"
Chúa Tể Đầm Lầy - Michel Tournier full mobi pdf epub azw3 [Tiểu Thuyết]
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Chúa Tể Đầm Lầy - Michel Tournier full mobi pdf epub azw3 [Tiểu Thuyết]
Ebooks
Nhóm Zalo
CHÚA TỂ ĐẦM LẦY Michel Tournier
Making Ebook Project
BOOKAHOLIC CLUB
Tên tác phẩm: CHÚA TỂ ĐẦM LẦY
Nguyên tác: Les Rois des Aulnes
Tác giả: Michel Tournier
Dịch giả: Bửu Ý
Nhà xuất bản: Hội Nhà Văn
Năm xuất bản: 1997
Số trang: 606
Khổ sách: 13 x 19 cm
Đánh máy: Thùy Giang, Diệp Anh, Thùy Dương, Quỳnh Anh, Ánh Nga, Thái Linh, Đỗ Phương, Khánh Lan, Hồng Anh
Kiểm tra: Thanh Nam, Thái Thanh
Chế bản ebook: Thảo Đoàn
Ngày thực hiện: 02/10/2011
Making Ebook Project #179 - www.BookaholicClub.com
Bạn đang đọc ebook CHÚA TỂ ĐẦM LẦY của tác giả Michel Tournier do Bookaholic Club chế bản theo Dự án chế bản Ebook (Making Ebook Project).
Mong rằng ebook này sẽ mang đến cho bạn một tác phẩm Văn học hay, giàu giá trị biểu cảm và nhân văn, với chất lượng cao. Chúng tôi luôn cố gắng mang đến những chế bản ebook tốt nhất, nếu trong quá trình chế bản có lỗi sai sót nào mong bạn góp ý và cho chúng tôi biết những ebook mà đang mong muốn.
Making Ebook Project của Bookaholic Club là một hoạt động phi lợi nhuận, nhằm mục đích mang đến những chế bản ebook hay, có giá trị với chất lượng tốt nhất mà chúng tôi có thể với Cộng đồng đọc - người Việt. Tuy nhiên, nếu bạn có khả năng xin hãy đọc tác phẩm này bằng sách trước hết vì lợi ích cho Nhà xuất bản, bản quyền tác giả và góp phần phát triển xây dựng nền Văn hóa đọc.
Hãy chỉ đọc chế bản này trong điều kiện bạn không thể tìm đến ấn phẩm sách.
Mục lục
GIỚI THIỆU
I
NHỮNG TRANG VIẾT BẰNG TAY TRÁI CỦA ABEL TIFFAUGES
II
NHỮNG CÁNH CHIM CÂU DÒNG SÔNG RHIN
III
CỰC BẮC
IV
GÃ HUNG THẦN VÙNG ROMINTEN V
GÃ HUNG THẦN VÙNG KALTENBORN VI
NGƯỜI MANG TINH TÚ
GIỚI THIỆU
Michel Tournier, sinh năm 1924 ở Paris, đoạt Giải Thưởng Lớn của Viện Hàn Lâm quốc gia về Tiểu Thuyết với tác phẩm Gã Thứ Sáu hay là Ngày Tháng Thái Bình Dương, và giải thưởng Goncourt với tác phẩm Chúa tể đầm lầy. Ông được bầu vào Viện Hàn Lâm Goncourt năm 1972.
Riêng nhan đề Chúa tể đầm lầy là một sự hướng đến thần thoại của dân tộc Đức, đến những biểu tượng sâu thẳm. Nhưng tiểu thuyết cũng bắt gặp một huyền thoại có tính phổ biến hơn, đó là huyền thoại về Gã hung thần.
Một tuổi nhỏ mất hẳn tình thương, một thời mới lớn chuốc nhục, một nghề thấp kém, tất cả đã biến Abel Tiffauges thành kẻ thù của xã hội. Nhưng một giai đoạn của đời y là làm học sinh giúp cho y đinh ninh rằng có một sự đồng lõa âm thầm giữa việc đời và phần số của y: số là một hôm ra trước hội đồng kỷ luật, y cầu sao cho trường bị cháy rụi. Bình thường lời mong cầu như thế chẳng bao giờ thành, thì nay trận hỏa hoạn giải phóng lại xảy ra…
Trong con người Tiffauges có tính chất của vị sứ đồ và của Gã hung thần, mà sứ đồ thì dẫn dắt và cứu độ cho hung thần. Nhờ thế mà đang khi
một vụ hiếp dâm lăm le bắt y đi tù đày thì đợt tổng động viên 1939 giúp y được miễn tố: ngôi trường bị cháy lần nữa!
Làm tù binh năm 1940, y bị đưa sang vùng phía đông nước Phổ. Nhưng trong khi đồng bọn kêu trời tại vùng đất bao la hoang dại thì Tiffauges lại cho là vùng đất màu nhiệm mình hằng mong đợi, và cảm thấy mình được giải phóng một cách khác thường trong cảnh ngộ tù tội.
Hai gã hung thần thượng đẳng đang ngự trị trong chốn rừng xanh và đầm lầy: Goring, là Gã hung thần vùng Rominten, tàn sát nai và ngốn thịt rừng, và Hitler, là Gã hung thần vùng Rastenburg kẻ nhồi sung đại bác bằng thịt trẻ con nước Đức. Tiffauges trở nên Gã hung thân vùng Kaltenborn, một pháo đài Đức của ngày xưa mà nay là nơi chọn lọc và rèn luyện lớp thanh niên nhắm trở thành tinh hoa của Đức quốc xã.
Bước bôn ba tiêu biểu của một gã vô chính phủ lọt vào cạm bẫy của phát xít, cuộc đời ba chìm bảy nổi hiện thực của một tù binh Pháp trên đất Đức, một chuỗi biến tấu có mạch lạc về chủ đề chất thịt tươi sống và nuôi dưỡng thế nào cho thịt được tươi sống, chân dung dăm Gã hung thần, cuốn tiểu thuyết này còn có một tham vọng sâu xa hơn: tham vọng diễn dịch cuộc “thế chiến quái đản”, cái chủ nghĩa Hitler, các trại tập trung và sự tràn sang của hồng quân theo một hướng thuần túy biểu tượng và không dùng đến các lợi khí xưa củ của lịch sử và tâm lý.
Sau hết, Chúa tể đầm lầy, đặt vào viễn tượng do cuốn Gã Thứ Sáu hay Ngày Tháng Thái Bình Dương đã từng mở đường, hiện ra như là một tiểu luận nhằm miêu tả một kiểu thúc mới về dục tính thông qua ngõ ngách thông dụng.
Dịch từ nguyên bản tiếng Pháp: Le Roi des Aulnes: Nhà xuất bản Gallimard Paris, 1994
Tưởng niệm
Staretz Grigori Iefimovitch
RASPOUTINE
người đã bị phỉ báng
người chữa bệnh cho hoàng thái tử Alexis người bị sát hại vì phản đối
thế chiến 1914 bùng nổ
I
NHỮNG TRANG VIẾT BẰNG TAY TRÁI CỦA ABEL TIFFAUGES
Muốn cho một cái gì đó trở nên đáng chú ý, chỉ cần nhìn nó lâu. Gustave Flaubert
3.1.1938. Anh là một hung thần, đôi khi Rachel bảo tôi vậy. Một tên hung thần ư? Nghĩa là một con quỷ trong truyện thần kỳ, xuất hiện từ trong bóng đêm của thời gian? Phải, tôi tin ở bản chất thần kỳ của mình, nghĩa là sự a tòn bí ẩn ngấm trộn lẫn dòng đời tôi với dòng đời sự vật, và cho phép đời tôi uốn sự vật theo chiều của nó.
Tôi cũng tin rằng mình xuất thân từ bóng đêm của thời gian. Tôi luôn luôn khó cảm thông với sự nhẹ dạ của những ai miệt mài băn khoăn đến những gì xảy ra sau khi chết đi, mà lại chẳng buồn để ý đến những gì trước khi mình sinh ra. Đời trước cũng như đời sau. Mà tôi thì đã có mặt từ lâu, từ nghìn năm, trăm nghìn năm khi trái đất mới còn là một hòn lửa quay quay giữa một bầu trời bằng chết ê-li-com, thì cái linh hồn giúp cho nó phân phật lửa và quay quay là linh hồn của tôi. Và vả lại cái thời xa lơ xa lắc ngờm ngợp của căn nguyên tôi cũng đủ để giải thích cái quyền năng siêu nhiên của tôi: bản thể và tôi, cả hai xưa nay đi bên nhau, cùng là bạn cố tri, đến nỗi, dù chẳng cảm tình đặc biệt với nhau, nhưng vốn quen hơi nhau già năm như trái đất, chúng tôi hiểu nhau, chẳng khước từ gì nhau.
Còn như cái chất quỷ…
Mà trước hết quỷ là gì? Quỷ là quái, quái là quỷ, quái quỷ quái kiệt…, là cái trưng bày ra, phô diễn ra[1]. Quỷ là cái gì được người ta chỉ trỏ - bằng
ngón tay, trong hội chợ, v.v. Và do đó một sinh vật càng quái quỷ, nó càng được trưng bày. Đó là cái khiến tôi dựng tóc gáy, tôi vốn chỉ sống nổi trong bóng tối và vốn tin rằng đám đồng loại của tôi sở dĩ để cho tôi sống là nhờ họ chẳng hiểu tôi, chẳng biết tôi.
Muốn đừng là quỷ, thì phải giống như đồng loại, cùng khuôn mẫu với chủng loại, hoặc là cha mẹ sao thì mình vậy. Hoặc là có một dây tua con cái mà ta là cái mắc xích đầu tiên của một chủng loại mới mẻ. Chẳng qua loài quỷ không phải là loài sinh con đẻ cái. Con bê sáu chân làm sao sống lâu được. Con vật sinh ra từ cha lừa mẹ ngựa hoặc mẹ lừa cha ngựa thì có ra đời cũng chẳng sinh sôi, chẳng khác nào tạo hóa muốn xóa bỏ một thử nghiệm xét thấy vô lối. Và tôi tìm lại được cái lý do vĩnh cửu của mình, do cha mẹ cũng có mà do con cái cũng có. Tôi già như trái đất, tôi bất tử như trái đất, tôi chỉ có thể có cha và mẹ tinh thần, và chỉ có thể có con nuôi thôi.
…
Tôi đọc lại mấy dòng trên đây. Tôi tên là Abel Tiffauges, tôi trông coi một cửa hiệu sửa xe ở quảng trường Porte - des - Ternes, và tôi không điên. Tuy nhiên những gì tôi vừa viết ra đều nên được xem xét một cách đầy đủ nghiêm túc. Rồi sao nữa? Rồi tương lai sẽ có nhiệm vụ thiết yếu là chứng minh – hay nói cho đúng hơi, là minh họa – tính cách nghiêm túc của những dòng trên đây.
6.1.1938. Hình con ngựa mọc cánh của hãng ét-xăng Mobilgas sáng lên bằng đèn nê-ông trong bầu trời tối ẩm, rọi xuống tay tôi, và tắt ngấm ngay. Ánh chớp đỏ ấy cùng với mùi mỡ thiu thấm nhập vào mọi thứ ở nơi này tạo nên một không khí mà tôi ghét nhưng hóa ra lại quen hơi mà không nói ra. Nói rằng tôi đã quen sống là chưa đúng: không khí này thân thuộc với tôi như hơi hám chỗ nằm hay là như cái khuôn mặt mỗi buổi sang tôi thấy lại trong gương. Nhưng nếu như lần thứ hai tôi ngồi xuống với cây bút trong bàn tay trái trước trang giấy trắng – trang thứ ba của Những trang viết bằng tay trái -, là vì tôi tin chắc, như người ta thường nói, mình đang ở vào một khúc ngoặt của đời sống, và vì tôi có phần trông cậy vào tập nhật ký này để thoát khỏi cửa hiệu sửa xe, khỏi những tính toán hèn mọn trói buộc tôi chốn này, và trong một ý nghĩa nào đó là để thoát khỏi chính tôi.
Mọi thứ đều là ký hiệu. Nhưng cần có một thứ ánh sáng hay âm thanh chói lọi mới chọc thủng tình trạng đui điếc của ta. Kể từ những năm học vỡ lòng tại trường cấp hai Saint - Christophe, tôi không ngừng quan sát những nét chữ dọc ngang nguệch ngoạc trên đường tôi đi và nghe ngóng những lời nhỏ to vo ve bên tai mà chẳng hiểu gì, chẳng rút tỉa được gì ngoài một nỗi ngờ vực gia tăng phủ lên lối sống của mình, nhưng thật sự cũng có thêm cái bằng chứng, một lần nữa, rằng bầu trời không trống rỗng. Còn cái thứ ánh sáng kia, những cảnh ngộ xoàng xĩnh nhất đã giúp nó lóe lên hôm qua, và nó không ngừng soi sáng con đường tôi đi.
Một sự cố vặt vãnh bắt tôi ngưng dùng tay mặt một thời gian. Tôi muốn sử dụng tay quay lột bỏ mấy miếng chằng nơi xác-măng của máy nổ bị yếu điện. Tay quay bật lại, nhưng may là cánh tay tôi để lỏng và vai để hờ. Chỉ có cổ tay là chịu sức bật, và chắc là có tiếng rắc trong gân. Thiếu đường ọc lên một tiếng, vì đau đớn, và dưới lớp vải cao su băng bó cồm cộm, tôi thấy mạch máu bùng nhùng nhức nhối. Không thể đến hiệu xe làm việc gì hết bằng mỗi một tay, tôi leo lên tầng hai lánh mình vào một phòng xép chứa sổ sách và báo cũ. Để khỏi rảnh trí, tôi dùng tay kia hí hoáy dăm ba chữ không đầu không đuôi trên lốc giấy.
Lúc ấy tôi bất ngờ phát hiện mình viết được bằng tay trái! Phải, chẳng cần tập trước, chẳng ngập ngừng chậm chạp, bàn tay trái của tôi vững vàng kẻ những nét chữ toàn vẹn, nét uốn lượn khác thường, lạ mắt, hơi co quắp, chẳng giống gì với chữ viết quen thuộc, chữ viết của bàn tay phải. Tôi sẽ trở lại biến cố đảo lộn này mà tôi chẳng dè nguồn gốc, nhưng trước hết phải ghi lại các cảnh xui khiến lần đầu tiên tôi cầm bút là chỉ để trút nỗi lòng và lớn tiếng nói lên sự thật. Liệu có nên nhắc nhở một hoàn cảnh khác nữa, một hoàn cảnh có lẽ không kém phần quyết định, là sự dứt đoạn của tôi với Rachel? Mà thế thì cả một câu chuyện phải đêm ra kể lể, một câu chuyện tình, câu chuyện tình của tôi vậy. Đương nhiên tôi không thích, có lẽ vì không quen thói. Đối với một kẻ kín miệng một cách tự nhiên như tôi, phơi ruột phơi gan trên giấy thì lúc đầu ngấy thật, nhưng bàn tay đưa đẩy, hình như đã trót kể thì không dừng được trước khi cạn lời. Cũng có thể biến cố đời tôi từ nay không thể nối đuôi nhau nếu không có sự phản chiếu của lời mà ta gọi là nhật ký?
Tôi đã mất Rachel. Nàng là người đàn bà của tôi. Không phải là vợ trước mặt Chúa và người đời, mà là người đàn bà của đời tôi, có nghĩa là – nói một cách không kiểu cách chút nào – con người nữ của vũ trụ riêng tôi. Tôi quen biết nàng cách đây mấy năm, như tôi quen biết mọi người, như khách hàng của cửa hiệu sửa xe. Nàng xuất hiện ngồi cầm tay lái một chiếc Peugeot tàn, lộ rõ nét hí hửng vì có người ngạc nhiên bắt gặp một phụ nữ lái xe, điều này có thật vào thời ấy hơn là ngày nay. Với tôi nàng làm ra vẻ thân quen ngay, mượn cớ chuyện xe cộ kết hợp qua lại, rồi vẻ thân quen nhanh chóng bắt quàng, thoắt một cái nàng lọt vào giường tôi.
Lúc đầu tôi ngẩn người theo dáng khỏa thân của nàng, khoả thân một cách dễ chịu, bình thường, mặc lớp da không hơn không kém mặc một thứ gì khác, áo quần du lịch hay là áo dạ hội. Cái tệ nhất của một người phụ nữ là không biết mình có thể khỏa thân, quả tình là thế, là không biết còn có những cái thói khoả thân và có luôn cả lớp vỏ khoả thân. Và tôi buộc lòng nhận ra được ngay hạng người phụ nữ ngu ngơ này do dáng vẻ khô khan thế nào ấy, do cái áo cái quần dính bám vào da họ một cách dị kỳ.
Mái đầu nhỏ sắc nét khi nhìn nghiêng, nón bảo hộ quai đen, Rache có một thân hình chắc nịch, tròn trĩnh, chất nữ khá bất ngờ với bắp về ấm áp, bộ ngực với đôi nuốm tím chài rộng, thắt lưng thóp sâu, và một loạt mum múp rắn chắc không tì vết, bao nhiêu thứ tràn trề khỏi năm ngón tay ôm và tạo chung thành một toàn thể không chiếm lĩnh nổi. Về mặt tinh thần, nàng thuộc loại “như con trai” không có nét gì độc đáo đáng kể, đó là loại phụ nữ rất ăn khách của một tiểu thuyết bán chạy nào đó.
Nàng bảo toàn tính độc lập của mình nhờ nghề kế toán tốc hành, đi tới các nghệ nhân, các nhà buôn hoặc cai quản các xí nghiệp nhỏ trình bày đầy đủ các con số. Nàng là người Do Thái, tôi có dịp nhận ra khách hàng của nàng toàn là Do Thái, do đó càng rõ thêm tính cách riêng tư của các giấy tờ dưới tay của nàng.
Kể ra tôi có thể không hợp với các óc người ngược đời của nàng, một cách nhìn làm tan tành sự vật, một tình trạng ngọ nguậy của não cân khiến nàng ngay ngáy sợ hãi buồn chán, thế nhưng cái óc dí dỏm của nàng, cái tài nhìn ra khía cạnh phi lý sâu xa của con người, của tình huống, cái vui tính có nồng độ mà nàng biết cách làm dậy lên từ cái xám xịt của cuộc sống, tất
cả những thứ ấy đều gây ảnh hưởng tốt cho cái tính tự nhiên vốn lầm lì của tôi.
Viết mấy dòng này, tôi buộc mình lường xem nàng có ý nghĩa như thế nào đối với tôi, và cổ họng tôi nghèn nghẹn khi tôi lặp lại rằng tôi đã mất Rachel. Rachel ạ, anh không thể nói là chúng ta có yêu nhau không, nhưng có điều chắc chắn là chúng ta đã cười thỏa thích với nhau, và như thế cũng là một cái gì đấy chứ?
Dù sao nàng vẫn cười và không hề có ác ý gì khi đề ra những tiền đề để cho cả hai, từ đó, bằng con đương khác nhau, đi đến kết luận giống nhau, là chia tay nhau.
Có khi nàng vụt đến, giao chiếu xe con cho thợ của tôi sửa hoặc súc, thế là chúng tôi thừa cơ lên phòng tôi, và nàng không khỏi thốt lên một lời gì đó muôn thuở có ý đùa bỡn cớt nhã có vẻ như lẫn lộn số phận chiếc xe với số phận nữ chủ nhân chiếc xe. Hôm ấy, vừa mặc áo xống, nàng vừa vu vơ đưa ra nhận xét rằng tôi làm tình “y như chim hoàng anh” vậy. Thoạt tiên tôi ngỡ nàng bắt tội tôi không hiểu biết, không biết cách. Nàng bảo không phải vậy. Giai do cái hấp tấp của tôi mà ra cả, theo nàng thì nó giống như bọn chim đóng dấu vội cho nhau để hoàn thành bổn phận vợ chồng. Rồi nàng mơ màng gợi nhớ kỷ niệm một trong những người yêu ngày trước, chắc hẳn là người đáng nhớ hơn cả. Hắn hứa với nàng sẽ hú hí với nàng ngay khi vào ngủ và sẽ không chịu buông trước khi trời sáng. Và hắn giữ y như lời, hành nàng cho tới khi ngày rạng. “Thật ra, nàng thật thà chua thêm, hai đứa đi ngủ muộn, mà đêm mùa ấy thì ngắn”.
Câu chuyện làm tôi liên tưởng đến chuyện chú dê con của ông Seguin muốn bắt chước con dê già nên cứu vớt danh dự bằng cách cầm cự suốt đêm với sói và mãi đến đầu sáng mới chịu bó tay.
Cũng nên để cho anh nghĩ rằng em có thể vồ ngay khi anh ngừng nghỉ, lời kết của Rachel.
Và lập tức tôi trông thấy nàng có dáng dấp con sói thật, với đôi mày đen, mũi hếch và mồm rộng hau háu. Lại một phen chúng tôi cười. Phen
cuối cùng. Bởi tôi hiểu rằng cái đầu óc kế toán tốc hành của nàng đã chối từ sự bất kham của tôi và truy tầm được một nơi ngả lưng khác để đặt mình.
Y như chim hoàng anh. Lời nói thốt ra đã sáu tháng nay cứ âm trầm trong tôi. Lâu nay tôi biết rằng một trong những dạng thường nói đến hơn cả trong sự thất bại nam nữ là tình trạng xuất tinh sớm, nói chung là tình dục không biết nương giữ, trì kéo. Sự kết tội của Rachel đi xa, vì nàng nhắm nhe liệt tôi ở mấp mé tình trạng bất lực, hơn thế nữa nàng khai diễn nỗi bất hòa hợp đậm nét của lứa đôi, sự truất hữu thấm thía của phụ nữa suốt đời thụ tinh mà chẳng đời nào thoả dạ.
- Em sung sướng hay không, anh cóc cần mà.
Tôi phải chịu là đúng. Phủ trọn người Rachel để chiếm hữu, những gì có thể diễn ra sau đôi mắt nhắm tít, bên trong chiếc đầu nho nhỏ như gã chăn cừu Do Thái kia, đúng là những cái tôi ít quan tâm hơn cả.
- Anh ăn thịt sống cho đã rồi quay về với mớ sắt mớ tôn.
Đúng như thế. Và điều này cũng đúng luôn: kẻ ăn bánh mì hơi đâu mà lo nghĩ xem chiếc bánh mì được ăn như thế có thích thú hay không.
- Anh hạ thấp em xuống ngang tầm một miếng bít tết.
Có lẽ, nếu quả người ta khư khư bám víu vào cái “thước đo nam tính” như thế kia vốn là sản phẩm của giới phụ nữ vừa là khí giới của phái yếu. Nhưng trước hết tình yêu có bình đồng hóa với hành vi dinh dưỡng thì chẳng có gì bại hoại, vì chính nhiều tôn giáo cũng cậy đến sự đồng hóa ấy, mà trước tiên là ki to giáo với bánh thánh và rượu tháng. Nhưng điều cần mổ xẻ chính là ý nghĩ về cái nam tính kia – khái niệm riêng biệt của phụ nữa. Có nghĩa là nam tính được đo bằng năng lực làm tình, và năng lực làm tình chung quy là kéo dài tối đa động tác tình dục. Đó là sự quên mình đi. Cái năng lực ấy phải được hiểu theo nghĩa của Aristote, như là ngược lại với cái hiện ra bên ngoài. Cái tiềm năng làm tình là hoàn toàn ngược lại với động tác tình dục và như thế là phủ định động tác tình dục. Tiềm năng là động tác hứa hẹn, không bao giờ thực thi, mãi mãi che phủ, cầm chừng, lơ lửng. Người nữ là ẩn, người nam là hiện. Và như thế người nam đương
nhiên là bất lực, đương nhiên là chệch choạc với độ chín muồi chậm và trầm của người nữ. Trừ phi hắn ngoan ngoãn theo khuôn phép của nàng, theo tiết nhịp của nàng, hùng hục lấy cho ra tia lạc thú nơi tòa thịt da trì hoãn dâng hiến cho hắn.
- Anh không phải là người tình, anh là hung thần.
Hỡi ôi năm tháng! Bằng mỗi câu ấy, Rachel làm đột hiện bóng ma của một tên thiếu niên kỳ quái, một tên khôn sớm đến lạnh người, mà lại ấu trĩ đến bàng hoàng, hình ảnh của nó đột nhập vào người tôi một cách vô cùng độc đoán. Tên Nestor. Tôi vẫn linh cảm nó đã đùng đùng tái hiện trong đời mình. Thật ra nó chưa hề rời bỏ tôi, nhưng kể từ khi nó chết đi, nó buông tha tôi, thỉnh thoảng lấp ló mơ hồ đâu đó không đáng kể - có khi khiến thôi thấy hay hay – cố sao tôi không quên bẵng. Lối viết chuyển sang tay trái của tôi và bước chân ra đi của Rachel báo trước cho tôi biết cái uy của Nestor sẽ được phục hồi sắp tới đây.
10.1.1938. Mới đây tôi nhìn lại một tấm hình chụp lớp học, loại hình sang hàng loạt dịp tháng sáu một thời gian ngắn trước ngày phát phần thưởng. Giữa bao nhiêu mặt mày trân trân trong điệu bộ đưa đám ma kia, cái mặt mỏng nhất, thảm thương nhất là tôi. Hai thằng Champdavoine và Lutigneaux có mặt, tên thứ nhất nhăn nhở trong bộ tóc giả của vai hề cắt theo đường nét cây ac-ti-sô, tên thứ hai nhắm tít mắt với bộ mặt ma mãnh, như thể đang nghĩ một trò trống gì đó khi vờ vịt ngủ trưa. Chẳng có gì về Nestor, mặc dù hình chụp chắc chắn đúng vào lúc nó còn sống. Nhưng tựu trung đây cũng chính do nó mà ra cả, nó không có mặt trong các buổi lề nhì nhằng nhí nhố này, và nhất là không để lưu lại một vết tích trời ơi đất hỡi nào của mình trước khi mất hút.
Dễ thường tôi đã được mười một tuổi và không còn là một con cừu non tại trường Saint – Christophe nữa, tại đây tôi bắt đầu học năm thứ hai. Nhưng nếu như tôi chẳng còn phải sợ nỗi mất gốc và lạc lõng giữa cõi xa lạ, thì đằng khác nỗi niềm ấy lắng sâu dưới vẻ bề ngoài trầm lặng và như thể không vãn hồi. Cái lúc ấy, ngồi nhớ lại, tôi kiểm điểm lại bao nhiêu nỗi khổ của mình và chẳng mong đợi hy vọng nào lóe lên ở chân trời. Tôi đã kẻ một dòng gạch ngang dứt tuyệt với các ông thầy và dứt tuyệt với cái thế giới
tinh thần mà những nổi khổ kia như tuồng khai mở cho ta. Tôi đi đến bước đường - nhưng tôi có bao giờ rời bỏ thái độ này đâu nhỉ? – xem mọi tác giả, mọi nhân vật lịch sử, mọi tác phẩm, mọi môn học bất kỳ nào đều là con số không, là triệt để không xứng đáng, ngay từ lúc đám người lớn tiếng tiếp thu rồi ban phát cho chúng tôi làm món ăn tinh thần. Từng miếng từng mẩu một, tôi lục lọi từ điển, tôi sàn sảy theo khả năng mình trong các tuyển tập ở trường, tôi chớp bắt trong giờ sử hay giờ Pháp một ngụ ý thoáng qua nào đó đến điều gì tôi lưu tâm bậc nhất và bắt đầu cấu tạo cho mình một nền văn hóa đứng bên lề, một tòa bảo tàng cá nhân trong ấy sát cách bên nhau những người như Alcibiade, Ponce Pilate, Caligua và Hadrien, Frédéric – Guillaume đệ nhất và Barras, Talleyrand và Raspoutine. Người ta có một lối nói về một chính khách hoặc một nhà văn – với thái độ lên án thật đấy nhưng như thế chưa đủ, cần có cái gì khác nữa kia – một lối nói thế nào khiến tôi chỏng tai ngờ ngợ như đang nghe nói đến một ai họ hàng với mình không bằng. Lập tức tôi mở một cuộc điều tra, một loại so đo để phong thánh, với những phương tiện trong tầm tay, để cuối cùng tùy theo trường hợp tòa bảo tàng của tôi mở rộng cửa hay khép chặt.
Con người tôi khẳng khiu, xấu xí, màu đen ôm sát khuôn mặt xám xám vàng vàng có nét Ảrập vừa có nét anh chàng gi-tăng hát dạo, thân hình lờ quờ xương xẩu, cử động hấp tấp không đẹp. Nhưng trên hết mọi thứ là có nét gì đó hẳn nhiên nghiệt ngã ở con người tôi xúi cho kẻ nhát nhất cũng tấn công tôi, kẻ yếu nhất cũng hành hạ tôi. Tôi là bằng chứng bất ngờ cho chúng nó thấy rằng ngày nay chúng nó vẫn có khả năng khống chế và làm nhục. Chuông ra chơi vừa lanh lảnh, tôi đã sóng soài ngã lăn, và ít khi lồm cồm đứng lên được trước khi trở vào lớp.
Thằng Pelsenaire là học sinh mới vào học, nhưng sức mạnh thể chất và các tính đơn giản của hắn lập tức mang lại cho hắn một chỗ đứng trọng vọng trong hàng ngũ của lớp. Uy danh của hắn phần lớn nhờ chiếc nịt da to tướng – sau này tôi biết nịt được cắt ra từ một sợi dây buộc bụng ngựa – ràng rịt phía ngoài áo tạp dề đen, khâu nịt bằng thép chằng chịt ít nhất bằng ba mũi đinh. Đầu hắt vuông, phất phơ một gié tóc vàng, khuôn mặt đều đặn, vô cảm, mắt sáng, nhìn thẳng, và khi nào đi giữa các bạn, hai ngón cái đút vào nịt, hắn nện đôi giày đinh bảnh chọe làm xẹt lửa trên nền hoa cương sân trường trong những dịp lễ lớn. Hắn là một tên trong sáng, không ma mãnh, nhưng cũng không phòng bị đối với điều ác, và cũng giống như bọn người
man dã của Thái Bình Dương ngã gục ngay buổi tiếp xúc đầu tiên với những mầm mống do người da trắng mang lại một cách vô tội vạ, hắn tiêm nhiễm ngay cái ác, cái độc và sự hận thù ngày tôi bộc lộ cho hắn biết cái phức tạp trong tim tôi.
Cái “mốt” “xăm mình” bỗng đâu rộ lên trong trường. Một đứa ngoại trú bán mực Tàu dùng ngòi bút sứt mũi để đâm sâu vào da mà không chảy máu. Chúng tôi đổ ra hàng giờ xăm cho nhau trong những chữ cái, tên và hình vẽ trong lòng bàn tay, trên cổ tay, đầu gối, và bao giờ cũng toàn những cái nhảm nhí, những biểu tượng mơ hồ với mẫu mã bắt gặp ở những thứ nguệch ngoạc trên tường và trong các nhà xí.
Thằng Pelsenaire hiển nhiên không thờ ơ với trò tiêu khiển mê tơi này, nhưng rõ ràng hắn thiếu óc tưởng tượng, thiếu hoa tay cần thiết để trang sức xứng đáng với vai vế của hắn. Vì thế hắn bị hớp hồn ngay, cái hôm tôi làm ra vẻ hờ hững đưa ra tấm giấy trên đó tôi cố công vẽ một trái tim với mũi tên xinh ngang – giọt má ròng ròng – chung quanh có hàng chữ: Anh tặng suốt đời. Để lòe hắn rốt ráo, tôi phao là đã cóp hàng chữ tuyệt kỹ ấy trên ngực một gã hạ sĩ quan đạo quân lê dương của bạn tôi. Kế đó tôi tình nguyện cầm bút xăm, nếu như hắn thích mang hàng chữ trang trọng ấy phía trong đùi bên trái, một nơi kín đáo nhưng lúc nào cũng hé lộ.
Công phu đòi hỏi suốt một buổi học đêm, không kém. Tôi ngồi dưới đất, dưới hộc bàn của Pelsenaire, và tôi kỳ cọ trau tria, nhờ vào sự toa rập của chúng bạn ngồi quanh đem lưng ra che chắn, đem sách cặp dựng lên ngăn đón ánh mắt xoi mói của giám thị. Công việc của tôi gặp trở ngại vì chiếc đùi dí xuống ghế làm cho nó bạnh ra và bầu lên.
Pelsenaire tỏ ra rất hài lòng với kết quả, nhưng vẫn phần nào ngạc nhiên vì dòng chữ bọc trái tim xiên ngang nhỏ máu trở thành A T suốt đời. Tôi lầm lì giải thích rằng lính lê dương dùng mẫu tự như vậy để viết tắt, hoặc có nghĩa là Anh tặng, hoặc có nghĩa chống lại Chúa (A T suốt đời = Athée suốt đời = vô đạo suốt đời) hoặc có nghĩa hàm hỗn vừa cái này vừa cái kia. Pelsenaire tỏ ra không hiểu những dẫn giải rối rắm của tôi đành xuôi theo.
Nhưng tối hôm sau, hắn kêu riêng tôi trong buổi ra chơi lúc sáu giờ với cái vẻ mặt không hứa hẹn điều gì là lành. Có đứa nào mách nước cho nó,
bởi nó chìa ngay vào mấy mẫu tự bí hiểm kia. Nó nói:
- A T là tên mày. Abel Tif auges suốt đời. Mày xóa cái thối tha ấy ngay đi.
Tôi bị lật tẩy và, vì đằng nào cũng đã lỡ, tôi quyết làm một động tác mà tôi thiết tha mơ ước từ nhiều tuần nay. Tôi bước tới hắn, đặt hai tay lên chiếc nịt kiêu hùng, phía trên đùi, rồi chậm rãi mê mẩn nhích người tới, để tôi tay lưới lên mặt da cho đến lúc hai tay giáp nhau sau lưng hắn. Tôi áp đầu mình vào ngực hắn trên trái tim.
Chắc hẳn Pelsenaire tự hỏi có chuyện gì đây, bởi ngay lúc ấy hắn chẳng cục cựa. Nhưng tiếp theo bàn tay mặt của hắn đưa lên chậm rãi – cùng một tiết nhịp như tôi - bàn tay bép lên mặt tôi, rồi một cái ẩy tay hung bạo, người vụt vùng lên tách tôi ra và xô ngã ngửa tôi ra mấy thước. Rồi hắn trở bộ, bỏ đi làm tung tóe sao xẹt dưới đinh giày.
Từ đó, khám phá ra những khoái cảm chủ nô, hắn tới tấp làm nhục và hành hạ tôi, tôi quy phục theo một cách ngu ngốc. Tôi hoàn toàn vui lòng nhường phần nửa thức ăn của tôi cho hắn tại phòng ăn vì tôi chẳng bao giờ ngon miệng, và tôi gần như âm thầm vui sướng được tẩy bẩn và đánh đôi giày đẹp của hắn mỗi buổi sáng, vì tôi vốn thích mó tay vào giày.
Nhưng bấy nhiêu ép buộc, vẫn còn là phải chăng, đối với hắn chưa đủ, tâm hồn hư hỏng của hắn cần được thỏa mãn gay gắt hơn. Thế là hắn quyết định bắt tôi hàng ngày phải ăn cỏ. Ngay vào đầu buổi giải lao giữa trưa, hắn đẩy tôi vào bãi cỏ lơ thơ bao quanh bức tượng thánh hộ mạng, hắn nhảy phóc lên lưng tôi, cằm nghếch lên theo phản xạ của đứa lỗ mãng, hắn nhét vào mồm tôi từng nắm cỏ gà, tôi nhai nhai tận tình để khỏi ngạt thở. Một đám hiếu kỳ đứng chứng kiến sự thể, ngày nay hồi tưởng tôi không khỏi căm hận ức tình vì bọn giám thị – vốn mau mắn bắt lỗi và trừng phạt tôi – lại chẳng có lấy một lần nào can thiệp để chấm dứt cảnh ấy.
Tình cảnh tôi đòi này chỉ chấm dứt khi đã lên đến cực độ. Bấy giờ là đầu thu, sau nhiều ngày đêm trời mưa biến sân chơi thành vũng lội. Bao nhiêu sỏi và đá than bị vùi dưới một lớp bùn và lá rụng có vẻ dịu mắt. Không gian ẩm thấp tẩm đầy cảnh sống thảm hại của bầy trẻ không cha
không mẹ, sống không đủ ấm, ăn uống được chăng hay chớ, không hề tắm rửa, áo quần cứ rít vào da như thể đó cũng là lớp da trời sinh, là lớp vảy, là lớp mai, nếu bóc ra thì ghê cho con mắt, buổi tối khi thay quần ào, hoặc mỗi lúc đều như thế khi chúng nó co rúm lại từ bên trong, da dẻ ớn lạnh, cơ bắp co thắt, dương vật teo tóp. Hồi ấy chúng tôi chơi dữ dội khác thường, hầu như chơi cạn tàu ráo máng, như thể để ứng đối số phận hẩm hiu nghiệt ngã của mình, chúng tôi muốn khẳng định mình giống như chiến sĩ hay như thú dữ. Những nắm tay phóng ra bôm bốp lên mặt, những cái khèo chân kết thúc bằng những cú ngã lộn vòng tròn trong bùn, mấy đứa vật lộn xoắn vào nhau lăn hổn hển lên đất. Ít nghe la lối, không nghe chửi qua chửi lại, nhưng đứa nào một mình ngã xuống gì không khỏi nạm từng nắm tay bùn vụt vào đối phương để cho thằng này ăn bùn theo luôn. Tôi thì né mình sau mấy cột trong nhà chơi, tìm cách tránh mọi đụng chạm – mà đụng chạm thì lắm – vì đụng chạm dễ nguy khốn cho tôi. Tôi không hề có ý lo sợ Pelsenaire vì trong cõi hỗn loạn tầm cỡ thế này hắn sẽ không buồn để ý tới một đối phương quá khẳng khiu. Thế cho nên khi tránh né quả bóng bay tới tôi như hòn đạn đại bác, tôi đâm sầm vào người hắn, tôi vẫn không đến nỗi quả hoảng hốt. Hắn ngã xuống một cách kỳ quặc, khuỵu một đầu gối xuống, vì lấm phần chân dưới một bên thôi, ngoài ra không xem như không hề hấn gì. Tôi tìm cách né tránh thì hắn chụp tay tôi và co đầu gối ra lệnh “Chùi sạch cho tao!”. Lập tức ngồi lum khum dưới chân hắn, tôi rút chiếc khăn bẩn kỳ cộ. Pelsenaire sốt ruột:
- Mày không có khăn khác à? Thì thè lưỡi ra!
Bắp đùi, gối và phần trên chân tuyền một màu đất đen, bóng lóng, lớp đất này có thể nhẵn đều nếu như không có một vết trầy ở giữa, vết này tù mù màu tím, loét bên dưới xương bánh chè. Từ đó ứa ra vết đỏ chuyển sang màu đất, rồi thành nâu sẫm khi lẫn vào với bùn. Lưỡi của tôi liếm quanh vết thương làm thành vòng tròn xám. Mấy lần tôi nhổ ra từng bủng đát lẫn mảnh than đen. Vết thương vẫn ứa máu bày ra sát mắt tôi một họa đồ không rõ nét với phần thịt phồng lên, mẫu vỏ trăng trắng của da trầy và miệng vết thương lật vào trong. Tôi đưa lưỡi liếm nhanh lần đầu, liếm không được nhẹ nhàng nên không khỏi gây nên giật thót làm rúm thớ thịt trên xương bánh chè. Liếm lần thứ hai lâu hơn. Cuối cùng môi tôi đặt lên miệng vết thương và dừng lại một thời gian bao lâu không rõ.
Tôi không thể nói rõ chuyện gì xảy ra sau đó. Hình như tôi bị rùng mình, bị co giật nữa thì phải, và người ta đưa tôi đến trạm y tế. Hình như tôi nằm bệnh mất mấy ngày ở đây. Kỷ niệm về đoạn đời này của tôi tại trường Saint – Christophe khá tù mù. Trái lại, chắc chắn một điều là các thầy giáo thấy nên báo cho bố tôi biết tôi khó ở và viện dẫn đủ thứ chuyện, kèm theo một chuyện khôi hài quá cỡ mà họ không dè, là bảo tôi bị trúng thực do ham ăn kẹo.
13.1.1938. Tôi từng bảo Rachel: “Có hai loại đàn bà. Loại đàn bà đồ chơi để cầm, để vặn, để nhìn, trang trí cho đời sống thằng đàn ông. Và loại đàn bà phong cảnh để người ta đi đến, có thể mất hút vào đó. Loại thứ nhất thì đứng, loại thứ hai thì nằm. Loại thứ nhất thì liến thoắng, trở chứng, đòi hỏi, nhỏng nhẻo. Loại thứ hai lầm lì, bướng bỉnh, muốn tư hữu, sống bằng kí ức, mơ mộng”.
Nàng lắng nghe tôi, mày chau lại, tìm xem trong lời lẽ của tôi có cái gì chạm đến nàng. Thế là để cho nàng cười chơi, tôi vờ lặp lại dưới một dạng khác: “Có hai loại đàn bà, loại có cái mông cỡ lòng chảo Paris và loại có cái mông cỡ lòng chảo Địa Trung Hải”, tôi đưa tay ra làm hình nhỏ và hình lớn. Nàng mỉm cười, ngờ ngợ tự hỏi chắc tôi không xếp nàng vào loại cỡ lớn – nàng thì tất nhiên thuộc vào cỡ lớn rồi còn gì.
Bởi lẽ cái cô “con trai” này, cái cô xoay xở tài giỏi này mười mươi là loại đàn bà phong cảnh, và mông thuộc cỡ lòng chảo Địa Trung Hải (vả chăng gia đình nàng gốc ở Salonique). Thân hình bề thế, mời gọi, có nét mẹ hiền. Tôi không nói ra sợ chọc giận – vì đối với nàng lời nói bao giờ cũng là vỗ về hoặc gây hấn, chứ không bao giờ là phản ánh sự thật – và tôi càng không nói ra những suy nghĩ nảy ra trong tôi khi tôi đặt tay lên xương đùi nàng, bắp đùi nở rộng như dáng ghềnh đá nhìn xuống bao quát toàn cảnh. Giữa hai ngọn đùi, bụng thóp lại, lòng thung lũng se sắt và hun hút ngóng trông… Tôi tự hỏi mình về cái khái niệm huyền bí này: cái giống của người đàn bà. Tất nhiên không phải là phần bụng cụt lủn này lại làm nên đàn bà nếu không phải là nhờ sự đối xứng thô thiển của thân thể nữ và nam. Cái giống của người đàn bà. Có lẽ ta có cảm hứng hơn về cái giống này ở phần ngực hiên ngang nở ra hai chiếc bầu trù mật…
Thánh Kinh rọi vào vấn nạn này một luồng ánh sáng kỳ dị. Khi ta đọc đoạn đầu của Kinh Sáng Thế, ta đâm hoảng vì một điều mâu thuẫn lồ lộ làm xô lệch cái văn bản đáng tôn kính này. Chúa tạo ra con người theo hình ảnh mình, Chúa tạo ra nó theo hình ảnh của Chúa, Chúa tạo chúng nó giống đực và giống cái. Và Chúa ban ân huệ cho chúng nó, và bảo chúng nó: “Chúng con hãy sinh sôi, lớn lên, nảy nở, đầy lên trên trái đất và thu phục trái đất…”. Sự chuyển đổi đột ngột từ số ít sang số nhiều rõ ràng là khó hiểu, nhất là sự tạo lập người đàn bà từ mẩu xương sườn của Adam xảy ra mãi về sau, ở chương II của Kinh Sáng Thế. Trái lại sẽ rõ nghĩa nếu vẫn giữ số ít trong câu vừa trích dẫn. Chúa tạo ra con người theo hình ảnh mình, có nghĩa là vừa giống đực vừa giống cái. Chúa bảo nó: “Ngươi hãy lớn lên, nảy nở” v.v. Về sau, Chúa nhận ra sự đơn độc của tình trạng lưỡng tính không được tốt. Chúa cho Adam ngủ vùi rồi tỉa ra, không phải mẩu xương sườn, mà là “mạn sườn”, hông, tức là phần nữ giới tính để làm nên hình người độc lập.
Từ đó ta hiểu tại sao người đàn bà thực chất không có phần âm, là vì người đàn bà là phần âm của người đàn ông, mang theo thường trực thì kềnh càng, và vì thế thường thường phải bỏ ra, và cần thì đeo lại. Có thế thì đó mới là cái riêng biệt của con người – trái với con vật – bất cứ lúc nào cũng có thể dính vào người một món đồ, một dụng cụ, một khí giới phải nói ngay là cần dùng, nhưng có thể cởi bỏ ngay, thay vì như con tôm càng chịu phép suốt đời kéo lê đôi càng trên thân. Và cũng như bàn tay là cơ quan móc nối cho phép con người tùy theo nhu cầu chụp lấy cái búa, cây kiếm hay cây bút, thì cũng vậy, dương vật là cơ quan móc nối với phần giới tính, chứ tự nó không hẳn là phần giới tính.
Nếu quả như thế, thì phải phán xét nghiêm khắc sự kết hôn vốn có cao vọng hàn gắn lại chặt chẽ tối đa và bất khả phân ly tối đa những gì đã tách rời. Đừng kết nối cái Chúa đã phân! Cầu khẩn mà làm gì. Ta không khỏi bị hấp dẫn một cách có ý thức, không nhiều thì ít, vì hình ảnh Adam cổ sơ, khệnh khạng mang đủ các bộ phận sinh sản, sống trong tư thế nằm, có thể không có khả năng cất bước, chắc chắn là không có khả năng lao động, liên miên quay quắt động tình một cách hoàn hảo lạ thường – vừa là kẻ chiếm đoạt vừa là kẻ bị chiếm đoạt trong phút lên cơn, nếu không phải là – biết đâu? – trong những thời kỳ chính mình mang thai cái mình tác tạo. Thế thì
vị tổ tiên thần diệu có cái gì mà chẳng cưu mang, nam đèo nữ, rồi lại đèo con, mang nặng và quá tải, như mấy con búp bê to nhỏ chứa đựng nhau.
Hình ảnh có thể xem ra buồn cười. Tôi là người sáng suốt đứng trước mớ bòng bong của đời sống vợ chồng, hình ảnh ấy gây động tâm cho tôi, nó làm dậy lên trong tôi một nỗi u hoài về huyết thống như thế nào đó về một đời sống siêu nhân vì quá tràn đầy mà vượt mọi thăng trầm của thời gian và sự già cỗi. Bởi lẽ nếu như trong Kinh Sáng Thế có sự sa đọa của con người thì không phải ở đoạn trái táo – đoạn này trái lại ghi dấu một bước thăng tiến, vươn đến trình độ hiểu biết điều thiện điều ác – mà chính trong giai đoạn Adam nguyên thủy đứt làm ba đoạn, bắt người đàn bà rơi rụng từ người đàn ông, kế đó là đứa con, một lúc tạo thành ba kẻ khốn đốn, đứa con suốt đời côi cút, người đàn bà bị bỏ rơi, thấp thỏm, suốt đời đi tìm kiếm kể bao bọc, người đàn ông nhẹ thênh, thong dong, nhưng giống như một ông vua bị lột hết chức quyền để khép mình vào những việc mọn hèn.
Ngược lên triền dốc, phục hưng con người Adam nguyên thủy, việc hôn nhân không có ý nghĩa nào ngoài ý nghĩa ấy. Nhưng chỉ có giải pháp sơ sài ấy thôi sao?
10.1.1938. Khi tôi giã biệt trường Saint – Christophe linh hồn của ngôi trường cũ đã mất hẳn kể từ bốn năm trước đó, và cả vũ trụ học đường này, vừa có tính tôn giáo vừa có nét tù tội, chỉ còn thấp thoáng những hình bóng trẻ con, tu sĩ chập chờn. Nestor đã bị chết ngột dưới hầm trường, chết do bọn khác, còn đối với tôi vẫn còn sống hơn bao giờ hết.
Nestor là con một của bác gác cổng trường. Ai từng hiểu loại trường này tức rõ tầm mức khả năng của hắn trong trường hợp này. Vừa ở với bố mẹ, vừa ở trong trường, hắn gom thu những lợi thế của bọn nội trú và luôn cả ngoại trú. Thường được bố mẹ giao lắm việc vặt trong nhà, hắn thong dong len lỏi trong mọi dãy nhà và có chìa khoá của hầu hết các cửa, trong khi vẫn thoải mái “ra phố”, ngoài những giờ học trong lớp và học nội trú.
Nhưng lẽ ra chẳng có chuyện gì, nếu trường hợp này chẳng phải là Nestor. Với khoảng cách của năm tháng, ngày nay nghĩ đến Nestor tôi đặt ra cho mình những câu hỏi trước đây không hề gợn lên hồi tôi còn là bạn
hắn. Một tên kỳ quái, tài tình, thần kỳ, một kẻ trưởng thành tí hon chăng, bị còi cọt thành đứa bé, hay trái lại là một thằng bé khổng lồ, nhưng dáng dấp hắn gợi cho ta nghĩ như vậy chăng? Thật khó nói. Một số lời lẽ của hắn mà ký ức tôi ghi lại – có thể là ít nhiều trung thực - chứng tỏ hắn khôn sớm vô cùng, nếu chứng thực được Nestor cùng tuổi với chúng bạn. Nhưng điều này chẳng chắn chắn gì, huống chi ngược lại hắn vẫn có thể là một thằng chậm lớn, không lớn nổi, một thằng lẩn quẩn xó nhà thuở nhỏ, sinh ra ở tại trường và chỉ một phép lưu ngụ tại đó thôi. Giữa bao nhiêu điều bất quyết, một từ hiện rõ rệt mà tôi không thể giữ lại lâu hơn dưới ngòi bút của tôi: không tuổi tác. Tôi có nói về tình vĩnh cửu của tôi. Nếu thế thì chẳng có gì là lạ nếu Nestor – mà rõ ràng là tôi chịu ảnh hưởng – cũng giống như tôi thoát ra ngoài vòng thời gian…
Hắn cực mập, bụng phệ thì đúng hơn, do đó mọi động tác, luôn cả dáng đi, đều chậm rãi bệ vệ, và khối thịt của hắn trở nên đáng gờm trong những lúc đụng độ. Hắn không kham được nóng, khi trời lạnh gắt vẫn ăn mặc sơ sài và thời gian còn lại thì liên tục đổ mồ hôi. Hắn như thể bị lướng vướng theo trí thông minh và trí nhớ khác thường của mình, đâm ra nói năng chậm rãi, dáng bộ trịnh trọng bác học, có cân nhắc, tạo vẻ, không tự nhiên, sẵn chực nhấc ngón tay trở lên mỗi khi thốt ra một công thức mà chúng tôi cùng nhận thấy là hay dù chẳng hiểu gì ráo. Lúc đầu tôi cứ tưởng hắn nói năng toàn những lời trích dẫn gạn lọc trong sách ra, sau đó tôi lọt vào quỹ đạo của hắn mới hiểu là mình nhầm. Quyền uy của hắn đối với mọi học sinh là điều không thể chối cãi, ngay các thầy cô cũng có vẻ ngại hắn và ban cho hắn nhiều đặc quyền đặc lợi lúc đầu tôi nghĩ là quá đáng, hồi tôi chưa rõ hắn là ai.
Lần đầu tiên chứng kiến sự thể hiện tình huống đặc cách ấy quả tình quá sức buồn cười, vì tôi chưa cảm nhận ra vòng hào quang đáng nể chung quanh con người hắn. Trong mỗi lớp học, có một cái thùng sơn đen đặt dưới chỗ thầy ngồi, dùng làm thùng bỏ giấy. Học sinh nào muốn đi ngoài thì xin phép bằng cách đưa hai ngón tay thành hình chữ V. Giám thị hoặc thầy giáo gật đầu, hắn đến chỗ thùng thọc tay xuống nhanh và đi ra cửa, tay nắm một búng giấy.
Sự việc Nestor tự tiện miễn làm chữ V như quy định lúc đầu tôi không rõ vì hắn ngồi phía cuối lớp. Nhưng tôi sinh lòng nể nang hắn ngay
do bước chân lừng khừng của hắn khi tiến lại chiếc thùng và do cái màn diễn tiếp theo. Với một kẻ chăm chú lẩm cẩm, hắn đi một bài khám xét các mẫu giấy vụn bày lên trên mặt, kế đó có vẻ chọn chưa được gì, hắn khoắng ào ào trong thùng bày ra các quả cầu hoặc những mẩu giấy vụn lâu ngày mà hắn trầm ngâm xét nét, đến độ hình như đọc luôn trên ấy viết gì. Toàn bộ học sinh bị chăm chú thu hút vào cái trò ấy, ngay thầy cũng chỉ tiếp tục giảng bài địa lý bằng một giọng chậm lại, máy móc, điểm bằng những khoảng im lặng dài thêm ra. Lẽ ra tôi phải thót người vì cái im lặng phập phồng đang đè nặng cả lớp, vì một đứa khác giở trò như vậy thì sẽ được la ó ầm ĩ ngay. Nhưng, một lần nữa, tôi mới chân ướt chân ráo vào trường, và tôi cười chảy nước mắt, tay bấu vào hộc bàn, lúc này cuối cùng thằng bạn ngồi cạnh gay gắt thúc cùi chỏ vào mạn sườn tôi, tôi chẳng hiểu vì sao, cũng không hiểu lời bình luận khe khẽ tiếp theo của hắn khi Nestor quyết định chọn cuốn vở nháp đầy hình vẽ: “Hắn chọn, không phải là chọn lấy giấy, mà chọn cái gì viết trong đó, vào chọn đứa nào viết ra”. Câu nói này – và rất nhiều câu khác mà tôi sau đó cố nhớ ra – bao trùm cái bí ẩn về Nestor chứ không làm sáng rõ.
Hắn ăn bạo tợn và hàng ngày tôi chứng kiến điều này, bởi lẽ dẫu đêm về hắn ăn tại nhà thì bữa trưa hắn ăn tại nhà ăn. Mỗi bàn gồm tám phần ăn và đặt dưới quyền trách nhiệm của một người “đầu bàn” có nhiệm vụ trông chừng phần ăn cho công bằng. Có một trong những nghịch lý làm cho tôi không ngớt ngạc nhiên là suốt mấy tháng nhập môn, là Nestor không làm đầu bàn. Nhưng nhờ thế hắn lợi hơn, là vì đứa nào giữ chức vụ ấy – mà kể ra đứa nào trong bàn cũng vậy thôi – không những điềm nhiên để mặc tình cho hắn trút một phần tư các món ăn vào đĩa riêng, mà còn xoắn vồ nhường thức ăn, như thể hắn là ông thần thời cổ xưa.
Nestor ăn nhanh, kỹ lưỡng, chăm chỉ, chỉ ngưng lại để lau mồ hôi chảy từ trán xuống mắt kính. Hắn có cái điệu giống như nhân vật Silène trong sử xưa, má thụng, bụng tròn, mông núng nính. Ba khâu ăn-tiêu- ỉa tạo tiết nhịp cho đời hắn, và cả ba thao tác đều được toàn thể trọng vọng. Nhưng đó mới chỉ là một mặt hiển hiện của Nestor. Bộ mặt ẩn kín của hắn, mà chỉ tôi dè chừng mà thôi, đó là những tín hiệu, là diễn giải các tín hiệu. Đó là điều sâu nặng của đời hắn, bên cạnh tính độc tài tuyệt đối mà hắn áp đặt nặng nề trên cả ngôi trường Saint – Christophe.
Tín hiệu, diễn giải tín hiệu… Tín hiệu gì đây? Diễn giải tín hiệu để lộ ra những gì chứ? Phải chi trả lời được câu hỏi này thì cả cuộc đời tôi đã thay đổi, và không những đời tôi - điều này tôi mạnh dạn viết ra vì tin chắc chẳng có ai đọc những dòng này – mà còn cả hướng đi của lịch sử cũng nên. Dễ thường Nestor đã dợm vài bước vào hướng này, nhưng hoài vọng duy nhất của tôi là nối gót chân hắn, và có thể là tiến xa hơn hắn, nhờ tôi sống dài ngày hơn và nhờ cảm hứng toả ra từ bóng âm của hắn.
20.1.1938. Cái tôi bầy nhầy. Một tin vui, một tin rất vui, đến với tôi là tôi vui sướng dậy đàng. Kề liền sau đó, tin bị cải chính. Hết, không còn gì nữa hết. Còn chứ! Do một hiện tượng kỳ lạ về sự dây dưa, cái nỗi vui sướng xâm chiếm lấy tôi rồi rút đi đã để lại đằng sau nó một lớp hạnh phúc, giống như nước biển khi rút lui để lại những vũng nước trong phản chiếu mặt trời. Có một lúc nào đó trong tôi chưa chịu hiểu rằng tin vui ấy là sai và cứ một mực mừng rỡ.
Lúc Rachel rời bỏ tôi, tôi xem chuyện ấy hờ hững thôi. Đến nay tôi vẫn tiếp tục xem chuyện đổ vỡ này chẳng lấy gì làm trầm trọng, mà về một mặt nào đó còn lợi nữa là đằng khác, vì tôi đinh ninh sự việc ấy sẽ mở đường cho nhiều thay đổi lớn, nhiều chuyện lớn. Nhưng có một cái tôi khác, cái tôi bầy nhầy. Thoạt đầu nó chẳng hiểu gì về việc đổ vỡ kia. Mà chẳng bao giờ nó hiểu ngay được một cái gì hết. Đó là một cái tôi nặng nề, thở dài, thất thường, thường xuyên đẫm đầy nước mắt và tinh trùng, nặng lòng với thói quen, với quá khứ của mình. Phải thêm nhiều tuần nữa mới hiểu rằng Rachel không còn quay gót trở lui. Bây giờ cái tôi ấy ra. Và nó khóc. Tôi mang nó trong lòng như một vết thương, một sinh vật ngây ngô mà đằm thắm, tai hơi nặng, mắt hơi cận, dễ bị phỉnh gạt, chậm phản ứng trước nguy cơ. Chính cái tôi này nó bắt tôi sục sạo từ hành lang này sang hành lang kia đầy lạnh lẽo của trường để tìm dấu vết bóng ma nhỏ u uất, đã chết dí vì ác cảm của cả bọn và nhất là vì tình cảm của riêng một thằng bạn. Nói như thế chẳng khác nào hai chục năm sau tôi gánh được cái khổ của nó trên đôi vai đàn ông của tôi, và làm cho hắn cười, cười vang!
25.1.1938. Ngôi trường Saint – Christophe, tại Beavais, chiếm cứ các cơ sở của tu viện dòng Citeaux cũng mang tên ấy, tu viện lập ra năm 1152 và
đóng cửa vào năm 1785. Chỉ còn lại của thời Trung cổ những vòm nhà thờ phục chế, và phần lớn trường học được đặt ở toà tu viện lớn do Jean Aubert xây cất đầu thế kỷ 18. Mấy chi tiết này là quan trọng, vì không khí khắc khổ, khắc nghiệt mà chúng tôi phải chịu đựng hồi ấy xuất xứ phần nào từ lai lịch và lịch sử của mấy bức tường này. Không khí này lộ rõ hơn hết ở phòng tu kín với kiến trúc kém cỏi riêng của thế kỷ 17 và dùng làm nơi chơi cho đám nội trú buổi sáng trước giờ bọn ngoại trú kéo đến, và buổi chiều khi bọn này ra về. Chúng tôi chỉ được phép chơi ở hành lang, và chỉ phóng tầm nhìn xuống khu vườn phía trước trên bờ tường bọc quanh, khu vườn do bố của Nestor chăm chút, có những hàng cây thích trắng toả ra một thứ ánh sáng đục mùa hè, giữa vườn có xay một chiếc vạc bị sứt mẻ ấp ủ một đám dương xỉ cằn cỗi. Nỗi buồn bã tiết ra từ nơi này đã trở nên nặng nề hơn, và như có thể hít thở được, là do những bức tường cao bao bọc.
Những khi vắng bọn ngoại trú vốn tạo nên gạch nối sinh động với thế giới bên ngoài, chúng tôi mỗi ngày hai bận quây quần bên nhau trong ngôi nhà tù xanh này mà chúng tôi gọi với nhau là ao cá. Các trò chơi ồn ào, những trò đuổi bắt nhau đều bị loại trừ tại nơi này, vả chăng không khí cũng chẳng thích hợp chút nào, nhưng không vì thế mà cản trở đi đi lại lại, chuyện trò, rồi lại cái ao cá – còn hơn là nhà nguyện, nhà ăn hoặc các phòng ngủ - lại là nơi tụ tập thường lệ của nội trú, tụ điểm tập trung của một trăm năm mươi đứa trẻ nép mình vào đời sống trường học, lu thu, xa lánh. Nestor chỉ xuất hiện họa hoằn, và như tôi có nói, hắn cũng không nhập bọn với chúng tôi ở nhà ăn buổi tối. Ấy vậy mà hắn chẳng vắng mặt đâu – hoàn toàn không – và hai đứa đồ đệ của hán là Champdavoine và Lutigneaux lãnh việc truyền đạt những lời nhắn nhe mệnh lệnh của hắn. Thường thường việc tranh giành ảnh hưởng phát sinh một phần do hệ thống khá tinh vi gồm những hình phạt cùng những ân xá hiện hành tại Saint – Christophe, một phần khác do uy quyền vô hình do Nestor về khoản thưởng phạt quan trọng này.
Các kiểu hình phạt ở trường, tôi biết quả rõ vì không ngừng kinh qua từ hình phạt này sang hình phạt khác. Có hình phạt “làm lính”, mấy đứa học sinh sắp thành hàng dài im lặng đi vòng quanh trong nhà chơi trong mười lăm phút, hoặc nửa tiếng, một tiếng hay hơn nữa, hình phạt “cấm khẩu” buộc kẻ bị phạt không mở miệng với bất cứ ai, ngoại trừ để trả lời cho thầy hoặc giám thị, hình phạt “trồng cây” buộc phải ăn một mình trong nhà ăn tại
một chiếc bàn con, và ăn đứng. Nhưng tôi có thể chịu đựng ngàn lần bất cứ hình phạt nào còn hơn là phải nghe tên tôi bị gọi gộp chung thành câu “Tiffauges lên phòng phạt!” đầy hồi hộp và nhục nhã. Là vì nghe xướng câu ấy thì phải rời lớp, lên hai tầng lầu và đâm vào một hành lang vắng ngắt để cuối cùng ẩy cửa vào phòng ngoài của thầy kỷ luật. Với tới đây, quỳ xuống cái giá đọc kinh, không hiểu sao lại đặt chính chắn giữa phòng, day mặt vào bàn thầy, và cầm lên một cái chuông nhỏ đặt dưới đất kề cạnh để rung lên. Cái giá đọc kinh, đôi chân quỳ xuống, cái chuông rung lên khe khẽ, nay tôi không khỏi nhận ra trong nghi thức phạt tội ấy một dạng dâng bánh lễ của Xa tăng. Bởi lẽ dĩ nhiên việc lên phòng phạt không phải là kính Chúa. Chuông rung xong, chờ đợi có thể từ vài giây cho tới một tiếng đồng hồ, và đây là hình thức tinh vi khó kham nổi của hình phạt. Cuốn cùng không sớm thì muộn cửa phòng bật mở, thầy xồng xộc phóng ra cầm trong tay trái mẩu giấy phóng thích. Thầy phóng đến giá quỳ, tát thẳng tay tên tội phạm, ấn vào tay hắn mẩu giấy đã hoàn thành việc phạt và biến mất bằng nhịp độ như đã xuất hiện.
Một hệ thống miễn tội cho phép thoát được những loại hình phạt theo một tháng đánh giá tinh vi theo điệu thần học. Hình thức ân miễn là những mẫu giấy bìa hình chữ nhật màu trắng, xanh, hồng hoặc lục – tùy theo giá trị - thưởng cho những điểm giỏi hay những vị thứ đứng đầu các bài thi. Theo đó chúng tôi biết rằng trong đầu óc mấy vị cha cố đạo hạnh thì sáu giờ làm lính được tính bằng một ngày cấm khẩu, hoặc bằng hai ngày trồng cây hoặc một lần lên phòng phạt, và được chuộc bằng một vị thứ đứng nhất một môn thi, hoặc hai vị thứ đứng nhì, ba vị thứ đứng ba, hoặc bốn điểm trên 16. Nhưng tên nào bị phạt thường chọn phạt và giữ nguyên các ân miễn, vì ân miễn cũng cho phép mua được một “tiểu xuất” (ra trường chiều chủ nhật) hoặc một “đại xuất” (ra trường cả ngày chủ nhật).
Tuy nhiên hệ thống ấy bao giờ cũng có giá trị lý thuyết và như thể bị tê liệt, bởi lẽ mấy cha cố đạo hạnh không đếm kể gì chuyện thánh thần thương xót hay chuyện hoán chuyển khen thưởng, các vị quyết rằng ân miễn phải là của riêng – đứa được thưởng mang một con số ghi vào mẩu giấy bìa – và chỉ dùng cho những ai được chọn. Mà chính bọn ẵm được thứ này nhiều hơn cả - bọn học giỏi, khá môn dịch, bọn được thầy và giám thị thưởng – lại là những đứa ít cần đến thứ này hơn cả, vì như thể có một sự bảo bọc kỳ lạ nào đó giúp chúng nó tránh né những hình phạt làm lính, cấm khẩu, trồng
cây và cấm phòng. Cần phải tài ba như Nestor mới bổ khuyết được khoản này.
2.2.1938. Suốt ngày, tôi không ngớt buộc vào, tháo ra một sợi cao su nơi ngón tay. Ngày mai tôi buộc lòng phải đấu tranh cất bỏ sự hiện diện giả tạo và quái gở này, nó trông giống như chiếc nhẫn cưới, tuy rằng nhì nhằng như một bàn tay con con đeo vào tay tôi, nó rít lại và bấu nhẹ mỗi khi định bụng rứt nó ra.
8.2.1938. Có khi phải chạm vào đáy đêm mới thấy ra lóe sáng hy vọng đâm thủng trời đen. Chính cái phòng phạt lần đầu tiên hé lộ cho tôi biết cái ý nghĩa bảo bọc kỳ lạ mà tôi sắp được hưởng và không ngớt phủ lên đời tôi.
Tiếng ồn ào rộ lên ở góc lớp nơi tôi ngồi, và tôi không thể nói mình có thực sự góp phần vào đó hay không. Thế mà lời phán quyết ghê gớm từ bục giảng rơi sầm xuống đầu tôi: “Tifauges lên phòng phạt!” và luồng không khí vui mừng ác ý vốn luôn đi kèm loại hình phạt này nó chạy xuyên giữa các dãy bàn. Tôi đứng lên trong ác mộng, và hướng ra cửa giữa cái im lặng vẩn đục làm bằng bốn chục cái hơi thở ngưng nén. Bấy giờ đang là tháng mười hai, ở ngưỡng cửa mùa đông có bề trở về thực sự, tôi bước ra lớp lòng chưa yên theo các món nợ với thằng Pelsenaire là đứa hầu như không còn gặp tôi kể từ khi tôi rời phòng y tế trường. Bầu trời hoàng hôn sũng nước phủ đầy sâm, nơi đây con mắt bắt gặp, sau hàng cây lật âm u, cái nhà chơi vắng ngắt bên trái và, tít sau, chỗ tiểu tiện lồ lộ ngang nhiên, như nơi thờ tự bốc khói của đám con trai. Tôi đưa chân đá bậy vào một quả bóng vất vưởng bên lề nhà chơi. Mấy chiếc tạp dề đen lủng lẳng ở móc áo què quặt trong bóng mờ tối trông như một họ nhà dơi. Ý nghĩ khước từ cuộc sống dâng dậy trong tôi như một tràng lệnh vỡ âm thầm. Một tiếng thét bí mật, một lời tru tréo tắc nghẽn bật ra từ tim tôi để hòa lẫn vào nhịp đập của bao nhiêu thứ im lìm. Một sự lôi kéo mãnh liệt đẩy tôi cùng bao nhiêu thứ ấy về phía hư vô, xô chúng tôi về phía cái chết, bằng một sức quật hung tợn khiến đôi vai tôi oằn rũ. Tôi ngồi xuống, thọc chân vào rãnh nước. Đôi tay bó gối. Cô đơn, ít nhất bao giờ tôi cũng còn có hai thứ búp bê song sinh này, hai cái đầu vuông, không có tóc, u nần lên _ hai con búp bê này cũng là tôi. Tôi đưa môi liếm lên lớp vảy đen lởm chởm giữa lớp da có đường dọc ngang,
ghét bẩn chỗ này, bụi bặm khô cằn chỗ kia. Tôi cảm thấy dễ chịu khi nhận ra mùi đá lửa quen thuộc. Tôi hiểu ra mình vừa chạm khá đau vào đáy đêm, đau đến nỗi tôi hãy còn bửng lửng khi bước lên chiếc cầu thang hành xác. Phòng trước của thầy kỷ luật đang chìm vào tối. Khỏi phải bật đèn làm gì. Từ giá quỳ, chỉ thấy hiện rõ trên mảng tường trắng tấm tranh màu mè dữ dội, đấng Cứu Thế chịu nhục, đầu đôi gai và một tên cục súc tát vào mặt. Tôi hãy còn xa lạ với các đọc hiểu các tín hiệu – là việc hệ trọng trong đời tôi – và tôi không nghĩ đến sự liên tưởng cần thiết. Nay tôi biết rằng một khuôn mặt người, dù tệ hai đến đâu, nhưng đã bị tát vào là lập tức trở thành khuôn mặt Giê-su.
Tiếng chuông ngân ở xa. Sàn nhà cót két. Một vệt sáng đáng sợ lóe lên dưới cánh cửa phòng ông thầy. Tôi thu mình nín thở trên giá quỳ. Thời khắc trôi qua, tôi vẫn chưa quyết rung chuông phạt. Mà chuông đâu rồi nhỉ? Tôi mò mẫm trên sàn nhà trong bóng tối. Chẳng mấy chốc ngón tay tôi chạm vào cán gỗ gắn lên cái chụp đồng của món đồ vật nằng nặng tráo trở kia. Tôi chầm chậm nhấc nó lên kéo vào mình một cách cẩn thận như thể bắt một con rắn đang say ngủ. Tôi cảm thấy yên tâm hơn khi ngón tay tôi nắm gọn tim chuông. Vật này bằng chì, và mặt ngoài của nó được nện búa, nhẵn như thịt, phần trên và phần dưới đều có ngấn hõm vào trong. Điều này chứng tỏ nó được dùng qua nhiều năm, và tôi hình dung vô số cuộc phạt cấm phòng mà chiếc chuông đã giội xuống bao nhiêu mái đầu trẻ nhỏ, đến đây chuông bỗng lọt vào tay tôi, rơi bồng xuống mép tỳ tay bọc nệm của giá quỳ và lăn ra sàn nhà đánh xoảng một tiếng lớn. Lập tức cửa phòng mở tung và ánh đèn oà vào. Sững người, tôi nhắm mắt chờ đợi ngọn đòn.
Chẳng đòn gì hết. Trái lại là một luồng mơn man, một cái gì đó nhẹ nhàng mềm mại lướt qua má tôi lao xao. Tôi đánh liều mở mắt ra. Thằng Champdavoine đứng đó, cười cợt và vặn vẹo như thường ngày, và hắn chìa cho tôi mẩu giấy vừa dùng để quét lên má tôi. Kế đó hắn lùi lại, sạp đầu cúi chào giễu cợt và lĩnh mất ở cửa phòng của thầy. Liền đó hắn lại ló đầu ra ghẹo một lần cuối và cánh cửa khép lại.
Tôi ngắm nghía mẩu giấy hắn vừa trao: đúng là mẫu giấy phóng thích có chữ ký đàng hoàng của thầy.
Xuống lại lớp, đầu tôi ong ong còn hơn là bị hai lần phạt phòng. Nhưng hẳn nhiên là tôi chẳng hiểu gì cả, và tôi hoàn toàn không dè rằng mình vừa chứng kiến một sự rạn nứt trong toàn bộ nguyên khối của định mệnh đè nặng lên đầu mình. Ngay từ hôm đáng ghi nhớ ấy, lẽ ra tôi có thể chấm dứt cách nhìn hình phạt như là một xâu chuỗi không thể nào tránh thoát và đối nghịch một cách tiên thiên, và có thể nhìn nhận – như tôi đã đành phải nhìn nhận từ độ ấy - rằng nó cũng dự phần đồng loã với cuộc đời riêng tư nhỏ nhoi của tôi, và trong mọi chuyện đời cũng có một chút tôi trong đó.
Nhưng việc phạt cấm phòng chi là một báo trước. Còn phải chờ đợi một thời gian lâu dài mới dẫn đến biến cố làm thay đổi tận gốc rễ chỗ đứng của tôi tại ngôi trường Saint - Christophe và mở ra một kỷ nguyên mới trong đời tôi.
Ngày Lễ Lá Chủ nhật, theo truyền thống, bọn nội trú đi “dã ngoại” và cắm trại để đánh dấu chấm dứt mùa đông. Tôi thậm ghét mọi sự bó buộc đi ra ngoài trường, dù sao ở trong trường tôi có thể rụt cổ thu giấu nỗi hèn mọn của mình vào cái vẻ bề ngoài ấm cúng, còn chuyện du ngoạn là một cái gì gớm ghiếc. Thực vậy, dịp này chúng tôi chia làm hai tố. Đứa nào có xe đạp – như thể kỵ sĩ của đạo quân ngày xưa - họp thành thứ tinh hoa trọng vọng, hướng tới một mốc du ngoạn xa hơn, đặt dưới quyền hướng dẫn của một hướng đạo viên trẻ trung cỡi xe máy. Tôi thuộc bọn chân đất mờ nhạt, nặng trịch ở chân, phải cuốc bộ hàng cây số, thêm một lũ giam thị đáng ghét xỉa xói.
Tiếng còi khởi hành sắp sửa rít lên thì xảy ra một biến cố làm rung rung cả ngôi trường. Thằng Lugigneux xuất hiện, dắt một chiếc xe đạp sáng chói, xe của Nestor. Xe hiệu Alcyon, màu lửa lựu chỉ vàng, chiếc càng xe đua bằng thép mạ kền, kèm theo bên trái một chiếc kính chiếu hậu xinh xắn và phía phải một chiếc chuông to hai bậc thanh, bánh xe loại to vừa, trắng ở hai bên má, và sau xe là tấm chở hành lý có đính miếng rọi mặt trời: sau hết, một món ít có trong thời buổi ấy, xe được trang bị thêm một chiếc cần vận tốc ba bậc.
Mọi người ngóng nhìn Lutigneux nhập bọn với xe đạp: nhưng không. Hắn phi băng qua sân, chiếc xe nhảy bồng bồng như con ngựa phì phò, và
chính tôi, chìm trong đám cuốc bộ, lại là người hắn nhắm đến. Hắn trao xe cho tôi và nói gọn lỏn:
- Nestor đưa cho đấy, để đi du ngoạn.
Tôi ngơ ngác không kém gì toàn trường đang lập tức cho rằng tôi khéo giấu giếm khó ai bì kịp, vì hiển nhiên phải thân nhau lắm mới có đãi ngộ hậu hĩ thế này. Sự việc có thể xem ra cũng thường thôi, và có thể lọt khỏi con mắt một chứng nhân xa lạ với đời sống sâu xa ở Saint – Christophe. Đối với tôi, gần nhưng một phần tư thế kỷ trôi qua, nay nhớ lại không khỏi rùng mình vì thích thú hãnh diện.
Sau tuần tiếp theo, Nestor như thể chẳng quen biết tôi. Tựu trung tôi hiểu phần nào lề thói nên biết rằng chẳng phải cảm ơn làm gì. Nhưng thứ bảy tuần sau đó, Lutignaux tìm gặp tôi trong giờ ra chơi vào mười bảy giờ sau khi bọn ngoại trú ra về để cho tôi biết rằng tôi đổi chỗ ngồi và giúp tôi dời đồ đạc.
Lẽ tất nhiên chỗ của học sinh là do thầy kỷ luật từ ngày vào đinh đoạt, ông chủ tâm đi ngược tối đa với ý thích của chúng nó, bằng cách hoặc là chia loan rẽ thuý những đứa bạn thân, hoặc là áp đặt chỗ ngồi vào hàng trên cho bọn lười biếng và mơ mộng là bọn chỉ mong khoẻ thân và giấy mặt ở cuối lớp. Riêng Nestor có thể đảo lộn trật tự một cách vô tội vạ, và lấy ý mình thay cho ý thầy. Bản thân hắn chiếm cứ góc trái cuối phòng cạnh cửa sổ. Để có thể nhìn chừng ra sân bất cứ lúc nào, hắn còn kê cao chiếc bàn của hắn lên bằng cách chêm thêm mấy mẩu gỗ và gắn một tấm kính bình thường thay vào vuông kính đục dùng cho mọi cửa sổ bằng kính. Kể từ nay do một đạo luật chỉ có thể hắn ban hành, tôi cũng ngồi ở góc trái ấy, cạnh hắn, ngay bên tay mặt hắn. Sau vụ chiếc xe đạp rùm beng ấy, việc dời chỗ này không khiến ai lấy làm lạ, mà chờ đợi nữa là khác, cả thầy, giám thị cũng như học sinh.
Ngay từ buổi ấy, tôi sống ở trường được bảo vệ che chở một cách vừa kín đáo vừa hiệu quả. Không có tuần lễ nào tôi không bắt gặp một món quà gì đó trong ngăn đồ nội trú của mình; các hình phạt dường như ngớt trút lên đầu tôi; mấy đứa lớn nào hung hãn với tôi là ngay hôm sau mang vết bầm tím một cách khó hiểu. Nhưng bấy nhiêu thứ chẳng có gì đáng kể so với
hào quang của Nestor toả xuống người tôi suốt những giờ trong lớp và những giờ học nội trú. Con người dềnh dàng của hắn làm cho phòng học như thể chao nghiêng về phía góc trái cuối lớp, chỗ của hắn. Đối với tôi, thật quả đó mới là trung tâm của lớp, còn hơn cả bục giảng với con người ra giảng nhạt nhoà, phù du nối gót nhau lên xuống.
12.2.1938. Một cô khách hàng đến gặp tôi, đem theo một bé gái sáu tuổi. Lúc từ biệt, em bị la mắng vì chìa tay trái ra cho tôi. Tôi bỗng sực nhớ đa số trẻ con dưới bảy tuổi – tuổi lớn khôn! – đưa bàn tay trái ra cho người lớn tự nhiên thế thôi. Đơn sơ thánh thiện! Mấy em hồn nhiên biết rằng bàn tay phải bị uế bẩn vì những cuộc tiếp chạm chán chường nhất, cứ hàng ngày nằm lọt vào bàn tay bọn sát nhân, tu sĩ, bọn cớm, hạng người quyền bính, giống như con điếm lọt vào giường bọn giàu có, trong khi bàn tay trái, mờ mịt, vô danh, nằm trong bóng tối, như nàng trinh nữa, dành riêng cho vòng tay của các chị. Đừng quên bài học. Từ nay luôn luôn chìa bàn tay trái cho các em dưới bảy tuổi.
16.2.1938. Nestor viết và vẽ không ngừng. Tôi tiếc không có được, không lấy làm của riêng, không lưu giữ một tập nào hết của hắn ta. Bao nhiêu điêu hắn nói với tôi nghe ra tuyệt diệu, mặc dù tôi chẳng hiểu gì, đến nỗi hai chục năm sau tôi đành phải diễn dịch và diễn tả bằng những lời hẳn nhiên không phải là của hắn tất cả những gì mà trí nhớ cửa tôi tái tạo từ lời lẽ của hắn. Điều rõ ràng là thời kỳ ấy – mà thời kỳ cũng ngắn – sống bên hắn đã ghi sâu trong tôi, bao nhiêu bôn ba của tôi về sau đều có gắn liền vào đó rõ nét đến nỗi e chẳng cần phân biệt phần nào đích thị là của hắn và phần nào gán cho tôi.
Tóm lại, nếu cần đưa ra dẫn chứng vô phương chối cãi biến tôi thành kẻ thừa kế Nestor, thì chỉ cần nhìn bàn tay tôi chạy trên giấy là đủ, cái bàn tay trái vạch từng nét chữ trang viết “tay trái”. Bởi lẽ bàn tay này, Nestor đã cầm giữ lâu trong tay hắn, hắn đã từng đưa bàn tay to lớn, nặng nề và rịn mồ hôi của hắn ấp lấy nắm tay yếu ớt của tôi, như quả trứng nhỏ xương xẩu lờ nhờ lọt thỏm vào cái siết tay ấm nóng mà chẳng hiểu được chuyển những nguồn năng lượng như thế nào. Bao nhiêu sức lực của Nestor, bao nhiêu trí năng lãnh đạo và tiêu trừ đều dồn vào bàn tay ấy, bàn tay phát sinh từng
ngày một những trang viết tay trái đang làm thành tác phẩm chung. Và quả trứng nhỏ đã nở con. Nó đã lớn thành cái bàn tay trái này đây có ngón tay lông lá vuông vắn, có gan bàn tay bài ra như chiếc khay, nó sinh ra chắc hẳn là để cầm thỏi mìn hơn là cầm bút.
Nestor dùng tay mặt nắm tay trái của tôi và viết, vẽ bằng tay trái. Có lẽ từ bao giờ hắn thuận tay trái. Tôi muốn đoán mò một cách tự đắc rằng hắn buộc viết bằng tay trái cho riêng tôi và chỉ để cầm lấy tay tôi mà vẫn không ngừng viết. Điều chắc chắn là tôi chưa bao giờ cảm thấy gần gũi với hắn cho bằng cái ngày đáng ghi nhớ ấy – cách vài tháng – ngày tôi rùng mình nhận thấy mình biết viết tay trái, và bàn tay trái của tôi, thả chạy trên giấy, không cần viết thử, không cần học tập, không do dự, chạy tràn trên giấy bằng nét chữ mới mẻ không giống như nét chữ kia, chữ của tay phải, nét chữ thuận.
Như thế là tôi đã được hai nét chữ, chữ thuận, dễ thương, nhập thế, giao thương, phản ánh cái nhân vật bịt mặt mà tôi vờ vĩnh đóng vai trước mắt người đời, nét chữ trái, méo mó theo mọi sự trái khoáy của thiên tài, thứ nét chữ lóe sáng hét hò, tóm lại là ăm ắp cái thần của Nestor.
18.2.1938. Cứ mỗi lần bắt gặp, trong chiếc xe hơi khách hàng gửi cho tôi, hình của thánh Christophe trên tấm bảng buồng lái, tôi lại nhớ đến ngôi trường ở Beauvais, và tôi trầm ngâm theo một trong những hình ảnh vốn suốt đời không suy suyển trong tôi. Còn hình ảnh này có tính chất căn cơ. Trường Saint – Christophe, Nestor, kế đó là cái nghề sửa xe đang đặt tôi dưới sự bảo trợ của gã khổng lồ Cõng – Chúa… Còn nữa. Cái nước da ngăm và mái tóc cắt sát và đen của tôi là do mẹ, vì mẹ tôi trông giống dân gi –tăng. Tôi chưa hề tò mò lục lạo gốc tích của mẹ, đời tôi đã khá ngổn ngang những điềm gở, nhưng giả như trong dòng họ mẹ có bóng dáng ngựa và xe ru –lốt thì tôi chẳng lấy làm lạ.
Cũng giống như cái tên Abel đối với tôi là cái tên tình cờ thế thôi cho đến khi những dòng chữ Thánh kinh nói về trường hợp kẻ sát nhân đầu tiên trong loài người bày ra dưới mắt tôi. Abel đi chăn cừu, Cain làm ruộng. Chăn cừu, là nay đây mai đó, làm ruộng là giu giú một nơi. Sự xung khắc giữa Abel và Cain kéo dài từ thế hệ này sang thế hệ khác, từ khởi thủy đến
hôm nay, như là sự xung khắc truyền kiếp giữa bọn nay đây mai đó và bọn ru rú xó nhà, hoặc nói cho đúng hơn, như sự bách hại mà bọn giữ nhà trút lên bọn tha phương. Và mối cừu hận này chưa tắt, hoàn toàn chưa tắt, nó được lập lại trong quy định bỉ ổi, bêu riếu nhắm vào bọn gi-tăng – người ta xem họ như loại tái phạm – và người ta niêm yết ở cổng làng các bảng “Cấm người vãng lai cắm trại”.
Sự thật là Cain bị trù và hình phạt đối với nó, cũng như sự cừu hận của nó đối với Abel vẫn trường tồn từ thế hệ này sang thế hệ khác. Giờ đây, lời Chúa phán sẽ bị nguyền rủa trên trái đất đã nứt nẻ ra để hứng từ bàn tay ngươi giọt máy của em trai ngươi. Ngươi làm đất, đất sẽ không cho trái, ngươi sẽ lang thang trốn chạy trên mặt đất. Thế là Cain phải chịu hình phạt mà nó cho là cùng cực hơn cả: trở thành du mục như Abel trước đây. Nó thốt lên những lời phản đối bản án ấy, mặt khác, nó không tuân phục. Nó rút đi xa hẳn Chúa và xây dựng thành thị, đó là thành thị đầu tiên mà nó đặt tên là Hénoc.
Đấy, tôi khẳng định rằng lười nguyền rủa nông dân – vẫn luôn luôn chống lại người anh em du mục – tác động đến ngày nay. Vì đất đai không nuôi họ nữa, bọn dân ngu khu đen buộc lòng khăn gói quả mướp tếch ngàn. Họ lang thang hàng nghìn người từ vùng này sang vùng khác – và thế kỷ vừa qua ta biết rằng khi người ta bó buộc việc định cư là một trong những điều kiện cho quyền hạn bầu cử, người ta đã loại ra khỏi vòng cử tri một khối lượng người trôi nổi khá lớn, những người tư duy bất định trên nguyên tắc, bởi vì mất gốc. Rồi họ định cư ở các thành phố tạo thành lớp dân vô sản của các thành phố lớn công nghiệp.
Còn tôi, núp bóng trong đám tọa thị, định cư giả hiệu, khuôn phép giả hiệu, đành rằng tôi không di chuyển, nhưng tôi lại giữ gìn sửa chữa cái phương tiện giúp di chuyển là chiếc xe hơi. Và tôi nhẩn nha vì biết rằng sẽ có ngày ông trời chán cảnh bọn định cư gây nên tội lỗi mà giội mưa lửa xuống đầu chúng nó. Lúc bấy giờ, chúng sẽ giống như Cain bị ném ngổn ngang trên các lối đi và cúi đầu cố trốn khỏi các thành phố bị nguyền rủa và luôn cả mặt đất đang hất hủi chúng nó. Còn tôi, Abel này, riêng mình mỉm cười mãn nguyện, tung đôi cánh lớn lâu nay giấu kín trong lớp vỏ thằng sửa xe, lấy chân giẫm lên đám sọ dừa u mê ám chướng của chúng nó và bay bổng lên ngàn sao.
25.2.1938. Một hôm Nestor rút từ hộc bàn ra một chiếc hộp nhỏ, vuông, bìa cứng, và đưa áp vào tai tôi. Tôi nghe một tiếng vù vù mềm mại, êm ái, như tiếng rầm rì của máy bay ở độ cao lắm. Hắn nheo mắt hóm hỉnh quan sát tôi qua lớp kính mắt dày như kính lúp. Hắn để chiếc hộp xuống bàn. Lập tức chiếc hộp nghiêng đứng trên một góc và lao chao múa càng thêm dẹp theo nhịp chậm. Tiếng rù rì tăng thêm, càng trở nên vang vang theo chiếc hộp sạp mình xoay chuyển. Cuối cùng chiếc hộp nằm xuống một mặt, và sau khi xoay vài vòng nó nằm yên hẳn. Tôi tò mò nhìn xáp lại để đọc dòng chữ in trên hộp: Sáng chế năm 1852 do nhà vật lý lỗi lạc người Pháp là Léon Faucault để chứng minh quả đất quay… Đến đây Nestor cầm chiếc hộp lên, mở ra và trịnh trọng giải thích: “Đây là con quay trục nghiêng chìa khóa của vũ trụ”. Con quay làm bằng hai vòng thép đồng tâm gắn cứng vào những mặt phẳng thẳng góc. Một đĩa bằng đồng đỏ khá nặng nội tiếp trong một vòng thép được xuyên qua bằng một chiếc trục với hai đầu nhọn đâm vào hai lỗ đối xứng qua đường kính của vòng thép kia sao cho con quay có thể xoay với chiếc đĩa. Nestor xâu vào chiếc lỗ của trục một mẩu dây rồi quấn dây vào trục. Kế đó hắn cầm đầu dây kia kéo mạnh, dây tuột ra hết đánh phạch một tiếng. Chiếc đĩa kêu vo vo. Bấy giờ Nestor trút từ chiếc hộp ra một cái đế nhỏ bằng gang có hình tháp Eiffel, và hắn đặt con quay thăng bằng trên đỉnh tháp. Lập tức vũ khúc duyên dáng khởi động. Chiếc máy con con với các hình thể đơn sơ, khúc chiết, hình học, quay quanh điểm cố định, vẽ ra một vòng nới rộng mãi ra, và cái vẻ chậm rãi ung dung quay quay đối lập với đĩa quay tít cùng thang vòng trong, như loài chim sâu có vẻ như bay càng chậm và thậm chí đứng yên một chỗ càng lâu thì đôi cánh nhỏ chấp chới càng nhanh.
Chiếc tháp Eiffel rùng rùng trên mặt gỗ bàn học lập tức gây chú ý cho chúng bạn và thầy giám thị. Nestor bất kể. Tỳ người lên khuỷu tay, xoay nửa mình về phía tôi, hắn mải mê ngắm con quay trục nghiêng đang khiêu vũ… “ Một món đồ chơi thông thiên học, hắn nhỏ giọng, hình ảnh thu nhỏ nhưng rất trung thực của quả đất quay… Là vì, cậu thấy không, cái chuyển động cậu đang theo dõi nó không có thật đâu! Chính cậu, chính trường học, chính toàn cõi nước Pháp đang khiêu vũ đấy! Con quay trục nghiêng có cái hay là thoát ra ngoài vòng quay của trái đất, và vì thế bề ngoài nó quay quay. Kỳ thực chính chúng ta đang quay quanh nó. Đây, cậu giữ chặt nó
trong tay mà xem”. Và hắn nhấc con quay ra khỏi điểm tựa và trao cho tôi. Tôi khép nắm tay ôm lấy món cơ khí sống động. Lập tức, trong bàn tay tôi, trong cườm tay và cả trong cánh tay, tôi cảm nhận ra một sức ẩy mạnh mẽ, một sức vặn khó chế ngự. Tôi thốt lên:
- Giống như con cóc!
- Con cóc là cậu đấy, nhóc ạ, Nestor nói. Cậu bám vào một điểm cố định, nhưng trái đất muốn quay, và cậu không ngăn nó quay được. Điều cậu cảm nhận trong bàn tay, là sự im lìm của con quay bị vặn vẹo theo trái đất quay mang luôn con người cậu. Đưa lại cho tôi. Nó là điểm tựa của tôi trong những lúc có những điều không ổn. Vũ trụ bỏ túi của tôi đấy…
28.2.1938. Phải chăng là vì tôi hụp lặn vào thời trẻ nhỏ của mình từ hai tháng nay mà sinh ra như thế này? Giờ đây lại bị ám ảnh vì câu hát đò đưa phi lý của vú Marie ru tôi những buổi trưa làm lòng tôi thu rút lại rầu rĩ trong tận cùng sâu thẳm:
Mỗi khi hồi tưởng
Lòng tôi thườn thượt
Như tờ giấy thấm
Đem đặt vào trong
Cùng tận đấy lòng
Tắm mùi thuốc súng
Đớn đau thật nhiều, nhiều, nhiều
Nên chi mỗi khi hồi tưởng
Lòng tôi thườn thượt…
2.3.1938. Hắn có thói quen nói năng không nhếch môi, có lẽ vì thích lơ lửng hơn là vì bó buộc, vì tình trạng vô ngại mà hắn được hưởng đối với các thầy và giám thị cho phép hắn lắm thứ tự do khác. Đôi khi hắn nheo mắt tinh quái nhìn tôi hồi lâu, và hắn thốt lên những lời lẽ mù mờ khiến tôi đắm chìm vào một tình trạng sung sướng đê mê. Hắn bảo, chẳng hạn:
- Một ngày nào đó, chúng nó đi sạch, nhưng cậu sẽ còn ở lại với tớ, dù tớ có biến mất luôn đi nữa. Cậu chẳng đẹp, chẳng thông minh, nhưng cậu là của tớ như chưa từng có đứa nào ở trường này là của tớ đến như vậy. Rồi cuối cùng cậu sẽ biến tớ thành đứa vô dụng, và như thế là tốt lắm.
Hoặc hắn nắm lấy đôi vai tôi, bảo:
- Tớ đã gieo trồng bao nhiêu hạt của tớ vào trong cơ thể nho nhỏ này. Cậu cần phải tìm khí hậu thuận lợi cho hạt nảy nở. Cậu sẽ thấy đời cậu thành công nhờ những sự nẩy mầm nở hoa làm cho cậu kinh hãi.
Nhưng ngày hôm nay tôi hiểu rõ lời tiên tri của hắn khi hắn bóp cằm tôi buộc tôi há mồm ra:
- Chẳng bao lâu chiếc răng này sẽ to lên. Tên Abel này sẽ có những chiếc nanh khủng khiếp, và hắn sẽ nghiến trèo trẹo khiến cho mọi người nghe phải sợ.
Nhờ các biến cố đang tượng hình soi sáng, có thể sau này tôi sẽ hiểu ý nghĩa những lời sau đây của hắn:
- Đập dồn vào một cánh cửa, bao giờ cuối cùng cửa cũng mở. Nếu không thì cánh cửa kế bên, mà ta không để ý sẽ hé ra, và như thế còn đẹp hơn.
Hoặc như thế này nữa:
- Nên gạch một gạch nối A với X.
Tôi chỉ bắt gặp hắn đọc mỗi một cuốn truyện, nhưng hắn thuộc làu làu hàng trang mà hắn bất thần đọc lên, không máy môi, khi nào giờ học trở nên chán ngắt, đó là cuốn Chiếc bẫy vàng của James Oliver Curwood. Nestor nghiêng người qua tôi, dáng bí mật, và rỉ vào tai tôi, như một mật ngôn phấn khích: Nếu đặt con thuyền độc mộc vào lòng hồ Athabasca và nếu nếu ngược dòng sông Hoà Bình lên phía bắc, ta chèo tới biển hồ Nô Lệ, kế đó ta xuôi dòng Mackensie, nếu ta trở ngược lên cực bắc… Nhân vật chính của truyện là Bram, một gã khổng lồ hoang dã, mang dòng máu Anh, máu Da Đỏ và máu Eskimo trong người, một mình dong ruổi bao nhiêu sa mạc giá rét hung dữ với một đàn sói. Đối với Bram thì tru với sói không phải là một lối nói văn vẻ. Nestor thao thao: Hắn bỗng hất ngược chiếc đầu to lớn ra sau hú lên trời một trang âm thanh từ cổ họng và lồng ngực. Ban đầu là tiếng sấm rền rồi kết thúc bằng tiếng rít ai oán sắc nhọn phóng xa hằng dặm lướt trên bình nguyên phẳng phiu. Đó là tiếng chủ kêu gọi bầy thú, của người – thú gọi kêu đồng loại… Tiếp theo tiếng kêu hoang dã là tiếng đáp của gió hú phương bắc, nhưng cũng có khi là nhạc trời, hoà âm dị thường kỳ lại của buổi rạng đông ở cực bắc đang báo hiệu ló dạng. Âm thanh có khi rít chói tai, có khi thì thầm dịu nhẹ gần giống như tiếng mèo hư hư và cũng có khi như tiếng ong vù vù giọng kim.
Tiếng hú của Bram, tiếng tru của sói và tiếng rít của gió, điệu nhạc kim khí của rạng đông cực bắc, cả một thế giới trinh nguyên, không có nhân tính, trắng trong như hư vô, tràn ập vào cái nếp sống chật hẹp, ẩn kín làm toàn bằng những chung đụng mà chúng tôi đang sống tại ngôi trường Saint – Christophe này. Đối với tôi, lời kêu gọi này hoà lẫn vào tiếng xao náo âm trầm mà tôi nghe ra buổi chiều tháng mười hai hôm ấy, ngồi ở thềm nhà chơi, trong khi tôi đi - hoặc tôi nghĩ rằng tôi đi - cấm túc. Nhưng nó làm giàu thêm, khuếch sung thêm, bồi cho tiếng xao náo bên trong tôi thêm phần hấp dẫn cục mịch do những lời đọc của Nestor gợi dẫn. Bạn tôi xuất thần nói với tôi về ngọn gió bão tuyết tru tréo trong rặng thông đen, về những hố sâu xanh thẫm chạy băng qua trên hồ nước đóng băng, tiếng chíp chíp đều đều của giày lún trong tuyết, bầy sói chạy thục mạng săn mồi trong đêm giá, và luôn cả căn nhà lều bằng súc gỗ, lum khum, vùi nửa mình dưới lớp băng, nơi người thợ săn rình chực hàng đêm và đốt lên một bếp lửa lớn để sưởi lòng.
Năm tháng trôi qua, nhưng kỳ thực tôi vẫn chưa thoát ra khỏi cái không khí tràn hơi hám mốc meo thắt bóp thời thơ ấu của tôi. Đối với tôi, xứ sửa Canada vẫn là một cõi ngoài vòng cương toả làm triệt tiêu mọi điều khốn khổ nhỏ nhen vây hãm tôi. Liệu tôi có dám viết rằng tôi vẫn không từ bỏ? Rồi để xem, Abel ạ!
6.3.1938. Đến quận Cảnh sát đổi thẻ xám. Từng hàng người chờ đợi ủ ê, nhẫn nhục, trước các ô cửa, nơi đây đang léo nhéo mấy mụ đàn bà mặt mày khó coi, hục hặc. Mong sao có một kẻ độc tài giải giang phê bỏ mọi loại hộ tịch, căn cước, thông hành, các thứ sổ bạ, lý lịch cá nhân, tóm lại, tất cả cơn ác mộng giấy má mà lợi ích - giả dụ có lợi ích đi nữa – là không đáng kể so với công phu phiền hà phải đổ ra.
Đành rằng một cơ chế ít khi tồn tại được mà lại không cần đến sự thuận tình và luôn cả sự mong muốn tích cực của số đông. Trong chiều hướng ấy, án tử hình đâu phải là hình ảnh sống sót máu me của thời man rợ, bao nhiêu cuộc điều tra dư luận cho ta thấy rằng đại đa số người ta vẫn còn vương vấn mù quáng. Còn các giấy tờ hành chính, thì đó là điều đáp ứng đòi hỏi của số đông, hay nói đúng hơn là đáp ứng cho một tâm lý sợ hãi hạ đẳng: sợ phải làm thú vật. Là vì sống không có giấy tờ là sống như thú vật. Những kẻ vô tổ quốc, trẻ con ngoại hôn hoặc vô thừa nhận đều đau khổ vì tình trạng chỉ trên giấy mới là có thật, Những suy nghĩ nay xúi tôi tưởng tượng một câu chuyện ngụ ngôn nhỏ.
Ngày xưa có một người mắc mớ với cảnh sát: Vụ việc xong xuôi, còn lưu lại hồ sơ lăm le trồi ra lại bất cứ lúc nào. Anh chàng mới quyết định tiêu hủy hồ sơ và do đó lẻn vào Bộ Nội Vụ. Tất nhiên gã không có đủ thời gian và phương tiện tìm ra hồ sơ của mình. Thế là gã huỷ toàn bộ, tức là bằng cách phóng hoả các phòng bằng một bình xăng.
Cái thành tích đầu tiên được thành công cộng thêm niềm tin rằng giấy tờ quả là một tai hoạ tuyệt đối cần cứu giải cho nhân loại đã khuyến khích gã đeo đuổi hướng ấy. Sau khi biến đổi tài sản của mình ra một mớ bình xăng, gã tuần du một cách khoa học khắp các quận, các toà thị chính, sở cảnh sát, v.v., thiêu rụi các hồ sơ, danh bạ, văn khố, và vì gã xử lý đơn thân độc mã, không ai tóm được gã.
Thế mà giờ đây gã nhận ra một hiện tượng phi thường trong các khu phố mà gã hoạt động, thiên hạ lầm lũi bước đi, mồm lí nhí âm thanh gì không rõ, nói tóm lại họ đang hoá thân thành thú vật. Cuối cùng gã hiểu rằng muốn giải phóng nhân loại nhưng đã hạ thấp nhân loại xuống hàng thú vật, vì tâm hồn con người vốn làm bằng giấy.
8.3.1938. Chiều tối, tại nhà ăn, chúng tôi nói năng tự do. Dù chúng tôi chỉ một trăm rưỡi mạng, tiếng ồn cứ tự động lên cao đều đặn, theo một định luật không hề biến đổi vì đứa nào cũng buộc lòng nói to lên mãi để được nghe lọt. Khi cảnh huyên náo đã vỡ tràn thành như thể một toa vang dội ăm áp toàn bộ gian phòng lớn, một viên giám thị dẹp tan bằng mỗi một tràng tu huýt ngân rung. Bầu im lặng tiếp theo chứa đựng một cái gì đó ngờm ngợp. Kế đó luồng thầm thì chảy chuyền từ bàn này sang bàn khác, một chiếc nĩa lanh canh trên đĩa, một tiếng cười ré lên, tấm mạng âm thanh và tiếng động lại dệt từ từ, và chu kỳ tái diễn.
Buổi trưa, bọn bán trú nhập với bọn nội trú, thế là gần hai trăm rưỡi mạng, và chúng tôi buộc phải im lặng. Những giờ làm lính rơi như mưa xuống đầu bọn nói chuyện, và tăng thêm trong trường hợp tái phạm bằng hình phạt đứng nghiêm. Đứng trước một cái giá đặt trên bục, tên học sinh lấy giọng đọc to tiếng loại truyện giáo dục, thông thường trích từ truyện các thánh. Để được nghe ra trong phòng rộng giữa bao nhiêu tiếng khua chén bát và chuyện trò râm ran, nó phải đọc thẳng giọng, tức là đọc một giọng, không lên không xuống, một giọng ngân nga kỳ dị gọt bỏ mọi thứ diễn cảm không thương tiếc – nghi vấn, mỉa mai, hăm doạ hay ngộ nghĩnh – và truyền vào mỗi câu cái âm sắc tuyền một nỗi thống thiết, than van, ồn ào khó chịu.
Cái nhiệm vụ đọc truyện được đánh giá cao trong đám học sinh, và nó là phần thưởng cho đứa được giải ưu hạng nếu chúng nó tỏ ra có khả năng hoàn thành nhiệm vụ. Vì không phải dễ đối với đứa nhỏ đọc to trong bốn mươi lăm phút, không sửa giọng, không vấp váp, một truyện vốn không phải viết ra để xử lý dã man như thế. Vì thế kẻ đọc truyện được chọn là kẻ mang trên người một cái gì đó oai phong, lôi kéo theo quyền lợi được ăn
riêng trước một mình và bữa ăn, theo tục lệ, ngon hơn và sang hơn thường ngày.
Tất nhiên là chẳng có cái gì nơi tôi chỉ định cho tôi trở thành kẻ đọc truyện, và tôi lấy làm bàng hoàng, không khỏi run rẩy khi được tin, một buổi sáng kia, mình sẽ thay thế, ngay bữa ăn trưa, cho kẻ được chỉ định trong hiện tại nhưng không còn xứng đáng với vinh dự ấy vì vừa bị phạt cấm túc khiến ai nấy ngẩn ra. Đồng thời, tôi được chuyển giao bài phải đọc: cuộc đời của thánh Christophe trích từ Truyền thuyết vàng của Jacques de Voragine.
Điều tôi chẳng nghi ngờ là Nestor là nguồn gốc của vinh dự lớn này đang đè nặng lên người tôi. Nay ý thức được mình biết, và đọc lại mấy trang mà dạo đó tôi rống toang toang vào mặt cả bọn, tôi nhận ra giữa các dòng chữ bất ngờ ấy lấp ló dấu tích của hắn. Nhưng trọn đời tôi, liệu tôi có đủ các thứ để làm sáng tỏ quan hệ sâu xa giữa truyền thuyết thánh Christophe với số phận Nestor chăng, số phận mà tôi vừa nhận chịu vừa thể hiện?
Theo Jacques de Voragine, Christophe là người xứ Canaan thời đồ đồng. Ông vóc dáng khổng lồ, dáng mạo bạo tợn. Ông sẵn lòng phục vụ, nhưng chỉ phục vụ đế vương uy dũng nhất thiên hạ. Thế là ông đến trình diện với một vị vua quyền uy cao trọng nổi tiếng vô song. Gặp mặt ông, vua vui lòng đón tiếp, và cho ông lưu lại trong triền. Vậy mà, một ngày kia, Christophe bắt gặp vua làm dấu thánh giá trên mặt sau khi có ai đó nhắc chuyện ma quỷ trước mặt vua. Christophe hỏi xem vì sao làm động tác ấy thì vua nói: “Cứ nghe ma quỷ là trẫm sẵn sàng làm dấu, sợ ma quỷ lấn quyền và hại trẫm”. Thế là Christophe hiểu rằng nhà vua mình đang phục chẳng phải là cao trọng nhất hay quyền uy nhát, vì còn sợ quỷ. Và ông xin cáo từ, lên đường đi tìm quỷ. Đang đi giữa sa mạc, ông nom thấy vô số lính tráng, trong đó có một gã mặt mày dữ tợn hung hăng đi thẳng tới ông hỏi ông đi đâu. Ông đáp: “Tôi tìm ngài quỷ để tôn làm thầy”. Gã kia bảo: “Ta là người ngươi đang tìm kiếm đây”. Christophe vô cùng mừng rỡ xin nguyện làm tôi tớ suốt đời, và nhận gã kia làm chúa tể. Cả hai cùng nhau bước đi, bắt gặp một cây thánh giá cắm ven đường. Lập tức quỷ hoảng sợ, bỏ chạy vào ra khỏi đường, lôi Christophe băng qua một quãng đất gập ghềnh. Sau đó quỷ dắt Christophe vào lại lòng đường. Christophe trông thấy thế lấy
làm khoái trá, hỏi vì sao lại hoảng sợ đến độ. Quỷ đáp: “Một người tên là Cứu Thế bị đóng đinh vào thánh giá; cứ thấy hình ảnh chiếc thánh giá, là tôi rất sợ và hốt hoảng chạy trốn”. Christophe bảo: “Tôi phục vụ vô ích rồi còn gì, tôi chưa tìm ra được vị chúa tể vĩ đại nhất trên đời. Xin từ biệt vậy, tôi ra đi để tìm kiếm Cứu Thế vốn vĩ đại và quyền uy hơn ngài”.
Ông bỏ ra một thời gian lâu lắc để tìm cho ra kẻ nào cho biết tin tức về vị Cứu Thế. Cuối cùng ông gặp một ẩn sĩ giảng giải về đấng Giê-su và truyền thụ đức tin cho ông. Ẩn sĩ bảo Christophe: “Vị chúa tể mà ngươi ao ước phục vụ đòi hỏi ngươi tuân thủ điều này: phải nhịn đói nhiều khi đấy”. Christophe bảo: “Tôi là tên khổng lồ và cơn đói của tôi nó đòi ăn hung tợn. Đòi hỏi tôi cái gì khác kia chúa tôi tuyệt đối không chịu đói nổi”. Ẩn sĩ bảo: “Ngươi có biết con sông nào mà lắm kẻ sang sông đang gặp nguy cơ chết đuối chăng?” Christophe đáp: “Tôi có biết”. Ẩn sĩ nói tiếp: “Ngươi vốn cao lớn, thân hình vạm vỡ, phải chi ngươi ở gần sông, có ai đến ngươi đưa họ qua sông thì đó là điều làm đẹp lòng Đấng Cứu Thế mà ngươi mong mỏi phục vụ”. Christophe nói: “Vâng, tôi có thể hoàn thành việc ấy, và tôi hứa là làm được cho người”.
Thế là ông đi đến con sông ấy và xây một cái chòi bên bờ. Ông cầm trong tay không phải là chiếc gậy mà là một cây sào và ông vững chân dưới nước, không ngớt đưa mọi hành khách qua sông. Nhiều ngày trôi qua, đến một hôm ông đang nghỉ ngơi trong xó nhà bỗng nghe một giọng trẻ con gọi: “Christophe ơi, ra đưa cho tôi qua sông với”. Christophe bật dậy nhưng không trông thấy ai. Trở vào, ông lại nghe giọng ấy gọi ông. Chạy trở ra, cũng không trông thấy ai. Lần thứ ba, cũng bị gọi như vậy, ông ra và thấy trên bờ có một thằng bé xin cho qua sông. Thế là Christophe xốc nó lên vai, cầm chiếc sào và xuống nước để qua sông. Ngờ đâu nước dâng lên từ từ, đứa bé trĩu nặng trên vai như một tảng chì; ông tiếng lên và nước dâng lên mãi, đứa bé đè xuống vai khó chịu nổi, đến độ Christophe vô cùng lo lắng và chỉ sợ bỏ mình thôi…
Khó nhọc lắm ông mới thoát chết. Qua được sông ông đặt đứa bé xuống đất và bảo: “Cậu bắt tôi rơi vào một tình thế nguy hiểm vô vàn. Cậu nặng như cả một địa cầu trên vai, chẳng hiểu phải đèo nặng hơn nữa không đây”. Đứa bé nói: “Đừng lấy làm lạ, Christophe ạ, không những đèo cả địa cầu, mà chính anh đèo trên vai người tạo lập ra địa cầu: vì ta là Cứu Thế Chúa tể
của anh mà anh đã phục vụ bằng việc vừa rồi; và để chứng tỏ ta nói thật, chừng nào anh trở về bên kia sông, hãy cắm cây sào xuống đất trước mặt nhà anh, và sáng ra anh sẽ thấy nó có hoa có trái”. Lập tức, đứa trẻ biến mất. Về đến nơi, Christophe cắm sào xuống đất, và sáng thức dậy, ông thấy con sào mọc lá và có trái như trái như cây chà là vậy…
Tôi không phải là ít hãnh diện khi ê a toàn bộ câu chuyện chẳng vấp váp lần nào, và tôi chờ đợi Nestor khen khi ngồi xuống bên cạnh hắn ở phòng học nội trú giấc hai giờ. Hắn mê mải theo một tấm hình vẽ dày đặc màu sắc nét dọc nét ngang mà có khi hắn trau tria hàng giờ, mặt như muốn dán lên trang giấy. Khi hắn ngẩng lên, tôi nom thấy hắn vẽ thánh Christophe. Nhưng trên đôi vai con người khổng lồ này chuyên chở toàn bộ mấy toà nhà của ngôi trường với bao nhiêu cửa sổ thò ra từng đám học trò. Nestor làm động tác quen thuộc là lấy khăn chấm mồ hôi trên trán, nhỏ giọng: “Christophe, trên đường ông đi tìm ông thầy tuyệt đối, lại bắt gặp ông thầy nơi đứa trẻ. Những điều cần biết là tương quan đúng đắn giữa trọng lượng của đứa bé trên vai ông và đoá hoa trên cây sào”.
Lúc bấy giờ tôi khom mình trông thấy rằng hắn vẽ chính nét mặt hắn vào khuôn mặt vị khổng lồ Cõng – Chúa.
11.3.1938. Loại nhật ký kỷ niệm mà tôi ghi chép bằng tay trái từ hơn hai tháng nay có khả năng dị thường là xác định các sự kiện và động tác được tường thuật - sự kiện của tôi và động tác của tôi – vào một viễn tưởng khiến cho những thứ ấy sáng tỏ hơn và mang một kích thước mới. Cái tên Abel của tôi, chẳng hạn, hiện ra với tôi dưới một lằn sáng mới từ những dòng ghi chép ngày 18.2. Cũng như một số thói quen nhỏ nhỏ riêng tư, có phần xấu, bề ngoài có cái gì phi lý khó bào chữa, nay viết ra đây vài dòng tưởng có thể chuộc lỗi chăng.
Thí dụ ngay sáng hôm nay lẽ ra tôi đã oẹ lên một tiếng nếu như cườm tay phải tôi không báo động là còn đau khi tôi ráng sức. Hú lên như thế này là để nói lên sự chán nản vừa là một nghi thức vượt lên chán nản. Tôi nằm sấp xuống đất, hai bàn chân đưa ra ngoài, chống người lê hai bàn tay, hai cánh tay thẳng, ngực ưỡn, đầu hất ra sau ngửa lên trần nhà. Và thế là tôi oẹ. Tiếng oẹ của tôi nó giống với tiếng ợ sâu thẳm, kéo dài tưởng chừng xuất
phát từ ruột gan làm rung động cổ họng hồi lâu. Tiếng ấy chất chứa nỗi chán sống và nỗi chờ chết.
Sáng hôm nay, thay vì oẹ, tôi có nghĩ ra một nghi thức mới mà tôi gọi là gội đầu nước xí hay gội đầu nước cứt, chưa rõ nên gọi là gì. Phải nói rằng nỗi khó sống đè khá nặng lên xác tôi từ tinh sương, khi tôi cố công rứt nó ra khỏi các tấm mạng. Nhưng chưa hết: như mọi ngày, còn có – hôm nay còn tệ hơn mọi hôm - tấm gương soi khiến não lòng. Số là tôi chưa hề từ bỏ niềm hy vọng thầm kín rằng qua đêm may ra mình có một khuôn mặt làm bằng thớ thịt mới có thể thay đổi cái bộ mặt nạ thường ngày của tôi chăng. Chẳng hạn, một buổi sớm mai, sẽ là một khuôn mặt ngây ngô mà trang trọng của con mang nhìn ngó bằng đôi mắt lá răm màu hạnh nhân lục thảo từ trong nước gương soi sáng loé. Và tôi sẽ nghịch ngợm với đôi tai nhúc nhích diễn cảm của tôi nhờ linh động may ra đền bù lại đường nét cứng cỏi khó coi của khuôn mặt tôi.
Ấy vậy mà cứ vẫn là tôi, vàng vọt hơn, hắc ám hơn thường ngày nữa đấy, đôi mắt thụt sâu vào, đôi mày đen than rậm rịt, cái trán thấp, bướng, vô cảm hứng và hai nếp nhăn lớn rạch dài lên hai bên má như thể bị đào do dòng nước mắt chảy và không khô cạn. Bị mất ngủ, cằm tôi lởm chởm râu chính đau lòng bàn tay, răng lợn cợn xanh. Quả tình, tệ đến thế này thì thôi! Tôi la toáng lên: “Cái bản mặt! Mặt với mày! Cho vào cứt!” vừa la, hai bàn tay tôi đưa lên siết chặt lấy cổ để làm động tác vặn đầu tôi ra. Kế đó, người nóng lên, tôi vào phòng vệ sinh thật. Nơi đây, tôi quỳ xuống trước mặt chậu vệ sinh giống như để nôn, nhưng tôi đã chúi cả đầu vào, trong khi tôi đưa tay mò lê sợ dây sắt. Nước oà xuống như sấm vỡ, và một luồng nước lạnh và mạnh như dao chém ập xuống gáy tôi. Sau đó, tôi đứng lên, nước chảy ròng ròng, tính ra phần nào bẽ bàng. Dẫu sao tôi cũng dễ chịu! Đố tôi không giở lại trò này.
14. 3. 1938. Giờ ra chơi dài, lúc bốn giờ, đang huyên náo. Tiếng ồn ào đồng loạt bồng lên từ sân chơi, nơi đây đang quần thảo hàng trăm thằng nhỏ chẽn người trong lớp áo tạp - giê đen chấm đỏ. Tôi ngồi lên thành cửa sổ có Nestor tỳ người vào đó, tôi quan sát một trò chơi mới đầy vẻ hung tợn thu hút người xem. Bọn nhỏ mảnh dẻ hơn cả đang nghễu nghện trên vai bọn khỏe, và từng đôi như thế - người và ngựa - húc vào nhau không ngoài mục
đích hất cẳng nhau. Ðôi tay kỵ sĩ dang ra thay cho chiếc dáo cứ nhắm ngay mặt đối thủ và động tác thứ hai là biến thành câu liêm móc vào cổ áo kỵ sĩ kéo ngang hoặc ngược ra sau. Có những pha ngã ngựa kinh hồn xuống đập, nhưng có khi kỵ sĩ ngã người ra sau siết chặt hai gối vào cổ ngựa và chiến đấu, đầu sà xuống đất, đôi tay vẫn bấu vào chân ngựa phe địch.
Nestor đầu tiên nhìn bao quát sân chơi, khoái trá vì mình yên ổn ngắm nhìn đám hỗn quân. Hắn thốt lên mấy câu thường thường không trỏ vào ai: “Một cái sân chơi là một không gian thu hẹp có vừa đủ chỗ để chơi. Vui chơi là một trang giấy trắng, trên đó các trò ghi dấu lên như là những tín hiệu cần lý giải. Nhưng cái tính chất đậm đặc của không khí nó tỷ lệ ngược với không gian giam hãm không khí ấy. Nếu bốn bức tường thu rút lại gần nhau hơn nữa thì những gì xảy ra trong đó lại càng đáng được xem hơn. Lúc bấy giờ điều gì viết ra lại càng cô đọng. Nhưng dễ đọc hơn chăng? Đến tận cùng là hiện tượng đặc quánh. Ðặc quánh như thế nào đây? Có lẽ những thứ như bể cá, hoặc rõ hơn, như nhà ngủ tập thể, sẽ cho ta lời giải đáp”.
Đến lúc này một chùm kỵ sĩ rối đùn lại với nhau chao người cùng với ngựa và rã đám ra trên nền đất thô nhám. Nestor rùng người hứng chí. Hắn bảo tôi: “Nào, Abel, cho chúng rõ ta là ai!” Rồi hắn lách ra sau lưng tôi, đưa cả cái đầu to tướng của hắn vào giữa đôi chân gầy gò của tôi, và đội tôi lên như chiếc lông. Hai bàn tay hắn siết cườm tay tôi, và kéo đôi cánh tay tôi để tôi ngồi chắc, và thế là cả hai chúng tôi đều bị trói tay. Hắn chẳng thèm quan tâm, vì chỉ trông mong đắc thắng vào khối thịt của mình thôi. Và quả nhiên hắn băng qua chiến địa và du ngã mọi thứ trên đường băng, giống như con bò tót lên cơn. Hắn quay người lại và xốc tới, nhưng qua phút bất ngờ, bao nhiêu kỵ sĩ còn lại tại chỗ đang can đảm đương đầu. Sự xáp chạm thật dữ dội. Kính đeo mắt của Nestor vỡ toang. Hắn buông tay tôi ra bảo: “Tớ chẳng trông thấy gì nữa hết, cậu dẫn đường coi!” Tôi chụp lấy đôi tai hắn và cố cách quày quả, muốn hắn đi hướng nào thì kéo tai phía ấy, như kéo cương ngựa vậy. Nhưng lập tức hắn dùng một chiến thuật khác. Để tránh né bọn kỵ sĩ vây bủa, hắn đứng tại chỗ xoay cả con người vùn vụt một cách bất ngờ vì hắn vốn mập. Phần tôi, tôi chụp bất kể thứ gì xáp lại vừa tầm và lôi kéo bọn tấn công bắt chúng lăn lóc như những cây ki. Chẳng mấy chốc chỉ còn hai đứa chúng tôi còn trụ, giữa cả bọn thua cuộc hì hà hì hục rời nhau ra trên đất. Một vòng người chiêm ngưỡng vây quanh chúng tôi.
Một thằng nhỏ rời khỏi đám lại gần tôi lễ phép trao lại cho tôi cặp kính vỡ của Nestor mà hắn nhặt được.
Nestor khuỵu gối để đặt tôi xuống đất, trong một động tác thoáng chốc nhắc nhở cho tôi cái động tác của voi để nài xuống. Kế đó hắn đứng im giây lát, cười cười vu vơ, mơ màng, kèm theo một dáng vẻ sung sướng mà tôi chưa hề bắt gặp nơi hắn, làm hắn quên luôn cả thói quen đưa khăn tay lên chặm mồ hôi. Tiếp tục mò mẫm, hắn đưa tay ra đặt lên vai tôi, chẳng nghĩ đến chuyện thử mang lại kính mắt. Chúng tôi trở về xó cửa sổ xuất phát, cái vẻ hả hê phần nào ngô nghê vẫn không rời khuôn mặt hắn. Hắn im lặng hồi lâu, cuối cũng hắn nói: “Nhỏ Abel ạ, không ngờ cõng một thằng nhỏ là một điều thú vị đến thế”.
14.3.1938. Một trong những thứ an ủi lặt vặt đối với tôi, là đánh giày. Phía dưới tủ, tôi có một chiếc thùng nhỏ đầy bàn chải cứng mềm đủ loại, các khăn chùi bằng len thực thụ và nhất là các hộp kem giày nhiều màu, từ đen tuyền đến trắng trong, qua một loạt màu hung nâu. Tôi thích ngày này ngày nọ chuyển màu giày bằng các thứ kem phân lượng công phu. Tôi chải bụi và bôi màu buổi tối để sáng mai làm bóng láng. Phải làm thế mới đạt. Nhưng tôi thích nhất là sờ sịt chiếc giày, và luồn tay vào trong luôn nữa. Bàn tay tôi thô kệch, như gọng kềm của tên bóp cổ, hình như chiếc xẻng của phu đào cống, bàn tay khổ sở vì diện mạo lố lăng của chúng khi nằm trên tấm khăn trải bàn trắng hoặc một tờ giấy, và khi phải cầm chiếc muỗng nhỏ bằng bạc hay cây bút chì cứ chực nát bất cứ lúc nào như que diêm trên mấy ngón tay. Nhưng với giày thì khác hẳn.
Tuần nọ, tôi bắt gặp trên mặt một cái thùng rác có một đôi giày lính lủng, rách, sạm mồ hôi, còn bị sỉ nhục vì trước khi bị đem vứt, người ta đã thu hồi dây giày, và đôi giày há hốc thè lưỡi giày và trơ trơ các lỗ trống trơn. Tay tôi thân tình nhặt lấy, hai ngón tay cái cong veo của tôi làm oằn cả đế giày – cử chỉ nâng niu thô kệch nhưng trìu mến - mấy ngón tay tôi lòn lõi vào trong gót. Ðôi giày như sống lại, khổ thân cho chúng, dưới sự sờ mó cảm thông, nhưng tôi không khỏi se lòng khi phải trả lại vào đống rác.
Trong một ngăn kéo của bàn làm việc, tôi có một bộ sậu đánh giày thu nhỏ. Một hộp kem trắng trong, một bàn chải cứng đánh bụi, một bàn chải
mềm đánh láng, một miếng len. Hễ có khách hàng lì lợm và khiến tôi ngấy người, tôi không do dự. Y trố mắt nhìn tôi tuôn ra các dụng cụ và tôi mải mê đánh láng đôi giày một cách công kỹ. Nếu cần, tôi tháo giày ra để lên bàn. Cái lợi lớn của thứ kem trắng trong là có thể - và nên – miễn dùng bản chải khi bôi. Ðiều thích thú là lấy ngón tay bệt thứ kem trắng trong ấy, kem thơm nồng và tẩm hồi lâu vào lớp da, đút vào từng thớ da, làm dịu từng nếp, phủ lên từng đường chỉ! Khách của tôi nếu thấy tôi tự tiện xử sự như thế mà lấy làm điều là nhầm to đấy. Tôi lại nhờ thế mà hóa ra dễ chịu, kiên nhẫn, rộng lượng.
Tay tôi yêu giày. Quả tình giày chúng nó buồn không được làm chân, cũng như mấy đứa con gái to cao suốt đời cứ tiếc không được làm con trai.
16.3.1938. Ngồi bẹp trong góc, Nestor cầm trọn nắm tay tôi trong bàn tay phải của hắn, và hắn cười cười quan sát tôi qua lớp kính đã biến dạng quái dị hơn nữa do mấy mẩu giấy dán thô kệch níu giữ các phần lại với nhau. Hắn hỏi tôi:
- Cậu có biết nam tước Adrets?
Tất nhiên là không, làm sao tôi biết nổi nam tước Adrets? Nhưng Nestor cũng chẳng đợi trả lời. Hắn nói chẳng cần máy môi:
- Tớ kể chuyện cho nghe. Nam tước tên là Francois de Beaumont và có lâu đài vùng Dauphiné, ở mạn La Prette. Bấy giờ là thế kỷ XVI, giữa lúc chiến tranh tôn giáo làm cho xứ sở đẫm máu, và giúp sức cho nhữngcường quyền bành trướng vô tội vạ.
“Một buổi đi săn, Adrets cùng đoàn tùy tùng dồn một một con gấu vào đường cùng, đường rút lui của nó bị hố sâu cắt ngang. Con thú cùng đường lao vào một người trong đám, gã này bắn, làm cho gấu bị thương và ôm gấu lăn trong tuyết. Nam tước mục kích cảnh tượng. Ông lao người cứu giúp. Nhưng ông bỗng dưng khựng lại, ngây người mê mẩn lạ thường. Ông nhận ra người với gấu cùng sa nhẹ nhàng xuống hố sâu và ông ngắm nhìn, sửng người, bị thôi miên vì hình ảnh lao xuống chầm chậm này. Kế đó khối đen
lao chao trong khoảng không, và màu trắng của mặt đất chỉ khẽ nhòe đi bằng một vệt xám, trong khi ấy Adrets ồ lên một tiếng hả hê.
“Vài giờ đồng hồ sau, viên sĩ quan mò về, máu me, thương tích, nhưng vẫn toàn mạng, vì con gấu đã chêm đệm cho gã khi ngã xuống hố sâu. Gã lễ phép ngạc nhiên vì vẻ đủng đỉnh tiếp cứu của nam tước. Và nam tước mỉm cười vu vơ như mỉm cười với một hồi tưởng thi vị, trả lời cho gã bằng một câu nói huyền bí và đầy dọa dẫm: “Ta có ngờ đâu một con người ta rơi ngã lại ngoạn mục đến thế”.
“Từ đó ông sa đà theo cái đam mê mới phát hiện này. Lợi dụng chiến tranh tôn giáo hỗn loạn, ông bắt nhốt người công giáo sống trên đất đạo Tin Lành và người Tin Lành sống trên đất công giáo, rồi sai khiến ném người cho rơi ngã. Ông đặt định ra nghi thức rơi ngã kỹ xảo: tù nhân phải bịt mắt múa theo tiếng đàn trên một đỉnh tháp không có bờ thành. Và nam tước say sưa khấp khởi nhìn tù nhân tiến sát lại chỗ hụt chân, lùi vào, bước ra lại, rồi thình lình một đưa bước hụt lao vào khoảng không, hét rú lên để lao xuống cắm mình vào mấy chiếc lao từ dưới đất ở chân tháp chìa lên…”.
Tôi chưa có dịp tò mò kiếm xem câu chuyện kể của Nestor có đúng theo lịch sử chăng. Nhưng cần gì? Có một sự thật về con người - tôi suýt bảo một sự thật về loại người Nestor - còn hơn xa sự thật của sự kiện. Sau khi kể cho tôi nghe đời sống ít được biết đến của nam tước Adrets, Nestor chẳng bình luận gì thêm. Nhưng nay tôi không khỏi đưa câu chuyện ấy lại gần một nhận định mà hắn đưa ra một thời gian sau đó và lúc ấy tôi không hiểu. Hắn có nói: “Có lẽ không có gì đáng xúc động trong đời người cho bằng bỗng dưng khám phá ra một sự bại hoại mà mình nhúng tay vào”. Tôi cũng còn nhớ nó khoái dùng một từ ngữ mà bấy giờ tôi cho là cao siêu: sự sung mãn. Hắn nói: “Adrets khám phá ra sự sung mãn nhịp nhàng”. Và hắn mơ màng hồi lâu với sự kết hợp chữ nghĩa kỳ lạ ấy, có lẽ hắn tìm kiếm một vài công thức nào khác, một vài chìa khóa mở vào những khoái lạc không dè.
20.3.1938. Báo chí sáng hôm nay đưa ra con số 2783 người mất tích không để lại dấu vết tại Pháp trong năm qua. Tất nhiên trong nhiều trường hợp là những người trốn nhà hoặc tự động thoát ly để trốn gia đình hoặc
một người vợ bỉ ổi. Nhưng ngoài số ấy ra, là những vụ sát nhân hoàn hảo đưa đến sự hủy hoại toàn vẹn của “thân xác gây nên tội lỗi” bằng lửa, bằng đất hay nước. Nếu thêm vào đó những vụ giết người tài tình nhất là những vụ được ngụy trang thành những cái chết bình thường, ta có được một cái nhìn phỏng chừng về xã hội khủng khiếp ta đang sống. Tất nhiên trong đại đa số trường hợp, tội ác bị đến tội, sự giết người thành công. Hàng ngày chúng ta đưa tay bắt những bàn tay đã bóp cổ người hoặc đã châm thuốc độc. Những việc mà công lý tiến hành, theo định nghĩa, là những thất bại vì không biết cách giữ kín. Nhưng con số nhỏ nhoi của những việc làm ấy – khoảng mười hai vụ mỗi năm - nói lên tính chất thuần túy tượng trưng, ám chỉ, vừa đủ khiến ta nghĩ rằng như vậy là tuân theo một nguyên tắc, nguyên tắc tôn trọng mạng sống.
Thật ra công lý của xã hội ta thuộc loại ghét của nào trời trao của ấy. Tức là công lý tương ứng với sự tôn thờ kẻ sát nhân đang nở hoa rành rành ở mỗi góc phố, trên các tấm bảng sơn xanh để cho công chúng chiêm ngưỡng danh tính những người đánh giặc lẫy lừng hơn cả, nghĩa là những kẻ giết người chuyên nghiệp say máu hơn cả trong lịch sử.
22.3.1938. Dù những đổ nát của nhà thờ tu viện đã được sửa sang, chúng tôi tụ họp làm lễ và đọc kinh trong một nhà nguyện mới xây, được vẽ vời trang trí theo phong cách hiện đại nhưng cầu kỳ. Ngày thường chúng tôi được đưa đến đây hai lần - kinh sáng, kinh tối -, nhưng chủ nhật và các ngày lễ cứ chuông thì buộc phải đến bảy lần - kinh sáng, thánh lễ hiệp thông, đại lễ, nhật tụng chiều, kinh sau bữa ăn, chầu thánh thể, kinh tối. Có nghĩa là mỗi chúng tôi đến đây gần giống như về nhà mình, quen với ghế, với chỗ của mình, với những mốc nhìn từ chỗ của mình. Cử tọa ở đây cũng tổ chức, thứ trật y như trong lớp học, dù có khác. Trước tiên có các thành viên dàn hợp xướng, phần nào được bọn khác phân bì vì những lần tập dượt có khi cần đến chúng nó ngay giữa giờ học và người ta có thể bao che một số khiếm khuyết của chúng nó. Nhưng vị trí của chúng nó - trên đài cao, dưới hình hoa thị lớn uốn lượn nửa vời, túm tụm chung quanh cây đàn đạp hơi với cha Pigeard đang rạp mình trên đó - tựu trung ít thuận lợi hơn là thoải mái, ngoại trừ ưu thế có thể quan sát toàn học sinh tập họp từ trên cao nhìn xuống và nhất là nhìn từ phía sau tới. Chính Nestor lưu ý tôi về điểm sau và hắn đã từng tự hỏi nên chăng kiếm cớ nào đó tìm cho được một chỗ
quan sát trên hành lang ấy, đó là dự định mà sau đó hình như hắn bỏ trôi. Liên quan đến dàn hợp xướng này, tôi ân hận đã quên khuấy lời hắn phát biểu một hôm có mặt tôi và hôm ấy hắn so sánh tính chất hợp xướng lớp lang và như có nét kiến trúc với sự rập ràng hoang dại túy luy nổi dậy từ sân chơi học sinh.
Đám thánh ca tạo ra cho tôi cơ hội một chuyện giật gân nho nhỏ - hiểu chữ này theo nghĩa tinh thần hơn cả - câu chuyện khiến Nestor cười cợt và bắt đầu bằng một sự giải thông rất cần thiết cho tôi. Tôi cho rằng trong một trường đạo, cái vinh dự lớn lao được phụ việc cho vị cử hành thánh lễ đương nhiên chỉ dành cho lớp tinh hoa trong trường, bọn được phần thưởng ưu hạng, phần thưởng chăm học mà thôi, tức là những tấm gương đức hạnh và hạt mầm thánh thiện. Vậy mà tôi nhận thấy ngay rằng nếu tiêu chuẩn ấy đóng một vai trò đáng kể trong sự chọn lựa những ai xứng đáng khoác áo lễ trắng thì cũng vẫn phụ thuộc vào sự đáng giá ở các phương diện khác chứ không phải phương diện cao đẹp của tâm hồn. Sự thật nhục nhã và không thể thú nhận được, trừ phi các đức cha bị chông hay bị nướng thì mới khai, là không thể vào đoàn thánh ca nếu mặt mày không đẹp. Và ở đây không phải là vấn đề chọn lọc thô bạo chỉ nhằm loại bỏ bọn giỏi môn dịch nhưng mặt mày gớm ghiếc, nhưng đúng là vấn đề phân lượng tinh tế, sắp xếp trên các bậc cấp của bệ thờ những đứa bé nào tóc vàng và tóc đen, đứa gầy và đứa vuông vắn, một đàng là hài đồng phúng phính đỏ au và một đàng là khuôn mặt xương xẩu của Mẹ Khổ Đau, một phía là sự vô tội vui sướng như một con vật và một phía là sự trong trắng bị cọ xát.
Nestor đã đánh tan những ưu tư của tôi. Trong bao nhiêu điều hắn nói với tôi hôm ấy và trong những dịp khác, điều tôi ghi nhớ nhất là hắn trách móc các vị cha cố đạo hạnh - vốn là những vị chăn chiên chuyên nghiệp đấy chứ - tại sao không biết rằng một đứa trẻ sở dĩ nó đẹp là vì nó bị ám ảnh, và sở dĩ bị ám ảnh là vì được phục dịch. Giê-su hài đồng trên vai của Christophe vừa được cõng vừa được bốc đi. Hào quang của người do đó mà tỏa. Người được bứt ra đi, được nâng hứng rất kính cẩn và cực nhọc trên sóng nước cuồn cuộn. Và tất cả vinh quang của Christophe là vừa làm thân chuyên chở vừa làm chiếc bình thánh thể. Trong cảnh qua sông, vừa có phần bắt cóc vừa có phần lao dịch. Hẳn nhiên tôi có thêm thắt vào lời hắn nói cho thêm mạnh và rõ, đúng theo định hướng sâu xa trong tôi. Nhưng hình như tôi có nhớ rằng Nestor ước ao tìm thấy được cái ý nghĩa hàm hồn
ấy nơi đứa bé hát thánh ca, và ước ao bắt gặp ông cha cố quỳ gối trước mặt thằng bé hành lễ.
Ngay tại nhà nguyện kiến trúc rườm rà này, số mệnh sẽ giáng một vố đầu tiên, và như thế này là tạo cho chúng tôi cơ hội tập dượt lần cuối cái màn bi kịch của trường Saint - Christophe sẽ diễn ra năm ấy.
Như thường lệ, tôi ngồi chỗ gần cuối của một dãy. Bên trái tôi, Nestor ngồi ở mút lối đi bên cạnh, tại nơi này lối đi lại rút hẹp lại vì bàn xưng tội. Cái mới là tên ngồi cạnh tôi bên phải, Benoit Clément, một tên ở Paris bị gia đình “tống” xuống Beauvais, vì chịu hết nổi hắn tại thủ đô. Tên Clément này dễ dàng tạo được uy tín bên cạnh bầy dân ngu khu đen là chúng tôi bằng cách nó bày ra toàn những món dữ dằn hoặc nên thơ mà thôi - súng lục có hộp xoay la bàn, dao bấm nút, con lặn, quả bóng đánh gôn - và ngẫm nghĩ lại tôi tự hỏi phải chăng nhờ nó Nestor mới có được con quay trục nghiêng, món “đồ chơi tuyệt đối” theo cách gọi của hắn. Mà thật quả giữa hai đứa chúng nó đã có một sự vong đảng – nếu không phải là kết bạn - khiến cho Clément tự tiện phô bày với Nestor một cách điệu thân tình làm cho tôi khó chịu, vừa là vì ganh tỵ vừa là vì như thể một sự nhân nhượng hạ mình về phía thằng bạn thân của tôi. Người ta thường bắt gặp hai đứa đi đôi tranh cãi chuyện này chuyện nọ và bàn bạc mua bán trao đổi, và tôi chỉ có thể yên tâm khi tự nhủ rằng chắc Nestor đang khai thác triệt để các sở năng của tên mới đến và đặt nó vào lại vị trí tầm thường của nó chừng nào hết điều kỳ vọng ở nó.
Tựu trung sự có mặt của Clément ở phía bên tay phải của tôi không phải là vô ích trong chuyện mua bán này, là vì khi thánh lễ vừa mới vào cuộc là hai đứa kề cạnh tôi xáp vào thương lượng ngay chồm lên người tôi, chẳng thèm để ý đến tôi, coi như tôi không có mặt vậy. Dĩ nhiên tôi không nghe sót một lời, huống chi vụ việc không lấy chi làm mới mẻ và cứ đem ra tranh luận trước mặt tôi đã mấy hôm nay. Đề tài là quả lựu đạn hình quả chanh từ thế chiến 14 - 18 chế thành quẹt lửa. Tôi mang máng nhớ rằng Clément đem ra đánh đổi mười vụ miễn dịch, Nestor cho như thế là quá đáng và buộc ít nhất phải biểu diễn xem nó vận hành tốt không đã. Sau một lần bàn cãi, Nestor có nói với tôi: “Ta biết mà, quẹt lửa chẳng bao giờ quẹt được đâu”. Có điều là cần có xăng mới biểu diễn được. Mà chỉ có Nestor mới tậu được xăng.
Mọi việc tiến triển đến đó sáng chủ nhật hôm ấy, và đúng lúc dâng bánh lễ mọi thỏa thuận ngã ngũ tạo dịp cho tôi vâng lời Nestor chuyển cho Clément một chai xăng nhỏ. Lập tức Clément bắt tay vào việc bồi quả lựu đạn, nhét bông gòn vào trong, một thao tác công kỹ, bị ngắt quãng nhiều lần vì một tu sĩ canh gác đi tới đi lui giữa phòng. Nestor chăm chú để mắt vào các giai đoạn thao tác mà hắn chịu trách nhiệm, và rất có thể hắn đã ngăn được một tai biến, giá như cha bề trên của trường đang đàn thuyết giảng bài giáo lý khiến hắn bỗng dưng chú ý đến độ như thể quên phức thằng Clément và luôn cả quả lựu đạn chanh với bình xăng. Những lời đầu tiên trong bài giảng của cha bề trên, tôi vừa tìm thấy lại chẳng mấy khó khăn trong tập Tiểu luận của Montaigne, cha đã trích từ tập này ra. Đó là giai thoại về Alphonse d’Albuquerque, anh chàng hảo hán người Bồ Đào Nha thế kỷ XV. Nhà giảng đạo ngọt giọng kể lể: “Albuquerque, trong cơn ngặt nghèo rủi may trên biển, sốc một đứa bé trên vai, chỉ với mục đích là chung đôi với nhau, sự vô tội của đứa bé có công dụng bảo bọc và dẫn dụ ơn trên cho y thoát hiểm”.
Sau lời giáo đầu ấy, cha bác qua một cách dễ dàng sang chuyện thánh bổn mạng của chúng tôi, câu chuyện lý thú về con người cõng chúa, được thưởng công, cây sáo mọc lá mọc quả”. Cha nói thêm là chẳng có gì cho phép ta nghĩ rằng Albuquerque nhớ lại chuyện thánh Christophe và muốn bắt chước thánh trong cơn hiểm nghèo, dù Christophe, như ta biết, là người bảo vệ cho người đi xa và đi biển. Không, điều có thể vừa đúng hơn cả vừa hay ho hơn cả, là gã hảo hán kia, cũng như vị thánh, đều thành toàn phần số của mình từ chung một cội, mỗi người một hướng vẫn làm động tác giống nhau: tự đặt mình dưới sự bảo vệ của đứa trẻ mà chính mình bảo vệ, cứu người và cứu mình, đèo một vật nặng, trĩu vai xuống, nhưng là vật nặng bằng ánh sáng, trĩu dưới sự vô tội!
Hôm ấy Nestor thốt lên nho nhỏ:
- Ông trả bài nhé. Ông chép ra giấy trắng mực đen rồi ông học thuộc lòng chứ gì. Cuốn sách này nhập vào mớ sưu tập của tôi thì cũng hay đấy!
Ðến đây Đức cha kết câu chuyện Christophe Albuquerque với chúng tôi làm một.
- Vì tất cả các con ở đây đều đặt mình dưới hiệu kỳ của Christophe, cho nên từ nay và suốt đời các con phải biết vượt qua tội ác bằng cách ẩn núp dưới một lớp áo vô tội. Các con tên Pierre, tên Paul hay Jacques gì gì đi nữa, các con hãy luôn luôn nhớ mình đều có tên là Cõng Trẻ: Pierre Cõng Trẻ, Paul Cõng Trẻ, Jacques Cõng Trẻ. Và đèo thêm các gánh thiêng này, các con sẽ băng qua sông, qua dông bão, và qua luôn cả lửa tội ác.
Đến đây một đường lửa lan ra dưới vòm và bùng dậy thành từng mảng lung linh giữa vòm chính. Clément không dè rằng khi hắn nhồi nhét quả lựu đạn, hắn đã vãi ra một phần chai xăng xuống nền nhà. Khi bật đá lửa lên, hắn đã buông quả lựu đạn đầy ắp xăng phật lên như bó đuốc. Toàn thể người tham dự đứng lên hỗn loạn, trong khi bọn tu sĩ ngỡ như chứng kiến một sự hiển linh đều quỳ cả xuống. Cơn hoảng sợ lùa tất cả mọi người về phía cửa, lập tức cửa chật cứng không còn qua lọt. Clément ấn chiếc chai không vào tay tôi để rảnh tay với quả lựu đạn đang tiếp tục ọc ra từng vòi xăng lửa vừa lăn quay dưới các dãy ghế. Tôi nhìn Nestor: hắn biến đâu không hiểu. Giọng oang oang của vị giảng đạo cuối cùng cất lên, ra lệnh cho chúng tôi phải bình tĩnh và lui về chỗ cũ. Sự tác hại thật ra không bao nhiêu, nhưng sợ thì nhiều. Lửa càng bốc càng chóng tắt và thiệt hại chỉ dăm cuốn kinh bén lửa. Vấn đề còn lại là thủ phạm. Ngón tay trỏ buộc tội của diễn giả chĩa về góc chúng tôi, truyền cho Clément và Tiffauges sẽ bị nhốt cho đến khi có lệnh mới, đứng lên đi ra khỏi hàng và quỳ giữa lối đi chính. Rõ ràng chúng tôi phơi mặt ra dưới mắt mọi người xì xào kinh tởm, bởi lẽ chúng tôi cầm trên tay các tang vật, Clément với quả lựu đạn, tôi với chiếc bình, gốc gác mọi tội lỗi. Kế đó Cha bề trên, để chứng tỏ dẹp vùi biến cố, ông cất giọng đọc to lời tin, được lặp lại bằng giọng đồng thanh, lúc đầu ngập ngừng lưa thưa, nhưng mỗi lúc một đầy đặn thêm.
Giờ lễ hiệp thông, tôi thấy màn cửa xưng tội lay động, và một bóng người dễ nhận diện từ đó lách ra trà trộn vào đám người đang tránh né Clément và tôi trên đường hướng tới dàn đồng ca. Nastor bước tới bàn thành, xẹt vào người tôi, đôi tay khoanh lại, cúi gằm chiếc cằm ba ngấn của hắn xuống, toàn tâm toàn ý mặc niệm.
25.3.l938. Mỗi đêm tôi cố gắng rút bớt giấc ngủ bồi thường cho mình bằng những giờ giấc mơ mộng, đăm chiêu, như là góc riêng duy nhất dành cho tôi trong nếp sống cộng đồng này, ở đây cái huyên náo của giờ chơi và giờ ăn chỉ dừng lại là để nhường chỗ cho những rục rịch ngấm ngầm tại phòng học tập thể và nhà nguyện. Không ai cấm cản việc dậy sớm đi vệ sinh, và vì vậy nếu thích tôi có thể cho phép mình đủng đỉnh ban đêm, khả năng này tôi sử dụng vừa phải thôi vì sự đụng đầu tên nào đó là thụy du của nhà ngủ, vì nhà ngủ nào cũng có đứa thụy du, như thể ở Tô Cách Lan lâu đài nào cũng có con ma riêng của nó.
Các biến cố quả lựu đạn và nguy cơ ra hội đồng kỷ luật cộng thêm tình trạng đơn độc sẽ bị nhốt, mọi thứ khiến tôi mất ngủ đêm ấy. Tôi đứng lên và luồn lỏi giữa các lối đi giữa các dãy giường. Con ma của nhà ngủ, tôi thầm nghĩ mình đang bắt gặp nó đây khi nghe tiếng bước nhè nhẹ, trong khi đó một bóng người to lớn tiến bước từng chặng chậm chạp, thanh tra bọn đang ngủ, cúi xuống đứa này đứa kia, rồi tiếp tục bằng một cách riêng. Chẳng cần quan sát lâu lắc, tôi nhận ra Nestor đang quấn lên mình một lớp áo bông dày làm nặng thêm dáng người của hắn. Chắc hẳn hắn cũng nhận ra tôi, chẳng thế mà sự đột nhiên của tôi chẳng làm cho cử động của hắn xao xuyến tí nào. Hắn cũng chẳng quan tâm đến tôi khi tôi ngang sát cạnh, có lẽ ngoại trừ mấy câu nhận định hắn thốt lên nho nhỏ mà hắn muốn chia sẻ với tôi thì phải, nhưng đúng hơn là nói cho chính mình:
- Ở đây đông đặc quá. Trò chơi vì vậy mất ý nghĩa. Sự chuyển động dừng lại ở vài dáng điệu, đành rằng dáng điệu khác nhau, nhưng chậm rãi quá. Mặc, đọc cho ra mấy khuôn mặt này đã. Trên đó hẳn phải có dấu hiệu tuyệt đối từ A đến Z. Nhưng tìm ở đâu bây giờ? Với lại, giấc ngủ là sự đắc thắng giả hiệu. Tất nhiên tất cả chúng nó nằm đó, trần truồng, vô ý thức. Nhưng kỳ thật, một phần trong con người chúng nó, ta đâu có nắm. Chúng nó có mặt, đồng thời chúng nó vẫn vắng mặt. Bằng chứng là ánh mắt tắt ngấm trên các khuôn mặt. Tuy nhiên bao nhiêu thân thể hâm hấp, phơi mở này, chẳng phải là tình trạng kết tụ lý tưởng hay sao?
Những ngọn đèn chong phơn phớt xanh nhả ra một làn sáng lờ nhờ trên dãy giường nhỏ xếp thẳng như những ngôi mộ dưới ánh trăng, và hơi thở của hai đứa vi vu như gió thoảng trong hàng cây trắc bả. Không khí quyền quyện và bó rọ như trong chuồng bò, chẳng là các ông nông dân vùng
Picardie và vùng Bray là những ông đang cai quản chúng tôi, các ông ấy ghê sợ gió lò như là nguồn gốc của mọi thứ bệnh. Chúng tôi chân thấp chân cao hướng về phòng vệ sinh, không hiểu sao Nestor kéo tôi đi về hướng này như thế. Hắn chốt cửa lại và mở toang cửa sổ. Các mái nhà và tháp chuông của thành phố cắt rõ nét như thể được vẽ bằng mực tàu trên nền trời lân tinh. Hồi chuông của Saint Etienne rền rĩ ba giờ sáng. Ðối nghịch với hơi hám trong phòng vừa rời xa, không khí trong lành ban đêm có vẻ buốt lạnh. Nestor hứng khởi, báo: “Sự kết tụ ứ đầy bí mật choáng người vì nó là sự sống, nhưng cái trong lành vẫn hay. Trong lành là hư vô. Đối với chúng ta nó có sức mê hoặc dữ dội vì chúng ta đều là con đẻ của hư vô”. Rồi hắn quay ngoắt lại tôi, oang oang cao hứng: “Lạ lùng chưa, chiếc cửa gỗ tồi tàn này chỉ vì một cái chốt vô nghĩa mà cách ngăn con người với hư vô!”
Cái chậu vệ sinh bằng gỗ ủ màu nằm tót trên một thứ bục hai cấp, một cái “ngai” thực thụ nghễu nghện đỏng đảnh ở cuối phòng. Nestor day lưng lại phía tôi, chậm rãi bước lên cấp, như thực hành một động tác nghi thức. Lên đến chân ngai, hắn thả quần rơi xuống xếp đống dưới chân. Hắn thanh tra mặt trong của chiếc chậu, quơ chiếc chổi rơm móc trong một cái hóc hộp bằng sắt tây và ra công vừa đánh sạch vừa giật nhiều lần chiếc cần tháo nước. Từ con người hắn, tôi chỉ nom thấy hai cái mông bạnh ra thêm vì cố sức. Ðiều làm tôi ngẩn người ngạc nhiên không phải là hình dạng kếch xù - tôi thừa biết - mà là cái vẻ gần như là tinh thần của đôi mông. Nói thế nào bây giờ? Có một sự vô cùng ngây dại trong hai cái hình dạng bán nguyệt ấy đang bị lệch dạng vì bao nhiêu ngấn mỡ nổi lên khắp nơi, hơn thế nữa, một cái gì đó thoạt nhìn vào có vẻ hoàn toàn xa lạ với con người của Nestor: đó là sự tốt bụng. Từ trước tới giờ, tôi bị đè bẹp dưới uy tín và quyền năng của Nestor, nhạy cảm với thái độ bảo bọc của hắn, xúc động theo những chăm chút phủ phê của hắn. Chính lúc này trông thấy mông của hắn, tôi lần đầu tiên đem lòng yêu mến hắn, vì tôi thấy ra những gì là vô phòng bị, là nét vụng về dễ bị thương nơi con người hắn.
Hắn thẳng người và quay lại. Phần trên của lớp áo ngoài của hắn xuống ngang rốn. Bên dưới phần bụng phình ra cùng với hai bắp đùi tạo thành ba mảng thịt trắng óng ả khuất lấp cả mẩu dương vật tí hon của hắn đang bị chèn vào các mép. Hắn đặt mình xuống ngai và tức khắc trông giống như một nhà hiền triết Ấn Độ, như một đức Phật tĩnh tọa đại từ đại bi. Tràng độc thoại đứt đoạn của hắn được tiếp nối. Hắn bảo:
- Tớ chẳng chống đối gì các chậu vệ sinh theo kiểu Thổ trong triều đình. Như thế là đúng hợp với sự bài tiết hàng ngày của số đông, có thể đó không phải là đám phàm phu, nhưng chắc chắn là đám ngoại đạo. Cậu hiểu cái khác nhau tinh tế ấy chứ. Chậu Thổ nó buộc phải ngồi chồm hỗm, đây là một điều bất tiện nhưng mang đầy tính nhún nhường. Ðó là một lối quỳ gối ngỏng lên với hai đầu gối chỉ thiên chứ không phải chỉ địa. Cái chỉ địa chính là cái hậu như đang tìm cách tiếp xúc trực tiếp với đất, làm như thể đất có khả năng tiếp trợ bằng cách lấy hấp lực của mình hút lấy từ trong thân thể con người cái phần nào tương đồng với đất hơn cả.
Hắn đưa lên một ngón tay.
- Nói như thế không ổn mà phải nói: đất hút lấy cái phần nào trong thân thể con người là hình ảnh thăng hoa của đất nhào trộn với những mầm sống và lâu ngày ấp ủ trong cái bầu nhiệt sinh vật của chúng ta. Phân không phải là cái gì khác hơn là đất có thêm tính sinh vật làm cho thứ đất ấy sinh động một cách riêng. Nhưng cái chậu Thổ từ trong ý nghĩa của nó là cái chậu tiêu thụ tức tốc vào trong phần đất khoáng vật của nó cái phần đất sinh vật mà ta bài tiết. Cái chậu thì chỉ biết vật chất. Mà con người tinh tế lại đặc biệt thích thú ngắm nhìn các hình thể được cái hậu xây dựng nên, mà cái hậu đôi khi cũng biết cách đúc nặn và kiến trúc luôn nữa. Cái khoái lạc đế vương nó bao hàm chiếc ngai vàng kèm theo sự yên tĩnh và phong thái ung dung trong đêm khuya thường đi đôi với nhau.
Im lặng hồi lâu. Một ngọn gió lọt vào cửa sổ làm chao động cái chóa đèn bằng tôn màu và đưa lại tiếng tàu lửa hổn hển xa xa. Tiếp theo là im lặng cho đến khi cánh cửa bị lay động dữ dội vì ai đó ở ngoài muốn vào. Tôi hoảng hốt và quay quắt nhìn Nestor đang bất động như tảng đá. Sau một hồi lâu, hắn động đậy, đứng lên và nhìn sâu vào chậu. Hắn bình luận:
- Ðêm nay, cái hậu có xu hướng trung cổ. Cậu nhìn mà xem, có hình tháp trung ương kèm theo các tháp nhỏ có góc cạnh được hai lớp thành bọc ngoài. Trung cổ và có thể nói là phong kiến nữa đấy, trời ạ! Tuần trước mình đẻ ra kiểu go tích màu mè. Hắn mơ màng nói thêm câu cuối như vậy vừa đưa tay đẩy lui cuộn giấy vệ sinh tôi chuồi cho hắn.
“Không, cậu ạ, đêm nay không khao đàng hoàng là đáng tiếc. Tôi có cất một cái thứ giấy hiếm có đầy nét chữ của một đầu óc thượng hạng mà tôi dành riêng cho dịp đặc biệt. Thật ra tôi không nghĩ mình dùng sớm thế này, nhưng rõ ràng không thể có đêm nào dùng xứng đáng hơn đêm nay.”
Hắn rút từ túi quần phía sau ra ba tờ giấy trăn ra trước mắt tôi. Tôi sững sờ đọc mấy dòng đầu: “Albuquerque, trong cơn ngặt nghèo rủi may trên biển, xốc một đứa bé lên vai, chỉ với mục đích là chung đôi với nhau, sự vô tội của đứa bé có công dụng bảo bọc và dẫn dụ ơn trên cho y thoát hiểm”. Ðúng là bài giảng của cha bề trên do chính tay người viết lấy. Đôi bàn tay thô kệch của Nestor vo lấy bài và nhồi nặn nó hồi lâu cho nhũn. Rồi hắn trao cho tôi và chống hai bàn tay lên miệng ngai ngóng chờ tôi thi hành phận sự.
Nestor chưa chịu buông tôi ra. Tiếp theo đó, hắn lôi tôi đi khắp đường ngang ngõ tắt qua các cầu thang phụ cùng các hành lang mà tôi bước chân qua lần đầu. Xuống tới tầng trệt, hắn dừng lại trước một chiếc tủ nhỏ thụt vào tường, mở tủ ra, bày lộ vô số chìa khóa lủng lẳng trên nhiều hàng đinh móc. Không lưỡng lự, hắn gỡ xuống ba chiếc, và tiếp tục lôi tôi đi, và lần này xuống dưới hầm. Đèn chong chẳng có. Tối mò. Cho đến khi hắn táo tợn bật đèn, khiến tôi hết hồn, trong một phòng bếp ở sau xa. Kế đó, hắn xeo một cánh cửa nặng trịch của tủ lạnh ra, và lôi ra bàn từng miếng pa tê, một đùi cừu, một tảng phô-mát và một xô mứt mơ. Hắn phác động tác mời tôi, rồi không đếm xỉa đến tôi, hắn bắt đầu ngấu nghiến, chẳng cần mì, nước uống.
Tôi sợ, tôi lạnh, các thức ăn lợn cợn, và tôi thấp thỏm sợ hình phạt đang lăm le tôi. Nhưng sự hiện diện của Nestor khiến cho mọi vật mang một vẻ ma thuật hớp lấy mình. Tôi không nghĩ rằng trẻ con đều có khiếu thẩm mỹ phát triển mạnh. Tôi nghĩ người ta sẽ khám phá lắm điều kỳ lạ nếu như nảy sinh ý nghĩ điều tra trong đám trẻ xem chúng hiểu như thế nào là đẹp, là xấu. Nhưng đa số nhạy cảm trước cái uy của sức mạnh, lại càng nhạy cảm trước cái uy của sức mạnh bí mật, biến ảo, một thứ sức mạnh nó biết đè nặng xuống những điểm yếu của thực tế xám xịt làm cho cái thực tế lả tả từng mảng một phải lòi ra những cái quí báu bị che giấu. Nestor có cái năng khiếu này ở mức độ cao và hắn hớp hồn tôi quá kỹ đến độ tôi chẳng dám
hạch hỏi gì hắn về cách hành xử của hắn trong nhà nguyện và về hậu quả vụ quả lựu đạn đối với tôi.
Mãi đến khi tôi lui về giường mình, đêm hãy còn đen như mun, nhưng kèn sáng đã tò te trong sân trại lính ở gần. Tôi biết mình còn được thêm một tiếng đồng hồ nữa mới đến hồi nếm mùi hãi hùng không tên của những hồi chuông và ánh sáng sẽ đến xé toang bóng tối dịu hiền của giấc sáu giờ rưỡi này.
Tôi đã hiểu rõ rằng Nestor sẽ không thể giúp được cho tôi một cách hữu hiệu nếu bị dính líu vào vụ lựu đạn chung với Clément và tôi. Ðứng ra ngoài, hắn giữ được trọn tự do hành động và can thiệp. Cần gì, sự kiện hắn bỗng dưng biến dạng vào lúc xăng bốc lửa và hắn không mở miệng kể từ biến cố ấy đã làm tiêu tan cái cảm giác an toàn của đời tôi kể từ khi hắn ra tay bao bọc tôi. Với lại, làm sao quên được rằng vai trò của tôi hầu như vô tích sự trong suốt cả câu chuyện này vốn chỉ liên quan tới Clément với hắn thôi, và chính tôi là kẻ chịu trận tại địa bàn của hắn đấy chứ? Chắc hẳn chuyến hai đứa gặp nhau ban đêm ấy và sự mục kích sức lực và toàn quyền của hắn làm cho tôi phần nào lên tinh thần. Nhưng tôi cảm thấy mọi sự đổ vỡ trong tôi lúc thầy kỷ luật cho tôi biết ngay sáng ấy rằng hội đồng giáo sư sẽ nhóm họp ngày mai và quyết định về trường hợp chúng tôi sau khi triệu với từng đứa riêng. Do việc dốt riêng làm tôi tuyệt vọng, tôi mất hẳn bình tĩnh và đành nghĩ đến sự trốn thoát hoảng loạn.
Việc bọn nội trú bỏ trốn là điều khó quan niệm với bậc làm cha đạo hạnh, và hầu như không có ai canh phòng ở cửa trường khi bọn ngoại trú ra về. Tôi lọt ra ngoài không mấy khó khăn và đi vòng qua ngôi nhà thờ Saint Etienne, băng qua đường Malherbe rồi lao vào đường Tapisserie hướng đến nhà ga. Tại Beauvais tôi chẳng quen biết gì nhiều hơn. Tôi gặp may, vì chuyến tàu cuối cũng đi Dieppe khởi hành hai phút sau. Tôi sẽ không bị đuổi theo. Tôi mua vé đi Gournay và chui nhủi trong một toa tàu hạng ba, chắc mẩm mọi hành khách đều đọc thấy trên mặt tôi cả hai vết nhơ của tên bị giam cầm và tên đào thoát. Con tàu gặp đâu dừng đó, chạy lùi đủ bận, và phải mất hơn một giờ mới nuốt hết ba chục cây số từ Beauvais đến Gournay.
Suốt khoảng thời gian ấy, tôi nao nao tự hỏi sẽ nói sao đây với bố tôi khi đột ngột xuất hiện. Tôi khỏi lo điều này. Ðược trường Saint - Christophe báo động bằng điện thoại, bố tôi chờ tôi tại ga. Lần này vẻ mặt lạnh lùng suốt đời không lay chuyển của bố đối với tôi xem ra được việc. Ông như cái máy, ông dí mép râu của ông lên hai bên má tôi, rồi cho tôi hay rằng nếu còn một chuyến tàu nào về được Beauvais thì tôi đi ngay đêm nay, nhưng nếu đi chuyến bảy giờ mười lăm sáng mai, thì tôi vẫn kịp giờ họp hội động kỷ luật. Bấy nhiều lời trong thái độ lạnh lùng, không có dấu vết giận dữ, cũng không bực rực. Về đến nhà, tôi thanh thản phần nào nhờ mùi vị thân quen của phòng xưởng nhưng nhà cửa ở tầng một hắt ra hơi hám nồng nàn từ nếp sống nhàm chán của một kẻ cô độc về già - những chi chút cố tật hòa trộn với những buông lỏng thảm hại - đến độ tôi cảm thấy mình xa lạ cũng giống như ở trường học dù tôi sinh ra và lớn lên ở đây. Đêm đến hãi hùng, trọn vẹn làm bằng ác mộng và những trăn trở dằng dặc. Một hình ảnh ăn sâu vào trí tôi thành ra ám ảnh không thôi, đó là hình ảnh đám lửa vụt bùng lên quanh tôi trong nhà nguyện. Quả là lửa địa ngục, nhưng cũng là lửa giải phóng, và nếu như trường Saint - Christophe bốc cháy, nếu cả thế giới bốc cháy, thì khổ ải của tôi cũng tiêu tan theo luôn.
Cuối cùng tôi thiếp ngủ đi vào sáng sớm, đúng lúc ấy bố tôi đến lay giật tôi, và định kiến của tôi - là ngôi trường bốc cháy - chỉ chờ đợi tôi thức giấc là ập đến. Tôi cảm thấy hả hê nhừ nhẫn, mường tượng luôn chính mình tiêu tan trong thảm họa mà không hề sợ hãi. Còn sự việc hỏa tai có khó bề xảy ra chăng, thì hình ảnh ấy được bù trừ một cách kỳ lạ trong trí óc tôi bằng mỗi một ý nghĩ rằng chỉ có cách ấy thôi tôi mới thoát nạn nổi.
Bố tôi báo cho tôi biết có một tu sĩ đón chờ tôi tại nhà ga ở Beauvais. Chẳng có ai. Tôi đã đoán là như thế thôi, tôi ước tính rằng tối thiểu một lần sự việc cũng nên lọt ra ngoài hướng dự đoán chứ. Chẳng vội vã, tôi đi lại trên những lối đi hôm qua, ngóng xem dấu hiệu gì đó trên mặt mày người qua đường.
Ðường đến trường đông đặc một đám người lao xao mà mấy người cứu hỏa đang đẩy lùi để giăng các ống vào giữa lộ. Chiếc xe đỏ có cái thang đài được đưa tới phòng bị, nhưng không dùng tới, vì, theo lời người ta bảo, tai nạn phát ra từ dưới hầm, quả nhiên tôi nom thấy nhiều đám khói đen hăng hắc thoát ra lờ lững từ những ô cửa dưới hầm máy sưởi. Mấy ô kính của các
lớp nhỏ ngay phía trên đó bị đập vỡ, và người ta phân biệt phía bên trong toàn ngổn ngang bàn ghế, bảng đen cháy nám lở dở. Lại thêm nước cứu hỏa lênh láng góp phần thiểu não cho cả bãi thí nghiệm này. Người ta chỉ trỏ cho nhau chằm chặp vào một thứ miệng lửa cháy ra than mở toang hoác ở nền nhà đối diện với chỗ kê chiếc bục. Chính tại nơi đây ngọn lửa bị ủ một thời gian dài dưới hầm đã bùng lên như núi lửa. May lửa bắt cháy sớm bưng - có người xác định là đúng sáu giờ mười lăm – giờ ấy lớp nào cũng chưa có ai. Người ta khẳng định không có ai bị nạn. Thế mà cánh cổng vụt mở và một chiếc xe cứu thương lao ra vạch đường giữa đám đông. Khi xe vụt ngang gần tôi, tôi nhận ra khuôn mặt hớt hải phinh phính của mẹ Nestor ngồi trong ấy.
Tôi lọt vào sân trường trước khi cửa đóng sập lại. Bao nhiêu đứa nội trú đều có mặt đó, tụm năm tụm ba, bất động, nhỏ to với nhau. Người ta yêu cầu đám ngoại trú đứa nào về được thì về. Chẳng ai để ý tới tôi, và hôm ấy lần đầu tiên buộc lòng tôi có được kinh nghiệm rằng không ngờ bọn chúng nó có mắt chẳng thấy dấu hiệu riêng biệt trên con người tôi so với cả bọn. Như thế có nghĩa là người ta có thể không dè gì tới mối quan hệ sờ sờ, rành rành giữa vụ hỏa hoạn và số phận riêng tôi! Bọn người khờ khạo này vốn chờ chực đè bẹp tôi vì một chuyện tẹp nhẹp - mà tôi lại vô can nữa chứ! - e suốt đời không nhận ra, dù tôi to tiếng nói lên sự thật ngay vào mặt họ, rằng tôi có dự phần vào cái hình phạt đang bổ xuống ngôi trường này!
Tôi kiếm Nestor. Tại sao mẹ hắn ngồi trong xe cứu thương? Hôm đó tôi biết được một điều quá thể. Buổi sáng hôm ấy bố của Nestor sai hắn xuống hầm đun than vào bình chứa nước nóng lúc năm giờ thay cho ông. Đây không phải là lần đầu tiên hắn chu toàn công việc này. Người ta trước sau không rõ sự việc thật sự xảy ra như thế nào. Hơn một giờ sau đó, ngọn lửa ra trong các lớp học trẻ con. Mấy người cứu hỏa đầu tiên lọt vào đường hầm đun nước nóng khênh lên thân thể của Nestor đã chết ngạt.
28-3-1938. Sáng hôm nay bỗng giật mình với ý nghĩ đến giờ thức dậy. Ðồng hồ báo thức chỉ hai giờ kém mười lăm, nhưng nó đứng từ hồi nào. Tôi nhổm dậy với chiếc đồng hồ đeo tay trên bàn. Chiếc này cũng đứng luôn, và đôi kim chỉ hai giờ mười. Thế là phải điện thoại đến nơi báo giờ mới hay là đã bảy giờ.
Ngoài đường sương mù dày đặc. Tôi đã đỗ bên vệ đường chiếc xe Hotchkiss cũ kỹ để có thể phóng nhanh đến Meaux, tại nhà một khách hàng, trước khi mở tiệm xe của tôi. Khi tôi giật cần rồ máy, tịnh không có chuyển động nào: các bình điện cạn kiệt, có thể là do sương mù. Mà đồng hồ ở bảng máy vốn phải được châm điện đã đứng từ lâu rồi, và nó chỉ: hai giờ mười lăm.
Bao nhiêu trùng hợp dây chuyền lẽ ra làm tôi chột dạ giá như tôi không bắt quen với hiện tượng này. Nhưng đời tôi đầy rẫy bao nhiêu trùng hợp không giải thích được khiến tôi rắp tâm xem đó như bấy nhiêu cảnh giác. Không sao, đó là số mệnh nó hờm sẵn và truyền cho tôi không được quên sự hiện diện vô hình nhưng khó tránh của nó.
Mùa hè năm ngoái, tôi ngủ, mở rộng cửa sổ. Thức dậy tôi vặn đài phát thanh để ru mình bằng âm nhạc những phút đầu tiên trong ngày. Và quả nhiên âm nhạc trỗi dậy, lách tách, linh hoạt, tươi tắn, giậm giật. Kể đó tôi sao nhãng theo một tiếng động vỡ òa ra phía mái nhà trên đầu tôi. Một đám chim, chắc hẳn chim khá lớn, xô xát nhau và chửi rủa nhau cuồng nhiệt. Tiếng động gia tăng, và tôi đoán những con đối đầu ôm nhau trượt trên mái tôn xuôi dốc. Cuối cùng một hòn xù lông lọt xuống bờ cửa sổ của tôi và rơi vào phòng. Đôi chim ác là kinh hoàng buông nhau ra và cũng lấy đà phóng qua cửa sổ tìm nẻo tự do. Ðúng lúc ấy mấy hợp âm tắt ngấm và người nữ phát ngôn viên lên tiếng: “Quý vị vừa nghe đoạn mở đầu bản Con chim ác là đánh cắp của Rossini”. Tôi cười thầm trong tấm mền mỏng. Tôi nói khẽ: “Xin chào Nestor!”.
Cũng có khi là một sự đáp lời - thường có ý chế nhạo - đối lại một lời cầu xin kín đáo mà tôi vọt miệng. Chẳng qua, rốt cục, tôi vốn sống giữa bao nhiêu tín hiệu và lóe sáng, có thể tự cho mình là vận hên chứ sao?
Cách đây sáu tháng, gặp những lúc túng bấn, tôi có mua trọn một vé xổ số quốc gia, miệng khẩn khứa vắn tắt: “Hỡi Nestor, một phen xem sao?” Hừm, không thể nói là có ai nghe tiếng tôi! Vậy mà tôi đã được đáp lời. Ðáp lời một cách lêu lêu. Vé của tôi mang số B953.716. Vé đem đến một triệu cho sở hữu chủ là vé mang số B617.859. Vé của tôi lộn ngược. Ðể cho
tôi một bài học vì muốn sàm sỡ lợi dụng ưu thế của mình đối với sự vần xoay của vu trụ. Tôi cáu giận, sau đó tôi cười xòa.
4-4-1938. Tờ báo Volkischer Beobachter, cơ quan chính thức của đảng cầm quyền Ðức, tung ra một công thức: súng đại bác hơn là bơ. Ðó là cách diễn ý sự đảo ngược trầm trọng dưới dạng thấp hèn nhất đang được thi thố khắp nơi. Súng đại bác hơn bơ, có nghĩa là, nói một cách cao sang, nói một cách dễ hiểu: Chết hơn sống, thù hơn yêu!
8-4-1938. Hãng Renault tung ra một loại xe hơi chạy hoàn toàn bằng than hoặc củi đốt. Những chiếc xe tải nặng một ngàn đến năm ngàn kilô và những chiếc xe ca có mười tám đến ba mươi mốt chỗ ngồi chạy thẳng bằng củi sau khi cháy được năm sáu phút. Một hệ thống thuần thục cho phép khí đốt được phát sinh khi xe xuống dốc dài và cho phép nhấn ga mạnh. Máy được trang bị bằng một bộ phận lọc đơn giản, không có vải, khỏi sợ bị bít hay bị rách.
Điều thật lạ là thời đại chúng ta từ nay sự tiến bộ nó đi giật lùi. Vài năm trước đây thôi, nếu xuất hiện những chiếc xe hơi bằng củi thì người ta đã bật cười. Rồi đây người ta sẽ đưa ra giới thiệu với chúng ta, như là kỹ thuật mới nhất, một động cơ chạy bằng rơm, và cuối cùng sẽ khoái chí khám phá ra chiếc xe ngựa.
8-4-1938. Tôi lưu lại ở trường Saint - Christophe cho đến mười sáu tuổi. Hạnh kiểm của tôi không chê trách được, các điểm số của tôi thì thê thảm. Tôi mang trên mặt mình một lớp mặt nạ hồn nhiên mà tôi không rời bỏ từ độ ấy, nhưng lớp mặt nạ ấy không bao giờ bị lung lay vì sự ra đi của Rachel, sự khám phá ra cách viết bằng tay trái và dăm ba dấu hiệu khác. Tôi quyết định xóa mình ra khỏi một xã hội vốn chỉ dành phần xấu cho tôi. Ngược lại, tôi không hề biết cách phấn son cho tâm hồn mình. Nó nôn ra tất cả những gì các ông thầy cho nó ngốn về mặt văn hóa. Đến cuối bậc trung học, tôi ngang nhiên mù tịt về Corneille lẫn Racine, nhưng tôi đọc thuộc âm thầm cho tôi những Lautréamont với Rimbaud, về Napoléon thì tôi chỉ biết giai đoạn thất trận tại Waterloo – đồng thời lấy làm giận bọn người Anh sao
không treo cổ kẻ bội tín -, nhưng tôi lại biết toàn bộ về các vị có danh phận của hội kín, như Cagliostro và Raspoutine, và nếu tôi có thăm dò quanh mình có bao nhiêu tín hiệu khả dĩ xuất hiện, tôi đã dẹp bỏ hết mọi thứ khoa học, bất luận văn học nào. Cuối lớp mười, hiển nhiên tôi sẽ không qua được tú tài. Các đức cha có hảo ý xếp tôi không thương tiếc vào đám học trò mà hàng năm người ta tống khứ ra khỏi vòng các ngôi trường loại như thế này, chỉ cốt sao nâng cao số thi đỗ các kỳ thì. Thế là tôi lọt về Gournay-en-Bray nơi bố tôi ra tay mớm cho tôi nghề cơ khí của ông. Sự hiện diện của con người lầm lì lạnh lùng này bao giờ cũng có kết quả làm rối mù suy nghĩ lẫn đôi tay của tôi. Cũng nên nói thêm rằng nếu tôi là đứa học nghề quá kém thì bố tôi làm thầy cũng chẳng khá hơn, bởi lẽ ông xưa nay làm lụng một mình chẳng buồn mở miệng dẫn giải. Mà rồi chẳng bao lâu tôi bỏ đi, tìm đến kẻ cạnh tranh với ông bố tôi, trong hàng sửa chữa xe hơi duy nhất của vùng Gournay. Nghĩa vụ quân sự ban cho tôi cơ hội “lên” Paris và phát hiện ra ở đây một ông bác, chủ nhân của một hãng sửa xe gần Ballon des Ternes. Ông bác tiếp đón tôi vồn vã và có ý ra ơn cho bố tôi mà bác tôi không gặp kể từ khi việc chia gia tài ông nội tôi làm cho bác và cha tôi gấu ó nhau. Tôi trở thành người bạn đường đầu tiên của bác khi tôi mãn nghĩa vụ và bác chết đi để lại hãng sửa xe ở Ballon cho tôi, năm năm sau. Như thế là sự việc ngẫu nhiên nó muốn tôi làm nghề như bố tôi, nhưng ở mức cao hơn, làm như thể tôi từng nuôi tham vọng leo lên vài nấc thang xã hội mà không trở mặt với truyền thống gia đình. Buồn cười thay cái vỏ bề ngoài ấy! Thật ra tôi hoàn thành nhiệm vụ - như tôi đã từng làm lính, như đã từng nếm mùi đàn bà, như tôi trả tiền thuế - một cách nguội lạnh, như kẻ thụy du, mải miết mơ tưởng mở mắt, mơ tưởng một sự đứt đoạn đến giải phóng cho tôi và cho phép mình cuối cùng là mình. Sự đứt đoạn ấy, bảo rằng tôi mơ tưởng hãy còn chưa đủ. Tôi đã bảo, chiếc mặt nạ run rẩy trên khuôn mặt tôi. Và trên hết mọi thứ là có cái bàn tay trái này, là sự ló dạng đầu tiên của tên Tiffauges mới mẻ đã từ ba tháng nay viết nên những điều mới lạ với những chữ nghĩa mà bàn tay phải của tôi ắt tìm không ra. Có mùa xuân đâu đây. Mùa xuân, băng rã, băng tuôn tràn...
11.4.1938. 99,06% cử tri người Áo hôm qua bỏ phiếu thuận nhập nước mình vào nước Ðức. Sự đồng tình lao xuống vực sâu của hầu hết mọi người ấy không phải là sự tác động của một lực ngoại lai nào quét sạch sức đề kháng đâu. Không phải, căn bệnh nó đâm rễ trong từng người, và đám đông
đứng trước hai nẻo sống chết phải chọn một, họ đã hô to “Chết! Chết!”, giống như bọn Do Thái đáp lời Ponce Pilate bằng tiếng “Barabbas! Barabbas!”
13.4.1938. Tôi nhỏ người và tong teo cho tới mười hai tuổi. Rồi bỗng cao lên thật nhanh, gần như không cân nặng thêm, đến nỗi con người gầy guộc của tôi, lúc đầu chỉ thấy xấu thôi, sau đó thấy lố bịch, thoắt đâu trở nên đáng báo động. Hai mươi tuổi, tôi cao một thước chín mươi mốt và nặng sáu mươi tám kilô. Thêm vào đó, bệnh cận thị tăng vọt khiến tôi mang kính dày mãi thêm trông chưa chi đã giống miếng chai chằn giấy khi tôi đến trình diện hội đồng tái khám. Bằng một cử chỉ tai ác chắc hẳn là vô tình, gã cai tuần là người chỉ đạo công việc bắt tôi lấy kính xuống rồi đẩy tôi ở truồng trùng trục, mắt mù câm, vào trong phòng “danh dự” của thôn đường. Tôi xuất hiện khiến cho mấy kẻ có máu mặt trong đám hương chính của Gournay ngồi làm vì sau bàn giấy phá lên cười. Điều gây cười nhất đối với họ, là “chim” của tôi tuyệt không cân xứng với vóc người tôi, một “chim” trẻ con trơn tru. Vị bác sĩ địa phương thốt lên một từ bác học làm mọi người cười òa lần nữa vì nghe ra một điều tục tĩu cao độ: teo chim. Trường hợp của tôi được lôi ra thảo luận lâu lắc. Cuối cùng tôi suýt được miễn dịch, và được trưng dụng vào truyền tin, là binh chủng ít khắt khe về phương diện đặc điểm thể chất của tân binh.
Thêm một lần nữa, người ta đánh giá tôi lầm lạc, vì vừa mãn quân dịch một cách tàm tạm thế thôi, thì, như Nestor đã từng tiên toán, răng của tôi đâm ra lớn mạnh, tôi có ý nói rằng tôi ngon miệng muốn ăn lạ lùng làm cho dạ dày của tôi bắt đầu thót lên hằng ngày.
Lúc đầu bao giờ cũng giữa các bữa ăn cơn đói mới ập tới. Đột nhiên ngay tại xưởng hay trong phòng làm việc, một cảm giác trống không cồn cào trong bụng, cơn run làm rời rã tay và đầu gối, mồ hôi toát đẫm hai bên thái dương, nước miếng ứa ra dưới lưỡi. Tôi buộc phải ăn, tức khắc, ăn một cái gì đó, không chậm trễ. Cơn đói ấy vào những buổi đầu bắt tôi chạy tới tiệm bánh gần nhất, người bán bánh sững sờ nhìn tôi ngồm ngoàm bánh nướng, bánh quai vạc hết cái này đến cái khác. Về sau, đến mùa đông, tôi để ý thấy những thùng ốc sò bày bán đẫm mùi rong ướt trên vỉa hè bên cạnh một gã bán rượu. Người ta mới bày ra chuyện này để có cớ uống rượu vang
trắng nguyên chất đi đôi với ốc sò và phổ biến nó ra kể từ đó. Họ nạy cho tôi hai tá sò Portugaises số không và dọn ra cho tôi kèm một cốc rượu pouilly fuissé. Tôi say sưa hau háu cắn ngập vào lớp thịt mềm nhờn màu đục trắng, mằn mặn, pha chất i - ốt, cái chất tươi mát bọt biển của những cơ thể nhỏ bé đang thí thân mềm nhũn, vô hình dáng, cho vòm miệng chiếm đoạt ngay khi bị bóc ra khỏi các hõm cư trú xà cử của mình, đó là một trong những phát hiện trong thiên hướng phàm ăn của tôi. Tôi hiểu rằng tôi sẽ thỏa mãn sự thèm ăn của mình một cách toàn vẹn hơn nếu tôi càng đến gần với lý tưởng là đồ ăn sống tươi tuyệt đối. Tôi tiến thêm một bước lớn một hôm được biết rằng loại cá trích tươi, mà thông thường người ta ăn chiên hoặc hấp, cũng có thể ăn sống và lạnh miễn sao nhà bếp chịu khó róc vảy, vì vảy khó róc. Nhưng sự khám phá tối cao của tôi trong địa hạt này là món “bíp-tếch sống”, thịt ngựa thái nhỏ ăn sống với lòng đỏ trứng gà kèm theo mớ gia vị nặng nề bao gồm muối tiêu, dấm, tỏi, hành, ném và nụ bạch hoa. Nhưng về món này cũng cần tiến bộ mới thỏa mãn được một đam mê ít người chia sẻ đến thế. Sau bao nhiêu bàn cãi với những người phục vụ tại tiệm ăn duy nhất vùng Neuilly có bán cái món ngược đời bạo tợn ấy, tôi được người ta giảm bỏ dần dà đến kỳ hết mọi thứ gia vị màu mè chỉ có nhiệm vụ che mắt chất tươi sống thẳng thừng của thịt. Và vì tôi cũng kỳ kèo về số lượng, nên chẳng mấy chốc tôi được phép vào buồng thịt tự thân xay lấy từng thớ thịt mà tôi mua ở một cửa tiệm thịt ngựa. Có thế tôi mới hiểu cái hấp dẫn từ bao giờ vẫn đến với tôi từ những quầy thịt và những móc thịt vốn bày ra trước mắt mọi người cái chất bóc trần hăng nồng vạm vỡ của mấy con thú bị lột da, những khối thịt ròng ròng, những miếng gan nhầy nhớt mang vẻ kim khí, những buồng phổi ửng hồng như miếng xốp, cái cơ thể phía trong đỏ chót phải bày ra giữa hai chiếc đùi ngựa chành bạnh thô tục, và nhất là các mùi mỡ nguội lạnh và mùi máu đông sệt phất phưởng bên trên lớp tường sát sinh này.
Cái khía cạnh ấy của tâm hồn tôi mà tôi phát hiện chẳng bắt tôi lo lắng chút nào. Khi tôi bảo “tôi thích thịt, tôi thích máu, tôi thích thịt”, chỉ có cái động từ thích là đáng nói. Cả con người tôi là toàn thích. Tôi thích ăn thịt vì tôi thích loài vật. Thậm chí tôi nghĩ mình có thể đưa tay ra cắt cổ và ăn trìu mến ngon lành một con vật do mình nuôi và chung sống. Tôi sẽ ăn thịt với một ý vị sáng suốt hơn, sâu thẳm hơn là ăn một con thịt vô danh, không riêng biệt. Ðó là điều tôi đã mất công diễn giải cho cái cô ngốc là Toupie vốn ăn chay vì ghê sợ các lò sát sinh. Sao có nàng chẳng hiểu cho rằng nếu
ai nấy giống như cô thì đa số gia súc biến mất hết trong cảnh đời, có phải buồn chết không? Chúng sẽ biến mất giống như con người cũng đang trên đà biến mất theo nhịp chiếc xe hơi giải phóng con ngựa thoát cảnh tôi đòi.
Nói tóm lại, chất lượng con tim tôi có thể được chứng thực - nếu được – bằng một sở thích khác nữa, đó là sữa. Lối thưởng thức của tôi tìm lại được mức độ tinh vi khởi thủy bằng thịt không nấu chín và không gia vị, và biết cách khám quá vô vàn mức độ tinh vi dưới hương vị bề ngoài nhạt nhẽo của thức ăn sống, nó có dịp thao diễn trong chất sữa là chất đã trở thành khá nhanh chóng thứ nước uống duy nhất của tôi. Ở tại Paris ta phải đi xa mới tìm ra một tiệm sữa với loại sữa không bị thủ tiêu vì các lối khử trùng và khử chất thô tục kia! Thật ra, ta phải đi tới nông trại, đi tới con bò sữa, ngay cội nguồn chất lỏng ấy vốn đồng nghĩa với sự sống, sự ngọt ngào trẻ trung, đang bị trù dập vì bọn vệ sinh học, bọn nghiệt ngã, bọn cớm cùng với đủ thứ đầu trâu mặt ngựa! Phần tôi, tôi thích thứ sữa còn vất vưởng những mùi chuồng bò kèm với lông bò và cọng rạ, là những dấu hiệu của sự chính thống.
Hai kilô thịt sống cộng với năm lít sữa hàng ngày dần dà không khỏi biến dạng con người tôi, cùng với những quan hệ của tôi với thể xác. Hôm nay, nếu tôi có một khuôn mặt khó coi, thì tôi lại hài hòa với thân thể tôi. Mặc dù tôi xấp xỉ một trăm mười kilô, đôi chân tôi luôn luôn dài khô và cân xứng. Giai do tất cả sức mạnh của tôi dồn tụ lại ở vùng hai đùi to mạnh và tấm lưng u nắn của tôi, các cơ bắp phía lưng dồn quanh hai bên bả vai tạo thành một chiếc bị hai túi có vẻ nặng nề khó thở. Trong các tư thế và dáng bộ thường ngày, bao giờ tôi cũng có vẻ gập người xuống dưới sức nặng riêng của cột sống. Kỳ thật, nếu cần, tôi nhấc phần trước hoặc phần sau của chiếc xe Rosengart hoặc của chiếc Simca V như một chiếc lông vậy.
Rachel là người vốn dùng kính lúp quan sát tôi nên chỉ hiểu mọi thứ đặc điểm trên cơ thể tôi - kể luôn cả và tất nhiên là đáng kể trước tiên cái tình trạng teo chim của tôi - và chưa hề bỏ lỡ một cơ hội nào để cười cợt sự thể ấy. Tựu trung, nàng bảo, anh có một cơ thể như kẻ khuân vác, thậm chí của một con vật chở đồ nặng. Một con ngựa khỏe, anh nghĩ sao? Hay đúng hơn là một con la, vì người ta bảo giống la không sinh con.
Nàng cũng thích hành hạ tôi về chỗ xương hõm xuống giữa ngực tôi, và bọn bác học giả hiệu ở đại học gọi tên là “cái phễu giữa ức”. Cuối cũng, quá trí, một hôm tôi kể cho nàng một mẩu chuyện mà nàng trố mắt thán phục lắng nghe. Tôi bắt đầu kể:
- Hắn là Thần hộ mệnh của anh. Anh định bụng làm một điều cấm kỵ. Hắn ra mặt ngăn cản. Cả hai cãi cọ nhau, anh toan tát tai hắn. Hắn đánh trả một phát vào ngay ngực anh. Một quả đấm thiên thần. Một quả đấm cứng nặng hơn cẩm thạch. Một quả đấm bằng đồng. Anh ngã ngửa người ra ngất thở. Giá như quả đấm là thuần vật chất, nó đã giết chết anh rồi. Nhưng đây là một quả đấm thiên thần, bao bọc chung quanh bằng những chiếc lông vũ trắng của trí tuệ, như một chiếc bao tay quyền Anh lót lông mao trí tuệ. Anh đứng lên nhưng kể từ đó, anh mang dấu vết ấy, chỗ hõm trên ngực mà bọc quanh là cơ bắp ngực, nở lên như những hòn bun cứng, gân guốc, như những chiếc vú nhỏ, khô cằn tuyệt vọng. Với lại đôi khi anh thở mệt, dường như thể cú đấm cẩm thạch chưa chịu buông tha anh và lấy hết sức đè nặng xuống lên ngực anh. Riêng với anh, anh gọi tên sự khó thở này là sự đè nặng thiên thần hay nói gọn hơn là thiên thần.
Nàng nghiêm giọng hỏi đi hỏi lại khiến tôi ngạc nhiên:
- Nhưng anh có chắc là do thiên thần hộ mệnh của anh không?
- Ðôi khi anh có ngờ vực thật đấy, tôi đáp, và anh tự hỏi không biết chừng là thiên thần hộ mệnh của một kẻ nào khác chiếu mạng sai lạc xuống con người anh chăng. Hay là thiên thần hộ mệnh của em ư? Hoặc của một đứa bạn cùng chung ký túc xá với anh và nay đã chết.
Nàng hỏi thêm:
- Nhưng mà này, điều cấm kỵ mà thiên thần ngăn cản anh thực hành là điều gì vậy?
Về phương diện thiên thần đó là bệnh trạng độc nhất của tôi. Mà có phải là bệnh không đã? Dăm ông bác sĩ khám cho tôi chẳng tìm thấy trong tôi có cái gì bất thường cả và tha hồ đoán già đoán non một cách kỳ cục. Khi tôi
ngỏ lời với một ông trong bọn họ xem thử có liên quan gì giữa sự khó thở và cái hình phễu giữa ức của tôi, ông ấy nhất quyết lắc đầu.
Tôi nói rõ thêm:
- Có thể không phải là một tương quan nguyên nhân hậu quả mà một tương quan giữa biểu tượng và vật dùng làm biểu tượng chăng?
Dù sao đi nữa nhờ có thiên thần, tôi gán ghép vào đời sống hô hấp của mình một ý nghĩa cơ bản. Nhờ có đời sống này, buồng phổi của tôi thoát khỏi đêm trường tuyến hạch để ra ngoài cái ánh sáng lờ mờ của tạng phủ, hơn thế nữa, trong những trường hợp cực đoan ấy, đó là cơn bồn chồn khó thở vật tôi xuống đất chống chọi với một vòng siết vô hình cố sát, nhưng cũng là cái hít thở dài sâu bổ khoét thu hút toàn bộ bầu trời đầy én và tiếng đàn thụ cầm đang cắm thẳng vào buồng phổi tôi chiếc rễ chia ra hai nhánh.
14.4.1938. Có cần nói rõ nhờ ai tôi có được cái sức mạnh đáng gờm mà vô ích tích tụ trong đôi vai và hông tôi không? Dĩ nhiên là thừa kế của Nestor. Nếu như bán tin bán nghi về việc này, thì cái cận thị nặng nề mà hắn nhượng thêm cho tôi như để chính thống hóa việc thừa kế cũng đã đủ thuyết phục tôi. Chính sức mạnh của hắn làm căng phồng cơ bắp của tôi, cũng như trí óc hắn dẫn dắt bàn tay trái của tôi. Cũng chính hắn là kẻ nắm được cái bí ẩn của sự đồng lõa thầm kín buộc chặt số phận tôi với dòng đời, sự đồng lõa thể hiện lần đầu tiên trong vụ hỏa hoạn tại trường Saint – Christophe và kể từ đó cứ nhắc nhở tôi bằng cách lấp ló ẩn hiện hầu như bao giờ cũng lững lờ. Đó là bấy nhiều điều cảnh giác đánh thức cái bí ẩn sâu kín nhất và đen tối nhất của đời tôi trong khi chờ đợi Ngày Vui Lớn sẽ phanh bí ẩn ra ánh sáng.
15. 4. 1938. Sáng hôm qua, lễ thánh ngày thứ năm tại giáo đường Ðức Bà. Tôi chỉ bước vào nhà thờ, chỉ đi xem lễ nếu có những tình cảm lẫn lộn thích hợp. Bởi dù có lầm lẫn, Luther vẫn có lý khi tố cáo sự có mặt của quỷ Xa tăng trên ngai của thánh Phê rô. Cả một hệ thống thứ bậc đều theo đuôi Ngạ Quỷ và trâng tráo khoác lớp áo quỷ dữ trước mắt thiên hạ. Có mù mắt u mê mới không nhận ra cái phô trương của mọi thứ xa hoa tôn giáo, sự huê
dạng kệch cỡm của Xa- tăng, những chiếc miện hình mũ tai lừa, những cây trượng như bao nhiều dấu chấm hỏi, là những biểu tượng của hồ nghi, của ngu muội, bao nhiêu vị hồng y súng sính trong lớp áo tía trông giống như con Điếm đỏ trong thiền Mặc thị, và tất cả bộ sậu của thời La Mã, chiếc que tua đuổi ruồi và ngự uy của Giáo hoàng chót vót trong điện thờ thánh Phê rô với cả một cái tàn tán thô kệch của điêu khắc gia Bernin thòi xuống bốn chiếc gọng và chiếc bụng voi phệ phủ lấp bàn lễ như để vào hùa với nhau.
Tuy nhiên không có cái gì có thể che bít hoàn toàn làn ánh sáng nhợt nhạt rót nhẹ xuống cả cái đống rác rưởi ấy, bởi lẽ nếu Xa - tăng có vồ vập thừa hưởng thánh kinh Tân Ước đi nữa, thì mọi thứ ánh sáng đều xuất phát từ đấng Kitô, và các ông linh mục buộc lòng cần đến thứ ánh sáng ấy trong khi vẫn chế giễu giáo lý của người. Vì vậy không phải là ta ít khi thấy một vệt sáng len lỏi qua cả một rừng gian dối tội lỗi ấy, và trong nỗi đợi chờ tia sáng ấy tôi vẫn đến với lễ đạo nhưng càng ngày càng thưa thớt.
Buổi xem lễ cử hành trong bóng âm u của ngày thánh thứ sáu và nặng nể tĩnh tâm hơn là hào quang chiếu rạng. Sau kinh Lạy Chúa, chuông đổ làm cuối trước ngày thành thứ bảy. Tiếp đến là bài thuyết giáo có đệm đàn theo dòng nhạc một tấu khúc của Bach.
Lạy Cha tha tội cho con, chẳng qua mỗi lần nghe nhạc chính thức, giàn nhạc ống, vang vang giọng vàng trịnh trọng, là tôi trở về với những con ngựa gỗ hội chợ ở Gournay - en - Bray. Giàn quay nhai đi nhai lại cùng một điệu nhạc sôi nổi, tang tóc. Bầy trẻ con kẹp chặt mấy chiếc đùi trần vào hông ngựa đánh loáng và chỏng vó nửa vời đang hăm he ngước lên trời, hàm há hốc và mắt nổi loạn. Ðoàn trẻ con la đà một thước cách mặt đất, bay bổng theo tiếng kèn đồng của giàn đàn ống oang oang như bão táp, đúng là nhạc xưởng thợ, bao nhiêu ống xả hơi, ống đồng, trống bập, một ràn ống đan qua chéo lại, kèm theo một nữ thần của Âm ty với đôi vú đồ sộ và ánh mắt thất thần đưa tay đánh nhịp dứt khoát và chính xác. Kỷ niệm vốn khoác lên mọi thứ đã khuất một vẻ tinh thần nên chỉ đã biến trường ngựa đua ấy thành một tấu khúc giản nhịp, và trong làn ánh sáng của kính hoa chờn vờn khói nhang ấy, tôi hình dung đang quay tròn, quay tròn những đứa bé con của những năm mất hút...
Tôi chìm nghỉm vào cơn mơ đến độ giật mình theo Thánh kinh cùng Lễ rửa chân tiếp theo đó. Mười hai đứa bé đồng ca ngồi ở cánh gà, đứa trước đứa sau, để ló ra dưới lớp áo lễ mấy bàn chân trắng để trần hiện ra rõ nét một cách đáng yêu giữa cái không khí tưng bừng trịnh trọng. Ðức ngài Verdier quỳ gối tuần tự trước mặt từng đứa bé. Từ một chiếc bình bạc, ngài nhỏ vài giọt nước xuống một bàn chân trần, lau chân ấy bằng một tấm khăn, rồi hạ mình và hạ luôn bụng phệ của mình cúi sát đất hôn chân. Sau cùng để cảm ơn em bé, ngài cho nó mẩu bánh với một đồng tiền - như ở nước Đức cổ xưa sau đêm tân hôn người ta tặng cho người vợ mới của mình món quà buổi sáng sau đêm tân hôn. Bọn trẻ phản ứng khác nhau trước vinh dự ấy. Đứa thì nháo nhác nhìn quanh, đứa lại cúi mặt lặng lẽ, đứa tôi thích hơn cả là đứa có khuôn mặt thiên thần thì mím môi lại cho khỏi bật cười tràn.
Hình ảnh ấy đi vào mãi mãi trong trái tim tôi, hình ảnh ông cụ vàng bạc và áo tía đấy mình ấy, cúi sát sạt đặt môi lên chân trần của đứa bé. Và dù Giáo hội bày ra nước mắt tôi những vết ô nhục nào đi nữa, tôi sẽ không quên câu trả lời rất sâu Sắc, rất cao mà Giáo hội đã đưa ra sáng hôm qua đối với câu hỏi của Nestor, hai mươi năm trước đây, hai ngày trước khi hắn chết.
20.4.1938. Hạnh phúc ư? Trong hạnh phúc, có tiện nghi, có tổ chức, có ổn định được tổ chức, là điều xa lạ đối với tôi. Khổ sở là cảm thấy cái giần xây hạnh phúc lung lay vì những trớ trêu của số phận. Nếu theo nghĩa này thì tôi yên ổn. Tôi khỏi bị khổ, vì tôi không có giàn xây. Bản thân tôi là con người của nỗi buồn lẫn nỗi vui. Sự hàng hai này có đối lập với sự hàng hai khổ sở hạnh phúc. Tôi sống trần trụi và đơn độc, không gia đình, không bạn bè, để sống con tôi làm một nghề quá thấp kém đối với sức mình đến nỗi làm thì làm chứ nghĩ thì nó chẳng hơn gì sự tiêu hóa hay hít thở. Cái khí hậu tinh thần của tôi thường là một nỗi buồn đen như mun, đục mờ và đầy bóng tối. Nhưng cái màn đêm ấy lắm khi được xuyên thủng bằng những cơn vui vụt chợt, bất thần và run rủi, chúng tàn lụi tức thì, nhưng không khỏi để lại cho tôi đôi mắt đầy ngấn lân tinh ánh vàng nhún nhảy.
6.5.1938. Sáng hôm nay, ở trang nhất tất cả các nhật báo, người ta đăng tải các chân dung của nội các mới. Một hàng hiên trưng bày lạ mắt và bảy
mùi chết chóc. Cái chất ti tiện, bì ổi và dốt nát hiện thân muôn màu muôn vẻ trên hai mươi khuôn mặt ấy - mà người ta đã có dịp chiêm ngưỡng hai chục lần trong những chuyến “lắp ghép” khác. Ða số có tham gia vào nội các trước đây.
Bạn nên nghĩ tới một bản “hiến pháp ảm đạm” có phần nhập đề gồm sáu mệnh đề sau đây.
l. Tính chất thánh thiện là tính chất của cá nhân đơn độc không có quyền lực thật sự.
2. Ngược lại quyền lực chính trị đều thuộc cả về Ông Lớn. Tất cả những kẻ thi hành quyền lực này đều chịu trách nhiệm mọi thứ bất công của tập thể xã hội, tất cả những tội ác hàng ngày diễn ra nhân danh quyền lực ấy. Bởi thế cho nên kẻ phạm pháp lớn nhất của một quốc gia là kẻ nắm giữ chức vụ cao nhất trong hệ thống thứ bậc chính trị. Tổng Thống của nền Cộng Hòa, và sau ông, là những bộ trưởng và sau họ là tất cả những chức sắc của tập thể xã hội, các luật gia, các vị tướng, các bậc cao cấp trong tôn giáo, tất cả đều là những kẻ giúp việc cho Ông Lớn, tất cả là những biểu tượng sống của một bãi sình lầy mang tên là Trật Tự an bài, tất cả đề phủ máu me từ chân lên tới đầu.
3. Phục vụ cho những nhiệm vụ đáng kinh tởm này, các cơ quan sẵn sàng chỉnh đốn một cách hoàn hảo. Ðể đáp ứng với nghề nghiệp bỉ ổi hơn cả, một ban được tuyển chọn lãnh trọng trách tìm lấy trong các đội ngũ rác rưởi được thanh lọc để chọn lấy đội ngũ tinh vi hơn cả mà quốc gia có thể cung cấp. Điều rõ ràng là từ một hội đồng bộ trưởng, từ một hội nghị tôn giáo, từ một cuộc họp quốc tế tối cao, bẩy ra một mùi thây ma làm bay xa những con kênh kênh dày dạn hơn cả. Ở một bình điện khiêm tốn hơn, một hội đồng quản trị, một bộ tư lệnh, cuộc hội họp của một tập thể nào đó được thành hình toàn là những mớ người ô trọc mà một con người lương thiện ở mức trung bình cũng không thể nào lui tới.
4. Ngay khi một người soạn thảo ra luật, là nó đã tự đặt mình ra ngoài vòng pháp luật và cùng một lúc lọt ra ngoài vòng bảo vệ của luật. Bởi vậy đời sống một kẻ thi hành một quyền lực nào đều có giá trị không bằng một con gián hay một con rắn. Tính cách bất khả xâm phạm của nghị viên nên
trở thành một sự nghịch đảo nhẹ nhàng cho phép mỗi công nhân sử dụng tính chất ấy để bắn ngay khi bắt gặp và không cần giấy phép săn bắn vào bất cứ chính khách nào xuất hiện ở đầu súng của mình. Mỗi cuộc ám sát chính trị là một công trình lành mạnh về tinh thần, và làm cho Ðức Mẹ cùng các thiên thần trên thiên đàng mỉm cười hân hoan.
5. Nên thêm vào hiến pháp 1875 một điều khoản chiếu theo đó tất cả thành viên một chính phủ bị lật đổ sẽ bị xử bắn không được vãn hồi và không gia hạn. Ðiều không thể quan niệm được là những con người không còn được quốc gia tín nhiệm không những được quay về vô tội, mà còn tiếp tục sự nghiệp chính trị của mình điểm thêm một vòng hào quang do công việc vỡ nợ ấy mà ra. Lối giải quyết ấy sẽ có ba cái lợi là lau khô cái ung nhọt thối rữa nhất của quốc gia, tránh được sự quay trở lại của mấy bộ mặt ấy trong những chính phủ kế tiếp, và đem đến cho đời sống chính trị điều hiếm hoi hơn cả: cái không khí nghiêm túc.
6. Bất cứ ai đến phải biết rằng, khi tự nguyện khoác một bộ đồng phục nào đi nữa, nó tự chỉ định mình như người của Ông Lớn và rắp ranh bị những người đàng hoàng trả thù. Luật pháp phải xem như là những con thú hôi hám có thể săn bắn bất cứ mùa nào những bọn người như cớm, linh mục, canh gác quảng trường, và ngay cả những ông hàn.
13.5.1938. Sự nghịch đảo nhẹ nhàng. Nghĩa là phục hồi ý nghĩa các giá trị mà sự nghịch đảo nặng nề trước đó đã đảo lộn. Xa-tăng, chủ nhân của cuộc đời, được trợ giúp bằng lũ cai trị, lũ người làm luật, các cấp trên trong tôn giáo, các tướng lãnh và cảnh binh, nó chìa tấm gương soi ra trước mặt Chúa. Vì do nó thao tác, phía phải trở thành phía trái, phía trái trở thành phía phải, cái thiện gọi là ác, và cái ác gọi là thiện. Xa-tăng thống lĩnh các thành phố, điều này thể hiện ở nhiều dấu hiệu, chẳng bạn vô số đại lộ, đường phố và quảng trường lưu danh các vị võ biền chuyên nghiệp, tức là nhưng kẻ giết người chuyên nghiệp, tất cả toàn là chết trên giường, vì đúng chất của Xa tăng thì không khỏi có một phần kệch cỡm, đó là vết tích của Xa tăng vậy. Ngay cái tên xấu xí là Bugeaud, một trong những tên lái thịt gớm ghiếc nhất của thế kỷ trước, nó làm ô danh những đường phố trong nhiều thành phố ở Pháp. Chiến tranh là cái tệ nạn tuyệt đối, là một thứ được tôn thờ một cách quỷ quyệt và khó lòng tránh khỏi. Đó là một kinh lễ ám muội mà Ông Lớn cử hành giữa thanh thiên bạch nhật, và những thần tượng máu me đầy mình được các đám đông mê muội quỳ gối tôn thờ là những thần tượng mang những tên như: Tổ Quốc, Hy Sinh, Chủ Nghĩa Anh Hùng, Danh Dự. Địa điểm linh thiêng để cúng bái là điện Cựu Chiến Bính sừng sững giữa Paris với một khối cầu vàng to tướng và phinh phính nhờ những hơi hám của cái Thây Ma đế chế và của một số kẻ giết người phụ họa chết rữa tại nơi đây. Ngay cả công việc tàn sát ngốc xuẩn của thời kì 1918 cũng có những nghi thức của nó, đó là cái bàn thờ nghi ngút đặt dưới Khải Hoàn Môn, đó là những kẻ cúc cung tận tụy, cũng như nó có những thi sĩ riêng cho nó, là Maurice Barrès và Charles Péguy đem hết tài năng ảnh hưởng của mình phục vụ cho căn bệnh kinh phong tập thể 1914, và đang được nâng lên hàng phẩm trật Những Kẻ hết Lòng Lột Da Tuổi Trẻ - còn có nhiều kẻ khác nữa, tất nhiên.
Việc tôn thờ cái ác, khổ đau và chết chóc dĩ nhiên đi liền với sự căm ghét đời sống tột độ. Tình yêu – trừu tượng hóa - bị hành hạ triệt để một khi trở thành cụ thể, có hình thù và bị đặt tên là tình dục, dâm dục. Cái nguồn suối hoan lạc và sáng tạo ấy, cái của cải tối cao ấy, cái lí do tồn tại của tất cả những gì toát ra sự sống đều bị truy đuổi bằng một nỗi căm ghét kỳ quái của cả một lũ trí thức, vừa lương vừa giáo.
T.B. Một trong những đảo lộn nặng nề, cổ điển hơn cả và giết người hơn cả đã khai sinh ý niệm trong trắng.
Trong trắng là bệnh đảo lộn nặng nề do tính hồn nhiên mà ra. Hồn nhiên là sự yêu người, vui tươi chấp nhận những dưỡng chất trên trời và dưới đất, không biết đến cặp phạm trù yêu nghiệt là trong trắng và không trong trắng. Từ tính cách thánh thiện tự nhiên và như thể bẩm sinh ấy, Xa-tăng đã chế biến thành một thứ mô phỏng gần giống như vậy mà thật ra là nghịch đảo: sự trong trăng. Trong trắng là kinh tởm đời sống, ghét bỎ con người, là sự say mê hư vô một cách bệnh hOạn. Một cơ thể trong trắng về mặt hóa học là một cơ thể đã chịu đựng một sự điều trị man rợ để đạt tới cái tình trạng phi tự nhiên cùng cực ấy. Con người nào bị loài quỷ trong trắng dẫn dắt đều gieo rắc hoang tàn và chết chóc chung quanh nó. Sự tinh tấn trong tôn giáo, sự thanh lọc về chính trị, chủ trương bảo tồn sự tinh ròng của dòng giống, đó là vô số những biến dạng của chuyên đề ác độc ấy, nhưng tất cả đều đơn điệu hướng đến vô vàn tội ác mà công cụ được ưa chuộng là ngọn lửa, biểu tượng của trong trắng và biểu tượng của địa ngục.
20.5.1938. Tại nhà của Karl F., anh chàng này có một chiếc máy nhãn hiệu Mỹ có thể ghi âm – rồi mở ra nghe lại – tất cả những tiếng động thu vào một chiếc micro di động nhờ một sợi dây rất dài. Anh cho tôi nghe đủ loại tiếng nai kêu trong cơn động cỡn có sức gợi cảm kỳ lạ, đó là tôi không nói rằng mình tìm thấy trong đó một sự ám chỉ một vài tật kín của tôi. Anh có kể lại cho một vị giáo sư điểu học ở viện bảo tàng nghe những tiếng chim thu băng, ông này chỉ có khả năng xác định chắc chắn những giọng chim được nhại tiếng do một diễn viên nhà hát huýt sáo miệng mà thôi. Còn các tiếng hát chính hiệu, thu âm khó khăn trong thiên nhiên, ông cho là khó nghe, không đáng chú ý, tóm lại đều hỏng tuốt.
Karl F. tuyệt nhiên không dè gì đến cái ấn tượng gây cho tôi do một cuộn băng cuối cùng mà anh dành để sau rốt. Cuộn băng này chỉ là tiếng huyên náo dập dềnh lên mãi của một đám đông nóng nảy, bất bình, nổi giận, rồi điên tiết. Có thể dưới cửa sổ của F. không hề có cái thứ quái vật ngàn đầu này, quái vật la lối giận dữ, tru tréo cầu cứu bắt kẻ giết người, hô to lên bầu trời lời căm ghét vang dội xen lẫn vào tiếng loảng xoảng của ô kính vỡ do đá ném lên? Mà nhất là có thể nào cái đợt sóng cuồng nộ này lại không
xối xả vào riêng tôi? Tôi toát mồ hôi bồi hồi lạnh giá và mặt mày chắc là xanh lét. F. cuối cùng nhận ra. Anh hỏi tôi có sao không, từ lúc ấy đến cuối buổi, tôi đã rút ngắn lại tối đa, anh quan sát tôi lo lắng.
Làm thế nào giải thích được với anh rằng tôi sống sót đây là nhờ người ta hiểu nhầm cho tôi chỉ là một tên sửa xe mờ nhạt ở cửa thành Ternes, nhưng làm thế nào để giải thích với anh rằng nếu như người ta ngờ ngợ rằng tôi chất chứa một sức lực tăm tối nào đó thì tôi lập tức sẽ bị đám đông bức hại? Bản thân tôi cũng khó lòng quan niệm điều bí ẩn này của số phận mình: Một hôm nào đó thời tôi còn nhỏ, một chiếc đũa thần đã chạm vào tôi mà hiệu quả là hóa thân một phần con người bằng da, bằng thịt thành ra tượng cẩm thạch. Và kể từ đó, tôi đi đó đây, người tôi nửa thịt nửa đá, nghĩa là có một trái tim, một bàn tay phải và một nụ cười hòa nhã, những cũng có luôn trong tôi một cái gì đó rắn rỏi, không thương xót và lạnh giá làm vỡ vụn một cách nghiệt ngã những gì con người đâm sầm vào đó. Đó là một cách tuyên dương mà tôi là kẻ thụ lãnh ưng thuận nửa vời, có nghĩa là đắm đuối phục tùng và lặp đi lặp lại thái độ ưng thuận của mình mỗi khi có một dấu hiệu vẫy gọi tôi.
3.10.1938. Tôi đã ngưng viết từ hơn bốn tháng nay và tôi nghĩ sẽ không mở cuốn tập này ra lại nữa, ngoại trừ có một biến cố phi thường. Sự việc xảy ra sáng hôm nay có một tầm mức quá lớn nên phải trần thuật lại đây và càng xác thực càng tốt.
Tôi thức dậy khoảng sáu giờ trong một tình trạng vô cùng bải hoải. Tôi định rú lên một tiếng như nai kêu, kế đó sẽ gội đầu bằng C, nhưng một nỗi chán sống rút hết tất cả sức lực để cầu cứu tới những phương chước vô vọng ấy. Cái đáng sợ trong những tình trạng sa sút tinh thần, chính là sự sáng suốt - ít ra là cái vẻ bên ngoài sáng suốt - thường đi kèm và củng cố thêm sự sa sút ấy. Nỗi tuyệt vọng sẵn sàng hiện đến, khó lòng ngăn cản, như thể lời đáp lại duy nhất và chính thống cho cái vô nghĩa của đời sống. Bất luận thái độ nào khác - đã qua hoặc sắp đến - dường như do tình trạng say khướt mà có. Ðời sống chỉ kham nổi trong tình trạng say khướt mà thôi. Say rượu, say tình, say đạo. Con người là sinh vật của hư vô, nó chỉ có thể đương đầu với sự chìm nổi khó lòng quan niệm xảy đến với nó - một số năm tháng hiện hữu – bằng cách say rượu mềm môi.
Tôi không chịu cạo râu. Tôi xỏ chiếc quần quai và bước xuống tiệm xe chẳng buồn vào bếp làm cà phê. Hễ gặp những điều gì đi nghịch lại với tôi, tôi phải chống đỡ bằng lớp áo giáp của người máy rô-bô vốn không có những khiếm khuyết của con người. Sáng hôm nay, tôi sẽ là ông chủ cửa hàng sửa xe Balion vậy, không hơn không kém. Thằng Ben Ahmad là đứa đầu tiên nhận thấy điều này. Gã mù chữ này có một thiên tài đích thật đối với tất cả những gì là cơ khí, nhưng nó “đánh hơi”, nó không có phương pháp, không có sự chính xác. Nếu cần điều chỉnh ống xả hơi của một chiếc Georges Irat - mà máy nổ chỉ là máy của chiếc 11 mã lực Citroen nhẹ - hắn cho ống xả hơi vào máy dập đặc biệt và cuối cùng là dập luôn các ghế ngồi. Nhưng hắn không thể nào giải quyết bằng cách thử lại bộ dĩa và vẽ lên mặt dĩa các đường đo bằng bút chì rà theo bán kính của đầu ống và gạch nét cách nhau khoảng 2 hay 3mm. Có thể hắn lúng túng khi dùng bút chì. Tôi gầm gừ đẩy nó ra khỏi hông xe và đích thân nhúng tay. Sau đó thằng Jeannot bị mắng mỏ vì đến trễ. Lập tức tôi sai nó vào bàn thợ với mười hai chiếc lốp cần sửa lại các van. Kế đó tôi vào đóng cửa phòng kính dùng làm bàn giấy của tôi với một chồng hóa đơn cần viết. Ðến bảy giờ rưỡi, anh chàng Gaillac gửi chiếc 402B để kiểm tra đèn, rồi gã bưu tá đưa thư. Ngày mở màn cà rịch cà tàng.
Lúc này là chín giờ kém mười lăm và tôi chuyện trò với cô Toupie về chiếc Rosengart của cô, lúc ấy Ben Ahmad sửa xong chiếc Georges Irat và rồ máy. Một tai nghe cô Toupie, một tai lắng nghe tiếng máy chiếc Georges Irat đang có vẻ chạy tốt tuyệt trần. Cái vẻ Ben Ahmad đạp máy nổ tái đi tái lại bắt đầu làm tôi ngấy. Máy rù rù như tiếng rù rù của con mèo khỏe, việc gì rú khan tàn bạo vậy? Tưởng chừng Ben Ahmad khoái nghe nổ và khoái nghe mùi ga xả ra tỏa đầy cả hãng. Cuối cũng mới im lặng. Cô Toupie nói với tôi về trường đạo Saint - Dominique, nơi đây cô giảng dạy môn Triết. Tôi hỏi han cô bằng một vẻ hiếu kỳ không phải là vờ vĩnh, vì tôi bao giờ cũng chú ý đến vấn đề nội trú là tôi tự hỏi nội trú nữ sinh nó ra làm sao nhỉ? Ðúng lúc này chiếc Goerges Irat lại rú lên đến nỗi lấp hết tiếng chúng tôi. Rồi giữa tiếng ồn gia tăng dữ dội, tôi nghe rõ một tiếng kim khí rất khô khan. Tiếng này cũng không lọt khỏi tai của Ben Ahmad, nó ngưng xả ga tức thì. Từ chỗ tôi ngồi, lúc ấy tôi thấy thằng Jeannot đưa bàn tay lên màng tai, ngã người về phía trước gục xuống bàn, quỵ gối xuống, ngã người ra đất. Tôi hiểu ngay rằng một cách quạt như thế là gẫy xuống đập vào hắn
cực mạnh. Tôi nhảy ra lao tới hắn ngay, và đưa tay nhấc thân hình gầy gò mê man của hắn lên.
Lúc bảy giờ một cái gì đó phủ lên người tôi, dịu nhẹ một cách không chịu nổi và đau xé lòng. Tôi đứng như trời trồng vì một nỗi ơn phước từ trời giáng xuống như sét đánh. Đôi mắt tôi chằm chặp nhìn vào cái thân thể oằn trong tay tôi mà đầu này là một bộ xương xẩu máu me dưới mấy chùm tóc màu trái dẻ còn đầu kia là hai cái gối ốm o, sát rạt, và hai chiếc giầy thô kệch, nặng nề, lủng lẳng vu vơ trong khoảng không.
Ben Ahmad thẩn thờ nhìn tôi. Tôi không động đậy. Dễ thường đứng thế này suốt đã cũng nên. Hãng Ballon sửa xe biến dạng hẳn, với mấy cây xà ngang vất vưởng mạng nhện cùng những ô cửa kính cáu bẩn. Chín đoàn đồng ca của thiên thần bao bọc lấy tôi bằng một không khí vinh danh vô hình Sáng láng. Không gian tràn đầy mùi nhang và âm thanh nhạc ống. Một dòng sông êm ái uy nghi chảy chuyền trong huyết quản của tôi. Cuối cùng Ben Ahmad phải xen vào.
- Nhìn kìa. Hắn vừa nói vừa trỏ một vệt thẫm lan ra trên đất nện. Nó chảy máu!
Liền sau câu ấy, một khoảng im lặng kéo dài lung linh một nỗi hoan lạc phủ xuống chúng tôi. Cuối cùng tôi nói được nên lời:
- Tôi chưa hề tưởng và bồng một thằng bé trên tay lại thích thú đến thế này!
Và câu nói đơn giản này làm sống dậy trong ký ức tôi một âm vang rền sâu.
Cô Toupie là người phá tan bầu không khí ấy. Cô quyết liệt lôi tôi lên chiếc xe Rosengart, tôi xoay xở ngồi ra phía sau cùng với vật nặng. Rồi thẳng đường tới bệnh viện Neuilly.
Jeannot không bị thương trầm trọng. Rách da đầu dài và chấn xương sọ. Không có vết rạn ở sọ. Tôi đưa hắn về nửa mê nửa tỉnh tại nhà mẹ hắn, bà này suýt ngất khi thấy băng bó cồm lên như vấn khăn. Kẻ bị thương nặng
nhất trong hai đứa, vẫn là tôi, và tôi không ngớt nhẩm đi nhẩm lại điều tôi phát hiện rõ nét nhân vụ tai nạn ấy.
6.10.1938. Tiếng đầu tiên xuất hiện dưới ngòi bút của tôi, bề ngoài là một tiếng xoàng xĩnh, yếu kém, nhưng nó tỏ ra thật là hùng hậu: sự sung mãn. Phải, một thứ sung mãn nào đó đã bao trùm lấy tôi từ chân lên tới đầu khi tôi bồng lên tay cái thân hình bất động của Jeannot. Tôi nói rõ là từ chân lên tới đầu, khác với sự cụp lạc bình thường được khoanh vùng một cách bó hẹp và thô tục, cái luồng cực lạc đề cập ở đâu đã phủ chụp toàn châu thân tôi, chan rưới những tầng sâu thẳm nhất trong tôi, những cực đoan xa xôi nhất. Đây không phải là sự lích chích khoái cảm và giới hạn, mà là một tràng cười vỡ tràn khắp con người. Đến đây, tôi buộc lòng ngoái lại những chiêm nghiệm của mình về Thánh kinh, ngoái lại hình ảnh ông A-dong thượng cổ trước giờ Sa Đọa, kẻ cõng đàn bà và cõng trẻ con, triền miên lên cơn giậm giật – kẻ chiếm đoạt và kẻ bị chiếm đoạt – mà bao nhiêu tình yêu tầm thường của chúng ta chỉ là cái bóng mờ nhạt. Có thể nào cái thiên chức ngoại hạng của tôi sẽ giúp tôi trong hoàn cảnh nào đó đạt tới sự xuất thần của vị tổ loại người lưỡng tính ấy chăng?
Nhưng tôi cũng nên thoát ra ngoài vòng tư biện và tiếp cận cái cụ thể. Cái dữ kiện rành rành khách quan là kinh nghiệm hôm qua của tôi, ấy là trọng lượng của Jeannot, một trọng lượng có thể định nghĩa bằng kilô kèm theo đầy đủ sự chính xác nếu muốn. Cái trọng lượng ấy, chính tôi là kẻ đã chuyên chở, và như thế là: Sung mãn!
Đó là cảm giác thoải mái, theo nghĩa nhạt nhẽo của từ điển. Nhưng từ nguyên của nó có ý nghĩa nhiều hơn. Có ý nghĩa là điều tốt, là hạnh phúc, là niềm vui bình lặng và quân bình. Và cũng có nghĩa là thủ thân, giữ mình. Kẻ sung mãn là kẻ giữ mình được hạnh phúc, là kẻ thủ thân hoàn hảo. Nhưng có thể nói nôm na rằng kẻ ấy mang, đèo một cách hạnh phúc. Và đến đây, một tia ánh sáng bỗng rọi vào quá khứ của tôi, hiện tại của tôi và, biết đâu, luôn cả tương lai của tôi nữa bởi các ý tưởng nền tảng là mang đèo ấy cùng ẩn chứa trong cái tên Christophe, là gã khổng lồ Công-Chúa, cái ý tưởng ấu cũng được minh họa qua truyền thuyết của Albuquerque, cúng như nó lại hiện thân lần nữa trong những chiếc xe hơi được tôi chăm lo
"""