"
Chuyện Chữ Nghĩa Tiếng Anh - Nguyễn Vạn Phú full prc pdf epub azw3 [Ngoại Ngữ]
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Chuyện Chữ Nghĩa Tiếng Anh - Nguyễn Vạn Phú full prc pdf epub azw3 [Ngoại Ngữ]
Ebooks
Nhóm Zalo
CHUYỆN CHỮ NGHĨA TIẾNG ANH
Nguyễn Vạn Phú
Published by Nguyễn Vạn Phú at Smashwords Copyright 2013 Nguyễn Vạn Phú
Tạo lại eBook (10/01/‘16): QuocSan.
MỤC LỤC:
Smashwords Edition, License Notes Lời nói đầu
Cái gì khó nhất?
Tiếng Anh và kiến thức phổ thông
Tiếng Anh trên đường thay đổi
Văn quảng cáo
Chuyện đã lỡ nhưng…
Khi tác giả chơi chữ
Làm sao dịch cụm từ “lên Dream”
Tiếng Anh trong họp hành
Thưởng thức chuyện tiếu lâm tiếng Anh Văn formal & informal
Chức vụ và những rắc rối về ngôn ngữ “Dịch là phản”
Chữ và nghĩa
Những điều kỳ lạ trong tiếng Anh
Chuyện dài quảng cáo bằng tiếng Anh Tầm quan trọng của người phiên dịch Cẩn thận với những từ này
Lại những từ nhiều nghĩa
Viết tắt không hẳn là đơn giản
Không có gì đáng cười với những từ này Số và chữ số
Hồ sơ xin việc làm: tiếng Việt hay tiếng Anh Bắt đầu bằng cụm từ
Vừa đọc vừa đoán trước
Rắc rối chuyện tên tuổi
Tiếng Anh ở châu Á
Cái gì cũng nhất
Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau
Có mấy loại du lịch?
Khi công ty đổi tên
Mỹ không dùng từ Orient nữa
Từ AND đầy quyền lực
Hù nhau bằng Google
Còn lại cái tên
Chơi với chữ
Khi người Anh dùng điển cố
Đọc tin để kinh doanh
Chuyện lên xuống của đồng yen
Thị trường xuất gạo yên ắng
Chuyện dễ nhầm
Chứng khoán, cổ phiếu và trái phiếu Chuyện BMW, VW với Rolls-Royce và Bentley Hết tên để đặt?
Oxford ra ấn bản mới
Sherlock Holmes và tiếng Anh
Búp bê và tiếng Anh
Nói mãi mà không nhàm
Khủng hoảng và tiếng Anh
Smashwords Edition, License Notes
This ebook is licensed for your personal enjoyment only. This ebook may not be re-sold or given away to other people. If you would like to share this book with another person, please purchase an additional copy for each recipient. If you’re reading this book and did not purchase it, or it was not purchased for your use only, then please return to Smashwords.com and purchase your own copy. Thank you for respecting the hard work of this author.
Lời nói đầu
Bạn từng học tiếng Anh vài ba năm trở lên, đã lấy chứng chỉ B, thi TOEIC, thi cả Toefl nữa. Bạn sử dụng tiếng Anh khá thông thạo trong hầu như mọi tình huống bình thường, nhưng đôi lúc bạn vẫn cảm thấy mình thiếu một cái gì đó, một kỹ năng nào đó có thể giúp bạn nắm bắt được toàn bộ ý nghĩa của những câu nói hay bài viết bạn gặp phải hàng ngày.
Cuốn sách này dành riêng cho bạn. Nó không phải là sách hướng dẫn nghe hiểu hay đọc hiểu mà chỉ đề cập đến một phần nhỏ rất căn bản của kỹ năng hiểu tiếng Anh; làm sao giải quyết những khác biệt trong vỏ bọc hai ngôn ngữ để có thể hiểu tường tận mọi câu tiếng Anh, kể cả những hàm ý, những lối chơi chữ, óc khôi hài của dân Anh và những cách dùng mới của các câu thông dụng.
Lấy một ví dụ đơn giản nhất: nghe câu way to go! Bạn sẽ nghĩ nó dễ quá và không cần quan tâm. Rằng way là con đường to go là đi, vậy way to go là đi theo đường nào (?). Khá hơn, bạn có thể gắn cho nó một nghĩa đúng là có dùng trong thực tế: đường còn xa, còn lâu mới xong.
Nhưng thật ra way to go với dấu chấm than mang nghĩa tán thưởng, “Chà, hay quá!” Một nước cờ hay, một giải pháp tức thời, một cú banh tuyệt vời, tất cả được tán thưởng bằng câu “Way to go!”.
Một ví dụ khác: beats me. Trả lời phỏng vấn báo chí về dự báo thị trường máy tính cho đến năm 2015, chẳng hạn, một doanh nhân tuyên bố: “Beats me!” Trong trường hợp này, beat không còn mang ý nghĩa đánh đập nữa, người này chỉ muốn nói: “Tôi không biết”.
Hãy xét một ví dụ phức tạp hơn. Trong một bài báo viết về sự phục hồi của nền kinh tế Nhật Bản, tác giả viết: “Is Japan back and badder than ever?” Có bao giờ bạn thấy từ bad (xấu xa) dùng dạng so sánh là badder chứ không phải là worse chưa? Thật tuyệt! Nếu dùng worse câu đó sẽ vô nghĩa, kinh tế hồi phục sao lại xấu đi? Để diễn đạt ý Phải chăng nước Nhật đã trở lại [độc chiếm thị trường] và càng mạnh hơn bao giờ hết [trong vai trò lấn chiếm thị trường nước Mỹ]?, tác giả viết rất gọn và làm các nhà ngữ pháp chưng hửng rồi e phải gật gù khen hay, ghi vào một quy tắc ngoại lệ nữa. Thật ra
trong ngôn ngữ tiếng lóng của Mỹ có từ bad (với dạng so sánh badder, baddest) mang nghĩa rất tốt, tài giỏi. Chứng kiến một cầu thủ thi đấu xuất sắc, nếu cổ động viên hét lên, “You’re bad” là họ đang khen đấy.
Hy vọng cuốn sách nhỏ này sẽ đem đến cho bạn những kinh nghiệm bổ ích, giúp bạn vượt qua những chướng ngại của rào cản ngôn ngữ.
Cái gì khó nhất?
Đối với câu hỏi, học tiếng Anh cái gì là khó nhất, phần lớn cho đó là cách đọc, cách phát âm. Một ít người nói ngữ pháp tiếng Anh rắc rối. Theo tôi, khó nhất với người Việt chúng ta khi học tiếng Anh là cách dùng từ.
Bạn thử nghĩ mà xem, người nào đã học qua tiếng Anh đều biết từ company là công ty. Thế nhưng xem phim, nhất là loại phim hình sự cảnh hai nhân vật ngồi trong xe bỗng một người nhìn vào kính chiếu hậu thốt lên, “We’ve got company” thì từ company qua cách dùng trong tình huống buộc ta phải hiểu là cái đuôi – Có kẻ theo dõi chúng ta đấy. Rồi company trong câu We’re judged by the company we keep lại có nghĩa bạn bè – Người ta thường xét đoán bạn qua bạn bè bạn giao du.
Tuyệt nhất là một quảng cáo sử dụng lối chơi chữ, gán luôn cho company cả hai nghĩa trên. Một công ty bao bì nổi tiếng viết: We aren’t just known for our company. We’re known for the company we keep. Từ company đầu tiên có nghĩa đen là tên tuổi công ty còn từ company trong câu sau vừa có nghĩa bạn hàng vừa có nghĩa công ty khác. Chúng tôi nổi tiếng không chỉ nhờ tên tuổi của công ty. Người ta còn biết chúng tôi qua các công ty bạn hàng của chúng tôi nữa.
Ở một mức độ khó hơn, ví dụ rather và fairly đều dịch là khá nhưng khi dùng trong câu chúng lại mang nghĩa khác nhau xa. We’re having rather cold weather for October – Tháng Mười mà thời tiết như thế này là hơi lạnh. Như vậy rather mang ý chê, thất vọng. Trong khi đó fairly mang ý khen, Oh, yeah, he’s fairly tall for his age. Cho nên nếu một em học sinh, đọc xong một bài tập và nói, “Oh, it’s fairly easy” sẽ khác với một em khác cho rằng bài tập đó rather easy. Có thể nói em đầu tiên khiêm tốn hơn và em thứ hai hơi chủ quan.
Phần lớn những trường hợp cách dùng từ ảnh hưởng đến câu văn đều được giải thích rõ trong các cuốn sách ngữ pháp biên soạn nghiêm chỉnh. Như từ must và have to. Ở mức sơ cấp, sách giáo khoa cho hai từ này là đồng nghĩa; đến mức cao hơn, sách sẽ cho những ví dụ để người học thấy sự khác nhau giữa hai từ. Ví dụ dễ nhớ nhất là một anh chàng đến nhà người yêu chơi, một lúc sau,
nhìn đồng hồ và nói, “I’m afraid I have to go now” (vì hoàn cảnh khách quan như bận việc mà phải đi chứ anh ta không muốn về chút nào). Ngược lại, nếu anh ta nói, “I must go now” là anh này tỏ ý không muốn ở chơi nữa. Một cô thấy một kiểu áo mới đẹp quá và nói, “I must save money to buy this”. (Quyết định phải để dành tiền là ngay lúc đó). Nhưng một cô khác khi có ai hỏi vì sao lại tằn tiện đến thế bèn giải thích, “I have to save money to go to university”. (Quyết định dành dụm ít tiền để vào đại học là chuyện có chủ ý từ lâu).
Các cuốn từ điển biên soạn công phu đều có thêm phần gọi là Usage ghi rõ cách sử dụng từ nào đó khác biệt với những từ tương tự với nó như thế nào. Ví dụ hai từ đều có nghĩa là liên tục – continuous và continual. Nhưng continual loss of power during the storm có nghĩa là mất điện liên tục suốt trận bão (có điện rồi lại mất, rồi có rồi mất tiếp…). Còn continuous loss of power during the storm lại là mất điện hẳn suốt trận bão.
Ngược lại có rất nhiều trường hợp sự tinh tế trong cách dùng từ phải qua thực tế mới phát hiện ra. Ví dụ ai cũng biết housewife là người nội trợ nhưng đàn bà Anh, Mỹ rất ghét từ này, họ cho rằng nó hạ thấp vai trò của phụ nữ và thích dùng từ homemaker hơn. Hoặc có nhiều từ đổi nghĩa trong văn cảnh được dùng. It’s an inside job là gì bạn có thể đoán được không? Một công ty bị mất trộm, nếu có người tuyên bố như trên, ý anh ta nói có tay trong.
Trở lại loại từ thường dùng trong tiếng Anh đơn giản nhất nhưng gây khó khăn cho người học vì được dùng theo nghĩa mới, chúng ta có thể lấy bất kỳ từ nào bạn biết. Ai từng học tiếng Anh đều biết từ good. Nhưng nó được dùng trong câu sau thì phải dè chừng: I’m moving to Europe for good vì for good là thành ngữ mãi mãi, đi luôn. Ngay cả những cụm từ xem chừng vô hại như as good as tưởng đâu là thể so sánh bằng nhau nhưng thật ra chúng mang nghĩa hầu như, gần như. The US$2,000 motorbike is as good as new.
Hay cũng từ good dùng trong câu này có nghĩa tương đương với very hay completely: I’ll do it when I’m good and ready. Như vậy, người học hay người sử dụng tiếng Anh cần tạo cho mình một thói quen luôn cảnh giác trước các từ đã học nhưng khi dùng trong câu không còn bóng dáng nghĩa quen thuộc cũ nữa. Đọc câu: “A top-of-the-range Yamaha two-stroke [motorbike] will be yours
for the best part of US$6,000”. bạn phải mạnh dạn xem lại từ điển loại tốt thử best còn có nghĩa gì khác để hiểu đúng cả câu. Bạn sẽ học thêm nghĩa mới của cụm từ for the best part of là most, almost: Giá một xe Yamaha hai thì loại tốt nhất gần cả 6.000USD.
Ngay cả trong loại từ thương mại chúng ta cũng gặp những trường hợp này. Ai cũng biết trade là buôn bán, trao đổi, nghề nghiệp nhưng khi dùng với các từ down, up, in, on lại có những hàm ý khác nhau. Bạn có một chiếc xe, đem đổi lấy một chiếc tốt hơn, bù tiền thì dùng trade up, đổi xe cũ hơn, nhận một khoản tiền bù dùng trade down, còn trade in mang nghĩa chung chung, chỉ chú trọng việc đổi hàng cũ lấy hàng khác. Trade on mang nghĩa xấu: lợi dụng; như câu children of celebrities who trade on their family names.
Tiếng Anh và kiến thức phổ thông
Người muốn nắm vững tiếng Anh thường phải gắn quá trình học với quá trình tích lũy kiến thức phổ thông. Tiếng Anh là ngôn ngữ động, hàng ngày có không biết bao nhiêu khái niệm mới được đưa ra, có thể từ cũ dùng với nghĩa mới hay người ta sẽ tạo ra hẳn những từ mới. Nếu người dùng không làm quen với những khái niệm này trước, thì chắc chắn không bao giờ tiếp thu nổi tiếng Anh như nó được sử dụng trong cuộc sống.
Lãnh vực có nhiều khái niệm mới có thể kể đến tin học nói riêng và khoa học kỹ thuật nói chung. Lấy câu sau làm ví dụ, “Wired Ventures is going public soon, it’s the initial public offering of a company that has all the right stuff: cutting edge, multi-media, interactive and Internet”. Đối với các bạn học tiếng Anh thương mại, có thể những khái niệm going public (sắp đưa lên thị trường chứng khoán – sắp niêm yết) và initial public offering (lần bán cổ phần đầu tiên ra thị trường) không gây khó khăn gì. Nhưng họ vẫn cần phải biết về công nghệ thông tin và mạng Internet để hiểu các từ khác.
Nhiều lúc kiến thức phổ thông này chỉ là chuyện trà dư tửu hậu nhưng sẽ giúp bạn hiểu các loại điển cố tân thời dùng trong tiếng Anh. In a car chase worthy of O.J. Simpson, he was stopped at the border post. Vài năm nữa khi vụ án O.J. đã bị quên lãng, ngay chính người Anh cũng sẽ không hiểu câu trên là một so sánh vụ rượt đuổi bằng xe với vụ Simpson, cầu thủ người Mỹ bị buộc tội giết vợ, lái xe chạy trốn cảnh sát Mỹ được truyền hình trực tiếp khắp nơi, ầm ĩ một dạo.
Một tít lớn trên tờ Newsweek chạy nguyên hai trang báo, “Drip, drip, drip” với bối cảnh là bức hình vợ chồng Bill Clinton. Nếu các bạn biết hai người này đang gặp khó khăn vì vụ Whitewater, chắc bạn sẽ biết ngay, tít báo hàm ý rằng vụ Whitewater như những giọt nước khó chịu cứ nhỏ lên đầu gia đình Clinton nhất là trong mùa bầu cử.
Đến mùa Thế vận hội, xin mời các bạn đọc câu sau: “Who is the top sportsman of the modern era? A new Eurosurvey found that men looked to the football field, the track and the ring. But women’s hearts were on the slopes!”.
Đây là một câu khá khó nhưng các bạn quen thuộc với tên tuổi các ngôi sao trong thể thao, đối chiếu những tên tuổi này trong bản nghiên cứu, bạn sẽ hiểu rằng trong khi nam giới thường chọn các ngôi sao bóng đá, điền kinh (the track) và quyền Anh (the ring), thì phụ nữ lại chọn các vận động viên trượt tuyết (the slopes).
Một câu khác liên quan đến bóng đá: “The last Euro Cup was another corporate sponsorfest”. Sponsorfest là một từ mới đặt ra, chắc chắn các bạn chưa tìm thấy nó trong từ điển. Vì các sự kiện thể thao lớn là dịp các công ty lớn quảng cáo sản phẩm thông qua hình thức bảo trợ nên Euro 92 cũng là một dịp các tập đoàn đa quốc gia tranh quyền bảo trợ.
Kiến thức trong nghề cũng rất cần nhưng khi dùng những từ chuyên môn thông thường người viết phải giải thích. Khi viết về tệ nạn làm bạc giả nhất là tờ 100USD, có tác giả viết: “Known in the trade as supernotes, high-quality counterfeits are produced…” Nhờ vậy bạn sẽ biết từ supernotes là giấy bạc giả tinh vi, một tiếng lóng của dân trong nghề.
Rõ ràng là một số kiến thức nhất định về thời sự sẽ giúp bạn rất nhiều trong việc đọc hiểu tiếng Anh. “It’s not yet become the barnyard that mad cow disease is in Europe, but hog cholera is threatening Taiwan’s US$43 billion pork industry”. Nếu bạn còn nhớ vụ bò điên từng gây điên đầu cho người Anh, nhờ đọc tin vắn này bạn sẽ biết rằng Đài Loan cũng đang gặp nạn dịch tả lợn có nguy cơ mang đến một hậu quả không kém phần nghiêm trọng.
Riêng với các bạn đang sử dụng tiếng Anh cho công việc kinh doanh của mình, kiến thức trong thương trường, một sự hiểu biết tập quán kinh doanh của quốc tế là điều không thể thiếu nếu các bạn muốn tiếng Anh của mình đem lại những thông tin cần thiết.
Stocks of Cathay Pacific Airways rebounded sharply yesterday – Cổ phiếu của hãng hàng không Cathay Pacific lại lên giá. Nhưng out of stock là hết hàng và I took no stock in her statement là tôi không tin lời tuyên bố của bà ta.
Thường thì các loại kiến thức này hỗ trợ cho nhau thành một vốn kiến thức phổ quát. “Won hits new low on trade deficit jitters” Nếu bạn biết đơn vị tiền tệ của Hàn Quốc là đồng won, bạn sẽ biết câu
trên mang nghĩa, “Đồng won sụt giá đến mức thấp nhất vì nỗi lo cán cân mậu dịch thâm hụt”.
Tiếng Anh trên đường thay đổi
Chuyện bên Anh. Một cây bút nổi tiếng của một tờ báo tiếng Anh bị biên tập viên gọi lên vì đã viết: “The United Nations had impacted on events”. “Không được viết thế, impact đâu phải là động từ”, biên tập viên nhắc nhở. Tác giả bài báo bèn lấy một cuốn từ điển mới nhất ra chỉ cho biên tập viên một mục từ mới toanh: “impact: (v) to have an impact or strong effect (on)”. với câu ví dụ: “Each generation has impacted on the way we write and speak”.
Trước đây không có cuốn từ điển nào ghi impact là động từ cả. Thế đấy, tiếng Anh là một ngôn ngữ đầy biến động. Nếu cách đây 30 năm các nhà ngữ pháp từng làm ầm ĩ vì chuyện dùng từ contact như động từ, bây giờ chuyện đó đã trở thành bình thường. “This past January I was contacted by a lawyer who said he needed my help”.
Tuy nhiên vẫn còn rất nhiều nhà ngữ pháp phản đối chuyện dùng impact như động từ. Phản đối thì phản đối, cuộc sống vẫn sinh động với hàng ngàn câu, trong đó từ impact (động từ) vẫn được sử dụng hàng ngày.
Một ví dụ khác, trước đây on to được viết thành hai từ như định nghĩa của từ điển Oxford năm 1981. Đến từ điển 1991, onto đã được chấp thuận như một từ và on to chỉ được dùng thành hai từ khi on là một phần của động từ trước đó. He moved on to the next platform khác với He jumped onto the next platform.
Nhà xuất bản Random House vừa phát hành cuốn từ điển Unabridged Dictionary ấn bản mới nhất gồm 2.230 trang với 315.000 mục từ. So với ấn bản trước đó in năm 1967, lần này các nhà soạn từ điển đã đưa thêm hàng chục ngàn từ mới hay định nghĩa mới. Đặc biệt có trên 1.000 từ thuộc loại “mới nhất” được xếp hẳn vào một mục riêng gọi là Addenda Section.
Đây là những từ thông tục, đầu tiên do giới báo chí dùng sau đó được mọi người chấp nhận như một thành phần của kho từ vựng tiếng Anh. Ví dụ to bork là liên tục đả kích một nhân vật nổi tiếng (từ vụ Robert Bork bị công kích đến nỗi không được phê chuẩn làm chánh án tòa án tối cao của Mỹ vào năm 1987). Từ calculus ngoài nghĩa sỏi thận, phép tính bây giờ còn mang nghĩa toan tính, mưu
toan. Có những từ mới xuất hiện như to incentivize là khuyến khích, khích lệ.
Những từ mà khi giới thiệu với các bạn, chúng tôi không thể tìm thấy ở những từ điển nào khác, phải dùng e-mail để hỏi chính nhà làm từ điển vì chúng tôi chưa có cuốn Unabridged Dictionary của Random House. Như drive-by trong câu There was another drive-by in South Central L.A. last night. Đây là một biến thể của từ drive-in của thập niên 60-70 (các loại rạp chiếu phim, tiệm ăn mà người ta có thể lái xe vào để xem phim hay ăn uống) nhưng drive-by là từ của thập niên này mang nghĩa bắn nhau từ trên xe, Đêm qua lại xảy ra một vụ bắn nhau từ trên xe ở mạn nam khu trung tâm thành phố Los Angeles.
Có những từ rất lạ như control freak, chỉ một kẻ luôn mang ý nghĩ phải kiểm soát mọi hành vi cử chỉ của mình và người khác. “The boss wouldn’t let me make a phone call without telling me how to do it better.
He’s a real control freak”. Hay từ deadbeat dad. Trong khi deadbeat bình thường mang nghĩa một kẻ nợ như chúa chổm hay một người thất nghiệp, khi kết hợp với từ dad, nó có nghĩa ông bố sau khi ly dị vợ cố tình làm ngơ, không chịu trả tiền trợ cấp nuôi con. Có những từ đáng buồn như granny dumping, chỉ hành động mang bố mẹ hay ông bà đi thật xa và bỏ rơi họ khi không muốn nuôi dưỡng vì họ đã quá già hay từ managed care, nhà dưỡng lão theo kiểu mới.
Trong kinh doanh, khi công ty bạn thuê một công ty khác quản lý mạng máy tính, hay mướn một công ty dịch vụ nào đó lo chuyện bảo vệ, ngày nay người ta dùng từ outsourcing. Cách cấu tạo từ như kiểu đùa chơi đã trở thành thời thượng ở Mỹ và có những từ đã được chấp nhận như wellness. Người ta lý luận đã có illness thì sao không được dùng wellness để chỉ một tình trạng thể chất và tinh thần tốt như trong câu “I went to a special wellness seminar and learned that I needed to eat more carrots”. Kiểu lý luận như thế đã thấy ở các cặp từ như happy – happiness (bình thường); angry – angerness (ít ai chấp nhận).
Điều đáng ghi nhận là rất nhiều sáo ngữ xuất hiện trong thập niên 1980 vẫn chưa chịu biến mất, và vẫn được giới thiệu trong ấn bản
này. Wake-up call là hồi chuông cảnh tỉnh, một từ bị giới chính khách Mỹ sử dụng nhiều quá nên người thường không ai dám dùng. “The terrorist bombing at Oklahoma City gave America, believing itself free from domestic terrorism, a wake-up call”.
Văn quảng cáo
Văn quảng cáo ắt là loại văn người viết gia công nhiều nhất. Cũng phải thôi. Khi một quảng cáo trên một tạp chí nổi tiếng có thể mất đến 50.000 đô-la Mỹ thì người viết và người duyệt phải cẩn thận cân nhắc từng câu từng chữ cho đáng đồng tiền bỏ ra.
Một đặc điểm nổi bật của văn quảng cáo bằng tiếng Anh là tính ngắn gọn, súc tích. Làm sao đập ngay vào mắt người xem mặc dù họ không cố ý đọc. Một ngân hàng nói, “Bank better, sleep easier” kèm với logo quen thuộc của ngân hàng này nữa là đủ tác dụng. (To bank dùng trong quảng cáo này là giao dịch với ngân hàng, bank better là chọn ngân hàng tốt mà giao dịch).
Quảng cáo bằng tiếng Anh ở Việt Nam trên các báo thường không dám chơi chữ vì đối tượng người đọc đa phần không phải là dân sử dụng tiếng Anh như tiếng mẹ đẻ. Nói tiếng Anh với người châu Á, Đức, Pháp, Ý… tốt nhất là dùng loại tiếng Anh đơn giản. Vì thế bạn sẽ thấy Toyota quảng cáo họ là The World’s Top Brand hay Take pride in ownership of a world-class automobile. IBM thì tuyên bố sản phẩm của họ affordable. Thang máy Otis tự xưng leader in service, Hongkong Bank cho biết Hongkong Bank brings you Vietnam’s first international ATM.
Thế nhưng quảng cáo ở nước ngoài với đối tượng độc giả là người Anh, Mỹ, Hongkong Bank có một câu rất hay. “True greatness lies in being great at the little things” với hình một suốt chỉ có gắn cây kim. Ngân hàng này giải thích “We provide a personalised service that will help keep your portfolio buttoned down with needle sharp attention to detail”.
Như vậy hình cây kim đi liền với needle-sharp attention, quan tâm kỹ đến tận chi tiết và kim chỉ dùng để đính nút áo dùng theo nghĩa bóng keep your portfolio buttoned down, giúp bạn khỏi bận tâm đến giấy tờ, hồ sơ nữa hay quản lý hạng mục đầu tư giúp bạn. Portfolio vừa là bìa kẹp hồ sơ, vừa là các hạng mục đầu tư, danh mục đầu tư.
DHL đã dùng một câu khá hay trên các tờ báo tiếng Anh trong nước “Different countries, different customs, one DHL”. Một quảng cáo khác cũng của DHL “You couldn’t express it better” để đi kèm
với dịch vụ world-wide express, phát chuyển nhanh toàn cầu của công ty này. Dĩ nhiên DHL đã áp dụng lối nói thông dụng dùng theo nghĩa họ mới gán ép.
Người ta thường nói mỗi nước có một phong tục (custom) khác nhau còn customs số nhiều được hiểu là hải quan, và người ta cũng thường nói “diễn đạt như thế là hay nhất rồi”, chứ express ít ai dùng ở dạng động từ theo nghĩa phát nhanh.
Một hãng hàng không quảng cáo ở các nước châu Á thì dùng từ rất giản dị và trực tiếp, nhưng khi quảng cáo tại thị trường Mỹ thì lại sử dụng nhóm từ “Berth of a new era”. Đây là cách chơi chữ của hai từ berth và birth. Người ta thường nói birth of a new era (khai sinh một thời đại mới); ở đây họ nói berth là loại ghế ngồi thời đại mới trên máy bay vừa rộng rãi vừa êm ái!
Một hãng máy tính lớn hàng đầu thế giới có nhiều đối tác và dự án đã quảng cáo ngắn gọn, “Global PartnerChip”. Người ta thường nói global partnership là mạng lưới đối tác khắp toàn cầu. Ở đây hãng này đã thay từ chip (vi mạch) mà vẫn giữ được sự liên tưởng đến câu kia.
Quảng cáo sắc sảo quá cũng nên coi chừng. Như một hãng ô tô giới thiệu một xe đời mới với câu “The car that united the critics”. Câu này rất dễ có tác dụng ngược; lỡ người ta bảo các nhà phê bình cùng đồng tình… chê bai thì sao?
Một khách sạn tại Hà Nội thì hơi kiêu ngạo khi tự cho mình always an oasis of luxuries in the heart of Hanoi, coi như bên ngoài khách sạn đó không có nơi nào sang trọng cả, chỉ mình họ là ốc đảo giữa một Hà Nội còn nhiều thiếu thốn chăng?
Văn quảng cáo thường dùng lợi thế hình ảnh đẹp để chơi chữ, ảnh đi kèm minh họa cho nghĩa đen và từ dùng theo nghĩa bóng. Một tờ báo tự quảng cáo “Only one newspaper keeps you on the right track” với hình bối cảnh là đường sắt chạy tít đến tận chân trời. Như thế on the right track được minh họa theo nghĩa đen bằng hình còn nghĩa bóng thì đã rõ. Hay hơn, quảng cáo này còn một dòng nhỏ week after week after week để bắt chước nhịp tàu chạy đều đặn, không ngừng nghỉ.
Cuối cùng xin giới thiệu hai mẩu quảng cáo rất hay. “At XXX Airlines, we aim to please CEO’s, VP’s, GM’s, MD’s, and other VIP’s who have yet to learn their ABC’s”. CEO là Chief Executive Officer – Tổng giám đốc điều hành, VP (Vice-President) – Phó chủ tịch (Phó Tổng giám đốc), GM (General Manager) – Giám đốc điều hành. Tất cả đều là VIP (Very Important Person) – yếu nhân. Nhưng những người chưa học ABC là trẻ em chứ còn ai vào đó nữa. Như vậy hãng hàng không này chăm lo hành khách từ lớn chí bé và khi đọc lên lại có vần có điệu.
Mẩu kia có cảnh một người chèo đò đang chở con tê giác qua sông, một chiến tích khó tưởng tượng nổi và câu chú thích “and while you’re at it can you make that Internet thing work for us?”, “sẵn dịp, nhờ anh giúp hộ cái mớ Internet đấy cho nó chạy được chứ?”. Quảng cáo như thế chắc chắn công ty dịch vụ vi tính sẽ làm khách hàng yên tâm, chuyện khó thế kia họ còn làm được, sá gì chuyện nối mạng Internet!
Chuyện đã lỡ nhưng…
Một số trường hợp dùng tiếng Anh trong kinh doanh trên bảng hiệu, quảng cáo, rao vặt rất dễ gây hiệu quả ngược: làm người đọc bực mình vì những sai sót nên không ai thèm quan tâm đến nội dung thông tin.
Ví dụ một công ty nước giải khát có nhã ý làm bảng hiệu cho nhiều hàng quán kèm logo của họ. Điều khôi hài là tất cả bảng hiệu đều có từ VIP SHOP to tướng. Khi từ này (cửa hàng dành cho khách quan trọng, khách hạng sang) đi kèm với CAFÉ BÌNH DÂN, TIỆM CƠM CHAY, ÁO QUẦN BÌNH DÂN trông chúng chỏi nhau đến tội.
Một nơi khác cũng tại TPHCM, nhận giặt ủi bình dân có ghi trên tường từ laundry nhưng sợ người ta chưa hiểu nên bèn mở ngoặc giải thích – to wash rất dễ thương.
Một bảng thông báo tại một ngôi chùa ở Rangoon có ghi: “Foot wearing prohibited”. Dĩ nhiên vào chùa, ta phải bỏ giày dép ở ngoài nhưng lẽ ra nên viết đơn giản “Please take off your shoes”. viết như trên sẽ bị hiểu là cấm mang chân vào chùa vì footwear là giày dép nhưng foot wearing trở thành là mang chân cẳng theo mình.
Đặt tên cho công ty cũng là chuyện không đơn giản: Vague Service Pte., Ltd. là tên một công ty ở Singapore. E rằng khách hàng của công ty này sẽ nhận được những dịch vụ mơ hồ không kém. Một trường dạy ngoại ngữ tại TPHCM tự đặt tên là outerspace language school và quảng cáo “độc quyền sử dụng phương pháp phản xạ”. Tên này không có gì đặc biệt nhưng ai lại dùng outerspace language. Không biết ở ngoài khoảng không bao la của vũ trụ người ta nói ngôn ngữ gì, chắc họ được độc quyền sử dụng phương pháp phản xạ vài trăm năm nữa.
Ngay cả ở Anh quốc, có công ty kiểm toán tự đặt tên Swindells & Gentry và ở Úc một công ty khác cũng mang tên Robin Bastard. Swindells là danh từ riêng nhưng quá giống từ swindle (lừa đảo) và bastard là đồ con hoang. Một công ty Nhật chuyên bán các loại hàng gia dụng nhưng lại treo bảng tên Crude (thô lỗ, thô thiển).
Ngay cả những khách sạn nổi tiếng như Shangri-La Hotel tại một tỉnh của Trung Quốc dùng từ Sanity Napkin để chỉ loại khăn ăn đặc
biệt của họ, với ý muốn nói loại khăn này sẽ đem lại sự thoải mái tinh thần cho khách (sanity) nhưng cụm từ này không ai dùng trong khi sanitary napkin lại quá giống và là loại hàng “không nói thì ai mà biết” của phụ nữ hay sử dụng hàng tháng. Một cửa hàng khác tại Tokyo có tên Beauty Brain’s Fanny kèm cờ đuôi nheo ghi Open Fanny. Có lẽ chủ tiệm không biết fanny là tiếng lóng của cặp mông.
Lời văn tiếng Việt trên quảng cáo do dịch quá sát từ tiếng Anh nên cũng gây buồn cười cho người đọc – dịch sát quá không thành tiếng Việt. Chắc các bạn cũng từng đọc trên các báo một quảng cáo có câu, “Cách đây 16 năm, tôi mua máy giặt E. khi con trai đầu lòng mới sinh”. Có lẽ nguyên bản tiếng Anh là… when my first son was born… nhưng dịch thế, người ta lại tưởng anh kỹ sư này mua máy khi trở thành ông nội. Một câu khác trong quảng cáo này viết, “không những giặt sạch mà nó còn không làm mòn và xước quần áo thường thấy ở các máy giặt khác”. Nguyên bản ắt phải có từ which thì tiếng Việt lẽ ra phải thêm sau quần áo nhóm từ “hiện tượng, một lỗi thường thấy…”.
Trong kinh doanh ăn uống cũng có những trường hợp dùng tiếng Anh gây cười. Một quán ăn ở Đài Loan nhắc nhở quý thực khách hãy gọi món ăn với những người hầu bàn đang “standing by or hanging around”. Trong khi ý họ muốn nói những hầu bàn đứng cạnh đấy, nhưng xài từ hanging around lại hàm ý đứng la cà, tha thẩn đâu đó.
Chuyện này còn khá hơn một rao vặt trên tờ Japan Times, ghi cần tuyển female execution staff, mang nghĩa là nhân viên hành quyết nữ!
Thế đấy, ý nghĩa của executive và execution khác xa nhau. Để chấm dứt xin mời các bạn thưởng thức mẩu chuyện tiếu lâm thật ngắn sau, xin chú ý các từ hai nghĩa dễ hiểu sai như balls, buns: In a Chinese restaurant in Auckland, a dim sum waitress told him: “I’ve got chicken feet, fish balls, and sweet buns”. Tom replied: “I’m not perfect myself”.
Khi tác giả chơi chữ
Khi viết về những vấn đề kinh tế, để tránh khô khan, nhiều tác giả áp dụng lối viết hình tượng, chơi chữ để nhấn mạnh ý chính và gây ấn tượng với người đọc. Gặp các trường hợp này người không sử dụng tiếng Anh như ngôn ngữ chính sẽ gặp khó khăn. Vượt qua được cửa ải này, chúng ta sẽ có dịp thưởng thức các bài viết về kinh tế như đang đọc một tác phẩm văn học.
Ví dụ, khi nói về sự suy yếu của nền kinh tế Nhật Bản, có người viết: “Some people said Japan was down for the count, and that was obviously a distorted view”. Trong thi đấu quyền Anh, khi có một võ sĩ bị đánh ngã xuống sàn, trọng tài bắt đầu đếm. Nếu đếm đến 10 mà võ sĩ này không dậy được thì coi như bị hạ nốc ao. Như vậy câu này buộc ta liên tưởng đến hình ảnh nước Nhật như một võ sĩ trên sàn đấu.
Một câu khác dùng rất hình tượng: “Japan’s banks were tallying bad loans of more than $300 billion, dwarfing America’s own housing-and-loan crisis”. Nếu tra từ điển bạn chỉ hiểu từ dwarf là người lùn, động từ dwarf là làm có vẻ nhỏ lại. Nhưng cả câu muốn nói những khoản nợ khó đòi của các ngân hàng Nhật Bản lớn hơn nhiều so với các khoản nợ do xì căng đan cho vay mua nhà ở Mỹ gây ra.
Loại từ này và cách dùng này khá phổ biến. Câu “Honda told to put brakes on new car prices”. dễ bị hiểu nhầm là hãng Honda bị buộc phải gắn loại thắng (phanh) mới nhưng brakes ở đây được dùng theo kiểu chơi chữ là tạm hoãn. Honda bị yêu cầu tạm ngưng tăng giá xe.
Hay trong câu “It seemed Japan Inc. was a façade, the economic miracle was a myth and Pacific Century would last a decade”, Japan Inc. là cách chơi chữ khá nhàm vì được dùng nhiều quá nên đã trở thành sáo ngữ. Có thời người ta xem cả nước Nhật như một công ty khổng lồ (Inc.
Incorporated) sản xuất hàng hóa và đưa chúng tràn ngập khắp thế giới. Đến nỗi nhiều nhà kinh tế xem thế kỷ này là thế kỷ của [nền kinh tế] Thái Bình Dương. Nhưng vì năm năm qua, Nhật Bản gặp
nhiều khó khăn nên hiện tượng đó đã bị phá vỡ như một huyền thoại chỉ kéo dài được một thập niên.
Gần đây kinh tế Nhật Bản đã có chiều hướng phục hồi nên tác giả viết tiếp: “Now the wounded samurai is showing signs of life”. Samurai là võ sĩ đạo nhưng được dùng ở đây như kiểu nước Nhật trong vai trò một cường quốc kinh tế có dấu hiệu hồi sinh. “Shoppers are on the prowl again”. Prowl là đi lang thang, thường dùng để chỉ thú đi tìm mồi nhưng cả thành ngữ on the prowl ở đây lại dùng với shoppers nên diễn tả hình tượng đi mua sắm, săn lùng hàng hóa.
Sau đó tác giả hỏi: “Is Japan back and badder than ever?” Có bao giờ bạn thấy từ bad (xấu xa) dùng dạng so sánh là badder chứ không phải worse chưa? Thật tuyệt! Nếu dùng worse câu đó sẽ vô nghĩa, kinh tế hồi phục sau lại xấu đi? Để diễn đạt ý “Phải chăng nước Nhật đã trở lại [độc chiếm thị trường] và càng mạnh hơn bao giờ hết [trong vai trò lấn chiếm thị phần nước Mỹ]” tác giả viết rất gọn và làm các nhà ngữ pháp chưng hửng rồi e phải gật gù khen hay, ghi vào một quy tắc ngoại lệ nữa. Thật ra trong ngôn ngữ tiếng lóng của Mỹ có từ bad (với dạng so sánh badder, baddest) mang nghĩa rất tốt, tài giỏi. Chứng kiến một cầu thủ thi đấu xuất sắc, nếu cổ động viên hét lên, “You’re bad” là họ đang khen đấy.
Có khi việc chơi chữ thể hiện bằng ý chứ không bằng lời. Một tranh biếm họa vẽ cảnh Bob Dole, ứng cử viên chức tổng thống Mỹ của đảng Cộng hòa gọi điện cho Boris Yeltsin với lời chú thích duy nhất, “Could I borrow Lebed for a few days in November, Boris?” Nếu bạn biết bối cảnh vòng hai cuộc bỏ phiếu bầu tổng thống Nga khi Yeltsin thắng cử nhờ kéo tướng Lebed, người về ba trong vòng một về phe mình, bạn sẽ thấy có sự chơi chữ với ý rất rõ là Dole cần một nhân vật như Lebed mới hy vọng thắng cử trong cuộc chạy đua vào Nhà Trắng vào năm 1996.
Làm sao dịch cụm từ “lên Dream”
Nếu công việc buộc phải dịch từ tiếng Việt sang tiếng Anh, không sớm thì muộn bạn sẽ gặp những từ, cụm từ chỉ có trong tiếng Việt như “đi bia ôm”, “nghệ sĩ chạy sô” sẽ gây cho bạn nhiều lúng túng khi cố gắng diễn đạt qua tiếng Anh. Sự khó khăn này đôi lúc từ những từ đơn giản như “nhà hàng, khách sạn, cơ sở ăn uống” đến các khái niệm khó hơn nhiều như “lớp 10 hệ B”. sự khác biệt giữa hệ dân lập, bán công trong giáo dục.
Trong khi tạm thời có thể dùng restaurants, hotels and eateries, để tránh lặp lại từ restaurants, các cụm từ sau đòi hỏi bạn phải đối chiếu với hệ thống giáo dục của Anh với những từ như public (private) school, independent school, state school, common school, … để chọn từ thích hợp.
Đôi lúc chính quá trình dịch những cụm từ đặc trưng này sang tiếng Anh đã giúp chúng ta nhận ra những vô lý trong cách dùng từ tiếng Việt. Ví dụ chúng ta thường nói những sản phẩm văn hóa độc hại, dù dịch ra thành poisonous cultural products chẳng hạn, chúng ta cũng sẽ không yên tâm vì đã là sản phẩm văn hóa thì làm sao gán cho nó từ độc hại, những phim ảnh khiêu dâm không bao giờ nên phong cho chúng là sản phẩm văn hóa.
Có thể rút ra một nhận xét chung: đừng bao giờ dịch từng từ riêng lẻ rồi ghép chúng thành câu hoàn chỉnh. Một từ trước khi dịch phải đặt nó vào một câu cụ thể rồi tự hỏi nó có nghĩa gì, nó nói lên điều gì trong ngữ cảnh đó rồi tìm từ tương đương trong tiếng Anh. Rộng hơn, phải hỏi cả câu muốn nói điều gì rồi lại diễn đạt bằng tiếng Anh theo cách người Anh nói.
Ví dụ nếu nói theo thói quen, chúng ta rất dễ dịch câu “tham gia hội đồng quản trị” bằng động từ to take part in. Nhưng để cho câu văn tự nhiên nên viết to serve on the Board of Directors. Như vậy việc dịch chủ yếu là dựa vào cách dùng quen thuộc của từ đó, khái niệm đó, hơn là đối chiếu từ điển song ngữ. “Cá nhân kinh doanh sẽ không phải là đối tượng chi phối của Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp” có thể diễn đạt bằng nhiều cách như fall under the jurisdiction of, is subject to, hay is governed by.
Một công ty trực thuộc cơ quan nào đó nên dùng is owned by, is a subsidiary of, an affiliate of hơn là dịch sát belonging to. Nếu dịch theo cách đó, chúng ta sẽ mạnh dạn dùng to do sub-contract work, to be subcontracted by để chỉ chuyện làm hàng gia công.
Thật ra, có những từ bình thường nhưng đôi lúc cũng nên dùng như người Anh nói cho câu văn tự nhiên hơn. Từ “hiện nay” có thể dịch bằng going. Như He paid the workers three times the going rate for similar work on the market. Tương tự, với những từ nhà máy, cơ sở sản xuất có thể thay plant, factory bằng facility.
Đến lúc gặp những khái niệm chưa có trong tiếng Anh, chúng ta có thể mạnh dạn vừa dịch vừa giải thích. Chẳng hạn một tít báo ghi: “Hai triệu băng ghi hình trong luồng trôi nổi vẫn chưa được dán nhãn”. Bạn phải biết băng video trong luồng là gì và ngoài luồng là gì, việc dán tem có ý nghĩa như thế nào trước khi chuyển dịch câu này sang tiếng Anh một cách hoàn chỉnh. Kèm theo là những từ diễn đạt những khái niệm tương đương để sau đó dễ giải thích một cách ngắn gọn: legal, illegal, censored, uncensored, formal distribution network, pirated copies of video films.
Điều này càng rõ nét hơn trong văn nói. Một ông càu nhàu: “Vợ chồng tớ lại vỡ kế hoạch” thì bạn phải hiểu ý anh ta nói his wife is pregnant trong khi vẫn áp dụng family planning. Một ông giám đốc nhắn “nhớ tính cả phần trượt giá nữa nhé” thì ông này muốn nói đến yếu tố inflation trong giá thành sản phẩm.
Trong kinh doanh, nhất là đối với một nền kinh tế như Việt Nam có những khái niệm mới, không thể dùng các từ có sẵn để dịch vì sẽ không chuyển đạt hết ý. Như khi bắt đầu xuất hiện từ cổ phần hóa báo Vietnam Investment Review lần đầu tiên dùng từ equitisation để chỉ quá trình này vì nếu dùng privatisation thì nặng nghĩa tư nhân hóa. Sau đó một thời gian các báo phương Tây khi giới thiệu về khái niệm cổ phần hóa các xí nghiệp quốc doanh nước ta đều phải dùng lại từ này, mặc dù họ có mở ngoặc chú thích thêm rằng đây là cách nói của Việt Nam muốn chỉ một quá trình chuyển một xí nghiệp quốc doanh thành xí nghiệp cổ phần.
Thật ra chính báo chí nước ta cũng phải chấp nhận cách dùng từ mới như thuê khô, thuê ướt (dịch sát từ dry lease, wet lease) để chỉ hai cách thuê máy bay của các hãng nước ngoài. Chấp nhận khái
niệm nhưng có điều chỉnh là trường hợp thường gặp nhất như “chảy máu chất xám” – brain drain chứ không phải là grey matter. Có những lúc để tránh hiểu nhầm có thể dùng một từ khái quát thay vì những từ quen dùng. Chẳng hạn vì khái niệm lương trong tiếng Việt chưa bao gồm sự phân biệt giữa lương công nhật, lương cố định, lương ngoài giờ, có thể dùng compensation, trợ cấp thôi việc – severance package. Nhưng có những từ cần dịch chính xác như lương hậu, ít dùng high pay. Người Anh trong trường hợp này dùng từ handsome hay attractive salaries hay thời gian thử việc, thay vì dùng apprenticeship thì dùng probation period.
Tiếng Anh trong họp hành
Ngôn ngữ tiếng Anh dùng trong họp hành, trong các biên bản khá đặc biệt, thường phải theo một số quy tắc cứng nhắc. Văn phong dùng trong biên bản thường rất formal, rất nghiêm chỉnh.
Trước tiên để có một cuộc họp hội đồng quản trị một công ty X chẳng hạn, ông chủ tịch phải phát ra một thông báo mời họp (official notice for the forthcoming Board meeting). Thông báo thường kèm theo chương trình họp (agenda).
Các quyết định của hội đồng quản trị thường được thông qua bằng cách bỏ phiếu nên các thành viên không thể vắng mặt. Nếu vắng mặt phải cử người đi họp thay. Giấy ủy quyền trong trường hợp này là proxy còn người ủy quyền là appointor.
Người ủy quyền lại vắng mặt vì lý do đột xuất thì theo thông lệ, chủ tịch cuộc họp có quyền thay mặt cho người ấy. Nên trong các proxy forms mới có câu: “I, the undersigned, … being a Director of… hereby appoint… or failing him the Chairman as my proxy to attend and vote on my behalf at the meeting of the Board of Directors of the Company to be held in…on… and at any adjournment thereof”.
Người ký thông báo mời họp thường ghi “By order of the Board” theo nghĩa thừa lệnh, thay mặt hội đồng. Trong khi ký tên và đóng dấu thường là signed and sealed nhưng ký tắt, ký nháy phải dùng initial như câu, “Please initial the agreement to mark your approval”.
Trong cuộc họp chính thức khi nào cũng phải có biên bản (minutes – luôn ở số nhiều). Mở đầu có động tác bầu hay cử chủ tọa phiên họp – designate a chairman of the meeting. Sau đó ông ta sẽ tuyên bố khai mạc phiên họp. XXX presided as Chairman and declared the meeting open.
Nhiệm vụ đầu tiên của ông ta là ghi nhận xem phiên họp có được con số thành viên tham dự quá bán hay quá hai phần ba chưa. Tùy theo công ty, các cuộc họp chỉ biểu quyết hợp lệ khi có đa số thành viên hội đồng tham dự – gọi là quorum. The Chairman noticed that a quorum was present.
Các thành viên có thể thay nhau trình bày các đề xuất (to table their proposals); hay xem xét báo cáo hoạt động của công ty (to review a report).
Biên bản cuộc họp thường có hai cụm từ It was noticed that (Hội đồng ghi nhận) và It was resolved that (Hội đồng quyết định). Ví dụ ông XXX cho biết đã gửi thư xin từ chức ủy viên hội đồng quản trị và sau khi cân nhắc, Hội đồng quyết định chấp nhận cho ông này từ chức, biên bản sẽ ghi: “It was noted that the letter of resignation as a Director of the Company signed by Mr. XXX dated 22th May, 1995 was present. And it was resolved that such resignation be and the same is hereby accepted with effect from the date of such letter.”
Một ví dụ khác, sau một hồi bàn bạc, người thì cử công ty này, người thì đề xuất công ty nọ, Hội đồng cuối cùng nhất trí thuê công ty YYY làm đại diện trong mọi vấn đề tranh chấp, kiện tụng như là hãng luật chính thức của công ty. Biên bản sẽ ghi: “It was resolved that the appointment of YYY as legal counsel to the Company upon their usual terms and conditions be and the same hereby is fully ratified, confirmed, approved and adopted.”
Một thành viên phản đối và yêu cầu ghi vào biên bản, he requested that an objection be recorded in the minutes. Để diễn đạt chuyện công ty chọn mẫu khuôn dấu giao dịch mới, biên bản sẽ ghi: “It was resolved that the seal, an impression of which is affixed in the margin of these resolutions, be adopted as a common seal of the Company”.
Để tránh lặp lại cụm từ It was resolved, biên bản thường ghi chung một mục dưới tiêu đề It was resolved và sau đó bắt đầu các đoạn với từ That như:
That all other documents as tabled at this meeting be noted and approved.
That XXX and YYY be appointed as Special Advisors to the Company.
Nên nhớ các nước, họp qua điện thoại hay qua cầu truyền hình, thậm chí qua video hay mạng Internet đều hợp lệ. Ở mục có mặt, sẽ ghi tên người và chú thích By way of telephone, (video conferencing, tele-conferencing, via the Internet).
Kết thúc cuộc họp, biên bản thường chấm dứt bằng câu: “There being no further business the meeting concluded” hay “There being no further business, the Chairman declared the meeting closed.” Ở
phần ký tên vào biên bản, chúng ta thường bị ảnh hưởng cách viết biên bản tiếng Việt và nghĩ on behalf of là đã đủ. Thế nhưng biên bản tiếng Anh phải ghi “For and on behalf of” mới đủ nghĩa ký thay, đại diện cho một công ty nào đó.
Thưởng thức chuyện tiếu lâm tiếng Anh
Để thay đổi không khí, chúng ta cùng xem tiếng Anh được dùng để tạo hiệu quả gây cười như thế nào. Chuyện tiếu lâm của nước nào cũng vậy, có một thể loại gây cười nhờ vào tính chất ngôn ngữ của nước đó. Việt Nam có loại chuyện nói lái mà có được dịch giỏi đến mấy cũng không làm người nước khác cười được. Chuyện cười viết bằng tiếng Anh cũng khá nhiều yếu tố gây cười nằm ngay trong cách sử dụng từ ngữ.
Ví dụ có dạo báo chí Anh tràn ngập chuyện Diana và Thái tử Charles ly hôn. Khi công nương Diana chịu không nổi cảnh báo chí cứ theo đuổi chụp hình, bà ôm mặt khóc. Báo Anh liền chạy tít “Princess of Wails”. Trong hoàng gia Anh, tước vị của Diana là Princess of Wales (Công nương xứ Wales) nhưng báo đổi thành wails là một từ đồng âm nhưng mang nghĩa than khóc.
Câu chuyện sau mang đậm dấu ấn cách dùng các từ đồng âm để gây cười. A duel was fought between Alexander Shott and John Nott. Nott was shot and Shott was not. In this case it is better to be Shott than Nott.
Some said that Nott was not shot. But Shott says that he shot Nott. It may be that the shot Shott shot, shot Nott, or it may be possible that the shot Shott shot, shot Shott himself. We think, however, that the shot Shott shot, shot not Shott, but Nott. Anyway it is hard to tell which was shot and which was not.
Nếu dịch và để nguyên tên của hai anh chàng này là Shott và Nott, câu chuyện trên chẳng có ý nghĩa gì nữa cả. Còn nếu đọc cả đoạn thật nhanh, đố ai hiểu nổi nghĩa của nó.
Ngay cả trong các danh ngôn, việc dùng nghĩa đen của từ để nói lên nghĩa bóng của câu cũng khá phổ biến. “You cannot propel yourself forward by patting yourself on the back”. To propel oneself forward vừa có nghĩa đen là tự đẩy mình tới trước để đi kèm với cụm từ to pat on the back. Nhưng nghĩa bóng là thăng tiến, và lúc đó to pat oneself on the back lại mang nghĩa tự tán dương mình.
Một thân chủ hỏi luật sư: “My husband has flat feet. Can I get a divorce on that charge?” Ý bà này muốn lấy lý do chồng có bàn chân dẹt để ly hôn được không. Luật sư bèn đáp: “Not unless his feet visit
the wrong flat”. Từ flat được luật sư dùng theo nghĩa đi về nhà vợ hai.
Các bạn thử đọc đoạn đối thoại này: “- Say, in England do you also have a blood bank?- No, but we have a liver-pool”. Blood bank là ngân hàng máu, còn liver-pool, rõ ràng là tên một địa danh ở Anh (Liverpool), muốn hiểu theo nghĩa gán ép là kho chứa gan cũng được. (Say, trong câu trên có nghĩa là này, thế chứ).
Man-eating được dùng để chỉ các loài ăn thịt người. Thế nên mới có chuyện cười sau: “- Is that a man-eating lion?- Yes, Lady, but we’re short of men this week, so all he gets is beef”.
Loại đối đáp giả vờ hiểu theo nghĩa đen khá nhiều. Mời các bạn đọc thử một mẩu: “- I want to give myself to you. – Sorry, I don’t accept cheap gifts”. (Một bên muốn dâng trọn cuộc đời, bên kia không chịu nhận quà dỏm). “- May I see you pretty soon? – Don’t you think I’m pretty now?”. (Pretty câu đầu dùng chung với soon, mong sớm gặp lại nhưng pretty sau lại là đẹp).
Có nhiều câu phải dùng cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng mới thấy được tính hài hước của nó. Như câu “châm ngôn” sau: Marriage is not a word; it is a sentence. Vừa hiểu là từ đối chọi với câu, vừa hiểu sentence theo nghĩa bản án.
Hay câu: “Marriage is a three-ring circus: engagement ring, wedding ring, and suffering” cũng là cách chơi chữ với âm ring. Cuối cùng mời các bạn xem lại nghĩa của các từ rất thông dụng, nobody, anybody, somebody và everybody được dùng trong một tình huống thú vị.
There were four people who lived together in a house. They were called Nobody, Anybody, Somebody and Everybody. Once there was a job to be done in the house. Anybody could have done it, but Nobody did. It was Everybody’s job, and Somebody had to do it. This made Everybody upset, because Nobody did the job that Anybody could’ve done, despite the fact that Somebody had to. So Somebody suggested that in the future Nobody could do Anybody’s job, because Everybody would get upset.
Văn formal & informal
Khác với định nghĩa về văn formal và informal cách đây vài năm, ngày nay người ta cho rằng văn formal là loại văn không tự nhiên, ít được dùng hơn thể văn informal. Ngày xưa, học viên tiếng Anh được khuyên ngược lại: nên tránh thể văn informal chừng nào tốt chừng đó. Lúc đó những lá thư kinh doanh bắt đầu bằng những câu nặng nề như “I beg your attention to the fact that…” được xem là chuẩn mực.
Tuy nhiên, người sử dụng tiếng Anh phải chú ý sự khác biệt giữa loại văn bay bướm, đầy màu sắc thường dùng trong báo chí với loại văn chuẩn trong giao tiếp. Ví dụ khi nói vụ nổ chuyến bay 800 đã gây thiệt hại nặng nề cho hãng TWA, báo viết Flight 800 blowout deals TWA big blow. Nhưng nếu bản thân hãng hàng không này tuyên bố, họ sẽ nói Flight 800 explosion damaged TWA reputation.
Hay viết về nhân vật đứng đằng sau thành công thương mại của Olympic Atlanta 96, người ta có thể dùng The man who sells the Olympics, tương đương với cách nói bình thường là The man who promotes the Olympics.
Nếu bạn chứng kiến lễ khai mạc, kể cho người khác nghe, bạn viết Muhammad Ali, Clinton kicked off the Olympic opening ceremony.
Nhưng trong buổi lễ khai trương một cửa hàng mà bạn nói ông giám đốc X kicks off the opening ceremony trước quan khách, e rằng bạn phải kiếm việc chỗ khác sớm. Hoặc giả có người nhờ bạn viết một quảng cáo, nội dung nói sản phẩm này tốt cho mọi người, bạn mà viết This product is good for every Tom, Dick and Harry là hỏng việc. Mặc dù every Tom, Dick and Harry là anybody at all; a member of the public at large.
Khi người lớn học tiếng Anh, họ rất dễ bị ảnh hưởng bởi thể văn đầy màu sắc này vì nó rất hình tượng, dễ nhớ và gặp nhiều trong văn nói, trên báo chí, phim ảnh, truyền hình. Nếu cũng dùng trong trò chuyện thì không sao nhưng đừng nên đem vào báo cáo thương mại của bạn. Đọc câu The financial details remained hush-hush, bạn rất có ấn tượng với từ hush-hush (các chi tiết tài chính vẫn còn giữ bí mật), nhưng khi viết bạn nên dùng từ confidential hơn. Trong
thương thảo hiệp định tránh đánh thuế hai lần, báo chí có thể chạy tít Make sure the tax man only bites once. Nhưng bản thông báo chính thức chắc chắn sẽ viết The signing ceremony of the treaty on avoidance of double taxation.
Người học tiếng Anh đôi lúc tỏ ra ngạc nhiên vì bài viết của mình bị sửa chữa. Họ nói ngay cả người Anh cũng viết như thế mà. Chẳng hạn, để diễn đạt ý “Chính phủ Mỹ không quan ngại lắm hậu quả của việc từ chối cấp chiếu khán nhập cảnh cho Ernesto Samper hồi tuần trước” người ta có thể viết “There was no sleep lost at the White House before last week’s decision to yank Ernesto Samper’s visa”.
Nhưng nói với bố vợ tương lai, bạn tuyên bố “I will lose much sleep if you decide to yank my proposal for your daughter’s hand” thì chắc chắn bạn sẽ mất vợ.
Hoặc bạn vừa đọc ở đâu đó thấy câu: “The military gives thumb down to smokers” bạn bèn áp dụng để viết thành nội quy cơ quan “Our office gives thumb down to smokers” e cũng hỏng việc luôn.
Nói tóm lại, ngôn ngữ nào cũng có những tình huống dùng từ này thì thích hợp, từ khác thì không. Ranh giới giữa khái niệm formal và informal ngày nay rất mờ nhạt, bạn cần nắm bắt những tinh tế của tình huống mới mong viết đúng và diễn đạt hết ý mình.
Chức vụ và những rắc rối về ngôn ngữ
Những người thông thạo tiếng Anh cũng vẫn lúng túng khi chuyển những chức vụ trong các công ty Việt Nam sang tiếng Anh tương đương. Dùng từ nào đây để dịch Trưởng phòng kinh doanh: Head of Commercial Department hay Sales Manager? Một trưởng phòng sản xuất được giới thiệu thành Chief of Production Department hay nói như người Anh thường dùng Production Manager? Có ông trưởng phòng hành chính nhờ bạn dịch hộ chức vụ ông ta ra tiếng Anh để in danh thiếp, bạn sẽ dịch Head of Administrative Department hay Office Manager?
Trước hết xin nói về từ manager. Khác với từ giám đốc trong tiếng Việt, manager được dùng thoải mái trong các công ty nước ngoài với một nghĩa thông thường là người quản lý, chịu trách nhiệm một bộ phận nào đó trong công ty. Cho nên Human Resources Manager chỉ là người lo chuyện tuyển dụng, đào tạo, huấn luyện nhân viên mới (Trưởng phòng Nhân sự); một Sourcing Manager hay Procurement Manager có nhiệm vụ cung ứng vật tư cho công ty. Như thế, theo chúng tôi, các từ nêu ở đoạn mở đầu nên dịch bằng các từ có chữ manager là chính xác, dễ hiểu hơn.
Đối với các tập đoàn kinh tế ở Mỹ và một số nước khác, đầu tiên có ông President hay Chairman, thường là người chủ thật sự của tập đoàn, thường làm chủ tịch hội đồng quản trị nhưng không trực tiếp điều hành công việc. Các ông này có thể kiêm luôn hay thuê người làm Chief Executive Officer (CEO), là người điều hành toàn bộ hoạt động của công ty. Dưới ông ta còn có hàng loạt directors phụ trách các mảng hoạt động riêng biệt nhưng khác với manager, directors thường có quyền tham gia hội đồng quản trị, có quyền tham gia các quyết định quan trọng trong công ty, thường nắm một số cổ phần nhất định trong công ty. Sau đó mới đến các general managers và managers, là những người được thuê vào để điều hành các phần việc cụ thể hàng ngày.
Tương đương với Chief Executive Officer của Mỹ, người Anh, người Úc dùng Managing Director cũng giống như chức vụ tổng giám đốc mà ta thường dịch là Director General hay General Director. Ở Philippines, chức vụ này được gọi là President và ở Anh và Hồng Kông đôi lúc là Chief Executive.
Đối với các chức vụ phó như phó phòng hành chính nên dùng từ assistant manager. Nên phân biệt với từ assistant khi dùng cho các chức vụ khác thường mang nghĩa trợ lý. Ví dụ Assistant to General Director là trợ lý tổng giám đốc. Còn các trường hợp phó khác như phó giám đốc có thể dùng deputy hoặc vice.
Có người lầm tưởng vì biết người Việt Nam ta rất có ấn tượng với từ giám đốc hay tổng giám đốc, những công ty nước ngoài khi phái nhân viên của họ sang xây dựng một dự án đầu tư tại Việt Nam thường phong cho những người này những chức vụ rất kêu. Thật ra dù dùng từ gì đi nữa các công ty này không bao giờ gọi nhân viên không phải ở trong Board of Directors của họ là director đâu. Đầu tiên theo thông lệ, người chuyên trách một dự án được gọi là project manager. Sau đó, ông ta sẽ là general manager của văn phòng đại diện hay chi nhánh công ty này tại Việt Nam. Dịch chức vụ người đại diện công ty là tổng giám đốc nghe có vẻ quá đáng, phải không các bạn? Ví dụ một công ty du lịch mở văn phòng đại diện tại New York, cử một nhân viên sang làm trưởng đại diện tại đó. Gọi ông này là tổng giám đốc nghe sao được khi chức vụ cao nhất của công ty này là giám đốc. Trong tiếng Anh thì không có vấn đề gì, ông đại diện vẫn là General Manager của văn phòng đại diện, còn giám đốc thật sự của công ty là Director.
Chỉ đến khi nào một liên doanh được thành lập, hội đồng quản trị của liên doanh mới ra quyết định cử General Diretor, họ mới được công ty mẹ của họ phân công làm giám đốc trong liên doanh có phần vốn của công ty ấy. Cho nên khi đọc chức vụ của một người trong danh thiếp, dù ghi manager hay director bạn phải xem những chi tiết khác trên tấm danh thiếp ấy để biết họ là giám đốc bộ phận nào, là giám đốc theo nghĩa người Việt thường hiểu hay không.
Nhưng cũng cần phân biệt với những trường hợp cần giới thiệu chức vụ hành chính, lúc đó cần phải dùng từ chính xác, đặc trưng cho nền hành chính của mỗi nước. Chủ tịch UBND một tỉnh hay thành phố không thể là mayor, mặc dù từ này dễ hiểu hơn với người nói tiếng Anh. Dùng Chairman of the People’s Committee vừa chính xác vừa buộc người nước ngoài tìm hiểu hệ thống hành chính của nước ta để hiểu rõ các chức vụ này.
Có một chuyện cười liên quan đến chức vụ. Thấy trên danh thiếp một người có ghi: Ass to the Managing Director, người khách bèn chọc quê, “I know many bosses in Asia who are prone to having someone like that around, and it’s usually a son or a nephew”. Assistant khi viết tắt phải ghi thành asst. Ghi là ass chỉ mang nghĩa con lừa hay đồ ngốc hay kẻ bợ đít!
Ngoài ra cần chú ý đến các chức vụ tiếng Anh và tiếng Việt không tương đương nhưng khi dịch phải chính xác. Thủ tướng Đức là Chancellor, Bộ trưởng Tài chính của Anh là Chancellor of the Exchequer, Ngoại trưởng của Mỹ – Secretary of State (trong khi đó chức Secretary of State của tiểu bang thì không dính líu gì đến ngoại giao cả), Chủ tịch Hạ viện Mỹ – House Speaker (Speaker of the House)… Loại từ chức vụ này khá nhiều, đòi hỏi người sử dụng phải cẩn thận kẻo dễ bị hố. Một Premier of Western Australia phải được dịch là Thủ hiến bang Western Australia, chứ không phải là Thủ tướng.
“Dịch là phản”
Thời gian gần đây, các văn bản tiếng Anh do người Việt soạn thảo, dịch thuật xuất hiện khá nhiều ở nước ta. Văn phong trong các văn bản này đôi lúc rất khó hiểu đối với người nước ngoài. Lý do quan trọng nhất là người dịch, soạn thảo văn bản đã dùng cách dịch từ, hoặc cụm từ mà bỏ qua một nguyên tắc quan trọng trong dịch thuật: sự khác nhau trong cách diễn đạt khái niệm giữa các ngôn ngữ phải được thể hiện trong quá trình dịch.
Ví dụ, ta thường nói khai thuế và dịch là declare tax nhưng người Anh họ không nói vậy. Họ dùng cụm từ tax returns – bảng khai thuế thu nhập cá nhân và nói to complete and lodge a tax return (hay to file a tax return).
Một thầy giáo dạy tiếng Anh nhiều kinh nghiệm có lần nói, đại ý, “dịch là làm luận bằng tiếng nước ngoài”. Suy nghĩ kỹ bạn sẽ thấy câu nói này thật chí lý. Đầu tiên bạn có một câu bằng tiếng Việt muốn dịch sang tiếng Anh chẳng hạn, bạn phải quên cái vỏ ngôn ngữ của câu văn ấy đi, chỉ lấy ý tưởng của nó rồi diễn đạt lại (“làm luận”) bằng tiếng Anh tương đương, loại tiếng Anh mà người Anh sử dụng.
Xin lấy một ví dụ của loại tiếng Anh thông dụng trước. Để dịch câu Mãi đến thứ tư ông giám đốc mới đi công tác về, bạn phải quên đi cấu trúc câu khẳng định này trong tiếng Việt mà chỉ giữ nội dung câu phát ngôn, nhớ lại những câu tiếng Anh trong tình huống tương tự và “làm luận” – Our Manager wouldn’t be back from his business trip until Wednesday. Khi đó bạn sẽ không còn bị lúng túng với những vấn đề ngữ pháp rắc rối, khó nhớ nữa. Quá trình này đã được tự động hóa đối với các câu đơn giản thì cũng nên áp dụng nó cho những câu phức tạp hơn.
Một ví dụ khác trong văn phong thương mại. Ông ta sợ tình trạng thiếu tiền mặt của công ty bị phơi bày ra ánh sáng – His company feared exposure of its shaky cash position. Ngược lại, từ exposure trong ví dụ sau phải dịch thành có kinh nghiệm [sử dụng] – having exposure to Microsoft Access 2.0. Ngay cả những cụm từ tưởng là không có tiếng Anh tương đương như xuất khẩu tiểu ngạch, nếu ta đừng cố gắng tìm từ tương đương cho tiểu ngạch mà dịch bằng khái niệm ta sẽ có border trade.
Ngược lại, dịch từ tiếng Anh sang tiếng Việt, bạn cũng nên áp dụng lối “làm luận” này, bạn sẽ thấy bỗng nhiên mình sẽ không còn bị ràng buộc bởi từ ngữ, cấu trúc câu và mọi chuyện phức tạp khác. Lấy một câu tiếng Anh đơn giản làm ví dụ. Gặp nhau người nói tiếng Anh hay chào bằng câu How are you doing? Họ chỉ đơn giản muốn hỏi khỏe không? như trong tiếng Việt vậy. Hay trong câu, Coca-Cola and Pepsi are already slugging it out for control of one of the world’s last untapped markets, không cần tra từ điển cụm từ slug it out for ta cũng có thể hiểu: Coca-Cola và Pepsi đang tranh nhau quyền kiểm soát một trong những thị trường lớn nhất thế giới còn chưa khai thác.
Gặp loại câu dùng hình thức ngữ pháp rắc rối nếu bạn áp dụng tinh thần nắm ý của câu trong tình huống của văn bản bạn sẽ dịch câu: It has to be seen to be believed thành “Phải thấy tận mắt mới tin được” mà không cần chú ý đến câu chủ động hay bị động. Những “cái bẫy” trong loại câu hai lần phủ định chẳng hạn cũng có thể giải quyết theo tinh thần đó. It was not unknown for ambassadors to travel by bicycle – Chuyện các ông đại sứ đi làm bằng xe đạp không phải là không có.
Một quảng cáo song ngữ phần tiếng Anh viết quoting the appropriate reference specified above, đáng tiếc phần tiếng Việt bị dịch sai thành xin thể hiện rõ về các tiêu chuẩn được đề cập ở trên cũng vì người dịch quá câu nệ nghĩa của từ. Thật ra người viết quảng cáo muốn nói ứng viên phải ghi trong hồ sơ những mã số cho các chức vụ nêu trên được ghi kèm trong quảng cáo.
Hoặc trong câu Subject to certain exemptions, income tax is imposed on all residents whether they are companies or individual and the tax applies to worldwide income thì cụm từ Subject to to certain exemptions lại có nghĩa trừ một số trường hợp [miễn thuế] và worldwide income là lợi tức phát sinh trong cũng như ngoài nước. Nếu bạn cứ chăm chú tìm nghĩa tương đương của subject và worldwide, các bạn sẽ bị lúng túng ngay.
Thời gian gần đây trên các báo thường xuất hiện các quảng cáo nguyên gốc là bằng tiếng Anh được dịch sang tiếng Việt. Đây là loại văn khó dịch nhất nên không lạ gì các quảng cáo này dùng một thứ tiếng Việt xa lạ với người Việt chúng ta. Lý do chính yếu là văn quảng cáo thường mang tính khoa trương mà người Việt ta thường
tránh. Ví dụ “Sản phẩm X sẽ đem lại hạnh phúc ngay tối nay”. “Chỉ với hai nắp chai Z, bạn có thể thay đổi cuộc sống của bạn”. hoặc một con chó xem ti vi rồi phát biểu: “Tôi thấy chán quá và phát bệnh vì nó mất”. Chuyện tiếng Việt bị lai “Tây” phải do các chuyên gia quảng cáo giải quyết chứ không phải đơn thuần là chuyện ngôn ngữ vì người dịch đã dịch sát cụm từ tiếng Anh ra tiếng Việt nhưng trước mắt người chủ đăng quảng cáo nên mạnh dạn viết lại, “làm luận” lại những câu nói ấy theo lối nói của người Việt với nhau.
Để kết thúc bài viết chúng tôi xin nhấn mạnh chuyện gì cũng có ngoại lệ. Có những ngoại lệ khá thú vị như trường hợp hai người bạn (dĩ nhiên là người nói tiếng Anh) lâu ngày không gặp nhau thường chào Long time, no see giống y như tiếng Việt.
Chữ và nghĩa
Có ít nhất hai bài báo nước ngoài chê chuyện công ty sản xuất giấy vệ sinh tại Việt Nam dùng nhãn hiệu kiss me và tourism. Với chúng ta nhãn hiệu này khá quen thuộc và không mang hàm ý gì nhưng đối với người nước ngoài mời họ hôn giấy vệ sinh thì biểu sao họ không phê phán.
Đây chỉ là một trong hàng trăm ví dụ về những tình huống ngôn ngữ gây sốc ở một số người này nhưng lại là bình thường đối với những người khác. Tờ Far Eastern Economic Review mở hẳn một chuyên mục hàng tuần gọi là Travellers’ Tales để “dọn vườn” loại tiếng Anh “kỳ cục” tại các nước châu Á. Chúng tôi xin điểm qua một số lần “dọn vườn” khá ngoạn mục của tờ báo này.
Các tên công ty mang nghĩa buồn cười trong tiếng Anh thường được chú ý nhiều nhất. Ví dụ công ty Hairichest International Transportation and Godown Co. tại Hồng Kông. Hairichest làm người ta liên tưởng đến từ hairy-chested (người có nhiều lông ngực); Godown cũng làm người ta nghĩ đến hình ảnh đi xuống của công ty.
Một hãng hàng không danh tiếng bị chọc quê vì trong cuốn tạp chí quảng cáo của hãng, phần thông tin lịch bay quốc tế bị in sai thành International Fright Information. Trong khi flight là chuyến bay thì fright là nỗi sợ hãi! Một lỗi tương tự bị tác giả phát hiện ngay ngoài bìa báo của một hãng hàng không khác. Thay vì viết Inflight Magazine, báo in thành Infright Magazine. Đi máy bay của các hãng này đáng sợ thật.
Loại nhãn hiệu hàng hóa tiêu dùng gây sốc ở người nói tiếng Anh cũng được chiếu cố khá kỹ như một loại nước giải khát của Nhật: Pocari Sweat (sweat trong tiếng Anh là… mồ hôi); một loại nước tinh khiết khác cũng của Nhật được đặt tên Mucos! nghe giống như từ mucus (tốt nhất bạn đừng tìm hiểu từ tiếng Anh mucus và mucous là gì, e là bạn sẽ không dám dùng loại nước khoáng này đâu).
Có một điều lạ, các từ viết sai chính tả lại dễ gây hiểu nhầm như message (thông điệp, lời nhắn gởi) và massage (mát-xa, xoa bóp) xuất hiện khá nhiều. Một quảng cáo nhân dịp Giáng sinh ghi Father Christmas will give a massage and X’mas present to you kids bị tác
giả chọc quê là gợi nhớ đến vụ Michael Jackson dụ dỗ trai vị thành niên.
Một trường hợp viết sai chính tả khác được phát hiện trên tít báo Korea Herald: “Korean marital art is practised in over 100 countries”. Tác giả không bỏ qua dịp đùa cợt rằng ông là người không may mắn vì chưa biết đến nghệ thuật hôn nhân (marital art) của Hàn Quốc được quảng bá rộng rãi tại trên 100 nước. Thật ra tít báo phải viết đúng là martial art (võ thuật).
Một quảng cáo khác mắc phải lỗi chấm câu. Thay vì viết Islamabad (thủ đô của Pakistan), người chủ của nhà khách viết, Islama Bad Guest House. Tác giả “để” nhẹ một câu: “Thật là một thí dụ đáng khâm phục về loại quảng cáo trung thực”.
Tuy nhiên, đôi lúc tác giả cũng đùa quá đáng. Ví dụ như chuyện cà phê MIA. Hay chuyện một món ăn tại Thái Lan được ghi trên thực đơn: “Albino with coconut milk”. Đã đành albino trong tiếng Anh có nghĩa là bạch tạng nhưng biết đâu trong tiếng Thái nó có một nghĩa gì đó khác chăng. Cũng như MIA đối với người phương Tây gợi nhớ chuyện lính Mỹ bị mất tích còn trong tiếng Việt đây chỉ là nước mía!
Tuy nhiên, lý thú nhất trong loạt bài này là những câu trích từ các quảng cáo, dùng tiếng Anh chính xác; chính tả, ngữ pháp không có vấn đề gì mà chỉ… sai phần dùng từ. Sau khi miêu tả khu nhà nghỉ cao cấp của họ, một công ty bất động sản ở Jakarta mời: “Inspect our private parts today!” Công ty này chắc chưa biết private parts trong tiếng Anh là phần kín trong cơ thể người ta.
Một tờ báo tiếng Anh của TPHCM cũng bị mục Travellers’ Tales chọc quê. Mục này dẫn lại bảng tỷ lệ số hộ gia đình có TV, đầu video… đăng trên báo nguyên văn như sau: “TV: 82.22%; Video head: 51%; Frigid: 36%.” Và sau đó bình luận: “This can only mean that 51% of homes have some poor couch potato who has become a complete video head, and 36% of householders are unable to enjoy conjugal relations”.
Chơi vậy ác quá. Dù sao tờ báo này cũng đã sai khi dịch đầu máy video thành video heads. Nói theo bài bản video head là các đường rãnh trên mặt trống của đầu máy video, càng nhiều head chừng nào máy càng tốt chừng đó. Nên (ngày xưa) các bạn mới thấy quảng cáo đầu máy này có 8 heads, đầu kia có 6 heads. Còn muốn nói đầu
máy video thì phải dùng video player cho loại thường hay VCR (video cassette recorder) cho loại ghi hình được. Nhưng sai lầm lớn nhất là dịch từ tủ lạnh thành frigid. Khổ quá, frigid là lãnh đạm, lãnh cảm nên mục này mới chọc quê là không hưởng được hạnh phúc gia đình.
Tủ lạnh ai cũng biết là refrigerator, viết gọn là fridge. Cuối cùng chúng tôi xin chép nguyên văn một mẩu nội quy của một khách sạn Việt Nam và xin miễn bình luận về các lỗi ngữ pháp, chính tả và cả từ vựng. “- Visitor should be not carried: Arm, pets or material should be fired into the hotel: – Visitor should be wanted to help: Eating and drinking, urgent or cure a descare. Should be phoned with the receptionist; – Visitor should not be ironed-cooked washed. Hotel has got every service for a visitor”. Lạ một điều tác giả lại đồng tình với chuyện không nên đem khách ra ủi, nấu hay giặt!
Những điều kỳ lạ trong tiếng Anh
Trên diễn đàn các mạng máy tính đôi lúc cũng xuất hiện những bài viết rất hay về tiếng Anh. Ví dụ như bài sau (chúng tôi phỏng dịch) do chính dân bản xứ viết.
“Tiếng Anh là một thứ ngôn ngữ kỳ lạ. Trong từ eggplant (cà tím) chẳng thấy có quả trứng (egg) nào cũng như trong từ hamburger (bánh mì kẹp thịt bò) làm gì có thịt lợn (ham). Những ví dụ tương tự như vậy có thể kể ra quả dứa (pineapple) gồm hai từ không liên quan tạo thành – pine (thông) và apple (táo); bánh English muffins (bánh nướng xốp) không phải do dân Anh sáng chế cũng như khoai tây chiên (French fries) có gì liên quan đến dân Pháp đâu. Từ sweetmeats (mứt) mới kỳ nhất vì theo từng từ nó có nghĩa là thịt ngọt trong khi sweetbreads (thịt lá lách con dê) lại chẳng ngọt chút nào và cũng không dính dáng gì đến bánh mì cả.
Dân Anh nói tiếng Anh theo thói quen, ít khi họ quan tâm thắc mắc vì sao quicksand (vùng cát lầy) lún rất chậm mặc dù trong từ này có từ quick, boxing rings (sàn đấu quyền Anh) lại vuông trong khi có từ ring là tròn và con guinea pig (chuột lang) chẳng phải là con heo (pig) cũng không từ xứ Guinea mà ra”.
Tác giả tiếp tục “chê trách” sự bất nhất trong tiếng Anh. “And why is it that writers write but fingers don’t fing, grocers don’t groce and hammers don’t ham?” Nếu số nhiều của tooth là teeth, tại sao số nhiều của booth không phải là beeth. Tại sao thành ngữ make amends (đền bù), comb through annals of history (tìm kiếm trong lịch sử), odds and ends (các thứ linh tinh) phải luôn luôn dùng với số nhiều?
“In what language do people recite at a play and play at a recital? Ship by truck and send cargo or a truck by ship? Have noses that run and feet that smell?
Park on driveways and drive on parkways? Lift a thumb to thumb a lift? Table a plan in order to plan a table?” Với câu này tác giả muốn đề cập đến các thành ngữ trái khoáy như Your nose is running (bị chảy nước mũi, bị sổ mũi); thumb a lift (dùng ngón tay cái ra hiệu xin đi nhờ xe); table a plan (đưa ra một kế hoạch để thảo luận); parkway (đại lộ); driveway (đường ô tô trong sân nhà).
Ngược lại có những thành ngữ mới nhìn qua tưởng trái nghĩa nhưng thật ra chúng hoàn toàn như nhau. A slim chance và a fact chance đều là ít cơ may trong khi slim trái nghĩa với fat; quite a lot và quite a few đều có nghĩa nhiều mặc dù a lot với a few trái nghĩa hẳn. Người dùng càng bối rối hơn vì a wise man và a wise guy khác nhau xa, một bên là người thông thái và một bên là kẻ lọc lõi, láu cá; hay oversee khác với overlook vì từ đầu có nghĩa là trông coi, giám sát còn từ sau mang nghĩa để sót, bỏ qua.
Tác giả tự hỏi “How can a person be pretty ugly?” vì pretty ugly là hơi xấu trai nhưng pretty đứng riêng một mình lại là xinh gái. Trong khi nhóm từ crazy man là đồ khùng, một sự nhục mạ nhưng nếu thêm dấu phẩy và nói “crazy, man” là lời khen (tuyệt vời – như khi vỗ tay khen thưởng một ca sĩ). Nếu nói the stars are out là trời tỏa ánh sao còn nói the lights are out là tắt hết đèn và cuối cùng tác giả kết thúc bài viết một cách độc đáo: “And why, when I wind up my watch, I start it, but when I wind up this essay, I end it”. Vì to wind up one’s watch là lên giây đồng hồ còn to wind up an essay là kết thúc bài viết.
Tiếp theo chúng tôi xin giới thiệu một bài thơ được lưu truyền khá lâu rồi, cũng nói lên những đặc tính kỳ lạ của tiếng Anh. Xin mời các bạn đọc trước, biết đâu qua đó các bạn có thể học và nhớ lâu một số từ thường dùng.
UNSOLVED MYSTERIES OF ANATOMY
Where can a man buy a cap for his knee,
(KNEECAP)
Or the key to a lock of his hair?
(A HAIR LOCK)
Can his eyes be called an academy
Because there are pupils there?
(EYE PUPIL)
Is the crown of your head where jewels are found?
(HEAD CROWN)
Who travels the bridge of your nose?
(NOSE BRIDGE)
If you wanted to shingle the roof of your mouth,
(MOUTH ROOF)
Would you use the nails on your toes?
(TOE NAIL)
Can you sit in the shade of the palm of you hand
(HAND PALM)
Or beat on the drum of your ears?
(EAR DRUM)
Or the calf in your leg eat the corn of your toe?
(TOE CORN)
Then why not grow corn on the ear?
Can the crook in your elbow be sent to jail?
(ELBOW CROOK)
If so, just what did he do?
How can you sharpen your shoulder blades?
(SHOULDER BLADE)
I’ll be darned if I know – do you?
Đây là sự kết hợp rất dí dỏm về tên gọi các bộ phận trong thân thể con người và nghĩa bình thường của các từ này. Trước tiên tác giả thắc mắc biết mua ở đâu chiếc mũ (nón) cho cái đầu gối vì đầu gối được gọi là kneecap trong khi cap là chiếc mũ, cái nón; hay tìm ra chìa khóa mở ổ khóa trên mái tóc?! (hair lock là lọn tóc có từ lock là ổ khóa).
Vì con ngươi (mắt) được gọi là eye pupil, tác giả tự hỏi cặp mắt có phải là một học viện chăng vì có học sinh (pupil)? Và đỉnh đầu (head crown) có phải xuất phát từ đây là nơi đội vương miện (crown)? Những từ khác cũng kỳ lạ không kém như sống mũi (nose bridge) có từ cây cầu, vòm miệng (mouth roof) có từ mái nhà, móng chân (toe nail) có từ cây đinh, lòng bàn chân, lòng bàn tay (hand palm) có từ cây cọ.
Tác giả cũng thắc mắc ai gõ được chiếc trống trong tai (ear drum) vì từ này có nghĩa là màng nhĩ. Phần từ cẳng chân (leg calf) trở xuống các chỗ chai chân (toe corn) cũng có những từ rất thú vị vì
calf còn có nghĩa là con bê, và corn là hạt ngô nên tác giả tự hỏi: “Can the calf in your leg eat the corn of your toe?” Đến từ khuỷu tay (elbow crook) và bả vai (shoulder blade) thì hơi hình sự vì có kẻ lừa đảo (crook) và lưỡi dao.
Vì những sự phi lý đó, có tác giả khác đòi cải cách tiếng Anh, trước hết là trong cách viết. Kết quả là một sự rối tinh rối mù mà chúng tôi xin giới thiệu ở đây, dĩ nhiên như một câu chuyện cười mà thôi.
Có một hội ngôn ngữ đề xuất đầu tiên nên dùng “s” thay cho những mẫu tự “c” mềm. Khi đó câu: “Dĩ nhiên các công chức ở khắp các thành phố sẽ phấn khởi đón nhận tin này” sẽ được viết thành: “Sertainly, sivil servants in all sities would reseive this news with joy”. Tiếp theo, hội này đề nghị nên thay “c” cứng bằng “k” vì chúng đồng âm. Ưu điểm của nó, như hội này viết, “Not only would this klear up konfusion in the minds of klerikal workers, but typewriters kould be made with one less letter”.
Đến đây hội đưa tiếp một cải tiến nữa thay “ph” bằng “f” vì nó sẽ giúp giảm độ dài những từ như “fotograf” khoảng 20% và bỏ bớt những mẫu tự đi theo cặp như “ll” trong “speling”. Đạt được những cải tiến quan trọng như vậy, hội bèn áp dụng ngay và đề nghị tiếp bằng thứ tiếng Anh cải cách: “We would al agre that the horible mes of silent ‘e’s in the languag is disgrasful. Therfor we kould drop thes and kontinu to read and writ as though nothing had hapend”.
Bước kế là thay “th” khó đọc bằng “z”. “Perhaps zen ze funktion of “w” kould be taken on by “v”, vitsh is, after al, half a “w””. Cuối cùng “o” được loại bỏ ra khỏi cụm “ou”, loại “a” khỏi cụm “ea”… Kết quả hội có câu sau, xin mời các bạn giải mã: “Kontinuing zis proses yes after yes, ve vud eventuli hav a reli sensibl riten styl. After tventi yers zer vud be no mor trubls, difikultis and evrivun vud fin it ezi tu understand ech ozer. Ze drems of the Guvermnt vud finali haw kum tru”. Hehe.
Chuyện dài quảng cáo bằng tiếng Anh
Đã có nhiều ý kiến về việc sử dụng ngôn ngữ tràn lan trong quảng cáo, bảng hiệu và giao dịch. Nhưng hầu như chưa có ai đề cập đến những sai sót ngớ ngẩn về ngôn ngữ trong những tình huống này.
Chẳng hạn gần đây tạp chí FEER (Far Eastern Economic Review) đã chọc quê một công ty sản xuất nước tinh khiết tại Việt Nam khi dùng từ free bacteria trên nhãn. Bài báo viết, “Họ chém đẹp mọi thứ chỉ trừ vi khuẩn”. Hóa ra nếu viết free of bacteria thì mới có nghĩa vô trùng, vô khuẩn như ý định của nhà sản xuất còn để nguyên như trên lại có nghĩa vi khuẩn miễn phí!
Hay một quảng cáo được lặp đi lặp lại hàng trăm lần trên các báo cho rằng “JVC nhà phát minh của hệ VHS”. Nói như thế chẳng khác gì khoe Edison, nhà phát minh của bóng đèn, Bell nhà phát minh của máy điện thoại. Chữ của ở đây là do cách dịch sai nguyên bản tiếng Anh. Sau câu này tác giả còn chua thêm “hệ video được ưa chuộng nhất thế giới”. Làm gì có sự chọn lựa nào khác ngoài VHSVjhhjVHS cho hệ video gia đình mà gọi là ưa chuộng nhất. Từ popular trong nguyên bản phải dịch là phổ thông mới đúng.
Một quảng cáo khác trên một tuần báo tiếng Việt thông báo tuyển người nói viết thông thạo tiếng Anh. Nội dung quảng cáo bằng thứ tiếng Anh chưa sạch nước cản, phạm đến 6, 7 lỗi.
Hay như một thẩm mỹ viện quảng cáo là giám đốc được công nhận là viện sĩ thông tấn một viện hàn lâm của Mỹ về giải phẫu thẩm mỹ. Chắc vị giám đốc này cũng biết academy trong tiếng Mỹ thường được dùng với nghĩa viện, tổ chức hơn là viện hàn lâm.
Trong những lần lễ lạt có người nước ngoài tham dự hay do các công ty nước ngoài tổ chức, các bài diễn văn thường được dịch sang tiếng Anh. Sai sót đập vào tai người nghe thường nằm ở phần xưng hô. Nào là Dear Mr…, Dear… Thật ra trong tiếng Anh, khi muốn nói kính thưa ông…, người Anh chỉ dùng Mr… là đủ. Ví dụ phần mở đầu “Kính thưa ông Nguyễn Văn A, Tổng giám đốc công ty B” chỉ cần dịch “Mr Nguyen Van A, General Manager of B”.
Một sai sót khác thường gặp hơn là cụm từ “theo tôi” phần đông được dịch là “according to me”. Đây là một lỗi ngớ ngẩn vì according to me hoàn toàn không có nghĩa trong tiếng Anh. Trong khi
according to him, according to his account có nghĩa là theo lời anh ta, theo tường thuật của anh ấy thì không lẽ according to me phải được hiểu là theo lời tôi nói! Để diễn đạt ý “theo tôi” nên dùng I think, hoặc In my opinion.
Tóm lại, cùng một ý tưởng, như diễn đạt bằng tiếng Anh đôi lúc khác xa cách diễn đạt thông thường bằng tiếng Việt. Những người đã học qua tiếng Anh đều biết đến những tình huống hiển nhiên như “Anh (chị) cần gặp ai?” phải nói là “Can I help you?” thì khi gặp những tình huống phức tạp, tế nhị hơn, cần phải cẩn thận với tiếng Anh của mình. Muốn nói “Xin lỗi tôi nghe không rõ, ông vui lòng lặp lại câu hỏi vừa rồi?” xin đừng dùng từ “repeat”.
Muốn hỏi “Ông có thể tạm ứng mấy tháng tiền nhà?” nên dùng danh từ upfront hơn là động từ pay in advance…
Trong văn phong thương mại cũng vậy, chúng ta cần nắm vững những sự khác biệt trong lối diễn đạt giữa tiếng Anh và tiếng Việt mới có thể thành công trong thương thảo hợp đồng.
Tầm quan trọng của người phiên dịch
Kinh doanh hay đầu tư đều thường bắt đầu bằng các cuộc tiếp xúc qua đó các bên đánh giá đối tác của mình. Một điều ít ai ngờ chính người phiên dịch trong các buổi họp này lại đóng vai trò khá quan trọng, ít nhiều quyết định sự thành công hay thất bại của một mối quan hệ mới, một dự án hợp tác mới.
Dĩ nhiên, thực lực của một đối tác thường được đánh giá qua hoạt động chính của họ chứ không phải qua người phiên dịch. Nhưng ấn tượng ban đầu về người lãnh đạo sau lần tiếp xúc đầu tiên thường rất sâu, khó mà thay đổi ấn tượng này, một phần được tạo bởi ngôn ngữ, cách diễn đạt, thái độ và sự am hiểu thương trường của người phiên dịch.
Một giám đốc dù nắm luật đầu tư vững đến đâu nhưng người phiên dịch của mình lại không biết những khái niệm luật, dùng sai từ, dịch không hết ý cũng sẽ gây ấn tượng không tốt cho khách.
Ngược lại, khách hỏi một đường, người phiên dịch diễn giải một nẻo thì làm sao câu trả lời của mình làm hài khách hài lòng được. Có một vị khách hỏi “Is the establishment of an affiliated office of my insurance company in Vietnam considered one of the possible investment vehicles?” Nếu người phiên dịch không hiểu luật để dịch từ vehicles thành các dạng đầu tư hoặc các hình thức đầu tư, chắc chắn anh ta sẽ diễn giải câu hỏi thành chuyện ô tô miễn thuế! Ngay cả lúc đi vào thảo luận chi tiết hợp đồng, phía Việt Nam chẳng hạn muốn biểu lộ thái độ cứng rắn, không nhượng bộ, ông giám đốc sử dụng từ ngữ để nói lên sự kiên quyết của mình. Nhưng nếu gặp một người phiên dịch non tay nghề, lại quen với lối nói bài bản, lịch sự, mềm dẻo thì hỏng chuyện. Ngay cả những phát biểu của lãnh đạo cấp tỉnh, cấp bộ nếu có tế nhị, có nhiều hàm ý, hay cố ý hóm hỉnh, qua một phiên dịch yếu, các sắc thái này biến mất, thay vào đó là những câu nói khuôn sáo không đúng thực tế. Nhân đây cũng xin nhắc một thói quen của nhiều người sử dụng tiếng Anh thích nói gọn, “I fax you…”. Nói vậy nghe kỳ lắm vì dễ gây khó chịu cho khách nước ngoài. Chúng ta nên cẩn thận hơn và dùng “I will send you a fax…”.
Một thói quen khác thường thấy trên các danh thiếp bằng tiếng Anh là chuyện tên người Việt bị cắt trụi các dấu. Lẽ ra phải giúp các bạn hàng nước ngoài gọi tên mình cho chính xác, các giám đốc nhà ta cứ như đánh đố họ bằng các tên lơ lớ không dấu, ưa đọc như thế nào cũng được. Những chuyện buồn cười từ thói quen này đã xảy ra. Chuông điện thoại đổ, một giọng nói lịch sự: “Cho tôi gặp De”. “Ở đây không có ai tên đó cả”. “Thế cho tôi gặp ông Đê. Không có à?
Vậy ông Đề, ông Dế…”. Các bạn thử tưởng tượng xem có bao nhiêu khả năng đặt tên cho ông này?
Ngược lại, khi dịch các bài diễn văn, các tay phiên dịch cứ giữ nguyên giọng “Tây”, phát âm tên tuổi các quan chức cũng theo kiểu lơ lớ như thế. Các bạn để ý xem, những xướng ngôn viên nhiều kinh nghiệm trên các chương trình phát thanh, bằng tiếng nước ngoài không bao giờ mắc phải lỗi này.
Chuyện tên tuổi trên các danh thiếp càng rắc rối hơn khi nhiều người thích đảo lộn tên mình cho đúng trật tự trong tiếng Anh. Cho nên NGUYEN VAN A sẽ thành A NGUYEN VAN. Đồng ý là có nhiều người Việt hiện đang sinh sống ở nước ngoài phải dùng cách đảo tên này để tránh nhầm lẫn trong xưng hô cho bạn bè mới quen. Vì theo cách xưng hô trong tiếng Anh ông John Brown sẽ thành Mr. Brown trong xưng hô trịnh trọng hay John trong giới bạn bè.
Nhưng đó là chuyện bên Tây. Ở Việt Nam chúng ta phải xài theo cách nói của người Việt và người nước ngoài nào vào đây đều phải biết, phải học cách xưng hô cho đúng.
Một mẩu chuyện có thật xảy ra tại sân bay. Một nhóm doanh nhân nước ngoài tỏ vẻ mừng rỡ khi gần đến giờ bay mới thấy ông giám đốc đối tác xuất hiện. “Oh, I’m glad you make it”. Rồi bắt tay vỗ vai thân thiết. Cô thư ký phiên dịch ngay, “Ông ta nói rất mừng vì chú đã thực hiện được chuyện đó”. Một lát sau ông giám đốc người Việt hỏi nhỏ: “Này cháu, lúc nãy cháu dịch gì chú không hiểu. Cháu hỏi lại xem họ nói chú làm được chuyện gì vậy?” Cũng may cho cô, đã đến giờ lên máy bay, cô không kịp hỏi. Make it là một thành ngữ mà nghĩa của nó phải linh động hiểu tùy tình huống. Thấy gần trễ giờ mà ông bạn mình mới xuất hiện, người khách nước ngoài mừng là ông bạn đã tới kịp chuyến bay. Hay trong một cuộc thương thảo gay cấn, sau khi đạt được những thỏa thuận có lợi cho công ty bằng
những lý lẽ vững chắc, đầy thuyết phục, bạn bè đồng nghiệp sẽ chúc mừng make it! (thành công) vậy thôi.
Cẩn thận với những từ này
Có những từ tưởng chừng rất đơn giản và dễ hiểu mà những ai mới học qua tiếng Anh đều biết. Nhưng sử dụng trong văn cảnh thương mại, những từ này mang nghĩa hoàn toàn mới, dễ gây nhầm lẫn.
Chẳng hạn, từ futures không mang nghĩa tương lai như bạn nghĩ. Một thương gia có thể mua hàng theo dạng actuals (giao hàng ngay hay giao hàng trong một thời điểm tương lai với giá theo thời điểm giao dịch) hoặc theo dạng futures (định giá cho những mặt hàng mua bán và giao vào một thời điểm nhất định trong tương lai). Mục đích của việc mua bán futures (dealings in futures) là nhằm giảm bớt rủi ro khi giá tăng, giảm không lường trước. Cho nên bạn thường thấy trên báo đưa tin giá dầu thô giao vào tháng 10 là…, giao vào tháng 2 năm sau là…
Từ holding trong holding company là công ty mẹ, công ty nắm cổ phần của nhiều công ty khác chứ không phải công ty cổ phần (joint stock company). Đằng sau tên các công ty nước ngoài, chúng ta thường thấy các từ Pte, Pty. Pte là từ viết tắt của từ private trong private limited company (công ty trách nhiệm hữu hạn không được bán cổ phần ra ngoài). Riêng ở Úc và Nam Phi, thường dùng Pty (proprietary company) với nghĩa tương tự. Theo luật, phải kèm Pte hay Pty vào tên chính thức của công ty.
Order of business lại có nghĩa chương trình họp (hội đồng quản trị), hay trịnh trọng hơn dùng order of the day (chương trình nghị sự). Đơn giản hơn có những cụm từ như down-market (chuyên bán hàng rẻ tiền) trong câu That dress shop has moved down-market (Cửa hàng quần áo ấy đã chuyển sang phục vụ khách ít tiền). Hay working capital (vốn lưu động). Một món hàng mua theo kiểu hire purchase có nghĩa là mua trả góp; với các công ty mua máy móc trả chậm thì có từ deferred payment.
Nói chuyện thương mại thì phải đề cập đến tiền bạc. Có nhiều nghĩa thú vị đi kèm với từ money. Ví dụ, For my money, his suggestion is better than your idea. For my money ở đây mang nghĩa Theo tôi, nếu hỏi tôi. Còn trong câu I’m not made of money, you know! thì make of money lại có nghĩa rất giàu. Thành ngữ
Money talks súc tích hơn. Diễn dịch nó ra có thể nói nếu ta giàu mọi người sẽ đối xử khác, nếu ta có tiền mọi việc sẽ suôn sẻ hơn… (gần bằng Mạnh vì gạo, bạo vì tiền).
Một quảng cáo có dòng chữ Money-back guarantee hàm ý nếu bạn không hài lòng về sản phẩm này, chúng tôi sẽ hoàn trả tiền cho bạn. Một anh chàng tiêu tiền như nước, làm đồng nào xài hết đồng đó sẽ được đặc tả Money burns a hole in his pocket.
Trong ngành ngân hàng, floating money có nghĩa là tiền nhàn rỗi, tiền không biết đầu tư vào đâu phải tạm gửi vào ngân hàng trung ương; final money là các loại tín dụng, tiền trong tài khoản có thể chuyển đổi bằng séc; fresh money là vốn mới trái với old money là vốn có sẵn, near money là những thứ tài sản có thể chuyển đổi thành tiền như trái phiếu, hối phiếu.
Trong gia đình, pin-money là tiền ông chồng cho vợ hay con gái tiêu vặt, chung hơn thì có từ pocket money (tiền dằn túi). Cuối cùng, money at call hay call money là tiền cho vay có thể đòi lại bất kỳ lúc nào.
Lại những từ nhiều nghĩa
Một công ty Việt Nam nhờ người dịch tập hồ sơ giới thiệu một đối tác nước ngoài của họ đang muốn liên doanh làm ăn. Nhiều người tỏ vẻ không an tâm về đối tác này vì nghe đâu có dính đến “Hội đồng An ninh Quốc gia” của nước bạn. Hóa ra người dịch đã chuyển sai cụm từ “Securities Commission” mà thực tế chỉ là “Ủy ban Chứng khoán”. Thế đó, security ngoài nghĩa thông thường là an ninh, trong kinh doanh, dùng ở dạng số nhiều nó mang nghĩa rất hiền lành là tất cả các loại chứng khoán như shares (cổ phần), bonds (trái phiếu). Cho nên securities market là thị trường chứng khoán.
Tương tự, với từ policy, ai cũng nghĩ đến chính sách, đường lối chứ trong thương trường, đặc biệt trong ngành bảo hiểm nó chỉ là những điều khoản thỏa thuận của hợp đồng bảo hiểm. Ví dụ, a policy holder là người có hợp đồng bảo hiểm, a fire insurance policy là hợp đồng bảo hiểm hỏa hoạn. Cho nên to write a policy là ký hợp đồng bảo hiểm. Lệ phí bảo hiểm là premium.
Một ông khách nước ngoài đi thuê nhà. Ông ta hỏi: “Who’s going to foot the bill for all the repairs?” và bà chủ nhà, có biết sơ tiếng Anh, ngơ ngác không hiểu ông ta muốn hỏi gì? Phải chăng ai sẽ nhận thầu việc sửa chữa? Nếu chủ nhà biết to foot the bill là chịu trách nhiệm thanh toán chi phí thì bà ta sẽ hiểu ngay ý khách muốn hỏi ai sẽ trả tiền cho việc tân trang ngôi nhà.
Một từ quen thuộc khác cũng thường gây nhầm lẫn là overhead nghe qua như một tính từ với nghĩa trên đầu, trên cổ chi đây. Ngoài nghĩa thông thường như vậy, overhead còn được dùng như một danh từ chỉ mọi chi phí của một văn phòng, một doanh nghiệp.
Heavy overheads including electricity, office rentals… reduced his profits – chi phí hoạt động cao như tiền điện, tiền thuê văn phòng làm sút giảm lợi nhuận của ông ta.
Có những từ khi đọc vào ta biết ngay nó mang một nghĩa lạ nhưng đôi lúc không tìm được nghĩa ấy trong từ điển. Chẳng hạn sandwich lease. Ở Việt Nam ta dạng sandwich lease trong cộng đồng người nước ngoài khá nhiều. Một ông thuê một vi-la, ký hợp đồng ba năm, xong lại cho một ông khác thuê, dĩ nhiên với giá cao
hơn. Dạng thuê đi, thuê lại như thế gọi là sandwich lease. Người thuê sau được gọi là sublessee hay subtenant. Nhân đề cập đến từ sandwich xin nói luôn một cụm từ miêu tả một nghề mà, may thay, chưa thấy xuất hiện ở nước ta: sandwich man. Đây là người chuyên mang những biển quảng cáo trước ngực và sau lưng, như thể anh ta là một mẩu bánh sandwich, đi dạo rông trên phố.
Trong buôn bán, từ sale xuất hiện khá nhiều. Nhưng on sale không phải chỉ để bán bình thường mà bán với giá hạ, bán “xon”. Khi một cửa hàng hold an end-of-season sale (bán hạ giá cuối mùa), mọi người nô nức buy goods at the sales (mua hàng hạ giá), đặc biệt tại các closing-down sale vì cửa hàng này sẽ bán tống bán tháo mọi thứ trước khi đóng cửa. Phân biệt nó với loại jumble sale hay rummage sale, khi người ta bán các loại hàng cũ, hàng xấu vì mục đích từ thiện.
Mua bán liên quan đến các hoạt động từ thiện còn có từ bring and-buy sale: quyên góp tiền bằng cách mỗi người đều mang theo một món hàng để bán và sau đó mua một món mang về, còn sale of work là một buổi bán hàng do những người trong một hội đoàn làm
ra để quyên tiền giúp người nghèo.
Dân buôn hàng áo quần cũ thường mua hàng theo dạng sale as seen, mua nguyên thùng chưa khui, may nhờ rủi chịu. Cẩn thận thì họ mua bán theo dạng sale by description (mua theo miêu tả).
Nhắc lại chuyện những từ nhiều nghĩa dễ gây nhầm lẫn này vì gần đây có ít nhất ba tờ báo đưa tin thiếu chính xác, một phần do dịch sai nguyên bản một mẩu tin đăng trên tờ Vietnam Investment Review. Các báo dựa vào tin này và viết một công ty Mỹ sang ký hợp đồng mua gạo của Việt Nam, “Công ty Texas Firm American Rice, thành viên của Los Angeles-based Erly Industry Group”. Thật ra đây chỉ là Công ty American Rice tại bang Texas, thành viên của tập đoàn Erly Industry Group có trụ sở chính đóng tại Los Angeles.
Viết tắt không hẳn là đơn giản
Có lẽ nhiều người đã từng gặp từ viết tắt VIP và đều biết đó là một very important person (yếu nhân, nhân vật quan trọng). Vấn đề ở đây là cách phát âm, VIP trong tiếng Anh phải đọc là [vi ai pi] chứ không phải [vip] như nhiều người thường nghĩ. Thứ nữa, VIP trong tiếng Anh chỉ dùng cho nhân vật quan trọng thật sự, như VIP Lounge tại sân bay là để dành cho các yếu nhân trả lời phỏng vấn chẳng hạn. Chứ không phải như ở một số địa điểm kinh doanh của ta cứ dùng VIP cho những ai sẵn sàng trả tiền nhiều, làm VIP biến tướng thành khách hạng sang.
Làm sao để biết từ viết tắt nào được đọc thành những mẫu tự riêng biệt, từ nào thì phát âm thành một từ mới? Nói chung từ viết tắt phân làm hai loại; acronym như radar (radio detection and ranging), sonar (sound navigation and ranging), laser (light amplification by stimulated emission of radiation), UNESCO (United Nations Educational, Scientific and Cultural Organization) thì được đọc thành một từ mới. Ngay cả người Anh đôi lúc cũng quên mất xuất xứ những từ này mà chỉ đọc và dùng chúng như một từ mới nguyên.
Còn các từ viết tắt thuần túy abbreviation như VIP ở trên, WHO (World Health Organization)… thì phải phát âm thành từng mẫu tự. Rất nhiều người thấy từ WHO, NGO “dễ đọc” quá nên cứ đọc như “tiếng Việt” làm người nước ngoài không hiểu đó là từ gì. Cách đọc này cũng áp dụng cho các từ thường gặp như MIA. Riêng về từ MIA (missing in action) để chỉ các lính Mỹ mất tích trong chiến tranh, có một lỗi rất khôi hài mà báo Far Eastern Economic Review trong mục Travellers’ Tales đã mắc phải. Không biết họ lấy đâu ra tấm hình chụp một quán cà phê kiêm luôn bán nước mía. Rồi người phụ trách mục này vẽ vời đủ chuyện ở Hà Nội có quán cà phê MIA, nào là vấn đề MIA đã trở thành một món hàng kinh doanh trong thời buổi kinh tế thị trường. Phải nói tán phét như vậy cũng tài. Chỉ có điều dấu sắc trong hình quá rõ nên báo phải đăng đính chính sau khi hàng chục độc giả gửi thư phản đối.
Có những từ viết tắt như i.e. (id est), viz (videlicet) và e.g. (exempli gratia) thường được dùng trong văn viết nên khi đọc lên, ít
ai đọc thành mẫu tự rời, hoặc đọc từ nguyên Latinh mà thường tự động dịch sang tiếng Anh nói; i.e. thành that is (to say), viz thành namely, e.g.
thành for example.
Các từ viết tắt trong tiếng Anh thương mại thì quá nhiều và các từ điển chuyên dùng điều có một phần dành riêng cho từ viết tắt. Chúng tôi chỉ xin giới thiệu một số từ viết tắt trong lĩnh vực đầu tư và các trường hợp tương đối đặc biệt. FDI (Foreign Direct Investment) vào Việt Nam kéo theo sự xuất hiện của một số từ viết tắt quen thuộc như BCC (Business Cooperation Contract – Hợp đồng hợp tác kinh doanh), BOT (Build-Operate-Transfer), BoM (Board of Management), CEO (Chief Executive Officer), MOU (Memorandum of Understanding)… Có các từ ít quen thuộc hơn như DTR (double taxation relief – tránh đánh thuế hai lần). Cuối các văn bản thường thấy từ viết tắt cc, có lẽ chúng ta đoán được ngay nó tương tự như từ nơi nhận, bản sao đồng kính gửi. Cc là từ viết tắt của carbon copy (to), xuất phát từ thời còn dùng máy đánh chữ kèm nhiều bản giấy than để sao một công văn. Trước chữ ký đôi lúc có từ pp. Đây là từ viết tắt từ Latinh per pro có nghĩa ký thay, thay mặt. Ví dụ pp John Brown, là người thư ký thay ông John Brown khi ông này đi vắng.
Viết tắt là vậy nhưng ngược lại nếu muốn diễn đạt đầy đủ, chẳng hạn chúng ta viết một con số rồi mở ngoặc đóng ngoặc viết nguyên toàn chữ con số đó thì dùng từ nào? Trong trường hợp này, người Anh thường dùng từ say ở trước hay từ only ở sau con số.
Không có gì đáng cười với những từ này
Tiếng Anh trong kinh doanh cũng có những từ – nghĩa thì nghiêm túc, hình thức thì buồn cười như nude contract hay naked contract nếu dịch theo nghĩa đen là hợp đồng khỏa thân hay hợp đồng trần truồng! Thật ra trong văn thương mại, các từ này có nghĩa là những hợp đồng không cưỡng chế được, là loại hợp đồng tạm trước khi ký hợp đồng chính thức. Người ký loại hợp đồng này phải chấp nhận độ rủi ro cao nên mới có từ naked.
Trong giao dịch chứng khoán có từ bear campaign đây không phải là chiến dịch gấu xám cũng như bull campaign không phải là chiến dịch bò tót! Bear campaign do các tay mua bán chứng khoán tạo ra khi bán hàng loạt cổ phiếu để đẩy giá xuống rồi sau đó mua lại kiếm lời. Còn bull campaign thì ngược lại, các tay đầu cơ chứng khoán này mua bằng được mọi loại cổ phiếu, thúc đẩy mọi người mua theo cho đến khi không đủ cầu, giá chứng khoán lên cao các tay bull này mới bán ra và hốt bạc. Trong chứng khoán, các công ty lớn, có uy tín khắp thế giới thường bán ra loại cổ phiếu bluechip.
Trong khi bank holidays trong tiếng Anh có nghĩa bình thường là những ngày nghỉ lễ thì bank holiday trong tiếng Mỹ lại là những ngày ngân hàng buộc phải đóng cửa để tránh tình trạng người có tài khoản rút tiền ồ ạt. Earnest hay earnest money (tiền nghiêm túc) là loại tiền tạm ứng, tiền đặt cọc xem như tỏ ý sẽ thực hiện đúng cam kết mua bán giữa hai bên.
Một từ khác cũng có hình thức lạ catch-22. Một nhà đầu tư tìm được đối tác tốt nhưng công ty này không có mặt bằng, quay sang một đối tác khác có mặt bằng nhưng thiếu vốn, nhà đầu tư này than phiền ông ta đang gặp phải một catch-22 situation hay một tình trạng nan giải, một vòng luẩn quẩn khó thoát.
Với sự xuất hiện hàng loạt văn phòng đại diện cho các công ty nước ngoài, nhu cầu tuyển dụng nhân viên giỏi ngày càng cao làm nảy sinh một hiện tượng gọi là job jumper hay job hopper. Đây là những người chuyên nhảy việc, làm ở nơi này vài tháng rồi nhảy sang một văn phòng khác. Được gọi là một job jumper không hay ho gì vì từ này mang nghĩa xấu chỉ một người không ổn định. Ngược lại, các công ty nước ngoài muốn tuyển mộ người giỏi phải dùng
biện pháp head-hunting, lúc đó các head-hunters đi lùng sục tuyển những nhân viên có kinh nghiệm cho công ty.
Nhân đây, xin giới thiệu từ shop với một vài nghĩa lạ. Shop steward không phải là người bán hàng mà trong các nhà máy, xí nghiệp một shop steward là một cán bộ công đoàn, đại diện chính thức cho công nhân. Còn một shop-lifter là một kẻ cắp vặt, chuyên vào các cửa hàng giả vờ mua sắm và thuổng vài món đồ không thèm trả tiền. To talk shop là nói chuyện làm ăn, chuyện công tác ngoài giờ làm việc. Shopper là những tờ báo chuyên quảng cáo các cửa hàng, tiệm ăn địa phương, phát không cho khách vãng lai. Trong câu his clothes lay all over the shop thì all over the shop chỉ có nghĩa là bừa bãi, khắp nơi. To set up shop là bắt tay vào một công việc làm ăn.
Những từ B/H và A/H các bạn thấy trên các danh thiếp là từ viết tắt của business hours (trong giờ làm việc) và after hours (ngoài giờ làm việc) thường dùng với các số điện thoại như một cách nói khác cho điện thoại cơ quan và điện thoại nhà riêng.
Số và chữ số
Khác với Việt Nam và nhiều nước châu Âu khác, Anh và Mỹ có lối viết các con số dễ gây nhầm lẫn. Nếu người Pháp hay người Việt viết 1,467 thì người Anh, người Mỹ sẽ viết 1.467. Nên $99.999 trong tiếng Anh chỉ gần bằng một trăm USD chứ không phải gần bằng một trăm ngàn USD. Nói gọn là nếu ta phẩy thì họ chấm còn ta chấm thì họ phẩy. Hiện nay để tránh nhầm lẫn, lối viết chính thức được đề nghị và được nhiều người làm theo là dùng một khoảng trống sau mỗi ba chữ số thay cho dấu phẩy. Ví dụ 5 000; 50 000 hoặc 0.005; 0.000 50.
Câu văn tiếng Anh không được bắt đầu bằng con số; lúc đó phải viết số thành chữ. Ví dụ: Twenty-three cars and 193 bikes were sold. Hoặc nếu con số vừa dài vừa đi liền với dấu $, ta phải viết lại câu văn với cách mở đầu khác đi. ($12 867 was collected in one suburb alone… phải được viết thành In one suburb alone, $12 867 was
collected… hoặc A total of $12 867 was collected…). Cách viết ngày tháng của người Mỹ và người Anh khác nhau nên cũng dễ gây nhầm lẫn. Người Anh, người Úc thấy 10.8.87 thì hiểu là ngày 10 tháng Tám năm 1987 còn người Mỹ sẽ cho đó là ngày 8 tháng 10. Để thống nhất, International Organization for Standardization – Tổ chức Tiêu chuẩn hóa quốc tế (ISO) quy định cách viết theo thứ tự: năm, tháng, ngày – 19870810. Các bạn chú ý thấy dưới nắp đồ hộp thường có cách viết ngày tháng như thế để ghi ngày hết hạn dùng của sản phẩm.
Còn trong văn thương mại, nên viết đầy đủ tên tháng như August, December chứ không nên viết tắt cũng như chuyển thành số. Viết 10 September 1994 là rõ ràng và dễ hiểu nhất.
Nếu câu văn chấm dứt bằng một ngày trong tháng, phải viết ngày bằng chữ, không thể viết bằng số. Ví dụ Students were told that tutorials would be held on 2, 9, and 16 June, that lectures were on 4, 11, and 18, and that an exam would be held on the thirtieth (hoặc on the 30th).
Chú ý một số cách viết ngày tháng khác: năm 50 trước Công nguyên – 50 BC nhưng năm 205 sau Công nguyên – AD 205; thập niên 60 – the 1960s (chứ không phải the 1960’s).
Thêm một chuyện ngày tháng nữa là những từ biweekly, bimonthly có hai nghĩa; một là hai tuần, hai tháng một lần, nghĩa thứ hai là một tuần, một tháng hai lần. Một biweekly magazine thường mang nghĩa tập san xuất bản hai tuần một lần, bán nguyệt san nhưng vẫn có thể dùng để chỉ các tờ tạp chí một tuần ra hai số.
Xin giới thiệu với các bạn một số từ liên quan đến con số và nghĩa đặc biệt của chúng trong văn thương mại. Trước hết have got someone’s number là biết tỏng ý đồ một người nào đó chứ không phải là biết số điện thoại của họ đâu. Ví dụ They pretend to be friendly in the meeting but I’ve got their number; they just like to know everything. Trong thương mại số thường gặp nhất là bảng giá, cho giá, chào giá (quotations, quoting): Please find enclosed our current catalogue and price-list quoting c.i.f. prices Kobe. Trong câu: The net price of this article is $10.00, to which must be added VAT at 17.5%, making a gross price of $11.75 thì net price là giá gốc và gross price là giá đã tính thêm vào thuế, vận chuyển bảo hiểm… (trong trường hợp này là thuế giá trị gia tăng).
Các hãng buôn chào giá thường ghi thêm câu firm… day như câu We can offer you a price of $6.89 per item, firm 21 day, after which the price will be subject to an increase of 5%. Ở đây chủ hàng muốn nói, giá chào bán sẽ không thay đổi trong vòng 21 ngày còn sau đó sẽ phải tăng thêm 5%.
Bán buôn thường phải bớt giá, giảm giá. Có loại giảm giá cho bạn hàng cùng ngành nghề gọi là trade discount, giảm giá cho các đơn hàng mua số lượng nhiều gọi là quantity discount và giảm giá cho ai trả tiền mặt không xài chuyển khoản gọi là cash discount. Ví dụ The net price for this model is $7.50, less 10% discount for quantities up to 100 and 15% discount for quantities over 100 – “giá gốc kiểu hàng này là 7,5 USD, mua 100 cái trở xuống giảm 10% và mua 100 cái trở lên giảm 15%”.
Hồ sơ xin việc làm: tiếng Việt hay tiếng Anh Hiện nay nhu cầu tuyển dụng nhân viên làm cho các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và các văn phòng đại diện các công ty nước ngoài ngày càng cao. Mặc dù cung chưa đủ cầu, nhất là về mặt chất lượng, việc tuyển chọn nhân viên tại các nơi này khá khắt khe. Sau khi đăng báo tuyển người, có một chi nhánh ngân hàng nhận được hàng trăm đơn cho mỗi một chỗ làm. Làm sao để hồ sơ xin việc làm của các bạn nổi bật lên trong hàng trăm lá đơn như thế? Vì các công ty nước ngoài thường yêu cầu người nộp hồ sơ viết đơn bằng tiếng Anh, xin giới thiệu với các bạn trẻ sự khác nhau giữa hai bộ hồ sơ xin việc làm bằng tiếng Việt và bằng tiếng Anh. Khác với hồ sơ xin việc làm bằng tiếng Việt thường điền vào các mẫu in sẵn gồm đơn, lý lịch…, đối với một hồ sơ xin việc làm bằng tiếng Anh không bao giờ nên dùng mẫu in sẵn trừ trường hợp công ty tuyển dụng yêu cầu dùng mẫu đơn của họ. Đơn lý lịch phải tự mình viết chứ đừng nên rập khuôn theo các mẫu trong sách giáo khoa. Bạn thử tưởng tượng bạn là giám đốc một công ty, đọc hàng chục lá đơn với những lời văn như nhau thì bạn sẽ nghĩ như thế nào? Đơn thường nên viết thẳng vào vấn đề.
Chẳng hạn bạn viết đơn sau khi đọc báo thấy quảng cáo cần người: I would like to apply for the position of… advertised on…; I am writing to you concerning your advertisement on… for a… to work in your… Nếu viết đơn cho một công ty không quảng cáo cần người, bạn có thể mở đầu thư; I am writing to ask if you might have a vacancy in your export department for an export manager. Nếu có người giới thiệu bạn với công ty bạn muốn xin vào làm, có thể viết: I was recommended by… who is currently working with your firm to write to you concerning a possible post in your… department.
Mặc dù lý lịch ghi rõ quá trình học tập, công tác, các kỹ năng… của bạn, thư xin việc làm cũng nên nhắc lại, nhấn mạnh những ưu điểm nổi bật của bạn. Đừng ngại khoe khoang miễn sao những gì bạn viết là đúng sự thật. Nên nhớ lao động cũng là một loại hàng hóa, bạn phải chào mời sao cho người sử dụng phải thấy được sự chọn lựa của họ là đúng. Khác với đơn tiếng Việt thường ngắn gọn, theo khuôn mẫu, đơn viết bằng tiếng Anh đi sâu vào chi tiết như miêu tả cụ thể kinh nghiệm của bạn trong lĩnh vực đang xin vào làm,
bạn sẽ có thể giúp được gì trong công việc tương lai, lý do tại sao bạn xin vào làm công việc đó… Ví dụ: I am enclosing my curriculum vitae for the position of… You will see that I graduated from… in… where I got… I then began work with… as…, where I was trained as…, and was involved with…
Giải thích lý do tại sao bỏ chỗ làm cũ, bạn không nên nêu lý do lương bổng, hay nói xấu công ty cũ. Nên nói ngắn gọn: I joined… in… as they offered me an opportunity for advancement, being a much larger concern. Phần chính của thư nên nhấn mạnh công việc làm gần đây nhất của bạn có liên quan đến công việc bạn đang xin, kể cả những phần việc cụ thể và kinh nghiệm đã trải qua. During my time at… I worked on several projects (miêu tả cụ thể) which were very successful and which gave me more experience in…
Sau đó nói rõ lý do tại sao bạn xin vào làm ở công ty mới nhưng không nên quá đề cập lý do cá nhân mà nên chứng minh cho được tại sao bạn nghĩ quá trình học tập, đào tạo và kinh nghiệm của bạn có lợi cho công ty ấy. I am particularly interested in the position you offer as I know my previous experience and academic background would be valuable in this area of… hoặc This position would require someone who has extensive experience of… which I gained both academically and commercially at…
Phần cuối thư xin việc, khác với đơn tiếng Việt thường kết thúc với những cam kết, thư tiếng Anh chú trọng đến khả năng thu xếp xin được phỏng vấn. I will be able to give you more detailed information at an interview, and I look forward to seeing you. Hoặc Please let me know if there are any other details you need. Meanwhile, I look forward to hearing from you.
Với lý lịch bằng tiếng Anh theo yêu cầu của các công ty nước ngoài khác hẳn loại lý lịch chúng ta thường dùng trong tiếng Việt. Lý lịch trình bày bằng tiếng Anh (C.V.- Curriculum vitae; Personal data; Résumé) thường chú trọng quá trình đào tạo và làm việc theo trình tự thời gian ngược. Bằng cấp cao nhất, các khóa học gần đây nhất được đưa ra trước cũng như các việc làm những nhiệm vụ mới nhất thường được nhấn mạnh.
Trong thực tế có rất nhiều mẫu lý lịch nhưng điều chủ yếu là người trình bày lý lịch phải làm sao nêu bật được hai phần
Education và Work Experience của bản thân. Phần Education nói rõ tên trường, địa chỉ, thời gian theo học và bằng cấp đạt được. Trong quá trình học tập nên nêu rõ những công trình nghiên cứu, những lần thực tập có liên quan đến công việc đang xin. Phần Work Experience phải nhấn mạnh nhiệm vụ được giao, trách nhiệm hàng ngày bên cạnh tên và địa chỉ công ty cũ. Có mẫu C.V. thêm vào phần Skill, đối chiếu với yêu cầu tuyển dụng để nhấn mạnh những kỹ năng của bạn. Ngày nay những skills được đòi hỏi nhiều nhất là administrative and language skills như fluent in English and French, type 60 w.p.m., fully proficient in MS DOS, Windows, WinWord, WordPerfect, Lotus 123…
Ngoài ra, một résumé còn có những mục như: Objective (muốn vào làm gì, ban nào, ngành nào); Awards Received (những giải thưởng đạt được); Interests and Activities (các sở thích cá nhân và những hoạt động xã hội đôi lúc cũng nói lên nhiều điều về bản thân người xin việc); Reference (tên, địa chỉ của những người có thể cung cấp những thông tin khách quan về bạn). Đây không phải là nơi để liệt kê những người quen biết có thế lực mà chính là thầy cô cũ, giám đốc hay người điều hành ở nơi làm trước – những người có thể cho những nhận xét chính xác về bạn có liên quan đến những điều bạn khai trong lý lịch. C.V. thì không cần đóng dấu hay nhờ ai xác nhận; tuy nhiên bạn phải khai thật chính xác vì không có lỗi lầm nào tệ hại hơn là dối trong bản khai về mình.
Bắt đầu bằng cụm từ
Bắt đầu bằng đơn vị từ là một sai lầm mà các nhà giáo dục từng chỉ ra. Nhưng đối với bạn, thói quen học tiếng Anh theo đơn vị từ là rất mạnh. Hơn nữa, những câu tiếng Anh dùng trong trình độ sơ cấp, đơn vị từ không kéo theo những phức tạp của nó nên người dạy và người học hoàn toàn yên tâm khi ghi nhận book là cuốc sách, chair là cái ghế.
Rồi đến lúc trình độ tiếng Anh của bạn cao hơn, gặp lại những từ quen thuộc đó, bạn sẽ tự động xem nó là đã học và gán cho nó nghĩa thông dụng ngày xưa và chịu bí. Chẳng hạn, gặp câu “Close call for Juventus” là tựa một bài báo đăng trên tờ Việt Nam News.
Những cụm từ như thế rất dễ đánh lừa các bạn lười tra từ điển. Nếu bạn cứ yên trí đã biết nghĩa từ close, call và for, bạn sẽ mất cơ hội học thành ngữ close call (a narrow escape) và mất cơ hội hiểu tít trên theo nghĩa: “Juventus suýt thua”, “Juventus suýt chôn vùi uy tín”.
Như vậy, trong tiếng Anh, các từ đơn lẻ thường mang một nghĩa mới khi dùng chung với các từ khác, làm nhiều bạn rất bực mình vì cứ nghĩ “Trông dễ thế mà dịch không được”. Trong đối thoại với người nói tiếng Anh, nếu bạn nghe câu: “You lost me” hay “I lost you” thì không có nghĩa lạc đường lạc lối gì cả. Đơn giản là người nghe lạc mất tần số, không hiểu nổi bạn đang nói gì. Nếu dùng từ điển bạn sẽ thấy một định nghĩa khác của từ lose: to fail to hear, see, or understand: We lose (mất dấu) the plane in the fog. I lost her when she started speaking about thermodynamics.
Trở về lại với trận đấu và bài báo nói trên, chúng ta hãy cùng đọc câu mở đầu: “It wasn’t the massacre many pundits had predicted and at the end of the day few could argue that Juventus deserved better than their 1-2 victory over Việt Nam yesterday”. Ngay trong câu này, các bạn lại thấy một cụm từ gồm các từ quen thuộc at the end of the day không phải là cuối trận đấu mà nó mang một nghĩa chung, rốt cuộc, suy cho cùng. Cho nên những từ khác trong câu thật ra không gây khó khăn cho người đọc (massacre, pundits) bằng các từ thoạt trông rất đơn giản, dễ hiểu.
Mật độ của loại từ này rất dày đặc trong lối hành văn viết và văn nói tiếng Anh ngày nay vì, như một nhà ngôn ngữ học nhận xét, tạo ra một từ mới rất khó vì không dễ gì buộc hàng triệu người chấp nhận và sử dụng một từ mới sáng tạo. Nhưng cuộc sống thì luôn sinh động, biết bao điều mới xuất hiện hàng ngày nên người ta có xu hướng gán những nghĩa mới cho các từ đã quen thuộc. Surfing the net, khái niệm dùng máy tính kết nối vào mạng Internet, nhảy từ một trang web này sang một homepage khác là một ví dụ điển hình.
Thật ra, không hẳn lúc nào cũng dè chừng, đọc báo phải để cuốn từ điển bên cạnh vì phần lớn các từ, cụm từ có nghĩa khác với nghĩa bạn đã biết dễ dàng đoán hiểu nhờ nghĩa của toàn câu. Như khi bài báo viết tiếp, “…the team that took the field was a pale reflection of the side that beat Ajax in the recent European Cup final” bạn có thể đoán took the field là ra sân (thi đấu), a pale reflection là cái bóng mờ nhạt, the side là đội bóng, beat là đánh bại, final là vòng chung kết. Mặc dù có thể đoan chắc với bạn rằng nếu bạn giở lại sổ tay hồi mới học tiếng Anh, nghĩa của các từ trên đâu phải vậy.
Cả bài cung cấp khá nhiều ví dụ sinh động cho điều chúng tôi muốn nói: nghĩa của từ không là gì cả nếu không đặt nó vào một ngữ cảnh cụ thể. Ngoài những từ có liên quan đến bóng đá như overhead shot (cú đá ngã bàn đèn), flicked a cross to (chuyền bóng ngang cho) các ví dụ khác sẽ giúp bạn cẩn thận hơn khi đọc. Anything but là hoàn toàn không (Việt Nam was anything but overawed by the occasion).
Nguyên câu kết bài cũng giúp bạn hai nghĩa cho cùng từ save: Only a good save from Falcioni saved the equaliser. Save đầu tiên là danh từ thường dùng trong tường thuật bóng đá: cú bắt bóng và save thứ nhì là động từ thông dụng: cứu nguy (bàn gỡ hòa).
Thế nên, đừng bao giờ cố hiểu tiếng Anh, dù nói hay viết, theo đơn vị từ.
Vừa đọc vừa đoán trước
Lúc còn học ở bậc tiểu học, các bạn từng làm loại bài tập tiếng Việt trong đó có một đoạn văn ngắn được chừa trống nhiều chỗ và nhiệm vụ của bạn là điền vào các chỗ trống này sao cho đoạn văn vẫn có nghĩa. Nếu bây giờ làm lại loại bài tập này chắc các bạn đều được điểm mười. Thế nhưng khi đọc sang tiếng Anh, hầu như ít ai nhớ đến kỹ năng này. Gặp một từ mới, nhiều người lúng túng, tìm ngay từ điển để tra và dịch nghĩa từ đó mới đọc tiếp được. Nếu biết áp dụng kỹ năng đoán từ như thuở còn học cấp một và thêm kỹ năng dự báo từ sắp dùng, bạn sẽ thấy việc đọc hiểu nó dễ và đơn giản hơn nhiều.
Các bạn thử đọc những câu sau, những từ in đậm là từ mới… “được sáng tạo” ra:
“He bought a new 20” colour zip to wach the Euro 96 final”, “It costs US$25 to go from Noi Bai Airport to Hanoi by zap” và “She’s so zup that at least three film directors offered her leading role in their next zop”.
Có lẽ không cần tra từ điển các bạn cũng biết ngay zip là TV, zap là taxi, zup là đẹp và zop là phim. Nhưng nói một cách nghiêm túc, cách đoán từ này sẽ giúp bạn rất nhiều trong đọc hiểu.
“The monthly deflation was mostly due to a 0.56 per cent drop in food prices”; “Singapore registered rapid growth in investing overseas”; “The Cultural Palace was the venue for the launch of Windows 95 in Vietnam”. Áp dụng cách đoán từ, quên đi những từ mới, xem chúng là những khoảng trống, bạn vẫn đoán được nghĩa của deflation (giảm phát), registered (đạt được), venue (địa điểm tổ chức). Ngay cả với những thành ngữ cũng có thể áp dụng cách đoán nghĩa này. Đọc câu It’s about two kilometres away from the tower, as the crow flies. But it’s more than five kilometres going that road, bạn dễ dàng đoán được thành ngữ as the crow flies là theo đường chim bay.
Thật ra có những từ, những câu cần phải đọc hết cả đoạn văn hay cả bài mới đoán được nghĩa. Nhưng quá trình này sẽ giúp bạn nhớ từ đó lâu hơn. Ví dụ, Australia became the first country in the world to make voluntary euthanasia legal, hay Vietnam’s architectural
heritage is now in the balance. Đọc xong bạn sẽ đoán biết nghĩa của từ euthanasia (các bác sĩ giúp những người mắc bệnh nan y tự tử để tránh đau đớn), cũng như thành ngữ in the balance (chưa định đoạt).
Giả sử bạn vào một hiệu sách cũ có những chồng sách mọt ăn gần hết gáy sách, bạn có đoán được hai tựa sách này không?: “The… dvent es of Robinson Cr… oe” và “… to bui… your own hou…”. Đương nhiên bạn sẽ đoán được gì đã quá quen thuộc với truyện Robinson Crusoe cũng như những sách dạy các kỹ năng thực hành. Như vậy khi người đọc bị đặt trước một tình huống phải áp dụng mối liên kết của từ và câu, của câu trước với câu sau, khả năng đọc hiểu của họ sẽ được nâng lên nhiều lần.
Quan trọng hơn, kỹ năng đoán trước tác giả sẽ nói điều gì, dùng từ gì giúp người đọc chủ động theo dõi mạch văn và hiểu sâu bài viết hơn. Chúng ta cùng đọc đoạn văn sau: “The average people in the world now use approximately 43,000 calories per day”. Sau câu mở này, bạn nghĩ có thể tác giả sẽ phát triển theo hướng con số calory bình quân cho đầu người này không đều giữa các nước, hoặc theo hướng tán rộng lượng calory này từ những loại thực phẩm gì.
Thật vậy, câu thứ hai “However, there are few “average” people in the world” giúp ta biết ngay tác giả đi theo hướng thứ nhất. Nên ta có thể đoán trước câu sau chắc chắn sẽ nói đến sự khác biệt giữa các nước đang thiếu dinh dưỡng và các nước thừa mứa thực phẩm.
“Some people use far more energy than that, while most use far less”. Sau câu này, một người viết tốt buộc phải minh họa kết luận của mình bằng những con số cụ thể. “An average citizen of the so called “developed” countries uses 136,000 calories each day. However, more than two-thirds of the world’s people live in the “developing” areas, where the average person uses only 8,200 calories of non-metabolic energy daily”. Và câu kết ta có thể đoán trước tác giả sẽ tỏ thái độ với sự chênh lệch độ dinh dưỡng giữa các nước đang phát triển. “Such vast differences are hard to comprehend”. Một kết luận dù sao còn tương đối nhẹ nhàng.
Rắc rối chuyện tên tuổi
Như các bạn đã biết, cách xưng hô của người Việt khác hẳn người Anh. Thế nhưng đối với các nước khác thì sao, nước nào có thói quen ghi tên trước họ sau, nước nào xưng hô với nhau bằng họ khi mới quen và sau đó gọi nhau bằng tên trong chỗ thân tình?
Chúng tôi thử làm một cuộc nghiên cứu nhỏ bằng cách gởi thư cho tùy viên văn hóa của trên hai mươi nước có đại sứ quán tại Việt Nam, đề nghị cung cấp thông tin về vấn đề này.
Hồi đáp sớm nhất là Nhật Bản. Ông Imamura (họ) Nobukatsu (tên), tùy viên văn hóa tổng lãnh sự Nhật Bản tại TPHCM cho biết người Nhật thường gọi nhau bằng họ chứ không dùng tên, dù đã là chỗ thân quen (ví dụ Mr. Imamura). Chỉ có ít trường hợp ngoại lệ như bạn bè sinh viên học sinh hay người yêu gọi nhau thì dùng tên. Ông Imamura cho biết người Nhật thường viết họ trước tên sau nhưng hiện đang có trào lưu, nhất là trong giới doanh nhân thường ghi ngược lại tên trước họ sau trên danh thiếp bằng chữ Latinh.
Ông cho rằng cách làm này không đúng. Để biết được đâu là họ, đâu là tên, đối tác nên hỏi ngay khi được giới thiệu. Phần đông dù viết theo cách nào, cũng thường ghi họ bằng chữ in hoa và tên bằng chữ in thường.
Người ta xưng hô với nhau thêm chữ – san sau họ để chỉ ông, bà, anh, chị, không phân biệt giới tính. Ví dụ Imamura-san là ông Imamura hay bà Imamura. Phụ nữ Nhật sau khi kết hôn sẽ lấy họ chồng thay cho họ của mình.
Sau đó là Trung Quốc, với cách xưng hô gần như của Nhật. Họ trước tên sau như Lo Tak-shing. Và gọi nhau bằng họ chứ không bằng tên (Mr. Lo). Phụ nữ khi lấy chồng vẫn giữ tên của mình.
Nhưng cách ghi danh thiếp vẫn có nhiều người làm theo cách phương Tây, viết ngược tên rồi họ. Người Hungary, khác với các nước ở châu Âu, cũng có lối viết họ trước tên sau như Nhật Bản và Trung Quốc.
Đặc biệt ở Indonesia, ít khi người ta dùng họ. Hầu như người Indonesia chỉ có tên mà thôi, trong đó có tên được đặt khi sinh ra và tên của người cha. Ví dụ tên Indriayagi Sugiat ghi trên danh thiếp hay trên giấy tờ của một người Indonesia là không có họ. Người ta
có thể gọi ông này là Mr. Sugiat hay Mr. Indriaygi đều được. Ví dụ Indriayagi Sugiat lấy bà vợ trước đây có tên là Titin Rustini thì sau đó bà này sẽ được gọi là Mrs. Indriayagi Sugiat hay Mrs. Titin Indriaygi Sugiat.
Còn trong vòng thân quen người ta vẫn dùng tên cũ của bà, Titin hay Rustini.
Ngược lại, ở vùng đông Indonesia và đảo Sumatra, người ta lại thích dùng họ. Khi đó trong tên họ đầy đủ Freddy Sirait thì Sirait là họ và sẽ được dùng cho vợ con sau này.
Vì vậy có thể đôi lúc bạn thấy lạ khi đọc báo, ngoại trưởng Ali Alatas được gọi là Mr. Alatas mà bà Megawati Sukarnoputri được gọi là Mrs. Megawati.
Ở những nước đông dân như Ấn Độ, có nhiều cách xưng hô khác nhau giữa các chủng tộc và tôn giáo. Nói chung, cách viết và xưng hô của người Ấn Độ gần như của người Anh, ví dụ Indira Gandhi (Mrs. Gandhi); P.V. Narasimha Rao (Mr. Rao).
Đáng lưu ý là khi gặp nhau và chào hỏi, người Ấn thường thêm âm đệm “JI” sau tên. Ví dụ ông Khanna gặp cô Sheela, ông ta sẽ gọi cô là Sheelaji còn cô ta sẽ gọi ông là Khannaji. Còn khi viết, người ta thường thêm từ “Shri” hay “Shrimati” trước tên. Ví dụ khi cô Sheela viết thư cho ông Khanna, cô ta sẽ viết thành “Shri Khanna”, tương tự ông ấy cũng thường viết “Shrimati Sheela”. Nhưng nếu Sheela chưa lập gia đình, ông ta sẽ viết “Kumari Sheela”. Ở Ấn Độ, vợ lấy họ chồng. Ví dụ Sheela lấy ông Pratap, tên mới của bà sẽ là Sheela Pratap.
Ở Philippines, cách viết tên họ và xưng hô giống như người Mỹ. Ví dụ tên đầy đủ một người Phi là Edgardo Rodriguez thì Edgardo là tên và Rodriguez là họ, nên thường được xưng hô là Mr. Rodriguez.
Vợ (ví dụ bà Amelita Rodriguez) cũng lấy họ chồng nên thường được gọi là Mrs. Rodriguez. Tên người Phi thường được gọi gọn lại trong vòng thân tình như trong trường hợp trên là Ed và Lita.
Ở Thái Lan, với một họ tên đầy đủ như Anand Panyarachun, chúng ta có thể xưng hô là Mr Anand hay Mrs Sunan Leela (Ms Sunan).
Trước khi cùng xem tiếp các nước xưng hô như thế nào, chúng ta cũng nên ghi nhận điều này: phụ nữ Việt Nam được bình đẳng với nam giới trong lĩnh vực tên tuổi hơn các nước khác nhiều, kể cả nhiều nước phương Tây. Trong khi phụ nữ tại nhiều nước phải bỏ họ của mình thay bằng họ chồng sau khi lập hôn thú, phụ nữ Việt Nam vẫn giữ nguyên họ tên, không một thay đổi. Có thể ngày xưa, tên phụ nữ Việt Nam hầu như không tồn tại trong các gia phả, chỉ là Đoàn thị, Nguyễn thị… và cách đây vài chục năm tên các bà vợ được thay bằng tên chồng hay tên con trai trưởng. Nhưng ngày nay cách gọi đó hình như không còn nữa hoặc nói chính xác, trên mặt pháp lý, giấy tờ chính thức, các bà vẫn có quyền giữ nguyên tên họ của mình.
Ở các nước phương Tây, sau khi lấy chồng, các bà phải lấy luôn họ chồng sau đó phải giữ họ này mặc dù có thể đã li dị chồng. Muốn đổi lại tên hồi còn thiếu nữ, họ phải ra tòa xin đổi tên. Ngày nay, thấy chuyện đó hơi bất công nên có nhiều cặp vợ chồng có thể giữ nguyên tên họ của mình sau đám cưới như Hillary Rodham. Nhưng sau khi chồng bà lên làm thống đốc, Hillary lại phải xin đổi sang họ chồng thành Hillary Rodham Clinton. Chuyện tên tuổi ở một số nước còn nhiều điều thú vị, có thể giúp bạn nhớ tên đối tác của mình dễ hơn. Ngày xưa một cách tạo ra họ mới là dùng tên cha để phân biệt đây là con ai. Cho nên Johnson chính là John’s son (con của ông John) với những biến thể Jones, Jennings. Tương tự, Williams, Williamson, và Wilson đều là biến thể của William’s son (con của ông William).
Cùng với lối dùng tiếp vĩ ngữ -son để đặt cho con cái, người Tô Cách Lan có từ Mac- như trong Macdonald; người Ái Nhĩ Lan dùng O’- như O’Brien và Mc- hay Mac-; tiếng Pháp có Fitz- (biến thể của fils) như trong Fitzgerald; xứ Wales dùng Ap- như trong họ Apowen. Tiếng Nga có -ovich cũng mang nghĩa con của… nên Ivanovich là con của Ivan.
Ở Thụy Điển có từ -son còn tại Đan Mạch và Na Uy có từ -sen. Người Ba Lan lại dùng -owski và dân Hy Lạp xài -opoulos. Ngoài ra, ngày xưa họ mới cũng được hình thành từ nghề nghiệp.
Ban đầu người ta gọi John the baker (ông John thợ bánh) lâu dần thành John Baker. Loại họ thông dụng này ngày nay còn rất nhiều như Miller (thợ máy xay), Smith (thợ rèn), Carpenter (thợ mộc), Cook (đầu bếp), Carter (thợ chữa xe kéo), Gardiner… dĩ nhiên người mang họ này ngày nay đâu còn dính dáng gì đến nghề cũ của tổ tiên như ông Jimmy Carter từng làm tổng thống Mỹ. Họ Smith phổ biến nhất vì các loại thợ như thợ sắt, thợ thiếc, thợ bạc, thợ vàng… đều được gọi chung là smith. Các ngôn ngữ khác cũng có từ này làm họ như Ferrer (Tây Ban Nha), Schmidt (Đức), Kovacs (Hunggari).
Chắc các bạn sẽ ngạc nhiên lắm khi biết mãi đến đầu thế kỷ 19 dân Do Thái mới có họ. Trước đây cộng đồng Do Thái thường sống khép kín nên chỉ cần tên là đủ sau đó chính phủ các nước mới lần lượt buộc đặt thêm họ cho đầy đủ. Tùy theo nơi sống, dân Do Thái đặt ra những họ mới rất kêu như Rosenbeg (hoa núi), Gluckstein (hòn đá may mắn), Rubenstein (hồng ngọc), Goldenkranz (vòng hoa trắng). Nhiều người lấy ngay địa danh nơi họ sinh sống để làm họ như Hamburg, Frankfurt, Speyer. Hay dòng họ nổi tiếng Rothschild (tấm khiên đỏ) lấy họ từ biển hiệu treo bên ngoài cửa hiệu của họ.
Ngoài cách dùng tên các vị thánh, các tên phổ biến cũng có nghĩa nguyên thủy của chúng từ tiếng Hy Lạp như George là nông dân, Theodore và Dorothy – món quà của Thượng đế, Philip – người mê ngựa, Stephen – con quạ, Alexander – người bảo vệ, Margaret – trân châu.
Một nhận xét cuối cùng là các bạn dễ nhầm lẫn khi phân biệt giới tính qua tên. Mặc dù đa số các tên tận cùng bằng -a, -e thường là tên của nữ giới, nhưng để chắc ăn bạn nên xem thử trong thư từ giao dịch người ta có thêm từ Ms trong ngoặc ở sau tên của họ không. Đây là cách làm khá phổ biến sau khi các cô bị người khác viết thư gọi bằng Mr và xưng Dear Sir.
Tiếng Anh ở châu Á
Tiếng Anh ở châu Á ngày nay mang một bản sắc riêng, không lẫn vào đâu được. Nó không phải tiếng Mỹ cũng chẳng phải là thứ tiếng Anh chính thống người dân London hay dùng. Theo thống kê, hiện nay con số người châu Á sử dụng tiếng Anh như ngôn ngữ chính lên đến 300 triệu, hơn hẳn dân số nước Mỹ và nước Anh cộng lại. Đến nỗi trong một hội thảo gần đây về tiếng Anh tổ chức tại Manila, nhà thơ người Philippines, Germino Abad tuyên bố, “Tiếng Anh bây giờ là của chúng ta. Chúng ta đã thuộc địa hóa ngôn ngữ này”.
Nói thế hơi quá nhưng bạn nên nhớ ngoài thứ tiếng Anh bị “tàu hóa” gọi là “Pidgin English”. ở Singapore, giới trẻ có thứ tiếng Anh Singlish. Tương tự, Ấn Độ có thứ tiếng Anh riêng của họ, Philippines lại chế thứ tiếng Anh riêng cho mình (Taglish). Nếu bạn có dịp đi dự một hội nghị trong vùng, diễn giả cũng như người tham dự, dù đến từ nước nào cũng trao đổi với nhau một cách thoải mái bằng tiếng Anh với đủ giọng đọc, đủ cách phát âm và đủ loại cách dùng từ.
Được biết công ty Macquarie Dictionary Publishing đã phối hợp với trường đại học De La Salle để biên soạn một cuốn từ điển, bao gồm cả những từ tiếng Anh được dùng phổ biến ở châu Á nhưng không được các nhà làm từ điển Anh-Mỹ công nhận. Ví dụ, họ không chịu đưa vào từ điển những từ như dirty kitchen hay bride price. Một dirty kitchen, được dùng nhiều ở Philippines là nhà bếp phụ dành cho việc nấu ăn bình thường trong khi bếp chính để dành dịp trọng đại. Còn bride-price (rất phổ biến ở Hồng Kông) là tiền hồi môn nhưng do bên nhà trai trả cho cô dâu. Philippines hiện vẫn còn dùng những từ ngày nay đã biến mất tại Anh hay Mỹ. Ví dụ solon – chính khách tham chính; viand – thức ăn. Dân Phi cũng sáng tạo ra những từ tiếng Anh mới như American time (đúng giờ), green joke (chuyện tiếu lâm dính dáng đến tình dục).
Trở về loại tiếng Anh Pidgin rất phổ biến thời buôn bán đường biển giữa người Anh và người Hoa ở khắp nơi trên châu Á đang thịnh vượng. Đây là thứ tiếng Anh cố ý đơn giản hóa, thêm tiếng địa phương, thay đổi cấu trúc ngữ pháp sao cho người học có thể tiếp thu càng nhanh càng tốt. Hiện nay tiếng Anh pidgin lại phát triển mạnh ở châu Phi. Ví dụ động từ belong thành blong (Hồng Kông) và mang nghĩa là. Nơi khác như vùng Malaysia phát âm thành bilong,
hiểu theo nghĩa của. Nhiều từ được “sáng tạo” như lait bilong klaut là sấm chớp (light of cloud – thay vì lightning).
Có những cách cấu tạo từ rất buồn cười như từ we trong tiếng Anh đâu phân biệt được giữa chúng ta và chúng tôi. Người dùng tiếng Anh Pidgin bèn nói mipela, có nghĩa là me cộng với pela – một biến thể của fellow (I and others but not you) để chỉ chúng tôi. Và chúng ta, chắc các bạn đoán được, được diễn tả bằng từ yumi (you + me: we including you).
Đến đây các bạn có thể cười, cho rằng thứ tiếng lai căng buồn cười ấy bàn đến làm gì. Thật ra người Anh, người Mỹ lại hiểu Pidgin English rất nhanh, không hiểu nhầm như họ từng hiểu nhầm một số từ giữa dân Anh với dân Mỹ.
Một chàng trai người Mỹ sang London du lịch vào tiệm quần áo hỏi mua một suspenders làm chủ tiệm nhìn với ánh mắt khó hiểu. Hóa ra suspenders tiếng Mỹ là loại dây nịt giữ quần vắt qua vai nhưng người Anh dùng theo nghĩa dây nịt giữ vớ của phụ nữ. Nếu anh chàng này về khách sạn yêu cầu ủi giùm cái pants cho anh cũng sẽ gây ngạc nhiên cho dân Anh. Ở đây pants là quần lót còn bên Mỹ pants là quần dài.
Ngược lại, một người dân Úc sang Mỹ chơi. Muốn mua đôi thongs hay một cái sunnies chắc không ai hiểu gì. Thongs được dân Úc dùng để chỉ đôi dép và sunnies là cặp kính râm. Chuyện dài về sự khác nhau giữ tiếng Anh và tiếng Mỹ đủ để viết thành sách, chúng ta sẽ tiếp tục bàn luận về vấn đề này vào một dịp khác.
Có một điều bạn nên biết là dân Canada rất lạ, tiếng Anh của họ kết hợp cả tiếng Mỹ và tiếng Anh chính thống một cách thoải mái, không có gì tự ái dân tộc. Ngay cả những văn bản chính thức, đoạn đầu viết centre, favourite đoạn sau viết center, favorite là chuyện bình thường. Một lý lịch khai nhiều bằng danh dự, đầu tiên viết honours sau một hồi thành honors cũng chẳng ai quan tâm. Xu hướng này cũng thấy ở các nước khác như Nhật, Nga, Đức vì thế hệ trước học tiếng Anh trong khi giới trẻ lại dễ chịu ảnh hưởng phim Mỹ và thông tin trên mạng Internet.
Cái gì cũng nhất
Nếu như trong tiếng Việt từ đen thường được đem ra làm ví dụ về sự phong phú của ngôn ngữ với ngựa ô, chó mực, mắt huyền… thì trong tiếng Anh sự đa dạng của từ good cũng làm nhiều người lúng túng. Ngoài những từ bình thường như greatest, best, các nhà quảng cáo đã sáng tạo vô vàn tính từ để diễn tả chất lượng tuyệt hảo của sản phẩm họ chào mời.
Trong thị trường chứng khoán, cổ phiếu của những hãng ăn nên làm ra, tài sản nhiều, quy mô lớn gọi là bluechip. Các khách sạn hoặc cao ốc văn phòng thì khoe có prime (hay premier) location. Nhà sản xuất rượu cho rằng rượu của họ thuộc loại premium.
Trong xuất bản sách, chắc các bạn đã quen với từ best-seller dành cho những cuốn bán chạy như tôm tươi; còn trong điện ảnh, phim nào đông người chầu chực thi nhau mua vé chợ đen vào xem thì gọi là box-office hit (hay smash). Áo quần hạng sang thì có từ well-cut; ô tô nào được quảng cáo là luxury, high performance, top
of-the-line đều thuộc loại hàng cao cấp. Khu nhà nào dành cho giới giàu có được miêu tả là exclusive hay fashionable neighbourhood. Nhưng một ngôi biệt thự vài triệu đô thì chủ nhà thích dùng từ palatial hơn.
Tương tự, đồng hồ đắt tiền là những flashy watches trong khi các cô người mẫu thời trang cỡ Cindy Crawford được mệnh danh là top model hay supermodel có thân hình tuyệt mỹ (gorgeous). Các nhà khoa học hàng đầu thường được giới thiệu bằng từ eminent trong khi các vận động viên đoạt vài ba huy chương thế vận hội thuộc đẳng cấp world-class. Trong văn chương, hội họa những tuyệt tác được gán từ masterpiece còn người sáng tạo ra chúng là những genius.
Người Anh thích dùng tiếng Pháp trong những trường hợp thậm xưng như vậy. Ví dụ từ de luxe được dùng cho nhiều loại hàng hóa hay dịch vụ; từ haute dùng trong ẩm thực (haute cuisine) hay trong thời trang (haute couture); từ tour-de-force trong âm nhạc hay tiểu thuyết (In an extraordinary structural tour de force the novel maintains a dual focus).
Loại cụm từ có gạch nối cũng rất thông dụng khi miêu tả những gì có chất lượng cao hơn hẳn các thứ cùng loại: như top-end trong máy vi tính, top-of-the-range trong xe cộ, state-of-the-art cho nhiều loại trang thiết bị.
Trong du lịch, đi vé máy bay hạng nhất có từ travelling first-class, phòng chờ hạng sang có executive lounge. Các nhà kinh doanh thường thích những giải pháp nào most cost-effective còn nhà báo lại theo đuổi những exclusive stories hay scoop. Nói chung các thành tựu nào mang danh là outstanding đều là những chiến công xuất sắc. Nếu bạn là người đem lại những thành tựu đó, bạn có thể được thưởng những ngày nghỉ cuối tuần tại một five-star hotel có một spectacular view nhìn ra bãi biển, hưởng trọn những executive facilities của khách sạn này như nghe một bản nhạc trong top-ten list, mua sắm trong những cửa hàng upmarket.
Cuối cùng xin giới thiệu một số từ thuộc loại bậc nhất nhưng dùng trong văn nói. Khen một đề nghị nào đó thật xuất sắc, người ta thường nói: “What a swell (grand, splendid, great, capital) idea!” Còn khen một cô bạn mặc áo đẹp, có thể dùng: “What a smashing (superb) dress!” Thức ăn ngon có thể diễn tả bằng những từ như choice, select… (The shop was selling very choice apples; These are select apples; This is really classic French wine). Chính vì vậy, khi gặp lại những từ đó dùng trong những tình huống tương tự bạn sẽ không bị nhầm vì nghĩa thường dùng của chúng (classic trong câu trên mà dịch là rượu Pháp cổ điển thì hơi phiền).
Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau
Người hói đầu thường rất ghét từ bald nhưng nếu bạn tả họ chỉ hơi thin on top là họ hài lòng ngay. Đây chỉ là một trong muôn ngàn ví dụ cho việc tránh dùng từ chính xác vì những lý do tế nhị.
Trong tiếng Việt ít khi ta nói toạc móng heo vì sợ phiền lòng người nghe thì trong tiếng Anh, người ta cũng tránh call a spade a spade nhất là trong giao dịch trên thương trường. Lối nói khéo này trong tiếng Anh gọi là euphemism (được định nghĩa là the substitution of a mild, bland, inoffensive expression for a blunt or harsh one).
Thường gặp nhất là trên các cáo phó; thay vì nói thẳng “somebody has died”. văn cáo phó dùng to depart this life, to pass away. Sau đó là các tính từ miêu tả thân thể người ta. Thay vì chê một người nào đó gầy gò (skinny) ta có một loại từ để chọn lựa, vừa chính xác, vừa dễ lọt tai hơn như lean, slender. Trong câu “an old man, very tall and spare, with an ascetic aspect” thì spare mang nghĩa tốt như kiểu “She has the spare figure of a marathon runner”. Tệ lắm thì dùng lanky (theo kiểu gầy mà thanh) chứ ai lại dùng những từ chỉ cảnh gầy trơ xương như skinny, scrawny, hay gaunt như câu “He had a long, scrawny neck that rose out of a very low collar”.
Chê một người chậm hiểu, thay vì dùng từ stupid ta có thể nói nhẹ nhàng, rằng anh ta hơi slow in his thinking. Kể chuyện bà xã có bầu nên dùng expecting hơn là pregnant. Ít ai dùng từ fat một cách thẳng thừng mà nên tả một cô trông portly hay stout. Hay nhất là dùng plump như trong câu a plump, rosy little girl. Nói chung những người bị khuyết tật thân thể không còn bị gọi là handicapped nữa. Họ chỉ là những người differently-abled mà thôi.
Trong ngoại giao, cách nói euphemism cũng rất thường được áp dụng. Như vụ các bà người Hàn Quốc bị lính Nhật bắt làm “comfort women” trong thời kỳ chiến tranh thế giới lần thứ hai. Hay như trước đây phương Tây thường chia thế giới làm hai loại quốc gia: phát triển (developed) và kém phát triển (underdeveloped) sau bị phản đối dữ quá nên mới đổi lại là developing (đang phát triển).
Nói tóm lại, đây là những từ được xem là phải đạo (politically correct).
Có những từ nghe qua phải được chính giới ngoại giao dịch lại người ta mới hiểu; ví dụ the disadvantaged để chỉ người nghèo, underachievers để tả những người lười biếng, không chịu vươn lên, senior citizens là những người già lão, disturbed dùng cho những kẻ bị tâm thần.
Cũng do đó, những từ chỉ nghề nghiệp hàm ý coi nhẹ đều được đổi lại trong những năm gần đây. Secretary thành executive assistant; air hostess hay stewardress trở thành flight attendant; người quét đường từ street-sweeper hay garbage man thành sanitation engineer; gate-keeper thành security guard và bà đỡ – midwife thành birth assistant.
Trong phong trào phụ nữ bình đẳng với nam giới, các bà đã đòi thay hết những từ có chữ man thành person như chairman – chairperson; salesman – sales representative; mailman – mail carrier; fireman – firefighter.
Thậm chí từ nhân loại – human race vì có man nên bị đề nghị đổi thành people và có người cực đoan đến độ đòi viết từ women thành womyn và housewife được thay bằng home maintenance engineer! Dĩ nhiên trong thực tế đâu có ai nói như thế.
Thế nhưng có những thay đổi đã được nhiều người chấp nhận nhất là những từ liên quan đến vấn đề chủng tộc. Ngày nay đến Mỹ bạn sẽ không còn nghe từ American Indians để chỉ người dân da đỏ ở đây nữa, thay vào đó là Native American. Nếu ngày xưa đọc trong tiểu thuyết đôi lúc bạn bắt gặp từ nigger với ý miệt thị người da đen, bây giờ nếu xài từ đó hay thậm chí từ negro ở New York, bạn rất dễ bị đòn hội chợ. Nên tả họ bằng từ African (Afro-) Americans. Dân Eskimo cũng bị xúc phạm nếu bạn gọi họ bằng cái tên quen thuộc này, ngày nay họ được gọi là Inuit.
Có mấy loại du lịch?
Các bạn đừng ngạc nhiên khi thấy người Anh dùng cụm từ business tourism (du lịch kết hợp tìm cơ hội làm ăn) vì ngày nay người ta thích gắn từ tourism với đủ loại từ miêu tả để chỉ sự đa dạng của các loại hình du lịch.
Từ tourist đã có lúc bị xem thường vì người ta cho rằng khách du lịch đến đâu đem theo nhiều tệ nạn đến đó như cờ bạc, mại dâm, lối sống dung tục và gây ô nhiễm môi trường. Đến nỗi đã có câu nói đùa: “I am an explorer; you are a traveller; he is a tourist”. Từ đó mới có từ mass tourism để nhấn mạnh yếu tố phê phán mặt trái của công nghiệp du lịch đối với một địa phương.
Thế là các nhà tổ chức tour mới nghĩ ra những từ mới, đánh bóng cho tourism. Trước hết có heritage tourism, để chỉ loại hình du lịch tìm hiểu văn hoá và lịch sử của nước chủ nhà. Ngay cả từ heritage (di sản) cũng trải qua một thay đổi căn bản vì ấn bản cũ các từ điển chỉ nói đây là “A nation’s historical buildings, monuments, countryside, etc., esp. when regarded as worthy of preservation”. Đến các ấn bản sau mới thấy đề cập đến các giá trị tinh thần: “A nation’s mark of history, such as stately buildings, countryside, cultural traditions, etc seen as the nation’s wealth to be inherited by future generations”.
Sau đấy là các loại hình cultural tourism, industrial tourism, literary tourism, urban tourism và thậm chí military tourism. Khi đã chán với những loại hình du lịch trên, người ta nghĩ ra farm-based tourism hay còn gọi agrotourism hay agri-tourism, tức là du khách đến nghỉ ngơi tại một nông trại, thỉnh thoảng xắn tay giúp nhà nông làm ruộng.
Biến tướng xấu của sự đa dạng hoá này là sex tourism, khi khách mua tour chủ yếu để đến những nước đang phát triển tìm hoa lạ. Nước Anh mấy năm gần đây khó chịu vì loại hình benefit tourism vì khách du lịch, chủ yếu từ các nước châu Âu khác đến Anh nhằm tận dụng dịch vụ y tế miễn phí của nước này. Phân biệt hình thức này với hình thức du lịch kết hợp chữa bệnh gọi là health tourism.
Để ngăn ngừa việc khai thác cạn kiệt tài nguyên du lịch, các nước nghĩ ra khái niệm sustainable tourism (du lịch bền vững), với những
biện pháp như hạn chế số lượng du khách đến những nơi dễ bị thương tổn vì khách phương xa và có phương án đầu tư để nguồn lợi du lịch không bị cạn kiệt. Một khái niệm tương tự là ecotourism (du lịch sinh thái) còn green tourism để chỉ các nhà tổ chức tour có biện pháp bảo vệ môi trường.
Mốt mới nhất là space tourism dành riêng cho các tỷ phú có tiền thu xếp du lịch vào không gian. Tạm thời chúng ta có thể áp dụng loại hình virtual tourism (du lịch ảo) qua mạng Internet, vừa rẻ tiền vừa rất hợp với trào lưu sustainable tourism.
"""