"
Chuỗi Đời Bất Tận - Kate Atkinson full mobi pdf epub azw3 [Chiến Tranh]
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Chuỗi Đời Bất Tận - Kate Atkinson full mobi pdf epub azw3 [Chiến Tranh]
Ebooks
Nhóm Zalo
Giả sử vào một ngày hay một đêm nào đó, có một con quỷ lén lút bám theo bạn vào tận cùng nỗi cô đơn của bạn và nói với bạn rằng: "Cuộc đời mà ngươi đang sống và đã sống, ngươi sẽ phải sống thêm một lần nữa và vô số lần khác nữa." Liệu bạn có nhảy xổ tới và nghiến răng nguyền rủa con quỷ? Hay bạn sẽ hân hoan trả lời nó rằng: "Ông đúng là một vị thần và tôi chưa bao giờ nghe thấy điều gì lạ lùng hơn thế?"
Nietzsche, The gay science
πάντα χωρεῖ καὶ ούδὲν μένει
Vạn vật đều đổi thay và chẳng có gì bất biến.
Plato, Cratylus
"Neil chúng ta có cơ hội sống lại cuộc đời của mình hết lần này đến lần khác, cho đến khi nó trở nên đúng theo ý mình thì sao nhỉ? Điều đó có tuyệt vời không chứ?"
Edward Beresford Todd
HÃY LÀ NGƯỜI QUẢ CẢM ❄
THÁNG 11 NĂM 1930
Mùi khói thuốc lá hôi hám cùng luồng khí lạnh ẩm ướt phả thẳng vào cô khi cô vừa đặt chân vào tiệm cà phê. Ngoài trời đang mưa, những giọt nước vẫn còn rung rinh như những hạt sương mong manh vương trên áo choàng lông của vài người phụ nữ trong tiệm. Đội ngũ bồi bàn đeo tạp dề trắng rối rít chạy xuôi chạy ngược, đáp ứng các yêu cầu của vị khách Münchner* đang ngồi thảnh thơi, nhàn nhã: cà phê, bánh ngọt và chuyện phiếm.
Hắn ngồi ở một cái bàn phía cuối phòng, vây quanh là bè lũ đồng đảng và đám tay chân bợ đỡ quen thuộc. Trong số đó có một ả đàn bà mà trước giờ cô chưa từng nhìn thấy - một ả có mái tóc vàng hoe, xoăn bồng bềnh, trang điểm rõ đậm - trông cứ như một diễn viên. Ả ta châm một điếu thuốc rồi đưa lên miệng bằng một động tác khêu gợi. Ai cũng biết hắn thích phụ nữ kín đáo và đoan trang, nhất là gái vùng Bavaria*. Tất cả những bộ váy truyền thống và những đôi tất dài đến đầu gối đó, lạy Chúa tôi!
Trên bàn ê hề bánh trái. Nào Bienenstich*, Gugelhupf*, Käsekuchen*. Hắn đang ăn một miếng Kirschtorte*. Hắn khoái bánh ngọt. Thảo nào trông hắn nhão nhoét đến vậy, cô lấy làm lạ là hắn không bị tiểu đường. Cái cơ thể bèo nhèo đáng ghê tởm (khiến cô liên tưởng đến cục bột nhồi) ẩn dưới bộ quần áo kia chưa bao giờ được phơi bày trước công chúng. Hắn không phải là người phong độ. Hắn mỉm cười khi nhìn thấy cô và hơi nhổm người dậy, vừa nói: "Guten Tag, gnädiges Fräulein*" vừa chỉ vào cái ghế bên cạnh mình. Một gã nịnh bợ đang ngồi ở đó vội nhảy bật dậy, chuyển sang chỗ khác.
"Unsere Englische Freundin*." Hắn nói với cô ả tóc vàng hoe. Ả ta chậm rãi nhả khói và hờ hững quan sát cô một lúc rồi mới lên
tiếng: "Guten Tag*!" Ả là người Berlin.
Cô đặt chiếc túi xách nặng trĩu xuống sàn nhà, bên cạnh ghế của mình và gọi Schokolade*. Hắn một mực nài cô thử món bánh Pflaumen Streusel*.
"Es regnet*." Cô nói để khơi chuyện. "Trời đang mưa."
"Phải, trời đang mưa." Hắn nói tiếng Anh ngọng líu ngọng lô rồi cười khoái trá. Tất cả đám người quanh bàn cũng cười theo. "Bravo*!" Ai đó nói. "Sehr gutes Englisch*." Hắn đang vui. Hắn gõ lưng ngón trỏ vào môi, miệng nở nụ cười thích thú như thể đang thưởng thức một điệu nhạc trong đầu.
Miếng bánh Streusel quả là ngon.
"Entschuldigung*!" Cô lẩm bẩm, thò tay xuống chiếc túi xách dưới sàn và lấy ra một chiếc khăn tay. Chiếc khăn có viền đăng ten ở các góc và thêu lồng các chữ cái trong tên viết tắt của cô, "UBT" - là món quà Pammy tặng cô nhân dịp sinh nhật. Cô lịch sự chấm chấm vụn bánh Streusel trên môi rồi lại cúi xuống cất chiếc khăn tay vào túi xách và sờ vào vật thể nặng trịch đang náu mình trong đó. Khẩu súng quân dụng cũ của cha cô từ cuộc Đại Chiến*, một khẩu Webley Mark V.
Một động tác đã tập dượt cả trăm lần. Một phát súng. Chỉ cần thật nhanh tay lẹ mắt. Tuy nhiên, ngay khi cô rút súng ra và chĩa vào tim hắn, thời gian chợt như ngưng đọng, vạn vật dường như đứng yên.
"Führer*!" Cô nói, phá vỡ khoảnh khắc ấy. "Für Sie*."
Xung quanh bàn, những khẩu súng được rút phắt ra và nhắm thẳng vào cô. Một hơi thở. Một phát súng.
Ursula siết cò.
Bóng tối phủ xuống.
TUYẾT ❄
11 THÁNG 2 NĂM 1910
Luồng khí lạnh giá bao trùm lên làn da trần trụi vừa mới được phơi bày. Đùng một cái, cô bé đã chui tọt ra ngoài, cái thế giới ấm áp, ướt át quen thuộc đột nhiên biến mất. Bị phơi ra trước môi trường tự nhiên. Như con tôm bị lột, như quả hạch bị bóc vỏ.
Không một hơi thở. Cả thế giới thu lại thành thứ duy nhất. Một hơi thở.
Hai lá phổi nhỏ bé, giống như đôi cánh chuồn chuồn, chẳng thể phồng lên trong bầu không khí xa lạ. Trong khí quản bị siết chặt không có lấy một làn hơi. Bên cái tai nhỏ xíu vang lên tiếng vo ve của cả nghìn con ong đang bay.
Hoảng loạn. Như cô gái bị chết đuối, như con chim bị rơi. ❄
"Bác sĩ Fellowes phải có mặt ở đây rồi mới phải." Sylvie rên rỉ. "Sao ông ta vẫn chưa đến? Ông ta đang ở đâu?" Những giọt mồ hôi to tướng tuôn đầm đìa trên da cô, trông cô chẳng khác nào một con ngựa đang gần về đến đích trong một cuộc đua gay cấn. Ngọn lửa lò sưởi của phòng ngủ tỏa ra hơi nóng hầm hập y chang lò hơi trên tàu thủy. Những tấm rèm thêu kim tuyến dày dặn khép kín mít trước mặt kẻ địch - đêm tối. Con dơi đen sì.
"Cháu đoán là ông ta bị mắc kẹt trong tuyết rồi, thưa bà. Ngoài kia ắt đang hỗn loạn khủng khiếp. Đường sá chắc sẽ bị phong tỏa."
Chỉ có mỗi Sylvie và Bridget xoay xở trong "thử thách" này. Cô hầu gái chuyên dọn dẹp phòng ốc là Alice đang về thăm mẹ ốm. Còn Hugh, đương nhiên, đang tới Paris để truy lùng Isobel, cô em
gái hoang dã chẳng khác nào một con ngỗng trời của anh. Sylvie không muốn phiền đến bà Glover đang ngáy như kéo bễ trên gác mái. Cô cho rằng bà sẽ chỉ đạo mọi việc giống như một thượng sĩ trên thao trường. Đứa bé đòi ra sớm. Vậy mà Sylvie cứ đinh ninh nó sẽ ra muộn giống như những đứa trẻ khác. Đúng là người tính không bằng trời tính.
"Ôi, thưa bà!" Bridget đột nhiên thét lên. "Cả người cô bé tím ngắt rồi."
"Là con gái à?"
"Cô bé bị dây rốn quấn quanh cổ. Ôi, lạy Đức mẹ Mary! Cô bé bị ngạt rồi, cô bé tội nghiệp."
"Nó không thở sao? Để ta xem nào! Chúng ta phải làm gì đó. Chúng ta có thể làm gì đây?"
"Ôi, bà Todd, thưa bà, cô bé đi rồi. Cô ấy mất trước cả khi có cơ hội được sống. Cháu vô cùng, vô cùng lấy làm tiếc. Chắc hẳn bây giờ cô bé đã là một tiểu thiên sứ trên thiên đường. Ôi, giá mà ông Todd có nhà. Cháu vô cùng lấy làm tiếc. Cháu đi gọi bà Glover dậy nhé?"
❄
Trái tim bé bỏng. Một trái tim bé bỏng bất lực đập loạn xạ. Ngừng lại đột ngột như một con chim bị rơi khỏi bầu trời. Một phát súng duy nhất.
Bóng tối phủ xuống.
TUYẾT ❄
11 THÁNG 2 NĂM 1910
Vì Chúa, cô gái, đừng có chạy quanh chạy quẩn như con gà cụt đầu nữa, thay vì thế, hãy đi lấy ít nước nóng và mấy cái khăn đi! Cô không biết làm gì à? Cô là người rừng chăng?"
"Xin lỗi ngài!" Bridget nhún gối, cúi đầu xin lỗi như thể bác sĩ Fellowes là một vị hoàng thân.
"Là con gái phải không, bác sĩ Fellowes? Tôi có thể nhìn mặt nó không?"
"Vâng, thưa bà Todds, một bé gái bé bỏng bụ bà bụ bẫm." Sylvie nghĩ bác sĩ Fellowes hơi lố khi dùng từ láy như vậy. Ông ta vốn không phải là người thân thiện ngay cả trong những lúc thoải mái, dễ chịu nhất. Tình trạng sức khỏe các bệnh nhân của ông ta, đặc biệt là chuyện sinh chuyện tử của họ, có vẻ luôn làm ông ta cáu kỉnh.
"Con bé suýt chết vì bị dây rốn quấn quanh cổ. Tôi đã kịp đến Góc Cáo vào phút chót. Theo đúng nghĩa đen." Bác sĩ Fellowes giơ cây kéo phẫu thuật lên cho Sylvie chiêm ngưỡng. Nó nhỏ gọn và có hai cái mũi sắc bén hơi cong lại. "Tách, tách!" Ông ta nói. Sylvie thầm ghi nhớ trong đầu - trong hoàn cảnh này, vì kiệt sức nên cô chỉ có thể nhớ láng máng - răng mình phải mua một cây kéo như thế để đề phòng trường hợp khẩn cấp tương tự. (Mặc dù việc này chưa chắc sẽ xảy ra lần nữa.) Hoặc một con dao, một con dao sắc bén để mang theo người mọi nơi mọi lúc, giống như cô con gái của viên tướng cướp trong câu chuyện Bà Chúa Tuyết*.
"May cho bà là tôi đến đây kịp thời đấy." Bác sĩ Fellowes nói. "Trước khi tuyết lấp kín đường sá. Tôi đã gọi bà đỡ Haddock, nhưng ắt hẳn bà ta đang bị mắc kẹt ở đâu đó bên ngoài Chalfont St Peter."
"Bà Haddock*?” Sylvie nói, cau mày. Bridget cười phá lên rồi vội vàng lẩm bẩm: "Cháu xin lỗi, cháu xin lỗi, thưa ngài." Sylvie cho rằng cả cô và Bridget đều đang ở trong tình trạng dễ dàng bị kích động. Điều đó cũng chẳng có gì lạ.
"Đúng là dân Ai Len vét than bùn*." Bác sĩ Fellowes làu bàu.
"Bridget chỉ là con bé hầu gái chuyên phụ giúp nấu ăn, rửa bát. Nó vẫn còn là một đứa trẻ. Tôi rất biết ơn con bé. Chuyện này xảy ra quá nhanh." Sylvie mong muốn được ở một mình biết bao nhưng lại chẳng bao giờ được như vậy. "Tôi cho rằng ông phải ở lại đây đến sáng mai, thưa bác sĩ." Cô miễn cưỡng nói.
"Ồ, vâng! Tôi e rằng mình phải ở lại." Bác sĩ Fellowes đáp lời, cũng với giọng miễn cưỡng.
Sylvie thở dài và mời ông ta cứ tự nhiên thưởng thức một ly brandy ở trong bếp. Có lẽ còn có cả giăm bông và dưa góp cay* nữa. "Bridget sẽ tiếp đãi ông." Cô muốn tống khứ ông ta đi. Ông ta đã đỡ đẻ cả ba đứa con (tận ba đứa!) cho cô và cô không ưa ông ta một chút nào. Đáng lẽ chỉ có người chồng được nhìn thấy những gì mà ông ta thấy. Ông ta đã thọc những món dụng cụ của mình vào nơi nhạy cảm, riêng tư nhất của cô và quờ quạng trong đó. (Tuy nhiên, liệu cô có muốn một bà đỡ có tên là Haddock đỡ đẻ cho mình không?) Bác sĩ điều trị cho phụ nữ nên là phụ nữ hết mới phải. Nhưng làm gì có chuyện ấy chứ!
Bác sĩ Fellowes nán lại một lát, miệng âm a âm ư, giám sát Bridget mặt mũi đỏ gay đang tắm rửa và quấn tã cho đứa bé vừa mới chào đời. Bridget là chị cả của sáu đứa em nên cô bé biết rõ cách quấn tã cho trẻ sơ sinh. Cô bé năm nay mười bốn tuổi, kém Sylvie mười tuổi. Hồi Sylvie mười bốn tuổi, cô vẫn còn mặc váy ngắn và mê mẩn con ngựa con Tiffin của mình. Cô chẳng hề biết trẻ con từ đâu mà ra, thậm chí đến đêm tân hôn cô vẫn còn ngây ngô. Mẹ cô, là bà Lottie, đã bóng gió nhắc đến vấn đề tế nhị này nhưng lại ngại ngùng không nói rõ. Chuyện chăn gối vợ chồng, chẳng hiểu
tại sao, lại có vẻ liên quan đến những con chim chiền chiện bay vút lên tầng không vào lúc rạng đông. Lottie là một phụ nữ dè dặt, khép kín. Có lẽ vài người sẽ nói bà cứ như bị mắc chứng ngủ rũ*. Chồng bà, cha của Sylvie, ông Llewellyn Beresford, là một họa sĩ nổi tiếng chuyên vẽ tranh chân dung cho tầng lớp quý tộc thượng lưu, nhưng bản thân ông lại không hề phóng túng chút nào. Trong nhà ông không có chỗ cho tranh tượng khỏa thân hay những cử chỉ suồng sã, ám muội. Ông đã từng vẽ Hoàng hậu Alexandra* hồi bà vẫn còn là một công nương. Ông nói bà rất vui vẻ, dễ thương.
Họ sống trong một ngôi nhà tuyệt đẹp ở Mayfair*, còn Tiffin thì được nuôi nhốt tại một trại ngựa gần công viên Hyde. Vào những thời điểm u ám hơn, Sylvie thường có thói quen tự khích lệ tinh thần bằng cách tưởng tượng rằng mình được trở lại thời quá khứ huy hoàng ấy, ngay ngắn an tọa ở cái yên ngồi nghiêng* trên tấm lưng vuông vức của Tiffin bé nhỏ, chạy thong dong dọc theo con đường Rotten Row vào một buổi sáng mùa xuân quang đãng, trong lành, rực rỡ sắc hoa.
"Bà uống chút trà nóng và ăn một miếng bánh mì nướng phết bơ chứ ạ, bà Todd?" Bridget nói.
"Thế thì còn gì bằng, Bridget."
Cuối cùng thì đứa bé cũng được trao cho Sylvie, nó được bọc kín như xác ướp Pharaoh* vậy. Cô vừa nhẹ nhàng vuốt ve chiếc má hồng đào của nó, vừa nói: "Chào bé con!" Bác sĩ Fellowes liền quay gót rời đi để không phải chứng kiến những cử chỉ âu yếm, ngọt ngào ấy. Nếu được quyền quyết định, ông ta sẽ cho dựng lên một thành phố giống như thành Sparta*, để đem tất cả bọn trẻ đến đó nuôi dạy.
"Chà, có lẽ một bữa ăn nhẹ với các món nguội sẽ giúp ích cho tôi vào lúc này." Ông ta nói. "Liệu tôi có cơ may được thưởng thức món dưa góp cay ngon mê ly của bà Glover không nhỉ?"
BỐN MÙA LẤP KÍN MỘT NĂM ❄
11 THÁNG 2 NĂM 1910
Một tia nắng chói mắt giống như thanh kiếm bạc sáng lấp lánh đâm xuyên qua những tấm rèm, đánh thức Sylvie tỉnh giấc. Cô đang nằm uể oải trong chiếc váy bằng ren và ca sơ mia thì bà Glover bước vào phòng, mang theo khay đồ ăn sáng to tướng với vẻ hãnh diện. Dường như chỉ một sự kiện quan trọng mới có thể lôi kéo bà rời khỏi "cái tổ" của mình xa đến vậy. Một bông hoa giọt tuyết* đơn độc bị sương giá phủ gần kín rủ đầu xuống trong cái lọ hoa trên khay. "Ồ, hoa giọt tuyết!" Sylvie nói. "Loài hoa đầu tiên ngóc cái đầu tội nghiệp lên khỏi mặt đất. Nó mới dũng cảm làm sao!"
Bà Glover không tin những bông hoa có thể dũng cảm, hay đúng ra là có bất cứ tính cách nào giống như của con người, dù chúng có đáng ca tụng đến đâu chăng nữa. Bà là một góa phụ mới đến Góc Cáo ở cùng họ có vài tuần. Trước khi bà tới, ở đây từng có một phụ nữ tên Mary. Bà ta rất vụng về và nướng thịt hay bị cháy. Trong khi đó, bà Glover, trái lại, thường nấu thức ăn không chín kĩ. Trong ngôi nhà xa hoa thời thơ ấu của Sylvie, người nấu bếp được gọi là "bà bếp", nhưng bà Glover thích được gọi là "bà Glover" hơn. Cách gọi ấy tạo cảm giác bà là người không ai có thể thay thế được. Tuy nhiên, Sylvie vẫn bướng bỉnh thầm gọi bà là "bà bếp".
"Cảm ơn bà, bà bếp." Bà Glover chậm rãi chớp chớp mắt như một con thằn lằn. "Bà Glover." Sylvie chữa lại lời mình.
Bà Glover đặt cái khay xuống giường và kéo rèm ra. Anh sáng thật rực rỡ, con dơi đen sì đã bị đẩy lùi.
"Chói thế!" Sylvie nói, lấy tay che mắt.
"Nhiều tuyết quá trời!" Bà Glover nói, lắc đầu, không rõ là vì ngạc nhiên hay chán ghét. Bà Glover không phải là người lúc nào cũng dễ
đoán.
"Bác sĩ Fellowes đâu rồi?" Sylvie hỏi.
"Có một ca cấp cứu. Một ông nông dân bị bò xéo phải." "Khiếp nhỉ!"
"Mấy cậu trong làng đã cố đào xe của ông bác sĩ lên khỏi lớp tuyết dày nhưng cuối cùng thằng George nhà tôi đến và cho ông ta đi nhờ."
"À!" Sylvie nói, như thể đột nhiên tỏ tường một điều làm cô băn khoăn khó hiểu đã lâu.
"Vậy mà người ta gọi nó là mã lực cơ đấy." Bà Glover phì một tiếng như một con bò mộng. "Đó chính là hậu quả của cái thói phụ thuộc vào những cỗ máy tân tiến."
"Ừm." Sylvie nói, không muốn tranh cãi với những quan điểm bảo thủ như vậy. Cô ngạc nhiên vì bác sĩ Fellowes đã ra về mà không kiểm tra tình trạng sức khỏe của cô hoặc đứa bé.
"Ông ta có ngó qua bà. Lúc ấy bà đang ngủ." Bà Glover nói. Thi thoảng Sylvie vẫn tự hỏi phải chăng bà Glover có khả năng đọc được suy nghĩ của người khác. Nếu thế thì thật khủng khiếp.
"Ông ta ăn sáng trước tiên." Bà Glover nói, tỏ ra vừa đồng tình vừa không đồng tình. "Ắt hẳn ông ta đói lắm."
"Tôi cũng đói đến mức có thể ăn hết cả một con ngựa." Sylvie cười. Dĩ nhiên là cô không thể. Trong đầu cô lập tức hiện lên hình ảnh của Tiffin. Cô nhấc bộ dao nĩa bằng bạc nặng như những thanh vũ khí lên, sẵn sàng giải quyết món cật sốt cay của bà Glover. "Trông ngon quá!" Cô nói, nghĩ trong đầu "Chúng có ngon thật không nhỉ?", nhưng bà Glover đang mải mê ngắm nghía đứa bé trong nôi. "Bụ bẫm như một con lợn con vậy." Sylvie vẩn vơ tự hỏi phải chăng bà Haddock vẫn đang bị mắc kẹt ở đâu đó bên ngoài Chalfont St Peter.
"Tôi nghe nói cô bé suýt mất mạng." Bà Glover nói.
"Ờ..." Sylvie nói. Ranh giới giữa sự sống và cái chết thật mong manh. Vào một buổi tối, cha cô, họa sĩ chuyên vẽ tranh chân dung cho giới quý tộc thượng lưu, đã bị trượt chân trên tấm thảm Isfahan* ở chiếu nghỉ tầng hai sau khi uống chút rượu cognac nguyên chất. Sáng hôm sau, ông được phát hiện đã chết ở chân cầu thang. Chẳng có ai nghe thấy tiếng ông ngã hay kêu la. Vào thời điểm đó, ông vừa mới bắt tay vẽ bức chân dung của Bá tước Balfour. Bức chân dung dang dở ấy sẽ không bao giờ được hoàn thành. Hiển nhiên rồi!
Sau đó, mọi chuyện mới vỡ lở, thì ra ông tiêu xài hoang toàng hơn mẹ con cô tưởng. Lén lút bài bạc, nợ nần khắp chốn. Ông hoàn toàn không dành dụm gì để dự phòng cho cái chết bất đắc kỳ tử, rồi chẳng mấy chốc các chủ nợ đã mò đến, bu kín ngôi nhà xinh đẹp ở Mayfair. Rốt cuộc nó cũng chỉ là một ngôi nhà bấp bênh. Tiffin buộc phải ra đi. Điều đó khiến trái tim Sylvie như tan nát. Nỗi đau ấy còn lớn hơn bất cứ nỗi đau nào mà cô từng cảm thấy đối với cha mình.
"Mẹ cứ nghĩ ông ấy chỉ có tật xấu duy nhất là trai gái." Mẹ cô nói. Bà đang ngồi tạm trên cái rương gỗ như thể làm mẫu cho bức tượng Đức mẹ Sầu bi*.
Họ sa vào cảnh nghèo túng nhưng vẫn cố duy trì cuộc sống phong lưu, đài các. Mẹ Sylvie trở nên xanh xao, tẻ nhạt trong cảnh gối chiếc chăn đơn, và dần héo mòn vì căn bệnh lao phổi tàn phá. Cô bé Sylvie mười bảy tuổi suýt chút nữa đã phải trở thành người mẫu vẽ tranh nếu không được cứu vớt bởi người đàn ông mà cô gặp ở quầy bưu điện. Hugh, một ngôi sao đang lên trong giới ngân hàng cường thịnh, hình mẫu hoàn hảo của một quý ông tư sản đứng đắn. Một cô gái xinh đẹp nhưng không một xu dính túi còn có thể mong đợi điều gì hơn thế chứ?
Lottie mất lặng lẽ hơn dự kiến. Hugh và Sylvie âm thầm cưới nhau vào đúng ngày sinh nhật lần thứ mười tám của Sylvie. ("Đó!"
Hugh nói. "Giờ thì em sẽ không bao giờ quên lễ kỷ niệm ngày cưới của chúng ta.") Họ tận hưởng hai tuần thú vị ở Deauville* trong chuyến trăng mật tại Pháp trước khi an cư ở một chốn ngoại thành êm đềm gần Beaconsfield, trong một ngôi nhà phảng phất phong cách Lutyens*. Nó có đủ mọi thứ mà người ta mong muốn: một căn bếp lớn, một phòng khách với những ô cửa kính kiểu Pháp hướng ra bãi cỏ, một phòng sinh hoạt ban ngày xinh xắn và vài phòng ngủ chờ bọn trẻ đến chiếm ngự. Thậm chí còn có một căn phòng nhỏ ở cuối ngôi nhà để Hugh dùng làm thư phòng. "A, mật thất của tôi!" Anh cười lớn.
Có những ngôi nhà tương tự vây quanh tổ ấm của họ với một khoảng cách vừa phải. Xa hơn nữa là đồng cỏ, rừng cây và một rừng hoa chuông xanh với dòng suối róc rách chảy qua. Ga xe lửa, trông chẳng hơn gì một trạm dừng, cho phép Hugh có mặt ở bàn làm việc dành cho vị trí giám đốc ngân hàng trong vòng chưa đầy một tiếng đồng hồ.
"Quả là một thung lũng êm đềm như đang say ngủ!" Hugh cười khi anh lịch thiệp bế Sylvie đi qua ngưỡng cửa. Cơ ngơi này không quá bề thế (chẳng giống Mayfair chút nào) nhưng cũng hơi vượt tầm chi trả của họ, một sự liều lĩnh về mặt tài chính khiến cả hai người đều kinh ngạc.
❄
"Chúng ta nên đặt cho ngôi nhà một cái tên." Hugh nói. "Nguyệt Quế, Thông, Du."
"Nhưng trong vườn làm gì có những loại cây ấy." Sylvie chỉ rõ. Họ đang đứng bên ô cửa kính kiểu Pháp của ngôi nhà mới mua, nhìn ra một vạt cỏ rậm rì. "Chúng ta phải kiếm một thợ làm vườn." Hugh nói. Căn nhà trống trải đến mức vang vọng. Họ còn chưa kịp lấp đầy nó bằng những tấm thảm Voysey, những tấm rèm Morris và tất cả những món đồ nội thất giàu tính thẩm mỹ khác của một ngôi nhà
thuộc thế kỷ hai mươi. Sylvie sẽ sung sướng biết bao nếu được sống ở Liberty's* thay vì cái tổ uyên ương đang cần được đặt tên này.
"Đồng Xanh, Mỹ Cảnh, Đồng Nắng?" Hugh tiếp tục gợi ý, choàng tay quanh người vợ mới cưới của mình.
"Không."
Người chủ cũ của ngôi nhà chưa được đặt tên này đã bán nó và chuyển đến Ý sinh sống. "Thử tưởng tượng xem." Sylvie mơ màng nói. Hồi còn nhỏ, cô đã từng có một chuyến du lịch tuyệt vời tới Ý cùng với cha mình trong lúc mẹ cô tới Eastbourne* vì hai lá phổi của bà.
"Rặt người Ý." Hugh gạt đi.
"Đúng vậy. Đó chính là sự hấp dẫn đấy." Sylvie nói, đẩy cánh tay anh ra.
"Hồi, Ấp?"
"Thôi đi!" Sylvie nói.
Một con cáo chợt nhảy ra khỏi bụi cây và băng qua bãi cỏ. "Ồ, coi kìa!" Sylvie nói. "Nó có vẻ dạn dĩ nhỉ, hẳn là nó đã quen với việc ngôi nhà không có người ở."
"Mong là toán thợ săn địa phương không bám theo nó." Hugh nói. "Nó gầy giơ cả xương."
"Nó là một con cáo cái. Một bà mẹ đang cho con bú. Cứ nhìn đầu vú của nó thì biết."
Hugh chớp chớp mắt khi từ ngữ thô tục ấy thốt ra từ miệng cô dâu trong trắng, thuần khiết của anh. (Anh cho là như vậy. Anh hy vọng như vậy.)
"Nhìn kìa!" Sylvie thì thầm. Hai con cáo con nhỏ xíu nhảy ra bãi cỏ và lăn lộn đùa giỡn với nhau. "Ôi, mấy sinh vật bé bỏng ấy mới
xinh xắn làm sao!"
"Có người sẽ nói chúng là loài có hại."
"Có lẽ chính chúng mới coi chúng ta là loài có hại." Sylvie nói. "Góc Cáo - Chúng ta nên gọi ngôi nhà bằng cái tên đó. Chẳng ai có nhà mang tên như thế cả và chẳng phải đó chính là ý nghĩa của việc đặt tên cho các ngôi nhà sao?"
"Thật ư?" Hugh ngờ vực nói. "Cái tên ấy hơi kì quặc nhỉ? Nghe cứ như một câu chuyện cho trẻ con ấy. Ngôi nhà ở Góc Cáo."
"Một chút kì quặc thì có chết ai chứ."
"Nhưng xét kĩ ra thì..." Hugh nói. "... Một ngôi nhà có thể là một cái góc được không? Chẳng phải chỉ có nhà ở góc đường thôi sao?"
"Hôn nhân là thế này đây." Sylvie thầm nghĩ.
❄
Hai đứa trẻ nép sau cánh cửa, dè dặt nhòm vào trong phòng. "Các con đây rồi." Sylvie nói, mỉm cười. "Maurice, Pamela, tới chào em gái mới của các con đi."
Chúng thận trọng tiến tới bên cái nôi như thể sợ có thứ gì khác trong ấy. Sylvie nhớ lại cảm giác tương tự của chính mình khi cô nhìn thi hài của cha cô trong cái quan tài tinh xảo bằng gỗ sồi và đồng (do các thành viên của Viện Hàn lâm Hoàng gia tặng). Hoặc có lẽ chúng dè chừng bà Glover.
"Lại em gái." Maurice ỉu xìu nói. Thằng bé năm tuổi, lớn hơn Pamela hai tuổi và là "người đàn ông của gia đình" mỗi khi Hugh đi vắng. "Đi công tác." Sylvie nói với mọi người như vậy, nhưng thực tế là anh đã tức tốc băng qua eo biển Anh* để đi giải cứu đứa em gái út ngốc nghếch khỏi nanh vuốt của một gã đàn ông có vợ, kẻ đã dụ dỗ con bé trốn sang Paris.
Maurice chọc ngón tay vào mặt đứa bé khiến nó giật mình tỉnh dậy, khóc váng lên. Bà Glover liền nhéo tai Maurice. Sylvie nhăn mặt nhưng Maurice chỉ cắn răng chịu đựng, chẳng hề hó hé kêu lên một tiếng. Sylvie nghĩ cô thực sự phải nói chuyện với bà Glover về vấn đề này khi nào cô cảm thấy khỏe hơn.
"Bà định đặt tên cho cô bé là gì?" Bà Glover hỏi.
"Ursula." Sylvie nói. "Tôi sẽ gọi nó là Ursula. Cái tên đó có nghĩa là con gấu con."
Bà Glover gật đầu, không thể hiện thái độ gì. Giới trung lưu luôn làm theo ý thích của mình, chẳng tuân theo quy tắc nào cả. Cậu con trai lực lưỡng của bà chỉ được đặt cho một cái tên đơn giản là George. "Theo tiếng Hy Lạp, nó có nghĩa là Người cày đất." Vị mục sư rửa tội cho con trai bà giải thích như vậy. Và George quả thực đang là anh thợ cày tại một điền trang ở gần đây có tên là Lâu đài Ettringham, như thể cái tên đã vận vào người, tạo nên số mệnh của anh. Tuy nhiên bà Glover chẳng phải là người để tâm đến số mệnh hay tiếng Hy Lạp làm gì.
"Thôi, tôi phải đi làm việc tiếp đây." Bà Glover nói. "Bữa trưa sẽ có món bánh bít tết* thơm ngon. Và tráng miệng bằng món pudding Ai Cập."
Sylvie chẳng thể mường tượng ra được món pudding Ai Cập là món như thế nào. Cô hình dung ra những chiếc kim tự tháp.
"Tất cả chúng ta đều phải giữ gìn sức khỏe." Bà Glover nói.
"Đúng vậy!" Sylvie nói. "Vì lý do đó, có lẽ tôi nên cho Ursula bú thôi!" Cô bực tức bởi dấu cảm thán vô hình trong câu nói của mình. Chẳng hiểu tại sao, Sylvie thường thấy mình buộc phải dùng giọng điệu vui vẻ quá mức khi nói chuyện với bà Glover, như thể cô đang cố gắng lập lại sự cân bằng tự nhiên của các thể dịch* trên đời này.
Bà Glover không kìm được, khẽ rùng mình trước hình ảnh hai bầu vú xanh xao, nổi đầy gân xanh của Sylvie nhô lên căng cứng dưới chiếc váy ngủ bằng ren bồng bềnh. Bà vội vàng xua lũ trẻ ra khỏi phòng. "Có cháo đấy." Bà nghiêm nghị thông báo với chúng.
❄
"Hẳn là Chúa muốn đứa trẻ này trở lại." Bridget nói khi cô bé mang vào phòng chén nước cốt bò hầm nghi ngút khói.
"Chúng ta đã bị thử thách." Sylvie nói. "Và đã vượt qua." "Trong lần này." Bridget nói.
THÁNG 5 NĂM 1910
"Có một bức điện." Hugh đột ngột đi vào phòng và cất tiếng thông báo khiến Sylvie giật mình choàng tỉnh. Cô đã thiếp đi khi đang nằm cho Ursula bú và ngủ một giấc ngắn ngủi nhưng ngon lành. Cô vội vàng chỉnh trang lại y phục rồi hỏi: "Một bức điện ư? Có ai mất sao?" Vì vẻ mặt của Hugh như đang ám chỉ rằng có một tai họa nào đó vừa xảy ra.
"Từ Wiesbaden*."
"À!" Sylvie nói. "Vậy là Izzie đã sinh con rồi."
"Giá mà thằng khốn đó chưa có vợ." Hugh nói. "Thế thì hắn đã có thể cưới em gái anh một cách đàng hoàng, tử tế, giúp nó trở thành người phụ nữ đoan chính."
"Người phụ nữ đoan chính?" Sylvie trầm ngâm. "Trên đời này có cái gọi là người phụ nữ đoan chính sao?" (Cô đã nói điều đó ra miệng ư?) "Dù sao đi nữa, cô ấy còn quá trẻ để kết hôn."
Hugh cau mày. Cử chỉ đó khiến anh càng có vẻ điển trai hơn. "Nó bây giờ chỉ kém em hai tuổi hồi em lấy anh thôi mà." Anh nói.
"Nhưng hồi đó em già dặn hơn nhiều." Sylvie lẩm bẩm. "Mọi chuyện tốt đẹp cả chứ? Đứa bé có khỏe không?"
Thì ra Izzie đã mang thai khá lớn vào thời điểm Hugh bắt được cô ở Paris và lôi cô lên tàu về nhà. Bà Adelaide, mẹ cô, nói rằng thà Izzie bị những kẻ buôn nô lệ da trắng bắt cóc còn hơn là tự ném mình vào vòng tay của gã khốn đó một cách cuồng nhiệt như thế. Sylvie thấy cái ý tưởng bị bắt làm nô lệ da trắng khá hấp dẫn - cô hình dung bản thân mình bị một gã tù trưởng của một bộ lạc nào đó trên sa mạc bắt đi trên lưng con chiến mã Ả Rập, rồi sau đó nằm
trên một chiếc tràng kỷ bọc nệm, mặc váy lụa, đeo mạng che mặt, ăn bánh mứt và nhấm nháp nước ngọt trong tiếng suối chảy róc rách. (Cô cho rằng thực tế sẽ không hẳn như thế.) Một hậu cung với nhiều người phụ nữ có vẻ là một ý tưởng vô cùng hay ho đối với Sylvie - bao gánh nặng trách nhiệm của người vợ sẽ được san sẻ, cùng nhiều điều có lợi khác.
Là một người có tư tưởng tuân thủ tuyệt đối những chuẩn mực đạo đức khắt khe của thời Nữ hoàng Victoria*, Adelaide đã chặn cửa theo đúng nghĩa đen khi nhìn thấy cái bụng lùm lùm của cô con gái út, rồi tống khứ cô trở lại qua eo biển Anh để xử lý nỗi ô nhục của cô ở nước ngoài. Đứa bé sẽ được cho đi làm con nuôi nhanh hết mức có thể. "Một cặp vợ chồng người Đức khả kính, không thể có con." Adelaide nói. Sylvie cố gắng hình dung ra cảnh cho một đứa trẻ đi làm con nuôi. (Cô hỏi: "Và chúng ta sẽ không bao giờ được nghe tin tức gì về nó nữa, đúng không mẹ?" Adelaide trả lời: "Đương nhiên là ta hy vọng như vậy.") Izzie sắp được gửi đến một trường nữ sinh tư thục ở Thụy Sĩ chuyên dạy các kỹ năng xã hội và nghệ thuật cho các cô gái trẻ để giúp họ có chút hành trang chuẩn bị bước vào đời, mặc dù xét theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng, cô ấy dường như đã vào đời từ lâu lắc rồi.
"Một đứa con trai." Hugh nói, ve vẩy bức điện như thể đang vẫy một lá cờ. "Bụ bẫm, khỏe mạnh..."
❄
Mùa xuân đầu tiên của Ursula đã đến. Nằm trong chiếc xe đẩy bên dưới gốc dẻ gai, cô bé say sưa nhìn ngắm những đốm nắng lung linh biến hóa vui mắt giữa các kẽ lá xanh mỏng manh theo từng nhịp rung rinh của những nhành cây mỗi khi có làn gió nhẹ thổi đến. Nhành cây là cánh tay, còn lá cây chính là bàn tay. Cái cây đang nhảy múa cho cô bé xem. À ơi, ngủ ngoan nào em bé thơ ngây, Sylvie ngâm nga hát ru cô bé, trong chiếc nôi treo trên ngọn cây.
Tôi có một cái cây nhỏ, Pamela ngọng nghịu hát, nó chẳng có lá có hoa, chỉ có hạt nhục đậu khấu bằng bạc, và một quả lê bằng vàng.
Một con thỏ rừng nhỏ bé bằng bạc treo toòng teng trên mui xe đẩy, lấp lánh xoay tròn dưới ánh mặt trời. Con thỏ ngồi trong một cái giỏ nhỏ, nó từng là vật trang trí trên cái lúc lắc của Sylvie hồi cô còn thơ ấu. Chiếc lúc lắc ấy, cũng giống như thời thơ ấu của Sylvie, đã mất đi từ rất lâu rồi.
Những nhành cây trơ trụi, những chồi non, những phiến lá - cái thế giới mà Ursula biết cứ thế đến và đi trước mắt cô bé. Lần đầu tiên cô bé được quan sát vòng quay của bốn mùa. Cô bé được sinh ra với mùa đông ngấm sẵn trong cốt tủy, tiếp đến là sự nảy nở của những búp chồi múp míp báo hiệu mùa xuân sắp đến, rồi sau đó là cái nóng oi ả của mùa hè và nấm mốc của mùa thu. Từ bên dưới cái khung hẹp của mui xe đẩy, cô bé nhìn thấy hết. Chưa kể những "vật điểm xuyết" có chút ngẫu hứng mà các mùa mang theo cùng - mặt trời, mây, chim chóc, một quả bóng cricket lạc hướng lặng lẽ bay vòng qua trên đầu, đôi lần một chiếc cầu vồng sặc sỡ, và mưa - thường xuyên hơn mức cô bé mong muốn. (Thi thoảng việc cứu cô bé khỏi các hiện tượng thời tiết lại bị chậm trễ.)
Có lần còn có cả vầng trăng đang nhú và những vì sao - vừa đáng kinh ngạc vừa đáng sợ - khi cô bé bị bỏ quên vào một tối mùa thu. Bridget đã bị quở trách. Chiếc xe đẩy được đặt ở ngoài trời bất kể thời tiết thế nào, vì Sylvie được thừa hưởng thói quen gần gũi với thiên nhiên từ mẹ cô, là bà Lottie. Hồi còn trẻ, bà từng có thời gian sống trong một viện an dưỡng ở Thụy Sĩ, ngày ngày quấn một tấm chăn, ngồi trên hàng hiên lộ thiên, nhìn mông lung vào những đỉnh núi Alps quanh năm tuyết phủ.
Cây dẻ gai trút lá, những chiếc lá màu đồng mỏng tang bị gió cuốn đi lấp kín khoảng trời phía trên đầu cô bé. Vào một ngày tháng Mười một lộng gió, một nhân vật đáng sợ thình lình xuất hiện, nhòm
vào trong chiếc xe đẩy. Maurice nhăn mặt, nhíu mày với Ursula và ê a "Biến đi, biến đi, biến đi", trước khi chọc cái que vào những lớp chăn của cô bé. "Con bé ngu ngốc!" Cậu nói rồi trút một đống lá mềm phủ lên người cô bé. Cô bé lại ngủ thiếp đi dưới lớp chăn mới bằng lá cây, bỗng một bàn tay đập mạnh vào đầu Maurice khiến cậu hét toáng lên "Ối!" một tiếng rồi chạy biến đi mất. Con thỏ bạc cứ xoay tròn hết vòng này đến vòng khác và một đôi bàn tay to lớn bế cô bé lên khỏi chiếc xe đẩy, rồi Hugh nói "Con bé đây rồi", như thể cô bé vừa mới bị lạc.
"Cứ như một con nhím ngủ đông vậy." Anh nói với Sylvie. "Con bé tội nghiệp!" Sylvie cười.
❄
Mùa đông lại đến. Nhờ đã từng trải qua nó, cô bé nhận ra nó ngay.
THÁNG 6 NĂM 1914
Ursula bước vào mùa hè thứ năm mà không gặp phải sự cố nào nữa. Sylvie - mẹ cô bé - cảm thấy nhẹ nhõm, mặc dù (hoặc có lẽ là bởi vì) cô bé chào đời không mấy thuận lợi nhưng nhờ chế độ nuôi dạy nghiêm ngặt của Sylvie (hoặc có lẽ bất chấp nó), cô bé đã trở thành một đứa trẻ có vẻ cứng cỏi. Ursula không có cái vẻ suy tư, hay nghĩ như Pamela đôi khi vẫn tỏ ra, cũng không bộp chộp, thiếu suy nghĩ như Maurice.
Một quân nhân tí hon, Sylvie thầm nghĩ khi cô dõi theo Ursula bám đuôi Maurice và Pamela đi dọc bờ biển. Trông chúng thật nhỏ bé - chúng vẫn còn nhỏ, cô biết điều đó - nhưng thi thoảng Sylvie lại ngạc nhiên bởi những cảm xúc sâu đậm mà cô dành cho bầy con của mình. Đứa nhỏ nhất, út ít nhất trong số chúng là Edward, đang bị cầm giữ trong cái nôi đan bằng liễu gai đặt bên cạnh cô trên bãi cát. Nó vẫn chưa biết kêu lên khi gặp nguy hiểm.
Họ đã thuê một ngôi nhà ở Cornwall* trong một tháng. Hugh ở cùng mấy mẹ con vào tuần đầu tiên và Bridget thay thế anh trong suốt khoảng thời gian còn lại. Bridget và Sylvie cố gắng thay phiên nhau nấu nướng (khá vụng về) vì Sylvie đã cho bà Glover nghỉ phép một tháng, để bà đến Salford* ở cùng một người chị em vừa mất đứa con trai do căn bệnh bạch hầu. Sylvie thở phào nhẹ nhõm khi cô đứng trên sân ga, dõi theo tấm lưng rộng lớn của bà Glover biến mất vào bên trong toa tàu. "Em không cần phải đi tiễn bà ấy đâu." Hugh nói.
"Chỉ vì em thích được chứng kiến bà ấy đi mất" Sylvie đáp. ❄
Nơi đây có ánh mặt trời chói chang, những làn gió biển lồng lộng và một chiếc giường cứng lạ lẫm. Sylvie đã nằm yên tĩnh cả đêm trên đó. Họ mua bánh nướng nhân thịt, khoai tây chiên và bánh táo để ngồi ăn trên một tấm thảm trải trên bờ cát, lưng dựa vào những vách đá. Vấn đề khó khăn nhất là làm cách nào để cho con bú nơi công cộng, nhưng vấn đề ấy đã được giải quyết bằng việc thuê một cái lều ở bãi biển. Lúc thì Bridget và Sylvie cởi giày ra, táo bạo nhúng chân xuống nước, lúc thì họ ngồi đọc sách trên bãi cát, bên dưới những tán dù che nắng xòe rộng. Sylvie đang đọc sách của Conrad*, còn Bridget nghiền ngẫm cuốn Jane Eyre* mà Sylvie cho cô mượn vì quên mang theo những cuốn tiểu thuyết tình cảm thời Trung cổ ly kỳ của mình. Bridget tỏ ra là một độc giả quá khích. Cô thường hốt hoảng thở gấp hoặc rùng mình chán ghét và cuối cùng là tỏ vẻ thích thú. Điều đó khiến cho người ta có cảm giác cuốn Điệp viên bí mật* mà Sylvie đang đọc có vẻ vô cùng khô khan, tẻ nhạt.
Bridget vốn là người sống ở sâu trong nội địa nên lúc nào cũng lo lắng về việc thủy triều đang lên hay đang xuống, dường như cô không thể hiểu được quy luật của nó. "Nó thay đổi một chút mỗi ngày." Sylvie kiên nhẫn giải thích.
"Nhưng sao lại thế?" Bridget ngây ngô hỏi.
"Ờ thì..." Sylvie hoàn toàn không biết. "Sao nó lại không thể như thế chứ?" Cô quả quyết kết luận.
❄
Bọn trẻ đang quay lại sau khi đã chơi chán chê trò quăng lưới bắt cá trong những vũng nước ở đầu kia bãi biển. Pamela và Ursula dừng lại nửa chừng, bắt đầu ríu rít vầy nước ở mép biển, còn Maurice thì lại tăng tốc, chạy hùng hục về phía Sylvie rồi sà xuống trước mặt cô làm cát bắn tung tóe. Thằng bé đang cầm một con cua nhỏ bằng càng của nó, Bridget kêu ré lên kinh hãi khi thấy cảnh tượng ấy.
"Còn cái bánh nướng nhân thịt nào không?" Cậu hỏi.
"Phải lễ phép chứ, Maurice." Sylvie quở mắng. Hết hè này thằng bé sẽ vào trường nội trú. Cô cảm thấy khá nhẹ nhõm.
❄
"Này, đi nhảy sóng đi!" Pamela nói. Pamela hách dịch nhưng theo kiểu dễ thương, còn Ursula hầu như lúc nào cũng vui vẻ tán thành những kế hoạch của chị gái. Ngay cả khi trong lòng không đồng tình, Ursula vẫn nghe lời chị.
Một chiếc vòng lăn dọc theo bãi cát, lăn qua chỗ hai đứa trẻ, như thể bị gió cuốn đi. Ursula muốn đuổi theo chiếc vòng để mang trả cho chủ nhân của nó, nhưng Pamela phản đối: "Không, đi nào, đi lội nước thôi." Vì vậy chúng đặt những tấm lưới xuống mặt cát và lội xuống con sóng đang nhẹ nhàng vỗ vào bờ. Chẳng hiểu tại sao dù được ánh mặt trời sưởi ấm nhưng nước biển lúc nào cũng lạnh giá. Hai chị em kêu ré lên như thường lệ trước khi nắm tay nhau, chờ đợi những con sóng tiếp theo tràn tới. Nhưng khi chúng vào tới bờ thì cả hai chị em đều thất vọng vì chúng chỉ còn rất nhỏ, không hơn gì một gợn nước lăn tăn trùm trên đầu lớp diềm xếp nếp bằng ren. Vì thế bọn trẻ lội ra xa hơn.
Giờ thì những con sóng không còn là những gợn nước nữa, chỉ có từng đợt sóng cồn dâng cao, xô tới, nâng hai đứa trẻ lên rồi lại hạ chúng xuống, tiếp tục hướng vào bờ. Ursula siết chặt tay Pamela mỗi khi cơn sóng cồn tiến đến. Nước đã xâm xấp eo lưng cô bé. Pamela dấn bước ra xa hơn, giống như bức tượng gắn ở đầu mũi tàu băng băng rẽ những con sóng thô bạo. Nước giờ đã lên đến nách Ursula, cô bé bắt đầu òa khóc và kéo tay Pamela, cố gắng ngăn chị mình đi xa hơn nữa. Pamela bèn ngoảnh lại nhìn em gái và nói: "Cẩn thận nào, em làm cho cả hai chị em mình cùng ngã bây giờ." Vì thế cô bé không nhìn thấy con sóng khổng lồ đang trào dâng sau lưng mình. Chỉ trong nháy mắt, nó đã ập đến trùm lên người hai
đứa trẻ, dễ dàng quăng quật chúng như thể chúng là những chiếc lá.
Ursula cảm thấy mình bị kéo xuống dưới càng lúc càng sâu, như thể cô bé đã bị cuốn ra ngoài khơi xa, cách bờ hàng dặm biển, không còn ai trông thấy được nữa. Đôi chân nhỏ bé liên tục khua khoắng, cố gắng tìm chỗ đặt chân trên mặt cát. Giá mà cô bé có thể đứng thẳng dậy để chiến đấu với những con sóng, nhưng chẳng còn thấy nền cát đâu nữa để làm điểm tựa và cô bé bắt đầu ngộp nước, hoảng loạn quẫy đạp. Phải có ai đó đến cứu cô bé chứ? Bridget hoặc Sylvie. Hoặc Pamela - Pamela đâu rồi?
Chẳng ai tới cả. Quanh cô bé chỉ toàn là nước. Mênh mông những nước. Trái tim bé bỏng bất lực đập loạn xạ, như thể nó là một con chim bị nhốt trong lồng ngực cô bé. Trong tai cô bé vang lên tiếng vo ve của cả nghìn con ong đang bay. Không còn hơi thở nào. Một đứa trẻ chết đuối, một chú chim bị rơi khỏi bầu trời.
Bóng tối phủ xuống.
TUYẾT ❄
11 THÁNG 2 NĂM 1910
Bridget dọn khay đồ ăn sáng định đem đi thì Sylvie lên tiếng: "Ồ, để bông hoa giọt tuyết bé nhỏ ấy lại. Đây, đặt nó lên cái bàn cạnh giường ta này." Cô cũng giữ đứa bé bên mình. Ngọn lửa lò sưởi đang cháy đượm và ánh tuyết chói lóa ngoài cửa sổ vừa mang lại cảm giác vui vẻ, lạc quan, vừa tiềm ẩn một điềm gở bi quan lạ lùng. Tuyết đang bám đầy các bức tường của ngôi nhà, đè nặng chúng, chôn vùi chúng. Chúng bị phủ kín như thể được bọc trong một cái tổ kén. Cô mường tượng Hugh đang quả cảm đào đường hầm qua lớp tuyết dày để về nhà. Anh đã vắng nhà ba ngày để đi tìm cô em gái Isobel. Ngày hôm qua (tưởng như đã lâu lắm rồi), một bức điện từ Paris cho biết: CON MỒI ĐÃ LẨN TRỐN CHẤM ĐANG TRUY TÌM CHẤM, mặc dù Hugh không phải là thợ săn. Cô phải gửi cho anh một bức điện. Cô nên nói gì đây? Một cái gì đó bí hiểm. Hugh thích những gì lắt léo. BỌN EM CÓ BỐN NGƯỜI CHẤM ANH ĐI VẮNG NHƯNG BỌN EM VẪN CÓ BỐN NGƯỜI (Bridget và bà Glover không được tính đến). Hay một cái gì đó tẻ nhạt hơn. ĐỨA BÉ ĐÃ RA ĐỜI CHẤM ỔN CẢ CHẤM. Có đúng vậy không? Ổn cả ư? Đứa bé đã suýt chết. Nó đã bị ngạt. Nhỡ nó không thực sự ổn thì sao? Tối nay họ đã chiến thắng Tử thần. Sylvie băn khoăn tự hỏi khi nào thì Tử thần lại tìm đến để trả thù họ.
Cuối cùng, Sylvie ngủ thiếp đi và mơ thấy rằng cô đã chuyển đến một ngôi nhà mới và đang đi tìm bọn trẻ. Cô đi lang thang khắp các căn phòng xa lạ, vừa đi vừa gọi tên các con, nhưng cô biết chúng đã biến mất vĩnh viễn và sẽ chẳng bao giờ tìm thấy chúng được nữa. Khi cô giật mình tỉnh dậy, cô nhẹ nhõm khi thấy rằng ít nhất đứa bé vẫn đang ở bên cạnh cô trên chiếc giường lớn tựa như cánh đồng tuyết trắng. Đứa bé. Ursula. Sylvie đã đặt tên cho nó từ trước. Nếu
là con trai thì nó sẽ mang tên Edward. Việc đặt tên cho các con là đặc quyền của cô. Hugh có vẻ chẳng mấy quan tâm đến vấn đề này, dù vậy, Sylvie cho là anh cũng tự đặt ra những giới hạn nhất định. Có một số cái tên anh sẽ chẳng chấp nhận nổi. Scheherazade chẳng hạn. Hoặc Guinevere.
Ursula mở to đôi mắt ngây dại, có vẻ như cô bé đang nhìn chăm chú bông hoa giọt tuyết ủ rũ. À ơi, ngủ ngoan nào em bé thơ ngây, Sylvie ngâm nga. Ngôi nhà thật yên ả. Điều đó dễ làm cho người ta lầm lẫn. Người ta có thể mất mọi thứ chỉ trong một cái chớp mắt hoặc một cú sẩy chân. "Bằng giá nào cũng phải tránh những ý nghĩ u ám." Cô nói với Ursula.
CHIẾN TRANH ❄
THÁNG 6 NĂM 1914
Ông Winton - Archibald - dựng giá vẽ trên cát, cố gắng hoàn thành bức tranh cảnh biển bằng những sắc xanh của đại dương - màu xanh lính Phổ, xanh cô ban, xanh crôm và xanh đất. Trên nền trời gần như không thể phân biệt được với những con sóng ở bên dưới, ông điểm xuyết vài cánh chim hải âu khá mờ nhạt. Ông mường tượng rằng khi nào về đến nhà, ông sẽ khoe bức tranh này với mọi người, nói với họ rằng: "Theo trường phái Ấn Tượng* đấy."
Ông Winton - một người độc thân - vốn là viên thư ký cấp cao trong một nhà máy chuyên sản xuất đinh ghim ở Birmingham* nhưng lại có bản tính lãng mạn. Ông là thành viên của một câu lạc bộ đạp xe, Chủ nhật nào ông cũng cố gắng đạp xe đi thật xa khỏi màn sương mù quyện khói của thành phố công nghiệp Birmingham, và hằng năm thường đi nghỉ ở biển trọn một tuần lễ để có thể hít thở bầu không khí dễ chịu nơi đây và tự coi mình là họa sĩ trong suốt thời gian ấy.
Ông nghĩ nên cho thêm vài nhân vật vào bức tranh của mình, như thế sẽ làm cho bức tranh sống động hơn. Giáo viên ở lớp học buổi tối của ông (ông có theo học một lớp hội họa) vẫn thường khuyến khích ông làm vậy. Hai bé gái đang chơi ở mép nước kia có vẻ được đấy! Nhờ những chiếc mũ rộng vành của chúng mà ông sẽ không phải cố gắng vẽ các đường nét trên khuôn mặt chúng. Kỹ năng đó ông vẫn chưa thuần thục.
❄
"Này, đi nhảy sóng đi!" Pamela rủ rê.
"Ôi!" Ursula thốt lên, lùi lại. Pamela cầm lấy tay em gái và kéo cô bé xuống nước. "Đừng ngốc nghếch thế!" Càng tới gần mặt nước, Ursula càng hoảng loạn cho đến khi trong lòng cô bé tràn ngập nỗi sợ hãi, nhưng Pamela thì cứ cười khanh khách, băng băng lội xuống nước, vì thế Ursula đành phải cun cút đi theo chị. Cô bé cố gắng nghĩ ra một thứ gì đó có thể khiến Pamela muốn quay trở lại bờ - một tấm bản đồ kho báu, một người đàn ông có con chó con - nhưng đã quá muộn. Một cơn sóng khổng lồ cuồn cuộn trào lên, ào tới xô vào chúng, quật ngã chúng, kéo chúng chìm xuống thế giới nước mênh mang.
❄
Đang cúi đầu đọc sách, Sylvie giật mình ngẩng phắt lên và thấy một người đàn ông xa lạ đang đi dọc theo bờ cát về phía mình, mỗi cánh tay kẹp một đứa con gái của cô như thể đang cắp con gà, con ngỗng. Hai cô bé ướt sũng cả người và đầm đìa nước mắt. "Chúng lội ra hơi quá xa." Người đàn ông nói. "Nhưng chúng sẽ ổn thôi."
Họ đãi ân nhân của họ - quý ông Winton, một viên thư ký ("cấp cao") - trà và bánh ngọt trong một khách sạn nhìn ra biển. "Đây là điều tối thiểu tôi có thể làm." Sylvie nói. "Giày của ông hỏng mất rồi."
"Có đáng gì đâu." Ông Winton khiêm tốn nói.
"Ồ, không, chắc chắn chúng phải đáng giá chứ." Sylvie nói. ❄
"Về nhà có vui không?" Hugh cười rạng rỡ chào đón họ trên sân ga.
"Còn anh có vui khi mấy mẹ con em về không?" Sylvie nói, hơi hung hăng.
"Ở nhà có một điều bất ngờ dành cho mấy mẹ con em đấy." Hugh nói.
Sylvie vốn không thích những điều bất ngờ, họ đều biết điều đó. "Đoán thử xem." Hugh nói.
Họ đoán đó là một chú cún con, nhưng phán đoán ấy hoàn toàn trật lất, chẳng ăn nhập chút nào với cỗ máy phát điện hiệu Petter mà Hugh đã lắp đặt trong tầng hầm. Họ nối đuôi nhau đi xuống cái cầu thang bằng đá dốc nghiêng, nhìn chằm chằm vào cỗ máy dầu mỡ đang kêu ro ro cùng những dãy ắc quy có vỏ bằng thủy tinh của nó. "Hãy để nơi này tràn ngập ánh sáng*." Hugh nói.
Sẽ còn rất lâu nữa mới đến thời điểm bất cứ ai trong số họ có thể bật công tắc đèn điện mà không lo sợ bị nổ tung. Ánh sáng là tất cả những gì nó có thể tạo ra, dĩ nhiên rồi. Bridget đã mong có một cái máy hút bụi để thay thế cho chiếc máy quét thảm hiệu Ewbank của mình nhưng lại không có đủ điện áp. "Cảm ơn Chúa!" Sylvie nói.
THÁNG 7 NĂM 1914
Từ ô cửa kính kiểu Pháp đang để ngỏ, Sylvie quan sát Maurice dựng một cái lưới đánh tennis tự chế. Với cây búa nhỏ trong tay, dường như cậu gõ gõ đập đập vào tất cả những gì xuất hiện trong tầm mắt. Những cậu bé là một bí ẩn đôi với Sylvie. Sự thỏa mãn mà chúng có được từ việc ném những cái que hay những hòn đá hàng tiếng đồng hồ liên tục, việc sưu tập những vật thể vô tri vô giác như thể bị ám ảnh, việc phá hoại thô bạo cái thế giới mỏng manh xung quanh chúng, tất cả đều có vẻ trái ngược với người đàn ông mà mai này hẳn chúng sẽ trở thành.
Tiếng trò chuyện ríu rít ngoài hành lang thông báo cho sự xuất hiện đầy vui vẻ của Margaret và Lily, trước là bạn học và giờ là người quen năm thì mười họa mới gặp một lần của Sylvie. Họ mang theo những hộp quà được gói bọc sặc sỡ và thắt nơ xinh xắn để tặng cho đứa bé mới sinh, Edward.
Margaret là một họa sĩ kiên quyết không lấy chồng. Dường như cô đang là nhân tình của ai đó. Khả năng này đáng ghê tởm đến nỗi Sylvie không dám nhắc gì đến với Hugh. Còn Lily là người theo thuyết Fabian*, cũng là người tham gia phong trào đòi quyền bầu cử cho phụ nữ, nhưng lại chẳng chịu mạo hiểm làm gì cho tín điều của cô. Nghĩ tới những người phụ nữ bị giữ chặt chân tay trong khi những cái ống dẫn được nhét vào họng họ*, Sylvie bất giác giơ tay lên chạm vào cần cổ xinh xắn, trắng ngần của mình như để tự trấn an bản thân. Tại một buổi tiệc trà có khiêu vũ, chồng của Lily là Cavendish (nghe cứ như tên của một cái khách sạn chứ không phải tên người) từng dồn Sylvie vào một góc, ép cô vào một cây cột bằng cơ thể đầy vẻ dâm đãng, sực nức mùi xì gà của hắn, và đề nghị một
điều khiếm nhã đến nỗi tới tận giờ này cô vẫn còn cảm thấy đỏ bừng mặt vì xấu hổ khi nghĩ lại.
"A, không khí trong lành quá!" Lily thốt lên khi Sylvie dẫn họ ra vườn. "Nơi đây quả là chốn thôn dã.” Họ ngó vào chiếc xe đẩy, nựng nịu đứa bé bằng những âm thanh nghe như tiếng gù của chim bồ câu, hết trầm trồ khen ngợi đứa bé lại quay sang tán thưởng thân hình mảnh mai của Sylvie.
"Mình sẽ gọi người đem trà tới." Sylvie nói, cảm thấy mệt mỏi. ❄
Họ có một con chó. Một con chó ngao Pháp lông vện to lớn tên là Bosun. "Tên con chó của Byron*." Sylvie nói. Ursula không biết ông Byron bí ẩn ấy là ai, nhưng ông ta chẳng quan tâm gì tới việc đòi lại con chó từ tay họ. Bosun có bộ lông ngắn ngủn, mềm mại mượt như nhung, lớp da lông của nó cứ cuồn cuộn chuyển động như sóng gợn dưới những ngón tay của Ursula mỗi lần cô bé vuốt ve nó, và hơi thở của nó phả ra mùi tảng thịt cổ bê mà bà Glover dù ghét cay ghét đắng nhưng vẫn phải hầm cho nó. Nó là một giống chó cừ khôi, Hugh nói, một giống chó đáng tin cậy, loại chó kéo người ta ra khỏi những tòa nhà đang cháy và cứu họ khỏi chết đuối.
Pamela thường đội chiếc mũ bonnet cũ và quàng khăn san cho Bosun, giả vờ rằng nó là em bé của mình, mặc dù bây giờ chúng đã có một em bé thật sự - một em trai, Edward. Mọi người đều gọi cậu bé là Teddy. Mẹ chúng có vẻ ngạc nhiên bởi đứa trẻ mới sinh này. "Không biết nó từ đâu đến nữa." Tiếng cười của Sylvie nghe như tiếng nấc. Cô đang uống trà trên thảm cỏ với hai người bạn học "từ hồi còn ở London" tới thăm đứa bé. Cả ba người họ đều mặc váy mỏng duyên dáng, đội mũ rơm rộng vành, ngồi trên ghế liễu gai, uống trà và ăn bánh sherry* do bà Glover tự tay làm. Ursula và Bosun thì ngồi bệt trên cỏ, giữ một khoảng cách đủ xa cho phải phép, mong chờ những mẩu vụn.
Maurice đã dựng xong một cái lưới và đang cố gắng dạy Pamela chơi tennis, nhưng không được nhiệt tình cho lắm. Ursula thì mải miết kết một vòng hoa cúc nhỏ cho Bosun. Cô bé có những ngón tay múp míp, vụng về. Sylvie lại có những ngón tay thon dài, khéo léo như của một họa sĩ hay một nghệ sĩ piano. Cô chơi piano trong phòng khách ("Chopin*"). Thi thoảng họ hát hò sau bữa trà nhưng Ursula không bao giờ vào được đúng nhịp khi đến phần hát của mình. ("Đúng là đồ ngốc!" Maurice nói. "Có công mài sắt có ngày nên kim." Sylvie nói.) Khi cô mở nắp cây đàn piano, nó bốc lên cái mùi giống như mùi tỏa ra từ bên trong những cái va li cũ. Thứ mùi ấy gợi cho Ursula nhớ đến bà nội của mình, bà Adelaide, người suốt ngày mặc đồ đen, nhấm nháp rượu Madeira*.
Đứa bé mới sinh được đặt trong cái xe đẩy to tướng bên dưới gốc dẻ gai sừng sững. Bọn trẻ đều từng là chủ nhân của cỗ xe lộng lẫy này, nhưng không ai trong số chúng còn nhớ nổi. Một con thỏ rừng nhỏ bé bằng bạc treo toòng teng trên mui xe và đứa bé được che phủ ấm áp bằng một tấm chăn mỏng "được thêu bởi bàn tay của các nữ tu sĩ", mặc dù chưa có ai giải thích những nữ tu sĩ ấy là ai và tại sao họ lại dành cả ngày để thêu những con vịt nhỏ có bộ lông màu vàng óng.
"Edward." Một trong hai người bạn của Sylvie nói. "Teddy?"
"Ursula và Teddy*. Hai con gấu nhỏ của mình." Sylvie nói và cười như bị nấc. Ursula hoàn toàn không biết làm một con gấu thì sẽ thế nào. Cô bé muốn làm một chú chó hơn. Cô bé nằm ngửa ra và nhìn chằm chằm lên bầu trời. Bosun rên ư ử và duỗi dài người bên cạnh cô bé. Những con chim nhạn bạt mạng phóng vút qua bầu trời biếc xanh. Cô bé có thể nghe văng vẳng tiếng lanh canh của cốc chén va vào đĩa lót, tiếng lạch cạch, rì rì của máy xén cỏ mà già Tom đang điều khiển trong khu vườn của gia đình Cole ngay bên cạnh, và ngửi thấy mùi hương ngọt ngào, hăng nồng của những bông cẩm chướng chỗ luống hoa, cùng mùi ngai ngái của đám cỏ mới cắt.
"A!" Một trong hai người bạn đến từ London của Sylvie nói, duỗi chân và để lộ đôi cổ chân đi tất trắng duyên dáng. "Một mùa hè dài nóng bỏng. Thật là tuyệt phải không?"
Sự yên bình bị phá vỡ khi Maurice tỏ vẻ chán ghét ném phịch cây vợt tennis xuống bãi cỏ khiến nó nảy lên rồi lại rớt xuống đánh cạch một tiếng. "Con không thể dạy nổi nó - đúng là đồ con gái!" Cậu nhóc hét lên và nghênh ngang đi vào bụi cây, cầm một cái que quất lung tung vào mọi thứ xung quanh, tuy nhiên trong trí tưởng tượng của cậu, hẳn là cậu đang ở trong một khu rừng già rậm rạp với một con dao rựa trong tay. Hết hè này, cậu sẽ đi học ở trường nội trú. Đó chính là ngôi trường mà Hugh và trước đó là cha của anh đã từng theo học. ("Và cả những vị tổ tiên các đời trước nữa, có lẽ từ thời người Norman chinh phạt nước Anh.*" Sylvie nói.) Hugh cho rằng việc đi học ở trường nội trú sẽ "nhào nặn" Maurice, giúp cậu khôn lớn. Nhưng trong mắt Ursula, anh trai cô bé dường như đã trưởng thành rồi. Hugh kể rằng hồi anh mới đi học, tối nào anh cũng khóc cho đến khi ngủ thiếp đi. Tuy nhiên anh lại tỏ ra hết sức vui vẻ khi bắt Maurice phải chịu đựng cái khổ hình mà anh đã từng trải qua ấy. Maurice ưỡn ngực và tuyên bố rằng cậu sẽ không khóc.
("Còn bọn con thì sao?" Pamela lo lắng hỏi. "Bọn con có phải đi học xa không?"
"Không, trừ phi con nghịch ngợm quá." Hugh cười nói.)
Pamela đỏ bừng mặt, cuộn bàn tay thành nắm đấm, chống nạnh, gầm lên: "Anh là đồ con lợn!" sau khi Maurice lững thững quay trở lại. Qua lời Pamela nói thì "con lợn" có vẻ là thứ gì đó xấu xa thậm tệ. Những con lợn dễ thương mà nhỉ?
"Pammy à!" Sylvie ôn tồn nói. "Con ăn nói cứ như bà hàng cá* ấy."
Ursula nhích lại gần chỗ để bánh hơn.
"Ồ, lại đây nào!" Một trong hai người phụ nữ kia nói với cô bé. "Để dì ngắm cháu cái nào." Ursula cố gắng tránh né nhưng Sylvie đã giữ yên cô bé. "Con bé xinh xắn quá nhỉ!" Người bạn của Sylvie nói. "Nó giống cậu đấy, Sylvie."
"Con cá cũng có vợ ạ?" Ursula hỏi mẹ khiến những người bạn của Sylvie bật cười khúc khích. "Con bé khôi hài quá!" Một trong hai người họ nói.
"Đúng vậy, nó là một đứa thực sự vui nhộn!" Sylvie nói. ❄
"Đúng vậy, nó là một đứa thực sự vui nhộn." Sylvie nói.
"Trẻ con..." Margaret nói. "... Đứa nào cũng thật ngộ nghĩnh, đúng không nào?"
Chúng còn hơn thế nhiều, Sylvie nghĩ, nhưng làm sao có thể giải thích thiên chức làm mẹ trọng đại như thế nào với những người chưa từng có con cái cơ chứ? Sylvie cảm thấy mình cứ như một bà mệnh phụ cực kì già dặn trước mặt những người bạn này, những người bạn từ thời con gái của cô, cái thời con gái ngắn ngủi đã bị cuộc hôn nhân ngang nhiên tước đi mất.
Bridget mang ra một cái khay và bắt đầu thu dọn đồ uống trà. Vào buổi sáng, Bridget mặc một cái váy in hoa văn kẻ sọc để làm việc nhà nhưng vào buổi chiều, cô thay sang một cái váy đen với cổ tay, cổ áo màu trắng và đeo tạp dề, đội chiếc mũ vải cũng màu trắng. Cô đã được thăng cấp lên một vị trí mới, thoát khỏi phòng rửa bát. Sau khi Alice nghỉ việc để đi lấy chồng, Sylvie đã thu nhận một cô gái trong làng tên là Marjorie - một cô bé chột mắt, mười ba tuổi - để giúp đỡ những việc nặng nhọc.
("Chúng ta không thể xoay xở chỉ với hai người họ thôi sao?" Hugh ôn tồn hỏi. "Bridget và bà Glover? Họ có phải trông nom cả một tòa lâu đài đâu cơ chứ!"
"Không, chúng ta không thể." Sylvie chỉ đơn giản nói vậy và chấm dứt chủ đề ấy.)
Chiếc mũ vải màu trắng quá rộng so với Bridget, nó liên tục sụp xuống che mắt cô, giống như một cái bịt mắt. Khi cô đang băng ngang bãi cỏ để quay trở vào nhà, cái mũ lại đột nhiên sụp xuống, che kín mắt khiến cô vấp ngã, một cú vấp ngã như trên sân khấu nhạc kịch, cũng may là cô đứng vững kịp lúc nên chỉ có chiếc bát đựng đường bằng bạc và thanh kẹp dùng để gắp đường là bị hư hại. Chúng bay thẳng lên trời rồi rớt xuống đất, những viên đường văng tung tóe như những hột súc sắc trên thảm cỏ xanh rì. Maurice cười ngặt nghẽo trước tai nạn của Bridget. Sylvie nói ngay: "Maurice, ngừng ngay trò lố ấy đi!"
Cô nhìn Bosun và Ursula nhặt những viên đường bị rơi vung vãi, Bosun thì dùng chiếc lưỡi hồng to tướng của mình, còn Ursula, quái gở làm sao, lại dùng cây kẹp vốn không dễ sử dụng. Bosun nhanh chóng nuốt chửng những viên đường mà chẳng cần nhai trong khi Ursula chậm rãi mút mát từng viên một. Sylvie nghi ngờ rằng Ursula đã được định mệnh an bài là đứa trẻ lạc lõng trong gia đình. Vì bản thân là con một nên cô thường bối rối bởi sự phức tạp của mối quan hệ anh chị em giữa những đứa con của mình.
"Cậu nên đến London." Margaret đột nhiên nói. "Ở với mình vài ngày. Chắc sẽ vui lắm."
"Nhưng còn bọn trẻ?" Sylvie nói. "Cả đứa bé mới sinh nữa. Mình khó lòng bỏ mặc chúng."
"Sao lại không thể chứ?" Lily nói. "Vú em của cậu có thể tự xoay xở trong một vài ngày, không phải sao?"
"Nhưng mình làm gì có vú em." Sylvie nói. Lily liếc nhìn xung quanh vườn như thể đang tìm một người vú em trốn trong những bụi tú cầu. "Mình cũng không muốn có." Sylvie nói thêm. (Có thật là cô không muốn không?) Làm mẹ là bổn phận, là định mệnh của cô.
Vì chẳng còn thứ gì khác (còn có thể có thứ gì khác chứ?), nên nó chính là cuộc đời cô. Cô đang ôm trong lòng tương lai của nước Anh. Thay thế cô không phải là việc có thể làm một cách tùy tiện như kiểu việc cô có mặt hay không cũng chẳng khác biệt mấy. "Và mình đang tự cho con bú." Cô nói thêm. Cả hai người phụ nữ kia đều có vẻ kinh ngạc. Lily vô thức siết chặt tay vào ngực như để bảo vệ nó khỏi bị tấn công.
"Đó là điều mà Chúa đã định." Sylvie nói, mặc dù cô không tin vào Chúa kể từ khi mất Tiffin. Hugh đã cứu nguy cho cô. Anh sải bước đi qua bãi cỏ với dáng vẻ của một người đàn ông có chủ đích. Anh vừa cười nói "Ở đây đang có chuyện gì vậy?", vừa nhấc Ursula và tung cô bé lên cao, chỉ ngừng lại khi cô bé bắt đầu mắc nghẹn một viên đường. Anh mỉm cười với Sylvie và nói "Các bạn của em", như thể cô đã quên mất họ là ai.
"Giờ là xế chiều thứ Sáu." Hugh nói, đặt Ursula xuống bãi cỏ. "Người lao động đã nghỉ ngơi cả rồi và anh tin rằng mặt trời đã lên cao quá đầu trục căng buồm* từ lâu. Các quý cô xinh đẹp có muốn chuyển sang thứ gì đó mạnh hơn trà không? Rượu gin pha nước chanh chẳng hạn?" Hugh có bốn cô em gái nên luôn cảm thấy thoải mái với phụ nữ. Chỉ riêng điều đó đã đủ để quyến rũ họ. Sylvie biết bản năng của anh là hộ tống, giám sát chứ không phải là tán tỉnh, ve vãn các cô gái, nhưng thi thoảng cô vẫn băn khoăn về lòng yêu mến của họ dành cho anh và tự hỏi điều đó có thể dẫn tới việc gì. Hay đúng hơn là nó đã dẫn tới việc gì.
Tình trạng hòa hoãn đã được dàn xếp giữa Maurice và Pamela. Sylvie sai Bridget kéo một cái bàn ra hàng hiên nhỏ xíu nhưng đủ rộng cho bọn trẻ có thể ăn tiệc trà ở ngoài trời - bữa ăn của chúng có trứng cá trích nướng và món thạch hình hoa cẩm chướng cứ rung ra rung rinh vì chưa được đông lắm. Hình ảnh ấy khiến Sylvie cảm thấy hơi nôn nao. "Thức ăn cho trẻ con." Hugh vừa nói với vẻ thích thú, vừa ngắm lũ trẻ ăn.
"Áo đã tuyên chiến với Serbia." Hugh thủng thẳng nói. Margaret liền bắt lời: "Đúng là xuẩn ngốc. Năm ngoái tôi đã có một kỳ nghỉ cuối tuần tuyệt vời ở Vienna*. Tôi đã ở khách sạn Imperial*, anh có biết nó không?"
"Không biết tường tận lắm!" Hugh đáp.
Sylvie thì biết rõ nó nhưng cô không nói ra.
❄
Trời nhập nhoạng tối. Sylvie đang mơ mơ màng màng thì đột nhiên nhớ lại cái chết vì rượu cognac của cha mình, cô bèn đập hai bàn tay vào nhau đánh bốp một cái như thể giết một con ruồi bé tí cứ lởn vởn làm phiền và nói: "Đến giờ đi ngủ rồi, các con!", rồi nhìn Bridget lóng ngóng ủn cái xe đẩy nặng nề đi qua bãi cỏ. Sylvie thở dài và Hugh dìu cô đứng dậy, hôn nhanh lên má cô.
❄
Sylvie mở ô cửa sổ nhỏ xíu trên mái nhà trong căn phòng ngột ngạt được dành riêng cho đứa bé sơ sinh. Họ gọi nó là "phòng trẻ" nhưng nó không hơn gì cái hộp bị nhét vào một góc của cái mái hiên gie ra, vào mùa hè thì bí bức, vào mùa đông thì lạnh băng, do đó hoàn toàn không phù hợp với một đứa trẻ sơ sinh non nớt. Giống như Hugh, Sylvie cho rằng trẻ con nên được trui rèn từ sớm, có như vậy nó mới đủ mạnh mẽ để đón nhận những "cú đòn" của cuộc đời mai sau. (Bị tước đi một ngôi nhà xinh đẹp ở Mayfair, phải rời xa một con ngựa yêu dấu, bị mất niềm tin vào Chúa trời thấu suốt mọi sự.) Cô ngồi cho Edward bú trên cái ghế bằng nhung có những núm tròn ở lưng tựa được thiết kế dành riêng cho việc này. "Teddy!" Cô thì thầm trìu mến khi cậu bé nuốt ừng ực và bị sặc trong lúc thiếp ngủ. Sylvie thích những đứa con của mình nhất khi chúng còn là trẻ sơ sinh, khi chúng bé bỏng, non nớt, hồng hào như những miếng thịt
đệm trên lòng bàn chân của một con mèo. Nhưng đứa trẻ này thật đặc biệt. Cô hôn lên mái tóc mềm mại như tơ của nó.
Có tiếng nói vọng đến trong bầu không khí êm dịu. "Cuộc vui nào cũng đến lúc tàn." Cô nghe thấy Hugh nói khi anh hộ tống Lily và Margaret vào trong nhà để ăn tối. "Tôi tin rằng bà Glover, người có thiên hướng của một nhà thơ, đã nướng một con cá đuối. Nhưng trước hết, có lẽ hai cô sẽ muốn chiêm ngưỡng cỗ máy phát điện hiệu Petter của tôi?" Hai người phụ nữ ríu rít cười nói như những cô nữ sinh ngốc nghếch.
❄
Ursula bị đánh thức bởi tiếng vỗ tay và tiếng reo hò phấn khích. "Điện kìa!" Cô bé nghe thấy một trong hai người bạn của Sylvie thốt lên. "Tuyệt quá!"
Cô bé ở chung với Pamela trong một căn phòng áp mái. Chúng có hai chiếc giường nhỏ xíu giống hệt nhau, được ngăn cách bởi một tấm thảm kết bằng vải vụn và một cái tủ kê ở đầu giường. Pamela ngủ với hai cánh tay đặt phía trên đầu, chốc chốc lại hét toáng lên như thể bị kim đâm vào người (một trò khủng khiếp mà Maurice ưa thích). Phía bên kia vách tường ở một đầu căn phòng là bà Glover ngáy như còi tàu xe lửa, còn phía bên kia vách tường còn lại là Bridget ú ớ lẩm bẩm suốt đêm. Bosun ngủ ngay bên ngoài cửa phòng của chúng. Nó luôn làm tròn bổn phận canh gác ngay cả trong giấc ngủ. Thi thoảng nó lại khẽ rên lên ư ử nhưng chẳng ai phân biệt nổi là nó đang mừng rỡ hay đau đớn. Tầng áp mái quả là một chốn vừa chật chội, vừa ồn ào.
Sau đó, Ursula lại bị đánh thức lần nữa khi những vị khách cáo từ ra về. ("Đứa trẻ đó thính ngủ lạ thường." Bà Glover nói, như thể tính nết ấy của cô bé là một khuyết điểm cần phải sửa.) Cô bé trèo xuống giường và nhẹ nhàng bước đến bên cửa sổ. Nếu cô bé đứng lên một cái ghế và nhìn ra ngoài - một việc mà tất cả bọn trẻ bị cấm
tuyệt đối - cô bé có thể nhìn thấy Sylvie và hai người bạn của cô trên thảm cỏ bên dưới, tà váy của họ bay phấp phới như những con bướm đêm trong ánh hoàng hôn đang buông. Còn Hugh thì đứng đợi ở cổng sau để chuẩn bị tiễn họ ra ga.
Thi thoảng Bridget lại dẫn bọn trẻ đến nhà ga để đón Hugh xuống tàu khi anh đi làm về. Maurice nói khi nào lớn lên cậu có thể trở thành một người lái tàu hoặc một nhà thám hiểm Nam Cực giống như ngài Ernest Shackleton*, người đang sắp sửa dong buồm ra khơi trong chuyến thám hiểm vĩ đại của mình. Hoặc có lẽ, cậu chỉ đơn giản trở thành một giám đốc ngân hàng, giống như cha cậu.
Hugh làm việc ở London. Bọn trẻ họa hoằn lắm mới được đến đó để thăm bà nội chúng ở quận Hampstead và cả buổi chiều chỉ chơi loanh quanh trong phòng khách của bà. Việc Maurice và Pamela hở tí lại gây gổ với nhau đã "bào mòn" những sợi dây thần kinh của Sylvie, khiến tâm trạng cô trên chuyến tàu về nhà lúc nào cũng tệ hại.
Khi tất cả mọi người đã đi khỏi, giọng nói của họ vẳng xa dần, Sylvie lững thững bước qua bãi cỏ để quay vào nhà, bóng tối giờ giống như một con dơi đen sì đang sải rộng đôi cánh. Sylvie không nhìn thấy một con cáo chủ ý chạy lon ton theo bước chân cô trước khi đổi hướng và biến mất trong bụi cây rậm rạp.
❄
"Anh có nghe thấy gì không?" Sylvie hỏi. Cô đang tựa người trên những chiếc gối, đọc một cuốn sách thời kỳ đầu của Forster*. "Thằng bé chăng?"
Hugh nghiêng đầu sang một bên. Trong một thoáng, anh khiến Sylvie nghĩ đến Bosun.
"Không thấy gì cả." Anh nói.
Thằng bé thường ngủ thâu đêm. Nó là một thiên thần nhỏ. Nhưng không phải ở trên thiên đường, ơn Chúa.
"Nó là đứa ngoan nhất tính đến thời điểm này." Hugh nói. "Vâng, em nghĩ chúng ta nên giữ nó bên mình."
"Nó trông không giống anh." Hugh nói.
"Đúng thế!" Cô vui vẻ đồng ý. "Chẳng giống anh chút nào."
Hugh cười, âu yếm hôn cô và nói, "Chúc ngủ ngon, anh tắt đèn của anh đây."
"Em nghĩ em sẽ đọc sách thêm một lúc nữa."
❄
Vài ngày sau, vào một buổi chiều nóng nực, họ kéo nhau đi xem vụ gặt.
Sylvie và Bridget đi bộ qua những cánh đồng cùng với Pamela và Ursula. Sylvie địu đứa bé bằng cách buộc chiếc khăn san của Bridget quanh thân người. Đây là cách mà Bridget chế ra cho Sylvie. "Giống hệt một cô nông dân Ai Len." Hugh thích thú nói. Hôm đó là thứ Bảy, Hugh được thoát khỏi không gian tù túng, ảm đạm bên trong ngân hàng, đang nằm trên cái ghế dài liễu gai trên hàng hiên sau nhà, nâng niu cuốn Wisden Cricketers' Almanack* như thể nó là một cuốn thánh ca.
Maurice đã biến mất sau khi ăn xong bữa sáng. Cậu bé đã chín tuổi và được cho phép đi bất cứ nơi đâu cậu thích, với bất cứ người nào cậu muốn, mặc dù bình thường cậu cũng chỉ chơi với một nhóm những cậu bé cùng tuổi. Sylvie chẳng biết chúng làm những gì, nhưng vào cuối ngày, cậu sẽ trở về, lấm lem bùn đất từ đầu đến chân và mang theo một chiến lợi phẩm đáng ghê sợ, chẳng hạn như một cái lọ đựng những con ếch hay những con sâu, một con chim chết, hoặc cái đầu lâu trắng bệch của một sinh vật nhỏ bé nào đó.
Mặt trời đã lên cao khi họ cuối cùng cũng khởi hành, ôm đồm vướng víu nào đứa bé, những cái giỏ đựng đồ dã ngoại, mũ che gáy và ô dù. Bosun chạy lon ton bên cạnh họ như một con ngựa nhỏ. "Chúa ơi, chúng ta tay xách nách mang như những kẻ tị nạn vậy." Sylvie nói. "Cứ như những người Do Thái đang rời khỏi Israel ấy."
"Người Do Thái sao?" Bridget nói, nhăn mặt tỏ vẻ chán ghét.
Teddy say sưa ngủ trong cái địu tự chế suốt chuyến đi trong lúc họ leo qua những cái bục trèo* và vấp phải những vết bánh xe in trên bùn bị ánh nắng mặt trời làm cho rắn đanh lại. Bridget bị rách váy vì mắc phải một cái đinh và than thở rằng hai bàn chân cô đã bị phồng rộp hết cả. Sylvie tự hỏi mình có nên cởi phắt cái coóc xê ra và vứt nó lại bên vệ đường không, rồi hình dung ra vẻ hoang mang của người nào đi ngang qua và nhìn thấy nó. Một mảnh ký ức không mong đợi chợt lóe lên trong đầu cô giữa ban ngày ban mặt, trên cánh đồng nắng chói chang với những đàn bò đang thong thả gặm cỏ - đó là hình ảnh Hugh cởi cái coóc xê của cô tại căn phòng khách sạn ở Deauville, trong tuần trăng mật của họ, giữa những âm thanh vọng vào từ bên ngoài qua ô cửa sổ để mở, là tiếng kêu của lũ chim mòng biển đang vỗ cánh bay và tiếng cãi cọ choe chóe bằng tiếng Pháp giữa một người đàn ông và một người đàn bà. Trên con thuyền từ Cherbourg* về nhà, Sylvie đã mang bào thai bé bỏng mà sau này trở thành Maurice, mặc dù khi ấy cô vẫn còn an nhiên chưa hay biết gì về sự hiện diện của nó.
"Thưa bà?" Bridget nói, phá tan dòng hồi tưởng của Sylvie. "Bà Todd? Chúng không phải là bò."
❄
Họ dừng lại để trầm trồ ngắm nghía hai con ngựa cày to lớn của George Glover có tên là Samson và Nelson đang thở phì phì và lúc lắc đầu khi nhìn thấy đoàn người. Chúng khiến Ursula cảm thấy e sợ nhưng Sylvie thì cho mỗi con một quả táo, chúng khéo léo
ngoạm lấy những quả táo ấy từ lòng bàn tay cô bằng cặp môi nhung hồng to tướng. Sylvie nói chúng là ngựa đốm xám và đẹp hơn con người nhiều. Pamela liền hỏi ngay: "Kể cả trẻ con ư?" Sylvie đáp "Phải, đặc biệt là trẻ con", rồi cười phá lên.
Họ nhận thấy George cũng đang đích thân phụ giúp việc gặt hái. Khi nhìn thấy họ, anh ta bèn sải bước băng qua cánh đồng để tới chào hỏi. "Chào bà!" Anh ta nói với Sylvie rồi cởi mũ ra, lau mồ hôi trên trán bằng chiếc khăn mùi soa chấm bi màu đỏ trắng. Trên hai cánh tay anh ta dính đầy những hạt trấu nhỏ xíu. Giống như đám hạt trấu ấy, những sợi lông trên cánh tay anh ta cũng óng ánh vàng dưới ánh sáng mặt trời. "Nóng thật đấy!" Anh ta nói một điều thừa thãi. Anh ta nhìn Sylvie qua lọn tóc dài lúc nào cũng rủ xuống đôi mắt xanh tuyệt đẹp của mình. Sylvie cảm thấy mặt mình đỏ bừng.
Ngoài bữa trưa của họ - gồm bánh sandwich nhân pa tê cá trích muối hun khói, bánh sandwich nhân mứt chanh, bia gừng và bánh có hạt thơm - họ còn mang theo món bánh nướng nhân pa tê lợn còn thừa từ hôm qua mà bà Glover nhờ gửi cho George, cùng món dưa góp cay trứ danh của bà đựng trong một cái lọ nhỏ. Cái bánh có hạt thơm đã bị chua vì Bridget quên cất nó vào trong hộp thiếc, mà bỏ ở ngoài căn bếp nóng nực cả đêm. "Tôi sẽ không ngạc nhiên nếu lũ kiến đẻ trứng trong đó." Bà Glover đã nói. Đến lúc ăn bánh, Ursula phải nhặt từng cái hạt ra để kiểm tra, mặc dù chúng nhiều vô số kể, nhằm đảm bảo rằng nó không phải là trứng kiến.
Những người thợ gặt trên cánh đồng dừng tay để ăn trưa. Bữa trưa của họ chủ yếu là bánh mì, pho mát và bia. Bridget đỏ mặt và cười khúc khích khi đưa miếng bánh nướng nhân pa tê lợn cho George. Pamela kể với Ursula rằng Maurice nói Bridget mê mẩn George, mặc dù cả hai đứa đều cảm thấy Maurice là một nguồn thông tin không đáng tin cậy đối với những chuyện liên quan đến vấn đề tình cảm. Họ ăn bữa trưa ngoài trời ở rìa cánh đồng trơ đây gốc rạ, George ngả ngớn nửa nằm nửa ngồi trên cỏ, cắn những miếng bánh to tướng trong khi Bridget nhìn anh ta chăm chú với vẻ
ngưỡng mộ, như thể anh ta là một vị thần Hy Lạp, còn Sylvie thì có vẻ bận rộn dồn hết mọi sự chú ý vào đứa bé.
❄
Sylvie thơ thẩn đi tìm một địa điểm kín đáo để cho Teddy bú. Những cô gái lớn lên trong các ngôi nhà xinh đẹp ở Mayfair thường không nấp sau những hàng rào để cho con bú. Giống như những nông dân Ai Len, chắc chắn rồi. Cô vẩn vơ nghĩ đến cái lều trên bãi biển ở Cornwall. Lúc cô tìm thấy một lùm cây thích hợp cạnh một hàng rào, Teddy đang khóc ngặt nghẽo, hai bàn tay bé nhỏ siết chặt lại, tựa như võ sĩ quyền anh, trước sự bất công của thế giới. Ngay khi cậu bé nằm yên vị trước ngực cô, cô tình cờ ngước nhìn lên và bắt gặp George Glover đang bước ra khỏi rặng cây ở đầu kia của cánh đồng. Thấy cô, anh ta dừng sững lại, nhìn cô chằm chằm như một con hươu bị giật mình. Trong thoáng chốc, anh ta không hề nhúc nhích, nhưng rồi anh ta cởi mũ và nói: "Trời vẫn còn nóng quá, thưa bà."
"Hẳn rồi!" Sylvie nói nhanh rồi nhìn George Glover vội vã đi về phía cánh cổng có năm thanh chắn chỗ hàng rào ở giữa cánh đồng và dễ dàng nhảy qua nó như một người thợ săn lực lưỡng nhảy qua một chướng ngại vật.
❄
Từ một khoảng cách an toàn, họ theo dõi cái máy gặt khổng lồ ồn ào nuốt lấy từng đám lúa mì. "Thật mê ly, đúng không?" Bridget nói. Cô vừa mới học được từ đó. Sylvie lấy ra cái đồng hồ bỏ túi bằng vàng nhỏ nhắn, xinh xắn, một vật mà Pamela vô cùng thèm muốn, và nói: "Trời ơi, nhìn thời gian này!" Mặc dù chẳng ai thèm nhìn cả. "Chúng ta phải về thôi."
Đúng lúc họ đang định rời đi, George Glover bỗng gọi to "Này mọi người!" và chạy băng băng qua cánh đồng về phía họ. Anh ta đang
đựng thứ gì đó trong cái mũ. Hai con thỏ con. "Ôi!" Pamela thốt lên, phấn khích đến phát khóc.
"Thỏ đấy!" George Glover nói. "Cả bọn đang nằm rúc vào nhau giữa cánh đồng. Mẹ chúng đi đâu mất rồi. Sao các cháu không giữ chúng nhỉ? Mỗi đứa một con."
Trên đường về nhà, Pamela đựng cả hai con thỏ con trong cái tạp dề của mình và giơ nó ra trước mặt với vẻ hãnh diện giống như lúc Bridget bê một khay trà vậy.
❄
"Nhìn mấy mẹ con kìa." Hugh nói khi đoàn người thất thểu đi qua cổng vườn. "Cả người vàng rực và đầy dấu hôn của mặt trời. Mấy mẹ con giống hệt đàn bà con gái nông thôn rồi đó."
"Em e rằng mẹ con em đỏ rực thì đúng hơn là vàng rực." Sylvie thiểu não nói.
Người thợ làm vườn đang làm việc. Ông ta được gọi là già Tom ("Cứ như tên của một con mèo ấy." Sylvie nói. "Anh có nghĩ ông ta từng được gọi là cậu nhóc Tom không?"). Già Tom làm việc sáu ngày một tuần, ngoài gia đình họ, ông ta còn làm cho một gia đình khác ở gần đó. Đó là gia đình Cole. Họ gọi ông ta là "ông Ridgely". Ông ta không tỏ ý gì về việc mình thích cách gọi nào hơn. Gia đình Cole sống trong một ngôi nhà rất giống với ngôi nhà của gia đình Todd. Giống như Hugh, ông Cole cũng là một giám đốc ngân hàng. "Người Do Thái." Sylvie nói với giọng giống như khi cô nói từ "người Công giáo" - tò mò thích thú nhưng cũng phần nào lo lắng bởi những gì lạ lẫm.
"Anh không nghĩ họ tích cực*." Hugh nói. Tích cực cái gì? Ursula tự hỏi. Pamela phải tích cực tập luyện piano vào mỗi buổi xế chiều trước bữa trà, một chuỗi âm thanh lanh canh loong coong không được dễ nghe cho lắm.
Theo lời Simon, cậu con trai cả của nhà họ thì lúc mới sinh, ông Cole có một cái tên rất khác, một cái tên quá mức phức tạp đối với cách phát âm của người Anh. Cậu con giữa, Daniel, là bạn của Maurice, dù người lớn không phải là bạn bè của nhau nhưng bọn trẻ vẫn qua lại thân thiết. Simon, "một kẻ học gạo" (theo lời Maurice nói), giúp Maurice học môn Toán vào mỗi tối thứ Hai. Sylvie không biết phải thưởng công cho cậu ta như thế nào vì nhiệm vụ không mấy dễ chịu này. Cô lúng túng như vậy có lẽ là bởi gốc gác Do Thái của cậu ta. "Nhỡ đâu thứ em tặng nó lại là một sự xúc phạm đối với họ?" Cô suy đoán. "Nếu em cho thằng bé tiền, họ có thể nghĩ rằng em đang ám chỉ đến tính bủn xỉn, keo kiệt nổi tiếng bốn phương của họ. Nếu em cho nó bánh kẹo, chúng có thể không phù hợp với chế độ ăn uống nghiêm ngặt của họ."
"Họ không phải là những tín đồ tích cực." Hugh lặp lại. "Họ không sùng đạo."
"Benjamin rất hay sục sạo*" Pamela nói. "Hôm qua anh ấy tìm thấy một tổ chim hét." Cô bé vừa nói vừa trừng mắt với Maurice. Cậu đã bắt gặp các em mình sững sờ kinh ngạc trước những quả trứng xinh đẹp có màu xanh lốm đốm nâu và đã chộp lấy chúng, đập chúng vào một tảng đá khiến chúng vỡ tan. Cậu nghĩ đó là một trò đùa hay ho. Pamela đã ném một hòn đá nhỏ (chà, rất rất nhỏ) vào đầu cậu. "Đó!" Cô bé nói. "Anh cảm thấy thế nào khi "cái vỏ" của anh bị đập vỡ?" Giờ thì cậu có một vết rách gớm ghiếc và một vết bầm tím trên thái dương. "Bị ngã!" Cậu nói cộc lốc khi Sylvie hỏi tại sao cậu lại bị thương. Với bản tính của cậu, đáng lẽ cậu sẽ mách tội Pamela, nhưng thế thì tội lỗi ban đầu của cậu cũng sẽ bị phơi bày ra ánh sáng, rồi Sylvie sẽ trừng phạt cậu thật nặng vì đã đập vỡ trứng. Trước kia, mẹ cậu có lần bắt quả tang cậu đánh cắp những quả trứng và đã bạt tai cậu. Sylvie dạy các con nên "tôn trọng" tự nhiên chứ không phải là phá hủy nó, nhưng thật không may, trong bản tính của Maurice không có chỗ cho sự tôn trọng.
"Thằng bé đang học violin, đúng không nhỉ - thằng bé Simon ấy?" Sylvie nói. "Người Do Thái thường rất có khiếu âm nhạc, không phải sao? Có lẽ, em nên cho nó một tờ nhạc hoặc thứ gì đó đại loại thế." Cuộc bàn luận về những nguy cơ xúc phạm người Do Thái này đã diễn ra trên bàn ăn sáng. Hugh luôn tỏ ra có chút kinh ngạc khi thấy các con ngồi cùng bàn với mình. Tới tận năm mười hai tuổi, anh mới được phép rời khỏi phòng trẻ và ngồi ăn sáng chung với cha mẹ. Anh được chăm sóc, dạy dỗ một cách nghiêm ngặt bởi một vú em tháo vát, như thể hai người họ là một gia đình nhỏ trong lòng một gia đình lớn ở Hampstead vậy. Trái lại, thuở ấu thơ, Sylvie thường ăn tối muộn với món Canard à la presse*. Cô ngồi cheo leo trên những tấm nệm ghế, bị ru ngủ bởi ánh nến lập lòe và bộ dao dĩa bằng bạc lấp lánh trong khi tiếng trò chuyện của cha mẹ cứ văng vẳng phía trên đầu. Đến bây giờ cô mới nghi ngờ rằng đó không phải là một tuổi thơ hoàn toàn bình thường.
❄
Già Tom đang xới đất để trồng một luống măng tây mới. Hugh đã bỏ quyền Wisden xuống từ lâu và đang hái những quả mâm xôi vào cái bát tráng men màu trắng to tướng. Cả Pamela và Ursula đều nhận ra cái bát ấy vừa mới bị Maurice dùng để đựng nòng nọc, mặc dù cả hai đứa đều không hó hé gì về sự thật ấy. Sau khi tự rót cho mình một cốc bia, Hugh nói: "Mấy việc nhà nông này khiến người ta khát khô cả cổ." Và tất cả mọi người đều phá lên cười. Ngoại trừ già Tom.
Bà Glover từ trong nhà đi ra để yêu cầu già Tom đào mấy củ khoai tây cho bà nấu với thịt bò. Vừa nhìn thấy mấy con thỏ, bà càm ràm: "Cho dù có nấu món hầm thì cũng chẳng đủ." Pamela gào lên om sòm. Hugh phải cho cô bé nhấp một ngụm bia để cô bé bình tĩnh lại.
Pamela và Ursula làm một cái ổ bằng cỏ và bông ở một góc kín đáo trong vườn, tô điểm thêm cho nó bằng những cánh hoa hồng rụng rồi cẩn thận đặt hai con thỏ con vào trong đó. Pamela hát cho chúng nghe một khúc hát ru - cô bé hát rất đúng điệu - nhưng chúng đã ngủ sẵn từ lúc George Glover trao chúng cho cô bé.
"Mẹ nghĩ chúng còn quá nhỏ." Sylvie nói. Quá nhỏ thì có vấn đề gì? Ursula băn khoăn tự hỏi nhưng Sylvie không nói rõ ra.
❄
Họ ngồi trên bãi cỏ, ăn những quả mâm xôi trộn kem và đường. Hugh nhìn lên bầu trời xanh biếc và nói: "Em có nghe thấy tiếng sấm không? Sắp có một cơn dông lớn đấy, anh có thể cảm thấy nó đang kéo đến. Già thì sao, già Tom?" Anh cất cao giọng để già Tom đang ở luống rau đằng xa cũng có thể nghe thấy. Hugh tin rằng vì già Tom là một thợ làm vườn nên ông ấy phải hiểu biết về thời tiết. Già Tom không nói gì mà cứ tiếp tục xới đất.
"Ông ấy bị điếc." Hugh nói.
❄
"Không, ông ấy không bị điếc đâu." Sylvie nói, nghiền nát những quả mâm xôi đỏ như màu máu vào lớp kem dày, tạo thành màu hồng thiên thảo, và đột nhiên nghĩ về George Glover. Một người con của đất. Đôi bàn tay vuông vắn, khỏe khoắn của anh ta, mấy con ngựa đốm xám xinh đẹp giống như những con ngựa gỗ bập bênh to lớn của anh ta, và cái cách anh ta ngả ngớn nửa nằm nửa ngồi trên bờ cỏ để ăn trưa, tư thế khá giống Adam* trong bức tranh của Michelangelo* ở nhà nguyện Sistine*, chỉ có điều anh ta với tay để lấy miếng bánh nướng nhân pa tê lợn chứ không phải với lấy bàn tay của Chúa trời. (Khi Sylvie theo cha là ông Llewellyn tói nước Ý, cô đã rất sửng sốt bởi số lượng da thịt đàn ông được phơi bày trước con mắt công chúng trong các tác phẩm nghệ thuật.) Cô tưởng
tượng cảnh cô đang cho George Glover ăn những quả táo trên tay mình và bật cười.
"Có chuyện gì vậy?" Hugh hỏi và Sylvie đáp: "George Glover quả là một anh chàng điển trai."
"Vậy thì cậu ta hẳn là con nuôi rồi." Hugh nói.
❄
Đêm đó, ở trên giường, Sylvie từ bỏ cuốn sách của Forster để dành thời gian cho những hoạt động ít phải vận dụng đến trí não hơn, hai cơ thể nóng rực quấn quýt lấy nhau trên chiếc giường hôn nhân, giống như một con hươu đực đang thở hổn hển hơn là một con chim chiền chiện đang bay liệng trên bầu trời. Cô cảm thấy mình không nghĩ về cơ thể dẻo dai, nhẵn nhụi của Hugh mà lại tưởng tượng đến cánh tay và bắp đùi to khỏe, bóng loáng giống như một con nhân mã của George Glover. "Em rất..." Hugh mệt lử nói, nhìn chằm chằm vào cái gờ đắp nổi trên trần phòng ngủ khi anh tìm kiếm một từ thích hợp. "Hăng hái." Cuối cùng, anh kết luận.
"Chắc là nhờ không khí trong lành đấy." Sylvie nói.
❄
Cả người vàng rực và đầy dấu hôn của mặt trời, cô nghĩ khi khoan khoái chìm vào giấc ngủ, và rồi những câu hát trong vở kịch của Shakespeare* đột nhiên nảy ra trong đầu cô. Những chàng trai vàng và những cô gái vàng/ Giống như những người thợ cạo ống khói/ Tất cả rồi cũng phải hóa thành tro bụi*, và cô bất chợt cảm thấy sợ hãi.
"Cuối cùng cơn dông cũng nổi lên rồi." Hugh nói. "Anh tắt đèn nhé?"
❄
Sylvie và Hugh bị kéo ra khỏi giấc ngủ vào buổi sáng Chủ nhật bởi tiếng gào khóc của Pamela. Cô bé và Ursula đã dậy rõ sớm với tâm trạng phấn khích và hối hả chạy xộc ra ngoài vườn, để rồi phát hiện lũ thỏ đã biến mất, chỉ còn sót lại đúng một nhúm đuôi nhỏ xíu như một cục bông mềm màu trắng, lốm đốm đỏ.
"Do bọn cáo đấy." Bà Glover nói, có chút hả hê. "Các cháu mong đợi gì chứ?"
THÁNG 1 NĂM 1915
"Bà đã nghe tin tức mới nhất chưa?" Bridget hỏi.
Sylvie thở dài và đặt lá thư của Hugh xuống, những tờ giấy giòn như lá khô. Anh mới ra tiền tuyến có vài tháng mà cô cảm tưởng như quên mất mình đã kết hôn với anh. Hugh là một đại úy của Trung đoàn Oxfordshire và Buckinghamshire. Vào mùa hè năm ngoái, anh còn là một giám đốc ngân hàng. Điều đó có vẻ thật kỳ cục.
Các lá thư của anh đều được viết với giọng lạc quan và cẩn trọng (cánh đàn ông thật tuyệt vời, họ rất có cá tính). Trước đây, anh thường nhắc đến những người này bằng tên cụ thể ("Bert", "Alfred", "Wilfred") nhưng kể từ trận Ypres*, họ chỉ đơn giản được gọi là "cánh đàn ông", Sylvie tự hỏi phải chăng Bert, Alfred và Wilfred đã chết. Hugh không bao giờ nhắc đến cái chết hay sự hấp hối, như thể họ chỉ đang đi du ngoạn hay đi dã ngoại (Tuần này mưa khiếp quá. Khắp nơi toàn bùn là bùn. Hy vọng em đang được hưởng thời tiết tuyệt vời hơn bọn anh!).
"Ra trận? Anh sẽ ra trận ư?" Cô đã hét lên với anh khi anh đăng lính và chợt nhận ra trước đây cô chưa bao giờ to tiếng với anh. Có lẽ cô nên làm thế từ lâu.
Hugh giải thích với cô, nếu có chiến tranh, anh không muốn khi nhìn lại mới nhận ra rằng mình đã bỏ lờ nó, rằng những người khác đều đã dấn thân vì danh dự của Tổ quốc, còn anh thì không. "Đó có thể là cuộc phiêu lưu duy nhất mà anh có trong đời." Anh nói.
"Cuộc phiêu lưu ư?" Cô nhắc lại như thể không tin vào tai mình. "Còn các con anh thì sao, còn vợ anh thì sao?"
"Nhưng anh đang làm việc này vì em mà." Anh nói, trông có vẻ hết sức đau khổ, như thể một Theseus* bị hiểu lầm. Vào khoảnh khắc đó, Sylvie căm ghét anh vô cùng. "Để bảo vệ tổ ấm của chúng ta..." Anh khăng khăng. "Để bảo vệ tất cả những gì chúng ta tin tưởng."
"Nhưng em đã nghe thấy anh nói từ phiêu lưu." Sylvie nói, quay lưng lại với anh.
Tuy vậy, đương nhiên cô vẫn lên London để tiễn anh. Họ đã bị chen lấn, xô đẩy giữa một rừng người cờ quạt ngút trời đang hò reo phấn khích như thể vừa mới giành được một chiến thắng vĩ đại. Sylvie ngạc nhiên bởi lòng yêu nước cuồng điên của những người phụ nữ trên sân ga. Thiết tưởng chiến tranh phải khiến cho tất cả phụ nữ trở nên yêu hòa bình chứ nhỉ?
Hugh đã ôm cô thật chặt như thể họ là một cặp uyên ương mới yêu nhau và mãi đến phút chót anh mới nhảy lên tàu. Anh lập tức bị nuốt chửng bởi đám đông kín đặc những người đàn ông mặc quân phục. Trung đoàn của anh ấy đấy, cô nghĩ. Thật kỳ cục. Giống như rừng người kia, anh cũng đã có vẻ vô cùng phấn chấn, phấn chấn một cách ngớ ngẩn.
Khi đoàn tàu bắt đầu chầm chậm lăn bánh khỏi nhà ga, đám đông phấn khích ồ lên hò reo bày tỏ sự ủng hộ, điên cuồng vẫy cờ và ném mũ nón lên trời. Sylvie chỉ biết đờ đẫn nhìn chằm chằm vào những ô cửa sổ của các toa tàu khi chúng lướt qua mặt cô, ban đầu còn chậm rãi, sau đó càng lúc càng nhanh cho đến khi chúng nhòe đi. Cô không thấy bóng dáng Hugh đâu cả và đoán rằng anh cũng chẳng tài nào nhìn thấy cô.
Cô vẫn nán lại trên sân ga sau khi tất cả những người khác đã rời đi, nhìn trân trân vào một điểm cuối chân trời, nơi con tàu khuất dạng.
❄
Sau khi bỏ lá thư xuống, Sylvie nhặt cây kim đan lên.
"Bà đã nghe tin gì chưa?" Bridget vẫn nhèo nhẽo. Cô nàng đang sắp dao dĩa trên bàn trà. Sylvie cau mày nhìn mảnh áo nịt len màu xám mà cô đang đan dở cho Maurice, tự hỏi liệu cô có muốn nghe bất cứ tin tức nào từ miệng Bridget không. Cô bỏ một mũi đan trên cái tay áo kiểu raglan*. Giờ đây tất cả những người phụ nữ trong gia đình đều dành quá nhiều thời gian cho việc đan lát - khăn quàng cổ, găng tay hở ngón, găng tay thường, tất ngắn, mũ, áo gi lê và áo len - để giữ ấm cho những người đàn ông của họ.
Bà Glover thường ngồi bên bếp lò vào buổi tối, đan những đôi găng tay to đến nỗi có thể xỏ vừa móng guốc những con ngựa cày của George. Dĩ nhiên, bà không đan chúng cho Samson và Nelson, mà dành cho chính George, một trong những người đầu tiên tình nguyện ra trận. Bà Glover luôn hãnh diện khoe với mọi người về hành động này của con trai mỗi khi có dịp, khiến Sylvie cảm thấy khá bực bội. Ngay cả Marjorie, cô hầu gái chuyên phụ giúp nấu ăn rửa bát, cũng bị cuốn vào phong trào đan lát này. Sau bữa trưa, cô thường miệt mài cắm cúi với thứ gì đó trông như một chiếc khăn lau bát, mặc dù gọi việc này là "đan lát" thì có hơi khiên cưỡng. "Lỗ còn nhiều hơn cả len." Bà Glover nhận xét trước khi bợp tai cô gái và bắt cô quay trở lại với công việc.
Bridget thì bắt đầu say mê việc đan những đôi tất chẳng ra hình thù gì - cô không thể đan được phần gót dù cố gắng đến thế nào đi nữa - cho anh chàng mà cô mới nhận lời yêu. Cô đã "trao trọn trái tim" cho một anh chàng giữ ngựa ở Lâu đài Ettringham tên là Sam Wellington. "Ồ, hẳn rồi, anh ấy là một chiếc giày cũ*." Cô nói rồi cười ngặt nghẽo trước lời đùa bỡn ấy, vài lần một ngày, như thể mới nói điều đó lần đầu tiên. Bridget gửi cho Sam Wellington những tấm bưu thiếp đầy ủy mị với hình ảnh các thiên thần bay lượn phía trên đầu những người phụ nữ đang ngồi khóc lóc bên cái bàn phủ khăn trải bằng vải chenille trong phòng khách. Sylvie đã bóng gió với Bridget
rằng có lẽ cô nên gửi những lá thư lạc quan hơn cho một người đàn ông đang xông pha nơi chiến trường.
Bridget bày một tấm ảnh - một bức chân dung chụp trong studio - của Sam Wellington trên cái bàn trang điểm khá sơ sài của cô. Nó chiếm vị trí trang trọng bên cạnh bộ lược cũ tráng men mà Sylvie đã cho cô lúc Hugh mua tặng Sylvie bộ đồ trang điểm mới bằng bạc làm quà sinh nhật.
Tương tự như vậy, một bức chân dung của George chụp theo thủ tục bắt buộc được bày trên cái bàn kê ở đầu giường của bà Glover. Với tư thế gượng gạo và thân hình bị bó chặt trong bộ quân phục trước tấm phông nền gợi cho Sylvie nghĩ đến bờ biển Amalfi*, George Glover không còn giống Adam trong bức tranh ở nhà nguyện Sistine nữa. Sylvie nghĩ về tất cả những người đàn ông nhập ngũ đã trải qua thủ tục này, đây là một vật kỷ niệm dành cho các bà mẹ và những cô người yêu của họ, cũng là tấm hình duy nhất từng được chụp trong đời một vài người trong số họ. "Anh ấy có thể bị giết." Bridget nói về người yêu của mình. "Và cháu có thể quên mất trông anh ấy như thế nào." Sylvie có rất nhiều bức ảnh của Hugh. Từng thời điểm đặc biệt trong cuộc đời anh đều được lưu lại một cách tỉ mỉ.
Trừ Pamela, tất cả bọn trẻ đều đang ở trên gác. Teddy đang ngủ hoặc có lẽ là đang thức trong cũi, dù ngủ hay thức thì cậu bé cũng chẳng ọ ẹ gì. Maurice và Ursula thì đang làm những trò mà Sylvie không biết và cũng chẳng quan tâm, vì nhờ sự vắng mặt của chúng mà sự bình yên mới ngự trị trong căn phòng sinh hoạt ban ngày này, nếu không kể đến tiếng "uỵch" đáng nghi ngại thi thoảng vọng xuống từ trên trần và tiếng xoong chảo loảng xoảng ở trong bếp thông báo về cảm xúc của bà Glover đối với một chuyện gì đó - cuộc chiến hoặc sự vụng về của Marjorie hoặc cả hai.
Từ lúc cuộc chiến ở lục địa* bắt đầu, họ đều ăn uống trong căn phòng sinh hoạt ban ngày, từ bỏ cái bàn ăn theo phong cách Nhiếp
Chính phục hưng* vì nó quá phô trương so với tình trạng thắt chặt chi tiêu thời chiến và lựa chọn cái bàn nhỏ ở phòng khách để thay thế. ("Có phải là không dùng phòng ăn thì sẽ giành được chiến thắng đâu chứ!" bà Glover nói.)
Sylvie ra hiệu cho Pamela, cô bé ngoan ngoãn tuân theo mệnh lệnh không lời của mẹ và bám đuôi Bridget đi vòng quanh bàn, xoay lại vị trí của dao dĩa theo đúng chiều. Bridget vốn không thể phân biệt nổi bên trái với bên phải hay bên trên với bên dưới.
Sự ủng hộ của Pamela đối với đội quân viễn chinh được thể hiện dưới dạng một loạt những chiếc khăn quàng cổ màu nâu xám, có độ dài bất thường và khó có thể sử dụng. Sylvie ngạc nhiên, mừng rỡ trước khả năng chịu đựng sự đơn điệu, buồn tẻ của cô con gái lớn. Điều này sẽ có lợi cho cuộc sống của con bé sau này. Sylvie tuột mất một mũi đan và lẩm bẩm chửi thề khiến Pamela và Bridget sửng sốt. "Tin gì vậy?" Cuối cùng cô miễn cưỡng hỏi.
"Norfolk* đã bị ném bom." Bridget nói, lấy làm hãnh diện vì thông tin của mình.
"Bom ư?" Sylvie nói, ngẩng đầu lên khỏi chiếc áo len đang đan dở. "Ở Norfolk?"
"Một cuộc không kích bằng tàu bay Zeppelin*." Bridget cao giọng nói. "Quân Đức dã man vậy đấy. Chúng chẳng quan tâm mình sẽ giết ai. Chúng vốn độc ác mà. Chúng còn ăn thịt trẻ con ở Bỉ nữa kìa."
"Ồ..." Sylvie nói, móc lại mũi đan bị tuột. "Điều đó có vẻ hơi phóng đại."
Pamela ngần ngừ, một tay cầm dĩa, một tay cầm thìa, như thể đang định lao vào xâu xé một trong những món tráng miệng to bự của bà Glover. "Ăn..." Cô bé kinh hãi lặp lại. "... Thịt trẻ con?"
"Không phải đâu." Sylvie cáu kỉnh nói. "Đừng ngớ ngẩn thế!"
Bà Glover thét gọi Bridget từ sâu trong bếp và Bridget chạy tới như bay để nhận lệnh của bà. Tiếp đó, Sylvie nghe thấy Bridget gọi vọng lên cầu thang: "Bữa trà của cô cậu đã sẵn sàng rồi!"
Pamela thở dài như một người đã trải hết cuộc đời và ngồi vào bàn. Cô bé thẫn thờ nhìn tấm khăn phủ bàn và nói: "Con nhớ bố."
"Mẹ cũng vậy, con yêu." Sylvie nói. "Mẹ cũng vậy. Giờ thì đừng có ngốc nghếch như một con ngỗng nữa, đi bảo anh và em con rửa tay đi!"
Hồi Giáng sinh, Sylvie đã đóng gói một hộp đồ lớn để gửi cho Hugh, trong đó có những đôi tất và găng tay quen thuộc, một cái khăn quàng cổ dài bất tận của Pamela và - như thể bù đắp cho vật này - một chiếc khăn quàng cổ ca sơ mia hai lớp do chính tay Sylvie đan và xức loại nước hoa yêu thích của cô là La Rose Jacqueminot, để nhắc anh nhớ đến tổ ấm của mình. Cô hình dung ra cảnh Hugh đeo chiếc khăn này khi đang ở trên chiến trường, giống như một hiệp sĩ cưỡi ngựa đấu thương gan dạ diện món quà đầy thiện ý của một tiểu thư. Mộng tưởng hão huyền về những chàng hiệp sĩ này tự thân nó đã là một niềm an ủi, đặc biệt là khi phải đối mặt với thứ gì đó u ám hơn. Họ từng trải qua một kỳ nghỉ cuối tuần lạnh lẽo ở Broadstairs*, bị bó chặt trong đôi ghệt, áo chẽn và mũ len trùm đầu, nghe tiếng gầm của những khẩu súng lớn văng vẳng vọng lại từ phía bên kia mặt biển.
Bên trong chiếc hộp Giáng sinh còn có một cái bánh ngọt nhân mận khô mà bà Glover đã nướng, một hộp thiếc đựng những viên kẹo bạc hà có hình thù hơi méo mó do Pamela tự tay làm, rồi cả thuốc lá, một chai whisky mạch nha ngon lành và một cuốn thơ - đó là tuyển tập các bài thơ của Anh, chủ yếu là thơ đồng quê và không quá khó đọc - cùng với những món quà thủ công nho nhỏ từ Maurice (chẳng hạn như một chiếc máy bay làm bằng gỗ bấc) và một bức tranh của Ursula vẽ bầu trời xanh, đồng cỏ xanh và một con chó bé tí nhìn chẳng ra hình thù gì. "Bosun!" Sylvie đã viết như vậy
phía trên đầu con chó để giải thích. Cô không biết liệu Hugh đã nhận được cái hộp Giáng sinh ấy hay chưa.
Lễ Giáng sinh diễn ra thật tẻ nhạt. Izzie đến thăm và luôn miệng huyên thuyên về những chuyện chẳng đâu vào đâu (hoặc nói về chính mình) trước khi thông báo rằng cô đã gia nhập Biệt đội Cứu thương Tình nguyện và sẽ tới Pháp ngay sau dịp lễ.
"Nhưng này, Izzie." Sylvie nói. "Cô đâu biết chăm sóc người khác, hay nấu nướng, hay đánh máy, hay làm bất cứ việc gì hữu ích." Những lời lẽ ấy được thốt ra gay gắt hơn cô nghĩ, nhưng Izzie quả thực là một kẻ gàn dở. (Bà Glover nhận xét cô ấy là "người đồng bóng".)
"Thôi thế là xong!" Bridget nói khi nghe tin Izzie sắp đi theo tiếng gọi của cuộc chiến. "Chúng ta sẽ thua trận vào Mùa Chay* này mất." Izzie chưa bao giờ nhắc đến đứa con của mình. Thằng bé đã được cho đi làm con nuôi ở Đức và Sylvie cho rằng nó là một công dân Đức. Thật lạ lùng khi nó còn nhỏ hơn cả Ursula nhưng trên danh nghĩa lại là kẻ thù của họ.
Thế rồi khi bước sang năm mới, lần lượt từng đứa trẻ bị mắc bệnh thủy đậu. Izzie lên chuyến tàu tiếp theo đến London ngay khi nốt thủy đậu đầu tiên nổi lên trên mặt Pamela. "Thế mà cũng đòi làm Florence Nightingale* cơ đấy!" Sylvie cáu kỉnh than phiền với Bridget.
❄
Mặc dù có những ngón tay múp míp, vụng về nhưng hiện giờ Ursula cũng đã tham gia vào phong trào đan lát điên cuồng của cả gia đình. Vào dịp Giáng sinh, cô bé đã nhận được một con búp bê móc len* bằng gỗ của Pháp tên là La Reine Solange, theo lời Sylvie thì cái tên ấy có nghĩa là "Nữ hoàng Solange", mặc dù cô "hoài nghi" về việc có một Nữ hoàng Solange thật sự trong lịch sử. Nữ hoàng Solange được sơn những màu sắc vương giả và đội một chiếc
vương miện màu vàng tinh xảo, các chóp nhọn của chiếc vương miện chính là chỗ để cô bé mắc sợi len vào. Ursula rất miệt mài và dành toàn bộ thời gian rỗi - mà thời gian rỗi của cô bé thì nhiều mênh mông vô kể - để tạo ra những dải len dài như con rắn chẳng dùng để làm gì được, ngoài việc cuộn chúng lại thành những tấm thảm và những cái giỏ tích nghiêng nghiêng ngả ngả. ("Mấy cái lỗ để gắn vòi và tay cầm đâu?" Bridget hỏi.)
"Dễ thương lắm, con yêu!" Sylvie nói, kiểm tra một trong những tấm thảm nhỏ đang từ từ bung ra trong tay mình, giống như một sinh vật đang thức dậy sau giấc ngủ dài. "Có công mài sắt có ngày nên kim, con hãy ghi nhớ điều đó."
❄
"Bữa trà của các cô cậu đã sẵn sàng rồi!"
Ursula lờ đi tiếng gọi ấy. Cô bé đang ngồi trên giường, mê mải móc sợi len vào những chóp nhọn trên chiếc vương miện của Nữ hoàng Solange, mặt mày nhíu lại đầy vẻ tập trung. Đó là một mẩu len xe màu nâu vàng cũ rích nhưng họ "buộc phải" dùng, theo lời của Sylvie.
Đáng lẽ Maurice đã phải quay lại trường học, nhưng trong số tất cả bọn trẻ, cậu bị bệnh thủy đậu nặng nhất và mặt vẫn còn chi chít những vết sẹo nhỏ như thể bị một con chim mổ vào. "Hãy ở nhà thêm vài ngày nữa, anh bạn trẻ." Bác sĩ Fellowes đã nói như vậy, nhưng trong mắt Ursula, Maurice khỏe khoắn đến nỗi năng lượng dư thừa trong người cậu như sắp nổ tung đến nơi.
Cậu bồn chồn đi đi lại lại quanh phòng, buồn chán như một con sư tử bị nhốt trong chuồng. Cậu tìm thấy một chiếc dép của Pamela dưới gầm giường, bèn đá nó đi loanh quanh như đá một quả bóng. Thế rồi, cậu nhặt lên một món đồ trang trí bằng sứ - đó là bức tượng một tiểu thư mặc váy phồng mà Pamela rất yêu quý - và ném nó lên cao đến nỗi nó sượt qua cái chao đèn bằng thủy tinh vaseline* với
một tiếng keng đáng lo ngại. Ursula đánh rơi bộ đồ đan, kinh hãi đưa hai tay lên che miệng. Tiểu thư mặc váy phồng hạ cánh an toàn trên tấm chăn phủ giường satin nhồi lông vịt của Pamela, nhưng trước đó, Maurice đã chộp lấy con búp bê móc len bị rơi trên sàn và bắt đầu cầm nó chạy quanh, giả vờ như nó là một chiếc máy bay. Ursula dõi mắt nhìn theo khi Nữ hoàng Solange tội nghiệp bay quanh phòng, phần đuôi của dải len thòi ra từ trong người nó phấp phới đằng sau giống như một tấm băng rôn mỏng manh.
Và rồi Maurice làm một việc thực sự khủng khiếp. Cậu mở ô cửa sổ gác mái khiến một luồng khí lạnh gai người đột ngột ùa vào và ném con búp bê gỗ nhỏ bé bay cái vèo ra ngoài màn đêm đáng sợ.
Ursula lập tức kéo một cái ghế tới ô cửa sổ, trèo lên và nhòm ra ngoài. Nhờ quầng sáng hắt ra từ cửa sổ, cô bé nhìn thấy Nữ hoàng Solange bị mắc lại trên những miếng ngói đen nơi khe mái.
Maurice giờ đã hóa thân thành người Da Đỏ, cậu nhảy từ chiếc giường này sang chiếc giường khác, miệng gầm lên những tiếng hô xung trận. "Bữa trà của các cô cậu đã sẵn sàng rồi!" Bridget giục giã gay gắt hơn từ chân cầu thang. Ursula chẳng thèm đoái hoài đến cả hai người họ. Trái tim quả cảm của cô bé đập thình thịch khi cô bé trèo ra ngoài cửa sổ - một việc vốn chẳng dễ dàng gì - quyết tâm giải cứu Nữ hoàng của mình. Những viên ngói trơn tuột vì băng đá. Khi Ursula vừa mới đặt bàn chân đi dép nhỏ xíu của mình lên cái mái dốc bên dưới ô cửa sổ, cô bé lập tức bị trượt chân. Cô bé kêu lên một tiếng ngắn ngủi, vươn tay về phía Nữ hoàng móc len khi cô bé lao thẳng xuống ngang qua nó như một người ngồi trượt tuyết mà không có ván trượt. Chẳng có cái rào chắn nào để chặn cô bé lại, chẳng hề có thứ gì ngăn cô bé bị đẩy vào đôi cánh đen ngòm của màn đêm. Một luồng cảm xúc đột ngột dâng trào, gần như là sự hưng phấn, khi cô bé bị ném vào khoảng không thăm thẳm và chìm vào hư vô.
Bóng tối phủ xuống.
TUYẾT ❄
11 THÁNG 2 NĂM 1910
Món dưa góp cay có màu cỏ úa lợt lạt như màu da của người bị bệnh vàng da. Bác sĩ Fellowes ngồi ăn ở cái bàn trong bếp, dưới ánh sáng tù mù của một ngọn đèn dầu phiền phức luôn tỏa khói nghi ngút. Ông ta quết món dưa góp cay lên miếng bánh mì đã phết bơ và đặt lên trên đó một lát giăm bông dày béo ngậy. Ông ta bất giác nghĩ đến tảng thịt xông khói nằm nguội ngắt trong cái chạn thức ăn của mình. Ông ta đã đích thân lựa chọn con lợn ấy và chỉ tận tay cho người chủ trại thấy. Trong mắt ông ta, đó không phải một sinh vật sống mà là một bài học về giải phẫu - một tập hợp các bộ phận gồm lưng, khuỷu chân, má, bụng và những khoanh đùi to tướng để luộc. Thịt. Ông ta nghĩ đến đứa bé vừa được mình giải cứu khỏi hàm răng của Tử thần bằng một nhát kéo phẫu thuật. "Phép màu của cuộc sống!" Ông ta thản nhiên nói với cô hầu gái Ai Len bé nhỏ thô vụng. ("Bridget, thưa ngài.") "Tôi sẽ ở lại qua đêm." Ông ta nói thêm. "Vì tuyết."
Ông ta cũng chẳng thích thú gì khi phải ở lại ngôi nhà có cái tên là Góc Cáo này. Tại sao nó lại được đặt tên như thế nhỉ? Tại sao người ta lại tôn vinh nơi cư ngụ của một loài thú xảo quyệt như vậy? Hồi trai trẻ, bác sĩ Fellowes đã từng đi săn, bảnh bao trong chiếc áo khoác màu đỏ tươi. Ông ta tự hỏi liệu sáng mai cô gái kia có nhảy chân sáo vào phòng ông ta, mang theo khay trà và bánh mì nướng không. Ông ta hình dung cô rót nước nóng từ cái bình vào trong chậu thau và xát xà phòng giúp mình trước ngọn lửa lò sưởi trong phòng ngủ, giống như mẹ ông ta từng làm từ vài chục năm trước. Bác sĩ Fellowes rất mực chung thủy với vợ nhưng những ý nghĩ của ông ta lại hay lang thang, vơ vẩn.
Bridget cầm trên tay một ngọn nến, dẫn ông ta lên gác. Ngọn nến sáng rực và bập bùng dữ dội khi ông ta bám theo tấm lưng gầy nhom của cô hầu gái lên một căn phòng vô cùng lạnh lẽo, nơi dành riêng cho khách. Cô thắp cho ông ta một ngọn nến nằm trên nóc tủ đầu giường, rồi biến mất vào hành lang tăm tối sau khi nói "Chúc ngài ngủ ngon" với vẻ vội vàng.
Ông ta nằm trên chiếc giường lạnh giá, món dưa góp cay ợ lên khó chịu. Ông ta ước gì mình đang ở nhà, bên cạnh cơ thể ấm áp, mềm mại của bà Fellowes, một người phụ nữ đã bị tạo hóa từ chối ban cho sự duyên dáng, thanh lịch và trên người lúc nào cũng phảng phất mùi hành tây rán. Đó cũng không hẳn là điều gì khủng khiếp lắm.
CHIẾN TRANH ❄
20 THÁNG 1 NĂM 1915
"Các cô cậu có chịu xuống không nào?" Bridget bực tức nói. Cô đang nóng ruột đứng ở ngưỡng cửa, ẵm theo Teddy. "Tôi còn phải nói bao nhiêu lần nữa đây? Bữa trà của các cô cậu đã sẵn sàng rồi." Teddy cựa quậy trong vòng tay ôm chặt của Bridget. Maurice chẳng thèm đoái hoài, cậu đang nhập tâm vào một điệu nhảy phức tạp trước khi xung trận của thổ dân Da Đỏ. "Chúa ơi, xuống khỏi cái cửa sổ đó ngay, Ursula. Sao nó lại mở thế nhỉ? Ngoài trời đang rét căm căm, cô sẽ chết cóng đấy!"
Ursula đã định nhảy ra ngoài cửa sổ nhặt Nữ hoàng Solange, giải cứu nó khỏi "vùng đất vô chủ" - tức là cái mái nhà - nhưng thứ gì đó chợt khiến cô bé do dự. Một nỗi hoài nghi nho nhỏ, một bàn chân ngập ngừng và ý nghĩ rằng mái nhà rất cao, còn màn đêm thì thăm thẳm. Và rồi Pamela xuất hiện với câu nói: "Mẹ bảo đi rửa tay để còn dùng bữa trà", ngay sau đó là Bridget bước huỳnh huỵch lên cầu thang với câu điệp khúc kiên định "Bữa trà của các cô cậu đã sẵn sàng rồi!", thế là tất cả niềm hy vọng về cuộc giải cứu hoàng gia vụt tắt. "Còn cậu, Maurice!" Bridget tiếp tục. "Trông cậu chẳng khác gì một kẻ hoang dã cả."
"Em là người hoang dã mà." Cậu nói. "Em là thổ dân Apache*."
"Cậu là vua của người Hottentot* cũng được nhưng BỮA TRÀ CỦA CÁC CÔ CẬU ĐÃ SẴN SÀNG RỒI."
Maurice thét lên tiếng hô xung trận ngang tàng cuối cùng trước khi chạy bình bịch xuống cầu thang. Còn Pamela buộc một tấm lưới cũ của trò bóng vợt vào một cây gậy ba toong để khều Nữ hoàng Solange từ cái mái nhà phủ băng bên dưới lên.
❄
Món chính của bữa trà là thịt gà luộc. Teddy được dành riêng cho món trứng hầm. Sylvie thở dài. Vì họ ăn nhiều thịt gà và trứng gà nên bây giờ đành tự nuôi gà để phục vụ nhu cầu của mình. Họ có một cái chuồng gà và một cái sân nuôi gà chăng dây thép, là khoảnh đất hồi trước chiến tranh từng là một luống măng tây. Già Tom giờ không còn làm việc cho họ nữa, mặc dù Sylvie nghe nói "ông Ridgely" vẫn làm việc cho những người hàng xóm của họ, gia đình Cole. Có lẽ, rốt cuộc thì, ông ta không thích bị gọi là "già Tom".
"Đây không phải là gà nhà mình, đúng không ạ?" Ursula hỏi.
"Không phải đâu, con yêu ạ." Sylvie nói. "Không phải gà nhà mình đâu."
Thịt gà dai nhách. Tài nấu ăn của bà Glover không còn được như trước kể từ khi George bị thương trong một vụ tấn công bằng khí độc. Anh ta vẫn đang ở trong một bệnh viện dã chiến tại Pháp. Khi Sylvie hỏi thăm xem anh ta bị thương nặng đến mức nào, bà Glover trả lời không biết. "Thật khủng khiếp!" Sylvie nói. Sylvie nghĩ giả như con trai cô bị thương ở xa nhà, cô sẽ lên đường lặn lội đi tìm, chăm sóc và chữa trị cho cậu con trai tội nghiệp của mình. Có lẽ, với Maurice thì chưa chắc nhưng với Teddy thì chắc chắn. Nghĩ đến cảnh Teddy bị thương phải nằm một chỗ và không tự làm gì được, cô bất giác ứa nước mắt.
"Mẹ vẫn ổn chứ mẹ?" Pamela hỏi.
"Dĩ nhiên rồi!" Sylvie nói, rút cái xương chạc* ra khỏi thân mình con gà và đưa nó cho Ursula. Cô bé nói mình không biết phải ước gì. "Chà, thường thì chúng ta ước cho những giấc mơ của mình trở thành sự thật." Sylvie nói.
"Những giấc mơ của con sẽ không thành sự thật chứ ạ?" Ursula nói, trên mặt hiện rõ vẻ hoảng hốt.
❄
"Những giấc mơ của con sẽ không thành sự thật chứ ạ?" Ursula nói, nghĩ đến cái máy xén cỏ khổng lồ đuổi theo cô bé suốt đêm và tộc người Da Đỏ trói cô bé vào những cái cọc rồi đứng vây xung quanh cô bé, tay lăm lăm cung tên.
"Đây chẳng phải là gà nhà mình sao?" Maurice nói.
Ursula thích lũ gà, thích lớp rơm ấm sực và những chiếc lông vương xung quanh chuồng gà, thích thò tay xuống bên dưới những cơ thể ấm áp, rắn chắc của lũ gà để tìm một quả trứng nóng hôi hổi.
"Đây là Henrietta, đúng không ạ?" Maurice khăng khăng. "Nó già rồi. Cho vào nồi được rồi. Bà Glover đã nói thế."
Ursula kiểm tra cái đĩa của mình. Cô bé đặc biệt thích Henrietta. Miếng thịt trắng dai nhách trên đĩa chẳng cung cấp được manh mối gì cả.
"Henrietta á?" Pamela hoảng hốt rú ầm lên.
"Mẹ đã giết nó đúng không?" Maurice sốt sắng hỏi Sylvie. "Chẳng phải đó là một việc rất tàn bạo sao?"
Họ đã mất vài con gà vì lũ cáo. Sylvie nói cô ngạc nhiên trước sự ngu ngốc của lũ gà. Cũng chẳng ngu ngốc hơn con người là bao, bà Glover nói. Lũ cáo cũng đã tha mất con thỏ con của Pamela vào mùa hè năm ngoái. Hồi ấy, George Glover đã cho bọn trẻ hai con thỏ con, Pamela khăng khăng đòi làm ổ cho con thỏ của mình ngoài vườn, còn Ursula phản đối và mang con thỏ của mình vào trong nhà, đặt nó vào ngôi nhà búp bê. Con thỏ ấy đã làm đổ mọi thứ ở trong đó và để lại những cục phân trông giống như những viên kẹo cam thảo nhỏ xíu. Khi Bridget phát hiện ra, cô đã đem nó tới một căn nhà phụ ở bên ngoài và chẳng ai còn nhìn thấy nó thêm lần nào nữa.
Họ tráng miệng bằng món bánh cuộn nhân mứt và sữa trứng. Mứt được làm từ những quả mâm xôi của mùa hè. Bây giờ mùa hè cứ như một giấc mơ vậy, Sylvie nói.
"Đứa trẻ đã chết." Maurice nói với thái độ lấc cấc khủng khiếp mà trường nội trú đã dung dưỡng. Cậu nhét cả miếng bánh vào mồm và nhồm nhoàm nói. "Ở trường, bọn con gọi bánh cuộn nhân mứt bằng cái tên đó đấy"
"Hãy để ý phép xử sự của con, Maurice." Sylvie cảnh cáo. "Và làm ơn, đừng nói những điều gớm guốc như thế."
"Đứa trẻ đã chết ư?" Ursula nói, đặt chiếc thìa xuống và kinh hãi nhìn chằm chằm vào cái đĩa trước mặt.
"Người Đức ăn chúng." Pamela rầu rĩ nói.
"Món tráng miệng á?" Ursula hỏi. Chẳng phải ai cũng ăn món tráng miệng sao, kể cả là kẻ địch đi chăng nữa?
"Không, là mấy đứa trẻ." Pamela nói. "Nhưng chỉ mấy đứa trẻ người Bỉ thôi."
❄
Sylvie nhìn chiếc bánh cuộn nhân mứt, vệt mứt màu đỏ ở những nếp cuộn của nó trông giống như máu thật, và cô bỗng rùng mình. Sáng nay, cô đã chứng kiến bà Glover kề một cái cán chổi vào gáy con gà già Henrietta tội nghiệp và bẻ ngược cổ nó ra đằng sau. Con gà chết tươi trước cặp mắt dửng dưng của người hành quyết. Mình cho rằng bọn mình buộc phải làm vậy, Sylvie nghĩ. "Chúng ta đang ở trong thời chiến." Bà Glover nói. "Không phải lúc để câu nệ mấy chuyện như vậy."
Pamela không chịu bỏ qua chủ đề này. "Có thật không mẹ?" Cô bé khẽ nài nỉ mẹ trả lời. "Có phải đây là Henrietta không?"
"Không phải đâu, con yêu." Sylvie nói. "Mẹ thề trên danh dự của mẹ, đây không phải là Henrietta."
Một tràng tiếng gõ dồn dập ở cửa sau đã chấm dứt chủ đề ấy. Họ đều ngồi sững, nhìn nhau chằm chằm, như thể bị bắt quả tang đang phạm phải một tội ác nào đó. Ursula thực sự không hiểu tại sao. "Cầu trời không phải là tin xấu." Sylvie nói. Nhưng hóa ra đó là tin xấu thật. Vài giây sau, từ trong bếp vọng ra một tiếng thét khủng khiếp. Sam Wellington, "chiếc giày cũ", đã chết.
"Cuộc chiến tồi tệ này!" Sylvie lẩm bẩm.
❄
Pamela cho Ursula một cuộn len lông cừu non màu nâu xám chập bốn sợi chưa dùng hết. Ursula hứa hẹn Nữ hoàng Solange sẽ tạo ra một miếng lót nhỏ xinh cho cốc nước của Pamela để đền ơn việc Pamela đã "cứu mạng" nó.
Tối hôm đó, khi bọn trẻ đi ngủ, chúng đặt tiểu thư váy phồng và Nữ hoàng Solange cạnh nhau trên cái tủ đầu giường, đó là những kẻ đã anh dũng sống sót sau một cuộc đụng độ nảy lửa với quân địch.
ĐÌNH CHIẾN ❄
THÁNG 6 NĂM 1918
Sinh nhật của Teddy. Ngày sinh của cậu thuộc cung Cự Giải. Một cung hoàng đạo bí ẩn, Sylvie nói, mặc dù cô nghĩ đó chỉ là những chuyện "nhảm nhí". "Cậu bốn lên bốn tuổi." Bridget nói, có lẽ lại là một trò chơi chữ.
Sylvie và bà Glover đang chuẩn bị một bữa tiệc trà nhỏ, "một điều bất ngờ". Sylvie yêu quý tất cả những đứa con của mình, có lẽ Maurice thì không nhiều lắm, nhưng Teddy thì được cô cưng như cưng trứng.
Teddy thậm chí còn không biết hôm nay là sinh nhật cậu, vì suốt mấy bữa nay, bọn trẻ đã được dặn dò nghiêm ngặt là không được nhắc gì đến nó. Ursula không thể tin nổi là việc giữ bí mật lại khó khăn đến thế. Sylvie thì lại quá lão luyện trong chuyện này. Cô bảo bọn trẻ dẫn "cậu bé được tổ chức sinh nhật" ra ngoài chơi trong lúc cô chuẩn bị mọi thứ. Pamela kêu ca rằng cô bé chưa bao giờ có một bữa tiệc bất ngờ và Sylvie nói: "Dĩ nhiên là con có rồi, chỉ là con không nhớ thôi." Thật không nhỉ? Pamela cau mày vì cô bé không có cách nào để kiểm chứng điều này. Ursula không biết liệu mình đã từng có một bữa tiệc bất ngờ hoặc thậm chí là một bữa tiệc không hề bất ngờ hay chưa. Với cô, quá khứ là một mớ hỗn độn trong đầu, chứ không phải là một đường thẳng như đối với Pamela.
Bridget nói: "Nào, chúng ta sẽ đi dạo một lát." Sylvie đồng tình: "Phải đấy, tiện thể mang ít mứt tới biếu bà Dodds các con nhé!" Cả ngày hôm qua Sylvie đã giúp bà Glover làm mứt. Tay áo xắn cao, tóc trùm khăn, cô đã cùng bà đun hàng nồi quả mâm xôi hái ngoài vườn với chỗ đường mà họ tích trữ từ khẩu phần của mình. "Cứ như đang làm việc trong một công xưởng quốc phòng vậy." Sylvie
nói khi cô rót chỗ mứt vừa được đun vào hết lọ thủy tinh này đến lọ thủy tinh khác. "Làm gì đến nỗi." Bà Glover khẽ lẩm bẩm.
Khu vườn đã có một mùa bội thu. Sylvie đã đọc những cuốn sách dạy cách trồng cây ăn quả và tuyên bố rằng bây giờ cô là một thợ làm vườn chính hiệu. Bà Glover giội cho cô một gáo nước lạnh khi nói rằng trồng quả mọng thì chả có gì khó, cứ đợi đến khi cô bắt tay vào trồng súp lơ xem. Sylvie đã thuê Clarence Dodds để làm những công việc nặng nhọc ở vườn. Anh ta từng là bạn thân của Sam Wellington - "chiếc giày cũ". Trước chiến tranh, Clarence từng là thợ làm vườn phụ ở Lâu đài Ettringham. Anh ta giải ngũ vì lý do sức khỏe, hiện đeo một cái mặt nạ bằng thiếc trên nửa khuôn mặt và nói rằng muốn làm việc trong một cửa hàng tạp hóa. Lần đầu tiên Ursula gặp anh ta là khi anh ta đang chuẩn bị trồng một luống cà rốt. Lúc anh ta bất ngờ quay người lại, cô bé đã thét lên một tiếng đầy khiếm nhã khi nhìn thấy khuôn mặt anh ta. Chiếc mặt nạ có vẽ một con mắt mở to sơn màu xanh dương để cân xứng với con mắt thật. "Đủ để dọa lũ ngựa sợ chết khiếp, đúng không?" Anh ta nói và mỉm cười. Cô bé ước rằng giá mà anh ta đừng cười, bởi vì miệng anh ta không bị chiếc mặt nạ che khuất. Cặp môi của anh ta rúm ró kì dị như thể chúng được khâu thêm vào sau khi anh ta ra đời.
"Một trong những người may mắn." Anh ta nói với cô bé. "Đạn lửa của hỏa pháo, nó chính là quỷ dữ." Ursula lại thấy anh ta chẳng có gì là may mắn cả.
Lúc đám cà rốt vừa nhú phần ngọn giống như những chiếc lông vũ lên khỏi mặt đất, Bridget bắt đầu đi chơi với Clarence. Lúc Sylvie bới lứa khoai tây Vua Edwards* đầu tiên, Bridget và Clarence đính hôn với nhau. Vì Clarence không có đủ tiền để mua một cái nhẫn nên Sylvie đã cho Bridget cái nhẫn gypsy của mình, cô nói đã có nó "từ đời nào rồi" mà chẳng bao giờ đeo. "Nó thực sự chỉ là một món nữ trang rẻ tiền thôi mà." Cô nói. "Chẳng đáng giá là bao." Mặc dù Hugh đã mua nó cho cô ở phố New Bond* sau khi Pamela chào đời và giá của nó không rẻ chút nào.
Bức ảnh của Sam Wellington bị tống vào một cái thùng gỗ cũ trong nhà kho. "Cháu không thể giữ nó." Bridget cáu kỉnh nói với bà Glover. "Nhưng cháu cũng khó lòng ném nó đi, đúng không ạ?"
"Cháu có thể chôn nó." bà Glover gợi ý, nhưng ý kiến đó khiến Bridget thấy rùng mình. "Cứ như là yểm bùa ấy."
❄
Họ lên đường đến nhà bà Dodds, mang theo mứt và một bó hoa đậu thơm màu đỏ tía rực rỡ mà Sylvie rất đỗi hãnh diện vì đã tự tay trồng. "Giống hoa này có tên là "Thượng nghị sĩ", nếu bà Dodds có hứng thú muốn biết." Cô nói với Bridget.
"Bà ấy sẽ chẳng quan tâm đâu." Bridget đáp lại.
Maurice dĩ nhiên không đi cùng họ. Cậu đã đạp xe đi ngay sau khi ăn sáng xong, với bữa trưa dã ngoại được nhét trong ba lô, rồi biến mất dạng cả ngày cùng các bạn của mình. Ursula và Pamela chẳng mấy hứng thú với cuộc sống của Maurice và cậu cũng chẳng quan tâm đến cuộc sống của mấy cô em gái. Teddy thì khác, cậu trung thành và tình cảm như một chú cún nên được hai chị rất mực thương yêu.
Qua lời kể của Sylvie, mẹ của Clarence vẫn làm việc cho Lâu đài Ettringham "theo kiểu bán phong kiến" và có một ngôi nhà tranh trong lòng điền trang ấy, một ngôi nhà xưa cũ, chật hẹp, có mùi nước để lâu ngày và vôi vữa mốc meo. Lớp sơn trên cái trần ẩm thấp phồng lên như da bị bong. Bosun đã chết vì bệnh sài sốt* vào năm ngoái và được chôn bên dưới một gốc hoa hồng Bourbon, đó là cây hoa Sylvie đặc biệt đặt mua để đánh dấu ngôi mộ của con chó. "Giống hoa này có tên là "Louise Odier"." Cô nói. "Nêu các con muốn biết." Bây giờ họ có một con chó khác, một con chó con màu đen vằn vện thuộc giống chó lóc* tên là Trixie, có khi nó còn được gọi là Rắc Rối vì Sylvie luôn cười nói: "Á à, rắc rối đến rồi đây." Pamela từng thấy bà Glover đá Trixie một cú chuẩn xác bằng bàn
chân đi giày to tướng và Sylvie đã phải "nói chuyện đôi lời" với bà. Bridget sẽ không cho phép Trixie tới nhà bà Dodds, cô nói bà ta sẽ càm ràm liên miên không dứt nếu nó trót bén mảng tới đó. "Bà ấy không tin tưởng lũ chó." Bridget giải thích.
"Chó đâu phải là một thứ tín điều mà tin tưởng hay không." Sylvie nói.
Clarence đón họ ở cổng vào điền trang. Tòa lâu đài nằm cách cổng rất xa, ở tít cuối một con đường dài nằm giữa hai hàng du. Gia đình Daunt đã sống ở đó hàng thế kỷ, thi thoảng họ lại bất ngờ xuất hiện ở hội trường của làng để tổ chức những buổi gây quỹ từ thiện và tham dự chớp nhoáng bữa tiệc Giáng sinh hằng năm. Họ có nhà nguyện riêng nên chẳng có ai nhìn thấy họ đi lễ ở nhà thờ bao giờ, còn hiện tại thì không ai còn nhìn thấy họ ở bất cứ đâu, bởi gia đình họ đã lần lượt mất đi ba người con trai vì cuộc chiến và gần như lui về sống một cuộc sống ẩn dật, xa lánh người đời.
Bọn trẻ không thể không nhìn chằm chằm vào nửa khuôn mặt bằng thiếc của Clarence ("Đồng tráng kẽm đấy!"Anh ta sửa lại lời chúng). Chúng lúc nào cũng lo sợ rằng anh ta sẽ cởi mặt nạ ra. Liệu anh ta có cởi nó ra để đi ngủ vào buổi tối không? Nếu Bridget kết hôn với anh ta, liệu chị ấy có nhìn thấy thứ ghê rợn ẩn giấu ở bên dưới? Chúng đã nghe lỏm Bridget nói với bà Glover: "Những gì sót lại bên dưới lớp mặt nạ còn chẳng nhiều bằng những gì đã mất đi."
Bà Dodds (Bridget gọi bà là "Mẹ Dodds*", giống như tên gọi một nhân vật trong một bài hát thiếu nhi) pha trà cho người lớn, thứ trà mà sau đó Bridget chê là "nhạt như nước cho cừu uống". Vì Bridget thích loại trà "đặc đến nỗi thìa khuấy trà có thể đứng thẳng trong đó". Cả Pamela và Ursula đều không thể kết luận được nước cho cừu uống là nước như thế nào, nhưng chúng thấy cách ví von đó có vẻ thú vị. Bà Dodds dùng muôi múc cho bọn trẻ những cốc sữa nguyên kem từ cái bình tráng men to tướng, sữa vẫn còn ấm vì vừa
mới được lấy về từ khu chế biến sữa của Lâu đài. Việc ấy khiến Ursula cảm thấy buồn nôn.
"Đúng là Quý bà Hào Phóng*!" Bà Dodds thì thầm với Clarence khi bọn trẻ đưa cho bà hũ mứt cùng bó hoa đậu thơm khiến anh ta gắt lên: "Kìa mẹ". Bà Dodds chuyển lại bó hoa cho Bridget, cô gái cứ ôm khư khư bó hoa như một cô dâu cho đến khi bà nói với cô: "Cắm chúng vào nước đi chứ, con bé ngớ ngẩn này."
❄
"Ăn bánh ngọt nhé?" Mẹ của Clarence nói và chia cho mọi người những lát bánh gừng* mỏng tang có vẻ cũng ẩm ướt như ngôi nhà tranh của bà.
"Thật tuyệt khi được thấy bọn trẻ con." Bà Dodds nói và nhìn Teddy như thể cậu là một loài động vật quý hiếm. Teddy là một cậu bé không dễ nao núng và cậu chẳng chần chừ gì trước cốc sữa và lát bánh ngọt của mình. Pamela phải dùng khăn tay lau hàng ria bằng sữa trên mép cậu. Ursula ngờ rằng trong thâm tâm bà Dodds chẳng hề vui thích khi gặp trẻ con, trái lại, cô bé cho là thái độ của bà đối với trẻ con cũng y chang bà Glover. Đương nhiên là trừ Teddy. Ai cũng yêu quý Teddy. Kể cả Maurice. Dù chỉ thi thoảng.
Bà Dodds ngắm nghía cái nhẫn gypsy mới trên bàn tay Bridget, rồi kéo ngón tay Bridget về phía mình như thể đang rút một cái xương chạc. "Hồng ngọc và kim cương." Bà nói. "Đắt lắm đây."
"Chỉ là những viên đá nhỏ xíu thôi ạ." Bridget biện bạch. "Nó thực sự chỉ là vật rẻ tiền."
Các cô bé giúp Bridget rửa ấm chén và để mặc Teddy tự mình xoay xở với bà Dodds. Họ rửa ấm chén trong một cái bồn đá to ở phòng rửa bát. Nơi này có một cái máy bơm thay vì vòi nước. Bridget nói hồi cô còn "ở hạt Kilkenny*", họ phải đi bộ tới một cái giếng để xách nước về. Cô cắm những bông hoa đậu thơm vào một
"""