"
Chuyện Chú Chim, Con Ếch Và Khu Vườn Màu Xanh - Elizabeth O. Dulemba & Nguyễn Trang (dịch) full mobi pdf epub azw3 [Self Help]
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Chuyện Chú Chim, Con Ếch Và Khu Vườn Màu Xanh - Elizabeth O. Dulemba & Nguyễn Trang (dịch) full mobi pdf epub azw3 [Self Help]
Ebooks
Nhóm Zalo
CHUYỆN CHÚ CHIM, CON ẾCH, VÀ KHU VƯỜN MÀU XANH Tác giả: Elizabeth O. Dulemba
Dịch giả: Nguyễn Trang
Phát hành: Vibooks
Nhà xuất bản Thế Giới 2018
—★—
ebook©vctvegroup
TỪ BỎ Ư? TRONG TỪ ĐIỂN CỦA TÔI KHÔNG CÓ HAI TỪ ĐẤY! Đã bao giờ bạn rơi vào tận cùng của chán nản, muốn buông bỏ tất cả? Đã bao giờ bạn cảm thấy dù nỗ lực thế nào cũng bị hiện thực đánh gục?
Đã bao giờ bạn từ bỏ đam mê chỉ vì không đủ niềm tin, không đủ sức lực?
Nếu đã từng ít nhất một lần rơi vào tình trạng ấy, chắc chắn bạn không nên bỏ lỡ câu chuyện này - câu chuyện về Jack - một cậu bé luôn có mơ ước thay đổi thị trấn nơi mình đang sống.
Dù cho hoàn cảnh có khó khăn, khắc nghiệt đến mấy, Jack cũng chưa bao giờ có ý định từ bỏ thị trấn. Bởi ở đó có gia đình gắn bó, có quê hương ấm áp tình người, có những điều thân thuộc nhưng rất đỗi quan trọng.
“Chuyện chú chim, con ếch và khu vườn màu xanh” sẽ là một “La Dolce Vita” dành cho bạn: Ai trong chúng ta cũng đều muốn sống một cách có ý nghĩa nhất, tận hưởng những điều tốt đẹp nhất mà tạo hóa đã ban tặng.
Dành tặng Grace Postelle (sinh ngày 25 tháng 6 năm 1926, mất ngày 28 tháng 10 năm 2010),
Doris Abernathy (sinh ngày 27 tháng 11 năm 1927), những người dân của Lòng Chảo Đồng,
và Stan (mãi mãi).
“Đám chủ đồng buộc tội bạn đấy, Joe Họ bắn bạn đấy Joe, tôi nói;
Súng đạn không đủ giết một người Joe nói anh không hề chết.
Joe Hill không chết, anh bảo tôi,
Joe Hill không bao giờ chết:
Khi những người thợ đình công,
Joe Hill ở cùng bên họ.”
(trích đoạn “Đêm Qua Tôi Mơ Gặp Joe Hill”, Alfred Hayes sáng tác năm 1925,
Joan Baez hát tại Woodstock năm 1969)
Chương 1
NHỮNG CÂY CẦU
S
ống ở Thị Trấn Đồng giống như sống trên mặt trăng. Toàn bộ khu vực là đất đá nguyên sơ, trơ trụi gập ghềnh do những mương rãnh chống xói mòn cắt ngang qua mọi hướng. Xa tới tận đường chân trời, cảnh vật trông như một chiếc túi giấy nâu nhàu nát. Không có cả cây bụi lẫn trảng cỏ, không có mảng xanh nào len qua mặt đất để gắn nhà cửa của chúng tôi vào mảnh đất này, để những ngôi nhà trông như thuộc về nơi đây. Vậy vì sao cô Post lại mất công dạy chúng tôi về cây cối trong khi chúng tôi chẳng có cây cối gì?
Những người thợ đã sử dụng hết cây khi bắt đầu khai thác mỏ đồng ở đây từ một trăm năm trước. Họ chặt cây để làm nhiên liệu cho các lò luyện kim lộ thiên, họ dùng những lò này để nung trước khi nấu chảy quặng. Khói từ những ống khói tạo ra mưa axit, và chính mưa axit đã giết sạch mọi vật. Giờ họ không còn làm như vậy nữa nhưng tự nhiên vẫn chưa trở lại.
Dẫu vậy, cô Post nói rằng tất cả chúng tôi nên biết cây hoàng dương - loài cây tiêu biểu của bang Tennesse trông ra sao, và biết phân biệt cây hoàng dương với các loài thông, sồi, dẻ vàng hay phong. Cô bảo rằng không có cây cối là điều bất thường, mặc dù đối với chúng tôi việc đó thật bình thường.
Trên tấm màn chiếu, cô cho chúng tôi xem hết slide này đến slide khác
hình ảnh cây cối, từ các thân cây màu nâu to bự với ngọn xanh đầy lá, cho tới các cành nhánh dài mảnh khảnh với các lá kim trông như bàn chải. Với những gì chúng tôi biết về cây cối thì cô có trưng ra phi thuyền không gian chúng tôi cũng tin. Bên ngoài cửa sổ phòng học, tất cả những gì chúng tôi thấy là Những Ngọn Đồi Đỏ, như cách người dân địa phương vẫn gọi, đó là vùng đất chỉ có ích cho việc khai thác mỏ đồng và lái những chiếc xe đạp thể thao địa hình BMX.
Nói vậy chứ tôi cũng chẳng có một chiếc xe loại ấy.
Chiếc xe đạp đầu tiên của tôi là loại rẻ tiền, nó đã thoát khỏi tay tôi, lao xuống con đường đất rồi nảy trên các mương chống xói mòn, ném mình vào không khí như một chú chim cất cánh bay. Tôi có chiếc xe đạp này từ hồi lên mười, vì thế lúc chiếc xe rời bỏ tôi, nó đã trở nên quá nhỏ. Tôi liên tục nói bóng gió với mẹ rằng tôi cần một món quà Giáng sinh thật chất, một chiếc xe đạp đua BMX mới như chiếc xe trưng ở cửa hàng Công ty. Nhưng mẹ nói chiếc xe ấy quá đắt và nguy hiểm, thật chẳng có lý gì hết. Dẫu sao, nếu có xe đạp, tôi đã không phải cuốc bộ với Piran vào cái ngày tháng tám đó, ngày mà chúng tôi đụng độ Eli cùng đám bạn của hắn, và có thể tôi đã không làm gãy cánh tay mình.
Piran được đặt tên theo vị thánh bảo trợ ngành khai thác thiếc, bạn hẳn nghĩ rằng cậu bạn thân nhất của tôi là một thiên thần. Nhưng cậu ấy khiến chúng tôi gặp rắc rối còn nhiều hơn cả quỷ sứ. Việc tôi băng qua cây cầu cạn đó là lỗi của cậu ấy, nếu cậu ấy không thách thì tôi đã không làm.
※
Đó là một ngày mùa hè nóng nực, không khí nặng nề và mọi vật đều nhuốm ánh vàng son. Eli Munroe cùng băng nhóm của hắn - một đám con
trai cấp ba đang tụ tập hút thuốc ở đầu cầu cạn khi chúng tôi đi ngang qua trên đường tới Ao Thải Cũ Số Hai.
“Nhìn các em bé dễ thương này.” Chúng cười. “Cá là các bé quá nhát không dám băng qua cầu đâu.”
“Thôi đi.” Tôi lừ mắt và tiếp tục đi, nhưng Piran chộp lấy cánh tay tôi. “Coi nào Jack, băng qua cầu đi.” Cậu ấy nói. Khuôn mặt Piran bị biến dạng qua cạnh chiếc kính dày cộp cậu ấy đang đeo khi nhìn tôi từ một phía.
“Không đời nào!”
“Năm tới bọn mình sẽ lên cấp ba, đến lúc ấy một đứa trong đám này sẽ là học sinh năm cuối. Cậu muốn chúng gọi bọn mình là thỏ đế à? Tốt nhất là. giờ hãy chứng tỏ cho chúng thấy.” Piran thì thầm. “Tớ thách cậu đấy. Tớ đi trước nhé.”
Piran không chờ tôi trả lời. Cậu ấy hất cằm rồi bước lên một thanh tà vẹt. Eli cùng băng của hắn rú lên reo hò. Tôi lo bệnh hen suyễn của Piran sẽ tái phát như thường lệ mỗi khi sợ hãi hay căng thẳng, nhưng cậu ấy vô cùng bình tĩnh giữ thăng bằng đi từ thanh đòn này sang thanh đòn khác. Cậu ấy băng qua cầu, nhảy xuống đất, rồi quay lại nhìn tôi cười nhăn nhở. Đến lượt tôi.
Ánh nắng phản chiếu lên lớp kính chắn gió chiếc xe Jeep cũ của Eli làm tôi phải che mắt. Đây không phải cây cầu cạn cao nhất Hạt Polk nhưng cũng khá cao. Dưới trụ cầu, làn nước màu hổ phách đã gần khô cạn kể từ đợt mưa trước, chỉ thấy một lớp bùn vàng dày bám quanh những thanh đòn được tráng nhựa đường của cây cầu. Chạy từ đầu cầu tới cuối cầu cũng chỉ như chạy từ trụ thứ nhất đến trụ thứ hai, nhưng tôi chưa từng chạy trên các thanh đòn nằm quá gần nhau chỉ dành cho đi bộ thế này, nhất
là khi nó lại nằm quá cao so với mặt đất.
Bên dưới lòng chảo, mặc dù không có cây cối nhưng các ngọn đồi xung quanh cũng đủ để che phủ mọi thứ. Tôi lắng nghe mong có tiếng tàu vọng tới, nhưng thật yên lặng. Sự im lặng của Thị Trấn Đồng nghĩa là không có tiếng côn trùng hay chim chóc, thậm chí không có cả gió, điều đó làm tôi đổ mồ hôi nhiều hơn.
Không còn cách nào tránh khỏi việc này. Nếu không băng qua cầu, không những tôi sẽ phải nghe đám Eli nhắc đi nhắc lại chuyện này, mà Piran cũng sẽ không bao giờ nói chuyện với tôi nữa.
Tôi hít một hơi thật sâu, xoa xoa chiếc chân thỏ may mắn trong túi áo rồi bước lên.
Tôi mới chỉ vượt qua nửa cây cầu thì đoàn tàu xình xịch xuất hiện. “Chạy đi… CHẠY!” Tất cả hét lên. Nhưng tôi chẳng thế sang kịp đến bờ bên kia, mà mặt đất lại cách quá xa để nhảy xuống. Các thanh tà vẹt nhô ra như những móc treo phía ngoài đường tàu làm tôi nảy ra một ý tưởng. Tôi quỳ xuống, bò ra tới rìa, những mảnh vụn gỗ đá đâm vào tay và đầu gối tôi. Tôi nghiến răng vì đau đớn. Đoàn tàu vừa tới gần, tôi kịp thời dùng tay ôm chặt một móc treo rồi lẳng hai chân qua một bên. Tôi đá chân liên tục mong tìm kiếm một điểm tựa. Nhưng tất cả những gì chân tôi đụng phải chỉ là không khí. Dạ dày tôi lộn tùng phèo, đầu tôi quay mòng mòng. Tôi ấn má vào lớp nhựa đường nóng dính trên thanh đòn khi tôi giữ chặt nó, tôi ngửi thấy mùi như lốp xe cháy sát bên cạnh. “Tránh xa địa phận Công ty ra, Jack nhé.” Tôi nhớ tới lời bố dặn. “Nguy hiểm lắm.” Nhưng Công ty sở hữu gần như mọi thứ quanh đây, không có nhiều việc có thể làm ở Thị Trấn Đồng mà không dính đến nguy hiểm theo cách này hay cách khác. Tôi nên làm gì, ngồi trong nhà cả mùa
hè à? Tôi đã đủ lớn để tự lo cho bản thân. Nhưng ngay lúc này, tôi ước mình đã nghe lời bố.
Đoàn tàu rú ầm ĩ lao về phía tôi, tiếng còi lớn tới nỗi đầu tôi ù đi. Từ góc nhìn của tôi, đoàn tàu như một con quái vật khổng lồ bằng sắt với tấm vỉ nướng phía trước đầy những răng kim loại, nó đang lao tới để nhai tôi ngấu nghiến.
Tôi không còn cảm nhận được các ngón tay của mình chứ đừng nói tới phần còn lại của cơ thể. Sau này khi kể lại tôi vẫn khẳng định rằng chuyển động rung lắc đã khiến tôi buông lơi, nhưng nói thật với trời đất tôi đã buông tay.
Tôi rơi hàng chục mét xuống lớp bùn bên dưới. Được rồi, chắc chỉ khoảng vài mét thôi, nhưng tôi nhớ rõ những tiếng “bõm!”, “tõm!” của lớp bùn, chính nó đã cứu sống tôi, ngay trước tiếng “rắc!”
Đau đớn ùa tới cánh tay tôi.
Eli cùng băng của hắn biến khỏi đó không thể nhanh hơn. Chúng trèo lên nhau thành một đống trong chiếc xe Jeep cũ mèm của Eli, rồi lao đi để lại đám mây bụi. Nhưng một đứa trong đám đã chậm chân và bị bỏ lại phía sau.
“Will McCaffrey!” Piran hét lên. “Người trong mương kia là con trai của ông Ray Hicks đấy, mà bố anh làm việc ở mỏ. Tôi có cần cho anh hay chuyện gì sẽ xảy ra nếu anh không mau đi tìm người giúp không hả?”
Tôi không biết vào khoảnh khắc đó mình ghét hay quý Piran nữa, nhưng tôi không có nhiều thời giờ nghĩ về việc ấy. Tôi ngất đi. Khi tôi tình lại, Piran đang ngồi cạnh tôi vừa hít ống xịt vừa khóc lóc xin lỗi vì đã đẩy tôi vào tình huống khó khăn đó. Tôi thì khóc vì quá đau. Cậu ấy dùng chân làm gối để đầu tôi tựa vào. Tư thế thật vụng về, nhưng
chúng tôi là một mớ hỗn độn bù lu bù loa nên tôi cũng chẳng bận tâm. Khi nước mắt đã khô và hơi thở bình tĩnh lại, Piran kể chuyện cười cho tôi nghe để giúp tôi không nghĩ tới cơn đau đang hành hạ. Dĩ nhiên tôi đã nghe tất cả những chuyện cười này trước đây.
“Cậu không có chuyện gì mới à?” Tôi hổn hển.
“Quỷ tha ma bắt, tớ không biết nữa. Tớ xin lỗi Jack ơi.” Piran lại khóc. “Bố sẽ giết tớ khi biết chuyện này, nhất là khi biết bọn mình đang tới chỗ ao thải cũ…”
Chúng tôi không được phép tới đó. Đấy là nơi Công ty đổ bỏ nước họ dùng để tách những phần khoáng cuối cùng trong quặng. Khi họ đóng một ao thải lại, họ sẽ không bơm nước vào nữa. Vì thế, mặc dù tên là Ao Thải Cũ Số Hai nhưng nơi ấy không giống ao chút nào. Khắp nơi khô ráo, không có gì ngoài bụi silicat cứng màu trắng, vào những ngày gió, lớp bụi này thổi khắp Thị Trấn Đồng. Ao thải trông như một sa mạc với làn nước màu đồng rịn qua bờ ao, phủ lên đá một lớp nước bùn sắt màu mù tạt. Khu vực ao thải rộng hàng mẫu trông còn cằn cỗi hơn cả phần còn lại của Thị Trấn Đồng, tôi đoán đấy là lý do chúng tôi nghĩ nơi này rất ngầu. Ở đó trông như hành tinh khác vậy, vì thế chúng tôi thường giả vờ mình đang trên đường di cư giữa các vì sao ngoài không gian như trong phim Star Trek và hạ gục nhau bằng những khẩu súng bắn laze vô hình.
“Cậu không cần cho bố biết.” Tôi nghẹn lời.
“Chứ không thì vì sao bọn mình lại đi xa đến tận đây? Dù bố tớ không phải là một thợ mỏ nhưng ông ấy không ngốc đâu.”
“Khỉ gì chứ, chú ấy chắc chắn là người thông minh nhất ở đây.” Tôi gắng sức nói. Mặt trời nung chúng tôi như cái lò. Tôi khát quá, lưỡi tôi phồng lên như quả bóng chày. “Bố cậu không cần phải xuống lòng đất
làm việc.” Bố của Piran quản lý bưu điện của thị trấn, dường như việc này khiến cậu ấy ngượng.
“Nhưng dưới lòng đất mới là nơi kiếm được nhiều tiền.” Cậu ấy nói. “Nếu không vì bệnh hen suyễn, tớ sẽ trở thành thợ mỏ.”
Hẳn là tôi đang bị ảo giác. “Gì cơ? Vì sao?”
“Cậu đùa à?” Piran đáp. ”Ở dưới ấy chẳng bao giờ có mưa hay tuyết, quanh năm lúc nào cũng một nhiệt độ. Cả thị trấn đối đãi với cậu như hoàng tộc, rồi cậu còn được giảm giá ở cửa hàng của Công ty nữa. Một ngày nào đó tớ muốn trở thành thợ mỏ giống như cậu.”
Giống tôi ư? Tôi ráng nuốt xuống nhưng cổ họng khô khốc. Tôi ước mình cũng yêu công việc thợ mỏ như Piran hay bố tôi, yêu những chiếc mũ cứng, sức mạnh của công việc, tình cảm gắn bó đặc biệt giữa các thợ mỏ. Nhưng rồi tôi sẽ lại nghĩ về những người tôi quen biết đã chết hoặc bị thương bởi những vụ nổ hay sập hầm. Tôi nghĩ về bố tôi ngày nào đi làm về cũng phải kỳ cọ người thật kỹ mà chẳng bao giờ sạch hẳn.
Những việc ấy dường như không hề làm bố tôi sợ. Bố của bố, ông nội Hicks của tôi đã mất trước khi tôi ra đời, bố coi cái chết của ông như một tấm huy hiệu danh dự.
“Chúng ta là thợ mỏ, Jack ạ.” Bố đã nói. “Khai mỏ nằm trong máu chúng ta.”
Tôi chắc chắn một điều là khai mỏ không nằm trong máu của tôi. Bố vẫn trông chờ tôi nối gót bố và sớm thôi tôi sẽ phải bảo bố rằng tôi không muốn. Nghĩ đến chuyện đó khiến tôi đau dạ dày. Bố đã tới làm việc ở mỏ từ hồi mười bảy tuổi, và em trai bố, chú Amon, làm ở đó từ lúc mười lăm, chỉ hơn tôi bây giờ hai tuổi.
“Cậu có thể nói vài lời tốt về tớ khi cậu vào đó làm.” Piran nói. Tôi rên rỉ. Một phần để cậu ấy ngậm miệng, nhưng chủ yếu là bởi tôi đau quá, mà việc suy nghĩ còn khiến tôi đau đớn hơn.
Lâu vô tận mới có người tới giúp, nhưng cuối cùng họ cũng đến. Các nhân viên y tế mang tôi đi trên một chiếc cáng trông như ván trượt màu cam cực hiện đại. Tôi nghĩ mình sẽ chẳng bao giờ thoát khỏi cái mương ấy khi họ cứ thở hổn hển như thể chưa từng leo lên một ngọn đồi nào suốt cuộc đời. Cũng có thể coi là may mắn khi họ suýt làm rơi tôi và tôi lại ngất đi. Việc ấy giúp tôi khỏi thấy đau đớn suốt nửa hành trình leo lên dốc đá lở.
※
Tôi vẫn còn bị bó bột khi chúng tôi quay lại trường học vào tháng 9. Mỗi lần kể lại chuyện này Piran càng khiến câu chuyện trầm trọng hơn, cho tới khi tôi trở nên cực kỳ nổi tiếng. Cả lớp ký lên cánh tay bó bột của tôi, bao gồm cả đội bóng chày Thợ Mỏ mà tôi tham gia.
Buster, cậu em họ tôi nói: “Em sẽ giết anh nếu anh làm gãy tay trong mùa bóng chày đấy.”
Cứ như gãy tay trong kỳ nghỉ hè thì tốt hơn ấy nhỉ? Tôi đoán đấy là cách nói khác thường của Buster rằng cậu ta quan tâm đến tôi. Hoặc là không quan tâm.
Tôi chọc cây bút chì xuống dưới lớp bó bột, cố gãi một chỗ ngứa vừa khéo… ngoài tầm với. Tôi chẳng thế chờ đến lúc bỏ thứ trời đánh này đi. “Jack Hicks, em có chú ý đến bài giảng không đấy?” Cô Post nạt. “Có điều gì đặc biệt về cái cây này?” Cô hỏi khi chỉ thước vào màn
chiếu có hình một thân cây ngọn rậm rạp.
“Cái cây có màu xanh ạ?” Tôi nói và mọi người đều cười. Nhưng tôi nghĩ đó là câu trả lời hay đấy chứ. Trong một thế giới với đất nâu, bùn vàng và cánh tay bó bột bẩn thỉu của tôi, bất cứ thứ gì màu xanh cũng đều đặc biệt. Thực tế nếu làm được tôi đã biến cả Thị Trấn Đồng thành màu xanh rồi.
Chương 2
SẠT NÓC HẦM
“A
i khác nào? Những cây này dùng để làm gì?” Cô Post hỏi. “Để trèo ạ?” Piran nói. Theo chương trình truyền hình chúng tôi đã xem, trèo cây là hoạt động tiêu khiển của những cậu trai Mỹ tiêu biểu. Mặc dù tôi biết rõ Piran chưa từng trèo cây trong cả cuộc đời cậu ấy. “Cho bóng mát.” Buster lẩm bẩm như thể đó là việc hiển nhiên. Nhưng bóng mát là thứ chúng tôi không có quanh đây.
“Đúng vậy, tốt!” Cô Post chộp lấy câu trả lời của cậu ta bởi Buster hiếm khi nói gì trong lớp. Cô chuyển sang slide tiếp theo. Đó là một biểu đồ, một hình cắt mặt đất khi nước mưa ngấm vào lòng đất tạo thành các khe sâu. “Và rễ của chúng có tác dụng giữ đất. Không có rễ cây, đất sẽ bị xói mòn như chúng ta thấy ở Thị Trấn Đồng…”
Đột nhiên, một âm thanh sắc rền cắt lời cô. TIẾNG CÒI MÁY! Sách vở bay tứ tung. Ghế đổ xuống. Bàn học đâm sầm vào nhau. Tất cả chúng tôi chạy khỏi lớp học. Cô Post không thể ngăn chúng tôi dù cô có cố gắng thế nào. Đôi chân chúng tôi cứ thế nắm quyền kiểm soát. Còi máy phát ra từ Công ty nghĩa là có việc gì đó không hay đã xảy ra ở mỏ. Bố của ai đó có thể đã bị thương hoặc gặp chuyện tệ hơn. Làm ơn đừng là bố mình, đừng là bố mình, tôi thở hổn hển khi đôi chân nện xuống đường đất với cùng một nhịp của con tim. Tiếng máu chảy lấp đầy tai tôi, nhấn chìm tiếng thở gấp của các bạn. Chân chúng tôi
đạp bụi bay mù, làm tôi không nhìn rõ đường trong khi đang gắng sức chạy tới nơi xảy ra chuyện. Tôi nheo mắt nhìn bầu trời xám đầy gió - một cơn bão đang tới và tôi đang sống trong cơn ác mộng. Dù tôi có cố chạy đến đâu cũng không đủ nhanh như tôi muốn.
Qua một con gò cao, Công ty xuất hiện trong tầm mắt như chiếc vảy đen trên đường chân trời. Những đường ống kim loại rỉ sét đan vào nhau như một đám rắn khổng lồ rối tung. Ống khói sọc đỏ trắng cao vút lên ở khu vực trung tâm. Toàn bộ Công ty là những tòa nhà nhỏ cùng các thùng axit sulfuric nằm trên một đống xỉ to như núi, đó là phần đá nóng chảy thừa lại mà họ đổ xuống sườn đồi. Lớp đá nguội đi có màu đen bụi bặm, cùng màu với đoàn tàu chở sắt - giống “đoàn tàu ấy”, đang nằm chờ chuyến hàng tiếp theo nơi chân đồi. Trên sân, phía trước thang máy, tôi đã có thế thấy sự hỗn loạn.
Piran bắt kịp tôi khi chúng tôi đâm sầm vào hàng rào lưới mắt cáo bao xung quanh nhà máy. Cậu ấy há miệng thở sâu và gật đầu về phía tôi. Tôi liếc nhìn tấm biển treo cạnh cổng: “Không có vụ tai nạn nào ở mỏ đồng trong 28 ngày qua. Hãy biến năm 1986 thành năm an toàn nhất của chúng ta!”
Con số đó đã bao giờ nhiều hơn ba mươi chưa nhỉ?
Bên trong hàng rào bao quanh Công ty, phần đuôi xe cấp cứu nằm đối diện với thang máy, cửa thang máy mở ra. Hai người đàn ông lao vội khỏi xe cứu thương, tay cầm chiếc cáng giống hệt chiếc cáng họ dùng để mang tôi đi. Quỷ thật, có khi là cùng một chiếc cáng ấy chứ. Tôi nuốt nước bọt.
Mấy nhân viên y tế chen chúc ép mình vào trong khoang kim loại nhỏ, chúng tôi nhìn đỉnh đầu họ biến mất dần khi theo đường dẫn xuống hầm mỏ. Ánh đèn chiếu từ xe cứu thương khiến tôi hoa mắt khi chăm chú nhìn
những người thợ mỏ, cố gắng hiểu xem chuyện gì đang diễn ra. Lần này là chuyện gì đây, sạt nóc hầm, sập hầm, hay nổ? Bất thình lình, một chiếc xe Ford trắng lao qua cổng, trượt bánh tới rồi
dừng lại cạnh xe cấp cứu. Tôi biết chiếc xe ấy. Cô Catherine nhảy ra khỏi xe, lao tới chỗ thang máy, gió quất tóc cô lòa xòa trước mặt. Dạ dày tôi vặn xoắn lại, tôi tách khỏi đám bạn học để chạy vào trong cổng. Tôi đâm vào bờ ngực rộng của một thợ mỏ người phủ đầy bồ hóng. Ông ta mặc bộ đồ ngoài bằng vải bò sẫm cùng chiếc áo nỉ mỏng, đầu đội mũ cứng. Cả người ông ta toàn mùi mồ hôi, lưu huỳnh, mùi đắng như kim loại bị cứa khiến tôi có cảm giác ê răng.
“Đám nhóc các cháu tốt nhất là ở ngoài hàng rào.” Ông ta nói bằng giọng cộc cằn.
“Nhưng kia là cô của cháu!” Tôi hét. “Hẳn là chú Amon! Chuyện gì đã xảy ra với chú cháu rồi?”
“Amon Hicks à? Vẫn chưa biết.” Ông ta nhìn tôi kỹ hơn. “Cháu là con của Ray Hicks à?”
“Cháu là Jack.” Tôi rền rĩ gật đầu. Tôi không thể bắt kịp hơi thở của mình.
Ông ta tránh sang một bên để tôi chạy tới chỗ cô Catherine. Cô nhìn tôi như một chú thỏ sợ hãi, bản năng đầu tiên của tôi là chạy thoát khỏi cô, nhưng cô ôm tôi thật chặt, ép cánh tay bó bột sát vào người tôi. Cảm giác tức tay, tôi hít thật mạnh vì cơn đau nhói, nhưng tôi không nói gì.
Sân nhà máy trở nên yên lặng khi mọi người ngừng lại chờ đợi. Cô Catherine và tôi ngồi trên mui xe cô cho tới lúc động cơ nguội đi và lớp kim loại trở nên lạnh giá. Cô đu đưa người, tay vặn vặn chiếc nhẫn
cưới. Cô và chú Amon mới lấy nhau được một năm.
Tôi không biết nên nói gì để cô cảm thấy khá hơn, nên tôi đành ngậm miệng, kể cả khi gió thổi tóc cô đâm vào hai má tôi.
Một thợ mỏ đưa cô cốc cà phê, cô đưa cho tôi, nhưng tôi không muốn uống. Tôi không có vấn đề gì với vị cà phê, nhưng mấy lần uống trước, cà phê khiến bụng tôi rối loạn hơn bình thường, vì vậy tôi không thích lắm. Hơn nữa, việc nhấp một ngụm đồ uống vào lúc này có vẻ quá nhàn nhã, trong khi ai mà biết chuyện gì đang diễn ra trong lòng đất bên dưới chúng tôi cơ chứ. Tôi muốn ném chiếc cốc qua sân và hét, “Nhanh lên nào!” nhưng không làm được gì khác ngoài chờ đợi.
Tôi đổ thứ chất lỏng sẫm màu ấy xuống cạnh lốp xe, cà phê vấy bẩn lớp sỏi trông như máu.
Sau khoảng một giờ, thang máy ì ùng hoạt động trở lại. Cuối cùng thang máy cũng đi lên. Nhưng đến lúc này, tôi quyết định mình có thể chờ thêm một lúc nữa, thậm chí chờ mãi mãi cũng được, miễn tránh được tin xấu.
Cửa thang máy bật mở cái “cách!”. Những người đứng bên ngoài lao đến, mọi người bắt đầu hét lên, “Tránh đường, nhường chỗ cho họ!” Cô Catherine chạy tới chỗ cáng, nắm lấy bàn tay đang rũ sang một bên. Bàn tay chú Amon của tôi, bàn tay trông bẩn thỉu và… xám ngoét. Đám đông chồm qua người tôi khi tôi còn đang cứng đờ đứng đó. “Là Amon Hicks.” Tiếng thì thầm xung quanh tôi như lời cầu nguyện ngày Chủ nhật.
Mấy nhân viên y tế mang chú tôi tới xe cấp cứu, cô Catherine trèo vào xe cùng chú. Bố tôi cũng ở đó, tôi chưa từng thấy bố bị bao phủ bởi nhiều
đất bẩn và ghét như thế này.
“Không đủ chỗ đâu.” Mấy nhân viên y tế hét lên với bố.
“Anh sẽ gặp em ở bệnh viện, Amon ơi. Em sẽ ổn thôi!” Bố gào lên. Bố loạng choạng tới chỗ xe tải của Công ty như thể cả thế giới đang rung chuyển dưới chân.
Tôi vẫy cánh tay không bị thương, đuổi theo bố để bố đón tôi. “Bố ơi, bố ơi!” Nhưng bố không đế ý. Đôi mắt tôi cay vì nước mắt khi Piran túm lấy cánh tay tôi.
“Đi nào!”
Chúng tôi lại chạy, lần này là về hướng bệnh viện. Chúng tôi leo lên, trượt xuống qua những con mương chống xói mòn. Gió thổi tung đám bụi chết tiệt rơi vào mắt và mũi tôi, nhưng đi đường này vân nhanh hơn đi đường nhựa.
Piran không thể tiếp tục. Giữa đường bệnh hen suyễn làm cậu ấy phải dừng hẳn lại. “Đi đi.” Cậu ấy nghẹn thở nói khi cúi người xuống ho. “Tớ sẽ đuổi kịp.”
“Nhưng, nhưng mà…” Tôi lắp bắp. Tôi đã quen chờ cho hơi thở cậu ấy bình ổn lại.
“Tớ sẽ không sao đâu!” Cậu ấy thở khò khè, kéo ống xịt khỏi túi, ve vẩy ống xịt như thể nói, “Thấy chưa, lần này tớ không quên mang theo.” “Đi đi!”
Tôi gật đầu và tiếp tục chạy.
Cánh tay tôi đập rộn bên dưới lớp bó bột khi tôi lao qua cửa phòng cấp cứu. Phòng chờ đầy các thợ mỏ cùng gia đình họ, ở thị trấn này tin tức lan truyền rất nhanh.
Dì Livvy, chú Bubba cùng Buster đứng gần bàn đăng ký cùng mẹ tôi, đôi mắt mẹ ngập nước. Bà run rẩy kéo tôi lại gần.
Đột nhiên, một tiếng kêu xoắn gan ruột dội đến từ phía xa trong tòa nhà. Không khí trong phòng như bị đông cứng, mọi người hướng mắt về phía cánh cửa đôi màu bạc. Một lúc sau, bác sĩ đẩy cửa bước ra, nhìn đám đông rồi lắc đầu. “Tôi xin lỗi, chúng tôi không thể làm gì hơn.”
Tôi ráng nuốt cục nghẹn đang dâng lên trong người, tôi không muốn Buster thấy tôi như vậy, nhưng tôi không làm được. Giờ tôi khóc thật. Tất cả chúng tôi đều khóc. Nước mắt tôi hòa cùng tiếng kêu rên, những lời ai oán và tiếng chửi thề trong phòng. Mẹ ôm tôi thật chặt, bình thường tôi sẽ vùng người ra, nhưng hôm nay tôi không thấy phiền khi những chiếc khuy áo của mẹ ấn vào trán tôi, nước mắt mẹ chảy vào tóc tôi.
Bố mẹ cô Catherine vật lộn điên cuồng đi qua đám đông. “Catherine ơi! Catherine của chúng tôi đâu rồi?” Bà Maddox hét lên. Ngay lúc đó bố xuất hiện từ phía sau hai cánh cửa màu bạc. “Cô ấy đang ở với Amon.” Bố lẩm bẩm rồi giữ một cánh cửa cho họ. Ngay khi họ đi qua, bố ngã vào vòng tay mẹ mà nức nở.
Tôi chưa từng thấy bố khóc, cảnh tượng ấy khiến nước mắt tôi tuôn rơi nhanh hơn. Bố đã mất bố mình, rồi giờ là em trai ở mỏ. Làm sao bố chịu được? Mẹ ôm chặt bố như đã ôm tôi, vừa ôm mẹ vừa xoa lưng bố thì thầm, “Sẽ ổn thôi. Sẽ ổn thôi.”
“Mấy lần anh đã bảo chú ấy dừng lại, phải nghe ngóng vỉa đá.” Bố nói. Khuôn mặt bố sưng phồng với những đường sọc bụi đất và nước mắt. “Giá mà anh đã ở đó. Chắc chú ấy không để ý nóc hầm đang đổ xuống…”
Vậy là sạt nóc hầm. Lúc nào cũng là tai nạn gì đó như thế. Và giờ chú Amon của tôi đã mất.
※
Ba ngày sau tôi đứng giữa mẹ và ông ngoại Chase bên mộ chú Amon. Bố cùng cô Catherine đứng hai bên Cha Huckabay, mục sư giáo hội Tân giáo ở đây. Toàn bộ người dân khác của thị trấn đứng xung quanh chúng tôi. Ông ngoại chỉ cho chúng tôi thấy các lãnh đạo Liên hiệp, họ đã từ thành phố lớn lái xe về đây. Họ đứng phía sau cùng với cảnh sát trưởng Elder, cách xa đám đông.
Mọi người đều mặc đồ đen, nhưng bụi đất lùa quanh mắt cá khiến chân chúng tôi đỏ tới tận đầu gối. Tôi nhìn xuống đôi chân to tướng của mình, dường như chúng đang chảy thẳng vào lòng đất. Mẹ siết lấy tay tôi, đôi mắt tôi lại ầng ậc nước.
Quan tài đã đóng kín từ đêm hôm trước khiến tôi run rẩy khi nghĩ về lý do nó đóng kín. Thật lạ lùng khi tôi không có cơ hội chào tạm biệt hay nói gì đó với chú. Chú Amon và bố tôi chưa bao giờ thân thiết. Họ đang trong đợt tranh cãi khi vụ tai nạn xảy ra, vì thế đã mấy tuần rồi kể từ lần cuối tôi gặp chú Amon… còn sống.
Họ hạ cỗ quan tài xuống một cái hố nhỏ trông như bị sụt đất, chẳng khác gì vụ sập hầm khiến ông nội tôi mất. Có phải tôi là người duy nhất nghĩ rằng việc này lạ lùng không? Chính việc ở dưới lòng đất đã giết chú Amon, thế mà lúc này chúng tôi lại đặt chú ấy trở lại dưới lòng đất.
Sau khi xong việc, cô Catherine đến ở nhà chị gái bên ngoài thị trấn. Cô nói không thể chịu đựng được những ký ức về chú Amon ở khắp nơi, cô cần một khởi đầu mới. Tôi hy vọng việc mất chú Amon sẽ dễ dàng hơn với cô, bởi vì chắc chắn việc đó không hề dễ dàng với gia đình tôi.
Bố đã không ngủ nhiều ngày. Bố cứ quẩn quanh hết buồn về chú
Amon lại tức giận chú ấy. Theo bố, ngay từ đầu chú Amon không nên ở dưới đó.
Sau khi ông nội chết trong vụ sập hầm, bố tôi đã tới làm việc ở mỏ để chăm lo cho gia đình. Bà nội khăng khăng bắt chú Amon đi học. Bà không muốn cả hai đứa con trai của mình mất cơ hội có một cuộc sống tốt đẹp hơn. Sau khi bà mất vài tháng, do quá đau buồn, chú Amon đã nghỉ học và đi làm ở mỏ. Tôi đoán tiền họ trả quá tốt.
Nếu tôi là chú ấy, tôi sẽ không làm vậy. Tôi sẽ đến trường học… ừm, tôi không biết mình sẽ học ngành gì… học ngành gì đó giúp tôi tránh khỏi những mỏ này.
Nhưng bố đã vẽ sẵn tương lai cho tôi. Tôi được kỳ vọng cũng trở thành thợ mỏ. Liệu cái chết của chú Amon có khiến bố đổi ý không? Có lẽ bố không muốn tôi trở thành thợ mỏ nữa. Có lẽ chính bố không muốn làm thợ mỏ nữa.
Trong vụ sạt nóc hầm đó, bố hoàn toàn có thể là người thiệt mạng. Trong những giấc mơ của tôi, bàn tay xám ngoét lẳng qua một bên cáng không phải tay chú Amon. Đó là tay bố tôi.
Chương 3
THÁO BỘT
H
ai tuần sau đó, tôi thức giấc vì tiếng động cơ của chiếc xe tải Công ty bố. Bộ lốp xe mới nghiến lên mặt sân đất trải sỏi, đây là bộ thứ ba trong năm nay vì axit thường ăn mòn lốp. Tôi ngồi dậy trên giường, cảm giác chuếnh choáng, tôi nhìn ra ngoài cửa sổ khi bố lái xe qua cầu.
Thường tôi có thể nhìn bố lái tới tận Công ty, nhưng hôm nay bố biến mất vào làn sương dày.
Tôi xoa cái chân thỏ may mắn của mình, ráng làm dịu bụng trong khi cầu nguyện như mọi ngày. “Làm ơn để bố về nhà an toàn, làm ơn để bố về nhà an toàn.” Tôi biết làm thế thật ngốc, nhưng tôi đã tụng như vậy từ hồi bé tí. Cầu nguyện khiến tôi cảm giác như mình đang làm gì đó giúp bố. Có lẽ nếu tôi cũng cầu nguyện cho chú tôi… tôi nói thêm một lời cầu nguyện cho tất cả các thợ mỏ khác.
Tôi có được chiếc chân thỏ may mắn này hồi lên tám khi đến Thành Phố Đá ở Chattanooga cùng ông bà ngoại, trước khi bà mất vì ung thư phổi. Có rất nhiều biển chỉ dẫn “Hãy ngắm Thành Phố Đá” được sơn trên mái chuồng trại suốt đường đi. Tôi không thế chờ để được dạo qua các hang động tường vách lót đầy pha lê như trong chuyện cổ tích với các thần lùn giữ cửa được đặt khắp mọi ngóc ngách. Tôi muốn lượn qua Đường Ép Gã Béo, một con đường nằm giữa hai mặt đá, để ngắm nhìn bảy bang từ trên cao.
Mãi tới khi lớn hơn tôi mới thấy lạ lùng sao ông ngoại lại muốn chui vào hang động trong kỳ nghỉ sau một đời làm thợ mỏ. Dù sao ông ngoại cũng đã có mặt trong chính vụ sập mỏ giết chết ông nội.
Họ là bạn thân của nhau khi việc đó xảy ra. Ông ngoại Chase thoát khỏi vụ sập với một chấn thương ở lưng và không thể làm thợ mỏ nữa, đó là lý do ông mở quán Mồi Và Bia, còn ông nội không thoát được. Ông ngoại nói ông không nhớ công việc khai mỏ, nhưng ông nhớ cảm giác ở bên dưới lòng đất. Bất chấp những điều tồi tệ đã xảy ra, ông nói ở dưới đó cảm giác như đang ở trong bụng Mẹ Thiên Nhiên vậy.
Nếu tôi cũng có cảm giác như thế về việc ở dưới lòng đất, mọi chuyện với bố tôi đã dễ dàng hơn. Sau chuyến đi tới Thành Phố Đá, tôi biết con tim mình đã đặt ở một nơi khác.
Đó là một trong những chuyến đi đầu tiên của tôi ra khỏi Thị Trấn Đồng và tôi đã nhìn thấy rất nhiều màu xanh. Tôi không ngừng há hốc miệng khi thấy cây cối cao vút vượt quá đầu xe ô tô. Ở Thị Trấn Đồng tôi hiếm khi phải ngước lên nhìn thứ gì ngoài bầu trời. Khi nhìn thấy các hang động, tôi chẳng mấy quan tâm, tôi đã thấy quá nhiều đá trong đời mình. Tôi bắt đầu đem lòng yêu cây cối.
Tôi xoa chiếc chân thỏ, nhớ lại mình đang đứng bên ngoài Thành Phố Đá, dưới bóng một cái cây mà bà ngoại tôi gọi là cây phong, và phải căng hết người, nghển cổ về sau mới có thể thấy ngọn cây xuyên qua một tán dày những chiếc lá mỏng như tờ giấy. Ánh sáng xuyên qua những chiếc lá như kính màu tạo nên cả triệu sắc độ xanh khác nhau. Tôi đặt bàn tay lên thân cây để giữ thẳng người, tôi thề mình có thể cảm thấy thân cây đang ngâm nga. Tôi có cảm giác đang ở nhà thờ và trải nghiệm một điều gì đó thật linh thiêng, như thể bằng cách nào đó cái cây đang nói chuyện với tôi
vậy.
Khoảng một tháng sau chuyến đi, tôi tìm thấy một tấm áp phích hình cây cối trên tạp chí National Geographic, tấm áp phích chỉ toàn cây và tôi đã dán nó lên tường phòng ngủ. Đôi khi tôi mơ thấy mình là một chú chim đang bay phía trên một cánh rừng, được hít thở toàn bộ màu xanh ấy.
Bố yêu thích mọi thứ bên dưới lòng đất, và tôi đoán ông ngoại Chase cũng thế, còn tôi yêu mọi thứ nằm phía trên. Ờ, mọi thứ mà đúng lý là nằm phía trên theo cách nào đó.
Tấm áp phích nhắc tôi nhớ tới điều cô Post nói vào ngày chú Amon mất. Rễ cây giữ đất lại. Nhưng chúng tôi không có cây cối gì ở Thị Trấn Đồng. Nếu chúng tôi có cây cối, liệu chú Amon còn sống chứ? Có khi nào cây cối cứu được bố tôi không?
Mất bao lâu mới trồng được một cánh rừng nhỉ?
Tôi tưởng tượng các chồi non nhú lên, lan tỏa rễ bên dưới lòng đất, rồi ngọn cây vươn tới trời cao. Ban đầu chúng chỉ như những cành con, rồi thân cây lớn hơn và cao hơn. Các cành cây vươn ra mọi hướng, lá cây mọc theo cành như những đợt sóng màu xanh lá. Chúng đổ bóng xuống Những Ngọn Đồi Đỏ, nơi chưa từng được che bóng trước đây. Không khí mát lành, chim làm tổ, tôi và Piran trèo lên những cành cây, leo cao, cao mãi, hít thở thật sâu mà không lo phổi dính bụi.
Dù vậy, ngay cả trong những tưởng tượng của tôi, để có một cánh rừng cũng mất rất nhiều thời gian. Mà từ trước tới nay, chúng tôi chưa từng trồng được thứ gì mọc trong vườn của mẹ, đừng nói tới các chỗ khác trong thị trấn, thì việc trồng rừng sẽ còn mất nhiều thời gian hơn nữa. Tôi thở dài.
Đoạn tôi cố nhớ hôm nay là thứ mấy - thứ Sáu rồi. Thứ Sáu không chỉ
là ngày cuối cùng trước cuối tuần, mà còn là ngày lớp bó bột trên tay tôi được tháo. Cuối cùng cũng đến ngày này!
Tôi rời khỏi giường, mặc đồ nhanh kỷ lục. Mùi xúc xích rán trên chiếc chảo sắt quấn lấy tôi khi tôi bước xuống hành lang. Bụng tôi réo lên. “Bữa sáng có bánh quy và nước sốt.” Mẹ nói. “Tự lấy sữa mà uống nhé.”
“Không có trứng ạ?” Tôi có thể ăn mấy quả trứng và cả con gà nữa. “Mẹ làm quả trứng cuối cùng cho bố rồi. Hôm nay mẹ sẽ nhặt thêm ít trứng ở cửa hàng của Công ty.” Mẹ nhìn ra ngoài cửa sổ. “Sáng nay sương mù quá. Không giặt giũ được.” Mẹ thở dài. “Sương mù ăn mòn hết mấy đôi tất dài của mẹ từ lần trước, mà mẹ không thể cứ mua một đôi mới mỗi lần cần dùng được.”
Sương mù ở chỗ chúng tôi giống như mưa axit dính dấp, hơi sương đốt nhiều lỗ trên tất của mẹ chỉ trong vài tiếng. “Con đóng cửa sổ phòng con rồi.” Tôi nói. Như thế sẽ không bị ẩm ướt trong phòng.
“Tốt. Dù mẹ hy vọng trời hôm nay đừng có nóng như thế.” Mẹ nói. “Trời ạ, đóng hết cửa thành ra trong này ngột ngạt quá.”
Mẹ bắt đầu hát bài Khi chú chim sẻ bay đi. Mẹ đã hát giai điệu ấy từ lúc nào tôi cũng không nhớ nữa. Tôi còn không nghĩ là mẹ biết mình đang hát. Như một chú chim, mẹ chuyển từ giọng trầm sang giọng kim. “Khi chú chim sẻ bay đi, con tim em cũng bay đi, mang tình yêu của em dành cho anh.” Đó là âm thanh của mẹ tôi.
Tôi ngu ngốc tự nhồi mình bằng hai chiếc bánh quy ngập trong nước sốt.
“Jack ơi, con sẽ nghẹn mất. Ăn chậm thôi.” Mẹ nói.
“Theo con bánh quy là đồ ăn hoàn hảo nhất trên đời.” Tôi cười nhăn nhở. Cần phải uống nguyên một cốc sữa để cuốn trôi khối gạch đó xuống đáy dạ dày, nơi nó sẽ được ấm áp và hạnh phúc.
Mẹ đưa tôi bữa trưa gói trong bao giấy nâu. “Giờ nhớ này, mẹ sẽ đón con sau bữa trưa rồi chúng ta cùng tới bệnh viện.”
Đây hẳn là lần duy nhất trong lịch sử mà mấy từ ấy nghe tốt lành đến thế. “Con sẽ không quên đâu ạ!”
“Hôn mẹ nào.” Mẹ gõ vào má mình khi tôi sắp đi.
“Ầy, mẹ ơi. Con quá lớn cho mấy trò sến súa này rồi.”
Mẹ chộp lấy mặt tôi rồi đặt một nụ hôn lên trán.
“Con sẽ không bao giờ quá lớn để tỏ lòng yêu kính mẹ mình đâu.” ※
Những ngày sau khi chú Amon mất, đám trẻ ở trường né tránh tôi như thể tôi đã bị vấy bẩn bởi vận rủi hay điều gì đó. Chúng nhìn tôi chằm chằm và ngừng nói chuyện mỗi khi tôi đến gần. Nhưng hôm nay chúng không làm thế, có lẽ bởi vì tôi không thế ngừng cười được.
“Cậu sẽ thôi đi chứ?” Pĩran nói khi chúng tôi bước xuống hành lang. “Mọi người đang nhìn cậu.”
“Tớ không dừng được.” Tôi nói khi suýt nhún nhảy khỏi đôi giày đế mềm cũ rích của mình. “Sau bữa trưa tớ sẽ được tháo bột!” “Ờ, chuyện đó thật tốt.” Tai Piran chuyển sang màu đỏ, một dấu hiệu rõ ràng cho thấy cậu ấy vẫn cảm thấy tệ về việc này. “Nhưng cậu có thể dừng nhún nhảy nhiều như thế không? Cậu đang bày trò để người ta nhìn đấy.”
“Này, ít nhất thì mọi người cũng không thì thầm nữa.” Tôi nói, bụng tôi dịu đi một chút.
Kể cả khi bụng có đói thì tôi vẫn khó mà tập trung vào bài kiểm tra nhận dạng cây cối, thế nên tôi chỉ nhận được điểm A trừ. Piran nhận điểm C, cậu ấy khá hài lòng với kết quả này.
“Không thể nào học trong nhà tớ được.” Cậu ấy nói. Nếu tôi lúc nào cũng phải ở gần chị gái của Piran, Hannah, thì tôi cũng không thể học được. Nhưng cậu ấy không có ý nhắc tới Hannah. “Các anh chị em của tớ luôn chạy quanh nhà rồi hét ầm lên.” Cậu ấy thêm. Tôi đã nhìn và nghe thấy quá nhiều lần điều đó, cường độ âm thanh cứ mỗi năm lại lớn hơn. Bố nói bác gái nhà Quinn “phun” ra em bé giống như hộp đựng kẹo của hãng Pez* vậy.
Một lần tôi hỏi mẹ vì sao tôi không có anh chị em. Mẹ nói bố mẹ đã cố gắng hai lần trước khi có tôi, nhưng đều không thành. Nhìn mẹ chảy nước mắt, tôi quyết định sẽ không hỏi thêm câu nào về việc ấy nữa. Mặc dù tôi thích ý nghĩ mình có một anh trai và chị gái đâu đó trên thiên đường. Thêm cả hai vào cùng ông bà nội Hicks, bà ngoại Chase và chú Amon, tôi có một đội quân thiên thần bảo vệ, trông chùng tôi.
Như đã hứa, mẹ đến trường sau bữa trưa, xe của mẹ cuốn tung đám bụi đất khi dừng lại ở bậc cầu thang. Tôi không muốn có sạn trong miệng, vì thế trong khi chờ đám bụi lắng xuống, tôi hét lên với cậu em họ vẫn đang chơi bắt bóng trong sân. “Này Buster, lần tới gặp em là anh chơi bóng được rồi nhé!”
“Cũng đến lúc rồi đấy, quỷ tha ma bắt!” Cậu ta la lên và giả vờ ném quả bóng vào người tôi. Tôi cúi xuống né, cậu ta cười. Cậu em họ tôi hoàn toàn có thể làm thế thật, tôi không bỏ qua khả năng này.
Nói về việc tháo bột và tiến hành nó là hai chuyện khác nhau. Chúng tôi phải quay lại chính nơi chú Amon đã ra đi chỉ mới hai tuần trước. Việc bước vào phòng chờ khiến buổi chiều hôm đó như một giấc mơ tồi tệ. Tôi vẫn nghe thấy tiếng thét của cô Catherine dội qua những bức tường màu xanh biển, đó là màu cây bút chì tôi ít thích nhất. Mấy hôm trước khi chúng tôi gặp bố mẹ cô Catherine trong thị trấn, họ bảo không biết lúc nào cô mới về, vẻ mặt họ căng lại như thể đang tự hỏi liệu có bao giờ cô ấy về nhà nữa không.
Cánh tay tôi nhột nhột như thể nó cũng biết có điều gì đó sắp diễn ra, còn chân tôi muốn đi chỗ khác. Tôi cố không sốt ruột trong khi chờ y tá gọi tên. Tôi nhìn đồng hồ chạy tích, tích, tích và chăm chú ngó mấy bức tường màu xanh biển. Ai đã quyết định màu này giúp bình tĩnh vậy? Nó khiến tôi buồn nôn.
“Ai là Jack Hicks?” Y tá hỏi. Đến lúc rồi.
Cô y tá dẫn chúng tôi đi qua hai cánh cửa lớn màu bạc vào một hàng giường tách biệt nhau bằng những tấm mành rủ xuống từ trần nhà. “Cứ ngồi thoải mái nhé.” Cô nói và vỗ một chiếc giường. “Lát nữa bác sĩ Davis sẽ đến gặp cháu.” Bác sĩ Davis là bác sĩ riêng của tôi từ khi tôi sinh ra. Mẹ nói ông ấy chuyến tới Thị Trấn Đồng ngay sau khi rời khỏi trường y và chưa từng ra khỏi thị trấn. Có điều gì đó về thị trấn của chúng tôi ám ảnh người ta. Tôi không ngạc nhiên, thị trấn đầy những người tốt. Mặc dù nếu chúng tôi có cây cối thì tôi cá là còn có nhiều người ở lại hơn nữa.
Tôi leo lên chiếc giường cao, đè lên lớp giấy trắng bên dưới kêu sột soạt, cảm giác hệt như một đứa bé năm tuổi. Đây có phải là chiếc giường nơi chú mình qua đời không? Ruột gan tôi bắn lên như dầu trong chảo
nóng, mặc dù tôi đang cố hết sức để bình tĩnh.
Hít vào, thở ra, hít vào, thở ra. Tôi nhắm mắt và thở. Bụng mình không sao. Mình không cảm thấy bệnh. Rồi bác sĩ Davis xuất hiện và cắm điện chiếc cưa của ông.
Tôi không biết liệu mình tò mò hay chỉ đơn giản là sợ quá, nhưng tôi phải giương mắt nhìn khi lưỡi dao quay tít hướng về phía cánh tay mình. Tiếng cưa xé tai vang khắp căn phòng nhỏ, dội vào những bức tường xi măng. Tôi lui người để che hai tai, nhưng bác sĩ Davis nói: “Jack, để yên nào. Sẽ chỉ mất một phút thôi.”
Bụi thạch cao bắn lên như đuôi gà trống khi chiếc cưa ngập vào lớp bột. Tôi lờ đi đám bụi đang bay, chăm chú nhìn không chớp mắt bác sĩ Davis di chuyển lưỡi cưa lên xuống tay tôi, cắt càng ngày càng sâu lớp bó bột. Lưỡi cưa di chuyển gần tới lớp da non của tôi cho đến khi ông ấy cắt những mẩu sợi cuối cùng còn sót lại. Cuối cùng, lớp bó bột tách ra. Những sợi lông nằm ẹp trên tay tôi giờ dựng lên khi không khí bao quanh lần đầu tiên sau nhiều tuần.
“Thấy chưa, không tệ lắm nhỉ?” Bác sĩ Davis hỏi khi ông chật vật bỏ hẳn lớp bó bột khỏi tay tôi.
“Cháu không thấy khỏe lắm.” Tôi nói.
“Ồ, cháu sẽ ổn thôi.” Ông vỗ chân tôi rồi đưa cho tôi một chiếc kẹo mút vàng.
Đoạn tôi nôn ra khắp chiếc áo choàng trắng của ông.
※
“Đừng nhìn nó nữa.” Mẹ nói trong xe. “Mẹ không cần con nôn ra lần
nữa đâu.”
“Trông nó kỳ cục quá.”
Cánh tay bị gãy gầy hơn cánh tay kia và cảm giác nhẹ hơn nhiều. Ngoại trừ những vết đỏ do tôi dùng bàn chải cọ chai để gãi bên dưới lớp bó bột, cánh tay xanh tái lạ lùng. Ngay cả khi lớp bó bột không còn nữa, cánh tay vẫn ngứa không kiểm soát được.
“Jack Hicks!” Mẹ đập mạnh vào bàn tay tôi. “Đừng gãi nữa.” “Gãi thấy đỡ hơn.”
“Con sẽ không còn tí da nào nếu không dừng gãi. Mà này, nhìn ghế sau xem. Mẹ có quà cho con.”
“Xe đạp ạ?” Tôi mỉm cười.
“Không, không phải xe đạp.” Mẹ đảo mắt. “Trời đất ơi, con không nghĩ mình đã dính vào đủ rắc rối dù chưa có thêm xe đạp hả?” “Nếu có xe đạp thì hôm ấy con đã mau chóng băng qua cầu cạn, không để ý tới Eli và đám bạn của hắn.” Tôi với qua ghế, chộp lấy cái hộp phía sau.
“Ngay từ đầu con không nên tới ao thải, cậu trai trẻ à, ở đó nguy hiểm lắm.”
“Con biết rồi, con biết rồi.” Tôi đã không bị phạt nhờ cánh tay gãy, và tôi không muốn mẹ nhớ ra, vì thế tôi mau lẹ mở nắp hộp. “Giày Converse cổ cao, tuyệt vời!” Tuy không phải là một chiếc xe đạp BMX nhưng giày Converse cũng không tệ. “Con cảm on mẹ.”
“Ờ, có lẽ đôi giày này sẽ giữ chân con tránh khỏi rắc rối, ít nhất là trong một thời gian, mẹ xin đấy?”
“Vâng thưa quý bà.” Tôi đỏ mặt và hy vọng mẹ chỉ nói đùa về chiếc xe
đạp. Mẹ cười tươi khi nói thế nên tôi vẫn còn hy vọng.
Bài hát của Randy Travis mà mẹ vẫn lẩm nhẩm hát theo được thay bằng một giọng trầm nghe quen thuộc lạ lùng.
“Đó có phải Bo Duke đóng trong Nhà Duke ở Hazzard không ạ?” Tôi hỏi và nhăn mặt.
“Con không thích à?”
“Ông ta chỉ nên đóng phim truyền hình thôi.” Tôi nói, cố ngăn bài tình ca ngớ ngẩn ấy lọt vào tai.
Nhà Duke ở Hazzard là phim truyền hình ưa thích của tôi. Lần nào phim chiếu lại tôi cũng xem. Phim nói về hai tên buôn lậu rượu giờ đã hoàn lương nhưng lúc nào cũng dính vào rắc rối với cảnh sát trưởng.
Rượu lậu từng là vấn đề lớn ở đây. Trong thời kỳ cấm đoán, khi đồ uống có cồn còn bất hợp pháp, người dân nấu rượu lậu, sau đó cố vượt mặt cảnh sát mang tới các thành phố để bán. Đó là cách nhiều người dân vùng núi kiếm sống trong thời kỳ khó khăn. Khi đồ uống có cồn trở nên hợp pháp, nhiều gia đình đã mất công việc kiếm tiền.
Câu chuyện phim diễn ra trong bối cảnh ngày nay, trên những ngọn núi Appalachian, nhưng giọng vùng miền của họ quá nặng và có vẻ sang. Những cuộc đụng độ của Bo và Luke Duke với cảnh sát trưởng dẫn tới bao nhiêu cuộc rượt đuổi bằng ô tô, đó là lý do tôi thích bộ phim này. Trước khi chiếc xe đạp cũ của tôi rơi vỡ, Piran và tôi thường giả vờ là Bo và Luke Duke, chúng tôi đua quanh các mương chống xói mòn như thể đang lái chiếc Tướng Lee hãng Dodge Charger đời 1969 của họ. Đó là chiếc xe ô tô trong mơ của tôi.
Tôi nhìn ra ngoài cửa sổ, mặt trời sáng chói chiếu thẳng vào mặt kính làm tôi chỉ có thể nhìn bóng phản chiếu của chính mình. Những cái bóng in
hình mũi và lông mày tôi, tôi bóp mặt để biến chúng thành những hình thù kỳ cục. Trông chúng sẽ hay hơn nếu tôi có được các đường nét sắc và mạnh mẽ như bố, nhưng tôi lại mang nét tròn trịa của mẹ cùng làn da màu ô-liu của bà, mái tóc nâu chẳng bao giờ nằm thẳng xuống và đôi mắt sẫm màu. Mẹ bảo màu da, tóc, mắt tôi thừa kế từ một vị tổ tiên người bộ tộc Cherokee, nhưng cả gia đình không nói nhiều về việc ấy. Không ai để lộ việc mình có tổ tiên người da đỏ Bắc Mỹ cả, mặc dù bạn có thể bắt gặp dòng máu da đỏ trong mỗi tấc ở Thị Trấn Đồng.
Khi chúng tôi lái xe ngang qua Công ty, tôi nheo mắt nhìn qua hình phản chiếu để thấy ống khói sọc trắng đỏ đánh dấu vị trí của Công ty từ cách xa hàng dặm. Không có cây cối nên đây là thứ cao nhất trong khu vực này. Quỷ thật, cái ống khói hẳn là thứ cao nhất kế cả nếu có cây ấy chứ. Bạn chẳng bao giờ bị lạc trong Thị Trấn Đồng chừng nào bạn còn thấy ống khói.
Ông Coote Epworth cuốc bộ dọc theo con đường gần lối vào mỏ, vừa đi vừa tự lẩm bẩm như mọi khi. Coote điên là cái tên người dân gọi ông, ông còng và gầy gò với bộ râu lởm chởm. Ông luôn mặc áo thun dáng thụng có mũ màu xanh da trời, xanh lá, hoặc đỏ cùng chiếc quần bò xanh cũ rích, tay nhét sâu trong túi quần.
“Hôm nay Coote mặc màu đỏ”, hoặc “xanh lá” hoặc “xanh da trời”, chúng tôi nói vậy khi thấy ông ấy. Ông như kiểu một dạng linh vật của thị trấn, mặc dù ông mất trí.
“Mẹ ơi, sao lúc nào ông ấy cũng đi lại quanh đây thế?” Tôi xoay mình trong ghế để nhìn ông ấy qua cửa sổ hậu. Ông ấy đang nói gì vậy? “Con có nhớ về vụ sập hầm mỏ rất lớn từ hồi trước khi con ra đời không?”
“Vụ sập khiến ông nội Hicks mất ấy ạ?”
“Không, vụ kia cơ, hồi họ đến quá gần một hầm mỏ để lấy trầm tích khai thác quặng. Ông nội con đã cảnh báo họ không nên làm thế nhưng cấp quản lý bảo họ cứ làm. Họ nói đã có bảo hiểm, nên họ cần phải thử. Ừm, vụ nổ khiến mỏ mất ổn định.” Mẹ nói. “Mẹ của Coote đang mang bầu khi bố ông ấy chết trong vụ nổ. Bà ấy trở nên nghiện rượu và Coote ra đời hơi khác thường. Lúc ấy tiền bảo hiểm không còn quan trọng nữa.”
Tôi cau mày, tự hứa sẽ không cười cợt Coote nữa.
Chúng tôi dừng ở trạm xăng trên đường về nhà. Mẹ vừa đưa xe vào bên dịch vụ như mọi khi thì Eli Munroe mặc bộ quần áo bảo hộ dính mỡ lao tới, ông Habersham đuổi sát nút, tay ông quất chiếc khăn màu xám như một ngọn roi. “Đừng bao giờ quay lại đây nữa, thằng nhóc ngu ngốc!”
Eli nhảy vào chiếc xe Jeep cũ rích của mình rồi lái khỏi bãi đỗ xe, vừa liếc nhìn tôi với vẻ mặt cau có khi chuyển hướng hòa vào dòng giao thông. Mấy chiếc xe khác ngoặt lái để tránh bị đâm.
“Xin lỗi vì để chị phải chứng kiến cảnh này, chị Hicks. Thằng nhóc hút thuốc lá ngay cạnh một thùng dầu. Suýt thổi tung chúng tôi lên. Thằng nhóc ấy sắc như một con dao cắt bơ.” Ông Habersham dùng miếng vải bẩn lau qua khuôn mặt đỏ bừng của mình, việc này chẳng có tác dụng gì. “Đổ đầy xe à?”
“Như bình thường nhé.” Mẹ nói rồi đưa ông ấy chiếc thẻ Exxon của mình.
“Vì sao anh ta không đi học ạ?” Tôi lớn tiếng thắc mắc.
“Không phải cậu ta đã tốt nghiệp năm ngoái à?” Mẹ hỏi.
“Không ạ, anh ta đúng ra là học năm cuối,” tôi nói.
Mẹ lắc đầu. “Thật xấu hổ.”
Ở nhà, tôi đặt lớp bó bột cạnh các chiến lợi phẩm bóng chày trên chiếc giá bên dưới cửa sổ phòng ngủ của mình. Theo một nghĩa nào đó, nó cũng là chiến lợi phẩm. Tôi mỉm cười nhìn tất cả chữ ký trên lớp bột. Các chữ ký quá đỗi khác nhau. Một số toàn những vòng móc, số khác thì nguệch ngoạc. Sonny Rust, con trai quản lý nhà máy đã vẽ hình mặt cười như chữ ký to tướng của John Hancock trên bản Tuyên ngôn Độc lập. Cậu ấy lúc nào cũng nỗ lực để hòa đồng. Ít nhất cái mặt cười nằm phía dưới nên không thể nhìn tôi chằm chằm.
Tôi thay đồ, mặc quần bò mới cùng áo nỉ kẻ sọc lấy từ ngăn kéo tủ, bộ quần áo tôi mặc lúc trước phủ đầy bụi thạch cao. Thật tuyệt khi mặc áo mà tay không bị bó bột. Tôi ngọ nguậy các ngón tay khi chúng thò ra khỏi ống tay áo. Đoạn tôi cúi người, buộc dây đôi giày đế mềm mới của mình.
Piran sẽ ghen tỵ cho xem. Tôi cau mày. Tôi ước gì mình có thể mua một đôi cho cậu ấy.
Piran ít khi có đồ mới, mà đồ mới thường là món gì đó “thiết thực”. Không phải gia đình cậu ấy nghèo, nhưng công việc quản lý bưu điện không được trả nhiều tiền như khai mỏ, vì thế trong nhà cậu ấy tiền phải được co kéo.
“Jack, đến bữa tối rồi.” Mẹ ở dưới bếp gọi tôi. “Mẹ đã làm món yêu thích của con đấy, mì ống macaroni với pho mát.”
“Hãy xem cái tay nào.” Bố nói khi tôi chạy vào bếp.
Tôi giơ cánh tay ra để bố kiểm tra. “Trông nó có vẻ yếu ớt.” “Đừng lo. Cánh tay con sẽ chóng khỏe lại thôi.”
“Bọn em trông thấy thằng bé nhà Munroe ở trạm xăng hôm nay.” Mẹ
nói khi đặt một chiếc đĩa lớn đựng món ăn ngon lành với những hình cầu màu vàng lên mặt bàn. “Ông Habersham đã đuổi việc thằng bé vì tội hút thuốc cạnh thùng dầu.”
“Anh không ngạc nhiên.” Bố nói. “Tuần trước thằng bé đã nộp đơn xin việc ở mỏ, nhưng thằng nhóc sáng dạ như đèn dầu tù mù trong ngày đầy sương ấy. Nó sẽ không trụ được hơn một tuần dưới lòng đất đâu.”
Bố im lặng rồi hắng giọng. Dường như mọi thứ đều nhắc bố nhớ đến chú Amon, điều đó nhanh như cắt khiến tâm trạng bố trở nên xám xịt. Bố với tay lấy muôi rồi thả mạnh hai muôi đầy macaroni với pho mát xuống đĩa mình như thể đang tức giận chiếc đĩa.
“Để phần con với.” Tôi lo lắng
“Jack à, con có biết con sẽ là thợ mỏ đồng thế hệ thứ bảy không?” Bố hỏi.
Dĩ nhiên tôi biết chứ. Như hầu hết hàng xóm của mình, chúng tôi thậm chí còn treo cờ của xứ Comwal nước Anh bên dưới lá cờ Hoa Kỳ, lá cờ màu đen với hình chữ thập màu trắng tượng trưng cho thiếc nằm trong lòng đất của xứ ấy.
“Mà không ai biết gia đình ta đã khai thác mỏ thiếc ở Anh bao lâu trước khi đến Mỹ.” Bố tiếp.
“Ray, thôi nào.” Mẹ thì thầm. “Đừng nhắc đến chuyện này trong bữa tối.”
“Thế còn chú Amon thì sao?” Tôi nuốt xuống.
“Chú ấy không phải là một thợ mỏ.” Bố lẩm bẩm, các cơ mặt bố chùng xuống như tuyết tan. “Ngay từ đầu chú ấy không bao giờ nên xuống dưới đó. Bà nội đã không muốn chú làm thế… Đó là lý do bố sẽ
không thuê Eli. Có cả một đội dưới ấy. Những con người cần phải có khả năng tin tưởng con. Một người không quan tâm xem đá đang nói gì sẽ đặt tất cả mọi người vào nguy hiểm.” Bố chỉ dĩa về phía tôi. “Nhưng con đùng lo, Jack ạ. Con là con trai bố. Con được tạo ra bởi những điều đúng đắn và con sẽ trở thành một thợ mỏ cực kỳ cừ khôi.”
“Ray, anh thôi đi được không?” Mẹ trừng trừng nhìn bố cho tới khi bố thở dài và quay lại với bữa tối của mình.
Tôi biết mình nên cảm thấy hãnh diện bởi những lời bố nói. Bố đã thôi học cấp ba để chăm lo cho gia đình khi ông nội Hicks mất trong vụ sập hầm, và nhanh chóng thăng chức bất chấp việc chưa từng nhận bằng trung học.
“Làm việc chăm chỉ sẽ đưa con đến bất cứ đâu.” Bố đã nói. Nhưng bố chưa bao giờ thèm hỏi xem tôi muốn làm gì, và tôi muốn làm hầu như mọi thứ ngoại trừ khai mỏ. “Bố có quan tâm con nghĩ gì không?” Tôi muốn hét lên. Chuyện ấy có quan trọng với bố không? Nhưng làm sao tôi có thể bảo bố rằng tôi không muốn sống cuộc đời như ông ấy.
Tôi không thể di chuyển dĩa của mình. Ai mà biết bạn có thể bị đau dạ dày vì ăn mì ống macaroni và pho mát chứ?
Mẹ nhìn tôi, trán mẹ toàn nếp nhăn. “Ăn đi nào Jack. Chúng ta còn phải đến công viên.”
Tôi không thể giữ tâm trạng xấu trong đêm nhạc được, và Hannah sẽ ở đó!
Chương 4
ĐÊM NHẠC
Đ
êm thứ sáu là đêm nhạc. Đây là đêm cuối cùng của mùa nên gần như mọi người trong thị trấn sẽ tập trung ở công viên bên sông ở Georgia để nghe nhạc bluegrass*.
Thị Trấn Đồng nằm ngay nút giao giữa Hạt Polk thuộc Tennesse và Hạt Fannin thuộc Georgia. Hạt Cherokee thuộc Bắc Carolina cũng chỉ cách một đoạn ngắn. Thực tế là đường biên giới bang giữa Tennesse và Georgia chạy ngang qua bãi đỗ xe của cửa hàng Công ty.
Piran và tôi đã đứng hai chân trên hai bang không biết bao nhiêu lần. Việc ấy khiến tôi cảm giác như mình đã đi nhiều, mặc dù không phải vậy. Chúng tôi bắt kịp ông ngoại Chase khi bước vào công viên cùng mấy chiếc ghế gấp. Bố và tôi giúp ông dỡ mấy thùng ướp lạnh khỏi xe tải của ông. Vì sở hữu quán Mồi Và Bia trong vùng nên ông ngoại bán nước giải khát RC Cola và bánh MoonPie với giá năm mươi xen trong các đêm nhạc. Dĩ nhiên ông không thể bán bia qua đường biên giới bang vì hạt Fanny cấm rượu bia. Với sự có mặt của cảnh sát trưởng Elder ở đó, không ai dám lén lút làm việc gì không nên làm.
Ông cho tôi lon cola và bánh MoonPie miễn phí. Thỉnh thoảng tôi có thể nói khó để lấy một phần cho cả Piran nữa.
Tôi vừa cầm lấy một phần cho cả hai chúng tôi thì chị gái cậu ấy nhào qua cùng hội bạn gái trong một đám mây màu hồng họa tiết hoa lá. Tôi lắp
bắp nói yếu ớt, “Ch-ch-chào Hannah.”
“Ô, chào Jack.” Cô ấy đáp rồi tiếp tục đi qua. Tôi tập trung mở chiếc ghế gấp để không ai chú ý nụ cười nhăn nhở của mình. Không gì có thể khiến tôi buồn phiền vào đêm nhạc được.
Con sông giúp không khí mát mẻ khi chảy quanh công viên thành một vòng cung rộng. Người ta từ các ngọn đồi xuống đây, một số người vừa còng vừa đầy nếp nhăn như thể ít nhất cũng phải 200 tuổi. Tất cả đều mang nhạc cụ của mình, đàn ghi-ta, đàn băng-giô, vĩ cầm, đàn bass, đàn măng-đô-lin và đàn xim-ba-lum. Đôi khi có nhiều người chơi nhạc hơn cả thính giả. Đối với nhiều người đây là khoảng thời gian tốt để cùng ngồi lê đôi mách.
Khi ông ngoại Chase không bán hàng, ông sẽ kéo vĩ cầm. Bác Quinn, bố của Piran, gảy cực nhanh trên cây đàn băng-giô đuôi én của bác. Mấy đứa nhóc gảy vấp hết khi ráng bắt kịp bác ấy. Mẹ hát theo bài Tôi sẽ bay đi và Quan tài gỗ hồng, tôi bắt gặp bố nhìn mẹ với một vẻ mặt ngốc nghếch. Nếu có người có thể khiến tâm trí bố rời khỏi mỏ thì đó chính là mẹ.
Ông già Counce Taylor hòa điệu cùng mẹ tôi bằng giọng dài thượt của vùng núi Celtic. Khi hát bài Đội thiên thần, ông trộn lẫn tất cả từ ngữ vào nhau cho tới khi gần như không thể biết được đang hát gì. Ông ngoại nói giọng ông ấy nghe như chiếc kèn túi, và đó là cách hát cũ trên vùng núi.
Dì Livvy cùng chú Bubba nhảy mấy điệu khiêu vũ xoay vòng. Họ nhảy giỏi đến nỗi người ta nói họ có thể thắng giải thưởng. Buster chỉ lầm bầm, “Trời ạ, họ lại thế nữa,” và cố không đứng quá gần.
Thực tế toàn bộ thị trấn đều ở đây, những người thọ mỏ và những người dân mà công việc của họ tồn tại nhờ đám thợ mỏ. Các chủ cửa hàng, các bác sĩ, những người phục vụ, thậm chí cả cô Post, trông cô thật
xinh tươi trong chiếc váy màu xanh lá với mái tóc buông xõa. Một người đàn ông đang đứng cạnh cô mà tôi không nhận ra. Có phải bạn trai cô không? Các cô giáo có bạn trai không nhỉ?
Dù sao thì tất cả người dân Thị Trấn Đồng đều ở đây. Chúng tôi là một gia đình lớn.
Ngoại trừ nhà Rust, vậy đấy. Không chỉ vì họ đến từ một thành phố lớn như Nashville hay nơi nào đó khác, mà còn vì ông Rust là quản lý của Công ty. Ông ấy nắm trong tay số phận công việc của phần lớn những người bố trong thị trấn.
Vì bố tôi là giám sát viên nên chúng tôi đã được mời lên căn nhà lớn phong cách thời Victoria của họ một lần. Căn nhà hơn trăm tuổi, được xây dựng bởi người chủ ban đầu của các mỏ đồng ở đây, và tôi chưa từng thấy điều gì hoa mỹ hơn thế. Phòng ngủ của Sonny lớn gần bằng bếp và phòng làm việc nhà tôi cộng lại. Họ có một phòng chờ - tôi không hiểu để làm gì - và đèn chùm, với các bóng đèn và pha lê rủ xuống từ trần nhà. Tôi không thể hình dung mình sẽ sống trong một căn nhà như thế.
Tôi cho là nhà Rust tốt vừa phải, họ nỗ lực để trở thành một phần trong cộng đồng chúng tôi, nhưng không thể làm được. Họ ngồi bên rìa đám đông, nơi người ta mỉm cười lịch sự với họ nhưng không mời họ cùng tham gia.
Thế nên thay vì đi tới các nhà thờ khác nhau và có những người không hòa thuận với cộng đồng thì chúng tôi là một gia đình lớn, ngoại trừ nhà Rust. Kiểu như đội bóng chày của tôi, có điều lớn hơn. Tôi không thể chờ để được chơi lại, xét đến việc tôi đã không thể tập luyện khi đeo bó bột. Đội Chúng Ta Các Thợ Mỏ cũng mạnh mẽ như các ông bố của chúng tôi vậy, năm ngoái trong vùng này chưa ai thắng nổi chúng tôi. Chúng tôi có
kế hoạch làm như vậy lần nữa vào mùa xuân tới và đánh bại đối thủ lớn nhất của mình, đội Tên Lửa.
Chúng tôi sống với bóng chày và đáng lẽ có thể chơi bóng trong đêm nhạc, nhưng không ai để chúng tôi tập luyện quanh các nhạc cụ đắt đỏ này. Chúng tôi có thể để Sonny nhập hội nếu được chơi bóng, nhưng vì chúng tôi không được chơi nên Buster, Piran và tôi tụ tập bên mé nước chơi ném đá trượt trên mặt nước.
Từ vị trí gần mặt nước này, chúng tôi có thể do thám đoạn gấp khúc trên dòng sông nơi họ chồng chất những chiếc ô tô vỡ nát giúp giữ bờ sông khỏi bị xói mòn. Cây cối sẽ làm việc này tốt hơn, nếu như có cái cây nào đó.
“Tay cậu thế nào khi không bó bột?” Piran hỏi.
“Nhức lắm.” Tôi nói. Việc ném hòn đá làm tôi choáng lên tận vai. “Bác sĩ nói xương đã vào vị trí, nhưng cánh tay sẽ còn làm phiền tớ một thời gian nữa. Tớ chỉ mừng là không còn bị bó bột.”
“Tớ cũng mừng.” Chóp tai cậu ấy chuyển thành màu hồng, cậu ấy liếc nhìn chân tôi. “Giày đẹp đấy. Của Converse à?”
“Ừ, mẹ mua cho tớ.” Tôi nhún vai, cố làm ra vẻ việc này chẳng to tát gì.
“Tuyệt.”
Trong lúc chúng tôi ném hết hòn đá này đến hòn đá khác, tôi cố ngó chừng Hannah từ khóe mắt. Cô ấy là học sinh năm cuối và là cô gái xinh đẹp nhất ở Thị Trấn Đồng, mà có lẽ nhất vùng núi Appalachian luôn. Tôi không thể hiểu vì sao cô ấy lại có quan hệ máu mủ với Piran.
Trong khi Piran tóc thô xoắn tít từ đỉnh đầu như bắp rang bơ thì mái
tóc lọn xoăn màu vàng dâu của Hannah chảy qua bờ vai đầy tàn nhang như lớp xỉ nóng đổ xuống sườn đồi. Đôi môi cô ấy màu hồng đào ngay cả khi không dùng thứ son bóng sáng rỡ mùi chuối mà những đứa con gái khác vẫn dùng. Và không như Piran, cô ấy có đôi mắt của mẹ, đôi mắt màu xanh dương trong vắt như bầu trời một ngày không mây. Cô ấy không chơi nhạc cụ, nhưng mà này, cô ấy biết nhảy nhé. Anh hoàng hôn chiếu sáng cô ấy khi cô ấy xoay người hết lần này đến lần khác trong chiếc váy in hoa màu hồng. Thời gian chậm lại và tôi…
“Không đời nào Jack. Hannah á? Cô ấy nằm ngoài tầm với của anh, anh họ à.” Buster nói và cười lớn.
Tôi cảm thấy nhiệt dâng lên hai má, đoạn liếc nhìn Piran, cậu ấy chỉ đảo mắt. Chúng tôi có một giao kèo không nói ra, ấy là càng ít nhắc đến việc tôi phải lòng cô ấy thì càng tốt. Cứ để Buster bày trò với việc đó.
“Tớ cá là tớ có thể khiến hòn đá này nảy sáu lần.” Piran nói và đổi chủ đề. Chúa phù hộ cậu ấy.
“Tớ cá là tớ làm được bảy lần cơ!” Buster trả lời, đớp lấy miếng mồi. Hòn đá dẹt như đĩa của cậu ta nảy trên mặt nước màu hổ phách, tạo ra vệt nhỏ màu trắng ở những nơi đá chạm vào. Một, hai, ba, bốn, năm, sáu… Chưa đến bảy lần, nhưng vẫn là một thành tích đáng khoe. Đó là một đêm tôi ước có thể kéo dài mãi mãi.
Chương 5
CẮT GIẢM NHÂN SỰ
T
uần sau đó là tháng mười. Thời tiết lạnh hơn cuối cùng cũng đến, tôi thở ra hơi vòng tròn khi đi bộ về phía dòng sông. Sương mù ngấm vào tận xương. Tôi cọ cánh tay mình.
Đầu Piran lắc lư trên khung người cao gầy lêu nghêu khi cậu ấy lên đồi để gặp tôi nơi cuối cầu.
“Chào buổi sáng.” Cậu ấy thở hổn hển nhưng không lấy ống xịt ra. “Chào buổi sáng.” Tôi chờ cậu ấy lấy lại nhịp thở. “Ổn chứ?” Mỗi ngày Piran đi bộ lên Đồi Kẻ Sát Nhân khoảng nửa dặm mới tơi
cây cầu. Còn tôi chỉ cần đi một phần tư dặm xuống đồi. “Ờ. Chỉ là không khí lạnh làm phiền tớ.”
“Đêm qua cậu có đọc chương sách khoa học không?” Tôi hỏi. “Tớ cố đọc nhưng mà lại lăn ra ngủ.” Piran đảo mắt. “Bọn dưỡng cư chán chết được.”
“Lưỡng cư.” Tôi nói. Cùng với việc không có cây cối, chúng tôi cũng không có ếch nhái hay kỳ giông ở Thị Trấn Đồng này, không có con bọ nào cho chúng ăn hết. Nhưng tôi sẽ chịu đựng sâu bọ nếu như thế nghĩa là có ếch nhái. “Tớ nghĩ chúng rất tuyệt.”
“Tốt. Cậu có thể nói cho tớ biết tất cả về chúng.”
Tôi đi vào chi tiết về vòng đời của ếch, từ trứng tới nòng nọc rồi lúc
trưởng thành. Piran tạo âm thanh như tiếng ngáy.
“Rồi, rồi.” Tôi cười. “Nhưng cậu phải biết là cậu vừa tự làm mình xui xẻo đấy. Giờ thì chắc chắn cô Post sẽ gọi cậu lên bảng.”
“Ê, tớ sẽ học một ít vào bữa trưa.”
Dĩ nhiên cậu ấy chẳng học gì.
Đến trưa, trời đã đủ ấm để chơi bóng chày.
※
Piran ném bóng còn tôi ở góc thứ nhất. Cảm giác thật tuyệt khi được chơi bóng, dù chỉ là một trận bóng nhẹ nhàng sau bữa trưa, kể cả nếu cánh tay vẫn còn khiến tôi sợ phải bắt bất cứ thứ gì. Trời sẽ sớm trở nên quá lạnh và ẩm ướt để chơi bóng, vì vậy tôi rất nóng lòng bắt nhịp vào bất cứ hoạt động nào có thể.
Đứng ở vị trí của mình, Piran và tôi thấy đám mây lưu huỳnh trước tiên. Nó đang hướng thẳng tới sân bóng.
“Này mấy nhóc…” Piran hất đầu về phía Công ty. “Nín thở đi.” Mọi người nheo mắt khi đám mây màu vàng hạ xuống sân, biến mọi thứ thành một màu bệnh hoạn.
Tôi ho mấy lần và cảm thấy cơn cháy bỏng quen thuộc trong phổi. Mây lưu huỳnh thổi tới từ Công ty ít nhất một lần mỗi tuần, đôi khi còn nhiều hơn.
Piran với tay lấy ống xịt. Tất cả chúng tôi chờ mấy phút để quen với mùi hôi thối rồi quay lại chơi bóng tiếp.
“Này Sonny.” Buster hét tới. “Lần đó bố cậu xử lý đểu lắm nhé.” “Ha ha.” Sonny cười và nhìn đi chỗ khác. Nhưng tôi vẫn kịp bắt gặp
một thoáng nhăn nhó của cậu ấy, má cậu ấy chuyển thành hồng rực. Đôi khi tôi cảm thấy khá tệ cho Sonny. Không ai thực lòng muốn cậu ấy ở trong đội, nhưng cậu ấy là một cầu thủ chặn ngắn giỏi, vì thế chúng tôi phải chịu cậu ấy chơi cùng.
※
Như tôi dự đoán, cô Post gọi Piran trả lời một câu hỏi bài tập về nhà liên quan đến động vật lưỡng cư.
“Mất bao lâu để ếch phát triển từ trứng thành ếch trưởng thành?” Mặt Piran hóa trắng bệch như phấn. Tôi cố gửi câu trả lời cho cậu ấy qua bộ não mình, nhưng cặp mắt cậu ấy đang lớn như đèn pha nên không gì xuyên qua được.
“Dạ.” Piran nói.
Ngay lúc đó, cửa lớp học bật mở. Hiệu trưởng Slaughter bước thẳng vào phòng, cau mày. “Cô Post, tôi cần nói chuyện với cô ngoài hành lang.” Ông nói.
“Chúng tôi đang dở bài học…” Cô Post phản đối.
“Việc này không chờ được.” Ông ấy nói rồi dẫn cô ra khỏi lớp. “May mà gián đoạn nhé.” Tôi thì thầm với Piran.
“Ờ.” Cậu ấy nói rồi thở ra một hơi đã bị nín lại từ lâu.
Chúng tôi ngồi thẳng lên khi cô Post quay lại. Khuôn mặt cô còn trắng hơn mặt Piran ban nãy.
“Các em.” Cô nói và hít một hơi thật sâu. “Thầy hiệu trưởng Slaughter vừa báo một tin xấu.”
Bụng tôi chùng xuống. Còi máy không kêu. Tin xấu có thể là gì? Bố có
ổn không? Bố có thể đã bị gãy xương, bị choáng, hoặc bị thương cần khâu, nhưng những việc này lúc nào cũng xảy ra và Công ty không bật còi vì chúng.
“Công ty đang cắt giảm nhân sự, nhiều lắm.” Cô cau mày. “Đừng lo về bài học. Về nhà với gia đình các em đi.”
Khi Piran và tôi băng qua trường về phía cổng chính, tiếng giày đế mềm nện trên sàn gạch tràn ngập hành lang thay vì tiếng cười nói như lệ thường. Giống các phi hành gia đang rời tàu vũ trụ, chúng tôi túa ra khỏi tòa nhà sẫm màu dưới ánh mặt trời sáng chói, hòa vào đám đông đang ngày càng đông trên Phố Nước. Lần này không ai chạy cả, vì thế chúng tôi có khoảng riêng tư nghe những chuyện phiếm lầm rầm xung quanh mình.
“Tôi nghe nói họ đang cắt giảm cả ngàn người.” Bà McCoy nói. “Như thế là hơn một nửa nhân công đấy!”
“Đó chỉ là lời đồn thôi, Ida Mae.” Bà Abernathy nói.
“Chúng ta sẽ sớm biết thôi.” Bà Hill trả lời.
“Anh Howard nhà tôi không thể mất việc được.” Bà Bames bảo mọi người. “Anh ấy có thâm niên mà.”
“Bố cậu cũng có thâm niên phải không?” Piran hỏi tôi.
“Ờ, ông ấy làm ở đó từ hồi nào rồi.”
Khi chúng tôi đến chỗ Công ty, những nhóm người đầu tiên cúi đầu đi qua chúng tôi. Khuôn mặt họ trông rất giống Piran khi cô Post hỏi về loài ếch, vẻ mặt tái xanh, miệng trễ xuống, mắt mở to. Vợ họ vội chạy đến. “Tờ giấy hồng họ đang cầm là gì vậy?” Tôi hỏi.
“Đấy là giấy cho nghỉ.” Bà Hill thì thầm. “Nghĩa là họ đã mất việc.” Đấy là lúc tôi thực sự hiểu ra sự việc, cắt giảm nhân sự. Bao lâu nay tôi
vẫn bí mật ước một điều gì đó sẽ giữ bố tránh xa mỏ để được an toàn. Nhưng điều tôi muốn là an toàn không bị thương. Tôi chưa từng nghĩ đến chuyện như thế này. Chuyện gì sẽ xảy ra nếu bố mất việc?
Tôi luôn hình dung cảnh “Bố an toàn” là một bức tranh đầy nắng, tôi trông thấy bố đang ăn bánh kếp hoặc vẩn vơ quanh cửa hàng kim khí cả ngày. Mọi người đều cười, mọi người đều hạnh phúc. Nhưng nếu bố mất việc thì tiền sẽ ở đâu ra? Sau bao lâu chúng tôi sẽ sống trong một nhà kho đổ nát như ông Coote điên?
Bên trong Công ty, hai người đàn ông tôi chưa từng gặp trước đây đang đứng cạnh ông Ducat, kế toán Công ty. Thường mọi người rất quý ông Ducat, nhất là khi ông phát lương, nhưng hôm nay họ chẳng đoái hoài ông mấy. Ông ấy đứng chờ cạnh thang máy với chiếc hộp đầy phong bì, vừa đổi chân một cách không thoải mái.
Ông Rust, bố của Sonny không thấy đâu, mà Sonny cũng không thấy đâu nốt. Đoán thử xem.
Mọi người im lặng khi thang máy rền rĩ hoạt động trở lại, đưa một nhóm người nữa từ mỏ lên. Khi họ lên tới nơi, ông Ducat lục đám phong bì rồi phân phát. Hết chuyến này tới chuyến khác, hết nhóm này đến nhóm khác, phần lớn trong số họ đã bị cắt giảm, bao gồm cả bố của Will McCaffrey.
Mặc dù Will phải chịu trách nhiệm phần nào cho cánh tay gãy của tôi, tôi vẫn cảm thấy tệ cho anh ta và gia đình. Giờ họ sẽ làm gì đây? Từng có nhà máy quần bò, nhưng nhà máy đã đóng cửa hai năm trước. Xây dựng có thể là công việc tốt đối với một thợ mỏ, nhưng Thị Trấn Đồng không hẳn là một thành phố phát triển thịnh vượng. Đôi khi các cửa hàng trong khu trung tâm cũng đặt biển tìm người. Tôi cố hình dung cảnh một thợ mỏ
phục vụ món kem ở Tiệm thuốc Dilbeck, hoặc lấy cuống vé ở rạp chiếu phim. Không hợp chút nào. Hơn nữa, tôi không thấy tấm biển “Tìm người” đã bao lâu rồi.
Các ngón tay tôi trở nên tê liệt.
Tôi nhìn ông Barnes mở phong bì, lôi ra một tờ giấy hồng. Đôi vai ông chùng xuống khi chuyển tấm thẻ nhận dạng bằng đồng thau của mình từ bàn Vào sang bàn Ra, cho biết ông sẽ ở trên mặt đất, không còn trong mỏ nữa.
“Không, không thể nào.” Bà Barnes há hốc miệng. “Howard có thâm niên mà.”
Tôi cảm thấy một khối gì đang mọc lên trong cổ họng.
Những người bị cắt giảm nhân sự khum người lê bước tới chỗ đám đông. Một số người những dòng nước mắt chảy xuống ướt nhẹp khuôn mặt ám đen. Thậm chí họ không cố che giấu cảm xúc của mình.
Ông Ledford gạt nước mắt, khiến lớp bồ hóng bụi bẩn biến thành chiếc mặt nạ ma quái. Vợ ông ốm yếu vì ung thư phổi, đây cũng là căn bệnh khiến bà ngoại tôi qua đời. Miệng tôi đột nhiên có vị như tro. Trông bà Ledford không khỏe lắm khi tôi giao món bánh ga tô nhân táo của mẹ mấy hôm trước.
Đám đông thưa dần khi các gia đình về nhà trong im lặng. Bố tôi và đội của bố là những người cuối cùng ra khỏi mỏ như lệ thường. Vì là giám sát viên, công việc của bố là tắt các thiết bị vào cuối ngày.
Tôi cảm thấy một bàn tay nắm chặt vai mình. Mẹ đang đứng cạnh tôi, tay giữ chặt chiếc áo khoác quấn quanh người dù trời nắng ấm. Khuôn
mặt mẹ phủ bóng khi mẹ nhìn thẳng về phía trước. Ông Ducat đưa cho bố phong bì.
Bố lấy thẻ nhận dạng của mình từ bàn, xoa xoa ngón tay cái lên mấy chữ cái đầu tên bố cùng số của bố, số 340, như để cầu may. Đoạn bố chằm chằm nhìn chiếc phong bì dán kín trong một lúc tưởng như vô tận. “Mở ra đi ạ.” Tôi thì thầm.
Cuối cùng, bố hít một hơi thật sâu và xé mở phong bì. Bố lấy ra tờ séc trả lương, không có gì khác trong đó. Bố tôi vẫn có việc, dù là trong lúc này.
Tôi thở dài yên tâm. Mẹ cũng thế. Nhưng bụng tôi rơi xuống chân khi bố quay sang nhìn những người trong đội của mình. Tôi đã không nhìn họ bởi quá để ý tới bố. Nhưng chú Bubba, chú Mike, chú Rick, ông D.W. và chú Silas, đấy là cách tôi gọi họ, mặc dù chú Bubba, bố của Buster là người họ hàng duy nhất của tôi, từng người trong số họ cầm một tờ giấy hồng. Họ đứng cùng nhau một lúc lâu, đôi mắt mở lớn vì sốc. Không ai nói lời nào khi họ vỗ lên lưng nhau.
Mắt tôi cay quá, nhưng thậm chí tôi không thể chớp mắt được. Mẹ ôm dì Livvy trước khi dì cùng chú Bubba rời đi. Buster thậm chí còn chằng nhìn lên.
“Nói chuyện với cậu sau.” Tôi lẩm bẩm với Piran khi bố đặt một cánh tay ngang qua người tôi và mẹ.
Tôi ngạc nhiên khi cảm thấy bố đã dựa vào người mình khi chúng tôi bước đi. Tôi liếc nhìn lên. Bố ho và chớp mắt rồi nhìn đi nơi khác. Tôi không muốn làm bố ngượng, vì thế tôi giữ mắt gắn chặt vào đôi giày mới. Chúng đã bị mòn và bẩn rồi.
Chương 6
Ý TƯỞNG ĐIÊN RỒ
Ô
ng ngoại Chase đang đi tới đi lui trên hiên trước nhà khi chúng tôi về đến nơi.
“Bố sang đây ngay khi biết tin.” Ông nói và nhìn bố tôi.
“Con vẫn có việc, nhưng mà con mất cả đội rồi, cả Bubba.” Bố nói. “Khốn nạn thật.” Ông vỗ mạnh lên lưng bố.
“Liên hiệp sẽ họp vào ngày mai.” Bố tôi nói.
“Bố đoán vậy.” Ông gật đầu.
“Bố ơi, bố có sang nhà dì Livvy không?” Mẹ hỏi.
“Con đang định gọi cho dì ấy.”
“Bảo con bé là mai bố sẽ qua thăm chúng nó.” Ông nói. “Bố nghĩ chúng có đủ việc lo lắng đêm nay rồi.”
“Dạ, vậy bố ở lại ăn tối nhé.” Mẹ nói khẽ. “Con sẽ đi chuẩn bị.” Mẹ nấu món bò bít tết kiểu vùng quê ăn với khoai tây nghiền và sốt, món này bình thường ai cũng thích mê. Nhưng cả nhà không ăn mấy. Tôi ráng thưởng thức món ăn, nhưng miếng thịt mắc kẹt trong cổ họng tôi như một tảng lớn không trôi xuống được. Mẹ dọn dẹp bát đĩa rồi gật đầu với ông ngoại.
“Jack ơi, ông cháu mình ra ngoài hiên cái nhỉ.” Ông nói.
Tôi muốn hét lên. “Trời đất ơi, con mười ba tuổi rồi!” Tôi ghét những
khi người lớn hành xử như thể tôi không biết chuyện gì đang diễn ra. “Tước xơ đậu trong lúc ngồi ngoài ấy nhé.” Mẹ nói rồi đưa cho ông cháu tôi hai cái bát, hai cái dao và một túi đậu cô ve. Thường tôi sẽ càu nhàu, nhưng hôm nay tôi giữ im lặng.
Ông ngoại đung đưa chiếc đu tới lui, mỗi lần đu qua là đôi giày đế mềm của tôi lại trượt trên sàn hiên. Hai chiếc bát nằm giữa hai ông cháu, chúng khẽ đụng vào nhau khi chúng tôi làm việc, âm thanh nghe như tiếng chuông gió.
Ông ngoại bẻ hai đầu mỗi que đậu đánh “tách” rồi lướt dao xuống nhanh gấp đôi tôi. Tôi cố gắng bắt kịp ông nhưng không thể ngăn mình nghe tiếng bố mẹ tranh cãi trong bếp. Họ đang bực bội và ngày càng lớn giọng. Tôi tự hỏi những gia đình khác đang xoay xở thế nào, gia đình của những người đã nhận được tờ giấy hồng cho thôi việc. Chúng tôi còn may mắn, nhưng mà không hề cảm thấy thế.
“Ối!” Tôi nói và nhét ngón tay vào miệng.
“Cắt vào tay à?” Ông hỏi. Tôi gật đầu. “Hãy nghỉ một tí đã.” Ông bảo. Chúng tôi ngồi dựa lưng, ngắm hoàng hôn buông xuống Những Ngọn Đồi Đỏ này. Ánh sáng nhuộm những đỉnh đồi thành màu đỏ cam rồi chuyển sang màu vàng kim loại khi chiếu về một phía, phủ lên đám mương rãnh những sắc màu xanh dương và tím đậm. Tôi cho là cảnh sắc này đẹp theo cách của riêng mình như nhiều người nghĩ vậy. Thị Trấn Đồng nằm trong một lòng trũng tại đầu phía Nam của dãy núi Appalachian, vì thế người ta gọi là Lòng Chảo Đồng. Những ngọn đồi thấp bao quanh thị trấn, dòng sông Tohachee chảy từ Đông sang Tây cắt ngang thị trấn như một chiếc khóa kéo.
Bố tôi là giám sát viên nên nhà chúng tôi nằm cao trên đồi Smelter.
Không cao như nhà Rust, nhưng chúng tôi có được tầm nhìn thuộc hàng đẹp nhất trong số các nhà quanh đây. Tôi nhìn cây cầu băng vào trung tâm thị trấn, trường tôi nằm ở phía Đông cầu, đồi Tater nằm phía Bắc, Công ty nằm ở phía Tây, và có ít nhất năm mươi dặm vuông đất trống phía đằng xa.
Người dân cực kỳ tự hào khi nói về Thị Trấn Đồng trên chương trình thời sự quốc gia. “Các phi hành gia báo cáo rằng họ có thể trông thấy quang cảnh trơ trụi của Thị Trấn Đồng bang Tennnesse từ tàu con thoi đấy.” Dĩ nhiên đấy là trước khi tàu con thoi Người Thách Đấu nổ tung khiến họ dừng hẳn việc phóng tàu.
Cả thế giới biết đến chúng tôi nhưng không phải vì những lý do mà tôi lấy làm tự hào. Điều đó dường như không đúng.
“Ông ơi, họ đã đóng cửa các lò luyện kim rồi mà sao cây cối vẫn chưa mọc lại?”
Ông hắng CỔ, hạ giọng. “Ờ, Jack ạ, chính phủ đặt mức giới hạn hơi axit được phép thoát ra từ Công ty, nhưng những người sở hữu Công ty sống xa tít tận New York, họ chẳng bao giờ quan tâm nhiều đến các luật lệ đâu. Chừng nào họ còn kiếm được tiền…”
Đám người thành thị ấy đang đối xử với chúng tôi như những nhân vật trong bộ phim Star Trek, những nhân vật mà không ai nhớ đến khi họ bị hạ gục bởi la-de hoặc bị người ngoài hành tinh ăn thịt, họ không xuất hiện trên màn ảnh đủ lâu để khiến người ta quan tâm đến.
“Như thế không đúng!” Tôi nói.
“Ông biết, Jack à.” Ông ngoại thở dài. “Nhưng đôi khi cuộc sống là như thế.”
“Nhưng cháu muốn cây cối mọc lại.” Tôi nói. “Cháu muốn một khu
rừng! Có khu rừng để các rễ cây có thể cùng nhau giữ chặt đất. Như thế có khi chú Amon đã không chết.”
“Jack ơi, họ làm việc trên lớp đá, thấp hơn lớp đất phủ nhiều.” Ông nói. “Không cây cối nào trên đời lại có rễ ăn sâu tới mức đó đâu.” “Cháu… cháu không quan tâm.” Tôi duỗi chân ra để đá vào hiên nhưng chỉ đá vào không khí.
Không họp lý chút nào. Chúng tôi đã lấy đi quá nhiều từ Mẹ Thiên Nhiên. Cảm giác như bà đang đòi nợ chúng tôi. Ai sẽ là người tiếp theo? Là bố… hay là tôi?
“Một ngày nào đó, cháu sẽ khiến Công ty phải tuân theo các luật lệ.” Tôi nói. “Cháu sẽ mang thiên nhiên trở lại.”
Bố mở cánh cửa lưới. “Bố ơi, bố lại đang nhét đầy đầu thằng bé những ý tưởng điên rồ của bố đấy à?”
“Ý tưởng cái gì chứ.” Ông nói. “Gần đây con có trông thấy chim chóc gì quanh đây không hả?”
“Lúc nào họ cũng kiểm tra.” Bố tranh cãi. “Họ nói mọi thứ an toàn tuyệt đối.”
“Con mong chờ họ nói gì chứ hả? Khi mà lần nào tới đây Công ty cũng ăn tối cùng và lôi kéo họ.” Ông nói.
“Không phải thế đâu bố ơi. Công ty quan tâm chăm sóc…” Giọng bố nhỏ dần.
“Ờ đấy, giống như họ quan tâm chăm sóc đội của con vậy.” Ông ngoại lắc đầu. “Và giống như họ quan tâm chăm sóc Amon với bố nó. Bao nhiêu người nữa phải chết trước khi con thôi sống trong ảo tưởng hả Ray?” Tôi cứng người.
Bố chằm chằm nhìn ông như thể sắp nổ tung, rồi vai bố chùng xuống, bố quay vào trong nhà.
Bố rất tự hào về công việc của mình ở Công ty, từ vấn đề truyền thống tới lương lậu và các phúc lợi, nhưng đôi khi tôi tự hỏi liệu có phải bố chỉ đang che đậy vì bố không biết làm gì khác. Nếu bố có sự lựa chọn, liệu bố có làm thợ mỏ không? Liệu tôi có lựa chọn nào không?
Chương 7
SONNY RUST
M
ọi người im lặng và bước sang bên khi Sonny Rust vào trường ngày hôm sau. Trông cậu ấy như một quả bóng xì hơi, co lại thành hình dạng ban đầu khi bước xuống hành lang, tay ôm chặt đống sách vào người.
Cậu ấy rẽ về phía lớp học nhưng Buster đã chặn đường. “Mày nghĩ mình đang đi đâu thế?”
Sonny tránh nhìn vào mắt Buster và cố bước vòng qua một cách ngoạn ngoãn. Buster đánh văng đống sách khỏi tay Sonny. “Mày không thuộc về nơi này nữa.” Buster nói qua hàm răng nghiến chặt.
“Tôi sẽ không ị làm chuyện như thế.” Sonny kêu lên the thé rồi chằm chằm nhìn sàn nhà như thể mong mình có thể chìm vào đó. “Không phải tại tôi.”
Mặt Buster chuyển sang màu đỏ, cơ hàm căng lại như dây cao su, đây không phải là dấu hiệu tốt. Tôi vội tới đứng giữa họ. “Để cậu ta yên đi Buster.” Có thể tôi không thích Sonny lắm, nhưng tôi biết em họ mình có khả năng làm gì khi cơn giận nắm kiểm soát.
“Tránh đường ra anh.” Buster rít.
“Đó không phải là lỗi của cậu ta, Buster.” Tôi nói. “Cậu ta không thể làm gì trong chuyện bố cậu ta là quản lý của Công ty. Để cậu ta yên đi được không?” Thường thì tôi có thể nói để Buster bình tĩnh. Tôi là một
trong số vài người có thể làm được.
“Có lẽ anh nói đúng.” Buster lẩm bẩm và nhìn xuống. Tôi thở phào nhẹ nhõm.
“Nhưng em không quan tâm!” Buster hét. Cậu ta bước sang bên rồi mau lẹ xoay người và đấm thẳng vào mắt Sonny. Sonny đổ sụp xuống sàn như một chú gà không xương rồi trượt vào tường.
“Gửi thông điệp đó cho bố mày, đồ chó đẻ.” Buster gầm gừ. Mọi người bắt đầu la lên cùng một lúc, người hô “Dừng lại, dừng lại!”, người thì hô “Đánh nó nữa đi! Nó xứng đáng mà!”
Giọng cao vút của cô Post phá tan đám hỗn loạn. “Chuyện gì đang diễn ra đây?”
Thầy hiệu trưởng Slaughter nhanh chóng tiến vào giữa đám hổ lốn và chộp lấy cổ áo của Buster. “Cậu đi với tôi.”
Tôi giơ tay cho Sonny. “Cậu ổn chứ?” Cậu ấy liếc nhìn tôi, một tay che mắt. Con mắt đã chuyển sang màu tím và sung phồng.
“Ừ, cảm ơn.” Sonny với tay ra trong khi cằm cậu ấy run rẩy như thể sắp khóc.
“Đừng nghe lời Buster.” Tôi nói. “Nó chỉ tức tối vì bố nó thôi. Nó biết việc cắt giảm nhân sự không phải là lỗi của cậu.”
“Có thể là thế. Nhưng như cậu ta nói đấy, cậu ta không quan tâm.” Sonny khẽ nói.
Cô Post quàng tay qua người cậu ấy. “Em qua chỗ y tá đi nào.” Cô nói và mỉm cười cảm ơn tôi.
Tôi nhìn họ bước đi. Sonny không hẳn là một đứa xấu. Lúc nào cậu ta cũng ở quanh khi bạn cần người chơi ở vị trí chặn ngắn hoặc để đủ người
cho đội toán. Chỉ là chúng tôi không muốn phải cần đến cậu ta. Dù có thích hay không thì đối với chúng tôi cậu ấy đại diện cho Công ty. Cậu ấy khiến chúng tôi nhớ tới việc chúng tôi phụ thuộc vào mỏ đến mức nào và chúng tôi có ít lựa chọn về chuyện ấy ra sao.
Một số người nghĩ tôi đã làm việc đúng đắn khi giúp đỡ Sonny như vậy. Họ vỗ lưng tôi, tươi cười với tôi và gật đầu. Một số khác thì không. Họ đâm mạnh vào tôi khi đi qua tôi trong hành lang hoặc cau mày trước khi nhìn đi nơi khác.
“Sáng nay anh nghĩ gì thế hả? Việc giúp đỡ gia đình thì thế nào hả?” Tối hôm ấy Buster hỏi tôi khi cậu ta gọi để mắng nhiếc. Cậu ta đã bị cho về nhà sớm, vì thế tôi không gặp cậu ta trong thời gian còn lại của buổi học.
“Em đã có thể giết cậu ta rồi.” Tôi nói.
“Thì sao?”
“Sonny là đứa phiền phức, nhưng cậu ta không thể làm gì về việc bố mẹ cậu ta là ai. Còn em cũng không cần thêm gì vào lý lịch của mình đâu.” “Vậy là anh đã trông chừng cho em hả?”
“Anh cho là vậy, theo một cách nào đó.” Tôi nói.
Một khoảng dừng lâu lắc. Cuối cùng Buster nói.
“Thôi được rồi. Chúng ta vẫn tốt chứ hả?”
“Ừ Buster, chúng ta vẫn tốt.” Tôi nghe tiếng dì Livvy la cậu ta phía sau.
“Em phải đi đây.” Buster nói. “Em đang bị phạt cấm túc.” Ông Rust rút học bạ của Sonny khỏi trường vào ngày hôm sau. Có tin đồn là họ đã chuyển cậu ấy tới một trường tư ở Chattanooga. Tôi không
bao giờ thấy cậu ấy nữa.
Buster bị đình chỉ học ba ngày, thế chẳng nhiều lắm. Tôi nghĩ thầy hiệu trưởng im lặng về phe cậu ta. Nhiều người muốn nện nhà Rust nhừ tử. Buster chỉ là người đầu tiên làm thế.
Chương 8
ĐỔ XỈ
L
ớp tôi ít dần trong hai tuần sau vì những ông bố bị cắt giảm nhân sự phải đưa gia đình họ đến nơi khác tìm việc. Dường như mỗi lần đến trường là lại có ai đó đi mất: Mathew Rymer, cầu thủ chơi ở vị trí chốt gôn ba; Junior Meeks, cậu bạn khá là khó chịu nhưng tôi vẫn nhớ; Lee Anna Rush, cô bé xinh đẹp gần bằng Hannah, gần bằng thôi.
Cô Post cố cư xử như thể mọi thứ vẫn bình thường, lờ đi những chiếc ghế trống trong lớp, nhưng không ai có thể tập trung học. Tôi tự hỏi bạn bè tôi đã chuyển tới đâu. Ở đó họ có cây cối chứ? Thế giới mới của họ trông ra sao nhỉ? Những thế giới ấy xanh đến thế nào? Một phần tội lỗi trong tôi cảm thấy chút ghen tỵ.
Và rồi, một ngày thứ sáu trên đường rời trường, chúng tôi trông thấy ánh sáng rực quen thuộc phía Công ty.
“Đổ xỉ!” Piran la lên.
Buster, Piran và tôi vội chạy tới đồi Tater, dừng lại một lần để Piran bắt lấy nhịp thở. Rìa đá ưa thích của chúng tôi có tầm nhìn tuyệt nhất để thấy cảnh đoàn tàu đỗ bấp bênh gần vực đá khi đổ nghiêng những nồi nấu kim loại bằng sắt khổng lồ, lớp đá nóng chảy chảy xuống vách. Lớp dung nham sáng rỡ bắn tia lửa vào không khí, làm rực sáng cả bầu trời, đấy là màn trình diễn pháo hoa dành riêng cho chúng tôi và cũng là màu tóc của Hannah khi mặt trời chiếu sáng từ đằng sau. Tôi không thể ngừng há hốc
miệng.
Họ đã đổ xỉ bao nhiêu năm nay đến nỗi Công ty thực tế đang nằm trên một ngọn núi nhỏ làm bằng vật liệu như xi măng. Mặc dù vậy, tôi chưa bao giờ thấy chán nhìn người ta đổ xỉ.
“Chắc là lần cuối cùng em được xem cảnh này.” Buster nói. Chú Bubba đã tìm được việc trong một trang trại gà ở Lumpkin. “Khi nào nhà cậu chuyển đi?” Piran hỏi.
“Chủ nhật, sau lễ nhà thờ.” Buster đáp.
“Stan cũng chuyển đi.” Piran nói. “Bố cậu ấy tìm được việc ở Cleveland.”
“Tớ nghe nói gia đình nhà Greg đã chuyển tới sống cùng dì cậu ấy ở trên đằng Murphy.” Tôi nói.
“Chết tiệt, cậu ấy là người đánh bóng tốt nhất của chúng ta.” Piran đáp. “Chúng ta đang thiếu cầu thủ.”
“Ít nhất cậu sẽ còn ở đây để mà chơi bóng.” Buster càu nhàu. “Ít nhất em sẽ có cây cối.” Tôi suýt nói ra nhưng kịp chặn mình lại. Tôi đáng ra phải cảm thấy may mắn vì cuộc sống không bị đảo lộn hoàn toàn như bạn bè tôi, những người phải chuyển đi.
Chúng tôi nhìn dung nham hóa thành màu đen khi nguội đi. “Thế còn nhà cậu thì sao?” Piran hỏi. “Nhà cậu có bán nhà không?” “Đấy là nhà của Công ty, nhà tớ chỉ thuê thôi. Vì vậy tất cả những gì cần làm là gói ghém đồ rồi ra đi.”
Thợ mỏ chuyển nhà như trò đô-mi-nô. Mỗi lần ai đó được thăng chức thì họ chuyển lên đồi, tạo ra phản ứng dây chuyền khi những người bên dưới cũng chuyển nhà lên một căn. Lý do duy nhất mà một thời gian
chúng tôi không chuyển nhà là bởi đồi Smelter là đồi cao nhất chúng tôi lên tới được. Ngoại trừ nhà của quản lý phía bên kia thị trấn trên đồi Tater mà nhà Rust sống, không thợ mỏ nào được sống ở đó.
Vì thế tôi đã quen với việc người ta chuyển nhà, chỉ có điều không phải là chuyển đi khỏi Thị Trấn Đồng. Họ như đàn chuột thoát thân khỏi một con tàu đang chìm, có điều họ không phải chuột mà là bạn tôi, và tôi không muốn nghĩ về mái nhà mình như bất cứ thứ gì đang chìm cả.
Chương 9
AO THẢI
S
áng hôm sau, mẹ kiểm tra thời tiết ở sân trong. Mẹ liếm ngón tay rồi giơ lên không khí để xem ngón tay khô ráo nhanh tới mức nào. “Hừm… mẹ nghĩ hôm nay mẹ có thể giặt giũ được.”
“Bố đâu rồi ạ?” Tôi hỏi.
“Ở dưới nhà dì Livvy và chú Bubba để giúp chuyển đồ lên xe tải.” Mẹ nói. “Một lát nữa mẹ sẽ mang ít bánh mỳ kẹp và trà đá qua đó.” “Con sẽ qua nhà Piran.” Tôi nói.
“Con nên xem liệu Buster có muốn đi với con không, dù sao hôm nay là ngày cuối cùng của thằng bé ở đây. Mẹ chắc chắn dì Livvy sẽ cảm kích chuyện nó không ở nhà làm vướng chân. Nhưng mấy đứa các con đùng có dính vào rắc rối đấy, được chứ?”
“Vâng thưa quý bà.” Nói câu này với Buster ấy ạ, tôi nghĩ. Buster không có vấn đề gì khi bình tĩnh, nhưng tôi thấy mệt khi phải làm người trông nom cậu ta mỗi khi cậu ta mất bình tĩnh, mà đó là phần lớn thời gian. Đấy là lý do tôi không quá buồn việc cậu ta chuyển đi, mặc dù tôi sẽ nhớ dì Livvy và chú Bubba. Như thỉnh thoảng ông ngoại vẫn nói, “Cháu có thể chọn bạn bè, nhưng không thể chọn gia đình cháu.”
Chuyến thả bộ xuống Đồi Sát Nhân khá tuyệt, hơi gió một chút, nhưng mặt trời đã lên nên không lạnh lắm. Bầu trời mang màu xanh dương sắc nét được tô điểm bởi những ngọn đồi màu cam, dòng sông ánh lên màu hổ
phách.
Những làn sương vẫn còn đang bốc hơi khi tôi xuống tới nhà của gia đình Quinn. Ở chỗ họ lúc nào cũng mát mẻ hơn vì rất gần sông. Tôi nổi da gà khi đứng trước cửa nhà họ vì ở đấy vẫn nằm trong bóng tối. Nhưng trong nhà thật ấm.
“Vào đi cháu, Jack.” Bác Quinn gọi. Tôi nhét mình vào căn bếp nhỏ khi bác ấy hét vào hành lang. “Piran, Jack đến này.” Bác ấy quay lại với việc bón món gì đó mềm mềm màu xanh lá cho em gái nhỏ mới sinh của Piran, Emily. Mẹ đã gọi em bé là “tai nạn nho nhỏ hạnh phúc” của nhà họ.
Bác trai Quinn đây mình qua tôi. “Chào buổi sáng, Jack. Bố mẹ cháu đang xoay xở ra sao?”
“Chào buổi sáng bác Quinn. Cháu cho là ổn thôi ạ.”
Sự thực là bố mẹ tôi không nói nhiều về việc cắt giảm nhân sự, dù sao cũng không nói trước mặt tôi. Mà họ cũng không có thời gian. Mẹ đã ở dưới nhà dì Livvy giúp dì ấy dọn đồ, còn bố đang làm việc quá giờ rất nhiều vì cả đội của bố không còn nữa.
“Em yêu à, hôm nay hẳn sẽ là một ngày yên ắng ở bưu điện. Anh sẽ không về trễ đâu.” Bác trai hôn má bác gái rồi hôn lên đầu Emily trước khi rời nhà.
Emily bắt đầu khóc nhè ngay khi Piran bước vào bếp. “Chào Jack.” “Trời ơi!” Hannah hét tới từ phía hành lang. “Không cho ai ngủ với à?”
Tôi nhìn để xem liệu cô ấy có xuất hiện, nhưng không may mắn được như thế. Hai đứa sinh đôi chạy nhanh như cắt vọt qua chúng tôi khi chơi trò siêu anh hùng, chúng đuổi nhau từ phòng này sang phòng khác.
“Im đi nào!” Hannah hét.
“Xem lại cách nói năng đi nào cô nương.” Bác Quinn hét lại. “Emily đã khóc cả đêm.” Piran đảo mắt. “Hãy rời khỏi đây trước khi tớ phải trông em. Tí nữa con về mẹ nhé.
“Đừng quên ống xịt của con đấy!” Bác ấy gọi với sau chúng tôi. “Cậu muốn làm gì?” Piran hỏi khi chúng tôi đi bộ quay lại phía cầu. “Tớ đã hứa với mẹ là chúng ta sẽ đưa Buster đi cùng.” Tôi nói. Piran nhăn nhó.
“Cậu ta không thể nào khơi mào đánh nhau vào ngày cuối cùng ở thị trấn đâu.” Tôi nói.
“Tốt hơn là đừng có làm vậy.”
Chúng tôi hướng về Đồi Sát Nhân rồi cắt ngang về phía Nam qua Đường Cây Dương. “Cậu có bao giờ để ý là các con đường luôn được đặt tên dựa theo thứ mà người ta đã cắt khỏi nơi đó hoặc đã đuổi đi để làm con đường đó không?” Tôi hỏi. “Ý tớ là cậu đã bao giờ thấy cây dương chưa? Còn nhà tớ thì nằm ở Ngọn Gấu. Quả là chuyện hài.”
“Ờ, nhưng nhà tớ nằm trên Đường Liếm Chảo, cái tên là do thời suy thoái người ta đói quá đến nỗi phải liếm sạch chảo nóng.” Piran nói. “Chuyện đó đối với tớ không hài hước lắm.”
Tôi gật đầu rồi nhìn đi nơi khác. Tôi hay bị đau dạ dày, nhưng không bao giờ là do đói cả.
Một chiếc xe tải dài màu cam đỗ trước cửa nhà Buster. Bố với chú Bubba đang bê một chiếc rương lớn lên đường dốc tải đồ. “Livvy à, trong này em để gì đấy?” Chú Bubba càu nhàu. “Cái rương đầy những của gia truyền có thể bị vỡ đấy. Cẩn thận anh
ơi.” Dì nói.
“Để ý kìa Bubba.” Bố gọi với ra từ phía trong thùng xe. “Chú sắp nghiền nát anh rồi. Á!”
“Ối, em xin lỗi, Ray.”
Buster đang đứng chờ ở chân dốc với một chiếc thùng trong tay. Bờ môi dưới của cậu ta chìa ra như một đứa bé con.
“Dì Livvy ơi, dì có thể dọn nhà mà không cần Buster một lúc không ạ?” Tôi hỏi.
Buster nhìn dì ấy bằng đôi mắt lớn như hai chiếc đĩa ăn.
“Ồ, đi đi,” dì nói. “Hôm nay con đã làm nhiều rồi.”
Cậu ta mỉm cười và thả rơi chiếc thùng đang cầm.
“Cẩn thận cái thùng chứ!” Dì Livvy hét. Nụ cười bình thản thường nhật của dì ẩn giấu phía sau cái cau mày dữ dội.
Piran và tôi phải chạy để bắt kịp Buster ở cuối con đường. “Em không muốn cho mẹ cơ hội thay đổi ý kiến,” Cậu ta nói. “Chúng ta đi đâu đấy?” “Em muốn đi đâu?” Tôi hỏi. “Dù sao cũng là ngày cuối em ở đây.” “Ao Thải Cũ Số Hai, cái ao cạn ấy.” Buster nói. Dĩ nhiên cậu ta sẽ muốn đến nơi chúng tôi không được phép tới vào ngày cuối cùng ở đây. Piran và tôi nhìn nhau rồi nhún vai. Làm sao chúng tôi từ chối được? Chúng tôi đi theo đường ray xe lửa ra ngoài thị trấn. Cánh tay tôi ngứa như điên khi chúng tôi băng qua cây cầu cạn, mặc dù may mắn là Eli cùng đám bạn của hắn không ở quanh đây.
“Thách anh băng qua đấy!” Buster tự cười lớn vì câu đùa nhạt nhẽo của mình.
“Chẳng buồn cười đâu.” Tôi lầm rầm. Piran lắc đầu.
Điều duy nhất giữ người ta khỏi vào Ao Thải Cũ Số Hai là một tấm biển in dòng chữ “Nguy hiểm” đã mờ trên cánh cửa ngăn cách con đường đất và phía bên trong. Chúng tôi đi theo lối mòn chỗ khúc quanh bên phải đường rồi bước tới rìa ao. Tôi chăm chú nhìn khu đất hoang với dáng vẻ không thuộc về thế giới này. Gần đây quá nhiều điều trong thế giới của chúng tôi đã không hoạt động đúng phận sự nên dường như đây là nơi phù hợp để chúng tôi có mặt.
Buster nhấc một khẩu súng tưởng tượng lên rồi nhảy nhót quanh ao. “Bùm, bùm, bùm, bùm, bum. Kẻ thù đang bắn!”
Piran và tôi bắn trở lại với mấy khẩu súng la-de. “Đồ con người ngu ngốc, ngươi sẽ không có cơ hội nào chống lại vũ khí tiên tiến của bọn ta đâu. Chiu, chiu, chiu!” Các mương chống xói mòn hữu ích cho một việc: chúng là những boong-ke tuyệt vời.
Bỗng dưng, tiếng động cơ gầm lên rồi một chiếc xe Jeep mới màu vàng sáng bóng với mấy bánh xe khổng lồ mấp mô nhào tới qua một ngọn đồi.
“Cúi xuống!” Piran hét.
Chúng tôi cúi nhào xuống giấu mình đằng sau một tảng đá lớn rồi nhìn chiếc xe Jeep đi vòng quanh ao thải, khiến bụi xi-li-con mịn tung mù mịt. Với hướng gió thổi như thế này, bụi đất sẽ bao phủ xe ô tô của bố mẹ chúng tôi ở nhà trước khi lắng xuống.
Thậm chí bụi có thể bao phủ chiếc xe tải chuyển đồ như một món quà chia tay.
Hai bánh sau chiếc xe Jeep chìm sâu vào mặt đất một lần, nhưng chiếc xe lao ra trước khi chìm sâu hơn. Mặt đất không Ổn định, đó là lý do các tấm biển “Nguy hiểm” nằm ở đây, và cũng là lý do chúng tôi đáng nhẽ
không được đến đây, như ý kiến của bố mẹ chúng tôi. Thế mà kìa, một đám khờ đang reo hò lái xung quanh trong cái phương tiện to đùng, nặng nề ấy.
“Tớ không thể tin nổi vận rủi của bọn mình!” Piran hét lớn át tiếng ồn. “Eli Munroe! Làm sao mà hắn có tiền mua chiếc xe Jeep mới cứng đó nhỉ?”
“Tớ không biết. Bố nói mỏ không thuê anh ta… trước vụ cắt giảm nhân sự.” Tôi nói. “Và tớ đã thấy anh ta bị đuổi việc khỏi trạm xăng.” Tôi cũng không nghe nói anh ta làm việc ở đâu khác.
“Sao chúng ta phải lẩn trốn?” Buster nói. “Anh không sợ hắn vì chuyện xảy ra ở chỗ cầu cạn đấy chứ? Chúng ta đến đây trước. Chúng ta có thể thử đuổi chúng đi.”
“Buster, anh thề đấy, giữ em khỏi rắc rối là một công việc toàn thời gian.” Tôi nói. “Hãy giữ mình, em nghe chứ?”
Mặt Buster tối sầm lại. “Đừng lo. Em sẽ không là công việc của anh lâu nữa đâu.”
“Đó không phải là ý anh…” Tôi bắt đầu nói, nhưng sự chú ý của cậu ta đã quay lại phía Eli.
Tôi không thể ngăn mình so sánh hai người họ. Có phải Eli giống Buster, chỉ biết hung hăng và không hiểu lẽ thường? Hay anh ta chỉ là người mà giấc mơ đã bị xé mất? Eli muốn làm thợ mỏ, anh ta thậm chí còn nghỉ học để trở thành thợ mỏ, nhưng người ta không thuê anh ta. Giờ có vẻ anh ta không có việc gì để làm, ít nhất cũng không phải là việc gì lương thiện.
Không có mỏ, tôi cũng sẽ biến thành người như Eli chăng? Phải chăng đó cũng là tương lai của tôi?
※
Ngay khi lễ nhà thờ kết thúc ngày hôm sau, chúng tôi tới nhà dì Livvy và chú Bubba lần nữa. Chiếc xe tải đầy tới tận ngọn nhưng chú Bubba đã xoay xở để nhét được chiếc thùng cuối cùng. Đám bàn ghế được dùng để trang hoàng nhà cửa trông thật buồn khi đan vào nhau như một mớ hỗn độn không quan trọng, từ chiếc bàn ăn bằng gỗ sồi nơi gia đình dùng mọi bữa ăn, chiếc ghế với một góc bị sứt khi Buster làm vỡ một chiếc răng ở đấy hồi còn bé, đến cái trường kỷ kẻ ô nơi gia đình đã chụp ảnh Giáng sinh năm ngoái.
Có khi nào toàn bộ cuộc đời chúng tôi cũng nhét vừa trong một chiếc xe tải như thế?
Buster tựa người vào chiếc xe ô tô thân dài của gia đình, tay đập quả bóng vào chiếc găng tay hết lần này đến lần khác.
“Chào.” Tôi nói khi dựa người vào chiếc ô tô cạnh cậu ta. “Chào.” Buster lẩm bẩm, môi cậu ta lại chìa ra.
Chú Bubba kéo cánh cửa khoang hàng của xe tải xuống rồi xoa hai tay vào nhau. “Em cho là đến lúc rồi.”
Dì Livvy và mẹ ôm nhau rồi bật khóc.
“Đúng là phụ nữ.” Tôi và Buster nói cùng lúc.
Tôi nhìn cậu ta từ một phía. “Chúc may mắn Buster. Thật đấy. Và ráng tránh khỏi rắc rối nhé?” Tôi cười.
“Ờ, được rồi.” Một biểu cảm mà tôi chưa từng thấy trước đây chạy qua mặt cậu ta, điều gì đó khác với vẻ nhăn nhó gỗ đá bình thường, cằm cậu ta bắt đầu run run và… Cậu ta đang cố để không khóc sao? Tôi đổi
chân và nhìn đi nơi khác.
“Thông tin cho em biết chuyện gì diễn ra với Liên hiệp nhé.” Chú Bubba bảo bố.
“Anh sẽ báo,” bố nói.
Họ bắt tay chào tạm biệt, Buster và tôi cũng làm thế. Nhưng hai bà mẹ của chúng tôi khăng khăng ôm từng người và làm ướt áo bọn tôi với nước mắt. “Chúng ta sẽ gặp nhau vào Lễ Tạ Ơn.” Cả hai người đều nức nở.
Chú Bubba leo vào xe tải còn dì Livvy cùng Buster ngồi trong chiếc xe ô tô thân dài. Mẹ, bố và tôi vây tay khỉ họ lái xuống Đường Cây Dương. Mẹ liên tục lau mắt.
“Grace à, họ chỉ cách mình có một giờ rưỡi lái xe thôi.” Bố nói. “Có phải em sẽ không bao giờ gặp em gái nữa đâu.”
“Em biết.” Mẹ nói. “Nhưng mọi chuyện sẽ không như xưa.” Tôi đồng tình. Và không hiểu sao, tôi có cảm giác bị bỏ lại phía sau.
Chương 10
LỄ HỘI HALLOWEEN
M
ột đợt rét bất ngờ lẻn tới khi ngày lễ Halloween đang đến gần. Bầu trời chuyển thành màu xanh dương rực rỡ, khiến quang cảnh màu cam càng trở nên nổi bật. Cùng với lưu huỳnh, mùi khói đốt lò trôi nổi trong không khí.
Bố mẹ không nói chuyện với nhau nhiều, bầu không khí trong nhà chúng tôi đặc như bùn vì sự im lặng này. Kể cả nếu bố mẹ có muốn thì cũng không có mấy cơ hội. Bố đang làm quá giờ rất nhiều và những buổi họp với Liên hiệp thì liên miên, tôi hiếm khi thấy bố ở nhà. Vì thế tôi ngạc nhiên khi vào một buổi sớm thứ bảy bố đánh thức tôi dậy rồi nói. “Hãy đi mua một quả bí ngô cho nhà mình nào Jack.”
Thế có nghĩa là tới trang trại Spencer bên ngoài Thị Trấn Đồng! Chúng tôi lái về hướng Tây qua hẻm núi sông Tohachee dọc theo con đường quanh co nguy hiểm xuyên qua vách đá rồi chạy gần bờ sông. Thỉnh thoảng những chiếc xe bán tải băng qua, gần như đẩy chúng tôi vào sát bức tường đá. Bố nói đây là con đường duy nhất chạy từ Đông sang Tây dãy núi vì thế xe tải phải đi đường này, không có cách nào khác. Khi xe tải không cản tầm nhìn, tôi ngắm dòng sông. Dòng nước vỡ thành thác ghềnh, sủi bọt qua các khối đá tảng khổng lồ rồi lao qua hẻm núi. Đường dốc phía góc xa được bao phủ bởi những cây cao mà lá cây đã chuyển thành các màu sắc khác nhau. Trông đường dốc như một chiếc bát
khổng lồ đựng món ngũ cốc Fruity Pebbles màu sắc rực rỡ, thậm chí những thác ghềnh trông như sữa chảy qua món ngũ cốc.
Tôi cứ quay đầu hết bên nọ sang bên kia vì không muốn bỏ lỡ điều gì. Nhạc đồng quê cổ điển đang phát ra từ máy ra-đi-ô, các bài của June và Anita Carter, Johnny Cash, Pasty Cline. Mẹ hát theo họ tất cả các bài. Bố với tay tới chỗ tay mẹ còn tôi dựa mình vào ghế, tận hưởng cảm giác nghỉ ngơi kể từ khi bầu không khí căng thẳng gia tăng trong nhà chúng tôi. Khi chúng tôi đến trang trại spencer, những chiếc lá màu vàng, đỏ và tím bay nhanh ngang qua bãi đỗ xe như những con thú nhỏ. Tôi đuổi theo chúng, nhặt lấy một nắm mẫu vật hoàn hảo và chỉ cho mẹ xem. Hồi nhỏ mẹ đã trải qua các mùa hè cùng ông bà ngoại trên Núi Beech thuộc Bắc Carolina, vì thế mẹ biết một ít về cây cối, cho dù vườn của mẹ chưa bao giờ phát triển tốt.
“Đây là lá phong.” Mẹ nói. “Con có thể nhận biết bằng cách xem chiếc lá vàng đến độ nào và những đầu nhọn của lá. Còn đây là lá sồi.” Chiếc lá có nhiều cạnh tròn hơn, đường cắt sâu vào. “Còn đây là lá hoàng dương.” Đây là cây mà đường nhà Buster được đặt tên theo. Trông chiếc lá như từ hành tinh khác và thật mẫm khi so sánh với các lá khác.
Mặc dù bài kiểm tra về cây của cô Post đã qua từ lâu, tôi vẫn thấy hứng thú muốn biết. Những chiếc lá trông tuyệt hơn nhiều so với bất cứ hình ảnh nào trong sách. “Con muốn giữ những lá này.” Tôi nói.
“Lá cây sẽ bị héo và hóa nâu nếu con để chúng trong không khí.” Mẹ nói.
Mẹ với tay về ghế sau rồi đưa cho tôi cuốn Kinh thánh của mình, cuốn sách vẫn ở trong xe từ buổi lễ nhà thờ chủ nhật trước. “Đây, ép lá vào giữa các trang sách. Như thế sẽ giữ chúng được lâu hơn.”
Tôi cẩn thận cầm các cuống lá khi đặt chiếc lá phong gọn gàng và thật phẳng trong phần Sáng Thế chiếc lá sồi trong phần Thánh Ca, và chiếc lá hoàng dương trong phần Khải Huyền. Giờ tôi chẳng thế nói được những chiếc lá này đến từ cái cây nào bởi rìa bãi đỗ xe đầy những cây. Phần lớn tôi không biết, nhưng cây phong nổi bật như một ngọn lửa rực rỡ trên nền những cây khác. Tôi ngừng thở vì cái cây đẹp quá đỗi.
“Coi này Jack, bí ngô kìa!” Bố nói, kéo tôi ra khỏi luồng suy nghĩ của mình. Bên cạnh khu vựa lớn nhà Spencer, bí ngô đủ mọi sắc độ cam nằm thành hàng theo ba nhóm, nhỏ, vừa và lớn.
Mẹ đặt bàn tay lên lưng tôi rồi lái tôi về phía những quả bí ngô nhỏ. “Chúng dễ thương nhỉ?”
“Grace, chừng nào anh còn có việc thì thằng bé có thể chọn bất cứ quả bí ngô chết tiệt nào mà nó muốn.” Bố nói. Chỉ nhanh như vậy và sự căng thẳng quay về, khiến bụng tôi xoắn lại.
Tôi chọn một quả bí ngô nằm khu vực giữa, ấy là quả cỡ vừa. Đứng xa một chút, trông quả bí gần như tròn hoàn hảo, với một chiếc cuống quăn trên đầu. Lại gần thì một phía của quả bí ngô có vẻ bẹt, nhưng nếu tôi xoay phần này về phía sau thì sẽ không ai để ý. Quả này sẽ được thôi.
Bố nói. “Bố thấy con nhìn quả lớn phía đằng kia Jack à. Hãy lấy quả ấy.”
Tôi liếc nhìn mẹ.
“Con đã chọn một quả bí ngô đẹp, Jack.” Mẹ nói và chòng chọc nhìn bố. “Mà mẹ cá quả bí này vẫn sẽ là quả bí ngô to nhất Thị Trấn Đồng mùa Halloween này.”
Tôi cố lờ đi cái nhìn trao đổi giữa họ, nhưng khuôn mặt đỏ bừng của
bố khó mà không trông thấy. Bố bê quả bí ngô cỡ vừa lên xe mất nhiều thời gian hơn cần thiết. Khi quay lại, gương mặt bố đã trở về với màu sắc bình thường nhưng đôi mắt bố lóng lánh. Những ngày này tâm trạng bố lên xuống như lật bánh kếp vậy.
Mùa Halloween này bao nhiêu bí ngô sẽ bớt đi ở Thị Trấn Đồng nhỉ? Tôi tự hỏi. Vì bao nhiêu người chắc là không thể mua được một quả. Mẹ mua một ít bí đao cùng rau củ tươi từ gian hàng sản phẩm. Bố mua một cốc xốp đầy lạc luộc. Chúng tôi ngồi trên mui xe nhai nhóp nhép những hạt lạc nóng. Nước mặn nhỏ xuống tay áo của tôi khi tôi mút hạt khỏi vỏ rồi ném vỏ xuống đất. Muối khiến các ngón tay tôi râm ran khi chúng đi từ những hạt lạc ấm vào làn không khí khô lạnh hết lần này đến lần khác. Chúng tôi không mất nhiều thời gian đã ăn hết cả cốc lạc nhưng tôi không đòi thêm.
Chuyến đi về nhà im lặng hơn chuyến đi tới trang trại. Bố mẹ không nắm tay mà mẹ cũng không hát cùng với tiếng nhạc từ đài ra-đi-ô. Họ nhìn thẳng phía trước trong khi tôi ngắm nhìn cây cối thưa dần khi chúng tôi về gần đến nhà, quay về Những Ngọn Đồi Đỏ của mình.
Ra khỏi hẻm núi, khi cách Thị Trấn Đồng chừng ba mươi phút về hướng Tây, chúng tôi thấy Eli Munroe trong chiếc xe Jeep mới sáng bóng cắt vào một con đường phía bên.
“Bố tự hỏi thằng nhóc đang đi đâu nhỉ?” Bố nói.
“Có khi anh ta cũng đi mua bí ngô.” Tôi đáp, mặc dù bí ngô không có vẻ là điều Eli trước giờ quan tâm.
Tôi nhìn lông mày bố nhăn lại qua gương chiếu hậu. “Đường đó không có bí ngô.”
Sau bữa tối, bố và tôi cắt bỏ phần đầu quả bí ngô rồi dùng mấy chiếc
thìa lớn làm sạch phần ruột. Chúng tôi dùng ngón tay lấy phần nhớp nháp kêu lóc bóc đế kéo hạt bí ra, mẹ nướng đám hạt trong lò. Tôi khắc một khuôn mặt đáng sợ vào bên phía đẹp đẽ của quả bí và bật cười khi bố cố bắt chước biểu cảm nghiêng một bên của nó. Tâm trạng dê chịu trước đó trở lại khi mẹ đặt một cây nến nhỏ vào trong rồi đế quả bí lên bậc thềm trước nhà.
“Quả là một chiếc đèn bí ngô* đẹp.” Bố nói rồi đặt bàn tay lên vai tôi. “Con thiết kế quả bí tuyệt lắm, con yêu.” Mẹ gật đầu với bố như thể nói: “Thấy chưa”
Tôi mỉm cười và cắn hạt bí nóng kêu lạo rạo, cho tới khi lợi tôi ê đi vì muối.
※
Piran và tôi đã quá lớn để mặc mấy bộ trang phục ngớ ngẩn dành cho lễ hội Halloween, chúng tôi cần phải trông thật chất. Vì thế chúng tôi mặc như các phi công lái máy bay chiến đấu trong bộ phim Top Gun. Tôi mượn chiếc áo khoác bomber* bằng da từ thế chiến II của ông ngoại. Piran mặc bộ áo liền quần. Chúng tôi đeo kính râm và khệnh khạng đi lại như hai con bò đực.
Mọi người chơi trò lừa hay lộc ở khu trung tâm, bởi cả hạt này quá dàn trải. Những người chủ tiệm đặt bàn ra trước cửa hàng của mình và phát kẹo bằng xô. Trẻ con tới từ khắp nơi. Cảnh sát trưởng Elder dẫn đoàn diễu hành xuống Phố Nước trong chiếc xe cảnh sát của mình, đèn xe sáng rực và ông kêu lớn “Chúc mừng Halloween” qua máy liên lạc nội bộ. Sở cứu hỏa đi ngay phía sau ông trong chiếc xe tải cứu hỏa lớn màu đỏ. Piran và tôi đi với đám đông những yêu tình, phù thủy và siêu anh hùng theo đằng
sau. Có bao nhiêu người trong đoàn diễu hành nên không còn mấy ai để tạo thành hàng dọc theo các phố.
Piran và tôi tham gia cuộc thi trang phục hóa trang, phần thưởng của nhóm tuổi chúng tôi thuộc về Bill Worley, cậu ấy là xác sống tuyệt nhất mà tôi từng thấy. Tôi đưa quả bí ngô của mình tham gia cuộc thi khắc bí ngô và giành giải nhì. Hóa ra cũng có một ít bí ngô trong thị trấn. Cả hai chúng tôi đều chơi trò đớp táo, tôi cởi áo khoác của ông ngoại ra khi chơi. Và dĩ nhiên là có kẹo.
Nhưng nếu tính cả trẻ con trong toàn hạt thì đám đông dường như vẫn ít hơn năm ngoái. Phần lớn người dân phát kẹo mút thương hiệu Bit-O Honey và Tootsie Rolls, mấy loại rẻ tiền. Bàn của Công ty, vốn lúc nào cũng có những món kẹo tuyệt nhất, còn chẳng có mặt ở đấy.
Vì thế khi ai đó la lên, “Này, Tiệm thuốc Dillbeck đang phát kẹo sô cô la thanh đấy!” thì cả Piran và tôi đi thẳng tới bàn của họ, mặc dù tôi là đứa phát cuồng vì sô cô la. Chúng tôi quay lại đấy ba lần trước khi bà Dillbeck xùy xùy bảo chúng tôi đi chỗ khác.
Chúng tôi quay lại chỗ nhà Quinn đặt bàn phía trước bưu điện. Họ chỉ cho kẹo SweeTart, nhưng vẫn có cả đám đông ở đấy. Hannah hóa trang thành một mụ phù thủy với tất chân dài có sọc cùng một chiếc mũ đen rủ xuống khiến cô ấy trông như ngôi sao điện ảnh. Kể cả có Emily ngồi trên hông thì chưa bao giờ phù thủy trông lại tuyệt đến thế.
“Piran ơi, con có thấy hai đứa sinh đôi không?” Bác gái Quinn hỏi. Chúng tôi quay người đúng lúc thấy cảnh Siêu nhân đang đuổi theo Người dơi qua đám đông cùng với lưỡi kiếm ánh sáng.
“Ồ, hai đứa kia rồi.” Bác Quin nói. “Được rồi.”
“Chào Hannah. Mọi chuyện sao rồi?” Tôi hỏi rồi vấp ngã vì chân
chiếc bàn gấp. Piran cười ha hả suýt làm viên kẹo trong miệng phì ra. Tôi phóng cho cậu ấy một cái nhìn ác quỷ khi tôi mau chóng trốn vào đám đông trước khi cô ấy có thể trả lời.
Piran bắt kịp tôi và vỗ lên lưng tôi, cậu ta vẫn đang cười. Nhưng nụ cười của cậu vụt tắt khi chúng tôi thấy mình đang đi sát phía sau Eli và nghe lỏm đám bạn bè của hắn nói về Hannah. Đấy không phải là điều nên nói về một cô gái dễ thương hoặc bất cứ cô gái nào, và chắc chắn không phải là về chị gái của Piran.
Tôi nhìn Piran. Hai môi cậu ấy mím chặt vào nhau, hai nắm tay siết lại. Cậu ấy sắp bước tới trước và nói gì đó thì Eli cắt lời mấy đứa kia rồi nói. “Đừng nói như thế về cô ấy. Vả lại, tao có tin tốt lành về vụ thu hoạch gần nhất của tụi mình đây.”
Tôi chộp lấy cánh tay Piran và thì thầm. “Vụ thu hoạch gì nhỉ?” Eli không phải là nông dân.
Will McCaffrey quay người nhìn chúng tôi với ánh mắt sát nhân. Rồi anh ta nhận ra tôi. “Jack này, hai đứa lui lại đi. Chuyện này không liên quan gì đến hai đứa.” Anh ta đặt bàn tay lên ngực tôi rồi đẩy nhẹ. “Vì an lành cho các cậu cả thôi.”
Piran và tôi cứng người, miệng chúng tôi há hốc. Anh ta vừa đe dọa bọn tôi à?
“Chuyện đó là sao nhỉ?” Piran hỏi, nhưng rồi cậu ấy bị sao nhãng bởi một xô đầy kẹo cao su bong bóng nằm trước Tiệm May Faysal. Sau vài vòng đi quanh thị trấn nữa, chúng tôi ngồi xuống cầu để sắp xếp đống đồ cướp được của mình.
“Tớ sẽ đổi ba cây kẹo mút để lấy thanh kẹo Snicker kia.” Tôi nói. “Đồng ý.” Piran đáp với một mồm đầy kẹo Bit-O-Honey. “Đổi cho
cậu một thanh Baby Ruth lấy món kẹo bơ cúng.” Cậu ấy chưa bao giờ thích các loại kẹo đắt tiền.
Đến cuối cây cầu tôi trông thấy Eli Munroe đang kéo Hannah vào chỗ bóng tối. Vừa cười khúc khích, họ vừa nhìn xung quanh với vẻ đáng ngờ. Không.
“Đó là… đó là Hannah.” Tôi trỏ. “Cùng với Eli.” Miệng tôi trở nên khô khốc.
“Ôi trời ơi. Bố sẽ không vui đâu nếu chị ấy bắt đầu hẹn hò với anh ta.”
“Sao cô ấy làm thế được?” Tôi chằm chằm nhìn. “Anh ta không có đủ đầu óc để nhổ nước miếng theo chiều gió ấy chứ.”
“Cậu là đối tượng tốt hơn nhiều.” Piran gật đầu. “Cho dù cậu hiền như lạc nên dễ bị chọc. Nói về lạc…”
Cậu ấy túm lấy một gói nhỏ đựng lạc phủ sô cô la từ chỗ cất kẹo của tôi. Tôi không phiền. Đột nhiên tôi không còn muốn viên kẹo nào nữa. Dĩ nhiên, có thể là tôi đã no rồi.
Tôi ôm bụng rên rỉ khi lảo đảo về nhà cùng với bố mẹ, đống kẹo thu được và quả bí ngô mang dải băng về nhì của mình.
“Mẹ đã bảo con là đừng ăn nhiều kẹo quá,” mẹ nói. “Con có thể để dành một ít để ăn sau đấy.”
Mắt tôi đảo tròn.
Bố nghiêng người qua, nhìn trộm vào trong túi tôi. “Con có thanh kẹo nào dư cho bố không?”
“Ray!” Mẹ đập mạnh vào người bố.
Khi trèo lên giường, bụng tôi vẫn đau như bị đầu độc. Trái tim tôi cũng
thế. Eli và Hannah. Hẳn là chuyện của họ không thể kéo dài.
Chương 11
ĐÌNH CÔNG
M
ấy đêm sau, bố lại về nhà muộn. Việc bố về muộn diễn ra thường xuyên kể từ đợt cắt giảm nhân sự.
“Chỉ còn lại ba trăm người bọn anh.” Bố phàn nàn trong khi ăn gà rán. “Mà họ yêu cầu bọn anh vẫn làm cùng mức như trước đợt cắt giảm. Em tin được không? Họ bắt bọn anh làm những việc bọn anh chưa được đào tạo. Hôm nay họ bắt anh lái máy xúc. Đã bao lâu rồi, anh chỉ nhớ đại khái cách lái. Như thế nguy hiểm lắm.” Bố lắc đầu. “Anh cần đội của mình.”
Trán mẹ nhăn lại vì lo lắng. Hai công nhân đã rời mỏ trên xe cấp cứu kể từ khi nhân sự bị cắt giảm. Bố không nói về chuyện đó. Cảm giác như mất chú Amon một lần nữa, rồi lần nữa, lần nữa…
Điện thoại reo, âm thanh chói tai khiến chúng tôi nhảy dựng. “A lô?” Một nụ cười lan tỏa trên gương mặt bố.
“Quỷ tha ma bắt, ừ, chúng tôi sẽ có mặt.”
Bố quay sang chúng tôi. “Cũng đến cái lúc chết tiệt này rồi. Liên hiệp đã ra quyết định. Họ đang triệu tập một cuộc họp tại trung tâm cộng đồng vào bảy giờ tối mai.”
“Jack à, con ở nhà một mình không sao chứ?” Mẹ hỏi.
“Grace, việc này cũng có ảnh hưởng tới con.” Bố trả lời. “Hơn nữa, nếu có một ngày thằng bé trở thành thợ mỏ, thằng bé nên bắt đầu làm bạn
với Liên hiệp được rồi.”
Bố quay lại chỗ điện thoại rồi gọi những người khác trong đội của bố. Tôi nhìn xuống đôi tay mình, chúng đột nhiên tê đi.
Tôi không ngủ được đêm đó. Trời mưa khiến cánh tay tôi đau nhức, tôi không thể ngừng nghĩ về điều bố nói. Tôi hình dung cả tá cách khác nhau để bảo bố rằng tôi không muốn làm thợ mỏ, nhưng cách nào cũng chỉ làm mọi việc trở nên tồi tệ.
※
Tối hôm sau, tôi đứng cùng bố mẹ, xung quanh là đám đông những thợ mỏ to lớn vạm võ. Trong chiếc quần bò xanh cùng áo sọc vuông vải thô, họ nhắc tôi nhớ tới những cây sồi già xương xẩu trong slide bài giảng của cô Post.
Những cây sồi đang tức điên, cơ bắp họ căng cứng và lửa cháy trong mắt họ.
Bất chấp cái lạnh bên ngoài, bên trong thật nóng ẩm. Hơi nước bốc lên từ người các thợ mỏ khi họ lắc lư nắm đấm và hét. “Họ không thể làm thế này với chúng ta!”
“Tôi cần đội của tôi quay lại.” Bố la lên. “Tôi không thể một mình làm công việc này! Như thế không an toàn!”
“Họ sở hữu cả thị trấn. Làm sao chúng ta đấu lại được?” Ông Bamers hỏi.
Ông Hill hét. “Chúng ta ĐÌNH CÔNG!”
Tiếng gầm đồng tình lan khắp phòng như tiếng sấm. Không có thảo luận gì hết. Đây là điều mọi người đã chờ đợi. Và điều ước của tôi đang
"""