"
Chuyện Cô Gái Julie - Jean Craighead George & Nguyễn Xuân Hồng (dịch) full mobi pdf epub azw3 [Thiếu Nhi]
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Chuyện Cô Gái Julie - Jean Craighead George & Nguyễn Xuân Hồng (dịch) full mobi pdf epub azw3 [Thiếu Nhi]
Ebooks
Nhóm Zalo
CHUYỆN CÔ GÁI JULIE
Tác giả: Jean Craighead George Người dịch: Nguyễn Xuân Hồng Phát hành & NXB Kim Đồng 06/2020 —★—
ebook©vctvegroup
CHUYỆN CÔ GÁI JULIE
TẬP TIẾP THEO CỦA CUỐN SÁCH ĐOẠT GIẢI NEWBERY JULIE - CON CỦA BẦY SÓI
Julie sống sót trên lãnh nguyên Alaska nhiều ngày nhờ hòa hợp với một đàn sói coi cô như một thành viên trong đàn của chúng. Việc cô quyết định quay về với thế giới hiện đại và sống cùng cha mình không hề dễ dàng. Giờ đây cuộc sống của cô sẽ rất khác. Cô nhanh chóng phát hiện ra rằng cha mình đã từ bỏ rất nhiều tập quán Eskimo: Ông cưới một người vợ da trắng, ông là lãnh đạo công ty của làng, và tệ hơn cả, ông quyết tâm bắn hạ đàn sói của Julie nếu chúng đe dọa mối làm ăn của làng. Cô cũng bối rối khi một chàng thanh niên điển trai đến từ Siberia, người rất tin vào những tập tục cổ xưa vốn là những điểm chung cho các nền văn hóa của họ, cố gắng chinh phục trái tim cô.
Tập tiếp theo cho cuốn truyện Julie - Con của bầy sói, từng đoạt giải Newbery, của Jean Craighead George đã nắm bắt được những thách thức từ việc đan xen những lối sống của thế giới cũ và mới, và những khúc ca về vẻ đẹp của một vùng đất nơi chó sói vẫn rong ruổi và sự quyết tâm của một cô gái trẻ có thể tạo nên sự khác biệt hoàn toàn.
JEAN CAROLYN CRAIGHEAD GEORGE
(1919 - 2012)
Là nhà văn người Mỹ với hơn 100 tác phẩm dành cho trẻ em và thanh niên, tập trung vào chủ đề môi trường và thế giới tự nhiên.
Sinh ra trong gia đình có nhiều người nghiên cứu về tự nhiên, bà tốt nghiệp chuyên ngành tiếng Anh và khoa học tại Đại học Bang Pennsylvania năm 1940. Bà từng là phóng viên cho tờ The Washington Post, biên tập viên cho Nhà xuất bản Readers Digest.
Bà viết cuốn tiểu thuyết đầu tiên, Vulpes the Red Fox năm 1948 cùng với chồng là John Lothar George và đích thân bà vẽ minh họa cho cuốn sách.
Với tiểu thuyết Julie - Con của bầy sói, George giành được Huy chương Newbery do Hiệp hội Thư viện Mỹ trao tặng năm 1973. Bà cũng giành Giải thưởng Văn học Thanh niên Đức năm 1975 cho bản dịch tiếng Đức của tác phẩm này.
TÁC PHẨM CHÍNH:
- Vulpes the Red Fox (tạm dịch: Vulpes Cáo đỏ), 1948, nằm trong bộ truyện American Woodland Tales (Truyện cổ miền rừng Mỹ).
- Julie of the Wolves (Julie - Con của bầy sói), 1972, nằm trong bộ truyện Julie. Các tập tiếp theo là: Julie (tạm dịch: chuyện Julie), 1994; Julie’s Wolf Pack (Đàn sói của Julie) 1997; Nutik, the Wolf Pup (tạm dịch: Nutik, sói con), 2001; Nutik and Amaroq Play Ball (tạm dịch: Nutik và Amaroq chơi bóng), 2001.
- Going to the Sun (tạm dịch: Đi tới Mặt trời), 1976.
- Journey Inward (tự truyện, tạm dịch: Hành trình vào nội tâm), 1982.
- Snow Bear (tạm dịch: Gấu tuyết), 1999.
- Cliff Hanger (tạm dịch: Cheo leo vách đá), xuất bản năm 2002, nằm trong bộ truyện Outdoor Adventures (Các cuộc phiêu lưu ngoài trời) gồm 3 tập.
- Galapagos George (sách tranh), 2011.
PHẦN I: THỢ SĂN KAPUGEN
MỘT CON SÓI CẤT TIẾNG TRU. Nó bắt đầu với âm điệu thấp hơn tiếng gấu gầm gừ, rồi tăng lên âm vực cao nhất của gió và giữ nguyên như vậy.
Tiếng tru lan khắp lãnh nguyên tuyết trắng và lọt vào tai cô gái trẻ đứng ở cửa một ngôi nhà nhỏ màu xanh rêu. Ngôi nhà gỗ ấy tọa lạc ngay rìa một ngôi làng Eskimo bên bờ dòng sông Avalik đã đóng băng ở Alaska. Cô hất quầng lông bao quanh khuôn mặt xinh xắn của mình ra sau và lắng nghe. Con sói đang bảo cô đến chỗ nó. Cô không trả lời.
Julie Edwards Miyax Kapugen biết rất rõ con sói ấy. Nó đã chia sẻ thức ăn với cô khi cô bị lạc trên lãnh nguyên vô tận. Nó đã chạy và chơi đùa cùng cô. Nó đã nằm im trong lều của cô trong khi cô chăm sóc cho nó khỏi hẳn những vết thương do đạn bắn. Giờ nó đang cố gắng xác định vị trí của cô. Không được để nó tìm ra cô. Nó phải đi, đi thật xa. Sau nhiều năm xa cách, Julie trở về với cha cô, Kapugen, và cô biết ông ấy sẽ giết chết con sói.
- Phải như vậy thôi - cô thì thầm với con sói đang tru. - Nếu em đến gần Kapugen, ông ấy sẽ bắn em ngay. Ông ấy cũng giống tất cả các thợ săn Eskimo. Ông ấy sẽ nói: “Con sói tự hiến dâng nó cho bố mà.”
Tiếng tru vút lên và lắng xuống.
Julie nheo mắt nhìn về phía tiếng gọi xa xa.
- Tránh đi, Kapu yêu quý. Chị đang về nhà rồi.
Cô chờ đợi. Con sói mà cô đã đặt tên là Kapu theo tên cha cô, người thợ săn và vị thủ lĩnh vĩ đại, không gọi lại nữa. Cô nhanh chóng mở và đóng cánh cửa đầu tiên dẫn vào nhà Kapugen. Cô bước vào qanitchaq, gian sảnh được thiết kế để ngăn khí lạnh. Tường sảnh treo đầy áo trùm parka và ủng, còn trên sàn toàn mái chèo, súng và bình khí đốt. Cô buông hành lý xuống, cởi chiếc áo choàng parka da hải cẩu cùng đôi ủng maklak của mình, và treo tất cả lên mắc. Cô bước tới cánh cửa thứ hai, mở vào phòng khách, và ngập ngừng.
Cô nghĩ về tuổi thơ của mình trên hòn đảo Nunivak của người Eskimo trên biển Bering, về thời thiếu nữ của mình ở Barrow trên Bắc Băng Dương. Rồi cô nghĩ đến ngày cô vội vã rời khỏi cái thị trấn đó để chấm dứt một cuộc hôn nhân đã được sắp xếp. Cô chạy vào lãnh nguyên với ý định đi bộ tới Mũi Hy Vọng và bắt tàu tới San Francisco để gặp người bạn qua thư của mình là Amy.
Trên lãnh nguyên hoang vu, cô bị lạc một cách vô vọng.
Cô đã cố không nghĩ đến đàn sói đáng mến đã hạ gục một con tuần lộc và cứu sống cô. Cô phải để chúng vào quá khứ. Cô đã tìm thấy người cha kính yêu của mình và sẽ về nhà ông.
Hôm qua ông ấy chào đón cô trong ngôi nhà này. Lòng cô phấn chấn hẳn và nỗi cô đơn trĩu nặng tan đi. Đầu cô tưng bừng những ý nghĩ hân hoan.
Niềm hạnh phúc của cô không kéo dài lâu. Chỉ trong thoáng chốc, cô nhận ra Kapugen không còn là người cha từng đưa cô đi săn và bắt cá theo mùa ở Nunivak nữa.
Ông ấy không còn là người cha sống hài hòa với biển và đất liền nữa. Kapugen đã thay đổi. Ông ấy có một người vợ Mỹ da trắng, một gussak. Ông ấy có những cái bộ đàm, một cái điện thoại, và một lò sưởi hiện đại.
Lẽ ra Julie có thể đã chấp nhận mấy thứ này nếu đôi mắt cô không nhìn thấy chiếc mũ phi công và cặp kính máy bay của Kapugen. Cô đã nhìn thấy những thứ ấy trên người đàn ông trong cửa sổ chiếc máy bay, người đã bắn Amaroq, con đầu đàn tuyệt vời trong đàn sói của cô. Cô không thể chấp nhận được điều này. Khi Kapugen ra khỏi nhà, cô đã cầm hành lý của mình và quay lại khu trại của cô nơi bờ sông trơ trụi.
Ở đó, một mình trong đêm Bắc Cực cựa mình răng rắc với màn sương muối rắc kín ngôi lều của cô bằng những bông hoa tuyết, cô biết mình phải quay về. Cho dù ông ấy đã làm gì đi nữa, Kapugen vẫn là cha cô, và cô yêu ông.
- Chúng ta không phán xét người thân của mình - cô từng nghe nhiều người già Eskimo nói vậy, và Julie hướng đôi ủng của mình về phía Kapugen.
Giờ đây, chỉ còn một cánh cửa gỗ ngăn giữa họ thôi.
Cô mở cửa và bước vào trong. Kapugen có ở nhà. Ông ngồi trên một tấm da tuần lộc trải trên sàn, đang mài lại con dao của mình, chỉ có mình ông.
Ông không hề nhìn lên, mặc dù Julie biết ông đã nghe thấy tiếng cô vào. Cô nhón chân đi tới iglek, chiếc đi văng chất lông thú cao ngang đầu cô. Cô leo lên đó, ngồi im, và khoang tay đặt trong lòng.
Kapugen nhìn dọc lưỡi dao để xem nó đã đủ sắc chưa. Julie nhặt một sợi chỉ trên chiếc tất len của mình. Kapugen lựa một miếng da hải cẩu có lông và cắt lấy một sợi dây mảnh. Ông buộc sợi dây quanh ủng của mình. Julie vẫn ngồi im.
Ngay sau đó, Kapugen nhìn ra cửa sổ ngắm bầu trời màu xanh dương trong ngày đông không có ánh mặt trời ấy.
- Gió lặng rồi - ông nói. - Tốt quá.
- Sao còn sáng lắm - Julie nói thêm.
- Thế thì tốt - Kapugen nói.
Im lặng. Kapugen thắt chặt dây ủng và cuối cùng cũng nhìn cô.
- Con có nghe thấy tiếng con sói không? - Ông hỏi, nhìn thẳng vào mắt cô.
- Con nghe rõ tiếng con sói - cô đáp.
Lại thêm một lúc im lặng nữa. Kapugen không hề rời mắt khỏi mắt cô. Julie biết ông đang nói với cô theo cách của thợ săn Eskimo liên lạc mà không cần âm thanh. Đôi mắt ông đang nói rằng một con sói không hay cất tiếng gọi thân thiện như vậy.
Julie không trả lời. Cô ngắm kỹ cha mình.
Kapugen là một người đàn ông rắn chắc với tấm lưng vạm vỡ và đôi tay khỏe mạnh. Gương mặt ông rám nắng gió Bắc Cực, và hai bàn tay ông xạm đen vì sương giá. Tóc ông ngắn hơn so với cô còn nhớ, nhưng cằm ông vẫn nhẵn nhụi và nhổ sạch sẽ râu. Một bộ ria lờ mờ viền thẫm phần môi trên của ông. Ông ngồi duỗi thẳng hai chân trước mặt.
- Con sói biết con - ông chậm rãi nói vẻ trầm ngâm.
- Vâng - Julie trả lời.
Kapugen nhặt tấm da hải cẩu lên và cắt một sợi dây nữa. Julie đợi ông lên tiếng tiếp. Nhưng ông không nói. Ông liếc con dao của mình lần chót và đút nó vào bao ở thắt lưng. Chỉ bằng một động tác, ông đã đứng trên hai chân và dang tay ra. Cô nhảy xuống khỏi iglek và chạy Bố tới chỗ ông.
Sau một cái ôm an ủi rất dài, Kapugen nâng cằm Julie lên và chạm vào làn da láng mịn màu ô liu trên má cô.
- Bố rất vui con quay trở lại - ông nói. - Bố đã sợ rằng bố lại mất con lần thứ hai. Bố yêu con bằng cả vầng trăng sáng tròn đầy.
- Thế nhiều quá - cô bẽn lẽn nói.
Ông bắt chéo chân và buông mình ngồi xuống tấm da tuần lộc, rồi vỗ vỗ lên đó và mời Julie ngồi xuống. Julie nhìn thấy câu hỏi trên gương mặt ông. Cô đã trả lời rồi.
- Con phá bỏ hôn ước với con trai bạn của bố. - Giọng cô rất nhẹ.
- Nếu đàn ông và đàn bà - Kapugen nói bằng giọng trầm, bình thản - không yêu nhau thì họ chia tay thôi. Như thế mới phải.
Họ ngồi im lặng.
Julie nhận ra Kapugen muốn biết thêm nữa về quá khứ, nhưng ông không hỏi vì tôn trọng quyền riêng tư của cô. Cô phải kể với ông cho dù hồi ức của cô có đau đớn đến thế nào.
- Bố không biết con đã ở đâu vào cái hôm bà Martha đưa con rời khỏi bố để đi học ư? - Cô hỏi bằng giọng dịu dàng.
- Bố chỉ biết con đến Barrow khi con mười ba tuổi và đủ lớn để lấy chồng - ông trả lời, nhịp từng từ thật chậm. - Bố tình cờ gặp Nusan, mẹ chồng của con, ở thị trấn đó. Bà ấy nói con đã bỏ đi và chết rồi.
- Điều kinh khủng như thế mà bà ấy cũng nói ra được khi mà bà ấy thật sự không hề biết - Julie nói. - Con xin lỗi. Con sẽ cố gắng kể cho bố những gì đã xảy ra, - có lẽ không phải tất cả, - một vài việc vẫn còn quá buồn.
Julie kể với ông về cuộc sống không vui vẻ của cô ở Mekor-yok, thị trấn trên đảo Nunivak, những ngày của cô ở Barrow, cuộc hôn nhân của cô, và cô đã ghê sợ Daniel, gã chồng cáu kỉnh của cô, như thế nào. Cô nhớ lại những ngày tháng trên lãnh nguyên cùng đàn sói tử tế và con đầu
đàn tốt bụng, Amaroq, nhưng cô không tài nào nói được rằng Kapugen đã giết chết nó. Lời nói không hình thành nổi.
Khi cô kể xong, Kapugen hạ ánh mắt xuống một lúc, rồi ngẩng lên nhìn cô. Mắt ông nói rằng ông yêu cô rất nhiều và ông rất biết ơn vì cô còn sống.
Julie vùi đầu vào vai ông, và ông ôm ghì cô vào lồng ngực vạm vỡ của mình. Trong lúc ông ôm cô, cô cảm thấy sự tha thứ dâng trào dọc sống lưng, ngập đến tim và óc cô. Kapugen, nói cho cùng, là trụ cột của gia đình và ngôi làng của ông. Những người Eskimo là trụ cột đều phải đi săn.
- Con mệt lắm - cuối cùng cô nói, hai vai cô trĩu xuống.
Kapugen gạt lọn tóc ở trán cô. Ông nhấc bổng cô lên bằng hai cánh tay mình, đem cô đến iglek, và đặt cô lên đó. Cô chìm trong lớp lông mềm, êm ái và kéo một tấm da gấu trùm lên mình.
- Bố rất mừng con đã về nhà, Miyax - ông nói, và hôn cô.
Cô mỉm cười nghe ông gọi cô bằng cái tên Eskimo. Như hầu hết những người Eskimo, Julie có hai cái tên, tiếng Anh và tiếng Eskimo - Julie Edwards và Miyax Kapugen. Nghe cha gọi cô là Miyax khiến cô cảm thấy gần gũi ông hơn, và cô quyết định cô sẽ để ông gọi cô như thế. Cái tên ấy gắn kết hai người với mẹ cô, người đã đặt tên ấy cho cô, và gắn kết họ với nhau. Với những người còn lại, cô sẽ là Julie.
Cô nhắm mắt lại và ngủ say.
°°°
- Chào anh, Kapugen. Chúc một buổi sáng tốt lành.
- Julie ngồi thẳng trên chiếc giường lông thú và nhìn quanh. Giọng
đàn ông oang oang rổn rang, nhưng trong phòng chẳng có ai cả. Kapugen bước ra khỏi phòng ngủ.
- Xin chào. - Ông nói với chiếc bộ đàm CB[1] lấp loáng trên giá sách. - Xin chào, Atik. Xin chào.
Julie nhận ra tên của người thợ săn cô đã gặp cùng vợ ông ấy, Uma, và đứa nhỏ trên dòng sông Avalik đóng băng. Ngạc nhiên vì nghe thấy tiếng ông ấy trong phòng, cô leo ra khỏi iglek và ngồi trên tấm da tuần lộc của Kapugen, nhìn chiếc bộ đàm và chăm chú lắng nghe.
- Chào anh, Malek - một giọng phụ nữ vang lên. - Xin chào. - Chào chị, Marie. Chào chị.
Trong suốt gần một tiếng, dân làng Kangik thức giấc và chào hỏi nhau bằng bộ đàm CB. Giọng họ vui vẻ ngập tràn cái màn tối của buổi sáng không có ánh mặt trời.
Dì Ellen, vợ Kapugen, bước ra khỏi phòng ngủ và chào cô khi nhận thấy Julie đã thức giấc.
- Chào con, Miyax - dì nói.
- Julie - cô nói khẽ nhưng kiên quyết.
- Tùy con thôi - dì Ellen nói, và quay người để múc nước trà từ một bình nhựa khoảng ba mươi gallon[2]. Ở Kangik bị đóng băng, không hề có nước chảy.
Julie ngắm kỹ dì Ellen. Mái tóc đỏ nhạt của dì với những lọn trông rất lạ mắt thật kỳ dị đối với cô, cặp mắt xanh xám và hàng lông mi của dì ấy cùng vậy. Julie thấy mình chăm chú nhìn và đầy thắc mắc về người vợ mới của cha mình. Khi bữa sáng kết thúc, cô lại leo lên iglek và nhìn dì Ellen ngồi bên bàn. Dì viết vào một cuốn sổ, thỉnh thoảng ngước lên nhìn
Julie như thể để hỏi xem cô có ổn không. Julie chẳng nói gì cả.
Rồi dì Ellen đọc sách. Đến giờ ăn trưa, thậm chí dì còn nấu ăn nhờ đọc một cuốn sách. Đầu giờ chiều, dì Ellen gọi điện cho mẹ dì ở Minnesota.
- Con chào mẹ - dì nói. - Con có một cô con gái.
Dì mỉm cười và liếc nhìn Julie.
- Vâng, cháu rất xinh - dì Ellen nói. - Da mịn màng và mắt hạt dẻ rất to. Tóc cháu đen và óng ả như gỗ mun đánh bóng vậy.
Bối rối, Julie hụp xuống mớ lông thú màu xám và nhòm vợ của cha mình qua cổ áo. Cô thắc mắc làm thế nào người phụ nữ này lại đi xa nhà đến vậy và tại sao dì ấy không quay về.
- Con muốn chào mẹ của dì không, Julie? - Dì Ellen hỏi.
Cô không trả lời. Julie biết tiếng Anh rất thạo. Nhất thời cô quên mất sau khi Amaroq bị giết, nhưng giờ cô hiểu từng từ được nói ra. Cô chỉ không cảm thấy muốn nói chuyện với dì Ellen.
Julie đã vô cùng thất vọng khi thấy cha mình cưới một người vợ từ thế giới bên ngoài. Với người Eskimo, có hai dạng dân - những người bên trong thế giới băng giá và những người bên ngoài. Dì Ellen không phải người bên trong. Dì đi lại và nói quá nhanh. Giọng dì đanh, và dì cười to chẳng khác gì lũ chim cướp biển.
Julie chậm rãi thích nghi với cuộc sống mới. Cô rửa bát đĩa, nấu cá và thịt tuần lộc cho dì Ellen. Cô nạo và chuẩn bị da để đem ra chợ, và đẽo băng đá ở ngoài sông rồi bỏ vào thùng chứa cho tan.
Cô đọc những cuốn sách của dì Ellen khi dì ra ngoài. Cô học tiếng Anh ở Nunivak rất xuất sắc. Cô đọc sách say sưa, háo hức tìm hiểu về thế giới bên ngoài. Thỉnh thoảng khi không có ai ở xung quanh, cô lại đi dọc
con sông và lắng nghe tiếng đàn sói của mình. Có lần cô nghe tiếng Kapu, và ngó xung quanh xem Kapugen đã ra ngoài chưa, cô khum hai bàn tay và hú rồi sủa một tiếng cảnh báo. Kapu đáp lại bằng sự im lặng. Nó đã nhận được thông điệp.
Một hôm khi Julie đang nạo một tấm da hải cẩu còn nguyên lông dùng để làm ủng, một giọng nói rất mới vang lên qua bộ đàm CB.
- Xin chào, Kapugen. Chào chú.
- Xin chào, Peter Sugluk - Kapugen nói. - Cậu về rồi đấy à?
- Cháu về rồi - người kia nói. - Và cháu kiếm được hai cái áo len qivit[3] mà mẹ Marie nhờ cháu mang tới cho chú.
Julie nhớ Uma cho cô biết rằng phụ nữ ở Kangik đan áo len và khăn quàng từ lớp lông tơ ấm áp nhẹ như lông vũ của bò xạ. Bà ấy nói, Kapugen bán những món đồ vô cùng ấm áp này cho thương nhân ở Anchorage và Fairbanks với giá rất cao, hàng trăm đô la.
- Mời cậu - Kapugen nói, và quay sang Julie - Peter Sugluk là con nuôi cộng sự làm ăn của bố.
- Anh ấy nói bằng giọng rất lạ - Julie nói.
- Không lạ lắm đâu. Cậu ấy nói tiếng Yupik hệt chúng ta, không phải tiếng Inupiat như những người ở Barrow và Mũi Hy Vọng.
Tiếng Eskimo có hai nhánh. Yuk, hay Yupik, được nói ở tây nam Alaska và Siberia. Inuk, hay Inupiat, được nói ở khắp bắc Alaska, Canada, và Greenland. Julie học tiếng Yupik ở Nunivak và tiếng Inupiat ở Barrow. Mặc dù cô hiểu Peter vì anh nói tiếng Yupik, nhưng cô vẫn không tài nào xác định được giọng của anh. Cô thắc mắc không rõ anh từ đâu đến.
Chẳng mấy chốc, có tiếng gõ lên cánh cửa gian sảnh qanitchaq bên trong.
- Vào đi - Kapugen gọi, và Peter Sugluk bước vào gian buồng ấm áp.
- Chào chú, Kapugen - anh nói, và liếc nhìn Julie. - Hẳn em là Julie. Chào em.
Nụ cười của anh thân thiện và quyến rũ.
Julie nhìn lên một chàng trai Eskimo có gương mặt màu đồng. Anh ấy cao ráo. Mũi anh thẳng, lưỡng quyền cao, và đôi mắt như hai nửa vầng trăng sáng dưới đôi mày đen. Anh mặc chiếc áo chùng da tuần lộc bên trên chiếc quần dài bó bằng da. Đôi ủng maklak của anh bằng da gấu bắc cực, viền hình chó kéo xe bằng da dê màu đen và trắng. Những cái đuôi chồn ermine chót đen nhảy nhót dọc viền tay áo và đôi ủng khi anh di chuyển. Trông anh già dặn so với Julie, có lẽ mười tám hay mười chín nếu so với tuổi mười bốn sắp sang mười lăm của cô. Cô nhìn xuống tấm da hải cẩu của mình và quay lại công việc nạo da.
- Những gì người ta nói đúng thật - cô nghe thấy Peter nói. - Em xinh thật.
Julie vẫn tiếp tục làm việc. Cô không hề muốn nổi tiếng nhờ sắc đẹp, mà phải bằng trí tuệ và sự kiên cường của mình, những phẩm chất Eskimo. Cô không nhìn lên cho tới khi anh mở cửa và đi ra, nhưng cô nghĩ cô đã nhìn thấy anh rập một ngón chân và giơ bàn tay trong động tác nhảy biểu thị cho sự ăn mừng.
°°°
Hai tuần trôi qua. Ban ngày chuyển sang màu ngọc lam khi trái đất nghiêng dần về phía mặt trời. Đến lúc quả cầu đỏ rực như máu xuất hiện phía chân trời vào ngày hai mươi hai tháng Một, Julie đã cảm thấy thoải mái ở ngôi nhà và ngôi làng mới của mình.
Một hôm khi dì Ellen đang dạy ở trường và bố Kapugen ngồi bên bàn nghiên cứu đống giấy tờ, cô tạm ngừng công việc và đứng trước mặt ông.
- Aapa - cô nói khẽ - con đã đi cả một thời gian dài trên lãnh nguyên và con đã tiến sâu vào một thế giới trong mơ với đàn sói. Giờ con đã tỉnh giấc. Con có thể giúp gì cho bố?
- Tốt lắm rồi - ông nói, nhìn lên cô. Nhận thấy cô chăm chú xem chỗ giấy tờ ông đang xử lý, ông bèn nói. - Những giấy tờ này là hồ sơ đàn bò xạ của nhà ta. Bác Malek, cậu Peter, và bố chăm sóc chúng cho ngân hàng ở Fairbanks. Ngân hàng cấp tiền cho công việc kinh doanh của chúng ta.
- Công việc kinh doanh?
- Giờ tất cả các làng Eskimo đều thành công ty rồi - Kapugen nói và đứng lên. - Không như người Mỹ da đỏ sống trong các khu bảo tồn dưới sự giám sát của chính phủ, chúng ta tự kinh doanh để sống. Người dân chúng ta nắm giữ cổ phần trong công ty làng và cùng chia lợi nhuận.
Những lời này không có ý nghĩa gì với Julie, nhưng dường như Kapugen nghĩ điều đó rất quan trọng nên cô vẫn nghe.
- Công ty Kangik Inupiat khá lớn nhé - ông nói, chỉ vào những con số trong cuốn sổ. - Chúng ta kinh doanh bò xạ, có một công ty xây dựng, một nhà kho, và một công ty phát điện. Chúng ta cũng có tiền nhờ dầu mỏ lấy từ phần đất của chúng ta.
Cô vẫn không có ý kiến gì, cho nên Kapugen đứng lên và nắm lấy tay cô.
- Miyax, con phải học cách đi săn.
- Con biết săn - cô trả lời. - Con có thể bẫy được chim ptarmigan[4] và thỏ chân tuyết.
- Con phải học bắn súng nữa - ông nói. - Chúng ta cần con. Kangik
gần như là một ngôi làng bỏ hoang. Rất nhiều nhà không có người, thấy không. Tuần lộc đã hai năm rồi không quay trở lại chỗ chúng ta, và mọi người bị đói. Nhiều người đã phải chuyển đến Wainwright và Barrow.
- Thế thì tệ quá - Julie nói.
- Chúng ta đang gặp khó khăn - ông nói. - Tình hình vậy đấy.
Kapugen đi vào phòng ngủ. Ông trở ra cùng một khẩu súng trường .22[5] và bẻ nòng súng mở ra.
- Thật sự ở Kangik khó khăn lắm ạ? - Julie hỏi. - Con đã gặp cô chú Uma và Atik bạn của bố phía dòng sông. Cô Uma nói rằng người làng Kangik kiếm được rất nhiều tiền nhờ đan qivit bò xạ thành găng tay và áo len. Cô ấy nói bố nuôi bò xạ để giúp làng; và rằng bố là một thủ lĩnh rất cừ.
- Uma nói vui thôi - Kapugen nói và mỉm cười. - Cô ấy được nuôi dạy để tôn sùng thủ lĩnh bất kể người đó làm gì.
- Con hiểu điều đó - Julie nói khẽ.
- Con rất hiểu, phải - ông nói, và nhìn chiếc mũ bảo hộ cùng cặp kính. - Con rất hiểu, phải - ông nhắc lại. Gương mặt Kapugen nói với Julie rằng cha cô giờ biết rằng con sói ông bắn từ trên máy bay là bạn của cô. Trông ông rất không vui.
- Lương thực ở Kangik rất khan hiếm - ông nói, vội vã thay đổi chủ đề.
- Bố không thể bay máy bay và kiếm thực phẩm của người gussak cho cả làng ư?
- Khi tuần lộc không trở lại, không thực phẩm nào của người da trắng có thể giúp chúng ta khỏe mạnh đâu.
- Cá thì sao? - Cô hỏi.
- Chúng ta cũng cần thịt và mỡ để sống sót qua mùa lạnh - ông đáp. - Và chẳng có thứ gì ngon bằng tuần lộc và cá voi.
Julie mỉm cười:
- Đúng thế ạ.
Kapugen nhét vài viên đạn vào khẩu .22 và bật chốt an toàn để khẩu súng không cướp cò. Ông đưa nó cho cô. Họ đi ra gian sảnh qanitchaq và mặc những quần áo ấm nhất. Kapugen nhấc khẩu súng săn gấu của mình. Ông choàng sợi dây đeo quanh cổ và cho khẩu súng yên vị trên lưng. Khi Julie mặc đồ xong, ông mở cửa. Khí lạnh hút hơi thở từ miệng họ và vả tuyết vào mặt họ.
Mặt trời vừa mọc, mặc dù đã mười giờ rồi. Ánh sáng màu sẫm soi tỏ đường võng chân trời trong khung cảnh dòng sông Avalik đóng băng, và xa hơn cái đĩa phẳng mênh mông kia là Vịnh Kuk. Nhưng với khu làng, tức là một nhóm vài căn nhà gỗ nhỏ bé dựng trên cọc gỗ để ngăn không làm tan lớp đất đóng băng vĩnh cửu, thì tất cả chỉ là lãnh nguyên trơ trụi.
Julie nhìn làng Kangik và nín thở. Ngôi làng, trông có vẻ đầy sức sống vào cái đêm đầu tiên cô nhìn thấy nó, thật mộc mạc và ảm đạm. Vài nhà đang đóng thùng để chờ xe gạt tuyết và xe tải chở đến những ngôi làng dọc bờ biển Bắc Cực. Nhiều nhà đã bị bưng kín bằng ván và bỏ không.
Có tiếng rù rù đều đều khiến cô chú ý.
- Cái gì vậy? - Julie hỏi. - Con thường nghe thấy tiếng này ban đêm.
- Máy phát điện đấy - Kapugen nói. - Nó chạy bằng khí đốt và tạo ra điện cho bộ đàm, lò sưởi và bóng đèn của chúng ta.
Tiếng máy phát kêu ầm ì, nghe như một con gấu đang ngủ, tạo cho ngôi làng lạnh lẽo, tĩnh mịch một kiểu đời sống rất lạ. Julie nghe thấy một
âm thanh khác. Một tiếng chó sủa, một cánh cửa kẽo kẹt xoay trên bản lề, và một giọng nói vọng ra. Những âm thanh ấy bị cái lạnh dưới không độ nuốt chửng. Cô chăm chú lắng nghe hơn. Không hề có tiếng Kapu.
Kapugen ra hiệu cho cô theo ông, và họ đi bộ về phía đông trên lớp băng mặt sông trong ánh cực quang mờ mờ. Sau một quãng ngắn, cả hai cha con dừng lại và nhìn vầng dương soi sáng lớp tuyết màu lam-lục chẳng hề có cây cối.
- Con sẽ giống như dì Ellen, bố nghĩ vậy, phải - Kapugen nói sau một lúc.
Julie không đáp lời.
Họ cứ đi ngược dòng sông. Bước chân của họ giẫm nát băng thành tuyết vụn. Tuyết kêu lạo xạo như thủy tinh, bay cuộn lên, và nhẹ nhàng đáp xuống, tạo thành một lối mòn bột mịn đằng sau họ. Mặt trời dịch chuyển dọc đường chân trời suốt gần một giờ, và giờ nó đang lặn. Kapugen quay sang Julie.
- Chúng ta sẽ săn cáo - ông nói. - Có mấy con sống gần bãi quây bò xạ. Hãy nhìn những gì bố làm nhé. Bố học cách đi săn theo dấu ủng của ông nội con. Đó là cách tốt nhất.
Julie bước theo dấu ủng của ông và theo ông rời khỏi mặt sông băng đi ra lãnh nguyên. Màn sương băng xuất hiện lúc chiều tà bắt đầu dày lên.
Sau một quãng đi bộ ngắn, Kapugen mở một cánh cổng, và ông cùng Julie tiến vào một bãi quây gia súc rất rộng. Những hình thù trông như đá tảng đen thẫm lù lù trong màn sương lam. Mười một con bò xạ trợn mắt nhìn họ. Hơi thở bị đóng băng tạo thành những đám mây nhỏ lơ lửng phía trên đầu chúng.
Có tiếng sói hú. Julie cảnh giác nhìn Kapugen.
- Cuộc săn kết thúc rồi - ông nói. - Cáo sẽ trốn sạch khi có tiếng sói hú.
- Ee-lie, Kapu - Julie thì thầm với con sói - tránh đi, tránh xa, thật xa vào.
Kapugen và Julie đi bộ về nhà.
Sương băng xóa nhòa cảnh vật, Julie và Kapugen phải mất nhiều ngày mới có thể trở lại bãi quây gia súc để săn cáo. Họ đi bộ qua cả một dải thiên hà toàn những tinh thể băng lấp lánh lơ lửng trên lãnh nguyên tĩnh mịch. Kapugen dẫn đường, còn Julie bước theo dấu chân của ông.
Sau một quãng đi dài, Kapugen dừng lại. Ông chăm chú nhìn một đốm phía xa, và Julie nhìn theo ánh mắt ông. Một cái bóng xuất hiện rồi biến mất và lại xuất hiện như một ánh sao trên mặt nước.
- Nâng súng của con lên - Kapugen thì thào. - Khi con cáo ngừng di chuyển, đặt đầu ruồi phía trước vào rãnh ở khe ngắm sau. Tháo chốt an toàn và kéo cò thật chậm.
Julie bắn và trượt mục tiêu. Kapugen đi tới, ngoái đầu nhìn bên trái bên phải khi ông rà quét khung cảnh toàn tuyết trắng. Khẩu súng của ông lủng lẳng trên lưng song song với mặt đất; hai tay ông nắm chặt đặt phía sau. Ông chú ý đến những chuyển động khẽ khàng nhất và những âm thanh nhạt nhòa nhất. Kapugen đi săn như một con sói, và giống một con sói, ông biết khi nào có con mồi. Ông dừng lại trong bãi quây gia súc để kiểm tra đàn uminmak.
Khi ông quay về nhà, ông hất tuyết trở lại sau. Tuyết không dày lắm, gió đã bóc lớp tuyết lãnh nguyên mỏng để lộ ra cỏ và lách. Mùa này, lãnh nguyên Bắc Cực là ngôi nhà tuyệt hảo của giống bò xạ ăn cỏ được mặc quần áo chống rét. Mũi ủng maklak của Kapugen chạm phải một góc bạch
dương cổ chỉ cao độ một gang tay. Ông cúi xuống. Xung quanh cái cây mọc lên những cây việt quất, mấy cây trà Labrador, và vài cây liễu lùn.
- Thức ăn ưa thích của uminmak - ông nói với Julie, rồi nhìn mấy cái cây chăm chú hơn. - Chúng đã bị ăn sát đến tận rễ. Bò cũng đang cạn kiệt thức ăn tự nhiên rồi.
- Cỏ phía ngoài hàng rào cao hơn - Julie nói. - Sao bố không thả rông chúng?
- Ở trong này chúng ta có thể dễ dàng gom qivit - Kapugen đáp. - Và như thế sói sẽ không giết được bò - ông thẳng thừng nói thêm.
Julie cảm thấy máu chạy khắp người cô. Cô nhắm mắt lại và khó nhọc nuốt khan.
- Chẳng mấy ngày nữa bố sẽ phải bay tới Barrow - Kapugen nói - để mua linh lăng viên cho uminmak. Chúng cần thêm thức ăn.
Ông đi tiếp. Julie lại bước theo dấu ủng của ông.
- Một bộ da cáo trắng - Kapugen ngoái lại nói với cô - có giá năm mươi đô la ở Fairbanks đấy.
- Năm mươi đô la - Julie nhắc lại với chính mình, và nhìn lại phía làng. Suốt bảy tháng qua, cô chẳng hề nghĩ về ai khác ngoài chính cô và đàn sói của mình. Suốt bảy tháng đằng đẵng cô hướng mọi suy nghĩ của mình vào trong theo hướng phải sống sót. Giờ đây, khi cô đi phía sau cha mình, cô biết đã đến lúc phải trở lại làm một người Eskimo, một người giúp đỡ cho gia đình và cộng đồng làng.
Cô sẽ không bắn trượt con cáo tiếp theo.
Julie không chỉ theo chân Kapugen, cô nhìn theo nơi ông nhìn, cô đánh hơi những làn gió mà ông đánh hơi. Khi ông dừng và nghe ngóng, cô cũng dừng và lắng nghe.
Một con ptarmigan vụt ra khỏi tuyết và biến mất phía sau đám mây băng nó tạo ra.
- Họ trả bao nhiêu cho một con ptarmigan? - Cô hỏi.
- Mười đô la - Kapugen nói.
Cô nghĩ đến con gấu trắng to lớn mà cô đã thấy ở Barrow. Hẳn bộ da trắng muốt của nó rất có giá, nó có thể nuôi sống cả làng Kangik.
- Thế họ trả bao nhiêu cho nanuq? - Cô hỏi át tiếng gió.
- Chẳng được gì - Kapugen trả lời. - Chỉ có người Eskimo mới bắtnanup, gấu trắng, và chúng ta không thể bán nó. Nó tự hiến cho chúng ta. Chúng ta dành nó cho người của mình. Luôn luôn như vậy.
Julie gật đầu.
Họ đến một ngôi nhà tạm có ba mặt trong bãi quây thả bò xạ. Tuyết đã chất đống cao ngất xung quanh cái cấu trúc vững chãi bằng gỗ dán nặng trịch. Nó được lợp bằng tôn múi.
- Đây là nơi chúng ta trữ cỏ khô và linh lăng viên cho uminmak - Kapugen nói. - Nó giữ cho thực phẩm khỏi bị vùi lấp dưới những đống tuyết.
Ông nhìn lên và mỉm cười. Julie cũng nhìn lên. Một con bò đực lẻ loi đang chạy về phía họ. Cô liếc nhìn cha mình. Kapugen chẳng có vẻ gì hốt hoảng, và chắc chắn rồi, khi con bò chỉ còn cách vài thước, nó dừng lại. Nó nhìn họ chăm chú. Từng mảng qivit kéo lê thành vệt từ vai nó.
Con bò rất to nhưng không quá cao. Nó chỉ cao đến ngực Kapugen. Những thớ cơ ở cái cổ to tướng của nó tạo thành một khối u trên lưng cao vượt đầu nó. Đuôi nó ngắn thun lủn, lông nó dài đến mức quét trên mặt đất như một cái váy. Chân nó như những con dao chặt to tướng. Một khối bướu sừng thù lù, đầu mút cong chĩa về phía trước, chạm nhau ở giữa trán
nó như một chiếc mũ bảo hiểm. Con vật như khối đá tảng sừng sững trông chẳng khác gì những con voi ma mút lông lá của quá khứ. Nó khụt khịt.
- Một trong những loài động vật cổ cuối cùng đấy - Kapugen nói. - Người da trắng gọi nó là giống ức linh. Còn với người Eskimo thì nó là uminmak, loài vật sinh ra trong băng giá, gió rét và tuyết lạnh. - Kapugen chìa một nhánh việt quất cho con vật. - Đã từng có hàng triệu con uminmak ở bắc Alaska - ông nói tiếp. - Khi người Eskimo có súng, họ đã bắn hết sạch chúng. Sạch sành sanh. Chính phủ Hoa Kỳ cố gắng phục hồi chúng. Họ có ba mươi ba con non từ Greenland và thả chúng tại Nunivak năm 1930. Khi đàn đó đủ lớn, họ đưa một số con non tới Fairbanks và sau đó thả chúng tự do. Giờ chúng ta có một vài con hoang dã ở Dốc Bắc. Chính phủ giúp chúng ta đưa con đực và con non tới Kangik để gây dựng ngành công nghiệp qivit.
Con bò khụt khịt và gõ móng xuống mặt đất, rồi giụi đầu vào chân trước.
- Nó đang tức giận à? - Julie hỏi.
- Nó đang giụi một tuyến gần mắt nó vào chân. Mùi từ tuyến này cảnh báo cho đàn. Nó không phải là xạ hương, như người da trắng vẫn gọi thế. Nó có mùi sảng khoái và sạch, như tuyết vậy.
- Thế nó sợ gì vậy? - Julie hỏi.
- Nó đang là con mồi - Kapugen nói. - Nó lo ngại với tất cả; con, bố, súng ống của chúng ta, và cả các mùi trong gió nữa. - Kapugen đánh hơi và nheo mắt nhìn tuyết trắng lóa mắt. - Nó nói rằng gấu xám đã tỉnh giấc rồi.
- Gấu xám ư? - Julie hỏi.
- Con aklaq thức giấc hồi tuần trước trong một đợt ấm trời - ông nói.
- Nó có hai con non độ một tuổi và chúng đều đói. Nó đang ở gần đàn bò xạ, phải - ông nói.
- Như thế không hay đâu. Cũng như sói vậy, gấu xám có thể giết chếtuminmak. Uminmak nhỏ hơn gấu và không khôn ngoan lắm.
Kapugen khum tay đặt sau tai.
- Đàn bò đang tới - ông nói, và mỉm cười hãnh diện. Một đốm băng sáng lóe lên và những con bò xạ khác xuất hiện, di chuyển tuần tự như thể có gắn bánh xe và chẳng khác gì được gió đẩy đi. Chúng là một đội hình vững chãi và gắn kết. Những con vật chậm bước lại, ngập ngừng, và rồi xoay vòng tròn như một cơn lốc xoáy, dồn những con bê một tuổi và các con non vào trung tâm đàn để bảo vệ.
- Chúng đang báo động - Kapugen nói và nhìn quanh.
- Gấu à? - Julie hỏi, rất lo ông sẽ nói là sói.
- Bố không rõ - ông đáp.
Đàn bò khá gần, và Julie có thể nhận ra sự khác biệt giữa con đực và con cái. Những con cái nhỏ hơn, sừng của chúng không giao nhau trước trán, như sừng những con đực. Cả hai giống đều có mắt rất to lồi ra khỏi đầu đến vài phân. Với những cặp mắt này, chúng có thể nhìn sang hai bên, phía trước, phía sau và chúng có thể nhìn được trong bóng tối cũng như trong ánh sáng chói mắt của băng quang, uminmak là những sinh vật quen với bóng tối, mặt trời và cái lạnh ghê gớm.
Kapugen giả tiếng bò.
Một con cái rời khỏi đàn và tiến về phía ông. Nó ngập ngừng khi nhìn thấy Julie. Kapugen chậm rãi bước tới chỗ nó, phát ra những âm thanh nhẹ nhàng. Khi nó đủ gần, ông vươn tay và gãi gãi đầu nó.
- Đây là Siku, Miyax - ông nói. - Bố tìm thấy nó trên lãnh nguyên. Mẹ
nó vừa bị một đàn sói giết chết. Siku đang cựa quậy trong bụng mẹ nó. Bố đã mổ bụng bò mẹ và nhấc con bò xạ nhỏ bé này đặt lên băng - lên siku; rồi bố bọc nó vào một tấm da tuần lộc và đưa nó về nhà. Bố nuôi nó bằng bình, nó đã sống và cho bố ý tưởng nuôi bò xạ.
- Nuôi chúng có khó không ạ? - Julie hỏi.
- Không khó lắm - Kapugen trả lời. - Có thời, cách đây không lâu, khi tuần lộc khan hiếm, người làng Kangik, Wainwright, và Barrow đã nuôi tuần lộc. Bác Malek chính là một người chăn tuần lộc. Bố gặp bác ấy và kể với bác ấy ước mơ của bố. Bác ấy đến Kangik tham gia cùng bố. Bang Alaska cung cấp cho chúng ta thêm vài con bò để gộp cùng với Siku. Vừa hay chúng ta có được một đàn bò và thu gom qivit.
Julie chậm rãi vươn tay và chạm vào Siku. Đôi mắt to đảo theo cô, nhưng con bò không di chuyển.
- Siku - ông nói, cười và xoa mạnh đầu nó. - Mày đã khởi đầu cho tất cả.
Con bò khụt khịt và quay lại đàn. Đàn uminmak bỏ đội hình vòng tròn pháo đài và gặm cỏ.
- Bố có bao nhiêu con bò xạ, Aapa? - Julie hỏi.
- Bốn con đực và bảy con cái cùng bê một tuổi. Không nhiều, nhưng đàn đang phát triển. Vào tháng Năm hoặc Sáu sẽ có thêm bốn con non nếu như sói không ăn thịt chúng. - Ông nhìn thẳng vào mắt cô.
Julie không nói. Cô đang nghĩ đến cái ngày trên lãnh nguyên khi một chiếc máy bay lao ra khỏi màn sương mù, và với tiếng súng nổ, giết chết Amaroq, thủ lĩnh thông minh và tốt bụng của đàn sói.
Cô quay đi khỏi ánh mắt của Kapugen. Ông đang nói với cô ông đã giết con sói để bảo vệ bò xạ. Ông đang nghĩ đến những người của mình,
ánh mắt ông nói vậy, và ánh mắt ấy nói thêm rằng ông sẽ lại làm vậy nếu ông phải làm.
Julie thấy sợ cho Kapu và đàn của nó. Đàn tuần lộc ở đâu thì cô đều rất hy vọng rằng đàn sói của cô sẽ ở đó.
Mặt trời đã mọc được hai tiếng và giờ đang chìm xuống phía sau đường chân trời mù mịt sương băng. Nó rực lên một màu đỏ chói chang, rồi biến mất. Buổi chạng vạng kéo dài của miền cực bao trùm lên đỉnh của thế giới khi Julie và Kapugen quay về nhà. Trong quãng thời gian ngắn ngủi đi bộ về làng, nhiệt độ giảm đến mười độ. Gió mạnh dần. Kapugen kéo một ít lông tơ từ phần cổ áo trùm parka, thấm ướt, và dựng đứng lên trong gió mạnh. Chiếc cổ áo uốn cong và đông cứng thành một lưỡi liềm cong.
- Gió thổi từ hướng tây - ông nói. - Ngày mai sẽ rất êm ả và quang đãng.
Ông đẩy cặp kính râm của mình ra sau và nhìn lên bầu trời. - Nếu gió không đổi đêm nay, ngày mai bố sẽ bay đi Barrow. - Để kiếm thức ăn cho uminmak ạ?
- Nếu bố có thời gian. Ngày mai bố phải đưa dì đi gặp bác sĩ. - Dì Ellen ốm ạ? - Cô hỏi đầy quan tâm.
- Dì đang có bầu - Kapugen đáp, và cười tươi, hàm răng của ông sáng trắng ngay cả trong buổi chạng vạng tối tăm.
Có bầu, Julie nghĩ. Một em bé sắp chào đời. Cô vừa vui vừa không vui. Ý nghĩ về một em bé gợi lên những cảm giác ấm áp trong cô, nhưng cô cũng biết mình tìm thấy cha chỉ để lại mất ông lần nữa. Cô đi bên cạnh trong im lặng. Những tiếng sủa xa xa vang lên trong buổi nhá nhem tím thẫm.
- Chó - Julie nói. - Con thường nghe thấy chúng sủa. Là chó của bố à? - Bố có cả một đàn - ông nói.
- Nhưng bố có xe máy trượt tuyết mà - Julie nói. - Bố đâu cần đến cả đàn chó.
- Bố có xe máy trượt tuyết - ông trả lời. - Nhưng bố yêu chó.
- Con cũng yêu chó - cô nói, nghĩ đến những con vật tuyệt vời là hậu duệ của chó sói.
Ở phía bắc thị trấn, họ đến một gian lều Quonset[6] lớn. Lều hướng về phía bình nguyên lộng gió bằng phẳng được che chắn bằng một tấm dài toàn những sợi xích sắt.
- Lều máy bay - Kapugen nói, chỉ về phía nhà để máy bay. Đây là nơi đặt chiếc máy bay của cha cô. - Đường băng máy bay - ông nói thêm, ra hiệu về phía đường băng bằng thép tầm đục lỗ. - Bố phải kiểm tra máy bay chuẩn bị cho ngày mai. Con có muốn xem không?
Cô thật sự không muốn. Cô không muốn thấy cái máy bay đã bắn đi những phát đạn chết chóc - không hề. Cô vẫn cảm nhận được nỗi đau về cái chết của Amaroq. Bên trong cái lều iglu đó là đôi cánh của một người cha mà cô không hề biết.
Cô tháo găng và thò tay vào túi. Ở đó cô vẫn giữ totem của Amaroq mà cô đẽo để giữ gìn linh hồn nó sau khi nó chết. Cô nắm chặt totem và cảm thấy thoải mái hơn.
- Vào chứ? - Kapugen hỏi.
- Con vẫn đang đi săn - cô nói. - Một con ptarmigan sẽ mang lại mười đô la và bố có thể mua thức ăn cho Siku.
- Trong đó bố có một kho báu cho con - ông nói, cười rất tươi chỉ về
phía lều Quonset. Julie lùi lại. Cô không muốn nhìn cái máy bay đó. - Bố có chồn ermine - ông nói, chìa tay nắm tay cô. - Những con chồn trắng lốp tuyệt đẹp. Chúng dành để cho con làm gì đó hợp với con. - Mắt ông nói lên tình yêu thương của ông dành cho cô. - Đi xem chúng nào. Chúng ở trong một cái thùng ngay cửa. Bố định bán cho tay buôn da lông thú ở Fairbanks, nhưng khi con quay về nhà, bố muốn đem chúng bọc quanh người con. Chúng là của con.
Kapugen mở một cánh cửa nhỏ trên cánh cửa to của lều Quonset và giữ yên cho Julie.
- Con phải học cách đi săn - cô nói, lui bước. - Con sẽ mang về cho bố một con cáo hoặc một con ptarmigan. Sau đó con sẽ tới xem kho báu của con.
Cô mỉm cười và vòng ra góc lều Quonset. Kapugen đi vào bên trong và đóng cửa lại.
Một con sói tru lên.
Julie nhắm mắt lại và ước rằng ngày mai sẽ quang đãng và không có gió để cái con chim sắt đưa bố Kapugen và dì Ellen tới Barrow. Một ngày ở một mình sẽ cho cô cơ hội gọi đàn sói của mình và bảo chúng tránh xa khỏi người thợ săn sẽ bảo vệ đàn bò của mình bằng mọi giá.
°°°
Một tiếng trước khi Kapugen lên đường đi Barrow, gió thay đổi.
Mây tối sầm bầu trời phía trên làng Kangik, và Kapugen thay đổi kế hoạch.
- Hôm nay chúng ta sẽ ở nhà - ông nói, nhìn ra ngoài cửa sổ khi một trận gió lốc thổi tuyết trắng xóa cả thị trấn.
Kế hoạch của Julie cũng thay đổi. Cô không thể cảnh báo cho Kapu. Cô nằm bẹp trên chiếc iglek và nghĩ về đàn sói của mình. Chúng sẽ thu mình lại trong những đụn tuyết, mũi rúc vào đuôi, chân thu lại dưới mình. Chẳng mấy chốc chúng sẽ trắng như tuyết. Cô mỉm cười. Hôm nay chúng sẽ không săn đuổi bò xạ.
Julie nhặt chiếc áo trùm parka mà cô khâu để thay cho chiếc áo cũ của mình và bắt đầu một đường khâu nối. Cô sẽ lót áo bằng lông tuần lộc, lớp lót tốt nhất. Khi xong, cô có thể ra ngoài trong nhiệt độ âm năm mươi độ và ấm áp chẳng kém gì đàn sói của mình.
Dì Ellen, vốn đã ăn mặc sẵn sàng cho chuyến đi tới Barrow, đã thay lại qaliguuraq, bộ váy Eskimo dài có những diềm xếp nếp sâu ở hai bên. Rồi dì bật bộ đàm CB.
- Các bạn nhỏ ở Kangik - cô nói bằng giọng Mỹ lanh lảnh. - Hôm nay vẫn có buổi học. Các con có nghe thấy cô không, Roy, Ernie, Edna, Benjamin, Larry? Hôm nay sẽ vẫn đi học nhé. Hết.
Dì bật công tắc nhận.
- Chào cô, cô Ellen, chào cô ạ - một giọng trẻ con vang lên. - Con nghe cô rất to và rõ ạ. Hôm nay đi học. Hết ạ.
Giọng thằng bé nghe rất sung sướng.
Dì Ellen với lấy túi sách vở và mở cửa sang gian sảnh qanitchaq. Khi dì đi qua iglek, lần đầu tiên Julie mới chú ý đến vóc dáng dì. Bụng dì tròn vo phình lên dưới chiếc váy qaliguuraq. Julie thắc mắc liệu em bé sẽ có mái tóc đỏ hay không.
Ra đến cửa, dì Ellen ngập ngừng và quay sang Kapugen.
- Anh Kapugen - dì nói, nhìn Julie - anh có thể hỏi xem Julie có muốn đến trường cùng em hôm nay không? Con bé không hiểu tiếng Anh. Làm
ơn nói với con bé em rất vui được đi cùng con.
- Miyax - ông nhẹ nhàng nói - minuaqtugvik?
Julie lắc đầu để trả lời không.
Đôi mắt xám nhạt của dì Ellen ánh lên. Dì đề nghị bố Kapugen cứ kiên nhẫn. Ông mỉm cười và dịu dàng hôn lên má dì, nhưng không bắt Julie phải tuân lệnh.
Dì Ellen nhún vai. Khi dì mở cửa ngoài, gió xộc vào, khua cánh cửa trong kêu lạch cạch; rồi dì Ellen đi. Julie và Kapugen ngồi lại trong im lặng. Kapugen nhặt một cuốn sổ bên trong ông ghi những món đồ mà người làng nhờ ông bán ở Fairbanks. Ông mở sổ và chậm rãi đóng lại.
- Ta đi câu đi, Miyax - ông nói. - Chúng ta có thể câu cá trong bão mà. Nhà ta cần thêm cá cho đàn chó và cả dân làng nữa.
Julie tuột xuống sàn.
- Con thích việc đó - cô nói.
- Khi ta có nhiều lqaluk - Kapugen nói - chúng ta sẽ cất giữ trong hầm thú săn của bố.
Julie gật đầu. Những cái hầm đào sâu trong lớp đất đóng băng vĩnh cửu giữ cho cá và thú săn đông cứng cả mùa đông lẫn mùa hè.
- Khi nào bố con ta xong - ông nói tiếp - con sẽ đưa đàn chó đến trại vịt tập chạy chứ? Chúng cần luyện tập.
- Con thích làm việc đó - Julie nói, cố gắng không tỏ ra quá háo hức. Đây là cơ hội để ra ngoài lãnh nguyên và hú-sủa cảnh báo cho đàn sói của cô tránh đi.
- Bố sẽ câu cá cùng con cho tới buổi trưa - Kapugen nói khi cô chuẩn bị. - Sau đó bố sẽ phải về. Bố đang đợi một cuộc gọi vào buổi trưa từ Chủ
tịch Ban giám đốc Công ty Kangik Inupiat.
- Làm sao con tìm được trại vịt? - Julie hỏi. Cô chẳng màng tới cái chức danh quyền uy nghe có vẻ cao xa có khả năng kéo cha cô ngừng câu cá để về nhà.
- Đàn chó biết đường mà - ông nói. - Con chó đen-trắng có lông mày trắng là CB, chó đầu đàn. Nó sẽ đưa con tới đó và quay về.
- Thế thì tốt quá - Julie nói, và mặc áo trùm parka ấm áp rồi đi ủng.
Trong màn tuyết rơi yên tĩnh, Kapugen và Julie mang lưới đánh cá và dao đẽo băng ra mặt sông băng. Kapugen dùng con dao chuyên dụng của đàn ông cắt các khối tuyết và chất thành một bức tường chắn gió. Rồi ông mở vài cái hố trên lớp băng dày - chúng đã bị đóng băng kín kể từ lần sử dụng trước đó. Ông buộc chắc một đầu tấm lưới mang cá[7] bên trên băng, rồi thả lưới vào một hố. Ông đi tới hố tiếp theo, khua một cây sào dài có móc vào bên trong, móc tấm lưới và kéo lên. Ông buộc chắc một bên lưới vào một cây cọc và lại thả lưới xuống. Miệng tự ư ử, ông đi từ hố này sang hố khác. Loáng cái ông đã tới hố cuối cùng và buộc chắc đoạn cuối lưới vào một cây cọc khác. Rồi ông quay trở lại dọc theo đường đó và nhổ hết các cọc trừ cái đầu tiên và cuối cùng. Tấm lưới buông căng bên dưới băng.
- Ông nội bố dạy bố cách thả lưới - ông nói. - Và bố của ông lại dạy ông. Truyền lại tới con của con, Miyax ạ. Đó là một cách rất tốt, phải.
- Con sẽ làm vậy, Aapa - cô nói. - Con sẽ làm.
Kapugen trải tấm da tuần lộc và họ ngồi trong nhà tạm ẩn làm bằng những khối tuyết ngắm mây, dòng sông trắng xóa và cả vùng đất.
Đợi một lúc lâu Kapugen lắc nhẹ tấm lưới và cảm thấy có cá. Ông cùng Julie kéo lưới qua hố đầu tiên, rộng hơn những hố còn lại. Khoảng
sáu mươi con cá bạc nhảy tưng tưng trên băng. Kapugen gỡ chúng khỏi lưới bằng tay trần và nhét cả vào một chiếc túi dây bện. Julie kéo túi vào hầm băng và thả xuống đó. Họ cùng bố trí lại lưới và ngồi trên tấm da tuần lộc. Với số que cành họ mang theo từ nhà, Kapugen nhóm một đống lửa nhỏ. Những bức tường trắng phản chiếu lại sức nóng của ngọn lửa, và chẳng mấy chốc họ đều thấy ấm hẳn. Julie lấy ra một ít thịt tuần lộc khô và một miếng maktak[8] cá voi đông cứng. Họ im lặng cùng ăn; nhìn tuyết rơi quanh mình.
Họ chuyện phiếm lúc đợi kéo thêm cá ra khỏi vùng nước tối dưới băng. Mùi hơi của cha mà cô còn nhớ thấm vào Julie, và cô thấy hoàn toàn hài lòng. Kapugen pha cho mỗi người một tách trà, và dường như giữa họ chưa bao giờ có nhiều năm dài chia xa.
Tuyết rơi nhẹ dần cho tới khi chỉ còn những chớp băng nhỏ xíu lơ lửng trong không khí. Ngay trước buổi trưa Kapugen quay về nhà để đợi cuộc điện thoại. Julie kéo thêm vài mẻ cá nữa và sau đó đi đóng cương cho đàn chó.
Cô tìm thấy sáu con chó kéo xe malamute Alaska của bố Kapugen đằng sau lều Quonset. Chúng nhiệt thành chào đón cô, rồi bật lên những tiếng sủa phấn khích khi cô lấy một bộ cương khỏi chiếc móc phía sau nhà để máy bay. Chúng biết chúng sắp được chạy. Mỗi con chó đều có tên ghi trên dây cương và cổ. Cô học thuộc tên chúng trước khi kéo xe trượt ra chỗ trống và buộc vào dây kéo. Cô căng dây kéo trên mặt tuyết, tìm cương của CB, và buộc vào nó. Tiếp đến cô cài bộ thắng trên xe trượt. Mỗi con chó mà cô đóng cương đều nhảy nhót và kéo dây cho tới khi cô thôi nói chuyện với chúng bằng tiếng Yupik mà nói với chúng bằng tiếng sói. Cô đóng rọ mõm chúng để cho chúng biết cô mới là người có quyền. Chúng nhìn cô vẻ tò mò và đứng yên. Cô phải quát con chó có tên Minnesota, mà cô đoán là con chó của dì Ellen. Khi việc đó không hiệu
quả, cô gầm gừ với nó và nhe răng ra. Minnesota lảng đi và thôi táp CB.
Julie ôm một con chó hiền lành, con Snowbird, rồi buộc vòng cổ nó vào dây kéo chính. Nó ư ử tỏ ý thân thiện. Khi tất cả đều được đóng cương nhưng cô chưa kịp bước lên vành trượt ở phía sau xe trượt, thì CB thình lình vọt về phía trước rất khỏe, nó kéo tung bộ thắng văng ra tuyết. Cả đàn ồ ra.
Julie chạy theo, túm lấy xe trượt, và nhảy lên xe, ném toàn bộ trọng lượng của mình lên bộ thắng, đạp cái ngạnh gỗ dài sâu xuống tuyết. Cả đàn dừng lại. Cô đi tới chỗ CB, hai tay vươn ra để làm cho cô trông to lớn và đầy sức hăm dọa. Cô áp miệng lên rọ mõm của nó, rồi nhìn thẳng vào mắt nó.
- Tao mới là chủ - cô nói. CB cúp đuôi và tai vẻ khuất phục, rồi liếm mặt cô. Cô cười, xoa tai nó, và chậm rãi đi đến phía sau xe trượt, sẵn sàng gầm gừ nếu CB nhúc nhích. Khi cô đi qua, các thành viên của đàn đều vẫy đuôi và ư ử với cô.
- Tớ cũng yêu các cậu - Julie nói, thấy hạnh phúc khi được nói chuyện với những người anh em họ này của đàn sói.
Khi cô đến đoạn cuối dây kéo, cô chậm rãi bước lên vành trượt lần nữa. CB và đàn của nó đều tôn trọng đợi lệnh. Julie kéo bộ thắng ra khỏi tuyết nhưng chưa ra mệnh lệnh đi. Đàn chó nhìn lại cô để xem có chuyện gì. Cô đứng thật cao, đầu ở tư thế uy quyền của Amaroq, con sói đã dẫn dắt bầy đàn của nó bằng thứ ngôn ngữ quyền lực im lặng này. Đàn chó nhìn và ve vẩy đuôi. Cô cười.
- Hut - cô cất tiếng, và cả đàn khởi hành.
Cô cho chúng dừng lại chỗ chiếc xuồng màu xanh của bố Kapugen để bảo đảm cô vẫn nắm quyền điều khiển. CB lại đột ngột xô tới trước. Julie
gầm gừ. Nó nhìn lại cô, mỉm cười với cái miệng há ra, và vẫy đuôi một lần. Nó đang nói rằng nó xin lỗi vì đã đùa bỡn cô.
Kapugen, lúc này đang đứng nhìn qua cửa sổ, thấy Julie và đàn chó đang nói chuyện. Ông cười tươi sung sướng. Tinh thần của thế giới hoang dã sống trong con gái ông.
- Hut - Julie lên tiếng, và CB cùng đàn lại bắt đầu chạy. Chẳng mấy chốc chúng đã bỏ làng Kangik phía sau.
Qua những đốm tuyết Julie quét mắt dọc đường chân trời tìm đàn sói của mình. Cô dừng lại chỗ cổng bãi quây gia súc để xem liệu chúng có ở đó không. Tuyết đã phủ kín những dấu chân hằn sâu của đàn bò. Dấu chân ăn nông của đàn sói cũng bị lấp kín.
- Hutl - Cô lên tiếng, và chiếc xe trượt giật mạnh về phía trước. Minnesota kéo về bên trái và chiếc xe chao nghiêng. Julie sắp ngã nhào thì CB giật về bên phải và chiếc xe hạ trở lại đều trên cả hai vành trượt. Chăm chú với công việc, nó dẫn đầu với bước chạy phù hợp cho một chuyến đi dài. Khi xe trượt lặng lẽ lướt ra lãnh nguyên bằng phẳng, Minnesota nhìn xéo lại Julie.
- Ha - Julie quát to với nó - tao vẫn ở đây. Mày không hất tao ngã được đâu.
Cô cười, Minnesota duỗi thẳng đuôi để nói rằng nó rất thất vọng, và CB tiếp tục dẫn đầu, giờ chăm chú lắng nghe hiệu lệnh của Julie. Cô không cần phải ra lệnh nữa. Con chó thính nhạy cứ theo lối mòn mặc dù lối ấy đã bị vùi dưới tuyết.
Đi thêm năm dặm, CB kéo Julie và xe trượt vào trại vịt. Nó dừng lại trước một cụm lều nhỏ chỗ một khúc cong của sông Avalik. Chúng gần như đã bị tuyết bay phủ kín.
Julie tháo đôi giày đạp tuyết trên xe trượt, đi vào chân, và lạch bạch đi tới một túp lều để tìm kiếm dấu đàn sói.
- Grrf. - Cô cứng người. Con gấu xám aklaq xuất hiện ngay góc và khụt khịt cảnh báo. Lóng ngóng trong đôi giày đạp tuyết, Julie chạy theo lối ngược lại khuất sau lều. Con gấu dừng lại và tìm kiếm cô. Julie cũng dừng lại. Giờ cô có túp lều ở giữa con gấu và xe trượt. Thò tay vào túi tìm một ít maktak chưa ăn, cô ném mạnh qua lều và chạy nhanh tới chỗ xe trượt.
Con gấu dừng lại và nghiến ngấu miếng mỡ cá voi.
- Hut! - Julie hô, túm chặt lấy những sợi dây của xe kéo. Đàn chó không cần đến mệnh lệnh thứ hai.
Chúng đã ngửi thấy mùi gấu xám. Chúng chạy. Julie tung mình lên xe trượt, tháo giày đạp tuyết, và leo lên tấm ván hậu để đứng hẳn trên vành trượt. Cô và đàn chó chạy khỏi con gấu được một phần tư dặm thì cô cho chúng dừng và nhìn lại phía sau. Không còn để tâm đến Julie nữa, con aklaq đang đào bới tuyết để tìm thêm maktak. Rất hài lòng, Julie cho đàn chó chạy tiếp.
- Dừng lại - Julie hô trước khi đàn chó chạy được thêm một phần tư dặm nữa. Chúng tuân lệnh, nhưng CB nhìn lại cô như thể nói cô mất trí mới dừng lại khi mùi gấu xám vẫn còn đẫm trong gió.
Julie đã nhìn thấy hai con gấu con một tuổi. Chúng đang đào bới gần một cái hang trên bờ sông Avalik. Kapugen nói đúng: Con gấu mẹ thức giấc sớm, có lẽ vì các con nó đói. Điều này không hay. Con amaq đói có thể dễ dàng phá đổ hàng rào bãi quây gia súc và bắt một con bò xạ.
Julie lại cho đàn chó chạy, hô “Haw” (trái) ngay khi chúng di chuyển. CB không để ý. Nó chạy thẳng về phía trước. Nó không muốn quay lại
chỗ lũ gấu.
- Haw - Julie hô thật lớn. Cuối cùng CB cũng kéo sang trái. Hai con chó đi đầu kéo sang phải. Chiếc xe lảo đảo và chao nghiêng.
- Haw - Julie gầm gừ. Cả đàn đi sang trái, nhưng quá trễ. Xe nghiêng đi.
- Gee - Julie hô, và đàn chó, dây kéo, cùng chiếc xe thăng bằng lại và di chuyển ổn định. Đến lúc này, họ đã ở cách xa mấy con gấu con to lớn, và CB giữ đúng lộ trình Julie đã ra lệnh cho nó, tiến về phía bắc lãnh nguyên.
Họ đang di chuyển rất ngon lành thì Minnesota gầm gừ với bạn nó, Snowbird, rồi nhảy xổ lên cổ nó. Julie hú lên một hiệu lệnh của sói. Chúng ngừng đánh nhau.
CB dẫn cả đàn vượt khung cảnh tuyết trắng suốt gần một giờ trong khi Julie quét nhìn khắp các gò và dốc băng để tìm đàn sói. Không nhìn thấy Kapu và đàn của nó ở đâu cả, không thấy bất kỳ con cáo hay con sói nào. Julie thấy rõ rằng nguồn thức ăn duy nhất cho sói ở khu vực mênh mông này là bò xạ.
Một con quạ bay trên đầu. Julie cho dừng đàn chó để quan sát sinh vật đưa tin này của lãnh nguyên. Đàn chó nằm xuống thở hổn hển, mặc dù nhiệt độ âm mười độ.
Chúng cạp tuyết để dịu bớt cơn khát.
Quạ, theo Julie biết, là loài đầu tiên tìm thấy con mồi đã bị sói hạ và chia sẻ bữa tiệc với chúng. Những thợ săn Eskimo biết câu chuyện này và cứ theo những con chim đen to lớn này để tìm chó sói. Julie đoán con chim đang bay này có thể nhìn thấy trong vòng mười lăm dặm ở mọi phía. Vì nó đang lượn vòng tròn và vỗ cánh nên chắc hẳn nó chưa nhìn thấy con
mồi của sói; nó sẽ bay thành một đường thẳng tới chỗ thức ăn. Con quạ vỗ cánh và nhào xuống, có nghĩa là nó đang săn lữ thử[9]. Julie thấy thất vọng. Ít nhất trong vòng mười lăm dặm ở mọi phía không hề có chó sói. Cô quay lại.
Có tiếng gầm gừ vọng đến tai cô từ phía một trảng tuyết và một chiếc xe máy trượt tuyết xuất hiện. Cô vẫy tay.
Người lái xe cho xe dừng lại bên cạnh xe trượt của Julie, nhưng phải cho tới khi người đàn ông đẩy cặp kính râm đi tuyết của mình ra sau thì cô mới nhận ra Atik.
- Thời tiết đẹp rồi - cô nói. - Chú đi săn à?
- Chú đang tìm kiếm tuần lộc - ông ấy nói. - Giờ lẽ ra những con cái đang tìm tới Kangik. Chúng đi trước những con đực. Chúng sẽ đẻ con trên lãnh nguyên vào tháng Năm.
- Chú có tìm được con nào không? - Cô háo hức hỏi.
- Không hề thấy tuần lộc từ Kangik tới Anaktu-vuk, cách nhau hơn hai trăm dặm - ông ấy nói. - Chú vừa nói chuyện với David Bradford, chủ cửa hàng Cá và Thú săn Alaska. Ông ấy nói với chú như vậy. Ông ấy cho trực thăng hạ xuống gần chú. Ông ấy nói ông ấy nghe thấy tín hiệu của một chiếc vòng cổ vô tuyến mà ông ấy đã đeo lên đàn nai sừng tấm để biết nơi chúng di chuyển.
- Thế nai sừng tấm ở đâu ạ? - Julie hỏi với vẻ phấn khích.
- Không hề có nai sừng tấm - ông ấy đáp. - Cái vòng cổ đã rớt. Ông ấy tìm thấy nó trên mặt đất. Thỉnh thoảng việc đó vẫn xảy ra, ông ấy nói vậy.
Julie quét nhìn đường chân trời mờ mịt.
- Chú có nghĩ tuần lộc sẽ về Kangik năm nay không? - Cô hỏi.
- Chúng sẽ không về đâu. Tệ quá - Atik nói. - Làng Kangik sẽ khốn khổ.
- Khi cháu gặp chú lần đầu chỗ dòng sông - cô nói đầy hy vọng - cháu có kể cho chú về một đàn nhỏ mà cháu nhìn thấy. Chú có tìm thấy chúng không?
- Chú không thấy - ông ấy nói. Julie rất ngạc nhiên. - Chú có nhìn thấy dấu vết của chúng - Atik nói. - Chúng mất hút ở khu vực khe cạn.
- Hôm nay chú có thấy con sói nào không? - Cô lại hỏi.
- David Bradford có nhìn thấy một đàn từ trên trực thăng - Atik nói. Tim Julie đập thình thịch.
- Chúng ở đâu ạ?
- Không xa đây lắm. Ông ấy nói con đầu đàn là một con màu đen to lớn.
- Kapu - Julie kêu khẽ. - Chú ấy có nói đàn có bao nhiêu con sói không ạ?
- Ông ấy bảo tám con.
- Tám con ạ?
- Ông ấy nhìn thấy con sói đen và một con màu trắng cùng ba con xám sẫm, ba con xám nhạt.
Con sói trắng là Ánh Bạc, cô tự nhủ. Ba con sói xám nhạt là Zit, Zat, và Zing, giờ đã lớn hẳn. Mấy con xám sẫm là Móng Vuốt và Em Gái, nhưng còn con sói xám sẫm thứ ba là con nào, Julie thắc mắc. Hay Kapu đã có bạn đời? Nói cho cùng, nó đã đến lúc sinh con.
Atik nhận thấy bầu trời màu đỏ tươi và chuyển sang màu xanh đen. Mặt trời đã xuống dưới đường chân trời. Buổi chạng vạng kéo dài đã hết
và đêm đã xuống. Ông ấy gật đầu chào Julie và phóng đi. CB nhìn ông ấy đi khỏi rồi nhìn Julie.
- Được rồi, CB - cô nói. - Hut!
Cô lại cho chúng chạy thẳng ra lãnh nguyên. Cô mỉm cười với đàn chó đầy háo hức, cứ liên tục nhìn lại cô vẻ thắc mắc tại sao cô lại không về nhà.
- Vòng tránh lũ gấu - cô hô. Sau một lúc, cô hô “Haw” và cho chúng quay trở lại bờ sông. CB phấn khởi vọt chạy. Âm thanh duy nhất khi mặt trăng lên là tiếng rít của vành trượt và tiếng thở của đàn chó.
Julie hất đầu ra sau và tận hưởng vẻ đẹp lạnh giá của ban đêm. Mặc dù cô cũng rất lo. Đàn sói của cô ở gần đây và thức ăn duy nhất của chúng là bò xạ.
°°°
Suốt tháng Hai, tháng Ba và đầu tháng Tư, đàn sói không hề gọi. Julie thấy nhẹ nhõm. Cô coi sự im lặng của chúng nghĩa là chúng đang săn tuần lộc ở Rặng Brooks, khoảng tám mươi dặm về phía nam. Nhưng đúng như Atik dự đoán, điều này cũng có nghĩa là không có tuần lộc đi qua Kangik trong năm nay. Đó không phải là một tin tốt lành. Các gia đình cần bốn hoặc năm con tuần lộc mỗi năm để duy trì sự sống đều rời khỏi Kangik và chuyển tới chỗ họ hàng ở các thị trấn lớn hơn. Các nhà khác thì rong ruổi tìm thực phẩm như họ vẫn làm trước khi người da trắng đến Alaska. Atik đi ra bờ biển và mang về một con hải mã cho gia đình mình. Malek thì lên kế hoạch đi bắt cá voi trên biển băng.
Một buổi sáng Peter đến nhà Kapugen và Julie ra mở cửa.
- Bố Kapugen đang ở Fairbanks - cô nói.
- Thế thì tệ quá, phải. - Đôi mày đen của Peter nhíu lại. - Bố Malek và anh được mời tham gia đoàn săn cá voi ở Wainwright. Anh hy vọng có thể để bò xạ cho chú Kapugen chăm sóc vài tuần. Anh thấy là không thể được rồi. Chú ấy đi vắng còn hôm nay bố Malek sẽ lên đường.
Anh quay người định đi.
- Em sẽ chăm sóc đàn uminmak cho… - Cô nói.
Anh ấy xoay người lại rất nhanh.
- Thật ư? - Hàm răng đều tăm tắp của anh ánh lên trắng lóa, nổi bật trên làn da nâu khi anh cười hớn hở. - Dân làng đều rất thèm maktak, Miyax - anh nói. - Họ cần có mỡ và da cá voi để vực tinh thần dậy. Họ đều sẽ cảm ơn em nếu bọn anh gặp may.
- Cứ đi đi - cô nói. - Em thích ra ngoài với đàn bò trên lãnh nguyên, và em biết phải làm gì. Bố Kapugen đã dạy em.
- Ee-lie - anh nói, và giơ cao hai tay để khen ngợi. Anh chạy vụt đi rất nhanh và nhẹ nhàng như một con chim lãnh nguyên.
Khi anh đi khỏi, cô tự hỏi tại sao mình lại không hề chỉnh anh khi anh gọi cô là Miyax.
Buổi chiều hôm đó cô tiếp quản công việc chăm bò xạ. Đó là một ngày dễ chịu. Cô buộc đàn chó vào một chiếc xe trượt chất đầy cỏ khô và những viên linh lăng rồi chạy tới bãi quây. Cô đếm lại đàn bò, như bố Kapugen vẫn luôn làm vậy, và nhận thấy cỏ đang nhú lên qua lớp tuyết tan dần. Sau đó, cứ theo nếp của bố Kapugen, cô cho đàn chó chạy vòng quanh bãi quây để bảo đảm không có con thú táo gan với thân hình cơ bắp nào phá hỏng hàng rào. Cuối cùng, công việc xong xuôi, cô cho đàn chó chạy sang phía đông và men theo bờ sông. Không khí rất lạnh, hơi thở
đóng băng của đàn chó để lại một đám hơi dài màu trắng phía sau.
Đến trại vịt cô dừng lại và lắng nghe tiếng Kapu và đàn sói. Cô chẳng nghe thấy gì.
- Chúng đi rồi - cô sung sướng, rồi nói thêm - tránh xa nhé, Kapu thân yêu, tránh xa nhé.
Khi cô đánh xe về nhà, hoàn toàn chẳng lo lắng, cô cảm thấy giống như một con sói đang chạy cả quãng dường dài đầy sung sướng. Gió thổi hất chiếc cổ áo lông sói của cô về phía sau, cô nghiêng người về phía trước và hát bài hát qimmicy loài chó, của mình.
- Qimmiq thông minh, qimmiq dũng cảm.
Hãy vểnh đuôi mà chạy. Hãy vểnh đuôi mà chạy.
Khi gió cắt và cái lạnh tê cóng
Hãy cứ vểnh đuôi mà chạy. Chạy đi, qimmiq, chạy đi
Trong trời bão bùng của cuộc đời,
Hãy vểnh đuôi mà chạy.
EeAie, eeAie, eeAie, eeAie.
La, la, la la.
Đàn chó ve vẩy đuôi theo nhịp ca khúc và thỉnh thoảng nhìn lại Julie, mỉm cười.
Dì Ellen đóng cửa trường học vào giữa tháng Tư. Mùa săn đã bắt đầu. Những phụ huynh không đi ra biển săn cá voi và hải cẩu đều đưa con cái vào sâu lục địa tới trại vịt. Giống thủy cầm đang trở lại từ phương nam thành từng vệt đen kéo dài. Cứ khoảng nửa giờ, một đàn vài nghìn con vịt biển lại bay qua phía trên làng Kangik, là là rất thấp sát mặt đất và phía
trên những ngôi nhà khi chúng di trú về nhà. Julie ngắm nhìn chúng, đầu cô ngả ra sau, mắt cô khép hờ, và cô tự hỏi phép màu nào đã mang chúng trở lại mỗi năm.
Vào một ngày nắng tháng Năm, trước khi mặt trời nhô lên và ở yên trong suốt ba tháng trời, bác Harry Ulugaq lái xe tới nhà Kapugen trên chiếc mô tô ba bánh của mình. Bác mang theo một cái sọt để nhờ Kapugen bán ở Fairbanks. Nó được đan từ những thanh nan rất đẹp mà bác Harry rọc ra từ một tấm sừng hàm, chính là những phên lọc hẹp và dài trong miệng của cá voi đầu cong.
- Bảo tàng sẽ rất thích thứ này - Kapugen nói sau khi suýt xoa nước bóng của chất sừng đen nhánh và sự đăng đổi của tác phẩm nghệ thuật. - Nhưng có thể tôi sẽ kiếm được nhiều hơn từ một tay sưu tập - có lẽ ba nghìn rưỡi đô la đấy.
Bác Harry gật đầu. Bác là một trong những nghệ nhân chế tác sừng hàm cá voi cuối cùng trên bờ biển Bắc Cực và là người biết rõ giá trị tay nghề của mình. Nhưng ngày hôm nay trong tâm trí bác có những chuyện phấn khởi hơn là tiền bạc. Sau khi Kapugen vào sổ chiếc sọt và giá trị của nó, bác Harry đi tới cửa sổ và chỉ về phía Vịnh Kuk.
- Chúng ta may rồi - bác nói khi Julie đến bên cạnh bác. - Một trận bão nam đã mang cả triệu con cá ốt me tới ngoài khơi phía cuối vùng biển Vịnh Kuk. - Mắt bác lấp lánh. - Thật vui.
- Rất nhiều đồ ăn ngon - Kapugen nói. - Tôi có thị trường mua cá ốt me rất được. Nhiều gia đình ở Barrow xem đó là thứ đồ ăn ngon.
Khi Kapugen tiễn bác Harry Ulugaq ra cửa, ông quay lại phía Julie và dì Ellen.
- Đến lúc cả nhà ta đi bắt cá rồi - ông cười rạng rỡ nói. - Đánh cá ốt
me vui lắm, thật thế.
- Thế ai sẽ cho bò xạ ăn ạ? - Julie hỏi.
- Hôm nay bố cho chúng ăn no rồi - Kapugen nói. - Chúng ta không đi lâu đâu. Cỏ mọc rất nhanh khi có nắng mới, và chúng sẽ tìm được rất nhiều cỏ để ăn.
- Tốt quá - dì Ellen nói, lấy thùng đồ ăn đi xa xuống. - Em sẽ chuẩn bị đủ thức ăn cho một tuần. Anh Kapugen, lấy lều và túi ngủ nhé.
Trại cá ốt me rất nhộn nhịp. Các gia đình ngủ trong lều và hòa lẫn với nhau ở ngoài trời. Julie dễ dàng hòa nhập vào nhịp sống cộng đồng. Cô và lũ trẻ lớn tuổi giúp kéo lưới, làm sạch và mổ cá, rồi xếp lên các giàn phơi. Hai hay ba ngày sau, khi cá khô nhờ nắng và gió, họ giúp xếp cá vào các thùng.
Khi thủy triều lên, Julie đi tới bờ biển để ngắm từng đàn cá ốt me lấp loáng bơi vào từ phía biển. Khi thủy triều rút, Julie và các bạn cô lội xuống bãi biển với nước triều rút để tìm trong các vũng sâu cả nghìn con cá mắc kẹt lại. Họ sẽ quăng lưới phủ lên chúng, cánh đàn ông và phụ nữ sẽ vội vã từ trại tới giúp kéo cá lên khỏi nước và đưa lên các giàn phơi.
Giữa các đợt triều, đám thanh thiếu niên phóng xe máy trượt tuyết ra lãnh nguyên hoặc quay trở lại kho làng Kangik để lẩy thêm khí đốt và nhu yếu phẩm. Thỉnh thoảng Julie đi cùng họ, nhưng cô thích chèo chiếc umiaq dọc theo triền băng vẫn còn đầy ở phía trên vịnh và ngắm đàn đàn lũ lũ chim chóc làm tổ và bảo vệ lãnh thổ. Julie cũng thích nhìn các nhánh nước phụ để xem có cá hồi xám[10], loài cá mà bố Kapugen ưa thích, đẻ trứng trong các vũng nông không.
Ở trại cá, chẳng có ai xem đồng hồ cả. Mặt trời mọc gần như hai tư giờ mỗi ngày. Trẻ con ngủ và ăn khi chúng cảm thấy muốn vậy. Người
lớn thì ngủ khi thủy triều lên và bắt cá khi triều rút. Xen giữa lúc làm việc và ngủ, người lớn cùng trẻ con chơi đá cao một chân - một trò chơi bằng cách đá một quả bóng lông thú trên một sợi dây da treo cao hơn đầu họ khoảng nửa mét. Họ chèo thuyền kayak và đuổi nhau như lũ sói non. Bác Harry Ulugaq tổ chức chơi bóng chày, và sau đó tất cả mọi người nhảy múa trong mấy tiếng thẫm trời trước lúc mặt trời lặn chốc lát.
Khi đổi gió, cá ốt me không trở lại Vịnh Kuk nữa. Các lều được hạ xuống, và những thùng cá khô được chất lên các xe máy trượt tuyết và đưa về các hầm trữ hoặc tới lều Quonset để chở bằng máy bay tới Fairbanks và Barrow.
Buổi tối hôm đó có một tin nhắn vô tuyến đến từ những người Eskimo ở Đèo Anaktuvuk. Họ báo rằng đàn tuần lộc phía tây đang di chuyển lên phía bắc dọc biên giới cực đông của cái vòng tròn lớn mà chúng đi từ nam lên bắc rồi xuống nam. Chúng sẽ không đi qua làng Kangik. Nghe xong từ cuối cùng, nhiều gia đình đổ ra bờ biển để săn hải cẩu và cá tầm trắng.
Ngày 10 tháng Năm, mặt trời không lặn. Cực Bắc nghiêng hẳn về phía mặt trời trong ba tháng tới. Cáo trắng chuyển thành màu nâu xám còn chim ptarmigan lấm lem những sợi lông trắng và xám lam để hợp với cảnh quan lãnh nguyên loang lổ cỏ và tuyết. Những con chim sẻ tuyết đen trắng tuyệt đẹp từ phương nam trở lại và nhảy lách chách khắp các đường phố trong làng. Cho chúng ăn vụn bánh mỳ là lý do để Julie chạy ra ngoài và ngược bờ sông lắng nghe tiếng đàn sói của cô. Chúng không hề gọi.
Một ngày quang đãng cuối tháng Năm, Kapugen sắp xếp để bay tới Fairbanks tham dự một cuộc họp của lãnh đạo công ty và các chủ ngân hàng. Ông cẩn thận bọc chiếc rổ sừng cá voi của bác Harry, một cái áo len rất đẹp, và da sống của bốn con cáo tuyết đã nộp mình cho Julie. Cô đã lột da và chuẩn bị chỗ da này đem bán sau khi đã lấy thịt hầm cho cả nhà. Cô
nhắc bố Kapugen mua thức ăn viên cho bò xạ bằng tiền họ mang theo.
- Như thế sẽ giúp cho công việc - cô nói, vẫn có gì đó không chắc trước những gì cô đang nói.
Julie đang bắt cá thì Kapugen, với số lông thú và đồ tạo tác gói gọn trên lưng, đi xuống bờ sông để nói chuyện với cô. Mặt trời mọc liên tục đã làm băng mềm đi, và quá nguy hiểm khi đứng trên đó bắt cá. Băng vỡ xảy ra đến nơi.
- Miyax - ông nói - kế hoạch của bố thay đổi. Bác Harry Ulugaq ốm nặng. Bố sẽ đưa bác ấy tới bệnh viện ở Barrow. - Ông bước vài bước lại gần hơn. - Bố rất lo cho Siku. Sáng nay bố đã kiểm tra nó. Nó rống ồ ồ và con bê của nó chưa đến ngày sinh trong vòng nhiều tuần nữa, bố nghĩ vậy. Bố không thể ở nhà để giúp nó.
- Con sẽ tới chỗ Siku - Julie nói, và theo ông vào nhà.
Dì Ellen, đang nghe nhạc trên chiếc máy cassette của mình, vặn nhỏ âm lượng để nghe Kapugen nói với dì rằng Julie sẽ ra chỗ bãi quây để kiểm tra con Siku. Rồi ông quay sang Julie, đưa cô mấy viên thuốc để trấn an con bò yêu quý của ông, và chỉ cho cô cách làm cho Siku nuốt thuốc.
- Mà Miyax này - ông nói khi đi qua phòng - tốt hơn con nên đi bộ. Gần bốn mươi độ, quá nóng không thể chạy bằng chó được.
Ông vội vã đi ra cửa, chỉ còn lại Julie và dì Ellen. Dì Ellen nhìn Julie gói chỗ thuốc; con dao ulu nữ của cô; kim chỉ; và một bộ quần áo để thay đổi.
- Dì sẽ đi cùng con, Julie - dì nói bằng tiếng Yupik dễ hiểu nhất. - Dì cần tập luyện.
Julie đã nghe nói chuyện sinh nở của dì Ellen, và mặc dù Julie có thể
dễ dàng nói chuyện với dì bằng tiếng Anh nhưng cô không nói. Trong lòng cô vẫn không thấy muốn nói tiếng Anh với dì Ellen. Thay vào đó, cô gật đầu.
Dì Ellen mặc rất ấm với nhiều lớp áo len, áo trùm parka, quần chẽn và ủng da hải cẩu lót lông thú. Vẫn đang tháng Năm, nhưng thời tiết thường lại hay chơi khăm.
Julie mở tủ lạnh của nhà và xếp gọn phô mai và bánh mỳ vào ba lô của mình. Vì cô không biết Siku còn gặp rắc rối bao lâu nữa nên cô cũng gói ghém theo cả một lượng lớn thịt tuần lộc khô trong thùng thịt khô. Rồi cô cuộn một tấm da tuần lộc làm chỗ ngồi và buộc nó vào dưới đáy ba lô của mình. Cuối cùng cô lấy con dao đàn ông của Kapugen gác trên tường xuống và giắt vào thắt lưng. Cô quàng khẩu súng chéo qua vai.
- Itqanait (Con sẵn sàng rồi) - cô nói và đi nhanh ra khỏi nhà.
Họ nhìn máy bay của Kapugen cất cánh và lao vút về phía mặt trời, và sau đó, họ sóng đôi đi trên bờ sông. Băng trên sông nứt nẻ như một bức tranh ghép mảnh và đang bắt đầu di chuyển. Nó dịch chuyển ngang và kêu răng rắc.
- Năm nay băng vỡ muộn quá - dì Ellen nói bằng tiếng Anh. Dì phải nói chuyện ngay cả khi dì nghĩ Julie không hiểu. - Bố Kapugen nói sẽ rất tai hại nếu nó…
Khi họ đi bộ, Julie chỉ vào một con vịt biển chúa trên băng. Nó là một con chim tuyệt đẹp, với cái đầu màu lục, vàng và cam cùng lưng đen trắng. “Qinalik,” Julie nói. Dì Ellen nhắc lại từ này ba bốn lần. Một con ngỗng mặt trắng kiếm ăn dưới làn nước tuyết đang tan chỗ đám lách. “Niglivik,” Julie nói, và dì Ellen lại nhắc lại.
Khi họ đến bãi quây gia súc, Siku đang đứng gần nhà tạm. Lông nó rối
bù còn đôi mắt to của nó đờ đẫn. Julie chạy tới chỗ nó, nhẹ nhàng xoa đầu và lưng nó đồng thời nói chuyện với nó thật dịu dàng. Con bò lắc lư và loạng choạng bước tới. Những cái đầu gối to tướng của nó oằn xuống.
- Nó bị ốm - dì Ellen nói. - Nó không thể chết được. Nhà ta cần có nó. Julie liếc nhìn dì. Dì Ellen nói với cảm xúc rất mạnh.
Julie nhanh nhẹn tháo dây buộc ủng và buộc quanh cổ Siku, dẫn con bò yêu quý của bố Kapugen tới nhà tạm. Dì Ellen trải cỏ khô cho nó. Siku nằm phục xuống, rồi lăn kềnh ra kèm một tiếng rên. Những cái chân móng chẻ to tướng của nó nặng nề chạm huỵch xuống đất.
Julie trải tấm da tuần lộc và ra hiệu cho dì Ellen ngồi xuống. Rồi cô lấy thêm một chiếc tất len thừa trong ba lô của mình và lăn trên tuyết. Cô đặt nó vào bên trong áo trùm parka của mình. Tuyết nhanh chóng biến thành nước, và cô vắt nước vào đôi môi khô nẻ của Siku. Con vật uống và nằm im. Julie vạch miệng Siku ra, đặt viên thuốc lên cái lưỡi to tướng của nó, và giữ miệng nó khép chặt như bố Kapugen đã hướng dẫn. Siku nuốt viên thuốc. Julie cho nó uống thêm nước.
Dì Ellen đặt tay lên cái bụng to tướng của con bò.
- Nó sắp sinh - dì nói, khiến Julie ngạc nhiên vì sự am hiểu của dì. Siku ngóc đầu lên, đảo mắt, và nằm im.
Suốt cả giờ đồng hồ, Julie và dì Ellen chứng kiến nó gồng mình sinh con cho tới khi nó không thể gồng mình nữa. Con bê con sẽ không chào đời.
Julie nghĩ đến Oliver Ahgeak, người mà cũng như bác Malek, thời trẻ từng làm công việc chăn nai sừng tấm. Ông ấy vẫn còn ở trong làng. Ông ấy sẽ biết phải làm gì.
- Bác Oliver Ahgeak - Julie nói, chỉ vào Siku, sau đó làm hiệu rằng cô
sẽ đi tìm ông ấy.
Dì Ellen gật đầu và Julie quay người đi. Cô thụt lại. Một đám mây đen u ám đang xoay vần phía trên đầu họ.
- Hilla, thần thời tiết - Julie nói bằng tiếng Yupik. - Nó bất lợi cho chúng ta. Đây là cơn bão đáng sợ đấy.
Biết rằng dì Ellen không hiểu, cô chỉ vào đám mây. Dì Ellen, vốn đã thấy rất nhiều cơn bão ghê gớm suốt ba năm ở Kangik, nhìn đám mây và hít một hơi dài.
- Giờ con không thể đi được rồi - dì nói. - Chúng ta làm gì đây?
Julie hành động ngay. Cô rút con dao của bố Kapugen chỗ thắt lưng và bước tới mé sườn tránh gió của nhà tạm, nơi số tuyết cuối cùng trong mùa dồn thành đống cao và cứng. Với kỹ năng thành thục, cô cắt từng khối dài khoảng một mét và rộng hơn nửa mét, dày ngót nghét mười lăm phân. Thao tác rất nhanh chóng, cô xếp chúng thành chồng để tạo một bức tường ở phía để trống của nhà tạm. Dì Ellen, nhìn thấy những gì Julie đang làm, bèn vác các khối tuyết từ chỗ cô khi cô chuyển tới đầu kia của nhà tạm và xếp chúng chồng lên nhau. Rất nhanh chóng, Julie dùng thêm tuyết làm vữa để ngăn gió không thổi qua các khe hở. Bức tường cao dần. Khi chỉ còn hai khối gạch nữa cần xếp lên, gió xộc tới với sức mạnh khiến bức tường rung rinh, nhưng vẫn đứng vững. Trận gió mang theo tuyết dày đến mức Julie không tài nào nhìn thấy căn nhà tạm mặc dù cô đang ở ngay bên cạnh nó. Dùng một tay lần tìm đường, cô vòng qua góc cùng khối gạch cuối cùng và bò vào trong. Cô dùng khối tuyết đó để bưng kín bức tường.
Họ ngồi túm lại trong nhà tạm tối tăm. Ngay cả ánh mặt trời không lặn cũng không thể xuyên thủng bức màn tối đen của cơn bão.
- Trận này sẽ kéo dài bao lâu không biết? - Dì Ellen tự lầm bầm với mình và lắng nghe tiếng gió rít chói tai. Julie đắp thêm tuyết vào bức tường bên trong, sau đó lấy từ trong ba lô của mình một cái hũ nhỏ mỡ cá voi mà cô dùng để bôi trơn dao ulu và súng của mình. Cô chế một sợi bấc bằng cách cắt một sợi vải mỏng từ gấu váy của mình và thắp sáng bằng một que diêm lấy trong ba lô. Đốm sáng nhỏ xíu chập chờn, suýt tắt, rồi hút mỡ và sáng bừng lên. Nhà tạm ẩn sáng sủa và ấm áp hẳn. Dì Ellen mỉm cười dễ chịu.
Gió xô ầm ầm vào đầu phía bắc của nhà tạm và Julie lo lắng nhìn dì Ellen. Gương mặt dì bình thản đến kỳ lạ.
Siku rống lên yếu ớt.
- Chúng ta phải cứu con bê non này - dì Ellen nói.
- Chúng ta làm bằng cách nào đây? - Julie hỏi bằng tiếng Anh rất hoàn hảo.
Dì Ellen trân trân nhìn cô.
- Con nói được tiếng Anh?
- Vâng.
Dì Ellen nhíu mày vẻ khó hiểu, nhưng Julie đã dùng mắt nói với dì Ellen rằng cô đã thấy quý mến dì. Rồi cô nhìn xuống con bò.
Nước chảy ra từ đường sinh và Siku rên rỉ. Dì Ellen quỳ hẳn xuống; Julie quỳ bên cạnh dì.
- Con bê lại đưa hai chân sau ra trước - dì Ellen nói. - Thế là sinh ngược. Sẽ rất không ổn, và Siku cũng vậy.
Gió xô lắc nhà tạm. Những vụn băng mịn bay tung vào trong xuyên qua những khối gạch tuyết cho dù Julie đã trét kín. Chúng đáp xuống mọi
thứ như đám bụi bột.
- Phải mổ nó, giống như bố Kapugen đã làm với mẹ nó, và đưa con bê ra - Julie nói.
Siku gắng gượng một lần nữa để rặn con bê. Lưỡi nó liếm quanh miệng, sưng vù và tím bầm, rồi nó bỏ cuộc và nằm im. Julie nhặt con dao ulu lên.
- Ở Minnesota - dì Ellen nói - bọn dì đưa tay vào trong tử cung và xoay con bê.
Dì cởi phăng áo trùm parka, xắn ống tay áo lên, và thọc tay sâu vào tử cung con bò. Julie sững sờ. Siku ngóc đầu lên, rồi thả lỏng bụng.
- Buộc chân nó lại để nó không đạp - dì Ellen nói.
Julie tháo dây ủng trên cổ Siku và buộc ghì hai chân sau nó xuống. Khi Siku quẫy đạp, Julie nằm đè lên cổ nó và dịu dàng thì thầm vào tai nó.
Mồ hôi chảy dài trên gương mặt dì Ellen khi dì từ từ xoay con bê thật chuẩn xác. Hai chân trước của nó xuất hiện, rồi đến cái đầu.
- Giúp dì dựng Siku đứng lên - dì Ellen nói.
Julie trượt khỏi người con uminmak và đưa tay xuống dưới vai nó, nâng Siku đang trong quá trình sinh con đứng lên. Khi con bò đứng dậy, con bê tuột khỏi cơ thể mẹ rơi xuống lớp cỏ khô. Siku loạng choạng và sụp xuống, kiệt sức.
- Một cô bé - dì Ellen nói. - Tốt rồi. Thông sạch nước nhầy ở mũi nó đi con.
Julie lau sạch mũi con bê; dì Ellen thổi vào miệng nó. Con bê hớp không khí và thở. Nó đã thành hình hoàn chỉnh và béo tốt. Rõ ràng Kapugen đã tính nhầm ngày sinh nở. Julie tìm trong ba lô lấy thêm chiếc
áo dự phòng của mình và lau khô con bê. Nó gượng đứng dậy và loạng choạng tới bên sườn mẹ. Con bò mẹ chậm rãi đứng dậy và con bê bú. Julie và dì Ellen nhìn con bê mới sinh và thở phào.
- Trời lạnh khiếp quá - dì Ellen nói. - Dì hy vọng con vật nhỏ bé trụ được.
- Nó sẽ ổn thôi - Julie nói. - Nó là bò xạ. Nó được sinh ra bởi một cơn bão cơ mà.
Dì Ellen mỉm cười. Rùng mình, dì lấy ra một chiếc khăn rằn đỏ, lau sạch bàn tay và cánh tay mình, và mặc thêm một chiếc áo len nữa cùng áo trùm parka.
Gió giật mạnh, hất thêm tuyết mịn qua các khe hở. Julie nhấc ngọn đèn mỡ cá voi lên và gí ngọn lửa sát các mạch khối tuyết. Hơi nóng làm tuyết tan ra, nhưng rồi nhanh chóng đóng băng và bít kín mé trong bức tường.
Chỉ một lúc sau, Siku thải nhau ra.
- Nó sẽ ăn hết - dì Ellen nói. - Thứ đó giúp nó có chất đạm và vitamin.
- Như thế sẽ quá lâu đấy ạ - Julie nói. - Khu vực này có một con gấu xám lượn lờ. Nó sẽ phá đổ rào và nhà tạm vì những thức ăn như thế.
- Trong một trận bão thế này ư?
- Chẳng là gì với nó hết. Nó đang nuôi hai con gấu con một tuổi - Julie đáp.
- Chúng ta làm gì đây?
- Con sẽ mang nhau ra khỏi bãi quây - Julie nói, và khoác áo trùm parka, lên.
Cô bọc nhau vào cỏ khô, rút khối tuyết dưới cùng ra và bò ra ngoài
trong cơn bão. Gió hất vào mặt cô những ngòi tuyết nhọn hoắt. Một trận gió mạnh khiến cô phải sụm xuống. Khi cô gượng đứng lên, cô chẳng nhìn thấy gì ngoài tuyết - không mặt đất, không bầu trời, không trên, không dưới. Cô đang ở bên trong Hilla, vị thần thời tiết trắng xóa. Cô thậm chí còn không nhìn thấy đầu gối mình. Cô sẽ phải bò. Bò sẽ tạo ra một vệt rãnh sâu để cô có thể lần theo đó trở lại nhà tạm. Cô nhét cái bọc vào áo trùm parka, chạm vào totem Amaroq, và bò ra ngoài trong gió bão. Cuối cùng, cô tìm thấy cánh cổng và quăng chỗ nhau ra xa hết mức.
Rồi cô quay người và khuỵu gối xuống để bò trở lại. Cái rãnh cô đã tạo ra không thấy đâu cả. Chỉ trong khoảnh khắc, gió và tuyết rơi đã san bằng tất cả. Julie rùng mình dù đã mặc áo choàng lót da tuần lộc. Cô hoàn toàn không hình dung được phải đi đường nào.
- Dì Ellen - cô gọi.
Không có tiếng trả lời.
- Dì Ellen! - Gió chặn đứng tiếng của cô trước khi nó rời khỏi miệng cô. Cô xoay lưng lại phía đó và để gió đẩy giọng cô theo lộ trình rất nhanh của nó.
- DÌ ELLEN! DÌ ELLEN!
Không có tiếng trả lời. Cô nhận ra rằng dì Ellen không thể nghe được vì tiếng gió đinh tai nhức óc. Biết rõ là không nên di chuyển, cô đợi cho tới khi tiếng gió rít lắng dịu.
- DÌ ELLEN! DÌ ELLEN!
- Julie, con ở đâu? - Giọng trả lời rất nhạt nhòa, cô không thể xác định được nó đến từ hướng nào.
- Hét đi, dì Ellen, hét đi! Con không tìm được đường về. - Julie. Julie. JULIE - dì Ellen hét to liên tục, và Julie, cứ bám theo
tiếng gọi ấy như thể đó là một sợi dây, bò về phía trước. Đầu cô va phải bức tường tuyết. Cô kéo khối tuyết trở lại và bò vào trong.
- Trông con hệt như ugruk, hải cẩu ấy - dì Ellen thở hổn hển, phủi sạch tuyết khỏi áo trùm parka của Julie.
- Con đoán chúng ta sẽ không thể đi đâu được tối nay - Julie nói. - Và có thể cả đêm mai nữa - cô nói thêm.
Thời giờ chậm chạp trôi đi. Julie và dì Ellen liên tục giậm chân để giữ cho mình được ấm, ăn thịt tuần lộc khô, và nép sát vào cơ thể ấm áp của Siku. Tiếng gió gào rít càng to hơn nữa.
- Hilla sẽ không bỏ đi - Julie nói.
- Người Eskimo làm gì lúc này? - Dì Ellen hỏi. Dì vỗ về con bê đang cuộn mình bên cạnh bò mẹ.
- Chúng con hát, ăn uống và chờ đợi - Julie nói. - Chúng con không di chuyển.
- Dì rét run người - dì Ellen nói.
- Vạt lông của Siku rất dài và ấm. Dì quấn tay vào đó rồi thổi lên. Dì Ellen vùi tay và cả chân vào lớp lông ấm và nhẹ, thế là dì hết run.
Họ im lặng ngồi trong không gian tối tăm lạnh giá. Cuối cùng dì Ellen lên tiếng.
- Con nói tiếng Anh tốt lắm, Julie - dì nói. - Dì không biết việc đó.
- Con bị mất giọng tiếng Anh trên lãnh nguyên - Julie nói - khi Amaroq, một con sói đen cao thượng đã làm bạn với con, bị bắn chết. Nó đã cứu mạng con.
- Nó cứu mạng con ư?
Dì Ellen nhìn như thể dì rất muốn nghe câu chuyện, nhưng Julie
không tài nào nói về việc đó được. Một hôm nào đó cô sẽ kể cho dì Ellen nghe về Amaroq, một hôm nào đó khi cô có thể kể câu chuyện này mà không khóc.
- Nhưng dù sao - Julie nói tiếp - sự thật là kiến thức tiếng Anh của con quay lại với con khi con nhìn thấy ngôi nhà của bố Kapugen, nhưng…
Cô nhìn dì Ellen.
- Dì hiểu - dì nói. - Dì rất mừng là con đã quyết định rằng dì ổn. - Đúng vậy. Dì rất ổn ạ - Julie nói, mắt cô sáng bừng.
Họ im lặng ủ ấm tay và chân nhờ Siku và lắng nghe tiếng bão vần vũ. Ngọn đèn mỡ hải cẩu vẫn cháy sáng. Họ không hề chợp mắt.
Nhiều tiếng sau, dì Ellen ngồi dậy.
- Con có biết mấy từ “Miền Viễn Bắc” không, Julie? - Dì hỏi.
- Không ạ - Julie trả lời, bật cười trước cái tên đó. - Dì dạy con đi. Đây là chỗ rất tuyệt để học một bài hát có cái tên đó.
Dì Ellen hắng giọng.
- Miền Viễn Bắc đang gọi tôi đi,
Nên tôi xách ba lô lên đường
Mắt Julie lấp lánh và cô đưa tay lên bưng miệng.
- Tiếp theo là gì ạ?
- Đó là tiếng gọi tôi của rừng phương bắc,
Khi tôi bước cùng ánh nắng với hành trang trên vai.
Tôi sẽ đi tới Hồ Duncan và vùng nước trong veo cùng Da Gấu,
Nơi bạn thấy giống chim lặn và nghe tiếng kêu ai oán của nó. Nếu bạn nghĩ sâu thẳm trong tim mình
Bước chân tôi đường hoàng tự tin,
Bạn hẳn chưa bao giờ đi dọc lối mòn biên cương.
- Dạy con đi, dạy con đi - Julie kêu lên.
Lúc Julie học xong đoạn điệp khúc và toàn bộ lời bài hát, dì Ellen đã gà gật và bản thân cô cũng rất buồn ngủ. Cô kiểm tra dì Ellen để chắc chắn rằng mặt dì không bị lạnh cứng, rồi mới cuộn mình sát Siku và ngủ chập chờn.
Cơn bão vẫn cứ gầm rít. Julie và dì Ellen không biết họ đã ở trong nhà tạm bao lâu hay đã là ngày mấy rồi. Họ chỉ mở mắt, nghe tiếng gió, làm tan tuyết để pha trà, cắn một miếng pho mát và bánh mỳ, và lại nhắm mắt. Dì Ellen không hề kêu ca. Hơi ấm của Siku và bức tường ngăn của Julie giúp họ không bị đông cứng đến chết.
Khi Julie nhận thấy dì Ellen đã tỉnh giấc trong một trận gió dữ dội và không tài nào ngủ lại được, cô đánh bạo hỏi tại sao dì lại lên tận Dốc Bắc. Dì Ellen trở mình sang tư thế ngồi, ôm lấy hai gối, và đăm đăm nhìn ánh sáng mỡ cá voi đang nhảy nhót.
- Giống như bài hát đã nói - dì bắt đầu kể - chính miền viễn bắc đã cất tiếng gọi dì đi. Khi dì lấy bằng thạc sĩ giáo dục ở Đại học Minnesota, dì đọc được một quảng cáo trên báo về vị trí giáo viên ở một ngôi làng Alaska. Dì nghĩ chẳng còn gì truyền cảm hứng được hơn thế. Dì nộp đơn cho Hạt Dốc Bắc, rồi được phỏng vấn, và nhận việc. Dì được cử tới Kangik. - Dì nhìn lên Julie. - Dù con có tin hay không thì dì rất thích ngôi làng.
- Lúc đó bố con ở đây chưa?
- Bố con ở đây. Chúng ta gặp nhau vào cái ngày sau khi dì đến và chẳng mấy đã phải lòng nhau. Đơn giản vậy thôi. Dì gọi về nhà và báo với mẹ dì rằng dì đã kết hôn với một người Eskimo.
- Bà nói gì ạ?
- “Cậu ấy có tốt không?”
- Dì nói sao ạ?
- “Con yêu anh ấy vì điều đó!” - Khuôn mặt dì dịu hẳn rồi dì mỉm cười. - Khi dì cưới bố Kapugen, dì chẳng mảy may biết mình sẽ gặp rất nhiều vất vả, mặc dù dì lớn lên tại nông trại của ông ngoại dì ở Minnesota.
- Minnesota có cây - Julie nói.
- Và tất cả mọi thứ ngoài cây cối: hoa, nắng ấm, nước nóng và lạnh, bồn vệ sinh giật nước, bồn tắm… - Dì nhìn ngọn lửa vàng. - Nhưng dì chẳng muốn quay về, và đặc biệt giờ dì lại sắp có một đứa con Eskimo.
- Vâng - Julie nói đầy tự tin. - Ở đây em bé sẽ hạnh phúc hơn. Chúng con thích những em bé Eskimo thuộc mọi sắc da, và nhất là có tóc đỏ nữa.
Dì Ellen cười vui vẻ.
- Có khi lại có tóc đen và lông mày đỏ ấy. - Câu đó làm họ cười thêm. - Bố Kapugen đã có công ty lúc dì gặp bố chưa ạ? - Cô hỏi.
- Khi chúng ta cưới nhau, Kapugen vừa mới bắt đầu kinh doanh bò xạ. Công ty trả tiền để bố con học làm phi công. Cách duy nhất để kinh doanh ở Dốc Bắc là bằng máy bay. Bố con và dì sống ở Fairbanks trong thời kỳ bố con học. Bố con có mấy lần trở lại Nunivak để tìm con. Không ai trừ bà cô Martha biết con đã đi đâu. Rồi bà ấy mất. Chẳng ai biết chuyện gì
đã xảy ra với con. Sau mỗi chuyến đi bố Kapugen lại về nhà trong suy sụp và thất vọng. Bố con không ngớt nói về con và việc con và bố con đã cùng đi săn và bắt cá như thế nào sau khi mẹ con mất.
Julie lắng nghe câu chuyện về một người đàn ông và một cô gái bé bỏng mà ông ấy không thể tìm thấy. Cứ như thể đó là một câu chuyện dân gian về những con người mà cô không hề biết.
- Trong một chuyến đi tới Barrow mùa thu năm trước - dì Ellen tiếp tục - Bố Kapugen tình cờ gặp cô Nusan, vợ của chú Naka. Cô ấy bảo với bố con rằng chú Naka đã mất. Rồi cô ấy đau khổ nói rằng con vừa bỏ chạy không kết hôn với con trai cô ấy là Daniel, và đi vào đất liền. Cô ấy nói con đã chết trên lãnh nguyên.
- Bố cũng nói với con chuyện đó - Julie nói. - Nhưng còn sau đó?
- Khi Kapugen từ Barrow trở về, bố con chèo thuyền kayak ngược dòng Avalik suốt gần một tuần để đau khổ một mình. Rồi bố con về nhà. “Mọi việc như vậy rồi”, bố con nói vậy. “Chẳng thể giúp gì được.” Và chúng ta quyết định đã đến lúc phải sinh em bé.
Julie cúi đầu, trong lòng tràn ngập với suy nghĩ rằng suốt thời gian ấy cô đã được tìm kiếm và nói đến.
- Con phải biết niềm vui mà bố con có được khi con gõ cửa nhà ông ấy - dì Ellen nói.
- Và nghĩ rằng con gần như đã không trở về - Julie nói khẽ. - Khi con nhận ra bố đã giết Amaroq, con không thể nào chịu đựng được việc ở bên bố.
- Dì không biết bố con đã giết chết người bạn của con.
- Con vẫn thấy rất khó hiểu được bố Kapugen - Julie nói, mắt cô lấp lánh. - Bố thậm chí không hề sử dụng đến lông thú giá trị.
- Sói giết hại bò - dì Ellen nói.
- Đó là lý do của bố ư? - Julie hỏi khẽ.
- Dì nghĩ hẳn phải vậy - dì nói. - Lúc đó bố con rất lo lắng chuyện chó sói.
- Nhưng còn người kia? Ông ấy là ai?
- Một gussak đã trả tiền cho bố con để đưa họ đi săn chó sói. Thợ săn da trắng rất ghét chó sói. Chúng giết tuần lộc và hươu mà chúng muốn.
Julie thở dài và dựa vào Siku. Dì Ellen trở mình nằm nghiêng. Gió rung lắc nhà tạm ẩn, và tuyết rắc xuống người họ. Con bê non đang ngủ và con bò mẹ đang thở rất nhẹ. Tất cả đều chìm vào giấc ngủ.
Một lúc lâu trôi đi, Julie tỉnh giấc bởi tiếng gió hát đã thay đổi. Gió không còn dữ dội nữa. Cô lại kéo một khối tuyết và nhìn ra ngoài. Cô đã nhìn rõ được.
Mười con bò xạ phủ đầy tuyết đứng thành một vòng tròn quanh nhà tạm, đôi mắt nâu dịu dàng của chúng nhìn cô.
- Các bạn - cô gọi, gỡ một tảng nữa xuống và mang những viên thức ăn tới cho chúng - các bạn đã có một thành viên mới.
Khi cô bò qua lỗ hổng, cô quan sát bầu trời.
- Dì Ellen - cô nói - không hề nhìn thấy ánh sáng chỗ vị trí mặt trời. Con nghĩ chúng ta ở đây thêm vài ngày nữa.
Dì Ellen không nói gì. Julie bò trở vào nhà tạm, lấy pho mát và bánh mỳ ra, và làm tan nước trà trong một cái cốc thiếc hơ trên ngọn nến mỡ cá voi.
- Dì dạy con thêm bài hát đi, dì Ellen? - Cô đề nghị.
Dì Ellen có thêm rất nhiều bài hát để dạy cô. Họ hát suốt nhiều giờ
liền.
Nhiều tiếng sau đó, bên trong nhà tạm càng lúc càng sáng hơn. Gió đã ngừng gào rít. Julie ló đầu ra ngoài.
- Dì Ellen - cô hào hứng gọi - mặt trời đang chiếu. Chúng ta có thể về nhà rồi.
Siku và con bê non, mà Julie đặt tên là Viễn Bắc, nhìn dì Ellen và Julie phá bức tường tuyết để cho ánh nắng tràn vào. Khi Julie và dì Ellen chạy về phía cổng, Siku và Viễn Bắc theo sau họ. Đàn bò giụi tuyến mắt của chúng vào chân trước, và con bò mẹ cùng con bê đánh hơi thông điệp cảnh báo này. Siku thúc chú bê của mình và quay lại phía đàn. Mớ lông dài của nó rủ xuống chân khi nó chậm rãi đi trong ánh nắng lấp loáng. Đàn bò quây quần quanh nó và nhìn con bê non mới đẻ thật lâu.
Vui vẻ hát vang, Julie và dì Ellen mở cổng và tiến ra nền tuyết cứng. Tuyết lạo xạo dưới bước chân họ và vỡ vụn như thể họ đang đi trên mặt trống. Sau một khoảng ngắn, họ đến chỗ cỏ khô vương vãi và những vết móng vuốt nơi con aklaq tìm thấy nhau thai bò. Họ nhìn nhau đầy dụng ý và đi theo lối mòn bờ sông.
Ba con sói cất tiếng hú, đầu tiên từng con một, rồi đồng loạt. Tim Julie đập loạn lên.
- Chạy đi, chạy đi - trong lòng cô hét lên. - Chạy đi.
Dì Ellen đang hát và dường như không nghe thấy những tiếng nói. Julie chạm vào totem Amaroq của cô và nhắm chặt mắt lại.
Kapugen trở về nhà hai ngày sau khi cơn bão kết thúc. Ông ở lại thêm mấy ngày để giúp bác Harry Ulugaq có thời gian bình phục sau cuộc phẫu thuật viêm ruột thừa rồi đưa ông ấy về nhà.
Ông còn chưa kịp vào nhà thì Julie đã lên tiếng kể lại câu chuyện của
dì Ellen và cách dì cứu Siku cùng Viễn Bắc. Kapugen đăm đăm nhìn cô, không hề nghe thấy những gì cô đang nói.
- Con đang nói tiếng Anh - ông khàn giọng thì thào. - Con không hề nói từ khi con về nhà.
Cô gật đầu, và hai gò mà đã ửng hồng của cô bừng lên đầy phấn khích.
- Vậy là bố đã được tha thứ - ông nói.
- Tha thứ ư? - Julie tự hỏi điều gì khiến ông nói vậy.
- Tha thứ vì đã kết hôn với một cô gussak - ông nói.
Julie mỉm cười chạy lại chỗ dì Ellen và nắm lấy tay dì.
- Con yêu dì ấy - cô nói. - Dì ấy là aaka, là mẹ và bạn của con. - Bố rất mừng, phải - ông nói. - Bố vui lắm.
- Em cũng mừng, phải - dì Ellen nói. - Dì biết dì xa lạ với con, Julie, nhưng cảm ơn con vì những lời tốt đẹp ấy.
- Minnesota có những người thật tuyệt - Julie nói, và mỉm cười.
- Họ rất tuyệt, phải - Kapugen nói, chạm vào mái tóc đỏ quăn quăn của dì Ellen. - Hãy nhìn này - thật đẹp khi tóc mọc lên và uốn quăn.
Kapugen thường xuyên thấy những lọn tóc quăn của vợ là một thứ kỳ lạ. Ông im lặng khi quấn một lọn quanh ngón tay mình.
Julie cảm thấy ông còn nhiều điều để nói. Khi dì Ellen đã đi vào phòng ngủ, ông đi đi lại lại phía cửa sổ vài lần liền. Cuối cùng ông cầm lấy bàn tay Julie.
- Và bố cũng sẽ được tha thứ vì đã giết con sói đã cứu sống con chứ? - Ông hỏi.
- Làm thế nào bố biết bố đã giết Amaroq của con? - Cô hỏi sau một lúc im lặng kéo dài. - Con không hề kể với bố.
- Đàn sói nói với bố - ông trả lời.
Và Julie biết điều đó đúng. Cô chớp mắt và nhìn sàn nhà.
- Cổ họng và phổi con đau khi nói về Amaroq. - Cô nhìn lên. - Nhưng con yêu bố.
- Vậy thì bố được tha thứ chứ? - Ông hỏi lại.
Julie nhìn vào mặt ông một lúc lâu khi cô tìm lại giọng nói quá khứ của cô.
- Chúng ta không phán xét người của mình - cuối cùng cô nói. - Con yêu bố.
Kapugen áp đôi bàn tay chai sạn vì lạnh giá của mình lên mỗi bên đôi má ửng hồng của Julie và vỗ nhẹ khuôn mặt cô cho tới khi mắt họ chạm nhau. Cô nhìn thấy sự xót thương ông dành cho cô, nhưng cô cũng nhìn thấy rằng ông sẽ lại làm thế nếu ông phải làm.
Trong suy nghĩ của mình, họ vẫn nghe thấy tiếng phun và róc rách của nước chảy. Thời kỳ tuyết tan là một bản hòa âm. Nước đang nhỏ tong tong từ mái nhà, chảy ra từ dưới gầm nhà, dọc cửa sổ, và trên mặt đất để đổ ra sông. Thần bão đã đi rồi, và ánh nắng vĩnh cửu đang biến tuyết và băng thành nước. Đại dương, lãnh nguyên, các dòng sông đều đang cởi bỏ những chiếc áo khoác cứng đờ của mình. Từ hôm qua dòng sông Avalik vẫn còn đóng băng đã vỡ toang thành cả triệu mảnh. Thêm nước chảy ra từ lãnh nguyên, dòng sông ngập kín hai bờ và vận chuyển băng cùng tuyết tan chảy ra biển hướng về làng Kangik cùng khu vịnh. Hiện tượng băng vỡ đang diễn ra ở đây.
Có tiếng gầm gừ nghe rất gần, và át tiếng ồn là một giọng nói vang
lên.
- Chú Kapugen! Thuyền của chú!
- Thuyền của chú kìa, Kapugen!
Kapugen lao vọt ra khỏi nhà. Julie và dì Ellen, đều đã nghe thấy và chạy vội ra, thấy dòng sông đầy băng gần như ngay cửa nhà. Nó đã cuốn lấy chiếc xuồng máy của Kapugen và kéo đi mất, nếu Peter không đi ngang qua. Anh đã túm lấy mũi xuồng và kéo nó vào đất liền. Kapugen nhảy khỏi bậc cửa và cùng kéo. Ủng của ông ngập sâu trong nước và băng đang chảy. Bỗng nhiên một tảng băng bằng cả ngôi nhà trồi lên như một con cá voi từ dòng sông và lao về phía họ.
Julie nhận thấy cần có mình nên nhảy ùm xuống nước. Cô túm lấy mép xuồng bên kia Kapugen và cũng ráng sức kéo. Chiếc xuồng được kéo giật về phía đất liền. Rồi tảng băng trồi lên và rơi xuống. Nó tạo ra một đợt sóng cao bằng đầu người. Peter thấy rằng nó sẽ cuốn phăng chiếc xuồng nên quăn sợi dây quanh một cái cọc dùng để nâng ngôi nhà của Kapugen bên trên lớp đất đóng băng vĩnh cửu.
Julie cũng nhìn thấy đợt sóng, nên buông mạn xuống, và chạy, nhưng Kapugen thì không. Lưng ông quay về phía con sóng. Nó nhấc bổng ông lên, và ông tuột tay nắm, bị cuốn xuống nước. Dì Ellen chạy tới bên Julie và níu chặt lấy cô đầy kinh hãi khi Kapugen bị cuốn đi.
Peter vớ lấy một sợi dây nữa từ chiếc xuồng và chạy bên cạnh ông, tìm cơ hội ném dây cho ông. Bơi cắt chéo dòng nước, Kapugen được đẩy vào phía bờ.
Dì Ellen bưng lấy mắt.
- Con yêu - dì nói. - Nằm yên nào. Nằm yên nào. Rồi sẽ ổn thôi. Một đợt sóng trồi nữa nâng bổng Kapugen lên cao và quẳng ông lên
một kho chứa đồ đánh cá đã bị đổ. Ông bíu chặt lấy nó trong khi đợt sóng chảy đi và dồn vào con sông; rồi ông nhảy lên bờ biển và chạy.
- Nangaun! - Ông kêu lên đầy biết ơn, giơ cao hai tay.
Julie không hề run cho tới khi Kapugen gần về đến chỗ họ. Cô ôm lấy dì Ellen, chỉ để thấy rằng dì cũng đang run bắn.
Kapugen thì không. Ông vẫn cười. Quần áo ông nhỏ nước tong tỏng và cái cổ áo lông sói của ông ướt nhưng không sũng nước. Tóc ông bết lại trên trán. Ông vỗ vỗ vào lưng Peter và nói gì đó, và Peter cũng cười.
- Sao họ lại cười nhỉ? - Dì Ellen sửng sốt hỏi.
- Dì phải có khiếu hài hước khi sống ở Bắc Cực - Julie nói. - Người Eskimo luôn cười. Đó là cách tốt nhất.
- Trước những trò bông lơn - dì Ellen nói. - Chứ không phải trước tử thần.
- Trước cái chết ấy - Julie nói. - Đó là cách tốt nhất.
Kapugen và Peter kéo chiếc thuyền vào sâu trong bờ; rồi Kapugen thay quần áo và xỏ chân vào đôi ủng đạp băng cao su. Ông nhập cùng những người làng đang chạy lại khi họ nghe tin dòng sông đã cuốn phăng Kapugen rồi đẩy ông trở lại.
Atik và Uma chạy đến. Cậu con nhỏ của cô Uma, Sorqaq, có tên tiếng Anh là Perry, ngó lom lom qua vai mẹ. Nó nằm trong áo amaunnaq, loại áo choàng nữ thiết kế để địu trẻ con, của mẹ. Một sợi dây lưng thắt quanh áo choàng của cô Uma chỗ eo lưng giữ cho Perry khỏi tụt xuống đất. Thằng bé đứng trên đó và ngó ra nhìn. Một cơn gió thốc vào mặt nó, làm thằng bé tụt xuống áp vào cơ thể ấm áp của mẹ.
Bác Malek chạy đến, và đằng sau bác là bà thủ kho Marie.
- Aaya - bà Marie nói với Kapugen. - Chắc anh làm thần sông tức giận rồi. Bà ấy chưa xơi tái anh đấy!
Những người bạn cùng cười vang.
Theo cùng bà Marie là chồng bà, ông Ernest Adams, một thợ chạm khắc ngà hải mã nổi tiếng. Ông nội ông là một đội trưởng đánh bắt cá voi ở Boston đến định cư tại Wainwright và lấy bà Anugl, thợ đóng giày cừ nhất trên bờ biển Bắc Cực. Chính bố của bà Anugl dạy ông Ernest nghề chạm khắc ngà.
Julie ngắm nhìn Ernest Adams, vì ông ấy vừa là người Eskimo vừa là người gussak. Nước da ông ấy sáng hơn bà Marie và gương mặt ông ấy thon dài hơn, nhưng ông ấy lại có mắt đen và gò má cao, rộng của người Eskimo. Diện mạo của ông Ernest cũng không khác biệt. Nhiều người Eskimo có bố hoặc ông nội người da trắng, và gần đây một số người có mẹ là người da trắng. Ngày càng nhiều phụ nữ từ khu vực lục địa Hoa Kỳ[11] đến Bắc Cực để dạy học, làm bác sĩ và làm đủ công việc khác. Một vài người, giống như dì Ellen, kết hôn với đàn ông bản xứ, ở lại, và gây dựng gia đình. Julie nhìn từ ông Ernest sang vóc dáng dì Ellen. Dì rất phấn khởi về em bé sắp sửa gia nhập cùng họ.
Một phụ nữ khác nhập với cả nhóm, chào hỏi dì Ellen. Cậu con trai sáu tuổi của cô ấy mỉm cười bẽn lẽn, và dì Ellen quay sang Julie.
- Đây là Benjamin, học sinh của dì - dì nói. - Benjamin này, đây là con gái cô, chị Julie.
Thằng bé mỉm cười bẽn lẽn với Julie và chạy tới chỗ Kapugen. - Cháu rất mừng là dòng sông đã trả lại bác - nó nói với ông.
- Chắc chắn rồi - Kapugen trả lời. - Bác quá bẩn thỉu. Nó không thèm bác.
Benjamin cười nắc nẻ, nhặt một hòn đá, và ném xuống nước. - Sông xấu - nó nói. - Cháu phạt sông.
Kapugen cười xòa và nhấc bổng thằng bé lên, đặt nó lên vai mình trong khi Peter đi tới.
- Nước lên sát nhà chú đấy - Peter nói. - Hay ta chằng dây và cố giữ xem sao?
Kapugen xóc đùa Benjamin.
- Tình huống tệ nhất qua rồi - ông nói, chỉ ngược dòng sông. - Sáng nay lúc chú bay về nhà, chú đã thấy hầu hết lãnh nguyên giờ trơ trụi và chẳng hề có đập băng nào sắp vỡ bung nữa.
- Chú thấy cái đập băng gây ra trận lụt này chứ?
- Chú nghĩ là chú thấy, gần trại vịt, nhưng chú không rõ. Cái đập chú thấy không lớn thế. Đợt băng vỡ này chơi khăm ta.
Dòng sông bắt đầu rút đi, và dân làng được thông báo không cần phải cứu ngôi nhà của Kapugen, nhưng chẳng ai về nhà cả. Trời nắng và ấm áp, gần bốn mươi độ. Tất cả mọi người đều sung sướng ra khỏi nhà. Một con chim tuyết ríu rít cả tràng những âm thanh ngọt ngào, và Julie ngoái tìm nó. Con chim bay đi cùng với một ít hạt ngậm trong mỏ.
- Hè rồi - Julie reo lên. - Chim tuyết đang nuôi con non.
- Hè rồi - bé Benjamin reo to, và tụt khỏi lưng Kapugen.
- Đến lúc ăn mừng rồi - Kapugen nói. - Tôi có mua từ Barrow về một bao bột lớn. Chúng ta sẽ làm bánh rán Eskimo.
- Nhà tôi có thịt và maktak cá voi - bác Malek, người vừa mới trở về sau một chuyến săn cá voi bội thu, lên tiếng. Tiếng reo vui dậy lên.
- Maktak - bé Benjamin la tướng lên, và nhảy nhót thành vòng tròn. -
Cháu thích maktak hơn kẹo.
- Làng Kangik sẽ mở hội cá voi, Nalukataq - bác Malek nói. - Giờ là lúc cùng chia sẻ.
- Wainwright bắt được bao nhiêu cá voi? - Chú Atik hỏi.
- Năm con. Đó là hạn mức của họ năm nay - bác Malek nói. - Không đủ cho tất cả mọi người, nhưng không hơn được. Chúng ta không thể bắt nhiều hơn mức ủy ban đánh bắt cá voi cho phép chúng ta.
- Tại sao ạ? - Bé Benjamin la lên. - Cháu thích có thật nhiều nhiều nhiều maktak.
- Chúng ta cần để cá voi sống - bác Malek nói - như thế cháu, con của cháu, cháu của cháu sẽ vẫn có maktak.
- Và cả Nalukataq lễ hội hất mền[12] nữa - bà Marie nói thêm. - Thế mền đâu nhỉ? - Atik hỏi.
- Ở phía sau nhà kho - bà Marie nói. - Đi giúp tôi lấy ra nào - tất cả mọi người đến giúp nào.
- Hất mền, hất mền - bé Benjamin reo. Nó gặp cậu bạn Roy, và chúng lần lượt cùng nhảy vào một vũng nước khi theo con phố rải đá cuội chạy tới nhà thờ. Những đứa trẻ khác cũng chạy và giẫm nước bắn tung tóe ở mọi cái vũng mà chúng tìm được trên đường tới địa điểm Nalukataq. Đây là mùa giẫm vũng nước của trẻ em Bắc Cực và cả Julie nữa. Cô đi đôi ủng đạp tuyết và lội hẳn vào một vũng nước sâu, đá nước và cười. Các vũng nước là niềm vui sướng hiếm hoi ở Bắc Cực.
Hội Nalukataq được tổ chức trên khoảng trống ngay phía trước nhà thờ. Về cơ bản nhà thờ là một trung tâm cộng đồng của dân làng, vì mục sư chỉ đến Kangik vài lần mỗi năm. Hôm nay, nơi này trở thành khu vực lễ hội cộng đồng.
Những tiếng gầm gừ của dòng sông là phông nền cho hoạt động. Các bếp lò hiệu Coleman được bố trí thành một vòng tròn, và các thùng nước để nấu ăn được bắc lên đun sôi. Bác Malek kéo chiếc xe trượt chở thịt và mỡ cá voi vào giữa mớ xoong nồi và những người làm lễ rồi cắt những tảng thịt dài thành các khoanh để đưa vào nồi. Ông lọc phần da thơm ngon thành những miếng nhỏ có một rẻo mỡ bám bên trên - đây chính là maktak. Rồi ông lạng phần đuôi cá voi thành những lát mỏng. Bà Taktuk, vợ ông, sẽ phân chia phần đuôi này trong một nghi lễ mà một số người già nói rằng đã tồn tại bốn nghìn năm rồi.
Chỉ còn khoảng năm mươi người vẫn ở lại thị trấn, nhưng trong chưa đầy một tiếng, nhà nào cũng vắng tanh vì lễ hội đang lúc cao trào. Tấm mền da hải cẩu được trải trên mặt đất. Bà Marie phục vụ món súp vịt, còn cô Uma và bà Taktuk phân chia maktak sống. Bốn tay trống dựng một bục chơi nhạc có màn hướng âm vỏ sò[13] bằng da tuần lộc. Họ bắt đầu chơi những chiếc trống tròn dẹt, có gắn cán trông như những cây kẹo mút lollypop, ngồi trên những tấm lông thú, lưng giữ thẳng. Bác Harry Ulugaq, vẫn còn khá yếu sau cuộc phẫu thuật, được dìu tới giá trống. Bác quyết tâm chơi và hát.
Nhịp đầu tiên nặng trịch của chiếc trống da-gan cá voi vang lên. Nó phát ra âm thanh đặc biệt để mở màn lễ hội Nalukataq. Julie và dì Ellen vội vã về nhà để làm bánh rán Eskimo mà Kapugen đã hứa. Julie treo đôi găng ẩm ướt của cô lên phơi trên cây xà gỗ gác chiếc kayak của bố Kapugen gần trần nhà.
- Con làm bánh rán Eskimo như thế nào? - Dì Ellen hỏi.
- Con không biết - Julie cười nói. - Để đi hỏi bà Marie, bà ấy chắc biết.
Cô chạy đi và một lát sau quay về, cười cười vẻ bẽn lẽn.
- Dì cho mười lăm vốc bột vào một cái bát cùng với ít nước và đường và để cho bột lên men năm ngày. Sau đó dì cuộn bột, cắt ra và đem rán ngập trong dầu cá voi.
- Thật không? - Dì Ellen nói, và nháy mắt. - Phụ nữ Eskimo cũng có khiếu hài hước thật. Ta làm theo cách Minnesota vậy.
Dì lấy ra một cái nồi lớn, mở cuốn sách nấu ăn của mình, và bảo Julie đọc nguyên liệu chế biến lên trong khi dì chế biến.
Julie đọc và lật dở cuốn sách xem các mục hướng dẫn.
- Bánh táo là món gì vậy ạ? - Cô hỏi.
Dì Ellen kinh ngạc ngước lên:
- Dì cứ đinh ninh ai cũng biết chứ - dì nói. - Dì cứ luôn quên mất là mình đang ở Bắc Cực. Bánh táo với người ở đại lục giống như maktak ở Dốc Bắc ấy. Người gussak thích bánh táo lắm. Hẳn nhiên vậy vì tất cả mọi người đéu nói như vậy. - Dì cười và đổ bột trộn lên bàn, vỗ vỗ rồi cán phẳng ra. - Khi nào lễ hội Nalukataq xong, dì sẽ nướng cho con một cái bánh táo.
- Táo là gì ạ? - Julie hỏi.
Dì Ellen vung hai bàn tay dính bột lên.
- Dì sẽ chẳng bao giờ quen được với việc không có cây cối - dì nói. - Dì vẫn nghĩ mình có thể chạy ra sân sau và nhặt mấy trái táo. Đó là một loại quả rất ngon mọc trên cây.
Mắt dì Ellen lấp lánh, và Julie biết hẳn dì rất nhớ nhà. Cô nhớ mình đã cảm thấy thế nào hồi ở Barrow khi ai đó nói về Nunivak. Minnesota còn xa hơn nữa cơ mà.
Trống đổ dồn, và những giọng hát vang lên theo một ca khúc nhịp
nhàng. Dì Ellen chỉ cho Julie cách cắt bột đã cán phẳng thành những hình tròn bằng một cái cốc uống nước và đục một lỗ ở chính giữa bằng miệng một cái chai nhựa rỗng. Sau khi dì kiểm tra dầu, họ thả bánh rán vào, mỗi lần ba chiếc.
- Khi bánh có màu nâu, con dùng cái muôi lỗ này nhấc lên nhé - dì Ellen dặn. Dì bắt đầu mở các hộp thức ăn và trộn một phần sa lát đậu thật lớn.
Kapugen bước vào để lấy những chiếc yo-yo Eskimo, tức là hai chiếc túi phủ lông thú trên hai sợi dây, để tổ chức thi yo-yo và nhặt một chiếc bánh rán đang để nguội trên giá. Ông tò mò lật lật chiếc bánh.
- Bánh rán Minnesota đấy ạ - Julie nói.
Kapugen cắn một miếng lớn, nói “Ummmm,” và cắn một miếng nữa. - Món này cần cá hồi thì mới thật sự ngon - ông nói.
- Cá hồi à? - Dì Ellen nói, đầy thảng thốt, nhưng Kapugen không nghe thấy. Ông đã đi vội ra ngoài và mở hầm trữ đông, một cái hố vuông sâu hơn ba mét trong lớp đất đóng băng vĩnh cửu. Ông theo thang trèo xuống không gian mười tám độ rồi trở vào nhà với ba con cá hồi to tướng.
- Và giờ tôn vinh cá voi lớn thôi - ông nói, bỏ cá vào một cái túi và hất lên vai. Julie mang bánh rán trong một chiếc rổ lớn, còn dì Ellen mang món sa lát. Gia đình Kapugen nhập cùng những người dự lễ hội theo nhịp trống lãnh nguyên.
Khi dân làng tập hợp, bà Taktuk đứng hẳn lên chiếc xe trượt của gia đình bà.
- Có ai ở đây có chồng và ba con không? - Bà ấy hỏi.
- Tôi - bà Marie hô và cười to chạy tới trước.
- Một miếng chân chèo quý báu cho Marie - bà Taktuk nói, đưa cho bà Marie phần thưởng. Tất cả mọi người vỗ tay khi bà Marie chạy trở lại bếp nhà mình.
- Ai ở đây có răng vàng? - Bà Taktuk hỏi.
- Bác Henry, bác Henry Smith - tất cả mọi người reo lên, và một người đàn ông nhỏ thó lanh lợi vào giữa vòng tròn. Bà Taktuk gọi thêm nhiều người nữa bằng vợ chồng, số con cái, màu áo trùm parka, kích cỡ ủng đạp băng.
- Còn một miếng nữa - cuối cùng bà ấy hô. - Ai ở đây yêu cô Julie nhà Kapugen?
- Con - một chàng trai trẻ lập tức lên tiếng.
- Tôi - cả Kapugen và dì Ellen đồng thời lên tiếng, nhưng đã quá muộn. Peter Sugluk đã nhảy ra giữa vòng tròn và nhận phần thưởng.
Các cậu học sinh nhảy cẫng lên và cười lớn còn các cô gái rúc rích. Đám người lớn mỉm cười và nói những câu bông đùa. Julie bước ra sau Kapugen và vùi mặt vào chiếc áo attigi, loại áo trùm parka mùa hè của ông rồi hé mắt nhòm qua.
Peter nhận một tảng chân chèo lớn và, giơ tảng thịt lên cao, bước lại chỗ dì Ellen và đưa cho dì. Anh mặc quần áo truyền thống, một chiếc áo trùm parka nai sừng tấm viền lông sói.
Peter quỳ gối, tạo thế xoạc thật rộng, và giậm ngón chân. Mấy tay trống bắt theo nhịp của anh khi anh nhảy ở giữa vòng tròn.
Peter nhảy rất nhẹ nhàng và duyên dáng. Anh chìa tay ra khi nhịp theo một nhịp điệu phức tạp với ngón chân, cánh tay và cơ thể. Anh phóng một ngọn giáo tưởng tượng lên trời. Anh lột da một con vật bí ẩn, nạo da, và choàng quanh vai mình. Anh di chuyển rất nhanh nhẹn, dường như anh
giống một con cáo đang đi săn trong tuyết hơn là một con người. Cuối cùng, anh dừng lại và cúi chào dân làng.
- Như mọi người biết - anh nói bằng tiếng Yupik - tôi rất biết ơn cha mẹ nuôi của tôi, Malek và Taktuk. Giờ tôi nhảy cho họ.
Peter nhảy như một con nai sừng tấm băng qua lãnh nguyên, như một đàn ngỗng tuyết tăng tốc trên biển, như một con hải cẩu, như một con cá voi, và như cả một đàn tuần lộc. Bàn tay, bàn chân và cơ thể anh duyên dáng hệt như loài hải âu Bắc Cực. Chưa ai từng được xem màn nhảy múa như thế cả, và họ xem với sự chăm chú mê mải, Julie cũng giống như họ.
Rồi anh gật đầu ra hiệu với cô. Cô lưỡng lự. Kapugen đẩy cô vào vòng tròn, và với một nụ cười, cô bắt đầu nhảy. Cô giơ cao hai tay, xoay cổ tay, uốn các ngón tay, và nhảy trong khi hai chân Peter giữ nhịp. Cô nhảy một vũ điệu của phụ nữ mà cô học được ở Nunivak. Khi điệu vũ của cô kết thúc, cô cúi chào và Peter trình diễn thêm một điệu vũ nữa của nam giới, kết thúc bằng một động tác chân phức tạp và rất nhanh. Rồi anh bước lại phía Julie như thể để đón nhận cô.
- Anh học điệu nhảy ở đâu vậy? - Julie bẽn lẽn hỏi. - Tuyệt vời lắm. - Siberia - anh nói. - Đó là nhà anh.
- Siberia ư? - Cuối cùng Julie cũng biết vì sao giọng anh khác hẳn. Anh đến từ nơi rất xa. - Anh đến đây bằng cách nào? - Cô hỏi.
Anh nắm lấy tay cô và cùng cô bước lên tấm mền để chơi hất mền.
- Cùng với đoàn Vũ công Siberia Yupik - anh nói. - Bọn anh vẫn nhảy ở Barrow và Kaktovik ở Alaska với lại Kraulshavn ở Greenland. Anh từ Provideniya, Siberia đến đây. Tất cả chúng ta đều là một dân tộc, em biết không, chúng ta, những người sống quanh Bắc Cực. Anh nói tiếng Yupik. Em nói tiếng Yupik. Bọn anh săn bắt và đánh cá. Em săn bắt và đánh cá.
Các quốc gia tạo ra biên giới, nhưng các nền văn hóa thì không. Anh ở đây và nhảy những bước giống nhau dù chúng ta chưa từng gặp nhau trước đó.
Anh cúi xuống và nhấc một bên của tấm mền lên. Julie nắm thật chắc, những dân làng khác cũng vậy.
- Thế các bạn khiêu vũ của anh đâu? - Cô hỏi khi mọi người đã vào vị trí xung quanh tấm mền da hải cẩu.
- Họ về nhà rồi. Thời gian chơi thăm của bọn anh hết. Anh thích ở đây. Một hôm anh gặp bố Malek. Ông bảo anh làng Kangik có bò xạ và rằng ông cần người giúp chăm chúng. Anh bảo ông anh biết về chúng. Bọn anh cũng có bò xạ ở phía bên kia Bắc Băng Dương. Thế là anh có thể ở lại, bố Malek và mẹ Taktuk nhận anh làm con, và anh rất hạnh phúc.
- Siberia - Julie nhắc lại.
- Người Eskimo chúng ta bị chia tách bởi chính trị của người da trắng đã quá lâu - Peter nói và nắm tấm mền chặt hơn nữa - đến mức mỗi chúng ta đều quên mất còn những người khác. Nhưng những vũ điệu và ngôn ngữ của chúng ta thì không, chúng vẫn như cách đây cả sáu nghìn năm. Thật thú vị.
- Hup, hup - Kapugen hô, và dân làng hạ tầm mền xuống đất để bé Benjamin có thể bước vào chính giữa. Mọi người thận trọng nhấc mền lên, rồi hạ xuống, di chuyển tấm mền theo nhịp.
- Lên nào!
Benjamin bay bổng gần năm mét trong không trung, vung vẩy hai chân và khua khoắng cánh tay để giữ thăng bằng. Cậu bé lơ lửng trong không trung một lúc, một thân hình trắng trẻo trong chiếc áo trùm parka, xanh dương viền trắng, rồi rơi xuống. Cậu đáp xuống tấm mền da và lại bay
bổng lên. Ba lần cậu vọt lên bầu trời xanh và đáp xuống. Sau đó mọi người cùng nghỉ ngơi.
Sau Benjamin, đến lượt Edna Ulugak được tung lên. Cô bé vọt lên như một chú chim nhỏ và làm những động tác duyên dáng bằng tay khiến mọi người reo hò. Khi cô bé mệt, đến lượt anh trai cô nhảy.
Trò hất mền tiếp tục cho đến khi tất cả những người muốn chơi đều đã được bay lên xuống như một trái bóng, tạo dáng và nhào lộn khi ở vị trí cao nhất. Khi không còn ai xung phong nữa, tấm mền được cất đi để chờ đến tối.
Julie đưa cho Peter một chiếc bánh rán Minnesota. Anh đeo nó vào ngón tay mình, nhảy một điệu nhảy bánh rán, rồi mới ăn.
- Lạ nhỉ - anh nói.
Bà Marie đưa maktak cho họ trên những chiẽc đĩa giấy, và họ ngồi xuống đất ăn.
- Yurnmm - Peter nói. - Cứ như ở nhà.
- Có một điều anh sẽ thấy không giống ở nhà - Julie nói - đó là ở mé bên này Cực, bọn em không nói bọn em yêu ai đó trừ phi đúng là vậy.
- Bọn anh cũng thế. - Peter nói. - Anh yêu em. - Anh nhìn cô. - Ở Siberia bọn anh biết rất rõ khi nào mình yêu. Ở đây, có vẻ mất thời gian hơn. Ảnh hưởng của người da trắng quá nhiều. Người Mỹ da trắng đợi cho tới khi họ đi học, có việc làm, có nhà. Khi họ thành những người già dặn, họ mới yêu.
Nhai chỗ maktak của mình, Julie nghĩ tới Daniel và cuộc hôn nhân của cô với gã ở tuổi mười ba. Cô nghĩ những người da trắng đã đúng.
Mặt trời chìm xuống và rồi lại mọc lên trên bầu trời. Rất khuya rồi. Nhận thấy dì Ellen đang thu dọn, Julie đứng lên để giúp dì. Peter cũng
đứng lên.
- Julie - anh nói, cầm lấy tay cô và dẫn cô rời khỏi đám đông - anh cũng muốn nói với em về đàn sói của em.
Cô kêu lên đầy sợ hãi:
- Anh biết chúng ư?
- Anh biết.
- Bằng cách nào? Bằng cách nào? - Cô hỏi.
- Con sói - anh nói, như thể lẽ ra cô nên biết hơn là hỏi - nói với em bằng tình bạn.
- Kapu là một con sói hoang - cô trả lời gay gắt. - Vậy thôi. Cô chạy tới chỗ dì Ellen.
- Julie. - Peter bắt kịp cô và lại kéo cô sang bên. - Đêm qua Kapu và đàn của nó đã giết một con bò xạ.
Julie xoay phắt lại.
- Không - cô kêu lên. - Không, không phải. Nó đang ở đèo Anaktuvuk với lũ tuần lộc mà.
- Gấu xám đã phá đổ hàng rào - Peter nói khẽ và từ tốn. - Anh đã đuổi nó vào sâu trong đất liền bằng súng trường bắn lên trời. Trong lúc anh đi, đàn sói đã mò vào. Lúc anh tìm thấy chúng thì chúng bỏ lại cái xác. Chúng bỏ chạy. Anh đã sửa hàng rào và đợi xem chúng có quay lại không. Chúng không quay lại.
- Không, Peter, không - Julie kêu lên. - Bố Kapugen sẽ giết chúng mất. Cô chạy đi vài bước và quay lại.
- Xin đừng nói với bố - cô nói. - Em phải tự làm việc đó.
[1] CB radio (Citizens band radio - sóng phát thanh công dân) là một hệ thống phát thanh di động mặt đất cho phép liên lạc thoại hai chiều ở khoảng cách ngắn giữa các cá nhân, sử dụng các máy phát thanh hai chiều hoạt động trên 40 kênh gần 27 MHz (11 m) ở dải tần số cao (sóng ngắn).
[2] Gallon, đơn vị đo chất lỏng, tương đương 3,78 lít ở Mỹ. [3] Từ ngữ trong tiếng Eskimo để chỉ lông bò xạ.
[4] Chim nham lôi, một giống chim thuộc họ gà gô.
[5] Súng trường .22 hay còn gọi là súng .22LR là loại súng sử dụng đạn có đường kính khoảng 0,22 inch (tương đương 5,7mm).
[6] Lều Quonset là kết cấu đúc sẵn rất nhẹ bằng thép mạ kẽm lượn sóng có mặt cắt hình bán nguyệt. Tên gọi Quonset xuất phát từ địa điểm sản xuất đầu tiên là Mũi Quonset thuộc Trung tâm Lữ đoàn Hải quân Davisville ở Davisville, đảo Rhode.
[7] Nguyên văn “gill net” là loại lưới rất thông dụng để bắt cá. Lưới thường được bố trí thành đường thẳng, có các phao cách đều nổi trên mặt nước. Khi bơi qua chỗ giăng lưới, cá chỉ chui lọt nửa người qua mắt lưới và sẽ mắc nắp mang vào sợi lưới nên không thoát ra được.
[8] Mỡ cá voi.
[9] Còn gọi là lemmut, một loài chuột nhỏ sống ở địa cực, có đặc tính thỉnh thoảng tự lao xuống biển chết hàng loạt trong quá trình di trú. [10] Nguyên văn “graylings”, một loài cá nước ngọt thuộc họ cá hồi. [11] Nguyên văn “the lower forty-eight”, một thuật ngữ chỉ toàn bộ 48 bang liền kề nhau của Hoa Kỳ, không tính Alaska và Hawaii. [12] Nguyên văn “blanket toss”: trò chơi nhảy cao lên không trung nhờ một tấm vải được căng ra để tạo sức bật. Hiện nay người ta đã thiết kế
các giàn nhún chuyên dụng để chơi.
[13] Nguyên văn “a band shell”: là bục chơi nhạc phía sau có màn hướng âm tạo hình lõm như vỏ sò.
PHẦN II: SÓI NON AMY
JULIE CẢM THẤY MẤT PHƯƠNG HƯỚNG NHƯ HỒI cô ở trong trận báo tuyết mù mịt. Cô đứng bất động nghĩ về những gì Kapu đã làm. Những người chơi trống đã cất trống đi, thức ăn thừa đang được mang về nhà, và đám trẻ con buồn ngủ được bê vào giường. Bố Kapugen và dì Ellen đang dạy Benjamin, Roy, và bé Edna Ulugak những động tác chân và tay của vũ điệu tuần lộc, nhưng Julie chẳng hề nhìn thấy gì. Cô chỉ nhìn thấy số phận kinh khủng cho đàn sói của cô.
Cô thậm chí không nhìn thấy Peter, vẫn đang đi lùi phía sau và theo dõi cô. Trong ánh nắng lờ mờ lúc một giờ sáng, trông anh như thể được đúc bằng đồng vàng.
Julie bước tới chỗ chiếc xuồng vừa cứu được của Kapugen và ngồi xuống. Cô trân trân nhìn dòng sông đang nổi sóng. Nước đã yếu bớt, nhưng những tảng băng khổng lồ vẫn trồi lên, vỡ bung, chìm xuống và lại trồi lên tít phía dưới dòng. Tiếng gầm gừ của mùa băng vỡ thật dễ chịu. Đó là bức tường âm thanh ngăn cô với cuộc vui giờ đã ngủ say của làng Kangik. Cô có thể tập trung vào những việc cần làm cho đàn sói của mình.
Chắc giờ Kapu đã có con, cô nghĩ. Nó sẽ không đi xa chúng, và vì thế cô lập một kế hoạch.
Tâm trí cô lọt vào tiếng loẹt xoẹt từ máy bộ đàm CB của Kapugen.
- Căn cứ Cáo Trắng - cô nghe thấy vậy. - Đây là Căn cứ Cứu hộ Wainwright. Anh hiểu tôi chứ, Kapugen? Hết.
Julie im lặng ngồi nghĩ về Kapu. Cuộc gọi được lặp lại thì cô mới lắc đầu và vội vã đi vào nhà. Cô bật CB.
- Căn cứ Cứu hộ Wainwright, tôi nhận rồi. Kapugen không ở đây. Hết.
- Căn cứ Cáo Trắng. Đây là cuộc gọi tìm kiếm và cứu nạn. Khẩn cấp. Khẩn cấp. Cô tìm ông ấy được không? Hết.
- Tôi sẽ gọi ông ấy. Tôi ra ngoài.
Kapugen là thành viên Đội Tìm kiếm Cứu nạn Dốc Bắc. Người ta cần ông. Julie chạy đi.
Cô tìm thấy bố Kapugen, dì Ellen, và cô Uma đang nhảy trong ánh nắng gần nhà thờ. Bọn trẻ con đã đi, và cô Uma đang hướng dẫn dì Ellen cách di chuyển bàn chân để biểu diễn một điệp khúc đặc biệt trong điệu nhảy của nữ. Dì Ellen làm theo bước chân của cô ấy hết sức điệu nghệ. Julie chạy tới chỗ bố Kapugen.
- Aapa - cô nói. - Đội Tìm kiếm Cứu nạn cần bố.
Kapugen ngừng nhảy và nắm lấy tay dì Ellen, vội vã cùng dì về nhà. Julie chậm rãi theo sau, ngẫm nghĩ những lời nói với bố Kapugen về Kapu và con bò xạ.
Khi cô vào nhà, bố Kapugen đang mặc chiếc áo bay của ông.
- Tin không hay - ông nói. - Một luật sư cùng vợ anh ta từ Barrow đến bị lạc ngoài biển. Trước khi có bão, họ lên xuồng ra khơi đến Vịnh Kuk. Kể từ đó không có tin gì của họ. Bố sẽ bay ra để xem có tìm được họ không.
Ông bước đến máy CB và bật lên.
- Anh Malek - ông nói vào loa - Kapugen đây. Anh nghe tôi nói không?
Ngừng một lúc.
- Tôi nghe rồi, Kapugen, nhưng không rõ lắm. Tôi đang ngủ. Hết.
- Tỉnh táo đi, phi công phụ của tôi - ông nói - và gặp tôi ở lều Quonset. Hai người mất tích ngoài biển. Đi đây.
Ông tắt bộ đàm, hôn dì Ellen, và vỗ má Julie.
- Bố sẽ về - ông nói.
- Aapa. - Julie chạy ra cửa cùng ông. - Con có chuyện phải nói với bố.
- Để sau, để sau - ông nói, và lao vào ánh nắng màu đồng của những giờ khắc còn lại trong ngày.
- Bố con phải tìm họ - dì Ellen nói với theo sau Julie.
- Đất nước này có không ít chuyện buồn.
- Hẳn là vậy rồi - Julie nói, và leo lên iglek.
Dì Ellen đi vào phòng ngủ và buông rèm để dì có thể ngủ được. Đàn chó sủa, máy bay của Kapugen cất cánh, và làng Kangik im phăng phắc. Lễ hội Nalukataq đã kết thúc.
Kapugen đi hai ngày. Khi trở về, ông ủ rũ và trầm tư. Ông dừng lại chỗ nhà kho để kể với bà Marie và vài người đi mua đồ rằng ông đã tìm thấy chiếc xuồng bị lật úp trên một bãi biển hoang vắng. Nó trống trơn. Cuốn nhật ký hải trình của vị luật sư cho biết anh ấy đã quay về khi nhìn thấy cơn bão đã giam chân Julie và dì Ellen. Nó đã đuổi kịp ông ấy. Những người đi chợ lắc đầu khi nghe tin ấy. Họ biết những gì Hilla, vị thần thời tiết, có thể làm, và họ rất buồn.
Tuần tiếp theo Kapugen đi đi về về và bận rộn đến mức không thể nói chuyện với Julie hay tới chỗ bãi quây gia súc. Ông và bác Malek bay đi bay về Barrow vì những vấn đề pháp lý cho gia đình vị luật sư rồi tới các
bãi biển và mũi đất vắng vẻ để tìm kiếm xác họ. Bác Malek giao việc quản lý đàn bò cho Peter.
Julie đợi cơ hội nói chuyện với bố Kapugen. Cô đọc thêm một số sách mới mà cô tìm được khi giúp dì Ellen dọn dẹp phòng học cho mùa hè. Cô bắt cá, cho chó ăn, và kiểm tra hàng rào bãi quây. Đến chiều muộn, cô ra lãnh nguyên và ghi chép dấu vết của các loài động vật có vú và các hoạt động của chim chóc. Cô đang thực tập cho kế hoạch cô đã vạch ra.
Đàn uminmak đang trút bỏ lượng lớn qivit khi đổi mùa.
Peter đến nhà nhờ Julie giúp thu gom lông bò. Cô nhận lời, háo hức lấp đầy quãng thời gian cho tới khi cô có thể nói chuyện với bố Kapugen. Khi họ xong việc, cô lại ra lãnh nguyên và lắng nghe những thông điệp từ đàn sói của mình.
Một buổi chiều, hai con bê chào đời, và Julie chạy một mạch về nhà, mái tóc đen của cô tung bay phía sau.
- Dì Ellen - cô nói đầy phấn khởi - Viễn Bắc có thêm hai bạn mới rồi.
- Thêm hai con bò nữa - dì Ellen nói, mỉm cười. - Tốt quá. Tốt quá. Chẳng mấy chúng ta sẽ có một đàn bò đủ lớn để công việc kinh doanh này tự trang trải được. - Dì mở sổ ghi chép và ghi lại những con bê mới sinh. - Chúng là đực hay cái?
- Cả hai đều là con cái - Julie đáp.
- Tốt quá. Thế nghĩa là sẽ có thêm những con bê nữa.
- Chúng ta ăn mừng thôi - Julie nói. - Con sẽ bắt cho dì acbum, loại cá hồi ngon nhất. Chúng bắt đầu từ biển bơi ngược vào sông rồi.
- Tuyệt lắm - dì Ellen nói. - Nhưng nấu theo kiểu Minnesota nhé. Julie không mất nhiều thời gian bắt cá. Cô lạng cá bằng những động
"""