" Chuyện Làng Cuội - Lê Lựu full mobi pdf epub azw3 [Tản Văn] 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Chuyện Làng Cuội - Lê Lựu full mobi pdf epub azw3 [Tản Văn] Ebooks Nhóm Zalo Mục lục Chương 1: Chương 2: Chuyện Tình Thứ Nhất Chương 3: Chương 4: Chuyện Tình Thứ Hai Chương 5: Chương 6: Chương 7: Chương 8: Chuyện Tình Thứ Ba Chương 9: Chương 10: Chương 11: Chương 12: Chương 13: Chương 14: Chương 15: Chuyện Tình Thứ Năm Chương 16: Chương 17: Chương 18: Những Chuyện Tình Cuối Cùng CHUYỆN LÀNG CUỘI Lê Lựu dtv-ebook.com Chương 1: Nào ai ngờ cái chết của bà Hiêu Đất lại tạo cho làng Cuội ta một khí thế tưng bừng sôi nổi, rất là tự hào. Sau hàng tháng trời lơ lửng trong nỗi buồn ngơ ngác “được phân phối hụt” do huyện chỉ đạo tháo đê quai, cái xác trôi lênh phênh của bà Đất dạt về bến Chợ Quán như nắp thùng tô-nô đựng đầy ám khí được bung ra. Tiết trời mấy ngày nay cũng quang quẻ hẳn. Xa xôi quá thì ít người am tường, chỉ tính năm sáu chục năm đổ lại đây, kể từ năm Quý Dậu, năm cuối cùng của hội thi nói khoác ở miếu Ông Cuội cũng là năm cô Đất bỏ làng đi biệt tăm, đến bây giờ làng mới lại có một vẻ mặt đồng loạt buồn. Nhưng mà sôi động. Khi nào làng có chung một khuôn mặt buồn đều ào ào náo nhiệt và thì thào còn chán. Thế lại hoá vui. “Tuổi Mão đi năm Mùi là đúng cách. “Hợi Mão Mùi”, “Nam xung nữ hợp”, nhất định bà lão phải “đi” vào năm nay. Ông đã biết từ lâu rồi. Nhưng bà lão này thiêng lắm. Không à? Ông dám chắc bà ấy mà dạt về đúng quê, nhất định làng Cuội có sự. Đại sự”. Ông thống Bứt vừa liêu xiêu đi ra phía bờ sông vừa quát lác. Không cần có ai, hoặc giả trong cơn say ông đã nhìn thấy một thằng người cứ theo ông, ông bước bước nào nó bước bước nấy, nên ông cứ tự hỏi rồi tự giả nhời như thế. Hôm nay ông phải làm một việc hệ trọng. Bắc cầu cho mẹ đồng chí Lưu Minh Hiếu phó chủ tịch tỉnh lên bờ. Khổ thân bà lão. Suốt đời long đong tủi nhục, được lúc con cái ăn nên làm ra, đi Tây đi Tàu như đi chợ lại lăn xuống sông mà chết. Cũng là số trời run rủi. Đồng chí Hiếu là hiếu nghĩa với bố mẹ, đời nào để bà lão chết nhục nhã đến nỗi thế này. Xác bà lão được vớt lên từ trưa hôm qua. Một cái xác trương phềnh. Cả mặt và hai cánh tay xước tướp táp, không hiểu do cá rỉa hay mắc mớ vào đâu mà không còn một mảng da nào nguyên. Trưa hôm qua, chiếc tàu chở khách từ Hà Nội xuôi, sóng rào rạt xô vào bờ một người mặc quần đen, áo nái vàng, tóc xoã như là ma nhoài lên nằm nghiêng ở bờ cát một tay dang ra như là cố bám lấy cát để khỏi trụt xuống. Các cô bé đang đập chiếu tàm tạp trông thấy thế, kêu lên thất thanh, chạy lao lên ngã dúi dụi vào quán bà Cu Từ. Tiếp theo là ông Cu Mỡ, em ruột ông Cu Từ, vác một manh chiếu xuống bờ sông đắp lên cái xác cũng với câu: “Đ. mẹ nó, điềm này, làng Cuội lại ăn cứt”. Rồi đám người gỡ dây khoai, những người gieo ngô, đám đốt lò vôi, dân thợ xẻ, lò rèn bỏ hết đồ nghề, giống má, chạy túa lại quán bà Cu Từ và ông Cu Mỡ đứng nhìn xuống sông và nghe các cô gái thuật lại “đầu đuôi”. Mấy anh thợ “phơ” đóng gạch, cầm kéo cắt đất táo tợn chạy đến hất chiếu ra, lấy tay kéo lật ngược mặt bà lão lên nhìn: “Đếch phải người làng này”. “Chắc lại oan khuất gì, tự vẫn đây”. “Có khi bị trấn, lấy của rồi nó cho xuôi”. Khách qua đò ùn tắc lại. Trẻ con tan học hổn hển chạy đến rào rào như gió. Chả mấy chốc bến đò Chợ Quán nghìn nghịt như một cái chấm đen khổng lồ tụ giữa cánh đồng làng Cuội bát ngát phù sa. Quán nhà bà Cu Từ, ông Cu Mỡ nứt nở kẻ đứng người ngồi. Cho đến 10 giờ đêm các đồng chí Đảng uỷ, uỷ ban, hợp tác xã, công an, bàn bạc trong quán bà Cu Từ hết 37 bìa đậu phụ, một bình lạc rang, gọi tròn năm chục chén, mười ba cút rượu, tám gói thuốc lào hội nghị mới ra được một quyết định: lập biên bản báo cáo lên huyện chờ xin ý kiến. Cần nghiên cứu thêm ý kiến của trưởng ban thông tin văn hoá: có thể đưa lên “quảng cáo” trên ti vi. Độ này người ta quảng cáo tất tần tật, không thiếu thứ gì. Dễ lắm. Thân nhân của họ về nhận sẽ phải tính công vớt từ giữa sông lên rồi công của mấy chục con người canh giữ suốt 24 trên 24 không để thi hài thất thoát. Biết đâu lại chả trúng quả đậm. “Có gì ta làm bữa thả phanh cho bõ công đêm hôm lăn lội, ngồi suông”. Mặt khác, ngày mai, uỷ ban thảo một công văn lên phòng thương binh xã hội xin duyệt một cỗ ván. Việc này có trở ngại là: muốn được duyệt nhanh chóng thì phải có dăm bao ba số, thậm chí còn phải kéo ra cửa hàng lòng lợn, hoặc “cầy tơ”. Kinh phí lấy vào khoản nào? Vậy, tất cả cứ chờ ý kiến của huyện và chờ đồng chí chủ tịch đi thăm bố vợ ốm trên tỉnh, nội nhật ngày mai về. Tối mai ta hội ý lại rồi quyết định sau. Đằng nào bà ta cũng rữa ra rồi. Cho anh em bảo vệ hắt mấy xẻng đất xơ xơ cho đỡ bốc mùi, rồi thù lao cho anh em. Cũng chả cần trông nom gì. Ai họ lấy đi cho là phúc. Đúng là cái vạ cho xã ta. Đồng chí Nạc – anh đã đổi cái phụ âm đầu nhưng chỉ có cấp trên gọi anh là Lạc còn bà con trong xã vẫn gọi anh là Nạc. Ở vùng này thường lấy tên con đệm trước tên bố mẹ hoặc đẻ con trai đầu gọi là cu, con gái là đĩ. Anh Cu Từ, cụ Cu Từ, ông Cu Mỡ là thế. Bà Hiêu Đất cũng vì con là Hiếu (họ bỏ dấu sắc đi để gọi cho tiện chứ không hẳn là tin theo kẻ xấu bụng, đổi họ và tên anh từ Lưu Minh Hiếu thành Lưu Manh Hiêu). Đồng chí Nạc cầm quyển sổ có treo bút chì bằng dây gai, ghi các khoản nợ của tối hôm nay. Bà Cu Từ hấp háy đưa ra trước ánh đèn soát lại. Trên mặt chõng cũng nhẵn hoén không còn sót lấy một viên lạc, gói thuốc. Bà yên trí “xin phép các cụ” “cứ tự nhiên” để bà ngả cái nong xuống nằm khoanh tròn trong ấy. Bí thư Đảng uỷ ngồi chồm hỗm trên những đoạn tre đóng vào hai đầu cọc hàng giờ không biết tê, lúc anh thả hai chân xuống, phủi đít quần đứng dậy thì Nạc lại có một sáng kiến mới. Nghiêng tai nghe tiếng ngáy rất dư dật của bà bác dâu, anh vươn người về phía bí thư nói nhỏ nhưng mọi người đều nghe. Anh nói rằng tình hình này sự đồn đại thất thiệt sẽ còn lan đi ghê lắm. Nhưng có lợi cho ta. Ai cũng bịa tạc những tin giật gân, bí hiểm nên người tò mò kéo đến đây xem càng đông. Nhất là cho lên ti vi thì sẽ không biết cơ man nào là người từ các thành phố kéo về đây. Thành phố bây giờ họ có làm gì đâu. Một người ngã xe máy còn xúm đông xúm đỏ lại xem, huống hồ nghe tin có ma hiện lên ở bờ sông làng Cuội. Bí thư cắt ngang. - Lạy bố. Thế thì rách việc lắm. Mà hơi sức đâu lại đi tìm hiểu để báo cáo nguyên nhân từ đâu có cái tin ấy. Rồi còn phải giải quyết tư tưởng cho bà con. Chết, chết! - Thiên hạ họ đồn mắc mớ gì đến mình. Biên bản mình sẽ gửi đi. Pháp y họ về, họ làm gì kệ xác họ. Nhưng vấn đề không phải ở chỗ ấy. Anh không hiểu ý tôi. Tôi hỏi các anh: Các anh có công nhận là mới từ trưa đến giờ đã bao nhiêu người bổ về đây xem thực hư? Đấy là chưa kể bao nhiêu người ở bên kia không có đò sang. - Đúng rồi – Gần như mọi người cùng trả lời. - Tôi quả quyết ngày mai còn đông hơn. - Nhất trí! - Trời nắng này, người như nêm ấy, có cần uống nước, hút thuốc không? - Có quá chứ lị. - Tôi chưa nói đến hương hoa trà quả và thức ăn thức uống. Thiên hạ mê tín, ai đến đây mà chả mua thẻ hương, gói hoa thậm chí cả tiền âm phủ, quần áo giấy cúng cho vong hồn. Ngay chiều nay các anh đã thấy mọc lên một rừng hương quanh bà ta chưa? - Đúng quá! - Tại sao ta lại không nhanh chóng tổ chức cái dịch vụ ấy? – Anh nghiêng mặt sang phía bác dâu, giọng có vẻ thì thào: - Nó cũng là cơ sở phục vụ các đám tang sau này. Sau này kể cả đội hiếu của tôi cũng sẽ nhập vào đây thành tổ hợp dịch vụ đám ma mà trên trung ương người ta vẫn gọi là Tô hô di vu đa ma. Nghe như tiếng Tây, tiếng Nhật, nó cũng làm sang hẳn cái làng Cuội mình lên. Đời sống bà con sau trận lụt cũng được cải thiện. Vốn ngại Nạc dựa thế ông Hiếu nên bí thư uỷ thác mọi việc “đối ngoại” cho Nạc nhưng anh vẫn không thể tin. Có lẽ vì ấn tượng ấy cộng thêm sự mệt mỏi, buồn ngủ, anh nổi cáu. - Theo tôi, không có tô hô hở hang gì cả. Cả xã đói, mặt ai cũng méo như bị rách, không lo được lại làm di vu cho con mụ chết trôi. Nhận ra mình cần phải dịu lại, anh tiếp: – Ta cứ đợi đồng chí chủ tịch về bàn, rồi quyết định sau. Nạc nghĩ thầm: “Đợi bàn thống nhất chủ trương, ra được quyết định, tổ chức nhân lực... thì hết mẹ nó cơ hội”. Thấy sự im lặng có phần căng, trưởng ban văn hoá thông tin lại nói: - Nếu việc này nó phức tạp quá, ta hất quách nó xuống sông. Nạc: - Thế là gọn. Bí thư: - Pháp y đến ta nói thế nào? Trưởng ban thông tin văn hoá: - Thì lại “sóng đánh tụt xuống, trôi đi rồi”. Ai bắt vạ? - Thế, gọn đấy. – Phó chủ tịch văn hoá nói. – Sẵn tập thể đây, xin các anh quyết định cho luôn. Để sáng mai ruồi nhặng bu đến, gây dịch bệnh nguy hiểm lắm. Xã ta lại vừa được huyện biểu dương đi đầu trong nếp sống văn hoá. Chủ nhiệm hợp tác ngồi trên đôi dép nhựa “Tiền phong” tựa lưng vào cọc “ghế”, đầu ngoẹo hẳn xuống một bên vai nói: - Các bác cứ ý kiến. Khi nào xong bảo nhà em. Nhà em cho hai chú bảo vệ “tùm bê” một cái là dứt điểm. Trưởng công an nói: - Trường hợp này nhất định phải mổ khám nghiệm tử thi. Thời gian này bọn lưu manh côn đồ hoạt động mạnh. Kẻ địch bên ngoài cũng tung gián điệp vào hoạt động dưới mọi hình thức, có rất nhiều âm mưu thủ đoạn xảo quyệt. Có thể đây là... - Kệ! – Chủ nhiệm “gật” chúi đầu quá mạnh, giật mình, chép miệng cắt ngang lời trưởng công an. – Đợi thằng cháu nhà bác Nạc quay lại đây. Có rượu là quyết. Không rượu ta để lại ngày mai nghiên cứu. Tập thể đây đã nhất trí là cứ như đinh đóng vào... vào... Sáng hôm sau tỉnh lại chủ nhiệm mới hú vía. May đêm qua thằng cu mang cái vỏ chai không quay lại. Có rượu vào mà rủ nhau lẳng bà lão đi rồi thì... Đúng là họ đóng đinh vào đầu mình. Mới bảnh mắt, hai công an huyện đã phóng hon-đa về dựng các cán bộ chủ chốt của xã dậy, tập trung ở trụ sở uỷ ban để trả lời những câu hỏi trịnh trọng của các anh công an: - Có chắc chắn áo lụa tơ tằm màu vàng không? - Vâng - Quần đen? - Vâng - Dép cao su quai nhỏ đủ cả quai trước quai sau? - Vâng - Thôi được, các bác, các anh đã mục kích là có thể khẳng định được rồi. Trong khi một anh cùng đi với Nạc ra bờ sông xác minh, anh kia tiết lộ điều quan trọng: nếu mọi chi tiết đúng như họ vừa nghe thì người đàn bà đó chính là mẹ ông Hiếu nguyên bí thư huyện ta rồi lên phó chủ tịch tỉnh. - Trời ơi, sao lại như thế. Đúng là bà Đất ư? Đúng rồi. Có hàng chục người tranh cướp nhau để nói rằng mình đã ngờ ngợ, đã nghi nghi, đã đoan đoán ngay từ đầu nhưng, không dám nói ra vì không thể ngờ vì sao bà cụ lại đến nông nỗi ấy. Ông Hiếu là con trai đời chồng trước của bà cụ Đất (người ta cũng có thể gọi là bà Cụ Đất). Bà Đất là con cụ đồ Mục em trai cụ đồ Ngoạn. Cụ đồ Mục dạy chữ nho nhưng không gặp thời nên chỉ còn xác nhà bố mẹ để lại. Người nghèo thành kẻ yếm thế, cụ ít giao du, chỉ quanh quẩn trong nhà dạy con trai học chữ nho, con gái học chữ quốc ngữ. Hai đứa con đầu đặt tên là Từ và Mỡ. Người ta bảo đấy là thời kì cụ sống cầm hơi bằng củ từ, củ mỡ. Hai loại ấy đều là dây leo quanh vườn lại thích hợp với người nhàn rỗi và không đủ sức theo việc đồng áng. Hai loại củ cũng dễ ăn, luộc hay xào... đều được. Đến đứa thứ ba, con gái thì bà đặt là Đất. Bà mẹ khốn khổ với lần có mang này lại dở chứng, toàn cậy đất vách và ghè đầu rau bếp ra ăn nên nhất quyết giành lấy quyền đặt tên con từ khi chưa đẻ. Có lắm khi bà xấu hổ phải úp thúng vào mặt vì cái họ “Bùi Như” của nhà chồng nhưng lần này dù có là con trai thì bà vẫn cứ đặt nó là Đất. Từ cô bé Đất đến cụ Đất, người đàn bà này hiền như đất, lòng yêu người rộng như đất, nhưng để dẫn đến kết cục cái chết ngày hôm nay, bà đã phải gánh chịu một chặng đường mà kẻ chép chuyện định kể tất thảy sáu câu chuyện tình xảy ra từ làng Cuội có liên quan đến bà Đất và nó quyết định toàn bộ cuộc đời bà. Cả cái chết ngày hôm nay cũng từ đấy, không thể coi là bình thường. Nhưng nghĩa tử là nghĩa tận. Không, thể để cái xác bà lão đã nằm sấp úp mặt xuống cát do người lấy gậy, lấy xẻng đẩy, lăn đi, lăn lại trong lúc đảng uỷ, uỷ ban đang bàn bạc ra quyết định ở quán bà cụ Cu Từ. Vậy xin bạn đọc rộng lượng chờ đợi cho kẻ chép chuyện nói đôi chút nơi bà lão nằm vào buổi sáng ngày hôm nay rồi mới bắt đầu vào cuộc đời bà. Từ khi câu chuyện xảy ra vào năm cuối cùng làng Cuội mở hội thi nói khoác, năm Quý Dậu cô Đất rời làng ra đi, cho đến sáng nay khi chiếc “U oát” đỗ lại bên kia sông, ở bên này thi hài bà cụ Đất được đặt lên chiếc chõng tre. Một tấm vải trắng muốt phủ kín người. Đôi dép cao su được cọ rửa chồng lên nhau để ở phía cuối. Chiếc bàn làm việc của uỷ ban xã được khiêng đến phủ vải đen, trên mặt có khúc cây chuối cắm hương cháy nghi ngút, một mâm bồng đặt nải chuối tiêu và hai lọ độc bình hai bên cũng cắm hai cây chuối đều bắt đầu ra lá thứ ba. Một vòng hoa của uỷ ban xã có viết chữ “Vô cùng đau đớn thương xót vĩnh biệt cụ Bùi Thị Đất”. Ấy là sáng kiến có phần vội vã của anh trưởng ban văn hoá đã được Nạc đồng ý. Đúng ra phải đưa hương hồn cụ về nhà rồi mới phúng viếng. Sự khiếm khuyết dân làng chê bai lại làm Hiếu hài lòng. Nó vừa tạo ra không khí trang trọng, vừa làm ông cảm động về sự chu đáo đầy tình nghĩa của quê hương dành cho bà cụ, mà thực chất họ muốn dành cho ông. Ba người vừa lên khỏi đò, ngoài Hiếu, có Huyền con vợ trước của ông, vẫn đều đặn đưa người yêu hoặc bồ bịch về ăn ở với bà nội ở quê. Người thứ ba, một cô gái tưởng là con vợ sau của Hiếu nhưng thấy ông gọi là cháu. Cô bé cao, trắng, mũi dọc dừa, như tây. Ngay từ khi con đò chưa kịp áp mạn vào bờ, Huyền đã nhao đến chỗ bà nằm. Cô lật tấm vải để lộ ra khuôn mặt đã bệch bạc trông méo mó nham nhở và các thớ thịt như sắp sửa tở ra. Cô hét lên vừa đau đớn vừa man rợ như thể cái khuôn mặt kì quái kia vừa bật dậy. Đập mặt xuống ngực bà, cô vật vã, hai tay cào cấu vào thành chõng, hai chân nện lõm nền đất cát phù sa vừa se mặt. “Ối bà ơi! Bà ô... ối bà ơi! Bà ơi ối! ối!”. Chừng vài chục phút sau, đuối hơi cô tựa vào vai bà, mặt nghiêng lên cánh đồng, hai mắt đờ dại, mặt cũng bệch ra, cổ thở gấp gáp như đứt hơi. Trong hơi thở của cô, người ta nghe thấy tiếng gọi lào thào: “Bà ơi! Bà ơi. Trời ơi. Trời... ời ối bố ơi là bố... ố... ời... Bà ờ... ó... hợ... hợ...” Cô bạn gái xinh tươi của cô mặc quần thụng túm, chiếc áo phông cộc tay của nước ngoài màu xanh, lụng thụng dài sát đầu gối. Một hàng chữ trắng chạy ngang như áp vào bộ ngực dư thừa sức lực của cô! “Let’s kiss me”. Nhiều lần Huyền đã mặc loại quần áo như thế về quê nên không có nhiều người xô lại nhìn, chỉ trỏ và thì thào... Cô đi lại, đứng ngồi, nói năng rất tự tin rõ ra là người từng trải, lịch thiệp. Cô không chạy lao đi như bạn, nhưng lên khỏi đò cô rảo bước, trịnh trọng cầm bó hoa huệ và những bó hương đến cắm hoa vào bình, châm hương và lẩm nhẩm khấn, không cần biết người xung quanh đang nhìn chằm chằm vào mình. Khấn, vái xong, cô lấy chiếc mũ trắng của mình chụp lên đầu che nắng cho bạn, rồi cúi đầu lặng lẽ, chia sẻ nỗi đau đớn đột ngột của bạn. Hiếu vừa lên bờ, chủ tịch huyện và bộ máy lãnh đạo của xã, vài ba chục người lủi thủi đi, khuôn mặt nào cũng rầu rĩ, mồm miệng ai cũng như sắp sửa bật ra tiếng khóc thảm thiết nên phải mím chặt môi lại đến nỗi gặp Hiếu họ chỉ hơi gật đầu và môi họ cũng chỉ có thể mấp máy như là đau đớn quá không thể nào nói ra thành lời được. Cùng đi theo Hiếu về chỗ thi hài đã nặng mùi, chủ tịch huyện coi như không thấy gì, nói: - Báo cáo anh, tôi vừa họp ở tỉnh về nghe anh em nói đêm qua anh có điện về. Tôi bảo anh em: “Bằng mọi giá các cậu phải xác minh ngay để báo cáo với anh Hiếu...” Hiếu: - Cảm ơn. Trưởng ban văn hoá thông tin xã sụt sùi lau nước mắt, nói: - Báo cáo bác Hiếu, chiều hôm qua khi phát hiện có xác người trôi đến, em đã nghi nghi cụ nhà nhưng không dám nghĩ đến chuyện không may đến với gia đình. Dù sao em vẫn cứ có cái gì đấy không yên. Chính em bàn với bác Nạc và các anh trong đảng uỷ phải triệu tập gấp lãnh đạo chủ chốt của xã bàn biện pháp xử lí ngay. Mãi gần một giờ đêm mới họp xong. Chúng em định sớm nay đi Hà Nội đưa lên ti vi. May quá, đêm qua bác lại điện về cho huyện. Chính lúc ấy là chúng em đang bàn căng thẳng ngay tại quán cụ Từ. Một người khác, Hiếu chỉ thấy mặt quen quen không nhớ tên và không biết anh ta làm gì, nói: - Báo cáo bác, em là Hở con ông Hớn ở xóm Hạ. Hiện nay em là chủ nhiệm hợp tác xã ta. Chúng em đã chuẩn bị tươm tất mọi phương án để rồi lát nữa lên quán em xin trình bày với bác. Thôi cũng là may. Cụ nhà sinh ra và lớn lên ở làng Cuội ta, nay lại trở về với quê hương làng Cuội. Lạy vong linh hồn cụ sống khôn, chết thiêng, trời đất run rủi thế nào cụ lại về đúng nơi chôn rau cắt rốn của mình, về với tình làng nghĩa xóm, bà con nội ngoại quây quần. Hiếu nhìn người nói mà hai hàm răng phải cắn vào môi cố nén tiếng khóc. Phần vì đau đớn, phần không thể nào ngờ các đồng chí ở địa phương lại sống tình nghĩa và chu đáo đến mức này. Không thể để mọi người đứng cạnh mẹ mình lâu, anh quay ra chắp hai tay cúi đầu: - Cảm ơn, cảm ơn. Xin các bác, các anh lên quán bác tôi xơi nước, tôi đứng lại với cụ tôi chút nữa rồi lên xin phép được bàn công việc của cụ tôi với các anh. Lúc này Huyền như đã hồi sức lại hay vì mọi người trong làng xóm đã đi, cô chạnh lòng nghĩ đến nỗi đau đơn độc của mình mà kêu bà, kêu giời, và “Bố ơi, là bố... ơi... Sao bố lại... ờ...”. Hiếu nghiến hai hàm răng lại nói vừa như lạy, vừa như ra lệnh: - Mày nói gì đấy? Giời ơi, mày hãy để cho tao chôn mẹ tao xong đã Huyền ơi. Thế là tiếng cô lại gào lên: - Ối bà ơi, bà ôi. Con có ngờ đâu bà lại bỏ con bà đi mà không mang con đi theo. Bà ôi! Bà ôi! Nạc đã chỉ huy đám người mang bạt đến bắc rạp trên thi hài, chuẩn bị làm lễ bắc cầu cho cụ và gọi hồn nhập vào xác. Anh quát lác mọi người phải tránh ra. Cô bạn cùng đi, dỗ dành và dìu Huyền lên nghỉ tạm chỗ bóng mát. Hiếu lên quán không phải để bàn bạc, nhờ vả mà để nghe bí thư đảng uỷ xã trình bày với anh về nghi lễ tiến hành tổ chức đám tang. Ai cũng có sẵn nỗi buồn, có sẵn tấm lòng nhận làm một việc gì đó để Hiếu nhận ra mình, nhận ra các đồng chí ở địa phương luôn luôn quây quần bên anh cả lúc vui vẻ cũng như khi hoạn nạn. Sở dĩ có được tình cảm ấy vì họ có những cái tai thính, biết được “ô” của anh còn mạnh lắm. Anh còn “lên”. Cũng chả cần xa xôi thế. Với chức vụ trưởng vụ đối ngoại của bộ anh, từ bí thư, chủ tịch tỉnh trở xuống, thiếu gì người có con, cháu, dâu rể, họ hàng nội ngoại, cháu của vợ, con của bồ, bạn của bạn con, cần đi Tây. Đi Tây “đường thẳng” cũng phải chạy vạy mửa mật, chui cửa trước, luồn cửa sau, huống hồ “chen ngang”. Công việc sắp đặt xong xuôi, Hiếu xuống chỗ thi hài mẹ. Lúc này chỉ đứng ở cạnh, cúi đầu như mặc niệm. Anh nghe tiếng thì thào của dân làng bàn tán tại sao anh không nhìn xem có thật là mẹ mình không? Làm sao con trai lại không nhìn mặt mẹ lần cuối cùng. Vậy thì anh phải xuống nhìn để dân chúng khỏi xì xào. Nếu không có anh Nạc và bác Mỡ giữ hai cánh tay, ghì lấy người thì anh đã khuỵu xuống ngay khi thoáng nhìn thấy mặt mẹ. Dù khuôn mặt đã phềnh vỡ, nhưng bóng tối uẩn ức vẫn đọng lại ở vòm mắt và những cái “rãnh” chằng chịt trên mặt bà. Anh đã kêu “ối” một tiếng khi nhận ra vệt hằn ở khoé môi. Vệt hằn ấy nó tối lại trước ánh đèn rọi nghiêng vào mặt bà. Lúc ấy đã hơn một giờ đêm. Anh cố ghìm câu nói cuối cùng lại: “Đồ súc vật. Ngu như con lợn. Sao lại câm như hến! Bà nói đi, nói đi. Tại sao? Tại sao bà lại độc ác với tôi như thế. Chính bà là kẻ đã giết tôi! Rồi bà sẽ biết tay tôi”. Hai chân vẫn để trong đôi dép cao su thả thõng. Không nhúc nhích. Hai tay thu vào lòng. Không hề động đậy. Cái lưng như còng thấp xuống. Không nhúc nhích. Hai mắt tê dại, đờ đẫn. Không hề chớp. Cái miệng nhếch lên như cười. Trông lại như đang mếu. Cái bóng tối hằn lại ở khoé môi oằn lên như vỏ đỗ kéo khuôn mặt xô lệch đi như chỉ chực khóc. Lại cố tỏ ra mình vẫn cười. Tất cả vẫn còn nguyên vẹn như lúc ấy. Có ngờ đâu, mọi chuyện xảy ra không thể lường nổi đến mức này. Nếu anh biết nó sẽ đến mức này? Dù phải tựa đầu vào vai Nạc, toàn thân lả héo đi, anh vẫn nghe thấy tiếng thì thào than vãn của dân làng: - Những kẻ độc ác thì chả chết đi cho. Bà lão phúc hậu thế tưởng giời phải có mắt để bà cụ sống thêm ít năm hưởng chút bổng lộc của con cho bõ cả đời tất tưởi gian truân. - Ông Hiếu là người có nghĩa với cụ lắm. Chỉ phải cái chị vợ là đáo để. - Ngày xưa thì thế. Nghe nói độ này là chị ta cứ sợ ông Hiếu một phép. - Nghe đâu ngoài Hà Nội có cả cướp ngày. Không khéo nó biết tiếng ông Hiếu của nả nhiều mà bà cụ ở nhà một mình. Xem chừng sự bàn tán có phần phức tạp mà không biết rồi sẽ đi đến đâu. Những người đứng ở vòng trong, quay mặt ra phía ngoài “xuỵt”, “xuỵt” cho mọi người im lặng. Ông Mỡ lấy vạt áo lau nước mắt bảo: - Thôi nén lại đã anh Hiếu ạ. Hiếu gỡ tay bác Mỡ định cúi xuống kéo tấm vải che kín mặt mẹ. Anh “văn hoá” xã đã hiểu ý và làm việc đó trước ông. Cụ Từ đã ra quán. Hiếu vội vã đi lên gặp cụ. Từ sáng sớm đã biết tin người chết trôi là em gái mình, cụ Từ vẫn tránh mặt. Phần đau và nhục vì cái chết không lấy gì làm đẹp đẽ đã gây tai tiếng ồn ã khắp nơi, phần vì tính cụ vốn thế. Cái tính của cụ cũng được tạo nên ở hai nhẽ. Thứ nhất: cụ là con trưởng. Đã là con trưởng là có quyền “anh thay mặt cha” để sai bảo, hạch sách và không cho phép ai được làm trái ý. Dù có tốt đẹp hoàn hảo đến mấy cũng không được. Đã trái ý cụ là bị cấm đoán, ngăn chặn. Khi không còn đủ sức ngăn chặn cấm đoán nữa, cụ dỗi, càng già càng hay dỗi, càng hay châm chọc phá quấy và thù vặt, thù rất dai. Nhẽ thứ hai, cụ là người đầu tiên làm tổ trưởng du kích làng này. Chính cụ là người nhận quả lựu đạn thật duy nhất do đồng chí Văn Yến chủ tịch Việt Minh huyện, sau này làm đến bí thư tỉnh uỷ rồi vào trung ương trao tận tay cho cụ xong, còn nắm lấy bàn tay lắc lắc ba cái nữa. Cụ là người đầu tiên ở xã này lên huyện phá kho thóc cùng chú Kiêm, em rể, bố anh Hiếu (bố dượng chứ không phải là bố Hiếu nhưng chỉ trừ có thời cải cách, còn lại anh toàn gọi là bố). Người đầu tiên đi phục kích Tây ở bốt Phương Trà... Trong hàng chục cái “đầu tiên”, không bao giờ cụ quên mình là một trong những đảng viên đầu tiên ở làng Cuội này. Bởi có nhiều cái “đầu tiên” quá nên khi đã già yếu, không còn giữ chức trách gì và đã không còn đủ minh mẫn giữ gìn lề thói cốt cách của mình, cụ vẫn tìm cách có mặt ở những chỗ trang trọng mà lại coi như không, lại cố ý quay mặt đi, đợi khi nào có nhời mới quay lại. Không có nhời, không hỏi ý kiến là cụ cho người phá ngang. Không phá được, cụ chửi. Cụ có thể chửi từ cây đa ở miếu ông Cuội trên đầu làng Thượng xuống đến cây bàng ở cuối làng Hạ, từ quán chỗ bờ sông về nhà rồi từ nhà vào cửa hàng của con gái ở quán hàng Táo dưới chân đê, giáp giới xã Tây Kết dài gần 4 ki lô mét. Cụ chửi cái gì thì cái đó phải mục ra. Cụ chửi kiên nhẫn dai dẳng như mỗi lần bộ răng giả của cụ nhai phải miếng thịt trâu dọc thớ. Phần ngại “giây” vào cụ, phẩn nể Hiếu và Nạc nên chẳng những việc của xã, ngay chủ tịch huyện có về đây cũng phải hỏi ý kiến cụ. Rất nhiều khi họ hỏi giả vờ, mời mọc, vồn vã giả vờ, lại rất được việc. Không cần biết thật giả, cứ thấy mình còn quan trọng là cụ thích. Cụ đã thích thì có lội xuống sông vào ngày đông tháng giá để được biểu dương là gương mẫu cụ cũng không ngần ngại. Nhưng chỉ cần sơ suất một chút, quên cụ đi một chút là cụ lại gồng mình lên mà chửi. Chửi cay độc, cạnh khoé nanh nọc rỉa rói như xé mặt người ta, chán rồi, cụ chửi “đối thoại” tục tĩu với trẻ con mà cuộc chửi nào cũng có trẻ con chạy theo để trêu ghẹo cho cụ chửi, “đối ẳ thoại”. Chẳng hạn: “Cụ Cu Từ ơi, cụ chửi hay lắm, cụ chửi nữa đi”. “Tiên sư con cái nhà ai đấy. Khi ông đi đánh Tây, đuổi Nhật thì bố mày còn đỏ hon hỏn bệu nhệu như cái bìu dái người ta, bây giờ mày định dạy ông hả?”. Lúc ấy, những người dân ở trên bờ hay dưới ruộng, ngồi trong nhà hay đứng ngoài ngõ chỉ quay mặt đi thở dài ngao ngán, cám cảnh cho ông cụ, cho một đời người, một thời đánh giặc tiếng tăm lừng lẫy, một đức độ mẫu mực là thế, chẳng hiểu từ đâu lại sinh ra đổ đốn đến thế. Chính Hiếu, khi làm bí thư huyện uỷ có lần đã nghe cuộc chửi “đối thoại” của ông. Anh lặng người, kêu lên: “Trời đất. Nhăng nhố hết chỗ nói”. Dù là người biết tính toán chi li cho mọi cử chỉ của mình anh cũng phải gọi ông lại quát: - Ông có câm mồm đi không? - Ông nói cho cái mặt anh biết nhá. Từ thằng tổng Lỡi khét tiếng hống hách ở làng Cuội này cũng chưa dám sờ đến cái lông chân ông bác mày đâu nhá. Trong một vài giây, mặt Hiếu có hơi biến sắc nhưng anh lại trấn tĩnh ngay: - Ngày xưa ông khác bây giờ lắm. Nếu ngày xưa ông cũng như bây giờ, người ta vặn cổ ông hàng trăm lần rồi. - À, anh cậy làm lên to về đây phỉ báng doạ nạt dân chúng, bêu riếu người ruột thịt, bất chấp cả những cống hiến không tiếc xương máu cho cái làng Cuội này, cho anh mở mày mở mặt ra hả? Ối bà con ơi, ối các đồng chí đảng uỷ ơi, ra đây chứng kiến bí thư huyện uỷ nhục mạ đảng viên lão thành... ối... ối... Chính sau cái lần lu loa ấy thì ông lại sợ Hiếu một phép. Đến bây giờ anh có bao nhiêu bổng lộc, bao nhiêu người quỵ luỵ kiêng nể, tưởng cụ già phải sợ anh hơn, ai nghĩ, anh lại một phép thưa gửi kính cẩn cụ. Thì ra ở hai bác cháu nhà này cũng chán vạn cái trái khoáy éo le. Lúc tưởng thế này nó lại ra thế khác. Khi tưởng thế khác nó lại hoá ra thế này. Cụ Từ ra quán là vì biết Hiếu về. Ra đây thử xem việc này nó xử sự ra sao? Nguyên do gì mẹ nó chết tội, chết nợ giữa sông, giữa biển? Hiếu biết điều đó nên được tin ông ra quán, anh phải lên ngay. Vào đến cửa, anh chưa kịp nhận ra ai trong đám người ồn ã, Nạc đã bấm vào tay ra hiệu “cụ” ngồi xổm trong cái nong ở góc nhà đang cúi mặt, mắt nhắm như ngủ. Biết cụ hay “điếc” khi không cần trả lời, anh cùng Nạc len vào quỳ xuống cạp nong, chào to: - Bác ạ. Cụ vẫn nhắm mắt: - Ai đấy. - Dạ cháu đây mà bác! - Anh mới về. Cụ hơi xoay nghiêng người, mở mắt nhưng không nhìn vào Hiếu: - Anh đi mà lo công việc cho mẹ anh, gặp tôi làm gì mất thì giờ. - Ấy chết. Có lo gì thì cũng phải đợi xin ý kiến bác chỉ bảo. Cháu định về trong nhà, may bác lại ra đây. - Thôi được. Chuyện ấy sau. Tôi chỉ hỏi anh vì nguyên do gì bà lão lại ra cơ sự này? - Nói thật với bác, cháu cũng chưa kịp tìm hiểu nguyên nhân gì. Chỉ do cháu sơ suất một chút. - Anh sơ suất? - Vâng ạ. Không ngờ cháu mất cảnh giác một chút mà xảy ra sự việc đau thương như thế này. - Anh mất cảnh giác? - Vâng ạ. Chiều mồng 8 tháng 6, tức là đến hôm nay vừa tròn một tuần mẹ cháu bảo: “Không hiểu sao ruột gan mẹ cứ nóng hôn hốt. Mẹ thấy nhớ nhà quá. Con cho mẹ về thăm các bác trai, bác gái, bà con xóm giềng dăm bữa”. “Cháu bảo: “Mẹ đợi con đi công tác Hải Phòng vài ba ngày rồi con lấy xe đưa mẹ về”. Mẹ cháu bảo “Mẹ không thích đi xe ô tô đâu, cứ để mẹ đi ca nô. Độ này ca nô màn bến Chợ Quán, mẹ lên hàng bác Từ mẹ chơi với bác trước rồi về trong làng. Thấy bảo nhà bác Mỡ cũng ra bãi mở quán nước gần bác Từ. Mẹ về đấy thăm hai bác cả thể”. Cháu nói: “Thôi, mẹ cố đợi con đi về rồi sẽ tính”. Không ngờ nửa đêm hôm ấy mẹ cháu đi bộ ra bến Phà Đen. - Từ Đội Cấn mà bà lão đi bộ ra Phà Đen giữa đêm? - Không biết mẹ cháu có gọi xích lô không? - Chị ấy nhà anh đâu? - Nhà cháu nó ở trên gác. Sáng ra xuống mời cụ đi ăn sáng mới cuống lên nhưng lúc ấy xe họ lại đón cháu đi rồi. - Tôi đã bảo mà. Phố xá bây giờ là cứ mỗi người đút mình vào một ô, tường xây, lồng sắt chắn tứ phía. khoá trái cửa lại để tự dốt mình vào đấy, còn bí bách hơn là cái cũi chó. Ý anh bây giờ thế nào? - Việc tang lễ cho mẹ cháu ạ? - Ý anh còn muốn việc gì khác? - Dạ. Cháu định xin ý bác. Còn cháu nghĩ: đằng nào cũng phải để đến mai, các cơ quan ở Hà Nội và tỉnh mới về kịp. - Định để nó thối inh lên à? - Đến lúc liệm sẽ đổ chè. Cháu đã báo về Hà Nội, tối nay sẽ có phương tiện làm lạnh giữ thi hài mẹ cháu. - Còn việc tổ chức? - Mọi việc sẽ do các anh ở huyện và xã lo. - Thế à? Ông cụ sầm mặt đứng bật dậy giật chiếc áo vắt lên vai đi ra cửa. Hiếu biết mình lỡ lời. Nói dối hàng trăm câu thì thành thạo mà nói thật một câu lại vụng về hỏng việc. Cốt lên đây làm cụ vừa lòng. Đầu óc mê muội thế nào lại làm cụ thấy mình là kẻ ngoài cuộc. Tiếng ông cụ khi bước ra khỏi quán: - Người nhà ông chết, chúng ông thiệt, chúng nó mất gì mà chả lập ra ban nọ, bệ kia. Thằng Nạc đâu. Gọi bố mày về nhà. Ông cấm họ hàng con cháu đứa nào dính vào đấy. Việc của ban tổ chức tang lễ người ta làm, bận gì đến chúng mày. Những cán bộ chủ chốt của huyện và xã dồn lại bên Hiếu. Anh thuật lại vắn tắt rồi nhờ chủ tịch huyện và bí thư đảng uỷ xã chạy theo “lạy” cụ hộ anh. Họ mời cụ làm đại diện cho gia đình là uỷ viên thường trực của ban lễ tang. Vừa kính nể, vừa thương Hiếu, ai cũng lặng lẽ nhìn anh trước khi chạy đi. Những cử chỉ ấy đều như nói với anh: mọi việc sẽ ổn thoả. Nhất định cụ già sẽ nguôi giận. Những người bạn đi khỏi, Hiếu ôm đầu, gục xuống chõng bán hàng của bác Từ gái. Bà con vẫn xúm quanh, dõi theo từng cử chỉ của anh. Vẫn kính phục và cảm thông nỗi đau xé lòng, xé ruột của anh nên khi thấy anh gục xuống, người như lịm đi, thì bỗng hàng trăm người ào lên hò nhau đi lấy lông gà, tóc rối, đi gọi y sĩ trạm xá... Nghĩa là ai quen thứ gì chữa được cảm thì hò nhau thứ ấy, tới tấp xô vào cấp cứu. Trong lúc bà con xiết đậu xanh, vo gạo, bắc bếp, nấu cháo hành, tía tô cho anh, đầu Hiếu vẫn rần rật câu hỏi: “Tại sao con Huyền lại nói nửa kín nửa hở như thế? Nó đã biết gì về chuyện xẩy ra giữa bố và bà để dẫn đến cái chết này? Liệu bà đã kể cho nó những gì về quan hệ giữa tổng Lỡi với anh?” Từ khi nghe con nói như đứt ra từng hơi thở trách bố về cái chết của bà, người anh tê dại, mồ hôi toát ra đầm đìa mà trong ruột lại run như sốt rét. Và bây giờ thì anh thiếp đi trong mệt mỏi và khiếp sợ. Có đến ba, bốn người cùng đi theo một bà chủ bê bát cháo bốc hơi nghi ngút đến chỗ anh nằm. Họ giật mình sững lại vì tiếng hét của anh. Anh cũng giật mình nhổm dậy thở gấp. Mỗi người một lời dỗ dành khuyên anh cố húp bát cháo cho thoát mồ hôi ra nhưng anh thì đã ướt đầm đìa quần áo vì mồ hôi toá ra sau cơn kinh hoàng của cái đêm ông tổng Lỡi đưa mẹ anh xuống đò. Mẹ anh kêu: “Lạy ông, ông cứ để cho em đẻ ở đây với ông. Em không đi đâu”. Ông tổng vẫn gỡ tay mẹ ra, mẹ rú lên và thế là anh tòi ra và rơi tõm xuống nước. Ông lái đò nhảy xuống vớt anh lên đặt vào lòng mẹ. Người mẹ nhũn ra. Anh sờ vào mặt, mặt cũng nhão như cháo vữa. Anh kêu thét vùng vẫy chạy, mở mắt ra đã thấy mùi cháo hành ngào ngạt trước mặt. Mọi người giục anh ăn cho nóng. Anh bê bát và cảm ơn rồi đặt xuống chiếu. Trong đầu anh vẫn đau nhói như có những cuộn dây thép gai vòng vèo, mắc nối dài dặc từ cái đêm mẹ rời bến đó ra đi để đẻ ra anh cho đến cái chõng tre mẹ đang nằm, hình như vẫn chỉ có một chỗ này. Một chỗ người ta đóng cái cọc ở giữa những cuộn dây thép gai và cứ kéo nó ra, lại cuốn nó vào, kéo đi kéo lại trong đầu anh. Đau đầu quá. Anh lại gục xuống. Đến gần tối anh mới tỉnh dậy là do chính bàn tay ông cụ Từ lay gọi: - Thôi. Cố nén lại cháu ơi. Bác cũng đau lắm. Từ khi ông bà đẻ mẹ mày ra, hàng trăm phen bác sống chết để nuôi nấng cưu mang, đỡ đần, an ủi em, bây giờ em lại đi trước anh. Em đi khổ đi sở ngay trước mắt anh, có thằng anh nào chịu được. Ối em ơi... ối... ối! Đất ôi là! Ờ ơ ơ... Ông cố kìm tiếng nấc thì nước mắt Hiếu lại giàn ra. Sự đau thương của hai bác cháu chìm vào đêm như những tảng đá chìm dưới đáy sông, nó đang nhúc nhích trôi do những bàn tay dìu đỡ đưa cả hai bác cháu đi theo thi hài đã có hồn nhập trở về nhà, ngôi nhà của cụ tổ để lại. Từ đêm rời nhà đi biệt tăm hàng chục năm trời đến nay tất cả mọi thăng trầm, tất cả những lần đi và về quyết định đời bà đều diễn ra vào ban đêm. Đêm tối ở làng Cuội cũng vắng lặng âm thầm như mọi làng quê nhưng với bà lão Đất thì nó vừa là người che giấu tội lỗi, vừa là viên quan toà nghiệt ngã, vừa là người bạn đường tin cậy, vừa là ma quỷ ẩn nấp phía sau từ bi. Với bà, được run rẩy yêu thương hay bị cào xé hành hạ, được ngẩng mặt tươi cười nhìn chúng bạn hay cứ mãi mãi cắn hai hàm răng lại nuốt nước mắt vào lòng, cho đến lúc này đều vô nghĩa. Khi bà cần sự cưu mang cứu vớt thì chả thấy ai, cứ lầm lũi một mình chịu đựng. Lúc hàng trăm người ồn ã nâng bà lên trên tiếng khóc xót xa và thương tiếc thì bà cứ dửng dưng lạnh lùng cùng bóng đêm mang đi mọi bí mật của chính cuộc đời bà và của những kẻ lặn lội vật vã quanh cái xác đã rữa ra của bà đang được đưa về nhà thờ tổ đêm nay. CHUYỆN LÀNG CUỘI Lê Lựu dtv-ebook.com Chương 2: Chuyện Tình Thứ Nhất Đứng ở phía nào nhìn về làng Cuội cũng trơn mượt, múp míp khi đỏ ối đất phù sa, khi mơn mởn màu xanh, tre, chuối và những hàng nhãn đầy lên lùm lùm. Có lẽ vì cái dáng tròn nhẵn nhụi của làng mà ngày xưa các cụ lại nhìn nó giống như hòn đá cuội để gọi tên làng mình là làng Cuội? Cũng có thể những người nông dân vốn hay mộng mơ, mỗi năm nước lụt băng hà, giữa cánh đồng mênh mang trắng lạnh, nằm ngửa trên chiếc bè chuối, lênh đênh trôi, họ đã nhìn thấy cái đầm và cây đa của làng mình bay lên mặt trăng, chỗ chú Cuội ngồi. Để rồi sau trận lụt, dân làng vội vàng xây miếu thờ ông Cuội. Xã ông Cuội cũng có từ đấy. Với hai lí do quá thô sơ không đủ để những đời sau tin vào nó. Năm Tân Mùi (1931) vừa nhận chức, chánh tổng Lỡi đã cho gọi bốn mươi bảy cụ bô lão cao niên nhất của tất cả các làng thuộc xã ông Cuội để hỏi nguồn gốc cái tên làng Cuội và cho mở hội thi nói khoác vào ngày 16 tháng 2 hàng năm, sau hội rước ông Cuội đi gặp cô chúa Hằng Nga. Mỗi người giảng giải một phách, tam sao thất bản, không còn đủ căn cứ để ghi thành điển tích. Một điều khó hiểu nữa là: Xã ông Cuội có ba thôn mà chỉ có thôn Thượng lập miếu thờ Ngài còn thôn Trung lại xây đền thờ đức thánh Trần và thôn Hạ thờ ông thần đánh giậm. Bà cô chúa Hằng Nga ngự ở làng Rào bên kia sông. Mỗi lần rước nước đưa Ngài đi gặp bà cô chúa thuyền rồng chỉ áp mạn chạm bờ rồi nhanh chóng quay mũi “bay” trở về. Người ta giải thích rằng: Ngài thiêng lắm. Bao giờ đi cũng chỉ như trôi ngập ngừng không hề có một tiếng mái chèo khua nước, tiếng sóng va mạn thuyền. Ngài đi như là ngượng nghịu, như là thẹn thùng e ấp. Gặp được cô chúa thoả nỗi ước mong rồi (các ngài gặp nhau trong mây trong gió chứ đâu có tục tằn như người trần mắt thịt), khi trở về, Ngài cho thuyền lướt rào rào như là bay trên mặt sông. Bao nhiêu sự huyền bí rắc rối hoặc không đủ sức thuyết phục, hoặc không thể giải thích được, đều không quan trọng gì. Điều quan trọng ở chỗ các làng thuộc xã ông Cuội cũng như bất cứ làng xã nào ở hai bên dòng sông này dù nghèo xơ xác không có một viên gạch xây nhà nhưng nhất thiết phải có một ông thánh. Đã có làng là có thánh riêng, không chung đụng, không nhờ vả, cầu cạnh làng khác cho làng này thờ thánh nhờ. Người ta có đủ sức xây những đền chùa, miếu mạo nguy nga để thờ cúng và nhất định đức thánh của người ta phải thiêng liêng sáng láng hơn ông thánh làng khác. Tất nhiên những bậc thánh hiền cao siêu lại không thể là của riêng làng nào. Khi người ta biết đến Đức Ngài nào thiêng liêng trên đấng thiêng liêng, người ta thờ phụng không cần ai thúc giục hò hét, vẫn cứ tìm đến, nô nức mà đến. Dù có đi hàng ngàn hàng vạn cây số cầu xin cũng không ai quản ngại. Cho nên, 47 vị bô lão cao niên đều không ai nhớ hội thi nói khoác của làng Cuội có từ bao giờ, nó bắt đầu từ điển tích gì, vẫn xin ông tổng Lỡi “sức” cho các làng thuộc xã ông Cuội từ nay phải góp phần cùng làng Thượng coi nó như cái lệ hàng năm phải gánh vác phí tổn cho cả hội rước và hội thi. Được nhời của quan trên, dân càng nô nức. Cho đến năm sau, hội làng Cuội đông chưa từng thấy. Còn bảy ngày nữa mới vào hội, dân làng đã nườm nượp kéo ra ngồi như nêm ở sân miếu. Đêm nào cũng rậm rịch inh ỏi cho đến hết trống canh hai, canh ba. Trẻ con và trai tráng thi nhau khua chiêng, thúc trống để hàng chục cô gái líu ríu vào nhau đứng tận ngoài cửa tam quan chiêm ngưỡng rồi trêu chọc. Các ông trung niên tán chuyện tầm phào. Các cụ già đi lại và nói năng đầy vẻ nghiêm trọng. Còn đàn bà ngồi nhai vỏ quạch, rì rầm bàn chuyện đồng áng. Đêm khai hội thật là uy nghi. Chủ khảo là ông tổng Lỡi cầm chuôi trống khẩu tròn bằng miệng đấu giơ lên trước mặt giữa hai cụ đầu râu, tóc bạc một tiên chỉ, một bá hộ ngồi trên ghế có tay ngai. Bốn mươi bốn cụ bô lão xếp thành hai hàng quay mặt vào nhau trên chiếu hoa từ hậu cung, nơi chủ khảo ngồi ra tới cửa. Tất cả đều đội mũ cánh chuồn, áo thụng dài quét gót và đi hia đen. Giữa cảnh hồi hộp chờ đợi cái giây phút trang trọng người được gọi đầu tiên thì bỗng nhiên gã ăn mày què và toét mắt, quê ở quán Hàng Táo lại khoác bị, chống gậy vào ngồi giữa chiếu, chính cung. Từ cái nón mê, cái bị, bộ quần áo thủng, rách buộc túm, cho đến tay, chân, mặt mũi đều chạt ghét và đất có thể bóc ra như bóc vỏ sắn. Tiếng quát của cụ bá hộ, ngồi bên trái ông tổng: - Thằng kia, mày đi đâu? - Thưa, con đi thi. - Ai cho phép mày? Tuần đâu? - Thưa, loa truyền, mõ rao tất cả đàn ông từ 18 tuổi trở lên không kể giàu nghèo, sang hèn, đều... Tiếng đế ào ào ở ngoài sân: “Lão ấy nói đúng đấy”. “Thì cho lão khai hội đi đã sao”. “Thôi cho nó nói nhanh nhanh lên rồi tống nó cút”. “Đằng nào lão cũng lỏn vào đấy rồi, đuổi lão ra nó mất vui. Trò chơi mà”. Cả hai cụ già và hai hàng bô lão đều bệch mặt nhìn vào ông tổng. Kể từ lúc gã ăn mày đột nhiên ngồi vào chiếu, ông tổng có vẻ bực, bứt rứt, quay đi quay lại. Có lẽ ông khó xử. Cho tuần đinh lôi hắn đi thì dân mất vui, mà ông vốn là người được lòng dân. Để hắn ngồi lại hoá ra quan tổng lại bị tên khố rách áo ôm lờn mặt. Ông tổng ra hiệu cho cả hai cụ già quay lại ông, để ông nói nhỏ những gì đó rồi vẫn vẻ mặt khó chịu, ông hầm hầm đi ra ngoài. Dân ở ngoài lại bàn tán. Người thì bảo ông giận quá, phải bỏ đi cho hả cơn giận. Có người lại nói: Ngồi lâu chắc ông không chịu nổi. Còn trẻ nhưng chiều được cả ba bà, tránh sao khỏi chân thận kém, ông ra sau miếu đái chứ đi đâu. Đếch phải. Ông ấy tránh mặt đi là lí trưởng phải hiểu mà cho tuần gô cổ hắn lại. Trong khi ông cởi quần trắng vắt qua cổ, phía ngoài áo ba đờ xuy quáng quàng men theo bờ cỏ quanh đầm Cuội đến chỗ hẹn thì ruột gan các cụ cứ nảy lên thon thót. Tất cả các quan chức trong làng đều tái mặt. Lại cụ bá hộ giật giật các đường gân ở cổ, tay run run quát hắn tội phạm thượng. Một tên hành khất nhem nhuốc dám ngồi vào chốn uy nghiêm thế này là tội rất hệ trọng, không những hắn sẽ phải chết mà cả làng cả tổng mang vạ. Tiếng ồn ã của dân chúng nói rằng: “Các quan trên như quan huyện ta đây, dâm đãng, tham lam, vu oan giá hoạ, hà hiếp dân chúng làm cho hàng ngàn dân làng điêu đứng, sống dở, chết dở, còn bẩn hơn thằng ăn mày chứ”. “Mỗi quan có hàng bồ đơn từ kêu oan ức, kiện tụng, có chứng cứ ba năm rõ mười cứ rành rành ra đấy cũng chả đụng đến một cái lông chân các quan, huống hồ cái chuyện bông phèng của thằng ăn mày có gì phải cuống lên”. Hắn cóc cần. Thế mạnh của hắn là ở chỗ: chết còn hơn sống. Tự hắn chết thì ngại và vất vả hơn kẻ khác giúp hắn. Vào tù cũng sướng hơn ở ngoài. Đánh đập thì như gãi vào lớp da chân chạt hắc lào của hắn. Càng thích. Đấy là dấu ấn cuối cùng hội thi nói khoác truyền thống của làng Cuội. Nhưng không phải sự phá hoại của tên ăn mày. Có hàng trăm tên ăn mày cũng không thể phá nổi nếu như ông tổng Lỡi không bỏ đi. Hoặc giả có việc quan trên đột ngột cấp kíp quá như ông nói, ông giao cho bá hộ hay tiên chỉ, ai cũng được, nhưng chỉ một cụ có toàn quyền một ông chủ trò như mọi năm thì mọi việc sẽ đâu vào đấy. Đằng này “Cả hai cụ lựa xem dân chúng thế nào mà xuống lệnh”. Hai cụ già cứ phải nhìn sang nhau, nhìn xuống dân chúng. Không ai được giao làm chủ hội, có hai người lựa được ý nhau đã khó, làm sao lựa nổi ý dân tứ chiếng quân hồi vô phèng! Còn dân các làng thuộc xã ông Cuội? Họ háo hức đợi chờ lễ hội, dù là hội thi nói khoác vẫn có lớp lang trật tự. Không ngờ mới mở màn đã sàm sỡ. Họ có thể tán dương sự liều mạng của lão ăn mày nói hộ nỗi ấm ức của họ nhưng họ vẫn nghĩ đây không phải cung cách một nghi lễ, hội hè, nó đầy vẻ đầu đường xó chợ. Khi đã biến chỗ tôn nghiêm hoặc tưng bừng vui nhộn thành đầu đường xó chợ mà người chủ trò lại ngập ngừng, tiến không ra tiến, lùi chả ra lùi, tiến sợ quá đà, lùi sợ mất thế ắt là vỡ cuộc. Công tâm mà nói, việc chấm dứt có tính chất trừng phạt ấy không phải cuộc ẩu đả của những người dân làng Cuội và đám trai tráng tứ chiếng trong đêm mở màn. Mọi việc vẫn do ông tổng Lỡi định đoạt. Năm trước, đang lúc đói kém dân chúng cầm hơi chỉ bằng nắm dải khoai và bát cháo cám ngô ông sức cho làng phải mở hội linh đình để dân tình quên nỗi khổ hạnh, làng xã đỡ tiêu điều ảm đạm. Năm sau, ông xuống lệnh cấm chỉ mọi làng rước xách, khai hội vì mùa màng thất bát do lụt bão gây nên, hội hè sẽ làm hao của, tốn sức của dân. Năm sau nữa cả làng được mùa khoai lang, giêng hai nhà nào cũng khoai ăn rả rích ông truyền: ơn quan trên lo cho dân no đủ, bọn khố rách áo ôm, ăn xin ăn nhặt sẽ ganh tị, ghen ghét. Nếu ta lập hội hè chúng sẽ mượn cớ nói xấu quan trên, gây bè cánh bên dưới làm dân tình không yên thừa cơ cho bọn trộm cướp hoành hoành. Vậy nên... Mỗi năm một lí do, ông còn làm chánh tổng ở khu ngoại bối năm nào, ông cấm tiệt mọi đình đám năm ấy trừ hai năm đầu mới nhận chức. Những uẩn khúc trong sự thay đổi đột ngột của ông, tưởng cái chết của bà Đất đã mang đi nhưng nó còn lẩn khuất đâu đây, như cái xác nặng mùi đã lèn đến 37 cân chè quanh người bà trong chiếc áo quan được thửa quá rộng vẫn không hết cái cảm giác ghê ghê, lạnh. o O o Kệ cha cái hội hè khoác lác ấy, lần mò ra đến bờ đầm ông tổng hỏi: - Đợi lâu hả? Im lặng Rét? Làm nũng? Lại khóc nữa! Kệ. Với đàn bà chỉ cần nói dài dòng với bộ mặt ủ rũ, thương hại có duyên khi nó còn là của người khác. Nó là của mình thì lại phải có tài im lặng. Phải tạo cho được cái “uy” của thằng đàn ông. Nó có lỗi, phải bắt nó quỳ xuống mà van lạy. Mình có lỗi thì không bao giờ được nhận, dù biết mình sai mười mươi. Cùng lắm lại im lặng coi như không có chuyện gì. Nhưng “sách” của ông chỉ thành công ở bà cả và bà hai. Cả hai đều là con nhà danh giá, người chân quê thuộc tổng này. Nói trộm vía hai bà tổng; ngay từ thời con gái, về đường nhan sắc của các bà cũng có phần “đuôi đuối”. Cho nên cứ mỗi lần nghe ông sai bảo, răn dạy các bà ngồi ngửa mặt trông như những con chó chồm hỗm chầu ông chủ. Còn với bà ba, răng trắng, vấn tóc người phố phủ thì ông lại “rất thành công” trong im lặng, nhất là những khi bà nghiến hai hàm răng, rít lên: “Mả mẹ thằng chó dái câm mồm đi bà còn đỡ lộn ruột”. Bà làm ông tổng “rúm” lại vì cái thế trẻ đẹp tân tiến hơn hẳn hai bà chị. Đất mới bước sang tuổi 18. Cái cơ thể cứ rực rỡ như lửa cháy có thể đốt thành tro bất cứ một thằng đàn ông trai trẻ nào và bà ba không thể “xách guốc” cho cô về mọi phương diện. Vậy mà đêm nay ở bờ đầm Cuội, cô lại phải quỳ lạy ông tổng ban phát cho chút tình thừa vương vãi của ông. - Ối giời ơi, giời ơi. Ông ơi, có bao giờ được thế này nữa không? Em cắn cỏ lạy ông, đừng bỏ, đừng bỏ em, ông có lấy em làm vợ thật không ông ơi? Ông tổng ghìm lại như là nghỉ để lấy hơi, như là chuẩn bị sức lực cho trận cuối cùng, lần gặp nhau cuối cùng không thể để phí “của giời”. Ông trả lời trong hơi thở phì phì như rắn phun rằng là nếu bỏ được cái chức chánh tổng để đi theo em đêm nay ông cũng bỏ. Cô gái biết ông nói lấy lòng thế thôi, nhưng cũng thấy sướng rân rân hỏi lại: - Ông có yêu em thật không? - Lại chả! - Liệu có cho em về quê thành vợ thành chồng với ông được không? Ông tổng phật lòng chống hai tay nhổm dậy: - Không thì đã làm gì? Không sờ tay, cũng không nhìn thấy gì nhưng ông biết nước mắt giàn giụa hai vòm mắt sáng của cô, ông gắt: - Đã bảo mãi rồi. Cứ chắc lép. Ông dứt khoát ngồi thẳng người, định rời khỏi cô. Cô vội vàng gạt nước mắt kéo tay ông xuống âu yếm vuốt vuốt mái tóc làm dịu lòng tự trọng của ông bị xúc phạm. Và cô sửa chữa nỗi ân hận của mình bằng cách cầm hai tay ông, dạy nó bóp bóp vào đầu vú của mình rắn như hai quả ổi xanh. Ông tổng thích. Hai bàn tay mềm múp míp của ông như bàn tay kẻ mù loà sờ soạng, lần tìm, mơn trớn rồi đột nhiên ụp chộp lấy hai bầu vú, như hai cái nơm chộp được hai con cá sộp, ông cười hích hích: - Đổi mẹ nó một vạn dân cái tổng chết tiệt để lấy hai cái này cũng sướng, - Chỉ được cái nỡm là tài. - Lại chả thế! Nó chọc vào lòng bàn tay này, giần giật khắp cả người. Có thấy thích không? - Có. ẳ - Nào duỗi thẳng chân ra. Trước khi làm theo lời ông, cô hỏi: - Không sợ con mụ ba à? - Sợ đếch gì nó. - Nói mẽ. - Chậc, thôi quàng lên - Nói đi đã. Nếu nó không cho... - Ừ ừ... Cái con mụ giời đánh ấy... sẽ liệu. Cái cơ thể nồng nhiệt của cô gái bỗng hững hờ lạnh lùng mặc cho sự vần vò điên dại ở tuổi 30 của ông tổng. Cuối cùng ông lại hỏi trong hơi thở phì phì như phun vào mặt cô: - Không nói gì à? - Không. - Sao? -... - Lại nghĩ chuyện gì đấy. - Không. - Thế sao lại im - Em sợ nói nữa ông buồn. - Thì có gì cần cứ nói hết đi. Định đặt tên con là gì? - Tuỳ ông. ẳ - Sao lại chủng chẳng hả. - Thì đã biết là con trai hay con gái. - Cứ nghĩ cả hai tên trước đi. - Ông nhiều chữ hơn sao không nghĩ? - Nghĩ rồi. - Tên gì? - Nếu thằng cu là Hiếu. Đệm Minh. Minh Hiếu. Cái đĩ, đặt tên Thảo. Cứ thị Thảo là được - hay hay. Hiếu - Thảo, Có bằng lòng thế không? Cô gái oà khóc. Không hiểu vì quá sung sướng mình sẽ có đứa con hay kinh hoàng đau đớn về cuộc đời tan nát của mình! Thế là hết một đời con gái. Mới hôm nào còn là một cô bé đẹp, nết na, không chỉ đàn ông mê mẩn ngay cả đàn bà cũng thèm. Cả làng, cả tổng này kháo nhau về mỗi chiều cô bé đi tắm thì hệt như một tiên sa xuống đầm Cuội. Những chiều ấy tiếng cười loang ra, mặt đầm rập rờn xô đẩy những lá rau, vỏ khoai lang luộc và mày ngô dạt vào một góc bờ nơi con chim bói cá dẩu mỏ ngồi như ngủ trên cành cây sung. Mỗi lần nó tung mình lên, lao chúi xuống mặt nước, nghe “tõm” một cái rất nhẹ đã thấy một con tép trắng nằm ngang mỏ và nhanh chóng được xoay dọc, chui tọt vào mỏ rồi nó lại bay về đậu vào cành sung lim dim như vẫn ngủ từ bao giờ. Ở góc đầm ấy sâu thun thút người ta bảo có ma thuồng luồng đã rút mất bảy người, không biết từ năm nảo năm nào. Nghe thế ai cũng rờn rợn, không dám bén mảng. Chỉ trừ góc phía Tây Bắc gọi là bờ chim bói cá ấy được yên tĩnh còn cả mặt đầm rộng mênh mang gần trăm mẫu ruộng kín đặc tiếng người, tiếng nước. Bao giờ cũng bắt đầu bằng những người đàn ông, vứt hết quần áo trên bờ, hai tay bưng bít, ráo riết lấy cái bộ phận rất khó gọi tên, và hơi cúi khòng khòng, chạy té tát xuống nước ngập quá thắt lưng mới dừng lại. Đấy là hình ảnh của những cậu học trò và những ông có chức sắc ở làng hoặc những ông đồ và những người cả thẹn. Còn những ông trung niên táo tợn và cánh thợ phơ đóng gạch, thợ đấu đào ao và những anh chàng mới lớn ranh mãnh thì chỉ lấy một tay úp hờ hững, vừa đi vừa chuyện trò, đủng đỉnh, có khi cứ thả đườn đưỡn từ trên bờ, hai tay vung vẩy, ưỡn ẹo cười khì khì trong khi các cô gái phải nhắm mắt lại, xô đẩy nhau, ngã ùm ùm. Những bà già thì cứ nhìn chằm chằm vào những “của nợ” ấy mà chửi tục hoặc ít ra cũng buông một lời âu yếm: “Khỉ gió nhà các anh chết tiệt”. Đàn bà cũng như đàn ông, thói quen của làng đã tắm dưới sông, dưới đầm là không để cái gì vướng víu vào người mà sau này mấy ông có ít tiếng Tây nhưng vẫn nói ngọng gọi là “luy”. Các bà, các cô cởi yếm và ruột tượng, xà tích, còn váy thì một tay túm lại, dâng lên chùm kín bờ vai, tay kia nâng gấu cao hơn mặt nước cho đến khi ngồi thụp xuống, dìm mình dưới nước mấp mé hai vai, coi như an toàn, cuốn váy đội lên đầu, vừa kì cọ vừa rì rầm chuyện trò và đám con gái té nước trêu chọc cánh con trai để rồi khi bị té trả chỉ biết kêu ré lên, đổ dúi dụi vào nhau, nước bắn tung toé. Những bà con mọn và cụ già bị bọn trẻ làm ướt váy, ướt tóc lập tức có bao nhiêu “của ngon, vật lạ”, các bà, các cụ đổ ra cho các cô, các cậu tưởng đặc kìn cả đầm nước. Mặc các cụ. Đám trẻ vẫn té tát trêu ghẹo nhau, làm cho tiếng cười, tiếng nói cứ vỡ ra dập dềnh, sóng sánh đến tận lúc tối nhọ mặt người. Những chiều cả tổng đổ ra đồng tắm táp, đùa rỡn, Đất và các bạn cô thường tìm đến một chỗ văng vắng, không cho anh con trai nào bén mảng đến. Nhưng các cô tắm ở khúc nào, lập tức ngày hôm sau các anh trai tráng trong làng lại ùa ùa xí phần trước làm các cô phải kéo nhau ra chỗ khác. Chính cái chỗ lặng lẽ nhất ấy là nơi các cô thả sức ngắm nghía và vờn rỡn bộ ngực hết sức căng thẳng đang rập rờn lóng lánh dưới làn nước của cô gái vừa tròn 17 tuổi, mà thì thào tra khảo: “Chị ơi, tên chị là Đất, sao trông chị lại nõn nà như tiên thế này. Giời ơi, đúng “của chị” là của giời cho, trông cứ thích thích là”. “Chúng em hỏi thật chị nhá: Đã có thằng ông mãnh nào nó bóp chửa? Chửa à? Sao nó mẩy ơi là mẩy?”. “Chị có chữ, lại xinh đẹp nữa, không thằng đàn ông nào ở tổng này đáng mặt với chị đâu”. Đấy là những ngày nắng gắt gao cuối cùng của mùa thu năm ngoái. Còn bây giờ mới là đầu mùa xuân năm nay. Ông tổng Lỡi không quen chịu được tiếng khóc của đàn bà. Nhưng ông đã quyết chí huỷ hoại cả đời người con gái thì cũng phải cố dằn lòng năm mười phút nghe tiếng khóc giữa giời ở chỗ bờ đầm. Cũng chỉ dăm mười phút nữa là cô phải buông những đám cỏ gà đang túm ở hai tay và nâng đầu khỏi mặt đất để ông bế lên lưng ngựa đi lên mạn Phương Trà, qua đò ở cái bến xa lạ không ai có thể biết cô là ai. Ông sẽ trút được một gánh nặng. Dẫu có là gánh rượu nếp ngọt và say sưa rất êm ái thì ông cũng đành nuốt nước miếng mà ủ nó lại chờ cơ bốc bải vụng trộm, sức nào ông đeo đẳng nổi. Một dinh cơ “nhà ngói cây mít” ở làng Cuội Trung do bố ông để lại, ông sắp đặt cho hai bà cả và hai ở hai buồng hai đầu hồi với hai chiếc giường Tây giống hệt nhau còn ông nằm trên sập gụ nhà ngoài. Hai con mẹ nó tốt nết. Hàng tháng, sau này, có khi dăm bảy tháng ông không mơ tưởng gì đến cũng cứ là tươi tỉnh, thưa gửi phân minh. Hoặc giả ông “cho” ở buồng đầu này, không “cho” đầu kia thì cũng chỉ dám trở mình, vặn giường kêu trèo trẹo đố dám mặt nặng, mày nhẹ. Ở với những mụ vợ lành, chỉ biết cung cúc nghe lời rất dễ chán. Đến con mụ vợ ba trên phố huyện nó biết làm cho ông thích thú thì cũng biết hành ông như hành một thằng ở. Lúc nào ông cũng có cảm giác mình đang è cổ đội cái cối đá trên đầu vô cùng bức bách, uất giận nhưng bỏ nó đi, thấy nhớ, thấy bâng khuâng như mất một cái gì, không thể chịu nổi. Thế là nó biết ông sợ nó. Đã sợ là hèn. Ngay cả những ngày mê mẩn và tìm cách chiếm dụng bằng được cô Đất đẹp như tiên giáng, ông vẫn không thể bỏ được thói quen hoảng hốt sợ, dù nó không hề biết gì sự dan díu của ông ở dưới quê. Bởi thế ông phải đánh thư cho người chị con bác ruột trên mạn ngược để Đất đến đấy, ẩn náu. Đẻ xong ông sẽ liệu. Chả còn mấy chốc nữa đến trống canh ba. Trống canh ba phải lên ngựa, tảng sáng qua đò thì mới kịp tàu ngược. Tự nhiên cô hét lên rồi ôm mặt khóc, không hề biết rằng ông tổng đã dỗ dành như lạy cô: “Tĩnh tâm lại em ơi”. Câu đó vừa van nài cô, vừa trấn tĩnh cho ông khi khắp người đã ướt đầm mồ hôi và run. Ông hoảng hốt sợ mọi chuyện vỡ lở. Còn cô, đến lúc này mới bắt đầu cảm nhận thấy hết mọi tủi hổ, nát một đời người! Một con đĩ, chửa hoang phải bỏ làng ra đi. Sáng mai, trưa mai, tối mai rồi ngày kia mẹ tìm con ở đâu? Con cắn cỏ lạy mẹ trăm lạy, cố chờ con quay về với mẹ! “Liệu ông có lấy em thật không?” “Đã bảo rồi. Sao lại không. Tôi nói lại là: em phải tĩnh tâm lại, coi như không có chuyện gì xảy ra để tôi còn tỉnh táo mà thu xếp mọi bề. Nghe chửa?” Cô ngồi lên lưng ngựa, ở phía sau ông, ôm vào ngang người ông, cô ôm lấy niềm hi vọng sẽ được ông tìm cách cho cô trở về với dân làng, bầu bạn, về với mẹ. Ông vừa là ân nhân vừa là kẻ sát nhân đã giết chết đời cô từ hơn 50 ngày nay tức là bắt đầu đêm 21 tháng chạp. Hôm ấy mẹ cho cô đến nhà bà ngoại ở phủ Trường Giang xin bà dăm cân nếp về gói bánh. Bà đi chợ đến quá trưa mới về. Bà bảo ở lại ngày mai. Cô sợ mẹ mong, và vội lưng cơm nguội rồi khoác mươi cân thóc trong chiếc tay nải ra về. Không ngờ trời mùa đông xuống nhanh. Cô vừa ra khỏi cánh đồng Tam Bách Mẫu um tùm lau, sậy thì trời nhá nhem tối. Còn năm cây số nữa, với sức cô vừa đi, vừa chạy về đến nhà đã lấy gì là muộn, nếu không có ngựa ông tổng Lỡi chặn ngay trước mặt cô. Sau này cô mới biết ông đã “nhắm” cô từ hội thi nói khoác của tổng Cuội năm ngoái. Ông ngồi trên ghế chủ khảo là để nhìn xuống đám dân chúng, tuyển lựa lấy những cô gái đẹp mà tìm cách chiếm đoạt. Năm nay ông sức cho các xã phải sửa soạn cho ngày hội thật long trọng vì năm ngoái ông đã liếc thấy một con bé đứng ngấp ngó tận ngoài gốc bàng làm ông bàng hoàng. Hỏi ra biết cô ta tên là Đất, ở thôn Cuội Thượng. Ông lặng lẽ theo đuổi cô cả năm nay. Hôm 21 ông đã theo cô đi và chờ cô về. Hỏi: - Ai như cô Đất? - Cháu chào ông tổng ạ. - Thế cháu đi đâu, giờ này còn ở đây. Liều quá. - Dạ thưa... - Dạ dơm gì? Ngồi lên đây. - Thưa ông... Dạ... cháu cảm ơn ông. Cháu không dám... Cháu sợ lắm ạ. - Thôi được. Tao dắt nó đi bộ. Khi nào dạn nó thì lên, tao cho về. Cái bọc gì kia. Nào đưa đây vứt lên yên. - Cháu cảm tạ ông tổng quá. Thế là chả cần phông màn, đạo cụ, chả cần dàn dựng, tập dượt, mọi tích trò cũ kĩ vẫn cứ diễn ra một cách hồi hộp. Màn đầu: kêu la, chửi bới, cào xé. Màn hai: sự bất lực tất yếu và người con gái bị khuất phục. Sau đấy là nỗi ê chề nhục nhã, khóc than thầm vụng có thể chết dài, chết rạc, hoặc quẫn trí treo cổ lên xà nhà hoặc nhảy xuống sông, xuống đầm mà tự vẫn. Màn ba: những mong mỏi tốt đẹp hé mở. Cái câu: “em sẽ là bà bốn của anh” bị cô nhổ ngược lên cái mặt đang úp sấp của ông trong lần đầu tiên bị cưỡng bức thì những đêm sau nó lại lấp loé hi vọng như quyền được hi vọng ở bất cứ người con gái nào. Hồi bấy giờ những nhà phú ông, nhà ông tổng, ông chánh năm thê bảy thiếp là thường. Nửa tháng sau, cái thói quen thường kì rất đều đặn trong cô đã bị dừng lại. Cô hoảng hốt về một đứa con không bố, đứa con hoang. Và, tất nhiên cuộc gặp gỡ vụng trộm lần thứ hai sẽ xảy ra. Ông tổng mừng quýnh quáng vì một lúc ông được cả hai: một cô bé đẹp tuyệt trần và một đứa con. Ông hứa chắc như đinh đóng vào cột gỗ lim rằng sẽ thu xếp để lấy cô làm vợ. “Hừ hừ... hự... em ơi nhất định em phải là vợ của anh. Em có nghe không? Ừ, phải nghe anh. Phải có cách làm cho mọi chuyện êm thấm. Để vỡ lở ra không những tai vạ mà... trời ơi, em ơi, có thích làm vợ anh không?” Cô cũng mê man bay bay trong cõi mây mờ cao vút để quên hết mọi tủi nhục, mọi hoảng sợ, để bay bay lâng lâng trên con đường chui lủi sớm nay còn mịt mùng hơn cả trong cơn mê say. CHUYỆN LÀNG CUỘI Lê Lựu dtv-ebook.com Chương 3: Một cuốn sổ nhoè nhoẹt nhưng vẫn đọc được, tựu trung chỉ vẻn vẹn mấy trang giấy học trò, được bọc cẩn thận trong những lần giấy xi măng để ở đáy hòm khoá chuông. Vừa đúng hai mươi hai năm sau, năm 1955, khi đứa con đã làm uỷ viên chấp hành chi đoàn thanh niên xã và lấy vợ, nó buộc người mẹ phải trao cuốn sổ để nó đốt đi. Bà run rẩy đưa sổ cho con và ứa nước mắt nhìn nó châm lửa đốt vào những trang giấy bà ghi như đốt vào ruột bà. Tuy là cô gái độc nhất của làng Cuội biết chữ nhưng con gái thời ấy không được biên, chép bất cứ một thứ gì. Biên chép thứ gì cũng là biên thư cho giai mà đã là phận gái phải biết câu: “Thụ thụ, bất thân”. Nhưng đấy là luật lệ ở làng Cuội. Đến La Hiên, Đất gặp chị họ của ông tổng bán hàng ở ngã ba thị trấn. Bà cho người dẫn cô đi tiếp nửa ngày đường rừng mới đến chỗ cô ở. Đưa cho cô một gói mực tím, cái ngòi bút “lá tre”, quản gỗ mộc, một quyển sổ, bà nói: - Cậu tổng dặn tôi đưa những thứ này cho cô. Ngày nào cần gì hay muốn chuyện trò với ai cứ biên vào đây. Lựa có người là chỗ tin cẩn về xuôi hoặc ở dưới xuôi lên tôi gửi cho nó nhanh. Thời Tây bây giờ người ta có thời giờ đâu mà con cà con kê như chị em mình. Cứ trông chờ được gửi về cho ông tổng và ông sẽ lên đây như đã hẹn với cô, nên bao nhớ thương, buồn tủi, bao phen đắng cay hiểm nghèo cô đều muốn trút vào quyển sổ những mong ông đọc, hiểu thấu nỗi lòng của cô. Nhưng đã bao nhiêu đêm thổn thức để cô nhớ lại quá nhiều những gì đã xảy ra trong tình cảm của cô mà chép được vào sổ lại quá ít. Cô cũng không còn biết ngày tháng là gì nên ngày nào cô cũng chỉ ghi: “Hôm nay” Hôm nay chắc là hội làng rã đám rồi. Ông còn đủ sức làm chủ trò hay là như nhời ông bảo em: “Em đi thì hội tan, anh thiết quái gì cái hội ăn tục nói phét hở em”. Cô nhớ đến cái buổi sớm hôm tiễn cô đến bến đò Phương Trà, sờ trán ông đầm đìa mồ hôi, cô sợ quá tưởng ông bị cảm vì ban đêm ông và cô nằm giữa sương gió. Ông lại ghì riết lấy ngực cô, bảo: “Cứ nghĩ đến ngày mai, ngày kia không nhìn thấy em, không hiểu anh có gượng dậy mà lo toan mọi việc cho chúng ta!” Cô muốn oà khóc nhưng sợ ông đau đớn quá đành phải cắn chặt hai hàm răng lại, gỡ tay ông ra, cô vừa lấy đuôi yếm chấm nước mắt vừa chạy lao xuống bến đò, vì lo trời tảng sáng có ai nhìn thấy, khổ cho ông. Nếu không, làm sao cô rời được ông ra. Ruột gan cô lại cồn cào lo không biết ông còn đứng lại ở chân đê lâu không? Còn cô, sang đến bờ bên kia không thể quay bước lên đê được. Sương mờ quá nhìn mãi không thấy bãi bồi bên mình, cô chỉ chực nhào xuống sông bơi về với ông. Làm sao những ngày như thế này cô và ông có thể rời nhau ra được, làm sao cô lại mất ông nhanh như thế hở giời? Ấy là cô chỉ dám nghĩ vậy thôi. Lúc ấy cô đã khóc oà lên như một đứa trẻ, như hồi bố cô đột nhiên lăn ra chết. Khóc được, cô mới nhẹ được bước chân để chạy vào ga tàu kẻo muộn. Hết một ngày rưỡi đi đường, đến La Hiên, bà Nhớn đã cho người đưa cô đi ngay không để ai thấy mặt. Đi từ trưa đến khi không nhìn rõ mặt người một lúc, thì đến một gian lán ở giữa rừng. Xung quanh lán rào nứa để chắn hổ. Ông chủ của nó là một người làm thợ sơn tràng đã bỏ đi đâu hơn một năm nay. Bà Nhớn bảo: “Cứ yên phận mà ở đây, khi nào người ấy về bà sẽ dàn xếp”. Người quen của bà Nhớn dẫn cô đi cũng nói với mấy người Mường, Mán gì đấy ở bên kia suối là giúp cô trồng sắn, gieo hạt. Họ chỉ cười, gật đầu và nói gì cô không hiểu. Bà Nhớn dặn cô: “Có ai hỏi thì bảo: Tôi là cháu bà Nhớn. Chồng tôi nó bán hết mọi thứ để đánh bạc, uống rượu. Đêm về nó lại đánh đập hành hạ, không chịu được. Bà Nhớn phải gửi tôi lánh vào đây”. Ông có bằng lòng cho em nói như thế không? Em cầu mong cuối tháng này hoặc đầu tháng sau ông thu xếp lên với em vài ba ngày. Giời ơi, mới có mấy hôm mà em tưởng không thể chịu nổi. Tiếng những con gì đêm nào cũng gào, hú như muốn ngấu nghiến nhai nát em ra. Cứ cảnh rùng rợn, mất ngủ thế này, em chết mất ông ơi. Nhớ được như thế, day dứt bao nhiêu điều như thế mà cô không thể xếp những ý nghĩ của mình ra để chép vào giấy được nhiều. Cô lại chỉ ghi: “Hôm nay lại tưởng chết vì những trận nôn tám ngày nay, không biết bao nhiêu trận cứ móc họng lôi thốc cả ruột gan ra ngoài”. Suốt tám ngày qua, đêm nào cô cũng trằn trọc đau đớn và lo sợ. Không hiểu vì sao ngày nào cô cũng ăn đất, lại nôn ra toàn đất và đắng đến run lên. Hay là đứa con có sự gì mà đạp, rẫy, làm người mẹ tắc thở, ngất đi, tỉnh lại không biết bao nhiêu lần. Cô đã phải thầm thì lạy con: “Con thương mẹ, cho mẹ yên, mẹ cố sức mỗi ngày kiếm vài xu tiền củi để khi mẹ tròn, con vuông còn có miếng rau, miếng cháo nuôi con”. Từ hôm tiễn cô đi đến nay đã được hai tháng, tám ngày. Ông bận việc quan hay ốm đau. Hay trắc trở điều gì mà ông vẫn bặt vô âm tín để một mình cô cứ phải khốn khổ, khốn nạn như thế này. Suốt đêm lo chống chọi, chạy trốn tiếng hổ, tiếng báo. Ban ngày kiếm được gánh củi ra đường cô lại sợ có người dưới xuôi lên nhìn thấy mặt mình... Hôm nay bà Nhớn đến cho em ba đồng bảo là tiền của mẹ em gửi thì em biết mẹ em một thân một mình lần không ra một xu lấy đâu những ba đồng cho em cầm mấy đồng tiền vào tay, tay em cứ rụng rời ra không lên được với em ông tiếc cả mấy hàng chữ mà không cho em được mấy nhời bà Nhớn hỏi rằng là nhà cháu với cậu tổng là thế nào thì em thưa bà ơi bố cháu là chỗ bạn học của ông tổng ông tổng coi bố cháu như là anh khi bố cháu mất đi ông tổng lo cho cháu như là lo cho con cái trong nhà thế rồi bà lại bảo tiếng là người ở quê nhưng đi từ thuở bé ngoài mấy người ruột thịt bà có biết ai vào ai em lại phải thưa với bà là bà ơi cháu cũng không ngờ đến nông nỗi này thôi thì đã có nhời của ông tổng trăm sự cháu nhờ cậy vào bà thì bà lại bảo thế cái thằng chết tử chết tiệt nó phản cháu bây giờ nó ở đâu em xin với bà là anh ấy cũng bỏ làng đi ngay sau cái lần làm cho cháu lỡ dở rồi bà lại bảo rằng là ừ cái... của của thằng đàn ông nó như cái gậy thằng ăn mày bạ đâu nó cũng chọc mình là phận gái nhẹ dạ cả tin là ô nhục khốn khổ cả một đời em lạy bà anh ấy thề với cháu là nếu không lấy được cháu làm vợ anh ấy không sống được nữa bà ơi thì bà lại bảo thế hả thế cháu giở vành váy cháu ra xem còn lời thề của nó ở đấy không thề thốt thề thốt của thằng đàn ông ra khỏi miệng nó giống như cái... của nó rút ra khỏi cái của mình nó vẩy đi vẩy lại một cái là ráo hoảnh lấy gì làm bằng cớ lẽ ra phải bắt nó nuốt nước miếng mà chờ dạm hỏi cưới xin đàng hoàng bà đã về nhà mày rồi thì mày đã mất tiền mua mâm bà kệ xác mày cứ đâm cho thủng khổ cháu tôi thật thà dại dột quá ai lại chỉ nghe nó thề sống thề chết vài lời mà đã vội vàng ngửa ra ở bờ bụi xó xỉnh cho nó thì cả trăm ngàn vạn thằng đàn ông đều biết lừa lọc nó chỉ cốt... xong mình chưa kịp ráo nó đã vác cái mả cụ tổ nhà nó đi, mình ăn thịt nó à. Lúc ấy cô thấy bủn rủn cả người. Nhưng cô vẫn tin không đời nào ông là con người như bà Nhớn nói. Cô nghĩ ông vẫn còn thương mẹ con cô. Chắc có bề gì làm ông không đi được. Biết vậy cô vẫn cứ thèm lúc sinh nở, ông đến với mẹ con cô một lần để ông nhìn con ông, cho cô bõ những ngày chui lủi một mình. Có lần bà Nhớn lại bảo cô: “Có một thằng chuyên đi bốc mả thuê, nó khoẻ mạnh mà tốt nết lắm lại là trai tơ. Để bảo nó đến đây. Có hơi thằng đàn ông cũng đỡ trống trải”. Cô thưa: “Cháu đội ơn bà có lòng thương. Nhưng cháu tin anh ấy nhà cháu còn thương mẹ con cháu lắm. Chắc anh ấy phải bỏ đi là để làm thuê làm mướn kiếm tiền nuôi mẹ con cháu”. “Vậy là nó biết mày ở đây à?” “Dạ, không ạ. Khi đi anh ấy có dặn cháu là có ở chân trời góc biển nào thì cũng cứ mà yên trí, anh sẽ tìm đến”. Bà Nhớn thở dài rồi bảo: “Thôi được, mày đã quyết như thế tao cũng không ép”. Hôm nay bà lại đến bà lại bảo mày có ý định đánh thư về xuôi cho bà lão thì đưa tao nhờ người tin cẩn đưa về cho cậu tổng cậu ấy giúp, em bảo là cháu không ạ nếu được xin bà nhắn ông tổng bắn tin là cháu chết rồi. Đêm ấy cô lại thức trắng, nhớ lại lúc ngồi với bà Nhớn, bà mắng cô: “Ăn nói độc mồm, độc miệng, hổ báo nó bắt mày đi”. “Bà cứ nhắn hộ cháu là cháu đi kiếm củi bị hổ nó ăn thịt rồi”. “Con mẹ mày, Mày điên rồi hay sao? Mày có sợ phải tội với cái thai trong bụng mày không?”. “Bà ơi mẹ cháu yếu lắm rồi. Lọ mọ một thân, một mình, sống chết lúc nào không hay. Cháu muốn mẹ cháu chỉ đau đớn một lần nữa thôi. Cứ để thân già, chết dần chết mòn, cháu khổ lắm”. “Cớ sao bà lão còn gửi tiền cho mày?” “Chắc là bán được cái gì đấy”. “Tao muốn nói: cớ sao bà lão lại biết mày đang ở đây mà gửi tiền đi?”. “Có lẽ ông tổng thương tình mẹ cháu mà cầm. Còn mẹ cháu thì lại tin ông tổng đi ngược về xuôi, chỗ nào chả biết. Nên cháu nghĩ thế này: cháu nhờ bà chuyển cả ba đồng về cho ông tổng nhờ ông nói với mẹ cháu là không nhờ ai tìm thấy nó ở đâu, đành gửi lại bà. Sau này ông tổng có nhớ đến tình làng nghĩa xóm thì giúp cháu, cho mẹ cháu xin cỗ áo quan”. Thấy cảnh sống và những lời nói gở của cô, không chịu được nữa bà Nhớn đùng đùng bỏ ra về. Hôm nay đêm qua em nằm mơ thấy ông tổng lên với em, lên với đứa con của ông thì em mừng quá vội vàng chạy vào nhà để ông phải vào đấy với em để ông nghe thấy đứa con ông nó đập thình thịch làm em phải đau đớn quằn quại thì ông quay ngựa đi ông bảo ông không thèm biết mày là ai, thế là em vội kêu lên rồi thì mắt em mở ra em sợ quá. Hôm nay con đạp mạnh quá có điều gì mà con đạp mẹ làm mẹ phải ôm lấy gốc cây khỏi ngã vật ra. Cô như thì thầm với đứa con, van lạy nó đừng hành hạ cô lâu, nhưng cô vẫn không thể đứng dậy được, đành bỏ gánh củi ở bờ suối, ôm bụng vừa đi, vừa bò về nhà. Hôm trước bà Nhớn bảo cô đừng lo, nó đùa đấy. Con đùa vui thì cô mừng quá. Nhưng cô phải “lạy” con là thương mẹ, con đùa nhè nhẹ cho mẹ đỡ đau mẹ còn lấy sức cho con chui ra. Nếu đúng chín tháng mười ngày thì hôm nay đã là tám tháng bảy ngày rồi. “Hôm nay”. Có lẽ không bao giờ cô nhắc đến người tình của mình, người cha của đứa bé sắp ra đời, ông tổng Lỡi. Những dòng cô ghi như là đánh dấu để sau này cô nhớ lại những đận gian truân khốn khổ của mình. Cô không phải mong ngóng mòn mỏi chờ ngày con ra đời. Cô đã bắt được cục vàng của cô rồi. Cô đang bám vào cột quằn người kêu la tưởng là đứt ruột chết ngay, không thể nào chịu được nữa thì thấy nhẹ “hẫng” đi. Cô nhìn xuống để thấy “con chó” nằm lên bàn chân cô. Cô vội vàng cúi xuống bế con lên. Cái ánh sáng nhập nhoè của đĩa dầu lạc để cô chợt nhìn thấy vòm mắt sâu sâu của con, cô bỗng giật thót người như có ai chẹt lấy cổ làm tức thở. Cô sững sờ vì tưởng lại nhìn thấy đôi mắt sâu sâu của người tiễn cô xuống bến đò đêm nào. Nhưng “người đó” quên mẹ con cô rồi. Người đó đưa giấy mực bảo cô hôm nào cũng chép tất tật mọi chuyện để gửi cho người đó, người đó cũng quên ngay rồi. Nhưng cô cần gì. “Hôm nay, con đầy tuổi tôi.” Mỗi lần nhìn con, cô lại thấy đứt ra từng khúc ruột. Có con, cô sung sướng bao nhiêu thì lại càng hoảng sợ bấy nhiêu. Mỗi ngày cô lại đau nhức, tê dại cả hai tay, hai chân mà người thì cứ như không còn hơi để thở. Chiều nay run quá. Đi nhặt củi, xách nước cô phải bò xuống suối rồi lại cõng củi, cõng nước bò lên. Từ hôm đứa con ra đời, cô chưa đụng đến hạt cơm nào. Ngay đến cháo húp vào cũng thấy nhạt, mồm miệng lúc nào cũng thấy hôi hôi, đắng ngắt. Mỗi lần húp bát cháo cô cố nhắm mắt, nhắm mũi húp cho qua miệng để lấy sữa cho con. Nhưng nếu ăn vào lại nôn thốc ra như sáng nay thì con bú bằng gì? “Con ơi, nếu nhỡ ra mẹ có mệnh hệ nào thì...” Tự nhiên con khóc ré lên như mắng cô. Cô phải xin con. “Mẹ xin. Cho mẹ xin. Mẹ không khóc nữa. Mẹ nín rồi mà. Đừng nhăn mặt mắng mẹ thế. Nào nào, mẹ cười rồi, ư ư mẹ cười đấy chứ. Mẹ không mếu nữa đâu. Ư ư”. Con chó con của mẹ thấy mẹ khóc nó mắng mẹ nó đấy, ghê chưa?. Lần đầu tiên trong đời, cô cất tiếng ru: “À ơi. à à, ơi... ơ...” Bà Nhớn vào kêu: “Giời ơi, tao trông mày ngỡ là con ma. Sao mày bảo phải đến tháng này?” “Cháu cũng không biết thế nào mà thiếu đúng một tháng, ba ngày”. “Thế ai đỡ cho mày?” “Không có ai bà ạ. Cháu đau bò lê bò càng từ chiều tối. Đến nửa đêm cháu bò về nhà, đang ôm lấy cái cột giữ nhà thì cháu bà nó buột ra khóc rất đanh”. “Ai cắt rốn cho nó?”. “Trời ơi, cháu mừng quá. Cháu quỳ xuống ôm lấy con rồi ghé răng cắn nhay mãi mới đứt. Cháu đặt nó đấy, đi chôn rau rồi mới chạy về bế cháu”. Cả tháng giời rong huyết, không nhìn thấy mặt mình nó xanh xao, méo mó như thế nào để đến lúc mới nhìn cô, bà Nhớn hét lên định bỏ chạy. Cô phải gọi: “Cháu đây, Đất đây bà ơi. Cháu sinh cháu trai được một tháng rồi bà ạ”. Hôm nay mẹ ngồi nhìn con thì con ơi nếu mỗi ngày mỗi đêm không có tiếng khóc của con thì không tài nào mẹ gượng dậy được. Bà Nhớn chạy đi tìm một bà gọi là bà mế mang lá đến cho cô. Người đẻ kiêng mọi thứ sống sít, bà mế lại bắt cô nhai một nắm lá nuốt cả nước lẫn bã. Cô không ngờ đời cô lại có người hết lòng cứu giúp. Chỉ chưa đầy nửa ngày máu đã cầm hẳn. Bà Nhớn bắt một con gà trong lồng gà bà mang đến. Làm xong, bà chặt ra kho với một vốc gừng và cả lưng bát bột nghệ. Cái gánh của bà, một nửa là gà, nửa bên kia toàn là gừng với nghệ. Bà bảo trừ cơm ra còn bất cứ thứ gì kho cũng thái gừng, giã nghệ trộn vào. Không kiêng khem cẩn thận, sau này khốn vào thân. Trưa nay cô mới thấy đói và thèm cơm. Bà Nhớn ép, cô ăn được vực cơm chặt. Gần một năm lên đây, nói thực ra từ tết năm ngoái đến giờ, trưa nay mới được ăn miếng thịt gà, tự nhiên nước mắt cô cứ ứa ra, xấu hổ quá. Hôm nay con được hai tháng mười bảy ngày Cô vẫn chỉ ghi lại như cái cớ để sau này nhớ lại kể với con rằng: mỗi ngày con lại có thêm một trò cho mẹ. Mấy ngày trước thì chỉ thấy ngủ. Ăn cũng ngủ. Khóc thét lên đòi thay tã, đòi nước cũng vẫn nhắm nghiền hai mắt lại, ngủ. Mấy hôm nay lại chỉ có cười, ngủ cũng tủm tỉm cười. Ai dạy con cái cười mà ghét ơi là ghét. Thỉnh thoảng lại nhách mép ra một cái, đến là nghịch. Có phải dạo này con thấy mẹ khoẻ dần lên, con vui con trêu mẹ? Mẹ chỉ muốn ngồi cả ngày, cả đêm nhìn con ngủ, con cười thôi, con chó con của mẹ! Nhưng mẹ còn phải đi kiếm củi, làm lụng nuôi con. Hôm nay mẹ tưởng phải đâm đầu xuống suối mà chết con ơi. Lúc đi bán được gánh củi về thì không thấy con đâu. Ai bế mất con tôi rồi? Cô chạy sấp ngửa đi các khe, các hẻm kêu la. Không thể đừng được thì cô gào khóc, kêu than chứ ở đây có ai nghe. Chạy đi khắp nơi không thấy con, cô quay về định cầm con dao quắm tự bổ vào đầu mình cho nó nhẹ nợ. Lúc quay ra lại thấy con nằm ở sườn dốc, không một mảnh tã trên người. Giời ơi, còn may mà con vướng được vào giữa hai cây mọc sát nhau không thì đã lăn xuống suối chảy đi tận đâu rồi. Bế con về, ủ trong lòng, vắt sữa vào miệng, mãi con mới mở mắt, chép chép nuốt những giọt sữa mẹ. Cô hoàn hồn mà ruột gan vẫn cứ run bắn lên. Nào cô có ngờ đâu đến nông nỗi này để tìm cách treo con khi cô đi khỏi nhà. Người ta bảo “chó treo, mèo đậy” cô lại để con nằm ở ổ nên khi con “bậy”, một con chó ở đâu đã nhảy vào lôi giẻ đi tìm phân. Nó kéo giẻ, kéo cả con đi. Khi con vướng vào gốc cây nó kéo giẻ đi mươi bước nữa, dọn hết phân nó mới để giẻ lại. Cũng là đoán vậy thôi. Làm sao cô biết được hết đầu đuôi mà con thì chưa thể nói cho cô hiểu. Đêm nay ngồi ôm con, cứ mỗi bận con thon thót giật mình, cô lại thấy đau thắt ruột lại. Từ ngày mai cô phải làm thế nào để vừa trông con, vừa kiếm củi bán, đong gạo nấu cháo cho con ăn? o O o Nhưng chuyện chó tha con xuống bờ suối chưa phải là nỗi kinh hoàng cuối cùng. Quyển sổ như là những bức thư, như là nhật kí có thể gọi nó bằng cái tên: “Hôm nay” không còn hào hứng, không còn sức lực ghi lại những đận long đong sau này nhưng không ai đốt được, không ai cậy răng người mẹ nói ra nửa lời. Nó ở tận đáy lòng bà và nó im lặng cho đến ngày bà trôi về quê. Con được năm tháng, bảy ngày thì lên sởi rồi chạy hậu, vào phổi. Suốt ba tháng trời mỗi ngày mẹ ăn một củ sắn lùi, ngồi ôm con. Mười tám tháng tuổi con đi ỉa chảy rồi kiết lị cả nửa năm trời. Ba tuổi, con bị trúng gió rồi lên cơn sài giật lăn ra chết. Anh thợ bốc mả đến chơi, chưa kịp vào nhà đã chạy đi chặt cây giang chẻ lạt bó con bằng manh chiếu rách. Bó được ba lạt, anh thương quá gục mặt xuống ngực cháu khóc. Anh giật mình kêu lên: “Còn thở. Thằng cu nó còn thở”. Lại một thầy lang ở bên kia núi mang xác rắn, rễ cà và thứ thuốc bí truyền gì đấy cho uống. Đổ vào đến đâu, mắt con mở ra đến đấy. Rồi phải bỏng. Rồi chết đuối. Rồi trèo cây ngã gãy tay và rắn độc cắn vào cổ chân... Chỉ mỗi lần con sổ mũi, nhức đầu, nghe tiếng con hắt hơi mẹ đã giật thót người lại, huống hồ bao phen con chết đi sống lại! Nhưng có người mẹ nào lại nhẩm đếm đã bao lần ôm con vò võ thâu đêm! Bao phen phập phồng theo từng nhịp đập thoi thóp của quả tim non nớt ốm yếu của con! Cái cơ thể nình nịch đẫy đà kia chỉ qua bốn, năm năm trời nuôi con đã teo tóp như một cành cây lìa khỏi thân cây thì làm sao người mẹ ấy lại trở thành “đồ dã tâm độc địa, hãm hại con” vào những ngày cuối cùng của đời mình, khi đứa con, cái “giẻ rách vắt vai” đã thành phó chủ tịch tỉnh, rồi làm cán bộ đối ngoại cao cấp ở một bộ quan trọng. Bao nhiêu vất vả gian truân, bao nhiêu đau đớn tủi nhục người mẹ nuốt hết vào lòng cốt để trở thành bất tử, thành người hạnh phúc nhất trần gian lúc đứa con bập bẹ tập nói: “Con thương ai nhất?” “Con thương mẹ nhất”. “Con thương mẹ có nhiều không?” “Con có nhiều thương mẹ lắm”. “Con thương mẹ nhiều như thế nào?” “Con thương mẹ nhiều như cứt con cò ỉa xuống gốc tre”. “Ấy con ơi, đừng nói thế”. “Mẹ bảo cứt cò nhiều ơi là nhiếu, làm sao lại không được hả mẹ”. “Cứt cò xấu lắm. Con phải bảo thương mẹ như nước suối”. “Ứ ừ... nhiều hơn nước suối cơ”. “Ừ được, nhiều hơn. Thế thương mẹ con để ở đâu?” “Con để ở trong cái đầu này Ừ này. Xong rồi con để ở cổ, ở bụng con nữa mẹ nhỉ?”. “Ừ, ừ. Thế lớn lên con làm gì?”. “Nhớn lên con đi ăn trộm củi” “Ấy chết. Sao lại đi ăn trộm, con phải đi kiếm củi với mẹ chứ”. “Đúng rồi, nhớn lên con đi kiếm củi với mẹ cơ”. “Kiếm củi làm gì?” “Kiếm củi bán lấy tiền đong gạo”. “Đong gạo làm gì?” “Đong gạo nấu cơm cho mẹ ăn thật no. Con nuôi mẹ nhớn mẹ nhỉ. Nhưng không được đi chơi xa ông hổ bắt đấy. Ông hổ có cái răng to lắm, mẹ không biết được đâu”. “Con có sợ ông hổ không?” “Sợ lắm. Ông hổ đuổi. Thế là con trèo lên ngọn cây tít tít trên đầu núi ông Vượn, ông hổ không làm gì được con”. “Chết chết. Trèo lên cao là ngã gãy xương như cái tay gãy ấy, không được đâu”. “Nhưng con trèo lên con chơi với ông giăng có được không?” “Không được” “Thế con lấy cái sào dài ơi là dài con kều ông giăng xuống với con có được không mẹ?” “Cũng không được”... “Thế con không có gì chơi à?” “Thì mo nang lá mít còn bao nhiêu đấy”. “Ngày nào cũng chỉ có thuyền mo nang, lá mít, chán lắm”. “Chịu khó, rồi hôm nào mẹ cho lên bà Nhớn mua cái đèn ông giăng xanh đỏ đẹp lắm”. “Nhưng phải như ông giăng thật cơ”. “Ừ, như thật”. “Mẹ ơi, thế ai thắp lửa cho ông giăng?”. “Ừ, ừ... thằng Cuội thắp lửa cho ông giăng”. “Thế ai đổ dầu vào đĩa lạc cho ông giăng?” “Thằng Cuội đổ”. “Thế ai nấu cơm cho ông giăng ăn?” “Thằng Cuội”. “Ai đưa ông giăng đi chơi hả mẹ?” “Thằng Cuội”. “Thằng Cuội giỏi nhỉ. Nhớn lên con làm thằng Cuội được không mẹ” “Ừ... ừ... được” “Thế nhà thằng Cuội ở đâu?”. “Nhà nó ở... làng ta” “Làng ta ở đâu hả mẹ? Sao mẹ không cho con về làng ta?” “Nhớn lên mẹ cho con về”. Năm thằng Hiếu mười tuổi, chị đã dắt con về làng. Ngày ấy mạn ngược đã nhao nhác nghe cái tin Việt Minh nổi dậy. Tây, Nhật hục hặc nhau, sợ loạn lo. Biết là bà con chòm xóm, anh em ruột thịt, bạn bè gần xa sẽ phải hỏi han, thì thào nên Đất phải sắp sẵn một “lai lịch” cho cả khi ra đi và lúc trở về đột ngột của cô. Những ngày đi cắt cỏ ở cánh đồng Tam Bách Mẫu đem bán, Đất thường gặp một anh tên là Lâm. Anh ấy khoẻ mạnh, đẹp trai, chịu thương chịu khó, mà lành. Anh ta hay bó hộ cỏ, có khi còn gánh hộ đến nửa đường để Đất kịp buổi chợ rồi mới quay lại gánh cỏ của mình gửi ở chỗ bà hàng nước vối. Lâu dần Đất mến rồi say anh ấy. Anh dụ Đất cùng trốn lên mạn ngược với anh ấy để nhờ bà cô mới có lực đứng ra làm lễ cưới cho hai đứa. Cưới đầu năm thì cuối năm có con. Cuối năm 1941 không ngờ anh ấy đi hoạt động Việt Minh ở trong rừng, biệt tăm tích. Đến đầu năm nay mới biết tin là anh ấy đã bị Tây bắn chết. Chồng chết rồi, ở lại đất khách quê người nơi rừng rú nó trống, lạnh nghĩ cực quá mẹ con đành đem nhau về quê trăm lạy các bác Cu Từ, Cu Mỡ và họ hàng nội ngoại thương cho mẹ con cô. Cái “lai lịch” ấy được tạo nên từ hai người: một người là chủ ngôi lán bỏ không bà Nhớn đưa cô đến ở. Chị không hề biết tên tuổi, tướng mạo của người ấy là thế nào. Người ấy là Việt Minh. Một người tên là Lâm làm nghề bốc mả thì cu Hiếu biết rất rõ. Bác ấy là người riết đến nút lạt thứ tư trên người nó thì kêu nó còn sống, lại cởi lạt ra, thế là nó ngồi dậy. Bác còn cho mẹ con Hiếu một thúng thóc, bổ một cái gốc to ơi là to để mẹ con Hiếu lấy củi sưởi cả mùa đông Hiếu ốm. Có lần mẹ phải bế Hiếu cả ngày cả đêm, bác đến vác nước hộ. “Nhưng ngày trước mẹ bảo bố con đi vào rừng bị ông hổ ăn thịt sao bây giờ mẹ lại nói với bác Cu Từ, bác Lâm là bố của con?” “Mẹ đã bảo để khi nào con lớn mẹ sẽ nói hết mọi chuyện. Bây giờ đừng hỏi gì mẹ, mẹ khổ lắm”. Dù đã “vâng ạ” nó cũng không thể hiểu hết nỗi khổ nhục của mẹ nó. Đang là cô gái hiền lành, thật thà, bỗng dưng thành kẻ gian dối. Hàng chục năm nay mẹ nó phải nghĩ ra những người bố “mất tích”, “bố bận việc ở xa lắm”, “bố đang đi kiếm ăn chưa về...”. Nghĩ ra hàng loạt ông bố cốt để cho con có một người cha, chỉ cần có một người cha chứ không cần mẹ có một người chồng. Năm ngoái, nhận tin ông tổng sẽ lên Thái cần gặp mẹ con ở nhà bà Nhớn, chị tím bầm mặt lại vì căm giận kẻ lừa đảo. Khi tĩnh tâm chị nghĩ: hay là ông ta đã hối, muốn nhận lấy con. Đằng nào mình cũng là kẻ đĩ thoã coi như bỏ đi. Để con đi với ông ta nó cũng được ấm thân nó mai sau. Chuyện này thì thằng Hiếu nhớ lắm. Hôm ấy, hai mẹ con mang cơm nắm và bốn củ sắn luộc đi từ lúc mặt trời chưa mọc. Khi mặt trời chưa đứng bóng đã đến nơi. Bà Nhớn đang ốm nặng. Mẹ đi giặt rồi xách nước, bổ củi. Xong mọi việc hai mẹ con ngồi nắn tay, nắn chân cho bà. Quá trưa bỗng có tiếng kêu ở ngoài đường. “Bà Nhớn có quan lớn ở dưới quê lên thăm”. Không hiểu sao mẹ lại vội vàng kéo tay con sấp ngửa chạy lại cửa sau, luồn ra vườn, nấp vào bụi cây rậm rạp nhìn ra đường. Con ngựa đứng lại mãi ở ngoài đường cái chính. Ông quan ở quê ngồi trên lưng ngựa và một bà béo như một đống thịt đổ vào sau lưng ông quan. Ông quan xuống ngựa đi theo bọn trẻ con, chỉ nhà bà Nhớn cho ông. Bà béo vẫn ngồi ở lưng ngựa cầm lấy dây trông oai lắm. Mẹ lại kéo tay Hiếu chạy lại cửa sau, cạnh giường bà Nhớn. Ông quan lấy tay ra hiệu xua lũ trẻ đứng ở ngoài hàng rào vườn trước, đi vào nhà một mình. Mẹ bấm vào tay Hiếu: “Con chào đi”. Thằng Hiếu khoanh tay lại run rẩy: “Cháu chào ông quan ở quê ạ”. Ông quan phì cười, nhanh chóng tiến đến vừa bế bổng nó lên vừa hỏi: “Hiếu hả?” rồi ông hỏi nhỏ mẹ: “Cô có được khoẻ không?” Nước mắt mẹ tự nhiên lại chảy xuống má. Thằng Hiếu vội vã ôm lấy mẹ như để che không cho ông quan ở quê đụng vào người mẹ nó. Mẹ nó chùi nước mắt hỏi. “Con có thích đi theo ông quan không?”. Thằng Hiếu chưa kịp giả nhời, ông quan đặt vào tay mẹ nó một gói giấy rồi ra khỏi nhà đón bà béo ở trên lưng ngựa dưới gốc cây ngoài đường cái chính. Mẹ lại kéo tay con len lén đi ra vườn sau, chui vào chỗ cây rậm ngồi như hai kẻ ăn trộm ngồi rình lấy của. Mẹ cứ cắn răng vào môi, lặng im chùi nước mắt. Có bao nhiêu điều thằng Hiếu muốn hỏi mẹ: “Tại sao ông quan lại biết tên con?”. “Thế ông quan với nhà mình là thế nào?”... Nhưng nó thấy mẹ nó đang buồn nên nó chỉ im lặng nhìn ông quan, bà quan đi. Rồi nó phục xuống nhìn vào nhà cho rõ. Ông quan và bà quan, nghe người trong nhà gọi thế – quan chỉ đứng hỏi han và cho quà bà Nhớn rồi ông quan nói phải về chỗ quan phủ bạn ông kẻo trời tối. Mẹ giở gói giấy đọc mấy chữ ở mảnh giấy con phía trong, lại cắn răng vào môi, nước mắt chảy giàn giụa hai má rồi gục đầu vào gốc cây mít nức nở khóc thầm. Mãi sau này thằng Hiếu mới đọc mảnh giấy có mấy chữ: “Bà lão nhà cô mất được gần một năm. Tôi đã vào làm việc hẳn trong sở Tây nên từ nay không thể gặp bất cứ ai. Cho cháu Hiếu năm đồng để sắm quần áo và sách bút đi học”. Mười lăm năm sau, nó đọc mảnh giấy cùng với quyển sách “hôm nay” của mẹ. Nhưng bây giờ thì nó không biết chuyện gì. Chỉ thấy mặt nó hầm hầm nhìn lão quan và mụ béo leo lên lưng ngựa. Và khi vợ chồng lão đi hẳn rồi, mẹ nó gào lên: “Ối mẹ ơi, mẹ ơi. Mẹ chết đi thì... ì... ì...ì...” Thằng Hiếu cũng ôm lấy mẹ khóc. Một lúc sau mẹ lau nước mắt, bỏ tờ giấy vào túi còn tiền thì cầm ở tay. Quỳ ở đầu giường bà Nhớn, đợi bà tinh tỉnh, mở mắt ra mẹ bảo: “Bà ơi con phải đưa cháu về kẻo tối. Con có năm đồng biếu bà. Gọi là thêm thắt để bà thuốc thang, đồng quà tấm bánh lúc ốm đau”. Bà Nhớn quờ quờ vào tay mẹ thều thào: - Gia cảnh nhà mày như thế bà chả giúp được gì thì thôi. Lấy ở đâu ra cho bà những năm đồng. Bà không lấy một xu nào đâu. Cầm về đong gạo cho con. - Bà ơi, độ này con kiếm được rồi. Bà cầm lấy cho mẹ con con được vui lòng. Bà Nhớn quyết ấn đồng tiền giấy như gí xuống lòng tay mẹ. Mẹ lật úp bàn tay để tờ giấy năm đồng “Đông dương” có hình người gánh quang gánh vào tay bà. Bà rụt tay lại, đồng tiền tụt khỏi tay rơi xuống chiếu cạnh bà. Mẹ đứng dậy nói: - Con về đây. Mấy hôm nữa phiên chợ củi, con lại thăm bà. Không thể ngồi dậy đuổi theo được mẹ, bà đành bực dọc lẩm bẩm những câu gì đấy, cả hai mẹ con đều nghe không rõ. o O o Có rất nhiều tin đồn đại về cô Đất sau gần chục năm mất tích lại trở về quê. Đã là chuyện lạ nhất định phải có tin đồn. Đã đồn đại, nhất định có sự thêm thắt, sai lệch. Nhưng tựu trung lại, toàn sự thêm thắt, bịa đặt có lợi cho cô. Trong ấn tượng của dân làng hôm nay, cô là người xấu số, không gặp may, tuyệt nhiên không ai nghĩ đến chuyện giăng gió của cô. Người ta tin điều ông tổng Lỡi nói ngày xưa là có lí: “Chính mắt tôi trông thấy nó đi với thằng lực điền, không biết người tổng nào, lạ lắm”. Ngay ngày ấy, những ông bà già nghiêm ngặt nhất với chuyện trai lơ cũng bảo: “Nó có mắc mớ uẩn khúc gì đấy. Một con bé như con Đất nhất quyết không có chuyện trai trên gái dưới. Ông chánh đã nói thế làm gì có sự sai ngoa”. Ngay cái chuyện to tát, có thật mười mươi nữa thì “Đồn ba tháng chứ ai đồn ba năm” huống hồ cái chuyện đã mười năm giời. Người ta đã quên cô rồi. Ai cũng yên trí cô đã chết. Chết vì sông nước, chết vì cướp bóc, ức hiếp, chết nổi hay chết chìm thì cũng là chết rồi, ai nhắc đến làm gì. Mẹ con cô trở về đột ngột như một người chết tự dưng sống lại, như từ trên trời rơi xuống. Cả làng cả tổng sững sờ mừng. Người ta tin vào những lời chị kể và hai con mắt đỏ hoe của thằng cu con khi nó nói đến bố nó chết, thì y như một triện đỏ chót đóng vào “bản khai” của mẹ nó. Nhưng các bác nó lại có vẻ không vừa lòng mỗi khi mẹ con nó nói đến cái ông bố “Việt Minh” mà chính nó cũng không thể biết là ai. Tất nhiên, chuyện mẹ con nó trở về, không ai có thể mừng rỡ hơn anh em, con cháu nhà bác Cu Từ, Cu Mỡ. Ngay hôm mới về bác Cu Từ đã để mẹ con nó về ở trong ngôi nhà mẹ đẻ, tức là ở nhà bà ngoại. Thằng cu Hiếu phải gọi thế. Anh Cu Từ, Cu Mỡ là trai mà để cho em gái ở lại trong ngôi nhà bố mẹ đẻ là trường hợp ngoại lệ với người nông dân ở làng Cuội, nhưng như thế nó càng chứng tỏ cái gia phong nề nếp của nhà cụ đồ Mục. Anh em con cháu còn đùm bọc, yêu thương nhau lắm mới đủ sức vượt ra khỏi cái lề thói không ai dám vượt qua, mới có chuyện các anh trai phải ra ở riêng, tự gây dựng lấy, còn em gái ở lại nơi thờ cúng tổ tiên. Ngày trước còn mẹ thì những ngày rằm, mồng một, giỗ chạp, tết nhất anh Cu Từ vẫn phải ra vào, hương khói. Sau khi mẹ và con trai anh mất đi, việc hương khói có phần sao nhãng. Vì anh Cu Từ buồn, sinh ra rượu chè. Anh giao việc thờ cúng tổ tiên cho em giai trông nom. Người ta đồn, ông Cu Từ không còn con giai nên có ngầm ý giao ngôi nhà thờ tổ tiên cho thằng Nạc con anh Cu Mỡ hưởng hương hoả. Việc cho mẹ con Đất trở lại ở nhà thờ tổ là trái khoáy nhưng lại là niềm hãnh diện của anh em ông Cu Từ, Cu Mỡ ngẩng mặt lên cho cả làng, cả tổng chiêm ngưỡng, coi như một mẫu mực của sự nhường nhịn, cưu mang. “Một giọt máu đào hơn ao nước lã”. Nhưng một tháng sau, ông Cu Từ đến chỗ em gái vào buổi tối. Ông đuổi thằng Hiếu đi chơi, đóng cửa lại hỏi em: - Có thật sự bố thằng Hiếu là Việt Minh không? - Dạ... Sao bác lại hỏi em như thế? - Cô có biết quan huyện sức cho các nơi phải lùng sục, tố giác Việt Minh như thế nào? - Nhưng bố cháu chết rồi. - Chết rồi thì cho nó chết, thương nhớ chôn vào lòng, không được giở giáo đến nó rồi mang vạ vào thân. Cô phải cấm tiệt thằng cu không được toe toét, chỗ nào cũng khoe: bố tao là Việt Minh đi đánh Tây. - Bác dạy thế em xin bảo cháu. - Cứ bảo nó, ai hỏi thì bảo tôi không có bố. Tôi không biết bố tôi là ai. Còn cô, có ai hỏi cô, cô cũng bảo: em đi làm ăn, đêm hôm khuya sớm ở nơi đồng đất người ta. Không may một lần bị thằng ăn sương nó đón đường. Cứ nói thế, không có tội vạ, xấu xa gì cả. Thời buổi này khối kẻ vụng trộm dan díu đã đứa nào chết. Mà cô có giăng gió đi nữa, cũng mười năm giời rồi, sợ gì. Đất ngước mắt nhìn anh. Nhưng đêm đặc như sắn được ấy, không cho cô nhìn rõ nét mặt của người anh trai, niềm sợ hãi duy nhất của cô khi quyết định trở về quê. Cô có ngờ đâu từ cái đêm bị cướp giật sự trinh trắng của người con gái, nỗi đau đớn, oán thù lão tổng Lỡi không bằng nỗi khiếp sợ các lề thói gia đình. Nếu chỉ là nỗi oán thù cô có thể xuống sông, xuống đầm Cuội mà chết cho hết nợ. Nhưng sợ nó để lại tai tiếng cho mẹ, cho các anh, cô không dám xuất hiện bất cứ một ý định liều lĩnh nào. Sau những ngày đầu đau đớn kinh hoàng khi gặp Lỡi, cô cũng khao khát một cuộc đời được làm vợ, làm mẹ như tất cả những người con gái sinh ra ở làng Cuội. Nỗi khao khát của cô được chiều chuộng vuốt ve và hứa hẹn, được đôi bàn tay mũm mĩm xoa dịu êm ấm, được ghì riết lấy sự sung sướng, nó làm bật dậy tất cả sự liều lĩnh mà ở ngoài cuộc ai cũng có thể chê bai nguyền rủa, đến khi vào cuộc đều ngu si, mù quáng như nhau. Nó lớn lao đến nỗi hàng triệu triệu lời răn dạy, phán bảo và bao nhiêu sự kiềm toả, vây bủa, phòng ngừa vẫn cứ bị bất lực, vẫn cứ bị quên lãng trước cái quy luật nhàm chán cũ kĩ, để cô nhanh chóng quên đi rằng mình là con nhà hiền, mình còn có mẹ già. Cô đã bất chấp tuổi tác, bất chấp sự “thu xếp” ra sao, bất chấp rừng núi âm u hiểm độc để trở thành liều lĩnh, thành kẻ bất hiếu, thành kẻ lưu lạc, bơ vơ. Cô đã thành cái xác ve chờ đợi mòn mỏi và hi vọng lại có một “mùa hè” để con ve lại rút ruột mình kêu râm ran inh ỏi điếc tai thiên hạ mà cứ tưởng là hay ho, chỉ có mình mới đủ sức kiên trinh làm nên sự cực kì, ít ai lường tới. Cô đã trở thành kẻ suốt đời ân hận về sự dối trá nhưng không bao giờ muốn làm người thành thật với lỗi lầm của mình. Mong ngày, mong đêm cái giây phút dắt đứa con đi cạnh chồng giữa thanh thiên bạch nhật, rốt cuộc cứ phải trốn lủi cả người quen lẫn người lạ, cả ánh mặt trời và giật mình với cả tiếng lá rơi. Để rồi sau khi ông tổng lên thăm bà Nhớn, mấy chữ của ông như những lưỡi dao chém vào niềm hi vọng cuối cùng của cô về một đứa con có bố. Cô trở thành... thành hai bàn tay không đen đúa cào vào bóng đêm dày đặc ở góc rừng La Hiên mà than rằng: “Ối giời đất ơi! Tôi có độc ác, đâm chém gì ai, mà ông giời đày đoạ tôi đến thế này...”. “Ơi mẹ ơi, sao mẹ không cho con đi theo mẹ, để con sống làm gì chốn này... để con là kẻ bội bạc lừa dối mẹ, mẹ ơi ời... ờ... ơ...”. Chị cắn răng dắt con về quê cốt cho con có chỗ nương tựa, bấu víu vào họ hàng, để đêm khuya thanh vắng chị ra đầm Cuội, hay là ra sông Cái: “về” với ông bà, bố mẹ cho thoát cái tội trầm luân. Không ngờ... có hai sào đất hương hoả năm ngoái khi mẹ mất hai bác Cu Từ, Cu Mỡ chia đôi để mỗi người đều có phận sự đóng góp giỗ tết. Hai bác đều “cho cô làm nuôi cháu, việc gia tiên chúng tôi khắc lo”. “Em thật lòng chả biết nói thế nào với các bác”. “Thôi. Vẽ. Cứ lo cho cháu nó bằng anh, bằng em. Thằng bé nó nhanh nhảu, lễ phép lắm. Thế là ngoan”. Những ngày mới về các anh đã che chở, đùm bọc cho mẹ con khỏi bơ vơ, đói khát. Bây giờ anh cả, một ông anh lúc nào Đất cũng sợ hơn cả bố mẹ lại cứu cho em gái khỏi nỗi giằng xé ruột gan rằng mình là một con người lừa lọc, gian dối. Nhưng ở đời thật lắm nỗi ngược đời. Lúc nói dối thì ai cũng tin. Bây giờ nói thật lại chẳng ai nghe. Cả làng ai cũng quả quyết không bao giờ chị Đất lại để xảy ra chuyện như thế. Những thằng cướp đường cướp chợ, ăn sương ăn gió có xé người chị ấy ra làm năm làm bảy chị ấy cũng cắn lưỡi mà chết không để cho chúng làm càn. Chắc ngại có chồng là Việt Minh chị ấy phải nói tránh đi như thế. Ngày ấy cái chữ Việt Minh đối với làng Cuội vừa hãi hùng, kinh sợ vừa kính trọng, thèm khát, vừa ngại ngùng giây đến nó lại vừa muốn được gặp gỡ nói năng vụng trộm. Đất là niềm kiêu hãnh của làng xóm và là chỗ dè chừng của đám người có chức sắc trong làng, trong tổng. Những người đàn bà, cả già, cả trẻ và lớp bạn bè của chị nay xấp xỉ tuổi ba mươi thì hầu như không ai để ý đến chuyện ấy. Cái ấn tượng về chị một con người dịu hiền, nết na, biết nhường em, kính chị vẫn giữ nguyên ở mọi người. Thế là ở chỗ nào có chị là cũng có chuyện trò ríu rít, cười đùa tung toá. Tuy bệnh tật những ngày con nhỏ, ăn uống kham khổ và làm lụng vất vả nhưng cũng do tần tảo, kiếm củi, chạy chợ mà người chị nở nang. Từ khi về quê đến nay, lúc nào cũng tươi tắn, trông lại nhuận sắc ra. Sang tháng tư. Trời nắng hầng lên. Các cô, các bà lại tắm ùm ùm ở đầm Cuội. Những người bạn cũ của chị hầu hết đã có chồng, có con nhưng vẫn hồn nhiên nô nghịch tí tởn “sờ tí” chị Đất như ngày nào: “Eo ơi, vẫn còn mẩy. Mà to ơi là to. Tiếng là “gái một con” chả bù cho chúng em cứ nhằng nhằng kéo xuống như cái dây chun giắt vào cạp váy thế này”. Có cô táo tợn hỏi: “Chị ơi, Việt Minh thế nào hả chị. Khi “ấy” chị, ông ấy có bóp ngấu nghiến vào hai quả bầu này không?”. Mặt chị đỏ rần rật, hơi cúi xuống thẹn thùng. Bắt gặp cử chỉ như là ngượng, như là buồn ấy, cô gái tuế toá liến thoắng: “Cái lão nhà em cứ mỗi lần “ấy” nó lại xoắn xuýt, bóp nặn rối rít làm em vừa sướng, vừa đau. Có lần em sướng quá chửi: “Ối anh ơi. Tiên sư bố anh. Em đau quá. Sướng quá. Ấy cứ bóp đi, lấy răng mà cắn vào đấy, nhưng nhè nhẹ thôi. Như thơm vào ngực ấy. Giời ơi. Tiên sư nhà anh, anh ơi có giã được cối nữa cho em không? Ối giời ơi, là giời ơi. Tôi đang ăn đến miệng sao lại giật lấy của tôi... ôi ôi”. Tất cả đám cười ré lên mắng té tát cái cô bạn nanh nọc. Nhưng không có nó thì không thể vui, cũng như không có chị Đất thì lúc nào cũng trống trải. Đêm ấy là đêm đầu tiên kể từ ngày đưa con về làng, Đất không thể ngủ được. Một câu đùa rất hồn hậu của bạn lúc chiều cũng làm chị nhói đau và nó vò xé lòng chị suốt đêm. Chị đã đánh đổi những ngày ê chề khốn đốn để được sum vầy đầm ấm bằng cách hạ nhục người khác? Một người Việt Minh bỏ nhà lại cho chị, và đã chết. Một người sống đã từng cứu con, cứu mẹ khỏi cơn hoạn nạn, kẻ cả giặt những bộ quần áo bẩn thỉu của chị khi chị mắc bệnh hậu sản. Đem tên tuổi linh thiêng của người đã khuất cộng với ơn nghĩa của người còn sống để lấp đầy tội tình của tổng Lỡi đổ xuống người mình? Việt Minh là gì? Chị đâu có biết. Chỉ thấy mấy lần bà Nhớn thì thầm. “Đừng nói ra. Mất đầu như chơi. Việt Minh là người đằng mình. Mai kia Việt Minh lên là dân chúng không bị cùm kẹp giam hãm, không còn đói rét như bây giờ đâu”. Cái tiếng Việt Minh còn thì thào sợ hãi chỉ mấy năm sau khi Nhật về bắt dân nhổ ngô trồng đay thì đêm đến dân làng Cuội tụm năm túm ba bàn tán xôn xao là trên mạn ngược Việt Minh đã kéo cờ đỏ sao vàng đi giữa ban ngày. Chả mấy mà tràn về đến đây. Bao nhiêu anh Nhật lùn, anh Tây mũi lõ là phải chuồn hết cho mà xem. Cái tin Đất có chồng là Việt Minh bị Tây bắn chết bây giờ làng xóm lại thì thào. Và mấy tháng sau ông Cu Từ trở thành nòng cốt của Việt Minh chỉ vì đã có người em rể đi Việt Minh bị Tây bắn. Mỗi lần bắt gặp những cái nhìn vừa thán phục vừa âu yếm của mọi người, Đất chỉ thấy sượng sùng. Chị không ngờ mình đã trót gian dối với cả cái việc tày đình như thế. Càng chối, càng xấu hổ, chị em, bà con, lại càng quý mến cái tính khiêm nhường, kín đáo của chị. Đến bao giờ mình mới không là kẻ ăn cắp tấm lòng ngay thẳng, thật thà của bạn bè, làng xóm! Một nỗi xót xa âm thầm lại vò xé chị. Nhưng... Rồi lại không ngờ. Cả cuộc đời chị cho đến hôm nay vừa tròn ba mươi tuổi, toàn là những chuỗi dài của sự không ngờ. Chị không ngờ lại có một cuộc đời thực trở lại với chị. Một hạnh phúc thực sự như từ trên trời rơi xuống đậu vào nỗi mong đợi thầm vụng của chị. Như là một giấc mơ. Còn hơn cả một giấc mơ. Chị sẽ có chồng. Chắc chắn con người thật thà ấy sẽ là chồng chị. Một anh Việt Minh đã đến với chị mà mối tình rụt rè, quê mùa của cả hai người lại bắt đầu bằng một cuộc tình thơ mộng, mênh mang ngay ngõ nhà ông Cu Từ, chỗ nước ngập rập rờn đến ngang vai. CHUYỆN LÀNG CUỘI Lê Lựu dtv-ebook.com Chương 4: Chuyện Tình Thứ Hai Ông Cu Từ vẫn nói: Có là thằng vong ân bạc nghĩa đem cuốc mà cuốc mả bố, mả mẹ nó đổ xuống sông Cái thì cũng không thể vô ơn cái ngày ấy của người ta. “Ngày ấy” chính là ngày ông cầm cái loa sắt tây của các đồng chí Việt Minh hô hoán (đúng ra là: hô hào). Chính ông hô hoán dân làng ra tập trung ở đình làng Nhằng. Chỉ được cầm cái loa sắt tây của Việt Minh, nói mấy tiếng “A lô, A lô, thưa toàn thể đồng bào chú ý, chú ý” do anh Việt Minh bảo, ông coi như mình là người đầu tiên của “ngày ấy” đứng ra khởi nghĩa ở cái tổng này. Sau này hễ động nói đến cái gì ông đều tìm cách nói đến “ngày ấy”. “Ngày ấy” có thể là cả tháng, cả năm, thậm chí đến dăm bảy năm. Nhưng chỉ cái gì có liên quan đến “ngày ấy” là nhất. Còn “ngày khác”? Có ai nói đến “ngày khác” ông bảo là: “Vứt!” “Ngày ấy” trước khi Việt Minh về các ông già bà cả bảo hàng trăm năm đổ lại đây mới lại có nước to và ngập lâu như thế. Cả vùng ngoại bối thuộc tổng Cuội chỉ chừng vài chục nóc nhà có sức vật đất ao đắp nền nhà cao như đắp bờ thành thì ngập lưng lưng còn đại trà phải ngập đến ba, bốn cây đòn tay. Riêng hai làng Cuội Trung, Cuội Hạ ngập bủm. Những ngọn tre cũng chỉ còn lơ phơ, thuyền thúng, bè chuối vè vè đi thông tuông trong các vườn, ngõ mới mấy ngày trước còn um tùm. Thỉnh thoảng còn vài ba cụm tre mắc mứu vào nhau nhô khỏi mặt nước, là nơi tụ đọng của cặn rác, chuột bọ, rắn, rết, cả những con sống thập thò và những con chết trắng phễnh, nổi lều phều cứ rập rình theo sóng cuốn lấy bờ tre trông như một vòng tròn túm lấy nhau nhún nhảy múa tập thể. Hàng trăm bè chuối và thuyền thúng líu ríu vào nhau quanh đình làng Trung và miếu ông Cuội, nước mấp mé mái ngói. Tất cả thuyền bè, thúng câu vừa là những “ngôi nhà” che mưa, che nắng vừa là phương tiện đi lại, chợ búa, đánh cá và kiếm củi. Trên những bè mảng bằng cây chuối, bằng tre nứa ghép lại lềnh bềnh ở mặt nước này vẫn hiện lên rõ rệt cái xã hội làng Cuội từ thuở cha sinh mẹ đẻ. Nhà phong lưu giàu có thì có thuyền, có thúng to cập kè bên một bè chuối cũng to, như là để cho oai, như là cái tiền sảnh để lên xuống thuyền thúng, chứ không dùng để đi lại. Người ngăn nắp thì chỉ có bè chuối nhưng cũng đặt cái tấm phản hoặc chõng trên bè và có mui che, dù bằng lá cau, lá chuối, chiếu rách, nong nia, gì gì thì cũng buộc bịu gọn ghẽ tươm tất phân chia rõ ràng một đầu làm bếp núc, còn đầu kia để ở và có cả “cầu tõm” ở phía ngoài mui cũng được che đậy cẩn thận. Người khôn ngoan, láu cá hoặc có vây cánh, hoặc chầy bửa vào loại sừng xỏ thường bám vào cái cột trụ cửa tam quan của đình, của miếu, hoặc quanh những cây gạo, cây đa trên gò đống, còn người chậm chân kẻ yếu đuối và đần độn thì ở ngoài mép sóng, chấp chênh nghiêng ngửa trước mưa to, gió lớn. Chả có bề thế, chả có của nả lại ríu rít con đàn tay xách nách mang thì cứ tuềnh toàng được chăng hay chớ. Có mấy cây chuối ghép lại chẳng che đậy cũng không kê đệm, ăn đâu, ỉa đấy. Mưa, dúi dụi vào nhau úp cái mẹt, cái thúng lên đầu. Gió, bão ăn ngồi, ngủ ngồi ôm ghì lấy nhau, ôm vào những thân cây chuối trơn chuội, ghì lấy cây xào neo bè để khỏi vỡ ra, tan đi. Rồi thì cũng qua hết. Cũng đủ sự cãi cọ, đánh chửi, quát hét, mắng mỏ, tiếng khóc, tiếng cười om som, rộn rã. Cũng hú hí ân ái chao đảo trong lòng thuyền thúng, trên các bè chuối bập bềnh chìm nổi. Cũng có những đứa trẻ được hình thành hoặc đã đủ ngày đủ tháng mà tòi ra. Thế là cuộc sống lênh đênh lại đỡ lặng tẻ hơn chỗ ở khô ráo bình thường. Ở đây cả làng đều giáp mặt nhau, đều nhìn rõ ruột gan nhau cũng tồng tỗng như thân thể tất cả những người đàn ông suốt ngày lặn ngụp tợp tạp trong nước khiến cái bao đựng hai “hòn giống” săn rón lại, đen như cục cứt chó. Ở đây có những người đàn bà gào thét, lăn lộn vì tiếc của, thì lại có những người đàn bà khác giấu một nụ cười thầm: “Cha đẻ mẹ nó, thế mới đáng kiếp. Keo kiệt, bủn xỉn cho lắm vào. Đúng là giời có mắt”. Ấy là khi những người giàu có giữ của như giữ mả tổ trong những kiệu, những chum vại, vò, ninh ních ngô, đỗ, vừng, kê để trên gác, không ngờ nước lên nhanh như tát, ngập băng hà không tài nào chạy kịp. Ngô, đỗ trong chum, trong kiệu cứ trương lên, phá vỡ vỏ đựng đổ ộc ra như chủ nó hộc máu, trong “thanh phần” dưới nền nhà. Những người túng bấn không có lưng ăn dư dật, chỉ vài hôm đã cạn. Họ đã phải đi lặn ngụp cắt trộm những buồng chuối ngập nước, những con gà, con ngan bị rắn cắn, mang về xào nấu, vợ chồng con cái xì xụp hối hả. Khi có tiếng khóc than của người mất của thì họ cũng mẩm bụng mừng thầm mình đã có cái ăn qua ngày. Đêm đến họ lặng lẽ bơi tay không hoặc dùng một đoạn chuối bơi đến những nhà khá giả, nậy liếp chui vào bốc cả ngô, cả bùn đầy trong hai ống quần hoặc cái túi, cái nải gì đó dìu về dìm dưới bè chuối vớt dần lên, rang, nấu. Cái của giời ơi ấy không bốc lấy cũng nhũn ra, thối như cứt, nước rút đi lại phải gò lưng trang, cào, quét tước, thế mà họ vẫn tiếc, vẫn phải để nguyên đấy không ai được đụng đến. Kẻ khác đụng đến là thấy đứt ruột, đứt gan ra làm năm, làm bảy. Nhất là lại mục kích thấy kẻ nó lấy của mình về rang nấu cả vợ chồng con cái nhà nó thoả chí, sung mãn ngay trước mắt mình thì đau xót, uất ức gấp trăm, gấp nghìn lần cái việc nó cứ lặng lẽ chìm ngập, và vữa ra, mà thối inh ỏi. Để đấy nó có thối hoăng, thối hoắc không thể nào ngửi được thì vẫn là của mình. Công sức, mồ hôi, nước mắt mình đổ ra thì mình phải có quyền, dù là cái quyền phải ngửi, phải tốn công tốn sức, tẩy rửa nó thì vẫn là có quyền. Kẻ khác lấy đi là mất. Dù là mất cái thối tha, mất cái vất vả thì vẫn là mất. Cái nhẽ của người nông dân làng Cuội này từ xưa đến nay vẫn thế. Vậy mà có kẻ dám vụng trộm đêm hôm phá nhà, cướp của của mình. Bởi thế mới có những lời nói xa xôi, “mát mẻ”, những lời chửi cạnh khoé để dẫn tới những trận xô xát, ẩu đả, đẩy, đạp nhau ngã ùm ùm. Có nhà lật cả bè làm vợ chồng, con cái, nồi niêu bát đĩa úp xuống nước. Có nhà vác dao bầu chém nhau, máu đỏ loáng mặt nước. Những lúc ấy người ta đều gào đến ông Cu Từ. Hồi ấy chưa có nhiều người sống dai như bây giờ. 50 tuổi đã lên lão, nên Cu Từ mới 47 tuổi đã được gọi là ông từ năm bảy năm nay. Ông Cu Từ có cái uy của một người táo tợn sẵn sàng sấn sổ lao vào bất cứ chỗ nguy hiểm nào. Ông cũng là người biết “tề gia”. Anh em, con cháu biết kính trên, nhường dưới đâu ra đấy. Ông có lòng thương người và sống sòng phẳng. Một điều không kém phần quan trọng nữa là, ông có cô em gái đã ba mươi tuổi và có con nhưng vẫn thừa sức, để tất cả những đàn ông trong làng phải nể mặt ông anh giai. Hoặc bằng tất cả những cái đó hoặc chỉ một vài lần ông dẹp “yên” những vụ ẩu đả dữ dội là ai cũng sợ cái “uy” của ông. Cho nên, hễ chỗ nào có “ối làng nước ơi...” mà người ta không can nổi là phải cho người đi tìm ông Cu Từ. Ông Cu Từ ý thức được cái oai của mình và sự tin yêu của làng xóm nên không đám nào ông từ chối. Khi biết tin thì ông “đi” rất vội vàng vì sợ chậm nó xảy ra to hơn. Lúc đến nơi, ông lại hững hờ, như là dửng dưng, như là khinh bỉ, mặt ông lạnh tanh. Có chỗ ông cứ im lặng, mà kẻ trong cuộc đã phải tự tan ra. Có chỗ ông chửi: “Đ. mẹ nhà các anh không biết nhục hả? Đang lúc khốn khổ, khốn nạn thế này không biết cưu mang, đỡ đần cho nhau lại còn cắn xé, chém giết lẫn nhau. Có giỏi sao không đi tranh giành với bố con ông tổng Lỡi có hàng chục cơ ngơi. Từ Hà Nội, Hải Phòng đến khắp phủ, khắp tổng, này chỗ nào chả có ấp, trại, cơ man nào là thóc gạo, tiền của. Lúc nó nằm chỏng dái lên hút hít thì mấy thằng dân áo rách, (có đến hàng chục chum ngô thì vẫn là dân áo rách) suốt ngày ngâm nước, mặt thâm như dái chó lại hục hặc đánh lộn, đâm chém lẫn nhau. Có cút đi không?!...” Có chỗ ông lại dịu dàng từ tốn: - Em vẫn phục bác là người biết nín nhịn. Cớ sao hôm nay bác đi làm cái việc không ai có thể trọng bác được. - Tôi đếch cần ai trọng vọng. Của tôi... của đau con xót... - À bác nói bậy hả? - Tôi bậy đấy đã thằng nào làm gì tôi? - Tôi vặn cổ bác ngay bây giờ đây. Ông kia có vẻ tỉnh ra. Đấu dịu: - Nhưng mà ông đã biết nó đểu với tôi như thế nào chưa? - Không biết, rồi tôi sẽ biết. Thằng kia! Đứng im, không ông đánh bỏ mẹ bây giờ. Thế là im. Dù tạm thời hay lâu bền thì trước mặt ông Cu Từ cả hai người cứ phải im lặng hầm hầm nhìn nhau mà quay đi. Dẫu sao cái sự “ngô thối” có om sòm tai tiếng đến đâu thì cũng phải tan đi trước hai cái chết chỉ cách nhau có một tuần. Người đầu tiên là cháu bé lên bảy tuổi, con của Thó, em họ xa của anh em ông Cu Từ, ông Mỡ và Đất. Nó bị cảm lạnh vì đói và ngâm nước nhiều. Nó nằm ở đầu bè chuối, chết từ tối hôm qua hoặc lúc nửa đêm gì đấy. Bố mẹ nó có tám đứa con “năm một”, lít nhít, còm cõi và cứ bẩn bẩn, tanh tanh như nhau. Bẵng đi một chốc không đếm cẩn thận là thiếu như chơi. Chuyện ấy vẫn thường xảy ra. Nhưng cái lần “quên” này đúng vào cái ngày mẹ nó phải ngồi canh từ sáng sớm và cứ mươi lăm phút lại phải đếm một lần. Lúc chập tối mẹ nó mải đãi ít ngô bố nó vừa đi “kiếm” được để cho cái Nhất rang. Chưa kịp chín, chúng nó đã đứa dưới nước, đứa trên bè xô vào cướp. Bố nó vừa chửi vừa quát và cầm điếu cày định quật, chúng nó mới ngồi yên đợi con chị đổ ra. Trước khi chúng nó tranh cướp nhau bố nó đã cẩn thận quát: - Xem đủ chưa đã. Tất cả chúng nó đều chỉ tay lên đầu nhau, mồm lẩm nhẩm đếm rồi lao nhao đáp: - Đủ. - Đủ rồi. Không ngờ lại thiếu thằng Bốn (Tên của chúng là: Nhất, Nhì, Ba, Bốn...). Mẹ con Đất ở cùng bè với nhà bác Từ. Bè của bác Từ ríu sát bè nhà Cu Bốn ở phía bên phải. Mới bảnh mắt, ra khỏi lều Đất đã trông thấy thằng bé trần như nhộng nằm cứng đơ ở cuối bè nhà mình. Chị vừa hét lên thất thanh vừa nhào ra bên nó. Ông Cu Từ nhảy ra, làm bè nghiêng chìm đi. Nếu không một tay giữ được sào chống, một giữ thằng bé thì cả Đất và nó chìm xuống nước. Ông Từ chộp lấy thằng bé tím bầm lại chỗ bè chuối. “Hỏng rồi”. Nó bị đói và cảm lạnh từ lúc nào? Ông đau đớn đặt thằng bé ngay ngắn rồi vuốt mắt cho nó. Đứng dậy gạt nước mắt, ông bảo Đất vào nhà nấu bát cơm và hỏi xem ai có trứng vay lấy một quả. Ông lầm lầm bước sang bè ông em họ. Cả chín, mười con người lớn bé vẫn chúi đầu trong cái nong úp, chân thò ra ngoài ngáy ran không hề biết giời đất, gió mưa là gì. Ông túm chân người bố giật dậy. Anh ta giật mình chui đầu ra khỏi nong. Mở mắt trông thấy ông Từ, liền cười cười: - A bác. Mời bác ngồi ăn thuốc. Ông Từ quát: - Xem lũ trẻ có đủ không? - Có chuyện gì thế bác? - Đếm quàng lên xem chúng nó có đủ không? Anh quay lại lật cái nong ra. Đám trẻ nằm ngả ngốn như giun cuốn vào nhau ở chân đê. Bỗng anh kêu: - Thiếu. Mẹ mày dậy xem thiếu đứa nào. Thiếu thật rồi... ồi... Ông Từ chỉ tay phía cuối bè nhà mình lạnh lùng: - Nó nằm đằng kia kìa. Chết rồi. Đẻ cho lắm vào để nó sống chết lúc nào không hay. Người bố hốt hoảng, bước chập chờn, xiêu vẹo đến chỗ xác con. Đất đã lấy cái khăn vuông đen của mình phủ lên người nó rồi lẩy bẩy cắm ba nén hương vào thân cây chuối. Bà Cu Từ đã ngồi xổm chắp tay lẩm nhẩm khấn từ lúc nào. Người cha của đứa bé quỳ xuống bế xốc lấy con ôm nó vào lòng, mặt anh gục vào mặt nó, người rung lên “à... ặc... à...”. Tiếng khóc của anh như tắc nghẹn trong cổ họng. Cúi lầm lầm ở phía sau cha con anh, đợi cho anh khóc một lúc lâu, ông Từ lấy tay áo quệt vào mắt, nói như ra lệnh: - Thôi! Đặt nó xuống đấy còn lo chuyện khác. Người cha của đứa trẻ biết rằng ông Cu Từ nói đến chuyện chôn cất cho con mình. Anh đau đớn giao đứa con cho vợ anh đã nằm lăn trên mặt bè chuối, ướt đầm quần áo. Khi người vợ như vồ quào lấy đứa con, anh nằm úp mặt xuống bè chuối, đã chìm dưới mặt nước. Ông Cu Từ phải quát mọi người tản ra các bè khác. Bè chuối mập mờ nổi lên. Tiếng khóc của anh Thó từ “ục ục” sang “ậc... ậc”. Anh cũng không hề biết mình đang nằm dưới nước hay đã ở chỗ khô! Ông Cu Từ vẫn cau có ngửa mặt lên giời. Đêm qua ông nằm nhìn về hướng đông, hướng chùa Thộp nhay nháy chớp khan ông đã biết nước còn lên to, nhanh như tát. Cữ này phải ba bốn năm ngày sau nước mới đứng. Rút nhanh thì cũng phải ba bốn ngày sau may ra đất Cuội Thượng mới có chỗ phơi ra. Đúng như nỗi lo đau đáu từ đêm của ông Từ, nước vừa đứng chiều qua, sáng nay lại bắt đầu lên. Hai ngày sau, xác của cháu bé vẫn còn nằm trên bè chuối cùng cha mẹ và anh chị em nó. Không thể để nỗi tang thương cứ phơi dưới nắng, dầm trong mưa ngâu, và cứ bốc mùi nặng thêm trước hàng nghìn con mắt thương xót có, khiếp đảm và rờn rợn có. Sang ngày thứ ba ông Từ quả quyết: - Phải cho nó “đi” thôi. Bố mẹ cháu sụt sùi: - Chúng em cũng nghĩ thế. Nhưng bằng cách nào. Thôi thì trăm sự nhờ bác. Đôi đũa bông kẹp quả trứng luộc cắm lên bát cơm đặt cạnh những nén hương cháy nghi ngút ở phía đầu thi hài cháu bé đã được bó chiếu. Cái bè chuối con con, như một chiếc chõng nhỏ, như là một cái xe mui trần kiểu xe đi duyệt đội danh dự của các nguyên thủ quốc gia, lại như cái bệ đại bác đặt quan tài của các nguyên soái, được buộc vào cái thuyền nan của ông Cu Từ bằng chiếc dây thừng mới. Hàng chục người đứng trên bè nhìn ông Từ phải trằn người ra ôm giữ bố mẹ cháu, chỉ chực nhoài xuống nước để “đi” cùng cháu. Bảy đứa anh chị em nó được chia ra bảy bè để có người kìm giữ tiếng kêu gào lăn lộn của chúng. Mấy trăm con người cả đàn ông, đàn bà, người già, trẻ con của làng Cuội đứng trên bè chuối, trên thuyền thúng, nín lặng lau nước mắt nhìn ông Cu Từ bơi chiếc thuyền nan như cái lá tre kéo chiếc bè chuối như trôi, trôi mãi đi. Cái quần thể bập bềnh trên các thuyền, bè, thúng mủng như những sinh vật biết nói, biết kêu, biết khóc sống vất vưởng rất vô lí, giữa mênh mang đồng nước không biết đâu là bờ, bến, đứng nhìn và dường như ai cũng lặng đi trước cái thực rất vô lí. “Tại sao mình còn sống? Như thế này mà gọi là làng xóm quê hương ư?” Càng ra xa, nước xoáy càng mạnh. Ông Từ rạp người miết tràng bới ra cả hai cánh mới lôi được bè đi. Đến giữa đầm Cuội từng vòng xoáy hút xuống tận đáy đầm sâu hàng chục mét. Nhìn xung quanh, tứ bề nước mênh mang cuồn cuộn chảy, chợt nhớ đến giữa lòng đầm đã từng “hút” hàng chục người cả trẻ con và người lớn, tóc gáy ông dựng cả lên. Sống lưng thì lạnh toát mà mồ hôi lại toá ra đầm đìa. - Cháu ơi. Sắp ra đến sông rồi. Để bác đưa cháu đi cho dài, rộng mát mẻ. Ở lại cái đầm Cuội tù túng này làm gì. Ông cố sức sải hai tay gấp gáp miết bơi để át hai đầu gối đã hơi run run. - Thằng Bốn có khôn thiêng thì phù hộ cho bác để hai bác cháu ta “lên” được bờ đầm, nào. Thôi đừng “đùa” bác nữa, cháu ơi không may cháu nằm xuống, bác có bụng dạ nào để chia lìa cháu với bố mẹ, anh em, với xóm làng đâu. Bác xin cháu “đừng đùa” chỗ đồng không mông quạnh này bác sợ lắm. Nào cho bác “lên” nào. Bác, lạy cháu. Lạy cháu. Lạy cháu Bùi Văn Bốn của bác. Chiếc bè đã xoay dọc theo hướng mũi thuyền nan để cho ông kéo đi được nhẹ hơn đưa cháu ra sông, đến gần dòng chảy xiết ông ghìm lại. Vừa cởi dây thừng buộc ở thang mủng ông vừa lẩm bẩm: - Lạy vong hồn cháu Bùi Văn Bốn sống khôn, chết thiêng, đánh chữ đại xá cho làng Cuội khốn khổ, khốn nạn này cũng vì nước sông to quá, làng lụt ngập băng hà không lấy đâu ra một tấc đất để cháu nằm yên nghỉ mà cháu phải lênh đênh không cửa, không nhà, không làng, không xóm, không người thân thích ruột rà lưu lạc nơi đất khách quê người thế này thì cực khổ lắm cháu ôi. Lật bật cởi xong dây, một tay ông lựa tràng bơi, một tay kéo bè bát thêm ra một chút nữa. Không hiểu để nói với cháu hay nói cho mình yên dạ hơn. Miệng ông vẫn lẩm bẩm: - Cháu ơi. Cháu đi xuôi đằng này thấy chỗ nào cao ráo, cháu dạt vào để người ta đưa cháu lên bờ, để cháu khỏi dầm mưa, dãi nắng, để khi nào nước rút bố mẹ cháu cùng bà con họ hàng đi theo bờ sông này xem nơi nào người ta làm phúc chôn cất cháu thì bố mẹ cháu mới sửa sang cho cháu mồ yên mả đẹp cháu ơi. Ôi cháu ôi! Ông cầm sợi dây thừng giữa hai bàn tay chắp lại vái cháu ba vái rồi từ từ buông dây ra. Sợi dây rơi xuống nước trôi theo bè, ông Tư ghìm cho chiếc thuyền nan dừng lại, hướng múi theo chiếc bè đang lập lờ. Bỗng ông rùng mình nhắm mắt lại vì một vòng xoáy nào đó ở giữa dòng đã làm cho chiếc bè hơi chúi đi. Ông không dám nghĩ đến đoạn cháu đi tiếp sẽ còn những vòng xoáy, những trận mưa gió to sóng lớn nào? Thế là ông lại nhắm nghiền mắt, quay mũi không dám nhìn vào manh chiếu bó thi hài cháu ở trên bè đang bập bềnh, bập bềnh trôi đi... o O o Cho đến một tuần sau, chưa hoàn hồn về cái hôm đưa thằng cháu “đi”, ông lại phải đứng ra mai táng cho bố ông Thống Bứt, bạn ông. Đã có một hồi Thống Bứt theo đuổi cô Đất nhưng cô ấy ngủng ngẳng ngoải ra. Thống Bứt ngượng không đi lại mất mấy năm. Sau rồi xin nhận là “em rể hụt” của hai anh Cu Từ, Cu Mỡ và Thống Bứt đối xử với hai anh như là anh vợ thật. Đám ma bố Thống Bứt không âm thầm lạnh như đám ma của cháu bé mấy ngày trước đây. Ông “nằm xuống” đúng vào ngày nước bắt đầu rút. Sau ba ngày thì chỗ đê quai đầu làng Cuội Thượng đã nhô mập mờ một khoảng đất rộng bằng hai chiếc chiếu. Dẫu chỉ toen hoen vậy, vẫn là có tấc đất để chôn, không phải thả trôi sông. “Thật là may quá là may. Nhà cháu còn đầy hồng phúc”. Thống Bứt nói với dân làng như thế. Bán con gà, con chó đi còn thấy trống trải buồn, huống hồ bố chết, sao lại “may, quá may”. Quả là Thống Bứt không thể giấu giếm được nỗi vui sướng bất ngờ trước cái chết đột ngột của bố mình. Sự may mắn vì lẽ “cái lẽ không bao giờ ông nói ra được nhưng xem ý dân làng đều biết cả.) Ông cụ đã 91 tuổi, liệt cả hai chân mà cứ phải chạy ăn đủ hai bữa vào lúc này, thật như một cái hoạ lớn. Dẫu chỉ ngô bung hoặc bánh đúc cũng bằng ngô trong khi con cháu lặn ngụp mò mẫm suốt ngày cũng chỉ mỗi bữa vài rúm ngô rang cầm hơi. Thế là chật vật lắm. Không chạy đủ ăn cho cụ, con cháu mang tiếng bạc. Lạy trời lạy phật, trời bắt cái chân cụ liệt đã năm năm nay. Hai mắt cụ bị mộng thịt trùm kín cả lên lòng đen, lòng trắng, không còn thấy gì. Đầu cụ ngoẹo lả đi, đặt đâu để nguyên đấy. Nhưng giời lại bù vào sự thiệt thòi ở các bộ phận ấy bằng cách cho cụ cái dạ dày thật hảo hạng. Nó làm việc cần mẫn liên tục suốt 91 năm không mệt mỏi, đến giờ vẫn tiêu thụ mỗi ngày một bát ô tô ngô bung vào buổi sáng và hai bát yêu tàu bánh đúc đầy giàn ra xung quanh vào buổi chiều. Cái môi đã cứng đờ và hàm răng thì chỉ trơ lại tí lợi khi nói cụ cứ rung rung phều phào mãi không rõ một câu nhưng cụ ăn lại rất nhanh chỉ sợ con cháu nó vồ giật mất. Cụ lại hay dỗi, lại giận rất dai. Chấp nhặt đủ thứ. Hồi còn trai trẻ, con cháu có lầm lẫn, sai sót gì cụ chỉ cười hoặc nghiêm mặt lại bảo: “Thôi cấm, không được thế nữa”. Bây giờ thì bất cứ điều gì làm phật ý cụ cũng chết. Các rãnh ở mặt cụ đều tím lại, giật giật. Có xuống lỗ cụ cũng còn để bụng mang theo. Thật ra thì, bất kể ai, rồi cũng phải đến tuổi già yếu, cũng có chặng ốm đau rầm rề. Con cháu phải hầu hạ, cứt đái, phải nâng giấc sớm hôm. Phải giành giật với thần chết từng phút sống còn của ông bà, cha mẹ dù biết rằng trước sau rồi ai cũng chết. Đấy là cái thời điểm bộc lộ thành thật nhất nhân cách, đức độ của kẻ làm con, làm cháu. Không thể có lòng kính trọng, yêu thương người khác ở một thằng, một con nào đấy cứ nhem nhẻm riếc mắng, chửi lại bố mẹ mình. Không có sự cưu mang đùm bọc người khác ở một đứa con dửng dưng lạnh nhạt trước những đòi hỏi ở tuổi già yếu, trước đau ốm, hoạn nạn của bố mẹ, ông bà nó. Đừng tin, một ngàn vạn lần đừng tin kẻ yêu mình khi nó không yêu tha thiết, không biết kính trọng, hiếu nghĩa với bố mẹ nó. Ấy vậy những cái công sức sâu dày của cha sinh mẹ dưỡng phải để con cháu nó tự nghĩ lấy, tự nó biết đền ơn, trả nghĩa chứ đừng có đòi. Đòi là chả còn gì. Giá như cụ đồng Dư biết đến cảnh ngộ lụt lội khốn nạn này mà độ lượng, mà thương con, thương cháu đừng nghiệt ngã đay nghiến, đừng phều phào chửi rủa dằn hắt và kể lể như tụng kinh rằng: “Ai đẻ ra chúng mày? Ai nuôi chúng mày khôn nhớn đến bây giờ? Chúng mày trả ơn ông thế à? Chúng mày khinh ông, lại cho ông ăn đôi đũa lệch như cho thằng ăn mày thế này hả làng nước ơi”. “Nằm đây dưng ông biết hết. Ông biết sáng nay chúng mày dí dáu nhai gì ở đằng xó bè kia mà tịnh không nhắc nhở gì đến ông. Ông có không nhai được ngô rang thì chúng bay cũng phải giã ra, lấy bột bê lên “mời ông xơi ạ”. Đã chắc gì ông thiết. Nhưng chúng bay cũng không được phép quên ông, bắt ông nằm suông bẹp dí ở đây mãi gần trưa mới cho ông được bát ngô bung thì vẫn trợn trạo rắn như cái đầu lâu con mẹ mày, ai nhai được. Chúng bay ác với ông thì giời đánh thánh vật chúng bay...” Vậy khi cụ bị cơn gió đột ngột “đưa cụ đi” lúc nửa đêm, con cháu lại thản nhiên bảo nhau: “Thôi, đằng nào cụ cũng “đi” rồi, cứ để sáng ra hãy hay”. Và họ lại đi ngủ điềm nhiên như không có chuyện gì xảy ra. Ba ngày sau, con cháu đưa cụ ra đồng. Vẫn nghìn nghịt người. Vẫn đủ tang thương, lăn lộn than khóc, kể lể thống thiết và đau đớn tiếc thương. Nhưng lại cứ thấy vui. Con cháu vui vì cụ “đi” rất nhẹ nhõm. Cả làng vui vì lâu lắm mới lại được nghe kèn trống, bát âm râm ran và tưng bừng cờ quạt. Cũng các vãi cầu kinh. Cũng đám gia nhân phục dịch do ông Cu Từ hò hét tất bật. Một thuyền bồng chở quan tài, gia quyến và phường kèn, phường bát âm. Hai thuyền gỗ chở các vãi và những người máu mủ đội khăn trắng. Hàng trăm thuyền nan, mủng, bè chuối kéo thành cái đuôi dài dằng dặc theo sau. Đám ma cụ đồng Dư như là sự biểu dương sức mạnh chạy lụt của làng Cuội. Nó râm ran vui và đông nghịt như hồi rước nước ở sông cái. Nhưng đến khi hạ huyệt thì vất vả. Từ chiều hôm qua đã đào mò xong, sáng nay đất lại trụt xuống phải đào lại. Khi quan tài đến nơi đã đắp bờ rất dầy, be ở xung quanh và tát nước liên hồi. Nhưng quan tài thì vẫn cứ nổi. Hàng chục người đứng lên nắp cũng không ghìm nổi nước ở dưới đáy, đẩy quan tài phềnh lên. Sau rồi phải lấy bốn cây tre đực đóng chéo gạc gầu ghì diết lấy hai đầu ghìm xuống cộng với ba chục con người lấm láp như trâu đầm và ông Cu Từ thì bùn trát kín đầu, chỉ hở hai con mắt, chạy ngược chạy xuôi hò hét. Nhưng đấy là đê quai, chỉ được để tạm. Dăm bữa nửa tháng chờ đồng đất khô phải đưa cụ ra bãi. Vậy là ít ngày nữa khô ráo lại phải đào mả bố lên đưa ra chỗ khác! “Cũng đành chịu thôi”. Chiều hôm qua ông Thống Bứt đã bảo như thế. Sau câu ấy thì ông Cu Từ mới đi hò hét người ra đê quai đào huyệt tạm cho ông cụ đồng. o O o Chưa bao giờ người làng Cuội thấy ngày rằm tháng bảy thực sự là ngày “xá tội vong nhân” cho mọi linh hồn như ngày hôm nay. Gần một tháng giời như bị sặc thở trong lụt lội, hôm nay làng mới ngoi lên khỏi mặt nước. Cây cối, vườn tược, nhà cửa, đã lộ ra trông mốc thếch. Cả những xóm ở chỗ trũng nhất, nước cũng đã rút khỏi nền nhà. Tất cả già trẻ, gái trai, tất cả cỏ cây, đồ dùng đều phơi mình dưới ánh trăng khô ráo. Người ta đã có thể bê nửa đĩa xôi, nồi cơm nguội và bát canh bí ra sân ngồi ăn “trông Ở giăng”. Ở đâu thì không biết, ở làng này có được bát cơm gạo, đĩa xôi vào ngày rằm tháng bảy đã là một hạnh phúc đột ngột như là nằm mơ mà bắt được. Trận lụt kinh khủng đã lùa đi sạch sẽ mọi thứ. Từ đám dây khoai lang gỡ sớm, từ nải chuối, buồng cau đến cái chổi cùn, rế rách... không còn mảy may một tí gì. Dân làng Cuội chỉ còn hai bàn tay trắng cuốn lên thuyền thúng, bè mảng để chạy tháo thân. Rồi lại dẫn cái thân không trở về cào bùn, múc nước cọ gnhà, rửa nền mà cái bụng móp teo cứ phải diết mãi sợi dải rút cho nó thót mãi lại. Vay mượn, đổi chác, giật gấu vá vai thế nào chăng nữa thì những người lớn cũng vẫn chỉ có những hạt ngô rang cầm hơi được chia đều thành hai bữa, gọi là bữa sáng và bữa trưa cứ giống hệt như những nơi có hai bữa ăn thật. Cái gia tài đầu tiên, có tính chất toàn dân là những cỗ đầu rau nặn bằng đất. Ba ông đầu rau như ba cái chân kiềng khòng khòng suốt cuộc đời đứng còng lưng đội những nồi niêu xanh chảo trên đầu để cho lửa đốt mặt. Cám bã, cơm nước sôi rào xuống đầu trông nhem nhuốc cháy đen, lại được gọi bằng cái tên rất sang trọng oai vệ: những ông vua bếp. o O o Người dân làng Cuội vốn có truyền thống mở hội nói khoác họ không nỡ phỉnh nịnh đầy tính chất giễu cợt đối với các ông “vua” nên gọi các “vua” là những ông đầu rau. Đầu rau nghĩa là gì? Chịu. Ai lớn lên cũng thấy gọi thế – rất nhiều cái “thấy thế” – cứ thế mà gọi theo, làm theo. Đến 23 tháng chạp ta thì gọi các ông đầu rau bằng táo quân. (Thực ra thì gọi lúc nào chả được. Nhưng nghe nó cứ sường sượng thế nào. Thói quen của làng Cuội chỉ đến ngày 23 tháng chót của năm cũ mới gọi các ông đầu rau bằng táo quân). Chủ nhà giàu có thì mua cho các ông con cá chép chừng nửa lạng, làm ngựa để các ông cưỡi về giời. Nhà nghèo không sắm được “ngựa”, các ông cũng đành chịu. Theo cách nói của cánh trai trẻ những năm 90 thế kỉ này thì các ông cũng “hoàn cảnh” lắm. Nhà chị Đất cũng có một cỗ đầu rau đang phơi nắng ở bờ thềm. Thằng Hiếu thấy nhà nào cũng có niềm nô nức đầu tiên là nặn đầu rau, nó cũng xin đất và hì hục nặn được hai ông gầy ở hai bên và một ông “hơi” béo ở giữa, nó chí ngón tay cái vào bụng làm “rốn” cho ông. Ông đó được gọi là đầu rau cái... Giữa lúc ấy ở rìa làng tiếng kêu như ong vỡ tổ: - Thóc. Thóc. Làng nước ơi. Thóc! - Vào đê Bái, Việt Minh phát thóc! - Thóc. Thóc làng nước ôi... Việt Minh không biết từ đâu nổi lên hô hào dân chúng trong đê đi phá kho thóc của Nhật, của nhà Nghị Lại và tổng Lỡi. Thóc được kìn kìn gánh ra đê cứu dân ngoại bối ràn rạt thuyền thúng lao vào chân đê. Chưa thể tính được số dân, cứ tạm mỗi đầu người lĩnh 10 cân thóc. Ông Cu Từ không biết đã có mặt từ lúc nào được các đồng chí Việt Minh đưa cho cái loa sắt tây nói rằng mỗi làng lấy một chỗ, phải có người thông thuộc biết được nhà nào có bao nhiêu người. Riêng ba làng Cuội, ông sẽ đứng ra và mỗi làng có một người đứng với ông để không ai có thể man trá. Nói vậy nhưng ai mang được cái gì thì đổ đầy cái đó, kể cả khăn vuông, ruột tượng của đàn bà và quần dài của đàn ông (là những ông có khố ở trong) cũng được túm buộc để đổ thóc vào. Thế là cả chiều, cả đêm ngày 13 tháng 7 làng Cuội náo động trong tiếng chày giã thóc, tiếng sàng sảy, tiếng cười nói xởi lởi. Thế mới biết con người cũng dễ thoả mãn. Mới tối hôm trước còn rên rẩm, than vãn ước ao, thèm khát đủ thứ, tối hôm sau được mươi cân thóc đã phởn chí, trông mặt ai cũng tơn tởn sướng. Chưa biết Việt Minh là ai, khởi nghĩa, cách mạng là gì, hẵng cứ biết không phải chết đói là sướng cái đã. Sang đến ngày rằm. Sự vui mừng của làng ở trong nỗi tất tưởi ngược xuôi khốn khổ, khốn nạn để lo liệu cho được lưng cơm, lưng canh cúng cụ. Và không biết bằng cách gì, nhà nào cũng có con gà, con vịt, nghèo kiết xác cũng có được lạng thịt lợn, quả mướp xào với tí giá đỗ, miếng bí nấu với nước luộc. Xóm nào cũng thấy tiếng băm, tiếng chặt vào thớt cứ rộn ràng hối hả, đình chùa lại khói hương nghi ngút, nhà nhà xuýt xoa khấn, lạy. Lạy trời, lạy phật, lạy ông Việt Minh phù hộ độ trì cứu vớt dân làng qua thời đói, khỏi thời loạn. Đúng là cầu được, ước thấy. Khấn buổi trưa thì buổi tối Việt Minh về thật. Ông Cu Từ nói rằng: ông nhớ như in. Hôm ấy đích thực là ngày 22 tháng tám Tây. Ở Hà Nội người ta lấy chính quyền từ hôm 19. Phủ ta cũng lấy từ 20. Là cái hôm ông đứng với anh Việt Minh chia thóc cho làng mình chứ còn gì. Ông cũng biết Việt Minh người ta ghê lắm. Chính em gái ông lấy Việt Minh, ông còn lạ gì. Không may anh ấy mất, nó phải mang con về quê. Nếu không, bây giờ ý à?... Ông không ngờ làng đang lụt lội thế này Việt Minh lại đến. Lúc ấy trăng lên cách ngọn tre độ một gang tay. Cả làng ngồi ở ngoài sân ăn “trông giăng” và nhìn ra đồng nước vàng rực rỡ ánh trăng, lấp lánh đến tận chân đê, chỗ những cót thóc còn đầy ngần ngật. Bắt đầu từ đầu tiếng đàn măng-đô-lin, tiếng kèn ác-mô-ni-ca, tiếng sáo, tiếng hát, tiếng vỗ tay nghe lạ quá, nó rộn rã, sôi sục cứ như lôi cả dân làng lội vào đê mà nghe, mà nhìn. Rồi tiếng đàn, tiếng hát lan ra, vỡ trên mặt nước sóng sánh. Cả tổng Cuội, từ Cuội Thượng, Cuội Trung, Cuội Hạ, làng Nhập, làng Nhằng, làng Đại, làng Phù đều đứng trong bờ tre, thổn thức chờ đợi nghe ngóng. Chưa hiểu sự tưng bừng rộn rã từ đâu ra và cũng không biết bắt đầu từ chỗ nào có tiếng kêu thét lên “Việt Minh”. Thế là cả làng cả tổng đứng trong bờ tre, hét lên, nhảy cẫng lên hô: “Việt Minh. Hoan hô Việt Minh”. Thằng cu Hiếu hớt hải từ đâu về bảo bác Từ là nó đã trông thấy Việt Minh. Ông Cu Từ đặt cút rượu xuống vớ vội lấy áo. Hai bác cháu nhảy xuống chiếc thuyền nan bơi nhao ra chỗ con thuyền chở tiếng đàn, tiếng vỗ tay đang đi gần lại phía làng Cuội Trung. Trên thuyền có tiếng gọi: - Các đồng chí ơi. Đồng bào ra đón chúng ta. Ông Cu Từ không biết “đồng chí” là gì cũng cứ bắt chước theo. - Các đồng chí lên đình làng Nhằng có sân rộng, tôi xin đi hô hoán bà con. - Đình làng Nhằng chỗ nào ạ. À vâng, chúng tôi thấy rồi. Ông Từ đã thấy hàng mấy chục chiếc thuyền thúng, bè mảng từ trong các xóm nhao ra, ông quát: - Quay lại. Quay lại. Quay lại gọi bà con ra đình làng Nhằng nhanh lên. Mời bà con ra nhanh rước các đồng chí Việt Minh. Chiếc thuyền Việt Minh đã áp sát chiếc thuyền nan của ông Từ. Một người đưa ông chiếc loa sắt tây nói: - Mời bác đi tuyên truyền cho đồng bào hộ. Bác đưa loa lên thế này gồi gọi: “A lô, a lô, xin đồng bào chú ý, chú ý, Việt Minh đã giải phóng huyện nhà, phá kho thóc chia cho dân. Đêm nay Việt Minh về với các xã ngoại bối ta. Mời đồng bào ra mít tinh ở đình...”. Ông Cu Từ vớ được cái loa như vớ được vàng. Ông cho cu Hiếu nhảy tót lên tay đồng chí Việt Minh ở thuyền lớn rồi vội vã quay mũi thuyền nan như có ai đuổi. Được một đoạn xa, ông đưa loa lên miệng “A lô, a lô...”. Có mấy đứa trẻ ranh bơi thuyền thúng đến gần định nhoài người sờ tay vào chiếc loa. Ông mắng chúng nhưng miệng vẫn nói như gào ở trong loa. Thành ra những câu đầu tiên ông nói run run ở trong loa là: - A lô, a lô. Thằng nào sờ vào ông đánh bỏ mẹ. Toá đi gọi đồng bào ra đình Nhằng, nhanh lên. A lô, a lô bà con đồng bào ơi. Việt Minh về đình làng Nhằng rồi. Ra để “rối tinh” ở đình Nhằng đồng bào ơi à mà, a mà, a lô, a lô...” (Thế quái nào, ông lại lẫn chữ mít tinh thành rối tinh.) Nhưng không sao. Cả làng, cả tổng lan truyền cho nhau, chả mấy chốc sân đình Nhằng ở trên mặt đê quai đã chật ních. Có năm người mặc quần soóc, áo sơ mi cộc tay, đội mũ chào mào (ca lô) còn độ hai chục con trai con gái, chắc là đám phường chèo làng Bái đi theo để hát, vỗ tay và hô khẩu hiệu. Do những anh Việt Minh gọi nhau bằng đồng chí nên già trẻ, gái trai cả tổng Cuội có mặt đêm nay đều gọi nhau, gọi các anh Việt Minh là “đồng chí”. Ngay thằng cu Hiếu nhảy lên bá cổ một anh cũng nói: “Chào đồng chí Kiêm”. Anh ấy nói lại: “Chào đồng chí Hiếu”. Những người làng Cuội đứng quanh đấy nhìn thằng Hiếu như nhìn một thần tượng. Gặp Đất đứng nhìn con đùa với đồng chí Việt Minh, ai cũng thầm nghĩ: “Con nhà tông, không giống lông cũng giống cánh. Bố nó là Việt Minh có khác”. Đồng chí Cu Từ – Đêm nay cả làng đều gọi ông như thế. Đồng chí Cu Từ lúc nói, lúc không nhưng từ tối đến giờ đồng chí cứ đặt miệng loa vào miệng mình đi hết vòng trong đến vòng ngoài với vẻ mặt nghiêm trang, trịnh trọng và dân làng cũng nhìn đồng chí đầy vẻ thèm khát. Đi chán rồi, đồng chí thì thào gật gù gì đó với đồng chí Việt Minh rồi vác loa đứng hẳn lên mặt bàn: “A lô, a lô đồng bào im lặng. Các cháu trẻ con ở chỗ gốc bàng không đuổi nhau nữa. Đồng bào im lặng để đồng chí Kiêm, cán bộ Việt Minh huyện, nói chuyện”. Người nói có tên là Kiêm to, cao, da đen ngăm ngăm, tóc cứng như rễ tre trông hiền và hay cười. Đồng chí đặt thằng Hiếu xuống. Đất vội vàng len vào kéo tay con mắng: - Ai bảo con liều thế. - Đồng chí Kiêm cứ không cho con ra. Đồng chí Kiêm đứng lên bàn, giơ tay lên vành mũ chào mào, quay bốn phía chào đồng bào theo kiểu nhà binh. Ông Cu Từ hét trong loa: - Đồng bào vỗ tay hoan hô đi. Đồng bào vỗ tay và reo lên ầm ầm, hoan hô Việt Minh. Đợi đồng bào im, đồng chí Kiêm giới thiệu đồng chí Văn Yến trưởng ban Việt Minh huyện, người chỉ huy cao nhất của Việt Minh chiếm dinh quan phủ và chỉ huy phá kho thóc đem chia cho đồng bào. Đồng chí Văn Yến cũng đứng lên bàn giơ tay chào theo kiểu nhà binh. Đồng bào lại vỗ tay hoan hô rầm rĩ. Đồng chí Văn Yến nói là từ nay trở đi đồng chí Kiêm đại diện cho Việt Minh huyện ở lại đây xây dựng phong trào cho các xã ngoại bối nên đồng chí Kiêm sẽ nói chuyện với đồng bào đêm nay. Lúc đồng chí Kiêm nói, đồng chí Văn Yến vẫn đứng im ở bên cạnh trông oai phong như một vị tướng. Ngày hôm sau, vùng ngoại bối như được thay bằng những người dân ở nơi khác mới đến. Hừng hực sức lực, phơi phới vui tươi như chưa hề biết lụt lội, đói rách, rét mướt là gì. Người lớn thì chỗ nào cũng râm ran bàn tán như học thuộc lời đồng chí Kiêm. Có hai cái ba, cái ba thứ nhất là dân ta bị một cổ ba tròng: Pháp, Nhật và phong kiến. Cái ba thứ hai là ba thằng giặc: giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm. Trẻ con thì làm mũ ca lô bằng lá chuối, cho áo vào trong quần đứng oai nghiêm như đồng chí Văn Yến, đồng chí Kiêm mà hò hét thì như đồng chí Cu Từ. Hiếu đang “làm” đồng chí Kiêm đứng ở bờ tường giơ tay chào theo kiểu nhà binh, đang quay đi bốn phía thì đứt mất dải rút. “Đồng chí” vừa ôm quần vừa giục: - Hoan hô đi đồng bào! - Hoan hô. Đếch phải đồng chí Kiêm ôm quần. “Đồng chí Kiêm” vội vàng chạy vào buồng luồn lại dải rút. Tưởng mẹ sàng thóc không để ý, nào ngờ mẹ đã dựng sàng đứng trong cửa nhà ngoài xem con chơi từ bao giờ. Mẹ quay vào buồng cười: - Giời ơi, “đồng chí Kiêm” đẹp mặt nhỉ? Lại chính mẹ cũng không ngờ khi vừa nói xong câu đó, đồng chí Kiêm nhớn từ nhà bác Từ sang, chị quay ra đã thấy anh đứng ngay trước mặt chị. Hai má chị đỏ bừng vội vàng ôm mặt chạy xuống bếp. Tránh đi cũng dở, mà gặp đồng chí ấy cũng dở. Biết đâu đồng chí có việc gì. Một lúc sau, chị ngượng ngùng đi lên. Kiêm vẫn đứng ở cửa, thản nhiên như không hề biết gì. Anh hỏi. - Cháu nó biết chữ chưa chị. Chị đỡ ngượng, hơi ngước mắt nhìn vào khuôn mặt hiền, thật thà của anh, thấy vững tâm hơn: - Dạ. Thưa... cháu nó có biết đọc, biết viết. - Mai kia xã mở lớp bình dân học vụ, chị cho cháu học thêm. - Được thế thì quý hoá quá. - Cháu nó thông minh lắm. Tối qua tôi nói gì, cậu ấy nhớ hết, vừa mới nói với đám trẻ ngoài kia. - Xin bác tha lỗi cho. Cháu nó bé. Ai lại trẻ con dám đi nhại lại người lớn. - Tôi lại mong có nhiều “đồng chí Việt Minh” tí hon như thế. Đấy là cuộc gặp gỡ đầu tiên giữa chị và đồng chí chủ tịch uỷ ban lâm thời của cả ba xã ngoại bối. Từ nay các xã ngoại bối không gọi là tổng Cuội mà thành ba xã ngoại. Ngoại Thượng gồm ba thôn Cuội. Ngoại Trung là hai xã Nhập, Nhằng nhập lại. Hai thôn Đại và Phù là xã Ngoại Hạ. Mỗi xã một phó chủ tịch và một thư kí văn phòng. Cu Từ được chỉ định làm phó chủ tịch uỷ ban lâm thời xã Ngoại Thượng, còn thư kí là người của thôn Hạ (thay cho Cuội Hạ). Ngay từ sáng hôm nay uỷ ban lâm thời các xã đã phải bắt tay vào việc: lập đội du kích, ban diệt dốt, ban tăng gia sản xuất và lên danh sách những nhà túng thiếu, người chưa biết chữ, thống kê các lứa tuổi để chuẩn bị các ngành, các giới sẽ ra mắt nay mai, chuẩn bị chống đói, chống dốt, chống dịch bệnh sau vụ lụt. Trụ sở uỷ ban đặt ở đình làng Hạ. Còn việc ăn ở của đồng chí chủ tịch hãy tạm thời ở nhà đồng chí Từ. Ở Ngoại Thượng chưa hề có cơ sở và có rất nhiều điểm xung yếu nên thời gian đầu đồng chí Kiêm tập trung làm việc ở Ngoại Thượng là chủ yếu. Xem ra, chánh, phó chủ tịch ý hợp, tâm đồng lắm. Có đêm hai đồng chí nằm chỏng trên chiếc chõng tre ở giữa sân mà rì rầm hết việc công, đến chuyện riêng cứ háo hức say sưa như kiểu hai thằng bạn “mày, tao” đi xa lâu ngày gặp nhau. Sáng ngày thứ tư, kể từ hôm Kiêm đến ở nhà, anh Cu Từ chạy sang nhờ em gái kê hộ danh sách các làng đi nhận thóc. Chép xong, Đất đưa cho anh, anh lại hỏi: - Cô thấy đồng chí Kiêm thế nào? Đất thấy đột ngột, cô hỏi lại: - Sao bác lại hỏi em thế? - Ấy là tôi muốn nói với cô gia cảnh nhà đồng chí Kiêm cũng éo le lắm. - Để làm gì ạ? Ông Cu Từ đứng ngây người rồi có vẻ bực: - Thì chả nhẽ người ta ở nhà mình, mình lại không biết gì. Mà anh em lại cùng làm việc với nhau. - Vâng. Thì bác cứ biết thôi, em biết làm gì. Ông Từ giận: - Độ này cô trái tính, trái nết rồi. Thế từ xưa đến nay có chuyện gì không nói được với ai, tôi vẫn giấu cô đấy hẳn. - Vâng thì em nghe, bác nói đi. - Tôi nói để làm trò cho cô cười người ta à? Đất nghiêm lại: - Anh buồn cười. Đã bao giờ anh nói chuyện nghiêm chỉnh em lại dám cợt nhả? - Thôi được, để lúc khác. Ông bỏ về. Đất biết anh đang rất khó nói cái điều mà bằng sự tinh nhạy rất đặc biệt của đàn bà, Đất đã biết anh trai mình định nói chuyện gì. Đến chập tối thì anh lại sang. Đất cứ đợi anh loanh quoanh mãi mới nói được với cô về cái gia cảnh đồng chí Kiêm. Người ấy học sáng dạ lắm. Bố mẹ chết sớm, phải đến ở nhà anh rể để vừa giúp anh chị, vừa học. Vậy mà lớp nào cũng đứng nhất. Học hết xéc-ti-phi-ca, anh rể định gả em gái anh, cho đồng chí Kiêm. Cô bé ấy cùng học lớp với Kiêm nhưng Kiêm chỉ giúp làm bài, không bao giờ để ý đến chuyện tình tứ. Hai người chưa kịp nói gì với nhau, dân làng đã thấy bụng cô phễnh lên. Thì ra nó tí táu tí mẻ với ai từ lúc nào không ai biết. Nó bỏ nhà trốn biệt tăm. Kiêm cũng trốn đi theo Việt Minh. Rất may trời tối, anh trai không nhìn thấy mặt Đất rân rân đỏ lên. Nghe chuyện anh kể, cô giật mình tưởng anh nói về mình. Anh kể xong từ lúc nào, người cô cứ như tê dại đi, không để ý. Anh Cu Từ bảo: - Đồng chí Kiêm ưa cô lắm. - Ơ kìa, sao bác lại... - Thì đồng chí ấy bảo: “Cô ấy đẹp người, đẹp nết thế sao không tính đi bước nữa?”. Tôi bảo là: “Lấy chồng một vợ một thì trai tơ ai người ta lấy. Mà chồng đôi vợ ba thì chắc cô ấy không chịu”. Rồi không biết thế nào, hôm qua tôi lên huyện đồng chí Văn Yến, chủ tịch lâm thời của huyện, đã về xã ta đứng cạnh đồng chí Kiêm tối hôm rằm đấy. Đồng chí Văn Yến bảo tôi: Anh “ủng hộ” cô em gái của anh cho cậu Kiêm đi. Xem ra cô cậu có vẻ đẹp đôi đấy. Đất phì cười: - Anh ấy quyến với cu Hiếu chứ có phải... - Chuyện! Muốn được lòng mẹ phải được lòng con. Cái cách của đàn ông người ta, nó thế. Suýt nữa thì Đất phì cười. Nhưng cô nén lại, giọng lạnh tanh: - Thôi, em xin bác. Bác cứ cho em ở vậy nuôi cháu, không cháu bác nó tủi thân lắm. - Cô thật buồn cười. Cô tưởng người ta “đoàn kết” với cô rồi thì bỏ mặc con cô chắc? Anh trai về. Đất thấy trống ngực đập rộn rạo. Một nỗi hoảng sợ đột ngột dâng lên làm hơi thở của cô như nghẹn lại. Thằng Hiếu đi từ ngoài ngõ về, vẻ mặt rầu rầu hỏi: - Mẹ ơi, bác Kiêm lên huyện bao giờ về? Chị gắt: - Muốn biết, sang mà hỏi bác Từ. Mẹ việc gì phải để ý đến bác ấy. Con đứng thần mặt. Còn mẹ tự dưng chạy vào bếp khóc. Vui hay là buồn? Thật hay là giả? Đã gặp được số may hay là tai hoạ? Là chỗ hàn lấp cho những nỗi đau đớn của đời hay lại xé nát một phần người chị đang được sống lại! Cả đêm thao thức, chị không biết mình đang được hay là mất? Đến ngày hôm sau thì thấy văng vắng, trống trải, thỉnh thoảng lại nhìn ra con đường lội đi vào chợ Bái, vào huyện. Đến tối thì anh ấy về. Chị “không để ý” nhưng lại biết anh ấy phải hai lần bám tay vào cọc cầu ao khua chân. Đất thanh phần có chỗ bám đến đầu gối làm anh phải lấy tay kì rồi té nước mới sạch. Rồi anh mang cho thằng Hiếu cái bánh gai mua ở chợ phủ. Chị phải khêu to ngọn đèn dầu, mới dám mời bác vào ghế ngồi. Anh nói trước như khoe: - Tôi đi nhận chỉ thị tổ chức ăn tết độc lập. - Bao giờ hở bác? - Ngày mùng Hai, tháng Chín này. Chỉ còn có 5 ngày. Cả ngày mùng Hai là sáu. Mọi việc phải gấp lắm. - Thế là vào ngày hăm sáu tháng bảy ta bác nhỉ. - Tổ chức mít tinh cả ba xã ngoại bối ở đình Nhằng. - Thế thì vui phải biết. - Ăn tết độc lập xong, tôi được cấp trên cho đi học. - Có lâu không ạ? - Độ khoảng 6 tháng hay một năm gì đấy. Bỗng nhiên chị phải cố nén một hơi thở dài. Gian nhà lặng hẳn đi. Một lúc sau, cả hai người không biết làm gì và phải nói tiếp thế nào, anh đứng dậy bảo: - Thôi tôi về. Chị cũng đứng dậy nhưng lại thở dài rồi cầm đèn đưa anh ra cửa. Đến đầu nhà, anh đứng lại ngước mắt nhìn chị. Chị thấy nóng rát ở hai gò má, vội quay mặt đi. Anh úp bàn tay lên tay chị. Bàn tay mát rượi hơi run run để yên dưới lòng bàn tay nóng rần rật của anh. Cái bóng đèn như lỏng ra, rơi xuống sân, ngọn đèn phụt tắt chùm bóng tối xuống hai người. Chị hốt hoảng đẩy tay anh ra, đẩy về hướng nhà bác Từ như ngầm nói: “Anh về đi”. Chị vội vã xuống bếp trấu thổi lửa châm đèn ngồi chờ con đi họp thiếu nhi. Sáu ngày sau. Con nước “chở mã” lại chảy ồ ồ vào các cống rãnh, ao chuôm. Nhưng nó chỉ đủ dềnh lên cho hàng ngàn thuyền thúng đỏ rợp cờ, khẩu hiệu của những làng phía trong tiến ra đê bối. Mặt nước vỡ loang loáng, tiếng trống “cà rình”, tiếng hô, tiếng hát, tiếng vỗ tay reo hò. Từ sáng sớm, nhà bác Từ và nhà Đất đã vắng tanh. Thằng cu Hiếu bọc bát gạo và một hào đi cắm trại và “tự học” từ chiều hôm qua. Đất vào chân đem nước tiếp tế cho thiếu nhi. Nhà có một chiếc thuyền nan nhỏ xíu gọi là “mủng” thì đã được “mượn” để thanh niên làng đi bơi thuyền thúng thi. Đi về chỉ toàn phải lội từ nhà ra đê quai rồi từ đê quai chị em trong tổ mới khiêng nước xuống đình Nhằng. Chiều tối, xong việc đoàn thể, chị mới về “làm tết” ở nhà. Dường như nhà nào cũng “làm tết” vào buổi chiều để đến đêm mít tinh xong mới “phá cỗ”. Hôm qua chị bảo bác Từ: “Ngày mai tiện thể em mời các bác với bác Kiêm ăn tết bên nhà em”. Bác Từ bằng lòng ngay. Làm cỗ, thắp hương cúng xong, đậy điệm cẩn thận, chị gọi chị em trong “tổ nước” lội đi mít tinh. Sân đình làng Nhằng rộng hàng chục mẫu ruộng mà người ken kịt lại như nêm cối, đông hơn hội nói khoác ở miếu ông Cuội đến hàng chục lần. Chưa mít tinh. Chị thấy người xem người. Chị đi tìm cu Hiếu. Chạy khắp nơi không biết nó ở đâu. Mãi mới thấy nó thì nó lại đuổi quầy quậy: - Mẹ cứ về đi, con đang chuyển bị (chuẩn bị) thi. Nói rồi, không kịp nhìn mẹ xem có bằng lòng hay không, nó lẩn ngay đi. Rồi nó thổi còi tập hợp. Ra nó là chỉ huy của mấy trăm thiếu nhi của cả ba thôn Cuội nay là xã Ngoại Thượng. Trông nó chỉ bằng nửa những đứa lớn nhất mà lại chỉ huy. Nó thổi còi rồi hô. Tất cả cứ theo nó răm rắp. Tất cả các môn thi xã Ngoại Thượng đều đứng nhất. Ai cũng khen thằng Hiếu bé nhất mà chỉ huy lại cừ nhất. Mới được học năm ngày mà chúng nó ghê thế. Đất thấy khắp người rạo rực giữa người lời dân làng bàn tán về con. Những cuộc thi cử, dù là thi những trò thường tình nhất của trẻ con thì sự hồi hộp lo âu, buồn phiền hay mừng quớ lên lại ở những người lớn, cứ y như là chúng nó đi thi hộ. Vì thế cho nên trong tất cả các cuộc thi hôm nay chỉ có cuộc thi của trẻ con là toàn dân phải nín thở chờ đợi kết quả và mấy ngày sau còn bàn cãi, bình phẩm. Mít tinh xong, các xã rước đuốc. Hàng nghìn bó đuốc châm lửa sáng bừng như cháy suốt dọc đê quai, tiếng trống, tiếng hô ào lên từng chập tưởng là bão nổi, tưởng là nước sông Hồng ào ạt chảy hết ra biển để dân ngoại bối không bao giờ lụt lội, đói rét. Đất đi theo đội rước đuốc của con một đoạn, chị lội về nhà trước. Chị dặn con là khi nào xong, mời cả bác Từ, bác Kiêm về ngay. Không biết nó có nhớ hay quên. Hàng trống canh, hết đứng lại ngồi, hết chạy sang nói chuyện với bác Từ gái lại ra đầu ngõ đứng. Năm lần, bảy lượt vẫn chả thấy ai. Đã gần nửa đêm rồi. Cô phải lội đi xem đầu đuôi thế nào. Cũng lúc này Kiêm mới ra về. Mít tinh xong anh Văn Yến phổ biến chỉ thị mới rồi anh Từ trực tiếp bơi thuyền đưa anh Văn Yến vào đê. Thằng Hiếu theo đi. Còn một mình rẽ ngang đê quai anh quyết định cởi quần áo lội. Quê anh ở bên kia sông, lại là dân nội đồng, làm mầu không mấy khi lụt lội, nhưng “nhập gia tuỳ tục”, anh thích nghi với thói quen của làng ngay từ hôm mới ở đây. Suốt mấy ngày tối tăm mặt mũi, ngày nào cũng lội nước mà anh lại chưa tắm. Giữa lúc trời rực cơn nóng như sắp mưa, lội xuống nước; anh thấy tỉnh hẳn ra. Tay nâng quần áo, anh dìm mình xuống, ngụp đầu mấy cái rồi “tranh thủ”... kì. Những đám ghét lần lượt bở ra tan đi làm cho người anh thấy nhẹ như trút được gánh nặng. Quấn quần áo lên đầu giống hệt dân ngoại bối, xong anh nhoài người nhẹ nhõm rời hai chân khỏi mặt đất, sải hai tay bơi. Đã được một đoạn khá xa nhưng chưa kịp dừng lại, chợt một câu hỏi rất gần: - Bác Từ ạ? - Đất hả. Kiêm đây. Đất hoảng hốt như kẻ cắp bị bắt quả tang. Chị cố trấn tĩnh lại: - Chờ cháu Hiếu lâu quá. Sợ có chuyện gì... Em phải đi tìm cháu. - Hiếu với bác Từ có việc về sau một tí. Kiêm vừa nói vừa đi dấn lên. Còn Đất, từ lúc nghe thấy anh, cô đã lặng lẽ giật lùi. Nhận ra mình thồng thỗng thế này, mặt cô nóng giần giật. Dù đêm cuối tháng đặc quánh như đất phù sa, thì cũng sợ nhỡ ra. Cô sượng sùng muốn quay người. Đứng lại, dìm mình xuống, mặc quần cũng dở (từ mười hôm nay những người đàn bà còn trẻ trong làng đua nhau đi may quần để đến hôm nay tất cả đều mặc quần đi mít tinh). Cứ để thế này cũng không xong. Cô đành phải vừa bắt chuyện với anh vừa né người lội giật lùi. Đột nhiên Kiêm nhoài lên túm lấy tay làm cô rú lên. Kiêm lôi cô giật lại: - Cô sa xuống ao rồi đấy. Tôi không ở làng này mà vẫn biết cả một dãy đầy ao ăn thông nhau ở cạnh đường. - Cứ buông tay em ra, em quen rồi. - Thế thì phải dắt tôi đi khỏi sa xuống ao vậy. - Thôi... Buông em ra. Chị lấy tay còn lại nậy tay anh. Tay anh vẫn nắm kéo chị gần lại mình. - Đất để yên cho tôi nói câu này đã. - Kìa anh... Để về nhà nói. - Về nhà lại sợ đèn tắt, Đất cứ phải đi thổi lửa. - Thế thì thôi. - Đất không muốn nghe tôi nói thật à? - Không... ông... ong... Bàn tay lơi lỏng dần dần rồi rời hẳn bàn tay cô. Giọng anh buồn buồn: - Thôi, Đất về đi vậy. - Anh ở đây làm gì? - Đất cứ kệ tôi. - Hay là em đi trước một quãng rồi anh về sau nhá. - Không cần phải như thế. Có lẽ từ giờ đến hôm tôi đi không gặp được nữa. Tôi chào Đất ở lại. Bảo hộ anh Từ ngày mai gặp tôi ở trụ sở để bàn giao. Im lặng, ngay cả tiếng lóc lách do bàn tay Đất lùa lùa làm mặt nước hơi xô đi, nhè nhẹ vờn rỡn, như vỗ về quanh người cũng không còn nữa. Hai người đứng hơi nghiêng gần như quay lưng vào nhau. Đất trút bộ quần áo trên đầu ôm vào bộ ngực dìm trong nước. Nước mắt cô ứa ra, lặng lẽ chảy xuống hai má. Cô cúi mặt cắn chặt hai hàm răng vào áo vẫn không kìm được tiếng khóc đã bật ra, hai vai cô rung lên như sắp chúi người xuống. Kiêm vội vàng dấn lên giữ lấy vai hỏi: - Sao Đất lại khóc? Cô không ẩy bàn tay anh ra, cũng không trả lời. - Hay là tôi có điểm gì không phải, làm Đất không bằng lòng? -... - Tôi có gì sai, Đất cứ tranh đấu cho tôi tự học, tự chỉ trích mình. -... - Tôi cũng chân thật với Đất là không biết đầu đuôi thế nào ngay hôm mới gặp, tôi đã mến Đất quá. Lúc nghe đồng chí Từ nói đến gia cảnh của Đất, tôi càng thương Đất nhiều hơn. Tôi định một lòng với Đất cùng nhau đoàn kết vợ chồng cho cháu Hiếu nó ăn học để nó cùng tiến với bạn bè, lớn lên đi con đường đấu tranh giành lợi quyền cho đồng bào. Đến bây giờ tôi mới được nghe nói là Đất không muốn tôi nói. Đất không muốn xây dựng với tôi thì tôi vẫn phải phấn khởi thôi. Hình như là Đất thôi, không khóc nữa. Nhưng sao vẫn im lặng thế? Nói tất cả sự thật của mình mà Đất vẫn giận? Vì đâu? Hay mình lại đứng nói chuyện với cô ấy ở chỗ tối tăm, vắng vẻ? Lại phải buồn bã? Lại cả đau khổ! Đứng mãi mới lại nghĩ được cách nhận lỗi để cô ấy có thể lội về nhà, đừng đứng ngâm ở dưới nước mãi thế này. Nhưng anh vừa cất lời nói thì cô đã nhanh chóng lấy tay che miệng anh lại. Rồi, anh đang ngỡ ngàng với niềm vui sướng đột ngột, cô đã ghì lấy cổ anh. Chưa có sự tập dượt, cả đời chưa hề chạm đến da thịt người con gái mà anh vẫn biết ôm lấy em, ghì xiết em trong hai cánh tay lực lưỡng của anh, hai cơ thể khát khao không còn gì để che chắn, cách trở. Nhưng em lại lấy tay đẩy anh ra hỏi: - Anh Từ bảo anh định lấy em. Thế anh đã biết em thế nào đâu. - Anh biết cả rồi. Mà chả biết gì cũng được. Anh chỉ biết chúng mình đoàn kết vợ chồng thì anh sung sướng lắm. - Sao anh bảo em không lấy anh thì anh vẫn phấn khởi. - Ừ... ừ... ờ... ờ... - Có bao giờ anh bỏ em không? - Chỉ khi nào anh hi sinh thì... - Giời ơi, ăn với nói. Khi người con gái còn tỉnh táo để hỏi lục vấn những câu dài dòng thì anh con giai chỉ còn có thể ậm ừ đứt quãng trong hơi thở dồn dập. Anh nhấc em rời khỏi mặt đất nhẹ nhàng như nhấc cái bấc đèn. Em quặp hai chân vào ngang người anh. Hai tay em ghì xiết lấy cổ anh. Anh vục cả khuôn mặt vạm vỡ vào ngực em. Cả hai hàm răng trắng đều đặn của anh nhay nhay nhẹ vào một núm vú, một tay thì ôm ấp giữ gìn lấy bên còn lại khiến cho em cong người rên ời ời. - Anh ơi, thơm nhiều vào ngực em đi. Thơm đi. Nhanh lên anh ơi, anh ơi... Nhưng khi cả hai cơ thể đã hoà trộn vào nhau, dìu dẫn nhau đi, đã sắp tới tận cùng chót vót bỗng như hẫng hụt, như là sự phản bội, như là sự dối trá. Không hiểu sự gì đã xảy ra, em hơi ngửa mặt ngơ ngác, còn anh hơi quay mặt đi bần thần và có lúc lại nhăn nhó như là ai vừa lấy mất cái gì, như là có ai bóp chẹt vào cổ mình. Em lo sợ hỏi: - Anh ơi, làm sao thế anh. Nét mặt anh vội vàng tươi tỉnh, chối cãi: - Không, không. Anh không làm sao đâu. - Hay... em là gái goá. Anh chỉ định... thử em thôi. - Đừng nói thế em. Nhất định em là vợ anh. Nếu cần đêm nay anh về báo cáo với anh Từ. Ngày mai anh lên huyện xin phép chúng mình yêu nhau. - Mới lần đầu tiên anh đã chán em, lấy nhau làm gì. - Khổ thân anh quá. Đã bảo là anh với em phải đoàn kết với nhau suốt đời. Anh yêu em suốt đời. - Thế thì đầu đuôi làm sao, nếu anh là chồng em, anh phải nói đi. - Khổ quá... Nhưng anh nói ra, em không được để cho ai biết... -... - Nó là... là thế này... thế này thôi... Lúc chúng mình trót... “ấy”... rồi anh mới nhớ ra là anh chưa kịp báo cáo tổ chức, đoàn thể. - Để làm gì hở anh. Những lúc chúng mình như “thế này” cũng phải báo cáo? Thế mình cưới nhau rồi thì sao? - Không có một điều gì là tổ chức người ta không biết. Nên mình cứ phải báo cáo. - Nhưng giữa đồng nước đêm hôm thế này? - Nhưng nếu sau này người ta điều tra ra, mình là người không thành thật, lừa dối tổ chức, đoàn thể. Sợ nhất là quần chúng mà biết thì mình không thể lãnh đạo được ai nữa. Anh còn giải thích rất dài dòng về những nguyên tắc, kỉ luật của tổ chức đoàn thể mà anh không được phép làm trái. Không được làm mất lòng tin của quần chúng tin cậy yêu thương đùm bọc mình. Nhưng cô gái không thể hiểu. Cô chỉ thấy rối lên mù mịt trước những lời giải thích như là quái gở của anh mà ngay cái gia giáo, luật lệ của vua chúa cũng không đến nỗi khắc nghiệt như thế. Cô bắt đầu hoảng sợ về sự gặp gỡ dang dở đêm nay. Chả nhẽ cả đời cô chỉ cốt để cho kẻ khác lừa gạt, cưỡng bức làm cho dang dở? Lội về đến nhà, cô chỉ còn biết ngồi khóc suốt đêm cho cái số kiếp khốn nạn của mình. Ở chỗ mạn thuyền áp vào bờ đất dưới chân quai đê, đồng chí Cu Từ nói trước khi đồng chí chủ tịch Việt Minh huyện bước lên bờ: - Báo cáo các đồng chí. Được nhời của đồng chí, tôi đã bảo em gái tôi là: cô xem có đoàn kết được, với đồng chí Kiêm không thì nói để đoàn thể còn tổ chức tập đoàn. Thì em tôi nó bảo là cứ để mai kia, khi nào đồng chí Kiêm có nhời rồi sẽ hay. - Các cô cậu ấy còn trẻ trung gì nữa mà dềnh dàng nhỉ? Đồng chí về bảo cậu Kiêm “có nhời” đi, việc gì phải mai kia. Hai bên nói xong với nhau, báo cáo đoàn thanh niên cứu quốc đứng ra tổ chức. Một buổi tối thôi, có gì phải dài dòng. Trên đường về, thằng Hiếu bảo ông Từ: - Mẹ cháu thích cháu, ứ thích lấy chồng đâu. - Im. Mày trẻ con biết gì. - Cháu không cho mẹ cháu lấy chồng đâu. - Câm mồm. Đừng có láo, quyền gì mày. Quyền ở tao, tao muốn gả cho ai thì gả, hiểu không. Nhưng mày không thích bác Kiêm à? - Thích. Nhưng không thích mẹ cháu... - Mày không thích mẹ mày lấy bác ấy, tao gả cho người khác. Ối thằng muốn lấy mẹ mày. Thồng Bứt cũng đang nhờ tao hỏi mẹ mày làm lẽ, tao cũng thấy xuôi xuôi. Thằng Hiếu im lặng. Ông cũng không nói gì. Buồn mồm thì ông “tuých” chuyện Thống Bứt cho vui. Cũng là để nó khỏi nói bậy với đồng chí Kiêm. Việc chồng con của mẹ nó ai cho nó được can dự vào. Mai kia ông sẽ “trị” em gái, nuông con, cứ để cho nó hóng chuyện người lớn... thế là láo. Ông không ngờ về đến nhà đã sắp sáng. Thằng Hiếu về thấy mẹ nó vẫn thức. Nó thì thào tất cả mọi chuyện và dỗ dành mẹ nó: - Mẹ ơi. Mẹ lấy bác Kiêm. Đừng lấy ông Thống Bứt nhá. Bác Từ bảo đã xuôi xuôi cho ông Thống Bứt rồi đấy mẹ ạ. - Ừ mẹ nghe con. - Con sang con gọi bác Kiêm nhá. Bác ấy còn ra đón bác Từ với con, bác chưa ngủ đâu. Chị không cho con đi. Đến sáng tinh mơ ông Từ sang gọi em gái. Ông nói dồn dập tất cả nhưng điều chị đã biết rồi nhưng hai hàng nước mắt lại chảy lặng lẽ xuống hai má. Ông Từ kêu lên: - Làm sao mà cô khóc? Sợ thằng Hiếu nó không... - Không... – Chị lấy vạt áo chấm nước mắt, cười mếu máo: - là em không ngờ bác chủ tịch huyện lại thương chúng em. Bác về bảo anh Kiêm sang đây hộ em. Mâm cơm em bày từ tối qua vẫn còn kia. Sớm nay em mời bác với anh Kiêm xơi rượu bên em. - Đồng ý. Đồng chí Cu Từ khấp khởi như vớ được của, quay về. Đấy là buổi sáng ông không thể nào quên được. Ngay lúc ngồi ở quán nhìn xuống chỗ Thống Bứt “bắc cầu” cho em gái lên bờ, hai mắt đã khô khốc của ông ướt nhoèn cũng chỉ vì ông nhớ đến cái buổi sáng hôm ấy. CHUYỆN LÀNG CUỘI Lê Lựu dtv-ebook.com Chương 5: Dù đồng chí Cu Từ có xăng xái bao nhiêu, chủ tịch Việt Minh lâm thời của huyện có dễ dãi như thế nào cũng không thể bỏ qua những nguyên tắc, thủ tục mà tổ chức đang theo dõi thử thách đồng chí Kiêm. Nhất là đụng đến cái chuyện quan hệ nam nữ, yêu đương, chuyện tày đình như thế này càng không thể châm chước qua loa. Không có văn bản nào quy định đây là chuyện hệ trọng số một nhưng ai cũng phải có nhận thức tối thiểu rằng nó quyết định tất thảy. Không thể có ý chí chiến đấu kiên cường, không thể có lòng căm thù sâu sắc, không thể có bản lĩnh chính trị vững vàng, không thể có lòng yêu nước nồng nàn, trung thành kiên định với giai cấp, không thể có sự hi sinh vô điều kiện và cũng không thể nào có được tài năng ở một kẻ yêu đương không rõ ràng, giấu giếm tổ chức, nhất là yêu con gái đẹp. Lại đụng phải con gái tư sản, địa chủ, phong kiến quan lại thì, theo cách nói bây giờ, là “toi rồi”. Dù sao; những ngày đầu cách mạng cái chuyện này còn có vẻ lơi lỏng hơn, chưa đủ hiểu biết để nhận thức được mối quan hệ mang tính bản chất hết sức biện chứng của nó. Từ đêm ăn tết độc lập đến hôm Kiêm đi học có bảy ngày. Trong bảy ngày ấy không thể nào thẩm tra xác minh xem đồng chí Kiêm đã có vợ ở quê chưa? (dù là lí lịch của Kiêm cũng đã được xác minh là chưa có vợ), chưa kiểm tra được tinh thần yêu nước của chị Đất như thế nào, dù biết chị ấy đã có vợ liệt sĩ (cái này cũng cần phải có giấy tờ, mà anh ấy lại hoạt động bí mật. Chị ấy chỉ biết anh là người dưới xuôi lên theo Việt Minh. Trường hợp này nếu nghiêm túc mà nói thì phải đợi thời gian thẩm tra đã). Với những lí do trên cộng với nhiệm vụ quan trọng của đồng chí Kiêm là đi học lớp “cộng sản sơ giải” do tỉnh bộ Việt Minh mở cho những cán bộ nòng cốt trẻ nên tạm hoãn việc tổ chức cưới của đồng chí Kiêm, chị Đất lại. Muốn có niềm hãnh diện phấp phỏng là một người vợ của Việt Minh thì phải biết thót bụng lại mà trông mong, đợi chờ, biết làm sao! Nhất là đối với Đất, lần này chị sẽ có một người chồng Việt Minh thật, có thể ôm """