" Chuyến Du Hành Ngược Thời Gian - Nhiều Tác Giả full mobi pdf epub azw3 [Tập Truyện Ngắn] 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Chuyến Du Hành Ngược Thời Gian - Nhiều Tác Giả full mobi pdf epub azw3 [Tập Truyện Ngắn] Ebooks Nhóm Zalo Chuyến Du Hành Ngược Thời Gian TẬP TRUYỆN NGẮN KHOA HỌC VIỄN TƯỞNG THẾ GIỚI NHIỀU NGƯỜI DỊCH NHÀ XUẤT BẢN LAO ĐỘNG HÀ NỘI - 1985 CHUYẾN DU HÀNH NGƯỢC THỜI GIAN, tập truyện ngắn khoa học viễn tưởng thế giới, nhiều người dịch. Tập sách gồm 14 truyện ngắn của các nhà khoa học viễn tưởng Liên Xô, Mỹ, Ba Lan, Bun-ga-ri, Tiệp khắc, Anh, Nhật về các lĩnh vực khác nhau của khoa học: vũ trụ, sinh vật, y học, người máy v.v... LỜI GIỚI THIỆU Trong thời đại cách mạng khoa học kỹ thuật bùng nổ của thế kỷ XX, truyện khoa học viễn tưởng - một khu vực đề tài văn học đang còn rất mới và đầy sức sống - được bạn đọc đặc biệt ưa thích và càng ngày càng hứa hẹn một tương lai phát triển rực rỡ. Ở nhiều nước, bên cạnh Hội nhà văn còn có Hội các nhà khoa học viễn tưởng, hàng năm có các giải thưởng khoa học viễn tưởng quốc tế và khu vực, các tác phẩm khoa học viễn tưởng được nhiều nhà xuất bản in hàng loạt thành những tủ sách riêng. Ở Việt Nam, cùng với bước tiến của khoa học kỹ thuật và trình độ văn hóa, giáo dục của nhân dân lao động được nâng cao, đọc sách khoa học viễn tưởng ngày càng trở thành một nhu cầu, một hứng thú đối với đông đảo bạn đọc, nhất là thanh niên và trí thức. Để đáp ứng nhu cầu đó, tiếp theo các cuốn “Trinh vân tiên nữ”, “Bóng dáng thời xưa”, “Gió vĩnh cửu” v.v... Nhà xuất bản Lao động lần này cho ra mắt tập sách Khoa học viễn tưởng mới: “Chuyến du hành ngược thời gian”. Đây là một trong những cố gắng đầu tiên giới thiệu với bạn đọc Việt Nam thế giới Khoa học viễn tưởng thông qua một thể loại văn học nhỏ về số trang nhưng hấp dẫn: truyện ngắn. Tập sách bao gồm 14 truyện ngắn của các nước có truyền thống khoa học viễn tưởng rất mạnh hiện nay, như Liên Xô, Mỹ, Ba Lan, Bun-ga-ri, Tiệp Khắc, Anh, Nhật Bản, với những tác giả nổi tiếng mà tên tuổi đã trở nên quen thuộc trong bạn đọc khoa học viễn tưởng thế giới, như Rư-bin (Liên Xô), A-di-mốp (Mỹ), Nhe-xơ-vát-ba (Tiệp Khắc) v.v... Nội dung tập truyện đề cập đến nhiều lĩnh vực khác nhau của khoa học: vũ trụ, sinh vật, y học, người máy v.v... nhưng không quá đi sâu vào các chi tiết kỹ thuật nặng nề. Truyện khoa học viễn tưởng không chỉ mang đến cho người đọc những hiểu biết về khoa học hiện đại và những dự kiến của nó trong tương lai (viễn tưởng). Dù viết về người máy hoặc những chuyến du hành lên các hành tinh khác hay xuôi ngược trong thời gian đằng sau các chi tiết ly kỳ hấp dẫn, vẫn nổi lên cái chủ yếu: con người. Con người của thời đại chúng ta, của thế kỷ XX sôi động với những suy tư, ước mơ, lo âu, hy vọng với những vấn đề đạo đức và thời sự rất hiện thực và gần gũi. Qua lăng kính phóng đại của trí tưởng tượng của các nhà viễn tưởng, chúng ta vẫn thấy rất rõ tinh thần lạc quan, nhân đạo, lòng tin vào khoa học, vào tương lai tiến hóa nhân loại trong tác phẩm của các nhà văn các nước xã hội chủ nghĩa (“Trái đất gọi”, “Giáo sư Béc-nơ thức giấc”...) và tính ích kỷ, vô nhân đạo, lợi dụng khoa học phục vụ mục đích lợi nhuận trong xã hội tư bản (“Những kẻ buôn đau đớn”, “Lịch sử một tai họa”, v.v...). Đề tài bạo loạn, chiến tranh và hòa bình cũng được trăn trở qua nhiều tác phẩm. Truyện khoa học viễn tưởng, vì vậy, ngoài giá trị nhận thức khoa học, còn có giá trị giáo dục rất lớn mà người đọc có thể ngẫm nghĩ thật sâu và tiếp nhận. Nhà xuất bản Lao động xin giới thiệu với bạn đọc “Chuyến du hành ngược thời gian”, và mong nhận được nhiều ý kiến đóng góp phê bình của bạn đọc để có thể làm tốt hơn những tập sách sau. NHÀ XUẤT BẢN LAO ĐỘNG TRÁI ĐẤT GỌI V. RƯ-BIN (Liên Xô) Con tàu vũ trụ “Ác-tua - 12” đã mười vạn năm bay theo các quỹ đạo pa-ra-bôn giữa các thiên hà, không ngừng nghiên cứu vô số những đám tinh vân, đám thì xoắn lại hình trôn ốc, đám tản mác ra như bị một ngọn gió vô hình thổi tung, đám khác cô lại đậm đặc như sữa. Đôi lúc, khi các thiết bị thăm dò phát hiện được trong lòng sâu của một thiên hà nào đó những hành tinh giống như Trái Đất, con tàu xoáy vào giữa đám mây sao, tìm ra các hành tinh đó, và những nhà thám hiểm vũ trụ sống một thời gian dài giữa những sinh vật xa lạ như giữa những người đồng loại của mình. Cứ sau bốn mươi năm, những nhà thám hiểm vũ trụ lại khóa mình trong các buồng an-ni-hi-la-ti-o* chuyển con tàu sang vận tốc siêu ánh sáng; và ở đó, trong phản thế giới ở phía bên kia ánh sáng, nơi không trời cả không màu sắc, nơi tất cả đều trái ngược, họ làm cho mình trẻ lại. Trong lúc đó, con tàu đã vượt qua các khoảng không giữa những thiên hà, và trước mắt các nhà thám hiểm vũ trụ đã trẻ lại lấp lánh những ngôi sao mới, xuất hiện những thế giới mới chờ họ đến. Từ tiếng la-tinh: chỉ sự biến các hạt vật lý thành các phản hạt; sự hủy. Trên tàu không còn chỗ để chứa thông tin nữa: những tấm pa nen với các băng tinh thể bộ nhớ ghi những kiến thức thu lượm được xếp đầy cả các hành lang, buồng ở. Đã đến lúc, từ lâu đã đến lúc phải trở về Trái Đất với số hàng rất quí này - chúng có thể cải tạo không chỉ một nền văn minh. Nhưng trên đường về, họ cũng gặp những thế giới chưa hề biết đến, và các nhà thám hiểm vũ trụ phải nán lại thêm. Họ đã nghiên cứu được bao nhiêu thế giới? một nghìn? Hay nhiều hơn? Điều đó đến cả chỉ huy tàu cũng không nhớ nổi. Nhưng thay vào đó, ông có thể tìm ngay ra được các băng tinh thể cần thiết của bộ nhớ, không bao giờ nhầm lẫn. Và, như một người già thông thái bị những ký ức cũ xưa hành hạ, phần lớn thời gian ông ngồi lỳ trong buồng nhìn rộng lớn, xem lại những băng tinh thể đó để hồi tưởng về những gì đã trải qua. Ông lại đi theo dấu vết những tháp tròn băng giá của các ngôi sao chổi, thu thập các bộ sưu tập chất khoáng của những tiểu hành tinh “hoang dã” lang thang giữa các thiên hà. Và chìm ngập trong đại dương sống của hành tinh bí ẩn 926-B—719, chết ngợp trong bầu khí quyển màu hồng lây truyền một sự khoái lạc vô nguyên cớ của hành tinh khổng lồ số ba thuộc thiên hà thứ mười bốn. Và chống chọi lại với những khối đông đặc có sức hút khủng khiếp của các đám mây mù dã thú... Nhưng trong mấy năm gần đây chỉ huy tàu ít đến thăm những thế giới đó. Chúng đã bị đuổi ra khỏi trí nhớ của ông bởi thế giới của một hành tinh ba dưới hai mặt trời, nơi họ rất muốn được ở lại mãi mãi, nhưng họ vẫn phải giã từ bay đi theo chương trình của cuộc thám hiểm và vì nỗi nhớ buồn day dứt về Trái Đất ruột thịt. Đó là thế giới của một nền văn minh phát triển đến mức độ thần thoại không thể nào tưởng tượng nổi... Họ thậm chí không thể tin ngay vào sự tồn tại của một nền văn minh như thế, sự sống ở đó khó hiểu đến kỳ lạ. Các nhà thám hiểm vũ trụ không tìm thấy trên hành tinh ba này các mạng lưới đường sá, các thành phố dân cư. Nhưng thỉnh thoảng họ lại gặp những điều lạ lùng không thể nào giải thích được... Thực ra, điều đó đã xảy ra khá lâu trước khi họ phát hiện ra hành tinh ba này. “Ác-tua - 12” vừa vượt qua mép ngoài của một thiên hà mới, bước đầu tiến hành thăm dò đám tinh vân xoắn. Một lần, đi qua mấy căn buồng phụ của con tàu, nhà sử học Vôi-lơ bỗng trông thấy ở cuối hành lang một người khỏa thân. Đúng ra người đó không hoàn toàn khỏa thân: ở chân, ở đùi và trên ngực người lạ mặt có quấn những dải gì đó màu xám sáng, lấp lánh như bạc. - Chào anh, Vôi-lơ, - người đó mỉm cười thân mật nói. - Anh là ai? - Vôi-lơ ngơ ngác hỏi. - Không quan trọng. “Có chuyện rồi đấy” - Vôi-lơ nghĩ, đứng tựa sát lưng vào bức tường. Đầu ông quay cuồng. Ông lấy hết sức lực, rời lưng khỏi tường bước về phía người lạ. Nhưng người đó bỗng biến mất, cũng như đột ngột khi xuất hiện. Việc xảy ra lạ lùng đến nỗi mọi người trên tàu đều cho đó là hậu quả của trí tưởng tượng quá mức của nhà sử học. Nhưng ít lâu sau con người bí ẩn đó lại xuất hiện. Trong tàu được lệnh báo động khẩn cấp, lần đầu tiên trong suốt chuyến bay mười vạn năm. Lần này, theo đúng quy định, chỉ huy tàu ngồi trong khoang buồng đóng kín dưới một trường bảo vệ rất mạnh. Khi trên bảng lần lượt hiện lên các con mắt điện tử xanh và tất cả các nhà thám hiểm vũ trụ đã báo cáo sẵn sàng, chỉ huy tàu mở “ống thổi chính”. Trong nửa giờ một cơn lốc phóng xạ khủng khiếp quay cuồng quét khắp các buồng và các lối đi trên tàu. Nhưng trước khi đuổi con quỷ mang cái chết đó ra khoảng chân không vũ trụ, chỉ huy tàu chợt thấy một người với bốn dải xám rộng lấp lánh trên thân trần đứng cách mình hai bước chân. - Ta hãy thỏa thuận với nhau đi - người lạ nói rõ ràng, như đã từng hàng năm nói chuyện với người Trái Đất. - Anh là ai ? - chỉ huy tàu hỏi. - Uen. - Anh đến đây bằng cách nào? - Cần phải nói chuyện với các anh mà - người lạ mặt đáp. - Nhưng anh đã đi qua trường bảo vệ... - Thế ư? - người lạ mỉm cười. - Anh là người sống thật à? - chỉ huy tàu định hỏi về những dự định của người lạ mặt, nhưng kịp kìm lại: đời nào anh ta lại nói ra ngay những dự định của mình? - Chúng tôi biết tất cả về các anh. Nhưng các anh đừng lo ngại gì cả. Chỉ huy tàu cười khẩy. “Làm sao có thể biết hết được vô số thông tin chứa trong các mạng tinh thể của bộ nhớ khổng lồ kia được?” - ông nghĩ. - Vâng, ở đó có một số cái khá thú vị - người lạ bỗng bất ngờ nói làm chỉ huy tàu tái mặt - Nhưng về cơ bản, tất cả những cái đó chúng tôi đã biết. Anh hãy tự suy ra: chúng tôi có thể di chuyển trong không gian đến mười pác-xéc* không cần tàu, và giới hạn vũ trụ chúng tôi nghiên cứu trực tiếp trải dài đến hàng nghìn năm ánh sáng. Tất nhiên, chúng tôi di chuyển không phải bằng vận tốc ánh sáng như các anh, và thậm chí cũng không phải vận tốc siêu ánh sáng. Và không có vật cản nào mà chúng tôi không thể vượt qua ngay tức khắc và an toàn... Anh thấy chưa, nếu anh đến thăm chúng tôi sẽ rất thú vị... Một Pác-Xéc bằng 3,26 năm ánh sáng. Một năm ánh sáng bằng 9.500 tỷ ki-lô-mét. Mười Pác-xéc bằng 310 nghìn tỷ ki-lô-mét (310.000.000.000.000 ki-lô-mét). Chỉ huy tàu suy tính căng thẳng. Ông vừa tin vừa không tin Uen, và sợ rằng người lạ mặt biết được những suy nghĩ bối rối lo ngại của mình. Lần đầu tiên trong một trăm nghìn năm qua, ông, sứ giả của một nền văn minh hùng mạnh, cảm thấy mình như một con chim yếu ớt trong lồng, không biết trốn đi đâu cho thoát khỏi những cặp mắt xanh. - Chúng tôi sẽ giúp các anh vượt qua không gian - người lạ mặt nói - Tất nhiên nếu như các anh muốn làm khách của chúng tôi. - Chúng tôi cần phải thảo luận với nhau đã, - chỉ huy tàu nói bằng giọng như nghẹn lại. Người lạ mặt gật đầu và biến mất. Chỉ huy tàu thả người xuống ghế mềm bằng không khí, đặt đầu lên chiếc gối kích thích sinh học. Những ý nghĩ chảy đều đặn hơn, nhưng điều đó vẫn không mang lại sự bình tâm mong muốn. Mười vạn năm qua chính ông làm chủ số phận của con tàu. Họ đã gặp nhiều thế giới nguy hiểm, nhiều nền văn minh rất phát triển. Nhưng bao giờ ông, chỉ huy tàu, vẫn có khả năng tự mình quyết định bay đi hay ở lại. Tuy nhiên, cả ở đây nữa, như người lạ mặt nói, họ cũng có thể từ chối lời mời của anh ta. Nhưng ở đây có những quy luật khác tác động, đáng sợ và thậm chí hạ nhục họ. Vâng, điều này giống như sự tự do ở trong chiếc lồng vừa được người ta mở cửa: nếu muốn thì ở lại, không muốn hãy bay đi... “Chúng ta rời Trái Đất bay đi không phải để sợ những điều chưa biết”, - cuối cùng chỉ huy tàu quyết định. Ông vươn tay ấn nút triệu tập Cuộc Họp Toàn Thể... Đó là một thế giới kỳ lạ. Bay theo quỹ đạo hạ thấp dần, chỉ huy tàu trông thấy những dãy núi hoang sơ phủ trong các dải rừng xanh rậm rạp, những đồng cỏ nguyên thủy tươi tốt, những bãi cát rộng dọc theo bờ biển. Biển ở đây ăn sâu vào lục địa thành các vịnh, biến bờ bọt trắng thành đường nét chủ yếu của địa hình. Từ trên cao nhìn thấy hành tinh như bọc trong một mạng lưới kỳ lạ của những mặt nước xanh, bãi cát trắng, dải rừng thẫm và các dãy núi màu nâu. Tên lửa thăm dò của những người Trái Đất hạ cánh xuống một bờ vịnh nhỏ. Những ngọn sóng cao từ xa ngoài biển khơi dựng đứng lên và rập rờn bờm bọt trắng đổ vào bờ. Chạy thêm được chừng hai chục mét, chúng lăn dài trên cát, bò đến chân của những người Trái Đất đang đứng lặng sững sờ. - Có mùi của biển! - Vôi-lơ thốt lên. - Giá được tắm một cái! - mọi người cùng ao ước. - Nằm bãi cát mà phơi nắng! - Như trên Trái Đất của mình! Và liền đó họ chợt thấy một hàng dấu chân người trên cát ướt. Dường như một cậu bé tinh nghịch nào đó vừa chạy ngang bãi cát ngay sau khi con sóng vừa rút ra. Nhưng một đợt sóng mới xô đến xóa sạch dấu vết. Nghe có tiếng cười lanh lảnh vui vẻ vang lên trong không khí. Các nhà thám hiểm vũ trụ nhìn nhau. - Tất cả về tên lửa! - chỉ huy tàu ra lệnh. Bảy mươi giờ liền họ ngồi trong trường bảo vệ có khả năng ngăn cả những luồng phóng xạ từ bên ngoài tới. Rồi họ quyết định mạo hiểm, lại đi ra bờ cát vắng, ngạc nhiên trước những đợt sóng ì ầm, ngọn gió ẩm ướt, mùi hương thân thuộc khác thường - tất cả hệt như trên Trái Đất. Dần dần cái cảm giác lo lắng đề phòng qua đi. Thỉnh thoảng chỉ huy tàu nằm lên cát ẩm, nhắm mắt và tưởng tượng cảnh mình về đến nhà, trút bỏ gánh nặng trách nhiệm hàng bao nhiêu thế kỷ nay. Nhưng mở mắt ra, ông trông thấy hai mặt trời trên bầu trời và hai mặt trăng lấp lánh không bao giờ tắt. Và nỗi buồn nhớ về Tổ quốc, một nỗi buồn mãnh liệt mà ông đã chế ngự được trong lòng mình bao lâu nay, bây giờ chợt bùng lên da diết, thôi thúc ông vượt quãng đường cuối cùng qua vũ trụ vô tận để trở về. Không ai quấy rầy họ cả. Những người Trái Đất tự do đi lại, vào đến tận những nẻo rừng, khe núi hoang vắng nhất. Họ bay sang hai hành tinh khác - chúng hầu như không có gì khác với hành tinh thứ nhất - nghiên cứu vô số những hành tinh nhỏ khác nằm trên các quỹ đạo cách đều nhau một cách lạ lùng, dường như có người nào đó cố ý đặt chúng như đặt những cột cây số trên đường dẫn vào hai Mặt trời và đi ra khoảng sâu tối của lòng vũ trụ. Nhưng trên tất cả các hành tinh lớn nhỏ, những người Trái Đất không tìm thấy một dấu hiệu nào của sự sống có trí tuệ. Thỉnh thoảng Uen bí ẩn lại đến thăm họ. Bao giờ anh ta cũng không tỏ vẻ gì là tò mò một cách đáng ngờ, nhưng kiên nhẫn trả lời tỉ mỉ tất cả các câu hỏi. - Các anh sống ở đâu? - Một lần chỉ huy tàu hỏi. - Ở các không gian khác - Uen đáp. - Những không gian nào? - Điều đó các anh không hiểu đâu. - Tại sao chúng tôi lại không hiểu? - Anh đừng giận. Điều này quả là không thể giải thích ngay được. Chúng tôi sẽ buộc phải giải thích cho các anh tin vào sự tồn tại của những quy luật tự nhiên hoàn toàn mâu thuẫn với những quy luật mà các anh lấy làm cơ sở cho nền văn minh của mình. Rồi tiếp theo - những quy luật khác loại trừ những quy luật đó. Cứ như thế nhiều lần. Những sinh vật đã quen tư duy lô-gích không đủ sức vượt qua những chấn động như thế. Chân lý chỉ có thể nhận thức được theo từng giai đoạn. Chân lý cần phải được chín mùi để tự phủ nhận mình và sinh ra một chân lý khác ... - Nhưng có thể hiểu mà không chấp nhận. Theo nguyên tắc tương tự. - Tương tự à? - Uen nhắc lại và suy nghĩ một thoáng - Thôi được, ta lấy ra-đi-ô làm thí dụ. Thời xa xưa, chúng rất phổ biến ở chỗ chúng tôi. Chắc các anh không ngạc nhiên rằng trong một khoảng không gian có thể chứa vô số các sóng vô tuyến? Trong một địa điểm không hề cản trở lẫn nhau, có thể tồn tại đồng thời hàng nghìn tín hiệu mang vô số những thông tin hoàn toàn khác nhau ... - Sự sống của các anh tồn tại dưới dạng sóng à? - Không hẳn thế - Uen mỉm cười, nhưng không có vẻ trịch thượng như chỉ huy tàu chờ đợi, mà khá thân mật. - Thế nhà của các anh cũng ở các không gian khác à? Uen gật đầu. - Các anh có bao nhiêu không gian như vậy? - Nhiều vô tận. - Như thế nghĩa là các anh cũng nhiều vô tận? Các anh làm sao quản lý được? - Mỗi người đều có trí tuệ của mình - Uen mỉm cười. - Nhưng tại sao không ai sống ở trong không gian này, giữa những cánh rừng và đồng cỏ kia? Ở đây dễ chịu đến thế. - Trong các không gian khác tiện lợi hơn - Uen nói - Hơn nữa, tất cả những ngọn núi, cánh rừng này đều là khu bảo tồn, hay có thể nói là công viên của chúng tôi. Nơi nghỉ ngơi và làm việc cho những người nào muốn. Và anh ta biến mất. Cái cách cắt ngang câu chuyện nửa chừng như vậy làm cho chỉ huy tàu ngạc nhiên. Nhưng, ngẫm nghĩ kỹ, ông hiểu rằng tất cả đều đúng, bởi vì không thể gọi câu chuyện như vậy là bị cắt ngang được một khi tất cả đã được nói hết. Vào một đêm ngắn ngủi, khi một mặt trời đã lặn, còn mặt trời thứ hai mới bắt đầu nhộm hồng mặt biểu gợn sóng lăn tăn, cái thời điểm mát mẻ mà chỉ huy tàu rất thích đi dạo, trước mặt ông bỗng hiện lên một người rất giống Uen. - Tại sao các anh không bay đi? - Anh ta hỏi. Chỉ huy tàu cảnh giác: - Anh là ai? - Uen. - Uen là người khác kia. - Tất cả chúng tôi điều là Uen. Điều đó cũng như tất cả các anh đều là người. - Có gì nguy hiểm đối với chúng tôi à? - Không, không - người lạ mặt nói nhanh - Tất cả chúng tôi đều yêu mến các anh. “Thế đấy, - chỉ huy tàu nghĩ thầm. - Chẳng lẽ từ “các không gian khác” những con người này luôn luôn quan sát chúng ta à?”. Ông tưởng tượng ra điều đó và co rúm mình lại. Con người rất cần thiết phải cảm thấy tự tin rằng có những lúc anh ta chỉ có một mình với chính bản thân mình. Vì vậy, tất cả những sinh vật có trí tuệ trong vũ trụ đều có nhà hoặc buồng riêng của mình. - Tại sao các anh không bay đi! - người lạ mặt nhắc lại câu hỏi. - Ai muốn như thế? - Không ai cả. Chúng tôi muốn các anh ở lại đây. - Không thể được - chỉ huy tàu nói gay gắt - Nếu thế, toàn bộ chuyến thám hiểm của chúng tôi là vô nghĩa. Mà còn có gì tồi tệ hơn khi biết những việc mình làm còn vô nghĩa? Chúng tôi sẽ bay đi, nhưng chỉ sau khi hiểu được tất cả những gì của các anh. Người lạ mặt mỉm cười buồn buồn: - Để làm được điều đó, các anh phải sống bất tử. - Khi nào già, chúng tôi sẽ bay vào vũ trụ - chỉ huy tàu nói - chúng tôi sẽ làm cho mình trẻ lại và tiếp tục nghiên cứu khoa học của các anh. - Các anh không đuổi kịp đâu. - Đuổi kịp ai? - Khoa học. Trong khi các anh đang bay, khoa học sẽ tiến lên phía trước. Chỉ huy tàu đứng lặng ngẫm nghĩ. Lần đầu tiên trong mười vạn năm, ông cảm thấy bất lực trước bức tường thời gian. - Anh cầm lấy - người lạ mặt bỗng nói. Anh ta chìa tay ra, và như một nhà ảo thuật, lấy từ trong khoảng không một khối hình trụ nhỏ rồi bắt đầu gỡ từ bề mặt của nó ra những lớp tròn mỏng và mềm mại - Đây là tất cả những tri thức của chúng tôi, hết thế kỷ này qua thế kỷ khác. Chúng tôi tin tưởng rằng các anh sẽ không bắt chước chúng tôi một cách mù quáng. Việc sử dụng những kiến thức được ghi trong các đĩa băng này đòi hỏi phải xem lại các quan điểm của mình. Anh tất nhiên hiểu rằng sự vội vàng trong những việc này là rất nguy hiểm. - Chúng tôi hiểu - chỉ huy tàu nói ấp úng, bối rối trước sự rộng rãi như vậy - Nhưng làm sao anh có thể đưa cho người khác một vật quý giá như vậy được? - Đây không phải là vật quý. Đây là những băng tinh thể trong bộ nhớ của tôi, “thư viện riêng của tôi” - như người xưa vẫn nói. - Nhưng dù sao tôi vẫn muốn... - chỉ huy tàu ngập ngừng. Ông không muốn lạm dụng sự tin tưởng, mang cái vật quý vô giá này đi một cách bí mật như thế - Cần phải báo cho anh Uen kia biết. - Bây giờ anh ta đang nghe và trông thấy anh. Người lạ mặt lại mỉm cười thân mật. - Chúng tôi và các anh rất giống nhau. Đáng tiếc rằng giữa chúng ta là vô tận thời gian. Và anh ta bỗng vỗ lên vai chỉ huy tàu một cách hệt như người của Trái Đất. - Mặt trời hồng chiếu sáng trên đường chân trời sáng sủa. Biển khẽ ì ầm xô sóng lên bờ cát phẳng. “Thế là xong - còn lại một mình, chỉ huy tàu nghĩ - Chúng mình chẳng ở lại đây để làm gì nữa”. Anh tưởng tượng ra cái khối hình trụ này sẽ làm nên ở đó, trên Trái Đất, một sự chấn động như thế nào, và vội vã đi về tên lửa của mình. Và lại thêm bảy năm nữa con tàu “Ác-tua - 12” bay vùn vụt trong khoảng sâu Vũ trụ. Tất cả mọi người trên tàu chỉ làm mỗi một việc là liên tục nghiên cứu khối lượng thông tin vô tận chứa trong vô số những đĩa băng mỏng của hành tinh Uen. Và nhiều khi những thông tin đó bất ngờ đến nỗi làm nảy sinh ra trên tàu những cuộc tranh luận sôi nổi kéo dài. Dần dần chỉ huy tàu đã quen với sự nhẹ nhàng khi nền khoa học của những người trên hành tinh ba từ bỏ tính cân đối của những quan niệm truyền thống để chấp nhận các nghịch lý. Ông hiểu rằng sự nhẹ nhàng đó chỉ là bề ngoài, là vẻ khoan dung của hậu thế xa xôi đối với những sai lầm của tổ tiên. Nhưng dù sao ông vẫn không thể dứt bỏ được cảm giác rằng lịch sử phát triển khoa học của họ là một chuỗi dài những tặng vật bất ngờ được đón nhận một cách vui mừng và nhất trí. “Có lẽ đó là bản chất của những người Uen - chỉ huy tàu ghen tỵ nghĩ thầm - Không phải bỗng nhiên mà nền văn minh của họ đã vượt xa tất cả”. Ông nhớ lại Trái Đất, nhớ lại những cuộc đụng độ gay gắt của tính tự ái, hư danh trên từng bước ngoặt, thậm chí là nhỏ nhất, của khoa học, và tự an ủi mình rằng có lẽ sau mười vạn năm qua, loài người chắc cũng đã tiến bộ hơn nhiều. Và bỗng nhiên xảy ra một việc bất ngờ: chiếc đĩa băng ghi những thông tin về thời kỳ cổ đại của những người Uen đã mang đến một nghịch lý kỳ lạ nhất, gây ra một chấn động bất ngờ chưa bao giờ có. Một lần, tiếng chuông báo động gọi chỉ huy tàu làm ông thức giấc. Đã từ lâu họ không sử dụng tiếng chuông đó, nên chỉ huy tàu đã kịp quên mất ý nghĩa của nó và mãi một lúc sau ông mới hiểu ra mình phải làm gì. - Anh hãy đến ngay phòng trung tâm - người ta gọi ông. - Vôi-lơ đấy à? - chỉ huy tàu ngạc nhiên - có chuyện gì vậy? - Có việc cần phải bàn. - Việc gì vội thế? Chúng ta còn có hơn một nghìn năm ánh sáng nữa kia mà. - Tôi sợ rằng ít hơn. - Anh muốn nói rằng hoa tiêu tự động nhầm à? - Cả điều đó nữa. Chúng ta bay không đúng hướng... Chỉ huy tàu ngồi vào ghế kích thích sinh học để tỉnh hẳn sau giấc ngủ dài trong điện trường, và bình tĩnh lại. Cái điều Vôi-lơ thông báo chỉ có thể có nghĩa là: họ đã bị lạc đường. Trở thành những kẻ lang thang vĩnh viễn trong vũ trụ, vô ích tìm kiếm bến bờ trở về của mình - thật không thể có gì còn tồi tệ hơn. - Thế nào - bước vào buồng nhìn, chỉ huy tàu nói - Anh hãy kể lại từ đầu. - Từ đầu à? - Vôi-lơ hỏi lại, không hiểu để làm gì - Mời anh xem. Ông giơ tay làm một cử chỉ rất nhanh, và bốn bức tường lập tức biến mất. Xung quanh là đồng cỏ mênh mông trần ngập nắng trải dài đến tận chân trời. Ở phía xa, giữa vòng tròn đen rất lớn, là một con tàu vũ trụ giống như hình nón nhọn với đáy rộng nặng nề. Từ chân con tàu, hàng trăm chiếc xe từ xa trông như những con bọ hung sặc sỡ chạy tỏa nhanh ra bốn phía. Ở trên cao, một chiếc máy hấp dẫn đứng ở phía dưới không trông thấy đang vạch một vòng lửa lớn trong không gian báo cho tất cả mọi người biết về sự nguy hiểm để không ai bay qua khu vực này. Tiếng chuông đồng của chiếc đồng hồ thiên văn điểm từng giây qua loa phóng đại vang khắp đồng cỏ. Khi tiếng chuông cuối cùng vừa dứt, con tàu đầu nhọn lặng lẽ tách khỏi mặt đất và bay thẳng đến trung tâm chiếc vòng lửa trên bầu trời. Rồi một lúc sau, từ nơi con tàu biến mất, một ánh chớp bùng lên sáng chói và tắt dần. Bầu trời lại trở nên trong xanh. Chỉ có những đám tơi tả của vành đai lửa rơi xuống là còn nói đến sức mạnh khủng khiếp vừa nổ tung ra trên bầu trời. - Thì sao nào? - Chỉ huy tàu hỏi khi những bức tường của phòng nhìn lại trở nên như cũ - Đây là đoạn phim về sự xuất phát của tàu “Ác-tua” chúng ta. Tôi đã xem nó hàng trăm lần rồi. - Thế sao? Không có gì khác thường cả à? - Vôi-lơ có vẻ rất xúc động - Nhưng đoạn phim này tôi tìm thấy trong băng ghi của những người Uen. Chỉ huy tàu ngạc nhiên nhìn chăm chăm vào nhà sử học. - Anh định nói gì? - Rằng việc con tàu “Ác-tua - 12” xuất phát là một sự kiện cổ xưa của lịch sử hành tinh Uen. - Anh định nói gì? - chỉ huy tàu sửng sốt hỏi lại, lắc mạnh mái đầu bỗng trở nên nặng trĩu. - Hành tinh vừa rồi là Trái Đất của chúng ta! - Nhưng đó là hành tinh ba! - Họ đã cải tạo lại hệ thống hành tinh. - Còn mặt trời? Mặt trời thứ hai? - Chắc là nó cần cho họ... Hai người im lặng rất lâu, theo đuổi những ý nghĩ riêng. Từ một nơi nào đó sâu trong lòng con tàu nghe có tiếng gõ cửa kim loại vọng đến. Trong góc phòng, máy chế lọc không khí thở ngắt quãng giống như không hẳn là tiếng khóc, không hẳn là tiếng cười gằn kích động. - Nhưng tại sao họ không nhận ra chúng ta? - Chỉ huy tàu mệt mỏi hỏi. - Chúng ta cũng không nhận ra họ - nhà sử học đáp - Và đó là điều đáng chúc mừng. Bây giờ chúng ta hoàn toàn độc lập. Không ai hiểu chúng ta và chúng ta cũng không hiểu ai cả. Đúng là một nền văn minh độc lập. - Tại sao họ không gọi chúng ta trở về? Có vẻ như từ hàng mấy nghìn năm trước, cuộc thám hiểm của chúng ta đã trở nên vô ích. - Họ đã đi tìm chúng ta. Trong các đĩa băng có nói về điều đó. Tôi sẽ tìm ra ngay bây giờ... Chỉ huy tàu giơ tay ngăn lại. - Thế nghĩa là chúng ta đã đến được những nơi mà những người Uen chưa đến? Ông thậm chí hơi nhỏm người dậy - ý nghĩ này làm cho ông ít nhiều yên tâm, hy vọng. - Có lẽ họ cũng đã đến đó, nhưng vào thời gian khác. Họ đã nói rằng những kiến thức chứa trong các băng tinh thể bộ nhớ của chúng ta họ đều đã biết... Thử nghĩ xem - mười vạn năm, hàng triệu pác-xét, hàng trăm thế giới có nền văn minh - và tất cả trở nên vô ích! - Không có cái gì không mang lại kết quả hết. - Hay là ta đi tìm một hành tinh thích hợp khác? Chỉ huy tàu lắc đầu. - Hay là ta cứ bay lang thang vĩnh viễn - nhà sử học không chịu thôi - Chúng ta sẽ bay từ thiên hà này đến thiên hà khác như những vị thần tốt bụng, nối liền các thế giới, truyền bá kiến thức?... - Làm việc từ thiện à? Nó mang lợi bao nhiêu thì cũng gây hại bấy nhiêu. Những vật quý chỉ đáng quý khi chúng có được bằng lao động. Bằng lao động của chính mình, anh hãy nhớ lấy điều đó. Không, Vôi-lơ ạ, chúng ta là người Trái Đất, chúng ta bay về nhà thôi. - Và sẽ sống như những con vật lạ không cần thiết cho ai cả? Và ở đó, chúng ta còn sống thêm được bao lâu? - Chẳng lẽ anh còn chưa hiểu rằng, bất tử là một điều vô nghĩa sao? Chỉ một kết luận đó cũng đã đủ để trả giá cho tất cả những công sức của chúng ta. - Nhưng chúng ta không cần cho họ! - Vôi-lơ kêu lên - Không thể sống nổi khi anh không cần cho ai cả! Vừa lúc đó ngay bên cạnh vang lên một giọng nói nhẹ nhàng, khe khẽ: - Tất cả không đơn giản như vậy đâu. Chỉ huy tàu và nhà sử học cùng quay lại và trông thấy cạnh tường bóng một người với những dải băng xám lấp lánh trên đầu, ngực và đùi. - Các anh có biết chúng tôi là ai chứ? - chỉ huy tàu hỏi sau cơn sửng sốt. - Tôi đã bảo là họ không cần chúng ta mà - Vôi-lơ cau có nói. - Tất cả không đơn giản như vậy - người Uen nhắc lại. - Tại sao các anh không nói cho chúng tôi biết? - Điều đó sẽ chẳng khác gì một tiếng nổ. Chúng tôi không thể làm cho các anh mất hy vọng. Anh đã nói đúng: không thể sống với ý thức rằng mình là người thừa, không cần thiết cho ai cả. Các anh cần có thời gian để quen dần và hiểu. - Thấy chưa, Vôi-lơ, thế mà anh nói rằng không có cái gì chung. Họ cũng suy nghĩ giống như chúng ta. - Một sự an ủi quá yếu ớt. - Đây chỉ mới là bắt đầu. Sẽ còn biết bao nhiêu cái chung! - Các bạn của chúng tôi sẽ như thế nào khi họ biết rằng bao nhiêu công sức đều vô ích! Chúng tôi không có gì để thông báo cho Trái Đất; ở đó không có chúng tôi, người ta cũng đã biết hết rồi. - Không thể biết hết tất cả được - người Uen nói - Dù cho những kiến thức các anh thu thập được, chúng tôi đã biết. Nhưng có thông tin và có những kết luận rút ra từ những thông tin đó. Chính bản thân các anh cũng là một hiện tượng đặc biệt. Thông tin mới nằm chính trong bản thân các anh. Nó không thể không cần thiết. Nhưng thời gian đã ngăn cách chúng ta, và các anh toàn quyền quyết định số phận của mình. - Đúng thế - Vôi-lơ nói. - Đúng thế - chỉ huy tàu giận dữ nhắc lại - Chỉ có điều “chúng ta” đây không phải chỉ là anh và tôi. “Chúng ta” là tất cả mọi người trên tàu “Ác-tua”. Tất cả sẽ cùng nhau quyết định. Chỉ huy tàu buông người xuống ghế. Bây giờ là lúc ông cảm thấy mệt mỏi, mệt mỏi đến rã rời sau mười vạn năm lo lắng. Ông nhắm mắt, ngửa đầu ra sau rồi chậm chạp, rất chậm chạp, giơ cánh tay bỗng trở nên nặng trịch về phía bảng điều khiển và bấm nút đỏ ở trên đó. Trong tất cả các góc xa nhất của con tàu, những tín hiệu dồn dập triệu tập Cuộc Họp Toàn Thể réo rắt xoáy vào ý thức của những người đang thức và cả những người ngủ say... ĐOÀN TỬ HUYẾN dịch CUỘC GẶP GỠ TRONG THỜI GIAN V. RAI-CỐP (Bun-ga-ri) - Lác-xơ, giúp mình với! Mình không thể thoát ra khỏi nơi này được. Xtôi-an Máp-ri-cốp đang cố sức chặt các sợi dây leo to bằng cổ tay người. - Ngay bây giờ! Mình không thể bỏ qua cảnh hấp dẫn như thế này được: chàng kỹ sư Máp-ri-cốp đang đấu tranh chống thiên nhiên hoang sơ của miền Đông Miến Điện! Tiếng kêu rè rè của chiếc máy quay phim vang lên. Lát sau, một người đàn ông vạm vỡ, tóc cắt ngắn từ trong bụi cây chui ra. Anh ta dừng lại trước Máp-ri-cốp một tầm tay và mỉm cười theo dõi trận chiến đấu của Máp-ri-cốp với dây leo... - Cẩn thận, Máp-ri-cốp! Khéo không cậu lại tự chặt đứt đầu mình bằng chính con dao đó! - Cái đầu mình chẳng đáng giá bao nhiêu khi mình đi với các cậu trong cuộc thám hiểm đáng nguyền rủa này... Chà, có thế chứ! - Máp-ri-cốp đã thoát ra khỏi đám dây leo. Mồ hồi chảy ròng ròng trên khuôn mặt to rộng của anh. - Về trại thôi, tiến sĩ. Trước mặt là rừng rậm, hoàn toàn không đi được. Họ đi về phía bờ sông. Từ đó vọng đến tiếng nổ của động cơ. - Cậu nghe thấy không? Đích thị Rô-man đã sửa xong chiếc bếp dầu - chúng ta sắp lên đường được rồi. - Không hiểu từ đâu sinh ra một gã thủy văn điên rồ như thế nhỉ? - Máp-ri-cốp càu nhàu - Suýt nữa hắn cho chúng ta chết đuối. Thế mà không biết ai lại nói rằng Ba Lan là một dân tộc trầm tĩnh? - Đừng tức giận nữa! Với cái tính của cậu thì các cuộc tắm nước lạnh là rất có ích đấy. Trên một dải bờ hẹp ngổn ngang các dụng cụ, bình dầu nhờn, thùng xăng... Một người đàn ông to cao, nước da trắng, mặc quần soóc đang sửa chữa mô-tơ của chiếc thuyền hẹp, dài. Mái tóc anh hung hung rậm rạp, đôi cánh tay rám nắng màu gạch. - Xem kìa, cả người anh ta đầy dầu máy - kỹ sư mỉm cười - Này Rô-man, cậu đã sửa chữa xong chiếc tàu thủy của Nôi* rồi chứ? Theo kinh thánh, sau nạn Đại hồng thủy, thánh Nôi đã dùng một chiếc tàu để cứu loài người và các con vật sống sót. - Cứ yên tâm! Đến trận Đại hồng thủy sau, nó sẽ được chữa xong - anh chàng Ba Lan vui vẻ đáp lại. Chẳng bao lâu, ba nhà du lịch lại bơi thuyền đi tiếp. Tiến sĩ Ca rin muốn đi ngược lên phía trên theo sông nhánh. Qua những người dân địa phương, nhà khảo cổ biết được là có các đầm lầy nào đó giữa rừng rậm không thể đi qua được và ở đó còn có các cư dân rất kỳ lạ, chưa ai được nhìn thấy họ. Buổi chiều, chiếc thuyền đến một khúc sông rộng. Ở đây bức tường cây cối dày đặc, bỗng đột ngột dãn ra thưa thớt. - Ngài tiến sĩ, các đầm lầy của ngài kia kìa! - Rô-man thốt lên trịnh trọng. - Mình tin là chúng tồn tại mà. Linh cảm không bao giờ lừa dối mình - vốn dè dặt, Ca-rin để lộ vẻ xúc động qua giọng nói của mình - Nào, Rô-man, tiến lên phía trước. - Khẽ chứ, khẽ chứ! - Máp-ri-cốp cố làm cho họ bớt sốt ruột - Các cậu có định ngủ đêm ở trên thuyền không đây? Chúng ta vào bờ đi, Rô-man! Anh chàng Ba Lan ngoan ngoãn hướng chiếc thuyền đến một cụm cây xanh bao quanh giải cát hẹp. Gần đến bờ, thuyền đâm phải cái gì đó làm các nhà du lịch bị chao mạnh. - Lại một vụ đắm tàu chăng? - Máp-ri-cốp hỏi có ý châm chọc. Không trả lời, Rô-man liền nhảy xuống nước. Mức nước ở đó chỉ quá đầu gối. Anh từ từ lội đến mũi thuyền và gọi với một giọng xúc động đột ngột. - Ca-rin, lại đây nhanh lên! Ở đây có cái dành cho cậu này. Nhà khảo cổ bắt chước Rô-man, nhảy ra khỏi chiếc thuyền. Mũi thuyền độc mộc đâm vào một vật gì đó giống như thân cây. Từ dưới lớp rong sình lầy Rô-man vừa cào ra, hiện lên một mặt đá hoa cương được trang trí hoa văn phức tạp. - Lạ thật, chính đây là chiếc cột nhà thuộc nền văn minh Mông cổ đại - Ca-rin nhanh chóng xác định - Nhưng nó được đưa từ đâu đến đây? Nào, vào bờ nhanh lên, chúng ta sẽ xác định chỗ này! Sau nửa tiếng, các nhà du lịch đã dựng xong trại của mình. Họ ném các cành cây tươi vào đống lửa - làn khói hăng hắc xua đám muỗi bay đi. Phảng phất mùi thơm ngon của cà phê và bánh mì nướng. Mấy chiếc võng để ngủ mắc ở phía xa. Cả nhóm ngồi hút thuốc bên đống lửa. Những tiếng động của rừng nhiệt đới không làm họ lo lắng. Chỉ thỉnh thoảng vang lên tiếng kêu the thé của một con khỉ sợ hãi, hoặc tiếng gọi của một con hươu nào đó làm gián đoạn câu chuyện khiến họ phải lắng nghe. Đột nhiên, tiếng kêu tuyệt vọng của một người nào đó vang lên làm tất cả bật đứng dậy chộp lấy vũ khí. Ngay tức khắc vọng đến tiếng gầm giận dữ của một con hổ. Rô-man bật chiếc đèn pha cầm tay và luồng ánh sáng chói lòa xuyên thủng màn đêm. Các khách du lịch lao tới chỗ có tiếng gầm điên cuồng của con ác thú và tiếng rên rỉ bất lực của con người. Sau mấy phút, trong luồng ánh sáng, họ nhìn rõ một con hổ to lớn đang cúi xuống thân thể một người da đen nằm bất động. Con hổ không hề nhìn sang các kẻ thù mới. Ca-rin bắn một loạt súng tự động, con hổ ngã xuống bên cạnh người bị nạn. Người da đen ngất đi do sợ hãi chứ không phải do vết xước sâu trên bả vai. Máp-ri-cốp thận trọng nâng anh ta lên. Người thổ dân đó mảnh khảnh và nhỏ đến mức trông anh ta giống như một đứa bé trên cánh tay người kỹ sư. Vừa băng bó, ba người vừa chú ý đến các dấu hiệu thoái hóa khủng khiếp của người thổ dân: hai chân ngắn và nhỏ không phù hợp với kích thước thân. Anh ta gần như không có cổ, đầu mọc ngay trên đôi vai gầy gò. Hàm dưới thô thiển một cách kỳ quặc làm cho khuôn mặt của con người này có vẻ của một loài chim. - Một người đẹp! - Rô-man đùa một cách buồn rầu - Con người bất hạnh này bị đau ốm gì chăng? - Đó chỉ là hậu quả của sự di truyền những đặc điểm xấu. Điều này thường xảy ra ở những nhóm bộ lạc sống biệt lập - Ca-rin trả lời. Người bị thương lẩm bẩm điều gì không rõ, vung hai tay lên. - Có thể cho anh ta uống một ít moóc phin được không? - Kỹ sư đề nghị - Cứ để anh ta ngủ yên, sáng sẽ rõ là cần phải làm gì tiếp. Rô-man lục tìm trong túi thuốc đi đường. Một lát sau, anh đến, tay cầm ống tiêm. Ca-rin ném thêm các cành cây và các nhánh lá xanh vào đống lửa. Anh chuyển chiếc đèn pha và khẩu súng tự động gần lại. Anh nóng lòng chờ trời sáng để có thể xem xét một cách bình tĩnh các vật dùng của người bị thương. Thắt lưng gã trông thô thiển - đó là một sợi dây thừng to làm từ sợi vỏ cây cọ. Trên thắt lưng treo lòng thòng các bao dao găm bằng gỗ và một chiếc túi đựng thuốc chứa si-lích và hòn đá đánh lửa. - Ồ, một người đi săn hổ! - Ca-rin nói với vẻ chế giễu không ác ý. Anh biết tục lệ đốt tay con hổ bị giết để linh hồn ác thú không truy tìm người đi săn. Anh quan sát một cách thích thú con dao găm có cái cán thô sơ và lưỡi dao được rèn một cách tinh xảo. Khi cầm chiếc cung nặng lên tay đôi mắt anh bỗng sáng lên. Chiếc cung lớn này là một hình mẫu tuyệt đẹp ở thời kỳ hưng thịnh của nền văn minh Mông cổ đại vĩ đại. Nó được cấu tạo từ một số thanh tre và có bộ phận nhả tên phức tạp từ chiếc mai rùa được đánh nhẵn bóng. Đầu các mũi tên lớn và ngắn có các hình dạng rất khác nhau. - Chiếc cung! Anh ta lấy ở đâu ra một công trình thô sơ như thế này nhỉ? Người bị thương hoàn toàn không giống với thổ dân sống trong các rừng rậm của Miến Điện đến bây giờ vẫn còn sử dụng cung tên. Đúng hoàn toàn không có khả năng hình dung được một mối quan hệ vào đó giữa anh ta và các bộ lạc địa phương. Các đầm lầy được tách riêng ra bởi các khu rừng rậm không đi lại được, cách xa làng xóm hàng trăm cây số. Còn cái cột bằng đá hoa cương rơi vào đây như thế nào? Quả người thổ dân bị thương này rất khác với chủng loại nhân chủng học cổ đại đã được xác định... Ca-rin không tìm được câu trả lời cho các câu hỏi đặt ra. Vừa thu xếp để ngồi cho thoải mái bên đống lửa anh vừa cố gắng nghĩ về một cái gì khác. Nhưng đến cuối phiên trực, trong đầu anh vẫn mung lung các ý nghĩ, cái này mâu thuẫn với cái kia. Anh thức dậy do cảm giác là có người nào đó nhìn anh chằm chằm. Thực vậy, một đôi mắt đen sáng rực đang theo dõi anh, khi gặp ánh mắt anh, nó khép lại ngay. “Một tên láu cá - nhà khảo cổ nghĩ và đứng dậy khỏi chiếc võng - anh chàng định bỏ chạy”. Anh vươn vai, bước đến đống lửa đã tắt. Rô-man trực cuối cùng cũng đang rửa mặt. - Anh bạn chúng ta định bỏ chạy - Ca-rin nói với Rô-man. Anh cúi xuống người bị thương, thận trọng nắm lấy vai anh ta và lắc nhẹ - không có một phản ứng nào. Chỉ có khuôn mặt là méo xệch đi vì đau. Anh chàng Ba Lan mỉm cười quan sát người thổ dân. - Anh bạn tội nghiệp tưởng anh là con hổ đấy - Rô-man nói đùa sau khi vỗ nước lên mặt. - Này, chúng tôi là bạn của anh, nghe rõ không? - Ca-rin thốt ra bằng một thứ thổ ngữ nào đó. Người thổ dân vẫn không biểu lộ một dấu hiệu nào của sự sống. Nhà khảo cổ thử nói bằng nhiều thổ ngữ quen thuộc, cho đến khi người thổ dân bỗng mở mắt ra, ngạc nhiên vì nghe có người nói với anh ta bằng tiếng mẹ đẻ của mình. - Chúng tôi là bạn của anh - Ca-rin nhắc lại - Bộ lạc của anh ở đâu? Chúng tôi sẽ đưa anh về bộ lạc của anh. Anh nghe thấy không, làng xóm của anh ở đâu? - Ở kia, chỗ mặt trời mọc - người bị thương trả lời sau khi khóc ti tỉ như trẻ con. - Tôi đau. Rất đau... Tình trạng sức khỏe của anh ta thật xấu. Cơn sốt làm ảnh hưởng đến toàn cơ thể gầy gò của anh ta. Sau khi ăn sáng qua loa và cho người thổ dân ăn, các nhà du lịch quyết định phải nhanh chóng đi tới phía làng. Họ làm một chiếc cáng bằng võng và nhóm người ít ỏi đó nhanh chóng khuất trong rừng rậm. Để đi được nhanh, họ chỉ mang theo vũ khí, đài vô tuyến xách tay và thức ăn cho một hai ngày. Đồ đạc còn lại, họ xếp lên thuyền buộc thật chắc, cách bờ khoảng mười mét. Tất nhiên trên vai nhà khảo cổ còn có một chiếc máy quay phim lắc lư nhè nhẹ. Khoảng hai giờ sau, con đường trong rừng bớt rậm rạp. Trước mắt các nhà du lịch hiện ra một bức tranh mà họ ít chờ đợi được nhìn thấy ở đây. Dưới chân một ngọn núi không cao một thành phố lớn bằng đá hiện ra trăng trắng. Nhà cửa trong thành phố được phân bố gần như thành vòng tròn đều đặn bao quanh một ngọn đồi nhỏ. Ở giữa nổi lên một ngôi đền cao giống như cái bọng ong mái vòm, phía trên thu hẹp, hướng lên bầu trời tựa như tháp nhà thờ đạo Hồi. Mái của đền được chống đỡ bằng bốn pho tượng béo lùn. Mỗi chiếc đầu tượng tròn có ba mắt lồi nằm ở phía trước và hai bên. Thoạt nhìn, tưởng như trong thành phố chỉ có trẻ con. Nhưng các nhà du lịch chỉ cần lại gần hơn thì một nhóm đàn ông được vũ trang bằng những chiếc cung lắp sẵn đã vây quanh họ. Ca-rin vội nói với họ rằng các nhà du lịch và họ là bạn của nhau, họ liền bỏ vũ khí xuống. Song họ chỉ thực sự yên tâm khi nhìn thấy trên chiếc cáng có đồng bào của mình. Cả ngày các nhà du lịch được dẫn đi thăm thành phố đó. Một thành phố bị phá hủy và bị bỏ rơi, chìm ngập trong rác rưởi. Những ngôi nhà đẹp đẽ của nền kiến trúc hấp dẫn xưa kia đã biến thành cảnh đổ nát thảm hại. Chỉ có ngôi đền được giữ gìn bởi sự chăm nom không mệt mỏi của các thổ dân đã đứng vững trước thời gian. Cứ nhìn vào người dân cũng đủ để xác định nguyên nhân hoang tàn của thành phố. Tất cả bộ lạc mang trên mình các đặc điểm của sự thoái hóa khủng khiếp. Các cử động lười biếng và mệt mỏi của mọi người đã giải thích một cách hùng hồn tất cả. Trong bộ lạc kỳ lạ này, các quái thai nhiều đến mức những người khỏe mạnh cũng chưa chắc có thể nuôi nổi chúng, mặc dù trong rừng rậm nguồn thức ăn khá phong phú. Các nhà du lịch đã rơi vào một thế giới khó tin là có thật. Cái thế giới đó sẽ kết thúc bằng cái chết chậm chạp, khủng khiếp. Ca-rin suốt ngày không ngồi yên một chỗ. Anh chụp ảnh ngôi đền và một số ngôi nhà được giữ gìn, đồng thời anh chụp ảnh tất cả trẻ con, người lớn mà anh thuyết phục được. Nhưng anh không vào được sâu phía trong đền. Các thổ dân tỏ ra không hài lòng khi anh chỉ vừa mới đến gần chiếc cửa lớn. Chẳng còn cách nào khác, đành phải chờ cơ hội thuận lợi vậy. Đến tối, nhà khảo cổ mệt đến mức vất vả lắm mới đến được ngôi nhà dành cho khách ở quảng trường. Nhưng anh không thể nghỉ ngơi được. Khi bóng tối đổ xuống, trước ngôi đền có các đống lửa lớn bùng cháy. Cả bộ lạc tản ra xung quanh các đống lửa. Nhưng không có một điệu múa dữ dội nào cả. Các thổ dân ngồi hiền hòa ở trong chỗ của họ và hát một bài hát ngân dài, buồn bã nào đó. Những tiếng trống đơn điệu đệm theo khiến cho bài hát càng thêm nặng nề, u uất. - Bắt đầu một buổi lễ tôn giáo nào đó - Ca-rin nói, quên cả mệt mỏi - Buổi lễ này giống như lễ hiến sinh, có lẽ sẽ tiến hành vào sáng mai. - Còn mình thì nghĩ rằng sẽ được nhìn thấy một điệu nhảy đúng mốt - Rô-man khéo dài giọng ngao ngán - Ca-rin này, dù sao họ cũng sẽ nhảy múa một chút chứ? Nhưng nhà khảo cổ không nghe Rô-man nói. Anh rút ra một cuốn sổ tay và bắt đầu viết lia lịa. - Những lời của bài ca này rất hay song cũng rất huyền bí - Ca rin nói khi các thổ dân tản về nhà. Bài hát nói về thời kỳ bộ lạc còn hùng mạnh. Sau đó kể về một cuộc hành quân kéo dài qua các rừng rậm, có lẽ đó là một trong những cuộc di dân của bộ lạc. Tiếc rằng trong bài hát không nói gì về các nguyên nhân gây ra cuộc di dân đó. Trong thời gian di chuyển, họ thấy xuất hiện “một ông thần bằng sắt, rực lửa, gầm gừ”. Ông giận dữ vì họ rời bỏ thành phố đá của mình. Khi đó họ đi đến vùng “nước lớn” và xây dựng ở đó một thành phố mới to hơn thành phố cũ. Hình như nội dung bài hát là như vậy. Họ xây cho ông thần một ngôi đền to. Nhưng ông thần vẫn không tha thứ cho bộ lạc và tiếp tục nguyền rủa họ không tiếc lời. Chỉ có lẽ hiến sinh mới ghìm được cơn giận của thần. - Cậu ngạc nhiên cái gì! - Rô-man nói - Tất cả các vị thần đều nổi giận khi trong công việc của bộ lạc có cái gì đó không ổn. Thông thường những người tư tế hay giải thích sự thất bại của mình như vậy. - Quả vậy, nhưng mình chưa từng nghe thấy bài hát nào của thổ dân nói về ông thần bằng sắt - Ca-rin bác lại, chính điều đó khiến mình băng khoăn. - Cậu là một người kỳ cục thật, nhà khảo cổ ạ - Máp-ri-cốp bật cười - Cả cái làng cổ đại này đối với cậu còn ít phải không, Ca-rin? Cậu còn muốn gì nữa nào? Sáng mai chúng ta cần phải lên đường để trở về trạm du lịch đúng hạn. - Mình sẽ ở lại - Ca-rin trả lời cương quyết, - Mình không thể bỏ qua buổi nghi lễ này. Mình muốn quay phim nó. Ngay trước lúc mặt trời mọc cả bộ lạc đã tập trung trước ngôi đền. Mọi người đều trang điểm đẹp đẽ. Nhưng những bộ quần áo màu sắc rực rỡ chỉ làm nổi bật lên các nét dị hình của thân thể, khiến họ càng trở nên thảm hại. Khi các tia mặt trời đầu tiên mạ vàng lên nóc ngôi đền thì cánh cửa đồ sộ từ từ mở ra. Cả bộ lạc bắt đầu hát bài lễ ca và bước theo sau những người tư tế tiến vào trong đền. Ca-rin cùng với các bạn mình vội nhập vào đám rước. Thậm chí, họ còn may mắn là những người đầu tiên bước vào đền. Nhưng khi vừa bước qua ngưỡng cửa họ sững lại vì ngạc nhiên. Ở phía sâu trong đền có một cái gì đó nhìn xa giống như con người. Một quái vật khổng lồ cấu tạo từ kim loại, có màu xám mờ, chân rất ngắn, đầu tròn hình cầu, trên đó ánh lên bốn thấu kính lôi. Cái vật giống như người đó đứng trong một cái hố tròn bằng đá, có các bức tường thẳng đứng và trơn nhẵn, chắc để nó không bò ra được. Cái phần đi lại đồ sộ của người máy (vì thực ra, đây là người máy) giống như chiếc xe tăng. Có lẽ các thổ dân đã phát hiện ra sự giống nhau nào đó giữa người máy và các vị thần của họ nên đã tôn thờ người máy. Người máy khá hoàn thiện không phải chỉ bằng vẻ ngoài: ngay từ phút đầu, các nhà du lịch đã khẳng định điều đó. Khi mọi người xuất hiện, người máy từ từ quay đầu lại và một trong những “con mắt” lạnh nhạt và không chớp của nó lóe sáng, chiếu thẳng vào họ. Từ phía trong bằng kim loại nghe rõ tiếng gầm gừ báo điều dữ. Quái vật máy bắt đầu chuyển sang sắc thái đỏ - vàng dường như trong người nó có một ngọn lửa đang bốc cháy. Và khi con vật dâng lễ bị trói chạm tới người máy thì một tia chớp chói lòa lóe lên. Chính vào lúc đó Máp-ri-cốp chú ý đến ánh sáng đó được phát ra từ chiếc máy định lượng trong túi mình. - Chạy khỏi đây nhanh lên! Ở đây có bức xạ rất mạnh! - anh thét lên. Các thổ dân hốt hoảng khi những người da trắng cố đẩy họ ra khỏi ngôi đền. Sau khi nghe những lời thuyết phục của Ca-rin, tất cả mới chịu ra khỏi ngôi đền. Các tư tế là những người cuối cùng rời khỏi ngôi đền, ánh mắt họ không báo hiệu điều gì tốt đẹp. Người cuối cùng vừa bước ra khỏi ngưỡng cửa, tiếng gầm gừ im bặt... - Điều kỳ lạ gì vậy? - Rô-man trấn tĩnh lại rồi lúng túng thốt lên. - Người máy - Máp-ri-cốp trả lời - thậm chí trẻ con cũng rõ. - Ông thần bằng sắt gầm gừ - Ca-rin tiếp lời - Nhưng bằng cách nào nó gầm gừ và phát lửa ra thế nhỉ? - Rất đơn giản - Máp-ri-cốp giải thích bằng cái giọng gần như chính anh chế tạo ra người máy này - sự gầm gừ và thay đổi màu sắc chỉ nhằm làm cho kẻ thù khiếp sợ, còn tia chớp xuất hiện khi tiếp xúc với vật nào đó. Một sự phóng điện bình thường. Người tù trưởng cùng với các bô lão tiến lại phía Ca-rin. Trong khi người tù trưởng kể lại điều gì đó cho Ca-rin, các thổ dân mỉm cười đồng tình. - Ông ấy trấn an chúng ta - nhà khảo cổ dịch - ông nói để chúng ta yên tâm, không việc gì phải sợ vị thần của họ. Từ đời xửa đời xưa, họ vẫn tiến hành lễ hiến sinh và người máy giết chết con vật cũng đúng như vậy. Người máy không làm điều gì xấu đối với họ, bởi vậy không nên lo sợ, cần quay vào đền. - Điều đó hoàn toàn không được! - Máp-ri-cốp kêu lên - Cậu hãy nói với họ là ở trong đền nguy hiểm và tìm cách giải thích cho họ rõ. Ca-rin trao đổi khá lâu với người tù trưởng. Bây giờ các bô lão không cười nữa, mà chú ý lắng nghe người da trắng nói. Sau đó họ im lặng quay trở về bộ lạc. - Người máy đó lấy năng lượng điện ở đâu ra nhỉ? - Ca-rin hỏi - Bất kỳ ác quy nào cũng sẽ phải hết. Nếu đúng như lời người tù trưởng nói thì vị thần của họ ở trong đền từ rất lâu rồi. - Trong người máy có lò phản ứng hạt nhân - Máp-ri-cốp trả lời quả quyết - Sự bức xạ đã chứng minh đầy đủ điều đó. Vả lại, không có nguồn năng lượng nào khác có thể hoạt động chừng ấy thời gian mà lại không cần được nạp lại... - Lần đầu tiên mình nghe nói về người máy nguyên tử - Ca-rin nói một cách hoang mang - Vậy thì đã xảy ra. - Đích thị điều đó đã xảy ra - Máp-ri-cốp ngắt lời - Một vị khách từ vũ trụ. Chỉ không rõ là vị đó đã bị mai táng ở đây từ bao giờ. Rô-man khoát tay. - Một vị khách! Vâng, và cùng với lòng thù hận nữa chứ! Có lẽ, nên tặng cho nó một loạt đạn? - Cậu điên à? - Kỹ sư công phẫn - Bằng ấy năm con người đã gắng sức chế tạo ra bộ não điện tử, còn cậu lại muốn tiêu diệt vị sứ giả này. Biết bao nhiêu điều thú vị có thể biết được từ kết cấu của người máy! - Tất nhiên! Thậm chí mình còn ngạc nhiên là tại sao cậu không bắt tay vào nghiên cứu ngay đi? - Anh chàng Ba Lan tiếp tục - Vị ấy sẽ đón tiếp cậu bằng âm nhạc và pháo hoa nữa kia đấy. - Chính vì thế những người ở đây mới có hình thù quái gở như vậy - sau một lát im lặng, Ca-rin lên tiếng. - Các cậu thử hình dung xem - Máp-ri-cốp đáp lại - biết bao nhiêu lần họ đã kéo cái gánh nặng này qua các rừng rậm, không nghi ngờ vào số phận khủng khiếp nó mang đến cho họ. Những người dũng cảm nhất đã chết ngay sau một lần chạm vào nó. Hoảng sợ trước cái chết khủng khiếp của họ, mọi người đã làm một cái cáng lớn - các bài hát tôn giáo của họ đã kể về điều đó - và kéo nó tới đây. Có thể, chính lúc đó họ đã xây cái ang bằng đá đó để chứa nó. Họ đặt nó vào đó để nó không bỏ chạy. Mình nhận thấy phần đi lại của nó rất tốt. Và trong suốt thời gian này từ lò phản ứng hạt nhân của người máy phóng ra các tia phóng xạ gây tử vong. Thực ra, lượng phóng xạ không đủ để gây chết người ngay, song đủ để mang lại những tổn hại không thể sửa chữa được. Mỗi lần họ ca tụng nó bằng các bài hát thần thánh của mình thì nó lại phóng ra các dòng tia vô hình. Sau đó, bắt đầu sinh ra các quái thai và bộ lạc tiếp tục sinh sôi nẩy nở để rồi kết cục có được một chủng loại như ngày nay... - Họ đi tới đây, xây dựng xong thành phố đá rất nhanh, - Ca rin dường như tiếp tục câu chuyện đã được nhiều người biết - những người thợ lành nghề còn sống, thành phố mang dáng hình đẹp đẽ và nổi danh mãi mãi bởi những công trình xây dựng đặc biệt. Nhưng rồi những người thợ lành nghề chết đi. Từ những bàn tay không tự nhiên của con, cháu họ chỉ tạo ra một sự tương tự thô kệch so với các kiệt tác cũ. Tỷ lệ tử vong tăng lên một cách đột ngột. Quả bấy giờ người máy chỉ chiếu tia phóng xạ vào họ trong các buổi lễ hiến sinh. Nhưng điều đó đủ để trẻ con trông có vẻ quái dị hơn bố mẹ chúng. Một thế hệ không có sinh lực, lười biếng, thờ ơ, không có đủ khả năng đấu tranh với thiên nhiên và những điều kiện sống khắc nghiệt... xuất hiện. Thành phố mất dần đi vẻ huy hoàng của mình và bắt đầu điêu tàn... - Một cuộc sống ác nghiệt biết bao! - Rô-man ngắt lời vẻ đồng cảm - Kéo lê trên đôi vai của chính mình cái chết và tôn thờ nó như thần thánh. Những con người bất hạnh! Nhưng vì sao người máy có thể có mặt ở đây? Cậu nói gì về điều đó. - Rô-man hướng về phía Máp-ri-cốp, hỏi. - Có thể nhờ một thiết bị mở ra khi rơi. Ý kiến đó không có gì mới. - Người máy đến đây nhằm mục đích gì? - Rô-man nhìn Máp ri-cốp như một dự thẩm viên. - Thu thập thông tin trên một hành tinh lạ. Chắc chắn là người máy không đến đây theo ý thích của mình. - Nhưng người máy sẽ quay về để truyền tin như thế nào? - Thì các trạm giữa các hành tinh vẫn truyền tin từ vũ trụ về đấy thôi. Và người máy cũng sẽ truyền tin từ đây đi như vậy. Chẳng hạn, vào thời điểm khi hai hành tinh cùng nằm trong không gian ở vị trí thuận tiện nhất cho việc đó. - Mình chịu thua - Rô-man khoát tay, nhưng sau một lát suy nghĩ, anh kêu lên: - Khoan đã, khoan đã. Nếu như người máy có mục đích như các cậu nói thì tại sao chính nó lại tiêu diệt những sinh vật cao cấp mà đáng ra nó phải tìm cách tiếp xúc? - Mình cũng ngạc nhiên về điều đó - Kỹ sư mỉm cười chua xót, nhưng ánh mắt anh hoàn toàn nghiêm nghị - Thực chất, “sinh vật cao cấp” là cái gì? Nếu như tự đặt mình vào địa vị người máy... - Về vấn đề này khảo cổ học sẽ hỗ trợ kỹ thuật - Ca-rin nhận xét - Lẽ dĩ nhiên, đó phải là các đối tượng sinh vật có mức phát triển phù hợp với mức phát triển của các sinh vật chế tạo ra người máy và phái nó tới đây. - Chính thế! - Máp-ri-cốp tán thành - Không thể có cách so sách nào khác. Tất cả những sinh vật còn lại nó phải sợ vì họ có thể tiêu diệt nó. Đối với nó, họ là các thú dữ hoang dã. Nó được lập chương trình như vậy. Còn nếu như nó gặp các sinh vật có lý trí và bắt được tín hiệu thông tin của họ thì nó sẽ truyền tin đó đi theo cách thức phù hợp (mình còn chưa biết bằng cách nào), khi đó những người chế tạo ra nó sẽ bay tới đây. Nếu không tự bản thân họ mất thời gian để đến hành tinh chúng ta làm gì? Thay vào đó họ sẽ tìm trong vũ trụ các hành tinh khác, nơi họ hy vong có nền văn minh phát triển và họ sẽ bay tới đó. Mình không khẳng định giả thiết của mình đúng, nhưng mình đã lý giải lô-gích các sự việc. - Tuy nhiên có thể về phía mình, người máy đã báo tin về là đã gặp được những sinh vật có lý trí mà nó phải tìm thì sao? - Ca-rin giả định. Máp-ri-cốp bỗng tái mặt vì nỗi xúc động bị kiềm chế một cách khó nhọc. - Mình không dám nói về điều đó mặc dù chính nó không để cho mình yên - Máp-ri-cốp thú nhận - Nhưng chúng ta sẽ hiểu nhau như thế nào? Như thế nào nhỉ? - Như thế nào à, cứ hiểu như thế! Nhưng người máy thậm chí, có cho ai đến gần đâu! - Rô-man lại nổi nóng. Đột nhiên anh nâng khẩu tiểu liên lên bắn một loạt vào không khí. - Sao cậu giở chứng như thế? - Máp-ri-cốp ngạc nhiên. Rô-man im lặng chỉ tay về phía quảng trường. Ở đó các binh sĩ của bộ lạc cùng với những chiếc cung lắp sẵn tên vừa kêu lên sợ hãi, vừa chạy khỏi quảng trường. Sau họ là những thổ dân còn lại đang hốt hoảng tìm nơi ẩn náu. - Chúng ta đã làm gián đoạn buổi lễ tôn giáo - Ca-rin vừa nói vừa nạp đạn vào súng tiểu liên - cho nên họ sẽ nổi giận. - Cậu hãy giải thích cho họ rõ ông thần yêu quý của họ là cái gì - anh chàng Ba Lan đề nghị. - Rô-man à, họ không có đầu óc hài hước đâu. Sau vài phút nữa họ sẽ giết chúng ta mặc dầu chúng ta có súng tiểu liên. Mình cam đoan với cậu rằng những chiếc cung trong tay họ là cái vũ khí rất đáng tin cậy. - Chiếc đài vô tuyến! - Đột nhiên Máp-ri-cốp hét lên bằng một giọng the thé, ít khi thấy ở anh - Chúng ta sẽ liên lạc với họ bằng đài vô tuyến. Điều đơn giản như vậy mà tại sao mình không nghĩ ra ngay? Vài phút sau, Máp-ri-cốp đã điều chỉnh một chiếc đài vô tuyến điện nhỏ. Chiếc kim đỏ từ từ di chuyển trên thang chia độ. Thỉnh thoảng người kỹ sư dừng lại giây lát lắng nghe và các bạn anh nhìn anh chờ đợi. Anh lại tiếp tục tìm làn sóng. Bỗng đôi mắt anh vụt sáng lên rạng rỡ. Anh vừa nói vừa thở hổn hển: - Hình như mình đã bắt được sóng. Chưa bao giờ mình lại nghĩ rằng người máy hoạt động trên làn sóng đó. Phải rồi, chính là người máy! Rô-man nhảy bổ về phía cửa đền để quan sát, còn Máp-ri-cốp truyền tín hiệu đầu tiên. Sau vài giây, có tín hiệu đáp lại - sự lập lại chính xác của tín hiệu truyền đi. Lúc ấy Rô-man liền ra hiệu gọi các bạn mình. - Hãy giữ liên lạc! - Anh chàng Ba Lan thì thào khi các bạn chạy đến với mình - Người máy ngừng gầm gừ mặc dầu mình đang đứng ngay trước mắt của nó. Người máy đứng bất động, chỉ có cái đầu dường như tìm kiếm cái gì, quay đi quay lại ngày càng nhanh. Thân người máy trở nên xám đục. Và khi Máp-ri-cốp vừa gõ tiếp cần phát tín hiệu thì trên ngực người máy bắt đầu từ từ mở ra một chiếc màn ảnh màu xanh lam. Chẳng bao lâu, trên màn ảnh hiện ra hình ảnh một hành tinh mà xung quanh có bốn vệ tinh với kích thước khác nhau quay nhịp nhàng. - Làm thế nào biết được những bí mật gì ẩn náu sau màn ảnh này? - Rô-man nói, anh hoàn toàn quên mất mối ác cảm của mình đối với người máy. - Hãy tin là chúng ta sẽ khám phá ra các bí mật đó - Máp-ri-cốp trả lời - Có thể, không chóng đâu và cũng không dễ dàng, nhưng chúng ta sẽ khám phá ra. Cho đến bây giờ người máy vẫn chưa hiểu là chúng mình truyền đi cái gì, chắc là nó không nghiên cứu ngôn ngữ của Trái Đất lúc ở nhà. Tuy nhiên, vừa mới nhận được những tín hiệu theo một trình tự lô-gích, tức thì nó tạm ngừng phản ứng bảo vệ và dùng màn ảnh để bày tỏ thiện chí của mình. - Có phương tiện kỹ thuật, các cậu dễ dàng hơn biết bao - Rô man mỉm cười và ngoảnh lại nhìn. Các thổ dân tiến đến gần anh, họ không rời mắt khỏi màn ảnh của vị thần kim loại. Có lẽ họ nghĩ rằng, đó là sự biểu lộ lòng khoan ái đó đối với ba người da trắng, vì vậy các cung tên của họ đã được hạ xuống một cách hòa bình. - Bây giờ chúng ta rõ là cần phải làm gì - Máp-ri-cốp tiếp tục - Trước tiên, cần phải làm cho người máy hiểu chúng ta, sau đó sẽ hỏi nó cặn kẽ. Chỉ lúc đó chúng ta mới đạt được việc liên hệ với những người cử nó đến Trái Đất. Rõ ràng là, không có lời mời chính thức, họ sẽ không đến thăm đâu. - Cậu chuẩn bị giao thiệp với người máy bằng thổ ngữ địa phương hay bằng một thứ ngôn ngữ phương Tây nào thế? - Ca-rin hỏi dò, giữ vẻ mỉa mai của mình, thậm chí cả trong lúc không bình thường như thế này. - Có những loại ngôn ngữ chính xác hơn - kỹ sư trả lời - ngôn ngữ toán học và các định luật vật lý. Nó sẽ hiểu được những ngôn ngữ đó. Các chuyên gia sẽ tìm ra phương pháp mà bằng phương pháp đó người máy gửi tin đến hành tinh của nó để liên lạc với những người chế tạo ra nó. Trong khi họ nói chuyện, cách xử sự của người máy không thay đổi. Nó nhanh chóng chuyển dịch cái phần đi lại của mình mong muốn tiến lại gần họ hơn. Nhưng không có sự giúp đỡ của người khác không bao giờ nó có thể thoát ra khỏi cái lồng đá của mình. Có một cái gì đó cảm động và to lớn trong tất cả hành động ấy và các nhà du lịch cảm thấy điều đó. Hai nền văn minh, cho đến bây giờ vẫn chưa biết gì về nhau, đã vượt qua thời gian và không gian, xiết chặt tay nhau... PHẠM THỊ HẠNH dịch NGƯỜI CHẠY TRỐN V. GÔ-LÔ-VA-SÉP (Liên Xô) Chiếc máy bay trực thăng hạ thấp độ cao đến hai trăm mét và nghiêng mình lượn một vòng tròn. - Anh có thấy cái vệt vàng kia không? - Người lái hỏi Bê-rê-din - Đây là bãi đất hoang Con Rồng. Ở trung tâm là cái nanh của Con Rồng. Cái nanh là một chiếc cột bằng đá hoàn toàn phẳng lì có đường kính khoảng một trăm thước và chiều cao hơn nửa cây số. Xung quanh chiếc cột đá là một “hồ” cát rộng. Ba mặt của nó bị bao bọc bởi rừng rậm, còn mặt thứ tư bị chắn bởi những sườn đá dốc màu tím của dãy núi Xa-lai-a. - Nào, hãy hạ cánh xuống đỉnh cột đá kia - Bê-rê-din chỉ tay. Người phi công thả cần lái, và chiếc máy bay trực thăng hạ xuống giữa đỉnh tảng đá lớn. Từ nơi đây, bãi đất hoang Con Rồng trông như một thảo nguyên vô tận, phẳng lì đến kỳ lạ. Trên đó, Bê-rê-din không nhìn thấy một hòn đá, một bụi cây, chỉ thấy mặt trời vàng nhợt nhạt nằm trên đường chân trời và cái vòm trời trống rỗng màu trắng, miêu tả một bức tranh của sự im lặng chết chóc. Gió cũng chỉ hơi thoang thoảng dường như sợ phá vỡ cái không gian yên tĩnh này. Bê-rê-din dẫm một chân trên khối đá nguyên màu da lươn phủ đầy những hoa văn của các lá mít nhỏ li ti, hơi mỉm cười. Chiếc nanh Con Rồng khác với đài kỷ niệm, nó như là tấm bia mộ của thời kỳ tạo sơn đã bị lãng quên, một đài lưu niệm mà thời gian đã mài nhẵn các bề mặt đá sần sùi, xóa sạch mọi dấu vết ban đầu của nó. Khi còn ở trên không trung, Bê-rê-din mở máy tính Gây-ghe và máy đo nồng độ, nhưng cả hai đều im lặng, có nghĩa là không có hiện tượng phóng xạ trên bãi đất hoang Con Rồng. Nhưng hẳn phải đã xảy ra một điều gì đó cho nên người ta mới đưa đến đây một chuyên viên của Trung tâm nghiên cứu các hiện tượng thiên nhiên xảy ra cực nhanh thuộc Viện Hàn lâm khoa học Liên Xô. - Này, anh có được nghe những câu chuyện thần thoại của địa phương không? - Bê-rê-din vừa đi đến cuối tảng đá vừa hỏi. - Để làm gì những câu chuyện đó, nhưng...người ta nói nhiều rằng đây là một mảnh đất cằn cỗi. Thú vật xung quanh bãi đất này không sống được. Theo truyền thuyết, những vùng phụ cận này là chỗ Con Rồng đang sống, nó làm khô cạn trái tim của con người bằng hơi thở của nó. - Thật mơ mộng! Thật kỳ lạ! Ở đây không có tính phóng xạ, thật là kỳ lạ. Nhưng hai ngày trước đây... Hai ngày trước đây trong vùng này đã xảy ra một cơn bão từ mà tâm của nó nằm ở bãi đất Con Rồng. Còn những vệ tinh nhân tạo đã phát hiện ra ở đây có nguồn phóng xạ xuất hiện và biến mất một lần trong năm. Bê-rê-din đã bay đến ngay dãy Xa-lai-a sau khi tin tức này vừa mới kịp đến Trung tâm. Nhưng khi đến nơi thì hiện tượng phóng xạ lại biến mất. - Thật kỳ lạ - Bê-rê-din ngẫm nghĩ và lặp lại. Người phi công nhìn ra ngoài buồng lái. Nét mặt anh ta bỗng dưng cau lại như có một điều gì áy náy trong lòng. - Tự nhiên tôi muốn thoát khỏi nơi đây, càng nhanh càng tốt. Anh có ý nghĩ như thế không? Do những lời này, một cảm giác khó chịu đến với Bê-rê-din, hình như có một con người xa lạ nào đó đang nhìn vào lưng anh. Cái cảm giác đó thật sâu sắc và thực tế, làm cho anh vô tình lùi lại, cảm thấy mồ hôi đổ ra trong lòng bàn tay. Hàng chục cây số quanh đây không có một sinh vật nào, ngoài hai người họ, nhưng cảm giác về cái nhìn ở phía sau lưng không biến mất, càng tăng lên và cuối cùng đã trở thành hiện thực. - Ôi, quỷ! Chúng ta đi thôi! Bê-rê-din chui ngay vào buồng lái và đóng sập cửa lại. - A ha... - người phi công lắp bắp - Anh cũng buốt lạnh sao? Chiếc máy bay trực thăng vút lên không, phía dưới thấp thoáng những hờ dốc đá lùi lại và mặt cát bằng phẳng đổi sang màu vàng da cam. Chiếc nanh Con Rồng đã ở xa tít tắp. - Chúng ta đậu trên cát chứ? - Bê-rê-din hỏi, ngoái nhìn lại khối đá bí ẩn, mà sự bất thường kỳ lạ của thiên nhiên đã dựng lên như một đài kỷ niệm giữa bãi cát. Đây có phải là do những bàn tay con người tạo lập nên không? Nhưng ai làm, làm khi nào và chủ yếu để làm gì? Người phi công lắc đầu: - Không thể đỗ lên cát được. Mấy phút sau, chiếc máy may trực thăng lơ lửng trên giải đất hẹp ở cửa rừng và hạ xuống nhún nhảy trên đôi càng bánh xe. * * * Chỉ có bây giờ, Bê-rê-din mới chú ý rằng cách anh chỉ độ năm mươi bước là một dải đất khô, vùng đất cằn kỳ lạ như thế nào ấy. Những thân cây cong queo xù xì với những cành khẳng khiu trụi lá tạo nên một dải tử địa xám xịt dọc theo bãi cát. Rừng xanh có sức sống chỉ bắt đầu ở xa xa giải đất này với chút sức lực mòn mỏi. Bê-rê-din thắc mắc nhìn dải rừng đầy gai góc với những cây bá hương khô cằn, bỗng người phi công gọi anh: - Anh xem này - người phi công nhặt một viên đá và ném xuống mặt cát. Viên đá rơi xuống và biến mất, dường như không phải rơi xuống cát, mà rơi xuống nước. Người phi công ném thêm một viên nữa, lần này gần hơn, nhưng kết quả vẫn xảy ra như trước - Có sóng nhẹ. - Có sóng? - Bê-rê-din ngạc nhiên - Mặt cát lại phẳng lì, đây không phải là cát, không phải là mặt nước gợn lăn tăn. Có sóng... Tất cả phải đến hai chục cây số chăng? - Đến thế đấy. Khi bắt đầu có gió, cát chảy thành dòng, chính anh cũng đã thấy. Nào chúng ta lấy mẫu thử chứ? - Nhất định rồi. Và ngày mai sẽ lấy thêm người giúp việc, mang theo lều và tất cả những gì cần thiết. Chúng ta sẽ tắm nắng. “Còn như nếu nanh Con Rồng là một công trình chưa biết và sóng cát là một vùng bảo vệ? - một ý nghĩ kỳ lạ vụt đến - Tại sao lại không thể như vậy?”, - và Bê-rê-din tập trung sức lực vào làm việc. Nửa giờ trôi qua. Khi anh đã lấy đủ những mẫu đất cần thiết, chuẩn bị đưa về máy bay, thì ở phía chân trời, xa xa, trên vùng trung tâm của bãi cá, đột nhiên bùng lên một ngọn lửa màu tím nhạt, bình nguyên cát bỗng đầy khói, và qua vài giây, một xoáy gió nóng bỏng bốc lên sập xuống khu rừng và mang theo những tiếng gầm réo khủng khiếp. Sóng không chỉ quẳng Bê-rê-din sâu vào trong rừng gai. Anh tỉnh lại khi những cành gai nhọn cào cấu thân thể và tiếng gầm réo dịu đi như đã vượt quá xa rồi. Bây giờ anh có cảm giác như nghe thấy tiếng ầm ì của thác nước đổ ở khoảng cách xa xa. - Anh còn sống không - Bê-rê-din gọi hỏi người phi công. - Rất có thể như vậy - người phi công trả lời qua đám bụi vàng dày đặc. Bê-rê-din hướng về phía giọng nói, tiến đến máy bay và ngồi xuống bên cạnh anh phi công. - Cái gì đã xảy ra thế nhỉ? - Anh mà hỏi tôi? Đấy, chiếc máy bay đã bị lật đổ, bây giờ cần phải dựng nó dậy... Lúc cơn lốc ào đến vùng chiếc nanh Con Rồng, nó đã đẩy tôi văng ra khỏi máy bay. - Thiên thạch? Hay là những sự thử thách bất hạnh nào đó? Người phi công nhún vai, ho. - Phỏng đoán để làm gì? Chúng ta cứ chờ cho bụi lắng đọng hết, sẽ hay. * * * Màn khói vàng tan đi khá nhanh, đã nhìn thấy rõ rừng, thảo nguyên và bầu trời xanh lơ. Ở phía vang lên tiếng nổ bất ngờ bây giờ vẫn còn một cột khói xanh đen bốc lên ở phía dưới là những giải khói màu da cam. Khói cùng những tiếng vang ầm ì phình rộng ra thành một đám mây dày đặc lan dần theo bãi cát. - Ở đấy đang cháy gì thế? - Người phi công lấy tay che mắt nhìn và hỏi - Chính những tảng đá... Bê-rê-din đứng bên cạnh, căng mắt nhìn. Sau đó nhớ đến chiếc ống nhòm của mình, anh chạy vào buồng lái. Bất ngờ anh nhận thấy ở một khoảng cách không cao trên bãi cát một vệt đen đang chuyển động. Nó chuyển động rất chậm như là bơi trong không khí, và hình dáng của nó có cái gì rất khác thường. Không nói gì với nhau, hai người chạy dọc theo cửa rừng đến chỗ vệt đen cần phải bay tới, nhưng chưa đến nơi. Bê-rê-din đã khẳng định rằng đấy là một con người mặc bộ quần áo đen. Anh ta hơi trong một tư thế không tự nhiên, cách mặt đất khoảng ba thước, không treo vào cái gì cả. Nếu người lái không làm gẫy một nhánh cây khô dài thì con người xa lạ sẽ bay qua bên cạnh. Bây giờ thì anh ta dừng lại, xoay vòng xung quanh nhánh cây khô và bỗng dưng rơi phịch xuống đất dường như những sợi chỉ vô hình treo anh ta bị đứt cùng một lúc. Bê-rê-din đi vòng quanh rồi cúi xuống nhìn vào mặt của con người xa lạ. Bộ mặt của anh ta, không có gì đáng nghi ngờ, là bộ mặt của một con người với đôi mắt từng trải. Bê-rê-din nhận thấy cả cái hình bầu dục của mắt thật hoàn thiện. Đôi mắt mở to nhưng hơi tối, đôi mắt không có thần sắc, chiếc mũi thẳng và cái mồm quá bé nhỏ, hàng lông mày lại quá rậm... Con người? Hay là? - Thật kỳ lạ - người phi công bắt gặp cái nhìn của Bê-rê-din và nói. Ngay tức khắc, cái bóng tối trong con mắt của người lạ biến mất. Mấy giây trôi qua, đôi mắt trở nên trong suốt và nhấp nháy như ánh điện. Người lạ mặt bỗng dưng thay đổi tư thế, từ nằm chuyển sang ngồi và cặp mắt kỳ lạ không rời khỏi đám mây bụi và khói ở phía chân trời. Sau đó anh ta cau mày, giọng nói trầm hẳn xuống và phát ra rất chậm. - Lại một sai lầm cuối cùng… - Anh là ai? - Bê-rê-din cố gắng dấu vẻ bối rối, hỏi. Người lạ mặt quay đầu lại. - Nhân địa - với nỗi buồn bất ngờ, anh ta dừng lại một chút - Các anh có thể gọi tôi là Đê-ông. Hoàn cảnh hiện tại quá vui vẻ phải không?! - Hoàn cảnh hiện tại, tất nhiên là như thế... - Bê-rê-din thì thầm - Nhưng, anh là một con người... Nói chung... Nhưng con người không biết bay... Người lạ mặt tò mò nhìn Bê-rê-din và người phi công rồi bỗng nhiên mỉm cười. Dù sao, cái cau mặt của anh ta cũng giống như một nụ cười. - Tôi không nói tôi là con người - anh ta vẫn phát âm với giọng trầm trầm - tôi chỉ là nhân địa. Người lạ mặt bất ngờ lại nằm xuống: - Ngoài ra, tôi còn là Người chạy trốn. Bê-rê-din nhìn người phi công lúng túng như đang lên cơn sốt. Làm gì bây giờ? Tình trạng quá mạo hiểm, mặc dù anh đã chuẩn bị đón gặp những sự bất ngờ nhất - một năm làm công tác nghiên cứu ở Trung tâm dạy cho anh biết đón nhận các bước ngoặt của những sự kiện bất ngờ như thế. - Theo anh, cần phải làm gì bây giờ? - anh hỏi người phi công - Cần phải đưa con người kỳ lạ này về Mát-xcơ-va. - Không - Đê-ông chen vào - Cuộc sống của tôi không còn bao nhiêu thời gian nữa. Tôi chỉ kịp trả lời những câu hỏi của các anh. Hãy hỏi nhanh lên. * * * Bê-rê-din lắng nghe Đê-ông với một thứ cảm giác mơ hồ có cái gì đó lẫn lộn giữa sự chua xót kỳ lạ với sợ hãi. Anh không thể kiểm tra đến cuối cùng nguồn gốc của Đê-ông, không thể quyết định một mối quan hệ như thế nào đối với anh ta. Theo lời kể của con người kỳ lạ, thì cách đây hai trăm triệu năm, trên trái đất này đã tồn tại một nền văn minh rực rỡ, mà vì một nguyên nhân nào đó (Đê-ông không muốn giải thích rõ), nền văn minh đó bị biến mất từ thời cổ xưa. Chỉ có một số ít người, trong đó có Đê-ông, kịp chạy thoát về tương lai, đã tìm thấy hàng triệu năm sau một nền văn minh mới, trẻ tuổi, nóng bỏng và... không an toàn. - Vâng, một nền văn minh không an toàn - Đê-ông nhắc lại - Thật đáng tiếc là chúng tôi không thể lựa chọn. Các anh, những con người, có hai dòng năng lượng đối lập nhau! Cùng một lúc các anh phát ra hai dạng năng lượng: phá hoại và sáng tạo! Các anh không biết rõ rằng cảm xúc của các anh là nguồn phóng. Năng lượng phá hoại là sự độc ác và lòng căm thù, năng lượng sáng tạo là sự hảo tâm và lòng nhân đạo. Chỉ có một nguồn phóng ra năng lượng, đó là sự cảm xúc; nhưng các dạng năng lượng khác nhau, như là máy móc của các anh dùng để sáng tạo khác với máy móc dùng để phá hoại. Thậm chí các anh nghi ngờ việc các anh đang có trong mình một sức mạnh khổng lồ, đầy đủ khả năng để sáng tạo ra cả thế giới! Và các anh đã làm tổn hao cái sức mạnh này một cách quá hào phóng, và thậm chí các anh không biết rằng mình đã phí phạm sức mạnh của mình một cách ngu ngốc như vậy. - Tại sao nền văn minh của chúng tôi là không an toàn? - Bê-rê din hỏi sau một lúc im lặng kéo dài - Nó có mối liên quan gì? - Trong những năm gần đây, các dụng cụ của chúng tôi đã ghi được một làn sóng tăng lên rất nhanh về sự tổn thất vô nghĩa của năng lượng sáng tạo, và chúng tôi có đầy đủ kinh nghiệm để hiểu rằng điều này sẽ dẫn đến hậu quả gì. Đúng, thiên nhiên không chịu được sự thờ ơ của con người đối với việc năng lượng phá hoại đang tăng lên một cách kinh khủng. Điều này chúng tôi đã trải qua cách đây hai trăm triệu năm trước khi các anh ra đời. Các đồng chí của tôi đã gặp may hơn. Nhiều bạn của tôi đã chạy trốn về quá khứ cổ xưa. Còn tôi, tôi bị sai lầm hai lần, chính sự chạy trốn của tôi là một sai lầm - giọng nói của Đê-ông hạ thấp xuống đến thì thầm - Và tất cả cuộc sống… - Còn tiếng nổ này? - Bê-rê-din hỏi. - Quán tính thì quá lớn, khi tôi muốn dừng lại - Đê-ông thầm thì - bộ phận đảo ngược thời gian bị hóc - Anh ta chuyển sang nhìn màn khói đang loãng dần ở phía chân trời. Mười lăm phút sau, người phi công sắp xếp ở phía sau ghế ngồi một chỗ đặt Đê-ông. Thân thể của người chạy trốn khỏi thời đại của mình nặng một cách kỳ lạ. Anh ta không phản đối, chỉ nói: - Các anh chở tôi đi thật phí công, không một ai đủ sức mạnh để giúp đỡ tôi. Tôi không có hình dạng con người... đúng như vậy. Hình dáng tôi hiện giờ, tất cả những “tay” “chân” này đều do các anh tưởng tượng ra, cũng như cái thứ “tiếng Nga” mà tôi nói chuyện với các anh. Các anh và các bạn của các anh sẽ nhìn thấy tôi hoàn toàn khác bây giờ ... Bê-rê-din không ngạc nhiên, chỉ cúi đầu, khó mà biết anh bị xúc động bởi cái gì? - Thứ năng lượng ác độc ... - anh nói khi ngã mình trên chiếc ghế đệm - Đây phải chăng là một quy tắc? - Tất nhiên - Đê-ông nói hăng lên - Các sự sắp xếp đều theo quy tắc. Năng lượng phóng ra có quang phổ và mỗi một cảm xúc tương ứng với một giải. Thật là một sự mỉa mai của thiên nhiên - Các anh là một trong những người sáng tạo vĩ đại mà không biết sức mạnh sáng tạo to lớn của mình. “Sức mạnh to lớn - có thể - Bê-rê-din ngẫm nghĩ, trước mắt anh thấp thoáng những bức tranh hoạt động của con người - Nhưng đồng thời có cả những sức mạnh đáng sợ! ... Tất nhiên, nếu tất cả điều này không phải là một trò đùa hay là một cơn hoang tưởng. Ở con người còn có bao nhiêu sự độc ác và lòng căm thù, sự vô tình và lòng đố kỵ! Có thể, theo luật tiến hóa, nó không mở ra cho chúng ta cùng một lúc tất cả sự hùng mạnh của chúng ta. Trước hết, cần phải học tập để phóng ra một thứ năng lượng của sự hiền hậu và lòng vị tha ... Sức mạnh đó sẽ đến với chúng ta từ quá khứ xa xôi, phải chăng chính vì rằng mọi sự xấu xa đã trở nên bất lực trước cái tốt đẹp hùng hậu? Tuy vậy, có thực hay không cái thứ năng lượng của cảm xúc? Và nó biểu thị ra như thế nào? - Phải chăng điều này có nghĩa là sự điều khiển năng lượng độc ác và sự hảo tâm? - Bê-rê-din hỏi. Đê-ông im lặng một phút. Chiếc động cơ phụt khói, người phi công không quấy rầy cuộc nói chuyện, một vài lần anh rời khỏi buồng lái và leo lên phía trên. Cuối cùng anh mở máy, và buồng lái rung lên. Sau đó lại vang lên giọng nói của Người chạy trốn. - Tôi rất hân hạnh được trao cho anh mọi sự hiểu biết về thứ năng lượng hiền hậu, tốt đẹp, vị tha của bản thân mình, mặc dù điều này không an toàn. Nhưng tôi tin rằng, anh có thể sử dụng sự hiểu biết này không phải chỉ cho mình. Đôi mắt Đê-ông phát ra một thứ ánh sáng trắng. Bê-rê-din bỗng thấy chóng mặt, và cố níu lấy một chiếc thanh ngang ở trên đầu. Trong lúc ấy thân thể của Đê-ông bỗng nổ bùng lên thành một đám khói đen. Khói tràn ngập buồng lái và tất cả gần như ngạt thở. Bê-rê-din đạp tung cửa và rơi bịch xuống đất vừa thở vừa ho, lồm cồm bò ra xa chiếc máy bay. Từ chiếc máy bay khói bốc lên ngùn ngụt như từ miệng núi lửa. Anh nhìn thấy người phi công bị hất tung về một phía và đang gào lên một cách tuyệt vọng. Động cơ đang làm việc, cánh quạt đang quay, những luồng khói đen bị đè dí xuống mặt đất: “Anh ta đã chết - những ý nghĩ rối tung như trong cơn sốt - Anh ta đúng, chúng ta không thể cứu anh ta được... Nhưng, tuy vậy, điều này có cái gì không thực... và sự thương tiếc anh ta...”. Đôi mắt cay và chảy nước, cái ho như cào xé trong cuống họng, đầu óc cứ quay cuồng, Bê-rê-din, hai tay cào trên mặt đất cố bò ra xa khỏi máy bay. - Và khi ấy tôi bị ngất đi... - Bê-rê-din liếm đôi môi khô nứt nẻ và im lặng. - Thật thú vị. - Bô-ga-ép sửa lại chiếc áo choàng đang tụt khỏi vai và nói - Rất thú vị... và giống như thực. Song bắt buộc phải làm phiền lòng cậu - tất cả điều này, hoặc là do ma ám hoặc là do tưởng tượng, hoặc là cậu tự bịa đặt ra. Cậu hãy chọn lấy một trong ba cái đó. - Các anh cứ hỏi người phi công, anh ta sẽ khẳng định. Bô-ga-ép cau mặt, đứng dậy khỏi ghế và đến gần chiếc cửa sổ của căn lều. - Người phi công đã chết - anh buồn rầu nói - Khi nổ cái bọc khí đáng nguyền rủa này, chiếc máy bay rơi xuống đất và động cơ bị nổ tung. - Cái bọc khí nào? - Bê-rê-din thì thầm - Chiếc máy bay bị nổ tung? Không thể... - Có thể. Họ đã tìm thấy anh ở sâu trong khu rừng khô, còn anh ta... họ đã tìm thấy anh ta vùi trong cát, nhưng đã quá muộn. - Bọc khí! - Ở những chỗ rỗng trong lòng đất chứa đầy khí. Chắc là trước đây, khí bị hút một phần đến vùng bãi đất hoang Con Rồng còn khi bọc khí bị nổ, sóng khí dội xa đến hàng chục cây số xung quanh vùng bãi đất hoang. Từ đấy cậu bị tức thở và sinh ra ảo giác. Bê-rê-din nhìn cánh tay quấn băng của mình. Ảo giác ư? Không có gì cả ư? Không có người chạy trốn kỳ lạ từ cái thời kỳ quá cổ xưa ư? Không có cái con người có tên là Đê-ông và không có cả cuộc nói chuyện giữa họ ư?... Bỗng dưng Bê-rê-din nhớ lại: “Tôi sẽ trao cho anh sự hiểu biết về thứ năng lượng của sự hiền hậu, lòng vị tha...” Đê-ông muốn nói gì? Rõ ràng là có anh ta! - Anh tháo hộ băng cho tôi - Bê-rê-din đề nghị nhỏ nhẹ. - Để làm gì? - Bô-ga-ép ngạc nhiên kêu lên. - Đề nghị anh giúp tôi, tháo băng ngay ra cho tôi. - Cậu điên à? - Bô-ga-ép sợ hãi nhìn vào mắt Bê-rê-din. - Tháo ra cho cậu để làm gì? Bác sĩ sẽ vứt tớ ra khỏi cửa sổ, mặc dù tớ là thủ trưởng của cậu. - Họ không vứt anh đâu. Anh giúp tôi nhanh lên. Trên cánh tay hiện lên những vết vàng vàng của chỗ bị dập thương và những vết cứa lở loét. - Nào, làm gì tiếp theo? Bê-rê-din cũng nhìn cánh tay của mình. Nét mặt của anh trở nên khắc khổ và đăm chiêu. Sau đó Bô-ga-ép nhìn thấy hai cánh tay của Bê-rê-din bỗng nhiên ngời sáng lên, những vết lở và chỗ dập thương biến mất. Bê-rê-din kiệt sức ngã xuống gối, nằm thở một lúc và vui vẻ nhìn Bô-ga-ép đang tái mặt. TRÂN LÊ dịch THIÊN SỨ CHẾT NHE-XƠ-VÁT-BA (Tiệp Khắc) Trời rạng sáng. Bóng tối lui dần, cảnh vật xung quanh sáng lên rực rỡ. Bầu trời trong xanh. Buổi bình minh chết! Sau vài giờ nữa, trên bầu trời sẽ có một ngôi sao bay lên bùng cháy thành ánh sáng trắng chói lòa. Bầu trời tràn ngập thủy ngân nóng chảy sẽ sấy khô bề mặt của hành tinh này, thiêu đốt tất cả. Hành tinh bị nóng chảy ra cùng với ngôi sao kia sẽ tạo thành một khối lấp lánh khổng lồ. Tôi biết chắc điều đó. Chính vì vậy mà chúng tôi bay đến đây. Vài ngày trước chúng tôi ở khu vực Mười tám của Thiên hà đã được thông báo rằng, ngôi sao An pha-4 Đảo đá có thể biến đổi, chắc sẽ bốc cháy. Và vì các nhà bác học phỏng đoán rằng ở gần ngôi sao này có thể có một số hành tinh có sự sống, chúng tôi được lệnh lên đường. Tôi thấy lo lắng quá! Đã từ lâu ở trạm vũ trụ của chúng tôi không có một chuyến bay nào đến các ngôi sao Mới, bởi vì người ta cho rằng các chuyến bay này đặc biệt nguy hiểm. Tôi mới làm việc ở đây được một năm và chưa trải qua một cuộc mạo hiểm nào. Ở gần An pha-4 Đảo đá có chín hành tinh. Trong số đó có ba hành tinh được bao bọc bởi một bầu khí quyển dầy đặc chứa ô-xy. Chúng tôi nghiên cứu từng hành tinh riêng biệt và nhận thấy trên hành tinh thứ ba có các hiện tượng rất thú vị. Một phần hành tinh phủ đầy nước. Thoạt đầu, chúng tôi giả định rằng các sinh vật có trí tuệ ở đây sống trong các biển nhỏ giống như trên các hành tinh khác. Nhưng từ độ cao lớn đã có thể nhận thấy một số lục địa có nền văn minh: những cụm nhà lớn, những cánh đồng canh tác hình tứ giác hiện rõ. Đây đó nhà cửa chen chúc: rõ ràng rằng việc xây dựng thành phố đương ở mức thô sơ. Chúng tôi cố gắng thỏa thuận với cư dân trên hành tinh này vì chỉ huy của chúng tôi không muốn gây chiến, hoặc thậm chí ngay cả những trận đụng độ nhỏ đơn giản với họ. Bởi vì giờ đây chúng tôi đang mang đến cho họ một tin bất hạnh. Chắc gì họ có thể chịu đựng được nhiệt độ cao khi ngôi sao bốc cháy. Họ chỉ còn lại một cách là chuyển sang hành tinh khác, nhưng có lẽ nền văn minh ở đây chưa đạt tới mức có thể thực hiện được việc đó. Nếu như họ có khả năng chuyển sang một hành tinh xa xôi nào đó thì chắc hẳn họ sẽ không cần chờ đợi sự báo trước của chúng tôi. Rõ ràng là kỹ thuật của họ còn ở mức thấp: chúng tôi gọi họ trên tất cả các sóng bằng các mã đơn giản, nhưng không một ai đáp lại. Chắc hẳn họ cũng chưa dùng điện. Chúng tôi chỉ còn cách hệ thống các tài liệu chúng tôi đã thu thập được sau vài lần bay quanh hành tinh này và chuyển nó đến Viện vũ trụ để nghiên cứu so sánh các nền văn minh. Còn phải đăng ký một vài tin tức cho cơ quan thông tin Thiên hà. Một chuyên viên của cơ quan này suốt thời gian chúng tôi bay trên đường liên tục quấy rầy chúng tôi bằng những câu hỏi ngu ngốc của mình. Sau đó, chúng tôi phải bay về hướng chính ngôi sao để xác định các nguyên nhân bùng nổ sắp xảy ra để biến đổi thành một ngôi sao Mới. Chính cái ý định đó đã đưa chúng tôi đến thảm họa. Ngôi sao đã bắt đầu biến đổi. Do không nhận ra nhiệt độ của nó đã tăng, nên khi chúng tôi mở động cơ thì xảy ra chập mạch làm bộ điều chỉnh ngừng hoạt động. Thế là chúng tôi biến thành một vệ tinh vĩnh cửu của hành tinh thứ ba. Tình trạng báo động lập tức được thông báo. Nhưng vì đã quen với những biến cố như vậy nên chúng tôi không ý thức ngay được sự nguy hiểm đang đe dọa. Bộ điều chỉnh ngừng hoạt động - một rủi ro không lớn. Chúng tôi sẽ sửa chữa, có gì quan trọng đâu. - Sau ba mươi giờ, chúng ta có thể bay thoát ra được - người kỹ sư thông báo dứt khoát và mặt anh bỗng tái đi. Tôi rùng mình. Ba mươi giờ! Trong khoảng thời gian đó tất cả các hành tinh gần ngôi sao sẽ biến thành hơi kim loại. Còn chúng tôi là vệ tinh của một hành tinh! Người chỉ huy tập hợp chúng tôi trong phòng họp. Anh phân công công việc và hạ lệnh tất cả mọi người phải tham gia sửa chữa bộ điều chỉnh. - Chẳng lẽ các anh không hiểu đó là công dã tràng ư? - Tôi kêu lên sau khi nhìn vào các khuôn mặt nghiêm nghị, rắn rỏi - Chúng ta chữa bộ điều chỉnh làm gì nếu như vài tiếng nữa nó sẽ bốc cháy cùng với chúng ta? Thật là một việc làm vô nghĩa! - Giọng tôi rung lên. - Thế anh có ý kiến gì không? - Người chỉ huy hỏi - Chỉ còn một cách là phải làm việc thôi. - Hy vọng ở phép màu nhiệm chăng? - Không ai tin vào điều đó cả - anh thốt lên bực bội - Tôi nghĩ rằng ở trường người ta đã giảng cho anh cần phải xử sự như thế nào trong trường hợp nguy hiểm. - Ở trường người ta làm cho chúng tôi tin rằng các cuộc bay trên tên lửa là an toàn tuyệt đối, rằng vũ trụ đã bị chinh phục, rằng chúng ta sống trong thời đại liên minh của Thiên hà, khi mà không ai phải chết một cách vô cớ hoặc vì sự ngớ ngẩn của người chỉ huy của mình... Tôi tuyệt vọng, thóa mạ anh, thiếu chút nữa oà lên khóc nức nở. Tôi vừa tròn hai mươi tuổi, chưa có vợ con. Mẹ tôi đang chờ tôi. Và tôi cảm thấy không thể hiểu nổi rằng trước đây con người vừa mới có một trăm sáu mươi tuổi mà đã chết. Thật là ngu xuẩn, thật là phi lý! Còn bây giờ thì vì những sự ngu xuẩn nào đó... - Tôi không muốn chết! - Tôi hét lên - Không muốn! Người chỉ huy bước lại phía tôi gật đầu và ra hiệu cho những người còn lại. Họ nhanh chóng tản ra tuồng như rất vội vã. Quả tôi không hiểu họ. Tôi cảm thấy hình như họ là những kẻ mất trí. - Này anh bạn, tất cả mới chỉ là thử nghiệm thôi - người chỉ huy vỗ về tôi qua lần mũ trụ nói như cha đối với con - Tiếc rằng, cậu không chịu đựng nổi. Chúng ta sẽ chuyển sang tuyến hành khách. - Chẳng lẽ lại như thế? - Tôi kêu lên. (Hồi trước người ta thường tổ chức những cuộc thử nghiệm kỳ lạ như vậy để chọn những người phù hợp nhất nhằm thực hiện nhiệm vụ quan trọng). - Anh muốn nói là Ngôi sao này không bốc cháy và không biến thành ngôi sao Mới, rằng chúng ta bay đến đây không phải để cứu những sinh vật có trí tuệ, rằng tất cả vở hài kịch này được dựng lên chỉ vì tôi, để tìm hiểu, kiểm tra tôi xem có thích hợp với các cuộc bay nghiên cứu có trọng trách không ư? Anh gật đầu. Tôi cảm thấy xấu hổ quá. - Bây giờ thì tôi hiểu tại sao mọi người lại bình tĩnh thế! Tôi muốn được nhìn thấy họ xử sự thế nào khi tất cả điều đó là sự thật và cái chết đe dọa họ! Tôi tin rằng họ cũng sẽ thét lên như tôi! Tôi xin anh thứ lỗi. Tôi lấy làm ân hận đã không chịu đựng nổi cuộc thử nghiệm. Người chỉ huy giao cho tôi nhiệm vụ khó khăn hơn - mặc áo giáp và ra làm việc ở phía ngoài tên lửa, không liên hệ với các đoàn viên của đoàn phi hành. Di làm việc cách tôi không xa. Thoạt đầu, tôi thấy ngài ngại. Từ lâu tôi đã chú ý săn đón cô. Tôi biết rằng bằng cách xử sự như ngày hôm nay tôi tự hạ mình trong mắt cô. Di vốn nghiêm khắc. Cô sẽ lên án tôi. Tôi mỉm cười với cô qua chiếc mũ trụ dày trong suốt. Tôi giúp cô những việc có thể làm được, mang hộ những thứ lặt vặt cô để lại. Lực hút ở đây không đáng kể, hình như tự tôi cũng có thể đẩy chiếc tên lửa của chúng tôi sang quỹ đạo cần thiết. Tuy nhiên sau đó, nỗi ngờ vực lại ngọ ngoạy trong tôi. Nếu đây chỉ là cuộc thử nghiệm thì tại sao lại cứ tiếp tục bay trong quỹ đạo cũ. Tại sao chúng tôi không bay ngay lên sau sự suy sụp của tôi? Tôi muốn hỏi Di nhưng không thể hỏi được trong khi chưa đổi ca. Hai người bạn đi ra từ chỗ chiếc máy đo góc màu đen. Họ được công nhận là rất hóm hỉnh. Tôi chờ những câu đùa của họ, song họ chỉ im lăng chộp lấy các dụng cụ và làm việc vội vã như trong đám cháy. Đúng, trên đầu chúng tôi. Ngôi sao đã bốc cháy. - Hãy tha thứ cho tôi, Di nhé. Tôi hiểu, tất cả mọi điều đều nghiêm túc. Tôi đã xử sự thật khủng khiếp! Mọi người đều tỏ ra can đảm. Còn tôi, thật xấu hổ, Di ạ… Tôi vừa nói vừa giúp cô cởi áo giáp trong khoang tàu. - Em cũng sợ - cô thầm thì. Dù sao điều đó vẫn là sự thật. Người chỉ huy lừa dối tôi như một đứa trẻ! - Có nghĩa là tôi sẽ chết?! - Mọi người sẽ chết… - Di trả lời. Một kẻ nói dối! Anh ta đã diễn một vở hài kịch trước mắt tôi như người bác sĩ trước bệnh nhân đang hấp hối, như người anh hùng trước kẻ hèn nhát. Tôi định chạy đến anh ta, nhưng rồi tôi vẫn đứng nguyên. Nói gì với anh bây giờ? Anh cũng sẽ chết. Trách móc làm gì? Dụng ý của anh thật tốt. Bỗng tôi nhảy bổ vào vòng tay của Di. - Bây giờ anh hiểu tại sao có lúc người ta tìm đến những liều thuốc mê - một lát sau, khi chúng tôi nằm bên nhau và nghe tiếng vù vù của không khí điều hòa trong chiếc quạt máy, tôi nói - Anh muốn, giá như bây giờ được uống một liều thuốc an thần hoặc một liều thuốc khích lệ ta. Nghe anh nói đây, chúng ta chẳng đã biết tủ thuốc ở đâu sao? Chúng ta sẽ vượt lên trước nỗi hiểm họa, cùng chết hạnh phúc và yên tĩnh, thoát khỏi nhiệt độ quái gở của Ngôi sao khủng khiếp này... Di dịch ra xa tôi. - Anh điên à? Đó là sự phản bội. Sự đào ngũ... Ngay từ lúc sinh ra, chúng ta biết rằng sẽ phải chết, nhưng không ai vì điều đó mà tự kết liễu đời mình. Chỉ huy ra lệnh không phải vì anh ấy không có gì để nói nữa. Đoàn phi hành của bất kỳ con tàu vũ trụ nào cũng đều xử sự như chúng ta, không có cách nào khác. Chúng ta được sinh ra và rồi sẽ chết đi, nhưng trong khi còn sống, chúng ta nghĩ về công việc, về lợi ích mà chúng ta có thể đem lại, về nhiệm vụ của mình. Không có cách nào khác. Không có thứ thuốc mê hủy hoại nào, không có sự tự sát nào giúp được. Anh biện luận như một kẻ mọi rợ hoặc như người mất trí, dường như anh không hiểu gì cả... Tất nhiên, Di già giặn hơn tôi, nhưng tôi không thể chịu được những lời giáo huấn. Cô biện luận tuồng như cô dửng dưng với cái chết, tuồng như ngay từ lúc sinh ra cô đã biết được mình sẽ bị ngôi sao Mới thiêu cháy bên hành tinh thứ ba, tuồng như cô đang đứng ngoài mà quan sát mình. Chẳng lẽ cô không biết sợ ư? Chúng tôi đã cãi nhau. Cô muốn gọi bác sĩ đến. Cô cho đó là sự suy sụp nhân cách. Dường như việc tôi muốn trông thấy cô và mẹ tôi, muốn được hưởng tình yêu của cô thật lâu, muốn được đi du hành thật xa trong vũ trụ, được nổi tiếng, chứ không muốn chết một cách ngu xuẩn vô nghĩa như thế này - dường như tất cả những cái đó là trái tự nhiên. Tôi ra khỏi khoang tàu của cô trở về chỗ mình bằng cửa phụ. Cả đội phi hành đang tập trung ở mũi tàu cạnh bộ điều chỉnh. Tôi đi qua chỗ các tên lửa cứu nạn, có ba chiếc tên lửa, lấy một chiếc chẳng khó khăn gì. Nhưng bay đi đâu? Chỉ có hai con đường. Mất hút trong vũ trụ, một mình phiêu bạt trong không gian giống như những người trong thời kỳ cổ đại gặp phải nạn, chỉ khác là ở đây không có những tuyến đường thường xuyên đi qua không hy vọng vào một chiếc tàu buôn nào cứu. Ở đây chỉ có khoảng không và chuyện chết đói là không tránh khỏi. Hoặc là bay tới ngôi sao đang cháy và chết ngay hôm nay? Trong một thoáng thậm chí tôi đã muốn điều đó để rút ngắn giây phút chờ đợi thật không chịu nổi. Tuy nhiên, tôi còn có thể bay đến một trong các lục địa của hành tinh thứ ba, đến một trong các thành phố của nó, báo cho dân cư ở đấy. Biết đâu họ lại có những phương tiện nào đó? Không một người nào khác có thể cứu chúng tôi. Bỗng nhiên, một làn sóng thương xót họ ùa vào tôi. Viện vũ trụ đã chụp ảnh cư dân ở đó để nghiên cứu so sánh các nền văn minh, đã thu thập tin tức là thế! Làm như ở đó có những động vật tồn tại! Nhưng nhỡ ra là những sinh vật có trí khôn thì sao? Nếu như họ không nhận được tín hiệu của chúng tôi thì tôi cố thử báo cho họ. Tôi liền lấy một tên lửa cứu nạn, mặc bộ áo phi công công vụ. Không ai chú ý đến tôi cả. Khi họ nhận ra không thấy tôi, thì tôi sẽ ở trên hành tinh đó rồi. Tôi sẽ báo tất cả cho cư dân. Tôi không muốn noi theo gương chỉ huy của chúng tôi. Hãy để cho họ biết. Để cho họ tự quyết định. Thú vị là liệu họ có làm việc ngang bướng như đội phi hành ngốc nghếch của chúng tôi không? Đến đây - phải xấu hổ thú nhận - tôi có những ý niệm kỳ quái về cuộc sống với âm cung. Tôi đã nhìn thấy các đảo lớn của hành tinh: nói cho đúng ra đó là các lục địa. Ở Bắc bán cầu có một lục địa rộng lớn bằng phẳng. Phía Nam là hai lục địa hình tam giác. Máy tự động của chúng tôi đã phát hiện ra các khu dân cư lớn nhất ở đó, nơi có than đá và các mỏ kim loại. Có nghĩa đó là nền văn minh công nghiệp. Tôi đỗ xuống ngay giữa lục địa, trong một khu dân cư rộng lớn. Tôi chờ đợi các cư dân trên hành tinh đến bao quanh. Nhưng tôi không nhìn thấy ai ngoài những đường viền quanh ảm đạm của khu nhà ở cấu tạo bằng sắt, bê tông, đồ gốm và các chất dẻo thô sơ. Trình độ xây dựng của họ rõ ràng chưa cao: cái ngôi nhà kéo dài phía trên. Mái nhà dựng đứng có lẽ vì khí hậu. Chắc là, nước ở biển bốc hơi, sau đó tụ lại đổ xuống đất liền. Tôi không thích ở trên hành tinh này. Ngay lập tức tôi trông thấy rõ một nền văn minh kém phát triển. Tôi không muốn đánh đổi lấy Tổ quốc của mình, nhưng dù sao ở đây cũng còn tốt hơn là phải chết. Sau khi chờ một lát, tôi bật còi điện và quyết định bắn hoặc đốt một đám lửa làm sao để thu hút sự chú ý của cư dân hành tinh. Nhưng một cái gì đó hoàn toàn khác xảy ra, chiếc tên lửa cứu nạn thứ hai của con tàu vũ trụ của chúng tôi xuất hiện. Bị nung đỏ, nó lao thẳng đến chỗ tôi. Tôi nhảy ra khỏi khoang lái, chạy bổ vào ngôi nhà gần nhất và trốn trong góc tối. Họ bay rất gần nhưng không hạ cánh xuống mà mở to loa phóng thanh. Họ gọi tôi, nhắc đi nhắc lại tên tôi. Tôi bịt tai lại. - Hãy trở lại, hãy quay trở lại nhanh lên! - Tôi nghe thấy giọng chỉ huy - Chúng tôi đã chữa được bộ điều chỉnh. Kỹ sư đã rút ngắn thời hạn sửa chữa. Bây giờ chúng ta bay lên... Kẻ nói dối, tôi nghĩ, tôi biết các thủ thuật của anh rồi. Anh muốn dử tôi vào chiếc quan tài tập thể đó chứ gì? Anh tưởng rằng tôi sẽ lại tin anh ư? Khi đó là cuộc thử nghiệm, còn bây giờ là kỹ sư - chỉ trấn an được kẻ nhát gan. Kẻ ngu ngốc! Anh không thể lừa dối tôi lần thứ hai. Tôi biết việc sửa chữa sẽ kéo dài bao lâu vì tôi cũng hiểu được phần nào về máy móc của chúng ta. Bằng phép thần anh cũng không chữa được chúng. Di nức nở bên mi-crô khuyên nhủ tôi quay trở về. Cô nói rằng ở đây sẽ không ai cứu tôi, rằng tôi chỉ làm hại dân địa phương, rằng sẽ không yêu tôi nữa. Làm như chúng tôi còn có thể hy vọng vào một tương lai nào đó! - Anh muốn trở thành thiên sứ chết của họ hay sao? Anh muốn chuẩn bị cho họ đón ngày phán xử cuối cùng hay sao? - Cô ta chế nhạo tôi, làm như tôi là một kẻ sùng đạo thật sự - Chẳng lẽ anh không hiểu quay trở về là cách thoát chết duy nhất ư? Tại sao cô ấy cứ giáo huấn tôi mãi thế nhỉ? Nếu như cư dân của hành tinh này không tìm ra lối thoát thì tôi sẽ nhập vào với họ, mặc dù trước khi chết có lẽ họ sẽ đắm mình trong lễ tửu thần cuồng dại hoặc rơi vào khoái cảm tột độ của sự sùng đạo. Họ cũng là những sinh vật sống giống tôi và điều đó hòa nhập tôi vào với họ. Chắc hẳn họ không có người chỉ huy tàn nhẫn như người chỉ huy của chúng tôi. Tên tôi lại vang lên. Họ phát hiện ra tôi đã rời bỏ tên lửa và cho tôi mười giây suy nghĩ lại, rồi sau đó tôi phải báo cáo là tôi ở đâu. Họ chờ đúng mười giây, sau đó bay trở về con tàu vũ trụ: - Cậu đã lựa chọn theo ý cậu. Hãy ở lại một mình... - Người chỉ huy nói lúc từ biệt, rồi anh ta còn nói thêm vài lời - Rời bỏ nhiệm vụ có nghĩa là đào ngũ, là phạm tội. Khi họ vừa mất hút, tôi liền chạy đến ngôi nhà gần nhất, gõ vào cổng; nhưng nó rời ra từng mảng dưới những cú đấm của tôi. Ngôi nhà tan ra, tất cả đồ dùng trong nhà phủ bụi và mục rữa. Trong nhà trống rỗng. Tôi chạy đến vài giờ trong thành phố, nhưng không gặp được một sinh vật sống nào. Tôi cảm thấy hình như cư dân của hành tinh này vô hình hoặc họ giấu mình trong các hang chờ đêm đến. Nhưng thậm chí với bộ tách sóng nhạy cảm nhất, tôi cũng không thể tìm thấy một ai. Không có ai trong thành phố, ở ngoại ô hoặc dưới mặt đất. Có thể họ là một loại chuộc chũi đặc biệt nào chăng? Sau khi lấy một lớp đất mỏng đi, tôi tìm thấy một bộ xương. Một bộ xương người. Tôi không tin vào mắt mình nữa. Làm sao mà những người có trí tuệ lại có thể rơi xuống đây, một trong những hành tinh xa xôi nhất của Thiên hà chúng tôi? Có thể đây là hài cốt của một nhà thám hiểm nào đó? Cũng có thể hành tinh đã có người ở từ lâu rồi thì sao? Nếu như vậy người ta cử chúng tôi đến đây trinh sát để làm gì? Tôi chẳng hiểu gì cả. Tôi bỗng nảy ra ý nghĩ bật bộ tách sóng dò đường thiên văn. Tín hiệu trả lời là ở gần sân tên lửa có một kho nhiên liệu. Trong vài giây, tôi tìm ra sân phóng tên lửa. Đó là một khoảng đất rộng, hoàn toàn bỏ hoang, không có tên lửa. Ở đấy chỉ còn lại các thiết bị cổ của thời kỳ có những cuộc chiến tranh Thiên hà, trước khi thành lập Liên minh. Tôi chạy đến đài điều khiển. Các cánh cửa tàn rữa ra. Ở đó có máy ra-đa thô sơ không tưởng tượng được. Tuy nhiên, nó chỉ hướng mà từ nhiều thế kỷ trước các tên lửa đã bay từ đây đi về phía khu vực Mười tám của Thiên hà, nơi có trạm vũ trụ của chúng tôi. Có thể như thế ư? Chẳng lẽ tôi đã phát hiện ra hành tinh đầu tiên, nơi từ đó con người đi ra khắp cả hệ Thiên hà? Một hành tinh vô danh, mà tên tuổi của nó đã bị lãng quên trong thời đại của những cuộc chinh phạt kéo dài hàng trăm năm sao? Đây là Tổ quốc của loài người tiền sử, là trái đất thần thoại ư? Cư dân ở đây đã rời bỏ nó bởi vì các nhà bác học của họ đã dự đoán được sự phân rã của ngôi sao An pha-4, mặt trời của những nhà thơ đầu tiên hay sao? Có nghĩa là, đã từ lâu, bằng trí thông minh của mình, bằng lao động, bằng cuộc đấu tranh kiên trì chống cái chết, họ đã tìm ra phương tiện cứu mình thoát khỏi thảm họa mà đến giờ mới bùng nổ hay sao?! Trên màn ảnh ra-đa thấp thoáng một đốm lửa nhỏ. Nó từ đâu đến? Nó rơi vào đây như thế nào? Đốm lửa đang xa dần hành tinh. Chẳng lẽ đó là một trong số những tên lửa tiền sử? Không, đó là con tàu vũ trụ của chúng tôi. Con tàu đã được cứu thoát. Lần này người chỉ huy nói đúng. Di cũng nói đúng. Cư dân của hành tinh này đã biết sự thật. Loài người đã biết sự thật. Trời rạng sáng. Bóng tối lui dần, cảnh vật xung quanh nhuốm sáng rực rỡ. Bầu trời trong xanh. Một buổi bình minh chết! Sau vài giờ nữa, trên bầu trời, một ngôi sao bay lên bùng cháy thành ánh sáng trắng chói lòa. Bầu trời tràn ngập thủy ngân nóng chảy sẽ sấy khô bề mặt của hành tinh này, thiêu đốt tất cả. Hành tinh bị nóng chảy ra cùng với ngôi sao kia sẽ tạo thành một khối lấp lánh khổng lồ. Tất cả sẽ bị thiêu đốt. Chỉ trừ sự thật mà loài người đã khám phá ra. Tôi đã không hiểu ra được điều đó. Tôi còn lại một mình. Một con người duy nhất sẽ phải chết trên Trái Đất này. PHẠM THỊ HẠNH dịch MƯỜI BA “Ô-XCA-RƠ” IU-MÉT-VÊ-ĐÉP (Liên Xô) Tôi ngồi bên chiếc bàn có hình bầu dục kỳ quái hao hao giống quỹ đạo với hai mặt trời. Có sáu bàn như vậy trong khách sạn, nhưng bàn tôi ở chỗ thuận tiện hơn cả. Thứ nhất, bên cạnh, trong chiếc thùng gỗ là cây cọ, dù cằn cỗi nhưng khá đẹp, đang đứng lặng lẽ, mà tôi lại yêu những cây cảnh trong phòng. Thứ hai, tôi trông thấy hết những người đi vào và đi ra. Thứ ba, tôi có thể ngắm cảnh biển chiều tà mà không vướng. Tôi thấy sóng biển xuất hiện, lớn dần, dâng lên và tung ngọn trắng xóa đến tận những tảng đá cạnh bờ và vỡ tan khi đập vào chúng. Trong khách sạn nhỏ vắng khách; vào giờ này, những người đi nghỉ đang thiu thiu trên cát nóng, hoặc uể oải đánh bài, giết thì giờ bằng những trò chơi rỗi rãi. Cái vui nhờ men rượu xảy ra muộn hơn, khoảng sau tám, chín giờ, còn lúc này, ở bàn bên trái một cụ già hưu trí đang ngồi giải bài đố chữ, thỉnh thoảng lại nhấm nháp li cô nhắc; còn bàn bên phải, cạnh cửa sổ mở toang là đôi trai gái, có lẽ đang yêu, nói chuyện thì thầm và chốc chốc lại cười rộ lên như pháo nổ. Người khách mới vào việc đầu tiên là đến quầy hàng; ở đấy thậm chí không thèm nhăn mặt, ông ta nốc đến ba phần tư cốc vốt ca, sau đó ngồi xuống bàn bên cạnh, mặt hướng về phía tôi, lưng quay ra biển và chờ người phục vụ. Đến lúc đấy tôi mới có thể nhìn kỹ ông ta. Tóc ông ta đen và lượn sóng, từ trán đến đỉnh đầu nhẵn thín. Trong đôi mắt lồi màu xám linh lợi luôn luôn đảo từ chỗ này qua chỗ khác lại biểu hiện một nỗi buồn tuyệt vọng. Bức chân dung được bổ sung thêm chiếc mũi thon hơi gồ, đôi môi sưng húp mầu mận chín và đôi tai vểnh khác thường. Đôi tai vểnh này gây nên một ấn tượng buồn cười, dường như chủ chúng đang lắng nghe tất thảy. Ông ta rỉ tai người phục vụ vừa đến điều gì đó, và chẳng mấy chốc trước mặt ông đã có chai rượu lạnh và đĩa thức ăn gì đấy. Khoảng mười phút sau, toàn thân đỏ tía và người lừ đừ, ông dùng những ngón tay múp míp vuốt thẳng điếu thuốc lá và hỏi với sang tôi: - Có thể châm nhờ điếu thuốc không? Tôi im lặng gật đầu, ông ta đi lại gần, châm thuốc; và sau khi nhả ra một đám khói, ông nói: - Bật lửa của cậu có hạng đấy. Ngoại hạng, đúng là bếp nguyên tử. Không thể tìm được cái thứ hai như thế. Tôi nói thật là cậu gặp may đấy, anh bạn ạ... Tôi gọi “cậu” mà không xin phép có được không? - Không hề gì - tôi trả lời - Còn bật lửa bằng ti-tan đấy. - Tốt lắm, vừa đẹp, vừa quý. Kim loại hiếm, hình như tôi có nghe là người ta dùng nó làm áo quần cho thợ lặn, quần áo bảo hiểm vũ trụ cùng những thứ khác. Và làm cả những mũi khoan vĩnh cửu... Tôi thấy cậu không uống rượu mà chỉ dùng nước chanh. Hay chúng ta làm tí tửu nhân cuộc gặp gỡ này nhỉ? Trong khi tôi đang suy nghĩ về câu nói cuối của ông, ông đã nhanh nhẹn chuyển qua bàn tôi chai rượu lạnh và đĩa thức nhắm. Tôi thẳng thừng từ chối vốt-ca, và ông uống luôn cho cả hai chúng tôi. - Ừ, bật lửa đẹp thật - ông nói và chậm rãi nhai lạp xưởng - Nhưng mà quái lạ, nó có những bảy núm, để làm gì lắm thế? - Không phải bảy, mà là tám - tôi mỉm cười - tùy thuộc vào người hút là ai. Cái núm vàng này dành cho kẻ độc thân, màu đỏ cho người có vợ, màu xanh cho người đã ly dị, màu bạc cho những người mê bóng đá, v.v.. Khi cười, mồm ông rộng đến tận mang tai, do đó tai càng vểnh hơn, và ông giống hệt con dơi. - Cậu cũng biết đùa đấy, anh bạn ạ. Rõ ngay cậu là con người nghệ thuật, có thể nói là tay ăn chơi. Áo khoác của cậu cũng loại tốt, riêng khóa đã đến hai chục chiếc, không ít hơn. Chắc lại vớ được đâu đó ở nước ngoài hả? - Ông ngả người rất điệu ra ghế và nheo mắt - Cậu muốn tôi đoán cậu làm nghề gì không? Làm phim? Không đúng à? Thế chắc ở vô tuyến truyền hình? Lại trật? Chế tạo đài? Cũng không phải nốt? Tất là phóng viên báo chí? - Tôi nghiên cứu các dân tộc và giống người cổ. Lịch sử học, dân tộc học cổ đại, sự giao tiếp cổ. Nếu không hiểu, tôi có thể giải thích. Những vấn đề giao tiếp qua lại về phương diện lịch sử - tôi nói một cách khô khan. - Thế thì Crưm đối với cậu là kho báu! - Ông ta mừng rỡ - Không xa đây lắm, ở A-lu-sta hiện giờ người ta đang khai quật một pháo đài cổ. Cậu hãy tưởng tượng nó còn nguyên vẹn hoàn toàn, tường cao khoảng năm mét, nguyên cả những lâu đài, những bức tượng, bích họa - tuyệt đẹp! Chắc cậu không phải là người ở đây? Cậu từ đâu đến đây nghỉ? Từ Mát-xcơ-va? Từ Ki-ép? - Tôi đến đây công tác, nghiên cứu khảo cổ. Còn bản thân sinh ở kia - Tôi khoát tay vu vơ về phía quầy hàng - từ vùng Bắc cực, đến được chỗ chúng tôi không dễ gì. - Ừ, mà tôi trông cậu như xác chết, người nhợt nhạt, ha ha! Tôi biết tất cả mọi người ở phương Bắc đều như thế cả. Nhưng không sao, chẳng mấy chốc mặt trời ở đây sẽ thui cháy cậu, như nướng chả ấy - Ông uống cạn ly rượu và nói ngọt ngào, giống như đang tự lắng nghe bản thân: - Còn tôi là Giư-lê-vin, cậu hãy tưởng tượng, chính I-liu-sa Giư-lê-vin! Cho nên, con bọ bác học ạ, cậu gặp may đấy. - Cái họ tương đối hiếm - tôi cố nói cho nhã nhặn hơn. Ông như hoàn toàn sôi lên, vì bực tức: - Và cậu muốn nói rằng cậu không biết gì về I-liu-sa Giư-lê-vin chứ gì? Và sau điều này mà cậu dám tự gọi mình là người có văn hóa à? Và cả về Mi-sa Bác-cốp-xki cũng chẳng nghe đến bao giờ hả? - Họ Bác-cốp-xki thường gặp hơn, nhất là ở U-crai-na - tôi nói. Ông nhắm đôi mắt nẩy lửa lại, hai tay ôm đầu và lắc lư bên này sang bên nọ. - Vị công dân này dớ dẩn. Và không biết người ta lấy những kẻ như thế vào khoa học làm gì cơ chứ? Anh ta ngồi trong khách sạn, nhợt nhạt như thây ma, uống nước chanh và không biết gì đến những người tốt nhất trong xã hội. Nhưng ta sẽ giúp kẻ tâm thần này tỉnh lại - Ông ta mở mắt ra và ngừng lắc lư - Mi-sa Bác-cốp-xki là đạo diễn của “Cuộc đổ bộ lên Sao Thổ” - Bộ phim nổi tiếng khắp thế giới. Người đã được nhận mười ba “Ô-xca-rơ” ấy. Nhưng đừng nói rằng cậu lại cũng không biết gì về “Ô-xca-rơ”, không có tôi chết vì cười đấy. - Ông chẳng chết đâu - tôi nói, và sau một lúc im lặng, tiếp: - Năm năm nay tôi đi khảo sát ở một thành phố lớn rất cổ ở phương Bắc, vì thế mà tôi không biết nhiều tên mới. Còn cái tên “Ô-xca-rơ” thì nó gặp tương đối... - Tương đối! Tương đối! - ông ta vun tay ngắt lời tôi - Đứa trẻ nào cũng biết, “Ô-xca-rơ” là giải thưởng, mà là giải thưởng nổi tiếng khắp thế giới này. Ở Hô-li-út, hàng năm người ta trao “Ô-xca rơ” cho những nhà làm phim nổi tiếng nhất. Phê-li-nhi, An-tô nhi ô-nhi, Béc-gman, Li-da Mi-nhe-li, Pôn Xcô-phin-đơ đã được nhận. Còn Biu-nhiu-en một lúc nhận liền bốn “Ô-xca-rơ’”, hai giải cho “Gac-gan chiu-a” còn hai cho “Pan-ta-griu-e-li-a”. Ông đã thể hiện Ra-bơ-le thành công nhất. Thế đấy, “Cuộc đổ bộ lên Sao Thổ” chiếm tất cả “Ô-xca-rơ” của ba năm tiếp - Mi-sa Bác-cốp-xki mang về mười ba tượng vàng, hiểu chưa? Một đống phát sợ. Cả thế giới từ bấy đến nay đang ngơ ngác mặc dù bao nhiêu thời gian đã qua - Ông ta nhổm lên, gập người qua bàn, ghé vào tôi hạ giọng đến thì thầm: - Mà thực tế tất cả giải thưởng đáng lẽ vẫn trao - thử đoán cho ai? Đến già cậu cũng không đoán nổi - cho tôi! Cho I-liu-sa Giư lê-vin này, nếu tôi nói dối, tôi cứ là con gián! Nào cùng uống tí chút chứ? Tôi sẽ còn gọi thêm chai nữa, uống cho có bạn, như người ta thường nói. Và chai rượu lạnh thứ hai lập tức đến ngồi chễm chệ trên chiếc bàn hình bầu dục giống như quỹ đạo hành tinh với hai mặt trời của chúng tôi. - Tiếc là cậu không biết dùng, tội nghiệp - Giư-lê-vin nói một cách tiếc rẻ - Dù sao tôi cũng hiểu cậu, ai mà chẳng có điểm yếu của mình. Nghiêm chỉnh mà nói thì tôi mới bắt đầu uống nhiều ở thời gian cuối, đặc biệt là cả tuần này, tất nhiên, sau cuộc nói chuyện với Bác-cốp-xki. Chuyện không ổn lắm với thằng chó má này. - Mà là chuyện gì thế? - Tôi quan tâm một cách miễn cưỡng. - Chuyện phức tạp lắm. Nếu đã thế, tôi sẽ kể hết với cậu có đầu có cuối. Cái gì đó ở cậu làm tôi có cảm tình, dù cho cậu không nghiện rượu. Nhưng tôi có thể ngồi gần cậu hơn được không, cậu không phản đối chứ? Như thường nói “cả vách cũng có tai...”. Bây giờ hãy im lặng. Tôi sẽ nói hết như lúc xưng tội. Tâm hồn khao khát được thổ lộ hết, có thể sau đó sẽ nhẹ nhàng hơn. Việc là thế này. Từ bé tôi đã được phú một thiên bẩm đối với tiếng nước ngoài. Các môn khác cố lắm mới được ba lên bốn điểm. Nhưng đến tiếng Anh, tiếng Pháp thì các giáo viên mừng không để đâu cho hết với tôi. Bẩm sinh đã là người đa ngữ, cậu không còn nghi ngờ. Khoảng mười tuổi, tôi đã nhẹ nhàng vượt qua sáu thứ tiếng, trước khi vào đại học, tôi đã nắm vững khoảng ba mươi, không ít hơn. Người ta bế tôi trên tay, trước các hội nghị chuyên đề quốc tế, người ta giới thiệu tôi như một kỳ vật. Còn đối với tôi thì sao? Học một thứ tiếng - xoẹt cái là xong. Chỉ cần nghe năm, sáu câu bằng một thứ tiếng bất kỳ nào, thì ngay trong đầu tôi, ở đây này, hãy nhìn nơi cái u ấy, bắt đầu có tiếng tí ta tí tách khe khẽ, giống như người máy làm việc. Tách tách - và đã có một ngôn ngữ mới, tất nhiên là phần cơ bản, còn những chi tiết chỉ là việc góp nhặt... Nhưng có lẽ cậu nghĩ là I-liu-sa đang nói dốc với cậu, đang kể chuyện cổ tích. Nhìn mắt cậu, tôi thấy cậu không tin. Thì cậu cứ thử tôi xem. Cứ việc thử! Đã là người nghiên cứu các dân tộc, các giống người cổ, chắc là cũng biết dù chỉ một ngôn ngữ cổ. Thì cứ nói vài ba mươi chữ để thử, chúng ta cũng chẳng mất gì. Tôi mỉm cười và bắt đầu đọc một đoạn tôi thích trong “Ma-ha bơ-ra-ta”, bằng tiếng Phạn sử thi. - Tôi đọc đến hết một chương trong “Tình chung thủy vợ chồng” và nhìn Giư-lê-vin thăm dò. Ông ngồi với mắt lim dim dường như đang mơ màng. Thế nhưng, thú thực, tôi kinh ngạc khi ông trả lời: - Tôi không biết thứ tiếng này. Nó rất cổ - Ông cũng trả lời bằng tiếng Phạn, hơn nữa, và đấy là điều chủ yếu, bằng tiếng Phạn sử thi! Ông phát âm sai, đặt câu không đúng lắm, nhưng đã xảy ra điều kỳ diệu: ông nói bằng thứ tiếng mà ít ai trên trái đất biết đến. Tôi nói với ông mấy câu từ trong “Gia-ga-me-sa”. Và sau mấy phút, tôi tự khẳng định: Con người say mèm này có khả năng nói bằng tiếng của những người Su-ma-rơ cổ! Tôi không phải là người biết nhiều thứ tiếng. Nhưng những đoạn trích dẫn trong các tư liệu cổ dĩ nhiên tôi thuộc lòng, hơn nữa, đó là nghề nghiệp của tôi - biết lịch sử kỹ hơn những người khác. Tôi đọc cho ông nghe những bài cổ xưa bằng thổ ngữ Bu-an, Ken tơ, A-ra-mây, Bin-đy-cu-sơ, On-ve-rơ, Ta-tran - và ông ta đã thắng bất kỳ lần thử thách nào. Cuối cùng, bị xúc phạm, tôi nói với ông bằng thứ tiếng cực kỳ phức tạp và cổ mà đối với các chuyên gia nghiên cứu cũng là một mớ hỗn tạp vô nghĩa, hoàn toàn khó hiểu. Bài này tôi phát hiện được lúc khai quật thành phố ở phương Bắc, và thú thật, chính tôi cũng chỉ mới tí chút bắt đầu giải mã. Thế mà Giư-lê-vin lại thắng, khi dịch khá chính xác bài này đến tận câu cuối cùng hơi bí ẩn! “Người làm thế có đúng không, hỡi Người mang ánh sáng thông thái, khi chu du khắp cả Thiên hà? Rường cột của Trí tuệ như Người là để khai phá những thế giới trong bản thân, chứ không phải là đi tìm mình trong các thế giới”. - Tin chưa? - Ông hỏi buồn bã - Của trời cho, không hơn không kém như thường nói. Mà cũng chỉ vì cái của đáng nguyền rủa này mà cuộc đời tôi mới lộn nhào. Việc là thế này: Tôi đang học năm thứ ba. Tháng năm, ngay trước khi nghỉ hè, Bác-cốp-xki ghé vào chỗ chúng tôi, hắn chưa nổi tiếng lắm, dù đã chiếm được giải “Ngôi sao pha lê” ở Vê-nê-xi-a. Hắn đến và quyến rũ tôi theo. Hóa ra, tôi rất cần cho hắn. Hắn ta lúc ấy mới chỉ bắt đầu quay “Cuộc đổ bộ lên Sao Thổ”, báo chí, phát thanh, truyền hình sặc sụa lên vì nó. Chẳng lẽ cậu không nhớ sao? Lạ thật... Nào là sự kiện cực kỳ vĩ đại! Khoa học viễn tưởng! Mười tám triệu rúp dành cho nó đấy, không thiếu cô-pếch nào. Chỉ riêng vai phụ đã hơn sáu nghìn người! Diễn viên của hơn hai mươi nước. Bác-cốp-xki mời tôi đến làm việc với hắn cả mùa hè, hắn không muốn có một đoàn nhiều phiên dịch. Còn tôi, thằng ngốc cắn phải bả, mặc dù phải nói là hắn trả cho tôi rất hậu, thậm chí tôi cũng không phải nói là bao nhiêu nữa, vì thế nào cậu cũng không tin. Và tôi cũng được thấy nhiều... Cậu có lẽ thường ra nước ngoài chứ, người anh em khảo cổ? - Trước kia thường phải đi nhiều hơn so với bây giờ. Sắp tới tôi lại chuẩn bị sang Pa-ri - tôi nói. - Ô là là, Pa-ri! - Giư-lê-vin khoát tay - Tôi sang đấy khoảng hai chục lần không ít hơn. Nhưng cái đó là sau này, hè năm sau. Còn đầu tiên chúng tôi cùng Bác-cốp-xki bay sang Ô-xtơ-ra-li-a, ở đấy quay chút ít gì đó trực tiếp. Sau một tuần, chúng tôi đã ở Tây Tạng chụp ảnh các đền chùa. Rồi Hô-nô-lu-lu, rồi Nam Mỹ, Cu-xcô, đế quốc In-cơ cổ. Bác-cốp-xki là con trẻ của thiên nhiên, trong đầu hắn đầy những dự định, liên tưởng. Hôm nay ở Grê-na-đa, mai đã Nhật Bản, ngày kia... Nói chung, tôi rơi vào bẫy của hắn, giống như con cá vàng trong chuyện cổ tích của Pu-skin. Ra nước ngoài! Các khách sạn lớn! Những cuộc tiếp kiến! Rượu thập cẩm! Phỏng vấn!... Đành phải xin phép nghỉ học dài hạn, tôi đã quá say mê phim ảnh đáng nguyền rủa. Mà thôi, ai kể hết được, bây giờ tôi nói đến cái chủ yếu. Hãy chú ý nghe tôi. Nhưng hãy thề, hãy thề là không bao giờ và không một lời, không nửa lời với ai? Cậu có thề không? Thôi được. Không cần thề, tôi cũng tin cậu, cậu có cái gì đó làm tôi mến, dù cậu không dùng rượu. Chúng tôi quay phim không xa đây lắm, gần Xu-đác, cách khoảng mười - mười hai cây số gì đó trong một khe núi gần biển. Quang cảnh quay mở đầu - những người của Trái Đất đổ bộ xuống Sao Thổ. Mà thế nào là dựng cảnh phim, chắc cậu cũng đã biết, mà nếu không biết cũng chẳng sao. Hãy hình dung một khe núi tương đối rộng, có suối reo, có sóng biển vỗ rì rào. Trên đỉnh đồi là mẫu một chiếc tàu vũ trụ, người ta dựng chỉ một phần ba tàu. Để quay phim một phần ba là đủ, còn lại là công việc của các nhà quay phim. Dọc bờ là cỏ, cây kỳ lạ làm bằng nhựa pô-li-ê-ti-len. Còn trên phần lớn khe núi là những mẫu lều tàn tạ của thổ dân Sao Thổ. Theo ý định của biên kịch, khi người Trái Đất bay đến đấy, ở đó còn đang là thời kỳ đồ đá. Sự dã man, cuộc đấu tranh với thú dữ, thổ dân mặc khố - khán giả chắc mê mệt với những cảnh như vậy, tôi nói đúng không? ... Để thêm sức thuyết phục, các họa sĩ dàn cảnh dựng nên mẫu cuộc sống hoang dại theo tranh trong tập bản đồ màu nổi tiếng thế giới “Lịch sử Châu Phi” của Gốc-đôn Oai-dơ. Theo đó mà làm lều, quần áo và vũ khí của bộ lạc Nga-lơ sống ở Nam Phi. Đừng ngạc nhiên, phim chỉ truyền là sự bịa đặt ... Tôi nhớ là cảnh quay không đạt. Qua hai đêm quay mất mười tám lần mà Bác-cốp-xki vẫn không bằng lòng: không phải thế này, không như thế kia, lúc hắn ở trường quay chẳng khác gì một kẻ ngớ ngẩn. Mọi người mệt lử, còn hắn ta cứ như không. Vì quá căng thẳng, mắt trái tôi bắt đầu giật giật, chắc là huyết áp tăng. Chiều tối thứ ba tôi quyết định ngủ một chốc. Thỏa thuận với Bác-cốp-xki là đánh thức tôi dậy vào lúc nửa đêm, khi đã chiếu sáng và hóa trang xong, tóm lại là trước khi quay. Còn tôi đã ranh ma tìm chỗ ngủ - cậu thử đoán ở đâu? Hết đời cũng chịu - trong khoang tàu vũ trụ của chúng tôi. Ở đấy, đi văng êm như đệm lông chim, hàng đống khí cụ khó hình dung nổi, còn đêm tỉnh dậy; qua cửa kính trong suốt là mặt trăng, sao trên trời phương Nam rất to, cứ như mình rơi vào thế giới khác. Cái chính là, tiếng kêu từ trường quay nghe không rõ, dù cho Bác-cốp-xki gào không ít, cổ họng hắn ta cứ như được mạ bằng thiếc, còn tôi cứ ngủ trong im lặng và bình thản. Tôi tỉnh dậy bất ngờ. Giống như tôi bị điện giật hay bị một con gì đó cắn. Theo thói quen, tôi nhìn đồng hồ. Mười một rưỡi. Ánh sáng màu tím nhạt rực rỡ tràn qua buồng kính tàu vũ trụ. Chẳng lẽ, tôi nghĩ, các vị phụ trách ánh sáng quyết định đánh thức tôi bằng kiểu này: các vị là thích chơi trội. Tôi nhỏm dậy khỏi đi văng, lại gần cửa buồng - và không còn tin vào chính mắt mình nữa. Ngay trên khe núi chúng tôi, một vật lớn, tròn giống như con sứa, đường kính chừng 200 mét, toàn thân phủ đầy những ngọn đèn nhiều màu sắc, treo lơ lửng và tỏa xuống khe núi màu tím nhạt. Thú thực, đang mơ ngủ, tôi không xác định được ngay nó là gì, thậm chí trong đầu thoáng có ý nghĩ ngộ nghĩnh. Tôi nghĩ, chẳng lẽ Bác-cốp xki đã biết cách thỏa thuận với người nào đó để làm nên một vật như thế cho cảnh phim? Và ngay đấy, tôi bỗng nổi gai ốc: một sự im lặng tuyệt đối, thậm chí tôi nghe rõ tiếng tích tắc của đồng hồ mình. Và cũng chính cái lặng thinh đó làm tôi lạnh sống lưng. Để treo được chiếc máy cỡ ấy giữa trời mà không gây ầm ĩ, lộn xộn thì khoa học Trái Đất của anh chưa đạt tới, người bác học anh em ạ. Và một cái khác làm tôi kinh hoàng đến tận tim: ánh sáng quỷ quái kia hoàn toàn không có bóng. Biết đâu, vòm kính nhựa tổng hợp có thể là sai lệch phối cảnh và như thế mắt có thể nhầm. Tôi mở nắp và thò nửa người ra ngoài. Và đúng thế thật, con sứa treo lơ lửng giữa không trung, hơn nữa, trong im lặng hoàn toàn. Thậm chí trạm điện đi-ê-den của chúng tôi cũng im bặt. Và tất nhiên, không có một cái bóng nào ... Sao mắt cậu lạnh như băng vậy? Không tin à? Cậu nghĩ đấy là điều bịa đặt, chuyện nhảm nhí của kẻ say ư? Hãy gượm. Cậu còn chưa nghe điều ấy, còn chưa đến điều chính. """