🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Chủ Tịch Hồ Chí Minh Với Thể Dục Thể Thao Ebooks Nhóm Zalo TRttlNG QUOC UYEN CHU TICH HO o n M IM vO i , THf: DUC TH6 THAO NHA XUAT BAN THE DUC THE THAO TRƯƠNG QUỐC UYÊN CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH với THỂ DỤC THỂ THAO NHÀ XUẤT BẦN THỂ Dực THE THAO H à Nôi - 2003 Lời giói tíiiệu Hàng chục năm qua, nhất là trong thòi kỳ đối mối hiện nay, đưỢc sự quan tâm lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, Thể dục thể thao nước ta đã đạt được những thành tích đáng mừng về các mặt: Thể dục thể thao quần chúng, Giáo dục thể chất trong nhà trường, Thể thao thành tích cao, Đào tạo cán bộ vv... Nền Thể dục thể thao Việt Nam ngàv càng khắng định vỊ thế của mình ở Đông Nam Á, Châu Á và Thê giới. Những thành tựu đó luôn gắn liền với sự quan tâm và chỉ hướng của Bác Hồ úc sinh thời. Nhân kỷ niệm 57 năm, ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu I'a lòi kêu gọi "Toăn dân tập thể dục” và ký Sắc lệnh thành lập Nha Thanh niên và Thể dục, tổ chức tiền thân của ngành Thể dục thể thao và nhân kỷ niệm 113 năm nẹày sinh của Ngưòi, Nhà xuát bản Thô dục Thể thao tái bản cuôn sách “C hủ tich Hồ Chí M inh với Thê d u c T h ế th a o ” ('ùn tnc giá Trương Quôc ưyỏn. Đây là một việc làm )'ất ctáug trán trọng. Ciiôn sác lì “C hủ tịch Hồ Chí M in h với Thê dục « • Tìiê th a o ’' xiiât bản lẩn dổii v;ìo năm 2000. được đông 3 đảo bạn đọc trong và ngoài ngành Thê dục thê thao hoan nghênh và đón nhận. Tái bản lần này, cuôn sách được bô sung và hoàn chỉnh hơn, nhất là phần nói tối tư tưởng Hồ Chí Minh về Thế dục thể thao, đã và đang được Đảng, Nhà nước ta phát triển và chỉ đạo có hiệu quả. Chúng ta mãi mãi ghi nhớ công ơn Bác Hồ đã dành cho Thê dục thể thao sự quan tâm chăm sóc ân cần của Người. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, Ngành Thể dục thể thao đang phôi hỢp chặt chẽ với các Ngành, đoàn thế quyết tâm thực hiện những ý tưởng và lòi căn dặn của Bác Hồ, nhằm đưa sự nghiệp Thể dục Thể thao nước nhà không ngừng phát triển mạnh mẽ. Tôi hy vọng cuôn sách “Chủ tịch H ồ Chí M in h với T hê due Thê th a o ” tái bản lần này sẽ giúp ích nhiều cho công tác tuyên truyền giáo dục, học tập, nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí minh vê Thể dục thể thao và tiêp tục động viên tinh thần cuộc vận động “Toàn dân rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ vĩ đại” thu được nhiều thành tích. PGS.TS Nguyễn Danh Thái Bỏ TRƯỞNG - CHỦ NHIÊM ỦY BAN THỂ DUC THỂ t h a o Lời ^ gọi toàn dãn tập thể dục Ị iữgìn dân chủ, xây dựng nước nhà, gây ổời sống mới, việc gì cũng cần có sức khoẻ mới làm tbàiilĩ công. Mỗi m ột người dân yếu ớt, tức là lảm cho cả nước yếu ớt inột phần; mỗi m ột người dân mạnh khoẻ, tức là góp phíin cho cả nước mạnh khoẻ. Vậv nên ỉuyện tập thê dục, bồi bổ sức khoẻ là hổn phận của mỗi m ột người dân yêu nước. Việc đó không tốn kém, khó khăn gì, gái trai, già trè, ai cũng nên làm và ai cũng làm dưỢc. Mỗi người lúc ngủ dậy, tập ít phút thể dục, ngày nào cũng tập thì khí huyết lưu thông, tinh thần đầy dủ. N hư vậy là sức kboẻ. Dân cường thỉ nước thịnh. Tôi mong đồng hào ta ai cũng gắng tập thể dục. Tự tôi ngày nào cũng tập. Tháng 3 năm 1946 H ổ CHÍ MINH 5 NỀN THE DỤC THE THAO MỚI CỦA NƯỚC VIỆT NAM MỚI I. MẤY NÉT VỀ NỀN THỂ DỤC THỂ THAO NƯỚC TA TRƯỚC CÁCH MẠNG THÁNG TÁM NĂM 1945 Dân tộc Việt nam có hơn bôn ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước. VỚI ý chí bất khuất, kiên cường, dân tộc ta đã làm nên những chiến tích vô cùng hiển hách; chông giặc ngoại xâm, mổ mang đất nước, lập nên non sông gâ'm vóc mãi mãi vững bền, sáng tạo ra nên văn hoá đậm đà bản sắc dân tộc. trong đó có văn hoá thê thao. Nền Thể dục thể thao dân tộc được bắt nguồn từ lao động sáng tạo và chiến đấu chôn^ xâm lăng của nhân dân ta. Trong xã hội phong kiến và thòi kỳ thuộc Pháp, mặc dù chủ yếu mang tính chất tự phát, phạm VI và đôi tưỢng hẹp, thiếu định hướng phục vụ đại chúng, nhưng nhìn chung Thể dục thế thao của dán tộc Việt Nam luôn thực sự gắn V (3i công cuộc báo vệ Tô quôc, quê iương, gắn với cuộc sống của người lao động, góp phần vun đắp tinh thần cộng đồng, làm phong phú đòi sống văn hoá của dân tộc ta. Trong xã hội phong kiến, mạc dù có nhiều hạn chê do sự chi phôi của ý thức hệ phong kiến thiển cận, nềr thể dục thế thao dân tộc Việt Nam vẫn thể hiện được tính phong phú của nó thông qua các hình thức: Rèn luyện kỹ năng chiến đấu sử dụng binh khí (gươni, giáo v.v...) và tay không; rèn luyện đôi chân nhanh nhẹn, bền bỉ dẻo dai cho binh lính ra chiến trận và thanh niên giữ nước giữ làng; tổ chức vui chơi, thi đấu vào những ngày xuân nhàn rỗi, trong các lễ hội truyền thông và lễ mừng chiến thắng, với các loại hình như; võ, vật cổ truyền, bơi thuyền, bơi lặn, chạy băng đồng, vượt dôc, kéo co, đánh cù, đánh phêt, đá cầu chinh, ném còn, đẩy gậy, đua ngựa, đua voi v.v... Mặt tích cực của phong trào tập luyện các môn thể thao dân tộc trong các thời kỳ lịch sử của xã hội phong kiến là nó luôn gắn liền với việc huấn luyện quân sĩ hàng ngày trong các binh chủng như bộ binh, kỵ binh, tượng binh, thủy binh về phép đánh địch bằng tay íhông, bằng binh khí, rượt đuổi địch, vượt sông, vượt đèo, băng rừng, các phép đánh trận, phá trận vv... Trong dân chúng mỗi khi có giặc ngoại xâm thì phong trào luyện tập võ nghệ, rèn luyện sức khoẻ đưỢc dấy lên mạnh mẽ trong thanh niên. Các bô lão động viên con cháu mình tích cực luyện tập, sẵn sàng bảo vệ xóm àrg. quê hương Tố quôc. Nhân dân ta già trẻ gái trai, dù được hay không được luyện tập, nhưng ai cũng rất chuộng võ dũng. Họ đề cao và kính trọng những ngưòi 8 có sức khoẻ tôt, thể chất cường tráng, giỏi võ, giỏi vật, dũng cảm chiến đâ'u chông xâm lăng, chông áp bức bóc lột bạo tàn. Nhân dân ta cũng rất ham thích xem và cô vũ những cuộc đấu võ, đấu vật, bơi thuyền, bơi chải và các môn thể thao dân tộc khác đưỢc tô chức trong các ngày lễ hội, ngày lễ mừng chiến thắng. Mhững mặt tích cực của Thể dục thê thao trong xã hội trải qua nhiều thế hệ đã đưỢc kết tinh thành truyền thống thượng võ của dân tộc ta, một trong những truyền thông cao đẹp truyền từ đòi này qua đòi khác trong suôt bôn ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước và ngày nay chúng ta cần phải phát huy mạnh mẽ trong sự nghiệp xây dựng nền Thê dục thê thao xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Mặc dù bị ý thức hệ phong kiến chi phôi làm cho Thê dục thế thao của dân tộc ta còn có nhiều mặt hạn chế cơ bản như: phong trào tập luyện phần nhiều mang tính tự phát, được chăng hay chớ, không có cơ sở xã hội vững chắc, thiếu tính đại chúng, người có tuổi hầu như không tham gia tập luyện, nữ giới thường bị cấm kỵ tập luyện, vui chơi các môn thế thao dân tộc do tư tưởng lạc hậu “Trọng nam khinh nữ”, tuy vậy lịch sử dân tộc ta cũntỊ đã từng có những đội quân nữ hùng mạnh với nhiều nủ tướng giỏi võ nghệ trong cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng và cuộc khởi nghĩa của Bà Triệu, làm nên những chiến công hiển hách. Cuôl thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, một sô" môn thế 9 thao hiện đại từ phương Tây đưỢc đưa vào nước ta làm cho Thê dục thể thao Việt Nam phong phú hơn vê loại hình. Do tính chất sôi nổi, hào hứng của các môn này đã thu hút không ít thanh thiếu niên nước ta tự tổ chức vui chơi, thi đấu giao hữu không chỉ ở thành thị mà cả ở các àng quê. Bên cạnh phong trào tập luyện vvii chơi thi đấu tự phát các môn thê thao hiện đại của thanh thiếu niên, phong trào tập luyện các môn thể thao dân tộc nhất là võ, vật vẳn được duy trì. Nhiều thanh niên tráng kiện giỏi võ nghệ đã xung vào các đội quân khởi nghĩa chông thực dân Pháp của Trương Công Định, Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám v.v... và cũng chính từ đó thực dân Pháp rất lo sỢ, chúng cấm đoán, bắt bớ những thanh niên Việt Nam luyện võ, rèn sức. Gần 100 năm thống trị đất nước ta, thực dân Pháp loàn toàn không có thực tâm chủ trương phát triển nền Thể dục Thể thao Việt Nam. Ngược lại, chúng sử dụng Thể dục Thể thao và khuyến khích phát triển một sô' môn thê thao hiện đại nhằm phục vụ lợi ích thông trị của bọn thực dân bản xứ. Đứng trước phong trào cách mạng của nhân dân ta ngày càng dâng cao, năm 1940, viên thiếu tá hái quân Pháp tôn là Ducouroy đã đề xướng phong trào “Khoẻ đế phụng sự" nhằm thu hút một bộ phận thanh thiếu niên ta vào các cuộc đua tranh giành giật, ăn thua gay gắt trên các đấu trường thể thao trong nước và Đông Dương như các cuộc đua'xe đạp xuyên Việt, vòng quanh Đông 10 Dương, các trận đá bóng giữa các đội tuyến thanh niên của ba miền Bắc, Trung, Nam, nhằm lảm cho thanh niên ta xa rời hoặc lãng quên nhiệm vụ đấu tranh giành độc lập cho dân tộc, hoặc lôi kéo thanh niên làm tay sai đắc lực cho chúng, chia rẽ nhân dán ta đê chúng dễ bể thông trị. Trong “Đề cương văn hoá Việt Nam” nám 1943, Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sán Đông Dương (Đảng Cộng sản Việt Nam ngày nay) đã vạch trần dã tâm của thực dân Pháp thông qua các phong trào ‘T hanh niên Hướng đạo". “Khoé để phụng sự” v.v... “Làm ra vẻ sán sóc đến trí dục. thê dục và đức dục’’í^^ cho tuổi trẻ Việt Nam. Đồng chí Trường Chinh, nguyôn Tống Bí thư Đảng ta cũng đã từng chỉ rõ: “Bọn thực dân Pháp... gây phong trào thanh niôn thế dục rầm rộ không ngoài mục đích chinh phục và mô hoặc thanh niên Việt Nam. khiến cho họ quên nhiệm vụ cứu nước, nhưng đủ sức làm trâu ngựa cho Nhật Pháp Sau này, trong hồi ký “Sự phản bội của tôi ơ Đông Dương" ^3ucouroy đã thú nhận âm mưu của y dùng Thê dục thế thao vào mục đích ngăn chặn cuộc đấu tranh giái phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam, đê thực dân Pháp dễ bề tiếp lục thông trị đất nước ta. (1) Để cương văn hoá Việt Nam (nám 194S) của Ban thương vụ Trung ương Đáng Cộng sán Đòng Dương, NXB Sự thật, Ha Nòi 1971, tr 365) (2) Trường Chinh, Chủ nghĩa Mác và ưăn hoá Việt Nam. in lấn thừ hai, NXB Sự Thật, Hà Nội 1974, tr5í, 60) 11 Tóm lại, mặc dù thực dân cố tình làm trệch hướng, song Thể dục thế’ thao nước ta trong thời kỳ thuộc Pháp về cơ bản vẫn thuộc về dân tộc, do nhân dân tự gây dựng lên để phục vụ cho mình, cho đất nước. Nhiều môn thể thao dân tộc và một sô" môn thể thao hiện đại vẫn đưỢc quần chúng lao động, nhất là lứa tuổi thanh thiếu niên tô chức tập luyện, vui chơi, thi đấu trong những ngày xuân, những ngày hội hè nhằm duy trì đòi sống văn hoá thể chất và phát huy tinh thần thượng võ của dân tộc. Nhiều môn phái Võ dân tộc được nhân dân ta giữ gìn, tập luyện bí mật ở các làng quê, trên núi rừng, sẵn sàng chông lại bọn thực dân thông trị. n. CHỦ TỊCH H ồ CHÍ MINH KHAI SINH NỀN THỂ DỤC THỂ THAO CÁCH MẠNG 1. Ngành Thể dục th ể thao cách m ạng ra đời Trong xã hội phong kiến, ở nước ta không hề có một tổ chức chuyên trách nào điều hành các hoạt động thể dục thể thao của dân tộc. Các hoạt động này chủ yếu gắn với việc quân của triều đình, do các tướng lĩnh trực tiếp tiến hành tổ chức huấn luyện, tập dượt, vui chơi, thi đấu trong binh lính. Còn phong trào Thể dục thể thao dân tộc của dân chúng thì Nhà nước phong kiến từ trung ương xuông đến tận xã thôn hầu như không đứng ra trực tiếp điều hành các hoạt động này. Phong trào chủ yếu mang tính tự phát trong thanh niên, thiếu niên, trung niên, họ sáng tạo ra các trò chơi vận động 12 vui khoẻ, hình thành các lò vật, lập ra các môn phái võ thuật, tự tổ chức tập luyện, vui chơi, thi đấu tranh giải trong làng, ngoài xã. Tuy nhiên vào những ngày lễ mừng chiến thắng, Nhà nước phong kiến vẫn huy động các môn thể thao dân tộc, các trò chơi dân gian từ trong dân chúng để tổ chức vui chơi, thi đấu gây không khí hào hứng trong ngày lễ. Thời kỳ nước ta dưới ách thông trị của bọn thực dân Pháp, trước năm 1940, thực dân Pháp cho lập ra “Hội Hưống đạo Việt Nam” nằm trong “Hội Hướng đạo Pháp quôc”. Hội Hướng đạo Việt Nam chỉ chú trọng thu hút thanh niên, thiếu niên về cách ăn mặc, học hành theo lốì Pháp, còn hoạt động thể dục thể thao chỉ chiếm phần rất nhỏ. Năm 1941, nhà cầm quyền Pháp ở nước ta cho thành lập “Tổng cuộc Thế dục thế thao thanh niên" đê điều hành phong trào “Khoẻ đê phụng sự” nhằm ngăn chặn cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân ta đang phát triển mạnh mẽ. Tố chức này cùng VỚI phong trào “Khoẻ đế phụng sự” bị tan rã hoàn toàn trước cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 194Õ của nhân dân ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng VỚI Đảng ta lãnh đạo toàn dân tiến hành cuộc cách mạng tháng Tám thành công, lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Đất nước vừa giành được độc lập dân tộc đã gặp phải biết bao khó khăn, trở lực bởi thù trong giặc ngoài cộng 13 thêm VÓI nền kinh tê do chê độ cũ để lại rất nghèo nàn ạc hậu, nhân dân nhiều nơi đói rét, dịch bệnh hoành hành, sức khoẻ giảm sút nghiêm trọng, thất học và mù chữ nặng nề. Trong hoàn cảnh đó Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng với Đảng ta đã đề ra nhiều chủ trương hết sức đúng đắn, kịp thòi nhằm đẩy lùi những khó khăn trở lực và Ngưòi kôu gọi đồng bào cả nước chông giặc đỏi, giặc dô’t. giặc ngoại xâm. Đồng thời do nhận thức sâu sắc tẳm quan trọng của vai trố sức khoẻ con người, sức ihoẻ nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm ký sắc lệnh thành lập ngành Y tế và ngành Thể dục thể thao của nước Việt Nam mới. Trước tết Ất Dậu nửa tháng, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 14. ngày 31 tháng giêng năm 1946 thành ạp Nha Thê dục Trung ương thuộc Bộ Thanh niên, tiền thân của ngành Thê dục thể thao ngày nay. Ngành Thể dục thể thao mới ra đời có “nhiệm vụ là liên lạc mật thiết với Bộ Y tế và Bộ Giáo dục để nghiên cứu phương pháp và thực hành thể dục trong toàn quôc” nhằni “Tăng bô sức khoẻ quôc dân và cải tạo nòi giông Việt Nam”. Đổ tăng cường và mở rộng các hoạt động thổ'dục thê thao và trực tiếp chỉ đạo công tác giáo dục thể chât í’ho thố hộ trc. Chủ tịch Hồ Chí Minh ký tiếp sắc lệnh S ( í 33 ngày 27 tháng 3 năm 1946 thành lập Nha Thanh niên và Thê dục thuộc Bộ Quôc gia Giáo dục. Ngành Thể dục thể thao mới là cơ quan tliam mưu 14 của Chính phủ cách mạng do Hồ Chủ tịch đứng đầu. Đây là cơ quan quản lý, điều hành công tác thê dục thê’ thao trong phạm vi cả nước. Ngành Thể dục thê thao mỏi là cơ quan đặc trách công tác thể dục thế thao vì lợi ích của nhân dân và đất nước. Điều đó chưa từng có trong lịch sử dân tộc Việt Nam từ trước cách mạng tháng Tám. 2. Tư tưởng Hổ Chí Minh chỉ hướng cho sự hình thành và phát triển nên Thê dục thể thao cách mạng Chủ tịch Hồ Chí Minh, Người sáng lập nền Cộng hoà Dân chủ Việt Nam. Chế độ mới này quyết định sự ra dời và bản chất cách mạng của nền Thê dục thê thao mó'1. Đê nền Thể dục thể thao mới hình thành và phát triển mang ban chất cách mạng, vì lợi ích của toàn dân và đất nước thì điều cớ bản nhât là phái có sự định hướng đúng đắn, chỉ ra được mục tiêu, nhiệm vụ rõ ràng'. Đê dáp ứng điều đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết "LỜI kôu gọi toàn dân tập thê dục”. Lòi kôu gọi toàn dân tạp thế dục của Ngư'(Ji như ánh dương toả chiếu, dịnh hướng' cho sự lình thành và phát thển nền Thê dục thê thao mỏi của nước Việt Nam mới. Vào một buói chiếu cưôi than^ .‘-i năm I94(i, tại trụ HO' Nha Thể dục Trun^r ương (nay là nhà sô 8 đường ĩỉoàn.u Diệu, Hà Nội) tập thê cán hộ của Nha đang tháo luạii công tác. tìm cách phát độns phong trào thê dục thê lõ thao, bỗng nhiên ông Bộ trưởng Bộ thanh niên kiêm Giám đốc Nha thể dục Trung ương đi vào, hồ hởi t.iông báo: “Hồ Chủ tịch viết Lời kêu gọi toàn dân tập thể dục”. Lời kêu gọi tập thể dục do Bác Hồ tự tay viết với văn phong bình dị, rõ ràng, ai cũng có thể hiểu được. Ngưòi viết: "‘Giữ gìn dân chủ, xây dựng nước nhà, gây đời sống mới, việc gi củng cần có sức khoẻ mới làm thành công Mỗi một người dân yếu ớt, tức là làm cho cả nước yếu ớt một phần; mỗi một người dân mạnh khoẻ, tức là góp phần cho cả nước mạnh khoẻ. Vậy nên luyện tập th ể dục, bồi bô sức khoẻ là bổn phận của mỗi một người dân yêu nước. Việc đó không tốn kém, khó khăn gi, gái trai, già trẻ, ai củng nên làm ưà ai củng làm được. Mỗi người lúc ngủ dậy, tập ít phút thể dục, ngày nào củng tập thi khí huyết lưu thông, tinh thần đầy đủ. N hư vậy là sức khoẻ. Dân cường thi nước thịnh. Tôi mong đồng bào ta ai cũng gắng tập thể dục. Tự tôi ngày nào củng tập" (1) Anh em trong Nha Thể dục Trung ương vô cùng phấn khởi vì Lòi kêu gọi tập thể dục của Bác Hồ là ánh sáng dẫn đường, chỉ lôi cho công tác thể dục thể thao cách mạng. (1) Hồ Chi Minh: Toàn tập, xuất bản lần thứ hai, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tập 4, trang 212 16 Bác Hồ kêu gọi đồng bào tập Ihê dục. thực chất là rèn uyện thân thể bằng nhiều hình thức, phương pháp và những bài tập với những động tác kỹ thuật có tính quy luật, khoa học. Từ “Thể dục” với nghĩa là giáo dục thê chất. Vào những năm đầu thê kỷ XX, cụ Phan Bội Châu, nhà yêu nước lớn đã từng nói tới “thê dục” gồm thế dục tay không, thể dục có dụng cụ, thể dục giải trí... Nguyên Thủ tướng Phạm Văn Đồng cũng đã nói: “Chữ thể dục hay lắm! Thể dục là giáo dục cư thể, đào tạo cơ thể, rèn luyện cơ thể... Vận động là thê dục” Như vậy. thể dục là giáo dục thê chất, rèn luyện thân thế nhằm bảo vệ và táng cường sức khoè cho con người. Hình thức, phương pháp và bài tập thê dục rất phong phú.Theo nghĩa đó, Bác Hồ kôu gọi toàn thê đồng bào tập thê dục không chỉ là tập theo bài thế dục phô thông (bài thể dục buổi sáng cho mọi người), mà còn có thê tập theo các hình thức, phương pháp, bài tập thê lực khác nhau, tùv thuộc điều kiện sức khoẻ, lứa tuôi, thời gian rỗi, nghề nghiệp, hoàn cảnh của mỗi người. Bàn thân Bác Hồ sáng nào cũng tự tập bài thể dục phổ thông, bài quyền, tạ tay v.v... (1) Uy ban Thê dục thê thao: Xây dựng và ph át triến nền Thê dục thê thao Việt Natii dân tộc, khoa học và nhàn dán, NXB TDTT, Hà Nội 1999, tr 186 17 Lời kôu gọi toàn dân tập thể dục của Hồ Chủ tịch đã chỉ ra mục đích, tính chất của phong trào thể dục thể thao, của nền thể dục thể thao mới của nước Việt Nam mới. Người chỉ rõ; Mục đích là phát triển phong trào tập thể dục đặng giữ gìn và bồi 'đắp sức khoẻ cho mọi người, “Dân cường thì nước thịnh”. Sức khoẻ của toàn thể đồng bào làm nên sự thịnh vượng cho đất nước, cuộc sông ấm no hạnh phúc cho nhân dân. Ngưòi chỉ rõ tính chất đại chúng của phong trào thể dục thể thao, của nền thể dục thể thao mới; “Tôi mong đồng bào ta ai cũng gắng tập thể dục”, từ già trẻ gái trai đều cần thiết tập thể dục. Tập thể dục là yêu nước, bởi vì mỗi người dân có sức ■thoẻ mới tham gia “Giữ gìn dân chủ, xây dựng nước nhà, gâv đòi sông mới, việc gì cũng cần có sức khoẻ mới àm thành công... Dân cường thì nước thịnh”. liời kêu gọi toàn dân tập thế dục của Bác Hồ với ý tưởng cao đẹp của Người có ảnh hưởng sâu sắc tỏi tình cảm, tinh thần và hành động của nhân dân và mọi ngứời hăng hái làm theo tiếng gọi của vị lãnh tụ kính yêu. Chỉ hai tháng sau khi Lòi kêu gọi toàn dân tập thể dục của Bác Hồ đăng trôn báo Cứu quô’c số 199, ngày 27-3-1946, trong toàn quôc đã dấy lên phong trào “Khoẻ vì nước” sôi nổi. Phong trào “Khoẻ vì nước” thực chất là bước khởi đầu của nền thể dục thể thao mới còn non trẻ nhưng đầy sinh lực phát triển. 18 3. Chú tịch Hổ Chí Minh đích thân phát động phong trào “Khoẻ vì nước’ Ngày 26-5-1946, Bác Hồ đến dự lễ khai mạc “Ngày thanh niên vận động” tố chức ỏ Thủ đô Hà Nội. Theo một số hồi ký và tài liệu lịch sử thì chiều ngày 25-5, có trận giao hữu bóng đá giữa đội Vệ quôc quân và đội Thanh niên cứu quôc Hoàng Diệu. Bác Hồ đã đến sân vận động và đá quả bóng danh dự, mỏ màn cho trận giao hữu. Ngày 26-5, bắt đầu từ õ giò sáng, những đám mây trắng còn lảng vảng trên bầu trời thủ đô Hà Nội sau một đêm hè lặng gió, phô" phường bỗng nhiên tưng bừng, rộn ràng hẳn lên. Cuộc diễu hành của tự vệ và thanh niên Thủ đô diễn ra rầm rộ trên hầu khắp các đưòng phô" lớn của 5 cửa ô, vừa đi vừa hô vang khấu hiệu; “Hồ Chủ tịch muôn năm!”; “Nhiệt liệt hưởng ứng Lời kêu gọi tập thể dục của Hồ Chủ tịch!” và hát bài “Khoẻ vì nước”. Các đoàn diễu hành cuôi cùng kéo vê Khu Đông Dương học xá (khu trường Đại học Bách Khoa Hà Nội ngày nay). Suôt ngày 26-5 diễn ra các hoạt động sôi nổi như cắm trại, thi đồng diễn bài thê dục phổ thông, thi văn nghệ... Đúng 19 giờ 20 phút, hàng nghìn người vô cùng sung sướng đưỢc đón Bác Hồ đến dự ngày hội vui khoẻ này. Người tiến đến châm “Ngọn lửa thiêng” phát động phong trào “Khoẻ vì nước”. Mgay sau “Ngày thanh niên vận động”, phong trào 19 “Khoẻ vì nước”dấy lên sôi nổi ở khắp Thủ đô Hà Nội. Từ Thủ đô Hà Nội, phong trào “Khoẻ vì nước” nhanh chong lan toả tới các tỉnh, thành phô" Bắc, TruníỊ, Nam của Tổ quốc và phong trào được phát triểrn mạnh mẽ ỏ nhiều phô" phường, trường học, xí nghiệp, làng mạc, công sở, các đơn vị tự vệ, vệ quốc quân, các cơ sở Đoàn Thanh niên cứu quôc. Phong trào “Khoẻ vì nvíớc” có nhiều loại hình tập luyện thi đấu giao hữu, vui chơi như “Bài Thể dục phố thông, điền kinh, bơi lội, bóng đá, bóng chuyền, bóng rổ. quẳn vỢt, các môn thể thao dân tộc và trò chơi dân gian như võ, vật cổ truyền, bơi thuyền, bơi chải, đánh phết, đá cầu chinh, kéo co, ném còn, đẩy gậy v.v... Sự phát triển phong trào tập luyện theo các loại hình tùy thuộc vào điểu kiện và truyền thông ở mỗi địa phương, mỗi vùng. Đông đảo các tầng lớp nhân dân bao gồm nam nữ thanh thiếu niên, người trung cao tuổi, học sinh, sinh viên, giáo viên, công chức, trí thức, công nhân, nông dân, các chiến sĩ vệ quôc quân, tự vệ thành, dân quân xã, thôn, làng đều nhiệt tình tham gia tập uyện. Bác Hồ mỗi sáng thức dậy trước 5 giò sáng đế rèn luyện thân thể. Ngưòi cùng các chiến sĩ cảnh vệ vào mỗi buổi tôi, trồi trăn^ sáng tập võ không biêt mệt mỏi. Bác Hồ còn dành thời gian đến động viên phong trào “Khoẻ vì nước” và thăm các lớp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, hưóng dẫn viên, huấn luyện viên thể dục thể thao ở Thủ 20 đô Hà Nội. Ngưòi nói chuyện, chỉ bảo cho các học viẽn học tập tôt đế về các cơ sở hướng dẫn đồng bào tập luyện thể dục, bồi bổ sức khoẻ. Phong trào “Khoẻ vì nước’ phát triển sôi nôi trong suôt năm 1946. Nhiều cơ sở điển hình của phong trào, nhiều cá nhân nêu gương tập luyện cho mọi người noi thoo. nhiều cán bộ, huấn luyện viên, hướng dẫn viên ăn lộn tổ chức, tuyên truyền, hướng dẫn phong trào quần chúng tập thể dục thể thao. Nhằm biểu dưđng người tôt việc tôt về các mặt và về rèn luyện sức khoẻ. hướng dẫn, phát triển phong trào thể dục thê thao, giữa năm 1946, Người viết bài báo: "Noi gương anh em tự vệ chiến đấu Hoàng Diệu” (Hà Nội) đăng trên báo Cứu quô’c sô" 266 ngày 14-6-1946 đê biểu dương các chiến sĩ của đơn vị và khuyên khích động viên các nơi khác noi theo về các mặt như; tác phong sinh hoạt rất nhanh nhẹn, khẩn trương, trật tự, ngủn nắp, gọn gàng, vệ sinh tôt, công tác xã hội tích cực, sáng 5 giờ đã dậy tập thê dục thể thao. Rất cảm động là Bác Hồ đã biểu dường tinh thần của các chiến sĩ tự vệ Hoàng Diệu xung phong đi các tỉnh phát triển phong trào “Khoẻ vì nưốc”. Nhò được Bác chỉ hướng, nền Thê dục thê thao cách mạng còn non tré đã phát triển rõ nét và đi đúng hướng: thê dục thể thao quần chúng, giáo dục thể chất học điíờng, đào tạo bồi dưỡng lực lượng cán bộ, huấn luyện viôn. giáo viên, hướng dẫn viên thể dục thê thao. Đó là những 21 vếu tô' cơ bản của nền thể dục thể thao mới. về thể thao thành tích cao lúc bấy giò chỉ mới có một sô hoạt động ẻ tẻ bởi vì nhu cầu, điều kiện và hoàn cảnh của đất nước chưa cho phép phát triển. Tuy vậy nền Thể dục thể thao mới đã thực sự là một nền Thê dục thể thao tiến bộ, vì dân vì nước và đó là điều chưa từng có trong ịch sử dân tộc ta từ trước cách mạng tháng Tám. Với những việc làm như; ra sắc lệnh thành lập ngành Thể dục thể thao, viết Lòi kêu gọi toàn dân tập thể dục, đích thân phát động phong trào “Khoẻ vì nước” và động viên, cổ vũ phong trào “Khoẻ vì nưóc” phát triển sôi nổi, rõ ràng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khai sinh nền Thế dục thể thao mối của nước Việt Nam mới. Kể từ ngày 19-12-1946, khi cả nước tiến hành cuộc kháng chiến chông thực dân Pháp xâm lược thì tất cả các ngành, các lĩnh vực đều đưỢc chuyển hướng hoạt động sang thời chiến với khẩu hiệu “Tất cả cho kháng chiến”. Nền Thê dục thế thao mới đang trên đà phát triển, cũng được chuyển hướng hoạt động theo phương thức gắn với các phong trào thi đua ái quốc do Bác Hồ, Đảng và quân đội ta chủ trương phát động, như các phong trào “Luyện quân lập công”, “Luyện vai trăm cân, luyện chân ngàn dặm”, “Hậu phương thi đua với tiền phương”, “Thi đua giáo dục: đức dục, trí dục, thể dục”, “Thi đua luyện tập thân thề cho khoẻ mạnh” v.v... Trong thời chiến, mục tiêu “Khoẻ vì nước” vẫn được 22 duy trì trong các đôi tượng như thanh thiếu niên, học sinh, sinh viên ở các vùng tự do, dân quân du kích ở hậu phương, bộ đội Cụ Hồ trôn các nẻo đường kháng chiến. Điển hình là ở núi rừng Việt Bắc, nơi Bác Hồ cùng Trung ưcíng Đảng, Chính phủ với hàng chục ngàn cán bộ, chiến sì sông, làm việc, công tác, học tập, bảo vệ căn cứ kháng chiến, xây dựng lực lượng, sẵn sàng chiến đấu, đã dấy lên phong trào rèn luyện thân thê thường xuyên, sôi nổi. Phong trào tập thể dục sáng, chạy, bơi. đi bộ. leo núi, chơi bóng chuyền, luyện võ thuật... với hào khí: Khoẻ đế chiến thắng giặc Pháp. Bác Hồ không chỉ gương mẫu mà còn động viôn cán bộ. chiến sĩ tích cực rèn luyện thân thể. Những câu chuyện ghi lại sau đây nói lên Chủ tịch Hồ Chí Mmh rất chăm lo phong trào rèn luvện thân thê của cán bộ, chiến sĩ ta ỏ căn cứ địa kháng chiến chông Pháp, nhất là đôi với cán bộ cao cấp trong Trung ương và Chính phủ: “Trong những ngày đầu của cuộc kháng chiến chông thực dân Pháp xâm lược, tuy gặp nhiều khó khăn nhưng các cuộc họp của Hội đồng Chính phủ vản đưỢc tiến hành đều đặn, Bác Hồ thường xuyôn đến họp và chủ trì hội nghị. Thông thường họp vào buổi tôi. có cuộc họp kéo dài tới tận 3 giờ sáng mới kết thúc. Bỏi vậy. các thành viên trong Hội đồng Chính phủ thường có chỗ ngủ chuní,^ Vào những ngày đầu tháng 10-1948, Hội đồng Chính phủ họp. Dịp ấy, Bác Hồ thường đến ngủ chung cùng các đại biểu và các buổi sáng đều dậy sớm cùng mọi 23 người tập thể dục. Ngày 3-10-1948 vừa sáníỊ tinh mơ giữa vủng rừng núi Việt Bắc tĩnh mịch, sương sớm còn giáng đầy, trời đông buôt lạnh, nhưng Bác Hồ đã dậy và đánh thức các thảnh viên trong Hội đồng Chính phủ ra sân tập thể dục. Thấy Bác gọi, mọi người từ các đồng chí Bộ trưởng, Thứ trvíỏng, từ người nhiều tuổi đến các đồng chí còn trẻ, đều tung chăn ra sân cùng tập, quên di cái khí hậu rét buốt của mùa đông giữa vùng rừng núi. Điều khiển buổi tập là đồng chí Lê Văn Hiến - Bộ ti^ướng Bộ Tài chính, một thành viên trong Hội đồng Chính phủ. Hôm ấy Bầc Hồ cởi trần (dù tròi rất giá ạnh), cùng xếp hàng tập với mọi người. Vừa tập, Bác cùng các thành viên vui vẻ hát bài; '‘Khi bình minh lên, vén màn phương Đông, Ánh dương chiếu ra tưng bừng, Ta cùng vui hát, Cô'gắng luyện rèn thêm sức, Tâm thân nở nang dẻo mềm, Đời ta còn phen chiến đâu, Sức ta sẽ đem ra dùng, Chí hùng vang ca” ßai hát dược hát lôn giữa buổi tập thê dục buổi sáng (ĩ) Báo Giáo dục và Thời đại chủ nhật 19-5-Ĩ996 (Cụ Lẽ Văn Hiến nhớ ỉại) 24 hôm ấy, ai cũng cảm thấy hav và hùng hồn, làm cho không khí buổi tập càng hăng hái. sôi nổi. Suốt từ đầu đến cuôi, không ai cảm thấy mệt mỏi, mặc dù không ít ngưòi đã vã cả mồ hôi. Buổi tập kết thúc, mọi người trở về phòng của mình gập chăn màn, rồi đi rửa mặt, ăn sáng để tiếp tục công việc” Bài hát trên chính là bài ca: "Bình minh trên chiến khu” do Bộ trưởng Bộ Tài chính Lê Văn Hiến sáng tác, được Bác Hồ khuyên khích cho phổ biến thành bài ca rèn luyện thân thể trong cán bộ, chiến sĩ ỏ Việt Bắc thời ■cháng chiến chông thực dân Pháp. Nhà báo nổi tiếng Thép MỚI kế câu chuyện rất cảm động về Bác Hồ đôn đôc các đại biểu ra sân tập thê dục như sau: “Về sáng, rét ngọt, thức dậy sớm, tròi chưa sáng, mọi người đã thấy Bác ngoài sân gọi các đại biểu ra tập thể dục và còn đi khua từng nhà đại biếu. Các đại biếu Nam Bộ vôn kém chịu rét, cho nên ngại dậy sớm. Rất tinh nghịch, các đồng chí đại biểu Nam bộ bảo nhau cứ nằm trên giường mà hô “một, hai”... y như đang đứng ngoài sân cỏ tập thể dục thật. Bác khám phá ra trò gian lận nghịch ngỢm đó. Thế là “bể mánh”, và sự “bê mánh" đó, tôi được chứng kiến và rất khoái cái phong cách độc đáo (1) Theo Nguyễn Thành Thái (Viện Báo tàng Hổ Chí Minh) 2 5 của các đồng chí Nam Bộ. Chính từ buổi ấy mà tôi kết thân vói một vài đồng chí trẻ nhất đoàn. Mười mấy nám sau, đi chiến trường vào B2 gặp lại một vài đồng chí đã quen thân từ Đại hội Đảng lần thứ hai. Gặp nhau, lại íể với nhau hoài vê kỷ niệm vui, trong đó Bác vào lật chăn lên của các anh chàng nằm trên giưòng tập thể dục bằng mồm” (Nhân dân hằng tháng, sô" 2, tháng 6 năm 1997). Câu chuyện này nói lên phần nào sự quan tâm rất chu đáo của Bác Hồ đôi với việc tập thể dục, rèn luyện thân thê đê có sức khoẻ của cán bộ, đảng viên trong kháng chiến chông thực dân Pháp. Một tác phong sâu sát dù là trong một sự việc bình thưòng, nhưng ở vào cương vị lãnh tụ thì quả là vô cùng kính phục. Bác dạy: việc gì có lợi cho dân, cho nước, cho Đảng thì ta phải hết sức làm, thật là thấm thìa biết bao! Một câu chuyện khác do cụ Lê Văn Hiến kể lại, thế hiện Bác Hồ rất chú ý tới những bài tập có tác dụng tích cực rèn luyện thân thế, cần được phố biến và hướng dẫn cho cán bộ, chiến sĩ tập luyện, nhằm tăng thêm không khí vui khoẻ; “Trong kháng chiến chông Pháp, ở chiến khu Việt Bắc, sáng nào tôi cũng cùng anh em trong Bộ Tài chính tập thê dục. Hàng tháng, về họp Hội đồng Chính phủ, tôi vẫn giữ nếp ấy. Đó là bài tập thể dục mà tôi tập từ lồi bị bắt vào ngục Kon Turn lần thứ hai (1940 - 1945). 26 Hồi ấy đế quô'c Pháp đàn áp tù nhân khôc liệt, tư tương của tù nhân diễn biến phức tạp. Ban lãnh đạo tù nhân đã quyết định đẩy mạnh phong trào rèn luyện thân thê vừa để rèn luyện sức khoẻ, vừa để tạo không khí lạc quan trong nhà tù bên cạnh phong trào thi thơ. biểu diễn vàn nghệ. Do đó tôi đã sáng tác lời theo bài hát “Anh hùng xưa” là bài hát phô biến trong hướng đạo sinh thời ấy. Lòi hát như sau; Khi bình minh vén màn phương Đông... chí hùng vang ca. Nội dung bài tập thể dục được dựa theo các động tác “Võ Tây Sơn”, “Ngọc trản ngân đài”. Bài tập được phô biến, anh em hưởng ứng sôi nối. ỏ Việt Bắc, sáng nào Bác Hồ cũng dậy sớm tập Thái cực quyền. Thấy tôi vừa tập vừa hát bài trên, Bác bảo tập lại từ đầu cho Bác xem. Xem xong. Bác bảo tôi dạ3' (hướng dẫn) cho anh em trong cờ quan cùng tập...” (Báo Giáo dục và Thòi đại Chủ nhật, ngày 19-5-1996). Ngoài việc động viên phong trào rèn luvện t.hân thể phát triển sôi nổi ở chiến khu Việt Bắc và cùng tập uyện với mọi người xung quanh, Bác Hồ còn trực tiếp hướng dẫn các Bộ trưởng và Thứ trương trong Chính phủ kháng chiến tập võ. Bác trực tiếp vạch ra kê hoạch, nội dung, thời gian biểu tập luyện của đội cảnh vộ. Bác nhắc nhỏ, chỉ dẫn cho các chiến sĩ trẻ cách luyện tập võ th u ậ t phù hỢp với thế chất của mỗi con người. Trong những năm kháng chiến chông thực dân Pháp, 27 một trong những sinh hoạt văn hoá tinh thần vui tươi ành mạnh ở chiến khu Việt Bắc, đó là phong trào tập uvện, giao hữu bóng chuyền của cán bộ, chiến sĩ. Từ nám 1947 - 1948 đến cuôi năm 1953 đầu năm 1954, tại căn cứ địa kháng chiến có nhiều đội bóng chuyền được thành lập. Cơ quan “Phủ Chủ tịch” đóng ở Tân Trào cũng thành lập một đội có gần chục cầu thủ, trong đó Bác Hồ là một cầu thủ tham gia tập luyện rất tích cực, thi đấu rất sôi nôi. Mỗi lần Bác tham gia đấu giao hữu thì không khí trong sân và ngoài sân hào hứng và phấn chấn hản lên, tinh thần cố vũ của ngưòi xem rất sôi động. Thỉnh thoảng Bác Hồ đứng ra làm trọng tài cho các trận đấu giao hữu giữa các “đội mạnh”. Đồng chí Văn Chấn, một cán bộ của đơn vị bảo vệ Bác, bảo vệ các đồng chí lãnh đạo nhớ lại, có lần Bác Hồ cầm còi điểu khiển một trận giao hữu bóng chuyền như sau: “Trong điểu kiện sống và công tác ở chiến khu Việt Bắc. cán bộ chiến sĩ nói chung và đơn vị bảo vệ nói riêng gặp muôn vàn khó khăn, thiếu thôn. Nhưng cán bộ chiến sĩ vẫn “Vui kháng chiến”, tích cực tăng gia sản xuất, tập văn nghệ và hoạt động thể thao. Tết năm Canh Dần (1950), cơ quan tổ chức thi đấu bóng chuyền để mừng xuân. Bác làm trọng tài và ra điêu kiện nếu đội nào thắng sẽ được thưởng mỗi người một điếu thuôc lá (thời kỳ ấy thuôc lá rất khan hiếm, nhất là ở Việt 28 Bắc). Khi kết thúc trận đấu, cá đội thắng lẫn đội thua đều xếp hàng chò nhận quà của Bác. Thấy vậy Bác bảo; “Vậy là năm nay (tức năm Canh Dần) chúng ta đều thắng” (Báo An ninh Thế giới sô 143, ngày 16-9-1999). Trên đây là một sô" nét về phong trào rèn luyện thân thể, vui khoẻ của cán bộ chiến sĩ ta ở Việt Bắc. Tiêu biểu cho phong trào đó là vị lãnh tụ kính vôu của dân tộc ta - Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại. Người sông trong rừng, trên núi, lao động, tập luyện, vui khoẻ cùng với cán bộ chiến sĩ và Người còn động viên, hướng dẫn họ thường xuyên rèn luyện thân thế. Như vậy, trong kháng chiên chông Pháp, thê dục thể thao nước ta vẫn giữ vững tính chất đại chúng và mục đích chân chính của nó, vẫn phục vụ đắc lực các đôi tưỢng tham gia kháng chiến như bộ đội Cụ Hồ, dân quân du kích, tự vệ, học sinh, thanh thiếu niên, điển hình là phong trào rèn luyện thân thể, phong trào VUI khoẻ ỏ chiến khu Việt Bắc. Điều dó chứng tỏ rằng, nền Thê dục thề thao mới Việt Nam đưỢc hình thành và phát triển từ đầu năm 1946 và chuyên hướng trong những năm toàn quôc kháng chiến chống thực dân Pháp, có tính chất liên tục, nhất là phong trào rèn uyện thân thể “Khoẻ đê kháng rhiến kiến quốc", thê liện tinh thần thượng võ của dân tộc ta không bao giờ bị mai một. Mặc dù trong hoàn cánh kháng chiến, cuộc sông của quần chúng lao động, của cán bộ, chiến sĩ ta 29 rät gian khổ, ăn, mặc, thuôc men còn rất thiếu thôn, nhưng sức khoẻ nói chung vẫn được giữ vững, tinh thần "Kháng chiến kiến quôc” ngàv càng cao. Đóng góp vào việc giữ gìn sức khoẻ của cán bộ, chiến sĩ và nhân dân ta trong th(ji kỳ chông thực dân Pháp, rõ ràng có vai trò của nên Thê dục thê thao mới mà côt lõi của nó là phong trào “Khoẻ vì nước”, phong trào “Khoẻ để kháng chiến kiến quôc”. Và chính nhò đó đã góp phần làm nên sức mạnh tống hỢp đưa cuộc kháng chiến chông thực dân Pháp của dân tộc ta đến thắng lợi vẻ vang. m. NỀN THỂ DỤC THỂ THAO CÁCH MẠNG - TIỀN THÂN CỦA NỀN THỂ DỤC THỂ t h a o xẤ h ộ i c h ủ NGHĨA VIỆT NAM • Sau khi cuộc kháng chiến chông thực dân Pháp của nhân dân ta thắng lợi, cách mạng Việt Nam chuyển sang trang mới. Miền Bắc sau cải cách ruộng đất về cơ bản đã hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. chuyển sang thời kỳ khôi phục kinh tế (1958 - 1960). Miền Nam do Mỹ hất cẳng Pháp dựng lên chính quyền tay sai, biến miền Nam nước ta thành thuộc địa kiểu mói, làm chỗ dựa tiến công miền Bắc. Đâ't nước ta tạm thời bị chia cắt thành hai miền với hai chê độ đôi lập nhau. Từ đặc diểm cd bản đó, Đẩng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vạch định cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mối có hai nhiệm vụ chiến lược khác nhau, tiến hành đồng thòi ở mỗi miền, nhưng quan hệ với 30 nhau rất chặt chẽ: Một là, cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, xây dựng miển Bắc thành căn cứ vững mạnh của cách mạng cả nước. Hai là. cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam nhằm giải phóng miền Nam khỏi ách thông trị của đế quôc Mỹ và tay sai. thực hiện thông nhất nước nhà, hoàn thành độc lập và dân chủ trong cả nước. Trong hai nhiệm vụ chiến lược cách mạng đó, mỗi nhiệm vụ có vị trí quan trọng nhất định. Song, cách mạng xã hội chủ nghĩa ỏ miền Bắc giữ vai trò quyết định đối với sự phát triển của toàn bộ cách mạng Việt Nam. Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc nước ta diễn ra trong tất cả các lĩnh vực chính trị, kmh tê - xã hội, văn hoá, giáo dục, khoa học kỹ thuật, y tê và thề dục thê thao. Các lĩnh vực này có môi quan hệ, ảnh hương qua lại lẫn nhau, trong đó cuộc cách mạng vể kinh tê có tính chất quyêt định. Lĩnh vực thê dục thê thao dược Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định là một bộ phận quan trọng của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ trương xây dựng nền thê dục thê thao xã hội chủ nghĩa trên cơ sỏ kế thừa toàn bộ những yếu tô tích cực của nền thể dục thể thao mới từ sau cách mạng tháng 'rám thành công, mà chủ yếu là phong trào “Khoẻ vì nước". Do đó, Đại hội toàn quôc lần thứ III của Đáng vào tháng 9 năm 1960 đã chỉ ra phương hướng phát triển 31 thê dục thể thao trong giai đoạn mới của cách mạng Việt Nam là: Tiếp tục phát triển phong trào thể dục thể thao yêu nước của quẩn chúng, gây thành một cuộc vận động cách mạng thường xuvên, liên tục và lâu dài, nâng cao trình độ các môn thể thao ở những nơi có điểu kiện. Đây là sự định hướng bước đầu xây dựng nền thể dục thể thao xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc nưốc ta, mà tiền đề của nó là những yếu tô" tích cực như mục đích, tính chất, lực lượng cán bộ, giáo viên, huấn luyện viên, hướng dẫn viên của nền thể dục thể thao mới. Vào đầu năm 1960 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết thư gửi Hội nghị cán bộ thế dục thể thao toàn miền Bắc, nhấn mạnh đến vai trò của sức khoẻ và vai trò của thế dục thể thao đôi với sức khoẻ con ngưòi, từ đó Người chủ trương phát triển phong trấo thể dục thể thao cho rộng khắp. Mục tiêu và tính chất của nền thể dục thể thao xã hội chủ nghĩa đã được Bác Hồ chỉ ra. Nhà nước ta xuất phát từ quan điểm của Đảng và của Chủ tịch Hồ Chí Minh, vào năm 1960 xác định; “Tích cực xây dựng một nền thể dục thể thao xã hội chủ nghĩa, triệt để phục vụ nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quôc, đấu tranh thông nhất nước nhà” Những năm cả nước ta tiến hành cuộc kháng chiến (ĩ) ƯBTDTT: Xây đựng và phát triển nền TDTT Việt Nam Dán tộc, Khoa học, Nhân dân, NXB TDTT Hà Nội Ỉ999, tr.72 32 chông Mỹ, nền thể dục thể thao xã hội chủ nghĩa của miền Bắc vẫn được duy trì và phát triển trong điều kiện mới, tình hình mới. Mục tiêu và tính chất của thê dục thể thao ở miền Bắc trong thòi kỳ chông Mỹ cứu nước vẫn nhất quán, không hề thay đổi, thực tế còn được táng cường hơn nhằm đáp ứng các mặt sản xuất, công tác, học tập và chiến đấu. Chỉ thị số 180-CT/TW (1970) của Ban Bí thư Trung ương Đảng đã chỉ rõ: “Phát động một phong trào quần chúng tập luyện thể dục thê thao rộng khắp trong các cơ sở sản xuất, cơvQuan, trường học và các đơn vị vũ trang. Yêu cầu và nội dung của phong trào này là động viên quần chúng tự nguyện rèn luyện thân thể một cách đều đặn, có phường pháp khoa học, bằng nhiều hình thức linh hoạt, phù hỢp với điều kiện sản xuất, chiến đấu, sinh hoạt của nhân dân ta, do đó mà giữ vững và nâng cao sức khoẻ, học tập và sẵn sàng chiến đấu. Thông qua phong trào này cần xây dựng và mở rộng từng bước các tổ, đội, đơn vị tiên tiến, nhàm đưa hoạt động thể dục thể thao ở cơ sở tiến lên”, Từ những chủ trương, phương hướng, nhiệm vụ rất đúng đắn, sáng tạo để xây dựng nền thể dục thể thao xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc do Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng và Nhà nước ta vạch ra, kết quả là chúng ta đã đạt được những thành tựu cơ bản như sau: - Vê phong trào thê dục thể thao quần chúng: Đông đảo nhân dân từ các xã đã có phong trào tập thể dục 33 sáng, chạy, bơi, bóng chuyền, bóng đá, vật, võ dân tộc, nhiều xã có “thể dục chống mệt mỏi giữa giò' lao động sản xuất”; toàn miền Bắc có 129 xã được công nhận đơn vị tiôn tiến về thể dục thể thao, điển hình như xã Kim Sơn và xã Hưng Khánh (dân tộc Tày - Yên Bái), xã Nghĩa Phú (Công giáo - Nam Định), xã Nam Bình (Thái Bình), xã Minh Tân và xã Phục Lễ (Hải Phòng), xã Nam Chính (Hải Dương), xã Lập Chiêng (dân tộc Mường - Hoà Bình), xã Quỳnh Đôi (Nghệ An), xã Minh Tân (Thanh Hoá), xã Đồng Bẩm (Bắc Thái) v.v... Phong trào thể dục thể thao quần chúng ở các xí nghiệp, cơ quan phát triển mạnh. Tính đến năm 1975 đã có 249 xí nghiệp, cơ quan đưỢc công nhận là đơn vỊ tiên tiến về thế dục thể thao, tiêu biểu là mỏ than Hà Tu (Quảng Ninh), nông trường Tam Thiên Mẫu (Bắc Giang), đội công trình 609 (ngành đường sắt), nhà máy cơ khí Quang Trung và xí nghiệp DưỢc phẩm I (Hà Nội), Lâm trường Quỳ Châu (Nghệ An), nhà máy cơ khí Duyên Hải (Hải Phòng), Xí nghiệp chê tạo đá mài (Hải Hưng), xí nghiệp sửa chữa ôtô 19-8 (Thái Nguyên), xí nghiệp C50 (Hà Nam), chi nhánh Ngân hàng (HàGiang), cơ quan Bộ Ngoại giao v.v... Phong trào thể dục thể thao quần chúnp^ trong các lực lượng vũ trang nhân dân cũng đưỢc phát triển rất mạnh mẽ. Vấn đề rèn luyện thể lực và hoạt động thể thao được coi là một biện pháp quan trọng để nâng cao sức mạnh chiến đấu của quân đội: 34 gắn liền thể dục thể thao với các khoa mục huấn luyện quân sự; phong trào rèn luyện thế lực diễn ra thường ngày, 100% quân sô" tập luyện theo quy định bắt buộc; việc rèn luyện hành quân xa, mang vác nặng đã giúp cho hàng chục vạn chiến sĩ trẻ mới nhập ngũ đủ sức cơ động trong hành quân và chiến đấu trên những địa hình phức tạp; các cuộc thi chạy 10 cây sô, 20 cây số trong toàn quân đưỢc tổ chức đều đặn hàng năm. Trong lực lượng công an nhân dân, hầu hết các cán bộ chiến sĩ đều tập thể dục sáng, chạy, bơi, bắn, võ, nhảy cao, nhảy xa, ném lựu đạn, phong trào “Khoẻ vì an ninh Tổ’ quôc” luôn được duy trì trong mọi tình huông. - Giáo dục thê chất của thê hệ trẻ trong các nhà trường phát triên mạnh: Tính từ năm 1960 đến năm 1975 có tới 3.000 trưòng học bao gồm tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông, đại học, trung học chuyên nghiệp có phong trào giáo dục thể chất nội khoá và ngoại khoá có nề nếp, điển hình là các trường Trung học cơ sở Tán Thuật (Thái Bình), Kỳ Tân (Hà Tĩnh), Hưng Khánh (Yên Bái), Mường La (Sơn La). Trong sô" các trường Trung học phổ thông điển hình là trường Lô Hồng Phong (Nam Định). Trong sô" các trường đại học và trung học chuyên nghiệp điển hình lả trường Đại học Nông nghiệp I, Đại học Sư phạm Vinh, Trung học Y tê - Thể thao thành tích cao bước đầu đạt được một sô 35 thành tích đáng kể: Lực lượng vận động viên và huấn luyện viên không ngừng được tăng cường, giao lưu quốc tế về thể thao phát triển ở phạm vi nhất định, thành thích thi đấu thể thao trong nước và ngoài nước được nâng lên. ở giai đoạn này nước ta đã giành được 4 huy chương vàng tại Đại hội Thể thao GANEFO châu Á, phá kỷ lục th ế giới về môn bắn súng thể thao. - Về đào tạo, hồi dưỡng cán hộ: ĐưỢc sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và Chủ tịch Hồ Chí Minh, Trường Trung cấp Thể dục thể thao Trung ương đã được thành lập (1959) và được nâng lên thành Trường Cán bộ thể dục thể thao Trung ương (1964).Tính từ 1960 - 1975 trường đã đào tạo, bồi dưỡng được hàng ngàn cán bộ có trình độ trung cấp và đại học phục vụ đắc lực cho sự nghiệp phát triển thể dục thể thao. Đây cũng là kết quả thực hiện Chỉ thị 05 TTgA^G (1966) của Thủ tướng Chính phủ: “Phải ra sức bồi dưỡng và đào tạo cán bộ thể dục thế thao, coi đó là khâu công tác quan trọng bậc nhất để mở rộng và nâng cao phong trào thể dục thể thao, để giải đáp yêu cầu trước mắt cũng như lâu dài”(l). Từ những kết quả chính như trôn cho thấy: phong trào thổ dục thể thao ở miền Bắc nước ta từ sau năm (ĩ) UB TDTT: Xây dựng nền th ể dục th ể thao Việt Nam dãn tộc, khoa học và nhản văìĩy NXB TDTTy H à Nội, 1999, trang 95 36 1954 đến năm 1975 về cơ bản phát triển khá mạnh mẽ trên các lĩnh vực quan trọng: thê dục thể thao quần chúng, giáo dục thể chất học đường, thể thao thành tích cao, đào tạo bồi dưỡng cán bộ thể dục thế thao. Ngoài ra còn đạt được một sô” thành tựu nhất định về xây dựng cơ sở vật chất, nghiên cứu và ứng dụng khoa học kỹ thuật v.v... Đó là kết quả của sự quan tâm lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, của Đảng và Nhà nước ta về công tác thể dục thể thao. Sự đóng góp của nền thể dục thể thao xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc nước ta đổì với công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và chông đế quốic Mỹ xâm ược ở miền Nam là rất đáng trân trọng. Chỉ thị số 227- CT/TW (1975) của Ban Bí thư trung ương Đảng đánh giá như sau: “Trong những năm qua, với sự quan tâm của các cấp, các ngành, với nhiệt tình tham gia của đông đảo quần chúng và tinh thần cố gắng của cán bộ, vận động viên thể dục thể thao, công tác thể dục thể thao đã phát triển đúng hướng, góp phần tích cực phục vụ sản xuất, chiến đấu, đời sông và xây dựng con người Từ sau ngày miền Nam được hoàn toàn giải phóng, non sông thu về một môi, cả nước tiến lên chủ nghĩa xã (1) ƯB T DTT: Xảy dựng nền thê dục thê thao Việt N am dân tộc, khoa học và nhân dân, NXB TDTT Hà Nội, 1999, tr.32 37 hội, thể dục thể thao miền Nam dưới chê độ cù được cải tạo và phát huy những nhân tô^ tích cực, hỢp nhất với thể dục thể thao miền Bắc tiến lên xây dựng nền thể dục thể thao xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Chỉ thị số 227- CT/TW (1975) chỉ rõ; “Xây dựng nền thể dục thể thao xã hội chủ nghĩa Việt Nam phát triển cân đối, có tính chất dân tộc, nhân dân và khoa học”. Được sự quan tâm sâu sắc của Đảng và Nhà nước, nền thể dục thể thao xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày càng trưởng thành, sinh lực phát triển ngày càng mạnh, từ năm 1975 đến nay, nhất là những năm gần đây đã đạt được nhiều thành tựu đáng phấn khởi. Tính đến năm 2002, Thể dục thể thao Việt Nam có những mặt nổi bật như sau: Vê thể dục thể thao quần chúng: tính đến năm 2002, cả nước có khoảng 13-14% (trên 11 triệu ngưòi) tập luyện thể dục thể thao thường xuyên, 8% sô" hộ gia đình đạt tiêu chuẩn Gia đình thể thao. Phong trào thể dục thể thao trong cán bộ công nhân viên chức không ngừng phát triển, tỷ lệ cán bộ, công nhân viên chức tập thể dục thể thao thường xuyên trong cả nước đạt trên 50%; tinh thần tự rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ ngày càng cao; nhiều cuộc thi đấu thể thao của công nhân viên chức hàng năm diễn ra sôi nổi từ cơ sở đến trung ương. Các mô hình “Gia đình thể thao” cán bộ công 38 nhân viên chức ngày càng đưỢc nhản rộng. Phong trào thể dục thể thao ở nông thôn, đồng bằng và miền núi có sự phát triển tích cực, hàng chục vạn người tập thê dục thường xuyên, đã hình thành đưỢc hàng ngàn “Gia đình thể thao” nông dân, hàng trăm “Câu lạc bộ thê thao gia đình’’ nông dân được thành lập; các Hội thi văn nghệ thể thao, Hội thi thể thao các dân tộc miền núi, các giải vật dân tộc, võ cổ truyền có sô" vận động viên tham gia ngày càng tăng. Phong trào thể dục thể thao trong các ực lượng vũ trang ngày càng được phát triển cả về quy mô và chất lượng: các cuộc hội thao, hội diễn, hội thi thế thao được duy trì đều đặn hàng nám trong các binh chủng của quân đội và lực lượng công an nhân dân. Các phong trào “Khoẻ để bảo vệ Tố quốc” trong quân đội, “Khoẻ vì an ninh Tổ quốc” trong công an nhân dân, thu hút hầu hêt quân số tham gia rèn luyện thân thể. Trong phong trào thể dục thể thao quần chúng ỏ nước ta xuất hiện và ngày càng phát triển các hoạt động thể dục thể thao cho đối tưỢng người cao tuổi, người ■chuyết tật, trẻ em có hoàn cảnh khó khăn. Các hoạt động thể thao này mang tính nhân đạo sâu sắc, thế dục thể thao đã gắn bó và không ngừng cổ vũ các đôi tượng này tập luyện bằng nhiều hình Lliức phù hỢp, đa dạng và ngày càng thu hút nhiều người phấn khởi, hăng hái rèn luyện, tham gia các cuộc thi đấu ở cơ sở và toàn quôc. Phong trào này rất phù hợp với ý tưởng của Bác 39 Hồ từ đầu năm 1946; Già trẻ, gái trai, ai cũng có thể tập uyện đưỢc thể dục thể thao để tăng cường và nâng cao sức khoẻ. Giáo dục thê chất học đường: Có bước chuyển biến tích cực về chất và quy mô phát triển gần 60% sô" trường trong cả nước thực hiện giáo dục thể chất nền nếp, đảm bảo 2 tiết học nội khoá một tuần, các hoạt động ngoại <;hoá tương đôl đều; nhiều giải thể thao trường học được tổ chức từ cơ sở trở lên. Từ trong phong trào giáo dục thể chất học đường ngày càng xuất hiện nhiều học sinh ứa tuổi thiêú niên và thanh niên có năng khiếu thể thao nối bật không ngừng cung cấp cho đất nước nhiều vận động viên đầy triển vọng. Bác Hồ từng chỉ rõ: Thanh thiếu niên là tương lai của nước nhà, tương lai của thể dục thể thao Việt Nam. Như vậy, phong trào thể dục thể thao nhân dân - nền tảng của nền thể dục thể thao xã hội chủ nghĩa nước ta ngày càng phát triển mạnh mẽ, đạt đưỢc nhiều thành tựu quan trọng. Tuy nhiên, để thực hiện đưỢc ý tưởng của Bác Hồ, toàn dân thường xuyên tập thê dục thể thao thì chúng ta còn phải phấn đâ'u hơn nữa. Hiện nay chỉ mới có trên 8 triệu người tập thể dục thể thao thường xưyôn, như vậy còn có tới trên 60 triệu người chưa tham gia rèn luyện thân thể (không tính nhi đồng). Vê giáo dục thể chất, bên cạnh những thành tích 40 tôt như 55% số trường tiến hành có nền nếp chương trình giáo dục thể chất, nhưng như vậy thì còn gần một nửa sô" trưòng chưa thực hiện hoặc thực hiện chưa đảm bảo chươrrg trình giáo dục thể chất đã được quy định. Từ đầu nám học 1946 - 1947, Bác Hồ đã dạy bảo học sinh phải học giỏi môn thế dục và Đảng ta từ những năm đầu kháng chiến chông Pháp đã có Nghị quyết động viên phong trào thi đua trong các trường học vê giáo dục đạo đức, trí dục và thê dục. Nghị quyết Hội nghị trung ương Đảng lần thứ Tám (khoá III) từ năm 1961 đã chỉ rõ; “Bắt đầu đưa việc dạy thể dục và một số môn thể thao cần thiết vào chương trình học tập của các trường phổ thông, chuyên nghiệp và đại học", nhưng đến nay chỉ mới thực hiện được 55% s ố trường có môn Tiọc thể dục, rõ ràng là chậm! T hể thao thành tích cao những nám gần đây có nhiều khởi sắc làm nức lòng dân. Lực lượng vận động viên ngày càng đông đảo và thành tích ngày càng nâng lên. Thể thao Việt Nam ngày càng vươn tới những vị trí xứng đáng ở khu vực, bước đầu hoà nhập VỚI xu thế phát triển thể thao của châu Á. Thành tích thê thao ở các SEA Games ngày càng nổi bật. ớ châu Á và Thê giỏi, Thể thao Việt Nam ngày càng doạt thêm nhiêu huy chương, lá cò Tổ quôc không ngừng phấp phới trôn đấu trường ngoài nưốc. Các vận động viên Việt Nam ngày càng thực hiện tôt ý tưởng của Bác Hồ: các cháu 41 hãy cố gắng nhiều hơn nữa để xứng đáng là những vận động viên của dân tộc anh hùng. Giao lưu thể thao của nước ta ngày càng mở rộng. Điều kiện luyện tập và sinh hoạt của vận động viên ngày càng đảm bảo, cơ sở hạ tầng thể thao thành tích cao ngày càng hiện đại hoá v.v... Thể thao thành tích cao của nước ta rõ ràng đang tiến lên phía trước để không bao xa “Sánh vai với các cường quô'c năm châu” như ý tưởng của Bác Hồ đã chỉ ra ngay sau khi cách mạng tháng Tám thành công. về đào tạo và bồi dưỡng cán bộ: Được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và Chủ tịch Hồ Chí Minh, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ thể dục thể thao trong nước và cử đi học nước ngoài không ngừng đưỢc coi trọng. Các trường đào tạo cán bộ từ trung cấp đến đại học ngày càng đưỢc tăng cường về quy mô và chất lưọng đào tạo. Năm 1959 chỉ mới có một trường Trung cấp Thể dục thể thao Trung ương, đến nay cả nước đã có 2 trường Đại học, 3 trường Cao đẳng (trong đó có 2 trường Cao đẳng sư phạm thể dục thể thao) và một sô trường đại học sư phạm có khoa giáo dục thể chất. Tính đên nay các trường đã đào tạo đưỢc trên 20 ngàn cán bộ từ trung cấp trở lên, trong đó giáo sư và phó giáo sư có 19 người, tiến sĩ có 44 người, thạc sĩ gần 100 ngưòi, đại học gần 10.000 người, đang công tác ở các trường, các ngành, các tỉnh thành khắp đất nước. Đội ngũ cán bộ thể dục thể thao này đã và đang phát huy năng lực và 42 nhiệt huyết của :nình phục vụ sự nghiệp xây dựng và phát triển nền thể dục thể thao xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Mhững thành quả của thể dục thể thao nước ta từ nám 1976 đến nay, nhất là những năm gần đây đã và đang góp phần quan trọng bảo vệ và nâng cao sức khoẻ nhân dân; tăng cường nguồn nhân lực cho sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước; làm phong phú hơn đòi sông văn hoá tinh thần cho nhân dân; tôn vinh dân tộc Việt Nam anh hùng; phục vụ tích cực công tác đôi ngoại của Đảng và Nhà nước. 43 CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH VỀ VAI TRÒ CỦA THỂ d ụ c THỂ t h a o I. SỨC KHOỂ VÀ VAI TRÒ CỦA sứ c KHOỂ CON NGƯỜI Từ khi loài người hình thành cho đến ngày nay và mãi mãi về sau, sức khoẻ được coi là vôn quý vô giá của con ngưòi. Thiếu sức khoẻ là thiếu hạnh phúc, thiếu sức sông, thiếu tinh thần sáng suốt và thiếu cả của cải vật chất. Bơi vậy, quan tâm và chăm sóc tới sức khoẻ con ngưòi chính là quan tâm tới sự phát triển mọi mặt, không chỉ đôi với mỗi người, mỗi gia đình mà cả dân tộc, quốc gia và toàn nhân loại. Những ai coi thường sức khoẻ của bản thân mình là thiếu ý thức thương mình. Những kẻ xâm hại đến sức khoẻ của người khác là làm hại đồng loại, phạm vào điều ác. Giai cấp thống trị nào, chê độ xã hội nào mà không quan tâm tối sức khoẻ của nhân dân, tất yếu bị lên án. Trong lịch sử loài người, giai cấp chủ nô, giai cấp phong kiến và bọn tư bản bóc 44 ột ngưòi lao động rất nặng nề, làm cho sức khoẻ và thế chất của họ ngày càng kiệt quệ, ngày càng nl^ỏ bé. Chỉ xã hội mới, xã hội tiến bộ là trân trọng, quan tâm sâu sắc đến sức khoẻ con người, sức khoẻ của nhân dân. Đảng cộng sản Việt Nam đề cao sức khoẻ con người, sức khoẻ của nhân dân và khắng định: “Sức khoẻ là vôn quý nhất của mỗi con người và của toàn xã hội, là n,hân tô quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tố quôc” (Nghị quyết Trung ương bôn khoá VII). c. Mác, Ph. Ảng ghen và V. I. Lê-nin là những người thầy vĩ đại của giai cấp công nhân và của cách mạng vô sản trên toàn thế giới, các ông đã từng phê phán phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa gây ra những hậu quả nghiêm trọng cho sức khoẻ người công nhân và con em của họ. Giai cấp tư sản, bọn tư bản càng giàu có thì sức khoẻ của ngưòi công nhân về cả cơ bắp, thần kinh và bộ não càng bị vắt kiệt. c. Mác chỉ rõ: Bọn tư bản thèm khát đến vô độ giá trị thặng dư, đã chiếm đoạt thời gian cần thiết để phát triển và giữ gìn sức khoẻ của ngưòi công nhân. Như vậy, bọn tư bản hủy hoại sức khoẻ của ngưòi công nhân không chỉ bằng cách tăng cường độ lao động mà còn kéo dài ngày lao động từ 12 - 14 giò, chẳng có thời gian để họ giải trí, rèn luyện thân thể. c. Mác viết: “Tư bản không bao giờ quan tâm đến sức khoẻ và tuổi thọ của người công nhân, nêu xã 45 hội không cưỡng bách nó phải quan tâm” Theo c. Vlác: Thòi gian là trường học phát triển con ngưòi, nghĩa là con ngưòi muôn có được sự phát triển về trí tuệ và thê chất, tâm hồn thì phải có thòi gian ngoài giò lao động, sinh hoạt nghỉ ngơi. Cũng như Mác, Ảng ghen đã chỉ rõ sự phân công lao động trong xã hội tư bản dẫn tới sự phát triển phiến diện về thể chất và tinh thần của các thế hệ công nhân, ông viết; Sự phát triển lao động theo phương thức tư bản bóp chết tất cả các năng lực thê chất và tinh thần của người lao động. Sự làm què quặt con ngưòi như vậy sẽ tăng lên tùy theo mức độ phát triển của việc phân công lao động trong xã hội tư bản. V. I. Lênin cũng phê phán gay gắt: “Sự phân công lao động tư bản chú nghĩa làm cho con người bị bé nhỏ, bị thoái hoá” ^2). Lênin chỉ ra rằng, chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới đem lại sức khoẻ cho người ao động. Lê nin coi sức khoẻ của cán bộ và công nhân Xô Viết là tài sản của Nhà nước và xã hội mới. Sinh thòi, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm tới sự (1) C.Mác và Ph. Ăng ghen: Toàn tập, xuất bản lần thứ hai, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội 1993 tập 23 tr. 394 (2) V. I. Lènin: về giữ gin sức khoẻ của nhãn dân lao động vá thê dục thè thao, NXB cầu vồng, Matxcơva, 1985, tr. 23 46 phát triển về mọi mặt của con người. Người quan tâm sâu sắc đến việc giải phóng con người, thoát khỏi xiềng xích nô lệ, giải phóng xã hội khỏi sự áp bức bóc lột, xây dựng xã hội mới vì hạnh phúc và cuộc sông no lành cho tất cả mọi ngưòi. ở tuổi thanh niên Bác Hồ đã ra đi tìm đưòng cứu nước nhằm thực hiện sứ mệnh vô cùng to lớn đó. Trong tác phẩm nổi tiếng: “Bản án chế độ thực dân Pháp” của Nguyễn Ái Quô’c - Hồ Chí Minh xuất bản vào nám 1925, Người lên án mạnh mẽ thực dân Pháp bóc lột, đánh đập, chém giết và: “đầu độc tinh thần và thê xác” nhân dân thuộc địa bằng “rượu cồn và thuôc phiện” nhằm mục đích hủy hoại sức khoẻ của nòi giông các dân tộc bản xứ, nòi giống Việt Nam. Ngưòi khẳng định; ‘T a có thể kết luận rằng, mọi chế độ thực dân đê quôc đều tiêu diệt các nòi giông bản xứ và muôn cứu vãn nc')i giông, ta phải lật đổ chủ nghĩa đê quôc” Cuộc cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, nước nhà giành được độc lập dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng vối Đảng ta đề ra những chủ trương, nhiệm vụ rất câp thiết và đúng đắn nhằm chông giặc ngoài thù trong, bảo vệ chính quyền cách mạng, chăm lo đ(íi sông vậL chấL, văn hoá và sức khoe của nhân dân đê kháng chiến kiến quốc thắng lợi. Bác Hồ coi sức khoẻ của mỗi (ĩ) HỒ Chi Minh: Toàn tập, NXB S ự thật, Hà Nội Ĩ98Ồ, t4, tì\395 47 con người, của toàn dân là một yếu tô" đảm bảo sự thắng lợi của cuộc kháng chiến chông Pháp, chông Mỹ và xây dựng xã hội mới. Trên cơ sở tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng và Nhà nưốc ta khẳng định; “Dưối chế độ ta, việc chăm sóc sức khoẻ của nhân dân, tăng cường thể chất của nhân dân được coi là nhiệm vụ quan trọng của Đảng và Chính phủ” Cho nên sự nghiệp thể dục thể thao luôn gắn liền với sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước, sự nghiệp vì dân giàu nước mạnh. Đích cuôl cùng của sự nghiệp cách mạng đó là mang ại hạnh phúc và sức khoẻ cho con người, hạnh phúc và sức khoẻ cho nhân dân. Nguyên Thủ tướng Phạm Văn Đồng từng nhấn mạnh; “Chúng ta không quên một điều quan trọng là cách mạng phải đem lại sức khoẻ cho nhân dân Việt Nam, cho con người Việt Nam” (2) Sức khoẻ là gì và vai trò của sức khoẻ con người như thế nào? Trước kia nhân dân ta thường quan niệm về sức khoẻ rất giản dị, mộc mạc như “Sức dài vai rộng”, “mạnh chân khoẻ tay”, “Tuổi mười bảy bẻ gãy sừng trâu”, “Trông cho chân cứng đá mềm”, “Không ô"m (1) Chi thị sô' 106-CT /T W của Ban Bí thư Trung ương Đảng về công tác thê dục thê thao, Hà Nậi, ngáy 2-10-1958 (2) Bài nói của Thủ tướng Phạm Văn Đồng tại Đại hội toàn miền Bắc những đơn uỊ và cá nhân tiên tiến trong phong trào TDTT yêu nước, chống Mỹ, tháng 3-1966 48 í^hông đau làm giàu mấy chôc”. Nhân dân lao động nước ta từ đời này đến đời khác rất chuộng những ngưòi có sức khoẻ mà siêng năng, chăm chỉ lao động, ghét những cẻ lưòi biếng, sỢ lao động: "’Thếgian chuộng sức chuộng công, Nào ai có chuộng người không làm giV' Hải Thượng Lãn ông Lê Hữu Trác, nhà danh y lốn của Việt Nam thế kỷ XVIII đã viết trong ciwn sách “Nội kinh yếu chỉ” rằng: “Thể chất và tinh thần luôn luôn khang kiện, mà tận hưởng hết tuổi thọ, ngoài trăm tuổi mới có thể chết”. Tư tưởng đó của Hải ThưỢng Lãn ông thể hiện cách xem xét sức khoẻ của con người trong môi quan hệ hữu cơ giữa thể chất và tinh thần, cơ thế khoẻ thì tinh thần mạnh mẽ. cả thể chất lẫn tinh thần khoẻ mạnh thì con ngưòi tận hưởng được tuổi thọ của mình. Y học ngày nay càng khẳng định sức khoẻ của con ngưòi phải là sức khoẻ của cả thê xác và tinh thần. Chỉ khi nào cơ thể của con người lành mạnh, tâm hồn của con người thoải mái thì khi đó con người mới có sức ứíoể. Định nghĩa sức khoẻ của Tổ chức Y tế thế giới (World health organization - WHO) nêu lên trong Tuyên ngôn Alma Ata năm 1978 như sau; “Sức khoẻ không chỉ là không bộnh tật, mà còn là trạng thái thơải mái về tâm hồn, về thế xác, vể xã hội”. Chu tịch Hồ Chí Minh đưa ra định nghĩa sức khoẻ vào đầu năm 1946, trước định nghĩa của WHO 33 năm. Định nghĩa sức 49 khoẻ của Bác Hồ có tính khái quát cao và rất hàm súc: Sức khoẻ là khí huyết lưu thông, tinh thần đầy đủ Các chuyên gia y tế Việt Nam hiện nay đều cho rằng, định nghĩa sức khoẻ của Chủ tịch Hồ Chí Minh hoàn toàn thông nhất với định nghĩa sức khoẻ của Tổ chức y tế thế giới. Thấm nhuần sâu sắc chủ nghĩa duy vật biện chứng và y học dân tộc, Bác Hồ coi sức khoẻ của con người là sự thông nhất giữa hai yếu tô" thể chất và tinh thần. Thể chất lành mạnh thì tinh thần sung mãn. Tinh thần hăng hái, năng động thể hiện thể chất tôt, lành mạnh. Nguyên thủ tướng Phạm Văn Đồng cũng từng nói: sức khoẻ của con ngưòi là sức khoẻ của cơ thể, của thần kmh, của tinh thần. Cơ thể tốt, thần kinh tôt, tinh thần tôt có ảnh hưởng qua lại lẫn nhau, thống nhất biện chứng với nhau. Sức khoẻ theo tư tưởng Hồ Chí Minh có vai trò to lớn trong cuộc rông của mỗi con người, của mỗi dân tộc, trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc, xây dựng xã hội mới. Người nhấn mạnh: “Giữ gìn dân chủ, xây dựng nước nhà, gây đòi sông mới, việc gì cũng cần có sức khoẻ mới làm thành công”(2). Sức khoẻ con người là (1) HỒ Chí Minh toàn tập, xuất bản lần thứ haiy NXB chính trị quốc gia, Hà Nội 1995y t4, tr,2ĩ2 (2) Hổ Chí Minh: Toàn tập, xuất bản lần thứ hai, NXB chính trị quốc gia, Hà Nội 1995, t4, tr.2ĩ2 50 nhân tô" rất cơ bản góp phần làm nên sức mạnh tống hỢp về th ế và lực của quần chúng nhân dân. Sự nghiệp cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân. Sự nghiệp sáng tạo xã hội mới cũng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân. Sức mạnh tổng hỢp về thế và lực của quần chúng nhân dân sẽ làm nên mọi sự nghiệp vĩ đại. Chủ tịch Hồ Chí Minh mong muôn nhân dân ta ai cũng đều có sức khoẻ. Con người có sức khoẻ thì lực ượng sản xuất mạnh hơn, phát triển hơn, năng suất lao động tăng cao hơn. Con người có sức khoẻ thì năng động trong mọi hoạt động của đòi sông xã hội. Con người có sức khoẻ thì trí tuệ có điều kiện phát triển hơn, phong phú hơn. Bác Hồ dạy: “Muôn lao động sản xuất tôt, công tác và học tập tốt thì cần phải có sức khoẻ” (1). Sức khoẻ của con người là một nguồn lực lớn làm giàu thêm của cải vật chất và tinh thần cho xã hội. Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VIII khẳng định; “Sự cường tráng về thế chất là nhu cầu của bản thân con người, đồng thòi là vô"n quý để tạo ra tài sản trí tuệ và vật chất cho xã hội” (2). Ngay sau ngày cách mạng tháng Tám thành công, Bác Hồ đã chỉ ra một chân lý: “Dân cường thì nước thịnh”, gần mưòi lãm năm sau, Người nói: “Nếu nhân (1) Hồ Chí Minh toàn tập, NXB S ự Thật, Hà Nội 1989, t8, tr.688 (2) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biêu toàn quốc lần thủ VIII, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội 1996, tr.30 51 dân ta ai cũng khoẻ thì nước ta sẽ mau mạnh giàu” (Báo Thể dục thể thao, sô" 367, ngày 25-9-1969). Sự nghiệp bảo vệ tổ quốc cũng rất cần có yếu tô" sức khoẻ của con người, của nhân dân. Bác Hồ coi sức khoẻ của mỗi cán bộ, chiến sĩ và mỗi ngưòi dân có sự ảnh hưởng to lớn đến tinh thần và lực lượng của toàn dân tộc. Người nói; “Sức khoẻ của cán bộ và nhân dân được bảo đảm thì tinh thần càng háng hái. Tinh thần và sức khoẻ đầy đủ thì kháng chiến càng nhiều thắng lợi, kiến quốc càng mau thành công” Trong cuộc kháng chiến chông thực dân Pháp, nhân dân ta ở hậu phương và các vùng tự do, nhất là những người lao động, cần có sức khoẻ để sản xuất ra nhiều lương thực, thực phẩm, công cụ, vải vóc, quần áo v.v... nhằm đảm bảo đòi sông và cung cấp cho tiền tuyến. Cán bộ, chiến sĩ cần có sức khoẻ về thể châ% sức mạnh về tinh thần để tăng cường năng lực và dũng khí trong công tác, chiến đấu. Trong cuộc kháng chiến chông Mỹ cứu nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm tới nhân tô" sức khoẻ của toàn dân, tạo tiền đề làm nên sức mạnh tổng hỢp về vật chất và tinh thần của cả dân tộc, đảm bảo chiến thắng đế quốc Mỹ. Năm 1966 đế quốíc Mỹ ngày càng leo thang mở rộng ( 1) Hồ Chí Minh toàn tập, xuất bản lần thứ hai, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội 1995, t.7, tr.88 52 chiến tranh xâm lược ở cả hai miền Nam Bắc nước ta. Tại Đại hội toàn miền Bắc những đơn vị và cá nhân tiên tiến trong phong trào thể dục thế thao yêu Pxước chông Mỹ (tháng 3-1966), Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã chuyển Lời của Bác Hồ thăm hỏi các đại biểu và Ngưòi căn dặn: “Phải làm cho phong trào thể dục thế thao nước ta tôt hơn nữa, làm cho dân tộc ta có sức khoẻ tôt, có tinh thần tốt để chiến thắng đế quốc Mỹ” Tư tưởng Hồ Chí Minh về sức khoẻ và vai trò sức khoẻ của con người trong công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc, trong sự nghiệp xây dựng xã hội mới vì dân giàu nước mạnh, giữ một vị trí hết sức quan trọng trong toàn bộ tư tưởng của Bác về con người, về giải phóng con người. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề sức khoẻ con người có giá trị nhân văn rất sâu đậm. Ngày nay ỏ nước ta cũng như trên thế giới, sức khoẻ của con người rất được quan tâm. “Sức khoẻ cho mọi người" là tiếng gọi thiêng liêng của nhân loại đương đại. n. VAI TRÒ CỦA THỂ DỤC THỂ t h a o đ ố i v ớ i sứ c KHOẺ NHÂN DÂN Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy ràng: “Việc gì có lợi cho dân, La phải hết sức làni, việc gì cú hại cho dân, ta phải (1) Lê Nguyễn: Kê chuyện Bác Hồ rèn luyện sức khoé, NXB Thê dục th ể thao, Hà Nội 1985, tr.62 53 hết sức tránh” (1). Làm thể dục thể thao là nhằm đem lại lợi ích cho nhân dân, cho dân tộc, do đó được Bác Hồ rất quan tâm và chỉ hướng phát triển. Người chủ trương phát triển phong trào thể dục thể thao cho rộng khắp, bởi vì thể dục thể thao có tác dụng gìn giữ và tăng cưòng sức khoẻ cho toàn dân. Trước kia Tuệ Tĩnh khuyên mọi người muôn bảo dưỡng và tăng cưòng sức khoẻ thì phải; “Bế tinh dưỡng khí tồn thần Thanh tâm quả dục thủ chăn luyện hình” Điều này có nghĩa là phải giữ gìn tinh, khí, thần, tâm và vận động thân thể thì con người mối khoẻ mạnh. Hải Thượng Lãn ông cũng nói tối sự cần thiết phải vận động thân thể để có sức khoẻ: ''Luyện thân, luyện khí đứng ngồi thong dong Làm cho kh í huyết lưu thông, Chân tay cứng cáp, trong lòng thảnh thơi" Nhiều danh nhân trên thế giới cũng đã nói về tầm quan trọng của vận động thân thể đốì với sức khoẻ con người. Triết gia Hy Lạp cổ đại Ari-xtôt trước công nguyên từng chỉ ra sự tác hại đôi với sức khoẻ con người nếu không vận động cơ thể: “Không có gì làm kiệt quệ và hủy hoại sức khoẻ nếu kéo dài sự bất động cơ thể”. (1) Hồ Chí Minh toàn tập, xuất bản lần thứ hai, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội 1995, t4, tr.47 54 Còn Hoa Đà - một danh y nối tiếng của Trung Quô'c ở thế kỷ thứ II, nói rằng: “Vận động giúp khí huyết lưu thông và ngăn ngừa bệnh tật”. Ngưòi xưa đã nói rất chí lý về việc con người năng vận động, rèn luyện cơ thể để có sức khoẻ. Nếu cơ thê con người không vận động, không rèn luyện thì khả năng thích nghi rất yếu, sự sông không thể kéo dài. Vận động, rèn luyện là để ngày càng hoàn thiện thể chất, nâng cao thể lực, có thể hình - dáng vẻ đẹp đẽ, cuộc sông tươi trẻ, khoẻ mạnh và trường thọ. Các thầy thuôc và các nhà sinh lý học ngày nay nói rằng, cần phải vận động, luyện tập thể dục thể thao thường xuyên nhàm tạo điều kiện tôt nhất dẫn máu đến “tưới" và nuôi dưỡng xương đầy đủ, các tế bào xương phát triển nhanh, xương dày lên, chỗ lồi của xương to lên, tạo chỗ bám chắc cho gân và dây chằng, xương sẽ “trê măi”, chông đưỢc hiện tượng thoái hoá xương, đặc biệt chông được những chứng bệnh của cột sông. Sự “đói” dưỡng khí, “đói” ăn và ngủ là những cái đói rất tai hại cho sức khoẻ con người, nhưng trầm trọng hơn là “đói” vận động. Thiêu rèn luyện thân thể thì theo thời gian nó sẽ gậm nhấm dần toàn bộ cơ thể cùng tâm hồn của con người. Các nhà sinh lý học f'ho rằng, nếu con người ít vận động, sao nhãng luyện tập thể dục thể thao thì “nguy cơ tuổi 30 đã có những tốn thương ở khớp, tốn thương này tăng dần theo tuổi tác”. Sự suy thoái sẽ còn 55 tăng nhanh với người không vận động. Khi xương đã “khô cứng” thì thân hình sẽ mất đi sự mềm mại, uyển chuyển, vận động càng khó khăn, đứng lên ngồi xuô'ng chóng mỏi mệt và đau nhức, lưng bị cứng lại rất dễ bị sai lệch khớp và đĩa đệm. Tình trạng như vậy thì sự già nua của cơ thể con ngưòi, dù tuổi chưa nhiều cùng đã đến. Lao động chân tay thường xuyên, đi đứng là sự vận động rất cần thiết. Nhưng nếu rèn luyện thân thể đúng phương pháp sẽ có tác dụng tôt hơn nhiều đối với sức khoẻ của cơ thể, của thần kinh và tinh thần. Từ những năm đầu thập niên 60 của thế kỷ XX, Bác Hồ đã nói tới việc tập luyện thể dục thể thao thường xuyên, kết hỢp với vệ sinh phòng bệnh nhằm gìn giữ và bồi bổ sức khoẻ, đẩy lùi bệnh tật. Người nói: “Phòng bệnh cũng cần thiết như trị bệnh” Phòng bệnh tôt nhâ't, giản tiện n h ất là kết hỢp vệ sinh với rèn luyện thân thể, chông ô nhiễm môi trường. Phòng bệnh theo biện pháp đó thì không phải chỉ một người, một sô" ít người mà phải từ mỗi ngưòi, mỗi gia đình, mỗi cộng đồng và toàn xã hội. Rèn luyện thân thể có tác dụng phòng bệnh và chữa bệnh rất tích cực. Như ta đã biết, xương và khớp là một tổ chức sông, phải được máu luôn uôn nuôi dưỡng cùng với sự vận động mới phát triển, (ĩì HỒ Chí Minh toàn tập, xuất bản lần thứ hai, NXB Chính tri quốc gia, Hà Nội Ĩ995, t7, tr.88 không đê các muôi bị tích lại, hạn chế vôi hoá và xơ cứng. Rèn luyện thân thể để lấy lại sự cân bằng âm dương của cơ thể con ngưòi, bệnh tật sẽ thuyên giảm. Rèn luyện thân thể kết hỢp với giữ vệ sinh càng có tác dụng to lớn trong việc phòng bệnh và nâng cao sức khoẻ con người. Chính vì vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu: “Phải tuyên truyền một cách thiết thực và rộng khắp trong nhân dân một phong trào thể dục - vệ sinh” (1). Người cho rằng, nếu dân đói, dân dôt, dân ôm là Đảng và Chính phủ có lỗi. Theo các chuyên gia phương Tây và Liên bang Nga ngày nay thì việc gìn giữ và tăng cường sức khoẻ phu thuộc vào yếu tô" dinh dưỡng là 20%, môi trường sinh thái 20%, y tế với rèn luyện thân thể và lôl sông lành mạnh 60%. Điều đó cũng nói lên rằng, để bảo vệ và tăng cường sức khoẻ con người, cần phải được đê cao trách nhiệm của cá nhân cùng với sự quan tâm chung của xã hội, của Nhà nước mà Chủ tịch Hồ Chí Minh từng lưu ý đến. Bác Hồ đã phát động các phong trào “Khoẻ vì nước”, “Vệ sinh yêu nước”, ‘‘Tết trồng cây”. Sinh thòi khi Bác Hồ đến thăm tỉnh Nam Định, Ngưòi biểu dương xã Nghĩa Phú và khuyên bảo các nơi khác học tập, làm theo. Người nói; “Công tác vệ sinh phòng bệnh có nơi đã làm tôt như xã Nghĩa Phú, (1) HỒ Chí Minh toàn tập, xuât bản lần thứ hai. NXB Chinh trị quốc gia, Hà Nội 1995, t9, tr.l02 r- r— 57 đã xây dựng được 554 giếng nước, làm trên 400 hô" xí hỢp vệ sinh, hầu hết nhân dân trong xã tham gia tập thể dục thế thao. Các xã trong tỉnh cần làm như vậy” (Báo Nhân dân, ngày 25-7-1963). Điều Bác nói đó là biện pháp rất cờ bản của y học dự phòng: rèn luyện thân thể, tập luyện thể dục thể thao ■tết hỢp với vệ sinh cá nhân, vệ sinh cộng đồng, vệ sinh môi trường sẽ làm cho con người không bị nhiễm bệnh, tránh đưỢc dịch bệnh truyền lan và nâng cao năng lực thích ứng của cơ thể. Khi cơ thể con người khoẻ mạnh thì sẽ vượt qua và đẩy lùi được bệnh tật, chông trả được vi trùng xâm nhập vào cơ thểr Chúng ta thường thấy những người khoẻ mạnh thì ít ôm đau, nếu có yếu mệt thì chóng qua khỏi. Còn những người sức khoẻ kém thì thường hay ốm đau, bệnh tật lâu khỏi hoặc ngày càng trầm trọng, ngày càng nguy hiểm. Khi cd thể lành mạnh, tinh thần sung mãn thì con người sẽ thích ứng được với những điều kiện thời tiết thay đổi đột ngột. Cơ thể tôt, thần kinh tôt, tinh thần tốt thì tránh được strees. Nếu như cơ thể mệt mỏi, đau ô"m thì không chỉ uông thuôc, nghỉ ngơi mà còn phải vận động cơ thể vói mức độ nhất định. Bác Hồ nhiều lần bị yếu mệt, nhưng Người vẫn cô' gắng dậy vận động thân thể, tập một sô động tác thế dục nhẹ nhàng, hoặc đi bộ, có lần Bác còn tập leo núi... Thế dục thể thao không những có tác dụng tăng 58 cưòng sức đề kháng và năng lực thích ứng của cơ thê mà còn có vai trò to lớn đổi với việc nâng cao sức khoẻ toàn diện cho con người. Sức khoẻ toàn diện là sự phát triển đầy đủ các tố chất thể lực như; sức nhanh, sức mạnh, sức bền bỉ dẻo dai và sự khéo léo. Sức khoẻ toàn diện hoặc nói theo danh từ chuyên môn là thể lực chung chỉ có thể đạt đưỢc nhò luyện tập thể dục thể thao thường xuyên. Khi con người có được sức khoẻ toàn diện sẽ nâng cao đưỢc năng lực thể chất. Trong đòi sông thường nhật, trong lao động, công tác và học tập, năng lực thê chất có vai trò hết sức quan trọng giúp con người vượt qua mọi khó khăn, hoàn thành đưỢc ý nguyện tô"t đẹp của mình. Bác Hồ từng vận dụng nhiều hình thức và phương pháp tập luyện thích hỢp để tăng cường năng lực thể chất của Người. Ngoài những hình thức, phương pháp và bài tập thích hỢp, muôn có năng lực thể chất, Bác Hồ khẳng định rằng, còn phải có lòng kiên nhẫn, sự quyết tâm cao trong rèn luyện thân thể. Vai trò tăng cưòng sức khoẻ toàn diện cho con ngưòi của thể dục thể thao mang tính nhân văn sâu sắc. Bác Hồ kêu gọi toàn dân ta ai cũng có thế tập luyện thể dục thể thao, ai cũng cần rèn luyện thân thể. Ngưòi nào yếu, cần tập luyện cho cơ thể lành mạnh; người khoẻ cần tiếp tục tập luyện cho khoẻ hơn; người cao tuổi cần tập luyện để gìn giữ sức khoẻ và tăng tuối thọ; ngưòi ít tuổi càng cần tập luyện để phát triển thể chất lành 59 mạnh, nâng cao thê trạng, tăng cường thể lực; ngưòi bệnh tật cũng nên tập để làm thuyên giảm hoặc khỏi hẳn bệnh tật. Bác Hồ rất quan tâm đến việc phát triển thể dục thể thao, Người coi đó là biện pháp phòng bệnh tích cực nhất, thiết thực và rất dễ phổ cập trong toàn dân ta. Dưới đâv xin trích dẫn bài viết; “Bác Hồ với gian triển lãm thể dục thể thao” của Hữu Tâm để nói lên sự quan tâm của Bác đôi với phong trào quần chúng rèn luyện thân thể: “Vào tháng 7-1964 tại khu triển lãm Vân Hồ tổ chức cuộc triển lãm lớn “Mười năm phát huy truyền thông Điện Biên Phủ”. Cuộc triển lãm giới thiệu thành tích của các ngành kinh tế, văn hoá, xã hội trong mười năm sản xuất và xây dựng. Triển lãm có dành một gian rộng lớn giới thiệu về y tế, thể dục thể thao. Bác Hồ đã đến xem triển lăm này. Khi đến gian trưng bày về y tế, thể dục thể thao, Bác bỗng dừng lại nói vui với đồng chí phụ trách gian này; “Lẽ ra phải để thể dục thể thao trước mới hợp lý. Vì nếu thế dục thể thao mà tốt thì ít bệnh tật, ít đến y tế; thể dục thể thao tôt tức là phòng bệnh, phòng bệnh hơn chữa bệnh là phương châm của ngành y tế đấy!”. Bác dừng lại xem khá kỹ phần thể dục Ihể thao. Thấy bức ảnh Bác tập thể dục hồi ở Việt Bắc được phóng to đến 0,90m X l,20m đặt trang trọng ở phần mở 60 đầu gian trưng bày thể dục thê thao, Bác góp ý nhẹ nhàng: “Sao không tìm được một tấm ảnh về phong trào quần chúng rèn luyện thể dục thê thao phóng to, đặt ỏ đầu phần có hơn không. Ảnh Bác thì phóng vừa vừa thôi và treo đâu cũng được, cứ gì phải ở đầu” Bác Hồ rất quan tâm tới phong trào quần chúng tập luyện thể dục thể thao. Bác nói: “Mỗi một ngưòi dân yếu ớt, tức là làm cho cả nước yếu ớt một phần; mỗi một người dân mạnh khoẻ, tức là góp phần cho cả nước mạnh khoẻ”, điều đó có ý nghĩa rất sâu sắc không chỉ về sức khoẻ của nhân dân mà cả về vật chất và tinh thần của dân tộc. Như cô" Tổng Bí thư Lê Duẩn từng nói; “Khoẻ vì nước tức là có sức mạnh mới đọ sức được với quân thù, mới xây dựng đưỢc nước nhà” (2). m. VAI TRÒ CỦA THỂ DỤC THỂ t h a o đ ố i v ớ i sự PHÁT TRIỂn t h ể c h ấ t t h ế h ệ tr ẻ 1. N hừng tinh hoa về giáo dục thể chất tuổi trẻ của nhân loại và Việt Nam trong tịch sử Từ buổi đầu của xã hội nguyên thủy, do nhu cầu lao động sinh tồn, nhất là lao động sản bắt, đã xuất hiện hình thức sơ khai vê giáo dục thê chất cho trẻ em và (1) Bác Hồ với Thế dục thê thao, NXB Thê dục thể thao, Hà Nội 1995, tr.117 (2) Lời ph át biểu của Tổng Bi thư Lê Duẩn tại Hội nghị bàn ưê công tác th ế dục - vệ sính (1960) 61 thanh niên. Việc giáo dục thể chất cho trẻ trong xã hội nguyên thủy là một nhu cầu tất yếu của lao động cộng đồng gắn liền với sinh hoạt văn hoá sơ khai của thị tộc, bộ lạc. Lao động càng phát triển, trẻ em càng được học hỏi, được rèn luyện những kinh nghiệm thao tác, vận động thân thể để kế tục công việc lao động của cha anh. Trong xã hội cộng sản nguyên thủy, nhà trường chưa ra đòi, do đó giáo dục thể chất cho thế hệ trẻ là nhiệm vụ chung của công xã mà trực tiếp là những ngưòi có kinh nghiệm lao động. Cùng với sự hướng dẫn, giúp đỡ của những người có kinh nghiệm, trẻ em cũng tự ôn luyện và học hỏi, bắt chưốc hoặc tổ chức vui chơi, tập dượt nhằm tự giáo dục, tự rèn luyện để nắm vững những kỹ năng lao động săn bắt. Như vậy, giáo dục thể chất là một trong những hình thái ý thức xã hội có sớm nhất của xã hội loài người. Hình thái ý thức xã hội này có ảnh hưởng to lớn đến sự tồn tại và phát triển của xã hội cộng sản nguyên thủy. Chính giáo dục thể chất trong xã hội cộng sản nguyên thủy là một trong những nhân tô" phát triển thể lực, tăng cường sức khoẻ cho trẻ em nhằm nâng cao năng lực lao động của cộng đồng. Vào khoảng nghìn năm thứ IV đến nghìn năm thứ III trước công nguyên, xã hội cộng sản nguyôn thủy được thay thế bởi xã hội chiếm hữu nô lệ. Khi đó, hệ thống giáo dục nói chung và giáo dục thể chất nói riêng đều phục vụ lợi ích thông trị của giai cấp chủ nô và bọn quý 62 tộc. Tuy vậy phương thức giáo dục thể chất cho trẻ em trong xã hội chiếm hữu nô lệ cũng có những yếu tổ' tích cực, được nhân loại trân trọng kế thừa. Trong xã hội Hi Lạp cổ đại, nhà nước Aten và nhà nước Spactơ cho tố chức các trại tập trung và các trường học nuôi dưỡng, giáo dục thiếu nhi và thanh niên, ơ đó các em phải theo một chương trình thể dục quân sự bắt buộc và khắc khổ. Ph. Ảng ghen từng chỉ ra phương pháp giáo dục quân sự cho trẻ em ở Aten và Spactơ như sau: “Trong giáo dục thể chất chung, người Aten phát triển sự linh hoạt cùng với thể lực, còn người Spactơ thì chú ý chủ yếu vào mặt phát triển sức lực, sức chịu đựng và lòng dũng cảni” Mục đích giáo dục thể chất cho trẻ em trong xã hội chiếm hữu nô lệ là nhằm tăng cường sức mạnh cho các đội quân chiến trận đê xâm lược hoặc bảo vệ nền thông trị của giai cấp chủ nô và bọn quý tộc giàu có. Mục đích tiêu cực này đã bị Ang ghen phê phán gay gắt. Nhưng mặt tích cực của nó là hệ thông giáo dục thê hệ trẻ bao gồm các mặt trí dục, thê dục, quân sự và mĩ dục, trong đó thể dục và quân sự có quan hệ hữu cơ nhất. Giáo dục thể chất trong các trường học và trại tập trung của giai cấp chủ nô tương đối có bài bản. có (1) Một sỏ tư liệu T hể dục th ể thao của c. Mác, PÌI. Ang ghen, V. L Lênin, I. V. Stalin, NXB Thê dục thè thao, Hà Nội 1978, tr.ĩ8 63 chương trình hẳn hoi vì thế đã đào tạo ra được những người lính chiến trận có thể lực và kỹ năng quân sự nhất định. Thòi trung cổ, từ thế kỷ IV đến thế kỷ XIV, nhất là trong giai đoạn cực thịnh của xã hội phong kiến ở Tây Âu. giai cấp phong kiến chú ý nhiều đến việc rèn luyện thể lực cho thanh niên quân đội, tăng cưòng hệ thông huấn luyện thể dục quân sự. Thanh niên quân đội được tập các môn như đấu gươm, bắn cung, bơi lội, chạy, nhảy, đẩy tạ, ném đĩa, đấu vật v.v... Nhưng đối với hệ thông giáo dục, trong đó có giáo dục thể chất, không chỉ trong quân đội mà cả ngoài xã hội do bị ảnh hưởng của những quan niệm phong kiến và Ki-tô-giáo chi phối, coi nhẹ, o ép nên có phần thụt lùi so với nền giáo dục của Hi Lạp cổ đại, mặc dù hình thái kinh tê - xã hội phong dến phát triển cao hơn so với hình thái kinh tế - xã hội chiếm hữu nô lệ. Chủ nghĩa nhân văn thòi phục hưng thế kỷ XV - XVI, với những tư tưởng tiến bộ, chông sự nô dịch con người của quan niệm Ki-tô-giáo, thể hiện tinh thần cách mạng của giai cấp tư sản chông giai cấp phong kiến vói quyết tâm xoá bỏ chế độ phong kiến, thiết lập chủ nghĩa tư bản. Các nhà nhân văn chủ nghĩa đã khơi dậy những tinh hoa của nền văn minh cổ đại, ca ngỢi sức m ạnh và vẻ đẹp của con người. Tư tưởng nhân văn thời phục hưng đã làm đảo lộn thế giới quan và nhân sinh quan 64 phong kiến và Ki-tô-giáo và các giá trị chân chính của con người được đề cao. Hình tượng con người cường tráng về thể chất, mạnh mẽ về tinh thần ngẩng cao đầu đòi tự do và công lý, không khuất phục trước mọi khó khăn, trở lực, đã trở thành phương châm tư tưởng cho nền giáo dục của thòi kỳ phục hưng. Nền giáo dục thời kỳ này đã khơi dậy và kế thừa những tinh hoa của nền giáo dục Hy Lạp cổ đại, nhất là hệ thông giáo dục tống hỢp của Aten nhằm phát triển ba mặt: trí dục, thê dục, mĩ dục cho thiếu nhi và thanh niên. Các nhà tư tưởng thời phục hưng chủ trương nhà trường cần thiết đào tạo ra các lớp trẻ vừa có tri thức, vừa có sức khoẻ và ngoại hình đẹp. Để có sức khoẻ và ngoại hình đẹp, họ cho rằng thiếu nhi và thanh niên cần rèn luyện các môn như thê dục dụng cụ, leo dây, nhảy sào. Thời kỳ cận đại (thế kỷ XVI - thế kỷ XVIII), ở các nước Tây Âu là thòi kỳ giai cấp tư sản đã giành được thắng lợi về chính trị nhờ các cuộc cách mạng tư sản Hà Lan cuôi thế kỷ XVI, cách mạng tư sản Anh thê kỷ XVII và cách mạng tư sản Pháp thế kỷ XVIII. Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa một mặt tạo ra vận hội cho khoa học phát triển, năng suất lao động tăng cao. Song mặt khác do chạy theo lợi nhuận, tăng cưòng bóc lột của các nhà tư bản đã gây ra sự bần cùng hoá giai cấp công nhân và cuộc sông khó khăn của quần 65 chúng lao động, làm cho họ bị suv giảm dần về sức khoẻ và thể chất, nhất là đôl với con em của giai cấp công nhán. Trước thực trạng này, những người đại biểu tiên tiến nhất trong sô" các trí thức tư sản đã đê ra dự án cải cách lệ thông giáo dục đức dục và thế dục cho trẻ em. Để phát triển thể chất thanh thiếu nhi, họ đã xây dựng các phương pháp giáo dục thế chất trong các trường trung học và tiểu học. Các nhà tư tưởng tiến bộ thòi kỳ này cũng có những quan niệm đúng đắn về giáo dục thế chất, họ cho rằng, trẻ em thuộc các giai tầng dù giàu lay nghèo đều phải được giáo dục về đạo đức, tri thức và thê lực. Trong sô" các nhà tư tưởng tiến bộ của thòi kỳ này có nhà triết học kiêm nhà văn Pháp nổi tiếng G. Rút Xô, ông rất quan tâm tới nền giáo dục gắn với giáo dục thể chất cho thế hệ trẻ. Rút Xô chủ trương thanh niên và thiếu nhi cần được tập luyện các môn thể dục, chạy, nhảy, ném, bơi lội, cưỡi ngựa> săn bắn và các trò chơi bổ ích khác. Rút Xô nghiêm khắc chỉ trích những ai cho rằng, giáo dục thể chất gây tác hại đến trí tuệ trẻ em và mọi người nói chung. Một đại biểu khác là G. Lô’c - Cơ, nhà giáo dục người Anh cũng đã có ảnh hưởng lớn đến việc phát triển hệ thông giáo dục trí dục, đức dục, thế dục. Ồng đã trình bày quan điểm giáo dục của mình trong cuôn: ‘‘Tư tưởng giáo dục trẻ em”, c. Mác dã đánh giá; “Lôc Cơ là đại biểu của giai câp tư sản non trẻ về 66 tất cả các lĩnh vực giáo dục”, về lĩnh vực giáo dục thê chất. Lốc Cơ chủ trương phải tăng cường giáo dục thể chất cho trẻ em, làm cho chúng có thân thế khoẻ mạnh và ý chí kiên cường. Tóm lại, phương thức giáo dục thể chất của Hi Lạp cổ’ đại và những tư tưởng tiến bộ về giáo dục thê chất thòi •cỳ Phục hưng và Cận đại là những di sản đưỢc nhân oại kế thừa. Những di sản đó từng được Mác, Ảng ghen, Lênin và Hồ Chí Minh tiếp thu có phê phán. Những năm CUỐI của nửa đầu thế kỷ XIX, Chủ nghĩa Vlác ra đồi, từ đó trở đi nó không ngừng được bổ sung và phát triển. Học thuyết Mác được Lênin phát triển phong phú và sâu sắc vào đầu thê kỷ XX. Đó là vũ khí tư tưởng của giai cấp vô sản nhằm đấu tranh xoá bỏ chủ nghĩa tư bản, xâv dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản, giải phóng giai cấp, giải phóng nhân loại khỏi mọi sự áp bức bóc lột. Riêng học thuyết Mác - Lênin về giáo dục con người phát triển toàn diện là một bộ phận quan trọng cấu thành chủ nghĩa Mác - Lênin. Mác, Ang ghen và Lênin đặc biệt quan tâm tới sự phát trien thế lệ trẻ về các mặt; đức, trí, thể, mỹ trong xã hội mới sau khi đã lật đổ chủ nghĩa tư bản. Từ sự phê phán phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa với sự phân công lao động trong xã hội tư bản dã dẫn đến tình trạng tha hoá người lao động về mọi mặt, trong đó có sức khoẻ của họ, nhất là làm cho cơ thể trẻ 67 em của giai cấp công nhân phát triển què quặt, mất cân đối, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ ra rằng; Giáo dục thể chất nhất thiết phải là một mặt í hông thể tách rời với giáo dục đức dục, trí dục, mỹ dục trong nền giáo dục của xã hội tương lai. Thực hiện giáo dục thể chất với các mặt giáo dục khác nhằm phát triển con ngưòi toàn diện. Mác tiên đoán: “Nền giáo dục trong xã hội tương lai, khi mà tất cả các trẻ em đã qua độ tuổi nào đó, lao động sản xuất sẽ đưỢc kết hỢp với trí dục và thể dục, không chỉ với tư cách là một phương pháp tăng sức sản xuất xã hội, mà còn với tư cách là phương pháp duy nhất để đào tạo những con người phát triển toàn diện”(i). Mác còn nhấn mạnh: tương lai của loài ngưòi hoàn toàn tuỳ thuộc vào việc giáo dục thế hệ trẻ kế tục sự nghiệp của cha anh. Những tư tưởng trên của Mác được Ảng ghen nhấn mạnh trong khi ô n g phê phán Đuy-rinh “Chẳng thèm đếm xỉa đến môn giáo dục thể chất ở trường học”. Trong tác phẩm “Tình cảnh giai cấp công nhân Anh”, Ang ghen đã phê phán các chủ xưởng tư bản không cho trẻ em đến trường học, không cho ra ngoài trời để thở hít không khí trong lành, chỉ vì lợi nhuận cho bọn tư bản. Àng ghen đòi hỏi các chủ xưởng phải dành thòi gian cho việc giáo dục thể chất và tinh thần đốì với thế hệ thanh ( 1) c. Mác và Ph. Ăng ghen: Tuyển tập, NXB Sự thật, Hà Nội 1970, t.l, tr.313 68 thiếu niên công nhâu. Ảng ghen đã chỉ ra sự cần thiêt giáo dục thể chất cho con em công nhân nhằm khôi phục “gân côt, cơ bắp đã xơ cứng vì lao động của họ cho nhà tư bản trở lại linh hoạt và thêm mềm mại” Các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác khẳng định những tư tưởng tiến bộ của các nhà tư tưởng thời phục hưng và cận đại về giáo dục thể chất thế hệ trẻ. Tuy vậy, Mác và Ảng ghen đã vượt xa họ, do các ông đã chỉ ra được nguồn gốc của sự tha hoá về thể chất của tuổi trẻ trong xã hội tư bản, đó là “sự thèm khát vô độ giá trị thăng dư của nhà tư bản” và sự phân công lao động trong xã hội tư bản chủ nghĩa do chê độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa sinh ra. Các thế hệ con em của nhũng ngưòi ao động chịu thiệt thòi nặng nề về sự phát triển thê chất và trí tuệ, bởi vì giai cấp tư sản bóc lột sức lao động bằng cách tăng cường độ lẫn tăng thời gian ngày lao động từ 10 giò lên 1 3 - 1 4 giờ, không chỉ đôi VỚI ngưồi lớn mà cả trẻ em dưới 17 tuổi, bởi vậy tuổi trẻ không thế có điều kiện để học tập và rèn luyện thể chất. Các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác cũng phê phán những nhà triết học tiểu tư sản nửa vòi dè dặt đôi với giai cấp tư sản hoặc tiếp tay cho chủ nghĩa tư bản đã không đề cập đến việc con em giai cấp công nhân cần phải được giáo dục về thể chất để khôi phục và phát triển sức khoẻ. Tất cả fj) c. Mác và Ph. Ang ghen: Toàn tập, xuãt bản lần thứ hai, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1995, t'20, tr.456 69 những điều đó chứng tỏ Mác và Ăng ghen không chỉ rất coi trọng trí dục mà còn quan tâm sâu sắc đến thể dục để cho thể chất thế hệ trẻ phát triển hài hoà với sự phát triển về trí tuệ. V. I. Lênin, nhà tư tưởng vĩ đại nói: Thanh niên phải có sức khoẻ để thực hiện sự ghiệp xâv dựng chủ nghĩa cộng sản. Ngưòi còn nói với những đại biểu dự Đại hội lần thứ nhất của Đoàn Thanh niên Cộng sản Lènin vào tháng 10-1918 rằng: “Thanh niên chúng ta không chỉ cần phải có trình độ hiểu biết về chính trị và có kiến thức văn hoá, mà còn cần phải phấn khởi, yêu đời, luôn uôn có sáng kiến. Thanh niên trai gái của đất nưốc Xô Viết phải sông cho đẹp, cho sôi nổi trong đời sôVig xã hội cũng như trong đòi tư. Đấu tranh, công tác, học tập, thể thao, vui chơi, ca hát, ước mơ, đó là những lĩnh vực trongđó thanh niên phải tự biểu hiện cho hết tầm cỡ của mình” (1) Quán triệt tư tưởng của Lênin, trong Nghị quyết Đại hội Đảng cộng sản Nga (Bônsêvich) lần thứ XIII, tháng 5-1924, nhấn mạnh: “Do xu hướng thoái hoá về thể chất trong thanh niên, nhất là trong giới thanh niên học sinh, Đoàn Thanh niên Cộng sản Lênin của nước Nga cùng với các tổ chức công đoàn, phải táng cường công tác (ĩ) và (2): Một sô tư liệu vể Thể dục th ể thao của c. Mác, Ph. Ảng ghen, V. I. Lênin, Stalin, NXB Thể dục thể thao, Hà Nội, 1978, tr.32 và 47 70 trong lĩnh vực thể dục thê thao’' Và Nghị quyết về các nhiệm vụ của Đảng Cộng sản Nga (Bônsêvích) tháng 7- 1925 chỉ rõ: Thể dục thể thao cần đưỢc xem xét trên quan điểm giáo dục thể chất, bồi dưỡng sức khoẻ với tư cách là một trong những mặt của việc tăng cường văn hoá, kinh tế, huấn luyện quân sự cho thanh niên” Tóm lại, chủ nghĩa Mác - Lênin, trong đó có học thuyết về giáo dục con người phát triển toàn diện, đã và đang c ó ảnh hưởng to lớn đôi với tiên trình cách mạng vô sản giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người. Tư tưởng của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin về giáo dục thể chất luôn luôn có giá trị định hướng về mật này trong thời đại ngày nay. Chủ tịch Hổ Chí Minh đã nghiên cứu, tiếp thu và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào cách mạng Việt Nam, thực tiễn của đất nước, con người Việt Nam, trong đó có học thuyết vè giáo dục thế hệ trẻ phát triển toàn diện. ở nưck ta, trong xã hội phong kiến và thời kỳ thuộc Pháp, dân gian cũng có những quan niệm quý báu vê giáo diạc thể chất thanh thiếu nhi. Đôi với trẻ thơ, nhân dân ta ở nhiều nơi quan niệm 'Tập đứng cho vững bước đi mới thành”. Đôi với thanh thiếu nhi cả gái trai, nhân dân lao động khuyên bảo họ luyện rèn đôi chân bằng (1) V. I. Lênin vê giữ gìn sức khoé nhân dán lao động và thể dục thể' thao, NXB cầu vồng, Mátxcơva, tr.150 71 cách “siêng đi chân cứng đá mềm” và khuyên khích trẻ em tập bơi “Nhà có phúc sinh con biết lội, nhà có tội sinh con biết trèo". Đặc biệt nhân dân ta hàng ngàn năm nay thường xuyên căn dặn tuổi trẻ “Văn ôn võ luyện”, “Khổ học khổ luyện” mối thành đạt. Cụ Phan Bội Châu, nhà yêu nước lớn, vào đầu thê kỷ XX, khi phê phán thực dân Pháp không quan tâm tới môn giáo dục thể chất trong nhà trưòng tiểu học của con em Việt Nam, đã bộc lộ quan điểm đúng đắn về giáo dục. Cụ viết: “Trong trưòng tiểu học không có môn gì quan trọng hơn môn thể dục. Thê mà trong trường (của con em người Việt Nam) chẳng có môn đó. Thể dục tay íhông, thể dục với vũ khí, thể dục giải trí. cho đến các thứ vận động khác đều không đưỢc đưa vào chương trình giảng dạy (cho con em ngưòi Việt Nam)” Trường Đông Kinh Nghĩa Thục và những trưòng theo mô hình này đã thực hiện hệ thông giáo dục cách tân. quan tâm tới đức dục, trí dục và thể dục đôi với học sinh nhằm đào tạo một lớp ngưòi có học, có sức khoẻ để phụng sự nước nhà. Những quan niệm, tư tưởng về giáo dục thể dục thể chất cho tuổi trẻ của nhân dân ta và các binh sĩ yêu nước như trên đõ có ảnh hưởng nhA^t định đối với thrinh (1) Phan Bội Châu; Thiên Hổ, Đê Hồ, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội 1978, tr.62 72 thiếu nhi Việt Nam trong việc rèn luyện sức khoẻ, gìn giữ sức khoẻ để sông và trưởng thành. Tuối trẻ Việt Nam từ đời này sang đời khác, trong xã hội phong kiến hay thòi kỳ nước ta thuộc Pháp, rất hiếu động, thích VUI chơi, tập tành các môn vật, võ, bơi, đá cầu chinh, kéo co, đánh đu, thả diều, chạy nhảy và nhiều trò chơi dân gian khác. Truyền thông đó đã ảnh hưởng tới tính hiếu động thời niên thiếu của Bác Hồ, cùng với bạn bè tham gia các trò chơi vận động có tác dụng rèn luyện thê chất và tinh thần. 2. Chủ tịch Hồ Chí Minh với sự phát triển thể chất th ế hệ trẻ • Tháng 1-1946, Bác Hồ viết: “Một năm khởi đầu từ mùa xuân. Một đời khởi đầu từ tuổi trẻ. Tuối trẻ là mùa xuân của xã hội” (1). về giáo dục thê chất cho tuổi trẻ hiếm thấy nhà tư tưởng lớn nào trên thế giới từ trước tới nay từng hướng dẫn và chỉ bảo thiếu nhi. thanh niên, học sinh, sinh viên rất sâu sắc như Bác Hồ của chúng ta. Anh thanh niên Nguyễn Tất Thành (Bác Hồ lúc tuổi thanh niên) sau khi ròi trường Quôc học Huê đã tự bồi dưỡng và rèn luyện cho mình về tâm hồn cao đẹp và thê châ"t lành mạnh để chuẩn bị cho cuộc hành trình Lìm ÍV Hồ Chí Minh toàn tập, xuất bản ỉần thứ hai, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1995, t4, tr.ĩ6 7 73 đưòng cứu nước cứu dân. Khi làm thầy giáo tại trường Dục Thanh (Phan Thiết) vào CUỖI năm 1910 đến đầu năm 1911, Nguyễn Tất Thành đã sớm có nhãn quan mới về giáo dục để phát triển hài hoà các mặt đạo đức, tri thức và thể chất cho học sinh. Ngoài việc dạy học sinh lớp nhì (tương đương lớp 4 tiểu học ngày nay) môn Hán văn và Quôc ngữ những giờ chính khoá, vào những ngày nghỉ, thầy Nguyễn Tât Thành thường đưa học sinh đi tham quan ngắm cảnh thiên nhiên và những di tích lịch sử trong vùng. Nhân đó thầy Nguyễn Tất Thành kể các câu chuyện và đọc các bài ca yêu nước trong phong trào Đông du hay trong cuộc vận động Duy tân cho học sinh nghe. Qua đó thầy Thành đă giáo dục cho học sinh lòng yêu nước thương dân, tình cảm đạo đức con ngưòi. Thầy Nguyễn Tất Thành thường khuyên chích, nhắc nhở học sinh chăm chỉ đọc sách đê mở mang Áiến thức và bồi dưỡng những phẩm chất tôt đẹp. Là giáo viên trẻ nhất trưòng, thầy Nguyễn Tất Thành còn được phân công đảm trách dạy thế dục cho học sinh toàn trường. Thầy Thành rất hiểu ý nghĩa câu khẩu hiệu của Trường Quốc học Huế; “Một tâm hồn trong sáng trong một thân thể tráng kiện”. Do đó thầy Thành rất quan tâm đến việc rèn luyện thân thể cho hoc sinh. Mỗi buổi sáng, thầy Nguyễn Tất Thành lên lớp hướng dẫn học sinh tập bài thể dục rồi kéo xà đơn, chạy, nhảy cao. nhảy xa. Sân trường rộng, có cả sân bóng rổ nên 74 học sinh tập luyện, vui chơi sôi nổi. Vào sáng thứ 5 hàng tuần, thầy Thành còn đưa học sinh ra bãi biển Thương Chánh tập luyện, chạy nhảy vui chơi dưới ánh nắng ban mai với khí tròi trong mát. Lúc bấy giò ở nước ta, việc dạy thể dục thể thao trong nhà trường cho học sinh người Việt Nam thực sự là một việc làm có tính chất cách mạng. Thầy Nguyễn Tất Thành dạy học tại trường Dục Thanh không lâu, nhưng với phương pháp dạv học linh hoạt, sáng tạo, có tính cách mạng đã giúp cho học sinh của mình phát triển toàn diện vê' tri thức, đạo đức, thê chất và tinh thần lành mạnh. Sau 30 năm Nguyễn Ái Quôc - Hồ Chí Minh bôn ba hoạt động cách mạng ở nước ngoài, đến trưa ngày 28-1- 1941 (tức mồng 2 tết Tân Tỵ), từ đỉnh núi Sum Khảo (Tĩnh Tây, Quảng Tây, Trung Quôc), Ngưòi vượt cột mô"c 108 biên giới Việt Trung, đặt bước chân đầu tiên ên mảnh đất của Tổ quôc thân yêu... Từ đó, Ngưòi trực tiếp chỉ đạo cách mạng Việt Nam ủ trong nước. Ngay sau khi về nước, Hồ Chí Minh đã sáng lập ra Việt Nam Độc lập đồng minh (gọi tắt là Việt Minh). Ngưòi đưỢc bầu làm Chủ tịch Mặt trận. Mặt trận Việt minh đề ra chương trình hành động, chủ triíơnịỉ đoàn cết tất cá các tầng lốp nhân dân, các dân tộc bị áp bức, các đoàn thể cách mạng nhằm “đánh đô chủ nghĩa đê quôc phát xít Nhật, giành độc lập cho nước Việt Nam, 7o lập nên Chính phủ nhân dân của nước Việt Nam dân cnủ cộng hoà”. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã diễn đạt chương trình Việt Minh thành “Mười chính sách của Việt minh” bằng văn vần để mọi người đọc cho dễ nhớ, dễ hiểu. Vê giáo dục thê hệ trẻ, Người viết: “Thanh niên có trường học nhiều” và “Trẻ em, bô" mẹ khỏi lo. Dạy nuôi chính phủ giúp cho đủ đầy”. Chủ trương phát triển nền giáo dục quôc dân mới, trong đó có giáo dục thể chất cho thế hệ trẻ, đã được chương trình Việt minh đề cập: “Khuyên khích nền thể dục quôc dân làm cho nòi giông ngày thêm mạnh” và “Nhi đồng được chính phủ săn sóc đặc biệt về thể dục 'và trí dục” Cách mạng tháng Tám năưi 1945 thành công, Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, tiến hành ngay công cuộc bảo vệ và xây dựng nước Việt Nam mới. về giáo dục, Bác Hồ chủ trương xây dựng một nền giáo dục mới nhằm phát triển thê hệ trẻ về mọi mặt. Trong thư gửi học sinh nhân ngày khai trường đầu tiên của nước Việt Nam mới, Người viết: “Ngày nay các em đưỢc cái may mắn hơn cha anh là được hấp thụ một nền giáo dục của một nưc3c độc lập, một nền giáo dục sẽ đào tạo các em nên những ngưòi công dân hữu ích cho nước Việt Nam, một nền giáo dục làm phát triển hoàn toàn những năng lực (1) Hồ Chí Minh toàn tập, NXB S ự thật, Hà Nội 1983, tập 3, tr.421-422 76 sẵn có của các em” Vê giáo dục thể chất, Bác Hồ rất coi trọng như các môn học khác trong nhà trường. Ngưòi khuyên bảo thiếu nhi - học sinh hãy “Siêng tập thể thao cho mình mẩy được nở nang” Người căn dặn học sinh phải học giỏi không chỉ các môn văn hoá mà cả môn giáo dục thể chất. Đầu năm học 1946 - 1947, Bác Hồ đến thăm trường phổ thông trung học Nguyễn Trãi (Hà Nội), Người khuyên bảo học sinh phải làm theo lời dạy của Lênin, học sinh Liên Xô phải học giỏi ba thứ: tiếng Nga, toán và thể dục. Xin trích dẫn bài báo: “Nhớ lại buổi Bác Hồ đến thăm trưòng chúng tôi” (Tuần tin tức TTXVN, số 36, ngày 8-9-1984) của Đoàn Thanh như sau: “Năm học 1946 - 1947) khai giảng được hơn một tháng thì trưòng Nguyễn Trãi vinh dự được Bác Hồ đến thăm. Bác đến quá bất ngò, nên mãi đến khi Bác bước vào lớp học chuyên khoa 11 của trường, chúng tôi mới vội đứng lên chào Bác. Bác tươi cưòi vẫy tay bảo: “Các cháu ngồi xuông”. Bác quay sang hỏi thầy Hiệu trương: “Lớp này là lớp mấy?”. Thầy Hiệu trưởng đáp: “Thưa Chủ tịch với lớp Bắc (nghĩa là bậc tú tài) đó ạ”. Bác cười: “À thê ra đây toàn là cô tú, cậu tú tương lai cả”. Bác hỏi: “Các cháu có biết ông Lênin không?”. Tuy sắp là cô tú. (1) Hồ Chí Minh toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, xuất bản lần thứ hai, Hà Nội 1995, tập 4, tr.32 (2) Hồ Chí Minh toàn tập, NXB Sự thật, Hà Nội 1984, T4, tr.l3 77 cậu tú (tú tài) như Bác gọi yôu, nhưng chúng tôi vẫn còn ơ mơ vê ông Lênin lắm. Một anh mạnh dạn đứng lên thưa: “Thưa Bác, ông Lênin là ngưòi lãnh đạo nước Nga ạ”. Bác vẫy tay cho anh ngồi xuông rồi nói tiếp: “Đúng, ông Lênln là người lãnh đạo Liên Xô, ông rất quan tâm đến học đưòng, ông khuyên học sinh Liên Xô phải học giỏi ba thứ, các cháu có biết ba thứ gì không?”. Biết chúng tôi lúng túng, Bác cười bảo: “Các cháu thử đoán xem, tự suy bản thân xem cần học gì nhất?”. Chúng tôi mạnh dạn nói lên ý kiến của mình, người thì cho là phải học khoa học, người thì cho phải học lịch sử, ngưòi thì bảo phải học chính trị. Bác cười bảo: “Mỗi cô tú, cậu tú kể ra một môn, thê nào chả đúng, nhưng có một môn Bác chò mãi chẳng thấy ai kể ra. Đúng là Lênin dạy rằng, các học sinh phải lọc tiếng Nga, toán và...” Bác dừng lại. Cả lớp hồi hộp chò lời giải đáp. Bác mỉm cười chỉ tay ra ngoài sân vào một lớp đang tập thể dục nói: “Và thể dục”, cả lớp tươi cười, phấn khởi...” Bác Hồ rất quan tâm tới môn giáo dục thể chất trong nhà trường. Ngày 27-3-1946, Ngưòi ký sắc lệnh thành lập Nha Thanh niên và Thể dục thuộc Bộ Quốc gia Giáo dục nhằm triển khai công tác giáo dục thể chất trong lọc sinh, thanh thiếu niên cả nước ta. Trong cuộc kháng chiến chông thực dân Pháp, Bác Hồ cũng dạy bảo 1Ọ C sinh, thanh thiếu nhi chăm chỉ rèn luyện thân thể. Cuôi năm 1947, Bác Hồ viết thư gửi báo Xung Phong 78