"
Chút Ân Tình Mong Manh - Nguyễn Ngọc Ngạn full mobi pdf epub azw3 [Tập Truyện Ngắn]
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Chút Ân Tình Mong Manh - Nguyễn Ngọc Ngạn full mobi pdf epub azw3 [Tập Truyện Ngắn]
Ebooks
Nhóm Zalo
CHÚT ÂN TÌNH MONG MANH Tác giả: Nguyễn Ngọc Ngạn Xuất bản: Làng Văn
Tập truyện ngắn
Text: Internet
LTHỜI VẬN
úc Hằng đến nơi, những khuôn mặt quen thuộc đã tề tựu đông đủ. Sòng bạc chiều thứ sáu bao giờ cũng náo nhiệt hơn những ngày khác, bởi có thêm nhiều tay chơi cuối tuần, kèm theo dăm ba người chầu rìa đứng bu quanh tìm cảm giác mạnh. Bà Xuân, chủ nhà, đang châm thêm nước lạnh vào máy lọc cà phê, liếc nhìn đồng hồ trên tường và hỏi Hằng:
- Ở sở tới thẳng đây phải không? Cơm nước gì chưa? Ăn đĩa bánh cuốn cho chắc bụng đã, không rồi lại đói!
Bà biết Hằng mò đến giờ này tức là sẽ ngồi lại cả đêm. Nhưng chuyện ăn uống đối với Hằng không quan trọng. Nàng lách đám đông, tìm một khoảng trống, thò đầu vào, theo dõi ván bài đang căng thẳng. Chủ sòng nhắc lại lời mời một lần nữa, Hằng mới hững hờ đáp:
- Ăn tiền sướng hơn! Bánh cuốn làm sao ngon bằng tiền! Bà Xuân tiến lại sau lưng Hằng, làm ra vẻ ân cần:
- Đừng có nóng gỡ! Ai chạy mất mà lo! Ra ăn bánh cuốn đi đã! Hằng không nói gì nữa. Nàng đã dồn hết tâm trí vào những quân bài đang bày ra trước mặt. Chung quanh chiếc bàn tròn phủ một lớp mền mỏng, sáu con bạc gồm cả đàn ông lẫn đàn bà, đầu cúi thấp, mắt mở trừng trừng, tập trung mọi nỗ lực vào cuộc ăn thua qua canh xì phé đang ở vào hồi gay cấn nhất. Khói thuốc bốc lên dày đặc, quyện quanh cái bóng đèn 300 watts sáng rực, treo lơ lửng trên đầu họ. Rồi một bà bỏ cuộc, cười cười đếm lại vốn liếng. Bà này cũng cỡ tuổi Hằng, mấy năm trước còn nghiêm trang gần như lam lũ, gần đây tự nhiên đổi tính đổi nết, lúc nào cũng yêu đời ra mặt, nói năng trẻ trung và lắm khi táo bạo. Hỏi ra mới biết bà vừa bỏ chồng, còn đang tận hưởng cái thú độc thân.
Bên cạnh bà, gã đàn ông ném thêm tiền vào, run run rút quân bài chót, khum bàn tay, vẹo mồm nặn từ từ cho sướng mắt. Có người trầm ngâm xoa cằm tính toán. Có kẻ suy nghĩ trùng hẳn lớp da trên trán. Không khí cực kỳ nghiêm trọng khiến kẻ trong người ngoài đều tự dưng im lặng. Nghiêm trọng ở chỗ tổng số tiền quăng vào nọc đã đắp thành một đống khá cao, trong đó thấp thoáng nhiều tờ giấy trăm. Khá
lâu, đám người chầu rìa mới sốt ruột ghé tai nhau thì thầm bàn tán. Họ là những kẻ đang nôn nóng chờ nhập cuộc hoặc đã cháy túi rút khỏi vòng chiến, nhưng còn nuối tiếc nán lại quan sát. Hằng ngẩng lên liếc qua một lượt, nhận ra hầu hết những khuôn mặt mà nàng đã từng có dịp đụng độ nhiều lần. Mắt nàng dừng lại ở Nghĩa và nén tiếng thở dài vì thấy xấp tiền trước mặt Nghĩa trội vượt hẳn cả năm người kia. Nghĩa vẫn hên như tuần trước! Gã ngồi ưỡn người ra thành ghế, dáng điệu thoải mái của một kẻ tự tin. Bàn tay phải gã cầm cây bàn nặn, khẽ giơ lên chào Hằng. Hằng gật đầu đáp lại và phá tan không khí yên lặng bằng một câu chúc miễn cưỡng dành cho Nghĩa:
- Lúc nào láng cũng trùm làng! Tài thật!
Nghĩa nhếch mép cười thoả mãn:
- Đen tình đỏ bạc chị ơi!
Câu nói quen miệng người ta thường nghe ở các sòng bài, chẳng mang một ý nghĩa nào cả, nhưng chợt làm Hằng để ý đến Nghĩa. Chưa bao giờ Hằng mảy may bận tâm đến gã, mặc dầu hầu như lần nào đến đây cũng thấy gã có mặt. Gã thua Hằng ít lắm cũng năm bảy tuổi. Lấy vợ lần nào hay chưa thì Hằng không biết, chỉ chắc chắn một điều là hiện Nghĩa sống một mình. Ở sòng bài, Nghĩa có phong độ của một tay chơi hào sảng, không ăn non, không chạy làng, cho nên từ chủ chứa đến con bạc đều có thiện cảm. Xì phé đãi ngộ Nghĩa thường xuyên, từ ăn tới huề, ít khi thua. Có dạo người ta ngờ gã đánh bịp, định tẩy chay, nhưng gia chủ hết lời biện hộ vì biết rõ Nghĩa sòng phẳng. Vả lại, bài ni-lông đặt trong “con cóc” bằng gỗ thông, làm sao đánh dấu được mà bịp! Riêng Hằng thì rõ ràng “kỵ vía” Nghĩa rất nặng, bởi đấu trí với gã lần nào nàng cũng thua đậm. Mà càng thua, Hằng càng tự ái, muốn đụng với Nghĩa.
Thứ sáu tuần trước, vừa hết giờ làm việc, Hằng từ sở điện thoại về báo cho chồng biết nàng ở lại làm overtime đến sáng. Kỳ, chồng Hằng, vốn thật thà, ít khi nghi ngờ thiện chí của vợ, lại chưa hề biết vợ mình say mê cờ bạc, nên nghe vợ bảo phải làm cả đêm, anh rất mủi lòng tội nghiệp. Nhưng anh không cản vợ bất cứ điều gì. Hằng cũng biết tính chồng dễ bị gạt nên cứ lâu lâu lại bầy trò làm overtime, rồi lái xe thẳng lại đây, chỉ kịp gặm khúc bánh mì trước khi nhập trận.
Tuần rồi Hằng không may, mới hai giờ sáng, vốn liếng đã cạn sạch. Nàng đứng dậy, chạy lại góc phòng. Ở đó, trên chiếc sofa sờn nát, luôn luôn có ông thần tài ngồi ngủ gà ngủ gật để chờ thiên hạ gõ cửa xin tăng viện. Ông không đánh bạc, không biết trong cỗ bài tây quen thuộc kia, quân nào lớn hơn quân nào! Nhưng ông hiện diện thường trực tại đây để kịp thời mở lòng từ bi cứu vớt những tay chơi gặp vận đen cháy túi giữa lúc cuộc chiến chưa tàn.
Ít ai biết tên thật ông là gì. Ngày mới qua, ông có mở tiệm sửa đồng hồ ở San Francisco lấy tên là Dạ Quang và từ đó người ta cứ gọi là ông Dạ Quang cho tiện. Ông tự cho phép mình về hưu đã mười năm nay, ở tuổi trên dưới bốn mươi, chuyển sang lãnh welfare một thời gian rồi hành nghề cho vay kiếm lời. Từ đấy ông lại có thêm cái tên nữa là “Quỹ
tiền tệ quốc tế”, viện trợ cho những người lâm vào bước đường cùng mà không thể vay mượn được ở ngân hàng. Lúc kinh tế thịnh vượng, thương mại trong cộng đồng thi nhau đua nở, ông là nguồn tài trợ giúp nhiều người tạo dựng cơ sở. Khi ngành địa ốc phát triển, thiên hạ ùn ùn đầu tư vào nhà đất, cũng chính ông đã giúp lắm người tay trắng trở nên giàu có. Dĩ nhiên ông cũng có phần, bởi đôi bên đều có lợi. Thời vàng son ấy kéo dài được hơn hai năm thì mọi sinh hoạt đều ngưng trệ. Ông chia sẻ sự thăng trầm của thị trường, chịu đựng những thất thoát như bao đồng hương khác trong thành phố. Thân chủ của ông trong giới kinh doanh cứ thưa dần rồi mất hẳn. Ông lui về chờ thời, ẩn dật quanh các sòng bài và xiết lại nguyên tắc cho vay với những điều kiện khe khắt hơn. Bần cùng sinh đạo tặc! Nhiều người bản chất không xấu mà gặp lúc túng cùng cũng đâm ra lừa đảo. Nghề cho vay, không lựa chọn đúng đối tượng thì chẳng mấy chốc mà khánh tận.
Có người trách ông cho vay tính tiền lời cắt cổ. Nhưng đó là nghề của ông, không thể làm khác được. Vả lại, người ta tìm đến ông, chứ ông có ép buộc ai đâu! Chính ông cũng phải chấp nhận rất nhiều bất trắc, bởi cho vay kiểu của ông vốn chỉ là một thứ khế ước bằng miệng, một thứ tín dụng không đem nhau ra toà được mà chỉ dựa trên lòng tin giữa những người quen biết nhau. Ông cũng đã mất nhiều, đã dằm mưa dãi nắng, lăn lội đòi tiền nhiều khi rất dai dẳng mà vẫn bị quịt. Cho nên việc ông tính lãi suất cao cũng chỉ là để bù qua đắp lại mà thôi. Huống chi, không có ông thì dân cờ bạc khổ sở lắm, bởi chẳng lẽ giữa
đêm khuya còn đang nóng máu mà lại phải ôm hận bỏ về! Ông đưa cho Hằng ba ngàn làm láng mới. Hằng kỳ kèo mượn thêm, nhưng ông từ chối thẳng vì món nợ cũ nàng chưa thanh toán. Gặp lúc vận đen, ba ngàn chẳng thấm vào đâu, không đụng độ được ván bài nào cho ra hồn, chỉ đem trải đường cho thiên hạ rìa dần và khi trời chưa sáng rõ, Hằng đã hết sạch.
Kinh nghiệm người đời thường bảo, khi thua bạc, đầu óc người ta trở nên cực kỳ sáng suốt, nghĩ hết mọi cách để xoay tiền gỡ gạc. Hằng khẩn khoản mượn thêm ông Dạ Quang, ông lạnh lùng lắc đầu, nhắm mắt ngủ. Đang cơn cay cú, Hằng chạy sang phòng bên cạnh, đánh thức bà chủ nhà dậy, nằn nì giật nóng độ một hai ngàn, nhưng không có kết quả. Hằng buồn rầu trở lại sòng bài, bưng tách cà phê, kéo ghế ngồi cạnh Nghĩa, nhìn thiên hạ sát phạt cho đỡ ghiền. Nàng nghĩ đến mấy cái thẻ tín dụng đã kín mít, không thể rút tiền được nữa. Hàng chục món nợ lặt vặt trong sở và người thân. Đầu óc Hằng choáng váng, mắt mờ hẳn đi, vừa vì thiếu ngủ vừa vì lo lắng.
Chung quanh Hằng, những bàn tay vẫn thoăn thoắt rút bài. Từng nắm tiền vẫn tiếp tục ném ra và lâu lâu vài giọng cười đắc thắng vang lên như những mũi tên đâm vào tim nàng. Hằng nhìn dáng điệu khoan thai của Nghĩa đang nghiêng người đốt điếu thuốc, nheo mắt tránh khói và đăm chiêu suy tính trước khi quyết định lật con bài tẩy của đối phương. Nàng thèm thuồng nhìn đống bạc trước mặt Nghĩa, tiếc rằng mình không đủ thân để hỏi mượn. Mà dù có thân, chuyện vay mượn ngay tại sòng bài giữa những người đang lâm chiến là điều nên tránh né, vì người ta sợ xui. Dân chơi lắm kẻ tự đặt ra những qui luật kiêng cữ rất lạ. Trước ngày đi đánh bài, tuyệt đối không ăn thịt vịt, không cho ai mượn tiền, xuất hành chỉ sợ gặp gái! Toàn những điều vô lý nhưng nó thuộc về niềm tin nên không thể giải thích. Nghĩa có lẽ không dị đoan như vậy, vì rõ ràng Hằng đã từng thấy gã đưa tiền cho người khác giữa lúc vận đang đỏ mà vẫn chẳng sao! Nghĩ vậy, nàng đưa ly cà phê của mình cho Nghĩa và động viên tinh thần:
- Uống một hớp cho tỉnh! Ván bài lớn, phải tính cho kỹ! Nghĩa gật đầu cảm ơn, tươi cười đỡ lấy ly cà phê, nhấp một ngụm nhỏ rồi thở mạnh và quăng xấp tiền dầy cộm ra giữa sòng. Bàn tay gã run run rút con tẩy của đối thủ, hồi hộp đưa lên coi. Nhưng chưa kịp
xem kỹ thì kẻ tháu cáy đã não nuột kêu lên nho nhỏ:
- Thôi. Ăn đi! Đụng nhà giàu không nổi!
Nghĩa dụi điếu thuốc, chậm rãi quơ đống tiền về, nhã nhặn phân bua:
- Tại đang hên nên bắt liều đấy thôi! Mười phần thấy thua đến chín! Đám đông chung quanh đều lắc đầu xuýt xoa và tỏ vẻ đồng ý với Nghĩa. Một người cay đắng nhận xét:
- Bắt ván ấy thì ẩu thật! Đúng là nhà giàu, không biết tiếc tiền! Hằng góp ý đưa đẩy:
- Cao chứ không liều đâu! Anh Nghĩa tính bài kỹ lắm. Cứ tưởng anh ấy bắt đại là lầm to!
Nghĩa vừa xếp tiền vừa quay sang nhìn Hằng:
- Hên đấy chị ạ! Nhờ ly cà phê của chị tôi mới lên tinh thần. Nói thật, gặp chị thì chắc chắn là tôi bỏ, không dám bắt! Nhưng ông Châu nổi tiếng là hay tháu cáy nên tôi mới lật tẩy!
Tiếng ồn ào làm chủ nhà thức giấc đi tiểu. Thấy Hằng ngồi chơi xơi nước, bà tỏ vẻ phân ưu rồi giục Hằng nằm ngủ một lúc cho khoẻ. Nhưng Hằng biết mình không thể nhắm mắt nổi. Chỉ còn mấy tiếng đồng hồ nữa, nàng sẽ lái xe về, coi như hoàn tất một đêm làm thêm giờ tại hãng điện tử.
Một lát sau, Nghĩa bỏ bài đứng dậy lại bàn cà phê ăn miếng bánh ngọt rồi vào phòng tắm rửa mặt. Hằng vội vã bước theo, đợi gã ở cửa, tháo sẵn chiếc nhẫn hột xoàn chìa ra trước mặt Nghĩa và ấp úng đề nghị:
- Anh Nghĩa! Cái nhẫn này năm ngoái nhà tôi mua tặng tôi nhân dịp kỷ niệm mười năm ngày cưới. Giá sáu ngàn ba, tôi còn giữ receipt. Anh cầm đỡ cho tôi năm ngàn, tuần sau tôi chuộc lại!
Dĩ nhiên Nghĩa không lạ gì với cảnh cầm bán tại sòng bạc, bởi chính gã cũng đã từng lâm vào tình trạng ấy. Gã cũng không thắc mắc về câu chuyện Hằng mới kỷ niệm ngày cưới có mười năm mà đứa con gái, nghe nói, đã mười sáu tuổi! Ngôn ngữ sòng bài quanh co bất nhất như vậy là thường. Ánh sáng trắng xanh của mấy bóng đèn néon từ trong phòng tắm hắt ra, soi rõ khuôn măt lấm tấm mồ hôi, nhạt nhoè son
phấn của Hằng, nhất là đôi mắt mở to khẩn khoản ngước lên nhìn Nghĩa làm gã thấy tội nghiệp, khó lòng từ chối. Tuy nhiên, con số năm ngàn đồng Hằng vừa nêu ra là một món tiền quá lớn, gã chưa thể gật đầu ngay được, cầm đồ ở sòng bài bao giờ cũng nên ép giá xuống mức rẻ mạt nhất, bởi kẻ thua bạc như người chết đuối, đưa ra bao nhiêu cũng phải nhận. Hằng tha thiết nói thêm:
- Nhẫn cưới, tôi không thể bỏ được! Anh yên chí, chỉ vài ngày tôi phải lấy về. Rủi ông xã tôi hỏi thì chết!
Nghĩa nhìn Hằng ái ngại. Dáng người nàng nhỏ nhắn, thấp hơn Nghĩa khoảng nửa gang tay, đứng nghiêng nghiêng tựa lưng vào tường làm nàng càng lùn xuống. Cái áo thun màu mỡ gà, lúc bước vào sòng bài còn nhét gọn ghẽ trong quần, bây giờ xổ tung ra, Hằng không bận tâm đến nữa. Tâm trạng chán chường của kẻ thua bạc, còn để ý gì đến mọi thứ chung quanh! Nghĩa nhắc nhỏ:
- Sao chị không đưa nhẫn cho ông Dạ Quang? Ông ấy cầm cho chị! Hằng khổ sở không biết trả lời thế nào. Nàng đã vay “Quỹ tiền tệ quốc tế” đến mấy lần, chưa trả được, làm sao dám mở mồm hỏi thêm! Huống chi, giao nhẫn cho ông Dạ Quang, dù ông có bằng lòng, Hằng cũng sẽ chỉ nhận được món tiền hết sức khiêm tốn, không đủ cầm cự một láng. Người sành sỏi như ông Dạ Quang, khi định giá chiếc nhẫn hột xoài tại sòng bài, thường làm chủ nhân lặng người đến phát sốt vì không thể ngờ ông dám đưa ra con số táo bạo như vậy. Hằng thở dài tuyệt vọng toan quay đi thì Nghĩa phân trần:
- Thú thật với chị, tôi còn đến ba cái nhẫn như thế này ở nhà. Cầm của người ta đến nửa năm rồi mà chẳng ai chịu chuộc. Giá tôi có đào thì giờ này con đào của tôi chắc đã đeo đến ba cái nhẫn!
Gã nhìn Hằng cười hiền lành. Hằng cũng gượng cười theo và níu kéo:
- Người ta khác, tôi khác! Tôi sẽ chuộc, không thể bỏ cái nhẫn này được...
Vừa lúc ấy từ sòng bài có tiếng gọi:
- Nghĩa đâu rồi? Bộ tính đi ngủ hay sao đây?
Nhìn ánh mắt van nài của Hằng, Nghĩa mủi lòng đỡ lấy chiếc nhẫn nhét vào túi rồi móc bóp trao tiền cho nàng. Tuy vậy gã cũng thành
thạo rút xuống một ngàn và bảo Hằng:
- Chị cầm đỡ bốn ngàn. Càng dễ chuộc!
Hai người trở lại chỗ cũ và sòng bài sống động hẳn lên vì có thêm tay thứ năm là Hằng.
Trời chẳng chiều lòng người! Đến tám giờ sáng thì vốn liếng trước mặt Hằng chỉ còn khoảng vài trăm. Tiền của Nghĩa rốt cuộc lại quay về với Nghĩa. Chủ nhà đang chuẩn bị thức ăn sáng, nhìn đồng hồ trên tường, hai ba lần giục Hằng ra về vì đã hết giờ overtime!
Vốn sống bằng nghề chứa bạc kinh niên, bà rất sợ gặp chuyện phiền toái mỗi khi thân nhân của con bạc đến tìm và to tiếng chửi bới. Năm ngoái đã có người đàn bà dắt theo đứa con trai, kéo đến nổi trận lôi đình trước cửa sòng bài của bà. Bà mẹ định châm lửa đốt. Đứa con nằng nặc đòi gọi cảnh sát đến dẹp. Bà Xuân nhún nhường dàn xếp mãi mới yên. Về sau bà khám phá ra nguyên nhân của chuyện này là một thân chủ của bà, có đứa con bị xe hơi cán gẫy bàn chân. Thưa kiện lôi thôi đến hai năm mới được bồi thường hơn sáu chục ngàn. Món tiền cay đắng ấy, ông bố ôm lại đây, nướng gần hết vào sòng bài! Bà thông cảm Hằng gặp xui xẻo trọn đêm, nhưng bà biết đã đến giờ Hằng phải về nhà vì chồng con đang đợi. Dù Hằng có còn tiền, bà cũng bắt nàng đứng dậy, huống chi vốn liếng của nàng đã gần cạn sạch.
Hằng miễn cưỡng đứng lên, lạng quạng bước ra cửa. Mặt trời vừa lên, lấp ló sau hàng cây bên kia đường, chiếu ánh nắng chan hoà trên con phố xe cộ qua lại còn rất thưa thớt, cảnh vật hiện ra trước mặt Hằng chỉ toàn một màu vàng úa thê lương. Nàng chui vào xe, hình dung những ngày đen tối sắp tới.
Một tuần trôi qua. Hôm nay Hằng lại gom góp được mấy ngàn, toàn những thứ tiền vay mượn sinh tử mà nàng phải vận dụng tài nói dối nhuần nhuyễn lắm mới có được. Lúc đầu, Hằng dứt khoát dự tính sẽ chỉ đến gặp Nghĩa, chuộc cái nhẫn rồi về ngay. Nhưng sáng nay ngồi trong hãng điện tử, Hằng thấy bồn chồn khó chịu lắm. Nó bắt nàng lại phải thử thời vận. Dân cờ bạc bao giờ chả vậy. Khi thua cháy túi thì cực kỳ ân hận, tư dằn vặt mình vì những ván bài đánh thấp, thề thốt từ nay sẽ bỏ hẳn. Nhưng hễ có tiền trong túi thì đâu lại vào đấy, dứt ra không nổi, bởi người ta ai cũng có quyền hy vọng. Biết đâu Hằng chẳng thắng lớn đêm nay, không những lấy lại được nhẫn mà còn ôm về
được số tiền lớn, bù đắp những lần thảm bại trước đây. Hơn thế nữa, cuối tuần này Kỳ sẽ vắng nhà trọn weekend, Hằng có thể thản nhiên nhập sòng mà không cần phải nói dối là làm overtime tại sở.
Kỳ lái xe đi xa đến mấy trăm dặm, dự một lớp thiền tổ chức qui mô trong khu rừng vốn dành cho các buổi họp mặt hướng đạo. Cứ theo chương trình thì chiều chúa nhật Kỳ mới trở về.
Anh say mê ngồi thiền từ mấy năm nay, tính nết trở nên khoan hoà vì dường như chẳng còn thiết gì đến chuyện trần thế nữa. Chung quanh Kỳ, người ta đổ xô vào những lớp thiền như một phong trào thời thượng. Có người học thiền vì cho đó là phương thức thoát tục. Có người ngồi thiền vì lý do sức khoẻ, tin tưởng đó là môn thần dược cho một căn bệnh hiểm nghèo mà Tây y bó tay. Người khác lại tìm được ở thiền sự quân bình cho tâm hồn trong một xã hội đầy dao động và mất thăng bằng. Rồi cũng lắm người hiểu thiền như một con đường giải thoát, một cánh cửa của triết lý nhà Phật. Nói chung, động cơ nào cũng tốt cả, miễn là không quá trớn để trở thành lệch lạc. Thiếu gì bà mê thiền quá đến độ quên cả bổn phận thường nhật với gia đình. Rồi lâu lâu lại cũng có bà nhờ thiền mà diệt hẳn lục dục, mặc nhiên cho chồng đi lấy vợ bé, làm đổ vỡ cái gia đình êm ấm sẵn có! Thành ra, thiền tự nó mang bản chất tốt mà đắm say quá thì có khi lại đưa đến tiêu cực.
Dĩ nhiên việc ngồi thiền không đơn giản. Bao nhiêu ràng buộc của cuộc sống đời thường, những hỉ nộ ái ố rất tự nhiên của con người, lúc nào cũng sẵn sàng trì kéo người ta, khiến việc tập trung tư tưởng chẳng dễ gì thực hiện được, dù chỉ trong khoảng thời gian một, hai tiếng đồng hồ. Ba năm trước, chồng Hằng theo bạn bè đến dự một buổi nói chuyện về thiền nhân có một thiền sư từ xa đến thuyết giảng. Anh thấy hay hay, tò mò mua sách về đọc và càng ngày càng bị mê hoặc. Đầu giường anh bây giờ chất cả đống sách, nội dung dính dáng xa gần đến thiền học, từ cả ba phái anh biết: sách của nhóm ông Tám, của thầy Nhất Hạnh và ni sư Thanh Hải. Kỳ nghiền ngẫm và tự tổng hợp để cố tìm ra một lối đi riêng cho mình. Anh cũng vùi đầu vào những tác phẩm huyền môn của Đông phương, tin tưởng có một thế giới siêu nhân sống ngay bên cạnh con người phàm tục.
Điều đáng nói là không phải Kỳ chỉ chủ trương ngồi thiền như những người khác. Tham vọng của anh lớn hơn. Anh muốn gom góp tất cả tinh hoa của các phái thiền mà anh đang nghiên cứu rồi từ đó, khai mở một phương thức mới để cứu đời. Kỳ cho rằng: ngồi thiền không phải là một thái độ ích kỷ mà chính là công tác hoàn thiện xã hội, bắt đầu từ nền tảng hoàn thiện từ mỗi cá nhân, mỗi con người.
Ngày Kỳ bước chân vào thế giới thiền cũng chính là lúc Hằng tìm ra cái thú cờ bạc một cách rất tình cờ.
Khởi đầu từ một bữa tiệc sinh nhật của bằng hữu, Hằng đến dự, rồi đứng xem mấy bà rủ nhau rút xì còm ăn thua một hai đồng. Nể bạn, Hằng cũng ngồi vào học chơi dù trước đó nàng chưa đếm nổi nút bài cào. Như một thông lệ, cờ bạc thường đãi người mới. Hằng thắng liên tiếp cả buổi chiều, giúp nàng phấn khởi đưa ra kết luận là đánh xì dễ
ăn quá! Và vì dễ ăn, nàng thấy thích thú, hễ có ai rủ, lăn vào chơi ngay. Chỉ một thời gian sau, những canh xì còm bỏ láng một hai chục để tiêu khiển không còn hấp dẫn Hằng được nữa. Như người nghiện ma túy, liều lượng chỉ có thể tăng lên chứ không bao giờ đứng một chỗ hay suy giảm, Hằng càng ngàv càng đánh lớn. Và đến lúc ấy, nàng mới bắt đầu thua đậm, mới thấm thía những thăng trầm của trò chơi đen đỏ. Càng thua càng muốn gỡ. Lương bổng hai vợ chồng đều thuộc loại cố định, hoang đầu này thì hụt đầu kia. Lỡ một canh bài gặp vận xui, bay mất năm ba ngàn, không biết trông vào đâu để bù đắp lại. Chẳng bao lâu Hằng trở thành con nợ chuyên nghiệp, vay mượn bất cứ chỗ nào có thể bám được. Từ một người vợ bình thường chăm lo đời sống gia đình, Hằng dần dà lơ là bổn phận, quanh co cả với chồng con. Thậm chí nghe tiếng phone reo, nàng giật mình không dám nhấc lên vì chủ nợ nhiều lần gọi đến, nặng lời trách móc.
Cũng may, chồng Hằng càng ngày càng mê thiền học, giống như nhiều người đắm mình trong cái thú xem phim tập Hồng kông. Hằng mừng lắm. Nàng chẳng biết thiền là gì, nhưng thấy rõ việc Kỳ mê thiền là một cái lợi cho nàng mà nàng cần phải liên tục khuyến khích. Một trong những cái lợi ấy là tính nết Kỳ dễ chịu hẳn đi và ít có thì giờ để ý đến vợ con. Ngày ngày đi làm về, anh ăn bữa tối rất đơn giản rồi ngồi đọc sách. Đúng tám giờ rưỡi anh vào phòng riêng, đóng cửa ngồi thiền cho đến khi đi ngủ. Hai ngày cuối tuần kể như anh dành trọn cho thiền,
hoặc tại thiền đường trong thành phố hoặc tham dự các khoá thiền xa xôi như hôm nay. Trước mặt vợ con, dần dà anh biến thành một người xa lạ, sống thong dong bên cạnh gia đình, với một thời khoá biểu sinh hoạt không liên quan gì đến mẹ con Hằng. Nhưng Hằng lại muốn như vậy bởi nàng cần thoả mãn cái sở thích lớn lao của mình là cờ bạc.
Chiều nay Hằng ở sở về thì Kỳ đã đi khỏi. Hằng hồi hộp lắm, không kịp tắm rửa thay quần áo, chạy vội lên lầu, mở tủ lấy xấp tiền nhét vào bóp rồi mắt trước mắt sau chạy xuống xe. Đứa con gái ngạc nhiên hỏi: - Tối nay mẹ lại làm overtime?
Hằng ngượng ngập đáp:
- Không. Nhưng mẹ đi party bên... bác Thành. Con ăn cơm đi. Chừng mười giờ mẹ về. Con nhớ khoá cửa lại.
Hằng cầm xâu chìa khoá bước nhanh ra cửa. Kim ái ngại trông theo và hỏi:
- Party mà mẹ mặc như vậy sao?
Hằng cười, ấp úng:
- Toàn người quen thân cả, mặc sao chả được! Bác ấy tổ chức hát karaoke chứ có party gì đâu! Mẹ cũng hát vài bản cho vui! Nàng chui vào xe, nổ máy lao vút đi. Hằng nghĩ đến Nghĩa, đến cái nhẫn Nghĩa đang cầm và tự dặn mình lát nữa phải cẩn thận hơn khi lâm chiến với Nghĩa.
Chủ nhà tiến lại sau lưng Hằng, đưa mắt nhìn khắp lượt những khuôn mặt chung quanh và dè dặt đề nghị:
- Dư chân quá, sao không làm một bàn nữa?
Điệp khúc ấy, bà nhắc lại lần này là lần thứ ba nhưng đám chầu rìa dường như chẳng ai nhúc nhích hưởng ứng. Dĩ nhiên họ biết bà muốn gây thêm một sòng để lấy tiền xâu, nhưng họ lờ đi vì đống tiền cao nghệu trước mắt Nghĩa đang lôi cuốn họ. Họ kiên nhẫn đứng đợi, chờ kẻ nào bị loại khỏi vòng chiến thì nhảy vào thế chỗ, hy vọng câu con cá lớn chứ bắt tép riu làm gì!
Mãi đến hơn 9 giờ, Hằng mới nhập cuộc. Hai người vừa cạn láng, nhìn quanh, thấy không cầu cứu ai được nữa, đành uể oải xô ghế đứng dậy ra về. Chủ nhà tiễn ra tận cửa, nói vài lời phân ưu và nhắc họ sáng
mai trở lại. Dĩ nhiên bà không cần nhắc. Nếu họ xoay được tiền, thì có thể chỉ lát nữa sẽ có mặt. Hằng ngồi đối diện Nghĩa, móc ra hai ngàn rồi thò tay rút quân bài tẩy. Một người bảo Hằng:
- Bà bỏ láng ít quá, chỉ nội đi tiền đường cũng hết rồi! Nghĩa nó lấy thịt đè người, chỉ ho một tiếng cũng đủ chạy!
Hằng ngước lên nhìn Nghĩa, bắt gặp nụ cười và dáng điệu khinh bạc thường lệ của Nghĩa. Nàng lưỡng lự một chút rồi lôi hết tiền trong bóp ném lên bàn, tỏ thái độ bất cần:
- Đau lâu tốn thuốc!
Nghĩa gật đầu nhìn Hằng, mỉm cười nói “good luck "trong lúc đôi tay thoăn thoắt xào bài rồi đẩy lại trước mặt Hằng:
- Mời chị.
Hằng ngắt cỗ bài làm hai, xếp chồng lên nhau rồi đặt gọn trong cái hộp gỗ. Lao vào trò chơi đỏ đen này đã đến mấy năm mà mỗi lần nhập trận, Hằng vẫn cảm thấy hồi hộp khác thường. Cái cảm giác ngây ngất khó tả lắm, có lẽ còn kích thích hơn cả những buổi hẹn hò vụng trộm với tình nhân nữa.
Liên tiếp mấy tiếng đồng hồ, Hằng quơ về khá nhiều tiền. Có lẽ đã đủ để chuộc nhẫn và thanh toán vài món nợ lặt vặt. Nhưng dân chơi không ai nghỉ ngang như vậy. Gặp vận đỏ phải biết tận dụng khai thác. Hằng nhìn đồng hồ, thấy đã gần nửa đêm, vội vào bếp phone về cho Kim:
- Con cứ đi ngủ trước đi! Lát nữa mẹ về.
- Mấy giờ mẹ về? Con cài then trong, làm sao mẹ mở được? Hằng lưỡng lự không biết trả lời thế nào thì con bé gãi đúng chỗ ngứa:
- Hay là mẹ ngủ bên bác Thành đi, sáng mai hãy về. Gần mười hai giờ rồi, con buồn ngủ lắm, không chờ mẹ được nữa!
Hằng thở phào nhẹ nhõm:
- Ừ, hay con đi ngủ đi! Nhưng mà ở nhà một mình, con có sợ không? Nhớ cài then cửa trước cửa sau cho cẩn thận. Mẹ ngủ bên này cũng được. Tại có việc cần, phải bàn với bác Thanh!
Hằng cúp phone, trở lại đám bạc. Bên kia, Kim cũng gác máy, hí hửng bảo thằng kép đang ngồi bên cạnh:
- Đêm nay chỉ có mình em ở nhà! Anh ngủ lại đây luôn với em nhé. Về làm gì!
Thằng bạn cùng lớp mở to mắt nhìn ra cửa, nửa mừng nửa sợ: - Rủi má em về bất tử thì sao?
Kim gắt nhẹ:
- Mẹ em nói ngủ ở nhà người bạn, nhưng em biết bà đang đánh bài ở nhà bà Xuân. Mẹ em mê cờ bạc lắm, sức mấy mà bỏ về ngang! Mà dù có về cũng đâu vô nhà được! Em không mở cửa thì vô lối nào? Nhưng mà anh lo gì! Rủi mẹ em về bất tử thì anh lại leo cửa sổ ra vườn sau như mấy lần trước chứ có khó gì đâu!
Thằng kép cởi áo jacket máng lên thành ghế rồi lại hỏi: - Còn ba em? Có khi nào anh đang nằm với em mà ông ấy bất thần gõ cửa không?
- Bố em lúc này lo ngồi thiền, quên hết chuyện đời rồi. Dù có bắt gặp quả tang anh nằm với em, bố em cũng không nói gì đâu! Để chứng minh, Kim kể lại cho người yêu nghe chuyện cô trốn học bị nhà trường gọi đến nhà báo cho cha mẹ biết. Hằng nổi giận, mắng con mấy ngày liền. Nhưng Kỳ thì chỉ nhẹ nhàng buông cuốn sách, từ tốn bảo Kim: “Bố đề nghị từ nay con không nên trốn học nữa!”. Rồi ông lại cúi xuống, tiếp tục xem sách. Giả như bây giờ có trông thấy Kim đang ôm người tình, chắc ông cũng sẽ chỉ “đề nghị từ nay con không nên ôm đàn ông nữa!”.
Hai đứa nhìn nhau cười khúc khích, rồi Kim hỏi:
- Anh có cần phone về nhà không?
Thằng nhỏ nhún vai lắc đầu, miệng nói “What for?” rồi quàng tay qua lưng Kim, lôi vào phòng ngủ.
Ở sòng bài, đám người chầu rìa đã tản mát ra về hết. Thêm hai tay đang sát phạt cũng cháy túi đứng dậy. Cuộc hỗn chiến chỉ còn diễn ra giữa bốn người, trong đó có Nghĩa và Hằng. Hằng liên tiếp đụng độ những ván lớn và vận đỏ của nàng đi xuống rất nhanh. Mới hơn hai giờ sáng, trận thư hùng đã tàn lụi vì có đến hai người hết tiền. Nghĩa và
ông Tâm, một người đàn ông lớn tuổi chủ garage, chia nhau gom sòng. Kẻ ăn người thua uể oải đứng dậy. Quang cảnh này rất ít khi xảy ra giữa đêm cuối tuần như thế này. Hằng tuyệt vọng đưa mắt nhìn ông Dạ Quang nằm ngủ trên chiếc sofa ở góc phòng. Đánh thức ông dậy cũng vô ích, bởi nàng đã thiếu ông quá nhiều, không đời nào ông cho vay thêm. Bà chủ nhà thì dĩ nhiên lúc nào cũng cứng rắn, áp dụng chính sách “cấm vận” đồng đều đối với mọi thân chủ. Thân đến đâu bà cũng thản nhiên lắc đầu. “Tôi làm gì có tiền mà cho mượn! Có thì đã chẳng phải lấy xâu!” Bà thường phân trần như vậy với tất cả mọi người để không ai mở miệng làm phiền đến bà.
Nghĩa đứng dậy giang rộng hai tay, vặn người mấy cái cho đỡ mỏi rồi khệnh khạng bước vào phòng tắm. Ông Tâm ngồi chậm rãi đếm tiền trước mặt Hằng. Từ phòng bên cạnh, bà Xuân giụi mắt bước ra, ngơ ngác nhìn cuộc chiến vừa tàn. Bà hốt hoảng kêu lên:
- Ủa! Sao nghỉ sớm vậy?
Hằng ngước nhìn bà, não nuột thở dài:
- Hết tiền! Tôi với ông Trường cùng cháy túi! Ông Nghĩa với ông Tâm ăn hết!
Bà Xuân vội dốc ống tiền xâu, cuốn hết lại, nhét vào túi áo. Hằng ghé tai, hỏi giọng cầu may:
- Cho tôi mượn độ hai ngàn, đánh cầm chừng để giữ chân, chứ không thì tan sòng mất!
Bà nhăn mặt đáp:
- Tôi làm gì có tiền!
Hằng vừa ngượng vừa tức. Đã biết trước là chủ nhà keo kiệt mà nàng vẫn thấy cái bản mặt phèn phẹt của bà giờ này đáng ghét hơn bất cứ người nào trên thế gian này. Nàng hầm hầm nhìn bà, nhưng bà không quan tâm đến những kẻ bại trận. Bà khẩn khoản bảo Nghĩa và ông Tâm:
- Chơi đỡ ba tay đi. Trời sắp sáng rồi! Chỉ một lát nữa, thiếu gì người đến! Chú Nghĩa, lại đây. Chính tôi cũng đang muốn đánh một canh! Lời mời gọi xem chừng không được ai hưởng ứng. Theo lệ thường ở các sòng bài, bất cứ khi nào thiếu chân, chủ nhà sẽ nhảy ngay vào, tham dự cầm chừng để chờ khách vì không muốn gián đoạn cuộc chơi,
mất cơ hội lấy xâu. Tuy vậy, hầu hết các chủ sòng cũng đều xuất thân là dân máu mê cờ bạc, cho nên dù chỉ ngồi vào để cầm chân, họ cũng giao đấu tận tình, ăn thua xả láng. Nhiều người gom góp tiền hồ cả tháng, chỉ một canh ngắn ngủi là nướng sạch. Nhưng riêng cái bà Xuân này là khác hẳn. Rõ ràng bà đánh phé theo kiểu câu giờ, ngồi đưa đẩy cho thiên hạ thanh toán lẫn nhau mà thôi. Ngoại trừ khi rút được quân bài lớn nhất, phải đi tiền đầu, thì bà miễn cưỡng quăng ra một hai đồng, còn kỳ dư, cứ kéo quân tẩy lên, chưa kịp nhìn bà đã quay ngang. Tiền xâu bà cầm chắc trong tay, chỉ muốn ăn mà không chịu nhả, thành ra khi bà rủ chơi tay ba, thì trên thực tế vẫn chỉ là cuộc song đấu giữa hai người khách! Ghiền xì-phé đến đâu, người ta cũng không muốn đánh khi không hội đủ tối thiểu bốn chân bài!
Bà cầm bộ bài, xào tới xào lui, thiết tha nhắc lại điệp khúc cũ: - Ở lại chơi đi! Bữa nay thứ bảy, thiếu gì khách sộp! Chỉ lát nữa, sợ đẩy ra không hết!
Nghĩa vừa rửa mặt xong, lùa tay vuốt ngược mái tóc lên rồi lau đại bàn tay ướt vào ống quần. Tính gã vốn cả nể nên chỉ cười, không dám thẳng thắn từ chối. Thâm tâm không muốn chơi nữa, nhưng nếu thiên hạ nài nì, gã lại sẽ ngồi xuống để khỏi mang tiếng ăn non. Nhưng rất may cho Nghĩa là ông Tâm mạnh dạn lắc đầu bảo chủ nhà:
- Ba người mà đánh cái gì! Mất sướng!... Nhưng mà tôi phải về, bà Xuân ơi! Ngủ độ mấy tiếng, sáng mai còn lái xe đi xa!
Bà Xuân sẵng giọng:
- Đi đâu?
- Bà cụ tôi mới từ Việt Nam qua. Ngày mai tôi đưa xuống Los thăm thằng em!
Rồi ông phân trần thêm:
- Tôi còn tới đây dài dài chứ có đi luôn đâu! Chắc ăn là chiều thứ hai tôi ghé!
Ông đứng dậy, lấy jacket khoác vào rồi ra cửa. Nghĩa nhìn bà Xuân nhún vai. Gã bưng tách cà phê trở lại chỗ cũ, lấy gói thuốc và cái hộp quẹt nhét vào túi áo. Hằng ngồi khoanh tay, mắt mở trừng trừng nhìn những quân bài rải rác trên mặt bàn, bất giác thở dài nói bâng quơ:
- Chưa bao giờ xui như vậy! Tôi tính ra thì có lẽ thua đến mười canh liên tiếp! Ít khi nào đi một lèo như thế! Chắc phải nghỉ mấy tháng xả xui!
Bà Xuân còn đang bực vì cuộc hưu chiến diễn ra quá bất ngờ, hững hờ bảo Hằng:
- Cờ bạc đen đỏ là thường!... Bây giờ cô về hay ngủ lại đây? Ngủ đây thì lên phòng tôi, lấy chăn gối xuống mà ngủ!
Bà chỉ cái sofa trống kê hình thước thợ, nối đầu vào chiếc ghế ông Dạ Quang đang nằm phanh bụng ngủ ngáy như sấm. Hằng thấy bất bình về thái độ của gia chủ. Mời nàng sang phòng riêng, chưa chắc nàng đã thèm nhận lời, huống hồ lại bảo nàng nằm đây, bên cạnh ông Dạ Quang! Hằng chưa kịp trả lời thì Nghĩa thấy tội nghiệp, vội lên tiếng bảo nàng:
- Chị đi ăn mì với tôi không, chị Hằng? Tiệm Hưng Ký mở cửa tới bốn giờ sáng. Tôi mời chị đi ăn với tô mì cho ấm bụng rồi về ngủ! Rủ ông Tâm đi luôn cho vui.
Hằng đang giận bà Xuân nên đáp ngay:
- Cám ơn anh. Ra xe rồi tính!
Nàng không muốn nằm lại đây, một phần vì chán cái mặt bà chủ, một phần vì biết chắc sẽ không ngủ nổi bởi những dằn vặt đang dày vò trong trí. Mà về nhà bây giờ thì vô lý quá bởi phải đánh thức con dậy mở cửa. Nàng đứng lên, mở bóp tìm xâu chìa khoá rồi theo Nghĩa ra cửa, bỏ lại bà Xuân một mình thu dọn bãi chiến trường, bên cạnh ông Dạ Quang nằm ngủ thảnh thơi trên sofa, tiếng ngáy khò khè như người nghẹt mũi.
Ngoài sân, đêm mùa hè dịu mát. Nghĩa thấy xe ông Tâm lao vút đi, kêu không kịp. Hằng đứng bên gốc cây, khẽ rùng mình vì cơn gió nhẹ lướt qua. Nghĩa đến sau lưng, nhắc lại lời mời một lần nữa theo thói quen rộng lượng của kẻ chiến thắng, rồi dặn Hằng:
- Chị biết tiệm Hưng Ký chứ gì? Trong khu thương xá Hồng kông Village. Đây tới đó chừng năm phút...
Hằng im lặng gật đầu. Nhưng Nghĩa lại đổi ý ngay:
- Hay là chị bỏ xe đây, đi chung với tôi. Ăn xong, tôi đưa chị trở lại lấy xe?
Hằng đang mệt mỏi nên đồng ý ngay. Nghĩa mở cửa cho Hằng chui vô. Chiếc Toyota Camry của gã tuy còn khá mới nhưng sặc mùi thuốc lá pha lẫn hương vị thức ăn Tây. Miếng pizza ăn dở quăng ở băng sau đè lên mấy tờ báo biếu, bên cạnh một két bia còn nguyên. Nghĩa mở máy và vặn nhạc nho nhỏ. Hằng ngả đầu hẳn ra phía sau trong một tư thế thoải mái giả tạo để che giấu nỗi đau khủng khiếp đang âm ỉ trong lòng. Chiều nay thứ sáu, lẽ ra Hằng phải ở nhà nấu một món ăn đặc biệt để mẹ con thưởng thức cuối tuần, hoặc dẫn nhau rong chơi ngoài phố, mướn phim về coi, hỏi han Kim những sinh hoạt thường nhật trong trường, dặn dò con những điều cần thiết ở tuổi mới lớn. Đến cái tủ lạnh trống rỗng vì đã lâu không mua sắm, chiều hôm qua, trước khi đi đánh bạc tình cờ mở ra, Hằng cũng không bận tâm, chỉ hững hờ bảo Kim:
- Nhà chả còn gì. Con ăn tạm gói mì rồi sáng mai đi chợ luôn thể! Bao nhiêu trách nhiệm vây quanh, Hằng không chu toàn được mảy may. Lòng nàng trùng xuống, cực kỳ hối hận. Nhưng cái hối hận ấy chẳng có nghĩa lý gì bởi nó vẫn thường đến với nàng mỗi khi cháy túi. Mỗi lần thua là mỗi lần thề. Rồi vài hôm sau con ngựa lại quay về lối mòn cũ.
Xe dừng lại trước tiệm ăn. Quán rất đông vì dân chơi từ các vũ trường vừa kéo ra. Hằng giật mình lo lắng chỉ sợ người quen bắt gặp nàng đi với Nghĩa vào giờ phút khuya khoắt này. Lúc nãy, khi Nghĩa đề nghị, đầu óc nàng còn nặng trĩu chuyện tiền bạc, chẳng nghĩ được điều gì, giờ mới thấy là liều lĩnh. Nghĩa tắt máy xe, mở cửa. Hằng vẫn ngồi yên, không muốn xuống. Chờ Nghĩa giục hai ba lần, Hằng mới phân vân bảo:
- Hay là thôi, anh Nghĩa. Đông người quá!
Nghĩa hiểu ý, gật đầu trấn an:
- Đông, nhưng toàn người Hoa. Dân Việt mình ít ai biết tiệm này lắm!
Hằng vẫn ngần ngại:
- Anh có đói thì vào ăn đi. Tôi ngồi chờ ngoài này cũng được! Nghĩa phì cười:
- Ai lại làm thế! Tôi cũng không đói lắm, chỉ muốn mời chị đi ăn cho vui thôi. Chị ngại, thì thôi vậy. Tôi đưa chị về... Hay là thế này, mình take out, mua về nhà ăn. Chị ăn mì vịt tiềm nhé. Tôi mua cho chị, mang về ăn. Hằng lắc đầu:
- Thôi, phiền anh quá!
Thực ra thì chẳng phải Hằng sợ làm phiền Nghĩa. Gã đớp của Hằng biết bao nhiêu tiền tại sòng bạc, mua tô mì thì có gì đáng kể. Nhưng Hằng phân vân vì không biết mang thức ăn về đâu bây giờ! Chẳng nhẽ đập cửa lôi cổ con gái dậy vào giờ này để bắt nó nhìn nét mặt bơ phờ của nàng. Nàng ân hận đã không nhẫn nhịn, ngủ tạm tại nhà bà Xuân mấy tiếng chờ trời sáng. Chỉ vì nỗi buồn thua bạc mà nàng theo Nghĩa ra đây, một điều hết sức vô lý chưa xảy ra trong đời nàng bao giờ. Nó cũng vô lý như việc nàng bỏ con ở nhà một mình để lao vào trò chơi sát phạt.
Nghĩa đóng mạnh cửa xe, mở máy. Hằng tưởng gã giận nên đưa mắt nhìn sang bên kia đường và bảo:
- Hình như tiệm Donut đằng kia còn mở cửa. Qua bên ấy ngồi, tốt hơn.
Nghĩa bằng lòng ngay, dù thực tâm gã không thích chút nào. Ngồi sòng bài từ sáng đến giờ, gã cần một tô mì nước, một bát cháo nóng, chứ bánh ngọt chỉ làm bụng thêm khó chịu. Huống chi cà phê thì gã đã nốc đến hơn mười ly ở nhà bà Xuân, uống thêm làm gì nữa!
Hai người đẩy cửa bước vào. Quán nửa khuya vắng ngắt, chỉ có cô gái ngồi quầy đang đọc sách và người janitor đang lau sàn. Tiền bạc dư thừa, Nghĩa gọi cả một đĩa bánh, lấy cà phê cho mình và nước cam cho Hằng. Dưới ánh đèn rực rỡ, hai người đối diện nhìn rõ những nét hốc hác trên khuôn mặt nhau, nhất là vẻ bệ rạc của Hằng, kẻ bại trận liên tục. Nghĩa nói chuyện huyên thuyên, nhưng Hằng chỉ ậm ừ đáp lại, không giấu được nỗi buồn trong ánh mắt. Những lúc ngồi ở sòng bài, Hằng luôn luôn tỏ ra sôi nổi hào hứng và có óc khôi hài tế nhị. Giờ này thì thiểu não như cái xác không hồn. Nghĩa nhìn nàng ái ngại:
- Chắc chị buồn ngủ lắm?
Hằng gượng cười:
- Buồn, chứ không buồn ngủ!
Câu ấy, nàng buột miệng nói thật. Hằng không còn đồng bạc nào trong túi. Những ngày sắp tới sẽ thiếu cả tiền chợ. Trước mắt là bữa cơm chay thứ bảy tuần sau mà Kỳ đã dặn nàng chuẩn bị để đãi nhóm bạn thiền ngay tại nhà. Ưu tư nhất là cái nhẫn hột xoàn đang nằm trong tay Nghĩa, hoàn toàn không trông vào đâu để chuộc lại được.
Nghĩa nhấp ngụm cà phê, rồi đưa bàn tay xoa những sợi râu lởm chởm trên cằm. Câu nói của Hằng vừa gợi lòng trắc ẩn nơi gã. Ngẫm nghĩ một lúc, gã bảo:
- Chắc chị kẹt tiền? Tuần trước tôi cầm cái nhẫn của chị bốn ngàn. Bây giờ gửi chị thêm một ngàn nữa cho... dễ nhớ. Lúc nào có, chị đưa lại cho tôi. Chị đang xui, nên nghỉ một thời gian rồi đánh lại. Tôi cũng đã có lúc xui cả nửa năm liền, đụng đâu thua đó!
Hằng giật mình cảm động:
- Cám ơn anh! Thế thì tốt quá. Thú thật với anh, tôi đang nghĩ xem ngày mai lấy tiền đâu đi chợ!
Nghĩa cười chia sẻ:
- Dân cờ bạc, dĩ nhiên tôi thông cảm chị. Tôi cũng đã có lúc phải đi ăn ké nhà bạn bè cả tuần lễ, xin từng gói thuốc, từng tách cà phê. Nhưng tôi độc thân thì chả sao! Chị có gia đình...
Hằng thấy khuây khoả phần nào, nói chuyện hăm hở hơn và thôi không hối hận đã nhận lời đi ăn với Nghĩa giữa đêm khuya nữa. Còn đang vui thì Nghĩa lại đột ngột đề nghị:
- Tôi đưa lại chị chiếc nhẫn để chị đeo. Chứ không rủi anh Kỳ hỏi đến, phiền cho chị. Cứ coi như chị mượn tôi năm ngàn, lúc nào có thì chị trả. Không gấp! Nhẫn tôi để ở nhà, lát nữa chị đi ngang, tôi gửi chị.
Hằng lặng người xúc động, chớp mắt cảm ơn hai ba lần. Trong giang hồ chắc chẳng tìm đâu ra một người thứ hai như Nghĩa. Nàng nâng ly nước cam, uống một hớp lớn rồi lảng sang chuyện khác bằng một câu hỏi hoàn toàn lạc đề:
- Anh Nghĩa năm nay bao nhiêu rồi?
- Tôi ba mươi hai.
Hằng tính nhẩm rồi nói:
- Tuổi Tí à? Vậy là anh thua tôi đến sáu tuổi.
Câu chuyện vu vơ làm Nghĩa chỉ cười. Gã giục:
- Chị uống đi rồi mình về. Tôi chở chị lại đằng bà Xuân lấy xe, rồi chị theo tôi về nhà, tôi trả lại cái nhẫn cho chị.
Hằng hài lòng gật đầu. Nhưng lúc chui vào xe, Hằng phân vân bảo Nghĩa:
- Hay là về nhà anh trước đi! Không cần lấy xe vội.
Nghĩa phì cười:
- Tôi không đổi ý đâu, chị đừng lo. Đã hứa trả lại nhẫn cho chị, tôi sẽ không nuốt lời! Chị lấy xe trước, rồi chạy theo tôi về nhà thì tiện hơn. Chứ nếu tôi đưa chị tới nhà tôi trước, rồi tôi lại phải chở chị lại nhà bà Xuân để lấy xe thì mất công cho tôi quá!
Hằng đập tay vào vai Nghĩa, phân trần:
- Chết! Anh hiểu lầm rồi! Không phải tôi sợ anh đổi ý đâu! Tôi biết tính anh đã nói là làm. Nhưng thú thật với anh là bây giờ mới bốn giờ sáng. Tôi về nhà thì sớm quá, đánh thức con bé dậy, tội nghiệp nó. Thường thường, ngày thứ bảy, có khi mười giờ nó mới dậy. Nhà bà Xuân thì chắc ai cũng đang ngủ mệt, sớm lắm chín mười giờ họ mới thức. Tôi lấy xe đi đâu bây giờ?
Nghĩa à một tiếng lớn, vui vẻ nói:
- Vậy mà chị không nói ngay. Thế thì về nhà tôi. Tôi ở một mình, chẳng quấy rầy ai cả. Vâng, lại nhà tôi ngồi chờ sáng.
Nghĩa nổ máy xe và vặn nhạc nho nhỏ theo thói quen. Những con phố vắng tanh, lâu lắm mới thấy một chiếc xe vận tải chạy ngược chiều. Hằng đã vơi hẳn nỗi sầu, thăm hỏi Nghĩa những câu xã giao không cần thiết về cuộc sống của gã mà từ trước đến nay chưa bao giờ nàng thèm bận tâm chú ý. Gặp nhau rất nhiều lần, nhưng chỉ biết nhau rất sơ xài trên bàn xì-phé. Giá không ngồi chung chuyến xe như đêm nay, chắc hẳn mãi mãi Nghĩa vẫn chỉ là cái bóng mờ nhạt trước mắt Hằng và Hằng đã mất một cơ hội để nhìn rõ cách cư xử hào sảng của Nghĩa.
Về đến nhà, Nghĩa mời Hằng ngồi ở phòng khách rồi mở tủ đem chiếc nhẫn ra trao ngay cho nàng cùng với một ngàn đồng. Hằng run run đỡ lấy, hai ba lần cảm ơn và chợt thấy yêu đời hẳn lên, như không hề thua bạc và mất ngủ. Nàng bỏ nhẫn bỏ tiền vào bóp rồi tỉnh táo đưa
mắt nhìn quanh, nhận ra cái ti-vi màn ảnh khổng lồ kê sát bức tường đối diện, cách chỗ Hằng ngồi chưa đến ba thước. Mấy tháng trước, nàng nghe đồn có người thiếu Nghĩa món tiền khá lớn, lâu quá không trả được, gọi Nghĩa đến xiết đồ đạc trong nhà. Nghĩa chỉ khuân về cái truyền hình, phần còn lại tha cho khổ chủ.
Đối với Nghĩa, việc xiết đồ để trừ nợ là điều bất đắc dĩ, gã không muốn làm, bởi nhu cầu cuộc sống hàng ngày của gã rất đơn giản. Nói đúng ra, Nghĩa ít về nhà, cũng không tiếp khách, thì khuân đồ đạc của thiên hạ về để làm gì cho chật chội! Một lần Nghĩa đến nhà ông Dạ Quang, buồn cười vì căn nhà ông vốn nhỏ, mà bàn ghế, tranh sơn mài, ti-vi tủ lạnh, máy hát, ông chất từ trong ra ngoài, choán cả lối đi. Toàn là đồ tịch thu gán nợ! Ở Việt Nam, đôi guốc cũ cũng còn bán được. Qua bên này, hàng hoá mới tinh, lôi ra khỏi tiệm đã mất giá. Ông Dạ Quang dĩ nhiên biết rõ điều này nhưng ông vẫn khuân về, không phải vì giá trị món hàng mà vì cần phải trừng phạt những kẻ thiếu tiền của ông quá lâu. Chính sách này cũng giống như một số ngân hàng hiện nay. Họ bất đắc dĩ tịch thu hàng loạt những căn nhà mà chủ nhân không trả nổi mortgage. Tịch thu rồi cũng chỉ để đó, vì thị trường đang ối đọng.
Hằng nhìn sâu vào trong bếp và để ý thấy nhà của Nghĩa là một căn apartment còn khá mới, ngăn phòng gọn ghẽ, nhưng đồ đạc hết sức bừa bộn. Nghĩa quơ tay lôi hết chăn mền trên sofa, vứt vào buồng ngủ rồi bảo Hằng:
- Chị ngồi tạm đây. Nhà tôi là một cái thùng rác, chị đừng cười. Rồi gã bật ti-vi và video, chiếu cuốn phim Ghost để Hằng coi trong lúc gã bước vô phòng tắm. Gã xối nước nóng, gội đầu, cạo râu, sấy tóc và thay bỏ bộ quần áo mà chính gã cũng cảm thấy đã quá nặng mùi. Mọi động tác chỉ diễn ra trong khoảnh khắc theo thói quen của một gã đàn ông độc thân chưa bao giờ chú ý đến nhan sắc!
Ngoài phòng khách, Hằng mân mê chiếc nhẫn hột xoàn rồi xỏ vào ngón áp út của bàn tay trái. Nàng nghiêng người soi nhẫn dưới ánh đèn, lật qua lật lại xem có đúng là chiếc nhẫn của mình đâ đưa cho Nghĩa tuần trước hay không. Chẳng phải Hằng nghĩ Nghĩa tráo cái xấu hơn cho nàng. Nhưng nàng sợ Nghĩa đưa lầm cái khác, bởi nghe Nghĩa bảo hiện gã đang giữ đến ba bốn chiếc, toàn là của những người thua bạc.
Nghe tiếng cửa phòng tắm vừa mở, Hằng vội rụt tay lại, đặt ngay ngắn trên lòng, làm bộ đang chăm chú xem phim. Nghĩa tiến lại, ngồi xuống chiếc ghế đối diện. Trông gã đã khác hẳn từ đầu đến chân. Tóc chải gọn ghẽ, nhất là khuôn mặt vừa cạo râu nhẵn bóng, xoá hết mọi dấu tích phờ phạc mà Hằng đã quen mắt ở sòng bạc. Gã bảo Hằng bằng giọng vừa nghiêm trang vừa thẳng thắn:
- Chị có cần nằm nghỉ một chút không? Ngủ đỡ mấy tiếng cho khoẻ. Tôi để đồng hồ báo thức, khoảng tám giờ dậy, rồi tôi đưa chị lại lấy xe. Hằng còn đang phân vân thì Nghĩa lại thêm:
- Tôi dọn phòng cho chị ngủ. Tôi nằm ngoài này được rồi. Gã đứng dậy toan bước đi, nhưng lại đổi ý, đề nghị:
- Hay là chị đi tắm một cái cho khoẻ? Lúc nãy tôi buồn ngủ lắm, thế mà chỉ cần tắm nước nóng là lại tỉnh như sáo. Chị đi tắm nhé? Đừng ngại!
Hằng cười vì không ngờ Nghĩa tự nhiên và liến thoắng như vậy. Nàng nói:
- Tôi có ngại gì đâu! Nhưng quần áo đâu mà thay!
Nghĩa nói nhanh:
- Tôi lấy bộ pyjama mới, chị mặc đỡ. Bộ pyjama tôi mới mua, chưa mặc lần nào!
Hằng toan cản lại nhưng gã bước đi ngay, vào phòng ngủ lôi ra bộ đồ còn nằm nguyên trong lớp bao giấy kiếng. Gã cẩn thận lấy cả khăn tắm, bàn chải đánh răng mới, trao cho Hằng và nhắc lại:
- Tôi vặn đồng hồ báo thức tám giờ. Nếu tôi có ngủ quên, chị dậy trước làm ơn gọi tôi. Tôi đưa chị lại bà Xuân lấy xe!
Hằng vẫn ngồi yên, đặt gói quần áo trên lòng và ngạc nhiên hỏi Nghĩa bằng giọng nửa đùa nửa thật:
- Có cô nào sống với anh ở đây không, mà đồ đạc đầy đủ vậy? Nghĩa trợn mắt lắc đầu:
- Tôi chỉ mê “bà đầm” thôi! Chị có thấy không? Đánh phé, tôi hay rút được ba đầm. Chị thua tôi một ván ba đầm, chị còn nhớ chứ? Hình như chị hai đôi xì, bạt. Tôi kéo lên cây đầm thứ năm, ăn phản!... Thôi, chị đi tắm đi. Tôi dọn phòng cho chị rồi tôi cũng đi ngủ.
Hằng miễn cưỡng đứng dậy bước vào phòng tắm. Nàng nhìn mình trong gương và giật mình thấy nước da vàng hẳn đi. Màu vàng nhợt nhạt không biết do sự xuống sắc của cơ thể hay do chính đôi mắt thiếu ngủ của nàng đã tự động biến mọi thứ trước mặt thành héo úa. Nàng vặn nước thật nóng rồi vào bồn nằm ngâm mình, nhắm mắt lại. Trong giây lát, những suy nghĩ giằng co lại trở về đầy ắp trong đầu Hằng. Lấy lại được chiếc nhẫn cưới và có thêm món tiền nhỏ tiêu vặt, nàng tạm thời giải quyết xong mối bận tâm mới lúc nãy còn dày vò nàng khi tan sòng ở nhà bà Xuân. Nhưng nỗi lo ấy qua đi, nàng mới giật mình nhận ra mình quá liều lĩnh, nửa đêm đến nhà một người đàn ông lạ. May mà Nghĩa đứng đắn, trước sau chỉ coi nàng như người chị, chứ nếu gã giở trò xàm xỡ, chắc Hằng cũng phải im lặng chấp nhận bởi chẳng lẽ lại thú thật với chồng là mình đã bỏ con ở nhà cả đêm để đi đánh bạc! Chưa kể những món nợ chồng chất, giật đầu này, thiếu đầu kia mà Kỳ vẫn chưa biết. Dù Kỳ đã “tắt lửa lòng” do công lao ngồi thiền ba năm nay, thì anh cũng chẳng thể nhịn được nếu khám phá ra vợ mình hư đốn như vậy!
Tắm xong, Hằng mặc bộ pyjama màu trắng sọc xanh, rộng thùng thình ở hai ống tay và gấu quần. Nàng nhìn mình trong gương và không nhịn được cười. Hằng quấn chiếc khăn bông lên đầu, vò nhẹ một lúc rồi lấy lược chải hất lên. Đã toan bật máy sấy, nhưng lại sợ làm Nghĩa thức giấc nên cứ để nguyên mái tóc ướt, bước ra ngoài. Không ngờ Nghĩa vẫn chưa ngủ. Gã thay drap giường cho Hằng rồi ngồi coi tiếp cuốn vidéo, nghe đi nghe lại bản Unchained Melody mà gã chỉ mới biết đến từ hôm đi xem phim Ghost. Nhìn cảnh ái ân của Demi Moore trên màn ảnh nhỏ, Nghĩa thấy dâng lên trong lòng nỗi cảm xúc mới mẻ, trộn lẫn sự rạo rực của thể xác. Bất giác, Nghĩa quay đầu nhìn về phía phòng tắm và bắt gặp Hằng vừa bước ra, tươi mát trong bộ đồ ngủ rộng thênh thang, vừa trẻ trung vừa mời gọi. Nghĩa lặng người trố mắt đăm đăm nhìn. Rồi mai đây, mỗi lần cầm đến bộ pyjama ấy, Nghĩa sẽ nôn nao nhớ lại đêm nay, có Hằng là người đầu tiên đã mặc chung áo quần với gã.
Thấy Nghĩa còn ngồi ở phòng khách, Hằng sửng sốt ấp úng: - Anh vẫn chưa đi ngủ?
Rồi nàng lùi lại, ngượng ngùng đứng nép vào cửa phòng tắm, nửa trong nửa ngoài để Nghĩa khỏi nhìn rõ. Hằng vừa giặt chiếc quần lót, máng lên cạnh cái khăn tắm của Nghĩa. Nàng có cảm tưởng bộ đồ ngủ quá mỏng, mà bên trong nàng không mặc gì, giống như khoả thân trước mặt người lạ. Rất may, Nghĩa vẫn ngồi im tại chỗ, chỉ ngước lên trả lời:
- Tôi đang coi dở cuốn phim. Sao chị không sấy tóc cho khô? Để đầu ướt mà ngủ, coi chừng bị cảm đấy!
- Vâng, cảm ơn anh. Tại tưởng anh ngủ rồi nên không dám làm ồn. Dứt lời, Hằng thụt hẳn vào bên trong, nghiêng đầu sấy tóc. Tiếng máy kêu sè sè bên tai, làm át hẳn tiếng nước nhỏ từng giọt tong tong trong bồn tắm, từ cái vòi đã cũ mà Hằng vặn mãi không chặt được. Ngoài phòng khách, Nghĩa thừ người ngồi nghĩ ngợi. Qua Mỹ đã hơn năm năm, chưa bao giờ trong nhà Nghĩa có bóng dáng phụ nữ vào giờ phút khuya khoắt như thế này. Dĩ nhiên Nghĩa cũng đã từng có bồ. Mỹ, Mễ và Việt, Nghĩa đều trải qua, nhưng không chung sống. Bề ngoài, Nghĩa có dáng dấp lôi cuốn, lại thêm tính tình phóng khoáng, dễ gây thiện cảm. Nhưng các cô đều lần lượt bỏ Nghĩa bởi vì khám phá ra gã mê cờ bạc hơn người yêu! Hẹn hò với người tình, không bao giờ Nghĩa muốn lỗi hẹn.
Nhưng nếu chẳng may có người rủ Nghĩa đánh bài vào đúng giờ hẹn, thì dù hoa hậu thế giới đang đợi, Nghĩa cũng bỏ! Bạn bè của Nghĩa thường nói đùa: “Ông già nó có chết nằm đó, gia đình đưa tiền đi mua hòm mà gặp sòng bài, nó cũng xông vào đánh, quên luôn ông già!”.
Mỗi người có một cái tật trời sinh, đành chịu vậy! Nhưng cũng chính vì cái đam mê đỏ đen quá lớn ấy mà Nghĩa ít tốn tiền cho vấn đề sinh lý. Nói đúng hơn, gã ít nghĩ đến chuyện ấy. Từ lúc mời Hằng đi ăn, đề nghị trả nhẫn hột xoàn, cho đến khi đưa nàng về nhà, tâm hồn Nghĩa hoàn toàn trong sạch, không mảy may vẩn đục. Mãi đến bây giờ, tự dưng Nghĩa thấy lòng đổi khác, bừng bừng những khát khao khó tả. Gã ngồi đờ đẫn, gác hai chân lên chiếc bàn trước mặt, đầu óc tưởng tượng mông lung. Bồn chồn một lúc, gã tắt ti-vi, mở compact disc nhạc hoà tấu êm dịu rồi đứng dậy, bước lại phòng tắm. Nghĩa đứng tựa cửa nhìn Hằng đang sấy tóc.
Hằng không nghe tiếng bước chân gã đến gần, nên giật thót người khi bóng Nghĩa đột ngột hiện ra ở cửa. Nàng đặt bàn tay lên ngực, thở mạnh rồi nhắm mắt lại và lắc đầu cười:
- Anh làm tôi hết hồn!
Cùng với câu nói ấy, Hằng bật nút giảm tốc độ cho tiếng máy kêu nhỏ hơn. Đồng thời luống cuống xoay nghiêng người vào phía trong để tránh cái nhìn mà nàng linh cảm thấy khác lạ của Nghĩa. Nàng cố hỏi một cách thản nhiên:
- Anh vẫn chưa đi ngủ?
Nghĩa khoanh tay đáp:
- Chị là khách. Không lẽ tôi lại đi ngủ trước!
Hằng cười thoải mái:
- Vậy là anh phải thức luôn tới sáng, vì tôi hết buồn ngủ rồi. Có lẽ tôi ngồi coi ti-vi, chờ trời sáng tôi về. Hôm nay chả làm gì, ngủ cả ngày cũng được! Nhưng mà anh có mệt thì cứ đi nằm đi, mặc kệ tôi!
- Tôi đánh bài suốt ba ngày ba đêm còn được kia mà. Hôm nay thức chưa đến hăm bốn tiếng, ăn thua gì! Với lại, có chị, tự nhiên tôi cũng không buồn ngủ nữa.
Miệng nói ra vẻ thanh thản, nhưng mắt Nghĩa đăm đăm theo dõi mọi động tác của Hằng. Tay phải nàng cầm máy sấy. Tay trái nâng vạt tóc sau gáy lên cho chân tóc mau khô. Người đàn bà ba mươi tám tuổi trước mắt Nghĩa là một trái chín đã trọn vẹn, có sức lôi cuốn ở đỉnh cao nhất trước khi dừng lại và chuyển sang một độ dốc khác của đời người. Nghĩa đứng nhìn ngây ngất rồi bỗng bước hẳn vào và kêu lên nho nhỏ:
- Chết! Chị gỡ chưa kỹ. Còn một cái kim gài ở cổ áo. Chị đừng nhúc nhích, coi chừng đâm vào người. Để tôi tháo!
Hằng hạ máy sấy xuống, đứng yên chờ đợi. Nghĩa đến sau lưng, đặt hai bàn tay lên vai Hằng và giữ ở tư thế ấy một lúc khá lâu. Dĩ nhiên chẳng có cái kim nào cả và dường như Hằng cũng vừa nhận ra điều ấy qua ánh mắt đờ đẫn của Nghĩa mà nàng thoáng thấy trong gương. Tuy vậy nàng vẫn làm bộ hỏi:
- Tháo được chưa?
Nghĩa không trả lời câu hỏi, giọng gã lạc hẳn đi:
- Chị nhìn trong gương mà coi. Chị hơn Nghĩa sáu tuổi mà trông chị còn trẻ hơn Nghĩa!
Hằng thấy gã thở mạnh rồi bất thần cúi xuống hôn vào gáy nàng. Nàng buông rơi máy sấy và cái lược xuống mặt bàn rồi nhắm mắt lại theo phản xạ. Nghĩa vòng tay hai về phía trước, cuồng nhiệt xoa trên ngực Hằng, bên ngoài lớp vải còn nguyên mùi sợi. Hằng tự động quay hẳn người lại và cả hai ôm ghì lấy nhau, cuống quít như hai con chim được xổ lồng sau những năm dài tù hãm!
Buổi sáng, tiếng chuông điện thoại lanh lảnh đánh thức Hằng dậy. Mắt còn cay xè, nàng nhoài người toan nhấc ống nghe ở đầu giường thì sực nhớ ra không phải nhà mình, vội rút tay lại nằm im. Nghĩa vẫn ngủ mê mệt bên cạnh. Hằng đảo mắt nhìn quanh căn phòng và bình tâm nhớ lại mọi diễn tiến đêm trước. Chiếc đồng hồ báo thức đặt bên đầu giường đã chỉ quá số mười một và những luồng ánh nắng rực rỡ của buổi sáng mùa hè đang chiếu từng vệt dài qua khe cửa sổ, in lên tấm chăn ngũ sắc phủ trên người Nghĩa và Hằng.
Nghĩ đến Kim ở nhà, Hằng toan chồm dậy gọi điện thoại về, nhưng lại sợ làm mất giấc ngủ của Nghĩa bởi gã vẫn đang nằm nghiêng, quàng tay qua ngực Hằng và co một chân, gác hẳn lên đùi nàng. Hằng nhắm mắt lại và hình dung ra Kỳ, giờ này có lẽ đang tập trung tư tưởng để lánh xa hết mọi bi lụy thế tục, hoặc đang đắm hồn theo một bài giảng về thiền mà lúc nào Kỳ cũng nâng niu trân trọng. Cái đam mê của Hằng dành cho bài bạc chưa chắc đã sánh bằng sức đam mê của Kỳ đối với thiền. Người chồng đôn hậu ấy, quanh năm đi làm chỉ đủ sống, nhưng vẫn nhịn bớt tiêu pha để có tiền bay sang tận làng Hồng bên Pháp, làng Cây Phong Gia-nã-đại, và bất cứ nơi đâu anh cảm thấy cần có mặt. Điều lạ nhất đối với Hằng là Kỳ vốn là người Công giáo, thuộc loại đạo gốc, gia đình có người đã thụ phong linh mục. Ngày xưa, khi lấy Hằng, Kỳ chỉ dạy nàng một niềm tin sắt đá duy nhất là Thiên Chúa, mọi thứ khác đều là dị đoan, phù phiếm cả. Nay bỗng dưng anh xoay chiều. Anh vẫn giữ đạo, nhưng tâm lực dành cho thiền đang chiếm quá nhiều thì giờ của anh.
Mười bảy năm sống bên Kỳ, Hằng vẫn tự hỏi tại sao người ta có thể ngoại tình được! Chung quanh nàng, chỉ riêng vùng đất Cali này thôi,
những vụng trộm tròng tréo diễn ra nhan nhản, những bà sồn sồn bỏ chồng mê kép nhí, Hằng thường nghe kể và chỉ thấy buồn cười. Hôm nay thì chính Hằng đã phản bội Kỳ mà sự phản bội ấy không ngờ lại diễn ra một cách quá đơn giản, chỉ do một xúc động nhỏ về sự hào phóng của Nghĩa, do một sự gần gũi tình cờ, hoàn toàn không ai tính toán trước. Và lạ nhất là lòng Hằng vẫn thanh thản, không hề có mặc cảm tội lỗi đối với Kỳ!
Tiếng chuông điện thoại lại reo lên lần nữa. Nghĩa ú ớ lật người nằm ngửa, cố mãi mới nhướng được đôi mắt đỏ ngầu vì thiếu ngủ. Gã quơ tay chộp ống nghe áp vào tai và cùng lúc ấy gã nhớ ra có Hằng bên cạnh. Nàng vừa bước xuống, đang mặc quần áo. Nghĩa nhìn rõ những vết nứt nho nhỏ như lớp sóng gợn lăn tăn trên hông Hằng. Nàng quay lại, đặt vội ngón tay lên miệng làm hiệu nhắc nhở Nghĩa sự hiện diện của nàng. Nghĩa bừng tỉnh hẳn, ngồi lên, tựa lưng vào vách, nhìn theo Hằng đang bước vào phòng tắm. Bên kia đầu dây, bà Xuân đang lớn tiếng hối thúc Nghĩa qua đánh bài:
- Đủ cả rồi! Chỉ thiếu mình chú thôi! Ai cũng mong chú... Lẹ lên đi! Rồi bà kể tên một loạt những tay chơi mà Nghĩa hiểu rõ tính nết và chiến thuật của từng người. Nghĩa trịch thượng trả lời: - Cứ bắt đầu đi! Chút xíu nữa tôi tới!
Bên kia còn léo nhéo giục giã hai ba lần nữa, nhưng Nghĩa đã cúp phone. Gã ngồi đờ tại chồ, cười cười nhớ lại cuộc mây mưa lúc nửa đêm về sáng và lần đầu tiên thấy câu “đen tình đỏ bạc” là sai! Rõ ràng gã đã quơ của Hằng cả đống tiền mà Hằng vẫn bỏ chồng, đến ngủ với gã!
Trong phòng tắm, Hằng đã đánh răng rửa mặt và chải tóc xong, nhưng rất ngại bước ra. Nhà Nghĩa không có đàn bà, tìm mãi không ra một thứ mỹ phẩm nào. Ở tuổi nàng, dù da mặt có tốt đến đâu cũng cần phải có son phấn trợ lực. Loay hoay một lúc, Hằng chợt nhớ tới cây son trong bóp. Nàng chạy ra phòng khách, cằm thỏi son màu đỏ đậm mang vào buồng tắm, tô môi thật dầy theo kiểu full lips mà nàng mới quen mắt từ vài tháng nay. Chùm đèn trên đầu toả ánh sáng rực, khiến tấm gương phản ánh trung thực từng ly từng tí mọi chi tiết nhỏ bé nhất trên da mặt. Những nếp nhăn đã rõ nét ở hai khoé mắt. Những vết nám màu nâu mờ nhạt trên hai gò má phải cần mỹ phẩm để che đi.
Hằng chớp mắt thở dài, với tay lấy chiếc quần lót để thay lại bộ đồ hôm qua. Nhưng cái xì-líp chưa khô hẳn. Hằng chạy vào phòng ngủ hỏi Nghĩa:
- Nghĩa có bàn ủi, cho em mượn!
Nghĩa đang ngồi dạng chân hút thuốc trên giường, ngơ ngác nhìn Hằng, không hiểu nàng hỏi bàn ủi để làm gì! Tuy vậy gã cũng đứng ngay dậy, cúi xuống gầm giường lôi ra cái bàn ủi bám đầy bụi và hỏi lại: - Hằng ủi gì vậy?
Hằng đỡ lấy và mỉm cười:
- Bí mật, không nói được!
Nàng kéo tấm chăn trải ra giữa sàn phòng khách, cắm điện bàn ủi và quì gối đặt lên trên cái quần lót. Hơi nước bốc lên nghi ngút, thoang thoảng chút hương xà-bông, mỗi khi Hằng dí mạnh bàn ủi xuống. Nàng lật qua lật lại cho đến khi khô hẳn mới mang vào buồng tắm, cởi pyjama, mặc lại bộ quần áo cũ.
Trở lại phòng ngủ, thấy Nghĩa loay hoay đứng trước tủ áo, Hằng bảo:
- Nghĩa im lặng nhé. Em phải phone về nhà xem con bé ra sao rồi! Nghĩa đồng ý ngay:
- Anh cũng đang lo vì mình dậy trễ quá. Đáng lẽ tám giờ Hằng phải về, rủi anh Kỳ phone vào sở thì sao!
Hằng ngồi xuống mép giường, chuẩn bị quay số điện thoại và bảo Nghĩa:
- Anh Kỳ đi ngồi thiền rồi, không có nhà. Anh ấy ở nhà thì sức mấy giờ này em còn ngồi đây với Nghĩa!
Nghĩa gật đầu nhẹ nhõm, khoác chiếc sơ-mi, bỏ vào phòng tắm. Gã vẫn còn ngượng miệng khi gọi Hằng bằng em cho nên thường gã chỉ nói trống không. Từ chị đổi sang em, dù sao cũng là một khoảng cách, cần có chút thời gian cho quen miệng.
Ở nhà, Kim vừa ăn pancake vừa thưởng thức chương trình phim vẽ trên ti-vi. Nghe tiếng phone reo, con nhỏ biết chắc là Hằng nên nói ngay:
- Good morning, mom!
Hằng hỏi luôn một hơi dài những lời vấn an mẫu tử thâm tình mà Kim đã đoán trước: Đêm qua con ngủ được không? Ở nhà một mình có sợ không? Con ăn gì chưa? Chờ mẹ về đưa đi ăn sáng.v.v... Kim cắt ngang và bảo:
- Mẹ cứ ở bên bác Thành chơi đi. Con đi bây giờ đây. Mấy đứa bạn rủ con đi picnic, chắc tới khuya mới về!
Hằng thở phào mừng rỡ vì đêm qua không có chuyện gì xẩy ra mà giọng Kim cũng rất vui, không hề có ý trách móc Hằng vắng nhà. Hằng cảm động hỏi:
- Con có cần tiền thì chờ mẹ một lát, mẹ mang về cho!
Những lời ân cần của Hằng, Kim nghe một cách dửng dưng như gió thoảng bên tai. Nó đã quá quen với những lời hứa hẹn không tiền bảo chứng của mẹ. Gần một ngàn bạc, vốn liếng riêng tư của Kim dành dụm khi làm part time mùa hè, bị Hằng mượn cả năm chưa trả được. Sòng bài cứ bòn rút dần tài sản vốn ít ỏi của Hằng, lấn sang cả chồng lẫn con. Chẳng phải Hằng muốn giật của Kim, bởi mẹ nào mà không thương con. Nhưng mỗi khi có tiền, thì hoặc phải thanh toán ngay những chỗ
tối cần - mà thường chỉ là tiền lãi, còn vốn nợ vẫn nằm nguyên - hoặc phải gom góp càng nhiều càng tốt cho canh bạc sắp tới. Kim chán nản lắm, nhưng không nặng lời trách mẹ, bởi nó cũng có tật mê trai, lao vào đường tình quá sớm. Nó nghĩ đi nghĩ lại thì thấy việc Hằng vắng nhà thường xuyên lại là điều tốt, giúp nó nhiều cơ hội hẹn hò hơn. Chính vì vậy, nó vẫn thường che đậy cho Hằng trước mặt bố.
Hằng hỏi lần thứ hai:
- Con đi chơi với bạn phải có tiền chứ? Chờ mẹ độ nửa tiếng, mẹ mang về cho!
Con bé gạt đi:
- Thôi, mẹ khỏi về. Con đi bây giờ đây. Bạn con đang đợi! - Ừ, thế con đi vui vẻ nhé. À, mẹ dặn cái này. Rủi bố có phone về, thì chớ có nói là mẹ ngủ bên bác Thành đêm qua, nghe Kim! Con bé tặc lưỡi:
- Bố ngồi thiền, còn nhớ gì đến mẹ nữa mà phone về!
- Ây là mẹ dặn phòng xa như vậy!
Kim gác máy, cười khẩy rồi đứng dậy bước vào phòng ngủ, vừa mừng vừa giận. Mới tám giờ sáng, thằng kép còn đang ngủ vùi sau cuộc truy hoan mê mệt, thì Kim đã lôi cổ dậy, đuổi ra cửa sau, vì sợ mẹ về. Giá như Hằng phone sớm, thì giờ này hai đứa vẫn có thể nằm ôm nhau quằn quại cho đến tối. Kim biết tính mẹ, đã lao vào sòng bài thì khó mà dứt ra được. Họa chăng chỉ có khi nhà cháy hoặc gặp lúc hết tiền thì may ra Hằng mới đứng dậy. Lúc nãy sở dĩ nó đuổi thằng bồ về cũng chỉ vì nó đoán Hằng đã cháy túi, bởi Hằng đánh bài ít khi ăn. Thôi, như thế cũng tốt. Nó sẽ gọi thằng kép trở lại, ở bên nhau trọn một ngày dài thoải mái.
Buông điện thoại, Hằng lại lên giường nằm. Nàng thấy khó chịu vì bộ quần áo nàng mặc lê lết từ sáng hôm qua, thoang thoảng bốc lên mùi mồ hôi và khói thuốc bám vào tại sòng bài. Nói chuyện xong với con, nàng thấy lòng hết sức thanh thản, chẳng cần phải về nhà nữa. Hay là lại thay pyjama, nằm lại đây với Nghĩa đến chiều? Nàng biết chắc Nghĩa vẫn chưa đẫy giấc, cần nhắm mắt thêm vài tiếng đồng hồ nữa. Đàn ông bao giờ cũng cần ngủ nhiều hơn đàn bà, nhất là ở lứa tuổi như Nghĩa. Nàng tụt xuống giường đi vào bếp, mở tủ lạnh và lục các ngăn kéo xem có thứ gì có thể nấu được bữa ăn trưa cho Nghĩa chăng. Nhưng đến cả mì gói cũng không thấy. Hai cái bồn rửa chén thì ngập lên những nồi niêu ly tách, cơm thừa canh cặn vung vãi tứ tung. Đã toan vén tay áo, thanh toán giùm Nghĩa, Hằng lại thôi, bỏ vào phòng nằm.
Trong buồng tắm, tiếng nước xối ào ào, xen lẫn giọng hát khàn đặc của Nghĩa. Hằng mỉm cười vu vơ, giơ bàn tay lên, nhìn lại chiếc nhẫn hột xoàn mà đêm qua dưới ánh đèn nàng còn sợ nhầm lẫn. Nàng thấy Nghĩa là một người rất lạ. Từ dáng vẻ bề ngoài có sức lôi cuốn, cho đến cách nói chuyện, tính hào sảng, điểm nào Nghĩa cũng đáng yêu cả. Thế mà Nghĩa vẫn sống trơ trọi một mình cho đến hôm nay, tình cờ gặp nàng. Hằng tò mò kéo cái ngăn tủ ở đầu giường xem có khám phá được điều gì bí ẩn của Nghĩa chăng, nhưng chỉ thấy một đống tiền lẻ, toàn giấy một đồng và bạc cắc, vứt bừa bãi đè lên mấy cuốn Playboy. Nàng nhẹ nhàng đóng tủ lại vừa lúc Nghĩa bước vào. Gã mặc bộ pyjama Hằng mới thay ra và vui vẻ nói:
- Anh mua bộ này lâu lắm rồi. Cứ vứt trong tủ! Giá không có Hằng đến đây, chưa biết bao giờ anh mới lôi ra mặc!
Rồi gã nằm xuống bên cạnh Hằng, chỉ tấm poster khoả thân rất lớn dán trên bức tường đối diện và bảo:
- Hồi mới gặp Hằng lần đầu tiên ở nhà bà Xuân, anh thấy quen quen, cố nghĩ mãi xem Hằng giống ai. Đến mấy tháng sau mới nhận ra Hằng giống con nhỏ này!
Hằng sung sướng đập vai Nghĩa:
- Anh khéo nịnh nhỉ! Em mà đẹp được như vậy!
Lại có tiếng phone reo. Nghĩa biết chắc là chủ sòng bài réo gọi nên không thèm nhấc lên. Gã dịu dàng bảo Hằng:
- Chắc là thiếu chân, nên bà ấy mới thúc dữ vậy. Bây giờ em về hay lại sòng bài? À, mà đằng nào em cũng phải tới lấy xe. Anh thắng mấy trận liền, không tới cũng kỳ. Phải để cho thiên hạ gỡ chứ!
Hằng tỏ ý không bằng lòng. Hôm qua, Nghĩa còn là đối thủ của nàng, hơn thế nữa, chính nàng đã thua hết tiền về tay Nghĩa, cho nên nàng cũng mong Nghĩa nhả bớt ra cho thiên hạ. Nhưng hôm nay, Nghĩa đã là người tình mà nàng cần bảo vệ. Giọng nàng tha thiết:
- Đằng đó có bao giờ thiếu chân! Nhưng mấy người ấy đâu có ai chịu mang nhiều láng, ngoại trừ ông Tâm. Cò gỗ mổ cò thật, Nghĩa ơi! Không phải em xúi Nghĩa ăn non, nhưng Nghĩa đánh với họ, ăn thì chả được bao nhiêu mà thua thì thua đậm! Hay là nghỉ bữa nay đi! Em ở lại đây với Nghĩa!
Nghĩa cũng biết Hằng nói hợp lý, lại nặng tình như tiếng nói của người vợ hiền. Nhưng đam mê cờ bạc trong lòng gã lớn quá, khó có thể lay chuyển được. Dù không đi thử máu, Nghĩa cũng biết cơ thể mình có máu... cờ bạc! Hoạ chăng chỉ có cách đến nhà thương... thay máu thì mới hy vọng dứt bỏ được! Nằm nhà ngày thứ bảy mà ôm Hằng, tuy có thú vị thật, nhưng không thể sánh được với cảm giác kích thích của xì-phé. Gã biết trước, dù có miễn cưỡng quấn quít bên người tình mới, thì đầu óc gã cũng sẽ vẫn bị chập chờn ám ảnh bởi bộ bài ba mươi hai lá. Niềm vui xác thịt không thể thay thế được cái thú đen đỏ! Gã phân trần:
- Anh không muốn mang tiếng là cờ bạc cơm gạo. Anh là dân chơi thứ thiệt mà! Hằng không cần về nhà thì lại đó ngồi chơi với anh! Hằng ngượng ngập:
- Thua liên tiếp cả mấy tháng, em đâu còn tiền! Nhưng mà em nói thật. Nghĩa nên nghỉ bữa nay đi. Có ai dám nói Nghĩa cờ bạc gạo đâu. Lần nào Nghĩa cũng đánh đến phút chót, người ta hết sạch tiền, Nghĩa mới đứng dậy! Nghỉ một hôm đi, tội gì cho người ta ăn lại của mình!
Nghĩa ray rứt khó chịu, trầm ngâm không nói. Hằng lại bồi thêm bằng những ngôn từ của người vợ hết mực hiền ngoan: - Em đề nghị Nghĩa với em đi ăn sáng, rồi Nghĩa về ngủ. Đêm qua ngủ có mấy tiếng, lại ăn uống thất thường, nhỡ ốm thì khổ! Phải dưỡng sức, Nghĩa ạ!
Để không khí bớt nghiêm trang, Hằng giễu một câu:
- Với lại, em chắc chắn hôm nay có đánh, Nghĩa cũng sẽ thua. Vì đâu còn đen tình đỏ bạc nửa!
Câu khôi hài không làm Nghĩa nhếch mép. Nghĩa miễn cưỡng chấp thuận vì cả nể, nhưng trong lòng đã chớm thấy phiền toái khi dính vào đàn bà. Ôm một đống tiền trong túi mà phải nằm nhà thì chán thật! Gã tự nhủ và chợt nẩy ra một câu hỏi mới: Phải chăng vì Hằng thua nhiều quá, như con chim đậu cành mềm, nên sợ gã cũng cháy túi như nàng? Tự dưng gã thấy tội nghiệp Hằng, bởi chính gã đã ăn của Hằng nhiều nhất. Gã từ từ ngồi xuống bên cạnh và ôn tồn nói:
- Hôm qua Hằng thua bốn ngàn phải không? Anh trả lại cho Hằng. Còn cái nhẫn thì coi như anh tặng Hằng. Ông Kỳ mà biết Hằng đem cầm nhẫn cưới thì chắc ông ấy bỏ ngồi thiền luôn!
Vừa nói Nghĩa vừa đứng dậy, lấy chiếc quần máng ở sau cánh cửa, móc ra một xấp tiền đưa cho Hằng. Nàng hồi hộp đỡ lấy, chớp mắt cảm động, nhét hết vào bóp. Nàng không thể ngờ Nghĩa cư xử rộng rãi như vậy! Nàng quàng hai cánh tay qua cổ Nghĩa, kéo đầu gã xuống, úp mặt lên ngực mình. Nhưng Nghĩa chỉ ngồi ghé vào mép giường, nhìn Hằng và nghiêm trang bình phẩm bằng một một giọng chuyên nghiệp:
- Anh để ý thấy Hằng hay thua là vì Hằng có tật tiếc bài. Thí dụ, khi Hằng có phé ách, phé già, ngưới ta đánh bao nhiêu Hằng cũng theo, là vì thương phé lớn. Đó là khuyết điểm của những người mới đánh xì.
Theo hay không, bắt hay không là do mình tính quân bài sáng hay quân bài cạn, chứ không phải vì phé lớn hay phé nhỏ. Hai đôi xì, già vẫn thua ba cây sất! Hằng phải nhớ điều đó! Có can đảm bỏ bài thì mới có cơ hội thắng!
Hằng gật gù ra vẻ lắng nghe, tiếp thu kinh nghiệm của kẻ dày dạn chiến trường. Nhưng cùng với câu nói của Nghĩa, đầu óc Hằng xoay chuyển thật nhanh sang hướng khác. Lúc nãy chính nàng khuyên Nghĩa nên nằm nhà, và nàng sẽ ở lại bên Nghĩa trọn ngày hôm nay. Lời khuyên ấy rất chân thành, chỉ vì lúc khuyên, Hằng chưa có tiền. Bây giờ thì tình hình đã đổi khác. Có được năm ngàn đồng trong túi, Hằng không muốn bỏ phí một ngày cuối tuần hào hứng. Lâu lâu chồng nàng mới vắng nhà cả weekend. Không có tiền đánh bài, nằm ôm tình nhân mới, dĩ nhiên rất thú vị. Nhưng có tiền đi đánh bài, Hằng thấy vẫn sướng hơn. Nàng hình dung trước, dù có miễn cưỡng nán lại đây trọn ngày với Nghĩa, thì nàng cũng sẽ bị chia trí thường xuyên bởi hình ảnh của sòng bài thôi thúc. Chiếc nhẫn Nghĩa đã tặng lại, giải quyết xong mối lo gan ruột. Năm ngàn đồng bonus Nghĩa cho thêm, coi như của hoạnh tài lượm được ngoài đường, tội gì không đem thử thời vận? Có thua cũng chẳng tiếc, bởi năm ngàn đồng ấy kể như đã mất đứt từ hôm qua rồi kia mà! Hằng ngước nhìn Nghĩa, dè dặt ướm thử:
- Nghĩa nói đúng đấy! Em nghĩ lại rồi, Nghĩa nằm nhà cũng không yên đâu! Đời nào bà Xuân để cho Nghĩa ngủ! Bà ấy sẽ phone cho tới khi nào Nghĩa chịu qua mới thôi! Hay là Nghĩa lại đó chơi đi. Em cùng đi với Nghĩa... Đủ người thì thôi, nếu thiếu tay thì em đánh!
Nghĩa hớn hở đồng ý ngay. Gã vội vàng thay quần áo và bảo Hằng: - Anh với Hằng kiếm cái gì ăn sáng đã. Phở hay bánh cuốn cũng được! Đi xa một chút, đừng để ai thấy! Mấy bữa nay, bà Xuân cho ăn toàn thứ gì gì đâu, khó nuốt quá!
Hằng đứng bật dậy, nôn nóng gạt đi:
- Cần gì phải ăn sáng! Ngồi đánh bài, em nhịn cả ngày cũng chả thấy đói. Đến thẳng sòng bài đi, lát nữa đông người quá, mình lại phải chờ! Dĩ nhiên Nghĩa nhất trí ngay. Hai người hăm hở sánh vai bước ra đường. Hằng lãng mạn tiếc thầm là không lấy được một người chồng lý tưởng như Nghĩa, hoàn toàn ý hợp tâm đầu, để chia sẻ mối chân tình
đời đời bền vững! Bởi đúng như một câu danh ngôn Tây phương đã nói: Yêu nhau không phải là nhìn nhau, mà là cùng nhìn về một hướng. Đó là hướng sòng bài!
BBÊN HÀNH LANG TÒA ÁN
a người đến cùng một lúc. Đi đầu là Âu, chủ tịch Phường, dáng thấp và béo, mặt tròn như cái đĩa. Các bà tin tướng số thường bảo Âu có tướng ngũ đoản “bỏ rọ cũng không sợ chết đói”. Cũng có thể là “lục đoản”, nghĩa là cái gì trên thân thể gã cũng ngắn cả! Bên cạnh Âu là Đình, ủy viên thư ký, cán bộ thường trực giải quyết những vấn đề hành chính của Phường. Đình người tầm thước, lưng hơi khòm, má hóp, da ngăm đen, mái tóc dài vén lên hai bên tai lúc nào cũng thấy âm ẩm như lâu lắm không gội đầu. Theo sau Âu và Đình là phó chủ tịch Hải, người có nét mặt hiền lành, mang tật bẩm sinh đầu hơi nghiêng về phía trái và đôi mắt thường xuyên hấp háy như có lông quặm. Cả ba cùng mặc sơ mi trắng ngắn tay, quần tây xanh đậm và riêng Âu còn đi giày, thắt cà vạt bởi vừa công tác trên quận về.
Từ trong nhà, Tuyên lao ra, hai bàn tay sần sùi xoa mãi vào nhau, niềm nở đón:
- Rước các anh vào xơi cơm. Cả nhà đang đợi!
Âu vui vẻ đáp lại:
- Cứ tưởng là không về kịp. Ông Canh níu mãi, bảo ở lại đánh tổ tôm. Tôi phải nói dối là về họp Phường.
Tuyên đưa tay:
- Vâng. Không có anh thì mất vui.
Dăm ba người đến trước đang ngồi trong nhà, lố nhố đứng dậy, mỗi người hỏi một câu. Rồi không chờ Tuyên mời lần thứ hai, tất cả tự động leo lên phản, chia nhau ngồi xếp bằng quanh mâm cỗ thịnh soạn. Hai đĩa thịt gà luộc vàng ngậy, phủ lớp lá chanh thái nhuyễn. Giò lụa, xôi gấc. Giò lợn ninh măng khô. Lòng gà xào mướp. Cá chép rán, tương gừng. Món nào nhìn cũng đẹp, ăn cũng ngon. Tuyên xách chai rượu Mỹ
từ trong buồng ra, trịnh trọng đặt trước mặt Âu rồi gọi thằng cháu đang quạt ruồi phành phạch bên cạnh nồi chè hoa cau, lại đứng trước mặt Tuyên để nói vài lời phi lộ theo đúng nghi thức. Đối với mọi người trong ủy ban, Tuyên là chỗ thân tình giao dịch hàng ngày. Nhưng dù cho thân đến mấy thì thân, thủ tục khách sáo vẫn không bỏ được. Tuyên loanh quanh cố tìm một lý do cho bữa tiệc nhưng nghĩ mãi không ra, gã
đành miễn cưỡng gán ghép:
- Báo cáo ủy ban, hôm nay là ngày kỵ của bố cháu đây. Thành ra nhà cháu có chén rượu nhạt, tí dưa tí muối, xin mời ủy ban chiếu cố. Chả mấy khi ủy ban quá bộ lại chơi, thật là rồng đến nhà tôm, xin cứ tự nhiên như ở nhà...
Sáu bảy cái mồm cùng đồng thanh cất lên:
- Không dám! Không dám!
Và trong khi miệng nói “không dám” thì mọi bàn tay đều sột soạt cầm đũa. Tuyên vỗ nhẹ lên vai thằng cháu, đuổi nó đi chỗ khác chơi cho người lớn nói chuyện. Rồi gã kéo cái ghế đẩu lại gần phản, khép nép ngồi xuống ngay bên cạnh nồi cơm gạo tám thơm trắng toát. Bữa tiệc hôm nay Tuyên mượn nhà đứa cháu, thết đãi ủy ban nhân dân phường Bạch Mã vì có việc quan trọng cần nhờ vả. Việc ấy, cả ủy ban đều đã biết, đó là lá đơn xin ly hôn mà Tuyên nộp cho Âu cách đây sáu tháng, cần được Phường giúp đỡ giải quyết trước khi chính thức đưa lên toà án nhân dân Quận thụ lý. Cho Tuyên ly hôn với vợ thì quá dễ, vì cả hai đều chẳng muốn nhìn mặt nhau nữa. Nhưng cái phức tạp nằm ở phần phân chia tài sản, bởi vợ chồng Tuyên hiện đang làm chủ căn nhà xây mà cứ tính theo thời giá thì ít lắm cũng phải hơn mười lượng vàng. Đó chính là lý do Tuyên phải đi đòn ngầm, len lén bàn tính với lãnh đạo Phường tại nhà thằng cháu để vợ khỏi biết.
Thực khách bắt đầu động đũa. Tuyên khép nép ngồi nhìn, kiểm tra toàn bộ xem có thiếu thứ gì cần thiết chăng. Thỉnh thoảng gã lại ngoái cổ nhìn ra sân. Chờ Âu lên tiếng giục, Tuyên mới gắp thịt gà đặt vào bát. Chưa kịp ăn thì có tiếng nói oang oang từ ngoài cổng:
- Phơi đỗ, phơi lạc, liệu mà khuân vào đi. Mưa đến nơi kia kìa! Mọi cái đầu đều ngẩng lên nhìn ra. Riêng Tuyên thì tươi hẳn nét mặt, quăng vội đôi đũa sơn xuống mâm, đứng dậy đón khách. Miệng nở sẵn nụ cười, tay xoa lia lịa vào nhau theo thói quen từ thuở vào đời, Tuyên chạy ra thềm hớn hở nói:
- Cả nhà chờ bác mãi!
Chủ tịch Âu nói đùa một câu nhạt nhẽo:
- Các cụ bảo là “ăn đi trước”! Chỉ có cái ông Thái này thì bất luận ai mời, ông ấy cũng cứ dềnh dàng, bắt người ta phải đợi!
Tuyên đưa tay đỡ cái xà-cọt của Thái, đặt ở đầu giường. Đám người ngồi trên phản tự động xích lại gần nhau để nhường một khoảng trống cho Thái. Ông ta ngồi ngay bên cạnh Âu, bưng cốc rượu của chủ tịch Phường nhấp một chút, nhăn mặt thở khà thật mạnh rồi gắp vội miếng giò lụa ngòm ngoàm nhai. Ngay sau đó, ông gác đôi đũa lên mặt bát, nhoài người véo một nắm xôi, dùng mấy ngón tay viên lại cho chặt như cơm nắm, đưa lên mồm cắn từng miếng rất gọn ghẽ. Đầu ông gật gù, ánh mắt lim dim tận tình thưởng thức. Ông lặp đi lặp lại những động tác gọn ghẽ ấy đến ba bốn lần, miệng nhai không lúc nào ngừng, cho đến khi dạ dầy đã lưng lửng, ông mới khoan khoái bảo mọi người:
- Biết là chiều nay có bữa cỗ ngon, thành ra nhịn từ sáng đến bây giờ!
Vài giọng cười lẻ loi cất lên vì tưởng đó là câu khôi hài của Thái. Trong bất cứ đám đông nào, tiếng nói của Thái cũng được người ta dành cho nhiều chú ý. Lý do giản dị vì Thái là một đảng viên lớn tuổi lại tỏ ra thông thạo nhiều vấn đề và ăn nói có đầu đuôi ngọn ngành. Mặt Thái xương xương, má hơi hóp và cái trán quá cao làm cho mặt gã trông dài hẳn ra. Thái nhuộm tóc, nhưng vì thiếu chăm sóc đều đặn nên lúc nào cũng khoe ra một mảng màu trắng sát da đầu. Các đồng chí nể Thái là vì tất cả những chức vụ quan trọng ở Phường, bên Đảng ủy cũng như bên chính quyền Thái đều đã từng nắm giữ. Một dạo trên Huyện thiếu người, gã lên công tác hai năm ở phòng Thông tin Văn hoá rồi lại trả về Phường để Thái ra làm chủ tịch. Gã ngồi ghế ấy cho đến năm 87 thì xin nghỉ hưu ở tuổi mới ngoài năm mươi vì chứng phong thấp hành hạ thường xuyên, uống thuốc Nam, thuốc Bắc và châm cứu khoảng một năm, bệnh giảm hẳn, Thái lại quay ra làm việc ở hợp tác xã sản xuất đồ gỗ. Người như thế, nói chung, mặt nào cũng biết, tuy chẳng có thứ nào đến nơi đến chốn.
Năm kia, triển khai nghị quyết của Đảng đưa xuống là bất cứ cuộc bầu cử nào, dù trong nội bộ Đảng ủy cũng như ủy ban nhân dân, đều phải phát huy cho được tính dân chủ và tính truyền thống để phù hợp với chính sách đổi mới của nhà nước, Thái đã đưa ra một sáng kiến rất hay mà các đồng chí trong chi bộ đều cảm phục. Đảng viên ở Bạch Mã khá đông, nhưng cấp ủy chỉ thị lấy có bảy người. Giá cứ như thông lệ thì bầu cử chỉ là hình thức chiếu lệ, chưa bầu đã biết trước những ai sẽ
là Đảng ủy viên lãnh đạo Phường. Đảng ủy cần bảy người, luôn luôn chỉ có bảy ứng cử viên tiền chế vốn là những khuôn mặt quen thuộc muôn đời không thay đổi. Nhưng đấy là chuyện thời trước. Bây giờ đổi mới thật rồi, không thể như thế được. Thái giải thích chính sách một cách khoa học và cụ thể trong cuộc họp riêng với các đồng chí cấp ủy:
- Trên chỉ thị phải nêu bật được tính dân chủ và tính truyền thống. Năm nay, ta lấy bảy đồng chí vào cấp ủy. Nếu ta chỉ đưa ra bảy người ứng cử tức là thiếu dân chủ. Xin chi ủy cho tôi cùng ứng cử, nhưng các đồng chí vận động anh em đừng bỏ phiếu cho tôi. Tôi già rồi, báo cáo các đồng chí là không kham nổi việc Đảng nữa đâu. Tôi úng cử chỉ cốt để chi bộ thấy ta có tám người mà chỉ chọn lấy bảy thôi. Như vậy khi báo cáo lên Quận, Quận mới thấy là ta đảm bảo được tính dân chủ!
Mọi cái đầu đều gật gù nhất trí và nhìn Thái bằng cặp mắt hết sức ngưỡng phục. Thái lại tiếp:
- Nhưng dân chủ chưa đủ. Trên còn chỉ thị ta phải có tính truyền thống nữa. Thế nào là tính truyền thống? Nghĩa là không lệch lạc, không chao đảo, không thể để kẻ địch len lỏi vào mà phá hoại công cuộc đổi mới của ta. Cho nên để phát huy tính truyền thống thì tất cả những đồng chí nào đang là Đảng ủy viên, năm nay bầu lại, ta cứ giữ nguyên những đồng chí ấy. Nếu ta thay đổi tức là không phát huy được tính truyền thống của cách mạng, trái với chỉ thị của trên!
Mọi khuôn mặt ngồi nghe Thái nói lại càng gật đầu mạnh hơn và nhiệt liệt biểu dương kiến thức lỗi lạc của Thái. Chính vì thế, trên giấy tờ, Thái tuy chỉ là một cán bộ hưu trí, nhưng trong thực tế, tiếng nói của Thái có sức nặng chỉ đạo mà mọi đảng viên đều tin tưởng và dễ
dàng nghe theo.
Nhưng trong tất cả những vai trò khác nhau mà Thái đã kinh qua thì lãnh vực luật pháp mới thật là sở trường của Thái. Vào những năm trước đây, tuy tư pháp hoàn toàn tập trung trong tay hành pháp, nhưng mỗi khi một bị cáo ra trước toà án nhân dân, chính quyền đều có đề cử một người của Đảng đóng vai trò luật sư biện hộ để phạm nhân khỏi cảm thấy cô đơn trước vành móng... lợn! Thái chính là vị trạng sư quen thuộc của phường Bạch Mã, đứng về phía nhân dân mà bênh vực bị cáo. Thái nổi tiếng rất nhanh nhờ gặp bất cứ ai phải ra toà, gã cũng đều khuyên một câu chí tình:
- Trong chế độ ưu việt của ta, thì cách bào chữa hay nhất là nhận tội và xin khoan hồng!
Nếu có người bướng bỉnh cãi lại rằng họ không thể nhận được vì họ vô tội thì Thái lại càng tha thiết hơn:
- Không có tội mà cứ mạnh dạn nhận tội thì càng chứng tỏ mức độ thành khẩn cao hơn! Đừng nói lôi thôi gì cả. Cứ nhận đi! Sau này, khi Nguyễn văn Linh công bố chính sách đổi mới, cho phép luật sư đoàn thành hình và hành nghề lại tại miền Nam, thì thiên hạ cũng bắt đầu gọi Thái là trạng sư một cách nửa đùa nửa thật và thậm chí nhiều người trong Phường còn tìm đến xin gặp Thái mỗi khi có điều cần thẩm vấn về những khúc mắc trong pháp lệnh nhà nước xã hội chủ nghĩa mà thực sự Thái chỉ biết rất sơ sài.
Một trong những thân chủ đang nôn nóng trao đổi với Thái là Tuyên. Ăn xong bát cơm thứ nhất, Tuyên nhìn Thái, nhập đề: - Đơn của em chả biết đến bao giờ toà mới xử, bác nhỉ? Bàn tiệc đang ồn ào nói chuyện, không ai bảo ai, nhất loạt im lặng để chờ câu trả lời của Thái. Gã đang mút cái chân gà, buông tạm xuống mâm, tợp một ngụm rượu rồi vênh mặt giảng:
- Cậu hỏi thế tức là cậu chả biết cái gì cả!
Tuyên bẽn lẽn:
- Thưa thật với bác và các anh đây, em sốt ruột quá! Còn ở ngày nào với con ranh ấy, em còn khổ! Chỉ mong toà cho ly hôn dứt khoát cho rảnh nợ!
Thái dõng dạc:
- Sốt ruột đến mấy cũng không được! Phải đúng thủ tục pháp lý. Cậu tưởng vợ chồng cứ muốn bỏ là bỏ ư?
Tuyên ngạc nhiên:
- Ô hay! cả nó cũng kiên quyết đòi ly hôn chứ nào phải mình em! Em nói trên có bác, có anh chủ tịch với lại tất cả các anh em đây, em là em nhịn lắm, chứ vào tay người khác thì người ta chả để nó yên đâu! Quân lá mặt lá trái, lấy cớ đi buôn bán để theo giai, bôi gio trát trấu vào mặt em!
Phun ra câu ấy, giọng Tuyên bỗng trở nên nghẹn ngào, mắt chớp lia lịa ra chiều cay đắng lắm. Thái quay người lại phía sau, vói tay lấy cái sà-cọt, moi ra một sấp giấy vàng ố để chứng tỏ mình nói có sách:
- Lẽ tất nhiên rồi ủy ban và toà án sẽ giải quyết cho cậu ly hôn, nhưng phải tiến hành đúng thủ tục. Điều 43 của pháp lệnh viết rõ rằng: “Trong quá trình giải quyết các vụ án dân sự, toà án tiến hành hoà giải để các đương sự thoả thuận với nhau”. Thông tư số 39-NCPL ngày 21.2.1972 cũng như thông tư số 25- TATC ngày 30.11.1974 cũng nói rằng: “Công tác hoà giải là một công tác quan trọng của toà án, nhằm góp phần vào việc tăng cường và củng cố tình đoàn kết nhân dân...” Đại để là như vậy. Nghĩa là dứt khoát, ủy ban và toà án sẽ tiến hành hoà giải cho cả hai người đã. Không được thì rồi hẵng bàn đến chuyện ly hôn! Hướng giải quyết như thế nào, thì toà cứ nghe theo ủy ban trình bày mà quyết định!
Tuyên khổ sở cười buồn:
- Em đã thưa với bác với lại các anh trong ủy ban là phần em thì các anh bảo sao, em nghe làm vậy. Nhưng con ranh ấy đời nào nó bằng lòng hoà giải! Trò đời, nói xin lỗi các anh, thứ đàn bà mà đã giai sấp gái ngửa thì còn biết gì đến tình nghĩa nữa mà hoà với lại chẳng hoà! Thôi thì bác đã dạy như vậy, em xin biết vậy. Nhân tiện có mặt đông đủ ủy ban ở đây, xin các anh tiến hành ngay cho, giúp em giải quyết càng sớm càng tốt để em yên tâm lao động!
Chủ tịch Âu mặt đỏ gay, mồ hôi vã ra như tắm, đưa tay tháo lỏng nút cà-vạt rồi bảo ủy viên thư ký:
- Sáng mai ông thảo cho tôi cái văn thư gửi lên toà án nhân dân Quận. Xin toà cho biết ngày nào thuận tiện thì anh em mình kéo lên. Âu quay sang Thái, nịnh một câu:
- Văn thư là một chuyện. Toà thì lúc nào chả nhiều việc. Thành ra muốn nhanh thì phải có ông Thái nhúng tay vào mới xong. Không thì người ta xếp xó ở đấy, biết bao giờ mới ngó đến đơn của mình! Thái hãnh diện gật gù:
- Được rồi! Tôi sẽ liệu!
Thái cất giấy tờ vào sà-cọt để ăn tiếp. Gã gắp miếng thịt đùi chấm vào bát nước mắm đã cạn sạch. Mấy năm nay gặp ai Thái cũng than là
mắt kém lắm rồi, phải đeo kính lão mới đọc được chữ. Nhưng vào bàn tiệc, miếng thịt nào Thái gắp cũng là miếng ngon, chưa bao giờ nhằm lẫn. Phần Tuyên, dù bận nói chuyện, mắt vẫn chăm chú theo dõi từng người chung quanh một cách hết sức chu đáo. Bất cứ ai vừa cạn chén cơm, gã đón ngay lấy và xới thêm vào. Gã đứng dậy, bước vào buồng trong rồi băng qua mảnh sân nhỏ xuống bếp lấy thêm nước mắm. Một người đàn bà trẻ đang lom khom trong góc, thoăn thoắt gọt đu đủ bầy lên cái mâm gỗ sơn đỏ thẫm, ngẩng lên hỏi Tuyên:
- Ngoài ấy cần gì hở anh?
Tuyên cười rạng rỡ:
- Đầy đủ lắm, không thiếu gì cả!
Tuyên đặt bàn tay lên tấm lưng mỡ màng của người yêu mới, xoa nhè nhẹ dần xuống phía duới. Lớp vải phin nõn mềm mại truyền rất nhanh cảm giác êm ái từ da thịt người phụ nữ qua bàn tay gân guốc của Tuyên. Gã thì thầm bảo:
- Thế nào cũng xong việc, Nhài ạ! Phải cái là thủ tục rườm rà lắm. Không khéo cả năm nữa mới giải quyết xong!
Người đàn bà nhăn mặt:
- Chết! Lâu thế cơ à? Em sốt ruột lắm! Chỉ muốn anh cưới em ngay thôi!
Tuyên ghé cái mồm đầy hơi men, hôn chụt vào gáy Nhài và nhấn mạnh:
- Người ta còn nóng hơn lửa đốt đây này! Chỉ muốn mau mau tống cổ con khốn nạn ấy đi để đón em về! Nhưng mà làm thế nào được! Pháp lệnh nhà nước phải chấp hành chứ!
Gã khom người lấy chai nước mắm rót vào bát rồi bảo người yêu: - Trong này em xong cả rồi chứ gì? Thôi, em để đấy cho anh. Em chạy đi đâu thì đi. Đừng để các ông ấy thấy em ở đây, không tiện. Độ hơn một giờ nữa thì quay trở lại.
Nhài buông con dao, chùi tay vào miếng giẻ máng trên vách rồi đứng dậy:
- Vâng, thế thì em đi đây! Anh liệu mà tiếp khách cho tử tế.
Tuyên bưng bát nước mắm lên nhà, đặt vào vị trí cũ. Gã nhìn thoáng mâm cơm. Hai đĩa giò lụa đã bay nhẵn. Hai đĩa thịt gà luộc cũng chỉ còn lại toàn xương xẩu. Khay xôi gấc vẹt hẵn đi một mảng lớn. Phó chủ tịch Hải vừa nhai vừa luôn tay đuổi ruồi. Những khuôn mặt loang loáng mồ hôi, đỏ gay như gà chọi, đem chuyện thiên hạ làm đề tài bàn tán để mua vui. Thái vẫn là người phát ngôn nhiều hơn cả. Gã bảo:
- Việc đời chả biết thế nào mà lường! Hôm nọ tôi đi ăn cưới thằng cháu bên Ba Đình, tình cờ gặp lại lão Tùng. Lão bây giờ làm to lắm, giám đốc công ty Vitoba, được phép kinh doanh ngoại hối, giao dịch thẳng với nước ngoài. Lão bảo vất vả lắm. Là vì chính sách đổi mới, chuyển sang kinh tế thị trường, lão mù tịt có biết gì đâu! Nhưng mà khổ nhất là cái khoản tiếng Anh. Dạo trước, lão đi tu nghiệp ở Liên xô, cắm đầu cắm cổ học tiếng Nga. Mới thông thạo được một tí thì bây giờ vứt hết, đổi sang tiếng Anh. Không biết tiếng Anh thì sợ chúng nó lừa, hợp đồng không dám ký. Mà ngần ấy tuổi mới bắt đầu học vỡ lòng thì kiếp nào mới đọc thông nổi cái hợp đồng! Lão nói riêng với tôi là lão rất lo nay mai nhà nước sẽ bang giao với Mỹ. Bởi rằng là vì bang giao rồi thì kinh tế thị trường sẽ phát triển rất nhanh. Chứng ấy những người như lão làm thế nào mà cáng đáng được công việc quản lý kinh tế! Thì nói ngay như anh em mình đây này, cầm súng đánh Mỹ thì được chứ bây giờ bảo làm ăn với Mỹ thì chịu!
Bàn tiệc đăm chiêu suy nghĩ những điều Thái vừa công bố và ai cũng tự an ủi mình rằng làm giám đốc cũng chẳng sung sướng gì! Thái nhếch mép cười:
- Lão ghé tai tôi nói đùa: Đang ở thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội thì lại đột xuất bỏ đó để tiến lên chủ nghĩa tư bản! Buồn cười nhỉ! Giọng đùa cợt của Thái không làm những khuôn mặt chung quanh hoan hỉ. Trái lại tất cả đều cảm thấy có cái gì vướng mắt pha lẫn chút đắng cay. Trưởng ban thông tin văn hoá từ lúc nhập tiệc chưa phát biểu câu nào, bây giờ mới đủng đỉnh góp ý:
- Tôi nói câu này, không phải thì các bác các anh bỏ quá đi cho, nhưng mà kinh tế thị trường có cái hay là người bán hàng đố có dám hách dịch như ngày trước. Dạo trước xếp hàng cả giờ đồng hồ, đến phiên mình trình phiếu với tờ hộ khẩu, nhân viên mậu dịch hạch sách đủ điều, mắng xa xả vào mặt mình, y như phát chẩn cho ăn mày không
bằng! Mua bia thì phải mang cốc theo, chìa ra cho nó rót. Rót ít rót nhiều, mình cũng đành cắn răng mà chịu. Bây giờ bố bảo! Nhà nước cho thương nghiệp tư doanh bung ra, hiệu này cạnh tranh hiệu kia, cô bán hàng nào cũng lễ phép, nói năng gọi là cứ ngọt lịm như mía lùi!
Âu chớp mắt buồn rầu:
- Đành rằng thế. Nhưng được cái này thì lại mất cái kia... Mọi người tưởng Âu sẽ triển khai thêm câu nói nước đôi của gã, nhưng gã mập mờ dừng lại và nâng cốc rượu uống cạn. Thái cởi cúc áo ngực, xoè chiếc quạt giấy phe phẩy rồi nhìn Tuyên, quay lại đề tài cũ. Gã biết bữa cơm thịnh soạn hôm nay gã được mời với tư cách một luật gia, nên không thể ngậm miệng ăn tiền được. Gã thở mạnh rồi nói: - Cái khoản phân chia tài sản mới phức tạp chứ còn ly hôn thì sớm muộn gì cũng xong. Điều 42 của luật hôn nhân và gia đình qui định rằng, việc phân chia tài sản phải do hai bên thoả thuận. Lẽ tất nhiên là không có cặp vợ chồng nào đã đánh nhau đến vỡ đầu và đòi bỏ nhau mà còn thoả thuận êm đẹp được! Cho nên Phường sẽ xem xét cụ thể để giải quyết cho hợp tình hợp lý, không bên nào bị thiệt thòi, rồi trình toà án xin cử hội đồng định giá tài sản xuống tận nơi để kiểm tra đồ đạc, nhà cửa mà qui thành tiền từng thứ một. Nếu hội đồng định giá tổng kết rồi mà hai bên vẫn không nhất trí thì phải làm đơn xin viện Kiểm sát Nhân dân xét lại!
Tuyên nhíu mày lo âu vì không ngờ thủ tục lôi thôi quá như vậy. Hiểu ý gã, Thái nói thêm:
- Nghe thì thấy phức tạp, nhưng rồi đâu cũng vào đấy cả thôi! Cụ thể tôi hỏi cậu, cái nhà vợ chồng cậu đang ở, khởi kỳ thủy là của ai? Ai mua cái nhà ấy? Mua chung hay mua riêng?
Tuyên gãi đầu:
- Báo cáo bác với các anh, chả dám giấu gì bác với các anh đây, nhà là nhà của bố mẹ nó mua từ cái đời tám kiếp nào kia. Rồi lúc hai ông bà ấy sắp chết thì bán lại cho em. Em đã giả tiền đầy đủ chả thiếu xu nào. Hiện em với nó cùng đứng tên. Nhưng mà nó cứ nhất định cãi là cái nhà của riêng nó, bố mẹ nó chết đi để lại. Nó mồm loa mép giải, nói xin lỗi các anh, nó rêu rao với mọi người là lúc em ở bộ đội về, trên răng dưới dái, nó cho ở nhờ mấy năm nay là may lắm rồi! Anh thấy có mất
nết không chứ!
Thái điềm tĩnh:
- Dễ! Không phải lo cái ấy. Chỉ biết rằng hiện nay cậu với nó đứng tên chung, phải không nào? Nghĩa là cậu có dứt một nửa đã. Nhưng mà một nửa thì nói làm gì! Tôi muốn cả cái nhà ấy phải về tay cậu cơ. Ra toà, cậu cứ khai là bố mẹ nó bán lại cái nhà cho cậu, cậu đã chồng tiền đủ rồi. Cần thì ủy ban cấp cho cậu cái giấy chứng nhận. Cứ nói cứng như thế. Ông bà ấy chết rồi, cậy mả lên mà làm chứng hay sao! Còn về vợ cậu, lẽ tất nhiên là nó cũng sẽ khai với toà là nó có chung tiền với cậu, mua cái nhà ấy. Cũng chả sao! Mình sẽ xét quá trình bản thân và gia đình nó. Từ bé đến giờ nó có chịu lao động như người ta đâu, chỉ loanh quanh bán buôn một vốn bốn lời. Công an Đồng Xuân đã mấy lần cảnh cáo mà vẫn chứng nào tật ấy. Tóm lại, nó là thành phần lý lịch xấu. Cậu là bộ đội phục viên, lẽ tất nhiên toà phải chiếu cố. Phần thắng sẽ về tay cậu!
Tuyên sung sướng quá, run run xoa tay cảm động:
- Trăm bề xin nhờ bác và ủy ban giúp hộ, em chả dám quên ơn! Thái gật gù:
- Ơn nghĩa thì nói làm gì! Nhưng cậu cứ an lòng, tôi đã dúng vào là phải xong!
Âu đề nghị thẳng:
- Muốn cho vững bụng, cậu về xem nhà có thứ gì, cứ lẳng lặng khuân đi mà bán trước hoặc giấu ở chỗ nào, chứ mai kia hội đồng định giá xuống làm việc, họ ghi vào biên bản rồi thì khó mà thủ riêng được!
Câu nói của Âu nhắc Tuyên một sự thực hết sức khổ tâm. Gã buốt nhói tự trách mình mấy tháng nay đã không nghĩ ra phương án mà Âu vừa tiết lộ. Bây giờ thì muộn mất rồi! Ngọc đã ra tay trước. Những gì có giá, Ngọc đã đẩy đi gần hết. Niềm hy vọng cuối cùng của Tuyên chỉ là cái xác nhà mà thôi. Tuyên cười gượng gạo:
- Con ranh ấy nó cũng đáo để lắm anh ạ! Chả biết đứa nào xúi nó, em lên Hà Nội có một hôm, lúc giở về thì cả nhà chi còn có hai cái chõng! Bàn ghế, giường tủ, nồi niêu, nó khuân tiệt! Nhưng em chả tiếc, em chỉ cần cái nhà thôi!
Bàn tiệc không ai xúc động vì lời phân bua của Tuyên. Tuy đứng về phía Tuyên, nhưng họ đều biết trong vụ này, Tuyên là kẻ hoàn toàn có lợi.
Sau khi ở Campuchea về, Tuyên phục viên, lang thang đầu đường xó chợ, không tìm được việc gì để tự nuôi thân. Trở lại đi học thì gã không tính đến chuyện ấy. Giữa lúc trắng tay như vậy thì Tuyên gặp Ngọc. Mùng ba Tết, Ngọc đến mừng tuổi gia đình một người quen, thấy Tuyên đang đánh tam cúc ở đấy. Chủ nhà có việc phải đứng dậy, nhờ Ngọc cầm hộ mấy ván. Ngọc đánh rất cao, nhưng kết tốt đen bị Tuyên đem đôi tốt đỏ ra bắt. Cờ bạc ngày xuân mua vui thôi, tiền bạc không đáng kể. Chủ nhà từ trong bếp bước ra, vui vẻ hỏi:
- Ai ăn mà ầm ĩ lên thế?
Đứa con nhanh nhảu đáp:
- Cô Ngọc bị anh Tuyên đè mẹ ạ!
Câu nói vô tình làm cả nhà cười sảng khoái. Ngọc đỏ mặt bẽn lẽn đứng dậy:
- Cháu giả lại cho bác đây này. Cháu vội lắm, không chơi đuợc đâu! Tuyên cũng mất hứng, không đánh nữa, chạy theo Ngọc lân la làm quen. Từ đó hai bên đi lại với nhau. Nhan sắc của Ngọc không có gì nổi bật, nước da lại ngăm đen vì suốt ngày ở ngoài đường, nhưng Ngọc dâm và có của riêng. Lúc làm đám cưới, có người gọi Tuyên là chuột sa chĩnh gạo. Gạo nếp hay gạo tẻ thì họ không biết, nhưng chắc chắn là Ngọc khá giả và Tuyên được nương nhờ. Cụ thể là ngay sau ngày thành hôn, Tuyên dọn vào đăng ký hộ khẩu thường trú luôn tại nhà vợ. Người ta thường bảo “phúc bất trùng lai”, nhưng riêng với Tuyên thì cái may xảy đến liên tục: Ở rể mới hơn hai năm, bố mẹ vợ thi nhau lăn ra chết! Giang sơn từ đây thu về một mối. Hà Nội sau chiến tranh dân số tăng rất nhanh, bình quân mọi người chỉ có bốn mét vuông để ở, hai vợ chồng Tuyên thênh thang làm chủ nguyên căn nhà xây ở quận ngoại thành mà bạn bè bộ đội cũ của Tuyên ai đến cũng phải trầm trồ khen Tuyên tốt số. Có đứa thân mật đùa với Tuyên: “Cậu làm cách nào mà bố mẹ vợ cùng về nơi chín suối trong vòng một năm, chỉ tớ với!” Nói chung thì vận Tuyên đỏ lắm. Ngọc buôn bán mỗi ngày một khá hơn nhờ nhà nước khuyến khích thương nghiệp tư doanh những năm
sau này. Từ một người trung gian chạy mối, ngược xuôi thấp thỏm lo công an rình bắt, Ngọc nhanh chóng có hẳn một sạp hàng bán máy móc và đồ điện ngay ở phố Bà Triệu, một trong những khu vực đang phát triển rất nhanh theo mô hình chợ trời của miền Nam. Ngọc càng khá thì Tuyên càng nhàn. Nàng mua Honda cũ cho gã, sáng đưa vợ đi, rồi rong chơi cả ngày, đến tối ra đón Ngọc về.
Khi người ta đang giàu mà tụt xuống thành nghèo thì dễ sinh tủi phận. Nhưng khi đang nghèo mà thành giàu thì lại dễ hư thân, nhất là khi cái giàu ấy không phải do mồ hôi nước mắt của chính mình tạo dựng. Tuyên lêu lổng đàn đúm, tìm vào ăn chơi tận thành phố Hồ Chí Minh. Lúc quay về phải tiêm thuốc trụ sinh đến mấy hôm mới khỏi bệnh. Ở Hà Nội, những tụ điểm băng phim đồi trụy, những nhà xông hơi La Thành, Kim Liên, Ánh Hồng, những quán cà phê xanh có tấm cót vây quanh từng bàn để khách vừa uống nước vừa gỡ gạc các cô chiêu đãi cho đôi tay đỡ cảm thấy thừa thãi, đâu đâu cũng nhẵn mặt Tuyên bởi gã là khách thường trực. Ngọc giận lắm. Mấy ông anh bà chị đã ở riêng, lảm nhảm nói ra nói vào mãi, càng làm Ngọc xấu hổ bội phần:
- Tao đã bảo trước rồi mà! Lấy thằng phải gió ấy về mà hầu! Nói ra thì lại bảo là chị không vun xới cho em! Bây giờ nai lưng làm bao nhiêu, nó phá bấy nhiêu! Hầu nó mà nó có để yên cho đâu! Quân chó dái nấp gấu quần đàn bà không biết nhục! Bỏ quách nó đi cho xong!
Bà chị cả dài miệng nhiếc mãi làm Ngọc chỉ muốn độn thổ. Ngọc về nhà, đùng đùng trút hết nỗi ấm ức trong lòng, vừa khóc vừa chửi. Tuyên lúc đầu ngồi im hút thuốc. Về sau cũng quát lên, át cả giọng vợ. Người ta dù chai lì đến đâu thì cái mặc cảm nương nhờ vẫn không thể nào xoá hẳn trong lòng, cho nên Tuyên bộc lộ ngay trong câu nói đầu tiên:
- Này! Hỗn vừa vừa chứ! Đừng có cậy làm ra tiền mà lên giọng với tôi! Thằng này không để yên đâu! Mới có một tí vốn đã vác mặt lên! Rồi không chờ Ngọc phản ứng, Tuyên đứng vụt dậy, làm bộ vùng vằng bỏ đi. Gã phóng xe ra chợ Đồng Xuân thăm cô gái mà gã đã quen mấy tháng nay, đó là Nhài. Nhài trẻ hơn Ngọc, phụ mẹ bán cửa hàng giải khát ngay ở đầu chợ. Gặp Tuyên vài lần, cô thấy cảm mến cái tác phong vừa công tử vừa khinh bạc của Tuyên. Và lần đầu tiên ngồi sau lưng Tuyên trên chiếc Honda sang trọng của gã, nhẹ nhàng lượn ra bờ
hồ Hoàn Kiếm một buổi tối mùa hè, cô đã ngây ngất cắn vào vai Tuyên để bày tỏ niềm rạo rực trong lòng cô đối với Tuyên. Tình càng ngày càng lậm sâu, thúc đẩy Tuyên toan tính chuyện bỏ vợ.
Một buổi trưa, Ngọc nhờ bà chị và đứa cháu ra nom cửa hàng, Ngọc về nhà. May là giữa lúc Tuyên đang nồng nặc hơi men, lăn ra ngủ, chị lặng lẽ dắt chiếc Honda đi gửi rồi trở ra tiệm bàn tính với người chị. Đêm qua, sau một trận cãi vã sôi nổi, Tuyên đã nói thẳng ý định nộp đơn xin ly hôn. Ngọc uất nghẹn trong cổ nhưng cũng phải giả vờ hùa theo:
- Anh không nộp đơn, tôi cũng nộp kia mà! Anh tưởng tôi còn muốn sống với anh nữa hay sao? Báu gì cái thứ chỉ biết lêu lổng trác táng! Sáng nay, Ngọc tạt sang bà chị, mắt còn sưng húp, rủ chị ra cửa hàng cùng bàn tính. Cả nhà ai cũng xúi Ngọc bỏ Tuyên cho nhẹ thân: - Ngữ ấy, buông mày ra một ngày là chỉ có đi ăn mày thôi! Bỏ ngay cho nó trắng mắt ra!
Thấy Ngọc không nói gì, bà chị đốc thêm:
- Thế mày có biết rằng là cả năm nay nó phải lòng con đĩ Nhài ở chợ Đồng Xuân không? Cả làng cả nước ai cũng biết, chỉ có mình mày mù mới không thấy! Cứ nghe tao, bỏ béng nó đi. Mày mới hăm nhăm hăm sáu, lại có của, khối đứa lăn vào, xua đi không hết! Báu gì cái thằng chết trôi ấy!
Ngọc gật đầu cho chị vui lòng. Lập tức bà thủ thì khuyên Ngọc: - Nhưng hẵng khoan, đừng nói gì vội. Nữ trang, vòng vàng, đá quí, tiền bạc, đem giấu hết đi đã. Đưa sang bên tao hay là gửi cái Nhung. Rồi các thứ đồ đạc, máy móc, bán dần đi đã. Bán sạch rồi mới nộp đơn lên toà.
Ngọc gật đầu nhất trí với kế hoạch của chị nhưng lại thoáng lo âu bởi nếu đem tư trang vàng bạc sang gửi chị thì cũng nguy hiểm không kém gì để ở nhà, vì ông anh rể nổi tiếng là tay cờ bạc. Trước mắt, Ngọc chỉ nghĩ ngay đến cái Honda mà Ngọc rất sợ Tuyên sẽ ra tay bán trước. Bà chị lại thở dài tiếp:
- Dạo thầy u mất, đã bảo mãi là khiêng cái sập gụ với cái tủ chè sang bên tao. Tao thì cần gì những thứ ấy! Khuân vào chỉ chật nhà thôi chứ quí hoá gì! Nhưng mà nó là vật gia bảo của ông nội để lại, bây giờ làm
thế nào? Có nhớ thằng Cao nhà bà Phan không? Vợ chồng đem nhau ra toà ly dị, toà bảo chia hai tài sản. Về nhà, nó tức quá, cái gì cũng đem chẻ làm đôi. Có cái giường nó cũng cưa đôi, mỗi người một nửa! Chỉ có nước bổ ra làm củi chứ nằm thế nào được nữa!
Câu chuyện bà chị kể làm Ngọc càng lo. Nàng cầm xâu chìa khoá, đón xích lô chạy về mặc dầu Ngọc không hy vọng giờ này Tuyên có nhà. Thanh toán xong chiếc xe, Ngọc trở ra, hớn hở báo chị: - Chị chớ có hở miệng cho ai biết nhá. Em gửi bên chị Nhung. Giấu mãi tận trong bếp, lấy cái chiếu cũ đậy lên! Nó đang ngủ say lắm. Tỉnh dậy thế nào cũng cuống lên vì tưởng mất trộm!
Hai chị em nhìn nhau khúc khích cười chia sẻ niềm vui chiến thắng. Nhưng niềm vui ấy chẳng kéo dài được bao lâu bởi nỗi lo sinh tử của Ngọc vẫn là căn nhà. Ngọc đau nhói nghĩ tới căn nhà hương hoả từ đời ông cha để lại, nay mai sẽ không còn là sở hữu riêng của Ngọc nữa. Đúng là nuôi ong tay áo. Rước nó về, cung phụng đủ thứ để rút cuộc bị phản bội. Ly hôn là cầm bằng nàng sẽ mất một nửa vì hiện hai người đứng tên chung. Ở phường Bạch Mã của Ngọc có cặp vợ chồng lục đục đến mấy năm, biết không thể hàn gắn được mới đem nhau ra toà xin ly hôn. Sau khi hội đồng định giá báo cáo lên, toà truyền chia đều tài sản cho đôi bên. Nhưng bán căn nhà thì đi đâu? Hộ khẩu mấy chục năm ở địa chỉ ấy, di chuyển đi chỗ khác vừa khó khăn vừa tốn kém. Hai vợ chồng chỉ còn cách duy nhất là mua cót về ngăn đôi căn nhà vốn đã rất hẹp để khỏi trông thấy mặt nhau. Nghĩa là một hộ biến thành hai hộ nhưng vẫn chung một mái nhà. Chẳng giải quyết được gì cả, bởi họ vẫn phải nghe giọng nói của nhau nên vẫn thửa cơ hội để chửi nhau. Bức tường ô nhục mỏng dính đứng lù lù giữa nhà, ngăn không nổi một tiếng động nhỏ. Bên này khiêu khích bên kia. Ông chồng khoét lỗ trên tấm cót, nhìn sang theo dõi bà vợ cũ và thậm chí lắm khi tức quá, ông đạp phăng cả tấm cót, lao qua, túm tóc mà đánh. Đánh vì tức đã đành, mà lại thêm vì ghen nữa bởi lâu lâu ông nghe có giọng đàn ông bên kia tấm cót. Lại thêm nhà bếp cầu tiêu vẫn phải dùng chung. Ra vào vẫn phải chạm mặt. Cái ấy mới thật là thảm cảnh mà không cách nào giải quyết được. Ngọc rùng mình tưởng tượng ra nay mai Ngọc sẽ lâm vào tình trạng ấy. Ngọc sẽ dứt khoát bán nhà, chia tiền cho Tuyên theo lệnh toà án, rồi về nhập chung hộ khẩu với chị mặc dầu nàng không ưa ông
anh rể có máu gỡ gạc.
Ngọc đoán quả không sai. Xế chiều, Tuyên bừng mắt dậy, la toáng lên rồi lao ra trình công an chiếc Honda bị mất cắp. Đối với các đồng chí lãnh đạo ở Phường, Tuyên là chỗ giao tình thân thiết, bởi gã rất khéo nói, nhã nhặn và thường xuyên dùng tiền của vợ để kết giao. Nhưng dù rất thân, trưởng ban công an khi nghe Tuyên mếu máo khai báo, đã nhìn Tuyên bằng cặp mắt ngờ vực. Gã nghi chính Tuyên bán xe của vợ rồi khóc lóc đóng kịch hô hoán là mất trộm. Tuy vậy, gã cũng trấn an:
- Được rồi, anh cứ về đi. Công an sẽ điều tra. Ai chứ anh thì chúng tôi phải làm đến nơi đến chốn!
Nhưng ngay khi ở ban công an về, Tuyên khám phá ra xe không mất. Đường phố Hà Nội mấy khi vắng bóng người qua lại! Hàng xóm hai bên cả chục người nhìn thấy Ngọc đẩy Honda đi, ngay tình chạy sang nói cho Tuyên biết. Gã tức uất lên, lấy chiếc xe đạp cũ phóng ra cửa hàng của vợ, túm ngay lấy ngực áo Ngọc, quát lớn:
- Honda giấu ở đâu? Muốn sống thì nói ngay không ốm đòn bây giờ! Cơn giận trong lòng Ngọc đã nén xuống từ lâu, dai dẳng chịu đựng cả năm nay, lúc này không nhịn được nữa. Nàng đẩy Tuyên ra, mặt hầm hầm khiêu khích, đứng chống nạnh, bướng bỉnh nạt lại: - Giỏi thế cơ đấy! Xe của tôi, tôi cất. Tôi không nói, để xem anh làm gì được tôi nào? Tiền đứa nào bỏ ra mua xe? Nói lớn lên cho cả làng nước nghe đi! Một đống của của tôi, giao cho anh để anh đi chơi nhà thổ, đi nhà xông hơi, rồi đèo con đĩ Nhài ra bờ hồ, phải không nào? Tuyên bất thần thụi một quả thật mạnh vào ngực vợ. Ngọc loạng choạng lùi lại mấy bước, suýt ngã ngửa vào quầy bán thuốc lá của người bên cạnh. Xét về sức vóc, Ngọc có thể đối đầu được với chồng mà phần thắng chưa biết sẽ về ai. Nhưng trước mặt bàng dân thiên hạ, Ngọc phải nhịn vì không muốn mang tiếng đanh đá. Nàng ngồi thụp xuống thút thít khóc. Bạn hàng chung quanh mỗi người góp vào một câu. Lẫn trong những lời khuyên giải, không thiếu những tiếng mỉa mai, khinh bỉ Tuyên là thằng chồng lêu lổng, sống bám gấu váy đàn bà, mặc dầu Ngọc chỉ mặc quần chứ không mặc váy! Rồi tiếng còi của công an ré lên vì bà chị nhanh chân lén đi gọi. Tuyên vội vàng nhẩy tót lên xe, lủi mất. Gã đi tìm Nhài và tiết lộ:
- Lộ rồi, Nhài ạ! Con đĩ ấy nó biết chuyện của anh với em rồi! Nhài gắt:
- Thì bỏ quách nó đi cho xong.
Tuyên chưa nói gì thì Nhài xuống giọng dịu dàng:
- Anh nộp đơn ly hôn đi. Em sẽ về hầu hạ anh suốt đời! - Em chả nói anh cũng làm. Ở với nó một ngày dài như một năm. Ngày mai anh sẽ viết đơn đem ra Phường!
Tối hôm ấy về nhà, vợ chồng Tuyên đánh nhau một trận như bão tố làm hàng xóm hai bên thức gần trắng đêm. Đến giai đoạn này thì Tuyên không ly dị cũng không được. Ngọc không phát lương nữa. Ăn trưa, ăn chiều luôn ngoài chợ, mặc kệ Tuyên muốn ra sao thì ra. Gã nhặt nhạnh đồ đạc trong nhà đem bán, rồi vay chỗ này giật chỗ kia, sống qua ngày chờ toà phân xử. Nếu may mà chiếm được cả căn nhà này thì gã sẽ đón Nhài về rồi bắt đầu lại cuộc sống mới. Còn nếu không may thì ít nhất toà cũng bắt bán nhà chia hai. Chừng đó gã sẽ ôm tiền, nhập chung hộ khẩu với Nhài. Mẹ Nhài có cửa hàng giải khát. Nhài là con gái duy nhất, tay hòm chìa khoá, làm gì chả có vốn cung phụng cho Tuyên, ủy ban Phường đứng về phía Tuyên, nhất là lại được Thái hỗ trợ, mười phần Tuyên thấy sẽ thắng cả mười.
Buổi tiệc chấm dứt lúc trời nhá nhem tối. Thực khách ăn uống rất thật lòng, đĩa nào cũng sạch bóng. Con chó gầy gầm gừ gậm xương dưới gậm phản. Đàn nhặng xanh rủ nhau đậu kín mặt mâm. Ông nào cũng đã no căng bụng, nhưng khi Tuyên bưng khay đu đủ và nồi chè hoa cau đặt giữa phản, vẫn chẳng có ai từ chối vì sợ làm buồn lòng gia chủ! Thái lên tiếng rủ Đình và Âu về đánh chắn. Cả bọn nhất loạt đứng lên theo, nhao nhao nói vài lời cảm ơn theo thói quen rồi khật khưỡng kéo nhau ra hè. Tuyên xoa tay tiễn khách ra mãi tận cổng. Thái choàng vai Tuyên, nhắc đi nhắc lại mấy lần là cứ an tâm, mọi việc đã có Thái định liệu.
Hơn một tháng sau, do tài vận động của Thái, phiên toà hoà giải được triệu tập tại toà án nhân dân Quận. Kinh nghiệm từ bao năm đều cho thấy, vợ chồng khi đã lôi nhau đáo tụng đình thì đừng bàn chuyện hoà giải làm gì nữa cho mất thì giờ. Không lăn sả vào mà ăn tươi nuốt sống nhau là may lắm rồi, còn nói chuyện đoàn tụ thì viển vong quá!
Nhưng thủ tục pháp lý không thể bỏ qua được. Chủ tịch Âu cầm đầu các bạn ở Phường, trịnh trọng lên tham dự. Thái lăng xăng ghé tai người này, dặn dò người kia như một vị luật sư lão thành sắp lao vào một vụ kiện to tát. Về phía Quận, ngoài thẩm phán Phùng thị Lý ngồi ghế chánh án, còn có đại biểu hội Liên hiệp Phụ nữ và đại biểu Quận hội Phụ nữ. Để thêm vây cánh cho Tuyên, Thái lôi luôn ông cựu đại úy tiểu đoàn trưởng ngày xưa của Tuyên, cụt một chân, hiện làm nghề bơm xe ở Khâm Thiên, đến tham dự để nếu cần thì minh xác thành tích chiến đấu của Tuyên.
Ngọc đi với hai người chị và mấy đứa cháu. Ngọc mặc áo cánh trắng, quần đen rộng ống, tóc chải gọn ghẽ, cột chiếc khăn xanh sau gáy. Nàng gầy đi nhiều sau chuỗi ngày lo âu và ít ngủ. Tuy nhiên cặp mắt vẫn điềm tĩnh nhìn thẵng, không để lộ sự khúm núm và cũng không thèm ngó sang phía Tuyên.
Dãy ghế bên kia, Tuyên ngồi ngay ngắn bên cạnh Thái và gã thương binh cụt chân. Tuyên mặc đồ bộ đội, ngực đeo huân chương, cố tình nhắc toà cái dĩ vãng chống Mỹ cứu nước của gã để xin toà chiếu cố. Nhài cũng có mặt, nhưng cô ngồi chờ ở quán nước ngoài cổng toà án.
Dĩ nhiên cả Tuyên và Ngọc đều không nghĩ đến việc tái hợp. Họ ra đây vì thủ tục hoà giải của toà và nhất là vì số phận căn nhà mà toà sẽ định đoạt. Truyền thống từ bao nhiêu năm dưới chế độ xã hội chủ nghĩa vốn dành một thứ quyền rất lớn cho hành pháp, cho nên mọi phán quyết của toà thường dựa trên báo cáo và đề nghị của chính quyền địa phương, cụ thể trong vụ này là ủy ban Nhân dân phường Bạch Mã. Biết thế nên Tuyên rất an tâm. Gã đúng dậy đọc một bản báo cáo rất lâm ly gồm hai phần chủ yếu: Đề cao chính mình và trút mọi tội cho Ngọc. Tuyên dứt lời, chủ tịch Âu, rồi một loạt trưởng ban và dĩ nhiên cả Thái, thay phiên nhau đọc tham luận, nội dung bênh vực Tuyên và chê trách Ngọc để rồi đưa đến kết luận:
- Đề nghị toà án giải quyết hợp tình hợp lý, tránh gây thiệt hại cho Phan văn Tuyên!
Phiên toà không dính dáng một tí nào đến chủ đích hoà giải, mà hoàn toàn biến thành cuộc đấu tố được sắp đặt khá chu đáo. Đại biểu hội Liên hiệp Phụ nữ cũng như Quận hội Phụ nữ sốt ruột lắng nghe, hết sức bực bội vì thấy chánh án Phùng thị Lý cứ ngồi đực mặt như
phỗng đá, không hề có phản ứng nào đối với sự thiên vị quá rõ rệt của Phường. Cả hai gắng nhịn để chờ đến lượt Ngọc đọc báo cáo. Ngọc đứng dậy, hai tay run run nâng tờ giấy trước mặt. Giọng nàng mất hẳn bình tĩnh đến mấy phút vì không ngờ ủy ban Phường đứng hẵn về phía Tuyên, moi móc lý lịch từ cha mẹ nàng cho tới bản thân nàng để lên án và nhất là Tuyên dám vu cho Ngọc tội ngoại tình. Đúng là vừa đánh trống vừa ăn cướp. Nhưng dù biết thế, Ngọc cũng không kịp phản ứng bởi nàng chỉ có thể đọc theo những dòng chữ đã viết sẵn. Nàng không có khả năng ứng khẩu, nhất là khi thấy chung quanh toàn những người chống lại mình. Ngọc mím môi, cố cầm nước mắt để khỏi bật khóc trước toà vì uất ức.
Khi hai bên đã phát biểu xong, chánh án Phùng thị Lý mới lạnh lùng tuyên bố:
- Triển khai thông tư số 25-TACT ngày 30 tháng 11 năm 1974, toà án nhân dân quận Khải Hoàn hôm nay cho tiến hành thủ tục hoà giải đoàn tụ giữa Phan văn Tuyên và Vũ thị Ngọc. Nhưng cả nguyên đơn, bị đơn đều kiên quyết không hoà giải vì mâu thuẫn gia đình đã trầm trọng đến mức không thể chung sống được nữa, Chiếu điều 42 luật Hôn nhân và Gia đình, toà cho tiến hành thủ tục ly hôn và phân chia tài sản. Đề nghị phường Bạch Mã tạo điều kiện để toà án xem xét và giải quyết dứt điểm trong phiên toà sắp tới.
Hai tháng sau, tất cả những khuôn mặt cũ lại lục tục kéo nhau ra toà. Chủ tịch Âu thay mặt Phường đề nghị toà giao căn nhà cho Tuyên. Đại biểu Quận hội Phụ nữ bênh vực Ngọc, xin toà định giá và chia hai mới hợp lý. Chánh án Phùng thị Lý lần này sinh động hơn, nét mặt tươi tỉnh như có chuyện vui trong lòng, chậm rãi mở một xấp hồ sơ đặt trước mặt rồi ưỡn người ra thành ghế, nghiêng đầu nghe hai bên tranh cãi. Nếu để ý một chút, người ta sẽ thấy Lý chỉ giả vờ theo dõi chứ cặp mắt ra lơ đãng, dường như đang tính toán chuyện khác trong đầu. Chờ mọi người phát biểu xong, Lý gọi Tuyên lên, thân mật hỏi:
- Dạo còn ở bộ đội, lĩnh lương hàng tháng có đủ tiêu không? Tuyên toan phì cười nhưng không dám. Lương bộ đội mà lại không biết hay sao mà hỏi! Dù sao thì Tuyên cũng vui vì biết Thái đã gặp riêng chánh án và có lời gửi gấm nên Lý mới tỏ ra bình dân với Tuyên như vậy. Gã điềm nhiên đáp:
- Báo cáo, tằn tiện lắm thì mới tạm đủ.
- Thành ra khi phục viên thì tay trắng?
- Báo cáo đúng. Ai cũng thế cả ạ!
Phùng thị Lý tay cầm cái bút, gõ nhè nhẹ trên xấp hồ sơ, mỉm cười gật đầu:
- Thế lúc anh lấy vợ, anh đang làm gì?
- Thưa, mới ở bộ đội về, cũng chưa biết làm gì cả.
- Bố mẹ anh làm nghề gì?
- Thưa bố tôi mất lâu rồi. Mẹ tôi thì ốm quanh năm, ở chung hộ với em tôi làm giáo viên.
- Rồi từ ngày lấy vợ đến giờ, anh có vào hợp tác xã, có công tác ở nhà máy, xí nghiệp hay cơ quan nào không?
Ngồi ở hàng ghế dưới, mấy chục người theo dõi mẩu đối thoại, chả hiểu tại sao chánh án lại thăm hỏi Tuyên một cách thoải mái như vậy. Chỉ có Thái hơi ngờ ngợ đoán Phùng thị Lý đang gài bẫy, nhưng gã gạt ngay ý nghĩ ấy bởi tiếng nói của Phường bao giờ cũng làm nghiêng lệch cán cân toà án. Huống chi Thái cũng có quen biết Lý, đã có trao đổi, không đời nào Lý quyết định ngược hẳn lại đề nghị của cả Phường. Tuyên đã hứa với Thái một món tiền bồi dưỡng nếu gã lấy được căn nhà và Thái đã đáp lại bằng một câu chắc như đinh đóng cột:
- Lẽ tất nhiên cái nhà ấy là của cậu rồi! Nhưng vạn bất đắc dĩ có phải chia hai, thì cậu cứ bám trụ ở đấy, đừng đi đâu cả. Nó bực mình, nó sẽ phải dọn đi!
Bây giờ nghe Phùng thị Lý thẩm vấn Tuyên những câu lạ tai, Thái hơi chột dạ và ngờ ngợ đoán rằng mình có thể thua cuộc: Toà sẽ chia đều cho Tuyên và Ngọc. Thái nén tiếng thở dài, đăm đăm nhìn Tuyên. Tuyên cười gượng trả lời câu hỏi của Lý:
- Báo cáo, tôi đã nộp đơn nhiều chỗ mà chả có chỗ nào nhận cả! Phùng thị Lý ngẩng lên, nghiêm mặt nói lớn hơn:
- Anh từ bộ đội về phục viên, không có tài sản gì cả, gia đình lại nghèo không giúp đỡ được anh. Rồi từ khi lấy vợ, anh cũng chả đi làm ngày nào cả. Thế mà anh khai rằng bố mẹ vợ anh trước khi chết, bán lại căn nhà ấy cho anh, anh đã giả tiền đầy đủ. Anh lấy tiền ở đâu mà
giả? In ra tiền hay đi ăn cướp? Vợ chồng ở với nhau theo lẽ thường của chồng công vợ, góp gạo thổi cơm chung. Nhưng từ khi lấy chị Ngọc, anh không lao động ngày nào cả, hoàn toàn sống bằng tiền của vợ. Toà xét anh chẳng có tí gì trong căn nhà ấy. Điều 42 luật Hôn nhân và Gia đình qui định bốn nguyên tắc phân chia tài sản. Nguyên tắc thứ hai nói rằng: “Tài sản chung của vợ chồng được
chia đôi, nhưng phải xem xét một cách hợp lý tình hình tài sản, tình trạng cụ thể của gia đình và công sức đóng góp của mỗi bên”. Nguyên tắc thứ tư lại nói rằng: “Khi chia tài sản, phải bảo vệ quyền lợi của người vợ”. Qua theo dõi và kiểm tra, Toà xét rằng
Phan văn Tuyên không đóng góp tí nào vào tài sản chung của hai vợ chồng, cho nên toà quyết định giao cả căn nhà cho Vũ thị Ngọc bởi căn nhà ấy vốn là của cha mẹ ruột chị Ngọc để lại! về phần Phan văn Tuyên thì được tạm trú thêm ba tháng để chờ Phường thu xếp chuyển hộ khẩu đi chỗ khác!
Mẹ Nhài quăng mạnh cái muỗng nhựa vào chậu nước, bực bội bảo Tuyên:
- Cái Nhài nó đang dở tay, không gặp cậu được!
Tuyên cười gượng:
- Bác cho con xin cốc cà phê. Con ngồi đợi một lát cũng được. Con có chuyện muốn bàn với Nhài.
- Còn chuyện gì nữa mà bàn! Đã giả nhời dứt khoát cậu rồi cơ mà! Tuyên chớp mắt run run ngồi xuống. Mẹ Nhài lạnh nhạt không thèm ngó, mặt hầm hầm ném cái này, vứt cái kia để tỏ thái độ phản kháng sự hiện diện của Tuyên. Đã biết rõ hai mẹ con không còn chút cảm tình nào với mình từ sau vụ ly hôn trắng tay, nhưng Tuyên vẫn còn tuyệt vọng bám víu bởi Nhài không dám nói thẳng, chỉ loanh quanh đổ cho mẹ chưa muốn Nhài đi lấy chồng. Tuyên ngồi trầm ngâm một lúc rồi dè dặt nhắc lại:
- Bác cho con xin bác cốc cà phê! Giời hôm nay rét quá! Mẹ Nhài rút ngăn kéo, lôi ngay ra cuốn vở, lật vài trang rồi chìa ra trước mặt Tuyên:
- Số nợ của cậu nhiều quá rồi! Chả phải tôi không tin cậu, nhưng mà nhà hàng ít vốn, giật chỗ này đắp chỗ kia, cậu hiểu cho! Chỉ có mình cậu
thôi đấy, chứ chả ai uống chịu nhiều đến thế bao giờ...
Giọng bà lớn quá, khiến đám khách ngồi rải rác trong quán đều nhất loạt quay sang phía Tuyên. Gã lảo đảo đứng dậy bước ra ngoài, nghiến răng tự nhủ:
- Mẹ con nhà mày, thế nào ông cũng cho một quả lựu đạn! Gã cắm đầu bước đi, nhưng không biết đi đâu. Gã dừng lại ở một ngã tư, định băng qua đường thì tình cờ bắt gặp một thanh niên chở người đàn bà lớn tuổi trên chiếc Honda quen thuộc của Tuyên mà Ngọc đã tịch thu đem giấu mấy tháng trước đây. Tuyên hồi hộp muốn hét lên vì tiếc nuối. Chiếc Honda đến gần rồi lăn chậm qua trước mặt Tuyên. Gã há hốc mồm nhận ra người đàn bà trên xe chính là chánh án Phùng thị Lý.
CCHÚT ÂN TÌNH MONG MANH
hiến tranh xô đẩy hàng trăm người bỏ nông thôn về thành thị. Vào những năm giữa thập niên 60, khi thời kỳ ổn định của Đệ nhất Cộng hoà đã tan biến, lúc đồng minh ào ạt đổ quân sang và những khu vực xôi đậu nhanh chóng mất hết “xôi” để chỉ còn toàn là “đậu”, bất đắc dĩ trở thành các vùng oanh kích tự do của không lực, thì bao nhiêu dân quê đã phải gạt nước mắt giã từ ruộng vườn.
Về thành, đối với họ là một quyết định hết sức bi thảm, bởi nhịp sống tranh đua làm họ choáng ngộp. Nhưng họ không có chọn lựa nào khác. Phần lớn đành theo bước chân cán bộ xã hội, chui vào những trại tiếp cư xây cất vội vã, mong manh hy vọng chiến cuộc một ngày sẽ
chấm dứt để được trở lại với không khí thoáng mát của ruộng vườn. Nhưng cũng có người chịu không nổi sự tù túng của chúng cư, hoặc muốn nhân cơ hội đã đặt chân tới đô thì, khao khát một đổi thay lớn hơn, nhanh hơn, đã bung ra ngoài tự tìm sinh kế với niềm tin tạo dựng một cuộc đời mới khá hơn. Hường nằm trong trường hợp đó, mặc dầu năm ấy cô còn khá trẻ, chưa đến hai mươi.
Goá chồng lúc còn rất trẻ, mẹ Hường đi thêm bước nữa, cho Hường thêm hai đứa em rồi cũng nằm xuống. Người cha ghẻ mà nàng kêu bằng dượng xem chừng còn sung sức lắm, nhưng thay vì xông xáo kiếm thêm bà vợ nữa cho khuây khoả, thì ông có vẻ chỉ thích cây nhà lá vườn, cứ lẩn quẩn tìm cách gỡ gạc Hường. Căn nhà tôn bộ xã hội cấp phát cho nạn nhân chiến cuộc, dĩ nhiên diện tích rất khiêm tốn, đi ra đi vào Hường đều chạm mặt ông, không cách nào tránh cho thoát. Hường gọi riêng hai đứa em cùng mẹ khác cha ra chỗ vắng, dặn dò vài câu rồi quơ vội mấy bộ quần áo, nhét vào giỏ ni lông, rươm rướm nước mắt bỏ đi. Vốn liếng cô mang theo là con số không về mọi mặt. Tiền bạc, chữ nghĩa, nghề nghiệp và ngay cả cái nhan sắc ngoại ô của cô, không thứ nào có thể giúp cô làm hành trang đơn độc bước vào đời.
Hường ngồi tại bùng binh chợ Bến Thành hai ngày một đêm, ăn hết mấy ổ bánh mì và uống hàng lít nước phông tên, thì có bà khách bộ hành sang trọng dừng lại hỏi thăm rồi đón cô về nhà làm người giúp việc. Bước đầu như thế cũng là tốt rồi. Cái nghề ở đợ đang thịnh hành trong thành phố, tất nhiên chẳng vinh quang gì, nhưng nhất thời cho
Hường chỗ ăn chỗ ngủ, khỏi giãi nắng giầm mưa, tháng tháng lại được trả lương ba ngàn đồng. Hường thấy tạm hài lòng và không toan tính gì xa hơn hiện tại.
Không khí thị thành làm Hường biến đổi bề ngoài rất nhanh. Nước da đen xạm vì gió nắng, vì nước phèn, chỉ vài tháng đã nhả hết, trả lại cho Hường cái vẻ tươi nhuận của một người ngồi trong bóng mát. Nhà rất ít người, mà bà chủ dường như có căn tu, suốt ngày thắp nhang khấn vái, nói năng cư xử với Hường như con em ruột thịt trong gia đình khiến Hường càng ra sức tận lực để đền đáp.
Nhưng chuyện đời vẫn thế, hễ được vợ thì hỏng chồng! Ông chủ từ ngày có Hường, mắt hau háu sáng rực trên khuôn mặt thịt tròn như cái đĩa. Những chiều buồn len lén tâm tư, khi bà vợ lên lầu tụng kinh gõ mõ, ông hay quấn quít bên Hường, gạ cái này, đòi cái kia, nhắc Hường hình ảnh người cha ghẻ mà giờ này chắc vẫn còn đang thao thức ở trại tạm cư, mong ngày Hường trở lại.
Đi ở gặp chủ dê là việc bình thường, trong thiên hạ chuyện này chẳng đáng gọi là ‘‘cổ lai hi”, nhưng Hường chịu không được. Nán lại đây cố chịu đấm ăn xôi thì sợ sẽ có ngày lớn chuyện. Mà tố giác với bà chủ thì tội nghiệp người đàn bà nhân đức. Hường đành một lần nữa ra đi, để lại nỗi luyến tiếc cho cả hai vợ chồng.
Cô chuyển sang một gia đình thanh bạch hơn, chồng làm công chức, vợ buôn vải ngoài chợ, ba đứa con đều chưa qua bậc tiểu học. Mỗi ngày nấu hai bữa cơm, giặt thau quần áo và quét dọn trong nhà ngoài sân, là kể như xong bổn phận. Chỉ có điều là lúc này Hường ngờ vực tất cả đàn ông trong thiên hạ, nên rất dè dặt mỗi khi ở một mình bên cạnh ông chủ mới. Nhưng lần này cô lầm. Không có dấu hiệu gì chứng tỏ ông này sẽ giở thói xàm xỡ. Mặt ông nghiêm và buồn kinh niên, hay đúng hơn là buồn ngủ, bởi ông hay thức khuya đánh bài. Mang trong người chất đam mê đỏ đen ấy, ông vắng nhà thường xuyên, ngày đi làm, đêm đi chơi. Chỉ khi nào thua nhiều quá, ông mới gây sòng tại nhà để lấy xâu gỡ lại. Nhất nuôi cá nhì gá bạc! Chứa bài nếu biết tính toán là cách làm giàu rất nhanh. Nhưng đối với ông chả ăn thua gì, bởi tiền xâu đặt đâu thua đấy! Thành ra lúc nào trông ông cũng lừ đừ mệt mỏi.
Một hôm Hường đi chợ về, ngạc nhiên thấy hai vợ chồng đang lục lọi quần áo, đồ đạc của Hường để trong hai cái túi xách nhỏ. Bà chủ lật
tung cả chiếc chiếu trên giường Hường, tháo áo gối ra xem xét, và moi móc từng cạnh trong căn phòng riêng mà Hường vẫn nằm ngủ. Hai vợ chồng túm lấy Hường, tra hỏi về tội ăn cắp. Cái lắc bằng vàng y nặng một lượng, mới hôm qua còn nguyên trong tủ, nằm gọn ghẽ dưới xấp vải nhung, bây giờ ông chủ mở ra thì lắc vàng không cánh mà bay! Thủ phạm không thể là ai khác ngoài Hường. Ba đứa con còn nhỏ, không mở nổi cánh tủ và cũng chưa đứa nào biết tiêu tiền, chúng lấy trộm để làm gì! Hường tái mặt khoanh tay
đứng nép vào góc, nước mắt chảy quanh. Bà chủ vừa dỗ vừa dọa, lúc gay gắt lúc dịu ngọt, hy vọng nếu Hường chưa đem bán thì trả lại cho bà. Nhưng ông chồng thì không kiên nhẫn được như vậy. Người hiền thì lại hay cục! Ông túm lấy Hường, đưa ngay ra cảnh sát. Nét mặt dịu dàng và ngái ngủ thường nhật của ông đã hoàn toàn biến mất, để hiện nguyên hình là một kẻ nóng nảy gần như tàn ác.
Hường bị nhốt một đêm, rồi bà chủ ra lãnh về. Giam Hường không có lợi. Thà đưa về đem tình cảm ra mà thuyết, biết đâu Hường chẳng yếu lòng thú nhận. Nhưng bà nói hết lời, thậm chí hăm dọa bỏ tù, Hường cũng vẫn một mực không nhận. Hường van lạy thề thốt, rồi cuối cùng để cảm thông sự mất mát của gia chủ, cô xin ở lại giúp việc sáu tháng không lương. Bà chủ đã toan xiêu lòng. Nhưng ông chồng hầm hầm quăng trả thẻ căn cước và bảo cô khăn gói ra khỏi nhà ngay lập tức. Hường gạt nước mắt giã từ, chỉ hận là sẽ mãi mãi ôm theo nỗi oan ức không cách nào giãi bày được.
Nhưng thực sự Hường lầm! Ít ra trong hai người, có ông chủ biết rõ cô hoàn toàn vô tội, bởi chính ông lấy cái lắc vàng đem bán, trả món nợ ông đánh phé gặp vận đen. Lòng ông không muốn, nhưng không vùng vằng đổ tội cho Hường thì đời ông khó sống dưới bàn tay sắt bọc nhung của bà vợ. Ông đứng trên lầu nhìn theo bóng Hường thất thểu ra đi mà lòng quặn thắt. Thôi thì non nước còn dài. Nếu mai kia có tình cờ gặp lại, ông sẽ đền bù cho Hường cách khác. Ông thở dài tự an ủi rồi phóng xe đi đánh bài tiếp.
Lần này, Hường không đi ở cho người ta nữa. Nghề ấy có lẽ không hợp với cô, phải đổi con đường sinh nhai khác. Nhân có người bạn cũ rủ rê, Hường gia nhập đội ngũ gái giang hồ, bước đầu tập sự rước khách ở Gò Vấp. Cô ngạc nhiên và vui mừng vì ngay những ngày đầu
nhập môn, đã thấy nghề này coi bộ không vất vả lắm như cô hình dung trước đây. Tiền chia tứ lục, ngồi mát ăn bát... mì, nhàn hơn cả đi ở đợ. Khi đã bắt đầu dày dạn, ra đường không còn phải cúi mặt nữa, Hường luân phiên di chuyển đến những cứ điểm mới như cầu Hàng, Tân Bình, Lê Văn Duyệt...v..v.. để lúc nào cô cũng là khuôn mặt mới đối với khách tìm hoa.
Quân đội đồng minh đổ vào càng ngày càng đông, làm nảy sinh những dịch vụ kinh tế phức tạp chỉ có trong xã hội thời chiến. Giống như giới xích lô và taxi, một số gái làng chơi quyết định chỉ kén khách ngoại quốc để nhận thù lao cao gấp bội người bản xứ. Hường cũng nằm trong số đó. Cô đổi vùng hoạt động, bỏ Xóm Mới xuống Biên Hoà, nhắm vào thị trường khổng lồ tại căn cứ Long Bình. Anh ở thành Sơn chạy giặc về. Em từ... Xóm mới cũng ra đi! Mọi việc xuôi chèo mát mái được khoảng hai năm thì Hường có bầu mà dĩ nhiên không biết ai là tác giả. Đồng nghiệp có người khuyên Hường phá thai. Tú bà lại càng hối thúc dữ dội, bởi dưới con mắt chuyên nghiệp, bà biết Hường chưa đến nỗi phế thải, ít lắm cũng còn mang lại lợi tức cho bà khoảng hai ba năm nữa. Nhưng Hường sợ lắm, không dám dứt khoát. Rồi cứ lần lữa mãi cho đến khi cái thai lớn quá, muốn đẩy ra cũng muộn mất rồi, đành nằm nhà chờ ngày sinh nở rồi tính sau.
Chín tháng mười ngày, Hường vào nhà hộ sanh tư ở Tam Hiệp, cho ra đời đứa bé trai hơn bốn ký, góp mặt với nhân loại đau khổ. Sinh nở lần đầu nhưng tương đối dễ dàng, mẹ tròn con vuông, không có gì trắc trở. Duy chỉ có điều đáng nói là lúc mang bầu, hình như Hường uống nhiều cà phê và coca quá, cho nên thằng nhỏ đen thui như cột nhà cháy! Con nào thì cũng yêu thương cả, dù Mỹ đen hay Mỹ trắng. Chỉ khổ một nỗi là ở vào hoàn cảnh Hường, vác đứa bé kè kè bên nách thì còn làm ăn gì được! Hường đành gạt nước mắt giao con cho cô nhi viện, ở đó có những nữ tu Công giáo ngày ngày chăm sóc đàn trẻ bơ vơ. Thằng bé khai sinh theo họ mẹ, được các bà sơ cho rửa tội, lấy tên một vị thánh da đen là Martin làm bổn mạng và các dì gọi nó là Thiện, Martin Huỳnh văn Thiện, hàm ý nhắc nhở nó mai này lớn lên phải sống theo con đường lành.
Hường nghỉ hộ sản mấy tháng rồi lại quay về nghề cũ. Cô nhìn đăm đăm những người lính da đen đến với cô, cố để ý xem có gã nào hao
hao giống gương mặt thằng con mình chăng, nhưng đành chịu, bởi da đen người nào cũng tương tự như nhau, khó mà phân biệt nổi! Mà cũng chẳng cần. Bởi cô có nuôi nó nữa đâu! Cô trở lại thăm hai ba lần, hững hờ nhận tờ giấy khai sinh nhét vào bóp, rồi từ đó hai mẹ con không gặp nhau nữa.
Martin Huỳnh văn Thiện lớn nhanh hơn đám trẻ cùng tuổi, mặt mũi tuy đen đủi nhưng tính nết rất hiền lành, suốt ngày chỉ nhe hàm răng trắng nhởn, cười cười với bất cứ ai đến gần. Chưa biết đọc biết viết, nó đã thuộc lòng khá nhiều kinh bổn và thuần thục sống theo khuôn mẫu nề nếp của cô nhi viện, làm hài lòng những người bỏ công chăm sóc nó. Chỉ có là điều là chung quanh Thiện, những đứa trẻ thuần chủng đều nhìn nó bằng ánh mắt chế giễu, xúm nhau chọc ghẹo, gọi nó là “Tây đen rạch mặt” hoặc “anh Bảy Chà kem Hynos”. Dĩ nhiên nó cũng biết buồn, bởi thấy mình lạc loài không giống ai. Nhưng bản tính bẩm sinh rụt rè, thà chịu lép vế chứ không gây gổ với lũ trẻ trêu chọc, dù nó to xác hơn. Những khi bị bạn bè chọc ghẹo quá trớn, nó chỉ biết tủi thân bày tỏ sự lẻ loi của mình với các dì phước để mong nhận một lời bênh vực hay an ủi. Hạn hữu lắm, khi có đoàn xe lính Mỹ đi ngang, trong đó nổi bật vài quân nhân da đen, thể nào cũng có đứa hỏi nó:
- Mày coi kỹ xem, ông nào là ba mày?
Chính những lúc ấy là giây phút mà thằng Thiện nôn nao hơn cả. Dù chưa hiểu rõ cuộc đời, nhưng chỉ căn cứ trên những chọc ghẹo của bạn bè, nó cũng mơ hồ biết mình không thuộc về mảnh đất Việt Nam này. Mẹ nó là ai, nó không hình dung được, dù chỉ mờ nhạt. Cha nó lại càng bí mật. Một người lính nào đó có thể đã về Mỹ, hoặc đã chết trận từ lâu, để lại mình nó mang nỗi buồn sắc tộc lạ hoắc trong xã hội này.
Chiếm miền Nam được hai tháng, chính quyền địa phương giải tán cô nhi viện, lấy cơ sở làm hợp tác xã. Thằng Thiện mới hơn bảy tuổi, lao ra đời tự lưc cánh sinh. Chính sách hộ khẩu rất khắt khe, lại thêm đời sống kinh tế đang xáo trộn, chẳng ai dám chứa nó trong nhà, nhất là hình hài nó có thể gợi thêm mối căm thù đế quốc Mỹ mà Đảng và nhà nước còn đang chất chứa trong lòng. Cùng với mấy đứa nữa, nó nhảy lên chiếc xe lam chở than, về tới Sài gòn và bản năng sinh tồn bắt nó phải biến chất nhanh chóng để đương đầu với những va chạm thường nhật trên hè phố, dưới gầm cầu, ngoài xa cảng. Nó làm đủ mọi
nghề, kể cả ăn cắp vặt, nhưng rất khó thành công bởi vác mặt tới đâu người ta cũng nhận ra ngay. Những đứa trẻ sống vất vưởng đồng cảnh ngộ, kết thành nhiều phe nhóm ở đầu đường xó chợ, nhưng không băng nào chứa chấp nó, bởi nó là thằng “Tây đen”. Đi đến đâu nó cũng bị xua đuổi, thậm chí đoàn Thiếu Nhi Bác Hồ cũng không muốn nó quàng khăn đỏ bởi khi sinh thời, bác không hề thương con nít Mỹ lai! Không có người bên cạnh nhắc nhở, Thiện quên luôn việc đọc kinh hằng ngày và thậm chí lờ luôn cả lễ chúa nhật.
Ba năm sau, Thiện vừa mười tuổi nhưng vóc dáng lớn như đứa mười ba mười bốn. Cuộc sống bụi đời tạm chấm dứt vì nó được vợ chồng ông Chuẩn, chủ lò rèn tại ngã tư Bảy Hiền, đem về chung sống để ngày ngày học việc và cho ông sai bảo. Nó mau chóng làm quen với những sinh hoạt thường nhật của một gia đình Bắc kỳ Công giáo di cư, sớm tối đọc kinh lần hạt và sáng chúa nhật, dù bận đến đâu cũng phải đi lễ nhà thờ. Bao nhiêu kinh bổn học thuộc lòng từ thuở lên bốn lên năm ở cô nhi viện, tưởng rằng suốt đời không dùng tới nữa, bây giờ lại phải moi trí nhớ ra để cùng với cả nhà, khoanh tay ngồi đọc trước khi đi ngủ.
Ông bà Chuẩn thuộc loại đạo gốc, sốt sắng hết mức, giữ đạo khắt khe theo lối cổ truyền trong bất cứ hoàn cảnh nào. Ông đem thằng Thiện về ở, xin giấy tạm trú cho nó nhập chung hộ khẩu, không phải vì thương đứa trẻ bơ vơ mà ông thường thấy nằm ngủ trước cửa lò rèn vào mỗi buổi sáng. Lý do chính khiến ông mở lượng hải hà đón đứa con lai vào nhà là vì ông cần người giúp ông những việc vặt vãnh. Ba đứa con ông, một trai hai gái, không đứa nào muốn nối nghiệp ông, dù nhà nước vẫn đang hết lời ca ngợi lao động. Đốt lò, thụt ống bễ, nung sắt, rèn dụng cụ, tra cán cuốc cán dao và thậm chí đẩy xe ba gác đi mua than, nói chung toàn là việc nặng nhưng Thiện đều vui vẻ chấp nhận bởi ít ra cũng có một mái nhà nương thân trong những ngày mưa, và cái không khí gia đình mà nó từ lâu thiếu vắng.
Phong trào thủy lợi, chiến dịch đẩy dân đi kinh tế mới hoặc hồi hương, nền kinh tế kỹ nghệ thụt lùi xuống thủ công nghiệp... tất cả những thứ ấy giúp cho lò rèn của ông Chuẩn bận rộn suốt ngày. Nhưng dù bận hay không bận thì cũng chả ảnh hưởng gì đến lợi tức của thằng Thiện, bởi thực sự nó lao động không lương, chỉ được ông Chuẩn nuôi
ăn ngày hai bữa mà thôi. Không sao! Thế cũng tốt lắm rồi. Thiếu gì gia đình lúc này phải ăn độn quanh năm hoặc thậm chí cả nhà chỉ có dăm củ khoai hay nồi cháo loãng. Vợ chồng ông Chuẩn có cơm trắng thường xuyên. Lâu lâu gặp ngày trúng mối, thêm dĩa đồ nhậu với chai bia quốc doanh ông cho Thiện ăn ké, nhìn quanh vẫn thấy hạnh phúc hơn người. Thảng hoặc có ai dại mồm xúi thằng Thiện đòi ông Chuẩn phải trả lương, thì ông sẽ lớn tiếng nạt ngay:
- Ăn cơm hay ăn cám mà dốt thế? Tao xem mày như con cái trong nhà, chứ có phải kẻ ăn người làm đâu mà mày đòi giả lương! Bà Chuẩn mạnh miệng hơn, chỉ ngay vào mặt nó mà quát: - Không muốn ở đây nữa thì xéo ngay! Bà không cần! Rõ thật là nuôi ong tay áo! Cơm ăn một ngày bằng hai ba đứa khác, tao đã không tính, còn dám mở mồm nói càn! Cút ngay, cho tao khỏi ngứa mắt! Cái thứ bạc như mày, rồi không ngóc đầu lên nổi đâu con ạ!
Thiện ngồi im lặng, cúi đầu tỏ vẻ nhận lỗi và dần dần coi như cuộc đời mình sẽ vĩnh cửu gắn liền với cái lò rèn này. Nó ăn khoẻ, lớn nhanh, ba năm sau đã cao lêu nghêu như cây sào. Nước da bẩm sinh vốn đen kịt, ngày ngày ngồi bên lò lửa càng bóng loáng vì mồ hôi và lấm tấm bụi than từ đầu đến chân. Mỗi khi phải thay ông Chuẩn đi thủy lợi, Thiện vô cùng khổ sở, không phải vì công tác nặng nhọc mà vì đám thanh niên thay nhau chọc ghẹo. Càng lớn lên, nó càng nhận rõ sự lạc lõng của mình và tủi thân vì chung quanh dường như không hề có một ai thân thiết. Ngay cái gia đình ông Chuẩn mà nó tự coi là người trong nhà, cũng chẳng có người nào bày tỏ mối thiện cảm gắn bó với nó. Rõ ràng trước sau nó chỉ là một thằng ở không hơn không kém.
Ba đứa con ông Chuẩn, thằng Tiêu mười sáu tuổi, đã đành là không coi Thiện ra gì rồi, mà đến con Hồng, con Lĩnh, thua nó mấy tuổi mà cũng vẫn gọi nó bằng mày và sẵn sàng quát nạt nó bất cứ lúc nào. Tiền kiếp nó là nô lệ chăng, mà sao ai cũng hất hủi! Đến con Hoa ngồi bán khoai luộc xéo xéo bên kia đường mà Thiện vẫn lấm lét ngó sang, vừa nghèo vừa xấu, thế mà cũng chẳng coi Thiện ra gì. Buổi trưa, Thiện thường tạt qua, mua khoai vừa ăn vừa ngắm, mặc dù ai cũng thấy con Hoa ngó Thiện bằng ánh mắt khinh bỉ, có thể nhổ nước miếng mỗi khi Thiện tán tỉnh. Dưới cái nhìn của con bé bán khoai, Thiện chỉ như con giun tương tư một vì sao trên trời mà thôi, ngàn đời không thể với tới
được!
Thiệu thụt ống bễ thêm mấy năm nữa thì lò rèn của ông Chuẩn càng ngày càng vắng khách. Nhà nước thay đổi chính sách, buông lỏng nền thương nghiệp tư doanh, khiến dân thành thị nhanh chóng bung ra lề đường buôn bán. Vùng kinh tế mới Lê Minh Xuân toàn nước phèn, sau hàng triệu công lao động đổ vào để cải tạo đất, tham vọng biến thành nông trường trồng lúa, rốt cuộc chỉ có cây bình bát và vài luống dứa sống được. Thủy lợi trở thành lỗi thời. Tăng gia trồng tỉa không còn là trò hấp dẫn nữa. Những công viên quanh thành phố mới hôm nào lên luống trồng khoai trồng bắp, nay để trơ lại tàn tích làm trò cười cho thiên hạ bàn tán. Những cái cuốc, cái xẻng, con dao, cái búa... cứ vắng dần trên thị trường vì ít ai ngó tới. Ông Chuẩn thấy sự hiện diện kềnh càng của Thiện trong nhà là một phí phạm to lớn khiến cả nhà ngứa mắt vì nó làm ít ăn nhiều. Làm ít không phải vì Thiện lười mà vì lò rèn thiếu việc. Bà Chuẩn lại càng sốt ruột đi ra đi vào, muốn tống cổ Thiện khỏi gia đình bà càng sớm càng tốt vừa vì lý do kinh tế mà nhất là vì hai cô con gái bà vừa lớn vụt lên ở tuổi 16 và 18, để Thiện trong nhà nguy hiểm.
Thiện buồn lắm, muốn mang dòng máu đế quốc gia nhập bộ đội hay thanh niên xung phong nhưng ngại cách mạng không nhận! Ở tuổi nó, nhiều thằng đang phấn đấu để vào Đoàn, vào Đảng. Nó tự hỏi, nó có thể phấn đấu để trở thành một đảng viên da đen đầu tiên của đảng Cộng sản Việt Nam hay không? Trước mắt, khi ông bà Chuẩn, mà đã từ lâu nó kêu bằng bố mẹ, không muốn nhìn thấy nó ngồi không ăn bám, thì nó phải tìm cách lánh mặt càng nhiều càng tốt. Nó thủ thì với ông Chuẩn, năn nỉ ông cấp cho chút tiền, mua ít đồ nghề ra lề đường ngồi vá bánh xe đạp, tối mịt mới trở về, lăn ra ngủ. Biện pháp ấy giúp bà Chuẩn và ba đứa con, Tiêu, Hồng, Lĩnh, khỏi ngứa mắt vì rất ít khi còn thấy mặt Thiện. Với chính Thiện, thoát ra ngoài như thế cũng làm nó thoải mái hơn, được gặp thêm người nọ người kia, ngắm những khu phố sầm uất mới mọc lên mà từ lâu vì thời khoá biểu khắt khe của ông Chuẩn tại lò rèn, nó chưa hề biết đến. Nghèo thì đã đành là nó chấp nhận, nhưng cái buồn sâu kín làm khổ tâm nó hơn hết là những khát khao tình cảm. Tuổi đã trên hai mươi, không hy vọng gì sẽ gặp được một người con gái rộng lượng đến độ sẵn sàng ôm ấp tấm thân đen đủi
của nó. Những lúc vắng khách ngồi không, Thiện thường tựa đầu vào gốc me, não nuột hát nho nhỏ những bản nhạc tình ray rứt và đôi khi cảm động đến chảy nước mắt. Nhiều hôm chán chường vì mưa gió ủ ê suốt buổi chiều, Thiện dẹp đồ nghề, nép vào hàng hiên bên cạnh trú ẩn. Thời giờ trôi quá chậm như ngừng hẳn lại, Thiện muốn về nhà nằm nghỉ mà không dám, bởi biết gia đình ông Chuẩn, nhất là hai cô con gái, không bằng lòng. Thiện thấy rõ cuộc đời mình hoàn toàn bế tắc giữa xã hội bao la mà không có một chỗ nào dành cho nó.
Một hôm Thiện bị cảm, bất đắc dĩ phải thu đồ về sớm. Nhà chỉ có mình Hồng đang giặt quần áo, hầm hầm hỏi Thiện:
- Thằng kia! Làm ăn ra thế nào mà vác mặt về sớm thế? Thiện đi thẳng vào bếp, cất đồ nghề và ngồi xuống bàn ăn, mệt mỏi đáp:
- Nhức đầu quá! Nghỉ một buổi rồi mai đi làm lại.
Hồng bĩu môi:
- Lười thì nói toạc ra là lười cho yên chuyện, bày đặt nhức đầu nhức óc! Thứ mày trời đánh không chết, dễ gì nhức đầu! Ra đây tao nhờ một tí. Kéo cho tao mấy thùng nước, nhanh lên!
Thiện ngồi yên, buồn rầu đáp:
- Bình thường chị sai gì tôi cũng làm. Hôm nay tôi ốm thật, không ngồi vá xe được. Chị cho tôi nằm nghỉ một lúc, lát nữa khoẻ tôi lại đi! Hồng đứng bật dậy, xăm xăm bước tới, chỉ tay vào mặt Thiện: - Bố mẹ tao nuôi mày từ bé đến bây giờ, để mày ngồi chơi à? Liệu không ở nổi đây thì cuốn gói mà đi cho khuất mắt. Đừng để tao phải đuổi!
Thiện thở dài đi kiếm thuốc uống. Nó đã quen với thái độ hống hách của Hồng từ lâu, nên những lời nặng nề ấy không làm nó nhức nhối lắm. Nó nằm lăn ra giường, xoay mặt vào vách, mặc cho Hồng tiếp tục vừa giặt vừa chửi. Nó nhắm mắt lại, cố ngủ một giấc cho khoẻ. Thà ra lề đường ngồi nhìn thiên hạ qua lại còn hơn nằm đây nghe Hồng xỉa xói. Trong nhà này, Thiện thấy rõ không ai có cảm tình với mình cả. Riêng Hồng thì chẳng những căm thù Thiện mà còn oán cả cha mẹ nàng vì đã làm một việc vô lý là đón Thiện về ở chung.
Hồng oán cha mẹ cũng phải, bởi từ lâu rồi, bạn bè nàng có đứa đã đi quá trớn, hỏi đùa một câu ngoài sức tưởng tượng của Hồng: “Bà già mày ngủ với Mỹ đen hồi nào mà đẻ ra thằng Thiện vậy?” Đứa khác còn phịa ra cả một chuyện tình đầy uẩn khúc giữa mẹ Hồng và anh lính Mỹ
đen, sanh con rồi gửi chỗ khác, mười tuổi mới dám đem về. Hồng ngứa gan lắm, chỉ muốn tống Thiện đi để đừng ai nhắc đến nữa. °
° °
Mấy hôm sau, Thiện tình cờ ghé vào tiệm sửa xe Vĩnh Hiến ở đầu chợ để mua thêm ít ruột và vỏ xe hơi, làm vật liệu vá bánh xe đạp. Thấy chủ nhân đã lớn tuổi mà chỉ có một mình, Thiện tò mò hỏi chuyện và khám phá ra ông đang cần người thay thế anh công nhân vừa bỏ ông, đi mở tiệm riêng. Thiện ngỏ lời xin việc. Ông Vĩnh Hiến hỏi qua kinh nghiệm rồi cho Thiện làm thử. Xe gắn máy thì Thiện chưa biết gì. Nhưng các thứ bệnh của xe đạp thì Thiện gần như thông thạo cả. Thiện nhanh nhẹn, chăm chỉ và nhất là có sức khoẻ, đỡ đần chủ được rất nhiều việc nặng. Ông Vĩnh Hiến hài lòng lắm, tự đảm trách phần xe gắn máy, giao đứt xe đạp cho Thiện, cửa tiệm chiếm nửa căn phía trước, ăn ở ngay phía sau. Nhà rất vắng vẻ, bởi các con ông đều đã ở riêng và không đứa nào chứa ông vì giận ông có vợ nhỏ. Với Thiện, mới vài ngày ông đã thấy hợp ý nên thường rủ nó ở lại nhậu lai rai, tán dóc đủ mọi chuyện đời y như thân thiết từ lâu lắm.
Làm với ông Vĩnh Hiến được một tháng, Thiện lân la xin ông cho ngủ lại luôn tại tiệm vì đi về quá bất tiện. Buổi tối khi đóng cửa, Thiện chỉ việc thu dọn đồ nghề, mở cái ghế bố ra là yên ổn, không làm phiền gì đến chủ nhân bên trong. Việc kiểm tra hộ khẩu lúc này không còn khắt khe như trước nữa, nên ông dễ dàng chấp nhận lời khẩn khoản của Thiện để chính ông cũng đỡ cảm thấy cô độc. Thiện mừng khôn tả. Giả như ông không cho ở đây, chắc Thiện cũng phải tìm cách dọn ra khỏi nhà ông Chuẩn, kiếm chỗ khác, bởi gã đã chịu hết nổi thái độ thù nghịch của Hồng và Lĩnh.
Thiện ghé lò rèn từ giã ông bà Chuẩn rối khăn gói ra đi, thề độc trong lòng là không bao giờ còn quay trở lại nhìn mặt hai đứa con gái mất dạy đó nữa. Ông Chuẩn chiều con gái, không hề bày tỏ một lời níu kéo dù là giả tạo vì sợ Thiện đổi ý ở lại thì chỉ càng nhức đầu thêm.
Ông cũng không hỏi Thiện sẽ đi đâu, làm gì và mời gã lâu lâu có dịp về thăm. Thái độ thản nhiên của ông làm Thiện tủi thân muốn oà lên khóc. Chả gì gã cũng đã sống với ông tói mười năm, chia sẻ những nhọc nhằn ở cái lò rèn vất vả này từ tuổi mới bước vào đời. Hoá ra ông cũng như đàn con, chẳng có chút tình nghĩa nào cả! Thiệu rươm rướm nước mắt:
- Thưa bố, con đi. Thưa mẹ, con đi.
Ông Chuẩn gật đầu đáp gọn:
- Ừ.
Thiện lững thững đi mấy bước, bà Chuẩn mới lên tiếng: - Ở nhà ai thì cũng phải làm ăn cho tử tế!
Lời dặn dò không phải vì lo lắng cho Thiện mà vì sợ chủ mới không chứa chấp, Thiện lại quay về làm phiền bà lần nữa. Muốn chắc ăn hơn, bà bảo Thiện:
- Tao đã nói với công an khu vực cắt hộ khẩu mày rồi! Đừng có léo hoánh về đây nữa, người ta bắt nhốt thì khổ thân!
Ông Chuẩn thấy vợ mình nhẫn tâm quá, nhưng không dám có ý kiến. Cuộc chia tay đơn giản và nhanh chóng. Thiên sang ngang về nhà mới, vui với công việc, lâu lâu nhớ đến hai cô con gái nhà ông Chuẩn, lòng vừa bực bội vừa buồn cười. Giữ lời hứa, gã không trở lại nhà cũ. Mà gia đình ông Chuẩn, vài tháng sau vô tình khám phá ra chỗ ở mới của Thiện, cũng không hề ghé thăm. Hai bên đều làm như đã quên hẳn nhau. Có hôm chính mắt Thiện thấy Hồng dắt chiếc xe đạp xẹp bánh đi ngang qua cửa tiệm của Thiện mà nhất định không tạt vào nhờ sửa. Nàng phải đẩy thêm một khúc đường khá xa mới tìm ra chỗ vá. Thiện lắc đầu mỉm cười, chạy hẳn ra ngoài hè ngó theo, cho đến khi bóng Hồng mất hút, mới quay vào làm việc tiếp.
Một buổi tối, bà vợ bé ông Vĩnh Hiến đến tiệm. Rất ít khi bà tới đây vì một lần đã bị con gái ông Vĩnh Hiến chửi bà là người đào mỏ, mặc dầu ông Vĩnh Hiến không hề có mỏ cho bà đào! Vốn liếng một đời của ông chỉ là căn nhà tầm thường này mà thôi. Của chìm của nổi ông đều không có. Thường thì mỗi buổi tối, sau khi cơm nước, chính ông Vĩnh Hiến hay tìm sang với bà, ngồi tâm sự cho tới khuya rồi về ngủ.
Lần đầu tiên nhìn thấy một thằng lạ mặt, đen thui, đang kéo chiếc ghế bố ra giữa nhà, bà giật mình nhìn gã ngơ ngác rồi đi nhanh vào trong, trợn mắt hỏi ông Vĩnh Hiến:
- Thằng quỷ nào nằm ngoài kia thế?
Ông Vĩnh Hiến giải thích với bà về Thiện, không quên ca ngợi tính tình hiền lành của Thiện để bà an lòng. Nhưng bà gắt lên: - Người với ngợm như thế mà dám rước vào nhà! Nó cắt cổ lúc nào không biết! Thời buổi này biết tin ai! Nom cái mặt nó tợn như thế mà dám cho nó ngủ bên cạnh! Sao mà ông dễ tin người đến vậy! Rồi bà ra nghiêm lệnh bắt ông ngay ngày mai phải đuổi Thiện đi. Ban ngày đến làm, tối ngủ đâu thì ngủ, không được ở lại. Lúc sắp ra về, bà còn nhắc ông một lần nữa:
- Từ mai trở đi, ông mà còn chứa thằng này thì đừng có gặp mặt tôi nữa! Ông không nghe tôi, có ngày mang vạ vào thân cho mà xem! Ông Vĩnh Hiến vốn có thói quen nghe lời vợ bé - mà thường thì đàn ông ai chả nghe lời vợ bé hơn vợ lớn - huống chi chỉ vì thương ông, lo cho ông, bà mới đưa ra lời cảnh cáo ấy. Ông nhìn lại khuôn mặt đen đủi của Thiện và chợt nhận ra nó đáng sợ thật. Quanh ông, biết bao nhiêu án mạng vì cướp bóc, trấn lột, xảy ra hằng ngày như cơm bữa. Sao ông lại dại dột rước một thằng lạ hoắc vào nhà để ôm mối lo hằng đêm? Ông nằm suy nghĩ, tìm một câu nói dối cho hợp lý và hôm sau, ông bảo Thiện kiếm nơi khác vì đứa cháu ông bán dừa xiêm, ban đêm cần mướn chổ để đẩy xe ba gác vào gửi ở đây.
Thiện ngồi thừ người, không biết sẽ đi đâu. Gã ngạc nhiên chẳng hiểu tại sao ông Vĩnh Hiến lại không muốn chứa gã, mặc dầu gã rất tử tế, phụ giúp ông cả những việc trong nhà như rửa bát, bổ củi, xách nước cho ông tắm... Dù sao, ông đã nói thế thì gã phải ra đi. Gã khẩn khoản câu giờ:
- Ông cho cháu thêm mấy bữa, cháu kiếm nhà. Mướn được chỗ khác, cháu đi liền.
Từ hôm ấy, mặt Thiện buồn so, ngồi sửa xe mất hết hứng thú. Không bà con thân thích, cũng chẳng có bạn bè, gã biết nương thân chốn nào? về với ông bà Chuẩn thì dứt khoát là không thể được. Thiện hình dung ra mấy tháng nay, chắc chị em Hồng Lĩnh đã nhiều phen ăn mừng vì
tống được Thiện ra khỏi nhà. Thái độ lạnh nhạt của ông bà Chuẩn hôm chia tay ở lò rèn càng làm Thiện hận hơn nữa! Có vác mặt về năn nỉ cũng chỉ mang thêm nhục mà thôi. Ông Vĩnh Hiến thì ngày nào cũng nóng ruột hỏi Thiện tìm được nhà chưa, làm gã càng thêm rối trí. Bản thân ông không muốn đuổi Thiện, bởi có gã bên cạnh, ông cũng đỡ cô độc khi tối lửa tắt đèn. Huống chi gã đỡ đần ông đủ mọi việc, chỉ đổi lấy một chỗ ngủ, dại gì ông từ chối. Nhưng vợ bé ông đã ban chỉ thị, ông không thể cưỡng lại được. Tạm thời, cơm tối xong, ông bảo Thiện đi lang thang đâu đó, chắc ăn là sau mười một giờ hãy về, tránh cái khoảng thời gian mà bà vợ bé hay lui tới, gỡ gạc trước khi về ngủ. Kể ra thì cũng bất tiện lắm, bởi Thiện chẳng biết đi đâu. Nhưng không đi không được, nó đành lang thang thả bộ dọc theo những con đường tương đối sầm uất, nhìn ngắm những hàng quán mọc lên san sát mấy năm gần đây. Có khi đứng ngắm những sập hàng bán máy móc hiện đại, cho đến lúc người ta chuẩn bị thu dọn thì gã cũng uể oải ra về.
Tính kỹ như thế mà vẫn không thoát nạn. Một tuần sau, đêm đã khuya, bà vợ bé ông Vĩnh Hiến trở lại, giật mình thấy Thiện còn nằm lù lù tại chỗ cũ. Bà không nói gì, hầm hầm bỏ về ngay khiến ông tái mặt chạy theo năn nỉ. Thà rằng bà quát tháo ồn ào, ông không sợ bằng cách trừng phạt im lặng. Ông thề với bà, bảo ngay ngày mai thằng Thiện sẽ
không còn hiện diện tại nhà ông nữa. Và lần này dĩ nhiên ông giữ lời, ngậm ngùi bảo Thiện ra đi. Bữa cơm tối hôm ấy, ông mua về một gói thịt chó khá lớn. Mắm tôm, húng, riềng, ớt, chanh… đầy đủ cả. Gọi là chút quà để đưa tiễn thằng nhỏ ra ngủ ngoài lề đường. Ông ngượng ngùng bảo nó:
- Không phải tao muốn đuổi mày. Nhưng mà bà đã báo công an khu vực là mày không có hộ khẩu ở nhà tao. Mày rán kiếm chỗ nào nằm bậy bạ một thời gian. Lâu lâu rồi bà quên đi, thì lại về đây với tao. Tao không muốn làm khó mày đâu, nhưng mà rủi công an xét hộ khẩu, bắt mày về phường, khổ cả mày lẫn tao!
Thằng nhỏ im lặng không biết nói gì hơn. Nó thông cảm hoàn cảnh khó xử của ông Vĩnh Hiến. Chính mắt nó đã chứng kiến cái đêm bà vợ bé vùng vằng bỏ đi và ông Vĩnh Hiến khổ sở rượt theo, hết lời nài nỉ. Nó không nỡ để ông Vĩnh Hiến gặp thêm rắc rối. Dù sao, ông đối với nó cũng có tình nghĩa hơn cả nhà ông bà Chuẩn. Câu chuyện hộ khẩu mà
ông đem ra để biện minh cho cách xử sự của mình, thật ra chính nó cũng hiểu là gượng ép. Một hai năm nay, vấn đề kiểm tra hộ khẩu không còn khắt khe như trước nữa. Những người đi kinh tế mới phần lớn đã trở về, sống bửa bãi ở bất cứ chỗ nào có thể sống được. Gia đình thương binh liệt sĩ cắm dùi đầy thành phố, chính quyền bất đắc dĩ phải làm ngơ vì không còn khả năng kiểm soát như mấy năm đầu mới thống nhất đất nước. Nó thản nhiên bảo ông Vĩnh Hiến:
- Ông đừng lo. Cháu có chỗ ngủ rồi!
Ông Vĩnh Hiến nói như reo:
- Ủa, vậy sao? Mày nói vậy tao cũng mừng! Bộ mày về lại nhà thằng cha lò rèn hả?
- Đâu có. Cháu ngủ ngoài chợ. Ngoài ấy thiếu gì chỗ nằm. Ông Vĩnh Hiến cúi đầu thương cảm nhưng không đủ khả năng giải quyết. Bữa ăn trở nên nặng nề hơn. Cả hai cùng trở nên ít nói, lặng lẽ thanh toán hết phần thịt chó còn lại. Thằng Thiện ở lại rửa chén, quét nhà như thường lệ. Xong hết mọi chuyện mới dắt xe ra, đạp về hướng ngã ba Ông Tạ, tìm một cái sạp trống trong nhà lồng chợ, trải chiếu nằm ngủ.
Ngày tháng trôi nhanh, Thiện làm quen rất mau với thời khoá biểu lao động hàng ngày. Sáng sớm, mới khoảng bốn năm giờ, bạn hàng đi chợ đã ồn ào khua nó dậy, mặc dầu nó đã rút kinh nghiệm từ buổi đầu, nằm ngủ ở góc vắng nhất, xa hẳn con đường lưu thông xe cộ. Mắt nhắm mắt mở, nó gấp chiếu và tấm đắp, cuốn hết lại, chất lên sau xe đạp, rồi phóng đi tìm một quán cóc ngồi uống cà phê hay ăn cháo. Bảy giờ, nó trở về tiệm sửa xe, đập cửa đánh thức ông Vĩnh Hiến và bắt đầu làm việc. Thôi thế cũng xong, cứ tạm thời coi như đã ổn định. Ban ngày ngửi hơi dầu mỡ, đêm đêm làm quen với mùi rác rến còn sót lại sau một ngày họp chợ. Một thứ định mệnh thấp hèn bám lấy đời nó từ lúc sơ sinh và chẳng có một tia hy vọng nào rọi vào tương lai của đứa trẻ lạc loài nạn nhân chiến cuộc.
Nhưng một hôm, Thiện đang uốn lại cái vành xe cho khách thì ông bà Chuẩn đích thân tìm đến. Nó ngơ ngác trố mắt nhìn nửa mừng nửa sợ. Ông Chuẩn ngồi xuống bên cạnh, âu yếm trách:
- Bố tưởng con đi làm ăn đâu xa! Hoá ra vẫn quanh quẩn ngay ở đây mà không chịu tạt về thăm nhà! Thằng này thật là tệ!
Bà Chuẩn thiết tha hơn:
- Cả nhà tìm con mãi! Cái Hồng với cái Lĩnh nó nhắc con luôn miệng. Nghe bảo con dọn sang bên Khánh Hội, hai đứa đạp xe sang tận bên ấy, hỏi thăm khắp nơi, chả thấy tăm hơi gì cả!
Thằng Thiện há mồm nhìn ông bà Chuẩn, không hiểu nổi sự đổi thay lạ lùng trong lòng người. Ông Chuẩn thì nó còn tạm tin được là có chút tình nghĩa với nó. Chứ bà Chuẩn và nhất là hai cô con gái mà bỏ công lặn lội đi tìm nó thì thật là chuyện hoang đường. Ông Vĩnh Hiến ngồi hút thuốc lào sau cái tủ để đồ phụ tùng, lại càng ngạc nhiên hơn về thái độ của ông bà Chuẩn đối với thằng Thiện. Bởi chính ông đã nghe nó nhắc đi nhắc lại nhiều lần về những năm chung sống trong gia đình ông Chuẩn, trước khi bị tống cổ ra đường, tìm đến với ông. Ông hết nhìn Thiện lại ngó ông bà Chuẩn, chẳng hiểu giữa cặp vợ chồng già kia và thằng con lai, ai là người nói dối!
Bà Chuẩn nhắc Thiện ngày mai nhà có đám giỗ, đồng thời xin phép ông Vĩnh Hiến cho Thiện được nghỉ một hôm để gia đình tề tựu. Thiện nhíu mày ngẫm nghĩ. Ở với ông bà Chuẩn suốt mười năm, dĩ nhiên Thiện biết hết những ngày giỗ kỵ trong gia
đình. Tín đồ Công giáo không ăn giỗ rềnh rang, nhưng những ngày đó bao giờ cũng xin lễ đọc kinh tại nhà thờ để cầu nguyện cho linh hồn người đã khuất. Thiện nhớ rõ ngày mai không phải là một trong những ngày ấy. Tuy vậy nó không dám hỏi lại, chỉ thầm hả hê trong bụng vì không ngờ ông bà Chuẩn hạ mình đến mời nó về. Nó cảm động ướm thử:
- Bố mẹ có lòng thương con, chả nói làm gì. Nhưng về gặp chị Hồng, chị Lĩnh, con không dám!
Ông Chuẩn gạt đi:
- Dạo con còn ở nhà, hai con ranh ấy mới lớn, tính nết ngang ngạnh, chả biết trên biết dưới gì cả! Nhưng bây giờ thì khác rồi. Ngày mai con về mà xem!
Bà Chuẩn chép miệng nói thêm:
- Con đi rồi, mẹ cứ mắng chúng nó mãi đấy! Hai đứa cùng có ý hối, cho nên mới đổ đi tìm con mãi! Gặp lại con, chắc chúng nó mừng lắm! Thôi con ạ, chúng nó trẻ người non dạ, con cũng đừng chấp!
Ông Vĩnh Hiến đang tội nghiệp Thiện đêm đêm phải ngủ ngoài chợ, cho nên dù chưa hiểu rõ câu chuyện, ông cũng đốc thêm vài câu xúi thằng nhỏ trở về và quả nhiên làm Thiện xiêu lòng, quên hết mọi giận hờn cũ.
Ông Chuẩn khoan khoái tạm biệt, dọc đường ân cần dặn vợ chuẩn bị đại tiệc để ngày mai long trọng rước Thiện trở lại mái nhà xưa. Không phải ông chỉ đón Thiện có một ngày mai. Ông sẽ giữ Thiện ở luôn bên ông, chẳng cần đi làm gì nữa cả. Ông sẽ đem hết vốn liếng dành dụm từ trước đến nay để cung phụng Thiện, nắm lấy Thiện trong tay cho thật chắc, đừng để ai cướp mất. Ông họp các con lại và bảo:
- Bố đã đến tận cơ quan, hỏi rõ đầu đuôi ngọn ngành rồi. Hộ nào có nuôi con lai, thì cả hộ đều được xuất cảnh sang Mỹ!
Hồng hăm hở ngắt lời:
- Thì hôm nọ anh Tiêu cũng bảo thế, bố không tin!
Ông Chuẩn gật gù:
- Anh mày có cái tật ăn nói lung tung, làm sao tao tin được... Thật là Chúa ban ơn cách riêng cho nhà ta, nên mới có ngày hôm nay. Bố sẽ đưa nó đi đăng ký, rồi chờ phái đoàn gọi phỏng vấn là xong.
Riêng Thiện thì chưa biết chuyện ấy, chưa biết giá trị của mình đã hoàn toàn thay đổi trên thương trường! Chính phủ Mỹ thoả thuận với Việt cộng sẽ đón hết con lai. Tin đồn lúc ban đầu, bây giờ đang trở thành văn bản chính thức. Thiện không đọc báo, không nghe đài nên hoàn toàn mũ tịt. Không biết rằng cục đất đen đang biến thành vàng rồng! Từ một kẻ mồ côi lớn lên trong sự lạnh nhạt và rẻ rúng của xã hội, chỉ nhờ chính sách nhân đạo của Mỹ mà những đứa như Thiện bỗng chốc được “nâng cấp”, lột xác thành chiếc cầu vững chắc bắc qua đại dương, thành tấm vé máy bay đưa thân nhân về chân trời mới.
Thiện rón rén trở lại nhà ông Chuẩn, mang theo cái ấn tượng ngờ vực trong lòng. Nhưng gã không ngờ mình chỉ lo hão! Cả nhà từ trên xuống dưới đều vây lấy gã, cho gã cái không khí gia đình đích thực mà mười năm nay chưa từng thấy trong căn nhà này. Tiêu ra tận cửa bắt
tay, âu yếm gọi Thiện bằng em. Hồng và Lĩnh xa có mấy tháng, lớn vọt hẳn lên, nhan sắc đang kỳ bộc phát như hoa mai trong ánh nắng xuân, nhìn Thiện cười thân mật, thậm chí can đảm rủ Thiện đi ăn kem để đái công chuộc tội. Bữa cơm cực kỳ thịnh soạn, toàn những món mà bình thường Thiện vốn khát khao, nhưng hôm nay gã không chú ý lắm dù gã vốn háu ăn. Thiện cứ bận tâm nghĩ ngợi mãi, không hiểu tại sao ông bà Chuẩn lại biệt đãi gã và ngạc nhiên hơn nữa là chị em Hồng Lĩnh không còn khinh rẻ gã, kêu gã bằng mày như thường lệ! Chuyện đời bể dâu không biết thế nào mà lường!
Vừa ăn, ông bà Chuẩn vừa kể lể những nhớ nhung ray rứt từ ngày Thiện vắng nhà và dứt khoát bảo Thiện từ nay không đi sửa xe nữa. Thiện tưởng ông Chuẩn muốn gã quay về lò rèn, nhưng ông nói ngay là chỉ nay mai ông cũng dẹp luôn cả lò rèn, nghỉ cho khoẻ! Ăn xong, ông giục thằng con lớn theo Thiện ra tiệm Vĩnh Hiến, phụ gã đem hết đồ đạc về và vĩnh viễn giã từ ông chủ tiệm. Thiện cứ đực mặt ngồi nghe, chẳng hiểu phép lạ nào đã xảy ra trong gia đình này. Tuy vậy gã chưa muốn nghỉ. Gã vẫn sẽ ra tiệm Vĩnh Hiến sửa xe cho đến khi nào chủ tiệm tìm được người khác thay thế, Thiện mới thôi hẳn. Với Thiện, dù sao ông Vĩnh Hiến cũng là người cứu vớt gã lúc gã bị ông bà Chuẩn đuổi đi, cho nên gã không thể quên ơn. Chỉ có điều làm ông bà Chuẩn tạm an tâm là Thiện hứa chắc từ đêm nay, Thiện sẽ ăn cơm và ngủ tại nhà, trên chiếc giường cũ vừa được Hồng trải cho chiếc chiếu mới thay thế cái cũ nhiều rệp quá!
Nhưng rồi chỉ một thời gian rất ngắn, Thiện cũng biết hết ngọn ngành. Thành phố Sài gòn hơn bốn triệu dân, sinh hoạt ngoài đường lúc nào cũng sầm uất hơn trong nhà, là môi trường truyền lan rất nhanh mọi thứ tin đồn dù đúng hay sai. “Đi Mỹ theo diện con lai” mau chóng trở thành câu chuyện thời sự nóng bỏng để từ đó nảy sinh một dịch vụ mới hết sức sôi động trên thương trường. Khắp các hang cùng ngõ hẻm, đâu đâu cũng thấy xuất hiện những tay trung gian dắt mối - ngày nay ngôn ngữ mới gọi là “cò lái” như lái trâu, lái lợn, lái sách và lái người - có nhiệm vụ phát hiện con lai, điều đình trả giá, mua đi bán lại kiếm lời. Con lai nghiễm nhiên là những món hàng thẩy lên ném xuống, giống như chợ người vẫn diễn ra ở các vùng quê Thái Lan.
Nhờ hệ thống tham nhũng khổng lồ phổ biến trên phạm vi cả nước, giấy tờ gì cũng mua được, lý lịch nào cũng đổi được trong nháy mắt, đưa đến hệ quả là có nhiều con lai giả lại xong thủ tục xuất cảnh và lên máy bay trước cả con lai thật! Một số thanh niên nam nữ bẩm sinh có mắt to, mũi cao, da trắng, tuy mang giòng màu Việt Nam thuần nhất, cũng vội vàng lợi dùng thời cơ, ngụy tạo một bản lý lịch, vỗ ngực tự nhận là con lai để được kẻ đón người đưa, kiếm chút tiền tiêu qua ngày. Một số khác sửa mắt sửa mũi, nhuộm tóc vàng hoe, nghênh ngang đi phố để chờ cò lái đến gạ gẫm. Thống kê cả miền Nam ước định chỉ có khoảng 39 ngàn con lai, nhưng giờ đây nhan nhản chỗ nào cũng thấy.
Những đứa trẻ đích thực mang hai giòng máu, suốt tuổi thơ đã phải ôm cái mặc cảm lạc lõng giữa xã hội Việt Nam bảo thủ, bây giờ thời thế đổi thay, hiên ngang xuất hiện để ngước mặt nhìn đời. Trước 75, những cô gái nhà lành làm sở Mỹ, đôi khi bị gia đình oán ghét và thậm chí từ bỏ, nhưng đến lúc sắp mất nước, chính những cô gái ấy lại có phương tiện để đưa cả nhà đi di tản. Những đứa con lai bây giờ cũng tương tự như vậy. Sự hiện diện của chúng đôi khi làm người mẹ xấu hổ vì cái quá khứ ăn ở với người ngoại quốc, nhưng khi chính phủ Hoa kỳ mở cửa đón nhận, thì một đứa con lai lại là cái chìa khoá cho cả gia đình thoát cảnh lầm than. Tái ông thất mã không phải chỉ là mấy chữ để an ủi người gặp bước không may, mà thực tế lắm lúc vẫn đúng trong cuộc đời. Gần 40 ngàn con lai, cứ tính trung bình mỗi đứa kéo theo được một hộ ba người nữa, thì cuối năm 92 sẽ có thêm trên một trăm ngàn người miền Nam đặt chân đến Hoa kỳ. Một trăm ngàn người ấy lại sẽ bảo lãnh tiếp, góp phần nâng dân số Việt nam trên đất Mỹ càng ngày càng lớn hơn.
°
° °
Thiện ngồi ở tiệm Vĩnh Hiến chỉ thêm mấy hôm, đã có hai người đến tiếp xúc. Họ mời Thiện đi ăn uống phủ phê, rồi điều đình trả giá nguyên một lượng vàng để Thiện gật đầu nhập chung hộ khẩu với họ. Mọi thứ giấy tờ họ lo hết, Thiện chỉ ừ một tiếng là xong. Thiện chưa trả lời dứt khoát thì lại có tay cò lái khác xông đến, lái xe hơi hẳn hoi, mời Thiện đi nói chuyện. Lần này Thiện được nâng lên một cây nữa là hai
lượng. Một lượng hay hai lượng đều là những con số quá lớn đối với một đứa nghèo khổ kinh niên như Thiện, cho nên Thiện chưa nhận lời ai, không phải vì gã còn muốn neo giá, mà chỉ vì giờ đây gã hiểu rằng cả nhà ông Chuẩn đang trông mong ở gã, đặt hết kỳ vọng vào gã, ngày ngày nhắc nhở gã công ơn dưỡng dục suốt mười năm bên lò rèn nóng bỏng!
Ông Chuẩn chưa hề ngỏ lời với Thiệun về việc đi Mỹ. Có lẽ vì ông muốn Thiện hiểu rằng, ông đón gã trở lại là do lòng thương chứ không phải vì muốn lợi dụng. Nhưng tất nhiên Thiện biết chủ đích của ông. Mỹ không nhận con lai thì giờ này Thiện vẫn là kẻ xa lạ đối với cả gia đình ông Chuẩn.
Con Hoa bán khoai bên cạnh lò rèn, giờ đây vẫn chưa chồng, ngày trước thường nhìn Thiện khinh bỉ, lúc này cũng đổi thái độ và khuyên Thiện nên chọn gia đình nào trả giá cao nhất thì đăng ký, đừng ngu dại làm đầy tớ không công cho ông bà Chuẩn. Cô bảo:
- Anh coi ổng như cha, mà ổng có coi anh là con đâu! Con Hồng nó nói anh không đáng xách dép cho nó, ở đó mà đòi nhận làm anh! Đời mà anh! Hồi đó nó đuổi anh như đuổi con chó! Giờ rước về đặng xuất cảnh đi Mỹ!
Một tháng sau, có người thợ mới đến xin việc. Giữ đúng lời hứa, chủ nhân làm bữa cơm đãi Thiện vào ngày cuối. Thiện nghỉ rồi, vẫn có người tìm đến hỏi thăm ông Vĩnh Hiến. Ông chẳng có ý định xuất ngoại vì vướng bà vợ nhỏ không hôn thú, nhưng nhân có người đến thăm dò, ông cũng nhận đại Thiện là cháu và bảo họ:
- Tôi thì tôi không đi. Mà thằng cháu tôi cũng chưa quyết định nhập vào hộ nào. Bữa trước có người trả tôi hai cây nhưng tôi chưa chịu! Ông tính làm một áp-phe chớp nhoáng, nhưng người kia tỏ ra kinh nghiệm hơn:
- Tôi bằng lòng trả ông hai cây rưỡi, với điều kiện ngay ngày mai cháu ông phải đi đăng ký hộ khẩu và làm thủ tục xuất cảnh với tôi. Đăng ký xong, tôi chồng liền hai cây. Khi nào được kêu phỏng vấn, tôi đưa nốt nửa cây nữa!
Ông Vĩnh Hiến thấy khó nuốt nên ậm ừ cho qua rồi lặng lẽ bỏ cuộc. Thỉnh thoảng Thiện vẫn ghé thăm ông, mua cho ông tô cháo lòng hoặc
dĩa gỏi gà để ông uống rượu. Trong câu chuyện hàn huyên với Thiện về đời sống mai sau ở Mỹ, ông háo hức vẽ ra cho Thiện một viễn ảnh cực kỳ rực rỡ và nhắc nhở Thiện đừng quên ông nơi quê nhà. Cả hai đều là những người mù xem voi, hình dung Hoa kỳ như một mảnh đất thần tiên, chỉ việc cúi xuống lượm bạc mà ăn chơi, không cần làm gì cả! Và chính vì tin tưởng như thế, ông thấy cái ân sủng của Thiện ban cho gia đình ông Chuẩn quá lớn làm ông ghen tức. Ông dèm một câu dù vấn đề chẳng can dự gì đến ông:
- Ông bà ấy thì có tử tế gì! Đem mày về làm kẻ ăn người ở trong nhà chứ có nuôi nấng gì đâu!
Thấy Thiện không đáp, ông thêm:
- Tao hỏi mày, mày gặp ông bà ấy lúc mày mới mười tuổi đầu! Lẽ ra phải cho mày đi học đi hành như con người ta mới phải chứ! Tại sao bắt mày ngồi thụt lò rèn suốt ngày là thế nào? Ăn ở như thế thì tình nghĩa gì?
Nhận xét của ông làm bừng lên chút buồn hận trong lòng Thiện. Rồi ngay lúc ấy, Thiện nhớ đến câu nói của con bé bán khoai, cũng cùng một cái nhìn về gia đình ông Chuẩn như thế, khiến nỗi ấm ức trong lòng gã càng lớn nhanh hơn. Những thái độ hỗn xược, những lời nói kênh kiệu của Hồng và Lĩnh, phút chốc sống dậy, hiện rõ mồn một trong trí Thiện. Mặt gã đanh lại, môi mím chặt ngó trừng trừng ra đường. Ông Vĩnh Hiến nói đúng! Tại sao Thiện không vào làm con nhà khác, vừa có tiền mà vừa đỡ bị thiên hạ chê cười là ngu ngốc.
Những tay cò lái vẫn tiếp tục tìm đến với Thiện, thậm chí vào thẳng nhà ông Chuẩn để điều đình. Lẽ tất nhiên cũng có nhiều gia đình thực sự nuôi con lai, nhưng vì lý do này hay lý do khác, không muốn xuất cảnh. Họ đem bán kiếm một số vốn cụ thể trước mắt cho chắc ăn. Nhà ông Chuẩn không nằm trong trường hợp hiếm hoi ấy. Ba đứa con khao khát xuất ngoại đã đành, mà ngay cả hai vợ chồng già cũng háo hức không kém. Họ không hình dung được khi sang Mỹ họ sẽ ra sao, nhưng thấy lối xóm cứ vài tuần vài tháng lại có gia đình mở tiệc từ giã, làm họ nôn nao chịu không nổi! Nhà không có người thân ở nước ngoài để bảo lãnh, ông chỉ còn bám víu vào
đứa con lai là con đường ngắn nhất, dễ nhất và an toàn nhất để bay qua đại dương. Ông nghe kể chuyện những người vượt biển, trải qua
bao nhiêu gian khổ đắng cay, bây giờ bị đuổi về dù có người đã mổ bụng để phản đối. Trong khi đó, chỉ cần vồ một đứa con lai, cả nhà lên phi cơ thong dong về nơi đất hứa. Chắc là cái hồi nhà nước phá hủy nghĩa địa Đô thành, ông bốc mộ cụ thân sinh mang đi chôn lại tại Bà Quẹo, tình cờ táng đúng “hàm ếch” nên gia đình mới có cái lộc thiên mã sắp tới. Nghĩ thế, ông rất lo sợ mỗi khi có người đến hỏi thăm Thiện. Ông thường xuyên nhắc nhở Tiên dẫn Thiện đi chơi, bám sát bên Thiện, đừng để kẻ lạ lung lạc. Hồng và Lĩnh cũng có nhiệm vụ săn sóc Thiện, coi chừng gã lọt vào tay đứa khác. Hai chị em lúc này đi bên Thiện không còn cảm thấy mắc cỡ nữa, bởi thiên hạ nhìn vào, ai cũng biết hai cô sắp xuất ngoại.
Sự ân cần của hai cô lộ liễu quá đến độ có lúc Thiện đã dám lãng mạn mơ tưởng một ngày nào đó Hồng sẽ trở thành người yêu của gã! Và bà Chuẩn thì lo âu ra mặt, cứ lâu lâu lại nhắc chồng:
- Qua đến bên ấy, phải tống ngay nó ra đường, cho nó muốn đi đâu thì đi! Mình có con gái lớn, chứa nó trong nhà thế nào được! Ông Chuẩn gật đầu nhấn mạnh:
- Thì nhất định là như thế rồi chứ còn gì nữa! Nhưng mà trước mặt, bà đừng có để lộ ra cho nó biết. Cả nhà mình đi được là nhờ bám vào nó. Nói dại, nhỡ bây giờ nó lăn quay ra chết thì xôi hỏng bỏng không. Mình đành chết già ở bên này chứ làm thế nào mà xuất ngoại được. Thành thử tôi vẫn dặn mãi thằng Tiêu với con Hồng là đi đứng phải cho nó cẩn thận. Xe cộ rồi cướp bóc, ngày nào cũng xảy ra nhan nhản. Không được đi chơi khuya, chẳng may mà thằng Thiện có mệnh hệ nào thì hối cũng muộn rồi !
Bà Chuẩn nhìn chồng cảm phục. Nói gì thì nói, đàn ông bao giờ cũng biết lo xa hơn đàn bà. Sang đến bên ấy, thằng Thiện có lăn ra chết ngay cũng không sao. Nhưng hiện tại cả nhà bà cần nó phải sống cho tới ngày lên máy bay mới an lòng được. Mọi thủ tục đã xong hết. Căn nhà này bà cũng đã dạm bán, sắp sửa sang tên. Cả năm nay từ khi đăng kỳ xuất ngoại, toàn gia đình từ trên xuống dưới đều không làm ăn gì nữa cả. Suốt ngày dốc tiền ra rong chơi, tiệc tùng, hân hoan còn hơn đón Tết. Vạn nhất nếu có chuyện trắc trở phải ở lại, thì chỉ có nước ăn cám cầm hơi mà thôi! Để xóa bớt nỗi lo âu ấy, bà đi nhà thờ thường xuyên hơn, dâng tiền xin lễ, cầu nguyện cho thằng Thiện đừng chết bất tử
trước khi lên đường!
°
° °
Một buổi chiều, Thiện thả bộ lang thang ra lò rèn cũ. Cái chòi lợp tôn tiêu điều ấy, ông bà Chuẩn đã bán đi từ lâu, bây giờ chủ nhân quét dọn sửa sang lại, mở cửa hàng ăn uống. Thiện đứng dưới tàn cây vú sữa bên kia đường ngó sang, nao nao nhớ lại trọn vẹn những tháng ngày gian khổ trong căn nhà quanh năm ám khói vào bất giác thở dài. Giữa đám thực khách, có người nhận ra Thiện, lên tiếng gọi và vẫy gã vào hỏi thăm. Thiện gật đầu chào lại và cáo từ bỏ đi. Dĩ nhiên lúc này Thiện đã khác trước nhiều lắm. Cái hình ảnh thằng con trai đen thui mặc xà lỏn cởi trần, dạng chân thụt ống bễ, mồ hôi ướt đẫm từ đầu xuống lưng, đã phai nhoà hẳn trong trí nhớ mọi người hàng xóm. Hôm nay Thiện có quần jean, sơ- mi sọc hàng ngoại và giày thể thao Adidas. Gã bước hiên ngang, ánh mắt tự tin nhìn hai bên đường, sẵn sàng chào hỏi bất cứ ai quen. Mọi thủ tục giấy tờ và sức khoẻ đã xong xuôi, chỉ nay mai khung cảnh quen thuộc này sẽ trở thành ký ức xa xôi trong lòng Thiện.
Ngang qua ngôi giáo đường, Thiện dừng lại đứng nhìn ngọn tháp chuông một lúc rồi rón rén bước vào cửa chính, quì xuống hàng ghế cuối cùng. Nhà thờ không đông lắm, phần lớn chỉ có ông già bà cả. Tiếng kinh chiều cất lên đều đều như từng đợt sóng biển êm ả dội vào bờ. Khung cảnh này chẳng xa lạ gì đối với Thiện, nhưng không hiểu tại sao hôm nay Thiện lại thấy hồi hộp khác thường. Cái quá khứ xa xăm tưởng đã xoá hẳn trong trí Thiện, bỗng dưng lại bừng bừng sống dậy, mỗi lúc một rõ hơn làm Thiện bồi hồi xúc động. Hình ảnh những nữ tu đã nuôi dạy Thiện từ thuở lọt lòng, những đứa bạn mồ côi cùng trang lứa ở cô nhi viện ngày trước, đang cấu thành một mớ hỗn độn trong ký ức gã, cố gắng lắm cũng không thể mường tường nổi từng khuôn mặt. Gã thấy nghèn nghẹn trong cổ, cất tiếng đọc kinh theo mọi người chung quanh và đặt hết tâm hồn vào lời cầu nguyện khẩn thiết dâng lên Thiên Chúa. Thiện nhớ man mán có người bảo lúc Thiện vừa chào đời thì bị mẹ bỏ lại để theo chồng về Mỹ. Nếu đúng thế thì chỉ nay mai gã sẽ có cơ may tìm gặp lại. Gã xin Chúa cho chuyến đi an lành, cho gã tìm được song thân để tương lai đỡ vất vả hơn quãng đời niên thiếu
khốn khổ vừa qua. Gã quì thêm một lúc rồi đứng dậy làm dấu Thánh Giá ra về.
Tới trước cửa nhà, Thiện thấy Tiêu và Hồng đang đứng nói chuyện với một người đàn bà trước sân. Khách trạc khoảng ngoài bốn mươi, dáng vẻ đầy đặn, ăn mặc lịch sự, rõ ràng là một người có tiền. Nhìn thấy Thiện từ xa, Hồng bỏ khách, lao vội tới, hớt hải ghé tai Thiện dặn dò vài câu quan trọng. Lẽ ra Hồng không muốn Thiện có mặt lúc này, nhưng muộn mất rồi, người đàn bà cũng đã nom thấy Thiện, lặng người nhìn gã và buột miệng kêu lên:
- Con!
Thiện giật mình thụt lùi lại và đoán ngay lại thêm một đầu nậu mua bán con lai đến tìm gã để điều đình. Gã trả lời thẳng:
- Tôi đã dứt khoát đăng ký đi chung với bố mẹ nuôi tôi rồi, bà khỏi nói nữa, mất công!
Nghe câu ấy, Hồng hài lòng níu tay Thiện, kéo vào nhà. Những gặp gỡ như thế này làm Hồng sợ lắm. Ngày nào chưa hoàn tất thủ tục, chưa đăng ký chuyến bay, ngày ấy cả nhà còn lo vì những bất trắc ở xã hội này là điều không ai lường trước được.
Người đàn bà chạy theo Thiện, nhưng Tiêu cản lại:
- Bà không được vào nhà tôi! Bà thấy không? Bà nói bà là má nó mà nó đâu có nhìn bà!
Hồng bắt Thiện ngồi yên trong nhà rồi nàng trở ra phụ với anh để đuổi khách. Nàng nhấn mạnh:
- Mà dù bà có là má nó thật, bà cũng không có quyền nhìn nó nữa. Bà sinh con, ném cho người ta nuôi, bà đi mất tiêu. Giờ nghe tin xuất cảnh, bà tới nhận con! Thứ người gì mà bất nhân ác đức vậy? Thử không có vụ xuất cảnh, sức mấy bà thèm nhìn nó! Không biết ngượng!
Người đàn bà ngoẻo đầu phân bua:
- Cô ba cho tôi nói. Tôi đâu có muốn ra nước ngoài, cô ba. Tôi gặp được con tôi, biết nó mạnh giỏi và sắp xuất cảnh chung với gia đình cô là tôi vui lắm rồi. Tôi biết tôi có lỗi, nhưng bị hoàn cảnh hồi đó, tôi nuôi nó không nổi mới phải đem cho người ta. Ba má cô nuôi con tôi từ nhỏ, tôi mang ơn suốt đời còn chưa hết, ai mà nỡ bắt về đặng đi Mỹ! Cô cho tôi gặp thằng Thiện, tôi nói mấy câu rồi tôi về, cô ba!
Hồng vênh mặt nhất quyết không bằng lòng. Xã hội bây giờ toàn những bùa phép, lừa gạt, cục vàng nàng đang nắm trong tay, rủi tuột mất thì ân hận ngàn đời. Nhưng Tiêu thấy tội nghiệp, mời khách vô nhà và gọi Thiện ra ngồi ở bàn ăn cùng nói chuyện. Người đàn bà moi trong bóp mảnh giấy vàng ố, những nếp gấp đã lam nham sờn rách, nhẹ nhàng mở rộng ra và để lên bàn, trước mặt Tiêu và Thiện. Xong rồi chị lại mở bóp lấy thêm mấy thứ giấy tờ nữa có tên chị, đặt bên cạnh và dịu dàng giải thích:
- Cậu hai coi, đây là giấy khai sanh của nó, hội đồng xã Tam Hiệp cấp ngày 12 tháng 10 năm 1967. Họ và tên: Huỳnh văn Thiện. Tên cha: vô danh. Tên mẹ: Huỳnh thị Hường. Hường là tôi đây, cậu hai!
Chị đẩy tờ chứng minh thư nhân dân và giấy giới thiệu công tác do phòng thuế vụ tình Tây Ninh cấp về phía Tiêu cho gã coi. Chị ngước lên nhìn nét mặt ngơ ngác của Thiện, moi túi áo lấy khăn tay thấm nước mắt. Rồi trong lúc Tiêu cúi xuống nhẩm đọc, chị dài dòng kể lể cuộc hành trình tìm con rất gian nan mấy tuần lễ vừa qua.
Chị đúng là Hường, má thằng Thiện. Sau những năm trôi nổi ở thành phố, chị quay trở lại Tây Ninh và lấy anh chồng bộ đội tập kết. Chồng chị bây giờ là trưởng phòng thuế vụ, chân đi cà nhắc và bàn tay trái cụt mất hai ngón. Chức vụ ấy cho chị và bốn đứa con một đời sống dư thừa vật chất, không mơ ước gì nữa cả. Khi lấy Hường, hắn cũng biết chị có chồng có con trước khi ôm ấp hắn, nhưng hắn không bao giờ nghĩ rằng Hường có con lai, nhất là lai Mỹ đen. Về phần Hường, chị cũng giấu mãi đến hôm nay và dĩ nhiên sẽ chẳng bao giờ tiết lộ.
Khi miền Nam xôn xao chuyện con lai xuất cảnh, tự dưng Hường nao nao nhớ đến thằng Thiện mà chị đã bỏ rơi từ hơn hai mươi năm trước. Có cái gì hối thúc trong lòng mà chị tin là sự thiêng liêng của tình mẫu tử, giục giã chị đi tìm nó, chỉ để yên tâm biết nó còn sống và càng yên tâm hơn nếu biết nó sắp về quê cha đất tổ của nó. Quê cha thì đúng, đất tổ thì chưa chắc! Nhưng thằng Thiện còn sống và xuất cảnh được thì lòng chị đỡ ân hận hơn. Chị trở lại Biên Hoà. Không còn một dấu tích nào của cô nhi viện. Các bà sơ, những người muôn năm cũ, giờ cũng đã lẫn vào mọi nẻo đường thăm thẳm của xã hội, biết tìm đâu cho thấy! Hường xuống Sài gòn, đi lang thang mấy hôm, chẳng được việc gì. Mãi lúc định quay về Tây Ninh thì có người mách cho một ý kiến:
"""