"
Chuyện của Cậu Bé Hay Nói Khoác - Mạc Ngôn full prc pdf epub azw3 [Tiểu thuyết]
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Chuyện của Cậu Bé Hay Nói Khoác - Mạc Ngôn full prc pdf epub azw3 [Tiểu thuyết]
Ebooks
Nhóm Zalo
Nguồn ebook: TVE-4U.ORG
Chuyện của cậu bé hay nói khoác
Mạc Ngôn
Người dịch: Nguyễn Thị Thại
Phần 01: đến hết chương 10, trang 83 : @Mountain King
Phần 02: từ trang 84 đến hết 117 : @Ha_nhanh Phần 03: từ trang 118 đến 141 : @chippiy Phần 04: từ trang 142 đến hết 158 : @My Nga Nguyen thi
Phần 05: từ trang 159 đến hết 178 : @senjea Phần 06: từ trang 179 đến hết 190 : @chippiy Phần 07: từ trang 191 đến hết 200 : @Ha_nhanh Phần 08: từ trang 201 đến 224 : @hungbc1010 Phần 09: từ trang 225 đến 274 : @Fiore
Phần 10: từ trang 275 đến 285 : @anhdaocns Phần 11: từ trang 286 đến 300 : @Lythaybao Phần 12: từ trang 301 đến 350 : @iamtnl Phần 13: từ trang 351 đến 370 : @THQ1903 Phần 14: từ trang 371 đến 400 : @WannaVen Phần 15: từ trang 401 đến 425 : @hoangdang1234 Phần 16: từ trang 426 đến 450 : @soloshevcento Phần 17: từ trang 451 đến hết (527): @Fiore SOÁT TỔNG: @chippiy
Thưa hòa thượng, ở vùng này của chúng tôi người ta thường gọi những đứa trẻ hay nói khoác là "đứa trẻ pháo"
Nhưng tất cả những điều tôi nói với hòa thượng câu nào cũng đều là sự thật.
1.
Buổi sáng sớm cách đây mười năm trước. À, mà khi ấy là năm nào ấy nhỉ? Khi ấy cậu bao nhiêu tuổi? Lan Đại hòa thượng, một người đã từng đi nhiều nơi, hành tung bí hiểm, tạm thời tá túc tại ngôi miếu bỏ hoang mở to mắt, hỏi tôi bằng một giọng âm trầm nghe như vọng về từ một nơi rất xa. Giữa ngày tháng bảy nóng như nung mà tôi bất chợt rùng mình.
Đó là năm 1990, khi ấy tôi mười tuổi, thưa đại hòa thượng. Tôi lẩm bẩm trả lời hòa thượng bằng một giọng khác hẳn. Đây là ngôi miếu nhỏ có tên là thần Ngũ Thông nằm giữa hai dãy phố sầm uất, đông đúc, nghe nói tổ tiên của Lão Lan trưởng thôn của thôn tôi đã bỏ tiền ra xây ngôi miếu này. Tuy ngôi miếu nằm kề ngay bên đường nhưng hương khói quanh năm lạnh lẽo, luôn tỏa ra một mùi cũ kỹ ẩm mốc. Chỗ khe tường đổ do người ta trèo vào đã thành lối đi, một người phụ nữ mặc chiếc áo màu xanh, xung quanh viền hoa màu đỏ đang gần như phủ phục ở đó. Tôi chỉ nhìn thấy khuôn mặt to, đầy, trắng như phấn và một cánh tay trần trắng muốt đang chống cằm của người ấy. Chiếc nhẫn trên ngón tay của bà ta ánh lên dưới ánh nắng mặt trời. Người phụ nữ này khiến tôi nhớ đến ngôi nhà ngói lớn được cải tạo thành trường học của nhà đại địa chủ Lan trong thôn tôi trước thời kỳ giải phóng. Trong nhiều truyền thuyết và nhiều sự tưởng tượng bắt nguồn từ truyền thuyết, người phụ nữ như thế này thường xuyên ra vào ngôi nhà nhiều năm thiếu sự chăm sóc tu sửa và phát ra những tiếng kêu nghe rợn cả tóc gáy vào nửa đêm gà gáy.
Hòa thường ngồi ngay ngắn trên chiếc bồ đoàn cũ kỹ trước bức tượng thần Ngũ Thông bị người đời lãng quên từ lâu, vẻ mặt bình thản, như một con ngựa đang chìm trong giấc mộng. Tay của hòa thượng lần theo tràng hạt màu tím đỏ, trên mình hòa thượng là bộ quần áo dường như được dệt bằng giấy bị nước mưa thấm ướt, chỉ cần chạm khẽ vào nó sẽ tan thành mảnh vụn. Đôi tai của hòa thượng bu đầy ruồi, chỉ duy cái đầu trọc lóc và khuôn mặt trơn nhẫy là không có con nào.
Phía trước sân là một cây ngân hạnh sum suê, trên cây ríu rít tiếng chim, trong tiếng chim hình như còn xen lẫn cả tiếng của một đôi mèo. Đôi mèo này ngủ trong hốc cây và rình bắt những chú chim trên cành. Tiếp theo tiếng kêu vui sướng của con mèo là tiếng kêu thảm thiết của con chim bị bắt và tiếng kêu kinh hoàng hoảng hốt của bầy chim. Tôi ngửi thấy mùi máu tanh, không, chính xác hơn là tôi nghĩ tới mùi máu tanh, nghĩ tới cảnh tượng kinh hoàng sặc mùi máu. Lúc này con mèo đực đang dùng đôi móng giữ chặt con mồi đầy máu, quay sang phía con mèo cái như muốn khoe chiến công. Con mèo cái bị mất chiếc đuôi trông rất giống một con thỏ.
Trả lời xong những câu hỏi của hòa thượng, tôi lại ngồi chờ những câu hỏi tiếp, nhưng tôi chưa trả lời xong thì hòa thượng đã nhắm mắt lại, khiến tôi có cảm giác rằng những câu hỏi vừa rồi chỉ là trong ảo giác của tôi, ngay cả đôi mắt mở to và sáng rực của hòa thượng cũng chỉ là ảo giác của tôi. Dưới đôi mắt nửa nhắm nửa mở của hòa thượng là hai chòm lông mũi đen sì thập thò trông giống như đuôi của con dế trũi. Nhìn chòm lông mũi của hòa thượng tôi chợt nhớ tới cảnh tượng Lão Lan trưởng thôn dùng con dao lam nhỏ tới mức thảm hại để cắt tỉa chòm lông mũi cách đây mười mấy năm trước.
Lão Lan là người đời sau của gia tộc Lan thị, tổ tiên của ông có không ít người hào kiệt, thời nhà Minh có người đỗ cử nhân, thời nhà Thanh có người đỗ hàn lâm, thời Dân quốc có người làm lên chức tướng quân, sau giải phóng xuất hiện một loạt phần tử địa chủ phản cách mạng, còn khi không thực hiện đấu tranh giai cấp nữa thì những hậu duệ ít ỏi của gia tộc Lan thị dần đứng thẳng lên và xuất hiện trở lại.
Lão Lan tiếp tục sự nghiệp của tổ tiên, làm trưởng thôn của chúng tôi. Hồi còn nhỏ tôi thường nghe thấy Lão Lan than thở: Mỗi thời mỗi khác! Phong thủy của họ Lan thị không còn như trước nữa.
Lão Mạnh Đầu thời còn trẻ đã từng giữ trâu cho gia tộc này nên rất hiểu về nội tình của họ. Ông ta chỉ vào lưng của Lão Lan nói: Mẹ kiếp, không bằng một sợi lông của tổ tiên!
Một hạt bụi ngói rơi xuống chiếc đầu trọc của hòa thượng giống như một sợi tơ giăng của mùa xuân từ từ rơi xuống đầu của hòa thượng và tỏa ra mùi ẩm mốc của thời gian. Trong sự lặng lẽ ấy dường như có một cái gì rất khó gọi thành tên. Trên chiếc đầu của hòa thượng có mười hai chiếc sẹo sắp xếp theo một trật tự rõ ràng, khiến cho nó mang một vẻ rất trang nghiêm. Đó có thể là tiêu chí vinh quang của một hòa thượng chân chính. Để sớm tới một ngày mà trên đầu tôi cũng có được mười hai chiếc sẹo giống như vậy, đại hòa thượng, xin hãy nghe tôi kể tiếp.
Trong ngôi nhà ngói cao to nhưng tối tăm và ẩm ướt của nhà tôi có rất nhiều bông hoa sương tuyết đọng trên tường, trông chúng thật đẹp, ngay cả trong làn không khí mà tôi hít thở trong giấc ngủ cũng chứa đầy hơi sương. Ngôi nhà được hoàn tất vào ngày lập đông, khi lớp vôi quét tường vẫn còn chưa khô hẳn thì chúng tôi đã dọn vào ở. Sau khi mẹ tôi dậy, tôi tiếp tục chui đầu vào đống chăn tránh cái lạnh như dao cắt. Kể từ sau khi cha tôi bỏ chạy cùng với cô Dã La Tử, mẹ tôi một mình xoay xỏa, quyết tâm lập nghiệp. Năm năm rồi, ngày nào cũng như ngày nào, mẹ tôi ra sức gom góp nhặt nhạnh từng đồng, từng xu để dựng lên ngôi nhà ngói năm gian to đẹp nhất thôn.
Nhắc đến mẹ tôi, người trong thôn ai ai cũng kính phục, ai cũng khen mẹ tôi giỏi giang, nhưng trong khi khen mẹ tôi, mọi người cũng đều không quên chê trách cha tôi. Năm tôi năm tuổi, cha tôi đã bỏ đi cùng với một người đàn bà nổi tiếng xấu xa trong thôn, tới một nơi nào đó không ai biết.
Đâu đâu cũng chỉ thấy nhân duyên ân oán, đại hòa thượng lẩm bẩm như đang trong mơ, chứng tỏ tuy ông nhắm chặt mắt nhưng thực ra đang rất chăm chú nghe tôi nói. Người đàn bà ăn mặc lòe loẹt vẫn đang dừng lại chỗ cửa ra vào, bà ta khiến chúng tôi phải chú ý, nhưng không rõ bà ta có biết điều đó không. Hai con mèo khỏe mạnh cắp con chim nhỏ màu xanh chạy vụt qua trước cửa miếu giống như những tay thợ săn vác chiến lợi phẩm khoe với đám đông sau cuộc đi săn. Khi ngang qua cửa miếu dường như chúng dừng lại
đôi chút, quay đầu nhìn vào trong miếu một cái, vẻ mặt của chúng rất giống với vẻ mặt của một cậu học trò hiếu kỳ.
Năm năm trôi qua rồi, những tin tức thứ thiệt chẳng thấy đâu, nhưng những lời đồn về cha tôi và người đàn bà như con la hoang ấy cứ truyền về thôn tôi như những súc thịt được ném xuống đều đặn từ trên một chuyến tàu hỏa từ bàn tay gã lái buôn thịt. Gã đó thường mang hàng tới cho thôn tôi. Người thôn tôi phần lớn làm nghề đồ tể, và lời đồn cứ đưa qua đưa lại như một đàn chim xám. Có lúc những lời đồn ấy nói rằng cha tôi và con la hoang của cha đã dựng lên một ngôi nhà trong rừng sâu bằng cây bạch hoa ở vùng Đông Bắc, trong góc nhà là một lò sưởi. Ngọn lửa từ những thanh củi chẻ ra từ thân cây tùng cháy rừng rực, trên mái của ngôi nhà gỗ phủ đầy những bông hoa tuyết, trên vách treo từng xâu ớt đỏ, dưới hiên treo những bầu nước trong suốt. Ban ngày họ cùng nhau vào rừng săn bắn, đào củ sâm, buổi tối họ cùng nhau luộc thịt báo. Trong trí tưởng tượng của tôi thì khuôn mặt cha tôi và con la hoang bị ánh lửa từ lò sưởi làm cho đỏ rực lên như được quét một lớp phấn hồng. Có lời đồn lại nói rằng, cha tôi đã đưa người đàn bà ấy vào tận vùng Nội Mông, ban ngày họ cưỡi những con ngựa to lớn, trên mình khoác những tấm áo bào của vùng Mông Cổ, cất tiếng hát những bài ca du mục và đuổi theo những đàn cừu trên thảo nguyên bát ngát; buổi tối họ chui vào trong những chiếc lều Mông Cổ, đốt lên đống lửa bằng phân khô của gia súc rồi treo những xiên thịt trên đống lửa, cho những lát thịt cừu béo núc vào trong nồi hầm, khắp lều tỏa ra mùi thơm ngậy của thịt chín, họ vừa ăn thịt vừa uống những tách trà sữa nóng hổi. Trong trí tưởng tượng của tôi, đôi mắt của người đàn bà của cha tôi sáng rực lên dưới ánh lửa như hai viên ngọc.
Có lời đồn thì lại nói rằng, cha tôi và người đàn bà ấy đã cùng nhau trốn qua biên giới tới Triều Tiên và mở một quán ăn ở thành phố đông đúc sát biên giới. Ban ngày họ làm bánh chẻo, cán mì sợi, bán cho người Triều Tiên, buổi tối họ đóng cửa quán, đặt trước mặt một nồi thịt chó và bật nắp một chai rượu, rồi mỗi người cầm một chiếc chân chó, hai người hai chân, trong nồi vẫn còn lại hai chiếc chân khác đang tỏa ra thứ mùi thơm quyến rũ chờ hai người ăn tiếp.
Trong trí tưởng tượng của tôi, hai người họ, mỗi người cầm một chiếc chân chó và một chén rượu trong tay, cứ cắn một miếng thịt chó thì lại nhắp một chút rượu... Tất nhiên tôi cũng nghĩ tới chuyện sau khi họ ăn no xong sẽ ôm nhau và làm cái chuyện ấy.
Đôi mắt của hòa thượng sáng lên, chiếc mũi hơi động đậy, rồi đột nhiên hòa thượng cười lớn và lại im bặt ngay sau đó, chẳng khác gì tiếng dùi trống gõ mạnh xuống tang trống chỉ một tiếng rồi để cho tiếng ngân của nó cứ âm âm mãi. Tôi chợt thấy sững sờ, ngây người trong giây lát. Tôi không tài nào đoán được rằng hòa thượng dùng tiếng cười kỳ quặc đó để khích lệ tôi tiếp tục nói thật, hay là bảo tôi hãy dừng tại đó. Tôi cứ nghĩ mãi, làm người phải thành thực, trước mặt hòa thượng lại càng phải thành thực. Người phụ nữ ăn mặc lòe loẹt ấy vẫn cứ đứng ở chỗ cửa ra vào với dáng điệu như cũ, chỉ có điều là thêm trò chơi thổi nước bọt, bà ta trề môi để cho dòng nước bọt trào ra qua kẽ môi, rồi thành bong bóng bay ra và tan trong không trung. Tôi tưởng tượng đến mùi vị của dòng nước bọt ấy và tự như mình nói tiếp đi.
Họ hôn lên đôi môi ướt của nhau, và không ngừng ợ hơi để cho mùi của thịt tràn đầy chiếc lều Mông Cổ. Tràn đầy ngôi nhà nhỏ trong rừng sâu, tràn đầy ngôi quán ăn ở Triều Tiên. Rồi họ giúp nhau cởi bỏ quần áo, để lộ ra thân hình trần trụi. Tôi rất quen thuộc với thân hình của cha tôi, mùa hè ông thường cõng tôi xuống sông tắm, còn thân hình của con la hoang của cha tôi, tôi cũng đã từng thấp thoáng nhìn thấy một lần. Nhưng lần này tôi đã nhìn thấy rõ. Thân hình ấy bóng nhoáng, trơn tuột dưới ánh đèn. Ngay cả bàn tay của một đứa trẻ như tôi mà cũng muốn chạm vào và vuốt ve, nếu người ấy không đánh tôi thì tôi cũng muốn sờ vào đó. Như vậy nên gọi đó là cảm giác gì nhỉ? Tôi rất muốn biết, nhưng tôi lại không biết. Tôi không biết nhưng cha tôi biết. Tay của ông cứ sờ mãi trên lưng rồi xuống mông và lên ngực của con la hoang ấy. Bàn tay của cha tôi thì đen, cặp mông và bộ ngực của con la hoang của cha thì trắng, vì vậy mà tôi cảm thấy bàn tay của cha tôi thật là thô bạo, dường như bàn tay ấy muốn vắt kiệt hết nước ở mông và ngực của con la hoang. Con la hoang khe khẽ rên lên, đôi mắt và cặp môi của bà ta như rực lên,
đôi mắt và cặp môi của cha tôi cũng rực lên. Hai người ôm riết lấy nhau, quấn lấy nhau và cùng lăn trên chiếc giường có lò sưởi. Bàn tay họ cùng vuốt ve nhau, cặp môi của họ cùng dính vào nhau, đôi chân của họ cùng gát lên chân nhau, mỗi thớ thịt, làn da trên cơ thể họ cùng cọ xát vào nhau... mà cọ xát sẽ sinh ra nhiệt, sinh ra điện, cơ thể họ bắt đầu "lên cơn sốt", họ quấn lấy nhau như hai con rắn độc. Cha tôi nhắm mắt không lên tiếng mà chỉ trút những hơi thở dài, còn con la hoang của cha thì lại kêu lên bằng một tiếng kêu rất lạ lùng. Bây giờ đương nhiên là tôi đã biết vì sao con la hoang lại kêu lên như vậy, nhưng hồi ấy tôi còn rất trong sáng, không hiểu chuyện giữa đàn ông và đàn bà, không biết cha và con la hoang của cha giở bài gì. Tôi nghe thấy con la hoang của cha tôi kêu lên bằng một giọng khàn khàn: Anh yêu!... Hãy để em được chết... Hãy để em được chết!... Tim tôi cứ đập loạn xạ cả lên, không biết tiếp sau đó sẽ xảy ra chuyện gì. Tuy trong lòng tôi không hề thấy sợ, nhưng quả là tôi thấy rất căng thẳng, hoảng hốt, dường như cha tôi và con la hoang của cha, kể cả tôi nữa, đã làm một chuyện rất xấu xa. Tôi nhìn thấy cha tôi cúi đầu, chụp đôi môi của mình lên đôi môi của con la hoang. và thế là tiếng kêu của con la hoang đã bị cặp môi của cha tôi nuốt chửng.
Tôi liếc trộm hòa thượng, muốn biết xem những miêu tả về chuyện đàn ông đàn bà của tôi gây ra những phản ứng như thế nào đối với ông. Nhưng hòa thượng không để lộ một chút biểu hiện nào, trừ sắc mặt có vẻ như đỏ lên đôi chút. Tôi nghĩ tôi cần phải biết đến điểm dừng, mặc dù tôi đã nhìn thấy tất cả, kể chuyện về cha mẹ mà cứ như kể chuyện của những người cổ xưa xa lắc xa lơ.
Không rõ là do sự thu hút của mùi thịt hay là do tiếng kêu của cha tôi và con la hoang mà có rất nhiều đứa trẻ kéo đến vây quanh chiếc lều Mông Cổ, phủ phục quanh khe cửa của ngôi nhà giữa rừng, chúng chổng mông dán mắt nhìn vào nhà qua kẽ hở. Sau đó, tôi tưởng tượng ra cảnh sói cũng kéo tới, không phải là một con mà là cả bầy. Có lẽ chúng ngửi thấy mùi thịt nên đã kéo đến chăng? Lũ sói kéo đến, thế là lũ trẻ liền bỏ chạy, dáng người thấp bé, vụng về của chúng loạng choạng trên tuyết, để lại phía sau những dấu chân rất
rõ. Lũ sói phủ phục bên ngoài chiếc lều của cha tôi và mài những bộ răng một cách tham lam. Tôi sợ chúng sẽ xé toang chiếc lều, gặm nát cửa của ngôi nhà giữa rừng và xông vào rồi ăn thịt cha tôi và con la hoang của cha, nhưng chúng chẳng hề có ý đó. Chúng đã vây quanh chiếc lều Mông Cổ và ngôi nhà giữa rừng như một đàn chó trung thành...
Bên ngoài bức tường đổ nát của ngôi miếu là một con đường lớn dẫn tới thế giới phồn hoa và người phụ nữ ấy vẫn đang dừng lại ở lối ra vào lúc nãy, bà ta đang sửa sang lại mái tóc dày, bông hoa màu đỏ được đặt lên bức tường bên cạnh. Bà ta nghiêng đầu để cho mái tóc đổ về phía trước ngực, rồi chải rất mạnh bằng một chiếc lược đỏ. Động tác nhanh, mạnh của bà ta khiến tôi thấy trái tim như bị bóp nghẹt lại, tôi thấy buồn cho những sợi tóc, thấy cay cay nơi sống mũi, nước mắt như muốn trào ra. Tôi nghĩ, nếu bà ta để cho tôi chải đầu cho thì nhất định tôi sẽ chải rất nhẹ nhàng, rất dịu dàng và với một sự nhẫn nại lớn nhất, tôi sẽ không để cho, dù chỉ là một sợi tóc phải chịu đau và gãy, cho dù mái tóc ấy có rối đến mấy và có nhiều mạng nhện đến mấy. Tôi lại nhìn thấy trên nét mặt bà ta một vẻ rất phiền não, những người phụ nữ có mái tóc dày khi chải đầu dường như đều có những biểu hiện ấy. Nói rằng biểu hiện ấy là phiền não có lẽ sẽ không chính xác bằng nói rằng đó là vẻ hãnh diện. Mùi thơm ẩn sẵn trong mái tóc của bà ta xộc vào mũi tôi, khiến đầu óc tôi thấy quay cuồng, như thể uống phải bình rượu ủ lâu năm. Tôi nhìn thấy những chiếc xe qua lại trên đường cái, một chiếc xe cần cẩu màu đỏ lướt qua trước mắt tôi như một bức tranh sơn dầu khổng lồ, tiếp đó là hai mươi bốn chiếc xe chở nòng pháo, hình dạng giống như những chiếc xe tăng mu rùa loang loáng lướt qua, trông chẳng khác gì bức tranh liên hoàn về một cỗ xe tăng. Tiếp sau đó là một chiếc xe cổ động sơn màu xanh từ từ đi tới, trên nóc xe đặt một chiếc loa, xung quanh xe cắm những là cờ màu, trên lá cờ đang bay thấp thoáng hình một khuôn mặt trắng toát của một cô gái với hai hàng lông mày con cong và cặp môi đỏ rộng. Trên xe có chừng hơn chục người, tất cả đều mặc bộ đồ thể thao màu xanh, đầu đội mũ màu xanh, họ đang ra sức hát một bài hát truyền thống nào đấy, hình như đó là một đội bóng. Khi xe chạy ngang qua miếu, họ bỗng
ngừng bặt không hát nữa, chiếc xe được trang hoàng rất lộng lẫy ấy từ từ đi qua trước miếu như một chiếc quan tài đầy hoa đang di chuyển. Bên ngoài bức tường, trên thảm cỏ ở phía đường đối diện với miếu Ngũ Thông, một chiếc máy xúc đất đang không ngừng phát ra những tiếng kêu inh ỏi, qua bức tường thấp có thể nhìn thấy nóc của máy xúc và gầu xúc mỗi khi được đưa lên cao.
Hòa thượng, tôi không có điều gì dấu hòa thượng đâu, tôi cảm thấy không có điều gì là không thể nói với hòa thượng. Lúc đó tôi là một đứa bé vô tâm vô tính và rất thèm ăn thịt, hễ ai cho tôi một chiếc chân cừu nướng thơm phức hoặc một bát thịt lợn béo ngậy là tôi sẵn sàng gọi người ấy bằng cha, hoặc dập đầu lạy họ, hoặc vừa dập đầu vừa gọi bằng cha. Ngay cả bây giờ, nếu hòa thượng đến chỗ tôi và hỏi đến cái tên La Tiểu Thông (La Tiểu Thông là tên tôi) thì người được hỏi chắc chắn mắt sẽ sáng ngời lên. Vì sao lại như vậy? Vì cái tên La Tiểu Thông gắn liền với tôi và những câu chuyện cũ có liên quan tới thịt thà lại hiện lên trong đầu họ như một bức tranh liên hoàn. Đó còn là vì, câu hỏi của hòa thượng chắc chắn sẽ gợi lên trong tâm trí họ bức tranh liên hoàn về cậu Ba nhà họ Lan với sự từng trải phi phàm đang lưu lạc nơi nào đó ở bên ngoài. Tuy mồm họ sẽ không biết nói gì, nhưng trong lòng họ chắc chắn sẽ thầm kêu lên: Ôi, đứa bé đáng yêu, đáng thương, đáng hận, đáng kính, và đáng ghét... Ô, cậu Ba nhà họ Lan với những chuyện khó mà tưởng tượng nổi!... Ôi, tên Ma vương của thời thế hỗn loạn...
Nếu sinh ra và lớn lên ở một ngôi làng nào khác, có lẽ cháu đã không có nỗi thèm khát thịt dữ dội đến thế. Nhưng trời lại để cháu sinh ra ở một làng chuyên nghề đồ tể, suốt ngày chỉ nhìn thấy những khối thịt biết đi và những khối thịt nằm đấy, những khối thịt còn thấm đẫm máu và những khối thịt đã rửa sạch máu, những khối thịt đã được tẩm ướp và những khối thịt chưa được tẩm ướp, những khối thịt được lấy ra từ những con bò, con chó, con lợn, con dê, con cừu, và cả thịt của những con la con lừa... Những con chó hoang trong thôn tôi chỉ cần ăn những thứ thừa bỏ đi mà cũng đã béo tới mức lông bóng mượt cả lên. Còn tôi vì không mấy khi kiếm được miếng thịt nào nên gầy tới mức thảm hại. Lên năm tuổi tôi không
mấy khi được nếm mùi vị của thịt, không phải vì chúng tôi không kiếm nổi miếng thịt mà là vì mẹ tôi tiết kiệm. Trước khi cha tôi bỏ đi, cái nồi nấu thức ăn của nhà tôi thường bám cả một lớp mỡ dày, còn góc tường cũng chất cả đống xương. Cha tôi thích ăn thịt, nhất là thịt lợn, cách mấy ngày cha lại xách về một chiếc đầu lợn còn nguyên cả tai. Vì những chiếc đầu lợn ấy mà cha mẹ tôi đã cãi nhau không biết bao nhiêu lần, sau này cũng vì thế mà còn đánh nhau nữa.
Mẹ tôi là con gái của một gia đình trung nông, từ nhỏ đã được dạy cho tính cần kiệm, chăm chỉ chắt bóp. Sau cải cách ruộng đất, ông bà ngoại tôi moi khoản tích cóp bao nhiêu năm chôn ở dưới đất lên mua hẳn năm mẫu ruộng. Ai ngờ khoản tiền ấy không chỉ bị mất oan uổng mà còn mang lại biết bao điều cay cực, khổ nhục cho gia đình mẹ con tôi mấy chục năm sau đó, còn ông bà tôi, những người đi ngược lại trào lưu lịch sử đã trở thành trò cười cho cả làng. Cha tôi xuất thân từ giai cấp vô sản lưu manh, từ nhỏ đã sớm nhiễm phải thói thích ăn chơi, lười lao động từ ông nội tôi. Phương châm sống của cha tôi là sống ngày nào biết ngày ấy, vui lúc nào biết lúc ấy, không cần lo cho tương lai. Những bài học của lịch sử và những điều truyền dạy của ông nội khiến cho cha tôi làm được đồng nào xào đồng ấy, chỉ cần trong túi có tiền là ông nghĩ tới chuyện tiêu xài. Cha tôi thường dạy vợ rằng, mọi thứ trên thế gian này đều là hư vô, chỉ có miếng thịt ăn vào bụng mới là cái có thực. Cha tôi nói, nếu dùng tiền để mua chiếc áo mới mặc lên người, rất có thể sẽ bị người khác cướp đi; nếu dùng tiền để xây ngôi nhà mới, rất có thể ít năm sau sẽ bị đấu, nhà của họ Lan quá nhiều chẳng phải đều bị biến thành trường học sao? Nhà từ đường của nhà họ Lan vì quá đàng hoàng nên chẳng phải đã bị đội sản xuất làm thành xưởng chế biến dưa đó sao? Nếu mang tiền mua vàng thỏi, rất có thể vì thế mà mất mạng; nhưng nếu mang tiền đổi thành thịt, ăn vào trong bụng thì chẳng bao giờ phải lo mất gì cả. Mẹ tôi nói, người ăn thịt sau khi chết sẽ không được lên thiên đường, cha tôi cười đáp: Chỉ cần trong bụng có thịt thì chuồng lợn cũng là thiên đường. Nếu trên thiên đường không có thịt ăn, thì dù là Ngọc hoàng đại đế có đích thân xuống mời ông cũng chẳng đi. Lúc đó tôi còn rất bé nên chẳng mấy
để ý đến những điều tranh luận giữa hai cha mẹ, trong khi họ cãi nhau tôi ăn no thịt rồi nằm lăn ở góc tường ngáy o o.
Sau khi cha tôi bỏ đi, để làm được ngôi nhà ngói năm gian, mẹ tôi đã phải bóp mồm bóp miệng, ăn chẳng dám ăn, tiêu chẳng dám tiêu. Làm xong nhà, tôi hi vọng mẹ sẽ thay đổi để món thịt kiêng đã lâu ngày xuất hiện trở lại trên bàn ăn. Ai ngờ tính tiết kiệm của mẹ tôi còn hơn cả khi chưa làm nhà. Tôi biết trong lòng mẹ đang nung nấu một kế hoạch lớn hơn nữa, đó là mua một chiếc xe tải do xưởng chế tạo xe số một Trường Xuân sản xuất, giống như chiếc xe của nhà họ Lan giàu nhất trong thôn. Tôi thà ở trong ba gian nhà lợp cỏ và ngồi trên chiếc máy kéo đi trên con đường đất đầy ổ gà mà ngày ngày được ăn thịt còn hơn là ở trong nhà ngói, đi xe lớn mà không được ăn thịt. Vứt quách cuộc sống trong ngôi nhà ngói, vứt quách cuộc sống ngồi trên chiếc xe tải lớn, vứt quách cuộc sống đầy hư vinh mà trong bụng chẳng có lấy tí thịt mỡ nào đi! Tôi càng giận mẹ lại càng thấy nhớ tiếc cuộc sống hạnh phúc khi có cha ở nhà. Đối với một thằng con trai thèm ăn như tôi thì nội dung chủ yếu của cuộc sống hạnh phúc là có thể ăn thịt một cách thoải mái, chỉ cần được ăn thịt thì dù cha mẹ có cãi nhau, thậm chí là đánh nhau thì cũng chẳng có vấn đề gì.
Những lời đồn về chuyện của cha tôi và cô Dã La Tử - con la hoang của cha - truyền đến tai tôi trong năm năm có lẽ cũng tới cả vài trăm. Nhưng tôi không hề quên mà ngược lại thường xuyên nhớ đến, nhất là ba chuyện tôi đã kể trên đây, mỗi chuyện ấy đều có liên quan đến việc ăn thịt. Mỗi khi cảnh tượng hai người bọn họ cùng ăn thịt hiện lên trong tâm trí tôi, tôi lại ngửi thấy mùi thịt thơm phức đầy hấp dẫn, bụng lại thấy cồn lên vì thèm, nước dãi lại chảy ra ròng ròng. Mỗi khi như vậy nước mắt tôi lại ứa ra, những người trong làng thường nhìn thấy tôi ngồi một mình dưới gốc cây liễu to đầu làng với hai dòng nước mắt, họ thở dài đi qua, cũng có người lẩm bẩm mấy câu: Chà, đứa bé mới đáng thương làm sao!
Tôi biết họ đã hiểu sai về những dòng nước mắt của tôi, nhưng tôi không thể nào thanh minh với họ được, cho dù tôi có nói với họ:
Cháu chảy nước mắt là vì thèm thịt, thì họ cũng không tin. Họ không thể nào hiểu được có một đứa con trai mà lại thèm thịt tới mức chảy cả nước mắt như vậy.
Một trận sấm rền vọng từ nơi xa đến, hệt như tiếng của một đoàn kỵ binh đang sầm sập kéo đến. Mấy sợi lông chim mang theo mùi tanh của máu, giống như những đứa trẻ bị thương, theo gió bay vào ngôi miếu tăm tối trước mặt chúng tôi, rồi vật vờ bám vào bức tượng của thần Ngũ Thông. Mấy sợi lông chim đó khiến tôi bất giác nhớ tới cảnh tượng giết chóc xảy ra lúc nãy trên cành cây, và cũng là sự báo trước với tôi về trận gió. Những làn gió ào ào thổi tới mang theo mùi tanh của bùn và mùi của cây cỏ, ngôi miếu bức bối bỗng nhiên mát lạnh, những hạt bụi rơi xuống càng nhiều hơn, chúng đọng thành lớp trên trán của hòa thượng, bám vào những con ruồi trên tai của hòa thượng, nhưng lũ ruồi vẫn không hề nhúc nhích. Tôi nhìn kỹ chúng trong giây lát, thấy chúng dùng những chiếc chân bé tí xíu lau lên cặp mắt bóng loáng. Những con ruồi luôn mang tiếng xấu cũng có những điều thú vị đấy chứ! Tôi nghĩ, có lẽ cũng chỉ có chúng mới có thể dùng chân mà lau lên mắt được. Cây ngân hạnh sừng sững ngoài sân xào xạc, gió đã thổi rất to, mùi tanh trong gió cũng ngày càng nồng nặc hơn, không chỉ có mùi bùn mà còn có cả mùi của xác động vật bị thối rữa và mùi tanh của ao hồ. Mưa đang sầm sập kéo đến. Hôm nay là ngày mùng 7 tháng 7 âm lịch, là ngày mà theo như truyền thuyết Ngưu lang và Chức nữ gặp nhau. Một cặp vợ chồng ân ái, đang độ tuổi còn trẻ mà chỉ có thể nhìn nhau qua một dòng sông, mỗi năm chỉ được gặp nhau có một lần, một lần chỉ được đoàn tụ trong ba ngày, sao mà họ khổ đến thế! Vợ chồng xa nhau lâu ngày còn hơn cả vợ chồng mới cưới, ba ngày đó chắc chắn là họ sẽ không rời nhau lấy một giây một phút. Hồi còn nhỏ tôi thường nghe thấy phụ nữ trong làng nói như vậy. Trong ba ngày đó chắc chắn là có không ít nước mắt, vì thế ba ngày đó nhất định là sẽ có mưa. Đại hạn ba năm vẫn có ngày 7 tháng 7, xưa đã từng có câu như vậy. Một tia chớp bừng lóe chiếu sáng cả ngôi miếu. Nụ cười khó hiểu trên khuôn mặt của thần Mã Thông - một trong những bức tượng của thần Ngũ Thông khiến tôi thấy lạnh toát cả người. Đây là bức tượng đầu người mình ngựa, thoạt nhìn có phần giống với hình vẽ
trên nhãn hiệu của một loại rượu nổi tiếng của Pháp. Trên chiếc xà phía trên bức tượng, một con dơi treo ngược mình đang ngủ. Tiếng sấm rền truyền từ nơi xa đến nghe như hàng trăm chiếc mâm đồng được gõ cùng một lúc. Tiếp đó lại là một tia chớp chói lòa kèm theo một tiếng sấm chói tai. Tôi thót hết cả người tới mức như muốn nhảy chồm lên. Nhưng hòa thượng vẫn ngồi bình thản như cũ. Bên ngoài tiếng sầm càng rền hơn, mưa cũng mỗi ngày một xối xả. Tôi nhìn ra ngoài sân thấy như có những quả cầu lửa xanh lè đang bò trên mặt sân, và thấy như có những móng vuốt khổng lồ từ trên không đang vươn xuống treo lơ lửng trên cửa ra vào, và luôn trong tư thế thò vào bên trong ngôi miếu để tóm lấy tôi, đương nhiên là tóm lấy tôi, lôi đi và giết chết rồi treo trên cành cây, sau lưng tôi là những dòng chữ thông báo cho tất cả những ai thông hiểu về thiên thư mọi tội trạng của tôi. Nghĩ thế tôi bất giác dịch người đến phía sau lưng hòa thượng và rồi chợt nhớ tới người đàn bà chải tóc ở lối cửa ra vào. Không thấy bóng dáng bà ta đâu nữa, chỉ có những dòng nước mưa đang xối tràn trên bức tường, hình như có mấy sợi tóc của bà ta còn vương lại, chúng bị nước mưa cuốn trôi xuống, khiến dòng nước đọng trong sân thoang thoảng mùi hương quế... Đúng lúc đó tôi nghe thấy hòa thượng nói: Nói đi!
2.
Hai hàm răng đánh vào nhau lập cập, nhưng tôi vẫn phải tiếp tục câu chuyện của mình.
Lạnh quá, tôi co người trùm kín chăn, hơi ấm trong lò đã nguội lạnh từ lâu, chiếc chăn mỏng mảnh chẳng thế nào chống lại cái lạnh từ bên ngoài, tôi nằm im không nhúc nhích, chỉ tiếc rằng mình không được là con nhộng nằm trong tổ kén. Tôi nghe thấy tiếng mẹ đang nhóm lại lò, bà đang chẻ củi bằng một chiếc rìu, dường như bà muốn nhân cơ hội này trút nỗi căm giận đối với cha tôi. Tôi mong mẹ nhanh chóng nhóm lò xong, vì hơi ấm từ lò lửa rừng rực sẽ xua tan cái lạnh ẩm ướt trong ngôi nhà, nhưng tôi cũng mong thời gian nhóm lò kéo dài hơn, vì sau khi xong việc nhóm lò mẹ sẽ lôi tôi ra khỏi giường theo cách thô bạo của bà. Câu đầu tôi mà bà đánh thức tôi còn khá dịu dàng, câu thứ hai giọng đã cao hơn và bộc lộ một sự thiếu kiên nhẫn, câu thứ ba dường như là gầm lên. Từ trước tới nay chưa khi nào bà gọi tôi tới câu thứ tư, gọi ba câu, nếu tôi vẫn chưa bật ra khỏi đống chăn như một mũi tên, thì bà sẽ kéo tấm chăn trên người tôi bằng một động tác hết sức mau lẹ, rồi vớ lấy chiếc chổi nhằm vào mông tôi mà quất. Nếu sự việc đến mức đó thì rủi ro của tôi là rất lớn. Nếu nhát chổi đầu tiên quất xuống mông tôi, tôi nhảy lên theo bản năng vào trèo lên bậu cửa sổ, hoặc chui xuống nấp ở một góc lò khiến cơn thịnh nộ của mẹ không được trút hết thì bà sẽ nhảy lên mặt lò với đôi giày đầy bùn đất túm lấy tóc hoặc cổ tôi rồi cầm chổi quất tơi bời. Nếu khi mẹ đánh mà tôi không khóc cũng không kêu thì bà lại càng đánh dữ hơn, vì bà cho rằng thái độ ấy của tôi là coi thường bà. Bà vừa đánh tôi vừa gầm gào kể lể. Lúc mới đầu chỉ là gầm, giống như tiếng gầm của mãnh thú, chứa đựng một tình cảm mãnh liệt nhưng không thể nói thành lời. Khi chiếc chổi và mông tôi tiếp xúc với nhau chừng ba mươi lần thì sức mạnh từ đôi tay của mẹ hình như cũng giảm hẳn, tiếng gầm cũng trở nên khàn khàn, và lúc này mới nghe rõ câu chữ trong đó. Lúc đầu những cây ấy là nhằm vào tôi, bà chửi tôi là "đồ chó tạp", "đồ nhãi nhép",
"đồ bỏ đi", sau đó bà chuyển dần mũi nhọn sang cha tôi, nhưng thời gian dành để chửi cha tôi không nhiều lắm, vì những lời chửi cha tôi và những lời chửi tôi chẳng khác nhau là bao, nó cũng nhàm chán và vô vị như nhau. Giống như đường từ làng tôi lên huyện nhất định phải đi qua bến xe lửa, cho dù có vội vàng nhưng nhất định phải đi qua, khi mẹ tôi chửi cha tôi thì cũng chửi luôn con la hoang của cha. Lúc đó tiếng của mẹ cao hẳn lên, những giọt nước mắt khi mẹ chửi tôi và cha tôi đã bị ngọn lửa giận dữ làm cho ráo hoảnh, nếu ai đó còn chưa biết đến hàm ý của câu "như tình địch gặp nhau", xin hãy đến nhà tôi nhìn vào cặp mắt giận dữ của mẹ tôi khi chửi con la hoang của cha thì sẽ rõ. Khi mẹ tôi chửi cha tôi thì chỉ có mấy câu cứ lặp đi lặp lại, nhưng khi chửi đến con la hoang của cha thì tự nhiên lời lẽ trở nên rất phong phú đa dạng. Ví dụ mẹ tôi chửi "Chồng tao là giống ngựa lớn, đè chết mày là con la hoang", "Chồng tao là con voi đầu to sẽ dẫm chết mày là con chó cái". Trong chốc lát cha tôi đã biến thành công cụ rửa mối huyết hận của mẹ, mẹ tôi đã để cha tôi trở thành những con thú to lớn hung dữ trút cơn thịnh nộ xuống đầu con vật yếu ớt là con la hoang của cha, dường như chỉ có vậy mới hả hết cơn căm giận trong lòng mẹ. Khi những lời chửi của mẹ càng chua ngoa thì chiếc chổi quất xuống mông tôi càng chậm và nhẹ dần, dường như bà chẳng còn hơi sức để đánh tôi nữa, bà đã quên mất tôi. Đến lúc đó tôi sẽ lặng lẽ trườn xuống, mặc quần áo và đứng ở bên nghe mẹ chửi và trong đầu quay cuồng với biết bao câu hỏi. Tôi cảm thấy những lời mẹ chửi tôi chẳng có ý nghĩa gì cả, nếu tôi là "đồ chó tạp" vậy thì ai là người đã tạp giao với chó? Nếu tôi là "đồ nhãi nhép" thì ai là mẹ của nhãi nhép? Mẹ chửi tôi, nhưng thực ra là mẹ đã chửi mẹ, mẹ chửi cha tôi nhưng thực ra là mẹ chửi chính mình. Những câu chửi con la hoang của cha ngẫm nghĩ kỹ cũng chẳng thấy có ý nghĩa gì. Cho dù thế nào cha tôi cũng chẳng thể nào biến được thành ngựa giống lớn, cũng chẳng thể nào biến được thành con voi, và cũng không thể nào giao phối được với một con chó cái. Ngựa qua huấn luyện có thể có quan hệ đực cái với con la hoang, nhưng đối với con la hoang đó, có thể là một chuyện vui không dễ cầu được. Nhưng tôi không thể đem những suy luận và phản bác của mình nói lại với mẹ được, hậu quả của
việc đó như thế nào tôi không thể tưởng tượng nổi, tôi không ngốc đến mức tự tìm lấy phiền phức cho mình.
Sau khi đã chửi mệt, mẹ tôi bắt đầu khóc, nước mắt mẹ tôi cứ ròng ròng trên má, khóc chán rồi thì mẹ tôi lấy vạt áo lau khô nước mắt đi ra khỏi cửa, tay lôi theo tôi và bắt đầu bận rộn với chuyện mưu sinh. Dường như để lấy lại khoảng thời gian bị mất vì chửi rủa, khóc lóc, mọi việc làm của mẹ nhanh gấp đôi lúc bình thường, sự giám sát của mẹ đối với tôi cũng chặt chẽ hơn hẳn lúc thường. Chính vì vậy mà tôi không dám lưu luyến với chiếc chăn ấm, chỉ cần nghe thấy tiếng lửa rừng rực trong lò, không cần đợi mẹ gọi là tôi đã phải bật dậy, mặc bộ quần áo lạnh như sắt một cách nhanh nhất, rồi cuộn đống chăn lại, chờ mẹ sai bảo. Mẹ là người tiết kiệm tới mức keo kiệt, nên chẳng bao giờ có chuyện đốt lò sưởi trong nhà. Vì hơi lạnh của căn nhà ẩm ướt đã khiến hai mẹ con tôi cùng mắc chứng bệnh như nhau, đầu gối đỏ lựng lên và đôi chân tê dại đi, phải mất bao nhiêu tiền mua thuốc uống mới đi lại được, các bác sĩ cảnh bảo cho chúng tôi, nếu không muốn chết thì phải đốt lò sưởi trong nhà, phải làm cho các bức tường trong nhà khô đi, tiền mua thuốc đắt gấp nhiều lần tiền mua than củi. Trong tình hình ấy mẹ tôi mới đành phải làm một chiếc lò sưởi trong nhà, rồi mua về một tấn than, đốt lò hong cho khô ngôi nhà mới làm xong. Tôi vô cùng mong muốn bác sĩ nói với mẹ tôi rằng: Nếu không muốn chết thì phải ăn thịt. Nhưng bác sĩ lại không nói như vậy. Ông bác sĩ chết tiệt ấy không những không khuyên chúng tôi ăn thịt mà lại còn bảo chúng tôi phải kiêng những đồ có dầu mỡ, ông ta bảo chúng tôi phải hết sức ăn kiêng, tốt nhất là ăn chay, ông ta còn nói, như thế không chỉ giúp chúng tôi khỏe mạnh mà còn có thể kéo dài tuổi thọ. Đồ chết tiệt! Ông ta đâu có biết, từ khi cha tôi bỏ đi chúng tôi đã bắt đầu ăn chay, chay tới mức không còn chay thêm được nữa. Đã chẵn năm năm rồi, dạ dày của tôi có bói cũng chẳng lấy đâu ra một chút mỡ động vật.
Tôi đã nói rất nhiều, cảm thấy cổ họng khô rát cả đi, may sao có ba cục nước mưa đá to bằng quả mơ rơi xéo vào trong miếu ở phía trước mặt tôi. Nếu không phải là hòa thượng thần thông quảng đại, nhìn thấu tâm can tôi để cho ba hạt mưa đá ấy rơi vào thì đó cũng là
một sự ngẫu nhiên may mắn. Tôi liếc trộm hòa thượng, hòa thượng ngồi thẳng, đôi mắt nhắm nghiền, nhưng tôi biết là ông vẫn đang lắng nghe tôi nói. Tôi trưởng thành từ sớm, từng trải cũng nhiều, cũng đã từng gặp không ít người và chuyện kỳ lạ, nhưng người mà trong lỗ tai mọc ra hai chùm lông đen dài như thế này thì chỉ mới thấy có hòa thượng. Chỉ riêng điều này thôi cũng đủ khiến tôi thấy kính sợ, huống hồ hòa thượng lại còn có thêm rất nhiều điều dị thường và tài đặc biệt. Tôi nhặt một hạt mưa đá đưa lên miệng. Để cho hòn mưa đá đó mau chóng tan ra và làm dịu con khô khát ở cổ họng, tôi nhai vội vàng, tiếng hàm răng chạm vào nó nghe lạo xạo.
Một con cáo bị nước mưa làm cho ướt sũng cả bộ lông dừng lại, chần chừ bên lối ra vào, đôi mắt ranh mãnh của nó lộ vẻ rất đáng thương, rồi nó chạy vào trong miếu với một tốc độ khiến tôi phải bất ngờ và khuất sau những bức tượng. Tôi không thấy ghét cái mùi của loài cáo vì tôi đã từng làm bạn với chúng. Sau này tôi có nghe nói, chỗ chúng tôi đã từng lên cơn sốt nuôi cáo. Khi ấy thì loài cáo với hành tung luôn được gán cho là bí hiểm đã được phơi bày hết sức rõ ràng, mặc dù khi ở trong lồng chúng vẫn giữ tư thế lấm la lấm lét, nhưng khi chúng bị những tay đồ tể trong thôn giết giống như các loài thú khác, rồi lột da đem treo, lấy thịt ăn, chúng chẳng còn gì để tỏ ra là bí hiểm nữa, thì những thần thoại về loại cáo cũng bị đổ vỡ dần.
Một tiếng sấm đinh tai như cơn thịnh nộ không thể nào kìm nén nổi vang rền, một mùi khét lẹt xộc vào mũi khiến tôi rùng mình nhớ tới chuyện thần Sấm chém chết những loài súc sinh và những kẻ gây ra tội lỗi. Con cáo này lẽ nào cũng là loài súc sinh gây ra nghiệp chướng? Nếu đúng như vậy thì việc nó trốn vào trong miếu giống như là trốn vào két bảo hiểm, thần Sấm có giận dữ đến mấy cũng chẳng thể đến mức làm cho ngôi miếu này thành bãi đất bằng. thần Ngũ Thông thực ra cũng là do năm loại súc sinh hóa thành thần thôi, nhưng nếu ông trời đã để cho họ trở thành thần, hơn nữa lại còn để cho xây miếu đúc tượng, được loài người dâng cúng thờ phụng, ngoài thức ăn thơm ngon còn có cả con gái đẹp nữa, thì con cáo kia làm sao lại không thể trở thành thần được?
Đúng lúc đó lại có thêm một con cáo nữa chui vào trong miếu, tôi không nhìn rõ con đầu tiên là cái hay là đực, nhưng con này thì chắc chắn là con cái, không chỉ có vậy, nó còn đang có chửa. Vì tôi nhìn thấy rõ khi nó chui vào, cái bụng và bầu ngực của nó kéo lê qua ngưỡng cửa, cử động của nó cũng chậm chạp hơn con lúc đầu rất nhiều. Không biết con lúc đầu có phải là chồng của nó không. Phen này thì chúng lại càng được đảm bảo hơn rồi, vì ông trời rất công bằng, ông không muốn giáng họa xuống đầu lũ cáo con đang nằm trong bụng mẹ. Hạt mưa đá cũng đã tan lúc nào không biết. Hòa thượng cũng đã hé mắt nhìn tôi. Dường như ông không để ý gì đến hai con cáo. Tiếng gió, tiếng sấm tiếng mưa ở trong sân cũng không làm ông để ý đến, tôi bỗng phát hiện ra sự khác biệt rất lớn giữa tôi và hòa thượng. Vâng, tôi sẽ kể tiếp.
3.
Đó là một buổi sáng sớm, gió đông bắc hiu hắt, ngọn lửa trong lò phát ra những tiếng xèo xèo, những bông tuyết ở trên tường đã biến thành những giọt nước lấp lánh đang từ từ chảy xuống. Chân tay tôi cóng đến phát ngứa cả đêm, tai cũng chảy cả nước vàng, khắp người tỏa ra một mùi thật là khó chịu.
Mẹ tôi nấu một nửa bát cháo ngô trong nồi sắt nhỏ, rồi lấy một củ cải từ trong làn rau chia cho tôi nửa to, còn bà giữ lại nửa nhỏ, đó là bữa sáng của chúng tôi. Tôi biết mẹ tôi gửi ở trong ngân hàng ít nhất cũng là 3 ngàn đồng, nhà ông Thẩm làm thịt quay cũng vừa mượn của chúng tôi 2 ngàn đồng, lãi suất 2 phân một tháng, lãi mẹ đẻ lãi con. Có nhiều tiền như vậy mà vẫn ăn bữa sáng như thế này thì trong lòng tôi làm sao mà vui vẻ cho được, nhưng lúc đó tôi chỉ là một đứa bé mười tuổi, không có quyền được phát ngôn. Cũng có đôi lúc tôi thấy ngứa mồm, nhưng mẹ đã nhìn tôi với vẻ mặt đầy đau khổ, tiếp đó mắng tôi là không biết gì. Bà nói bà tiết kiệm như vậy hoàn toàn cũng là vì tôi. Bà làm nhà, mua xe cũng là cho tôi, và nay mai còn cưới cả vợ cho tôi nữa. Bà còn nói rằng: "Cha con không có lương tâm đã bỏ hai mẹ con mình, chúng ta phải sống cho ông ấy biết, cho dân cả làng này biết, không có ông ấy chúng ta còn sống tốt hơn"
Mẹ còn nói với tôi rằng ông ngoại tôi đã từng không chỉ một lần nói rằng, miệng của con người thực ra chỉ là một con đường, thịt cá cơm rau đi qua thì cũng đều như nhau cả thôi, con người ta có thể quen với con ngựa, con la, nhưng rất khó quen với chính mình, muốn sống cho tốt thì phải đấu tranh với chính cái miệng của mình. Những lời của mẹ cũng có lý, nếu trong năm năm cha tôi bỏ đi mà chúng tôi vẫn cứ ăn uống thỏa thích thì chúng tôi đã không thể xây được ngôi nhà ngói này. Sống trong ngôi nhà tranh, cho dù trong bụng có đầy thịt mỡ thì cũng chẳng có ý nghĩa gì. Lý luận của mẹ ngược lại hoàn toàn với lý luận của cha, chắc chắn cha tôi sẽ nói rằng trong bụng toàn rau với cám thì dù có ở trong ngôi nhà to cũng
chẳng có ý nghĩa gì. Tôi sẽ giơ hai tay tán thành ý kiến của cha, và dùng hai chân đạp lên ý kiến của mẹ. Tôi hi vọng cha quay lại để đón tôi đi, dù chỉ là để cho tôi ăn một bữa thịt no nê rồi sau đó trả tôi lại cũng được. Nhưng cha tôi chỉ nghĩ đến việc hưởng hạnh phúc cùng với con la hoang của mình và quên sạch, chẳng còn nhớ gì đến tôi.
Sau khi ăn hết cháo, chúng tôi dùng lưỡi liếm sạch xung quanh bát tới mức chẳng cần phải rửa nữa. Tiếp đó chúng tôi chất hàng lên chiếc máy kéo cũ kỹ. Chiếc máy kéo này là của nhà họ Lan thải ra. Dấu tay của Lão Lan đã mòn cả chiếc tay lái bằng sắt, chiếc lốp xe cũng đã mòn hết cả răng cưa, chẳng khác gì một cụ già vừa mắc bệnh tim lại thêm chứng viêm phế quản. Khi khởi động máy, khói đen cứ bốc ra ngùn ngụt, dầu nhỏ xuống ròng ròng, tiếng nổ của nó cũng thật kỳ quái, cứ như vừa ho vừa hắt hơi. Lão Lan vốn là người hào phóng, mấy năm nay phát tài vì bán thịt nên lại càng hào phóng hơn. Ông ta đã phát minh ra cách dùng bơm cao áp bơm nước vào con vật đã được giết qua động mạch ở phổi của chúng, nhờ thế mà một con lợn nặng cỡ hai tạ có thể tiếp nhận được cả một thùng nước, trong khi ấy thì theo phương pháp đó một con bò cũng chỉ bơm vào được có nửa thùng. Những năm qua người dân thành phố khi dùng những đồng tiền mua thịt đã mua về bao nhiêu nước lã của làng tôi? Nếu thống kê hết có lẽ đó là một con số khiến mọi người phải giật mình.
Lão Lan bụng tròn căng, mặt mũi phương phi hồng hào, khi nói tiếng cứ sang sảng như chuông, rõ là có tướng làm quan, mà nhà ông thì lại có truyền thống làm quan. Sau khi lên làm trưởng thôn, ông ta đã truyền lại kinh nghiệm dùng bơm cao áp bơm nước vào thịt cho dân làng, và trở thành người đi đầu làm giàu với trái tim đen. Người trong làng kẻ thì chửi, kẻ thì viết báo tường công kích, nói rằng ông ta là giai cấp địa chủ có ý đồ lật đổ vô sản chuyên chính trong làng. Những lời như vậy chẳng còn mấy đất tồn tại. Lão Lan lớn tiếng đe dọa khắp làng: giống rồng lại đẻ ra rồng, giống phượng đẻ ra phượng, còn giống chuột cũng chỉ sinh ra loài chui cống.
Sau này chúng tôi mới biết, Lão Lan cũng giống như một thầy dạy võ cao cường, ông ta không truyền hết kỹ nghệ của mình cho đồ đệ mà vẫn giữ lại cho mình một món riêng. Thịt của Lão Lan cũng bơm nước vào như vậy, nhưng màu thịt vẫn không thay đổi và mùi thịt vẫn thơm, cho dù có để dưới nắng hai ngày cũng vẫn không bị thối, trong khi thịt của người khác nếu không bán được trong ngày thì sẽ bốc mùi thối rữa. Vì vậy, thịt của nhà Lão Lan không bao giờ phải lo đến chuyện bán không hết phải hạ giá nữa, mà thực ra thịt của nhà ông ta ngon đẹp như vậy làm sao có chuyện không bán hết? Sau đó cha tôi nói thịt nhà Lão Lan không phải được bơm bằng thứ nước bình thường, mà bằng dung dịch phoóc môn. Sau khi quan hệ giữa gia đình tôi và gia đình nhà Lão Lan được cải thiện, Lão Lan nói, nếu chỉ bơm phoóc môn không thì chưa đủ, muốn giữ màu và để được tươi lâu sau khi bơm nước, phải hun bằng khói lưu huỳnh trong ba tiếng đồng hồ.
Một người phụ nữ trùm đầu bằng chiếc áo khoác đỏ xộc vào làm đứt đoạn những lời kể của tôi. Tôi chợt nhớ tới người đàn bà dừng lại ở cửa ra vào lúc trước. Không biết bà ta đã đi đâu rồi? Có thể người phụ nữ trùm áo khoác đỏ này là hóa thân của người đàn bà áo xanh?
Sau khi vào miếu, người phụ nữ bỏ áo khoác ra và gật đầu chào chúng tôi với vẻ như muốn xin lỗi. Môi của bà ta tím tái, da mặt xanh mét như con gà trụi lông. Ánh mắt của người phụ nữ toát ra vẻ lãnh đạm, giống như màu nước mưa ở ngoài trời. Tôi nghĩ có lẽ bà ta đã lạnh cóng và cũng đang rất sợ. Bà ta nói chẳng ra lời, cứ lí nhí nhưng có vẻ vẫn rất sáng suốt. Bộ quần áo bà ta mặc phần nhiều là hàng giả kém chất lượng, từ gấu áo những giọt nước đỏ lòm như máu nhỏ xuống đất. Đàn bà, những giọt nước màu đỏ, ánh chớp, tiếng sấm, và rất nhiều điều cấm kỵ cùng kết hợp lại với nhau, lẽ ra phải đuổi bà ta ra khỏi miếu, nhưng hòa thượng vẫn nhắm chặt mắt, còn điềm tĩnh hơn cả bức tượng đầu người mình ngựa phía sau lưng ông, còn tôi thì lại càng không nỡ lòng đuổi một người phụ nữ còn trẻ và tràn đầy sức sống như vậy ra ngoài trời mưa gió bão bùng.
Huống hồ, cửa miếu mở rộng, ai ai cũng có thể vào và tôi chẳng có quyền gì để đuổi.
Người phụ nữ ngồi xoay lưng lại phía chúng tôi, nhô đôi vai ra phía ngoài cửa, nghiêng đầu tránh những giọt nước mưa, và ra sức vắt bộ quần áo ướt sũng. Những giọt nước màu đỏ rơi xuống, hòa lẫn với những hạt nước mưa và tan biến trong giây lát. Lâu lắm rồi mới có trận mưa lớn đến như vậy. Những dòng nước từ phía trên mái hiên trút xuống như thác nước màu đen, từ phía xa vọng lại tiếng sầm sập như bước chân của hàng ngàn vạn con ngựa. Ngôi miếu nhỏ run rẩy trong cơn mưa, những con dơi giật mình phát ra tiếng kêu chít chít, trên nóc miếu cũng bắt đầu dột, những tiếng tí tách vang lên mỗi khi có hạt mưa rơi xuống chiếc chậu đồng rửa mặt của hòa thượng.
Người phụ nữ đã vắt xong quần áo và quay người lại gật đầu chào chúng tôi một lần nữa. Đôi môi bà ta mấp máy phát ra tiếng lí nhí như tiếng muỗi kêu. Tôi nhìn thấy đôi môi tím tái của bà ta giống như chùm nho chín mọng ngọt ngào, nó khác hẳn với những cô gái đứng vắt chéo chân hút thuốc dưới các cột đèn trong thành phố. Tôi còn nhìn thấy chiếc áo lót màu trắng dính chặt vào da thịt, khiến cho thân hình người phụ nữ càng nổi rõ. Bầu ngực rắn chắc giống như một trái lê đông cứng, tôi biết bây giờ chúng đang lạnh cóng. Nếu có thể, tôi mong muốn mình có thể giúp người phụ nữ cởi bỏ chiếc áo lót đã ướt sũng, rồi đặt cô nằm trong chiếc bồn tắm đầy nước ấm để cô được ngâm mình trong đó và tắm một trận thật thỏa thích. Rồi tôi sẽ khoác lên mình cố chiếc áo ngủ khô ráo sạch sẽ, để cô ngồi lên chiếc ghế xô pha, tôi sẽ pha cho cô một tách trà, tốt nhất là trà đen có thêm một chút sữa, và thêm một lát bánh mì nữa, tôi muốn cô được ăn no, uống đủ trước khi lên giường đi ngủ...
Tôi nghe thấy tiếng hòa thượng thở dài một cái, rồi lập tức kìm lại như muốn xua đuổi những ý nghĩ bất chợt khác thường, nhưng ánh mắt của hòa thượng vẫn không dấu nổi cái nhìn lên thân thể người phụ nữ. Người phụ nữ đã quay người lại, một bên vai trái dựa vào phía cửa bên trong, mặt nhìn ra phía cơn mưa đang xối xả bên
ngoài, tay phải cầm bộ quần áo khoác ngoài, giống như cầm tấm da vừa lột bỏ trên mình con cáo. Hòa thượng - tôi tiếp tục nhưng giọng không mấy tự nhiên, vì bây giờ đã có thêm một người nghe.
Cha tôi từng đánh nhau với Lão Lan một lần. Lão Lan chặt đứt một ngón tay của cha tôi, còn cha tôi thì cắn đứt một nửa tai của Lão Lan, từ sau chuyện đó hai nhà chúng tôi trở thành kẻ thù của nhau. Nhưng kể từ sau khi cha tôi bỏ đi cùng với cô Dã La Tử, mẹ tôi bỗng nhiên trở thành bạn của Lão Lan. Lão Lan đã bán chiếc máy kéo cho nhà chúng tôi với giá của sắt vụn, không những thế ông ta còn dạy chúng tôi lái máy kéo miễn phí. Những mụ đàn bà lắm mồm đặt điều nói rằng Lão Lan và mẹ tôi có quan hệ với nhau. Với danh nghĩa của một thằng con trai, tôi đảm bảo với người cha đang ở phương xa rằng, những lời của họ là xằng bậy, chẳng qua họ nhìn thấy mẹ tôi học được cách lái máy kéo nên sinh lòng ghen ghét. Lão Lan là trưởng thôn, trong túi có cả vạn quan, lúc nào cũng đĩnh đạc đàng hoàng, thường xuyên lái chiếc xe tải to đẹp mang thịt vào thành phố, có phụ nữ nào mà ông ta chưa gặp? Sao lại có thể thích một người phụ nữ lúc nào cũng đầu tắt mặt tối, ăn mặc xuềnh xoàng như mẹ tôi?
Tôi nhớ mãi cảnh Lão Lan dạy mẹ tôi lái máy kéo như thế nào trong sân đập lúa của làng. Đó là một buổi sáng sớm mùa đông khi mặt trời vừa ló ở phương đông, những giọt sương mai vẫn còn lấp lánh trên thảm cỏ ở bên cạnh sân đập lúa. Một chú gà trống mào đỏ rực đang vươn chiếc cổ dài cất tiếng gáy trên tường, trong làng vang lên tiếng kêu của lũ lợn sắp bị chọc tiết, ống khói của các nhà tỏa lên những làn khói trắng đục, một đoàn tàu hỏa đang từ từ rời khỏi sân ga tiến về phía đông nơi mặt trời mọc. Mẹ tôi khoác trên mình tấm áo khoác màu vàng sẫm mà cha tôi để lại, lưng thắt một sợi dây điện màu đỏ, ngồi lên chiếc máy kéo, hai tay mở rộng nắm lấy vô lăng. Lão Lan ngồi ở phía sau, đôi chân mở rộng, nắm lấy bàn tay mẹ tôi trên vô lăng. Ông ta đang dạy mẹ tôi lái máy kéo thực sự, nhưng cho dù nhìn ở phía trước hay phía sau đều cảm thấy như ông ta đang ôm mẹ tôi vào lòng, mặc dù mẹ tôi ăn mặc chẳng khác gì một tay bốc vác ở bến tàu, và chẳng có tí chút sự hấp dẫn nào
của phụ nữ. Nhưng nói gì thì nói, mẹ tôi vẫn là phụ nữ, điều này đã khiến cho một số phụ nữ trong làng càng nổi cơn điên, và cũng khiến cho không ít đàn ông nghĩ này nghĩ nọ. Lão Lan là người có tiền có thế, là một tay háo sắc công khai, những người đàn bà có đôi chút nhan sắc trong làng đều liếc mắt đưa tình với ông ta, ông ta không thèm để ý xem người khác nói gì về mình, nhưng mẹ tôi thì lại là người phụ nữ bị đàn ông bỏ rơi, những lời đàm tiếu dành cho những người phụ nữ như vậy không phải là ít. Lẽ ra mẹ tôi phải thận trọng, không được để cho người khác có cơ hội đặt điều, nhưng bà đã để cho Lão Lan dạy mình lái xe trong tư thế ấy, hành động ấy chỉ có thể giải thích bằng sự lanh lợi, sáng suốt lẫn u mê. Tiếng máy nổ của chiếc máy kéo thật chói tai, két nước bốc hơi ngùn ngụt, ống khói tỏa ra những làn khói đen sì, khét lẹt mùi dầu. Trên chiếc máy kéo đó, mẹ tôi và Lão Lan vẫn say sưa với những đường vòng chưa mấy thành thục. Trên khuôn mặt tái nhợt của mẹ thoáng ửng hồng, đôi tai đỏ như mào gà trống. Buổi sáng hôm đó quả là rất lạnh, cái lạnh khô hanh không có gió, máu trong cơ thể tôi dường như đông cứng lại, chân tay buốt cóng như có kim châm. Thế mà mặt mẹ tôi vẫn chảy đầy mồ hôi, mái tóc cũng dường như bốc hơi, từ xưa tới nay bà chưa bao giờ làm quen với máy móc, lần đầu học lái xe, dù là chiếc máy kéo đơn giản nhất, nhưng chắc chắn là bà rất phấn chấn và cảm động, nếu không thì trong một buổi sáng mùa đông giá lạnh đến như vậy làm sao có thể đổ mồ hôi được. Tôi nhìn thấy đôi mắt của mẹ tỏa ra những ánh thật đẹp, từ sau khi cha tôi bỏ đi, ánh mắt của mẹ tôi chưa bao giờ sáng như vậy.
Sau khi chiếc máy kéo chạy mấy chục vòng trên sân đập lúa, Lão Lan nhảy từ trên xe xuống, mặc dù ông ta rất béo nhưng động tác lại rất mau lẹ. Khi Lão Lan xuống xe, mẹ tôi cuống cả lên, bà quay đầu tìm ông ta, khiến đầu chiếc máy kéo đâm vào rãnh nước. Lão Lan kêu lên: Vòng tay lái lại!
Mẹ tôi nghiến răng khiến gân ở cằm nổi hết cả lên, nhưng bà cũng kịp thời đưa chiếc máy kéo thoát khỏi rãnh nước. Lão Lan di chuyển trong sân phơi, mắt không rời mẹ tôi, dường như có một sợi dây vô hình nối giữa mẹ tôi với ông ta. Ông ta lớn tiếng nhắc nhở: Mắt nhìn
thẳng vào tay. Phải rồi, giống như là đi xe đạp ấy! Cố lên! Đừng sợ! Đúng rồi, cứ như thế, có thể lái về nhà được rồi! Con đường phát triển của nông nghiệp nhất định là phải cơ giới hóa. Có biết ai nói câu này không? Nhóc con. Lão Lan chăm chú nhìn vào tôi và hỏi.
Tôi không buồn trả lời ông ta. Trời rất lạnh, môi tôi dường như đã đông cứng. Thôi được rồi, lái về đi, thương cảnh hai người mẹ con côi cút, ba tháng sau trả tiền cũng được. Mẹ tôi nhảy xuống xe loạng choạng, suýt nữa thì ngã. Lão Lan vội đưa một tay ra đỡ, đồng thời nói: Cẩn thận, cô em!
Mẹ tôi đỏ bừng mặt, hình như bà định nói vài câu cảm ơn nhưng lắp bắp mãi mà không sao nói lên lời. Niềm vui lớn đến quá bất ngờ đã khiến bà mất đi khả năng đối đáp lưu loát. Việc nhà tôi muốn mua chiếc máy kéo của Lão Lan qua ông Cao văn thư của xã mười mấy ngày trước vẫn chưa thấy hồi âm, là một đứa trẻ nhưng tôi cũng biết chuyện đó rất khó khăn, cha tôi đã cắn đứt của người ta nửa cái tai, làm sao người ta có thể bán xe cho chúng tôi? Nếu là tôi, tôi cũng sẽ nói: Nhà La Thông muốn mua xe của tôi à? Hừ! Tôi thà ném xuống biển cũng không bán cho nhà ấy!
Nhưng đúng vào lúc chúng tôi thấy thất vọng hoàn toàn thì ông Cao nhắn tin nói rằng Lão Lan đã đồng ý bán cho chúng tôi với giá của sắt vụn, và bảo chúng tôi sáng sớm ngày mai ra sân đập lúa để nhận xe. Ông Cao nói: Trưởng thôn nói, ông ấy là trưởng thôn nên phải giúp mọi người xóa đói giảm nghèo, đích thân ông ấy sẽ dạy cô lái xe.
Hai mẹ con tôi đã cảm động tới mức cả đêm không ngủ được, mẹ tôi nói một tràng những lời tốt đẹp về Lão Lan, và một tràng những lời nhiếc móc đối với cha tôi, sau đó chửi con la hoang của cha một trận tơi bời. Qua những câu chửi của mẹ tôi mới biết, trận ẩu đả thừa sống thiếu chết giữa cha tôi và Lão Lan cũng là vì con la hoang của cha. Tôi không bao giờ quên được cái buổi sáng xảy ra cuộc ẩu đả ấy, đó cũng là một buổi sáng sớm, những là vào đầu hạ.
Đôi mắt của người phụ nữ rất to, khóe miệng có một nốt ruồi đen, trên nốt ruồi là một chiếc lông tơ màu đã sẫm cong cong. Tôi cảm thấy ánh mắt của người ấy rất kỳ quái, nó có vẻ điên điên dở dở. Tay bà ta vẫn xách bộ quần áo ướt sũng lúc đầu. Mưa ngoài cửa vẫn không ngừng hắt vào, nước trên người bà ta chảy xuống đọng thành vũng dưới chân. Lúc này tôi mới phát hiện ra rằng bà ta đi chân đất. Đôi chân rất to, có lẽ phải đi giày cỡ 40, nó hoàn toàn không hợp với thân hình của người phụ nữ. Trên mu bàn chân còn dính mấy phiến lá, các ngón chân héo đi vì ngâm lâu trong nước mưa và đều đã trắng nhợt. Vừa nói tôi vừa đoán về lai lịch của bà ta. Trong một ngày như thế này, vào lúc thời tiết như thế này, một người phụ nữ với bầu ngực rắn chắc vì sao lại xuất hiện ở một ngôi miếu nhỏ hoang vắng như thế này, hơn nữa ngôi miếu ấy lại thờ năm người có khả năng tình dục phi phàm, từng bị giới trí thức thời xưa chửi là "dâm thần"?
Mặc dù trong lòng có rất nhiều mối nghi ngờ những tôi cũng cảm thấy ấm áp hơn rất nhiều. Tôi rất muốn bước tới hỏi han người phụ nữ và ôm ấp cô, nhưng hòa thượng đang ngồi trước mặt, còn tôi thì lại đang đứng trước cơ hội được bái ông làm sư phụ, và đang thao thao bất tuyệt kể với ông về những điều mà tôi đã trải qua.
Người phụ nữ dường như cũng hiểu được tâm tư của tôi, bà nhìn tôi nhiều hơn, cặp môi khép chặt lúc mới vào giờ đây đã hé mở, để lộ ra hàm răng trắng bóng. Hàm răng của bà ta không đều đặn cho lắm nhưng rất rắn chắc, đôi lông mày rậm và dường như nối liền với nhau, khoảng cách giữa cặp mắt và đôi lông mày rất gần. Cặp mắt và đôi lông mày ấy khiến cho khuôn mặt người phụ nữ này rất sinh động và có phần giống với người ngoại quốc. Tôi không biết là người ấy cố ý hay vô tình khi đưa tay kéo chiếc quần ướt dính ở cặp mông, nhưng khi bà ta vừa buông tay thì chiếc quần lại dính vào như cũ. Tôi rất biết người phụ nữ rất khó chịu nhưng chẳng nghĩ ra được cách gì. Nếu tôi là chủ của ngôi miếu này thì sẽ chẳng giữ phép tắc mà để cho người phụ nữ được vào hậu đường thay quần áo. Phải rồi, để cho bà ấy thay bộ quần áo nâu sồng của hòa thượng và phơi
bộ quần áo của mình lên phía đầu giường của hòa thượng. Nhưng liệu hòa thượng có đồng ý chăng?
Đột nhiên người phụ nữ nhăn mũi cau mày hắt hơi.
- Nữ cư sĩ, cô muốn thế nào thì cứ việc làm như thế. Hòa thượng nhắm mắt nói.
Người phụ nữ khom người vái hòa thượng, sau đó mỉm cười với tôi, tay xách quần áo đi qua trước mặt tôi vào phía sau những bức tượng thần Mã Thông.
4.
Buổi sáng đầu hè mọi người thường rất mệt, vì đêm ngắn tới mức chưa kịp ngủ thì trời đã sáng. Tôi và cha tôi bỏ đi tới đường cái mà vẫn nghe thấy tiếng mẹ đang gầm gào ở trong sân. Lúc đó chúng tôi vẫn còn ở trong ngôi nhà tranh ba gian cũ nát do ông nội để lại. Cuộc sống của chúng tôi vừa bất ổn vừa ồn ĩ. Ngôi nhà tranh ba gian nằm giữa những ngôi nhà mái ngói đỏ tươi trông thật thảm hại, thật chẳng khác gì một tên ăn mày rách rưới giữa những người mặc lụa là gấm vóc. Bức tường bao quanh sân chỉ cao ngang người, những cây cỏ dại mọc đầy bên tường, bức tường đó đến cả con chó cái đang có chửa cũng không ngăn được, nói gì tới chuyện ngăn lũ trộm. Con chó cái nhà Quách Lục thường nhảy vào trong sân để gặm những miếng xương của nhà tôi, tôi thường xuyên nhìn thấy cảnh con chó cái nhảy vào nhảy ra, những chiếc vú đen của nó chạm vào bờ tường, khi nó nhảy xuống đất vẫn còn lúc lắc.
Cha đi trên đường cái, tôi ngồi trên vai cha, từ trên cao tôi vẫn nhìn thấy mẹ tôi vừa chửi rủa vừa mang những thân cây rau chất đống trong sân, đó là những thứ mà mẹ tôi kiếm được trong đống rác ở bến tàu. Vì cha tôi ham chơi, lười làm nên cuộc sống của gia đình luôn luôn bất ổn, khi có tiền thì thịt thà cá mú, khi hết tiền thì bếp lửa lạnh tanh. Những lúc mẹ tôi dồn, cha tôi thường nói:
- Sắp rồi, sắp rồi. Cuộc cải cách ruộng đất lần thứ hai sắp bắt đầu rồi, đến lúc đó thì cô phải cảm ơn tôi. Cô đừng có mà sùng bái Lão Lan. Kết cục của ông ta cũng giống như những tên địa chủ cũ mà thôi, sẽ bị những người dân nghèo kéo đổ.
Cha tôi đưa ngón tay trỏ ra giống như nóng súng chỉ vào đầu mẹ tôi hô: Pằng pằng!
Mẹ tôi sợ hãi ôm lấy đầu, mặt trắng nhợt. Nhưng cuộc cải cách ruộng đất lần thứ hai mãi mà chẳng thấy đến, khiến mẹ tôi ngày ngày cứ phải đi nhặt rau thừa về nuôi lợn. Hai con lợn nhỏ nhà tôi vì
không được ăn no nên lúc nào cũng kêu ầm ĩ, nghe mà phát chán. Cha tôi từng cáu kỉnh nói: Kêu, kêu cái con mẹ mày! Còn kêu nữa tao đem giết thịt ăn.
Mẹ tôi cầm con dao thái rau mắt trừng trừng nhìn cha tôi nói: Anh có giỏi thì giết đi! Hai con lợn này là của tôi nuôi, ai dám động vào một chiếc lông của nó tôi sẽ sống chết với người ấy!
Cha tôi cười hì hì mà nói: Nhìn kia! Hai con lợn này trong xương ngoài da, có cho, tôi cũng chẳng thèm!
Tôi quan sát kỹ hơn hai con lợn, đúng là chỗ thịt mà có thể ăn được trên người chúng quả là rất ít, nhưng đôi tai của chúng cũng có thể làm được một đĩa. Theo tôi, thứ ngon nhất trên đầu lợn là đôi tai, chúng không ngấy, lại toàn là sụn, khi nhai thấy dòn dòn, nếu đem xào và cho thêm ít tương, ít hành thì lại càng ngon hơn. Tôi nói: Cha, chúng ta có thể ăn tai của nó!
Mẹ quắc mắt nhìn tôi và nói: Tao sẽ cắt hai cái tai của mày trước!
Mẹ cầm dao và xông lên thật làm tôi sợ hãi nép vào ngực cha. Mẹ tóm lấy tai tôi và kéo ra ngoài. Còn cha thì quay đầu tôi về phía sau. Tôi bị đau quá kêu ầm ĩ lên, tiếng kêu của tôi hòa lẫn với tiếng những còn lợn bị chọc tiết, chẳng ai có thể phân biệt được. Cuối cùng cha tôi vẫn khỏe hơn, ông giành được tôi từ trong tay mẹ, rồi nhìn vào chỗ sứt trên tai tôi, nói: Cô thật là độc ác! Người ta nói hổ dữ không ăn thịt con, nhưng tôi thấy cô còn ác hơn cả hổ!
Mẹ tôi tức giận tới mức mặt càng như sáp, đôi môi tím ngắt và run lên bần bật. Được sự che chở của cha, tôi thấy không còn sợ nữa liền réo tên mẹ lên rồi nói: Dương Ngọc Trân! Cuộc đời của tôi đã bị hủy hoại trong tay bà!
Câu nói của tôi làm mẹ khựng lại và nhìn tôi không chớp mắt. Cha tôi cười khan mấy tiếng, rồi dắt tôi đi ra ngoài. Chúng tôi đi tới sân mới nghe thấy tiếng mẹ tôi rền rĩ: Đồ súc sinh, mày đã làm tao tức chết...
Hai con lợn nhỏ ngoe nguẩy chiếc đuôi nhỏ rồi gối đầu lên bức tường thấp trước cửa chuồng giống như hai tội phạm đang định vượt ngục. Cha tôi vỗ vào vai tôi, nói nhỏ: Nhóc, sao con lại biết tên của bà ấy? Tôi ngẩng mặt lên nhìn vào khuôn mặt đen nghiêm túc của cha và đáp: Là con nghe cha nói! Cha nói với con tên của bà ấy là Dương Ngọc Trân bao giờ? Cha nói với cô Dã La Tử đấy thôi. Cha nói: "Cuộc đời anh sẽ bị hủy hoại trong bàn tay của mụ đàn bà thối tha Dương Ngọc Trân"
Cha tôi vội lấy tay bịt miệng tôi lại, thì thào: Nhóc, im ngay! Cha đối với con không tệ, đúng không? Vậy con chớ có hại cha đấy!
Đôi bàn tay to dày mềm mại của cha tôi tỏa ra một mùi khét lẹt của thuốc lá. Đôi bàn tay đàn ông như thế này ở nông thôn là không nhiều lắm, bởi vì nửa đời cha chỉ biết đến có chuyện chơi bời hưởng lạc, hầu như chẳng mấy khi làm việc chân tay.
Sau khi cha buông tay ra, tôi thở một hơi thật nặng nề và rất lấy làm bất bình trước thái độ ấy của cha. Đúng lúc đó mẹ tôi cầm con dao thái từ trong nhà chạy ra. Hình như mẹ cố ý làm cho mái tóc rối tung chẳng khác gì tổ chim sẻ trên cây. Mẹ tôi thét lên: La Thông, La Tiểu Thông, hai kẻ khốn kiếp kia, hôm nay mụ già này không thiết sống nữa, ta sẽ liều với cha con nhà các người! Dù sao cũng không thể chung sống được nữa, ta sẽ cùng chết với các người!
Vẻ mặt đáng sợ của mẹ nói cho cha con tôi biết rằng trong lòng bà đang đầy lửa căm thù, bà không hề cố ý tỏ ra như vậy. Xem ra bà quyết một phen sống mái thực sự. Trong tình hình này nếu cứ đối chọi với bà thì chỉ có mà tìm đến cái chết, tốt nhất là tránh cho xong. Tuy là người lông bông nhưng cha tôi cũng là người thông minh, hảo hán không nên để ý tới cái thiệt trước mắt, cha cúi xuống xốc tôi lên rồi cặp vào nách chạy vọt qua tường. Cha không chạy về phía cửa là hoàn toàn chính xác,vì tuy nhà tôi chẳng có gì đáng giá nhưng mẹ tôi vẫn tuân theo một thói quen từ hồi còn chưa đi lấy chồng, tối tối khóa cửa bằng một chiếc khóa đồng lớn. Tôi đoán những lúc bị cơn thèm thịt dày vò cha tôi chắc chắn là đã từng nghĩ
đến chiếc khóa đồng ấy, nhưng mẹ tôi quí chiếc khóa ấy như cái tai của mình vì nó là của hồi môn mà ông ngoại cho mẹ, nó là một món quà mang ý nghĩa tượng trưng chứa đựng biết bao tình cảm của ông ngoại. Nếu cha tôi chạy theo lối cửa, cho dù có phá được cửa thì chắc cũng tốn không ít thời gian, mà trong khoảng thời gian ấy con dao trong tay mẹ rất có thể đã làm cho những cái đầu của chúng tôi phải đổ máu.
Cha ôm tôi vọt qua tường, để lại mẹ tôi cùng với nỗi tức giận đầy mình.
Tôi không hề nghi ngờ rằng mẹ cũng có khả năng vượt tường giống như cha, nhưng mẹ không làm như vậy. Sau khi đuổi cho hai cha con chạy khỏi sân thì mẹ dừng lại nhảy chồm chồm bên cạnh bức tường một hồi rồi quay vào trước cửa nhà, vừa băm rau vừa chửi rủa. Đây quả là một cách trút cơn giận dữ rất tuyệt vời, nó vừa không gây ra hậu quả không thể khắc phục được để đến mức phải chịu trách nhiệm trước pháp luật, đồng thời lại có được sự hả hê khi băm vằm kẻ thù. Lúc đó tôi đoán, mẹ tôi đã xem những cọng rau vô tội như cái đầu của chúng tôi. Còn bây giờ nhớ lại, tôi thấy có lẽ mẹ đã coi những cọng rau đó là cái đầu của cô Dã La Tử thì đúng hơn. Kẻ thù đích thực trong lòng mẹ không phải là tôi cũng chẳng phải là cha tôi mà là con la hoang của cha. Mẹ cho rằng, chính cô ta quyến rũ cha tôi, liệu mẹ có nghi oan cho cô ta không tôi cũng không rõ nữa.
Kể đến đây một cảm giác ấm áp dâng tràn trong lòng tôi, người phụ nữ lúc nãy thật giống với con la hoang của cha tôi. Tôi luôn có cảm giác rằng người phụ nữ này rất quen, nhưng lại không muốn nghĩ như vậy. Vì cô la hoang đã chết cách đây cả chục năm rồi. Cũng có thể con la hoang đó chưa chết? Hay là sau khi chết cô ấy tái sinh? Hay là cô ấy đã bị người khác mượn xác nhập hồn? Tự nhiên tôi cảm thấy trong lòng đầy mối hoài nghi và thấy cảnh vật trước mắt bỗng trở nên bồng bềnh mờ ảo...
5.
Cha tôi là một người thông minh, trí tuệ của ông ấy còn trên cả Lão Lan, ông chưa bao giờ học vật lý nhưng lại biết có điện âm, điện dương, ông chưa bao giờ học sinh lý nhưng lại biết tinh dịch và buồng trứng, ông chưa bao giờ học hóa học nhưng lại biết chất phoóc môn có thể diệt vi khuẩn và chống thối rữa, để từ đó đoán biết được rằng Lão Lan đã bơm phoóc môn vào trong thịt. Nếu như cha tôi muốn làm giàu, chắc chắn ông sẽ trở thành người giàu có nhất trong làng, tôi tin chắc vào điều đó. Ông là rồng giữa những con người, mà rồng giữa những con người thì không nghĩ đến chuyện tích cóp tài sản. Người ta đã từng nhìn thấy những con thú bé nhỏ như chồn sóc, chuột đào hang tích trữ lương thực, nhưng đã có ai nhìn thấy con hổ, chúa tể của muôn loài đào hang tích trữ lương thực bao giờ? Con hổ lúc thường nằm ngủ trong hang, chỉ khi đói mới đi tìm cái ăn: Cha tôi ngày thường ăn uống chơi bời, chỉ khi đói mới đi kiếm tiền. Cha tôi đã không kiếm tiền bằng cách "dao trắng thọc vào, dao đỏ rút ra" như Lão Lan và những người khác, cha tôi cũng không kiểm tiền bằng cách đổ mồ hôi như những người công nhân bốc vác ở bến tàu, ông kiếm tiền bằng trí tuệ của mình. Thời xưa, có Bào Đinh nổi tiếng về giết trâu bò, nay có cha tôi nổi tiếng về đoán trâu bò. Trâu bò trong mắt Bào Đinh chỉ là đống xương và đống thịt, trâu bò trong mắt của cha tôi cũng là đống xương đống thịt. Bào Đinh chỉ có đôi mắt sắc như con dao, cha tôi không chỉ có con mắt sắc như con dao mà đôi mắt ông còn giống như chiếc cân. Có nghĩa là, khi ai đó dắt một con trâu, con bò tới trước mặt cha tôi, ông sẽ đi vòng quanh con trâu con bò hai vòng, nhiều nhất cũng chỉ là ba lần, thỉnh thưởng mới dùng đến ngón tay chạm vào hai bên sườn của con bò, sau đó dõng dạc tuyên bố thịt hơi và thịt móc hàm của con gia súc đó, độ chính xác gần như là tuyệt đối, sai số thường không quá một cân. Lúc đầu mọi người cho rằng cha tôi đoán bừa gặp may, nhưng qua mấy lần như vậy, họ không thể không phục. Sự có mặt của cha tôi đã khiến cho cuộc giao dịch giữa những gã buôn bò và những tay đồ tể trở nên công
bằng và bớt đi những rắc rối. Sau khi cha tôi xác lập được vị trí cho mình, đã có không ít lái buôn bò và đổ tể tìm cách lấy lòng ông, hi vọng chiếm được phần hơn khi nhờ ông đoán hộ. Nhưng cha tôi là người nhìn xa trông rộng, ông không bao giờ để mất danh dự vì mấy trò vặt vãnh đó, vì hủy hoại danh dự của mình thì cũng chính là làm mất miếng cơm của mình. Những tay buôn bò mang thuốc, rượu đến nhà tôi bị cha tôi ném trả ra ngoài đường sau đó cha tôi mắng cho một trận như tát nước. Các tay đồ tể đến nhà cũng bị cha tôi ném trả đồ và mắng cho như vậy. Những tay lái buôn và đồ tể đều nói rằng, La Thông là người khó chơi nhưng cũng rất công bằng. Sau khi hình ảnh công bằng chính trực của cha tôi được xác lập thì mọi người lại càng tin tưởng vào ông. Khi hai bên mua bán tranh cãi không đi đến hồi kết thúc, họ thường đưa mắt đến cha tôi và nói: Chúng ta đừng tranh cãi nữa. Hãy nghe La Thông nói xem! Được, thì nghe La Thông. La Thông, anh nói đi!
Cha tôi đi hai vòng quanh con trâu, con bò, không nhìn bên bán cũng chẳng nhìn bên mua, rồi ngửa mặt lên trời đọc số cân của con vật, đọc ra giá cả và rút một điếu thuốc đưa lên miệng. Hai bên bán và mua cùng đưa tay ra vỗ một cái: Được! Thỏa thuận xong!
Chờ cho cuộc mua bán hoàn tất, hai bên bước tới mặt cha tôi, mỗi bên đưa ra một tờ mười đồng cảm ơn cha.
Điều cần phải nói rõ là, trước khi cha tôi gia nhập chợ trâu bò cũng đã từng xuất hiện những người trung gian theo kiểu cũ, phần lớn họ đều là những ông già người khô quắt, đen đủi. Có người vẫn còn để cả bím tóc sau gáy, họ đã phát minh ra cách ra giá trong ống tay áo, và tạo ra một sắc thái rất thần bí cho cái nghề của mình. Sự xuất hiện của cha tôi đã làm mất đi sự không rõ ràng cũng như những hiện tượng mờ ám trong quá trình giao dịch, những người trung gian mắt la mày lém cũ đã bị cha tôi đuổi xuống khỏi vũ đài. Đó chính là sự tiến bộ lớn nhất trong những phiên giao dịch gia súc, lớn hơn một chút cũng có thể nói rằng đó là một cuộc cách mạng. Con mắt của cha tôi không chỉ giỏi về đánh giá trâu bò, mà khi đánh giá về dê, lợn cũng như vậy, cha giống như một người thợ mộc tài hoa,
không những biết đóng bàn đóng ghế, mà còn biết đóng cả quan tài, ngay cả việc đánh giá về lạc đà, với cha cũng không có vấn đề gì.
Kể đến đây, hình như tôi nghe thấy tiếng sột soạt lúc rõ lúc không từ phía sau những bức tượng của thần Ngũ Thông. Lẽ nào người phụ nữ ấy là cô Dã La Tử thật sự? Nếu là cô Dã La Tử thật thì mười năm rồi mà mặt cô ấy vẫn không thay đổi? Đó là điều không thể, người ấy không thể là cô Dã La Tử. Nhưng nếu như cô ấy không phải là cô Dã La Tử thì tại sao tôi lại có tình cảm lưu luyến đặc biệt đến như vậy? Có thể, người ấy là bóng ma của cô Dã La Tử chăng? Nhưng theo truyền thuyết thì ma không có bóng, đáng tiếc là vừa rồi tôi không nhìn xem người phụ nữ ấy có bóng hay không. Đang lúc trời mưa tối tăm không có ánh mặt trời thì chẳng có ai là có bóng cả, cho nên điều mà tôi vừa nghĩ đến cũng chỉ bằng không. Lúc này người phụ nữ ấy đang làm gì phía sau bức tượng nhỉ? Người ấy có sờ vào mông của bức tượng đầu người mình ngựa không? Mười năm trước tôi đã nghe mọi người nói, một số phụ nữ vì muốn chồng mình có được khả năng tình dục, sau khi thắp hương khấn vái trước tượng thần xong, thường đi vào phía sau và vỗ vào chiếc mông tròn bóng của con ngựa. Tôi biết phía sau của bức tượng có bức tường, bức tường có một cánh cửa nhỏ, đẩy cửa ra sẽ là một căn phòng nhỏ tối om, trong căn phòng đó không có cửa sổ, giữa ban ngày cũng phải đốt đèn mới nhìn rõ mọi thứ trong đó. Trong phòng có một chiếc giường cũ kỹ lung lay, trên giường có một chiếc khăn vải thô hoa xanh và một chiếc gối bằng vỏ cây, trên gối và chăn đầy mồ hôi dầu, trong phòng có rất nhiều bọ nhảy. Nếu để người trần bước vào sẽ nghe thấy tiếng của lũ bọ nhảy va vào da thịt tanh tách. Và còn có thể ngửi thấy, nghe thấy tiếng kêu hưng phấn của những con bọ hôi. Chúng kêu lên rằng: Thịt đến rồi! Thịt đến rồi! Con người ăn thịt lợn, chó, trâu, bò, loài bọ nhảy và bọ hôi thì ăn thịt người, điều đó được gọi là ân oán tương báo. Mặc kệ cô có phải là cô la hoang hay không, dù là ai, tôi cũng đều muốn nói: Cô hãy đi ra đi. Đừng để cho những con vật nhỏ bé đáng sợ ấy gặm nát da thịt nõn nà của mình. Cô càng không nên vỗ vào mông ngựa. Tôi có tình cảm với cô và rất muốn cô đến vỗ vào mông tôi. Mặc dù tôi biết nếu cô chính là cô Dã La Tử thì ý nghĩ này của tôi quả là rất tội lỗi. Nhưng tôi không sao đè
nén được những ý nghĩ thèm khát của mình. Nếu người phụ nữ này có thể mang tôi đi được, thì dù không được xuất gia cũng đành. Hòa thượng, tôi không kể nữa, trong lòng tôi đang rối tung cả lên.
Hòa thượng dường như có phép nhìn thấu lòng người, những điều trên tôi chỉ nghĩ thầm trong lòng nhưng dường như ông ấy đã biết tất cả. Bằng tiếng cười lạnh lùng, hòa thượng tạm thời cắt ngang những ý nghĩ thèm muốn trong lòng tôi. Được. Tôi sẽ kể tiếp...
6.
Cha tôi vác tôi chạy ra sân đập lúa. Sau khi làng tôi chuyển sang làm nghề giết mổ, ruộng đất gần như đều để hoang, trước khoản lợi nhuận lớn do nghề giết mổ và bơm nước vào thịt mang lại chỉ có kẻ ngốc mới tiếp tục nghề trồng cấy. Sau cải cách ruộng đất, sân đập lúa đã trở thành nơi giao dịch thịt gia súc. Chính quyền thị trấn đã từng có ý định xây một cái chợ gia súc phía trước ủy ban để thu phí quản lý, nhưng mọi người hầu như không nghe theo. Cán bộ thị trấn dẫn các đội viên trong đội quản lý tới chợ gia súc ép mọi người phải chấp hành, thế là xảy ra cuộc tranh chấp với những tay đồ tể trong tay đang lăm lăm con dao, cuối cùng thì xảy ra xô xát, suýt nữa có người mất mạng, bốn đồ tể bị bắt giữ. Vợ của các đồ tể họp nhau lại, người thì khoác tấm da bò, người thì khoác tấm da lợn, người khoác da cừu kéo tới biểu tình trước cửa trụ sở ủy ban, đồng thời tuyên bố, nếu không giải quyết được thì họ sẽ kéo lên tỉnh, tỉnh không giải quyết được thì sẽ kéo lên trung ương. Nếu để cho một đoàn phụ nữ khoác những tấm da thú như thế này mà kéo nhau đi trên đường Tràng An thì hậu quả thật khôn lường. Chẳng ai có thể làm gì được đối với những người phụ nữ như thế này, nhưng chắc chắn quan chức trong huyện sẽ có không ít người phải mất mũ quan. Cuối cùng đương nhiên là những người phụ nữ ấy đã giành chiến thắng, những đồ tể đàn ông đã được trả lại tự do, giấc mộng làm giàu của chính quyền thị trấn bị sụp đổ, sân đập lúa của làng tôi lại nhộn nhịp với các loài gia súc như cũ, nghe nói trưởng thôn còn bị chủ tịch huyện chỉnh cho một trận.
Ở sân đập lúa đã có bảy tám tay lái bò đang hút thuốc ngồi đợi các tay đồ tể, những con bò đứng bên cạnh điềm tĩnh nhau, chúng không hề biết rằng chúng sắp bị đem giết. Những người lái bò phần đông là người huyện Tây, họ nói chuyện líu lo cứ như đang diễn kịch. Cứ khoảng mươi hôm họ lại đến một lần, mỗi người mang theo hai con bò, nhiều nhất cũng không quá ba con. Thường thì họ đi trong các toa xe chở hàng của tàu hỏa đến, người và trâu bò ở
chung một toa, khi xuống tàu thường vào lúc chiều tối, tới làng tôi thì vào quãng giữa đêm. Chiếc ga nhỏ cách làng tôi chừng trên dưới mười dặm, cho dù là vừa đi vừa ngắm cảnh, nhiều nhất cũng không quá hai tiếng, nhưng những tay lái bò này phải đi trong tám tiếng đồng hồ. Họ dắt những con trâu, con bò bị tàu hỏa làm cho loạng choạng ngất ngư chen qua cửa soát vé để ra ngoài. Người soát vé mặc bộ quần áo màu xanh quan sát rất kỹ cả người lẫn bò, thấy không có gì bất thường mới cho đi qua. Nếu là vào mùa xuân, cùng đi với họ còn là các tay lái gà, lái vịt người cùng huyện. Những tay lái gà, lái vịt quảy những chiếc lồng gà, lồng vịt được đan bằng các loại tre nứa bằng một chiếc đòn gánh rất dẻo, họ khom người đi qua cửa soát vé và nhanh chóng để những tay lái bò ở lại phía sau lưng. Những người này đầu đội những chiếc mũ rộng vành, vai choàng những tấm vải to màu xanh, bước chân nhanh nhẹn, tư thế phóng khoáng, tạo thành sự đối lập với những tay lái bò ăn mặc nhếch nhác, người đầy mùi phân bò. Những tay lái bò đầu trần, ngực phanh, mắt đeo những cặp kính có viền thủy ngân rất thịnh hành lúc đó, bước chân khệnh khạng lắc lư cứ như những thủy thủ vừa tới sông Vận Hà, họ dắt lũ trâu bò xuống mép nước cho chúng uống nước. Nếu như thời tiết không lạnh đến mức không chịu được, họ còn té nước kỳ cọ cho chúng để bộ lông của chúng được sạch sẽ và trông ra dáng hơn. Tắm cho lũ trâu bò xong, thì họ tắm cho mình, họ nằm trên lớp cát mịn màng sát mép sông để cho dòng nước trong từ từ chảy qua làn da. Nếu có cô gái trẻ đi qua sông, họ sẽ cất tiếng trêu ghẹo như những chú chó đực động tình. Sau khi tắm táp thoải mái họ lên bờ, quẳng cho lũ trâu bò đám cỏ, rồi ngồi quây lại cho uống rượu, ăn thịt và gặm những chiếc bánh nướng. Họ ăn uống cho đến khi trời đầy sao mới dắt trâu bò ngất nghểu đi về phía làng tôi. Vì sao những ty lái bò lại cứ phải đợi đến khi nửa đêm mới vào làng tôi, đó là một bí mật của riêng họ. Hồi còn nhỏ tôi cũng đã hỏi cha, hỏi mẹ tôi và những cụ già râu trắng như cước ở trong làng điều này, nhưng họ đều trừng mắt nhìn tôi, cứ như thể tôi đã hỏi một câu hỏi vô cùng hiểm hóc không thể nào trả lời được hoặc một câu hỏi đơn giản tới mức không cần trả lời. Khi họ dắt lũ trâu bò về tới đầu làng, lũ chó đồng loạt cất tiếng sửa cứ như theo một mệnh lệnh thống nhất. Mọi người ở trong thôn từ lớn đến bé đều giật mình tỉnh
giấc, họ biết những tay lái bò đã vào làng. Trong ký ức tuổi thơ của tôi, những tay lái bò đều là những nhân vật thần bí khó hiểu, cảm giác này có liên quan mật thiết tới việc họ vào làng lúc nửa đêm. Tôi luôn cho rằng việc họ vào làng lúc nửa đêm có một ý nghĩa sâu xa nào đó, nhưng những người lớn lại không nghĩ như vậy. Tôi nhớ vào những đêm trăng sáng vằng vặc, sau khi lũ chó trong làng đồng loạt cất tiếng sủa, mẹ tôi cuộn chăn ngồi dậy, ghé sát mặt bên cửa sổ, nhìn ra phía đường cái bên ngoài. Lúc ấy cha tôi vẫn chưa bỏ đi, nhưng đã bắt đầu không về nhà vào ban đêm. Tôi rón rén nhổm người dậy nhìn ra ngoài theo hướng nhìn của mẹ, thấy những tay lái bò đang dắt những con bò của mình lặng lẽ đi qua con đường ở giữa làng, những con bò vừa mới được kỳ cọ sạch sẽ, loang loáng dưới ánh trăng như những bức gốm màu khổng lồ vừa mới được khai quật. Nếu không có tiếng sủa ầm ĩ của lũ chó thì những điều mà tôi nhìn thấy quả thực giống như những cảnh trong mơ vô cùng đẹp đẽ, mà cho dù có tiếng chó sủa thì bây giờ nhớ lại những cảnh tượng mà tôi nhìn thấy lúc ấy cũng thật giống với cảnh trong mơ. Mặc dù trong làng tôi cũng có mấy nhà trọ, nhưng những tay lái buôn bò không bao giờ vào đó, họ dắt lũ trâu bò đến thẳng sân đập lúa và chờ cho đến khi trời sáng, dù trời gió hay trời mua, dù khi rét buốt hay nóng nực. Có nhiều đêm mưa gió chủ của các nhà trọ đã từng ra chào mời, nhưng những tay lái bò và đám bò của họ vẫn cứ đứng trong mưa như những bức tượng đá, dù cho chủ các nhà trọ mời đến dã bọt mép, họ vẫn không lay chuyển. Lẽ nào chỉ vì để tiết kiệm mấy đồng tiền trọ? Tuyệt dối không phải như vậy, nghe nói những tay lái bò bí hiểm này sau khi hoàn tất việc mua bán, vào thành phố ai cũng tiêu pha cho đến khi những đồng tiền trong túi chẳng còn là bao thì mới mua chiếc vé tàu chậm để quay về. Thói quen của họ rất khác với những người nông dân mà chúng ta từng quen biết. Cách suy nghĩ của họ cũng khác hẳn với người nông dân. Hồi còn nhỏ tôi không chỉ một lần nghe thấy những người đức cao vọng trọng trong làng thở dài nói rằng: Những người này không hiểu là thế nào nữa? Trong đầu họ không biết nghĩ những gì? Đúng thế, rút cục trong đầu của những người này nghĩ gì nhỉ? Những con trâu, con bò họ đưa tới đen có, trắng có, đực có, cái có, già có, tơ có, có lần còn có cả một con bò cái vú trắng, to làm cha tôi phải do dự mất
một lúc trong lúc đoán con bò ấy, vì ông không biết cái bầu vú của con bò trắng ấy nên tính là thịt hay là gì khác.
Những tay buôn bò nhìn thấy cha tôi đều đứng cả dậy. Mới sáng sớm mà họ đã đeo những cặp kính viền, thoạt nhìn cũng có phần dữ tợn, nhưng miệng họ đều mỉm cười cho thấy họ khá tôn trọng cha tôi. Cha đặt tôi xuống đất rồi ngồi xổm cách xa những tay lái bò mấy chục thước và rút ra một điếu thuốc từ trong chiếc hộp thuốc bẹt. Những tay lái bò chìa những gói thuốc thơm của họ ra, có tới cả mười mấy gói. Họ đều nói: Hút đi! Hút đi anh La, mười mấy điếu thuốc làm sao mua chuộc được anh? Cha tôi mỉm cười không đáp, ông vẫn hút hộp thuốc của mình. Những tay đồ tể trong làng tốp năm tốp ba đi đến, họ đều tắm rửa rất sạch sẽ, nhưng tôi vẫn ngửi thấy mùi máu tanh tỏa ra từ người họ. Có thể thấy rằng dù là máu lợn hay máu bò cũng khó mà tắm rửa cho sạch. Lũ trâu bò cũng ngửi thấy mùi trên người của các tay đồ tể, chúng dồn lại gần nhau, ánh mắt lộ ra vẻ sợ hãi. Mấy con bò tơ chổng mông ra ngoài vãi phân xuống đường, mấy con trâu già vẫn rất bình thản, nhưng tôi biết chúng cố làm ra vẻ bình thản, vì tôi nhìn thấy những chiếc đuôi của chúng co lại để không vãi phân, nhưng các cơ trên đùi của chúng thì đang run lên. Tình cảm của người nông dân dành cho trâu bò rất sâu đậm, đối với họ giết trâu, nhất là những con trâu già bị coi là trái với đạo trời. Người đàn bà mắc bệnh phong ở trong làng tôi thường chạy ra ngôi mộ lớn ở đầu làng vào lúc nửa đêm kêu khóc và nhắc đi nhắc lại một câu rằng: Không biết tổ tiên đời nào giết trâu già, để con cháu đời sau phải chịu báo ứng như thế này. Trâu bò cũng biết khóc, con bò sữa mà lúc đánh giá cha tôi từng đắn đo, khi bị giết nó đã quỳ chân trước mặt đồ tể và trong đôi mắt màu xanh của nó nước mắt chan chứa. Nhìn thấy cảnh tượng ấy, chiếc tay cầm dao của người đồ tể bỗng nhũn xuống, những câu chuyện về trâu hiện lên trong tâm trí ông, con dao trong tay ông rơi xuống keeng một tiếng trên đất, đôi chân của ông nhũn xuống và thế là ông ở tư thế quỳ đối diện với con bò, rồi ông cất tiếng khóc lớn. Từ đó người đồ tể này buông dao mổ và trở thành hộ nuôi chó chuyên nghiệp. Mọi người hỏi ông vì sao lại quỳ khóc trước con bò, ông nói từ ánh mắt của nó nhìn thấy người mẹ đã mất của mình, có thể con
bò ấy chính là hóa kiếp của mẹ ông. Người đồ tể ấy họ Hoàng tên Bưu, từ sau khi đổi nghề vẫn nuôi con bò già ấy và đối xử với nó như một người con hiếu thuận đối xử với mẹ. Vào tiết xuân khi cây cỏ đâm chồi, chúng tôi thường thấy ông dắt con bò già đi theo sau, chẳng cần phải dùng đến thừng. Có người đã nghe thấy ông nói với con bò già rằng: Mẹ, đi thôi, ra bờ sông gặm cỏ non nào. Có người thì nghe thấy ông nói răng: Mẹ, chúng ta về thôi, trời sắp tối rồi, mắt của mẹ không tốt đâu, cẩn thận kẻo ăn phải cỏ độc đấy. Hoàng Bưu là người có mắt nhìn, lúc ông mới bắt đầu nuôi chó ông đã bị rất nhiều người cười chê. Nhưng chỉ mấy năm sau chẳng ai còn dám cười chê ông nữa. Ông cho chó bản địa phối giống với loài chó sói của Đức để tạo ra loài chó vừa thông minh, vừa dũng cảm, vừa có thể trông nhà, vừa có thể báo tin cho chủ. Các cán bộ huyện tới điều tra những vụ mờ ám hoặc là phóng viên gì đó tới làng cách ba cây số loại chó này đã ngửi thấy mùi và sủa mãi không thôi. Các tay đồ tể được tin lập tức thu dọn hiện trường, xóa mọi dấu vết, khiến những cán bộ và phóng viên này chẳng tìm ra chứng cứ gì. Đã từng có hai phóng viên tờ báo buổi chiều giả làm những tay lái buôn vào làng với mong muốn vạch trần thù đoạn làm ăn đen tối của những tay đồ tể ở trong làng tôi, mặc dù họ đã bôi máu lên quần áo, đánh lừa cặp mắt của những tay đồ tể, nhưng rốt cuộc họ không đánh lừa nổi lũ chó, mười mấy con chó lai do Hoàng Bưu tạo ra đã đuổi hai phóng viên này chạy từ đầu làng tới cuối làng, cắn nát quần của họ khiến họ làm rơi thẻ phóng viên ở trong túi quần. Sở dĩ những tay đồ tể và buôn thịt trong làng tôi vẫn phất lên và không bị ngăn chặn, ngoài sự bảo trợ của một số cán bộ biến chất ra thì có một phần rất lớn công lao của Hoàng Bưu. Ngoài ra Hoàng Bưu còn tạo ra một loại chó khác, loài chó này chỉ số thông minh cực thấp, nhìn thấy chủ nhân cũng vẫy đuôi, nhìn thấy tên ăn trộm hay kẻ cướp cũng vẫy đuôi. Loài chó này vì đầu óc đơn giản, tâm địa lương thiện nên được ăn được ngủ và lớn rất nhanh, chúng trở thành mặt hàng cung không đủ cầu, vừa mới sinh ra thì đã có người đến đặt mua. Cách làng tôi 18 cây có một xóm người Triều Tiên, họ rất thích ăn thịt chó, thích ăn thì tất giỏi làm, họ đã lập ra những quán thịt chó trong phố. Thịt chó trong các quán của họ rất nổi tiếng, và sự nổi tiếng ấy một phần lớn được quyết định ở nguyên liệu đặc biệt do Hoàng Bưu
cung cấp. Thịt chó do Hoàng Bưu làm ra không chỉ có mùi thơm của thịt chó, mà còn có mùi thơm của thịt bê. Nguyên nhân là để cho lũ chó mau lớn, sau khi lũ chó đẻ ra được mười mấy ngày, Hoàng Bưu không cho chúng bú sữa mẹ mà bú bằng sữa bò. Sữa đương nhiên là do con bò sữa già cung cấp. Những kẻ xấu bụng trong làng nhìn thấy Hoàng Bưu phát tài thì trong lòng ghen ghét, họ ra sức công kích: Hoàng Bưu ơi Hoàng Bưu, ông nuôi con bò già như nuôi mẹ đẻ, chẳng khác gì con đối với mẹ, nhưng thực ra ông là đồ giả tạo, nếu con bò già là mẹ ông thì ông không nên vắt sữa của mẹ ông để nuôi chó mới đúng chứ? Ông nuôi chó bằng sữa của mẹ mình thì có khác gì ông biến mẹ mình thành con chó mẹ. Mà mẹ ông là con chó mẹ thì chẳng hóa ra ông là đồ chó đẻ hay sao? Mà đã thế thì ông có khác gì một con chó? Những lời này của những người xấu bụng khiến Hoàng Bưu há mồm trợn mắt, ông liền vớ lấy con dao mổ xông vào những kẻ xấu đó, những người ấy thấy thế vội co cẳng bỏ chạy. Nhưng người vợ mới cưới của Hoàng Bưu đã thả những con chó đó ra, những con chó kém thông minh cùng với những con chó lai thông minh rượt đuổi theo những người xấu bụng ấy khiến bọn họ phải kêu ầm ĩ lên, còn cô vợ mới xinh đẹp của Hoàng Bưu thì cất tiếng cười ha hả. Hoàng Bưu cùng ngửa cổ cười phụ họa. Người vợ mới của Hoàng Bưu có làn da trắng như trứng gà bóc, còn Hoàng Bưu thì đen như sơn, hai người đứng bên cạnh nhau đen lại càng đen, trắng lại càng trắng. Trước khi Hoàng Bưu lấy vợ, ông ta thường tới hát phía ngoài cửa sổ nhà cô Dã La Tử vào lúc nửa đêm. Cô Dã La Tử nói: Người anh em, về đi, tôi đã có người khác rồi. Nhưng nhất định tôi sẽ tìm vợ giúp cho anh... Người vợ của Hoàng Bưu bây giờ chính là người do cô Dã La Tử giới thiệu.
Sau khi những tay đồ tể vào sân thì cuộc giao dịch bắt đầu. Họ đi vòng quanh đàn trâu bò nhưng chưa quyết định được nên mua con nào. Nhưng chỉ cần có một người đưa tay ra tóm lấy sợi dây thừng của một con nào đó, thì tất cả những tay đồ tể khác cũng sẽ lập tức tóm lấy các sợ thừng khác trong vòng chưa đầy ba giây, tất cả bầy trâu bò đã tìm được chủ mua trong chớp nhoáng. Gần như không xảy ra cảnh hai đồ tể cùng tranh mua một con trâu bò, giả thử có xảy ra như vậy thì họ cũng giải quyết rất nhanh chóng. Thông
thường những người cùng nghề thường là đối thủ của nhau, nhưng dưới sự tổ chức của Lão Lan thì các tay đồ tể trong làng tôi trở thành một tập thể đoàn kết. Lão Lan nhờ việc truyền cách bơm nước vào thịt cho các tay đồ tể mà đã có được uy tín, lợi nhuận to lớn và hành vi phi pháp đã khiến những người này hợp lại với nhau. Sau khi các tay đồ tể tóm lấy các sợi dây thừng thì những tay lái bò mới lười biếng chụm lại, rồi từng đôi lái bò và đồ tể thảo luận về giá cả, họ tranh cãi mãi không thôi. Kể từ sau khi cha tôi xuất hiện thì cuộc tranh luận giữa họ mới trở nên nhẹ nhàng hơn rồi dần dần trở thành hình thức và thói quen, việc gõ tiếng chuông cuối cùng cũng phải nhờ vào cha tôi. Sau khi tranh luận một hồi, các tay đồ tể và lái buôn từng cặp một dắt trâu đến trước mặt cha tôi như những đôi nam nữ dắt nhau tới chiếc bàn đăng ký kết hôn.
Nhưng tình hình hôm ấy có phần hơi khác. Sau khi các tay đồ tể vào trong sân, họ không tới chỗ của bầy trâu bò như mọi khi, mà cứ đi đi lại lại. Họ mỉm cười một cách bí hiểm khiến người khác nhìn mà thấy khó chịu. Nhất là khi đi ngang qua mặt cha tôi, những điều ẩn chứa trong cái cười không ra cười ấy càng khiến người ta có cảm giác có gì đó không tốt lành, hình như có âm mưu nào đó đang được nhen nhúm và chỉ còn chờ thời cơ thực hiện. Tôi sợ hãi nhìn trộm khuôn mặt của cha tôi, nhưng ông vẫn bình thản hút thuốc như không. Những gói thuốc được các tay buôn bò mang lại đặt ngay ngắn trước mặt cha tôi, ông không hề động tới một điếu. Thông thường, ông không động tới những gói thuốc ấy, chờ cho cuộc giao dịch hoàn tất, cuối cùng những tay đồ tể sẽ nhặt những gói thuốc ấy lên vừa hút vừa khen cha tôi công bằng, liêm khiết. Có người còn nửa đùa nói rằng: Lão La này, nếu cả Trung quốc này ai cũng như anh thì chủ nghĩa cộng sản đã thành công cách đây cả chục năm rồi. Cha tôi cười không đáp. Mỗi khi như vậy tôi lại cảm thấy trong lòng rất tự hào và thường tự nhủ: làm việc phải là như vậy, làm người phải làm người như vậy. Những tay lái bò cũng cảm thấy hôm nay có điều gì đó khác thường, họ dồn mắt nhìn cha con tôi, cũng có người thì lặng lẽ quan sát những tay đồ tể đang đi đi lại lại. Mọi người như cùng đang chờ đợi một điều gì đó, giống như những khán giả đang kiên nhẫn chờ màn kịch hay.
7.
Tiếng mưa bên ngoài thưa dần, tiếng sấm và ánh chớp cũng xa dần. Tôi nhìn thấy ngoài sân đọng rất nhiều nước mưa, ngập cả con tường nhỏ xây bằng đá. Trên mặt nước bồng bềnh rất nhiều lá xanh lẫn lá vàng và cả một đồ chơi bằng nhựa. Mưa mỗi ngày một thưa rồi tạnh hẳn. Một cơn gió từ ngoài ruộng thổi vào khiến cây ngân hạnh rung lên, những chiếc lá xào xạc, mặt nước trên sân xao động lấp lánh. Hai con mèo thò đầu ra khỏi cái hốc ở lưng chừng cây kêu lên mấy tiếng rồi sau đó lại thụt đầu lại. Tôi nghe thấy tiếng con mèo con yếu ớt, tôi biết trong lúc trời mưa sầm sập, con mèo mẹ cụt đuôi đã đẻ ra mấy chú mèo con. Khi trời mưa lớn, súc vật thích sinh con, cha tôi nói như vậy. Tôi còn nhìn thấy một con rắn đen đốm trắng ngoe nguẩy trên mặt nước, và cả một con cá trắng bạc đang cố gắng vượt lên, cái mình bẹt của nó cong lên trên mặt nước giống như một chiếc liềm vừa đẹp đẽ vừa cứng rắn, và khi rơi xuống nước phát ra một tiếng "tõm" một cái. Cá từ đâu đến, điều đó chỉ có cá mới biết được. Con cá bơi khó khăn giữa dòng nước mạnh. Cái lưng màu đen sẫm nổi lên khỏi mặt nước. Một con dơi bay qua đầu chúng tôi ra ngoài cửa miếu, tiếp sau nó là cả một đàn dơi. Hai hạt mưa đá rơi phía trước mặt mà tôi chưa kịp ăn khi nãy giờ đã tan ra. Tôi nói, hòa thượng, trời sắp tối rồi. Hòa thượng lặng im không đáp.
Mặt trời đỏ rực như một cục lửa nhô lên khỏi ruộng lúa ở phía đông, nhân vật chính đã bước vào sàn diễn. Ông ta chính là Lão Lan, trưởng thôn của chúng tôi. Đó là một người đàn ông vạm vỡ, cao lớn, lúc ấy ông ta vẫn chưa phát phì, bụng vẫn chưa có nhiều mỡ, chiếc cằm cũng chưa xệ xuống. Ông ta là người có bộ râu màu vàng thẫm, cặp mắt cũng màu vàng thẫm, một người Hán chính cống. Lão Lan sải bước ra sân, mọi người đổ dần ánh mắt về phía ông ta. Ánh nắng chiếu vào khiến da thịt ông ta bóng nhẫy lên. Lão Lan đi tới trước mặt cha tôi thì dừng lại nhưng ánh mắt của ông ta lại nhìn qua bức tường thấp ra phía cánh đồng hoang phía bên ngoài, ở đó mặt trời đang từ từ nhô lên cao, ánh nắng vàng rực rỡ đang chan
hòa trên mặt đất. Ruộng lúa mạch xanh biếc, những bông hoa dại nở rộ tỏa ra mùi thơm dịu dàng, những con chim văn tước bay lượn hót líu lo giữa bầu trời hồng rực. Lão Lan dường như không nhìn thấy cha tôi, và đương nhiên cũng không nhìn thấy tôi. Hay là ánh mặt trời làm ông ta chói mắt? Lúc ấy tôi đã ngây thơ nghĩ như vậy, nhưng tôi đã nhanh chóng hiểu ra rằng Lão Lan cố tình chọc tức như vậy. Ông ta vừa ngoái đầu nói chuyện với những tay đồ tể và những tay buôn bò, vừa kéo khóa quần lôi cái của đen sì của ông ta ra. Một dòng nước vàng, khai nồng chảy ra ngay trước mặt hai cha con tôi, dòng nước đái ấy thật dài, nếu kéo dài ra chắc chắn không ít hơn mười lăm mét. Có lẽ ông ta đã phải nhịn suốt đêm. Ông ta đã âm mưu dùng dòng nước đái này để làm nhục cha tôi từ trước. Mười mấy gói thuốc trước mặt cha tôi lăn lóc trong dòng nước đái đó, rồi nhanh chóng trương lên vì bị ướt. Khi Lão Lan lôi cái của nợ của ông ta ra, đám đồ tể và buôn bò đã cất tiếng cười kỳ quái, nhưng rồi họ lập tức im bặt, dường như họ đã bất ngờ bị một bàn tay nào đó chẹn ngang cổ họng. Họ há mồm trợn mắt nhìn chúng tôi, nét mặt ai cũng đầy vẻ bàng hoàng. Ngay cả những tay đồ tể biết trước được rằng Lão Lan sẽ kiếm chuyện với cha tôi cũng không thể nghĩ rằng ông ta lại dùng cách ấy. Dòng nước đái của Lão Lan bắn cả lên chân cha con tôi, thậm chí là vào cả mặt và miệng tôi. Tôi tức giận tới mức nhảy cả lên, nhưng cha tôi thì vẫn không động tĩnh gì, dường như ông đã hóa đá. Tôi buột mồm chửi: Mẹ nhà ông! Cha tôi vẫn không nói năng gì. Lão Lan mỉm cười, vẫn với vẻ khinh khỉnh như thường. Cha tôi nhíu mắt lại, giống như người nông dân nhàn tản đang thưởng thức những dòng nước mưa ngoài mái hiên. Lão Lan đái xong kéo khóa quần lên rồi đi về phía bầy trâu bò. Tôi nghe thấy những tay đồ tể và buôn bò trút những hơi thở dài, tôi không hiểu những hơi thở dài ấy là tiếc nuối hay vui mừng. Sau đó những tay đồ tể bước tới gần bầy trâu bò, mỗi người chọn một con. Những tay buôn bò cũng bước đến tranh cãi với người mua. Tôi phát hiện ra rằng họ không mấy chú tâm vào việc đó, tuy họ không nhìn thẳng vào cha tôi nhưng trong lòng họ cũng đều đang nghĩ đến cha tôi. Còn cha tôi lúc đó, hai tay ôm gối, kề mặt lên đó, trông giống như con chim ưng đã ngủ gật trên cành cây. Tôi không nhìn thấy mặt cha tôi, nên không thể biết được vẻ biểu hiện trên khuôn mặt
ông. Tôi thực sự lấy làm bất mãn trước sự sỉ nhục của Lão Lan đối với cha tôi lớn đến mức nào, bất cứ người nào có tí chút máu đàn ông trong người đều không thể nín nhục trước tình cảnh đó, đến một đứa trẻ lên năm như tôi mà còn biết cất tiếng chửi, ấy thế mà cha tôi vẫn cứ im lặng, ngồi ngây như một hòn đá. Buổi giao dịch hôm ấy kết thúc mà không có tiếng chuông gõ của cha tôi. Nhưng cả hai bên mua, bán vẫn đến trước mặt cha tôi và đặt một vài đồng tiền như mọi khi. Người đầu tiên làm việc đó lại chính là Lão Lan. Đồ chó, hình như ông ta vãi nước đái trước mặt cha tôi vẫn còn chưa đủ hả hê nên lại vứt hai tờ mười đồng trước mặt cha tôi như muốn thu hút sự chú ý của ông. Cha tôi vẫn giữ tư thế cũ, dấu khuôn mặt của mình đi. Lão Lan tỏ ra càng thất vọng, ông ta đưa mắt nhìn bốn phía rồi sau đó cầm hai đồng tiền dí vào trước mặt cha tôi. Một trong hai đồng tiền rơi đúng vào vũng nước đái của ông ta lẫn với mấy gối thuốc lá. Lúc đó, trong lòng tôi, cha tôi đã chết rồi. Ông đã làm mất mặt mười tám đời họ La chúng tôi. Ông không còn là một con người nữa, miễn cưỡng lắm cũng chỉ như gói thuốc lá bị Lão Lan đái vào mà thôi. Sau khi Lão Lan ném tiền, bọn đồ tể và buôn bò cũng đều bước tới và làm như vậy. Vẻ mặt của họ lộ rõ vẻ thương hại, làm như cha con tôi là những kẻ ăn mày rất đáng thương hại. Số tiền mà họ ném cho cha tôi nhiều gấp hai lần ngày thường. Nhìn cũng tờ tiền rơi trước mặt chúng tôi như những chiếc lá rơi, tôi bật khóc. Cuối cùng cha tôi cũng ngẩng cái đầu dấu giữa hai đầu gối lên, vẻ mặt của ông chẳng có vẻ phẫn nộ cũng chẳng có vẻ gì đau khổ, nó giống như một miếng gỗ khô. Ông lạnh lùng nhìn tôi, ánh mắt chứa vẻ nghi ngại, dường như ông không hiểu vì sao tôi khóc như vậy. Tôi đưa tay tóm lấy cổ ông nói: Cha, con không bao giờ gọi cha là cha nữa, con thà gọi Lão Lan là cha chứ quyết không gọi cha nữa! Tiếng của tôi rất to, khiến đám đông lặng đi trong giây lát, sau đó thì đều bật cười ha hả. Lão Lan giơ ngón tay cái lên với tôi và nói: Tiểu Thông, được lắm! Ta sẽ nhận cháu làm con, từ nay về sau con có thể tới nhà ta ăn ở, muốn ăn thịt lợn thì chúng ta ăn thịt lợn, muốn ăn thịt bò thì ăn thịt bò. Nếu có thể mang mẹ tới cùng thì ta càng hoan nghênh. Nỗi tủi nhục của tôi đã đến mức tột cùng, tôi xông tới đùi của Lão Lan. Lão Lan nhẹ nhàng tránh sang một bên, tôi xông vào người ông ta, môi mím chặt đến bật cả máu. Lão Lan cười lớn
và nói: Thằng nhóc, vừa mới nhận cha xong mà đã đánh cha, ai mà dám nhận đứa con như vậy? Không có ai lôi tôi, tôi đành phải tự mình bò dậy. Tôi quay về bên cạnh cha tôi và đá vào chân ông để trút hết nỗi bất bình của mình. Nhưng cha tôi vẫn không hề tức giận và cũng không hề tỉnh ngộ, ông xoa xoa khuôn mặt của mình bằng đôi bàn tay to và mềm mại, sau đó vươn người, ngáp dài một cái. Đó là động tác của một con mèo đực nổi tiếng bậc nhất. Rồi ông cúi đầu, chậm rãi thận trọng, tỉ mẩn nhặt từng đồng tiền lên, kể cả đồng tiền trong vũng nước tiểu của Lão Lan. Cứ mỗi lần như vậy, ông lại soi những đồng tiền dưới ánh mặt trời dường như để xem nó thật hay giả. Cuối cùng ông mới đặt đồng tiền mới nhưng đầy bẩn thỉu của Lão Lan lên quần mình và cẩn thận xoa sạch. Sau đó ông kẹp đồng tiền vào bàn tay và đếm từng tờ tiền một. Tôi xông lên giằng lấy đám tiền trong tay cha, tôi muốn xé chúng ra, và ném lên không trung. Tốt nhất là ném vào mặt Lão Lan để trút mối nhục của cha con chúng tôi. Nhưng cha tôi đã cảnh giác nhảy lên, giơ cao bàn tay trái cầm tiền lên, miệng quát: Đồ ngốc! Con làm gì thế? Đồng tiền không có sai lầm, sai lầm là do con người, con trút nỗi bực tức vào đồng tiền là không nên. Nhưng tôi quyết không buông mà vẫn cứ ôm ghì khuỷu tay đang cầm những đồng tiền nhục nhã của cha. Ý đồ của tôi không thể nào thực hiện được trước một người cao lớn như cha tôi. Cuối cùng, tôi chỉ còn biết dùng đầu húc vào mạng sườn của cha. Cha xoa đầu tôi dỗ dành: Thôi nào, thôi nào con trai, đừng gây sự nữa, con nhìn bên kia mà xem, con bò của Lão Lan nó bắt đầu nổi giận rồi đấy.
Con bò của Lão Lan là một con bò Lỗ Tây béo mập. Bộ lông trên người nó mượt như tơ, trông nó đẹp đẽ chẳng khác gì những vận động viên thể hình mà tôi nhìn thấy trên tivi sau này. Toàn thân nó màu vàng, chỉ có khuôn mặt là trắng dị thường, đây là con bò mặt trắng đầu tiên mà tôi nhìn thấy. Con bò đực này đã được thiến. Hai viền mắt của nó đỏ vằn lên, vẻ mặt của nó khiến người ta nhìn thấy mà sợ hãi. Bây giờ nhớ lại, tôi thấy vẻ mặt của nó giống như vẻ mặt của thái giám. Con người bị hoạn thì tính tình cũng đổi khác. Bò bị thiến thì tính tình cũng thay đổi. Câu nhắc nhở của cha khiến tôi tạm thời quên đi sự việc về những đồng tiền, tôi quay đầu nhìn con bò.
Lão Lan đang dắt nó và đắc ý đi về phía trước. Ông ta nên đắc ý lắm chứ. Ông ta đã sỉ nhục cha con tôi một cách rất nặng nề nhưng không gặp phải sự phản kháng nào, điều này đã nâng cao uy tín của ông ta trong làng và với cả những người buôn bò. Người duy nhất không coi ông ta là gì cuối cùng đã bị ông ta đánh gục, từ nay về sau trong làng sẽ không còn ai dám trái ý ông ta nữa. Nhưng một sự việc xảy ra ngay sau đó đã khiến cho mọi người sửng sốt, bao nhiêu năm sau khi nhớ lại chuyện này tôi vẫn còn bán tín bán nghi. Con bò vàng Lỗ Tây lười biếng đột nhiên đứng lại. Lao Lan quay đầu ra sức kéo thừng nhưng nó vẫn đứng nguyên tại chỗ. Lão Lan xuất thân là một tay chuyên giết bò, mùi trên người lão đủ khiến cho những con bò nhút nhát thấy sợ, dù là con trâu, con bò ương bướng đến mức nào cũng đều phải ngoan ngoãn chờ chết dưới bàn tay của ông ta. Không lôi được con bò đi, Lão Lan bèn quay lại bên cạnh nó và đưa tay gõ vào cái xoáy trên đầu nó, đồng thời cất tiếng quát nạt, cái gõ và tiếng quát của lão thường khiến cho những con trâu, con bò khác phải vãi cả phân ra. Nhưng con bò Lỗ Tây này lại không hề nhúc nhích. Vừa giành chiến thắng trước cha tôi, Lão Lan như một chiến binh kiêu hùng, ông ta quyết không lùi bước trước con bò ương bướng. Ông ta giơ chân đã vào bụng con bò một cái. Con bò Lỗ Tây xoay mông lại gầm lên một tiếng rồi cúi đầu lao về phía trước, dường như nó không phải tốn bao nhiêu sức lực nhưng cũng đủ để khiến Lão Lan phải rơi xuống như một chiếc chiếu cỏ chẳng được mấy cân. Tất cả những người có mặt ở đó đều ngây ra sửng sốt, không ai thốt ra được câu nào, và càng chẳng có ai chạy lên trước để ứng cứu cho Lão Lan. Con bò tiếp tục xông lên phía trước, Lão Lan rút cuộc cũng chỉ là người bình thường nên trong lúc nguy nan ông ta cũng lăn lông lốc và tìm cách tránh khỏi con bò. Nhưng con bò mắt vằn lên, vẫn tiếp tục tấn công, Lão Lan cố tránh khỏi những cú húc của nó và cuối cùng thì cũng đã đứng lên được. Xem ra thì ông ta đã bị thương nhưng không có gì là nặng, ông ta đối diện với con bò, người khom xuống mắt không dám chớp. Con bò cúi đầu, mõm sùi bọt mép, thở phì phì luôn trong tư thế tấn công. Lão Lan giơ một cánh tay lên như muốn phân tán sự tập trung của con bò. Cái vẻ của ông ta rất giống một võ sĩ đấu bò, tuy sợ đến chết nhưng vẫn phải cố gắng. Ông ta từ từ nhích về phía trước một bước, con
bò vẫn không động đậy, càng cúi đầu thấp hơn, cuộc tấn công mới của nó có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Cuối cùng Lão Lan cũng phải bỏ cái vẻ anh hùng hảo hán, kêu lên một tiếng và bỏ chạy. Con bò tung bốn vó đuổi theo, cái đuôi của nó vung tít lên, giống hệt như một chiếc roi sắt, bốn vó phi như bay làm tung tóe bùn ra bốn phía. Lão Lan cuống cuống bỏ chạy. May mà con bò cũng rất hiểu tình người, nó chỉ đuổi theo Lão Lan mà không đuổi theo người khác. Trong lúc cuống cuồng, Lão Lan đâm bổ về phía cha con tôi. Cha tôi nhanh trí một tay tóm cổ, một tay tóm mông tôi tung lên tường, chính trong lúc ấy Lão Lan chạy tới và trốn ở phía sau lưng cha tôi, cha tôi định tránh nhưng ông ta đã túm chặt lấy áo, thế là cha tôi đã trở thành tấm lá chắn của ông ta. Cha tôi lùi về phía sau một bước, Lão Lan cũng lùi theo và cuối cùng thì lùi tới chân tường. Cha tôi đưa bàn tay cầm tiền ra phía trước mặt, vẫy vẫy: Bò ơi bò à, chúng ta kiếp này không thù không hận, kiếp sau cũng chẳng hận chẳng thù, có việc gì thì chúng ta hãy thỏa thuận với nhau...! Bây giờ kể lại thì thấy chậm nhưng sự việc lúc đó thì rất nhanh, khi đưa bàn tay có tiền ra trước mặt con bò, đồng thời cha tôi cũng nhanh chóng chụp mạnh lấy đầu nó và túm lấy cái dây thừng ở mũi của nó. Những con bò do những tay lái buôn huyện Tây mang đến gần như đều là bò cày nên đều đã được xỏ mũi, mà mũi bò là nơi yếu nhất trên mình nó. Tuy cha tôi không phải là một nông dân giỏi nhưng sự hiểu biết của ông đối với chúng còn hơn cả những người nông dân lành nghề khác. Tôi ngồi trên tường, nước mắt lưng tròng: Cha ơi, con tự hào về cha, trong lúc nguy nan cha đã rất nhanh trí, dũng cảm, cha đã rửa được mối nhục cho mình. Lúc đó, các tay đồ tể, buôn bò mới đến giúp cha tôi vật con bò mặt trắng ra đất. Để tránh việc nó đứng dậy húc người, một tay đồ tể chạy vội về nhà mang đến một con dao mổ đưa cho Lão Lan. Lão Lan mặt vàng như sáp, lùi về phía sau xua xua tay ra hiệu cho người đồ tể đó ra tay. Người đồ tể giơ con dao hết một vòng hỏi: Ai có thể giải quyết? Không có ai à? Không có ai thì tôi đành phải làm vậy. Ông ta xắn ống tay, lau con dao vào đế giày mấy cái, rồi sau đó ngồi xổm, nheo một mắt, nhằm vào ngực con bò, thọc một phát. Khi ông ta rút con dao ra, một cột máu vọt ra bắn đầy lên người cha tôi. Con bò đã chết, đám đông cũng từ từ đứng dậy, dòng máu đỏ sẫm của con bò vẫn không ngừng chảy ra
từ chỗ của mũi dao đâm vào, trong máu có lẫn cả bọt, một mùi tanh nồng tỏa ra, làm đục cả không khí của buổi sáng. Cả đám đông bỗng xẹp lép như quả bóng bị xì hơi, ai cũng như chùng xuống, ai cũng có rất nhiều điều muốn nói, nhưng chẳng ai mở miệng trước. Cha tôi rụt cổ lại, để lộ hàm răng chắc khỏe bịt vàng nói: Trời ạ, làm tôi sợ chết khiếp đi được! Mọi người đưa mắt nhìn sang mặt Lão Lan, khiến ông ta không biết dấu mặt vào đâu, ông ta cúi đầu vờ nhìn vào con bò. Bốn chân nó đã duỗi thẳng, bắp thịt non ở bắp đùi cứ giật giật, một con mắt màu xanh của nó cứ mở trừng trừng như chưa hết nỗi căm giận. Ông ta giơ chân đá vào con bò nói: Mẹ nó, cả đời săn chim ưng, thế mà suýt nữa bị chim ưng mù mổ mắt! Nói xong câu này ông ta ngẩng mặt lên nhìn cha tôi và nói: La Thông, hôm nay tôi đã nợ anh, nhưng chuyện của chúng ta vẫn còn chưa hết. Cha tôi nói: Giữa chúng ta thì có chuyện gì? Giữa anh và tôi chẳng có chuyện gì cả. Lão Lan giận dữ nói: Anh đừng có mà động tới cô ấy! Cha tôi đáp: Không phải là tôi muốn động vào, mà là cô ấy muốn tôi động vào. Cha tôi đắc ý nói tiếp: Cô ấy nói anh là một con chó, cô ấy sẽ không bào giờ cho anh động tới cô ấy nữa. Lúc đó tôi chẳng hiểu mấy về những điều họ nói. Sau này thì tôi biết, người mà họ gọi là "cô ấy" là cô Dã La Tử, chủ tiệm cơm trong phố. Tôi hỏi cha tôi: Hai người nói gì thế, động cái gì cơ? Cha tôi nói: Trẻ con không được hỏi chuyện người lớn! Lão Lan thì lại nói: Con trai, hãy về nói với mẹ con rằng cha con đã chui vào cái ổ của Dã La Tử, không ra khỏi được nữa đâu. Nghe xong câu ấy, cha tôi xông vào Lão Lan hệt như một con bò đực giận dữ. Cuộc xô xát giữa hai người xảy ra rất ngắn, mọi người nhanh chóng lôi hai người ra, tuy nhiên trong cuộc xô xát của hai người ấy, Lão Lan cũng đã chém đứt một ngón tay của cha tôi, còn cha tôi cũng đã cắn đứt một bên tai của Lão Lan. Cha tôi nhổ miếng tai của Lão Lan ra, giận dữ nói: Đồ chó, mày lại dám nói điều đó với con trai tao à!
8.
Người phụ nữ lặng lẽ quay ra và đi qua khoảng trống chật chội giữa tôi và hòa thượng. Chiếc áo rộng của bà ta khẽ chạm vào mũi tôi, đôi chân nhỏ giá lạnh cọ vào đầu gối của tôi. Tôi bỗng thấy trong lòng rối bời không thể nào nói hết được. Người phụ nữ mặc một chiếc áo bông rộng, bê chiếc chậu đồng cũ kỹ mà hòa thượng dùng để rửa mặt ra chỗ bể nước ngoài sân. Khuôn mặt gầy của bà ta đối diện với tôi, trên khuôn mặt ấy thoáng một nụ cười mơ hồ. Những đám mây đen hé ra để lộ một khoảng trời màu hồng. Phía tây là một dải hồng rực, mặt trời đã xuất hiện trở lại. Những con dơi bay lượn trên không, trông giống như những hạt đậu bằng vàng lấp lánh. Khuôn mặt của người phụ nữ sáng rực lên, bộ quần áo mặc trên người được may bằng tay, có một hàng khuy đồng sáng. Bà ta khom người đặt chiếc chậu đồng xuống, chậu đồng có chứa bộ quần áo nổi bồng bềnh trên mặt nước. Bà ta vét vạt áo lên để lộ bắp đùi màu nâu và đôi mông trắng toát. Tôi sửng sốt phát hiện ra rằng ngoài chiếc áo ấy ra, bà ta không mặc một cái gì khác. Có nghĩa là, nếu cởi bỏ chiếc áo đó thì bà ta sẽ lõa thể. Chiếc áo khoác đó chỉ có thể là của hòa thượng. Tôi rất rõ về mọi thứ trong nhà của hòa thượng, nhưng chưa nhìn rõ chiếc áo này bao giờ. Người phụ nữ đã tìm thấy nó từ chỗ nào nhỉ. Tôi nhớ lại lúc người phụ nữ ấy đi qua trước mặt tôi, chiếc áo đó tỏa ra mùi ẩm mốc. Người phụ nữ quay người và đi về phía góc tường. Bà ta đi rất vội, tiếng nước té sang hai bên cũng rất rõ. Con cá lúc nãy lại nhảy lên một lần nữa phía sau lưng bà ta rồi lại rơi xuống. Để nước dù có té lên cũng không làm ướt quần áo, cô càng vén áo cao hơn, để lộ toàn bộ cặp mông. Đến góc tường, cô đưa tay trái nhấc cao áo lên, giữ chặt rồi khom người, lôi hết những cành lá và cỏ rác chặn ở phía dưới đường để thoát nước rồi ném ra phía ngoài đường. Cặp mông của cô tương phản với những áng mây màu lấp lánh trông như hai phiến đồng. Đường thoát nước đã được thông, cô đứng thẳng người, tránh sang một bên nhìn dòng nước chảy trong tiếng nước xối ào ào. Nước trong sân chảy dồn cả về phía cô, những chiếc lá và con ngựa bằng nhựa trên mặt nước cũng
dần trôi tới. Chiếc chậu đồng trong có bộ quần áo nhích về phía trước mấy mét, và dừng lại. Con cá lúc nãy cũng đã lộ rõ cả thân mình, nó ra sức vẫy vùng để bơi về phía trước nhưng cuối cùng chỉ có thể nằm đó và dãy dụa khiến nước bắn tung tóe. Tôi dường như nghe thấy tiếng nó đang kêu gào. Đầu tiên là con đường bằng đá lát hiện ra, tiếp đó là mặt đất màu nâu. Một con ếch nhảy trong vũng bùn, cái cằm của nó cứ rung lên. Trong rãnh nước ở phía ngoài tường, lũ ếch cũng đồng loạt lên tiếng. Người phụ nữ vắt bộ quần áo, rồi dùng bàn tay ướt đầm vuốt vuốt trên áo. Con cá quẫy đến trước mặt bà ta, bà ta nhìn nó một lúc rồi nhìn về phía chúng tôi trong mấy giây. Đương nhiên là tôi không thể nào ra lệnh rằng cô phải xử lý con cá xấu số ấy như thế nào. Bà ta chạy lên mấy bước, chân trượt trên bùn đất suýt nữa thì ngã, rồi dùng cả hai tay, mãi mới tóm được con cá bất kham ấy. Khi bắt được nó rồi, bà ta giữ nó bằng cả hai tay, mắt nhìn về phía chúng tôi. Một lát sau, người phụ nữ thở dài một tiếng, rồi ném con cá ra ngoài với một vẻ không lấy gì làm tự nguyện. Con cá vẫy vẫy chiếc đuôi, vượt khỏi bờ tường rồi mất hút phía bên ngoài. Nhưng cái hình ảnh của một đường cong cong màu vàng lấp lánh đã để lại trong tâm trí tôi những ấn tượng rất khó phai mờ. Người phụ nữ quay về phía chiếc chậu đồng, cầm bộ quần áo lên giũ mạnh. Bộ quần áo màu đỏ như một đốm lửa trong ánh chiều. Cái vẻ của bà ta rất giống với Dã La Tử khiến tôi cảm thấy giữa hai người đó có một mối quan hệ rất đặc biệt và vô cùng gần gũi. Mặc dù tôi đã là một thanh niên gần hai mươi tuổi, nhưng nhìn thấy người phụ nữ này, tôi lại cảm thấy mình vẫn như đứa trẻ lên bảy, lên tám. Nhưng những xúc cảm trong lòng tôi và cái vật giữa hai đùi luôn ngóc đầu lên nói với tôi rằng: Anh không còn là đứa bé đó nữa. Người phụ nữ vắt bộ quần áo lên chiếc lư hương đúc bằng đồng ở phía đối diện với cửa miếu, mấy chiếc còn lại bà ta đành phải vắt lên bờ tường vẫn còn ướt đẫm. Rồi bà ta đi tới trước cửa miếu như đang đứng trước cửa nhà mình, bà ta vươn hai vai, căng ngực ra, rồi sau đó đưa hai tay chống nạnh, ngoáy chân, lắc lư cái mông. Dường như cặp mông của bà ta đang cọ xát với một vật có hình nào đó, tôi khó lòng mà rời mắt khỏi thân hình người phụ nữ, nhưng để có thể trở thành đồ đệ của hòa thượng, một chuyện vô cùng quan trọng đối với tôi, tôi đành phải hi sinh. Trong giây lát, tôi nghĩ nếu người phụ
nữ ấy mang tôi cùng chạy trốn giống như cô Dã La Tử đã từng làm với cha tôi thì tôi có cự tuyệt không nhỉ?
Mẹ sai tôi đóng nắp thùng của chiếc máy kéo, còn bà thì tới bê hai sọt xương dê và cừu ở góc tường lại. Một tay mẹ túm lấy miệng sọt, một tay đỡ ở phía đáy sọt. Bà đứng thẳng người lên, đổ sọt xương vào trong thùng của chiếc máy kéo. Chỗ xương này là phế phẩm mà chúng tôi mua về chứ không phải là xương mà chúng tôi ăn thịt bỏ đi. Nếu như chúng tôi được ăn nhiều xương đến như vậy, dù chỉ là một phần trăm, thì tôi đã không còn nhớ đến cha tôi nữa và sẽ kiên quyết đứng về phía mẹ tôi để cùng bà lên án tội ác của cha tôi và Dã La Tử. Có mấy lần tôi đã từng định đập dập mấy chiếc xương ống bò còn tươi để lấy chút tủy trong đó ăn cho đỡ thèm, nhưng kết quả lần nào cũng thất vọng, vì những người bán xương đã lấy hết tất cả. Sau khi xếp xong xương thì mẹ tôi lại sai tôi xếp sắt vụn vào trong thùng xe. Nói là sắt vụn, nhưng thực ra là những linh kiện máy móc còn nguyên. Trong đó có cả mấy chiếc bánh xe và cả những bộ phận tiếp giáp của một chiếc máy xây dựng, mấy chiếc nắp của cái hố ga... Có một lần chúng tôi còn mua được cả một cái nòng pháo kích do Nhật Bản chế tạo của một ông bà già bảy, tám mươi tuổi bán cho. Lúc đầu chúng tôi còn chưa có kinh nghiệm, nếu đã mua bằng giá sắt vụn thì cũng sẽ bán với giá sắt vụn, chúng tôi chỉ kiếm một chút lời nhỏ trong đó. Nhưng dần dà thì chúng tôi cũng hiểu ra rất nhiều điều. Chúng tôi chia linh kiện máy móc ra làm nhiều loại, sau đó đến bán cho các công ty khác nhau ở trong thành phố, linh kiện của máy xây dựng thì bán cho công ty xây dựng, nắp cống thì bán cho công ty thoát nước... Còn riêng nòng pháo kích thì chưa tìm được nơi nào để bán, tạm thời để lại trong nhà. Cho dù có tìm được công ty thích hợp thì quyết cũng không bán. Tôi cũng giống như những cậu bé khác thích đánh nhau và rất thích các loại vũ khí. Việc cha tôi bỏ đi đã khiến tôi không thể ngẩng đầu lên trước mặt những thằng con trai cùng trang lứa, nhưng kể từ khi có cái nòng pháo kích ấy, tôi đã có thể đứng thẳng người, thậm chí còn mạnh mẽ hơn cả những đứa trẻ có cha khác. Tôi đã từng nghe thấy hai đứa trẻ ngang ngược nhất trong làng nói rằng từ nay về sau không thể tùy tiện bắt nạt La Tiểu Thông nữa, trong nhà nó có một khẩu pháo kích, nếu
mà gây sự với nó, nó sẽ mang pháo nhằm vào nhà bắn cho một phát thì có mà tan tành. Nghe những lời của bọn chúng tôi vô cùng đắc ý. Tuy chúng tôi bán những đồ không phải là sắt vụn cho những công ty chuyên môn với giá thấp hơn hẳn các sản phẩm cùng loại, thì khoản chênh lệch mà chúng tôi kiếm được so với giá sắt vụn chính cống cũng vẫn nhiều hơn hẳn, đó cũng là nguyên nhân chính vì sao trong năm năm mẹ con tôi xây được nhà ngói. Sau khi xếp sắt vụn xong, mẹ tôi lôi những hộp giấy ra xé rồi trải trên mặt đất và sai tôi lấy nước từ giếng khoan lên. Đây là công việc thường ngày của tôi. Tôi biết nhiệt độ trên tay nắm sắt của cần giếng vào buổi sáng sớm rất thấp, nó có thể làm cóng buốt tay người, tôi dùng đôi găng tay bằng da lợn để giữ cho đôi tay. Đôi găng tay này cũng được chúng tôi mua về bằng giá của đồ phế thải. Mọi đồ vật trông nhà tôi từ cái muôi canh tới cái ruột gối bằng bông đều mua từ đồ phế thải. Có những đồ phế thải thực ra là chưa hề dùng bao giờ. Chiếc mũ được cắt ra từ tấm da cừu cũng chưa dùng bao giờ, hơn nữa nó còn là đồ quân dụng hẳn hoi, ở góc mũ còn ghi rõ thời gian sản xuất, đó là tháng 11 năm 1968. Khi ấy cha tôi cũng mới chỉ là đứa trẻ còn đái dầm, mẹ tôi cũng như vậy, còn tôi thì chưa ra đời. Tôi đeo đôi găng tay vào, bàn tay trở nên rất vụng về. Trời rất lạnh, tôi lóng ngóng mãi mà vẫn chưa lấy được nước lên. Mẹ tôi tức giận quát lên: Nhanh lên! Mày lần chần gì mãi thế! Người ta nói, còn nhà nghèo sớm biết lo việc nhà, nhưng mày đã mười tuổi đầu rồi mà ngay cả việc lấy một thùng nước mà mãi cũng không lấy được. Nuôi mày chỉ bằng phí! Mày chỉ biết có ăn thôi. Lúc nào cũng chỉ có ăn là ăn! Giá mày làm bằng một phần của ăn có phải là tốt hơn không!... Nghe những lời nhiếc móc của mẹ mà tôi thấy trong lòng rất bất bình, tôi chợt nghĩ đến cha, cha ơi, kể từ khi cha ra đi con ăn đồ ăn cho lợn, mặc đồ của kẻ ăn mày, làm thì như trâu như ngựa, thế mà mẹ vẫn chưa vừa lòng. Cha ơi, lúc cha đi cha cứ mong mỏi cuộc cải cách lần thứ hai, và bây giờ con mong cuộc cải cách ruộng đất lần thứ hai ấy còn hơn cả cha, nhưng mãi mà nó vẫn không đến. Không những thế, những người làm giàu bằng thủ đoạn phi pháp ngày càng nhiều hơn và công khai hơn, chúng chẳng sợ gì. Sau khi cha bỏ đi, mẹ đã được mọi người phong cho là "Nữ vương đồ phế thải". Con là con trai của nữ vương đó về danh nghĩa, nhưng thực ra thì
lại là nô lệ của bà ta. Mẹ không chỉ càu nhàu mà còn giận dữ quát tháo, cơn giận dữ trong lòng tôi bỗng bùng dậy. Tôi lột bỏ đôi găng, nắm lấy cần giếng bằng tay không, trong lòng nghĩ: Cứ lạnh đi, cứ cóng đi, cho nó khô nát bàn tay này đi để cho mẹ tôi chẳng còn con trai nữa, mà không còn con trai thì ngôi nhà ngói và chiếc xe tải của bà sẽ chẳng còn ý nghĩa gì nữa. Thế mà mẹ tôi còn mơ tưởng tới chuyện nhanh chóng lấy về cho tôi một cô dâu cơ đấy, đối tượng thì cũng đã có rồi, đó chính là cô gái rượu của của Lão Lan. Cô này hơn tôi một tuổi tên là Điền Qua, tên khai sinh thì chưa có, cao hơn tôi nửa cái đầu, mắc bệnh viêm mũi nặng, lỗ mũi quanh năm suốt tháng luôn lòng thòng hai dòng nước mũi. Mẹ tôi thì cứ muốn với cao còn tôi thì chỉ tiếc rằng không thể mang khẩu pháo kích đến chĩa vào nhà Lão Lan. Mẹ cứ mơ đi! Tay tôi giữ chặt chiếc cần giếng, lớp da tay như dính hẳn vào đó, cứ việc dính đi, dù sao thì trước hết đây cũng là đôi tay của con trai bà ấy, sau đó thì mới là của tôi, tôi ra sức ấn chiếc cần giếng và cuối cùng thì nước cũng vọt lên và chảy ào ào vào thùng. Tôi ghé miệng sát thùng uống mấy hớp. Mẹ tôi gầm lên không cho tôi uống nước lạnh. Tôi mặc kệ, cứ uống. Tốt nhất cứ uống cho căng hết cả bụng lên đến mức đau lăn lộn thì thôi. Tôi xách thùng nước đến bên cạnh mẹ, mẹ sai tôi đi lấy gầu múc. Tôi mang gầu đến, mẹ lại sai tôi dùng gầu té nước xuống các vỏ hộp, nhưng không được nhiều quá hoặc ít quá. Những giọt nước vãi xuống vỏ hộp nhanh chóng đóng lại thành băng, sau đó mẹ lại trải ra lớp vỏ hộp khác, tôi lại té nước lên đó. Những việc này tôi đã làm không biết bao nhiêu lần và phối hợp rất nhịp nhàng, việc này giúp chúng tôi thu thêm không ít tiền. Các đồ tể trong làng bơm nước vào cũng để kiếm thêm tiền về. Sau khi cha bỏ đi, mẹ đã nhanh chóng gượng dậy từ nỗi đau khổ, bà định làm đồ tể và đã dắt tôi tới học nghề ở nhà Tôn Trường Sinh. Vợ của Tôn Trường Sinh và mẹ tôi là chị em họ. Nhưng cái nghề dao trắng thọc vào, dao đỏ rút ra không thể nào hợp với phụ nữ, mẹ tôi là người rất chịu thương chịu khó nhưng cũng không thể nào trở thành Dạ Thoa được. Giết con dê, con lợn thì chúng tôi còn có thể, nhưng khi giết một con trâu, con bò lại là một chuyện khó. Đến con trâu, con bò cũng bắt nạt chúng tôi, nhìn chúng tôi với vẻ coi thường, mặc dù trong tay chúng tôi cũng cầm những con dao sáng loáng. Tôn Trường Sinh nói với mẹ tôi: Dì
nó ạ, dì không hợp với việc này đâu. Thành phố đang đề ra việc bán thịt an toàn, việc bán thịt kém chất lượng này sớm muộn cũng đổ bể, tiền kiếm được là tiền bơm nước, một khi không bơm được nước vào thịt thì chẳng kiếm chác được gì đâu. Tôn Trường Sinh khuyên mẹ tôi làm nghề thu mua phế thải, nói rằng nghề này cơ bản không mất vốn, chỉ có lãi mà không có lỗ. Qua xem xét, mẹ tôi thấy rằng Tôn Trường Sinh nói rất có lý, thế là chúng tôi bắt tay vào làm nghề này. Chỉ trong ba năm chúng tôi đã trở thành vua đồ phế thải nổi tiếng khắp một vùng ba chục cây số.
Chúng tôi xếp những vỏ hộp giấy đã được té nước lên trên xe rồi dùng dây thừng chằng lại. Hôm nay chúng tôi tới phố huyện. Cứ ba đến năm hôm chúng tôi lại tới đó một lần, mỗi một lần đi là một lần làm tôi thấy đau lòng. Những đồ ăn ở trong phố huyện có rất nhiều, cách cả hai chục cây số tôi đã ngửi thấy mùi thơm của thịt tỏa ra, ngoài ra còn có mùi thơm của cá, nhưng tôi chẳng có duyên gì với thịt cá cả. Lương ăn dọc đường đã được mẹ tôi chuẩn bị từ trước, đó là hai chiếc bánh bao lạnh ngắt và một miếng rau muối. Nếu việc mua bán thuận lợi, có nghĩa là qua được mắt của những người mua - bây giờ những ông chủ sắt vụn cũng tinh quái lắm, tâm trạng mẹ vui vẻ, tôi sẽ được thưởng thêm một chiếc đuôi lợn. Chúng tôi ngồi ở chỗ khuất gió phía ngoài cửa của công ty thu mua phế thải, mùa hè thì ngồi dưới bóng cây để hít ngửi mùi thơm khác nhau của đồ ăn tỏa ra từ dãy phố đối diện công ty và gặm những chiếc bánh bao lạnh ngắt. Dãy phố trước mặt là phố ăn uống, bán đủ các loại thịt, những chiếc nồi thịt lớn tỏa hơi nghi ngút, trong đó nào là dê, bò, chó, lợn, cừu, lòng gà, đầu chó, má lợn... rồi cả gà nước, vịt quay, chim rán. Những người bán thịt cầm trong tay con dao sắc, hoặc những lát thịt đã được thái ra, khuôn mặt họ đỏ hồng bóng nhẫy, bàn tay của họ, ngón dài mảnh có, ngón thô ráp có, nhưng đều là những bàn tay có phúc. Bởi những bàn tay ấy có thể sờ vào thịt tùy thích, có thể chạm vào mỡ và chứa đầy mùi thơm. Nếu như tôi có thể biến thành một ngón tay của người bán thịt thì hạnh phúc biết bao. Nhưng đáng tiếc thay là không thể. Đã có mấy lần tôi định thò tay cướp một miếng thịt nhét vào mồm, nhưng con dao sắc trong tay những người bán thịt khiến tôi phải chùn bước. Tôi ngồi gặm chiếc
bánh bao lạnh ngắt trong gió lạnh mà nước mắt rơi lã chã. Khi mẹ thưởng thêm cho chiếc đuôi lợn, tôi thấy lòng nguôi ngoai được đôi chút, nhưng một chiếc đuôi lợn thì có được mấy tí thịt? Chỉ mấy miếng là hết, ngay cả chút xương nhỏ của nó cũng bị tôi nhai sạch, và cơn thèm thịt dường như vì thế mà càng dữ dội hơn. Tôi cứ giương đôi mắt đẫm lệ nhìn vào các hiệu bán thịt. Mẹ tôi đã có lần hỏi: Vì sao con khóc? Tôi đáp: Mẹ, con nhớ cha. Khuôn mặt của mẹ tôi đột nhiên biến sắc. Bà trầm ngâm một hồi rồi cười buồn đáp: Con trai, không phải là con nhớ cha đâu mà là con đang thèm ăn thịt. Con làm sao mà dấu được mẹ? Nhưng bây giờ mẹ chưa thể đáp ứng được yêu cầu ấy của con. Mồm con người ta dễ sinh hư lắm, mà một khi đã sinh hư thì phiền phức sẽ rất lớn. Từ xưa tới nay đã có biết bao anh hùng hảo hán đều mất hết cả lý tưởng của đời người, hỏng cả sự nghiệp cũng chỉ vì cái mồm sinh hư. Con đừng khóc nữa. Mẹ đảm bảo cuộc đời của con sẽ tới lúc được ăn thịt no nê, thoải mái, nhưng bây giờ con hãy kiên nhẫn chờ đợi, đến khi chúng ta xây nhà xong, mua xong xe, lấy vợ cho con xong để cha con mở to mắt mà nhìn, mẹ sẽ mua về hẳn một con bò cho con ăn! Tôi nói: Mẹ ơi, con chẳng cần nhà to, chẳng cần xe to, càng chẳng cần lấy vợ, con chỉ muốn ngay bây giờ được ăn bữa thịt no nê. Mẹ tôi nghiêm khắc nhìn tôi nói: Con ạ, mẹ cũng chỉ mong được ăn một lúc cả cái đầu lợn! Nhưng con người ta sống là phải vươn lên. Mẹ muốn để cha con thấy rằng, lúc không có ông ấy chúng ta còn sống tốt hơn! Tôi đáp: Tốt cái con khỉ, chẳng tốt một chút nào cả, con thà là theo cha đi ăn mày còn hơn là sống với mẹ như thế này. Những lời của tôi khiến mẹ vô cùng đau lòng, bà khóc, nói: Mẹ nhịn ăn, nhịn mặc, chịu đói chịu chát là vì ai, vì cái gì? Chẳng phải là vì một kẻ hư đốn như con đó sao? Sau đó bà vừa khóc vừa chửi rủa cha tôi: La Thông ơi là La Thông, ông đã đẻ ra một đồ mất dạy, cuộc đời tôi đã bị ông hủy hoại... mụ già này cũng chẳng thiết sống nữa! Mụ già này cũng muốn ăn ngon mặc đẹp, cũng muốn vui chơi thoải mái còn hơn cả cái đồ bỏ đi kia nữa cơ! Những lời khóc lóc của mẹ khiến tôi vô cùng xúc động. Tôi nói: Những lời của mẹ rất đúng, mẹ, nếu chúng ta ăn uống thoải mái thì chỉ chưa đầy một tháng, con đảm bảo mẹ sẽ trở thành một tiên nữ xinh đẹp hơn hẳn Dã La Tử, lúc đó cha con chắc chắn sẽ bỏ rơi Dã La Tử và lại quay trở về bên mẹ. Mẹ tôi
ngước đôi mắt đẫm lệ hỏi tôi: Tiểu Thông, con nói thật đi, rốt cuộc thì mẹ và Dã La Tử ai đẹp hơn? Tôi khẳng định: Đương nhiên là mẹ đẹp hơn rồi. Mẹ tôi lại hỏi: Nếu như mẹ đẹp hơn thì vì sao cha con lại đi tìm mụ Dã La Tử đáng băm đáng vằm ấy? Không những thế, ông ấy còn bỏ đi theo mụ ta? Tôi biện hộ cho cha: Con đã từng nghe thấy cha nói rằng, không phải cha đi tìm Dã La Tử mà là Dã La Tử tới tìm cha con trước. Mẹ tôi giận dữ nói: Cũng đều như thế cả thôi! Chó cái mà không lên cơn thì chó đực làm sao mà kéo đến. Chó đực mà không động cỡn, chó cái có lên cơn cũng bằng không. Tôi đáp: Mẹ, mẹ cứ nói đi nói lại làm con chả hiểu thế nào nữa. Mẹ tôi lại nói: Mày đừng giả vờ hồ đồ với mẹ nữa. Mày đã biết chuyện của cha mày với Dã La Tử từ lâu rồi nhưng mày đã dấu mẹ. Nếu mày nói cho mẹ biết sớm thì mẹ đã không để cho ông ấy bỏ đi. Tôi thận trọng hỏi: Mẹ định dùng cách gì để cho cha con không bỏ đi? Mẹ tôi trừng mắt đáp: Mẹ sẽ chặt chân ông ấy! Tôi sửng sốt, trong lòng mừng thay cho cha tôi. Mẹ tôi nói: Con vẫn còn chưa trả lời câu hỏi của mẹ, nếu mẹ xinh đẹp hơn mụ ta thì vì sao cha con lại đi tìm mụ ấy? Tôi đáp: Cô Dã La Tử ngày nào cũng có món thịt, cha con đã ngửi thấy mùi thịt mà đến. Mẹ tôi lạnh lùng cười một tiếng rồi nói: Vậy thì từ nay về sau, ngày nào mẹ cũng nấu thịt, liệu cha con có ngửi thấy mùi thịt mà quay trở về không? Tôi vui mừng đáp: Chắc chắn rồi. Con dám đảm bảo chỉ cần ngày nào mẹ cũng nấu thịt chắc chắn là cha con sẽ nhanh chóng trở về, mũi của cha con tinh lắm. Gió ngược thì cách tám trăm dặm, gió xuôi thì cách ba ngàn dặm cũng ngửi thấy mà về. Tôi đã động viên mẹ bằng những lời nói khéo mà tôi có thể nghĩ ra được. Hi vọng mẹ đã quên mất lý trí mà dẫn tôi vào hàng thịt phía bên kia đường, mua cho tôi một đĩa thịt thật ngon để tôi có thể được ăn no nê thoải mái, cho dù là bị chết nghẹn cũng là một con ma giầu có, trong bụng đầy thịt. Nhưng mẹ tôi đã không mắc lừa sau khi trút cơn giận, bà vẫn ngồi ở chỗ khuất gió gặm chiếc bánh bao lạnh ngắt. Nhìn thấy vẻ đáng thương của tôi, bà mới miễn cưỡng bước vào tiệm ăn phía bên kia đường, trao đổi một hồi với anh ta, nói dối rằng cha tôi đã chết, để lại hai mẹ con chúng tôi côi cút để cuối cùng mua bằng giá rẻ một chiếc đuôi lợn bé tí rồi dắt tôi ra chỗ vắng đưa cho tôi và nói: Này, con quỷ tham ăn, ăn đi rồi còn làm cho tử tế!
9.
Người phụ nữ ngồi vắt chân ở bậu cửa, vai dựa vào khung cửa, một chân bên ngoài, một chân bên trong, môi mím lại, mắt chăm chú nhìn vào mặt tôi, dường như bà ta cũng đang nghe tôi nói. Đôi lông mày gần như nối vào nhau của bà ta thỉnh thoảng lại nhíu lại như đang nhớ về một chuyện cũ rất xa xăm. Những lời kể của tôi khó mà có thể tiếp tục trước đôi mắt đen chăm chú ấy. Tôi rất muốn nhìn vào đôi mắt ấy nhưng không dám. Tôi cảm thấy toàn thân căng ra, đôi môi đông cứng lại dưới cái nhìn của bà ta. Tôi muốn nói với bà ta một câu gì đó, hỏi bà ấy tên gì và từ đâu tới. Nhưng tôi lại không đủ dũng khí.
Đôi mắt của tôi cứ dán vào chân rồi đầu gối của người phụ nữ. Trên đùi của bà ta có mấy vết bầm tím, đầu gối cố một chiếc sẹo bóng loáng. Người phụ nữ ngồi rất gần tôi, trên người bà ta tỏa ra một thứ mùi rất giống với mùi thịt đã được nấu chín, nó phả vào mặt tôi và động tới chỗ sâu kín trong tâm hồn tôi. Tôi khao khát biết bao, đôi tay tôi thấy ngứa ngáy, mồm tôi thấy thèm khát, tôi cố nén để không nhảy vào lòng và vuốt ve người phụ nữ và để được người ấy vuốt ve lại. Tôi muốn được uống sữa của bà ấy, muốn được bà ta cho bú, tôi muốn được trở thành một người đàn ông, nhưng có lẽ muốn được là một đứa bé hơn cả, và vẫn cứ là đứa trẻ năm tuổi ấy. Cảnh tượng của cuộc sống trước kia cứ hiện lên trong tâm trí tôi, đầu tiên là tôi nhớ tới cảnh tôi theo cha đến ăn thịt ở nhà Dã La Tử, nhớ đến cảnh cha tôi nhân lúc tôi vùi đầu vào ăn thịt đã hôn vào chiếc cổ của cô Dã La Tử còn cô La Tử thì ngừng tay thái thịt huých vào cha tôi một cái rồi hạ thấp giọng nói: Này, con anh đang nhìn đấy... Tôi nghe thấy cha tôi nói: Nhìn thấy thì sao, hai cha con tôi như anh em... Tôi lại nhớ tới cảnh nồi thịt nghi ngút tỏa ra mùi thơm quyến rũ... Trời tối dần lúc nào không biết, bộ quần áo màu đỏ vắt trên chiếc lư hương đúc bằng đồng đang dần dần biến sang màu tối sẫm, những cánh dơi cũng hạ thấp dần, cây ngân hạnh đã đổ bóng đen dầy xuống mặt đất. Bầu trời tối dần lại, phía xa xa xuất hiện những ngôi sao
sớm. Tiếng mũi và côn trùng bắt đầu vo ve, hòa thượng đưa hai tay bấm xuống đất từ từ đứng dậy. Ông đi ra phía sau các bức tượng. Tôi đưa mắt nhìn người phụ nữ, bà ta đã đi vào bên trong cùng với hòa thượng. Tôi đi theo sau bà ta. Hòa thượng lần tìm chiếc bật lửa, bật lên rồi châm vào một ngọn nến to màu trắng và cắm ngọn nến lên chiếc giá đựng nến. Chiếc bật lửa vàng lấp lánh, thoạt nhìn cũng biết đó là vật quí giá. Người phụ nữ tỏ ra rất quen thuộc như đang ở trong nhà mình. Bà ta cầm nến đi vào căn phòng nhỏ mà tôi và hòa thượng ngủ, trong căn phòng dùng để nấu ăn có một chiếc lò, trên đó đặt một chiếc nồi đen, nước trong nồi đang sôi sùng sục. Bà ta đặt nến trên một chiếc bàn vuông rồi nhìn hòa thượng không nói câu nào. Hòa thượng hất cằm và chỉ lên chiếc xà nhà. Tôi nhìn thấy trên đó treo hai túi hạt, dưới ánh nến trông chúng giống chiếc đuôi của con chồn. Người phụ nữ bước tới trèo lên trên chiếc bàn, lấy chúng xuống rồi đổ ra, xoa xoa trong tay, cho vỏ tách ra rồi đưa lên miệng thổi. Mười mấy hạt vàng lấp lánh trong tay người phụ nữ, bà ta cho chúng vào nồi và đậy vung lại, sau đó lặng lẽ ngồi xuống. Hòa thượng cũng ngồi xuống bên cạnh bếp, không nói câu gì. Con ruồi ở tai ông không biết đã bay đi từ lúc nào. Nó trả lại vẻ thật cho đôi tai. Đôi tai của hòa thượng mỏng và trong, nhìn có cảm giác rất không thật. Có lẽ con ruồi đã hút hết máu ở trong tai ông rồi chăng? Tôi nghĩ như vậy. Bầy muỗi vo ve mãi trên đầu chúng tôi, cả lũ bọ nhảy nữa, chúng chạm cả vào da mặt tôi, có mấy con còn nhân lúc tôi mở miệng chui tọt vào trong cổ họng. Tôi giơ tay gạt và thấy có rất nhiều muỗi và bọ nhảy lao vào bàn tay. Tôi sinh ra và lớn lên ở một làng làm nghề giết mổ, nhìn thấy cảnh chết chóc cũng đã nhiều, nhưng nếu muốn trở thành đồ đệ của hòa thượng thì không được sát sinh, đó là điều yêu cầu tối thiểu. Tôi mở lòng bàn tay để cho con nào bay thì bay, con nào nhảy thì nhảy.
Tiếng kêu của lũ lợn sắp chết vang khắp cả làng, các đồ tể đã bắt đầu công việc của mình. Mùi thơm của thịt chín cũng bay đi khắp làng, đó là lúc những nhà bán thịt quay đang chuẩn bị hàng để bán. Sau khi xếp hàng xong, chúng tôi chuẩn bị đi ra đường cái. Mẹ tôi lôi chiếc tay quay từ dưới đệm ngồi và cắm vào cái lỗ hình chữ thập ở đầu xe, hít một hơi thật sâu rồi khom người ra sức quay. Mấy vòng
đầu hơi khó khăn, nhưng dần dần thì có vẻ nhẹ nhàng hơn. Động tác của mẹ xem ra chẳng khác gì một người đàn ông, chiếc dây cua roa chuyển động mấy cái, chỗ ống khói phát ra mấy tiếng phạch phạch, nhưng dây cua roa chỉ quay mấy vòng rồi dừng lại. Như vậy lần khởi động đầu đã thất bại. Tôi biết rõ là lần khởi động đầu không thể thành công được, bởi sang tháng chạp thời tiết rất lạnh, khởi động máy luôn luôn là một chuyện khó khăn, với mẹ con tôi thì càng là một việc không đơn giản. Mẹ tôi nhìn tôi bằng ánh mắt cầu khẩn, hi vọng tôi có thể quay thay mẹ. Tôi cầm lấy chiếc tay quay, dốc hết sức lực non tơ của mình ra mới làm cho cái dây cua roa nhúc nhích một chút, nhưng chỉ mới như thế mà tôi đã cảm thấy sắp hết hơi, với một người suốt năm không có miếng thịt nào thì lấy đâu ra hơi sức? Tôi buông tay, chiếc quay tay bật trở lại làm tôi ngã lăn trên đất. Mẹ tôi tái mét mặt vội chạy đến bên tôi hỏi han. Tôi nằm ra đất giả như chết, trong lòng thấy rất khoái. Nếu chiếc tay quay làm chết tôi, thì đầu tiên là làm chết con trai của mẹ tôi rồi sau đó mới đến tôi. Cuộc sống không có thịt thì có gì phải luyến tiếc? Nếu so với cái chết vì không có thịt thì cái chết do chiếc tay quay gây ra có đáng là gì? Mẹ kéo tôi dậy, kiểm tra khắp người đứa con trai của bà, rồi đẩy tôi sang một bên, nói bằng giọng đầy thất vọng:
"Chết sang một bên đi! Mày chẳng làm được trò trống gì cả!" "Con không có sức!"
"Thế sức của mày để đâu?"
"Cha con đã nói là đàn ông mà không ăn thịt thì chẳng lấy đâu ra hơi sức!"
"Phì!"
Mẹ tôi lại ra sức khởi động máy, mái tóc phía sau vung tít như chiếc đuôi bò. Ngày thường khởi động khoảng ba bốn lần thì chiếc máy cũ kỹ cũng khó khăn lắm mới nổ được. Nhưng hôm nay mãi mà không sao khởi động được, có lẽ vì thời tiết rất giá lạnh. Mặt mẹ tôi đỏ phừng phừng, mồ hôi đọng từng hạt trên trán. Bà nhìn tôi với ánh
mắt oán hận, làm như máy không nổ được là do tôi. Tôi cố làm ra vẻ đau khổ tuyệt vọng, nhưng trong bụng mừng thầm. Tôi rất không muốn ngồi lên chiếc máy kéo còn lạnh hơn cả băng đó vào một ngày rét mướt như thế này để rồi lắc lư trên đó cả mấy tiếng đồng hồ tới một nơi xa tới sáu chục dặm và gặm những chiếc bánh bao lạnh ngắt, cho dù bà thấy phấn chấn trong lòng và thưởng cho tôi một chiếc đuôi bò tôi cũng không đi. Nhưng nếu mẹ thưởng cho tôi hai chiếc móng giò chấm tương thì sao nhỉ? Nhưng chuyện đó không thể nào xảy ra được.
Mẹ tôi vô cùng thất vọng, nhưng quyết không lùi bước. Những ngày trời đông giá là thời khắc hoàng kim của những tay đồ tể và cả những người thu mua phế liệu. Những ngày trời giá lạnh, bơm nước vào thịt không những nước không bị chảy mất mà thịt cũng không bị biến chất; trời lạnh các nhân viên của công ty sợ lạnh nên chỉ kiểm tra qua quít, thế là những hộp giấy được té nước vào sẽ dễ dàng qua mắt họ. Mẹ cởi bỏ sợi dây điện buộc ngang thắt lưng, cởi phăng chiếc áo màu vàng kiểu đàn ông mặc bên ngoài, chuẩn bị tư thế, thở sâu một hơi, rồi mắm môi cầm lấy chiếc tay quay ra sức quay. Chiếc dây cua roa phải quay với tốc độ tới hai trăm vòng một phút, tốc độ ấy tương đương với năm mã lực. Nếu ngay cả với tốc độ ấy mà máy vẫn không nổ thì quả là chiếc máy kéo chiết tiệt này khốn nạn tới cùng cực rồi. Đúng là nó khốn nạn tới mức cùng cực. Mẹ tôi gần như kiệt sức, bà ném chiếc tay quay xuống đất, chiếc máy kéo vẫn khinh khỉnh không thèm lên tiếng. Nét mặt mẹ tôi rất mệt mỏi và thất vọng, tôi thấy vẻ mặt ấy của mẹ tương đối dễ mến, tôi có ác cảm và sợ nhất là vẻ mặt đầy ý chí và quyết tâm của mẹ. Người mẹ với dáng điệu ấy vì để có thể kiếm được nhiều tiền hơn đã sẵn sàng để cho tôi ăn không khí, uống nước lã. Còn người mẹ với dáng điệu ủ rũ như thế này có thể sẽ buông xuôi tay đi và ăn một ít mì sợi, xào một đĩa rau, thậm chí còn cho thêm một ít mắm tôm hôi, mặn tới mức người ta phải nhảy dựng cả lên cho tôi ăn. Sau mười mấy năm điện chiếu sáng đến làng, mà ngôi nhà ngói mới xây của tôi vẫn không có đường dẫn điện vào. Trước kia, trong ngôi nhà tranh do ông tôi để lại chúng tôi đã từng dùng điện chiếu sáng, nhưng nay khi ở trong ngôi nhà ngói mới làm thì chúng tôi lại trở lại thời đại dùng
đèn dầu. Mẹ tôi làm như vậy không phải là vì keo kiệt mà là để phản đối hiện tượng tham ô, hối lộ của cán bộ thôn trong việc bán điện với giá cao. Nhưng khi chúng tôi ngồi ăn cơm dưới ngọn đèn to bằng hạt đỗ, vẻ mặt mẹ tôi mới đắc ý làm sao. Mẹ nói: Tăng đi, cứ tăng nữa lên, làm sao tới mức tám ngàn đồng một số ấy! Dù sao thì mụ già này cũng chẳng thèm dùng tới thứ điện chết tiệt ấy của các người! Khi mà trong lòng có điều gì phấn chấn, khi ăn cơm đến cả đèn mẹ cũng không cần thắp. Nếu tôi có nói thì mẹ lại bảo: Ăn cơm chứ đâu phải thêu hoa, không thắp đèn chẳng lẽ mày lại và cơm vào mũi à? Mẹ nói rất đúng, không thắp đèn quả thực là vẫn không thể và cơm vào mũi. Gặp phải một bà mẹ luôn luôn kiên trì gian khổ phấn đấu như thế này, tôi chỉ còn biết cúi đầu tuân theo mà thôi.
Không khởi động được máy, mẹ tôi thiểu não đi ra ngoài, có lẽ mẹ đi tìm người giúp? Liệu mẹ có đi tìm Lão Lan không nhỉ? Có thể lắm chứ, vì chiếc máy kéo này là của nhà Lão Lan thải ra, Lão Lan chắc chắn rất hiểu tính nết của nó. Một lát sau, mẹ tức tốc quay về, phấn chấn nói:
"Đốt lửa lên con! Đốt chiếc máy này lên"
Tôi hỏi:
- Lão Lan bảo mẹ đốt lửa lên à?
Mẹ ngạc nhiên nhìn tôi hỏi:
- Con sao thế? Vì sao lại nhìn mẹ như vậy?
Tôi đáp:
- Không có gì, đốt thì đốt!
Mẹ ôm một đống dây cao su ở góc tường đến, đặt ở phía dưới chiếc đầu máy rồi lấy lửa từ trong bếp ra. Những dây cao su bị đốt bốc lên ngọn lửa màu vàng, khói đen nghi ngút và tỏa ra mùi khét lẹt. Mấy năm trước chúng tôi đã mua về rất nhiều dây cao su phế thải nhưng
phải đun chảy chúng rồi đúc thành bánh vuông, công ty phế liệu mới chịu mua. Lúc ấy chúng tôi vẫn đang sống ở giữa làng, mùi khét do công việc của chúng tôi gây ra đã bị bà con hàng xóm xung quanh phản đối. Đầu tiên là nhà bà Trương ở phía đông mang đến một gầu nước múc từ trong vại đến để cho mẹ tôi xem, mẹ tôi hầu như không nhìn, nhưng tôi thì nhìn thấy rõ, trong gầu nước có những thứ nhìn giống như con bộ gậy màu đen. Đó chính là những bụi khói từ những dây cao su bị đốt cháy từ nhà tôi rơi xuống. Bà Trương giận dữ nói với mẹ tôi: "Chị Tiểu Thông, chị để cho chúng tôi uống thứ nước như thế này mà trong lòng chị không thấy gì sao? Uống thứ nước như thế này vào thì chỉ có mà sinh bệnh!" Mẹ tôi đáp bằng giọng còn giận dữ hơn cả bà ta: "Tôi không hổ thẹn, dù một chút cũng không. Cả nhà bà bán thịt kém chất lượng thì cũng có sao đâu?" Bà Trương còn định nói gì nữa, nhưng nhìn thấy đôi mắt đỏ vằn lên vì tức giận của mẹ tôi nên đành phải lui về. Sau đó lại có mấy người đàn ông đến nhà tôi cũng là vì chuyện ấy. Họ nói, nếu chúng tôi không chấm dứt việc gây ô nhiễm, ảnh hưởng tới các gia đình xung quanh thì họ sẽ buộc nhà tôi phải chuyển đi nơi khác. Mẹ tôi chạy ra đường cái lớn khóc ầm lên nói rằng mấy người đàn ông này vào hùa bắt nạt cảnh mẹ con côi cút, khiến những người qua đường đứng xem lại. Nhà Lão Lan ở phía sau nhà chúng tôi, ông ta là người có quyền quyết định về chỗ ở của mọi người. Lúc đó cha tôi vì luôn bị mẹ tôi càu nhàu đành phải đề nghị Lão Lan cấp cho một chỗ ở, nhưng ông ta cứ chờ xem chúng tôi có tiến cống thứ gì không đã. Cha tôi chẳng muốn làm nhà làm cửa nên tất nhiên cũng không chịu cống tiền. Cha khẽ nói với tôi rằng: "Có thịt thì chúng ta sẽ để ăn, như thế tốt hơn nhiều, việc gì phải cho ông ta?" Sau khi cha tôi bỏ đi, mẹ tôi đích thân sang đề nghị với ông ta và mang biếu ông ta một gói bánh, nhưng khi mẹ tôi vừa ra khỏi nhà ông ta thì cũng thấy gói bánh bị ném xuống mặt đường. Chúng tôi làm nghề đúc dây cao su chưa được nửa năm thì một hôm gặp ông ta trên đường lên huyện, ông ta đi một chiếc xe mô tô ba bánh màu cỏ úa, tấm kính chắn xe có sơn hai chữ "Công an". Ông ta đội một chiếc mũ sắt màu trắng, mặc một chiếc áo da màu đen, bên cạnh là một con chó to lớn, con chó đeo một cặp kính đen, nó lạnh lùng nhìn chúng tôi khiến tôi thấy sởn cả da gà. Lúc đó chiếc máy kéo của
chúng tôi xảy ra sự cố, mẹ tôi vì cuống nên cứ thấy ai là chặn lại nhờ giúp đỡ, nhưng chẳng có ai chịu giúp. Chiếc xe chúng tôi chặn lại lúc đó, không ngờ là xe của Lão Lan, khi Lão Lan bỏ mũ ra thì chúng tôi mới biết là ông ta. Ông ta xuống xe, đá vào cái cần đạp đã hoen rỉ, nói bằng vẻ khinh bỉ: "Chiếc xe này phải thay thôi!" Mẹ tôi đáp: "Tôi định làm nhà xong, sau đó mới góp tiền để mua xe". Lão Lan gật đầu nói: "Được, có ý chí đấy!" Ông ta ngồi xổm giúp chúng tôi sửa xong chiếc xe, mẹ tôi kéo tay tôi cùng cảm ơn ông ta. Ông ta lấy giẻ lau tay và nói: "Có gì mà cảm ơn", rồi lấy tay xoa đầu tôi nói tiếp: "Cha cháu đã về chưa?" Tôi gạt mạnh tay ông ta, lùi về sau một bước và nhìn ông ta với vẻ căm thù. Ông ta cười nói: "Được lắm! Thật ra, cha cháu là một tên đốn mạt!" Tôi đáp: "Ông mới là một tên đốn mạt!" Mẹ tôi tát cho tôi một cái và giận dữ nói: "Sao lại ăn nói hỗn hào với người lớn như thế?" Lão Lan nói: "Không sao, không sao. Hãy viết cho cha cháu một cái thư bảo ông ấy về đi, và nói rằng ta đã tha thứ cho bọn họ". Nói xong, ông ta nhảy lên xe, khởi động máy, chiếc mô tô lao vút đi. Nhưng ông ta vẫn còn kịp nói với mẹ tôi thêm một câu: "Dương Ngọc Trân, đừng đốt cao su nữa, tôi sẽ cấp đất cho cô. Tối nay đến nhà tôi mà lấy giấy cấp đất"
10.
Mùi thơm của cháo gạo tỏa đầy căn phòng nhỏ. Người phụ nữ mở nắp vung. Tôi ngạc nhiên phát hiện ra rằng cháo trong nồi rất nhiều, có thể đơm đầy ba bát. Người phụ nữ lấy ra từ góc tường ba chiếc bát to màu đen, rồi dùng chiếc muôi đã xém cả vành múc cháo, múc xong ba bát mà cháo trong nồi vẫn còn rất nhiều, tôi cảm thấy rất khó hiểu, vừa mừng, lại vừa ngạc nhiên, mười mấy hạt ngũ cốc lẽ nào lại có thể nấu được nhiều cháo như vậy? Người phụ nữ này rút cuộc là ai? Là yêu tinh hay là thần tiên? Hai con cáo chui vào miếu trong lúc trời mưa to, bị mùi thơm của cháo quyến rũ đã chui vào căn phòng mà chúng tôi đang ngồi, con cái đi trước, con đực đi sau, giữa chúng là ba con cáo con lông còn dựng đứng, chúng lắc lư cái đầu nhìn thật đáng yêu. Trong những ngày gió mưa sấm chớp, súc vật thường hay sinh nở, câu nói này quả là không ngoa. Hai con cao lớn ngồi xổm ở phía trước cái nồi, thỉnh thoảng lại ngước đầu lên nhìn người phụ nữ, ánh mắt của chúng như cầu xin van nài, thỉnh thoảng chúng lại nhìn vào cái nồi, ánh mắt lóe lên những tia tham lam. Bụng lũ cáo phát ra những tiếng sôi ùng ục, đó là âm thanh của cái đói. Ba con cáo con vùi đầu vào lòng mẹ tìm vú, con cáo đực ngước đôi mắt rất sinh động nhìn chúng tôi như muốn nói. Tôi biết rất rõ nếu có thể mở miệng nói, nó sẽ nói điều gì. Người phụ nữ nhìn hòa thượng, hòa thượng thở dài một cái, đẩy bát cháo trước mặt mình về phía con cáo cái, cô gái cũng làm theo, đẩy bát cháo trước mặt mình về phía con cáo đực. Hai con cáo sau khi gật đầu về phía hòa thượng và cô gái như cảm ơn xong thì sục mõm vào bát cháo. Cháo rất nóng nên chúng ăn rất thận trọng, mắt chúng như có những giọt lệ. Tôi cảm thấy rất khó xử, nhìn bát cháo đang bốc khói trước mặt không biết có nên ăn hay không. Hòa thượng nói: Cậu ăn đi. Chắc chắn đây là bát cháo ngon nhất trong số những bát cháo mà tôi đã từng ăn, chẳng bao giờ tôi lại được ăn thứ cháo ngon như thế nữa. Tôi và hai con cáo mỗi đứa ăn ba bát báo. Ăn xong lúc cáo no nê dắt nhau đi, và lúc này tôi mới phát hiện ra rằng trong nồi đã hết không còn một hạt. Tôi vô cùng áy náy, nhưng hòa thượng đã ngồi lên giường đang
tụng kinh và dường như ông đang chìm dần vào giấc ngủ, còn người phụ nữ vẫn đang ngồi trước lò sưởi tay nghịch một chiếc que sắt. Ánh lửa yếu ớt trong lò chiếu lên khuôn mặt bà, nhìn rất sống động và có hồn. Người phụ nữ mỉm cười như đang nhớ tới những chuyện tốt đẹp trong quá khứ. Tôi vuốt ve cái bụng đã no căng, nghe tiếng lũ cáo con đang bú mẹ ở trong miếu, phía bên ngoài. Tiếng lũ mèo con bú mẹ trong hốc cây tôi không thể nào nghe thấy, nhưng dường như tôi vẫn đang nhìn thấy cảnh tượng chúng đang bú. Tự nhiên tôi cũng thấy nỗi thèm khát được bú bùng cháy dữ dội trong lòng, nhưng bầu vú của tôi ở đâu bây giờ? Tôi không hề thấy buồn ngủ, để chống chọi lại nỗi thèm khát được bú, tôi nói: Hòa thượng, tôi tiếp tục kể nhé!
Khi đã cầm được giấy quyết định cấp đất, mẹ tôi vô cùng cảm động và cứ líu lo như chim sẻ. Mẹ nói: "Tiểu Thông này, Lão Lan thực ra không hề xấu xa như chúng ta vẫn nghĩ đâu, mẹ cứ tưởng là ông ta sẽ thế nào cơ, nhưng ông ấy chẳng nói gì mà giao ngay giấy cấp đất cho mẹ". Bà giở tấm giấy có đóng dấu đỏ cho tôi xem, sau đó buộc tôi phải nghe bà ôn lại chặng đường gian nan mà mẹ con tôi đã trải qua sau khi cha tôi bỏ đi. Lời của mẹ buồn bã, nhưng phần nhiều vẫn là chứa đựng sự vui mừng và niềm tự hào. Tôi buồn ngủ tới mức díu cả mắt lại, ngồi gục đầu và ngủ thiếp đi. Thế mà khi tôi giật mình thức giấc vẫn thấy mẹ tôi khoác áo ngồi dựa vào đầu giường, nói đi nói lại những chuyện cũ ấy. Những lời đó của mẹ lần ấy chưa thấm tháp gì, chỉ tới khi ngôi nhà ngói cao to của chúng tôi cất xong vào nửa năm sau đó thì mới là lần chính thức để mẹ ôn nghèo kể khổ. Hôm ấy chúng tôi vẫn còn ở tạm trong cái lều dựng tạm ngoài sân, ánh trăng đầu đông chiếu sáng ngôi nhà ngói vừa mới cất lên, căn lều bốn bề trống không, hơi lạnh như cắt da cắt thịt, tiếng của mẹ oang oang vọng ra bốn phía, cứ lặp đi lặp lại một điệp khúc, vừa nghe tôi vừa liên tưởng tới cảnh bàn tay của những đồ tể cứ lần đi lần lại trên cỗ lòng. "La Thông! La Thông! Đồ con lai không có chút lương tâm kia", mẹ tôi chửi, "Anh tưởng rằng không có anh thì mẹ con tôi không sống được sao? Hừ, không những chúng tôi vẫn sống mà còn làm được cả nhà ngói nữa đây này! Nhà của Lão Lan cao năm mét, nhà chúng tôi cao năm mét mốt, cao hơn nhà ông ta mười
xen ti mét! Tường của nhà Lão Lan làm bằng xi măng, tường nhà chúng tôi bằng gạch hoa!" Tôi cảm thấy vô cùng căm ghét trước thói thích hư vinh của mẹ. Tường nhà Lão Lan bên ngoài bằng xi măng, nóc dùng tấm lợp hỗn hợp, tường lát gạch men cao cấp, nền lát bằng đá hoa cương. Nhà chúng tôi phía ngoài ốp gạch hoa, bên trong tường quét bằng vôi, nền nhà làm bằng sỉ than gồ ghề. Nhà Lão Lan thì dù bên trong dấu vàng, bên ngoài cũng không ai biết, còn nhà chúng tôi thì dù trong chỉ có phân trâu, bên ngoài cũng làm cho bóng lộn. Một tia sáng của ánh trăng chiếu trên khuôn mặt mẹ tôi, như một cảnh đặc tả trong phim, đôi môi của mẹ cứ mấp máy liên tục, hai bên khóe miệng sùi ra hai cục bọt mép to tướng. Tôi kéo chăn trùm kín đầu, chìm dần vào giấc ngủ trong tiếng kể lể của mẹ.
11.
Cậu bé, đừng nói nữa. Người đàn bà cất tiếng nói đầu tiên, giữa những âm tiết trong câu nói như có mật dính. Giọng nói ấy khiến tôi cảm thấy rằng bà cũng đã trải qua rất nhiều cuộc bể dâu. Bà mỉm cười, nụ cười đầy ẩn ý, sau đó lùi về phía sau mấy bước, ngồi lên chiếc ghế hoa bằng gỗ lê màu đỏ không biết xuất hiện từ bao giờ, hoặc là nó vẫn có ở đó từ trước. Bà vẫy tay với tôi, nói tiếp: Cậu bé, cậu đừng nói nữa, ta biết cậu đang nghĩ gì. Đôi mắt của tôi càng chẳng thề nào rời khỏi bà ta. Bà ta chậm rãi, cởi bỏ hàng khuy áo như đang biểu diễn, rồi sau đó kéo hai vạt áo, giang rộng hai cánh tay một cách đột ngột, giống như con đà điểu giũ mạnh hai cánh, để cho tôi nhìn thấy da thịt đẹp đẽ dấu dưới lớp áo vừa mộc mạc vừa cũ kỹ. Tôi như mê đi, lý trí cũng biến mất, đầu tôi ù lên, tim đập thình thịch, khắp người lạnh toát, răng cũng đánh vào nhau lập cập như đang đứng trần truồng trong lớp băng tuyết. Trong ánh sáng bập bùng của ngọn nến và lò sưởi, mắt của bà ta và hàm răng trắng đều phát ra ánh lấp lánh. Cặp vú như hai quả mãng cầu của bà ta ở đoạn giữa hơi chúc xuống, tạo thành một đường cong tuyệt đẹp, đến đoạn cuối đường cong ấy lại lượn lên một cách rất tao nhã, trông giống như chiếc mõm cong rất đẹp của những loài gặm nhấm như chồn nhím. Chúng thân thiết mời chào tôi, nhưng đôi chân của tôi như mọc rễ, không sao nhúc nhích lên được. Tôi đưa mắt nhìn trộm hòa thượng. Hòa thượng vẫn trong tư thế hai tay chắp trước ngực, ngồi ngay ngắn như đã viên tịch. Hòa thượng, tôi đau khổ kêu thầm, như muốn tìm từ chỗ hòa thượng một sức mạnh có thể cứu giúp mình, như muốn có được sự đồng ý cho phép của ông, để tôi có thể làm theo sự thôi thúc của những ham muốn đang thiêu đốt bên trong. Nhưng hòa thượng vẫn không hề nhúc nhích, trông ông chẳng khác gì một bức tượng bằng tuyết. Cậu bé, người phụ nữ ấy lại cất tiếng nói, tiếng nói ấy vừa giống như vọng xuống từ hư không, vừa giống như phát ra từ trong bụng của bà ta. Tôi tình cờ được nghe chuyện về thuật nói bằng bụng, nhưng những người làm được điều này nếu không phải là những võ lâm cao cường thì cũng là những
người trong gánh xiếc. Những người như vậy đều không phải là người bình thường, ở họ luôn toát ra vẻ thần bí, họ luôn làm người ta liên tưởng đến ma thuật và những vụ án giết trẻ con. Cậu bé, lại đây nào, giọng nói ấy lại vang lên. Cậu đừng làm ngược lại với những điều mình muốn, trái tim cậu bảo cậu làm gì cậu hãy cứ làm theo nó, bởi cậu là nô lệ của trái tim chứ không phải là chủ nhân của nó. Nhưng tôi vẫn cố đấu tranh với bản thân. Tôi biết rất rõ, nếu tôi tiến lên một bước là tôi mãi mãi không thể nào quay lại được nữa. Cậu sao thế? Chẳng phải là cậu rất muốn tôi sao? Vì sao thịt đến miệng rồi lại không dám ăn thế? Kể từ khi em gái chết, tôi hạ quyết tâm không ăn thịt nữa, và quả là từ đó tôi không hề ăn thịt. Bây giờ cứ nhìn thấy thịt là tôi lại thấy buồn nôn, lại cảm thấy tội lỗi, lại nghĩ đến những tai họa mà nó đã mang lại cho tôi. Nhắc đến thịt, tôi phần nào lấy lại được sự kiếm chế. Bà ta cười một tiếng lạnh lùng, giống như một làn hơi lạnh từ trong hang tỏa ra, bà ta tiếp tục nói - và lần này tôi nhìn rõ cái miệng mấp máy của bà ta và vẻ chế nhạo trên khuôn mặt, cậu tưởng rằng không ăn thịt thì có thề giảm bớt tội lội của cậu ư? Cậu tưởng rằng không bú sữa của tôi thì cậu sẽ trong sạch như nước suối ư? Tuy mấy năm nay cậu không ăn thịt nhưng chưa có một giờ phút nào cậu không suy nghĩ đến thịt; hôm nay cậu có thể không bú sữa của tôi, nhưng từ nay về sau cậu sẽ mãi mãi không quên được bầu vú của tôi. Cậu là người như thế nào, tôi rất rõ. Cậu nên biết rằng tôi đã nhìn cậu lớn lên, tôi hiểu về cậu như hiểu về chính bản thân mình. Nước mắt của tôi bỗng nhiên trào ra, tôi hỏi: Cô là Dã La Tử ư? Cô vẫn còn sống đó ư? Cô chưa chết thật không? Tôi cảm thấy một cơn gió thân thiết đã thổi tôi tới trước mặt người đàn bà kia, nhưng tiếng cười lạnh lùng và vẻ mặt chế nhạo của bà ta đã ngăn tôi lại. Bà ta nhếch mép: "Tôi có phải là Dã La Tử hay không thì có liên quan gì đến cậu? Nếu cậu muốn bú sữa của tôi thì đến đây; nếu cậu không muốn thì đừng có nghĩ đến nữa. Nếu bú sữa của tôi là tội lỗi thì việc cậu muốn bú mà không bú thì càng tội lỗi hơn". Tôi cảm thấy chẳng còn biết dấu mặt vào đâu trước sự chế nhạo của bà ta, nếu có một tấm da cáo chắc chắn là tôi đã trùm lên che mặt. Bà ta nói: "Cho dù cậu có che mặt vào trong tấm da cáo thì đã sao nào? Vì thế nào cuối cùng cậu cũng phải bỏ tấm da cáo ấy ra, cho dù cậu có thề là không bao giờ bỏ nó ra thì nó cũng
dần dần bị mục nát, và để lộ bộ mặt vàng như đậu đất của cậu ra. Vậy bà nói xem, tôi phải làm gì bây giờ?" Tôi chép môi nhìn bà ta bằng đôi mắt cầu khẩn. Bà ta che vạt áo lại, bắt chân chữ ngũ và nói bằng giọng như ra lệnh: Kể tiếp đi!
Động cơ của máy sau khi được đốt nóng bằng những sợi dây cao su đã kêu xành xạch, mẹ tôi tiếp tục khởi động máy nhân lúc có hơi ấm, cuối cùng thì chiếc máy kéo cũng nổ được sau khi nhả ra những cụm khói đen sì, tôi vui mừng nhảy cẫng lên - mặc dù tôi rất mong mẹ không khởi động được máy, nhưng cái đầu máy rung lên và làn khói đen sì bốc lên từ ống khói đã nói cho tôi rằng lần này mẹ đã thành công. Trong một buổi sáng nước rơi đọng thành băng thế này mà tôi vẫn phải theo mẹ tới phố huyện, và đi trên con đường đầy băng tuyết, hứng chịu những làn gió lạnh cắt da cắt thịt. Mẹ tôi bước vào nhà, khoác lên mình chiếc áo da cừu, thắt một chiếc thắt lưng da bò ngang hông, đầu đội một chiếc mũ da chó màu đen, tay xách một tấm thảm nhỏ màu nâu. Tấm thảm này đương nhiên cũng là đồ phế phẩm mà chúng tôi thu được, chiếc áo da, thắt lưng da, mũ da cũng là đồ phế phẩm. Mẹ ném chiếc thảm lên nóc xe, đó là chỗ ngồi của tôi, tấm thảm là vật chống lạnh cho mẹ tôi. Mẹ ngồi xuống trước vô lăng, bảo tôi mở rộng cánh cổng. Cánh cổng của nhà tôi được xem là oách nhất làng, đó là cánh cổng lớn nhất trong làng từ một trăm năm trở lại đây. Cánh cổng ấy được làm bằng sắt ba cạnh dày tới hàng xăng ti met, súng máy bắn cũng không thủng được, bên trên được sơn bằng một lớp sơn đen. Những người trong làng nhìn thấy cánh cửa ấy đều kính nể, còn những người ăn mày thì lại càng không dám mon men đến gần. Tôi mở chiếc khóa đồng, ra sức kéo hai cánh cổng, làn gió lạnh từ phía ngoài đường tràn vào khiến tôi run lên cầm cập. Nhưng lúc đó tôi chẳng còn nhớ gì đến cái lạnh vì tôi nhìn thấy một người đàn ông cao lớn dắt một đứa bé gái chừng bốn năm tuổi đang từ từ đi tới theo hướng mà những tay buôn bò thường vào làng. Trái tim tôi đột nhiên đập loạn xạ dù chưa nhìn rõ mặt, nhưng tôi biết là cha tôi đã trở về.
Năm năm không được gặp lại, tôi ngày đêm thương nhớ, tôi đã tưởng tượng ra cảnh cha tôi trở về thật hoành tráng, nhưng sự trở
về trong thực tế của cha tôi lại rất đỗi bình thường. Cha không đội mũ, trên mái tóc đầy mồ hôi dầu còn dính những sợi rơm và cỏ khô, dường như hai người vừa chui từ trong đống rơm ra. Khuôn mặt cha tôi có vẻ hơi xưng, trên tai mọc đầy mụn, dưới cằm lởm chởm râu, có cả sợi đen, sợi trắng. Trên vai cha khoác một tay nải bằng vải màu vàng căng phồng, lưng đeo một chiếc ca sứ màu trắng. Cha mặc một bộ quân phục kiểu cũ đã bóng lên vì mồ hôi, hàng khuy màu nâu trước ngực thì rơi mất hai cái, nhưng những sợi chỉ đơm khuy vẫn còn, chiếc quần phía dưới không còn nhìn rõ là màu gì nữa, còn dưới chân là một đôi ủng da bò đã cũ dính đầy bùn đất. Đôi ủng của cha khiến tôi nhớ lại cảnh vinh quang của cha ngày trước, nếu không có đôi ủng này thì buổi sáng sớm ngày hôm ấy trong con mắt của tôi hình ảnh cha sẽ vô cùng ảm đạm. Còn đứa bé đang nắm chặt tay cha, trên đầu đội chiếc mũ bằng nhung màu đỏ, trên chóp mũ đính một quả cầu bông, quả cầu ấy cũng nhảy nhót theo nhịp bước của đứa bé. Đứa bé mặc một bộ quần áo nhung màu đỏ nhạt, vạt áo dài tới tận gót chân, trông nó như một quả bóng da màu đỏ. Da mặt đứa bé rất đen, đôi mắt to, đôi lông mi rất dài, đôi lông mày đen rậm dường như dính vào nhau phía trên mũi, trông rất không tương xứng với tuổi của nó. Ánh mắt của nó làm tôi nhớ đến cô Dã La Tử - người tình thân thiết của cha tôi và là kẻ thù không đội trời chung của mẹ. Tôi không chỉ không thấy căm hận chút nào đối với cô Dã La Tử, thậm chí còn có cảm tình, trước khi cô ấy và cha tôi bỏ đi, tôi rất thích đến quán ăn nhỏ của cô, ở đó tôi còn có thể được ăn thịt, đó cũng là một trong những nguyên nhân mà tôi có cảm tình với cô. Một nguyên nhân khác khiến tôi có cảm tình như vậy là vì cô rất gần gũi với tôi, sau khi tôi biết chuyện cô và cha tôi qua lại với nhau thì sự thân thiết đó càng trở nên đặc biệt.
Tôi không kêu lên cũng không lao vào lòng cha tôi, và kể với cha về những nỗi khổ mà tôi phải chịu đựng sau khi cha bỏ đi như trong tưởng tượng. Tôi cũng không gọi báo cho mẹ biết rằng cha đã trở về. Tôi chỉ tránh sang một bên cửa, ngây người, đứng bất động như một kiêu binh. Mẹ tôi nhìn thấy cổng đã được mở nên ra sức lái chiếc máy kéo như ngọn núi nhỏ về phía cổng. Đúng vào lúc mẹ đang đưa đầu xe nhằm ra phía cổng thì cũng là lúc cha tôi dắt đứa
bé gái đi tới cửa. Cha tôi kêu lên một tiếng không được tự tin lắm: "Tiểu Thông?"
Tôi không đáp, đưa mắt nhìn sang khuôn mặt của mẹ. Tôi thấy khuôn mặt mẹ đột nhiên trắng bệch, ánh mắt ngây ra bất động, còn chiếc máy kéo như con ngựa mù đâm sầm vào góc tường, sau đó mẹ trượt khỏi xe như một con chim bị trúng đạn.
Cha tôi đứng lặng trong giây lát, mồm há ra để lộ chiếc răng vàng rồi lại mím chặt môi và cứ như vậy. Cha tôi nhìn tôi bằng ánh mắt áy náy như muốn tìm sự giúp đỡ từ chỗ tôi. Tôi vội nhìn sang phía khác, lảng tránh ánh mắt của cha. Tôi thấy cha đặt tay nải xuống đất, rồi gỡ tay đứa bé gái, do dự đi về phía mẹ tôi, khi đã tới trước mặt mẹ, cha lại đưa ánh mắt nhìn tôi và tôi lại lảng tránh ánh mắt của cha. Cuối cùng thì cha cũng khom người xuống và đỡ mẹ tôi ngồi dậy. Ánh mắt của mẹ vẫn ngây dại, mẹ nhìn lên khuôn mặt của cha như nhìn một người xa lạ. Cha cứ liếm môi rồi lại mím miệng lại, cứ ấp úng điều gì đó. Đột nhiên, mẹ giang tay tát vào mặt cha, sau đó vùng ra khỏi lòng cha, quay người chạy vọt vào nhà. Đôi chân mẹ như bị rút xương, nó cứ nhũn xuống như một sợi mì, bước đi loạng choạng gần như lết trên đất, mẹ chạy vào ngôi nhà ngói của chúng tôi rồi đóng sầm cửa, vì cửa đóng quá mạnh nên những tấm kính rung lên và rơi xuống đất vỡ tan tành. Trong nhà không một tiếng động, một hồi lâu sau mới nghe tiếng nức nở vọng ra. Cha tôi đứng im tại chỗ, vẻ mặt lúng túng khó xử. Tôi nhìn thấy dưới cằm cha ba nốt hằn sâu lúc đầu thì trắng bệch, sau đó thì chảy máu, đứa bé gái ngẩng mặt nhìn cha, òa khóc, nó kêu bằng một giọng rất khó nghe: "Cha, chảy máu rồi!... Cha, chảy máu rồi!..."
Cha tôi ngồi xuống ôm đứa bé vào lòng. Đứa bé gái ôm lấy cha tôi khóc mãi: "Cha, chúng ta đi thôi..."
Chiếc máy kéo vẫn đang gầm gào, như một con mãnh thú bị thương, tôi bước tới tắt máy.
Sau khi tiếng máy tắt, tiếng khóc của mẹ tôi và đứa bé lại càng chói tai hơn. Có mấy người phụ nữ gánh nước sớm đi qua ngó đầu nhìn vào trong sân nhà tôi, tôi đứng dậy rồi ra đóng cổng lại.
Cha tôi ôm đứa bé, bước tới trước mặt tôi và hỏi một cách từ tốn: "Tiểu Thông không nhận ra cha nữa à? Ta là cha con đây..." Tôi nghe cay cay ở mũi, cổ họng nghẹn lại.
Cha đưa một bàn tay vuốt ve đầu tôi và nói:
"Chỉ mấy năm mà con đã cao thế này rồi..."
Nước mắt tôi bỗng trào ra, cha đưa tay lau nước mắt cho tôi và nói:
"Con trai ngoan đừng khóc. Con và mẹ con đều rất cừ. Nhìn thấy mẹ và con sống tốt như thế này, cha thấy yên tâm rồi"
Cuối cùng thì tôi cũng bật ra được tiếng gọi cha.
Cha tôi đặt đứa bé gái xuống và nói với nó:
"Kiều Kiều hãy làm quen đi, đây là anh trai của con"
Đứa bé nép vào chân cha, nhìn tôi vẻ sợ sệt.
Cha tôi nói với tôi:
"Tiểu Thông, đây là em gái của con"
Đôi mắt của cô bé rất đẹp, nhìn vào đôi mắt của nó, tôi lại nhớ đến người phụ nữ đã cho tôi ăn thịt, tôi rất thích bà ấy, thế là tôi gật đầu với đứa bé.
Cha tôi trút một tiếng thở dài, nhặt tay nải lên, rồi một tay dắt tôi, một tay dắt đứa bé gái bước tới phía trước nhà. Tiếng khóc của mẹ mỗi
ngày một nức nở hơn, xem chừng khó mà ngăn lại được. Cha tôi cúi đầu nghĩ một lúc rồi đưa tay gõ cửa nói:
"Ngọc Trân, tôi xin lỗi mình, lần này trở về là tôi muốn chuộc lỗi với mình..."
Hai giọt nước mắt trong khóe mắt của cha từ từ lăn xuống, lòng tôi vô cùng xúc động, nước mắt cũng tuôn trào.
"Lần này trở về là muốn được chung sống trở lại với mình. Thực tế đã chứng minh, con đường sống của họ Dương là rất đúng, còn họ La nhà chúng tôi là sai lầm. Nếu như mình có thể tha thứ cho tôi. Tôi hi vọng là mình có thể tha thứ cho tôi..."
Những lời kiểm điểm của cha vừa khiến tôi cảm động vừa khiến tôi cảm thấy nuối tiếc. Nếu như cha thật sự nói được và làm được thì dù cha có ở lại chắc cũng không thể ăn đầu lợn như trước được nữa. Đột nhiên mẹ tôi mở cửa ra, đứng ở giữa nhà, hai tay chống nạnh, mặt trắng bệch, mắt vằn đỏ, ánh mắt như thiêu như đốt. Cha tôi lùi về phía sau một bước, đứa bé gái trốn ở phía sau cha, sợ tới mức run lên bần bật. Trông mẹ thật chẳng khác gì một ngọn núi lửa đang tuôn trào nham thạch.
"La Thông, anh là đồ khốn kiếp, không có lương tâm. Anh cũng có ngày hôm nay sao? Năm năm trước anh đã trốn đi cùng con yêu tinh ấy, bỏ hai mẹ con tôi để sống sung sướng với nhau, bây giờ anh còn dám vác mặt trở về sao"
Đứa bé gái cất tiếng khóc to:
"Cha ơi! Con sợ..."
"Được lắm! Còn kịp đẻ ra cả đồ lạc loài này cơ à?" - Mẹ tôi trừng mắt nhìn đứa bé đầy vẻ căm thù - Giống hệt như nhau! Đồ yêu tinh con! Sao anh không đưa con yêu tinh già ấy cùng đến đây? Nếu nó dám tới đây tôi sẽ băm vằm nó!"
Cha tôi cười ngượng ngùng với vẻ cầu xin.
Mẹ tôi đóng cửa lại và chửi vọng từ trong đó ra.
"Hãy mang cái đồ con hoang ấy cút đi cho khuất mắt tôi, cả đời này tôi không muốn nhìn thấy anh nữa! Con yêu tinh ấy bỏ anh rồi, anh mới nhớ đến mẹ con tôi đúng không? Cút đi! Từ lâu trong lòng mẹ con tôi anh đã chết rồi!"
Mẹ tôi chửi xong thì lại tiếp tục nức nở.
Cha tôi nhắm mắt, thở một cách nặng nề như người lên cơn hen suyễn. Một lát sau, khi đã lấy lại được bình thường, cha nói với tôi:
"Tiểu Thông, con và mẹ hãy cứ sống với nhau, cha đi đây"
Cha xoa đầu tôi, ngồi xuống cõng đứa bé gái. Đứa bé rất nhỏ, lại mặc chiếc áo rộng nên trèo được giữa chừng lại tụt xuống, cha tôi đưa tay về phía sau, giữ chân nó rồi cõng nó lên. Ông đứng dậy thò đầu về phía trước quan sát, chiếc cổ vươn dài giống như đầu của một con bò, chiếc tay nải ở dưới lắc lư như một chiếc dạ dày bò treo trước cửa nhà của những tay đồ tể.
Tôi túm lấy áo cha và nói:
"Cha đừng đi! Con không cho cha đi!"
Tôi đập cửa nói với mẹ:
"Mẹ! Hãy để cho cha con ở lại!"
Mẹ tôi đáp vọng từ trong nhà:
"Để cho ông ấy cút đi! Cút thật xa"
Tôi thò tay qua chỗ kính bị vỡ, rút then cửa, mở cửa rồi nói: "Cha, cha vào đi, con để cha ở lại!"
Cha tôi lắc đầu, cõng đứa bé định quay đi. Tôi túm lấy áo của ông và òa khóc, vừa khóc tôi vừa lôi ông về phía trong nhà. Khi tôi lôi được cha vào trong nhà thì hơi ấm tỏa ra từ chiếc lò cũng bao trùm lấy chúng tôi. Mẹ tôi vẫn đang chửi rủa nhưng giọng đã bé hơn rất nhiều, cứ chửi một hồi lại khóc một hồi.
Cha tôi đặt đứa bé xuống, tôi mang hai chiếc ghế đặt ở bên cạnh lò sưởi để cha tôi và đứa bé ngồi. Đứa bé dường như đã quen với tiếng khóc của mẹ tôi, nó có vẻ mạnh dạn hơn. Nó nói: "Cha ơi! Con đói". Cha tôi lấy từ trong tay nải ra một chiếc bánh bao lạnh ngắt rồi đem bẻ ra và nướng trên lò, căn nhà bỗng nhiên tràn đầy mùi thơm của bánh bao nướng. Cha tháo chiếc ca sứ xuống, khẽ hỏi tôi:
"Tiểu Thông, có nước nóng không?"
Tôi mang bình nước nóng từ góc tường đến, rót ra nửa ca. Cha tôi bê lên thử, rồi nói với đứa bé:
"Kiều Kiều, uống nước đi!"
Đứa bé gái nhìn tôi như có ý hỏi tôi, tôi gật đầu với nó. Cô bé đón lấy ca nước tu ừng ực. Mẹ tôi từ trong nhà xông ra, giằng lấy ca nước trong tay đứa bé ném ra ngoài sân, cái ca lăn lông lốc phát ra tiếng loảng xoảng. Mẹ giơ tay tát đứa bé một cái và chửi:
"Yêu tinh con, ở đây không có nước cho mày uống!"
Chiếc mũ len trên đầu đứa bé bị cái tát làm cho văng xuống để lộ hai bím tóc cong cong, trên bím tóc buộc hai sợi dây màu trắng. Đứa bé khóc òa nhào vào lòng cha tôi. Cha tôi đứng bật dậy, người run lên, tay nắm thành nắm đấm, tôi mong cha tôi cho mẹ một cú đấm như một đứa con bất hiếu, nhưng cha tôi lại buông tay ra, cha ôm đứa bé vào lòng và nói khẽ:
"Dương Ngọc Trân, cô có thể căm thù tôi ngàn vạn lần, có thể dùng dao đâm chém tôi, có thể dùng súng để bắn tôi, nhưng cô không nên đánh một đứa bé đã mất mẹ..."
Mẹ tôi lùi về sau mấy bước, mắt cũng long lanh nước, ánh mắt của mẹ dồn vào đứa bé một hồi lâu mới ngẩng lên nhìn cha tôi và hỏi:
"Cô ta sao rồi?"
Cha tôi cúi đầu đáp:
"Thực ra cũng không có bệnh gì lớn, chỉ là đi ngoài, ba hôm sau thì mất..."
Trên nét mặt mẹ tôi có chút thay đổi, nhưng bà vẫn nói vẻ giận dữ: "Đó là báo ứng. Ông trời đã báo ứng cho các người đấy!"
Mẹ tôi đi vào phía trong, mở tủ rồi lấy ra gói bánh, bóc giấy, lôi ra mấy chiếc đưa cho cha tôi nói:
"Cho nó ăn đi..."
Cha tôi lắc đầu từ chối.
Mẹ tôi có vẻ áy náy đặt bánh trên mặt lò, nói:
"Đàn bà, dù là ai, rơi vào tay anh thì cũng đều không được chết tử tế! Đến bây giờ tôi vẫn chưa chết là vì tôi mạng lớn...!"
Cha tôi nói:
"Tôi có lỗi với cô ấy và cũng có lỗi với mình"
Mẹ tôi đáp:
"Anh đừng nói gì với tôi nữa, anh có nói thì tôi cũng không nghe. Anh có nói khiến trời sập xuống, tôi cũng không sống với anh nữa, con ngựa khôn không nhai lại cỏ thừa. Nếu anh có chí khí thì tôi có giữ đến mấy cũng không thể giữ được anh"
Tôi nói:
"Mẹ, hãy để cha ở lại đi"
Mẹ cười lạnh lùng đáp:
"Con không sợ ông ấy lại mang bán ngôi nhà mới của chúng ta lấy tiền ăn sao?"
Cha tôi cười đau khổ, nói:
"Mình nói rất đúng, con ngựa khôn không nhai lại cỏ thừa" Mẹ tôi nói:
"Tiểu Thông, đi nào, theo mẹ xuống quán, ăn thịt, uống rượu. Mẹ con ta chịu khổ suốt năm năm cũng đã đến lúc hưởng thụ một chút chứ!"
Tôi đáp:
"Con không đi!"
Mẹ tôi nói:
"Đồ hư hỗn! Mày đừng có hối hận đấy!"
Mẹ tôi quay người đi ra ngoài, mẹ đã thay chiếc áo da ban nãy, chiếc mũ da chó ở trên đầu cũng đã lột bỏ, bây giờ mẹ mặc một bộ nhung màu xanh, để lộ chiếc áo len cao cổ có kim tuyến. Mẹ vươn thẳng lưng, đầu ngẩng cao kiêu hãnh, bước chân nhanh nhẹn trông giống như một con ngựa cái vừa được thay móng mới. Mẹ tôi đi ra khỏi cổng, tôi cảm thấy trong lòng cũng nhẹ nhõm rất nhiều. Tôi cầm miếng bánh bao đã được nướng trên mặt lò đưa cho đứa bé gái. Nó ngửa mặt nhìn cha tôi, cha tôi gật đầu. Đứa bé đón lấy miếng bánh ăn ngấu nghiến.
Cha tôi lôi từ trong lòng ra hai đầu mẩu thuốc lá, bóc ra rồi lấy báo cũ cuộn lại, châm bằng lửa trong lò sưởi. Qua làn khói xanh mà cha tôi nhả ra, tôi nhìn thấy mái tóc bạc và chòm râu lốm đốm của cha
"""