường quốc lộ. Đoàn này nối với đoàn kia, dài dằng dặc, cuồn cuộn sóng. Màu cờ đỏ rừng rực tạo thành đường viền chân trời lúc nắng mọc. Vũ khí cuốn theo dòng người là
lấp loáng dao phay, mác lào, ngổn ngang đòn xóc, đòn càn. Bụi bay lên mờ mờ như đám khói cháy lan dần về phía thành phủ.
Tôi đứng cạnh thằng Bá cùng với mấy đứa bạn, hút mắt nhìn theo dòng người. Ghé tai Bá, tôi hỏi nhỏ: “Sao không thấy bác Chắt Kế?”. Bà giải thích ra vẻ thành thạo: “Mày đần lắm! Bác Chắt Kế làm to, ngồi sẵn trên huyện rồi, chỉ huy toàn huyện chứ có phải chỉ huy riêng làng ta đâu!” Ra thế kia à! Tưởng là bác lãnh đạo làng ta đã là ghê gớm rồi, không ngờ bác lại còn lãnh đạo cao hơn.
Chúng tôi rủ nhau trở về. Làng vắng tanh vắng ngắt. Nhiều nhà không đóng cửa. Hai bà ăn xin thấy chúng tôi đang ngồi nói chuyện giữa sân, vào xin nước. Tôi múc nước mời uống, bê rổ khoai mời ăn, rồi ân cần nói: “Quê bà ở ngoài Bắc xa lắm, có lẽ quê cũng cướp chính quyền rồi. Các bà về đến nhà thì sướng lắm, không phải đi ăn mày nữa...” Tay bà run run cầm củ khoai: “Có thật đuổi được Tây được Nhật rồi không cháu? Mai bà về, bà nhớ ơn cháu...” Ăn khoai xong, hai bà lại mang bị cầm gậy ra đi. Đến nhà nào thấy cửa bỏ ngỏ mà vắng người, hai bà liền quay ra, chứ không lấm la lấm lét vào ăn cắp của cải như những người ăn xin trước đây.
Mẹ tôi vất vả hơn trước, tất tươi hơn trước. Hết việc đồng áng lại lo việc nhà. Hết việc nhà lại lo việc hội họp. Chẳng mây lúc mẹ được ngơi chân tay. Cán bộ thôn, xã và cả cán bộ cấp trên nữa thường xuyên vào nhà tôi, lúc một vài người, lúc dăm bảy người. Có lần vào nghi một chốc rồi đi. Có lần vào làm việc rồi ngủ lại đêm. Hầu như ngày nào cũng có khách ăn cơm trong nhà tôi. Đang làm ngoài đồng, hễ tôi ra báo n nhà mình có khách là mẹ về ngay. Thỉnh thoảng mẹ tham dự vào cuộc họp với các ông cán bộ. Nhưng công việc chính của mẹ là nấu cơm cho cán bộ ăn, lấy gạo nhà, thức ăn nhà, chẳng ai bận tâm đóng góp ền nong. Thế mà chẳng bao
giờ mẹ kêu thiếu gạo thiếu ền. Thật ra cán bộ ăn uống cũng xuềnh xoàng, lỡ may hết gạo thì ăn khai với cà cũng xong.
Bác Chắt Kế dạo này làm việc đầu trên tỉnh, ít về làng. Lần nào về là thế nào cũng vào nhà tôi và thường ở lại ăn cơm với một vài ông cán bộ. Tôi lại ra khoe với bọn trẻ trong xóm: “Bác Chắt Kế ăn cơm ở nhà tao”. Chúng nó khoe lại: “Bác Chốt Kế cũng vào nhà tao chơi”. Hầu như đứa nào cũng được bác vào chơi. Nhưng tôi vẫn thấy có chút tự hào riêng là bác chi ăn cơm nhà mình chứ rất ít khi ăn cơm ở nhà ai.
Mẹ tôi tháo vát, phục dịch không bao giờ mệt mỏi. Chẳng mấy tối mà mẹ không đi họp. Có hôm họp đến quá nửa đêm mới về. Sáng hôm sau vẫn dậy từ gà gáy để lo cơm nước cho mọi người trong nhà ăn đi làm đồng.
Một hôm, mẹ bảo tôi lấy mấy tờ giấy đóng quyển vở để mẹ đi học bình dân học vụ. Tôi tò mò đến mấy lớp học ban đêm trong làng, không thấy mẹ. Nghe nói mẹ học tại một “lớp bình dân học vụ đặc biệt”. Đêm nào mẹ cũng thức khuya ngồi học một mình dưới bếp, viết chữ nghuệch ngoạc lên khắp nền nhà, nồi, thành vại, thành chum. Năm mươi tuổi rồi, mẹ mới bắt đầu học abc, mà sao lại học say mê đến thế. Chừng sau một năm mẹ đã cầm tờ báo vừa đánh vần vừa đọc lẩm nhẩm.
Tôi nghe lõm bõm người lớn nói chuyện với nhau: “Bà Đoan - tức mẹ tôi - là người của đoàn thể, bà ấy vừa mới được kết nạp vào đoàn thể”. Tôi chưa hiểu đoàn thể là gì, nhưng cũng mang máng biết được rằng đó là một tổ chức do bác Chắt kế lập ra để làm gương mẫu cho mọi người trong làng.
Hôm ấy, dân mấy làng Hậu Luật, Vân Tập, Thanh Lý, Xuân Viên tập họp để nghe tuyên bố thành lập xã Đồng Tâm. Mẹ tôi trang phục hoàn toàn khác hẳn, không ăn bận bình thường như trước nữa: mặc quần đùi, cắt tóc ngắn, đi dép cao su trắng nhãn “Con Hổ”.
Cả xã chỉ có chừng dăm bà ăn mặc như thế. Trông rất lạ mắt. Đi đến đâu, người cũng xúm lại xem. Tôi nhìn theo mẹ, cảm thấy tự hào. Dần dần về sau, trong các ngày hội họp lớn, càng có nhiều bà cắt tóc ngắn, mặc quần đùi. Nhất là trong những ngày tập quân sự, tất cả nữ tự vệ đều cắt tóc ngắn và mặc đồ soóc. Dân kéo ra xem rất đông, bàn tán nhau: cô này mặc đẹp, cô kia mặc đẹp.
Đó là phong trào “cắt tóc thực hiện đời sống mới”. Mãi về sau, tôi mới biết mấy ông lãnh đạo đọc nhầm hai chữ “cấp tốc” thành “cắt tóc”. Vì thế, các làng khác trong huyện thì không, chỉ riêng làng tôi là có phong trào phụ nữ cắt tóc ngắn. Mà đã cắt tóc ngắn thì phải mặc áo cộc tay, quần đùi. Khi chưa kịp may quần soóc, mẹ tôi mặc quần đùi của cha dài đến đầu gối. Hằng năm, vào dịp ngày giỗ ngày tết, tôi thường theo mẹ về quê ngoại. Mẹ tôi là con cả của ông bà ngoại nên không bao giờ vắng mặt. Mỗi lần về ngoại mẹ ở từ sáng tận tối, xăm xắn tất cả mọi việc nấu nướng, cỗ bàn. Riêng năm nay, mẹ gọi tôi dậy từ khi chưa tỏ mặt người. Hai mẹ con trèo qua hòn núi, đến nhà ông bà ngoại thì trời vừa hừng sáng. Hầu như một mình mẹ làm tất cả mọi việc bếp núc. Gói nếp, mổ gà, thổi cơm gạo mới, thổi xôi... Mãi đến gần nửa buổi, các dì tôi mới về.
Tôi đã về ngoại rất nhiều lần, nhưng chưa bao giờ hồ hởi như lần này. Cách mạng rồi có khác, các di tỏ ý thương tôi hơn, ông bà ngoại cũng thương tôi hơn. Ông sai người ra vườn hái sẵn một quả mít to và dặn: “Cháu Trực chiều về thì nhớ mang về”, Dì Diện cho tôi cái mũ ca-lô, Di Mậu cho tôi đôi dép để tập thiếu sinh quân. Dì nào cũng tỏ ý kính trọng mẹ tôi. Có di đến ghé tai tôi hỏi nhỏ: “Mẹ cháu bây giờ là người của đoàn thể phải không?” Các di xúm xít xung quanh mẹ tôi, vừa sắp mâm cỗ vừa trò chuyện thân mật:
- Ả Đoan cắt tóc lại thấy trẻ như hồi con gái.
- Nghe nói tối nào ả cũng đi họp mà anh Đoan không ngăn giữ à?
- Gia đình ta có ả là giác ngộ nhất, ông bà được nhờ. Di Mậu đến cạnh mẹ, ngập ngừng hỏi:
- Em hỏi ả một điều... Á đã được vào đoàn thể rồi phải không? Mẹ nghiêm nét mặt:
- Ai nói với dì thế? Dì đừng có bép xép mà chết.
Cúng đơm xong, mẹ tôi không ở lại tận chiều, mà về ngay. Các dì bảo mẹ ở lại để nghe mẹ kể nh hình thế giới, nh hình trong nước. Ông tôi bảo: “Nó bận để nó về. Nó bây giờ phải lo cả việc nhà cả việc xã hội...” Mẹ tôi thắt chiếc khăn lên đầu để che lấp mái tóc ngắn, rồi dắt tôi về quê nội. Vừa tới nhà, đã thấy bác Chắt Kê đang ngồi đợi. Bác nói nặng lời: “Tôi phê bình đông chí về chậm. Lần đầu đồng chí phạm kỷ luật sắt của đoàn thể”. Mẹ lúng túng, bước vào nhà. Mấy đứa bạn hàng xóm, thằng Bá, thằng Dần, thằng Bàng, thằng Viễn... kéo nhau sang chơi, xóa cái không khí khó chịu giữa bác Chất đối với mẹ. Chúng tôi bổ mít ăn, rồi chụm đầu nhau học bài nh lớp bình dân.
Bác Chắt kế nói gì với mẹ tôi nhiều lắm, có vẻ quan trọng lắm. Trước khi đứng dậy ra về, bác nhìn chúng tôi học, vui vẻ nói với mẹ tôi:
- Đời ta đang phải chịu khổ nhiều. Tụi này lớn lên được hưởng thế giới đại đồng, sướng lắm!
IV
tết độc lập
Ngày mồng 2 tháng Chín hằng năm, dân làng tôi gọi là ngày “tết Độc Lập”. Cả làng nghỉ việc đồng áng. Nhà nào cũng thắp hương bày biện mâm cỗ cúng đơm. Nhiều trò vui được tổ chức như ngày tết Nguyên Đán. Làng xóm hân hoan trong phong tục mới.
Quên làm sao được tết Độc Lập đầu ên năm 1946. Suốt từ ngày 19 tháng Tám đến ngày mồng 2 tháng Chín, mọi người nô nức mặc quần áo mới đi dự hội. Dân quân, tự vệ thì tổ chức tập trận. Các cụ phụ lão thì rào “làng chiến đấu”. Các bà mẹ thì đi ủy lạo đơn vị bộ đội, gia đình cách mạng. Lũ trẻ chúng tôi thi nhau làm những chiếc đèn ông sao thật đẹp để chuẩn bị cho đêm rước đèn. Đúng tối mồng 2 tháng Chín, lễ rước đèn được tổ chức trong toàn xã. Loanh quanh khắp các ngõ xóm, đèn nổi nhau thành một dòng ánh sáng cùng với ếng trống tưng bừng. Người đứng xem hai bên đường rất đông.
Tối mồng 3, kết thúc những ngày vui, có biểu diễn kịch nói. Đây là món ăn nh thần hoàn toàn mới do bác Chắt kế mang về. Người ta đồn bác Chắt kế có nhiều tài: thợ nề, thợ mộc, chạm khắc, vẽ... Hồi bị tù ở Ban Mê Thuột, bác dùng tre đan chữ nho trên cái trường rất công phu. Hồi bị tù ở Lao Bảo, bác soi gương, dùng mực nho tự vẽ ảnh mình. Bác còn làm những cái hộp gỗ nhỏ chạm trổ rồng phượng... Bây giờ bác lại tự viết kịch bản, rồi lại làm thầy tập cho đội kịch. Vở kịch đả phá mê n dị đoan, đại khái như thế này:
Ngày 2 tháng Chín, từ hạ giới đoàn ông Táo kéo nhau về chầu Ngọc Hoàng. Ngọc Hoàng ngạc nhiên hỏi: Sao chưa hết năm đã về? Ông Táo thưa: Cả làng Hậu Luật theo đời sống mới, cúng tết vào dịp này. Ngọc
Hoàng hỏi lại: Thế sao không mang quà về? Ông Táo lại thưa: Dân làng Hậu Luật giác ngộ lắm, họ chẳng cứng đơm gì cả, chỉ thắp hương.
Vở kịch diễn vừa xong, từ trong xóm xa, có ếng ồn ào. Mọi người đổ xô tới: mấy người dân quân bắt trói ông Tường về tội ông ta uống rượu say, nói năng lè nhè. Làng đã ra lệnh cấm uống rượu để thực hiện đời sống mới, ông Tường uống rượu tức là phạm luật làng, tức là không tuân theo cách mạng. Bà Tường vừa chạy theo vừa khóc. Vừa thấy bác Chắt Kế, bà chắp tay xin: “Bác tha tội cho nhà em. Người dưng nước lã bác cũng phải tha tội giữa ngày vui này, huống hồ bố nó là bậc em út họ hàng của bác”. Bác Chắt Kế giơ tay, nói đĩnh đạc: “Em út họ hàng càng phải phạt. Bây giờ cách mạng không có cái lối một người làm quan cả họ được nhờ. Tôi là bậc đàn anh chị trên của chú Tường, nhưng cách mạng phải nghiêm, không nể nang bất cứ ai.”
Thế là ông Tường bị dân quân trói hai tay, ngồi ở đình suốt một đêm. Bà con n về các ngả đường, bàn tán:
- Cái ông Tường nghiện rượu, làm mất vui!
- Sao ông ta lạc hậu thế! Không chịu giác ngộ một chút nào!
- Ông Chắt kế đúng là cách mạng! Xử phạt công minh! - Ông Chắt kế có họ hàng gần với ông Tường mà cũng không tha tội cho ông Tường, thật xứng là một nhà cách mạng!
- Bà có thấy không, ông Tường khát nước, xin nước uống, ông Chắt kế cũng không cho. Cách mạng nghiêm thật!
Thêm được ngày hội “tết Độc Lập”, nhiều ngày hội cổ truyền khác bị phế bỏ; rằm tháng Giêng, Thanh Minh, tết Đoan Ngọ, rằm tháng Bảy... Người ta cho đó là phong kiến cổ hủ, là mê n dị đoan. Một số gia đình quyến luyến phong tục lâu đời của ông cha, lúc đầu lặng lẽ làm cỗ sơ sài,
rồi dần dần chỉ thắp hương, cuối cùng bỏ hẳn. Họ sợ làng xóm chê cười. Thế là cả làng cách mạng triệt để, thay cũ đổi mới hoàn toàn. Gặp nhau ngoài đường, giơ nắm tay phải lên ngang tại “chào đồng chí”. Nhất là trong các cuộc hội nghị, mẹ gọi con bằng “đông chí”, con gọi bố bằng “đồng chí”, anh gọi em bằng “đồng chí”.
Riêng ngày tết Nguyên Đán, cách mạng không đề ra phá bỏ, nhưng cũng không ai đứng ra tổ chức các cuộc vui như trước. Người ta cảm thấy ngại một cái gì đó vô hình - một cái gì đó vô hình khuyên bảo người ta hãy từ bỏ mọi tập tục thôn xóm được hình thành qua hàng trăm ngàn năm nay.
Tết đến. Các gia đình cũng gói bánh tét, bánh chưng, cũng thắp hương đơm cỗ. Nhưng đó là việc của từng gia đình, không liên quan gì đến xã hội.
Sáng mồng 2 Tết, xã đã phát động phong trào “động canh”, nghĩa là tất cả mọi người đều phải xuống đồng, nghĩa là tết chấm dứt.
Tương tự như các vùng quê khác, trước đây làng tôi có tục lệ “khai canh”. Sau Tết, người ta chọn ngày tốt để mở đường cày đầu ên với niềm n mùa màng năm ấy sẽ tốt tươi, phong nẫm. Lễ khai canh được ến hành một cách long trọng tại nhà thờ đại tôn - nơi thờ đức tổ Triệu Cơ:
Sáng mai, các cụ mở cửa nhà thờ thắp hương, dâng rượu, tràng pháo nổ. Đám trai tráng vác chiếc cày làm bằng tre khô dán giấy màu và chiếc thuyền bé, trên thuyền có hình người bằng giấy vác cày vác bừa cỡi trâu, lượn vòng quanh cây nêu. Họ vừa đi nhịp nhàng vừa hát:
Nối nghiệp lớn ông cha Đầu xuân mới ta ca Ca rằng:
Đức tổ
Con nhà khốn khó
Chăm chỉ cày bừa
Dựng nên cơ đồ
Xây làng lập ấp
Phong vận may gặp
Hội mở đầu năm
Thượng hạ chiềng dân
Sắm cày sắm cuốc
Lão nông đi trước
Trai tráng theo sau
Ai nấy mau mau
Ra mà mở hội Hát xong một lần thì vòng ngược lại. Sau ba lần, ông chủ tế đánh một hồi ba ếng trống, đám trai tráng vác cày và thuyền xuống đặt dưới đồng sâu. Lúc họ quay trở về, làng mới bắt đầu mở đường cày khai canh.
Người cầm cày là một lão nông có con gái con trai, gia đình hòa thuận, làm ăn khấm khá. Lão mặc áo dài nâu đến gối, quần trắng đến gối, ngang lưng thắt khăn trắng, đầu thắt khăn đỏ thủ rìu. Hồi trống vang lên đĩnh đạc, lão từ từ bước xuống thửa ruộng trước nhà thờ, làm những động tác cẩn thận: hai tay xoa vào nhau, vỗ nhẹ lên lưng trâu, mắc ách lên vai trâu, rồi cầm cày giục trâu bước. Trỗng điểm nhịp đều đều. Nếu đường cày hơi cong người đánh trống gõ “cắc” vào trong gỗ. Đi xong ba đường cày, người đứng xung quanh bờ reo hò hòa với ếng trống âm vang. Mọi người ai về nhà nấy, mở đường cày ngay trong vườn nhà mình. Ông cháu, bố mẹ, con cái ríu rít ra vườn “hội khai canh” nhỏ. Con trâu đường cũng vui hơm, béo hơn. Sau khi làm xong công việc, trâu được ăn bánh chưng với cỏ non, uống nước ấm và nằm dưới gốc cây thanh thả nhai hương mùa xuân.
Lễ khai canh bây giờ không còn nữa. Con thuyền giấy dán đủ màu sắc sặc sỡ biểu tượng sinh hoạt động chiêm trũng đã vắng bóng. Người lão nông đáng kính trọng đã lùi xa dĩ vãng.
Đường cày khai canh đầu xuân chỉ để lại một vệt mờ trong ký ức tôi...
Cứ hằng năm, trước Tết hai tháng, ông tôi ra chợ mua trầm về phơi khô, rang dòn, nghiền thật bột, rồi trộn với các thứ hương liệu khác, đụng vào chai. Để làm được việc đó, ông cẩn thận từng khâu, từng động tác nhỏ. Tự mình ra chợ huyện mua trầm. Tự mình đến hiệu thuốc bắc mua hương liệu. Rửa tay thật sạch khi nghiền trầm. Ngồi suốt buổi, hai tay lăn đều đều chiếc bánh xe đồng lăn trên chiếc “thuyền” đồng, trầm bị xé từng sợi nhỏ rồi vụn tơi ra. Các chai đựng trầm và hương liệu cũng được xóc đi xóc lại bằng sỏi nhiều lần, đến nỗi nhìn qua vỏ chai không thấy một gợn đục nào, thủy nh trong veo.
Nghiền trầm xong, ông bắt đầu làm chu hương - tức là cây hương. Chu bằng ruột tre non, chẻ thành từng thanh đều đặn, rồi để lên mái nhà phơi nắng phơi sương suốt hơn một tháng trời. Làm như thế, khi thắp, hương sẽ cháy đều và cháy hết từ ngọn đến gốc.
Khoảng 20 tháng Chạp, ông bắt đầu cuộn hương. Trên tấm chiểu mới, ông bày biện đủ các thứ: trầm trộn hương liệu, chu hương, giấy bản. Trước khi trộn ông rửa sạch hai bàn tay, ngồi xếp bằng, rung rung hai đùi, tưởng như đang sắp làm một việc gì quan trọng. Cuộn xong cây hương đầu ên, ông thắp thử và ngồi ngắm. Hương cháy rất đều. Tàn hương cuộn vòng, cho đến khi cháy hết tàn vẫn không rụng xuống. Mắt ông lim dim. Râu tóc ông bạc phơ phảng phất vài sợi khói lẫn với mùi trầm thơm một hương vị thiêng liêng. Tôi có cảm giác ông là vị ên ngồi giữa hang động thiên nhiên thoảng thơm vị trầm của thượng giới.
Năm nào cũng vậy, chiều 29 Tết, ông mở chiếc hòm gỗ trắc, đem ra nào hạc đồng, câu đối, trướng... Không cần ông sai bảo, quen như mọi năm, tôi đem đôi hạc đồng đánh trấu cho đến khi con hạc ánh lên một màu vàng chói. Còn ông tôi thì giăng câu đối quanh bàn thờ. Tôi kính cận đứng sau lưng ông, ngắm bàn thờ rực rỡ màu sắc đón đợi mùa xuân: đôi hạc đồng vàng bóng ngậm hoa sen, câu đối màu vải đỏ vải hường vải vàng, án thư lấp loáng màu sơn, long ngai phủ tấm nhiều điều gợi cho tôi trí tưởng tượng hồn tổ ên bảng lảng đâu đó...
Sau tết Độc Lập đầu ên, đến tết Nguyên Đán, không thấy ông tôi cuộn hương trầm như trước, chỉ mua hương ở chợ. Chiếu 29 Tết, ông mở hòm gỗ trắc, lau bụi đôi hạc đồng, xếp lại câu đối, rồi khóa hòm. Tôi ngỡ ngàng hỏi: “Sao ông không đem ra cúng tết?” Ông trả lời giọng ngậm ngùi: “Bây giờ là cách mạng, khác rồi cháu ạ.” Vĩnh viễn các đồ tế khí linh thiêng ấy nằm trong hòm khóa kín như tấm lòng ông tôi khóa lại niềm tôn kính thờ phụng ền nhân.
Vùng quê tôi không sản xuất các loại bánh truyền thống phong phú và ngon như ở ngoài Bắc hoặc như ở Huế. Nhưng cũng có một số loại bánh thường có mặt trên mâm cỗ ngày tết. Bánh mật: bột nếp về thành từng viên dẹt rồi kho với mật mía. Bánh ít: nếp trộn với mật, gói lá chuối, to bằng bánh gai, nấu chín. Bánh nổ: bột nếp được vắt thành những khối vuông đặt vừa vào chiếc đĩa, trên mặt rắc những hạt gạo nở nhuộm màu xanh màu đỏ. Bánh ong: nếp kho với mật, cắt thành từng khối vuông, trông vàng óng như tổ ong. Bánh tày: một loại bánh tét nhỏ bằng cô tay...
Đó là những loại bánh phù hợp với phong cách và khẩu vị “chặt to kho mặn” của người xứ Nghệ, chắc chắn không ngon một cách thơm thảo như bánh của nơi khác, nhưng đậm đà. Những ngày tha hương, được ăn một mẩu bánh quê thì bồn chồn nhớ tuổi thơ, nhớ bà con làng xóm.
Trong không khí rộn rịp chuẩn bị tết, trẻ con thường được bố mẹ cho chiếc bánh tay, bánh ít cầm đi chơi tung tăng với bầu bạn, cảm thấy sung sướng. Mỗi lần mẹ tôi cho tôi hai cái bánh ít, tôi bỏ vào hai túi, dắt trâu ra đồng rồi “góp cỗ làng” với bạn bè. Đứa thì góp bánh nổ, đứa thì góp bánh tày, đứa thì góp bánh ong... Chúng tôi tổ chức ăn cỗ tết ngay trên cồn cỏ giữa làng. Nhà thằng Bá nghèo, nhiều khi không có bánh để góp cỗ, tôi giấu bạn bè cho nó một cái bánh ít để nó cũng góp và dự cỗ...
Từ ngày có tết Độc Lập, các loại bánh cổ truyền này vắng bóng dần và cuối cùng mất hẳn, chỉ còn lại bánh tét và bánh chưng. Bác Chắt Kế hướng dẫn dân làng làm một loại bánh gọi là “bánh độc lập”. Vào mùa thu hoạch khoai lang, người ta luộc chín khoai, thái ra từng lát mỏng, phơi thật khô, bỏ vào chum, đậy kín bằng lá chuối, gọi là “khoai gieo”. Khi cần làm bánh, đem khoai gieo kho với mật, đơm thành từng đĩa, ăn ngọt sắc pha vị bùi. Loại “bánh độc lập” này người ta chỉ làm một vài tết rồi cũng bỏ. Chẳng qua đó là một loại bánh của con nhà nghèo, ăn chăng ngon lành gì.
Riêng nhà bác Chắt Kể làm mâm cỗ tết rất độc đáo: thịt chó!
Ở nước ta, nhiều nơi dân kiêng ăn vào đầu tháng và càng kiêng ăn vào đầu năm các thứ mắm tôm, cá chép, thịt chó... Thế mà ngay giữa ngày mồng một Tết, bố con bác Chắt kế bắt chó làm thịt. Thật là to gan! Tin này truyền đi rất nhanh. Các cụ già ngôi uống rượu, bàn tán:
- Ông Chắt kế liều thật! - Không phải liều đâu, làm cách mạng thì phải thế! - Sao làm cách mạng lại ăn thịt chó giữa ngày mồng một Tết?
- Để làm gương cho người khác, để phá đầu óc cổ hủ cho dân.
Anh Tư, con bác Chất Kế, đi chơi, nghe mấy ông bà già nói: từ xưa đến nay, ai ăn thịt chó vào đầu tháng cũng gặp rủi ro, còn cái việc ăn thịt chó vào mồng một Tết thì tối kỵ, tối tối kỵ. Anh
Tư sợ quá, ra góc vườn, nhìn ngược nhìn xuôi không thấy ai, thò ngón tay vào móc họng để nôn ra. Chẳng hiểu thế nào việc này lọt vào tai bác Chắt Kế, anh Tư bị bác gọi về mắng cho một trận ngay giữa chiều mồng một Tết.
Làng tôi có hội tuồng nổi ếng trong huyện.
Gần hai trăm năm trước, cụ Hậu, một cụ đồ trong làng, đứng ra lập hội tuồng, cho nên người ta gọi là “cụ trùm Hậu”. Cụ Hậu nhà nghèo, nhưng nổi ếng là người tài hoa. Vào ết lập hạ, nhiều người hăm hở đua nhau chơi thả diều, diều của cụ Hậu thường thắng cuộc: ếng sáo kêu trong veo và diều bay cao t tận trời xanh chỉ còn một chấm nhỏ như vì sao. Cụ còn có tài thổi sáo, đêm khuya thanh vắng cụ thường ra ngôi bãi cỏ đâu làng thổi những điệu buồn thương ai oán, ngọn gió nồm mang ếng sáo lan tỏa khắp cả bầu trời trăng. Nghe nói có lần cụ đi dạy học ngoài Bắc, một cô gái mê ếng sáo mà theo cụ đi lang bạt kỳ hồ suốt mấy tháng. Đến lúc cao tuổi, cụ không còn đủ sức để cao chạy xa bay nữa bèn trở về làng, bán gia sản, lập hội tuồng, mời thầy về dạy.
Hội tuồng càng ngày càng thịnh đạt. Nhiều người tự nguyện góp thóc, góp ền để mua sắm áo quân, phông màn và nhạc cụ. Sau khi cụ Hậu qua đời, những ông đồ hào hoa khác nổi ếp làm trùm hội: Ông Uẩn, ông Lới, ông Khường... Cụ Hậu được tôn làm ông tổ của hội tuồng làng Hậu Luật. Trước mỗi đêm diễn, anh em trong hội làm mâm xôi, con gà, thắp hương cúng tổ.
Đời này qua đời khác, hội phát triển rất nhanh, dân làng đóng góp ngày càng nhiều. Có người bán mâm đồng, nồi đồng để lấy ền cúng hội. Có người đi gặt thuê về cũng bỏ ra một vài yến thóc cúng hội.
Càng về sau, người xin vào hội càng đông. Ông trùm phải đứng ra tuyển chọn kỹ lưỡng: dáng người đẹp, mặt đẹp, giọng hát hay, hoặc người có tài
chơi nhạc cụ. Đặc biệt, một gia đình năm người có chân trong hội tuông. Nhưng tuyệt nhiên hội không tuyển chọn con gái, khi vở diễn cần vai nữ thì nam phải hóa trang.
Sự phân công trong hội rất rõ ràng và công việc của từng người được chuyên môn hóa. Thời nào cũng có người nổi ếng về một vai diễn hoặc một việc cụ thể, đến nỗi tên riêng được gắn với vai diễn hoặc công việc như một nh từ: ông Nghị Triệu Tử Long, ông Ước Thủy Văn Long, ông Khương tô mặt (hóa trang), ông Trang đánh trống, ông Tá kéo nhị, ông Lai đánh phong la, ông Thể kéo màn..
Lúc đầu ông trùm phải đi đặt trang phục ở những nơi xa về. Về sau, hội tự đào tạo người làm trang phục. Hồi tôi lên bảy lên tám thường được thằng Bá và mấy đứa bạn trong xóm rủ đến nhà bác Lới xem làm đồ tuồng. Chúng tôi ngồi hàng buổi mê mải xem mũ áo treo khắp nhà, rực rỡ màu sắc, lóng lánh hạt cườm trên mũ vua áo chúa. Trong con mắt ngây thơ và giàu trí tưởng tượng của chúng tôi, bác Lới là một ông ên có nhiều phép lạ. Suốt mùa đông, bác ngồi sửa sang lại một cách tỉ mẩn từng giải áo, từng cánh chuồn mũ vua quan, từng cái roi ngựa, từng mũi hài... để rồi đón mùa xuân tới - mùa xuân tới, những bộ trang phục rực rỡ này sẽ hiện huy hoàng trên sân khấu.
Năm nào cũng vậy, cứ tối mồng hai, mồng ba Tết, hội tuồng diễn tại làng mình. Suốt Giếng, Hai, hội tuồng đi diễn khắp thiên hạ. Nhiều làng khác cũng tổ chức hội tuổng, nhưng hội tuồng làng tôi nổi ếng hơn. Từ tháng Chạp trước Tết, nhiều nơi đã đến mời.
Chao ôi, âm thanh của ếng trống tuồng sao mà rộn rã, mà náo nức đến vậy. Vừa nhập nhoạng tối, từ đình làng ếng trống nổi lên, mọi nhà soạn sửa ăn cơm sớm hơn để đi xem. Cụ già mù lòa cũng bảo cháu con dắt đi để nghe hát. Có đêm diễn đến canh hai canh ba, trai gái đi xem về chưa
kịp ngủ đã lo nấu cơm để lên núi hái cỏ. Tối hôm sau lại đi xem. Xem ở làng này rồi xem ở làng khác, Tiếng trống chuyền khắp mọi làng mọi xã. Lũ trẻ chúng tôi đi theo hội tuồng tới những vùng xa xôi tận bên kia sông Bùng, bên này sông Cấm.
Tiếng trống tuồng thưa dần rồi im bặt sau cái tết Độc Lập đầu ên. Thay vào đó là kịch nói, kịch dân ca. Kịch bản được viết ra theo từng thời vụ, từng chủ trương, chính sách của cấp trên đưa về. Chỉ có thanh niên kéo nhau đi xem những đêm diễn ấy, còn các cụ già thì trùm chăn ngủ khoèo ngay giữa ngày tết Nguyên Đán.
Hồi ấy, chính bác Chắt kế cũng tham gia vẽ phông màn cho hội tuồng. Trong những ngày sắp cướp chính quyền và thời kỳ Mặt Trận Dân Chủ, các đảng viên do bác đào tạo đã dùng những đêm diễn tuồng để tuyên truyền cách mạng. Bây giờ bác lại là người chủ trương phế bỏ tuồng. Thế là bao nhiêu đồ trang phục của hội tuồng sắm sanh qua hàng chục hàng trăm năm bị vứt bỏ.
Một hôm, bác Chắt kế sang nhà bác Lới chơi, thấy mấy chiếc áo tuồng treo trên vách. Bác đưa tay sờ rồi ngắm nghía với một thái độ trân trọng và nuối ếc. Bác Lời rung đùi:
- Hay là ta phục hồi hội tuồng? Bác Chắt Kế hơi gật đầu, rồi từ tốn nói lại:
- Vắng ếng trống tuồng, làng xóm buồn tẻ. Nhưng mà diễn lại các ch vua quan phong kiến chỉ có hại. Được rồi, chú để tôi nh xem...
Bác Chắt Kế gợi ý cho một thầy đồ viết vở tuồng “núi Nam Sơn” nói về các chiến sĩ cách mạng đánh Tây. Sau một thời gian tập luyện, vở tuồng được công diễn. Im bặt từ lâu, ếng trống tuông bông vang lên tưng bừng.
Cụ già, thanh niên, trẻ em kéo nhau đi xem nghìn nghịt. Nhưng chỉ diễn vài đêm là người xem chán nản. Các làng khác cũng không mời đi diễn.
Từ đó, hội tuồng hoàn toàn tan rã. Một nền nghệ thuật được xây dựng qua mấy trăm năm bị phế bỏ hoàn toàn. Trong tâm tưởng của lớp người cao tuổi vẫn lưu lại hình ảnh đẹp đẽ những nhân vật tuồng: Thúy Văn Long xông vào hang quỷ để cứu nàng công chúa, vua Trần Anh Tôn cởi áo bào đắp cho người ăn mày nằm bên vệ đường...
V
đám cưới o theo anh mẫn
Bác thợ rèn m được tấm kẽm, cuộn tròn lại để làm cái loa. Cầm loa nói ở đầu làng thì cuối làng nghe được. Thế là chấm dứt công việc mệt nhọc của ông mõ từ xưa đến nay cứ cầm chiếc mũ đi rao khắp các ngả đường làng. Chiếc loa kẽm vừa làm xong, người ta trèo lên cây phượng ở nhà thờ đại tôn để gọi thử, người lớn trẻ con kéo nhau ra đứng quanh gốc phượng xem ông gọi loa như xem một sự việc mới lạ.
Cả ngày hôm ấy, chiếc loa được dùng vào công việc đặc biệt: báo n đám cưới o Theo lấy anh Mẫn, Chốc chốc ếng loa lại rống lên: "A lo... a lo... a lo... Mời toàn thể bà con dân làng tối hôm nay đến nhà anh Mẫn dự đám cưới đời sống mới. A lo... a lo... a lo. Thèo đã nêu một tấm gương sáng: không đòi lễ cưới linh đình, tốn kém, mà chỉ đòi bên nhà trai mang sang hai quả lựu đạn. A lo... a lo...”
Trung đội dân quân đang luyện tập ở sân vận động khi nghe loa báo n o Thèo “chỉ đòi bên nhà trai mang sang hai quả lựu đạn” thì mấy o phì cười. Đồng chí trung đội trưởng vội vàng chạy đến bịt mồn mấy o lại, ý nói cười như thế là mất nh chất nghiêm túc của vấn đề.
Bố o Thèo thì buồn bã, tỉ tê với mấy bác hàng xóm: “Nuôi nó lớn chừng ấy tuổi, bây giờ đem cho không. Rẻ rúng quá. Có cái đời sống nào mà công lao bố mẹ nuôi lớn lên rồi đem cho không. Đẻ ra con trai thời buổi này sướng thật, được vợ giữa trời, chẳng tốn kém một đồng, một cân nếp nào...”. Nhưng bà mẹ o Thèo thì ngược lại, khi nghe loa báo n về đám cưới đời sống mới của con mình, bà chạy đi khoe khắp làng: “Cách mạng thành công rồi, nhà tôi có thiệt thòi, nhưng nhà tôi nêu được tấm gương
cho bà con noi theo... Tôi nghĩ như cái hồi phong kiến đế quốc, mổ bò mổ lợn, tốn kém của cải của nhà nước của nhân dân. Bây giờ khác rồi, ai cũng phải có ý thức ết kiệm để kháng chiến để kiến quốc...”
Cách mạng về, cái gì cũng mới cũng lạ. Việc cưới xin hệ trọng đến cả đời của con người mà người ta cũng xem nhẹ hẫng như không có gì xảy ra. Tối đã vào lễ cưới mà buổi sáng chú rể vẫn đi tập quân sự, cô dâu vẫn đi cấy dưới đồng Lao. Hai người đều làm ra cái vẻ việc lấy chồng lấy vợ là hoàn toàn việc riêng của mình, chứ đâu phải là việc xã hội, mà đã là việc riêng cá nhân thì không nên làm ảnh hưởng đến xã hội. Trong lòng họ có xốn xang chờ đợi tối tân hôn hay không, ai mà biết được, họ có dám thổ lộ với ai đâu.
Làng cấp cho trung đội dân quân mấy sào ruộng ở cánh đồng Lao để gây “quỹ quân sự”, vì cấy chưa xong, o Thèo phải cùng các nữ đội viên đi cấy ếp. Lúc ngồi ăn cơm trưa trên bờ ruộng, bà Tạo kể chuyện mình thời con gái nào là lúc sắp lây chồng bà đòi bên nhà trai may cho bộ quần áo này quần áo nọ, nào là đòi đôi khuyên vàng để dành làm vốn, nào là trước ngày cưới bố mẹ cho nghỉ việc đến bốn, năm hôm. O Theo quay mặt, rơm rớm nước mắt, rồi lại và cười để tỏ ra rằng “đó là cái việc thời phong kiến”.
Mãi đến quá nửa chiều, ếng loa từ trong thôn vẳng ra: “A lo... a lo... Mời bà con dân làng lo cơm nước sớm hơn mọi hôm để đi dự đám cưới o Theo anh Mẫn...”, đám nữ dân quân mới vội vàng rửa chân tay, rời đồng Lao về làng. Xâm xẩm tối, nhà anh Mẫn đã chật ních người. Cả làng Hậu Luật, hầu như gia đình nào cũng cử đại biểu đến dự đám cưới, có gia đình khóa cửa, đi cả nhà. Hội mùa xuân cũng chỉ đông đến thế là cùng. Nhiều người quen như đi dự mít nh, biểu nh, mang theo ghế ngồi ngoài ngõ, ngoài vườn.
Các cụ già cũng đến rất sớm. Hết hút thuốc lào lại nhai trầu. Hết nhai trầu lại uống nước chè xanh. Trò chuyện mãi cũng nhạt. Có cụ tựa đầu vào cột, ngáy khò khò. Bố mẹ anh Mẫn cứ cảm thấy ngượng ngượng, khó coi thế nào ấy. Chẳng lẽ đời sống mới lại như thế này ư? Ông bà bèn vội vội vàng vàng bắt mấy con gà làm thịt, mua mấy chai rượu để các cụ ngồi cho đỡ nhạt miệng.
Rượu vừa rót ra, bỗng có iếng ồn ào ngoài ngõ: Bác Chất Kế đến! Bác Chắt Kế đến! Thật là vinh dự cho đôi tân hôn anh Mẫn - o Thèo, đám cưới tổ chức đúng hôm bác Chắt kế trên tỉnh về. Bác Chắt Kế vui vẻ ngồi nói chuyện với các cụ...
“Tất cả mọi người... Nghiêm!”
Có ai đó hô lên dõng dạc, oai nghiêm.
Từ ngoài ngõ, ai đó lại hộ ếp: “Chú ý, đi đều... bước! Một hai... một hai...” Đám người rẽ ra hai bên. Anh Mẫn o Theo ăn vận kiểu quân sự, dây da thắt ngang lưng, vai đeo súng, đĩnh đạc ến vào.
Đó là gương mặt của cô dâu chú rể.
Bác Chắt Kế đứng dậy, giơ tay: “Cho các con ngồi xuống”. Mẫn và Thèo ngồi trên chõng tre đã đặt sẵn giữa nhà. Bác nói dài lắm: “Phe đồng minh đã thắng lợi hoàn toàn ở châu Âu cũng như ở châu Á. Nước ta giành được độc lập. Tư tưởng canh tân vô sản phải được thực hiện. Hử... Việt Minh lãnh đạo toàn dân đứng lên vừa kháng chiến vừa kiến quốc. Hử... Đám cưới cũng phải ết kiệm...” Bác quay về phía Mẫn và Thèo: “Các con đứng dậy”. Mẫn và Thèo đứng dậy như cái máy. Bác nói ếp: “Hai con vui duyên mới không được quên nhiệm vụ canh tân vô sản. Hử... Các con là những công dân của nước Việt Nam độc lập. Hử... Bọn thực dân Pháp đang lăm le quay lại. Hử... tên Việt gian Nguyễn Văn Thinh đang âm mưu cắt Nam Kỳ.
Hử... Các con phải xứng đáng là những chiến sĩ bảo vệ nền độc lập của nước nhà...” Nhìn về phía Mẫn và Thèo, bác giơ tay: “Các con ngồi xuống.”
Dân làng im phăng phắc nghe bác Chắt Kế diễn thuyết. Nhưng buồn cười nhất là thỉnh thoảng bác lại nói “Các con đứng lên... Các con ngồi xuống...” Nín mãi không được, thằng Bàng đứng bên cạnh tôi phì cười. Thằng Bá vội vàng đưa bàn tay bịt chặt mồm Bàng. Bàng nuốt ếng cười vào cổ, ho sặc sụa...
VI
chúng mình sắp được ở chung rồi!
- Này, bác Chắt kế đã mang trên tỉnh về một cái bản đồ xây dựng lại làng ta! Mọi người đều ở chung!
Sáng hôm ấy, Bá chưa lùa trâu thẳng xuống đồng, mà chờ tôi ở cổng. Khi tôi dắt trâu ra, mặt Bá rạng rỡ hẳn lên, báo cho tôi biết cái n đó.
Sao việc gì Bá cũng biết trước tôi? Không nên được, tôi reo lên:
- Thế thì sướng quá! Chúng mình sắp được ở chung rồi! Bá giơ tay, nhọn mồm:
- Xuyt... xuýt... Còn bí mật! Việc gì cũng thế, lộ ra là dễ mất đầu như chơi!
Trưa... rồi chiều... rồi tối... rồi ngày hôm sau... cái việc mà Bá cho là “bí mật” đó đã loan truyền khắp nơi. Đi tới đâu người ta cũng đồn khác về “cái bản đồ xây dựng lại làng ta, mọi người đều ở chung”.
Nghe nói năm 1927, bác Chắt kế vừa thành lập chi bộ Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội làng Hậu Luật, người ta đã phác thảo một bản đồ ở chung ăn chung. Thời kỳ Mặt Trận Dân Chủ, những người cộng sản trong làng cũng xúm nhau ngồi dưới chân núi Hai Vai vẽ bản đồ ở chung ăn chung. Hai lần đều không thực hiện được. Hai lần đều là chuyện hão và lý tưởng thì xa vời vợi. Sau khi phong trào Mặt Trận Dân Chủ bị tan rã, mô hình chủ nghĩa cộng sản được phục hồi ở trại cày Thọ Lộc.
Đây là một trại cày nổi ếng, được ghi vào hương sử.
Thọ Lộc ở miền núi Nghệ An, thuộc tổng Cự Lâm, huyện Nghĩa Đàn - vùng ma thiêng nước độc, rừng hoang um tùm, nhà sàn thưa thớt. Cao trào Xô Viết Nghệ Tĩnh bị khủng bố ác liệt, nhiều cơ sở Đảng không còn nữa. Bác Chắt Kể thành lập tỉnh ủy lâm thời tại làng mình, đồng thời tổ chức trại cày Thọ Lộc để vừa giữ được bí mật vừa làm nơi bắt mối liên lạc với các đảng viên. Qua bao nhiêu thăng trầm, trại cày chỉ còn lại những người nghèo cố bám đất để làm ăn sinh sống. Nhưng ngọn lửa hy vọng trong lòng họ vẫn bập bùng. Họ liên hệ với những nghĩa quân thời kỳ Cần Vương cũng mở trại cây trên đó. Sau khi cụ Nghề Ôn qua đời, số nghĩa quân này không chịu về làng làm tay sai cho giặc, rủ nhau ở lại cày mây cuốc gió, sống cuộc đời phóng túng. Các chiến sĩ Xô Viết bắt mối được với các chiến sĩ Cần Vương, ngọn lửa hy vọng càng được khêu lên - dầu chỉ là niềm hy vọng xa xôi, không rõ nét.
Bao lần lập lên rồi tan rã, trại cày Thọ Lộc được sống lại một cách cường tráng vào những năm 1940-41. Trại viên gồm toàn những người nghèo, không có một tấc đất cắm dùi. Lúc đầu nhiều người hăng hái tham gia, trong đó có cả mẹ bác Chắt Kế. Nhưng rồi lần lượt bị sốt rét, trọc đầu, da vàng ủng, trại viên ít dần. Cuối cùng chỉ còn lại những người khỏe mạnh,
nh khí táo tợn - trai ở trại gái hàng cơm! Hầu hết trong số họ không biết chữ, nhưng họ vẫn tự hào mình là người cách mạng.
Ở vùng này có Hoe Nhiên là tên đầu trộm đuôi cướp. Hắn dám vào các bản và vào cả trại cây ăn trộm trâu lùa về chợ miền xuôi bán. Dân bàn nhiều lần dùng phù phép để bắt, nhưng hắn đều thoát được. Mọi người đều nghĩ rằng hắn là ma quỷ. Nông dân trại cày đã bố trí một số thanh niên lực lưỡng đuổi bắt và đâm thủng bụng Hoe Nhiên ngay giữa chợ. Tin đó truyền đi rất nhanh, nhân dân các bản đồn ầm lên rằng: “Cộng sản tài thật! Cộng sản đánh được cả ma quỷ!”
Đó là chiến công đầu ên của nông dân trại Thọ Lộc. Uy n của trại cày càng tăng lên. Dân bản càng n yêu, thỉnh thoảng
mang lợn hoặc trâu, nai, bỏ cúng cho trại. Những người trong trại càng tự hào, càng ra sức củng cố trại mỗi ngày một bề thế hon.
Toàn trại chỉ có một số ít người có gia đình, còn hầu hết là thanh niên. Họ ở chung, ăn chung, tài sản chung, tạo ra một mô hình ấu trĩ về xã hội cộng sản....
“...Thọ Lộc hồi trước làm được thì bây giờ ta cũng làm được. Ta nắm được chính quyền rồi, ta lại không tổ chức được làng cộng sản giỏi hơn Thọ Lộc à?...” cả làng Hậu Luật háo hức bàn luận về một tương lai đầy lãng mạn: tổ chức làng cộng sản!
Quy hoạch xây dựng đại khái như thế này: tách bạch từng khu ở riêng theo lứa tuổi và giới nh - cụ ông, cụ bà, nam thanh niên, nữ thanh niên, thiếu niên, nhi đồng.
Lũ mục đồng chúng tôi đang thả trâu ở đồng Lao, ùa nhau chạy tới xem mấy ông lãnh đạo đang đứng trên cồn đất chi trỏ bốn phương và bàn với nhau những điều rất hệ trọng; dãy nhà của lão ông xây ở Đập Tràn, dãy nhà của lão bà xây ở Mo Nạng, dãy nhà của nam thanh niên xây ở Giếng Triều, dãy nhà của thiếu nhi xây ở Cồn Rùa...
Mấy đứa chúng tôi sướng quá, quay lại nói với nhau: “Chúng mình được ở Cồn Rùa, gần trường học, chỉ cần nghe trống đánh là rủ nhau đi học. Không bao giờ sợ trễ giờ học...”
Tối hôm ấy, giấc ngủ của tôi cứ bồng bềnh như nằm trong mây. Viễn cảnh huy hoàng chờn vờn trước mặt như ráng hồng bình minh. Mình được ở chung với thằng Bá, thằng Bàng, thằng Viễn, thằng Dần... Bao giờ cũng ở bên cạnh nhau, không cần phải gọi nhau mỗi sảng lùa trâu ra đồng. Khi có
cái bánh, gói kẹo, không phải m nhau để chia sẻ, mà trái lại, cùng ngồi ăn chung một mâm, cùng ngủ với nhau một giường, cùng học với nhau một bàn. Thế giới đại đồng đẹp như giấc mơ thần ên biến hóa muôn màu sắc quyến rũ. Tưởng chừng giơ tay với, trái chín của thế giới đại đồng đã nằm ngọt ngào trong năm ngón tay mềm mại của tuổi thơ...
Những năm tháng này, sao cuộc đời đẹp đến thế. Gặp gỡ ngoài đường, mọi người đon đả chào nhau bằng “đồng chí”. Đêm mùa hè nóng bức, không phải cài cửa trước khi ngủ, chăng sợ ai lẻn vào ăn cắp gạo ăn cắp áo quần.
Bác tuần Chư trước kia là một hình ảnh ghê sợ đối với chúng tôi. Trâu thả rong mon men đến ruộng lúa, chưa kịp ăn khóm lúa nào, bác dùng roi quất tôi chảy máu. Nếu cãi lại một câu thì bác quất thêm ba, bốn roi. Cho nên mỗi lần bị bác đánh chỉ có cách là im thin thít. Thế mà dạo này bác trở nên hiền khô. Buổi trưa, đi tuần đồng, mở cơm mo ra ăn, bác gọi chúng tôi đến cùng ăn cho vui.
Những đêm trăng sáng, chúng tôi thường xuống đồng đặt đó, đặt lừ, bắt cá, tôm, cua. Đứa này thường ăn trộm cá đứa kia. Có lần đánh nhau chảy máu đầu. Cho nên, để khỏi bị mất cắp, cứ phải trải manh chiếu nằm bên cạnh đó, cạnh lừ suốt đêm. Riêng bác tuần Chư không canh gì cả. Bác nghĩ ra một cái mẹo rất ác: Tải gai bồ kết xung quanh chỗ đặt đó, đặt lừ, hễ đứa nào lẻn đến, dẫm phải gai sẽ rất nguy hiểm; hoặc bác bó gai ngay vào đó, vào lừ, đứa nào láu táu ăn trộm cá sẽ bị gai đâm chảy máu tay. Thế là bác cứ ngủ li bì, sáng mai đàng hoàng mang cá về... Đấy là chuyện xảy ra cách đây ít lâu. Còn bây giờ thì khác rồi. Chẳng ai nỡ ăn trộm cá của ai. Chúng tôi cứ đặt đó, đặt lừ dưới đông suốt đêm, tha hồ rủ nhau tụ họp để tập hát tập múa. Bác tuần Chư cũng không cần chơi cái trò ác rải gai bồ kết nữa. Thậm chí có lần thấy tôi được ít cá, bác cho tôi cá và nói: “Cháu mang
thêm về cho mẹ cháu. Tôi nghiệp, mẹ cháu lo công việc xã hội phải đi suốt ngày...”. Tôi rơm rớm nước mắt.
Tối nào lũ trẻ chúng tôi cũng ngủ chung với nhau. Được ngủ chung là niềm vui lớn mà cách mạng ban phát cho tuổi thơ.
Nhập nhoạng hoàng hôn. Ăn cơm xong. Đứa này sang nhà đứa kia, đi gọi nhau khắp làng, đến một địa điểm nào đó để tập hát. Tiếng hát vang lên từ đêm này qua đêm khác, vang lên từ xóm này qua xóm khác. Lời ca
ếng hát trở thành biểu tượng lạc quan của cách mạng. Tập hát chán, lại chơi các trò chơi cướp cờ, m thư bí mật, tập trận giả.
Thường là quá nửa đêm mới ngủ. Gặp đâu ngủ đó. Đêm hè thì nằm ngủ trên bờ giếng, trên bãi cỏ đầu thôn. Có hôm sương xuống thấm ướt cả quần áo. Đêm đông thì chen chúc nhau ngủ trong ổ rơm tại nhà một đứa nào đó. Nếu nằm ổ rơm không đủ, trải chiếu nằm khắp nhà, khắp thềm, chẳng có chăn màn, ôm nhau ngủ ngon lành đến tận sáng. Lắm hôm bị muỗi đốt lấm tấm đỏ khắp chân tay, mặt mày. .
Tôi là một thằng bé nhút nhát hơn những đứa trẻ khác trong xóm. Mẹ không cho xuống đồng sâu một mình, không cho đi chơi đêm, không cho ngủ qua đêm bất kỳ ở nhà ai. Nhưng dạo này mẹ tỏ ra dễ nh đối với tôi. Thỉnh thoảng mẹ chỉ dặn: “Đừng ngủ ngoài sương nhiều, dễ ốm đau”. Hôm nào tôi đi chơi về muộn, không ăn cơm nhà, là mẹ ngầm hiểu tôi đã ăn cơm nhà thằng Bá, thằng Dần, hoặc thằng Bàng gì đó. Cũng như nhiều hôm, bọn chúng nó đến chơi ở nhà tôi, mẹ bảo ăn cơm, chúng nó ngồi ăn một cách tự nhiên. Tôi có cảm giác tất cả mọi thứ đều là của chung rồi: nhà chung, cơm chung, ở đâu cũng được, ăn đâu cũng được.
Tối hôm ấy, mưa to gió lớn. Đợi mãi, trời vẫn không tanh ráo, tôi nằm thiu thiu ngủ. Nửa đêm, tỉnh dậy, vẫn mưa gió ào ào, tôi bồn chồn nhở
bạn. Chúng nó có ngủ chung với nhau đêm nay không? Nếu ngủ thì ngủ tại nhà ai? Bây giờ nằm ở nhà một
mình, không có bạn thì ngủ làm sao được! Không ngần ngại, tôi đội nón, xắn quần, chạy một mạch đến nhà thằng Bá. Vừa ra khỏi ngõ, gặp mẹ tôi đi học về, mẹ hỏi: “Con đi đâu mà đi vào lúc này?”, tôi vừa chạy vừa trả lời vội vàng: “Con ngủ quên ở nhà, con phải đi ngủ chung đây!”. Ra đến cây đa xóm Bắc, mấy chú dân quân hô: “Ai? Đứng lại!”. Tôi vẫn cứ vừa chạy vừa trả lời: “Cháu đây mà! Cháu ngủ quên ở nhà, cháu phải đi ngủ chung đây!” Tôi nghe một giọng nói rất đôn hậu: “Thằng Trực con bà Đoan, chắc nó chạy đến ngủ nhà thằng Bá.”.
Vào tới nhà Bá, cửa để trống hoang trống huếch, tôi lặng lẽ bước qua ngạch cửa. Ồ, chúng nó đã nằm chen chúc nhau chật kín cả hai gian. Tôi chẳng rửa chân gì cả, lấy chổi xể lau qua cho sạch bùn, rồi nằm len vào giữa. Giấc ngủ chung với bạn bè nồng ấm làm sao?
Tôi được vào đội Nhi Đồng Cứu Vong! Còn niềm vui nào lớn hơn? Gặp đứa trẻ nào trong xóm tôi cũng khoe: “Tao đã được vào đội Nhi Đồng Cứu Vong!” Lúc đầu, ban lãnh đạo thôn chọn chừng hai chục đứa để thành lập Đội - tôi là một trong vài chục đứa được vinh dự ấy.
Cái thời phong kiến, thực dân, làng tôi và nhiều làng khác có hội Mục Đông. Đứa trẻ chăn trâu, chăn bò nào muôn vào Hội phải nộp từ một cân thóc trở lên tùy theo nhà giàu nhà nghèo, để gây quỹ Hội. Làng còn cho ba sào ruộng. Hội Mục Đồng tự nó ngồi ăn một cách tự nhiên. Tôi có cảm giác tất cả mọi thứ đều là của chung rồi: nhà chung, cơm chung, ở đâu cũng được, ăn đâu cũng được.
Tối hôm ấy, mưa to gió lớn. Đợi mãi, trời vẫn không tanh ráo, tôi nằm thiu thiu ngủ. Nửa đêm, tỉnh dậy, vẫn mưa gió ào ào, tôi bồn chồn nhở
bạn. Chúng nó có ngủ chung với nhau đêm nay không? Nếu ngủ thì ngủ tại nhà ai? Bây giờ nằm ở nhà một
mình, không có bạn thì ngủ làm sao được! Không ngần ngại, tôi đội nón, xắn quần, chạy một mạch đến nhà thằng Bá. Vừa ra khỏi ngõ, gặp mẹ tôi đi học về, mẹ hỏi: “Con đi đâu mà đi vào lúc này?”, tôi vừa chạy vừa trả lời vội vàng: “Con ngủ quên ở nhà, con phải đi ngủ chung đây!”. Ra đến cây đa xóm Bắc, mấy chú dân quân hô: “Ai? Đứng lại!”. Tôi vẫn cứ vừa chạy vừa trả lời: “Cháu đây mà! Cháu ngủ quên ở nhà, cháu phải đi ngủ chung đây!” Tôi nghe một giọng nói rất đôn hậu: “Thằng Trực con bà Đoan, chắc nó chạy đến ngủ nhà thằng Bá.”.
Vào tới nhà Bá, cửa để trống hoang trống huếch, tôi lặng lẽ bước qua ngạch cửa. Ồ, chúng nó đã nằm chen chúc nhau chật kín cả hai gian. Tôi chẳng rửa chân gì cả, lấy chổi xể lau qua cho sạch bùn, rồi nằm len vào giữa. Giấc ngủ chung với bạn bè nồng ấm làm sao?
Tôi được vào đội Nhi Đồng Cứu Vong! Còn niềm vui nào lớn hơn? Gặp đứa trẻ nào trong xóm tôi cũng khoe: “Tao đã được vào đội Nhi Đồng Cứu Vong!” Lúc đầu, ban lãnh đạo thôn chọn chừng hai chục đứa để thành lập Đội - tôi là một trong vài chục đứa được vinh dự ấy.
Cái thời phong kiến, thực dân, làng tôi và nhiều làng khác có hội Mục Đông. Đứa trẻ chăn trâu, chăn bò nào muôn vào Hội phải nộp từ một cân thóc trở lên tùy theo nhà giàu nhà nghèo, để gây quỹ Hội. Làng còn cho ba sào ruộng. Hội Mục Đồng tự cày cấy, chăm bón và thu hoạch.
Hằng năm, sau hai vụ gặt hái, đồng điền còn bỏ không, bọn trẻ tha hồ thả rong trâu bò. Hội tổ chức đắp cồn Mục Đồng tức là cồn thờ Thần Nông. Giữa cánh đồng trũng, cồn đất được đắp cao che rợp bóng cây đa. Mỗi năm hai lần đắp, cồn cao dần như một ngọn đồi. Sau khi đắp xong, Hội
mua chuối hương để cúng Thần, tổ chức một bữa ăn chung. Thế là làng bắt đầu vào vụ cày cấy.
Tôi hỏi mẹ tôi: “Có đội Nhi Đồng Cứu Vong thì có còn hội Mục Đồng cúng Thần Nông nữa không?” Mẹ trả lời: “Cúng Thần Nông là chuyện mê n nhảm nhí, còn đội Nhi Đồng Cứu Vong là Đội cách mạng”. Tôi thoáng một chút buồn: hội Mục Đồng vui thế mà bây giờ không còn nữa...
Công việc đầu ên của đội Nhi Đồng là phá cồn Mục Đồng. Suốt hàng tuần lễ, chúng tôi rầm rập vác cuốc vác xẻng đi san cồn đất. Không dễ dàng một chút nào khi đẫn ngã một cây đa to sù sụ. Tổ chim bị vỡ, trứng rơi xuống nhầy nhụa lòng đỏ lẫn lòng trắng. Trong lùm cỏ rậm cũng có những tổ trứng chim xinh xắn của lũ cà cà, vịt trời. Thậm chí trong lòng đất có cả trứng chim đa đa... Tất cả chúng tôi như một đội quân đi làm nhiệm vụ êu thổ kháng chiến - Xông vào, cuốc! Xông vào, đào! Xông vào, phá! Đào phá, cuốc xới không ếc tay. Chuột chạy tứ tung. Chim bay tung tóe. Có đứa vô
nh cuốc phải một tổ chim, trứng vỡ ra, con chim non bé xíu, ngọ nguậy. Tôi chạy đến, ứa nước mắt nâng những chú chim nhỏ trong lòng bàn tay: có chú còn đỏ hỏn, có chú vừa mọc lông... Thôi vĩnh biệt nhé, vĩnh biệt cồn đất thân thuộc của tuổi chăn trâu, vĩnh biệt tán đa mát rượi những trưa hè tuổi thơ, vĩnh biệt đàn chim yêu quý! Cây đa đổ xuống... ầm! Vòm trời trống quang. Một vầng xanh mãi mãi chết đi cùng với thời bé dại hồn nhiên.
Sau chiến ch chặt đổ cây đa và phá cồn Mục Đồng, chúng tôi xông vào những ngày vui triền miên: cắm trại, hành quân, tập
võ, tập hát. Cờ trống tưng bừng: cờ đội hình vuông, cờ ểu đội hình tam giác. Quần áo đính đầy những phù hiệu, cấp hiệu màu xanh màu đỏ màu vàng. Đầu cạo trọc, sắp hàng dài dằng dặc, diễu hành dưới nắng hè. Bà con bỏ việc chen nhau đứng xem hai bên đường. Mắt chúng tôi nhìn
thẳng, kiêu hãnh và ến lên phía trước. Lòng nhẹ tênh tênh. Tưởng như trước mặt mình, ở ngọn núi kia, ở bãi cỏ kia, ở mái đồi thoai thoải kia đã bày sẵn thiên đường cộng sản - chúng tôi sẽ hạ trại ở đó, nổi trống, ca hát, diễn kịch, sống những ngày no ấm, vô tư.
Tổi đến là họp. Hầu như tổi nào cũng họp. Cuộc họp nào cũng giống như người lớn, có đủ các mục: báo cáo nh hình thế giới - báo cáo nh hình trong nước - báo cáo nh hình nội bộ - yêu cầu - chất vấn.
Một hôm, đang họp dở tại nơi cắm trại, trời đổ mưa. Vẫn cứ ngồi họp • họp với nh thần cách mạng cao cả. Đứa nào đứa nấy ướt nhăn tóc tai, quần áo. Đến mục báo cáo nh hình trong nước, có bạn phát biểu: “Mấy chục người ăn mày ở chợ Mới đã về quê hết rồi. Quê họ ở ngoài Bắc cũng giành được chính quyền. Từ nay ở chợ Mới và ở khắp nước ta không còn ăn mày nữa!”. Tất cả vỗ tay hoan hô. Đến mục báo cáo nh hình nội bộ, một bạn đứng dậy nói: “Lúc chiều đồng chí Trực vào nhà ông Giai, con chó lài xô ra sủa, đồng chí Trực quát “đồng chí chó lài không được sửa”. Gọi con chó lài bằng đồng chí là phạm lỗi”. Nhiều bạn khác nhao nhao: “Gọi chó bằng đồng chí tức là phản động!” “Phải phạt đồng chí Trực”.Bác Chắt kế quàng áo mưa, bước vào bất ngờ, lên nòng súng lách cách: Thằng Trực gọi chó bằng đồng chí à! Đội viên đội Nhi Đồng Cứu Vong mà thể à? Cháu không xứng đáng là đội viên!” Tôi run bắn người, ngẩng lên nhìn mặt bác lấp lánh đôi kính cận. Bác nhìn thẳng vào tôi, tôi cúi xuống. Một bạn đứng dậy: “Thưa bác, phạt đồng chí Trực bằng cách nào?” Bác Chết Kế giơ tay: “Hừ... Gọi chó bằng đồng chí là phạm trong tội. Hử... Các cháu có biết hai
ếng đồng chí thiêng liêng như thế nào không? Hử... Phạt như thế nào là do các cháu dân chủ bàn bạc...” Có ếng đề nghị “Bắt đồng chí Trực ngồi cùm.” Mọi người nhất loạt đồng ý. Thế là lần đầu ên tôi bị cách mạng phạt.
Sau khi cướp chính quyền, làng có làm một cái lều nhỏ ở gốc cây đa xóm Trung, trong đó đặt cái cùm gỗ. Ai “có tội” với cách mạng thì tùy tội nặng nhẹ mà cùm một chân hoặc hai chân, cùm một ngày hoặc hai, ba ngày. Cái cùm này đã cùm mấy người phạm lỗi với cách mạng: Hai ông say rượu, nói lè nhè; một bà ăn cắp váy của hàng xóm; một ông thầy xem tướng ở chợ Mới... Bây giờ đến lượt tôi bị đưa chân vào cùm vì tôi gọi chó là “đồng chí”. Nhưng tội của tôi chỉ ở mức cùm một chân, còn chân kia vẫn cử động tự do. Tuy có xấu hổ, nhưng tôi vẫn cảm thấy tự hào rằng: “Mình không phải là thằng bé bình thường, mà là đội viên đội Nhi Đồng Cửu Long bị cùm”. Quá nửa đêm, thắng Bá lò dò đến thăm tôi. Hắn mang cho tôi một bầu nước chè xanh. Đang cơn khát cháy người, tôi ngửa cổ uống ừng ực. Bụng đã đầy no nước, tôi vẫn cổ uống cho hết bầu, sợ chốc nữa lại khát. Nước không êu kịp, căng đầy bọng đái. Tôi cố cắn răng nhịn, cuối cùng không nhịn được, tôi đái vung ra ướt cả cùm gỗ.
VII
vĩnh biệt những cây cổ thụ
Làng tôi nằm giữa vùng đồng chiêm trũng. Dân cư quanh năm nghèo đói. Hầu hết là nhà gianh vách đất. Nhưng nhờ có những cây cổ thụ mà xóm mạc trở nên sầm uất. Mỗi cây gắn liền với một chuyện kể, một bài vè hoặc một câu ca. Cổ thụ là nh yêu là máu thịt của quê hương. Bao nhiêu thế hệ nối ếp nhau sinh ra, lớn lên và qua đời, gửi lại cho cây những chúng ch kỳ diệu của thời gian,
Thế mà những ngày hôm nay, những ngày tháng sục sôi của cách mạng, những ngày tháng phồn thịnh của nh thần dân quê, hàng chục cây cổ thụ lần lượt nằm xuống! Như những lão tướng xông pha trận mạc, bão bùng, sấm sét, không còn được sự chiêm ngưỡng của dân gian nữa, xin hãy vĩnh viễn lùi về quá khứ. Hầu như trong tâm tưởng của một số người nào đó, trong một phút cuồng nhiệt, họ muốn chặt phá đi tất cả những cái gì xưa cũ để rồi vun trồng lên những gì non tơ hơn, mới mẻ hơn, giàu sức sống hơn. Và từ một số ít người, ý nghĩ đó được lan truyền, được kích động vào số đông. Thế là chính những con người đã tự tay mình chăm bón, đã từng gắn bó máu thịt cuộc đời mình với cây, lại thản nhiên xông ra chặt cây.
Tuổi lên chín lên mười tôi vừa được chứng kiến những ban mai cờ dâng rợp trời vừa đau lòng nhìn thấy những vòm cây khổng lồ bị hạ xuống.
Theo bác Chắt Kế, những thân cây to lớn này và những cồn đất làm địa thế cho cây mọc lên, địch có thể lợi dụng làm pháo đài. Vì thế, phải phá tất, chặt tất! Làng xóm và đồng ền quang quẻ, trơ trụi, vô duyên như một người cao nhẵn thín lông mày. Cây muỗm nơi đền thờ Bạch Y Thần dễ chừng cao tới bốn, năm chục mét. Cách xa mười cây số có thể thấy ngọn
cây mờ xanh như một đám mây. Mỗi lần tôi sang bà ngoại một mình, mẹ tôi dặn: “Lúc về, nhỡ may bị lạc đường, con cứ nhìn ngọn cây muỗm mà đi.”
Dáng cây thẳng tắp. Cành tỏa đều đặn xung quanh. Càng lên cao càng bé dần. Từ xa trông tới, cây giống như cái tháp xanh hùng vĩ.
Sự ch cây muỗm gắn liền với sự ch ngôi đền. Lúc đầu các già làng định xây đền ở nơi khác, nhưng khi khởi công thì thấy cây muỗm mọc lên ở khu đất cao ráo này. Cây lớn rất nhanh, mỗi ngày cao thêm chừng năm gang. Xung quanh gốc, có chết hết. Đến ngày thứ chín, mây vần vũ trên khu đất, một ếng sấm nổ ra rồi một bóng áo trắng bay lên trời. Sáng hôm sau, cây muỗm bỗng tốt quá đầu người và tỏa tán xanh mướt.
Các cụ bảo đó là điềm thiêng, khu đất cao ráo này mới là nơi Thần ngự, bèn bỏ địa điểm cũ, quyết định xây ngôi đền tại đây.
Cây muỗm và ngôi đền đã từng gắn bó với nhau hàng trăm năm nay như sông với núi, như trời với đất, như âm với dương, thế mà bây giờ phải chia lìa nhau!
Sáng hôm ấy, hơn mười trai làng vác rìu ra chặt thì chợt thấy chân hương cắm chi chít quanh gốc. Họ có cảm giác chờn chọn, gây gây lạnh. Nhiều bó hương còn ngun ngún cháy, chốc chốc lại bùng lửa. Khói bốc lên nhiều đến nỗi ám lại như sương trên những cành lá um tùm. Họ làm “kế hoãn binh”, ngồi tán dóc, uống nước chè xanh, hút thuốc lào sòng sọc. Bác Chắt kế bước tới: “Các đồng chí chưa bắt đầu chặt à?” Họ lúng túng chưa biết trả lời thế nào thì một thanh niên chỉ cho bác thấy chân hương cắm đỏ quanh gốc muỗm. Bác hiểu ý, tỏ vẻ tức giận, đôi mắt sáng quắc sau mặt kính cận: “Hừ... Các đồng chí lại mê n dị đoan à?... Hừ!... Tối hôm qua bọn phản động lại bày ra cái trò này để cản trở công cuộc kháng chiến kiến quốc... Hừ!...”. Mãi về sau, dân làng mới biết rõ đầu đuôi sự việc: Một số cụ
già thương ếc cây muỗm, trong nỗi thương ếc có pha niềm n ngưỡng, đêm hôm trước đã ra thắp hương khấn vái lần cuối cùng để rồi vĩnh viễn không được nhìn thấy cây muỗm nữa...
Từ khi mái đền không còn được bóng cây che mát, người ta đồn rằng có một đám mây trắng ngày đêm lởn vởn trên đó - đám mây đó chính là áo trắng của vị thần hiện về đòi lại cây xanh.
Cây đa Cồn Rộng đứng sừng sững giữa đồng không mông quạnh. Cây không mọc trên mặt đất bằng phẳng mà mọc trên cồn đất cao và rộng đến ba sào, cho nên cây càng được tôn lên vẻ đẹp uy nghi. Vốn lúc đầu người ta đắp một cồn đất giữa cánh đồng trũng, rồi trồng cây lên đó để bà con nông dân ăn trưa và nghỉ ngơi sau những giờ làm việc mệt nhọc. Cây đa dân dã ấy khi đã xanh um như hòn núi nhỏ thì trở thành cây đa thiêng: có thần cây đa trị vì và quỷ canh giữ. Người ta xây miếu nhỏ dưới gốc đa và hương khói thờ phụng những ngày mồng một, ngày rằm hằng tháng. Nơi đó không còn là nơi nghỉ mát. Người ít lui tới. Cỏ dại mọc um tùm. Cây đa bủa rễ phụ chằng chịt như những vòng tay hung dữ ôm chặt ngôi miếu. Rễ chẻ đôi bệ thờ. Rễ quấn chặt bát hương.
Những trưa hè oi ả và những đêm khuya thanh vắng, gió nam thổi ù ù, từ gốc đa vọng ra ếng hú ghê rợn, ếng võng đưa kẽo kẹt, ếng ru hời ai oán. Thậm chí có người thấy cả bóng quỷ đầu trâu mặt ngựa đi lang thang. Nghe đồn rằng có một cô gái xinh đẹp ở làng chùa đi chợ về, đặt gánh ngồi nghỉ mát, quỷ đòi lấy làm vợ, cô ta khăng khăng từ chối, bị quỷ hiếp, mấy tháng sau cô đẻ ra một đứa bé mặt giống mặt ngựa.
Lũ trẻ cũng không dám vào đó chơi. Riêng thằng Bá rất liệu, nhiều lần Bá rủ tôi đến bắt chim, tôi không dám đi theo, Bá đi một mình. Tôi đứng từ xa nhìn tới, thấy Bá lao thoăn thoắt từ cành này qua cành khác. Đêm về, trong giấc ngủ, tôi thấy Bá đánh nhau với quỷ và quỷ thua bỏ chạy.
- Bá ơi, người ta bàn nhau chặt cây đa Cồn Rộng! - Ai bảo? Bá giật mình, hỏi lại tôi.
- Còn ai bảo nữa. Mai người ta chặt rồi! Một trung đội dân quân khỏe nhất ra chặt.
- Có thật không? - Thật!
- Cách mạng to gan.
- Người ta chọn những người khỏe nhất để nhỡ ra thần thánh có vật thì cũng không vật nổi.
Sự thật diễn ra đúng như thế. Mấy chục dân quân to khỏe như trâu mộng vác rìu, búa, cưa, cuộc chim xông thẳng tới cây đa Cồn Rộng. Họ trương khẩu hiệu: “Cách mạng quyết thắng thần thánh ma quỷ!” “Đào tận gốc trốc tận rễ đầu óc mê dị đoan”. Thế là họ hùng hục đào, cuốc, chặt. Bát hương vỡ tung tóe. Bệ thờ nát thành vội vụn, gạch vụn. Bỗng một tô rắn bung ra, rắn con rắn mẹ bò lổn ngổn. Tất cả bỏ chạy tán loạn. Mấy chục dân quân đánh tháo về nhà ngồi im thin thít.
Bác Chắt Kế biết được việc này, bèn cho họ một bài học về nh thần dũng cảm của người chiến sĩ cách mạng: “Các đồng chí hãy gột sạch đầu óc cổ hủ thì mới xứng đáng là thanh niên của thời đại dân chủ cộng hòa... Hử... Thanh niên mà sợ ma quỷ, sợ rắn rết... Hử... thì tức là thanh niên của thời phong kiến, đế quốc... Hử... các đồng chí phải ra quân dũng cảm...” Mấy chục người ngồi há mồm nghe bác diễn thuyết. Gương mặt bác vuông vức, sáng sủa, vầng trán cao, cặp kính cận long lanh càng tôn vẻ trang nghiêm của lời nói,
Sau bài học về lòng dũng cảm mà bác Chắt kế ban ra, cây đa Cồn Rộng nổi ếng là linh thiêng, không còn được phép tồn tại nữa.
Cây đa Đập Trùn tỏa rộng tán giữa cánh đồng màu. Tiết tháng Năm, vào vụ thu hoạch khoai lang, cây đa càng được đặc dụng.
Nắng chói chang. Cả cánh đồng tấp nập đàn ông, đàn bà, trẻ con, trâu bò, cày bừa, gồng gánh. Khoai dỡ lên đỏ óng chất lại thành từng đống. Ban trưa, họ ngồi quây quần dưới bóng đá trò chuyện. Gió nồm mát rượi. Rổ khoai lang vừa mới đổ trong nồi đất ra, bốc ra mùi mật ngọt thơm. Ăn củ khoai lúc này mới ngon làm sao. Củ khoai bẻ đôi, bùi ngậy. Khoai nghệ vàng óng như mật ong. Khoai chiêm xốp bổ trắng nh như bột. Khoai đường trong veo.
Trên vòm cây, chim sáo sà xuống hàng trăm con, kêu ríu rít, đùa nghịch, làm rơi bộp... bộp... những quả chín vàng nứt nẻ.
Trong cái vất vả, lam lũ của người dân đồng quê thì những phút nghỉ ngơi như thế này thật là hạnh phúc, mồ hôi đầm đìa, ngồi dưới bóng cây vừa nghe chim hót vừa ăn củ khoai béo ngậy đầu mùa. Thế mà bóng cây bị xóa đi, chỉ còn mồ hôi và nắng xối. Vụ thu hoạch khoai đầu ên sau khi cây đa bị chặt, người nông dân ngồi túm tụm từng nhóm giữa nắng lửa, bàn tán:
- Lợi đâu chưa thấy, đã thấy cái hại ập đến trước mặt!
Cây đa xóm Bấc ở ngay đầu cổng xóm, tán tỏa rộng trùm lên ba, bốn sào đất. Dễ chừng cây có trên năm trăm tuổi, vì các cụ già gọi là “cây đa phù Lê” tức là cây đã có công giúp vua Lê đánh giặc Minh. Cây lại ở đền thờ Bạch Y Thần tức là vị thần cứu vua Lê thoát khỏi vòng vây của giặc. Nhưng chắc chắn hơn, cây có tuổi thọ chừng hai trăm năm, vì trên mình cây còn mang những vết đạn của thời kỳ Cần Vương chống Pháp.
Cây đa xóm Bấc, chúng nhân của nhiều thời đại, pho sử của làng. Bộ rễ bủa tung ra, xoắn xuýt, hăm hở, dữ dằn, trìu mến như cuộc đời người nông
dân cắm sâu vào đất đai quê hương. Thở gỗ cuồn cuộn vạm vỡ từ gốc đến ngọn. Sần sùi từng u gỗ phòi ra, rắn đanh lại. Khi cây bị xẻ, người ta còn thấy những mảnh đạn cắm sâu vào thịt làm méo mó những đường vân.
Bao nhiêu thế hệ thanh niên đã lấy gốc đa này làm nơi hò hẹn nh ái. Đêm trăng phường vải, trai các làng lân cận thường nhóm họp nơi đây, rồi đi vào các ngả xóm hát đối đáp với những cô gái quay xa kéo sợi. Trưa hè, nắng ngột ngạt, sau bữa cơm cà với canh mùng tơi, người ta kéo nhau ra hóng mát. Tán đa trở thành mái nhà thiên nhiên lồng lộng gió. Người kể về hát những bài vè theo điệu hát giặm: hài hước châm chọc, ngậm ngùi nh sử, hùng tráng thần ch. Không biết từ năm nào, thời nào, người ta lưu truyền câu chuyện “thần hát giặm” li kỳ và ảo não. Cô gái ấy có tài hát đối đáp với bất kỳ một chàng trai nào trong thiên hạ. Bỗng một hôm, cô gặp người trai lạ cất lên lời hát chín mươi chín câu hỏi. Cô không trả lời được và bền hóa thân vào gốc đa. Cô vẫn được gái trai làng kính trọng và tôn là “thần hát giặm”.
Có thể nói cây đa này là nơi sản sinh ra nhiều bài vè mang đậm đà nh thời sự, là quê hương của nhiều câu ca dao mượt mà, là cái nôi của nhiều mối nh dân quê trong trắng.
Bây giờ “thần hát giặm” đi đâu? Những người kể về phiêu dạt phương trời nào? Những cặp trai gái lấy nơi nào để hò hẹn? Cây đa bị triệt hạ như tổ ấm bị phá vỡ. Một khoảng trống của nỗi ếc thương ngày ngày hiện ra đầu cổng xóm và hiện ra trong lòng người. Cho đến bao giờ, đến bao giờ mới có vòm đa khác thay thể che rợp cái khoảng trống ấy?
Cây đa xóm Trung gắn liền với câu ca dao:
Xóm Trung mà đổ cây đa
Cả làng Hậu Luật đàn bà chửa hoang
Cây mọc trên một cồn đất đầu cổng xóm nhô ra cánh đồng trũng giống hình một cái b. Đối diện cồn đất đó là một cồn đất khác hình tam giác giống như một cái 1. Bởi vì cái b. hoang chĩa vào cái I. hoang thì con gái sẽ chửa hoang nhiều, cho nên phải trồng lên đầu b. một cây đa để chặn lại sự dâm dục. Không biết cây đa đã trồng bao nhiêu thế kỷ rồi mà rễ phụ và rễ gốc bủa ra chằng chịt đan nhau như cái lồng nhốt chặt b. vào trong đó.
Nghe nói thuở mới trồng cây đa, cứ nửa đêm là cái cồn b. này quẫy đành đạch và cái cồn l., đối diện cũng rung lên chờ đợi. Một hôm, cồn b. quẫy mạnh quá làm đổ cây đa, tức thì trong làng có một cô gái chửa hoang. Cô ta xinh đẹp nổi ếng và hát rất hay trong những đêm trăng phường vải. Bây giờ lỡ chuyện như thế, cha mẹ đánh đập, bà con khinh bỉ, làng đe dọa sẽ cạo trọc đầu bôi vôi, cô bèn nhảy xuống bến đò Oan tự vẫn.
Sau vụ cô gái chửa hoang làm rúng động dư luận cả vùng Nam Diễn Châu, các cụ trồng lại cây khác và nghĩ cách làm cho thần b. không quấy rối nữa. Đàn bà, con gái đi chợ và đi làm đồng khi trời chưa sáng hơn, qua cồn b. thì dừng lại, quay mặt vào cây đa, tuốt váy lên. Các bà có con gái đến tuổi cặp kê thì kỹ nh hơn, đêm đang nằm ngủ, hỗ tỉnh dậy là chạy ra cồn b. kéo váy lên một chốc rồi quay về ngủ ếp. Các bác nông dân dắt trâu cái bò cái qua cồn b. là thế nào cũng bắt trâu bò dừng lại quay đít vào cây đa. Nhà nào nghèo quá, không có trâu bò, đành bắt chó cái hoặc mèo cái làm cái động tác đó. Như vậy là thần b. đêm nào cũng được nhìn l. không quấy nhiễu nữa. Cho mãi đến lúc cây đa to lớn, cường tráng, đủ sức trị lại thần b. thì phong tục cho thần xem l. ban đêm mới được bãi bỏ. Từ đó, trong làng không có cô gái nào chửa hoang.
Chuyện xưa còn truyền lại như thế. Trong cuốn hương sử, cụ Phán Liễu có ghi lại việc này. Vậy mà bây giờ người ta dám chặt cây đa, thật là to gan. Các cụ sợ, sợ mà không dám nói thành lời. Một số cụ không cho con trai
mình đi chặt cây, nhưng ngăn cản thế nào được thanh niên thời đại mới. Họ xông ra chặt bảy ngày bảy đêm thì triệt hạ được cây đa. Riêng cái gốc, rễ cái rễ phụ nhiều quá và ăn sâu quá, đành chừa lại. Cây đa này rất to, bốn, năm người ôm mới khít vòng tay. Cây hạ xuống, cưa thành nhiều khúc, chở lên đường quốc lộ số bảy làm ụ kháng chiến.
Các cụ nói có sai đâu. Sau khi chặt cây đa, chuyện cũ lập lại, ba cô gái trong làng chửa hoang. Đau đớn thay cho cái làng từ xưa đến nay nổi ếng là phép tắc nghiêm ngặt, nhiều người học hành đậu đạt. Thế mà bây giờ có con gái chửa hoang, không phải một mà những ba cô. Các bậc làm cha mẹ tỏ vẻ bất bình, tuyệt nhiên không cho con gái đi ngủ tập trung ban đêm ở trụ sở dân quân, tự vệ nữa.
Một hôm, lũ trẻ chúng tôi thả trâu ngoài đồng, rủ nhau đi cắt cỏ, chợt thấy trong bụi rậm một hình hài nhi đỏ hỏn. Mấy đứa chúng tôi nhìn nhau tái xanh mặt. Tôi bỏ chạy. Những đứa trẻ khác cũng bỏ chạy. Riêng thằng Bá trấn nh lại rất nhanh. Bá gọi chúng tôi đứng quây quần, phân công mỗi đứa một việc: đứa thì đào hố, đứa thì chạy về nhà lấy giẻ để bọc hài nhi, tôi ra chợ mua hương. Dưới sự chỉ huy của thằng Bá, chúng tôi tổ chức một đám tang chu đáo cho em bé chưa kịp cất ếng khóc chào đời đã phải về bên kia thế giới. Tôi cắm nén hương lên ngôi mộ nhỏ, nước mắt đầm đìa.
Chỉ sau vài ếng đồng hồ là chuyện này loang ra khắp làng. Người ta xôn xao bàn tán. Mẹ của đứa bé là ai? Mẹ nó là người làng mình hay người làng khác? Sinh đẻ giữa trời giữa đất thế này, mẹ nó có còn sống được không?
Cả tổng Thái Xá chỉ có một trường ểu học. Trường ở cạnh làng tôi. Sân trường có ba cây phượng tuổi thọ đến gần nửa thế kỷ. Bóng rùm ròa tỏa mát khoảng sân rộng chừng ba sào đất. Hoa phượng là hình ảnh thân
thương của lứa tuổi học trò. Khi ếng ve dóng dả thì hoa phượng cũng nở đỏ như ba vòm pháo bông khổng lồ. Hoa rụng xuống sân dầy đặc như một tấm thảm đỏ.
Trước cách mạng tháng Tám, tôi được cắp sách đến trường chừng vài năm. Tôi chỉ được hưởng hai mùa hoa phượng, nhưng suốt đời tôi không thể nào quên màu hoa ấy. Đằm thắm dường bao cái sắc đỏ của tuổi thơ, cái sắc đỏ của muôn vàn kỷ niệm không bao giờ phai nhạt. Sắc đỏ ấy là trang vở trắng nh khôi, là nh yêu bè bạn, là lòng kính trọng thầy giáo.
Khi trận bão quật đổ cây phượng ở giữa thì cả trường nào động như một sự kiện bi thảm. Thầy trò ra sức dụng cây phượng lên, nhưng không thể nào dựng được, rễ cái bị bật chỏng chơ trên mặt đất. Cây nằm xoài ngang sân đau đớn, dường như van lơn chúng tôi! “Các bạn ơi, lẽ nào các bạn lại bỏ tôi, hãy cứu tôi!” Thầy giáo cứ đứng lặng tê tái, ngậm ngùi nói: “Em nào m cách dụng cây phượng sống lại thấy cho ba điểm 10”. Nhưng dựng thể nào được nữa thầy ơi. Vĩnh biệt!...
Thầy giáo Cư quê ở Nam Định, vào làm giáo học ở đây khi con trai trẻ, rồi lấy vợ, sinh con, lập cơ nghiệp tại cái làng nghèo khổ này của xứ Nghệ. Mảnh đất quê người hóa thành tổ ấm của thầy hơn bốn chục năm. Ngôi trường nhỏ là tất cả nh yêu của thầy. Ngoài giờ dạy, thầy tu sửa, chăm chút quanh trường. Khi tấm biến trước của trường nhạt nước sơn, tự tay thầy quét lại sơn trắng và viết lại mấy chữ bằng sơn xanh l'école de Thaixa. Mỗi lần theo cha đến chúc mừng thấy trong dịp tết Nguyên Đán, tết Đoan Ngọ, tôi sung sướng như được sống trong ngày hội. Tôi mặc chiếc áo mới, xách túi quà, tung tăng đi cùng cha đến nhà thầy, lòng nôn nóng mong chóng tới để cúi xuống lễ phép cất lời “kính chào thầy” và nghe thấy khen “cháu dạo này học giỏi lắm”.
Gần nửa thế kỷ, thầy giáo, mái trường, hoa phượng đã từng in bóng vào tâm hồn bao lứa tuổi thơ. Dẫu đã về hưu, chiều nào thấy cũng tới trường vun luống hoa, trồng cây bàng hoặc quét mạng nhện ở cửa sổ.
Không thể tưởng tượng được nỗi đau của thầy đến mức nào khi nghe n người ta sắp sửa chặt hai cây phượng để bán lấy ền chi cho bữa ăn dân làng đắp bờ. Khi bắt đầu về thụ giáo ở đây, thầy trồng ba cây phượng. Thầy chăm bón cây như chăm sóc dạy dỗ học trò. Khi bão quật đổ một cây, thầy buồn đến đứt ruột. Bây giờ bỗng dưng người ta chặt nốt hai cây còn lại. Thầy gặp chính quyền để hỏi “vì sao lại chặt cây?” Mấy ông chính quyền trả lời: “Chặt cây để xây lại trường khác to lớn hơn”. Thầy thở dài. Lúc dân quân vác riu ô ạt ra đứng quanh gốc cây, thấy lại đến van xin một lần nữa: “Năm mươi năm tôi trồng cây lớn được chừng này, các ông mà chặt nó thì tôi khổ tâm lắm”. Mặc, những lưỡi rìu phũ phàng vẫn chém vào gốc cây như chém vào lòng thầy. Thầy đành chịu bó tay, đứng bần thần. Rồi thầy lại lủi thủi lên gặp ủy ban xã: “Công tôi trồng, tôi chăm bón nó mấy chục năm trời. Bây giờ nó không được sống nữa thì các ông cho tôi mua gỗ đem về nhà...”.
VIII
tập trung tổ ên
Hôm nay cả làng nghi lao động để làm một trong những việc trọng đại nhất trong lịch sử làng: tập trung tổ ên. Quy hoạch xây dựng lại làng xóm để người sống ở tập thể chưa thực hiện được, thì thực hiện trước cho những người đã mất. Đối với người sống, khó lắm! Chặt tất cả các cây cổ thụ chỉ mới là triệt hạ cái cũ, còn cái mới thì chưa dựng lên được. Muốn dựng một làng mới theo quan niệm thế giới đại đồng, phải có vôi có gạch, phải lắm ền nhiều của để xây từng dãy nhà dài cho từng giới và từng lứa tuổi nam, phụ, lão, ấu. Lại cần phải xây một cái bếp thật lớn có nhiều nồi, nhiều bát đũa, nhiều mâm. Nhiêu khê lắm. Thôi, người đang sống cứ tạm Ở như vậy đã, mời hồn người chết tập trung về ở một nơi, dễ dàng hơn, chỉ một ngày là làm xong!
Phong tục hình thành bền vững hàng trăm hàng ngàn năm, nhưng “cách mạng” cái phong tục này lại quá đơn giản, tập trung bà con để giải thích ý nghĩa của công việc. Sáng hôm sau từng gia đình rước tổ ên đến nhà thờ họ. Rồi từ nhà thờ họ, tổ ên lại được trước đến nhà thờ đại tôn. Như vậy là cả làng chỉ có một nơi thờ tự, tất cả mọi bàn thờ cá thể bị phá bỏ.
Lũ trẻ chúng tôi nghỉ học. Tôi rủ Bá, Bàng, Thiều, Dân, Viễn... chạy lóng nhóng khắp làng để xem rước. Tôi cảm thấy sung sướng vô cùng. Từ ngày cách mạng thành công đến nay, kéo dài liên miên những chuỗi ngày hội hè, đời mở ra trước mặt một chân trời lộng lẫy. Chỉ có cách mạng mới gieo vào lòng tôi niềm vui lớn như thế. Chỉ có cách mạng mới bảo ban bà con nông dân cổ hủ làng tôi thay đổi nếp sống nhanh chóng đến thế.
Tôi chạy trên đường làng, đôi chân nhẹ nhàng như chạy trong đám mây của miền ên giới. Không thể đi chậm được, cũng không dừng lại ở đâu quả vài phút. Tôi chạy thật sự theo đúng nghĩa đen của từ “chạy”. Chạy để hưởng tất cả mọi niềm vui, không để sót một niềm vui nào dù rất nhỏ. Tôi chạy từ nhà này qua nhà khác, từ nhà thờ họ này qua nhà thờ họ khác, từ nhà thờ đại tôn đến cổng làng, từ cổng làng về nhà mình. Như một con thoi, phơi đầu giữa nắng hè, tôi chạy...
Có đám rước nào trên thế gian độc đáo như đám rước của làng tôi ngày hôm nay? Hai trăm gia đình tổ chức hai trăm đám rước cùng một lúc. Mỗi gia đình một vẻ, muôn hình muôn sắc. Nhà giàu thì rước to, nhà nghèo thìrước nhỏ. Nhà đông con cháu thì đám rước đông, nhà ít người thì đám nước bé. Bố, mẹ, con, cháu rối rít thành đoàn lũ. Có nhà nước giá gương. Có nhà nước cọc đèn Sơn đỏ. Có nhà nước bát hương... Tội nghiệp cố Tuấn không vợ không con, đám rước chỉ có một mình cố, hai tay bưng cái bát đàn sứt miệng đổ đầy cát cắm mấy cây hương đen cháy ngậm ngùi... Bà Đồn cũng một gia cảnh tương tự như vậy. Bà đi làm thuê suốt ngày, tối về nằm cong queo trên cái chõng tre trong túp lều gianh lụp sụp. Trên sáu mươi tuổi rồi, có bao giờ bà thờ cúng ai đâu, có tham dự một đám hội nào đâu. Giữa ngày vui lớn này, bà cũng được tổ chức đám rước, được dự hội. Hai cái bát đàn dùng cho bữa ăn, bà đành liều lấy một cái bát đổ cát vào và cắm hương, tự mình trước đến nhà thờ họ. Bát hương của bà cũng được đặt ngang hàng bát hương của những nhà giàu có. Bà cúi xuống vừa chắp tay lạy vừa lau nước mắt... Đám rước của nhà bà Cựu Diệm lớn nhất. Thằng Viễn là con trai bà, hắn chỉ đi chơi với chúng tôi một chốc rồi về dự rước cùng gia đình. Nhà bà khá đông, khoảng chục người, sắp hàng chinh tế. Đoàn người vừa ra khỏi cổng ngăn thì cả xóm xúm lại xem. Dẫn đầu đoàn là một người bê giá gương, người thứ hai bên chiếc bát hương to có đế gỗ, người thứ ba cầm cọc đèn, thằng Viễn đi thứ tư câm chuông vừa
bước chậm chạp vừa gõ, rồi ếp đến những người khác cầm câu đối và liên thờ phấp phới màu đỏ màu vàng. Từ nhà bà đến nhà thờ họ chỉ chừng hơn trăm mét mà đi hết gần ếng đồng hồ. Trẻ con ríu rít theo sau làm cho đám rước trở nên long trọng, đông đến ba, bốn chục người.
Tổ ên của các gia đình được nước đầy đủ về nhà thờ họ, ông tộc trưởng chỉ huy đám rước chung của cả họ ra nhà thờ đại tôn. Già, trẻ, trai, gái trong họ hầu như không thiếu một ai. Cho nên đám rước của họ nào cũng đông, cũng lớn, vừa nghiêm trang vừa lộn xộn: có ông già bê giá gương, có bà già bê bình hương, có cô gái cầm lọ hoa giấy, có cậu bé cầm cờ lông công, có bác trung niên bê mâm bồng... Cả làng tôi có tới mười tám chi nhánh họ, cho nên các đám rước ra khỏi nhà thờ họ một đoạn là gặp nhau. Họ này nhường đường cho họ kia, vùng xình gần hết ngày mới hoàn thành việc rước tổ ên.
Riêng nhà tôi, cha đã soạn sửa bàn thờ từ chiều hôm trước. Để bà con láng giềng không biết, mãi đến tối mịt cha mới đem trưng tất cả các đồ tế khi mà trước đây chỉ ngày tết mới trong ra: đũa son, bát trái hồng, đĩa cây trúc, đĩa con phượng, đôi hạc đồng ngậm hoa sen, mâm đồng... Tôi xúng xắng bên cạnh cha, cũng soạn cái này sửa cái kia để làm vừa lòng cha. Tẩn mẩn tôi hỏi: “Đến mai là tết à, cha?” Cha lặng lẽ trả lời: “Ông bà, tổ ên chỉ được hưởng những thứ này lần cuối cùng thôi con ạ. Sớm mai ông bà đi tập trung rồi, có về nhà mình nữa đâu”. Cha thấp thỏm suốt đêm, rất ít ngủ, lúc thì dậy thắp hương, lúc thì thay nước cúng, lúc thì thay rượu cúng. Gà gáy canh năm, cha đã thu dọn tất cả các thứ trên bàn thờ, cất vào hòm gỗ sơn. Có lẽ cha Sợ để đến lúc sáng bạch, người hàng xóm sang chơi, biết nhà mình cúng lễ long trọng quá sẽ bị phê bình... Mẹ tôi hình như thâu đêm không ngủ, quá khuya mới đi học về. Mẹ lo vo nếp, làm thịt gà để cúng. Trước khi rước ông bà đi tập trung, mẹ tôi đúng chắp tay khấn. Ở, sao lạ thế, chưa hề bao giờ tôi thấy mẹ khấn. Những ngày giỗ ngày tết chỉ
có ông hoặc cha khấn, chứ đàn bà con gái có được khấn đâu. Thế mà bây giờ, lần đầu ên, mẹ khấn. Đang khấn dở chùng, bỗng nhiên mẹ òa khóc, chạy vào buồng. Tôi chạy theo mẹ, hỏi tại sao mẹ lại khóc, mẹ không trả lời, tôi cũng khóc theo. Mẹ nói nhỏ với tôi qua nước mắt: “Con ra khấn ông bà đi, lớn lên con không được khấn nữa đâu...”. Tôi làm theo lời mẹ dặn. Hai tay chắp lại khấn tổ ên mà lòng tôi lại hướng niềm kính trọng về mẹ. Trong gia đình, mẹ là người chu tốt nhất trong việc thờ phụng ông bà. Những năm mất mùa, đói kém, đến ngày giỗ ông bà, cha tôi bảo chỉ thắp hương tưởng nhở là được rồi, nhưng làm thế mẹ không yên lòng, thế nào mẹ cũng chạy vạy mua được cân nếp về thổi xôi để cúng. Mẹ chi mới đến ở cái nhà này mấy chục năm, nhưng trong tâm tưởng mẹ, dòng máu huyết tộc thiêng liêng đã chảy từ thời xa xưa cho đến đời tôi bây giờ và cả đời cháu đời chắt sau này nữa. Phận làm dâu, chữ hiếu thật là lớn lao. Bây giờ mẹ lại thêm một vai gánh công việc đoàn thể. Mẹ lo lắng cho tròn cả hai bên. Người mẹ ngày càng gầy xọm. Phải ễn ông bà, tổ ên đi tập trung, mẹ buồn, nhưng mẹ cổ giấu đi, sợ nước mắt chảy ra, các đồng chí lại chê cười là mẹ chưa gột rửa được đầu óc cổ hủ.
Bác Chắt Kể là chi trưởng của một chi họ Võ. Nhà bác là nhà thờ của ông tổ chi trên. Ngày hội hôm nay bác không thể vắng mặt. Bác mở cửa nhà thờ để bà con họ hàng rước bài vị đến. Các chi khác có tổ chức mâm cỗ sơ sài, sum họp một lần cuối cùng để rồi vĩnh viễn không đến nhà thờ nữa. Riêng chi bác Chắt kế, chi có trầu và nước chè xanh, đám rước cũng xuềnh xoàng... Vài ba hôm sau, bác Chắt Kể cũng giỗ cụ, Bác cùng mấy người con nghiêm chỉnh ra nhà thờ đại tôn, bảo ông từ mở cửa, vào đúng bàn thờ riêng của nhà mình, đặt nải chuối, đĩa trầu, thắp hương, khấn vái, rồi lại mang lễ vật về. Cử chỉ của bác nêu cho dân làng ba bài học: một là cúng tổ ên nơi tập trung, hai là ết kiệm thời gian, ba là ết kiệm vật chất, tránh chè chén linh đình.
Tổ ên đã rước đi nơi khác, bác Chất Kế biến gian nhà thờ cũ thành nhà ở cho cô con gái mới lấy anh bộ đội. Việc này bác làm vội vã quá. Dẫu không cúng tổ ên ở đó nữa, nhưng vẫn còn cái hơi hướng thiêng liêng của một ngôi nhà thờ qua nhiều năm, ai lại biến thành cái phòng tân hôn. Nhiều cụ ông cụ bà bất bình, xầm xì: “Có đời thuở nhà ai lại đem nhà thờ làm cái nơi ngủ của bà 0 với ông Dương. Đời sống mới gì mà lạ thế? Đời sống mới đến đâu cũng phải giữ lấy nề nếp gia phong chứ”. Có người đánh liều nói nhỏ với bác Chắt Kế. Bác đỏ mặt, tức giận. Lần đầu ên bác giận vì có người dám phản bác mình.
Sau cuộc rước tổ ên tập trung về một nơi, tất cả các nhà thờ họ trong làng đều bị phá. Có nhà thờ biến thành địa điểm hội họp. Có nhà thờ biến thành kho phân. Hầu hết các nhà thờ đều dỡ ra, cùng với những đồ tế tự, đem chia đều cho mọi người: người được gạch, người được cái cột gỗ, người được cái xà ngang, người được cái án thư, người được cái trường, người được chục bát....
Thế là thôi, hết nơi thờ tự, hết nơi sum họp huyết tộc. Các dòng họ bỗng dưng ly tán.
Cả làng chỉ còn lại một nhà thờ đại tôn. Mỗi năm một lần giỗ tổ vào ngày 24 tháng Tư âm lịch. Trước kia, đến ngày giỗ, làng
mở hội linh đình. Nhưng nay thì vắng tanh, vắng ngắt, may ra có dăm bảy cụ đến thắp hương, ăn trầu, rồi im lặng ra về. Thậm chí, có năm chẳng cụ nào đến cúng, chỉ có ông từ tha thổi vào điện thờ một mình.
Cách đây chừng bảy trăm năm, ông Võ Chính Đạo từ ngoài Bắc vào, chiêu dân lập ấp. Hình như thuở ấy, sau khi đánh thắng quân Nguyên, nhà Trần tổ chức di dân vào đây khai phá đất hoang. Ông Võ Chính Đạo dừng chân bên sông Bùng, nhìn thay thế núi Hai Vai dụng phía tây, biển Đông mở
ra trước mặt, bèn cắm đất dựng làng. Cuộc đời của ông Tổ mang đầy huyền thoại, trong gia phả có ghi lại mấy mẩu.
Từ ngàn dặm xa xôi phương Bắc vào, mệt quá, ông nằm ngủ mê man trên bờ sông Bùng. Trong giấc mộng, ông thấy rồng cõng ông bay lên chu du khắp vòm trời. Khi tỉnh dậy, ông hóa thành người khổng lồ đầu gối lên núi Hai Vai, chân duỗi ra bể Đông. Ông vươn vai và trở thành ông Đùng. Ông giết hết rắn rết, hổ báo, gọi dân về cày cấy. Sau khi ông mất, dân làng tôn ông là đức tổ Triệu Cơ và lập nhà thờ tưởng nhớ ông, gọi là nhà thờ đại tôn.
Chín mươi chín phần trăm dân làng là họ Võ. Về sau, một Số gia đình họ Trần, họ Đào, họ Dương, họ Lê, họ Nguyễn đến xin ở, cũng tôn ông tổ họ Võ là ông tổ của mình và cùng thờ cúng ở nhà thờ đại tôn.
Mấy trăm năm qua, nhà thờ đại tôn chỉ thờ đức Triệu Cơ một cách tôn nghiêm, bỗng dưng bây giờ thờ đến hàng trăm người quá cố. Như thế là ông tổ Triệu Cơ cùng bình đẳng với trẻ em, thậm chí cả lưu manh, kẻ cắp và ăn mày. Nhiều cụ tỏ vẻ không bằng lòng, nhưng cũng đành im cho xong chuyện, thời nào theo phép ấy, chống lại làm sao được.
Đã thế thì đành phải thế. Chị hiếm một nỗi là nhà thờ chỉ có ba gian, mà phải đặt hổ lốn đủ các đồ tế tự: lông ngai, hạc gỗ, giá gươm, bát hương sứ, bát hương sành, thậm chí cả bát sứt bát mẻ, nhiễu điều rách che giá gương... Ôi thôi, trăm thứ bà rằn chen chúc nhau lộn xộn. Còn ra thể thống gì nữa! Còn gì là tôn nghiêm nữa! - Nhiều cụ thấy nh cảnh như vậy, chán nản, không muốn đến dự ngày giỗ Tổ. Nhà thờ đại tôn càng ngày càng hoang vắng. Ngói vỡ. Tường gạch loang lổ từng mảng. Câu đối bị đánh cắp. Trẻ em viết nghuệch ngoạc, bậy bạ lên cánh cửa...
Đùng một cái, ông bí thư đảng ủy của xã quyết định lấy nhà thờ đại tôn của họ Võ làm kho thóc. Các cụ không thể ngồi yên, bàn với nhau: “Cả làng
chỉ còn lại một nhà thờ mà ông Đảng cũng đòi chiểm làm kho thóc thì thờ cúng vào đầu. Con cháu vô ơn bội nghĩa với tổ ên à? Phải kêu lên tận đảng ủy”. Lời kêu đụng vào tai ông bí thư, ông ta đanh mặt nói như búa bổ: “Đồng bào miền Nam hy sinh xương máu không ếc, bà con ta ngôi ở hậu phương lại ếc cái nhà thờ Tổ!” Các cụ ấm ức, nhưng đành phải buông tay xót xa nhìn ngôi nhà thờ biến thành kho thóc.
IX
tập trung thần, thánh, phật
Dòng sông Bùng chảy qua cánh đồng làng tôi tuy không lớn nhưng nó là huyết mạch nh cảm từ lâu đời. Bến đò ngã ba sông trở thành nơi hò hẹn của những đôi trai gái trong các phiên chợ Si, chợ Chùa, chợ Lèn, chợ Mới. Bao nhiêu đêm trăng, đám trai làng đã đóng bè chuối vượt sông để hát đối đáp với con gái làng bên. Con sông nh và cũng là con sông thần thoại. Sự
ch các thần trong làng đều ít nhiều quan hệ với dòng sông. Đã có một thời người ta n rằng dòng sông thiêng liêng này là dòng sống của các vị thần, cho nên hai bên bờ sông được giữ gìn rất sạch sẽ. Trong dịp kỷ niệm hằng năm, dân làng làm những con thuyền tre dán giấy màu sắc sặc sỡ thả xuống sông để các thần du ngoạn.
Sông Bùng là cái nôi sản sinh ra các vị thần. Vì thế trong làng có nhiều đền thờ thần. Ông Đùng đã dùng bàn tay khổng lồ se đất mở nên sông Bùng để êu nước cánh đồng trũng ra bể, Thần Của Thung từng đánh nhau với lũ thủy quái để ngăn nước mặn thủy triều ngập vào đồng lúa. Thần Áo Trắng đã cứu vua Lê thoát khỏi tay giặc Minh ngay bên bờ sông... Ngoài các vị thần còn có các vị thánh, các nhân vật lịch sử có công với làng xóm, còn có cả chùa thờ Phật, miếu thờ những vong hồn bất hạnh... Hồi Tây mới cai trị nước ta, một tên cố đạo dẫn lính vào làng, định phá nhà thờ đại tôn để xây nhà thờ Thiên Chúa giáo. Dân làng uất ức m cách đối phó. Một người đàn bà tứ cố vô thân, nấp trong bụi cây, rình lúc cố đạo vừa bước vào cổng làng, bà xông ra cởi váy đập túi bụi vào mặt cố đạo. Bị cú trả thù bất ngờ và choáng mát, cố tháo chạy, không dám quay lại nữa. Và bỏ ý định xây nhà thờ đạo.
Đền chùa miếu mạo nằm rải rác trong làng và cả ngoài cánh đồng. Nhưng làng tôi ở giữa vùng chiêm trũng, cứ vào ết tháng Tám, hễ mua một đêm là nước ngập trắng mênh mông, làng biến thành hòn đảo. Qua nhiều đời, dân làng đã ra công đắp những gò đất cao để xây đền, chùa - những gò đất này vừa tôn vẻ sầm uất, linh thiêng, vừa có tác dụng về thủy lợi. Đình chùa cùng với những sự ch huyền thoại đã góp phần rất lớn vào sự hình thành lịch sử và nền văn hóa của làng tôi, đã góp phần tạo nên phong tục tốt đẹp và nh cảm, nhân nghĩa của bao nhiêu thế hệ. Tuổi thơ tôi đã từng được bắt rễ sâu thăm thẳm vào các tầng đất đai của quá khứ. Một nét cong đầu đao của mái đình, một pho tượng Phật, một ánh nến trong điện thờ, một vòm cổ thụ thâm u che rợp ngôi miếu đều in bóng trong hồn tôi và lung linh mở ra những vầng mây thần thoại.
Sẽ còn lại gì sau khi các vị thần vị thánh tập trung về một nơi?
Sẽ còn lại gì sau khi các ngôi đền ngôi miếu bị phá và các gò đất bị san bằng? Sẽ còn lại gì để làm cái cầu cho các thế hệ mai sau trở về thăm lại ền nhân?
Tất cả các thánh, thần, phật ở rải rác cá thể trong thôn trong xã đều phải về ở tập trung tại đền Hàng Khoán dưới chân núi Hai Vai! Đó là lệnh của chính quyền địa phương, không ai được cưỡng lại.
Trời ơi, cái cú tập trung ông bà, ông vải, tổ ên đã làm cho mọi người choáng, bôi thêm cái cú tập trung thần thánh này nữa có thể làm cho dân làng bị ngất!
Lệnh ban ra quá gấp, cho nên đình chùa miếu mạo chỉ có thể tổ chức cùng một đêm lễ ễn đưa thần thánh. Nhiều ông cụ, bà cụ tất tưởi chạy hết miếu này đến miếu kia qua chùa nọ để thắp hương, để khấn vái, nhỡ bỏ sót một nơi nào trong giờ phút ễn biệt thiêng liêng thì sợ thần thánh giận.
Mẹ tôi đi họp suốt mấy ngày đêm để cùng với đoàn thể bàn việc trọng đại này. Đêm cuối cùng, tan họp thì đã qua giờ tý, mẹ cũng lén lút cầm mấy bó hương đi làm lễ ễn đưa thần thánh. Nhưng đêm sắp chuyển về sáng rồi, mẹ chỉ đến được một ngôi chùa và một ngôi miếu. Lúc trở về, mẹ mệt như người, mặt bệch bạc vì mất ngủ. Chẳng ăn uống gì cả, mẹ nằm xoài trên giường. Tôi lặng lẽ đến ngồi bên cạnh, mẹ nói: “Cách mạng triệt để con ạ! Chủ nghĩa cộng sản là tập thể hóa. Thần thánh tập thể trước, sau đó sẽ tập thể người. Không biết đời mẹ có được hưởng thế giới đại đồng không? Chắc chắn đời con thì sướng lắm. Con cố học cho giỏi...”. Nghe mẹ nói, người tôi cứ rưng rưng. Chợt thấy khóe mắt mẹ đẫm ướt. Tôi hỏi: “Làm cách mạng sao mẹ lại khóc?” Mẹ không trả lời. Hình như trong lòng mẹ đang nén lại một điều gì khó bộc lộ cho ai biết.
Bọn trẻ chúng tôi lại được một phen chơi bời thỏa thích. Tôi nhớ trong một cuộc họp của đội Nhi Đồng cứu vong, bác Chắt kế có nói “cách mạng là ngày hội của quần chúng”. Càng suy tôi càng thấy đúng. Hết hội rước ông bà, tổ ên tập trung về nhà thờ đại tôn, lại ếp đến hội trước thần thánh tập trung về đền Hàng Khoán. Sau cuộc hội này không biết sẽ còn những cuộc hội nào nữa?
Tất cả các đền, chùa, miếu, nhà thánh đều sáng trưng ánh nến, khói hương nghi ngút, trống chiêng ồn ã, tấp nập người vào ra. Náo nhiệt khắp làng xóm một không khí ễn đưa thần thánh. Có ếng reo của trẻ con. Có nụ cười gặp gỡ của trai gái. Có nước mắt của các cụ già. Có lẽ thâu đêm suốt sáng thần thánh cũng không ngủ. Thần thánh bồi hồi về cuộc đổi đời lớn lao này? Hẳn là thế. Hàng mấy thế kỷ qua, mỗi vị thần ngự một điện thờ riêng, mỗi vị thánh hưởng một mùi hương riêng, nay sắp được về ở tập thể, các vị tránh sao được nỗi chờ đợi nôn nao. Không có đường dây liên lạc, mà n truyền đi rất nhanh - những cái n rất thiêng. Pho tượng đức thánh Khổng Tử ở nhà thánh của hội Tư Văn bỗng nhiên mặt đỏ bừng
bừng. Pho tượng Phật ở ngôi chùa xóm Trang Hà bỗng lắc lư làm rung cả tòa sen. Bình hương ngôi miếu sau đèn bỗng nhiên bốc lửa. Long ngai ở nhà thánh tổng bỗng nhiên chảy máu.
Từ đền này đến miếu kia, từ chùa này đến nhà thánh nọ, n truyền như con thoi. Các cụ càng chăm chú ra sức lễ bái. Khói hương bay ngột ngạt đến tức thở. Qua ánh nến mờ ảo, các pho tượng, các long ngai, lư hương, cọc đèn, hạc gỗ, giá gươm đều rung lên một vẻ tôn nghiêm khác thường. Hàng chục cây nến hồng nhỏ nước mắt lã chã.
Hồi làm nhà thánh tổng Thái Xá, ông nội tôi cũng một số ền cho nên được Hàng Tổng phong là “ông tổng Quyền”. Sau khi ông qua đời, cha tôi chăm đi lễ thánh, gọi là để giữ cái gia phong do ông truyền lại. Đêm nay, cha tôi đi dự ở các miếu, chùa rất nhanh, nhưng dừng lại khá lâu ở nhà thánh tông. Khi cha bước vào, các cụ tỏ vẻ trọng vọng: “Mời ông tổng Quyền vào... Ông tổng Quyền thắp hương ện thánh đi... Ông tổng Quyền dâng rượu ên thánh đi...”. Thường ngày, người ta gọi cho tôi theo tên của chị cả tôi: ông Đoan. Giữa giờ phút long trọng này, người ta gọi cha theo tên của ông nội tôi: ông tông Quyền. Tôi cảm thấy tự hào. Đứng ngoài cửa, tôi dõi nhìn cha tôi khắp xếp, mặc áo lương dài, bước từng bước thận trọng qua nhiều tầng án thư, rồi dừng lại trước pho tượng Khổng Tử: chắp tay lại và cúi đầu một hồi lâu. Từ sau cách mạng tháng Tám thành công, cha làm chủ tịch thôn, chẳng bao giờ trang phục lễ hội, thế mà đêm nay, có lẽ là lần cuối cùng, cha tôi đội cái khăn xếp và mặc chiếc áo lương. Có lẽ cũng là lần cuối cùng cha được nghe các cụ già gọi một cách trân trọng “ông tổng Quyền”. Xem cha lễ xong ở nhà thánh tổng, gà đã gáy canh ba, tôi theo bọn thằng Bá, thằng Viễn đến đền thờ vị thần Áo Trắng. Đây là đền thờ lớn nhất và thiêng nhất ở làng tôi. Đền nằm giữa một khu rừng rậm rạp, có cây muỗm cao sừng sững như cái tháp xanh khổng lồ. Ông từ nói: ngày mồng một và ngày rằm hằng tháng, ông vào thắp hương thường thấy
hai con rắn mào đỏ chầu hai bên ngai thờ. Cứ mỗi năm, đến ngày hội, ông thường thấy vị thần Áo Trắng hiện về như một áng mây nhẹ nhàng bay từ bờ sông Bùng qua rừng rậm đến mái đền rồi bay vào hậu cung... Ai đi qua cửa đền cũng phải cất nón. Những người đang có đại tang không được vào đền lễ bái và không được đi qua đền. Một lần, có người đàn bà đầu thắt khăn đại tang quê bên kia sông, đi chợ Len về qua cổng đền, bị hộc máu chết tươi tại chỗ. Lũ mục đồng chúng tôi mỗi lần sắp đến cửa đền là phải xuống trâu... Vẻ đẹp tôn nghiêm của ngôi đền càng được giữ gìn qua trường tồn năm tháng. Cây mọc lên ngày càng nhiều, cổ thụ ngày càng cao hơn, bao bọc mái đến như tán long ngưỡng vọng của dân chúng qua nhiều thế hệ che chở sự bền vững của lịch sử.
Thần phả còn được cất giữ cẩn thận trong hộp sơn son thiếp vàng đặt ở thượng điện. Trong cuốn Lam Sơn thực lục, Nguyễn Trãi cũng ghi: “Vua cùng với Lê Liễu chạy đến bên sông Khả Lam thì thấy một người đàn bà mình mặc áo trắng, đeo xuyến vàng và thoa vàng, chết nằm ở đấy - Vua và Liễu ngửa mặt lên trời và khấn rằng: Ta bị giặc Minh đuổi, xin giúp ta thoát nạn, sau (nếu ta) định được thiên hạ, sẽ lập miếu thờ, hễ có lợn bò cúng tế xin cúng trước”.(Vua và Liễu đắp mộ chưa xong thì giặc xua chó ngao đến. Vua và Liễu chạy vào gốc đa. Giặc lấy mũi giáo đâm vào đùi bên tả Liễu. (Liễu) lấy tay xoa cát nắm vuốt mũi giáo cho hết vết máu. Bỗng có một con chồn trắng (từ gốc cây) chạy ra, chó ngao đuổi theo chồn. Giặc không nghi ngờ (trong cây có người) nữa, liền bỏ đi. Vua nhờ vậy được thoát, khi định xong thiên hạ, (vua) phong thần áo trắng làm Hoằng Hưu đại vương”.
Thần ch ghi là Bạch Y Thần tức là vị thần áo trắng này. Đêm nay là đêm hội cuối cùng tại ngôi đền. Nghi lễ được tổ chức long trọng như ngày hội lớn. Hai dây cờ tả hữu phất phới bay. Ngọn cờ đại bằng ni thêu chữ “Thần” quanh đạc lượn sóng. Cửa tam quan mang nhiều vết đạn thời kỳ cụ Nghè Ôn đánh Pháp bỗng ngời sáng màu ngọc bởi nhiều ngọn nến. Những giải
cờ đỏ gắn lục lạc cắm đầy trên cửa chính của phụ, gió thổi vô hồi, lục lạc reo tưng bừng.
Trong điện thờ, các cụ từng đôi một đi hai bên dâng rượu, dâng hương. Cụ chủ tể mặc áo thung đỏ vừa “hơng... bái...” vừa nước mắt chảy ròng ròng. Các cụ khác, cứ ba người một thay nhau vào tấm chiếu hoa trái trước án thư quỳ lạy. Có cụ thụp đầu xuống rất lâu ngỡ như bị ngất vì cơm xúc động lớn. Không xúc động làm sao được! Thần đã cứu vua Lê thoát khỏi nanh vuốt giặc Minh. Thần đã phù hộ cho dân làng vượt qua trăm nghìn trận nguy nan. Sáng mai Thần phải đi tập trung, Thần phải vào thế giới đại đồng cùng với các vị thần khác trong xã. Chỉ còn một đêm, một đêm nay nữa thôi mà. Thần ở với dân làng, cuộc ễn biệt này nặng nề quá sức chịu đựng của các bậc cao niên.
Trống gióng. Chuông đổ hồi. Lục lạc reo. Rượu cứ rót. Hương cứ thắp. Và “hơng... bái...”. Và quỳ lạy. Một cụ già khi dâng rượu, đứng khấn rất lâu, rồi gục xuống dưới chân ngai uy nghi sơn màu đỏ, phải có người lên dắt cụ mới tỉnh lại. Trong lòng mỗi già làng đêm nay đều phân ra làm hai nửa bằng nhau: một nửa là thành kinh thần thánh, một nửa là n theo thế giới đại đồng, vừa muốn Thần ở lại với dân làng, vừa muốn Thần đi tập thể để làm gương cho con cháu.
Lễ hội kéo dài đến tận tàn canh. Trời bừng sáng. Không thể nấn ná thêm được nữa. Đã đến giờ ễn đưa Thần. Lòng các cụ rối bời như tơ vò. Ông chủ tế trong các ngày lễ chỉ đứng làm nhiệm vụ “xướng” như người chỉ huy dàn nhạc, bỗng nhiên ông phá mọi luật lệ bình thường, chạy đến gục đầu dưới chân ngai, khóc nức nở như trẻ nhỏ.
Không thể nấn ná được nữa, mười sáu thanh niên lực lưỡng ghé vai khiêng kiệu “loan giá”. Kiệu đi rất chậm tường như hàng thế kỷ mới nhích được một bước, vì người chen chúc xô vào đông quá. Các già làng xếp hàng
đi sau kiệu, mặt iu xìu như bánh đa ngâm nước. Không ai bảo ai, tất cả mọi già làng đều òa khóc.
Thế là thôi, thế là xong, kiệu đã ra khỏi cửa tam quan... Cuộc ễn biệt đau buồn như cuộc vĩnh biệt...
Thần đã đi rồi. Thánh đã đi rồi. Phật đã đi rồi. Những ngôi đền, ngôi chùa, ngôi miếu như cái xác không hồn... Dân tử chiếng tranh nhau cướp giật mang đi: người được hòn đá tảng, người được cái cửa vọng, người được viên ngói viên gạch, người được cái cột gỗ...
Ôi tan hoang đến tột cùng tan hoang sau cuộc rước các thánh về thế giới đại đồng. Tại nhà thờ thánh, tượng Khổng Tử lăn long lóc như người ăn mày tha hương chết đường chết chợ, bị trẻ con ném cút vào mặt. Tại ngôi chùa Trang Hà, hàng chục pho tượng đổ ngổn ngang, bị lũ mục đồng ném bùn lấm láp nước sơn. Cái giống hình bán nguyệt trước cổng chùa đẹp đến thế mà cũng bị phá phách, cày xới để trồng lúa. Mấy tấm đá ghép cầu bị bê lên làm hố êu. Mấy chiếc bia lớn ở nhà thờ thánh tổng, cái thì đem bắc cầu, cái thì bị bọn mục đồng khiêng đi làm trò chơi rồi ta đái vung vãi lên mặt bia.
Còn đền thờ Bạch Y Thần thì sao? Khu rừng cổ thụ đã được đoàn Thành Niên Cứu Quốc phá sạch sành sanh để trồng khoai theo lời kêu gọi “tấc đất tấc vàng” của ủy ban kháng chiến. Cây muỗm mấy trăm năm đã bị đào tận gốc trốc tận rễ, Mùi phân bắc, phân lợn, phân trâu bò xông lên hôi hám khắp cả khu đền cũ. Thượng điện biến thành kho phân. Hạ điện biến thành nơi hội họp. Cửa tam quan bị san bằng hoàn toàn, không còn lại chút dấu vết oanh liệt xưa. Nhà tả mạc, hữu mạc bị phá trụi và được dựng lên đó những túp nhà gianh của các gia đình nghèo khó,
Không còn nữa mùi hương ổi của khu rừng cũ để bọn trẻ chúng tôi vào hái những ngày tháng Bảy. Không còn nữa mùi hương mít quyến rũ vào dịp
đầu thu. Không còn nữa những trái thị chín vàng phảng phất hình bóng cô Tấm vào dịp trăng tròn tháng Tám. Không còn nữa câu chuyện hoang đường thiêng liêng con rắn mào đỏ về chầu Ngai, bóng áo trắng của Thần bay lượn trên mái đền... Nghĩa là mất tất cả. Lũ trẻ chúng tôi đã bị tước mất niềm n tôn kính thiêng liêng vào quá khứ, vào lịch sử. Chúng tội vô tâm vô tư xông vào hậu cung bẻ gãy đầu rồng của Ngai thờ, nghịch ngợm chặt đôi chặt ba con rùa đội hạc, hung ác cầm gươm thần đánh nhau trong những cuộc tập trận giả, tàn ác đập vỡ hòn sơn giả có gốc si bủa rễ bao bọc hàng trăm năm...
Cả xã chỉ còn lại một đền thờ Hàng Khoán dưới chân núi Hai Vai, Đển này có vị trí đẹp, nhưng chẳng có sự ch gì đáng lưu ý. Những người thợ đá lập ngôi đền này để cầu xin thần núi đừng làm hại họ.
Thần, thánh, phật, ma, quỷ đều tập trung về đền Hàng Khoán để cùng nhau sống trong không khí thế giới đại đồng. Đền có nhà thượng nhà hạ, nhưng tất cả thần thánh trong xã tề tựu về đây thì hóa ra chật chội. Từ ngoài cửa đền trông vào rất buồn cười: tượng ông Khống Tư đứng bên cạnh ông Thích Ca Mâu Ni, ngai thờ Bạch Y Thần xếp cùng án thư với thần ăn mày, bài vị ông Đùng đặt kề lư hương đất thờ thần dâm, giá gương thờ cụ tổ nghề làm nón làng Xuân Viên để sát vào thanh gươm thờ tên tướng cướp.
Mọi tôn trật tự bị đảo lộn lung tung phèo. Xã hội thần linh đang bình yên, bỗng như bị trận lốc xô tới bất ngờ khiến các vị thần không kịp trở tay đối phó, không kịp van xin cầu cứu Ngọc Hoàng.
Thỉnh thoảng dăm bảy cụ già nhớ ngày tế thần của làng mình, kéo nhau lên thắp hương. Nhưng thấy điện thờ lộn xộn quá, ngao ngán quay về. Dần dà về sau, không ai nhòm ngó, không ai hương khói, đền Hàng Khoán vắng tanh và bị phá phách. Ván cửa bị giật. Ngói vỡ, mưa nắng dột nát. Hạc gỗ bị
gãy cổ. Ngai thờ bị vứt lăn ngả nghiêng. Và cuối cùng, ngôi đền bị phá hủy hoàn toàn, cỏ hoang mọc um tùm.
Thế giới đại đồng của thần linh thế là tan vỡ. Các vị thần quay về chốn cũ thì chốn cũ đã êu điều. Bây giờ các vị thần phiêu dạt nơi đâu?
X
tập trung mồ mả
Đất canh tác bị chia cắt manh mún thành hàng trăm mành nhỏ. Mảnh thì vuông. Mảnh thì méo. Mảnh thì xiên xẹo. Trong những mảnh ruộng ấy, chen chúc bao nhiêu ngôi mộ lớn mộ nhỏ. Có những thửa ruộng rất thảm hại: đất cấy lúa trồng khoai len lách giữa mồ mả choán gần hết diện ch. Đất bị xé ra như lòng người bị xé vụn bởi những ganh ghét. Đã mấy đời như thế rồi, hỡi đất đai?
Chủ trương của chính quyền cách mạng tập trung mồ mả vào một nơi là phải. Tập thể hóa tổ ên, thần linh là việc làm nghiêm túc - hài hước, là ếng cười mỉa mai sau khi người ta bình nh nhìn lại niềm n ấu trĩ. Nhưng tập trung mồ mả là việc làm nghiêm túc, hoàn toàn không pha vị hài hước. Hàng trăm ngôi mộ cũ đã được dời đi, đông điển trong quang quẻ, thoáng mát, cây lúa cây khoai mọc lên một cách đàng hoàng, không phải chui rúc giữa mồ mả.
Có ngờ đâu công việc nghiêm túc ấy, người ta lại vô nh biến thành công việc hài hước và độc ác. Đáng lẽ chính quyền phải báo cho các gia đình tự lo liệu lấy việc dời hài cốt, gia đình không tự lo nổi thì mới yêu cầu sự giúp đỡ của tập thể. Đàng này người ta lại đùng đùng phát động thanh niên mở chiến dịch đào mồ đào mả.
Sáng hôm ấy, con gái và con trai, cuốc và xẻng, thuổng và bàn vét, ngổn ngang ồ ạt xông ra đồng. Hai cánh đồng Ruộng Quan và Cồn Rộng nhiều mồ nhất, phải mở hai mũi quân mạnh nhất xung phong vào hai “cứ điểm” này. Không biết từ bao giờ ông cha mình chọn nơi đây làm nghĩa địa cho người nghèo. Hầu hết những nhà giàu có, người ta táng vào thửa ruộng riêng, ngôi mộ to hơn và thế đất thịnh vượng hơn. Chỉ có nhà nghèo, hiếm
ruộng hoặc không có ruộng, mới táng nhờ vào mảnh đất công này. Có khi đào huyệt mới lại chạm vào tấm áo quan cũ hoặc êu sành cũ. Mộ chen chúc nhau. Mộ chồng lên mộ, tầng tầng lớp lớp hài cốt. Đủ mọi dạng mọi kiểu cất táng: ểu sành, ểu gỗ, nồi đất, chiếu... Mỗi năm xương khô là một cuộc đời riêng, một thế giới riêng được giấu kín vào lòng đất, phức tạp và huyền bí. Mộ ông Liễn, một tay đặt chuyện và nổi ếng. Ngôi mộ ông là pho biên niên sử đã khép lại trang cuối cùng, ta vẫn cảm được qua nắm đất cái xôn xao đầm ấm của hương thôn, cái châm chọc cay nghiệt đối với bọn hào lý. Mộ anh Tiếu, con ông mỹ nghèo xơ xác, tác giả của nhiều câu ca dao trữ nh trong những đêm hát phường vải. Mộ o Thiện, một cô gái con nhà giàu, lẳng lơ, đa nh, trốn cha trốn mẹ để ân ái với những chàng trai nghèo. Mộ ông Đường, không vợ con, là thầy lang suốt đời mang cái bị thuốc đi làm phúc cho thiên hạ, đến lúc chết không kèn không trống, chỉ có vô khối những nén hương ân huệ cắm lên mồ.
Những cuộc đời riêng là vậy, những nỗi niềm riêng là vậy! Thế mà đến sáng mai này tất cả mọi bộ hài cốt được trộn vào trong một khối cộng đồng bao bọc bởi tấm ni lông! Vốn lúc đầu đám thanh niên cũng còn giữ được lễ nghĩa: mỗi bộ hài cốt để riêng một nơi. Nhưng mộ nhiều quá, nếu cứ cẩn thận như vậy, ến trình chiến dịch sẽ kéo dài, họ xô bồ đào xới và xô bồ bốc tất cả hài cốt vào một tấm ni lông. Hàng chục cái sọ dừa, hàng chục cái xương tay xương chân, hàng chục bộ răng đổ ào vào một đống.
Ông T. quê làng Thanh Lý, đang làm thuê ở Phủ Quỳ, xa trên năm chục kilômét, nghe n xã mình tổ chức dời mồ mả để quy hoạch lại đông điền, ba chân bốn cẳng chạy về. Đến đầu làng, áo quần ướt đẫm mồ hôi và lấm bê bết bụi bặm, chợt thấy đám thanh niên đang lố nhố đào mả ngoài đồng, ông hộc tốc chạy ra, vừa khóc vừa la hét: “Hài cốt của cha tôi đâu rồi? Bọn thanh niên láu cá đánh lừa ông: bốc riêng ra một cái sọ dừa và mây cái xương trao cho ông. Ông ôm bộ hài cốt, khóc rưng rức. Một lúc sau, trầm
nh lại, ông thấy còn thiếu một ống xương chân, đòi kỳ được. Mấy cậu thanh niên mặt nh khô, trả lời: “Mộ cha ông chôn lâu ngày, làm sao mà đủ được xương!” Ông T. vẫn không chịu, nằng nặc đòi cái xương ống chân của cha. P., một thanh niên lớn tuổi nhất, xóc xóc đống hài cốt trong túi ni lông, nhặt ra một đoạn xương chân trao cho ông T. (!).
Sau mấy ngày đào bới, tất cả hài cốt được mang lên táng tại khu nghĩa địa mới chung của toàn xã. Nói là nghĩa địa, nhưng nào có ra cái hình dáng gì đâu. Ở một số xã khác như xã Diên Thái, nghĩa địa được xây dựng rất nghiêm trang, xung quanh trồng cây, phía trong có lối đi ngang đi dọc, hàng trăm ngôi mộ nằm im lặng gợi không khí thiêng liêng. Còn ở xã tôi, hầu như người ta quá “duy vật”, cho nên không coi trọng việc xây dựng nghĩa địa cho tử tế. Giữa cánh đồng màu, nham nhở lồi lõm mô gò, bùn lầy, xương cốt vùi xuống, đất lấp lên, thế là xong! Để ết kiệm đất, không được đắp riêng từng nấm mộ, mà mỗi chi họ đào một cái rãnh dài, rồi xếp các bộ hài cốt liền nhau, đắp đất như bờ ruộng. Tệ hơn nữa là có mấy cậu thanh niên nghịch ngợm, đắp khu mộ hình khẩu súng lục hoặc hình khẩu súng trường.
Chôn cất kiểu này khó mà phân biệt được mộ của ai. Chỉ biết đấy là mộ chung, mộ tập thể. Có gia đình cẩn thận làm mộ chí bằng đá, mấy ngày sau bọn xấu bụng ăn cắp mộ chí đem về làm đá tảng kê cột nhà. Người ta lại làm dâu tại ngôi mộ băng cách đóng cái cọc tre thật sâu, cũng chỉ mấy ngày sau là bọn trẻ chăn trâu nhổ cọc tre vứt lung tung. Chúng nhổ cọc tre để làm gì? Chẳng làm gì cả, nghịch thể thôi, không có mục đích.
Mọi người thở dài, bó tay, đành chịu vậy. Thời buổi thể thì phải chịu thế, chứ biết làm sao. Một số cụ già nhìn nghĩa địa luôm nhuôm như vậy, sợ thân phận mình sau khi nhắm mắt xuôi tay. Ai sẽ thờ phụng mình? Mộ mình có còn nữa đâu để con cháu tảo mộ? Lúc sống đã cơ cực, còn nghìn lần cơ cực sau lúc chết. Có cụ đâm ra sợ chết. Tôi nói thật đấy mà. Tâm lý
dân tộc ta là người đã bảy mươi, tám mươi, ra đi rất thanh thản. Thế mà ở làng tôi, cụ cổ Đính nhìn cái nghĩa địa tồi tệ mà sợ mình phải chết. Cố đã trên tám mươi tuổi. Vào giờ phút lâm chung, con cháu khiêng cố ra nhà ngoài, cổ không cho khiêng, con cháu thay áo mới, cố không cho thay. Cô nói thều thào: “Tao nhìn cái nghĩa địa, tao sợ lắm, đừng bắt tao chết...”
Chủ trương dời mồ mả để quy hoạch lại đông điền là đúng. Nhưng các ngôi mộ có nh chất lịch sử và không ảnh hưởng đến đất đai canh tác, có nên dời không? Dĩ nhiên trăm phần trăm là không nên! Ấy thế mà ở làng tôi, người ta dời tuốt tuồn tuột, bất kỳ ngôi mộ nào.
Mộ bà cô trước nhà thờ đại tôn. Bà là con gái đức tổ Triệu Cơ. Dân làng kính trọng gọi là “bà cô” chứ hồi ấy bà chị mới lên tám tuổi. Hằng ngày, bà đi chăn trâu cắt cỏ. Cô bé bình thường như hàng trăm cô bé khác, nhưng cuộc đời cô đã được dân làng dệt nên những tấm áo huyền thoại khoác lên thân thể và trở thành một “bà cô” đầy hấp dẫn qua nhiều thế hệ. Bà có nhiều công trạng giữ biên cương đất đai của thôn ấp. Lúc bị bọn giặc cỏ đến cướp đất, bà trát bùn đầy người và tả xung hữu đột. Hàng trăm mũi tên giặc không thể bắn thủng được lớp bùn trên người bà. Chẳng may giữa một trận kịch chiến, bùn bị rơi và trồi ra một mảng da, mũi tên giặc bắn trúng vào đó, bà ngã xuống. Sau khi bà chết, dân làng vẫn đặt thi thể bà trên lưng trâu và lùa trâu đuổi giặc. Tụi giặc sợ cái uy của bà, bỏ chạy như vịt cỏ.
Mộ bà được táng trước nhà thờ Tổ, tức là nhà thờ bố. Điều đó rất có ý nghĩa. Cơm cớ gì mà phải dời ngôi mộ ấy? Ngôi mộ nhỏ thôi, nằm khiêm tốn ở góc sân nhà thờ, chẳng choán một tấc vườn tắc ruộng của ai, người ta cũng đào lên và đem chôn chung với hàng loạt ngôi mộ khác. Thế là mất mộ “bà cô”, mất một dấu vết của huyền thoại.
Mộ Tổ nổi lên như một cái gò, rộng chừng ba sào đất, ở giữa làng. Đây chính là ngôi mộ của đức Triệu Cơ Võ Chính Đạo, người đã sáng lập cái làng này từ thế kỷ XIII. Cách ngôi mộ chừng ba chục mét là nhà thờ đại tôn thờ đức Triệu Cơ.
Gần mộ Tổ có “cồn Tổ con” tức là ngôi mộ táng hài cốt con trai ông Võ Chính Đạo Cồn Tổ con rộng một sào đất, nổi lên cao thành một cái gò bên cạnh những bụi ruối già cỗi. Tục truyền rằng: khi đức tổ Triệu Cơ đã về chầu trời, người con trai buồn bã cỡi voi đi lang thang, đến bụi ruối này ông cột voi lại và “hóa” theo cha. Cây ruổi có nghĩa có nh sống qua thế kỷ này đến thế kỷ khác, nghiêng bóng mát trên ngôi mộ luôn luôn xanh mướt cỏ.
Mộ Tổ và cồn Tổ con cũng bị đào, bị phá tanh bành. Thật là một sự xúc phạm quá lớn đối với tổ ên. Một làng Việt Nam giữ gìn được mộ ông Tổ khai sáng làng mình cách đây gần bảy trăm năm quý giá biết chừng nào - quý về mặt lịch sử và mặt dân tộc học. Thế mà đến cái thời đại văn minh này người ta lại cả gan tung hê một cách vô ý thức.
Tim hài cốt đức Triệu Cơ có dễ dàng gì đâu. Mộ rộng ba sào đất, ở giữa nhô cao lên và có mộ chí, người ta tưởng hài cốt
ngay dưới chân mộ chí nhưng đào xuống chẳng thấy gì cả. Người ta lại đào lung tung, đào toang hoang, đào kỳ được mới thôi. Cuối cùng, m được hài cốt và không hề ngần ngại, người ta mời cụ Tổ vào nằm chung với bảy thể kỷ con cháu (!).
Mộ Cổ Hùng rộng gần một mẫu, nổi cao giữa vùng đồng trũng ngay bên bờ sông Bùng. Vốn lúc đầu chỉ là một ngôi mộ bình thường, qua nhiều đời mộ được đắp to thêm. Dân cho đó là điềm “phát” của một ngôi mộ thiêng, hễ cứ ai đi qua ném vào một hòn đất cho nên mộ lớn dần thành cái gò đường bộ như ngày nay.
Cổ Hùng là ai? Hương sử còn ghi và thần phả còn lưu lại. Tên thật là Võ Cương, con trai một lực điền. Khi Lê Lợi và Nguyễn Trãi kéo quân qua vùng này, dùng lại để tuyển quân bằng cách tổ chức hội vật. Ngài đã vỗ bụng liên tục hàng trăm đối thủ. Vua Lê chọn ngài vào hàng quân vệ. Ngài đã cùng góp mưu với Đinh Lễ hạ thành Trại của giặc Minh, tức thành Diễn Châu. Sau khi thắng trận, Ngài được vua Lê phong là Hùng Lễ Bá. Do đó dân làng thường gọi là “Cố Hùng”. Ngài qua đời, dân lập đền thờ ở giữa làng, gọi là đền thờ Cố Hùng.
Hằng năm, đi tảo mộ, thế nào ông tôi cũng dẫn đến sửa mộ đức tổ Triệu Cơ, mộ bà cô và mộ Cổ Hùng. Ngày lễ đền, trước khi vào điện thờ, ông bắt tôi phải tắm rửa, thay quần áo mới. Hình ảnh linh thiêng của chiếc ngai sơn đỏ và ngọn nến đỏ in sâu vào tâm trí tôi như một hoài vọng cao cả của tuổi thơ.
Huyền thoại về Cổ Hùng bao bọc lấy đời tôi như kén bọc tằm. Nhiều lúc đi chăn trâu, nằm trên mộ, áp tai vào cỏ, tôi tưởng tượng nghe được ếng gươm khua, ếng ngựa phi và mơ thấy võ tướng Hùng Lễ Bá ào ào đuổi giặc.
Ngôi mộ quá lớn, phải huy động tới ba chục thanh niên ra đào bới. Đào suốt một ngày ròng, chẳng thấy hài cốt đâu cả. Mặt gò bằng phẳng, xanh mướt cỏ, bỗng trở nên lổn nhổn những lỗ đào xuống, những tảng đất trồi lên. Mấy cậu thanh niên cáu ết, đào mộ chỉ bằng đá khá lớn, khiêng đi một đoạn xa, rồi ném tòm xuống ruộng nước.
Chừng nửa tháng sau, bác Chắt Kế đi dạo mát ngoài đồng, chợt thấy giữa ruộng nhô lên một khối đá hình đầu rồng. Bác xắn quần lội xuống, đến tận nơi xem, mới biết đó là cái mộ chí. Tôi đang tát nước ở gần đấy, bác gọi đến, cùng bác khiêng mộ chí lên bờ. Bác múc nước rửa sạch mặt đá, rồi
trương mục kinh đọc những dòng chữ Hán đã mờ nét. Một lát sau, bác thở dài:
- Cháu ạ, mộ chí Cổ Hùng. Đứa nào chơi cái trò vô ý thức
này?
Tôi thưa:
- Đám thanh niên hôm trước đào không thấy hài cốt, chúng nó khiêng mộ chí ném xuống đấy.
Mặt bác đỏ gay:
- Ai giáo dục cho thanh niên làm việc đó? Chủ nghĩa cộng sản phải biết quý trọng lịch sử dân tộc cháu ạ. Hử... Hồi hoạt động ở Thái Lan, bác Hồ còn viết diễn ca về ông Trần Hưng Đạo, Hử... Thanh niên vô ơn với tổ ên thì làm cách mạng sao được! Cháu có biết lịch sử Cố Hùng không? Hừ... một võ tướng của Lê Lợi. Lúc nào bác rỗi, bác kể lại cho cháu ghi sự ch Cổ Hùng.
Bác là người có vốn Hán học khá uyên thâm, hiểu biết tường tận lịch sử làng xóm. Nghe bác nói tôi “vàng” “dạ” và tỏ lòng kính trọng bác. Hai bác cháu hì hục khiêng mộ chị chôn vào chỗ cũ, vừa làm vừa trò chuyện.
- Thưa bác. Cố Hùng là tướng của vua Lê đánh giặc Minh, Như thế thì ngôi mộ này đã có năm thế kỷ, theo cháu thì không nên dời đi.
- Hử... Đã dời mồ mả phải dời tất cả thì mới quy hoạch đông điền theo thế đứng chủ nghĩa xã hội được. Làm cách mạng phải làm triệt để cháu ạ, chứ cách mạng nửa vời thì hỏng bét.
Một thời gian sau, hàng chục thanh niên lại được huy động đi đào hài cốt Cố Hùng. Đào một ngày không được thì đào hai ngày, hai ngày không được thì ba ngày. Cương quyết không để một ngôi mộ nào nằm cá thể
ngoài đồng. A, đây rồi, đây có phải là hài cốt Cố Hùng không? Một nắm xương bọc trong chiếc mo cau xơ xác. Lục thần phả xem thì đúng đó là hài cốt võ tướng Hùng Lễ Bá. Cụ già đọc thần phả, mắt rớm lệ, còn các cậu thanh niên thì nh khô. Cụ gọi một số bô lão lên gặp ông chủ nhiệm để xin mười lăm đồng mua chiếc ểu sành đựng hài cốt. Ông chủ nhiệm xăng giọng trả lời: “Mộ vua mộ chúa mộ thượng thư cũng dập thành đống đất, huống hồ là một ông tướng làng các cụ”. Mấy cụ già xìu mặtra về. Thế là số phận một vị tướng được chuyển từ mảnh mo cau sang tấm ni lông và táng vào chiếc huyệt chung của khu mộ mới (!).
Mộ cũ thì sao? Gò đất rộng một mẫu, vẫn còn đó. Đất rắn lắm, cày cấy sao được. Vẫn còn nguyên hình dáng và vị trí ngôi mộ, chỉ có điều là trong lòng ngôi mộ ấy không còn nắm hài cốt của Hùng Lễ Bá.
Bác Chắt Kể đi công tác xa, trở về làng, nghe n m được hài cốt Cố Hùng trong mo cau, rơm rớm nước mắt. Bác m gặp tôi: “Trực ơi, có ai mang mộ chí lên nghĩa địa mới không?” Tôi trả lời: “Thưa bác, không ạ”. Hai bác cháu lại hì hụi đến ngôi mộ cũ để m mộ chí, ông hàng chài cho biết rằng đám thanh niên đã ném chiếc mộ chí có tuổi thọ năm thế kỷ ấy xuống sông Bùng!
XI
núi hai vai xệ một bên vai
Núi Hai Vai có tên chữ là Lưỡng Kiên Sơn, một di ch khảo cổ và là một thắng cảnh lớn của vùng Hoan Diễn cổ xưa. Núi thuộc địa phận làng Kẻ Dặm, cho nên còn có tên là Lèn Dặm. Vua Lê Thánh Tông đi kinh lý vào phương nam bằng đường biển, nhìn ngọn núi giống hình người đàn bà búi tóc, bèn đặt tên là Kế Sơn. Nhà sư ở chùa Hà Trang nhìn dáng núi như một vị tu hành chân chi tụng kinh niệm phật, đã đặt tên là núi Di Lĩnh.
Núi ở cách làng tôi theo đường chim bay hơn một kilômét. Làng ở giữa Lưỡng Kiên Sơn và Bùng Giang tạo nên phong cảnh hữu nh. Chiếc võng mẹ mắc hai đầu sông núi, ngàn đời ru cho bao nhiêu thế hệ trẻ thơ lớn lên trong điệu dặm vè và điệu hát ví phường vải. Tôi cũng được lớn lên trong cái nôi trữ nh và thần thoại ấy.
Những cuốn sách cổ về lịch sử và dư địa chỉ khảo cứu vùng Hoan Châu - Diễn Châu đều có nhắc đến núi Hai Vai như một kỳ công hùng vĩ của tạo hóa. Nho sĩ Bùi Dương Lịch làm thơ ngợi ca Chống trời xương cốt nhục - Non nước nặng hai vai. Trong nhà thờ cụ Nguyễn Xuân Ôn cũng có đôi câu đối tôn thờ ngọn núi như khí thiêng của trời đất. Tại nhà thờ đại tôn đức tổ Triệu Cơ của làng tôi, trong hậu cung, lấp lánh màu vàng ánh câu đối khẳng định sự trường tồn huyết tộc cùng với sự bền vững của núi non; Di linh phong cao thế hệ trường.
Phường thợ đá trong quá trình khai thác đá đã m được những di vật của thời kỳ đồ đá mới. Lẫn lộn trong lòng hang, cùng với phân dơi và phốt phát là những bát cổ đời Lý đời Trần, những cọc đèn đồng đời Lê đời Nguyễn, những thanh gươm gi thời Văn Thân chống Pháp...
Bao quanh những di vật ấy là huyền thoại của tràng giang lịch sử. Đây là bộ xương người bị ép chặt vào đá - một tài liệu quý của khảo cổ học hay xã hội học? Đây là cửa hàng mà vị thần đã nằm ngủ, mộng thấy ngọn lửa xanh lạ kỳ bốc lên từ lòng đất và nơi đó đã trở thành lò rèn Nho Lâm cổ nhất ở nước ta. Nhấp nhô những tảng đá rêu phong kia là trận địa của Mạc Mậu Giang đấy ư? Dưới gốc cây đa cỗi cằn và gan góc kia, La Sơn Phu Tử đã ngủ lại một đêm trên đường đi m đất định đô cho vua Quang Trung. Dấu chân Tác Bay, một vị tướng tài ba của cụ Nghè Ôn, còn in hằn trên đá gợi lên khí vị thiêng liêng của dấu chân ông Đùng trong mô p dân gian...
Đâu rồi, đâu rồi, tất cả những gì xa xưa ấy? Đầu rồi, đâu rồi, quá khứ cần lao và hùng vĩ? Đâu rồi? Đâu rồi?...
Còn đâu nữa! Người ta đã phá sạch rồi! Hơn mười năm, một công trường đã được mở ra tại núi Hai Vai để khai thác đá xây dựng đường sá, cầu cống, cơ quan, xí nghiệp. Mìn nổ liên miên suốt ngày này qua tháng khác. Đá ào ào từ trên cao đổ xuống. Rồi đá lại theo hàng đoàn xe tải chở đi tứ phương. Ty Văn Hóa kiện ty Công Nghiệp. Ty Công Nghiệp phát lờ. Mìn cứ nổ. Đá cứ đồ. Ty Văn Hóa lại kiên nhẫn phát đơn kiện. Đến lúc ủy ban nh ra lệnh cấm dùng mìn, dùng bộc phá để khai thác đá, thì kết cục thật là thảm hại: núi Hai Vai bị xẻ mất một bên vai!
Ngọn núi từ muôn ngàn xưa đường bộ biết bao. Núi là biểu tượng của khí phách của khát vọng dân chúng. Từ phía mặt trời mọc nhìn lên phía tây, núi ngẩng cao đầu, nhô hai vai như dáng người nghị lực phi thường nghìn trận thắng giông tố, bão bùng, giặc giã. Sừng sững giữa trời cao đất rộng một tháp đá uy nghi, vững chãi, thế mà cũng bị con người chém đứt hẳn một bên vai. Ông bí thư đảng ủy còn dõng dạc tuyên bố: “Chúng ta phải mở một nhà máy xi măng ngay ở chân núi Hai Vai. Cho đến lúc hết sạch đá hóa thành đồng bằng, ta có thêm hàng chục mẫu đất để tăng gia sản xuất”,
May mà ủy ban tỉnh ban hành lệnh giữ gìn núi Hai Vai không đến nỗi quá muộn, không thì ông bí thư đảng ủy ấy đã dùng phép phù thủy hóa núi thành đất màu mỡ cấy lúa trồng khoai, đem lại ấm no cho nhân dân!
. Tôi nói “không đến nỗi quá muộn” tức là cũng đã muộn rồi. Biểu tượng khát vọng của nhân dân bị băm vằm rách nát: Từ làng Nho Lâm nhìn lên, núi giống một người thợ rèn khom lưng cầm búa gõ đe. Cho nên nghề rèn ở Nho Lâm đã được thịnh vượng trên hai nghìn năm. Bây giờ ông thợ rèn không lô ấy đã bị cụt đầu!
Từ làng Đậu Lý nhìn xuống, núi giống cái mũ của quan võ. Cho nên, qua nhiều đời, làng này sản sinh ra những vị tướng tài và đặc biệt là tướng Tác Bay với sức khỏe phi thường đã nhổ gốc đa cổ thụ quật vào đội quân giặc bỏ chạy tan tác. Bây giờ cái mũ của quan võ ấy bị rách rồi!
Từ làng Côn Sắt nhìn sang, núi giống chiếc mũ cánh chuồn của quan văn. Cho nên làng này có nhiều người học hành, đậu đạt cao, êu biểu là cụ Nghè Nguyễn Xuân Ôn. Bây giờ cái mũ quan văn ấy đã bị mất hai cánh chuồn!
Từ làng Kẻ Sừng nhìn chếch về phía đông nam, núi giống một đụn thóc. Cho nên vùng này là cái vựa lúa của Hoan Châu, từng cung cấp lương thực các hội nghĩa quân đánh giặc, giữ gìn đất đai tổ quốc. Đồng ruộng nơi đây có loại nếp rồng hạt to và rất thơm. Bây giờ cái đụn thóc ấy đã xệ ra rồi, còn đựng thóc làm sao được nữa!
Từ làng Kẻ Hến nhìn chếch về phía tây bắc, núi giống hình chiếc dao cầu xắt thuốc bắc. Cho nên làng này đời nào cũng có thầy lang giỏi, đi chữa bệnh khắp thiên hạ. Bây giờ con dao cầu ấy đã gãy mất cán, liệu có còn lương y kiêm từ mẫu nữa không?
"""