🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Chữa Bệnh Theo Chu Dịch Ebooks Nhóm Zalo TRI THỨC GIA ĐÌNH LÝ NG Ọ C SƠN - LÝ KIỆN DÂN Biên dịch theo bản tiếng Trung Quốc, của LÝ NGỌC SƠN và LÝ KIỆN DÂN CHỮA BỆNH THEO CHU DỊCH LỜI GIỚI THIỆU Chu Dịch hay Dịch Học xuất hiện tại Trung Hoa cô xưa, nội dung của học thuyết này có quan hệ mật thiết với các lĩnh ưực của đời sống xã hội phương Đông như: Y học, K hí công phu, Địa lý phong thủy, Dưỡng sinh, Lịch pháp... Đối với Y học phương Đông (Trung y), là một ngành chân đoán và trị bệnh trên nền tảng và tinh thần của Dịch Học. Từ bao đời nay các nhà y học phương Đông đã trị bệnh theo phương hướng cản bằng Am Dương, theo sự điều hòa mối quan hệ tương sinh, tương khắc, tương chế, tương hòa... trong lục phủ ngũ tạng theo học thuyết Ngủ hành phản ánh trong cơ thê một con người. Ngành Dược học của phương Đông củng phản chia các vị thuốc từ thảo mộc, sa khoáng, động vật theo tiêu chuẩn tính Dươĩig và âm (hàn, nhiệt, binh), đ ể từ đó tạo ra một phươìig thức dược tính sao cho phù hợp với sự cân bằng Am Dương trong người khi điều trị. Do đó, khi nối đến y học phương Đông, người ta luôn luôn nói đến vấn đề Dịch /ýắ Chính vì vậy, đã tạo ra một học phái Dịch Học trung y là Y Dịch. Cuốn sách "Chữa bệnh theo chu dịch" của hai tác giả Trung Hoa họ Lý: Lý Ngọc Sơn uà Lý Kiện Dân, đả mô tả sự đồng nhất qiừa các bộ phận trong cơ thê một người với không gian sinh tồn - không gian Ảm Dương (hay Không gian Dịch Học) là một vấn đ ề trọng tâm mà Y Dịch đã chi ra. Nội dung cuốn sách đã phản ánh rõ nét sự tương đồng giữa các bộ XUiX LÝ NGỌC SƠN - LY KIỆN DẨN phận cơ Ị hô với các (lạn,ự thức khóng gian, diều mà cuốn sách mọi là Bat Quái cùng với ỉượng sỏ' tự nhiên dặc biệt cua chúng (từ 1 đàn 9 ; ệ Từ đây có thê “điều chình " hãng V qiữa rcícẩ (lạng thức không gian với các bộ phận CƯ tho sao cho trơ uể trạng thái quản binh Am Dương, lúc đó mọi bệnh có thế được tiêu trừ, cơ thê con người phát triển, tồn tại binh thường. Đây chính là phương pháp "luyện ý" đê chữa bệnh rất độc đáo rút ra từ tư tưởng của Y Dịch mà hai tác giả Lý Nqọcẳ Sơn và Lý Kiện Dân nêu ra. Mục đích chung của phương pháp lu vện V mà cuốn sách đề cập tới cũng vẫn là hướng mọi người làm chủ lấy minh, làm chủ thiên nhiên tai chính bản thăn, đẽ đạt tới sự cân bằng Ảm Dương tuyệt đối - tới cái không vĩnh cửu của uủ trụ, lúc đó, cá nhàn có trạng thái đặc biệt mà lúc thường khống có, điều mà nhà tư tưởng lỗi lạc Trung Hoa cỏ Trang Tủ viết: Tập trung chỉ của mi, không nghe băng tai mà nghe bằng tâm, không nghe băng tâm, mà nghe bang hơi. Nghe n gừn g ở tai, tâm n gừn g ở chỗ p h ù hơp. Hơi ây trông rỗng mà đợi vật vây. Chỉ cỏ đcio mới tập hợp dươc trông không. Trông không vô tư, ấy là chay lòng vây" (Trang Tử - Nhân gian thê). Cuốn sách có giá trị trong nghiên cứu V học phương Đông, trong dưỡng sinh, trị bệnh một cách giản đơn mà bất cứ ai ở bất cứ đâu cũng có thê áp dụng được. BÙI BIẾN HÒA Viện Thông tin Khoa học Xã hội Trung tám Khoa học Xã hội và Nhàn văn QiŨKẵ L>'ia S j u x CHỮA BỆNH THEO CHU DỊCH LỜI TỤệA "Chu Dịch" là đại biếu văn hóa truyền thông của Trung Quốc, còn tượng sổ" lại đóng vai trò "hạt nhân" của dịch học. "Tượng sô"" và "Dịch chiêm" là hai kho báu tinh thần cực kỳ phong phú trong "Dịch học" mà trong đó "Tượng số” chính là cơ sở của nó. Lý luận tượng sô của "Chu dịch" đã thấm sâu trong văn hóa truyền thông, ứng dụng linh hoạt. Từ cổ đến nay dù là tư duy triết học, thiên văn khí tượng, tâm lý y học hay lịch sô" kiến trúc, dự toán đo đạc địa lýẳ.. đều không thể không liên quan mật thiết với tượng sô', đủ để thấy tượng s ố có địa vị trọng đại trong văn hóa truyền thông. Cuốn “Chữa bệnh theo chu dịch” do hai học giả Lý Sơn Ngọc và Lý Kiện Dân biên soạn. Các ông đã tuân thủ các nguyên lý tượng s ố dịch tượng, đồng thòi lấy lý luận tàng tượng của Đông y làm cơ sở. kết hợp với V niệm khí công, đã sáng tạo ra một phương' pháp điều trị tượng s ố bát quái. Đây là một phương pháp điều trị bằng khí công loại mới, thông LÝ N G Ọ C SƠN - LÝ KIỆN DÂN qua ngưòi bệnh đọc nhẩm một nhỏm tượng sỏ bát quái được sắp xếp theo y dịch để đạt tới mục đích chữa khỏi bệnh, nó được kết hợp hữu cơ giữa Chu dịch, đông y và khí công đựới sự chỉ đạo của tư tưởng triết học biện chứng duy vật của Chu dịch, lấy học thuyết bát quái làm hạt nhân, lấy lý luận tàng tượng của đông y làm cơ sở, lấy tượng sô'bát quái làm môi giới truyền đạt tin tức, đồng thời lại tiếp thu được phương pháp điều trị đơn giản, thực dụng mà kỳ diệu của nhiều thành quả nghiên cứu khoa học hiện đại. Tượng sô^ bát quái, gồm 8 quẻ, tượng và sấ Tám quẻ là càn ( = ) , đoài 1= ), ly(E=E), chấn (=-=), tốn (==), khảm (=_=) , cấn< —1, khôn (= = ) , tượng của bát quái tương ứng có sô" của bát quái là Thiên, Trạch, Hỏa, Lôi, Phong, Thủy, Sơn, Địa, tức là sô" thứ tự 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8 của tiên thiên bát quái. Cổ nhân nói: "Bát quái thành liệt, tượng tại kỳ trung” (tức 8 quẻ xếp thành hàng, tượng nằm trong nó). Có nghĩa là nói bát quái chia nhau đại biểu 38 loại tượng vật nói trên, cổ nhân nói: "Phục Hy vẽ bát quái bắt dầu từ số’" tức là các số tự nhiên nói trên. Như vậy tượng và số’ là gắn với nhau không thể tách ra được, nó là một thực thế, được gọi "tượng dĩ định sô"", "sô" dĩ trưng tượng". Dịch học cho rằng bát quái là mô thức cơ bản của kết cấu vũ trụ, tượng của bát quái là tượng trưng vạn 8 CHỮA BỆNH THEO CHU DỊCH Sự. vạn vật (kể cả phủ tạng' co' thể), số của bát quái là dịch số của vạn sự, vạn vật của vũ trụ. Tượng sô" là kết quả tạo hóa tự nhiên, là căn nguyên về vận động của vũ trụ. Chính thể quan hợp nhất giữa trời và ngưòi của "Chu dịch". Thế giói vật chất là một thể tương quan với nhau, thông liền với nhau, mà bát quái là mô thức kết cấu cơ bản của nó, lớn đến thiên thê vũ trụ, nhỏ đến phủ tạng, tế bào của cơ thể ngưòi đều như vậy cả. Lý luận "Tự nhiên toàn tức luận" hiện đại cho rằng, toàn vũ trụ từ cách nhìn vĩ mô hay vi mô đều có luật toàn tức luận. Lý luận "luật toàn tức sinh vật" hiện đại cho rằng bất cứ một phần nhỏ nào của sinh vật đều là "hình ảnh thu nhỏ” của chính thể, giữa chính thê và cục bộ đều có liên hệ tính chất toàn tức. Như vậy Bát quái là hình ảnh thu nhỏ toàn tức của cả vũ trụ, còn cơ thê con người cũng là hình ảnh thu nhỏ toàn tức bát quái của cơ thể con ngưòi, giữa chúng đều có liên hệ về tính chất toàn tức, là một chính thế thông suốt với nhau. Bác sĩ Lý Ngọc Sơn có nêu: Khi người bệnh đọc nhẩm một nhóm sô" bát quái, sẽ hình thành sóng tin tức với năng lượng nào đó, những sóng này sẽ được vận chuyến từ đại não đến mọi phương vị của phủ tạng. Khi những sóng tin tức này làm thức tỉnh, kích thích phát động những tin tức bát quái tương ứng trong phủ tạng và tế bào hội tụ thành sóng tin tức với năng lượng nào X U i X LÝ NGỌC SƠN - LÝ KIỆN DẨN đỏ. sẽ cùng hoàn thành hai hạng mục. một là điều chinh chức năng chính thê. hai là xung kích vào các "ổ bệnh" cục bộ. khiến các tỏ chúc kết càu bál quái của ổ bệnh từ vô trật tự biến sang có trật tự. khiến trường cơ thể cộng chấn đồng bộ với các vũ trụ, từ đỏ hợp nhất được trời với người, thông các kinh lạc trong cơ thể, cân bằng âm dương, điều hòa khí huyết, đạt tới mục đích chữa bệnh làm khỏe người. Bác sĩ Lý Ngọc Sơn củng từ "Chu dịch" và các văn kiện cổ tìm được lấy Càn là đầu, đại tràng; Đoài là mặt, tim; Chấn là chân, Can; Tôn là đùi, mật; Khảm là tai, thận; Cấn là tay, dạ dày; Khôn là bụng, tỳ. Đã tìm ra các cách ghi dùng trong các đơn thuốc trong "Thiên địa chi cốt” còn phát hiện ra cách dùng sô"hay của "sô" trong các đơn thuốc của các danh y cổ xưa. Như trong đơn thuốc có ghi "Đại táo 6 quả" mà không cần là to, nhỏ, chang cần đến trọng lượng mà chỉ là "sáu” điều đó phải chăng là ngẫu nhiên chăng? ớ đây không chỉ là 6 quả có tác dụng dược tính của nó, mà sô" "6" cũng lại là mảnh cắt về tin tức, điều đó nói lên rằng các người xưa đã đùng tượng sô'kết hợp với thuốc trên lâm sàng. Bác sĩ Lý Ngọc Sơn dựa trên thực tiễn lâm sàng đã bao quát các đặc điểm của điều trị tượng sô' là: "tự nhiên", "tự do", "tự vi" và "mỗi chìa mở một khóa". “Tự nhiên" là chỉ khi người bệnh đọc nhẩm tượng sỏ', tâm trạng tự nhiên, hình thái tự nhiên, CHỮA BỆNH THEO CHU DỊCH không* cần có tác động đặc hiệt ở hên ngoài, cùng không cần tư thế đặc biệt nào, cũng chang can ý niệm đặc biệt nào. “Tự do" là chỉ khi người bệnh đọc nhẩm tượng s ố có thê tiến hành tự do, tùy lúc, tùy nơi, cũng không cần chọn thời gian, địa điểm, chiểu hướng, lúc trà dư tửu hậu, sớm hoặc tối, đi, ngồi, nằm, đánh răng, súc miệng, xem ti-vi, tán gẫu... đều được. "Tự vi" là chỉ yêu cầu người bệnh tự mình lo liệu không cần phải có nhiều người một lúc. không cần có sự ám thị và chỉ dẫn của thầy dạy khí công, không cần khí công sư phát ngoại khí. “Mỗi chìa mỏ một khóa" là chỉ điều trị cho mỗi người một khác, mỗi bệnh một khác, khôn^ phải một nhóm tượng số là dùng cho tất cả mọi người, mà là mỗi bệnh thì đều có nhóm tượng sô" khác nhau, tức là mỗi người, mỗi bệnh sẽ có một "sô"" riêng. Nó không phải là hàng vạn người tập một loại công, hàng nghìn người niệm một số, mà là chìa nào mở khóa nấy. Vấn đề mấu chốt của phương pháp điểu trị tượng s ố bát qu ái, tức là điều trị biện chứng, lập sô" như thế nào. Cũng tương tự như đông y "thuốc đông y vô hình", "khí công bất động" uy lực của tương s ố rất lớn, nếu không lập được sô" chính xác thì cũng khó đạt được mục đích chữa bệnh, do đó cần phải nắm vững lý luận cơ bản của Chu dịch và LÝ NGỌC SƠN - LÝ KIỆN DÂN đông y. biết được phương pháp điểu trị biện chứng, nếu không sè không hiếu được và không nam được "bát quái vi thê, ngũ hành vi dụng, tùy loại để chọn tượng, lấy tượng đê chọn số, thi trị biện chứng, cân bằng âm dương" là những nguyên tắc của liệu pháp tượng số bát quái, nếu không hiểu và nắm được phương pháp cụ thê lập sô", tức là không biết lập số theo tượng của bát quái, lập sô" theo sinh khắc của ngũ hành., lập sô" theo học thuyết tàng tượng, lập số theo tả sứ quân cự, lập sô" theo tuần hành kinh lạc. Chọn lập sô" không thể đơn giản, không chỉ là cứ đau đầu là niệm 1, đau chân là niệm 4, mà học vấn của liệu pháp tưựỉĩg sô' bát quái là toàn bộ nằm trong cách chữa theo biện chứng và cách lập sô". Vậy thì đặc điểm "Chìa nào mở khóa nấy" có ảnh hưởng đến tính phổ cập của liệu pháp này không? Liệu pháp tượng số bát quái gồm có đặc điểm tự nhiên, tự do, tự vi, điều đó sẽ tạo ra các điều kiện có lợi mang tính phổ cập, còn chìa nào mơ khóa nấy, đó chính là tư tưởng minh triết, là tinh thần cầu thực của nền y học cổ truyền, chỉ cần có hiệu quả điều trị tốt, được quảng đại người bệnh tiếp thu. Liệu pháp tượng s ố bát quái nó truy tìm thực dụng và hiệu quả thực tế. Chúng tôi tin rằng, liệu pháp tượng sô' bát quái sẽ mang đến những nụ cười ấm áp cho mọi nhà. XÍCH PHONG NHẬT BÁO CHỮA BỆNH THEO CHU DỊCH CHƯƠNG I C ơ SỞ LÝ LUẬN CỦA LIỆU PHÁP TƯỢNG s ố BÁT QUÁI PHẨN ỉ LIỆU PHÁP TƯỢNG SỐ BÁT QUÁI VỚI CHU DỊCH Nguồn gốc tượng sô" của liệu pháp tượng sô" bát quái là từ ,”Chu dịch". Liệu pháp tượng sô" bát quái là một phương pháp điều trị đơn giản thông qua nhẩm đọc một nhóm mật mã tượng sô" để chữa khỏi bệnh. Tượng sô" là nội dung cơ bản của "dịch sổ”, trong Chu dịch thì toàn là tượng và sô". Như trong "Chu dịch" phần "Hệ từ” có nói: "tượng giả, tượng dã; tượng dã giả, tượng dã". Nghĩa là: Tượng tức là hình tượng và ngược lại: "Hình tượng cũng là tượng". Nói một cách khác, tượng là chỉ tượng của âm dương vạn vật, vũ trụ; sô" là chỉ sô" của âm dương vạn vật vũ trụ. Tượng là cơ sở vật chất của x u ư x LÝ NGỌC SON - LÝ KIỆN DÀN sỏ", số là tư duy trừu tượng của tương, (tượng dĩ dịch sò\ sô" dĩ dịch tượng) hai cái đó gắn liền với nhau không thể phân cách: là nhất thể, đều hàm chứa những tin tức vũ trụ phong phú, là hình ảnh thu nhỏ của thiên đạo, địa đạo, nhân đạo, là môi giới trọng yếu để trường bát quái cơ thể người cùng cộng chấn với trường bát quái vũ trụ. Liệu pháp tượng sô" bát quái là một phương pháp điểu trị vận dụng tượng sô" bát quái để chữa bệnh, cho nên cẩn phải học tập nghiên cứu liệu pháp tượng sô" bát quái, phải nắm vững và thành thuộc tri thức cơ sở của bát quái. Liệu pháp tượng sô" bát quái còn được gọi tắt là “tượng sô" liệu pháp". A. HỌC THUYẾT BÁT QUÁI Bát quái là quải treo 3 hào được tổ hợp thành một quái, gồm hào dương (—), hào âm (------- ), là các dấu hiệu của 8 loại hiện tượng cơ bản nhất, th ượng trưng trong vũ trụ của "Kinh Dịch", là đại biểu tính năng vạn vật đều biến hóa theo hai khí âm dương, là chỉnh thể của vạn tượng bao la. Bát quái bao hàm trong quan hệ chỉnh thể quan, vận động quan, bình hoành quan của vạn vật vũ trụ, bát quái tượng sô" liệu pháp trong quan hệ lấy bát quái vi thể, ngũ hành vi dụng, chính là thể hiện nguyên lý vĩnh hằn^ của vũ trụ. Học thuyết bát CHỮA BỆNH THEO CHU DỊCH quái là lý luận hạt nhãn Iẽiia liệu pháp tượng S(V. Bát quái là một loại quái '■] hào. gồm có 8 cái gọi là kinh quái hoặc đơn quái. Bát quái đểu có quái hình, quái danh, vật tượng trưng, thuộc tính chức năng như bảng sau: Quai 1 1 1 Can quyết (cảu đẻ dỗ nhớ) Số quai Tư nhiên Thuộc tinh chức nãng cơ bản Ngũ hánh Cơ thể Quan hẻ gia tộc Can tam lièn 1 Thiên Kiện (khoẹ) Kim Đại trảng, đáu 8(5 Ị _ Doải thượng khuyết 2 Trạch Duyệt (vui) Kim Phế tràng, Khẩu (móm) Thiếu nữ Ly trung hư 3 Hoả Lẻ (đẹp) Hoà Tãm bào, Mục (mắt) Trung nữ Chấn ngưỡng mánh 4 Lôi Động Mộc Can (Can) Tủc (chàn) Trưởng nam -------- Tón ha đoan 5 Phong Nhập (váo) Mộc Đàm (mậl) Củ (đùi) Trường nữ ---- Khảm trung mãn - -Cấn phuc uyển 6 Thùy Hãm (lún lõm) 7 Sơn Chì (ngừng) Thuỷ' Thản Nhĩ (tai) Thổ Vị (dạ dày) Thù (tay) Trung nam Thiếu nam - — Khòn lục doạn 8 Địa Thuận Thổ Tỳ (lả lách) Phúc (bụng) Mẹ LÝ NG Ọ C SƠN - LÝ KIỆN DẨN 1 . Quái tượng và quái số Tượng sô" là thuật ngữ thường thấy trong học thuyết bát quái, nó bao hàm thần uy rất lớn, cơ bản nhất là tượng của bát quái; mỗi một quái tượng đều hàm nghĩa một sô nhất định, tức là "tượng dĩ định số”, (Tức vốn đã được xác định ở số), "số dĩ trưng tượng "(Scí vốn được tượng trưng ở tượng), tượng số thực chất là nhất thể. Nay giới thiệu giản đơn về quái số và quái tượng như sau: Quái tượng là các sự vật tượng trưng cho một quái. "Dịch giả tượng dã", (Dịch vốn là tượng vậy). Bát quái đại biểu cho tính chất cơ bản của vạn vật, vạn sự của vũ trụ, tính chất của vạn sự, vạn vật có thể trừu tượng thành 8 loại. Trong "Thuyết quái" nói: "càn là ngựa, khôn là trâu, chấn là rồng, tôn là gà, khảm là lợn, ly là trĩ (chim trĩ), cấn là chó, đoài là dê. Mà càn CÒÌ1 là đầu, khôn là bụng, chấn là chân, tốn là đùi, khảm là tai, ly .là mắt, cấn là tay, đoài là miệng" v.v... Chữ "là" ở đây không phải chữ "là" bất biến, cần hiểu nó một cách tương đối, không cô" định. Cũng tức là bát quái có thể đại biếu cho bất cứ vật gì, sự vật mà nó đại biếu là vô hạn. Nhưng bản thân nó ngược lại cái gì cũng đều không phải (các loại quy nạp vạn tượng khác của tượng bát quái, còn ít được bàn luận tớiễ..). Từ đó chúng ta có thể hiểu nội dung "tỷ loại CHỬA BỆNH THEO CHU DỊCH thủ tượng" (so loại láy tượng) của bát quái, tuần hoàn từng bước quy luật của nó. mới có thê vận dụng linh hoạt lập sỏ của tượng' trong sinh lý, bệnh ]ý trong cơ thể con người. Cái gọi là quái ổố chỉ là những chừ sô" tượng 'trưng cho mỗi quái. Chữ sô" tượng trưng cho bát quái, được phân thành tiên thiên bát quái sô" và "hậu thiên bát quái số'. Số được dùng trong liệu pháp tượng sô" là sô" của tiên thiên bát quái (xem bảng trên) . 2. Bát quái đồ Về hình thức bản đồ của bát quái, cổ nhân có đê lại tiên thiên bát quái đồ và hậu thiên bát quái đồ. Theo truyền thuyết tiên thiên bát quái đồ là do Phục Hi vẽ, nên được gọi là "Phục Hi bát quái đồ". Nó gồm hai loại là "Phục Hi bát quái phương vị đồ" và "Phục Hi bát quái thứ tự đồ". Còn hậu thiên bát quái là do Văn Vương làm ra, nên được gọi là "Văn Vương bát quái đồ”. Nó cũng gồm hai loại là "Văn Vương bát quái phương vị đồ" và Văn Vương bát quái thứ tự đồ". Trong quá trình chúng tôi nghiên cứu tiên hậu thiên bát quái phương vị đồ và thứ tự đồ, có thể tìm hiểu được liệu pháp tượng số. Nguyên nhân vì sao lại lấy sô" của tiên thiên và của hậu thiên. Dưối đây xin trình bày các nội dung có liên quan đến bát quái của tiên thiên và hậu thiên. LY NGỌC SƠN - LY KỈẸN DAN /. Tiên thiên bát quái phươtig I'ề/ đồ Cù o (? ' 1 ữp ■ v ì :,r«v Tử 6a/i yè írển cho thấy. Quẻ càn ỏ phương nam, quái sô' là l ế Quẻ đoài ở đông nam, quái sô"là 2. Quẻ ly phương Đông, quái sô" là 3. Quẻ chấn ỏ đông bắc, quái số là 4 Quẻ tôn ở tây nam, quái sô" là 5. Quẻ khảm ở phương Tây, quái số là 6. Quẻ cấn ở tây bắc, quái sô" là 7. Quẻ khôn ỏ phương bắc, quái sô" là 8. Người xưa ỉ ấy bên trên là Nam. hên dưới là Bắc, bên trái là Đông, phải là Tây. Bản họa này gọi là "Phục Hi bát quái phương vị đồ". Trong phần "Thuyết quái" của Chu dịch có CHỮA BỆNH THEO CHU DỊCH viết: “thiên địa định vị. sơn trạch thống khí. lỏi phong tương hạc. thủy hỏa tương xạ" đây là cơ sò lý luận của tiên thiên bát quái phương vị. Trong câu nói trên đã dùng 8 loại vật tượng trưng đại biểu cho 8 quái (8 quẻ), nói rõ phương vị của chúng. Đó chính là tương đối theo cặp. Thiên địa (2 quái càn, khôn). Sơn trạch (2 quái cấn, đoài) Lôi phong (2 quái chấn, tốn). Thủy hỏa (2 quái khảm, ty). Hình thành tiên thiên bát quái phương vị đồ, còn gọi là bát quái đối đãi đồ (đối đãi có nghĩa là trong tương quan đối lập). Như vậy tiên thiên bát quái đă định ra không gian, và đã dùng 8 thuộc tính để định ra các hiện tượng tự nhiên của vạn vật trong vũ trụ; cho nên tiên thiên bát quái đồ là bản vẽ mô thức về tượng tự nhiên của thiên địa. Vì vậy nó đã phản ánh được như quy luật nguyên bản, và sự tồn tại của tiên thiên. Phần “Hệ từ" của Chu dịch có nói: "Dịch hữu thái cực thị sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái". Đó là tiên thiên bát quái và quá trình sản sinh ra thứ tự của nó, là quá trình hình thành vũ trụ. Quá trình này tự nhiên đã hình thành nên một thứ tự, tức càn 1, đoài 2, ly 3. chấn 4, tôn 5, khảm 6. cấn 7. khôn 8. Cho nên tiên thiên bát quái sinh, tự đắc kỳ số. Vì thế sô" x u ư i LÝ NGỌC SƠN - LÝ KIỆN DÁN tiên thiên là tự nỏ sinh ra bản thán nỏ, tức là nguyên bản của thế giới ]à đầu nguồn. Bất cứ trường hợp nào, thứ tự quái của nó đều cố định, luôn bất biến; cho nên có thê bao hàm những tin tức của vạn sự vạn vật vù trụ. Đó là một trong những' căn cứ dùng số của tiên thiên cho bát quái tượng sô" liệu pháp. Nhà triết gia dịch học nổi tiếng đòi Bắc Tông, người sáng tạo đầu tiên của phái tượng số học của Dịch học là Triệu Khang Tiết đã sáng tạo độc lập phương pháp dự đoán "Mai hoa dịch sô", tức clùng tiên thiên bát quái đồ và hậu thiên bát quái đồ. Tới nay đã có lịch sử trên ngàn năm, trong các phương pháp dự đoán khác, tiên thiên sô", đều chiếm vị trí quan trọng. Đó là căn cứ thứ hai để dùng tiên thiên sô" cho liệu pháp tượng số bát quái. Trong thực tiễn lâm sàng của liệu pháp tượng sô" bát quái, cũng chứng tỏ quan hệ đối ứng giữa tiên thiên bát quái sô" với cơ thể con người, (tham khảo các bài chữa điển hình ở chương II). "Sô" dĩ trưng tượng", "tượng dĩ dịch số’". “Hán thư luật lịch chí" viết: "Bản đồ do Phục Hi tự vẽ là bắt đầu tự tượng số”. Tượng số thực chất là một thể, là quan hệ máu thịt, gắn liền không thê tách rời; là môi giới hợp nhất giữa thiên và nhân. Liệu pháp tượng sô" cho rằng thế giới vật chất là một chỉnh thể quan CHỮA BỆNH THEO CHU DỊCH hệ tưễ(ing hỗ. là một hệ thông' thông suốt với nhauế Còn thái cực bát quái là mô thức kết cấu của hệ thông cả thê giới vật chất (vĩ mô và vi mô), lớn như thiên thể vũ trụ, nhỏ như tế bào cơ. thể con người, đều phản bcí thành mô thức kết cấu bát quái; đúng với lý luận “sinh vật toàn tức luật", “tự nhiên toàn tức luật". Vì thế khi đọc nhẩm một bài tượng sô" nào đó, thì tin tức hoặc hình thức là sóng điện từ, hoặc sóng ánh sáng, sóng âm thanh, tóm lại đều truyền đi dưới hình thức sóng, thứ nhất là tác dụng vào chỉnh thể để điều chỉnh; thứ hai là tác dụng vào bộ phận tương ứng, gây nên chấn động, kích thích, làm cho trường bát quái của bộ phận tương ứng cộng chấn với trường của con người và trường vũ trụ để chuyển hóa từ trạng thái không trật tự sang có trật tự để đạt hiệu quả chữa bệnh. 2. Tiên thiên bát q u ái th ứ tự đồ X 7 6 5 4 3~> 1 Khôn Cân Khám :__: íiát quái Ton Chấn j £ Đòai Càn 8 quái 4 tượng l'ử lượng Luông nghi Thái âm Thiếu đương Thiếu âm Thái dương Âm Oưcmg x u y x 2 nghi LÝ NGỌC SƠN - LỶ KIỆN DÀN 3. Hậu thiên bát quái p h ư ơ n g vì dồ Ly 1 Từ bản vẽ trên thấy. Quẻ ly ở phương Nam, quái sct là 5 Quẻ khảm ở phương Bắc, quái sô" là l ế Quẻ chấn ở phương Đông, quái sô"là 3. Quẻ đoài phương Tây, quái số ]à 7. Quẻ tôn ở Đông nam; quái số là 4. Quẻ cấn ở Đông bắc, quái sô" là 2. Quẻ càn ở Tây bắc, quái sô" là 8. Quẻ khôn ở Tây nam. quái số là 6. Theo truyền thuyết, hậu thiên bát quái là do U M E CHỮA BỆNH THEO CHU DÌCH Chu Văn Vương làm ra. nên còn được gọi là Văn Vương bát quái. Hậu thiên bát quái củng được làm ra (lựa theo "Thuyêt quái" Trong "Thuỵêt quái" có "Để xuất hồ chấn, tề hồ tốn, tương kiến hồ ly. chỉ (lịch hồ khôn, thuyết ngôn hồ Đoài, chiến hồ Càn. lao hồ Khảm, thành ngôn hồ Cấn". Đó là căn cứ lý luận của hậu thiên bát quái. Quan hệ mật thiết giữa hậu thiên bát quái vối tứ thời, ngũ phương, ngũ hành, lấy ngũ hành tương sinh để làm thứ tự, phân loại vạn vật, vạn sự theo ngũ hành để nạp nhập vào trong bát quái, lấy sự dịch chuyên của tứ thời đê biểu thị quy luật vận động sinh ra và thu về của vạn vật. Như vậy thể hiện của hậu thiên bát quái là quá trình lưu động. Cho nên hậu thiên bát quái còn gọi là bát quái lưu hành đồ [chữ lưu hành có ý là sự vận động biến hóa của thứ tự thời (thời thứ)] . 4. H â u thiên bát quái thứ tự đồ K hôn Càn M ẹ B ố Đoài Lỵ T ố n Cấn K hảm Chấn thiếu nữ trung nữ trường nữ Ihiếu nam trung nam trường nam Hào thượng H ào trung H ào sư H ào thượng H ào trung H ào sơ đãc khôn đ ác khòn đầc khôn đắc càn đ ác càn dắc càn X L h E LÝ NGỌC SƠN - LÝ KIỆN DẨN Hậu thiên bát quái đồ, lấy quan hệ bô" mẹ. con trai, con gái đưa vào bát quái, nói lên càn khôn là gốc của âm dương, tổ tông của vạn vật. Thiên địa sinh vạn vật, vạn vật không phân lưỡng tính âm dương, tức là chỉ quy luật biến hóa của vạn vật vũ trụ (trong đó kể cả người). Sô' của hậu thiên được hình thành trong biến hóa của vận động, lại lấy nhân sự làm mốc (cớ chuẩn), nên rất khó bao hàm tin tức sinh hóa của vạn vật, cho nên liệu pháp tượng sô" không' thê dùng sô" của hậu thiên, mà là dùng tiên thiên số và hậu thiên đồ. Có thể nói tóm lại, tiên thiên bát quái đồ và hậu thiên bát quái đồ là thê đối lập thông nhất, là quan hệ thể dụng. Tiên thiên bát quái đồ là bản đồ mô thức của hiện tượng tự nhiên của thiên địa; còn hậu thiên bát quái đồ là mô thức của dịch chuyến của tứ thòi, sự sinh trưởng và thu về của vạn vật; tức là bản đồ tương giao của âm dương, của trời và đất. Hạt nhân lý luận của tiên thiên đồ là học thuyết âm dương. Tức càn thiên vi dương, khôn địa vi âm. Dương khí tăng lên do chấn, ly, đoài, đến càn là cực (cực điểm), âm khí hạ thấp do tôn, khảm, cấn đến khôn là cực. Hạt nhân lý luận của hậu thiên bát quái là học thuyết ngũ hành. Chấn, tôn thuộc mộc, ly thuộc hỏa, khôn cấn thuộc thổ, đoài càn thuộc kim, khảm thuộc thủy. Mộc, hỏa, CHỬA BỆNH THEO CHU DỊCH thổ. kim. thủy là các nguyên tô cơ bản của vạn vật và cơ thê người. Cho nên hậu thiên bát quái lấy “tiên thiên vi thế, hậu thiên vi dụng", là quan hệ giữa thế và dụngể Chỉ có tiên thiên mà không có hậu thiên, sẽ không có (căn bản) gốc. Liệu pháp tượng sô" của tiên hậu thiên. Như trong lập tượng sô", nếu không xuyên suốt, lấy tượng đê chọn tượng (thê) của bát quái dùng cho sinh lý bệnh lý và quản là lấy quá trình (dụng) sinh khắc chế hóa của ngũ hành từ đầu đến cuối (thủy chung). Tức là mối quan hệ gắn bó không chia cắt là tiên thien vi thể, hậu thiên vi dụng; bát quái vi thể, ngũ hành vi dụng. B. HỌC THUYẾT NGŨ HẢNH Học thuyết ngũ hành được coi như tất cả sự vật (kể cả người) trong vũ trụ đều cấu thành bởi sự vận động và biến hóa của 5 loại vật chất: mộc, hỏa, thổ, kim, thủy. "Ngũ” là chỉ vật chất không thể thiếu được trong sinh hoạt của 5 loại: mộc, hỏa, thồ, kim, thủy, "hành" là chỉ vận động và biến hóa. Người xưa đã lấy thuộc tính của õ loại: vật chất để suy diễn trừu tượng, dùng để nói lên toàn bộ thế giới vật chất, còn cho rằnẹ 5 loại vật chất không những có quan hệ tương .hỗ tư sinh, tương hỗ chế ước, mà còn không ngừng vận động và biến hóa. LÝ NGỌC SƠN - LÝ KIỆN DÀN Khán loại phát hiện sự vận động không n,u'ừn^ và tác dụng tương hồ của ntfù hành là quy luật và nsỊuvên nhán sinh diệt biên hóa của vù trụ. Trong hệ thông lớn của vũ trụ, bát quái có thuộc tính ngũ hành; vì thế bản đồ ngũ hành là đòn gian, nhưng vạn vật của trời đất có hàm chứa ỏ trong đóể Học thuyêt ngũ hành có tư tưởng triết học sâu sắc lồ một bộ phận quan trọng trong văn hóa truyền thông của Trung Quốc. I. NỘI DUNG Cơ BẢN CỦA HỌC THUYẾT NGỦ HÀNH 1. Phân loại ngũ hành đối với thuộc tính của sự vật Các nhà y học cổ đại vận dụng học thuyết ngũ hành, lấy tổ chức phủ tạng, hiện tượng sinh ]ý, bệnh lý của cơ thể con người vả sự vật giới tự nhiên có liên quan đến đời sông nhân loại, dùng phương pháp "tỷ loại thủ tượng" (so sánh thể tượng), dựa vào tính chất, tác dụng, hình thái khác nhau của sự vật đê phân biệt quy nạp vào ngũ hành: mộc, hỏa, thô. kim. thủy, để nói lỏn quan hệ phức tạp về sinh lý bệnh lý của con n£ifòẳi, và quan hệ hoàn cảnh ngoại giới với con người Tham khảo hảng quy loại ngũ hành dưới đây: M I CHỮA BỆNH THEO CHU DỊCH Bang 2. Qui loại ngủ hành gìcíỉi biểu Giới tự nhiên Ngủ Cơ thế người ___ .Nqũ vị Nqũ sàc Ngũ hóa Ngũ khi ;^gũ phương Ngũ thời hành Ngũ tạng Ngũ phủ Ngũ thể Ngũ quan Nqũ hhoa Chua Xênh Sinh Phong Đống Xuân Mộc Can Đém Gàn Mắt Móng Dắng Đỏ T rườna Nhiệt Nam Hạ Hỏa Tám Tiểu trồng Mạch Lưỡi Mặt Ngot Vảng Hỏa Thấp Trung Trường Ha Thổ Tỷ Vi Thịl Mồm Mòi Chat Trấng Thiểu Tào Tây Thu Kim Phế Đại tráng Mãn Đen Tăng Hàn Bắc Đỏng Thủy Thận Bảng quang Bi Mũi Lóng Xương Tai Tóc ' Người xưa đem vạn sự, vạn vật lấy phương pháp "tỷ loại thủ tượng" (phân loại lấy tượng) quy nạp thành 5 loại lớn, đê mọi người nhận thức thế giới đơn giản và có qui luật. Phương pháp quy nạp này. trôn cơ bản đã không là bản thân... của mộc. hỏa, thổ, kim, thủy, mà là những đặc điểm của chúng, đã khái quát trừu tượng ra 5 loại thuộc tính của các sự vật khác nhau: như đặc điếm của tính mộc là sinh phát, nhu hòa, phàm loại vật liệu nào Cệó đặc tính này đều thuộc "mộc"; đặc điếm của hỏa là dương nhiệt, là nóng, phàm loại nào có đặc tính này đều thuộc "hỏa"; đặc điểm của thố là trường x u ư i LÝ NG Ọ C SƠN - LÝ KIỆN DẨN dưỡng, biến hóa. loại nào có đặc tính trên đều thuộc "thổ"; đặc tính của kim là thanh túc. cứng khỏe, những loại nào thuộc đặc tính này đều thuộc “kim"; đặc tính của thủy là lạnh ẩm, chảy xuôi, những' loại nào thuộc đặc tính này thì thuộc “thủy". 2ề Thừa vũ sinh khắc của ngũ hành Học thuyết ngũ hành chủ yếu lấy quan hệ tương sinh, tương khắc của ngũ hành để thuyết minh quan hệ tương hỗ giữa các vật. Tương sinh tức là tư sinh và trợ trương tương hỗ; tương khắc tức là chế ước và khắc chế tương hỗ. Quan hệ tương sinh của ngũ hành là: mộc sinh hỏa, hỏa sinh thổ, thổ sinh kim, kim sinh thủy, thủy sinh mộc. Quan hệ tương khắc của ngũ hành là: Mộc khắc thổ, thổ khắc thủy, thủy khắc hỏa, hỏa khắc kim, kim khắc mộc. Quan hệ tương khắc của 5 loại này, là tuần hoàn không có đầu, và vô cùng, hình dưới là hình vẽ ngũ hành tương khắc. Quy luật thể hiện đưòng liền nét là tương sinh, đường ngắt quãng là tương khắc. Trong quan hệ tươnẹ sinh của ngũ hành, bất cứ một “hành" nào, đều có "sinh ngã" "ngã sinh", sinh ngã là "mẹ", ngã sinh là "con”, cho nên trong M I CHỮA BỆNH THEO CHU DỊCH quan hệ tương' sinh của ngu hành, còn gọi là quan hệ "mẹ con". Mộc Hỏa Bán đồ sinh khắc của ngũ hành Trong quan hệ tương khắc của ngũ hành, bất cứ một chữ "hành” nào, đều có hai mặt "ngã khắc", "khắc ngã", ngã khắc là ngã sở thẳng (tôi thắng), khắc ngã là ngã sở bất thắng (tôi không thắng), cho nên trong quan hệ tương khắc ngũ hành còn gọi là "sở thắng" và "sở bất thắng". Như mộc sinh hỏa tức mộc là "mẹ" của hỏa, hỏa là "con" của mộc. Như kim khắc mộc thì mộc không thể thắng kim, vậy kim là "sơ bất thắng" của mộc; mộc khắc thổ, tức mộc thắng thổ, vậy thổ là "sở thắng" của mộc. "Loại kinh đồ dực" nói: "Cái tạo hóa chi cơ, bất hà vô sinh, diệc bất hà vô chế, vô sinh tắc phát dục vô do, vô chê tắc cang nhi vi hại" tức là nếu không có sinh, sẽ không có sự phát triển và trương thành LÝ NGỌC SON - LÝ KIỆN DẨN của sự vật; không có khắc sẽ không thế biên hỏa và phát triển trong hệ duy trì sự hiệp đồng hình thư ờng. Tức là trong sinh có chẽ. trong chê có sinh, mới vận hành không nghỉ. Nói cách khác, tất cá sự vật trong giới tự nhiên đểu tuần tự tương sinh theo mộc, hỏa, thổ, kim. thủy, đồng thòi cũng tuần tự t ương khắc theo mộc hỏa thổ kim thủy, chạy quanh lại trở về ban đầu như chiếc vòng không đầu, không ngừng vận động và biến hóa. Tương thừa, tương vũ là hiện tượng ngược lại về sự phát triển biến hóa của sự vật. Thừa có ý là thừa hư xâm nhập; quy luật phản sinh vũ là nhờ mạnh lấn át yếu quy luật phản khắc. Tương thừa là sự thái quá của tương khắc, vượt quá mức độ chế ước thông thường, là một biểu hiện làm mất đi sự hiệp đồng bình thường trong quan hệ giữa các sự vật. Như khi mộc khí thiên cang (chì tiến), mà kim không thể khắc chế bình thường với mộc, mộc thái quá se đi thừa (thắng) thổ, làm thổ càng yếu đi. Tương vũ, là ngược lại với tương khắc, nên gọi là "phản khắc" lại là một biểu hiện khác làm mất đi sự hiệp đồng binh thường trong quan hệ tương khắc bình thường, nếu như kim khí không đủ hoặc mộc khí chì tiến, thì mộc sẽ phản ngược lại "vũ kim". Tóm lại tất cả thế giới vật chất, dù là thiên thể hav nhân thể, đều phái tuân theo quy luật sinh CHỮA BỆNH THEO CHU DỊCH khác ngù hành cán hằng tương đối và có tlúi tựễ nơi hảo đảm được tính ôn định tương đôi nội bộ. Đó cùng là quy luật phải tuân thủ trong liệu pháp tượng sô"ế II HỌC THUYẾT NGŨ HÀNH ỨNG DỤNG TRONG Đ Ô N G Y HỌC VÀ LIỆU PHÁP TƯỢNG s ố BÁT QUÁ! ứng dụng học thuyết ngũ hành của Đông y là dùng phương pháp nhân loại ngũ hành của thuộc tính sự vật và quy luật biến hóa thừa vù sinh khắc, để giải thích sinh lý cơ thê người và hiện tượng bệnh lý, đê chẩn đoán lâm sàng' và điều trị. 1. Thuyết minh về chức nãng sinh lý và quan hệ tương hồ của tạng phủ Học thuyết ngũ hành đem nội tạng con người, lần lượt quy vào ngũ hành, dùng đặc tính của ngũ hành để nói lên đặc điểm hoạt động sinh là của ngũ tạng. Như can huỷ điều đạt, có chức năng sơ thông, mộc có đặc diêm sinh phát, nên lấy can thuộc "mộc"; tâm dương có tắc dụng làm ấm nóng, hỏa có đặc tính dương nhiệt, nên tâm thuộc "hỏa": tỳ là nguồn của sinh hóa, thổ có đặc tính sinh hóa vạn vật. nên tỷ thuộc "thô , phế khí chủ túc giáng (dẹp xu ông), kim có thanh túc, thu gom, nên phế thuộc "kim", thận là chủ thủy, có LỶ NGỌ C SƠN - LÝ KIỆN DÁN chức năng tàng tinh, thủy có đặc tính ấm ướt. t‘hc nên thận thuộc "thủy". Học thuyết ngũ hành, nói lên quan hệ nội tại về chức năng sinh lý giữa các tổ chức phủ tạng cơ thể con người, như tinh của thận (thủy) để dưỡng can, can (mộc) giữ huyết để cứu tim, nhiệt của tim (hỏa) để ôn tỳ, tỳ (thổ)... hóa sinh khí để nạp cấp cho phổi, thanh túc của phế (kim) để hỗ trợ nưốc cho thận. Đó là quan hệ tương hỗ tư sinh của ngũ tạng. Thanh túc của phế (kim) giảm xuống, có thể kiềm chế sự tăng lên của dương can; sự điều đạt của Can (mộc), có thể sơ tiết ung uất của tỳ (thổ) vận hóa của tỳ (thổ) có thể ngăn chặn lại sự tràn trề của thận (thủy); sự ẩm ướt của thận (thủy) có thể ngăn được sự tăng lên của tâm hoả; sự dương nhiệt của tim (hỏa), có thể hạn chế thái quá thanh túc của phế kim. Đó là quan hệ chế ước tương hỗ của ngũ tạng. 2. Thuyết minh ảnh hưởng bệnh lý giữa các phủ tạng Học thuyết ngũ hành cũng có thể nói rõ về ảnh hưởng tương hỗ giữa các phủ tạng trong điều kiện bệnh lý, như Can bị bệnh có thể truyền sang tỳ, là mộc thắng thổ; tỳ bị bệnh có thể ảnh hưởng đen Can, là thổ vũ (lấn át) mộc; bệnh Can còn có thể ảnh hưởng đến tim, là bệnh của mẹ sang con; ảnh CHỮA BỆNH THEO CHU DỊCH hưởng phế, vì mộc lấn át kim; ảnh hưởng tới thận, là bệnh của con sang mẹ. Bệnh Can là như vậy, các bệnh của các tạng khác cũng thế đều có thể dùng quan hệ sinh khắc thừa vũ của ngũ hành để thuyết minh ảnh hưởng tương hỗ trên bệnh lý của chúng. 3. Dùng để chẩn đoán và chữa trị Hoạt động chức năng nội tạng của cơ thể người và sự thay đổi khác thường trong quan hệ tương hỗ của chúnẹ, đều có thể phản ảnh trên các mặt từ sắc mặt, âm thanh, hơi thở, mạch đập v.vế.. Sự biến hóa của ngũ tạng với ngũ sắc, ngũ âm, ngũ vị và tương quan mạch đập biến hóa, trên việc phân loại quy tụ của ngũ hành đều có liên quan tới nội tạng Cho nên khi chẩn đoán bệnh lâm sàng, đều có thể có được tài liệu chẩn đoán bởi bôn cách: nhìn, nghe vọng, hỏi vấn và bắt mạch (thiết), sau đó căn cứ vào thuộc tính của ngũ hành và quy luật biến hóa sinh khắc thừa vũ của nó để phán đoán bệnh tình, nếu thấy mặt xanh là mộc thắng thổ; người bệnh tim, nhìn mặt có màu xám đen, là thủy khắc hỏa v.v... Sự phát sinh và phát triển của bệnh tật, đôi khi có liên quan khác thường với quan hệ sinh khắc với nội tạng. Khi điểu trị, ngoài việc điều trị cho tạng bị bệnh ra, còn phải xét đến các phủ tạng liên quan khác để kết hợp điều trị. Những nhà y LỶ NGỌC SƠN - LÝ KIỆN DẨN học đời sau đã vặn dụng quy luật sinh khắc thừa vũ ngũ hành, còn soạn ra rất nhiều phương pháp điều trị cụ thể, như bồi bổ sinh kim, tư (thêm) thủy hàm mộc, phò thổ ức (chế) mộc. tráng thủy chế hoả. Quy luật biến hóa sinh khắc thừa vũ ngũ hành kể trên cần tìm hiểu nắm vững, mới có thể chỉ đạo chẩn đoán và chữa trị trong liệu pháp tượng số. Trong liệu pháp tượng số chính là dùng quy luật biến hóa sinh khắc của ngũ hành, qui nạp ra "Mẫu tử bổ tả pháp" có hàm nguyên lý sinh khắc chế hóa ngũ hành, có hàm nghĩa dùng quan hệ bát quái vi thể, ngũ hành vi dụng. Bảng 3. Bảng sơ lược của “Mẩu tử bô tả pháp " (lấy đoài kim 2 là “ngã”). Bổ tả Mẹ sinh ra tôi Tôi sinh ra con Bổ Thổ sinh kim 820 Tả Kim sinh thuỷ 260 Bình bổ bình tả Tôi ở giữa hư và thực Kim 20 Bảng trên chỉ là thí dụ lấy thổ sinh kim, kim sinh thủy và đoài kim ở vào giữa hư và thực. Các cái khác cũng phỏng theo như vậy. CHỮA BỆNH THEO CHU DỈCH “Mẫu tử bổ tả pháp" tham khảo phần "Điều trị biện chứng" mục I phần III, chương I. IIIỄ HỌC THUYẾT ÂM DƯƠNG Âm dương trong "nhất âm nhất dương chi vị đạo” là thuộc tính của vạn sự vạn vật trong vũ trụ. Học thuyết âm dương cho rằng, thế giới là kết quả đối lập thống nhất của hai khí âm dương, trong "Tô" vấn âm dương ứng tượng đại luận" có nói: "thanh dương vi thiên, trọc âm vi địa, địa khí thượng vi vân, thiên khí hạ vi vũ”. Bất cứ sự vật nào trong vũ trụ đều bao hàm hai mặt là đối lập tương hỗ và liên hệ tương hỗ của âm dương. Bát quái phân ngũ hành, ngũ hành phân âm dương, âm dương là cương (chủ yếu) của "dịch". Học thuyết âm dương cho rằng, nội bộ bất cứ sự vật nào trong vũ trụ đều có thể chia làm hai phần âm và dương. Còn âm hoặc dương nào trong mỗi sự vật lại có thể phân thành âm dương. Loại sự vật này tức là hiện tượng đốì lập còn có liên hệ tương hỗ là vô cùng vô tận, tức “Kỳ đại vô xứ, kỳ tiểu vô nội". (Ý vô cùng lớn, vô cùng nhỏ). Âm dương đại biểu cho hai mặt tương hỗ đối lập, tương hỗ liên hệ của sự vật, nhưng lại không định hạn ỏ một sự vật nào, âm đại biểu sự vật âm tính, dương đại biểu sự vật dương tính. Nói tóm LÝ N G Ọ C SƠN - LÝ KIỆN DẨN lại, phàm cái gì hoạt động, tại ngoại, bay lên. ấm nóng, rõ ràng, tính tiến hành, cơ năng khang tiến (tiến triển), đều thuộc dương; còn cái gì trầm tĩnh, nội tại hạ xuống, hàn lạnh, tối tăm, lùi lại, cơ năng giảm lùi. đều thuộc âm. Đủ thấy bất cứ sự vật nào trong vũ trụ, đều có thể khái quát vào hai loại âm dương. 1. Nội dung cơ bản của học thuyết âm dương a. Đ ấu tra n h đối lập của ăm d ư ơn g Học thuyết âm dương cho rằng, tất cả sự vật trong thế gian đều tồn tại hai mặt âm dương đối lập tương hỗ. Đối lập tương hỗ, của hai phía âm dương chủ yếu biểu thị là giữa chúng vừa chế ước tương hỗ..ề lại vừa đấu tranh tương hỗ. Thí dụ: mùa hạ đúng là dương rất nóng, nhưng sau hạ chí âm khí lại dần dần nảy sinh, dùng để chế ước với dương oi bức, mùa đông đúng là âm hàn nhiều, nhưng sau đông chí, dương khí lại bắt đầu trở lại dùng để chế ước âm rét lạnh. Sự biến hóa của tất cả sự vật trong vũ trụ, đều phải tuân theo quy luật nhất định, tức là phải kinh qua quá trình tất nhiên là sinh trưởng, lớn lên, già đi và chết. Nó bắt đầu từ sơ sinh rồi lớn lên, khi đã phát triển tới cực độ sẽ quy về tiêu vong để biến thành một sự vật mói khác; Khi sự vật mới đã thành thục thì đã ẩn CHỮA BỆNH THEO CHU DỊCH phục nhân tô diệt vong, khi sự vật cũ đã bại hoại thì cũng đã chuẩn bị sinh trưởng cái mới. Đại vũ là như thế, con người, một tiểu vũ trụ cũng là thế. Trong trạng' thái sinh lý bình thường của con người, hai phía âm dương cũng không phải cứ nằm yên trong một thể thông nhất mà là bài bác nhau, đấu tranh với nhau. Cái gọi là "âm bình dương bí" cũng là trạng thái cân bằng động thái trong' đấu tranh đôì lập âm dương. Tóm lại, sự đấu tranh đối lập của âm dương, sẽ thúc đẩy sự phát triển biến hóa của sự vật b. Y tồn (dưa n h a u tồn tai) củ a âm dương Am dương là đối lập nhau, nhưng lại dựa nhau để tồn tại, dù là phía nào. đều không thể thoát ly đối phương để tồn tại độc lập. Nếu không có động thì sẽ không có tĩnh; nếu không có lên thì cũng không có xuống; nếu không có nóng thì cũng không có lạnh; nếu không có ngoài cũng sẽ chẳng có trong; không có thực thì củng chang có hư v.v... Tất cả hai phía âm dương đối lập nhau đều như vậy, âm dựa vào dương để tồn tại, dương cũng vậyề mỗi phía đều có một điều kiện với một phương pháp để tồn tại. Quan hệ dựa nhau để tồn tại này của âm dương, được gọi là "hỗ căn". Kết hợp với sinh lý của cơ thê mà nói thì cũng vậy, âm chỉ vật l u ư i LÝ N G Ọ C SƠN - LÝ KIỆN DẨN chất ở bôn trong' cơ thể. gọi là "ám tại nội", dương chỉ chức nàng biểu hiện bẽn ngoài. gếọi ]à "đương tại ngoại". Dương tại ngoại là biêu hiện sự vận động vật chất nội tại, cho nên nói dương là "âm chi sứ"; âm tại nội là cơ sỏ vật chất của cơ năng sinh sản, cho nên nói âm là "dương chi thủ". Nếu âm dương đều mất đi điều kiện dựa nhau để tồn tại tức là "cô âm" và "độc dương" cũng tức là không thể sinh hóa và sinh sôi (tư sinh). c. Chuyên hóa tiêu trưởng (tức mất đi và lớn lên) củ a âm dương Âm dương là đối lập tương hồ, y tồn tương hồ của hai bên, nhưng nó không ở trạng thái tĩnh bất biến, mà chúng luôn ở trạng thái vận động "âm tiêu dương trưởng" hoặc "dương tiêu âm trưởng"ẳ Như giới tự nhiên, từ đông chí đến xuân hạ, khí hậu dần từ lạnh chuyển sang nóng, đó là quá trình “âm tiêu dương trưởng"; ngược lại, từ hạ chí đến thu đông, khí hậu từ nóng chuyến dần sang lạnh, đó là quá trình "dương tiêu âm trưởng". Nói ngay đến cơ thể con người, những cái sinh ra do hoạt động (dương) của cơ năng, tất nhiên phải tiêu hao đi vật chất (âm) dinh dưỡng, đó là "dương trương âm tiêu". Còn khi vật chất (âm) dinh dưỡng được trao đổi bù đắp. và còn phải tiêu hao một năng' lượng (clương) nào đó, đó là quá trình "âm trưởng CHỪA BỆNH THEO CHU DỊCH dương tiêu”. Do tiêu và trưởng của âm dương đã thúc đẩy sự vật không ngừng biến hóa và phát triển. Trong trường hợp bình thường, tiêu trưởng của âm dương sẽ ỏ trạng thái cân bằng tương đối Nếu quan hệ tiêu trưởng này vượt quá hạn độ nhất định, không đảm bảo được cân bằng tương đối sẽ xuất hiện bên mạnh bên yếu của âm dương, nếu nói về người thì sẽ sinh bệnhẻ Hai mặt âm dương của sự vật, khi phát triển đến một giai đoạn nhất định, cũng có thế phát triển theo hướng ngược lại, âm có thế chuyên hóa thành dương và ngược lại. Trong "Âm dương ứng dụng đại luận" có "trọng âm tất dương, trọng dương tất âm", "hàn cực sinh nhiệt, nhiệt cực sinh hàn", điều đó nói lên âm dương phát triển đến giai đoạn nào đó, có thể chuyển hóa lẫn nhau. Trong quá trình phát triển bệnh, do âm chuyển sang dương hoặc dương chuyển sang âm, đó là những thay đổi ta thường thấy được. Đấu tranh đối lập. Y tồn hỗ căn, Chuyển hóa tiêu trưởng của âm dương, là nội dung cơ bản của học thuyết âm dương. Quy luật cơ bản của nó được quán triệt từ đầu đến cuối của liệu pháp tượng sô" bát quái. Tóm lại "âm dương giả, thiên địa chi đạo dã, vạn vật chi cương kỷ, biến hóa chi phụ mẫu, sinh LÝ NGỌC SƠN - LÝ KIỆN DẦN sát chi bản thủy". Nếu muôn nắm được liệu pháp tượng sô" bát quái, cần phải nắm được học thuyết âm dương. 2. ứng dụng của học thuyết âm dương đối vói đông y học và liệu pháp tượng số bát quái aệ Thuyết m inh vê kết cấu tổ ch ứ c của cơ thê Đông y học thì lấy kết cấu tổ chức cơ thể người là có thuộc tính tương đối, đểu qui nạp phân loại bằng âm dương, cho rằng cơ thể là một chỉnh thể hữu cơ, tất cả kết cấu tổ chức của người, đều có quan hệ hữu cơ, lại có thể phân thành hai mặt âm dương đối lập lẫn nhau (hỗ tương). Đại thể là: phần trên của người thuộc dương, phần dưới thuộc âm; bên ngoài thuộc dương, bên trong thuộc âm; phần lưng ngoài thuộc dương, phần bụng thuộc âm; cạnh bên phía ngoài thuộc dương, cạnh bên phía trong thuộc âm. Nếu nói về tạng phủ: lục phủ thuộc dương, ngũ tạng thuộc âm. Trong ngũ tạng cũng phân ra âm dương, tức tim phổi thuộc dương, còn Can, tỳ, thận thuộc âm. Còn đốì với mỗi tạng phủ cũng chia ra âm dương như tim có tâm âm, tâm dương; thận cũng có thận âm và thận dương. Kết cấu của cơ thể người rất phức tạp, nhưng đều có thể phân thành âm dương với cái tên “nhân sinh hữu tình, bất ly dương". CHỬA BỆNH THEO CHU DỊCH b. Thuyết m inh ch ứ c n ă n g sinh lý củ a người Đối với chức năng sinh lý của người, Đông y cũng khái quát bằng học thuyết âm dương. Hoạt động sinh lý bình thường của người là kết quả bảo đảm sự hiệp đồng đốì lập thông nhất của âm và dương. Sinh hoạt sinh lý của người lấy vật chất làm cơ sở, nếu không có âm tinh sẽ không thể sinh ra dương khíễ Mà kết quả của hoạt động sinh lý lại do tác dụng của dương khí, và liên tục hóa sinh âm khí... Nếu như âm dương xa rời nhau không tác dụng lẫn nhau, thì hoạt động sinh mệnh con người sẽ ngừng nghỉ. Vì vậy trong "Tô" vấn, sinh khí thông thiên luận" có nói: "âm bình dương bí, tinh thần nãi trị, âm dương ly quyết, tinh khí nãi tuyệt". (Ý là âm dương chỉ bình và bí còn chữa được, nếu âm dương cách biệt sẽ không chữa khỏi tinh khí) ế cễ Thuyết m inh về thay đổi bệnh lý con người Học thuyết âm dương nói lên sự thay đổi bệnh ]ý cho rằng: sở dĩ cơ thể sinh bệnh, là do sự mất cân bằng về ậm dương, xuất hiện hiện tượng bên mạnh bên yếu. Quan hệ phát sinh và phát triển của bệnh là hai phương diện chính và tà. Cơ năng chống lại bệnh tật l à ------ chính khí, và nhân tô" gây b ệ n h ------- tà khí, tác dụng tương hỗ giữa chúng; trong trường hợp chúng đấu tranh vối nhau X U Ê LÝ NG Ọ C SƠN - LÝ KIỆN DẨN đều có thể nói rõ bằng âm dương. Tà bệnh còn phân thành âm tà và dương tà, còn chính khí gồm hai phần là âm tinh và dương khí. Dương tà gây bệnh, có thể coi là dương thịnh làm tổn thương âm, nên sinh ra chứng nhiệt; còn âm tà gây bệnh, có thể coi là âm thịnh làm hại dương, nên xuất hiện chứng hàn; khi dương khí hư, không thể chế ngự được âm thì xuất hiện chứng hư hàn do dương hư âm thịnh; trường hợp âm dịch hư bẩn không thể chế ngự dương nên xuất hiện chứng hư nhiệt do âm hư dương cang (tiến). Cho dù sự biến hóa của bệnh là đa biến phức tạp, nhưng đểu có thể dùng "âm dương thất điều”, “âm thịnh tắc hàn, dương thịnh tắc nhiệt, dương hư tắc hàn, âm hư tắc nhiệt" để thuyết minh một cách khái quát. Ngoài ra bất cứ mặt nào của cơ thể hư tổn đến mức độ nhất định, đều sẽ dẫn đến bất túc (không đủ) đôi với đốĩ phương, tức là "dương tổn cập âm", "âm tổn cập dương" rồi đến cuối cùng là âm dương lưỡng hư. d. C hẩn đoán bệnh Nguyên nhân căn bản của phát sinh và phát triển bệnh là do mất cân bằng âm dương, vì vậy bất cứ chứng bệnh nào, cho dù biểu hiện lâm sàng có phức tạp đến đâu, thiên biến vạn hóa thế nào cũng có thể khái quát là “chứng âm" và "chứng CHỮA BỆNH THEO CHU DỊCH biện chứng là cương lĩnh các loại biện chứng, mà âm dương trong đó lại lả tổng cương, lấy biểu lý thông lĩnh làm hằng, hàn nhiệt, hư thực, tức biểu là nhiệt, thực thuộc dương, còn lý là hàn, hư thuộc âm; thí dụ: đoán bằng nhìn, nếu thấy màu sắc trơn nhãn tươi sáng ià thuộc dương, liêu tối ám là thuộc âm; đoán bằng nghe: âm thanh trong rõ thuộc dương, nếu là trầm, đứt quăng là thuộc âm; bằng bắt mạch: nếu là mạch nổi, sô", đại, hoạt, thực thuộc clương, nếu trầm, chậm, nhỏ, sáp hư, thuộc âm. Cho nên, đê chẩn đoán chính xác, trước hết phải phân rõ âm dương, mối nắm được bản chất của'bệnh. Trong "Âm dương ứng tượng đại luận" nói: "thiện chân giả, sát sắc án mạch, tiên biệt âm dương”. Đó là cái lý của tổng cương biện chứng âm dương. e. D ù n g điêu trị bệnh Do âm dương bên mạnh, bên yếu, đó là nguyên nhân căn bản phát sinh và phát triển của bệnh tật; vì thế điều chỉnh âm dương, khiến nó cân bằng tương đôi là nguyên tắc cơ bản của điếu trị. Nếu dương nhiệt thịnh mà ton hại âm dịch (tức bệnh âm khi dương thịnh), cũng có thể tổn hại đến các dương khác còn lại, phải dùng phương pháp "nhiệt tắc hàn chi"; nếu âm hàn thịnh tổn hại đến dương khí (tức âm thịnh thì bệnh dưcịng), có thể tổn t hương đến âm khác, còn lại thì dùng phương pháp LÝ NG Ọ C SƠN - LỶ KIỆN DẨN "hàn tắc nhiệt chi". Ngược lại. nếu ám dịch không đủ để chê ngự được dương tàng, hoặc do dương khí không đủ để chế ngự được âm thịnh, thì phải bổ âm hoặc dương và chỗ không đủ, không được chế ngự âm mà là lại trở thành âm thịnh thì phải bổ cho chỗ không đủ của âm hoặc dương. Nói khái quát là: “tổn kỳ hữu dư" "bổ kỳ bất túc,” (thương tổn nhưng không phải hết, có bô nhưng cũng không phải là đủ). Tóm lại, làm sao để đạt được nguyên tắc cân bằng tương đối mới. Liệu pháp’tượng sô" từ đầu đến cuối phải trên nguyên tắc theo lý “pháp vu âm dương, hợp vu số thuật” để cho lý luận âm dương xuyên suốt từ đầu đến cuối. Như âm hư dương cang (tiến) thì phải tư âm tiềm dương, dùng bài 640 hoặc 20.640 là bổ Can thận; 640 là bổ Can nhưng “can thận cùng nguồn" nên thực chất là bổ Can thậnề Hoặc như tỳ khí (dương) hư, có thể là kiện tỳ ích khí (dương), lập sô" là 380, thì biện chứng thi trị (tức chữa trị trên cơ sở biện chứng) đều phải dựa vào cương của âm dương. Tóm lại, học thuyết bát quái, học thuyết ngũ hành, học thuyết âm dương dùng đê thông suốt chỉ đạo chẩn đoán và điều trị lâm sàng cho liệu pháp tượng sô". N gũ hành Âm dương CHỮA BỆNH THEO CHU DỊCH Bảng 4: Am dương ngủ hành bát quái p h â n phôi vào tang p h ủ M ộc H o ả T h ổ Kim Th u ỷ Dương Am Dương Âm Dương Âm Dương Âm Dương Ảm Tạng Can Tâm Tỳ Phế Thân Phủ fìạm Tiậ.i trànq Vị Đại trảng Bàng quang Bát quái. Tốn Chân Ly Lỵ Cấn Knôp Càn Đoài Khảm Khảm Vũ trụ tức là'người, người tức là vũ trụ; vu trụ là bát quái, bát quái là vũ trụ. Bát quái chia thành ngũ hành, thành âm dương, chúng là phương thức biếu đạt có thê chia, có thê hợp trong đại hệ thông của vũ trụ luận, là công cụ của thuyết lý "thiên nhân hợp nhất", là cốt lõi về lý luận của liệu pháp tượng sô" bát quái. LÝ NGỌC SƠN - LY KIỆN DẨN PHẦN // HỌC THUYẾT TÀNG TƯỢNG CỦA ĐÔNG Y VỚI LIỆU PHÁP TƯỢNG SỐ BÁT QUÁI Liệu pháp tượng sô" bát quái được xây dựng trên cơ sỏ' Dịch học (bát quái đồ + ngũ hành), lấy lý luận đông y làm cơ sở và dùng tượng sô" làm môi giớ' được coi là một loại liệu pháp khí công. Lý luận cơ sớ cua đông y ỏ’ đây chủ yếu là học thuyết tàng tượng. Vì học thuyết tàng tượng là lý luận cốt lõi của đông y. Trong thực tiễn lâm sàng, cách lập sô" của liệu pháp tượng sô" bát quái vối cách trị liệu biện chứng cùng với dùng thuốc đông y, châm cứu là rất giông nhau, nguyên tắc cơ bản của nó là nhất trí; chỉ khác là trên lâm sàng, liệu pháp tượng sô" bát quái là dùng tượng sô" mà không cần đến thảo dược hoặc kim bạc, vì thế nếu không nắm được học thuyết tàng tượng của đông y thì không thể nắm vững được liệu pháp tượng sô" bát quái. Nhưng liệu pháp tượng sô" khi vận dụng học thuyết tàng tượng trên lâm sàng, lại có đặc điểm riêng, CHỮA BỆNH THEO CHU DỊCH I hI dụ về mặt "lấy tưọểng tbeo phán loại"ẽ chàng (ịiia là đem tượng về sinh lý bệnh ]ý của các tạng phủ qui về ngũ hành, rồi mới tiến thêm một bước (Jiii loại vào bát quái, kết họp chặt chẽ thành một khôi giữa bát quái đông V và khí công, sẽ nâng học ỉ lniyết tàng tượng tiến xa bơn. I. Sơ LƯỢC VỆ HỌC THUYẾT TÀNG TƯỢNG Học thuyết tàng tượng của đông y, nói đơn giản là học thuyết tạng phủ về cơ thể con người. Tạng phủ ở đây, không đơn thuần là một khái niệm giải phẫu học mà quan trọng hơn là có những khái niệm về các mặt sinh lý, bệnh lý học. Người xưa cho rằng tàng tượng hàm ý nghĩa, một là chỉ tạng của cơ thể, hai là lấy tượng theo phân loại, Tượng ỏ đây bao gồm những phần lộ ra bên ngoái của tạng phủ, có thể trực tiếp nhìn thấy hình Lượng cụ thể của nó, còn bao gồm cả tượng trưng những tiềm tàng trong nội bộ của phủ tạng, cũng là tượng của sinh lý, bệnh lý. Cái gọi là lấy tượng I heo phân loại, nói đơn giản là dùng phương pháp so sánh đê nói lên hiện tượng sinh lý, bệnh lý rất phức tạp giữa các tổ chức của phủ tạng cơ thể người, nó chỉ ra và nắm vững quan hệ về ảnh hưởng tương hỗ và chế ước tương hỗ giữa hoàn cánh vối tạng phủ và giữa tạng phủ với nhau. Nếu LÝ NGỌC SƠN - LÝ KIỆN DÀN theo thuộc tính chức năng' và đặc điểm khác nhau của phủ tạng cùng với phân loại theo ngũ hành: Can hỷ điều đạt, có chức năng sơ tiết, mộc có đặc tính sinh phát, cho nên lấy Can thuộc "mộc"; tâm có tác dụng làm ấm nóng, mà hỏa có đặc tính dư ơng nhiệt, nên lấy tâm thuộc "hỏa"; tỳ chủ yếu là nguồn sinh hóa, thổ thì có đặc tính sinh hóa vạn nên tỳ thuộc "thổ"; phế khí là chủ của túc giáng, kim có đặc tính thanh túc thư kiếm (thu lại) nên phế thuộc “kim", thận tàng tinh có chức năng của nước, thủy có đặc tính làm nhòn, nên thận thuộc thủy. Lý luận tạng phủ dùng phương pháp phân loại này, không những đem lục phủ ngũ tạng quy về ngũ hành, đồng thòi còn đem các hiện tượng phức tạp về các mặt sinh lý, bệnh lý giữa các tạng phủ dùng quan hệ sinh khắc chế hóa của ngũ hành để phân loại. Ngoài ra lý luận tàng tượng của đông y thì dùng chỉnh thể quan "thiên nhân hợp nhất", vận dụng nguyên lý "viễn thủ trư vật, cận thủ trư thân" (xa lấy vật, gần lấy người), dùng phương pháp "lấy tượng phân loại" đã làm thông ứng giữa vật chất của thế giới tự nhiên vối phủ tạng của cơ thể người, như trong bát quái “tôn vi phong", trong "Nội kinh” coi "phong" có đặc tính làm lay động (tức là tượng của phong) để áp dụng vào các cơ chế bệnh của cơ thể, phàm những bệnh tật nào có tính hoạt động, biến dộng, di động, giao động (như nhức M I CHỮA BỆNH THEO CHU DỊCH đầu hoa mắt. bị chân động, co rút. co co' và tê bì lan truyền v.v... đểu thuộc "phong", từ đó đã sáng lập lên lý luận "phong thông khí do Can". Tóm lại: đông y trên cơ sở tư duy phân loại sơ lược của “Chu dịch” đã dùng phương pháp lấy "tượng phân loại" áp dụng rộng rãi trong bệnh lý học và sinh lý học đã đẩy mạnh sự phát triển của đông y học, trở thành một môn đặc biệt trong đông y học. Trong thực tiễn lâm sàng qua liệu pháp tượng sô" bát quái dùng phương pháp "lấy tượng theo phân loại" tức là tượng và các quan hệ tương hỗ về sinh lý bệnh lý của tạng phủ, để lấy ra sổ; tuyệt đôi không chỉ căn cứ vể tượng sô" đối chứng với các phủ tạng rồi sử dụng một cách máy móc hoặc các ký hiệu đơn giản, mà phải là tuân theo các nguyên tắc "bát quái vi thể, ngũ hành vi dụng, lấy tượng theo phân loại, điều trị biện chứng, cân bằng âm dương (điểm này sẽ nói ở thí dụ sau). Học thuyết tàng tượng của đông y lấy thiên tượng, địa tượng; nhân tượng hợp thành nhất thể, và được quán triệt âm dương ngũ hành, nó là tinh hoa của chỉnh thể quan tương ừng giữa người với thiên địa, là cơ sở lý luận đặc sắc cỏ một không hai để chẩn đoán "lấy ngoài đoán I rong" tương ứng với nội ngoại của đông yỂ Vì vậy giáo sư Dương Lực đã chỉ rõ: "Nguồn P.oc của học thuyết tàng tượng đông y là dựa vào LỶ NGỌC SƠN - LÝ KỈỆN DÂN "Chu dịch"; dồng' thời liên họp giữa thiên tượng, vật tượng và nhân tượng đê cùng phát triển, nhất là khi tiếp thu trên cơ sỏ cỉịch lý. và lấy tượng theo phân loại, đã khiến việc lấy tượng mở ra một đột phá mới, đã sáng lập học thuyết tàng tượng đông y - hạt nhân lý luận đông y đặc sác, đã trỏ thành sinh lực vĩnh hằng của đông y học" (Chu dịch vối đông y học). Liệu pháp tượng số cũng được chứng minh trong thực tiễn lâm sàn£j, cần nắm vững chính xác và vận dụng liệu pháp tượng sô" bát quái, cần thành thuộc và nắm vững, vận dụng học thuyết tàng tượng đông y. II. HỌC THUYẾT TÀNG TƯỢNG VÓI LIỆU PHÁP TƯỢNG số BÁT QUÁI Học thuyết tàng tượng, cũng là học thuyết của tạng phủ. Tạng phủ tức là lục phủ ngũ tạng và 3 loại phủ đặc biệt. Ngũ tạng là chi tâm (bao gồm cả tâm bào lạc) Can, tỳ, Phế, thận; lục phủ là ruột non, đảm (mật), vị đại tràng, bàng quang, tam tiêu. Sự phân biệt giữa tạng và phủ là căn cứ vào chức năng, đặc điểm của chúngẼ Ngũ tạng tàng trữ tinh, khí, thần, huyết và dịch, lục phủ chủ yếu là thu. nạp, tiêu hóa, hấp thu, truyền dẫn, bài tiết vật chất, nên được gọi "tạng dĩ tàng vi chủ, phủ dĩ thông vi dụng”. CHỮA BỆNH THEO CHU DỊCH Ngoài lục phủ ra, còn có phủ đặc hiệt là não, ỉ ủy. xương, mạch, mật và bào thai của phụ nữễ Vì lìó cỏ cái khác biệt với ngũ tạng bình thường, và cũng khác biệt với lục phủ nói chung, nên gọi là "phủ đặc biệt". Về các mặt sinh lý bệnh lý cũng như quan hệ phủ tạng chúng có quan hệ mật thiết gắn bó cực nhiều. Dưới đây giới thiệu sơ lược về sinh lý, bệnh lý của tạng phủ và vận dụng trong liệu pháp tượng sô" bát quái của chúng. A. SINH LÝ, BỆNH LÝ CỦA NGŨ TẠNG VÀ LIỆU PHÁP TƯỢNG SỔ BÁT QUÁI 1 Tâm (tim) Tim, quẻ ly, tượng hỏa, sô 3, thuôc hỏa. Tim nằm trong lồng ngực, cùng biểu lý với ruột non trong lục phủ. Mạch máu chủ như ôm trên mặt. Mạch chủ của tim có chức năng thúc đẩy huyết dịch vận hành trong mạch đi nuôi toàn cơ lhêỗ Mạch là đường thông cho huyết dịch vận hành, huyết dịch được vận hành trong mạch, chủ yêu nhò sức đẩy của tim, nên "khí hành thì huyết cũng hành", "khí là bố của huyết, còn huyết là mẹ của khí". Tim và mạch quan hệ mật thiết nhất là các mạch máu trên mặt lúc nào cũng tràn đầy. cho S L U I LÝ NGỌC SƠN - LÝ KIỆN DÂN nên thịnh suy của tâm khí, sự thay đổi xâu tôt của mạch máu, đều phản ảnh qua mạch tượng và màu sắc của mặt. Nếu khí huyết thịnh, mạch máu sẽ tràn đầy, thì mạch tượng điều hòa có sức; sắc mặt hồng hào nhẵn trơn; nếu tâm khí không đủ. mạch sẽ hư không (hẫng), có thể xuất hiện mạch nhỏ yếu, hoặc nhịp đập thất thường, sắc mặt tái nhợt v.về.. Nếu gặp phải bệnh này. khi lấy tượng sô" chủ yếu là bổ ích tâm khí. Thường lấy sô" là 650, lấy bổ thận dương trợ tâm khí. 650 tuy là thủy sinh mộc, mà Can thận cùng nguồn, 5 là dương mộc, cho nên thực chất là làm chấn (khỏe) thận dương. Do nguồn khí của tạng phủ là từ thận, nên thận dương được phấn chấn, sẽ trợ tâm khí, giúp cho tâm khí. Cũng lập số như vậy thường thường lợi cho bồi bổ trực tiếp khí tâm trạng. Tạng thần. Thần là cái tên chung cho hoạt động sinh mệnh của cơ thể con người. Tức là chỉ hoạt động tinh thần, ý thức và tư duy của con người. Sinh lý học hiện đại cho rằng, hoạt động tinh thần, tư duy của người là chỉ chức năng của đại não, nhưng đông y học cho rằng nó có liên quan đến ngũ tạng, chủ yếu là chức năng sinh lý của tim. Vì thế nếu chức năng tim bình thường, thì thần trí trong sáng, tinh thần bình thường. Nếu chức năng tim có trở ngại, sẽ gây ra mất ngủ. đa mộng và hay quên V.V.Ề. thậm chí có khi tinh thần CHỮA BỆNH THEO CHU DỊCH bất bình thường. Những chứng bệnh trên, trong các trường hợp bình thường chủ yếu là chữa kiện tỳ an thần, lập tượng sô" là 30.80, trong đó 3 là quẻ ly, chủ tâm, 8 là quẻ khôn chủ tỳ, ngoài ra 30.80 còn là nhị nguyên. Hiệu quả bồi bổ không rõ ràng, có thê gây phấn chấn khí của tạng phủ, cho nên 30.80 có thế chấn tim, tỳ, kiện tỳ an thần. Khai khiếu (lỗ) ra lưỡi. Khai khiếu là chỉ mối quan hệ giữa các bộ máy nội tạng của cơ thể với bộ máy hoặc tổ chức bên ngoài. Trạng thái cơ năng của bộ máy nội tạng ra sao, thường được phản ánh qua các bộ máy bên ngoài. Bệnh của tim thưòng được phản ánh qua lưỡi. Như máu trong tim không đủ, lưỡi sê có màu trắng nhạt; khi tâm hỏa gây viêm hoặc tâm âm hư, thì lưỡi đỏ, thậm chí thân lưỡi bị rộp lên, Cho nên có cách nói "tâm khai khiếu ra lưỡi, và tâm vi thiệt (lưỡi) chi miêu (mầm) (rêu)". Khi xuất hiện máu trong tim không đủ, thấy lưỡi có màu trắng nhạt thì coi đó là chứng tim ỉ hất thường, có thể lập tượng sô" là 430, để gây phấn chấn cho Can, bổ máu cho tim. Trong đó 4 là quẻ chấn, chủ can, can chủ tàng huyết, thuộc mộc; 3 là quẻ ly, chủ tâm, thuộc hỏa, cho nên 430 là ('hấn mộc sinh ly hỏa 3, bổ tâm huyết, Mồ hôi là dịch của tim. Mồ hôi là do dịch nhờn sinh ra, mà dịch nhòn là một bộ phận của huyết (lịch, cho nên được nói là "máu và mồ hôi cùng M E LÝ NGỌC SƠN - LÝ KIỆN DẨN nguồn". Nếu mồ hôi ra quá nhiều, sẽ gây tổn thương gân cốt và hao máu; ngược lại nếu người bệnh thiếu máu, dịch nhờn xấu, thì nguồn mồ hôi không đủ. sẽ không ra mồ hôi, cho nên người xưa có nói "đoạt huyết giả vô hãn (mồ hôi), đoạt hãn giả vô huyết". Phụ chú: Tâm bàoể Tâm bào, quẻ ly, tượng hỏa, sô" 3, thuộc hỏa. Tâm bào còn gọi là tâm bào lạc, là tổ chức bao quanh ngoài của tim, có tác dụng bảo vệ tim và cùng biêu lý với tam tiêu của lục phủ. 2. Phế (phổi) P hê, quẻ đoài, tương trạch, sô 2, thuộc kim. Phế (phổi) nằm trong lồng ngực, cùng biểu lý với đại tràng trong lục phủ. Chủ khí, tư (điểu khiến) hô hấp, chủ khí của phế bao gồm 2 mặt là khí hô hấp và khí chủ của thân thể. Khí hô hấp chủ của phổi là chỉ phổi có tác dụng điều khiển hô hấp, là môi trường trao đối thế khí trong và ngoài cơ thể. Cơ thể người thông qua phổi để hít không khí tự nhiên trong lành và thỏ ra các khí độc trong cơ thể, tiến hành thay cũ đổi mới, làm cho không khí luôn được trao đổi. Cho nên trong "âm dương ứng tượng đại luận" có nói "thiên khí thông do phế”. Khí thân chủ của phổi. Sự hình thành của khí với phổi có quan hệ mật thiết, tông khí được hình CHỮA BỆNH THEO CHU DỊCH l.hành bởi tinh khí do với khí hít vào của phổi được lích lại trong phổi, lên cổ họng để điều khiển hô hấp "phế chiều bách mạch", tông khí lại thông qua t.íYt cả các mạch phân bô' khắp trên thân thể, chúng làm nóng, tứ chi bách hài (hài cốt tứ chi) và duy trì hoạt động sinh lý bình thường của nó. Cho nên phổi có tác dụng chủ trì khí của toàn thân. Chức năng của chủ khí phổi bình thường, thì I lô hấp sẽ đều đều nhịp nhàng. Nếu phổi thiêu khí ểsẽ làm hô hấp thiếu lực hoặc do không đủ không Khí làm cho tiếng nói sẽ bị nhỏ lại, người mệt mỏi cam thấy không còn sức, liệu pháp tượng sô" cho (lạng bệnh này sẽ là bổ phế khí là chính, lập tượng số là 820. trung đó 8 là quẻ khôn, chủ tỳ, thuộc thổ; 2 quẻ đoài, chủ phế, thaộc kim, cho nên 820 là tỳ thô sinh phế kim, tức là khí của mẹ bổ cho hư của con. Chủ tuyên phát, ngoại hợp bì mao (lông da). Tuyên phát có ý là rải rác. Phế chủ tuyên phát là ('hỉ sự thúc đẩy của phế khí làm cho khí huyêt và các dịch nhòn được phân tán đi khắp cờ thể, trong |Ệliì đến các kinh lạc tạng phủ, ngoài thì đên các cơ l)ắp là da lông, không chỗ nào là không đên. Nêu phế khí không được tuyên phát mà ngưng lại thì sẽ ninh ra tức ngực, tắc mũi ho v.v..ẻ Liệu pháp tượng ềMố chủ yếu là phấn chấn năng lực tuyên phát của lạng đó, tả thì lấy kiện tỳ, lập sô”là 2000.80. Trong LÝ NGỌC SƠN - LỶ KIỆN DÂN đó 2 là quẻ đoài, chủ phế thuộc kim, sau 2 là ba sô" 0. có thể làm tăng sự phấn chấn của chức năng tạng đó; 8 là quẻ khôn, chủ tỳ, thuộc thổ có thể làm phấn chấn phế khí của tỳ. Da lông ở ngay trên mặt cơ thể, nó như một chiếc áo giáp để chống lại các tà khí bên ngoài. Phế chủ bì mao, là chỉ phổi thông qua tác dụng tuyên phát của nó, mang các tinh của nước và cốc vận chuyển đến khắp da lông, làm ấm da lông, chống lại sự xâm nhập của ngoại tà. Còn các lỗ chân lông của da cũng có tác dụng tán khí để điều tiết hô hấp. Phế khí khi hư, da sẽ không được mịn chặt, dễ bị phong hàn, cảm cúm, ra mồ hôi v.v..., như trên lâm sàng thường thấy bệnh ngứa da tức là khi mặt da không săn thì không thể chống đỡ được phong hàn (nhiệt). Liệu pháp tượng sô" của bệnh này có thể lập sô" 2000 để làm phấn chấn khí của tạng đó. "Phế chủ bì mao" được lấy tượng sô" là 2, để tuyên phát ngoại tà, làm chức năng bảo vệ bên ngoài. Chủ túc giáng, thông điều thủy đạo, - túc giáng tức là thanh túc giảm xuống. Túc giảm tức là phế khí luôn luôn giảm xuống, làm cho nước của thượng tiêu cũng không ngừng chảy xuống bàng quang làm thông thoát tiểu tiện, cho nên có câu nói "phế vi thủy chi thượng nguồn" (phổi là thượng nguồn của nước). Nếu phế khí không được thanh túc sẽ trở ngại cho việc giảm xuống, có thễ xuất CHỮA BỆNH THEO CHU DỊCH hiện các chứng chạy ngược của phế khí gây nên buồn bực, ho, đoản hơi; đồng thời làm cho nước không chảy xuống được bàng quang gây ra những chứng bệnh nước tiểu vận chuyển không thuận lợi như khó tiểu tiện, nước tiểu ít, phù v.v... Tuyên phát với túc giáng là hai mặt bồi bổ cho nhau. Tuvên giáng bình thường thì phế khí thông thoát, hô hấp được điều hòa. Nếu chức năng này mất đi sự hiệp trợ sẽ gây ra các chứng bệnh "phế khí bất tuyên" hoặc “phế thất túc giáng" gây ra ho, đoản hơi, tức ngực v.v.ế. Phương pháp lập tượng sô" của bệnh này cũng giông như ỏ trên là 2000.80. Thông điều thủy đạo. là chỉ phế khí có tác dụng thúc đẩy và duy trì sự cân bằng việc thay thế nước dịch. Nghiên cứu này do sự tuyên phát và túc giáng của phế khí mà có. Tuyên phế khí làm ra mồ hôi, giáng phế khí mà có. Tuyên phế khí làm ra mồ hôi, giáng phế khí lại làm lợi tiếu, nó thê hiện cụ thể là phế khí thông điều thủy đạo. Gọi là hành, thủy hành, khí chỉ thủy, chỉ, là nói thông điều ỉ.hủy đạo được hoàn thành bởi tuyên phát với túc tfiáng của phế khí. Nếu phế mất đi túc giáng, ỉ uyên phát sẽ gây cho tiểu tiện khó và phù VẾV... Liệu pháp tượng sô" có thê dùng khí để phấn chấn cho tạng đó, lấy lợi túc giáng là làm ấm thận Gi ương, lợi cho việc thay thế thủy dịch. Có thê lập số là ‘Í000.60, trong đó 2 là quẻ đoài chủ phế, thuộc kim, clio nên 2000 làm phấn chấn khí của tạng này, thúc x u ư i LÝ NG Ọ C SƠN - LÝ KIỆN DẨN____________________________ đáy túc giáng. 6 là quẻ khảm, chủ thận, thuộc thủy. 60 là đê cô vù cho thận dương làm lợi cho việc thay thế thủy dịch, 2 và 6 là quan hệ kim sinh thúy, kết hợp 2 tạng này sè đủ thay thế cho thủy dịch. Khai khiếu do mũi. - Mũi là đường thông cho hô hấp, phế khí thông qua mũi, nếu phê khí bình thường hô hấp thuận lợi, thì khứu giác của mũi mới được bình thường, cho nên nói: "mũi là khiếu của phế". Mũi còn thường xuyên là đường thông của ngoại tà xâm nhập vào phổi, phổi bị ngoại tà xâm nhập, phế khí bất tuyên, sẽ xuất hiện chứng tắc mũi, chảy nước mũi, hắt xì hơi, và khứu giác không linh lợi v.v... Nếu do phong hàn gây ra nói chung có thề lập tượng sô" là 70 hoặc 07ễ Trong đó 7 là quẻ cấn, chủ vị thuộc dương thổ, còri thuộc dương minh kinh, kinh của nó chạy lên, nên lập sô" theo vòng kinh, ôn kinh tản hàn.v.v... 3. Tỳ Tỳ, quẻ khôn, tượng địa, sô 8, thuộc thô. Tỳ nằm trong khoang bụng, có biểu lý giông vị trong lục phủ. Chủ vận hóa. - Tác dụng chủ vận hóa của tỳ gồm 2 mặt là vận hóa tinh của thủy cốc và vận hoá của thuỷ thấp, hai tác dụng này đều hoàn thành thông qua tỳ khí. Vận hóa tinh của thủy cốc chủ yếu Jà chức CHỪA BỆNH THEO CHU DỊCH năng tiêu hóa. hấp thu, vận chuyển các chất dinh (>nh âm hư dương cang; là dạng thận âm hư không đủ để chế ngự dương, nên lập tượng sô" là (>40.6 là khảm thủy, là thận, còn 4 là chấn mộc, là Can; mà Can thận đồng nguồn, cho nên 640 là tư íim tiềm dương. Nếu như lại xuất hiện tinh thần m<)t, mỏi, đau lưng, tứ chi lạnh, khó tiểu tiện hoặc ||(!U tiện nhiều lần, nam giới liệt dương, nữ giới Không có thai v.v... thì thuộc thận dương hư nhược, <'lmv năng làm nóng và sinh hóa do không đủ mà ■ inh ra; thường là phấn chấn thận dương là chính, lưựug sô" là 20.650. Trong đó 6 là quẻ khảm, chủ 111.ể.ì11; 5 là quẻ tốn, thuộc dương mộc, trên lâm sàng • M I hề thấy 650 gây phấn chấn thận dương, 20 là 'ỉiini kim sinh thận thủy, trợ thận khí. ( 'hủ thủy - Bản thân thận là tạng thủy, những Imli mà nó giữ thuộc về một loại của nước, mà ỈMIIIỊ’ người lại luôn phải th a }7 th ế thủy dịch, chủ .‘•II 1,‘ỉ dựa vào tác dụng của dương khí trong thận. 1'lii’iy dịch là CỈO dạ dày thu nạp, do tỳ vận chuyển, iImiiiị: qua phổi rồi về thận, sau khi được thanh lọc n mi LÝ N G Ọ C SƠN - LÝ KIỆN DẨN khí hóa của thận trở vể phổi, vặn chuyển đi các tạng, còn những chất độc thì lọt xuông bàng quang và thải ra ngoài cơ thế. Cứ tuần hoàn như vậy luôn luôn duy trì được sự cân bằng về thay thế thủy dịch cho toàn cơ thể. Nếu thận dương không đủ, khí hóa thất thường, việc thay thế thủy dịch có trở ngại nên sẽ dẫn đến bệnh tật, như đi tiểu ngắn và ít, phù toàn thân v.v...; trong liệu pháp tượng sô" thường dùng bổ ích thận dương, kiện tý hóa thấp là chủ yếu, lập tượng sô" nói chung là 650.3820 v.v... Trong đó 650 giông như trên, còn 3820 là hỏa sinh thổ, thổ sinh kim, hỏa sinh thổ có thê làm mạnh tỳ. thổ sinh kim làm trợ khí của thận, 3820 có thể kiện tỳ ích khí, mà việc thay thế thủy dịch của cơ thể tuy là trách nhiệm của phế tỳ thận, nhưng nó cũng có quan hệ mật thiết với các tạng khác, cho nên trong 650.3820 có đủ tượng sô" của ngũ tạng, nhưng chủ yếu chỉ là phế tỳ thận. Chủ nạp khí. - Hô hấp của cơ thể ngưòi tuy chủ yếu là do phổi, nhưng sau khi khí hít vào cần phải nạp vào thận, nên có nói "phế chủ hô hấp, thận chủ nạp khí". Chức năng thận chủ nạp khí loại này có ý nghĩa quan trọng với hô hấp của người. Chỉ cần thận khí có đầy đủ nạp bình thựờng mới làm cho đường phổi thông thương hô hấp điểu hòa. Nếu như thận hư thì khí hút vào không thê CHỮA BỆNH THEO CHU DỊCH nạp được tới thận, cho nen hô hấp rất ít. fijây ra bệnh đoán hơi. Trên lâm sàng thường dùng bổ thận nạp khí, tượng sô' là 260.50 là đoài kinh sinh thận thủy, thêm 00 đê tả thận khí. Chủ. cốt, sinh tủy, "kỳ hoa tai phát" biểu hiện ở tóc - chủ cốt sinh tủy cũng là tinh khí của thận, xúc tiến chức năng sinh trương phát duc. Thận giữ tinh, tinh sinh tủy, tủy ở trong xương, xương dựa vào tủy mà sông. Tinh của thận đầy đủ thì có đủ nguồn sinh hóa cho xương tủy, do vậy xương cốt được tủy dinh dưỡng nên được rắn chắc. Nếu cốt tủy hư thiểu, hóa nguồn cốt tủy không đủ, không đủ dinh dưỡng cho xương cốt, nên dễ làm cho xương yếu và gãy, thậm chí phát triển không tốt. Những trẻ nhỏ chậm biết đi xương mềm yếu, là do tinh tiên thiên của thận không đủ và khi cốt tủy hư rỗng cũng sẽ gây nên đau lưng nhức xương, thậm chí chân không muôn động v.v... Thận có thể sinh tủy chủ cốt, còn "răng là chỗ dư của xương" cho nên răng cùng phải dựa vào tinh của thận được dinh dường đẩy đủ, nếu tinh của thận không đủ thì răng bị lung lay dễ gãy v.v.ềỂ Tủy chia ra làm tủy xương và tủy cột sống, tủy cột sông thì chạy thẳng lên não, nên não được hình thành do tủy. Cho nên được gọi là "não là bể của tủy". Chức năng của não là duy trì sự hoạt động tư duy về LỶ NGỌC SƠN - LÝ KIẾN DẨN tinh thần, nên còn gọi là phủ của nguyên thần. Vì tủy não dựa vào sự sinh hóa liên tục của tinh thần, nên não là hoạt động tinh thần chủ yếu của co' thể. Nếu thận tinh không đủ gây ra hiện tượng nhức đầu, hay quên, mất ngủ, tư duy trì trệ v.v... Tinh và huyết, có thể dựa vào nhau, tinh đủ thì huyết, vượng. Nguồn dinh dưỡng cho lông và tóc là do máu, cho nên tóc còn được gọi là "huyết dư", sự dinh dưỡng của tóc tuy nguồn là do máu, nhưng sinh cơ của nó lại do thận khí. Cho nên tóc là ngoại hậu của thận, sự sinh trưởng và rụng tóc, tóc nhòn hay tóc khô đểu có liên quan đến sự thịnh suy của tinh khí thận. Các chứng bệnh do thận tinh kém nói trên, lập tượng số thường dùng là 20.650.30ế80. 6 là khảm thủy, là thận, 5 là tôn mộc thiện tả dương khí, lại trợ cho Can âm (mật và Can cùng biểu lý)ễ 3 là ly hỏa, cổ vũ phế khí, điều khiển khí của thận thường dùng lợi tỳ thận khí hóa. Cho nên tuy là bổ thận tinh là chính, nhưng vẫn cần phải sự hỗ trợ của các tạng khác mới có thế lợi cho tư bổ thận tinh, giữa các ngũ tạng là trong sinh có khắc, trong khắc có sinh. Đồng thời cũng có thể cùng phôi hợp sử dụng một sô" thuốíc khác. Khai khiếu do tai và nhị âm. Chức năng thính giác của tai là dựa tinh khí của thận được dinh dưỡng đầy đủ. Thận chủ tàng tinh, tinh khí của X L i í U I CHỮA BỆNH THEO CHU DỊCH thận đầy đủ, thính giác của tai sẽ nhanh nhạy. Nếu thận tinh không đủ sè gây ù tai và thính lực giảm thiểu. Tượng sô"của nó là 20ễ650.30.80. Nhị âm. Là chỉ bộ máy sinh dục tiền âm và hậu môn hâu âm. Tnc dụng của tiền âm là thoát nước tiếu và sinh đẻ, còn hậu âm là đê thải phân. Việc bài tiết nước tiểu tuv là do bàng quang, nhưng chủ yếu dựa vào khí hóa của dương thận, còn cơ năng sinh dục của cơ thể lại dựa vào thận là chủ yếu, cho nên chứng bệnh đái nhiều và liệt dương chủ yếu là do thận dương không đủ. Việc đại tiện cũng bị ảnh hư ởng bởi độ ấm của thận dương. Cho nên khi thận d ương không đủ sẽ gây ra dương hư hoả suy và trở thành táo bón, cũng có thể do tỳ thận dương hư mà trở thành tiêu chảy vếv... Phàm những chứng bệnh do thận dương hư suy gây ra đại tiện không thông, liệt dương, tượng sô" phần lớn lấy là 650.30.820 là chính để bổ thận dương, ích tỳ khí. Trong đó 30 là nguyên chỉ để làm hóa hoãn gấp cho tỳ dương. B. SINH LÝ. BỆNH LỶ CỦA LỤC PHỦ VÀ LIỆU PHÁP TƯỢNG só BẤT QUÁI 1. Đảm (một) Đảm, quẻ tôhị tượng phong, sô 5, thuộc dương mộc. Mật nằm ở phần trên của khoang bụng cùng LỶ NGỌC SƠN - LÝ KIỆN DẨN_____________________________ với Can, trong chứa các tinh mật. Các nước mội thì được tưới vào trong ruột có tác dụng xúc tiến tiêu hóa thực1 phẩm. Bệnh Can có thê ảnh hưỏẾng đến mật. bệnh mật cũng ảnh hương đến Can. Người bệnh mật đa sô' dịch mật ợ lên miệng thấy đáng, đau sườn, Ợ ra nước vàng và dịch mật chảy tràn ra ngoài thì trở thành chứng' vàng mặt và thân. Trong liệu pháp tượng số đa phần dùng phương pháp lợi mật; tượng sô” nói chung là 50.820, trong đó 50 có lợi về khí mật, 820 là chấn tỳ dương, ích phế khí có khả năng làm mạnh hiệu quả lợi mật. Mật tuy là trong lục phủ, nhưng do nó chứa dịch mật mà không tiếp thu thủy cốc hoặc cặn bã, nó khác vói ngũ phủ khác, cho nên được gọi là "phủ đặc biệt" 2. Vị (dạ dày) Vi, quẻ cấn, tượng sơn, sô 7, thuỏc dương thô. Dạ dày ỏ phần trên khoang bụng, dưới hoành cách, trên nối với thực quản, dưới nôi với ruột non, miệng trên của nó là cửa phun tức thượng nguyên, miệng dưới là hạ nguyên, còn giữa thượng hạ nguyên là trung nguyên, cả 3 thông nhất là "vị nguyên". Dạ dày chủ yếu là thu nạp, làm nóng và nát thủy cốc ăn uống vào mồm, qua thực quản đưa vào dạ clày cho nên được gọi là "thủy cốc chi hải" CHỮA BỆNH THEO CHU DỊCH Các thực phẩm được nạp trong dạ dày qua vị khí làm tiêu nát thức ăn. chuyến xuống ruột nonệ các chát tinh túy được tỳ vận hóa đến toàn thân đế nuôi dưỡng các tố chức bộ máy. Việc dinh dưỡng' có đầy đủ hav không thì quyết định bởi tác dụng chung của tỳ và vị. cho nên gọi tỳ vị là "hậu thiên chi bản". Vì thế việc chẩn đoán chữa bệnh trên lâm sàng đều rất coi trọng đên sự thịnh suv vể khí của tỳ vị. Cho rằng "hữu vị khí tắc sinh, vô vị khí tắc tử", đó là một vấn đề quan trọng để chẩn đoán bệnh tật. Khi dạ dày nhòn thì tốt, nóng thì xấu. Bệnh dạ dày dễ gây nên thương tổn do hỏa. Biểu hiện là khô mồm thích uống nước, mặt lưỡi đầy- rêu vàng v.v... Trong liệu pháp tượng sô" thường lấy số là 007.04 thường dùng hòa vị sơ can sinh luật. 4 là .chấn mộc, chủ can, 7 là cấn thổ, chủ vị, 4 và 7 phôi hợp dùn^ để sơ can hòa vị, không lại ỏ trước tượng sô", thiên âm có hiệu quả tư âm trước cấn thổ 7 có 00 là sô" chẵn, là âm, cho nên 007.04 không chỉ hòa vị sơ Can mà còn kiêm cả lực thiên âm (lệch về âm)ề 3. Tiểu tràng (ruột non) Tiêu tràng, quẻ ly, tượng hỏa, sô 3, thuộc hỏa. Tràng nằm trong khoang bụng, trên nốì với dạ dày, dưới 'thông đại tràng. Chức nănẹ của (tiếu tràng) ruột non là đê phân tích chất tinh và chất LÝ NG ỌC SON - LÝ KIỆN DÂN bã (thanh trọc)ế Tiểu tràng trên nôi với dạ dày đê tiếp thu thức ăn đã được dạ dày chuyên hóa, đê tiêu hóa thêm một bước rồi phán thành loại tinh và t.rọcế Thủy tinh cốc do tỳ chuyên vận đi khắp co' thê còn chất bã được chuyên xuốíng đại tràng, thủy dịch không dùng đến thấm vào bàng quang. Chức năng đó của ruột non "tô" vấn” được gọi là "thụ thịnh hóa vật". Do chức năng của ruột non như trên nếu có bệnh, ngoài ảnh hưởng đến chức năng hấp thu tiêu hóa còn xuất hiện những khác thường về tiểu tiện. Như tiểu tràng nhiệt thịnh, tiểu tiện ngắn, đỏ. đục và đau v.v... tượng sô" nói chung được lập 0002.03. Trong đỏ 2 là quẻ đoài, chủ phế, phế chủ túc giáng, thông điều thủy đạo, đồng thời bệnh ở cửa niệu đạo là quẻ đoài, 000 để làm tăng hiệu quả của nó, nằm trước sô" 2 thiên về âm để đê phòng thương âm do lợi tiểu quá nhiều, 3 là quẻ ly, chủ tâm, tâm cùng biểu lý với tiểu tràng, 03 có thể tả tâm hỏa để làm nguội tiểu tràng. 4. Đại tràng (ruột già) Đại tràng, quẻ càn, tượng thiên, sô 1, thuộc kim. Đại tràng nằm trong khoang bụng, trên nối với tiểu tràng, đầu dưới là hậu môn. Chức năng chủ yếu của nó là tiếp các vật chất từ tiểu tràng đố xuống, sau khi hấp thu lại một sô" thành phẩn nước x u m CHỮA BỆNH THEO CHU DỊCH thừa trong dó. còn lại biên thảnh phân và thoát ra ngoài qua hậu môn. Cho nên đại tràng là một con đường thông để chuyển dẫn các chất cặn bã. Khi đại tràng có bệnh, việc chuyến dẫn thất thưòng đã gây ra nhiều loại bệnh tật: như đại tràng hư không thể hấp thư được nước cho nên đã đại tiện ra nước: nếu đại tràng bị nóng và tích thì gây nên chứng táo bón. Trong liệu pháp tượng sô", nếu đại tiện ra nước thì lấy chấn phế khí, làm ấm và thông thận dương là chính, lập tượng sô" là 20.650. Trong đó 2 là quẻ đoài, thuộc kim chủ phế khí của chủ - thận; phế và đại tràng cùng biểu lý, cho nên 20 là để xúc tiến hóa khí của đại tràng. 650 là chấn thận dương, ôn đại tràng để làm chức năng nó trơ lại bình thường. Còn khi đại tiện bị kết bón, lập sô" là 80.160.40. 8 là quẻ khôn là bụng để điều khí cơ của phần bụng, trong 160, 1 càn kim, là đại tràng, 6 là khảm thủy, là thận, 160 là kim sinh thủy, tả nhiệt tà cho đại tràng; 4 là chấn mộc can, để làm thông khí cơ, cho nên 80.160ẵ40 tả nhiệt thực đại trường, thông khí cơ để thông đại tiện. 5. Bàng quang Bàng quang, quẻ khảm, tượng thuỷsô 6, thuộc thủy. Bàng quang ở phần bụng dưới, là một trong bộ máy để thay thế thủy dịch, chức năng chính của nó ĩ L m i LÝ NGỌ C SƠN - LỶ KIỆN DẨN là chưng hỏa núỏc. chứa và thoát nuỆỐc tièuẻ Trong quá trình thay thê thủy dịch trong người, các dịch thể để phái thông qua tác dụng' hóa khí của dương khí hạ tiêu mối hiên thành nước tiêu thoát ra ngoài. Nếu hóa khí bàng quang bất lợi sẽ xuất hiện bí đái, đái sót... liệu pháp tượng sô"của chứng bệnh này là phấn chấn thận dương, thúc bàng quang hóa khí, tượng số được lập là 2000.650. 2 là phế kim, đề điều khiển khí cơ toàn thản. 650 ôn thông thận dương làm bàng quang hóa khí thuận lợi. Nếu bàng quang mất đi tính tự (không chế) hãm, có thể xuất hiện đái nhiều, đái không tự kìm chế được v.v... tượng sô" thường lấy sô" 60 đê chấn thận khí tăng hiệu quả hóa khí của bàng quang. 6. Tam tiêu Tam tiêu, quẻ ly, tượng hỏa, sô 3, thuộc hòa. Tam tiêu là cái tên chung của thượng tiêu, trung tiêu và hạ tiêu. Được phân bổ như sau: thượng tiêu là từ hoành cách ngực trỏ lên, trung tiêu là đoạn từ hoành cách tới trên rốn, từ rốn trở xuống đều thuộc hạ tiêu. Nếu phân biệt theo nội tạng, thượng tiêu gồm tim và phổi: trung tiêu gồm tỳ và vị; hạ tiêu gồm Can, thận, đại tiểu tràng, bàng quang v.v... Chức năng sinh lý chủ yếu của tam tiêu là con đường vận chuyển nguyên khí có tác dụng điều 76 T CHỮA BỆNH THEO CHU DỊCH khiển khí hóa coẳ thể. Nguvên khí bao gồm khí nguyên ám và nguyên dương. là động lực chính của hoạt động sinh mệnh con người, có phát nguồn từ thận: giữ tại dưới rốn, nhò sự lưu thông của tam tiêu đến khắp co' thể. Nó đẩy các hoạt động các bộ máy tổ chức, các tạng phủ. Vì thế tam tiêu có quan hệ toàn quá trình với độ tinh của thủy cốc. sự tiêu hỏa và hấp thu các thủy clịch thay thế. vận chuyên phân bố’ và bài tiết. (Phụ lục ỉ) Não Não là một phủ đặc biệt nó nằm trong hộp sọ hình thành bởi các tủy, nên cổ nhân có nói "não vi tủy chi hải", "tủy hải bất túc", "tắc não truyền nhĩ ô" (tức là não là bể của tủy, nếu bể tủy này không đủ thì sẽ gây nêu ù tai). Não là cơ sở vật chất của tất cả các hoạt động tinh thần. Người xưa đã có nhận thức nhất định về chức năng sinh lý bệnh lý học của não, nhưng trong học thuyết tạng phủ của đông y, có phân sinh lý, bệnh lý của não quy vảo ngũ tạng như tâm tạng thần, chủ hỷ; phế tạng phách, chủ vi; tỳ tạng ýỂ. chủ tư; can tạng hồn, chủ nộ; thận tạng chí, chủ khủng v.v.ễ (Phụ lục II) Bào thai Bào thai còn gọi là bào cung, tức tử cung, nằm ỏ bụng dưới. Chủ về kinh nguyệt và bào thai. Nó quan hệ mật thiết với thận và mạch xung, nhâm. LÝ NGỌC SƠN - LÝ KIỆN DẨN Tóm lại. tạng phủ đôi với đỏng yẾ nó không những là một khái niệm giải phẫu học mà quan trọng hơn là khái niệm về sinh lý và bệnh lý học. Mỗi tạng phủ không chỉ có các hiện tượng riêng về chức năng sinh lý, bệnh lý, mà còn có quan hệ mật thiêt về sinh lý và bệnh lý giữa tạng với tạng, phủ với phủ và tạng với phủ. Như quan hệ thừa vũ sinh khắc giữa các tạng phủ đã giới thiệu trong học thuyết ngũ hành, nói rõ những ảnh hưởng lẫn nhau trên bệnh lý và tương hỗ tương sinh, trợ trưởng, tương hỗ chế ước, khắc chế trên sinh lý của phủ tạng. Quan hệ sinh khắc thừa vũ ảnh hưởng lẫn nhau, liên hệ lẫn nhau giữa các phủ tạng trên nó sẽ xuyên suốt từ đầu đến cuối trong điều trị biện chứng về liệu pháp tượng số. Quan hệ biểu lý âm dương và độ sâu nông về vị trí của lục phủ ngũ tạng nói chung có thể nói, ngũ tạng thuộc lý thuộc âm, lục phủ ở ngoài ngũ tạng, thuộc dương. Các phủ tạng lại có quan hệ biểu ]ý tương đối (xem bảng). Bảng 5 Âm Lý Tạng Tâm Tâm bào Can Tỳ Phế Thận Dương Biểu Phủ Tiểu trường Tâm tiêu Đảm Vị Đại tràng Bảng quang CHỮA BỆNH THEO CHU DỊCH PHẨN IỈI ỨNG DỤNG LÂM SÀNG CỦA LIỆU PHÁP TƯỢNG SỐ BÁT QUÁI I. ĐIỀU TRị BIỆN CHỨNG Liệu pháp tượng số bát quái và đông y đều bắt nguồn từ “Chu dịch”, cùng với việc bắt mạch. Do vậy liệu pháp tượng số bát quái cần phải kiên trì trên nguyên tắc chữa trị biện chứng vối cương lĩnh là học thuyết âm dương ngũ hành. Biện chứng là phân tích, phân biệt rõ các chứng cứ về bệnh tật. Chứng bệnh là tập hợp một loạt các triệu chứng như phát sốt, miệng khát, táo bón, lưỡi vàng v.v... Nếu nói cho từng triệu chứng thì không thề phản ảnh hết tính chất bệnh tật, nhưng kết hợp lại với nhau, chúng có thể cùng phản ảnh được các tính chất về bệnh tật đó là - chứng nhiệt. Biện chứng và chữa trị là lý, pháp của liệu pháp lượng số" bát quái được vận dụng cụ thế trên lâm sàng, là 2 mắt xích quan trọng nhất. Biện M E LÝ NG ỌC SƠN - LÝ KIỆN DÀN chứng là nhận thức vổ bệnh tật. còn chừa trị là chọn nguyên tác và phương pháp điều trị tuắ(ỉng ứng. Chỉ khi có biện chứng chính xác, chọn phương pháp điều trị xác đống, mới thư được hiệu quả theo dự đoán. Phương' pháp biện chứng có nhiều loại, như biện chứng bát cương là phương pháp cợ bản nhấtệ Bệnh tật thì vô vàn loại, mà triệu chứng cũng biến hóa muôn phương, nhưng phản ánh trên con người thì chỉ phân biệt bệnh tật nếu không thuộc âm thì thuộc dương; vị trí bệnh không thuộc biểu thì thuộc lý; tính chất của bệnh không thuộc nhiệt thì thuộc hàn; sự thịnh suy của tà chính không thuộc hư thì thuộc thực; tất cả đểu quy nạp qua 8 loại là âm, dương, biểu, lý, hàn, nhiệt, hư, thực. Bát cương là thông nhất đối lập, liên hệ với nhau. Biện chứng bát cương là tổng cương của các loại biện chứng, mà âm dương lại là tổng cương trong đó. Trên cơ sở biện chứng, chọn ra nguyên tắc bổ tả tương ứng, tức "hư thì bổ, thực thì tả", những triệu chứng giữa hư và thực thì dùng "bình bổ bình tả"ệ Trung liệu pháp tượng số bát quái có bao gồm "mẫu tử bổ tả pháp", tức là "mẹ sinh ra tôi là bô , "tôi sinh ra con là tả", khi "tôi" ỏ vào giữa hư, thực thì dùng bình bổ bình tả để làm phấn chấn khí cơ của tổ chức tạng phủể Thí dụ phế khí hư thì lập sô" CHỮA BỆNH THEO CHU DỊCH là 720. Trong đó 7 là cấn thố mẹ, 2 là đoài kim con (tôi). Bài này là cân thổ mẹ sinh đoài kim con tức mẹ sinh ra tôi thì hổ hư cho tôi; nếu phế thực, thì lập sô" là 260 hoặc 2600 (nếu thấp tà thịnh thì lấy sô' 0 lẻ còn ngược lại lấy sô" 0 chẵn). Trong đó 2 là đoài kim tôi, 6 là khảm thủv con, cho nên bài này là tôi sinh khảm thủy 6 đê lấy tả chữa thực cho tôi. Nếu phế (tôi) ở vào dạng khó phân biệt hư thực, tức sẽ lấy tượng sô" 2 để bình bổ tả làm phấn chấn tạng đó tức là sô" 20. Phương pháp mẫu tử bổ tả nói trên là nói tới phủ tạng có bệnh. Đốì với các phủ tạng ở trạng thái sinh ỉý bình thường, thì sinh khắc ngũ hành của nó theo thứ tự, tức là trong sinh có khắc, trong khắc có sinh và sinh khắc cân bằng trong âm dương. Với trạng thái sinh lý bình thường này thì tượng số niệm chỉ để tăng nhanh quá trình sinh khắc chế hóa của nó giúp làm khỏe người mà thôi. Sô" niệm là 820 có thể nâng nhanh hiệu quả kiện tỳ ích khí; nếu nói trên quan hệ sinh khắc ngũ hành, 820 là thổ sinh kim, trong đó khôn thố mẫu 8 tuy sinh đoài kim tử 2 làm tổn thương khí, nhưng đồng thời khôn thổ mẫu cũng bị sinh; tức “sinh tôi", "tôi sinh", đồng thời cũng hàm nghĩa "tôi khắc", "khắc tôi". Nếu như chỗ này ở vào trong sinh có chế, trong chế có x u ư x LÝ NGỌ C SƠN - LÝ KIỆN DẨN sinh (tức thuận thứ tương sinh, cách vi tương khắc), chu nhi phục thủy, tuần hòa vô tận, tự mình điều tiết, cân bằng trạng thái, và đoài kim 2 là phế. điều khiển khí toàn thân bao gồm khí của tỳ. vì thế, khí của đoài kim 2 được bổ, tỳ khí tự sinh. Ngược lại một tổ chức phủ tạng nào đó của cơ thê có bệnh mà tỳ phế lại ở trạng thái bình thường tương đổi thì tạm dùng 820, hoặc 80, 20 thường là kiện tỳ ích khí hoặc làm phấn chấn khí của tạng phủ đó, tăng nhanh hiệu quả khỏi bệnh. Cho nên khi điều trị bằng "mẫu tử bổ tả pháp" trong quá trình lập tượng sô" là dùng tượng số của phủ tạng bình thường tương đối với ý đồ là tăng hiệu quả. Tổng kết phần trên, với các phủ tạng có bệnh, có thể do một khí trong ngũ hành ở trạng thái quá hoặc bất cập, tượng số niệm là chỉ dùng "mẫu tử bổ tả pháp" thì chưa hẳn đã hết đau và bổ cũng chưa đủ. Còn đối với phủ tạng bình thường thì những sô" niệm là có thể tăng thêm lực sinh khắc chế hóa của nó. Trong quá trình dùng "mẫu tử bổ tả pháp" cũng cần chú ý các nguyên tắc “tiêu bản hoãn cấp", "tiêu bản kiểm số" "đồng bệnh dị trị", "dị bệnh đồng trị" v.v... Tiêu bản nói ở đây có nghĩa là tiêu chuẩn các chứng trạng, bản chất nguyên nhân bệnh; tiêu chuẩn về tà bệnh, tiêu chuẩn về chính khí. Như đau bụng lạnh do tỳ thận hư gây ra hay