"Chủ Nghĩa Xã Hội Đi Về Đâu? - Joseph E. Stiglitz full prc pdf epub azw3 [Triết học] 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Chủ Nghĩa Xã Hội Đi Về Đâu? - Joseph E. Stiglitz full prc pdf epub azw3 [Triết học] Ebooks Nhóm Zalo Tên sách: nt Nguồn: internet Chính tả: capthoivu (TVE) Chủ nghĩa xã hội đi về đâu? Joseph E. Stiglitz Nguyễn Quang A dịch Chuyển sang ebook: capthoivu (TVE) Ngày hoàn thành: 4/9/2006 Nơi hoàn thành: ASEC-Jak Lời giới thiệu của người dịch Lời nói đầu 1. Lí thuyết về chủ nghĩa xã hội và quyền lực của các tư tưởng kinh tế 2. Tranh luận về chủ nghĩa xã hội thị trường: Cách tiếp cận cơ bản 3. Phê phán định lí cơ bản thứ nhất của kinh tế học phúc lợi 4. Phê phán định lí cơ bản thứ hai 5. Phê phán định lí Lange-Lerner-Taylor: Các khuyến khích 6. Phân phối khẩu phần của thị trường và những phân bổ phi giá cả trong nội bộ các nền kinh tế thị trường 7. Cạnh tranh [3] 8. Đổi mới (Inovation) 9. Tập trung hoá, phi tập trung hoá, các thị trường và chủ nghĩa xã hội thị trường 10. Tư nhân hoá [1] 11. Thử nghiệm Xã hội chủ nghĩa: Đã sai cái gì? 12. Cải cách các thị trường vốn [1] 13. Đặt các câu hỏi đúng: Lí thuyết và bằng chứng [1] 14. Năm huyền thoại về thị trường và chủ nghĩa xã hội thị trường 15. Vài kiến nghị sơ bộ 16. Những suy ngẫm triết học 17. Những kết luận Tài liệu tham khảo Các Bài giảng Wicksell Năm 1958 Hội Bài giảng Wicksell [The Wicksell Lecture Society], với sự hợp tác của Viện Khoa học Xã hội thuộc Đại học Stockholm [the Social Science Institute of Stockhol University], Trường Kinh tế học Stockholm [the Stockholm School of Economics], và Hội Kinh tế Thuỵ Điển [Swedish Economic Association], đã khai trương loạt các bài giảng để tôn vinh và tưởng nhớ Knut Wicksell (1851-1926). Đến 1975 các bài giảng được trình bày hàng năm. Sau một thời kì tạm dừng loạt bài giảng lại được Hội Kinh tế Thuỵ Điển khai trương lại năm 1979. Bắt đầu với các bài giảng 1982, một tập các bài giảng được trình bày hai năm một. Lời giới thiệu của người dịch Quyển sách này là quyển thứ 6 của tủ sách SOS2 do chúng tôi chọn và dịch ra tiếng Việt. Nó được Joseph Stiglitz viết hơn mười năm trước, vào những năm đầu của thời kì chuyển đổi, và được xuất bản đầu tiên năm 1994. Ông là người có công chính trong phát triển kinh tế học thông tin, và vì những cống hiến đó ông đã được giải Nobel kinh tế năm 2001. Trong cuốn sách này ông dùng những kết quả nghiên cứu của mình và của các cộng sự về kinh tế học thông tin để làm rõ hơn những vấn đề tranh luận lâu đời về các mô hình kinh tế, các hệ thống kinh tế, và trên cơ sở đó đưa ra những gợi ý chính sách cho các nền kinh tế chuyển đổi hậu xã hội chủ nghĩa. Ông phê phán các lí thuyết kinh tế tân cổ điển, mô hình xã hội chủ nghĩa thị trường và mô hình thị trường cạnh tranh truyền thống dựa trên lí thuyết đó, làm rõ hơn những điểm mạnh điểm yếu của các hệ thống kinh tế. Ông gợi ý những chính sách kinh tế cho các nền kinh tế chuyển đổi. Phê phán và đánh giá của ông khá cân bằng và khách quan trên cơ sở những kết quả mới nhất trong nghiên cứu kinh tế. Độc giả của tủ sách SOS2 sẽ thấy cuốn sách này rất lí thú, nhất là sau khi đã đọc các cuốn sách khác của tủ sách, đặc biệt là hai cuốn đầu của Kornai. Joseph Stiglitz đã từng là cố vấn kinh tế của tổng thống Clinton, là Phó Chủ tịch Ngân hàng Thế giới. Ông đã thường xuyên thảo luận các vấn đề kinh tế chuyển đổi với các học giả và quan chức Trung Quốc và các nước Đông Âu từ đầu những năm 1980, và cho các nhà hoạch định chính sách những lời khuyên bổ ích. Việt Nam đã bắt đầu công cuộc chuyển đổi hơn mười lăm năm nay. Từ giữa các năm 1990, ông đã vài lần đến Việt Nam; Chính phủ Việt Nam dường như đánh giá cao những lời khuyên của ông. Với các độc giả Việt Nam cuốn sách vẫn có nhiều ý nghĩa sâu sắc. Nó không chỉ mang đến cho chúng ta những suy ngẫm sâu xa liên quan đến nội dung các cuộc tranh luận lâu đời về các mô hình kinh tế, những vấn đề học thuật uyên thâm, mà còn mang tính thời sự nóng hổi cho công cuộc đổi mới đất nước. Trước hết nó, cũng như cuốn “Hệ thống Xã hội chủ nghĩa” của Kornai, giúp chúng ta hiểu rõ hơn lịch sử kinh tế của mình trong hơn nửa thế kỉ qua, hiểu rõ hơn những vấn đề hiện tại, và hi vọng góp phần quan trọng trong định ra các bước đi thích hợp trước mắt và lâu dài. Cuốn sách không chỉ bổ ích cho các học giả, các nhà hoạch định chính sách, mà cũng rất bổ ích cho các nhà doanh nghiệp, các nhà báo, sinh viên và những người quan tâm khác. Tuy bàn luận về những vấn đề lí thuyết sâu xa, song cuốn sách không dùng đến những kiến thức toán học cao siêu, nên có thể dễ đọc hơn với quảng đại bạn đọc. Tuy vậy, đây là cuốn sách chuyên khảo, cần phải có những hiểu biết nhất định mới có thể hiểu được. Có một vài thuật ngữ toán (kinh tế) có thể lạ tai đối với một số bạn đọc (thí dụ như tính lồi [convexity], tính không lồi [nonconvexity], tuyến tính [linearity], phi tuyến [nonlinearity], v.v) bạn đọc nên xem lại các khái niệm toán sơ cấp hay cao cấp liên quan. Có một vài thuật ngữ kinh tế, như rent [tiền thuê, tô] đôi khi được dịch nhất quán là “đặc lợi” cho phù hợp với rents seeking [tìm kiếm đặc lợi]; hoặc polyarchy [(đa?) thứ bậc] lại được dùng nhất quán là phi thứ bậc để đối lập với hiearchy [hệ thống thứ bậc], có thể gây khó chịu cho một số độc giả. Tất cả những điểm như vậy đều có đánh dấu sao (*) ở các chỗ thích hợp. Mọi chú thích đánh số đều là của tác giả, các chú thích đánh dấu sao (*) là của người dịch. Để tránh những khó khăn trên, và giúp việc nghiên cứu được thuận tiện phần chỉ mục [index] tỉ mỉ về các khái niệm, dẫn chiếu chúng tôi kèm cả thuật ngữ tiếng Anh để tiện dùng. Do hiểu biết có hạn của người dịch, bản dịch chắc còn nhiều sai sót, mong bạn đọc lượng thứ và chỉ bảo. Mọi góp ý xin gửi về Tạp chí Tin Học và Đời Sống 25/B17 Hoàng Ngọc Phách [Nam Thành Công] Hà Nội, thds@hn.vnn.vn, hoặc nqa@netnam.vn. Hà nội 11-2003 Nguyễn Quang A Lời nói đầu Quyển sách này mở rộng các bài giảng Wicksel mà tôi đã trình bày ở Trường Kinh tế học Stockhom tháng tư 1990. Khởi đầu tôi dự định trình bày một tổng quan về hiện trạng của kinh tế học thông tin, tiêu điểm của phần lớn nghiên cứu của tôi suốt hai thập kỉ qua. Nhưng những sự kiện ở Đông Âu - sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội với tốc độ hoàn toàn bất ngờ - đã đưa ra những vấn đề chính sách mới và khơi lại các vấn đề lí thuyết cũ: Chuyển đổi sang một nền kinh tế thị trường bị tác động ra sao? Những kinh nghiệm này có ý nghĩa gì với cuộc tranh luận kéo dài liên quan đến sự lựa chọn các hệ thống kinh tế khả dĩ? Những vấn đề này liên quan đến một vấn đề thứ ba: các mô hình kinh tế truyền thống có ý nghĩa gì với những vấn đề kinh tế căn bản như vậy? Kết luận mà tôi rút ra vượt quá sự phê phán rằng các mô hình chuẩn chẳng có mấy ý nghĩa đối với các vấn đề này. Với tôi dường như là, các mô hình chuẩn có lỗi một phần cho tình trạng tai hại mà nhiều nước Đông Âu đã lâm vào. Trong một đoạn thường được trích dẫn, Keynes viết: Các ý tưởng của các nhà kinh tế và của các triết gia chính trị, cả khi họ đúng lẫn khi họ sai, có quyền lực hơn là người ta thường vẫn tưởng. Thực vậy, thế giới được cai trị bởi mấy ai khác. Những người thực tiễn, tin rằng mình không bị bất kể ảnh hưởng trí tuệ nào, thường là nô lệ của nhà kinh tế học đã chết nào đó. Những kẻ mất trí có quyền lực, nghe những lời nói viển vông, đang chắt lọc sự điên cuồng của họ từ học giả bất tài nào đấy của mấy năm đã qua. Tôi chắc chắn rằng quyền lực của những giới có thế lực đã tăng quá mức so với xâm lấn dần dần của các ý tưởng. Có thể biện hộ mạnh mẽ cho định đề rằng các ý tưởng về kinh tế học đã dẫn gần một nửa dân số thế giới đến đau khổ không kể xiết. Kinh tế học tân cổ điển thường tự cho mình là đối lập với kinh tế học của Marx. Nhưng kinh tế học tân cổ điển, ít nhất ở dạng quen thuộc trong cộng đồng Anh-Mĩ, thực tế đã không cung cấp một lựa chọn khả dĩ có thể đứng vững. Nó cung cấp một mô hình về nền kinh tế dường như quá xa những lực lượng cơ bản tạo sự ủng hộ cho kinh tế học của Marx trong những giả thuyết, những mô tả, và những mối quan tâm của nó. Bằng cách lập luận rằng dường như chúng ta là tốt nhất trong mọi thế giới khả dĩ, chẳng khẳng định một cách thoả đáng gì đối với nhu cầu của những người thấy sự khốn khó kinh tế ở khắp nơi. Tồi hơn nữa, trong khi chỉ ra sức mạnh của các thị trường, nó dường như đã lập luận rằng chủ nghĩa xã hội có thể hoạt động được: Chủ nghĩa xã hội thị trường có thể sử dụng các thị trường, mà nền kinh tế vẫn không có những đặc điểm tồi nhất của chủ nghĩa tư bản. Kết luận này sai là điều dường như rõ ràng hiện nay. Nhưng vì sao nó sai lại đáng là bài học. Nó nói cho chúng ta cái gì đó về cả nền kinh tế lẫn các mô hình mà chúng ta đã dùng để nghiên cứu chủ nghĩa tư bản. Một mục tiêu chính của các bài giảng này là kể lại câu chuyện ấy. Sẽ không ngạc nhiên đối với những người đã theo dõi công trình của tôi, rằng tôi coi thiếu sót cốt lõi trong mô hình tân cổ điển là ở các giả thiết của nó liên quan đến thông tin. Trong các công trình trước đây của tôi về kinh tế học thông tin, tôi đã chỉ ra rằng những sự xáo động nhẹ trong các giả thiết chuẩn về thông tin làm thay đổi mạnh mẽ tất cả các kết quả chủ yếu của lí thuyết chuẩn tân cổ điển: Lí thuyết hoàn toàn không vững chút nào. Tôi hi vọng rằng các bài giảng này vượt quá việc chê bai, nay đã thành quen thuộc, đối với mô hình chuẩn, để chỉ ra xem hệ thuyết (paradigm) lí thuyết thông tin mới có thể mang lại những cái nhìn mới thế nào trong các vấn đề lí thuyết về nền kinh tế vận hành ra sao - thí dụ, vai trò của cạnh tranh và phân quyền [phi tập trung hoá] - và trong việc đưa ra các chính sách cho các vấn đề thực tiễn mà các nền kinh tế chuyển đổi phải đối mặt. Tuy vậy tôi phải nhấn mạnh rằng, trong khi các giả thiết về thông tin làm cơ sở cho lí thuyết chuẩn có lẽ chính là điểm yếu cốt tử, là gót Achilles, của lí thuyết, nó chẳng vượt quá điểm đó: Các giả thiết liên quan đến tính đầy đủ, đến tính cạnh tranh của các thị trường, và sự thiếu vắng của đổi mới sáng tạo [trong lí thuyết chuẩn] là ba [thiếu sót] mà tôi nhấn mạnh. Xây dựng một hệ thuyết mới là một quá trình chậm. Cái mà tôi gọi là lí thuyết chuẩn đã được trau chuốt liên tục qua các năm. Lí thuyết bây giờ có thể được phát biểu với tính tổng quát toán học cao. Nhưng tính tổng quát cao hơn đó không giúp gì cho tính thoả đáng của lí thuyết. Vấn đề liệu lí thuyết cơ sở có bất kể ý nghĩa nào đối với nền kinh tế của chúng ta chẳng hề dựa vào tính khả vi [1] của các hàm số liên quan. Quá nhiều nguồn lực của giới chúng ta được dành cho việc trau chuốt một mô hình có quá ít ý nghĩa với nền kinh tế, ngụ ý rằng có một sự phi hiệu quả trên thị trường về các ý tưởng, cái ít nhất cũng lớn như sự phi hiệu quả ở các thị trường vốn và lao động. Các mô hình toán học hình thức nắm bắt một số khía cạnh của các ý tưởng được trình bày ở các trang tiếp theo - thí dụ, vai trò của cạnh tranh trong cung cấp thông tin, vai trò của phân quyền trong các tổ chức nơi mỗi cá nhân có thông tin hạn chế, hoặc vai trò của chính phủ can thiệp vào các nền kinh tế với các thị trường không hoàn hảo và thông tin không hoàn hảo - đã được phát triển. Nhưng ở đây tôi không có ý định điểm lại hoặc mở rộng các mô hình đó: Các độc giả quan tâm có thể xem các tài liệu tham khảo. Thay vào đó, theo tôi nhiệm vụ của một loạt bài giảng như loạt bài giảng này là đưa nhóm các ý tưởng vào đúng viễn cảnh của nó. Nếu tôi thành công trong việc tạo ra những nghi ngờ về hệ thuyết đang thịnh hành, nếu tôi thuyết phục được độc giả rằng có một hệ thuyết lựa chọn khả dĩ đáng theo đuổi, và nếu, vì lí do đó, mà có một sự tái phân bổ nhỏ nhoi các nguồn lực trí tuệ của giới chúng ta, thì tôi đã đạt mục tiêu của mình. Nếu các bài giảng tỏ ra có ích cho những người ở trong quá trình chuyển đổi, nếu không phải trong việc đưa ra các câu trả lời, thì ít nhất trong việc giúp tạo ra khuôn khổ cho thảo luận, thì tôi càng hài lòng hơn. Tôi mang ơn sâu nặng đối với các sinh viên, các đồng nghiệp, và đặc biệt với các đồng tác giả của tôi, những người mà tôi đã cùng thảo luận nhiều ý tưởng trong cuốn sách này suốt hai thập kỉ qua. Những ảnh hưởng của Richard Arnott, Avi Braverman, Partha Dasgupta, Bruce Greenwald, Michael Rothschild, Barry Nalebuff, Steve Salop, David Sappington, Carl Shapiro, và Andrew Weiss là đặc biệt rõ rệt. Joshua Gans và Michael Smart đã trợ giúp nghiên cứu. Những bình luận sâu sắc của họ đã cải thiện bản thảo cuối cùng rất nhiều. Jean Koentop và Linda Handelman đã thực hiện công việc thư kí thường lệ tuyệt vời của họ, biên tập bản thảo khi đánh máy. Tôi cũng được lợi từ nhiều bình luận của các đồng nghiệp đã tham dự các bài giảng ở Stockholm và các seminar ở Budapest, Praha, và Roma ở những nơi các phiên bản của nhiều chương đã được trình bày. Sự quan tâm của tôi đến các vấn đề của chủ nghĩa xã hội bắt đầu từ những ngày còn là sinh viên sau đại học, khi tôi đến Trường Thống kê Trung ương ở Warsaw để nói chuyện với Lange, Kalecki và các môn đồ của họ. Tôi thu được nhiều hiểu biết sâu sắc về lí thuyết và thực tiễn của chủ nghĩa xã hội, và rất cảm kích trước lòng mến khách hào hiệp của họ. Sự quan tâm của tôi về các vấn đề chuyển đổi đầu tiên được gợi lên năm 1981, tại một cuộc gặp mặt được tài trợ bởi Viện hàn lâm Khoa học Quốc gia [National Academy of Science] và Viện hàn lâm Khoa học Xã hội Trung Quốc [Chinese Academy of Social Science] ở Wingspreads, Wisconsin (ở đó tôi trình bày một phiên bản ban đầu của một trong các chương của cuốn sách này), và một cuộc viếng thăm đáp lại ở Bắc Kinh vào mùa hè tiếp theo. Từ khi đó, tôi đã có may mắn tiến hành nhiều cuộc viếng thăm tới Hungary, Tiệp Khắc, Rumani, và Trung Quốc, nhưng tôi không thể cho rằng mình là một chuyên gia, trên cơ sở những cái nhìn thoáng qua này, về hàng loạt các vấn đề mà các nước này đối mặt. Tôi hi vọng, và tin, rằng những thấu hiểu lí thuyết có thể có giá trị nào đấy. Tôi cảm ơn sự trợ giúp của nhiều tổ chức đã hỗ trợ tài chính và tạo thuận lợi cho việc nghiên cứu nằm đằng sau các bài giảng này: Quĩ tài trợ Khoa học Quốc gia [National Science Foundation], Quĩ tài trợ Sloan [Sloan Foundation], Viện Hoover ở Đại học Stanford, Chính phủ Rumani, Viện Cải cách Chính sách [Institute for Policy Reform], Bộ Tài chính Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa, và Ngân hàng Thế giới. Quan trọng nhất, tôi muốn cảm ơn sự hỗ trợ của Đại học Stanford, đã tạo ra một bầu không khí trong đó việc thảo luận tích cực về các ý tưởng căn bản nhất đã được tiến hành một cách cởi mở và sôi nổi, trường đã cho tôi các đồng nghiệp và các sinh viên mà hàng ngày tôi học được rất nhiều từ họ. 1. Lí thuyết về chủ nghĩa xã hội và quyền lực của các tư tưởng kinh tế Trong thế kỉ này chúng ta đã đến chỗ học được về quyền lực của các ý tưởng kinh tế. Những quan điểm đối địch về xã hội phải được tổ chức ra sao đã được tranh cãi không chỉ trong các phòng tranh luận của các viện hàn lâm mà cả ở các chiến trường ở Triều Tiên, Việt Nam, Afghanistan, và Trung Mĩ. Chắc chắn, trong mỗi trường hợp, vấn đề không đơn thuần chỉ là các ý tưởng kinh tế. Các du kích quân ở Việt Nam hoặc Honduras chẳng quan tâm đến các cuộc tranh luận về lí thuyết lao động, về giá trị hoặc các giáo lí khác của kinh tế học của Marx, ngay cả nếu họ hiểu rõ chúng. Mặc dù vậy những niềm tin vào một hệ thống kinh tế khả dĩ có thể lựa chọn, hệ thống hứa hẹn một cuộc sống tốt đẹp hơn trong thế giới này, có ảnh hưởng đến hành động của họ chẳng kém những niềm tin vào các hệ thống tôn giáo khả dĩ khác - hứa hẹn sự cứu rỗi vĩnh hằng trong hậu thế - ảnh hưởng tới những người đã chiến đấu dữ tợn đến vậy trong các cuộc chiến tranh tôn giáo do hậu quả của phong trào Cải cách [thế kỉ 16]. Những niềm tin đã bị một cú đấm mạnh bởi các sự kiện ở Đông Âu trong vài năm qua, đặc biệt với sự sụp đổ của của Chính phủ Xô-viết trong năm qua. Nhưng nếu chúng ta đi tìm thời điểm mà chủ nghĩa xã hội không còn được coi là một lựa chọn khả dĩ so với chủ nghĩa tư bản, thì chúng ta phải tìm trước sự giải phóng của các nước Đông Âu năm 1989. Bên cạnh đó, sự từ chối chủ nghĩa xã hội của họ là một sự khẳng định chính trị, từ chối một hệ thống kinh tế được kẻ chiếm đóng áp đặt lên họ, cũng như là một sự tuyên bố về những tính ưu việt của hệ tư tưởng đó. Tôi nghĩ, chúng ta phải ngó lại các cuộc tư nhân hoá ở Pháp bắt đầu vào đầu các năm 1980, được tiến hành bởi một chính phủ công khai thừa nhận là chính phủ xã hội (chủ nghĩa), đảo ngược lại hình mẫu quốc hữu hoá mà chính phủ đó đã tiến hành mới ít năm trước. Đã có những ám chỉ xa xôi rằng lòng tin vào hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa có thể đã tan thành mây khói trong những năm trước đó: Thủ tướng Hy Lạp Andreas Papandreou, một nhà xã hội chủ nghĩa công khai khác, đã coi "xã hội hoá các doanh nghiệp quốc doanh" là một trong những mục tiêu của chính phủ của ông, công nhận công khai rằng quan điểm cũ, rằng quốc hữu hoá một doanh nghiệp sẽ đảm bảo cho mục tiêu của doanh nghiệp ấy trùng hợp với "lợi ích quốc gia", bất luận nó được xác định ra sao, đã chẳng có cơ sở trong thực tế, ít nhất trong bối cảnh Hy Lạp. Sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội, với tư cách là một hệ tư tưởng kinh tế, là đáng chú ý ở nhiều mặt cũng như sự sụp đổ đồng thời của khối Xô-viết, biểu trưng cho tột đỉnh của một cuộc thí nghiệm kinh tế kéo dài nửa thế kỉ. Đó là một cuộc thí nghiệm được tiến hành với suy tính đáng kể, dựa trên cơ sở của một hệ tư tưởng tồn tại hơn một thế kỉ. Hệ tư tưởng đã đương đầu với sự xem xét kĩ lưỡng của thời gian. Những hứa hẹn và kết luận của nó đã được tranh luận rộng rãi, và trong hàng ngũ những người ủng hộ nó bao gồm một số người có trí tuệ nhất suốt thời kì hơn một trăm năm. Ngay cả ngày nay những tư tưởng và lí tưởng Marxist tạo cơ sở cho hệ tư tưởng kinh tế vẫn còn sống động, không chỉ trong thế giới thứ ba mà cả ở các chuyên ngành khác. Một miêu tả đầy đủ và nhất quán về sự nổi lên, sự bền bỉ và sự sụp đổ một phần của tập các niềm tin này là rất hấp dẫn nhưng sẽ dẫn tôi đi quá phạm vi của các bài giảng này. Nhưng một luận đề mà tôi hi vọng trình bày là, gián tiếp hay không chủ ý, các mô hình kinh tế tân cổ điển đã đóng một vai trò trung tâm trong truyền bá và duy trì niềm tin vào chủ nghĩa xã hội thị trường - một trong những biến thể chủ yếu của mô hình xã hội chủ nghĩa- như một lựa chọn khả dĩ thay cho chủ nghĩa tư bản. Tôi lập luận trong các bài giảng này rằng, nếu giả như mô hình tân cổ điển (hoặc những tiền thân của nó) đã cung cấp một mô tả đúng của nền kinh tế, thì thật sự chủ nghĩa xã hội thị trường đã có cơ hội thành công. Như vậy sự thất bại của chủ nghĩa xã hội thị trường đưa ra một sự bác bỏ mô hình tân cổ điển chuẩn hệt như nó bác bỏ lí tưởng xã hội chủ nghĩa thị trường. Trong các bài giảng này tôi cố gắng giải thích chính xác hơn cái gì là sai với mô hình đó và cung cấp những nội dung cơ bản của một hệ thuyết khả dĩ khác (alternative paradigm). Theo hầu hết đánh giá, kết quả của thí nghiệm chủ nghĩa xã hội là không mập mờ: Cuộc thí nghiệm là một thất bại. Giống như hầu hết các thí nghiệm xã hội nó không phải là một thí nghiệm được kiểm soát, như thế có sự tranh cãi về chính xác phải dẫn chiếu đến cái gì - các tư tưởng cơ bản (nếu không phải là các lí tưởng) của chủ nghĩa xã hội sai ở mức độ nào và ở mức độ nào thất bại được cho là do cách thực hiện các tư tưởng ấy gây ra, ở mức độ nào có thể viện dẫn như do "các tính chất thiết kế đặc thù"? [2] Đôi khi lỗi cũng được đổ cho hệ thống chính trị hà khắc đi kèm với thí nghiệm xã hội chủ nghĩa: Chủ nghĩa xã hội thị trường dân chủ thực ra đã chẳng bao giờ được thử nghiệm. Nhưng một biện hộ cũng có thể được đưa ra rằng thí nghiệm xã hội đã thành công hơn so với trường hợp không có áp bức Cộng sản: bởi vì, ở mức độ nhất định, hệ thống chính trị áp bức đã cung cấp một cái thay thế - cái gậy- cho sự thiếu vắng của củ cà rốt của những khuyến khích kinh tế. Có vấn đề tương tự liệu có mối liên hệ nhân quả giữa hệ thống chính trị áp bức và hệ thống kinh tế xã hội chủ nghĩa. Nếu không phải là hệ quả không thể tránh khỏi của việc cho nhà nước độc quyền trong sở hữu tư liệu sản xuất, thì vẫn có thể có "xu hướng" tập trung quyền lực vào một lĩnh vực dẫn đến sự tập trung quyền lực ở lĩnh vực khác. Trong khi các học giả có thể suy xét về các chủ đề này, hầu hết các nước liên quan dường như đã quyết tâm chuyển sang nền kinh tế thị trường. Họ thấy sự thịnh vượng của các nước Tây Âu, Bắc Mĩ, và Đông Á, và họ hi vọng bằng cách cố vươn tới nền kinh tế đó, họ cũng sẽ đạt được sự thịnh vượng tương tự. Họ đối mặt với vấn đề chuyển đổi khó khăn - đi thế nào từ vị trí hôm nay sang vị thế họ muốn trở thành. Trong khi có sự tin chắc rằng họ muốn thành quả của một nền kinh tế thị trường, có thể không có sự tin chắc như thế rằng họ muốn cả giá phải trả - sự nghèo khổ cùng cực đặc trưng cho hầu hết các nền kinh tế thị trường nghèo hơn, trong số đó các nước này chắc chắn phải được tính đến [3] - hoặc là họ sẵn lòng chịu chi phí của chuyển đổi. Cuối cùng, các nền kinh tế thị trường có tính đa dạng về màu sắc và sắc thái. Các nền kinh tế xã hội chủ nghĩa đối mặt với một tập các vấn đề khó khăn trong quyết định loại hình thức nào họ muốn lấy. Thực vậy không phải tất cả các nước nguyên xã hội chủ nghĩa cam kết đầy đủ cho nền kinh tế thị trường. Một số thảo luận về một con đường thứ ba, nhưng những người phê phán bác bỏ nó là không thể - như chủ đề thường được diễn tả, bạn không thể có thai một chút được. Đối với các nhà lí thuyết kinh tế các vấn đề đối mặt với các nền kinh tế xã hội chủ nghĩa là những thách thức. Ở đây chúng ta có một nhóm các nước lao vào lựa chọn hệ thống kinh tế. Hẳn là lí thuyết kinh tế phải cung cấp sự chỉ đạo đáng kể. Đáng tiếc - ít nhất cho đến gần đây - khoa học kinh tế chẳng có thể nói mấy về những chủ đề căn bản này, và thậm chí càng ít hơn về các vấn đề quan trọng của chuyển đổi. Lời khuyên điển hình của nhà tư vấn tới thăm và tiến hành chuyến đi một cách vội vã cho một nền kinh tế đi theo con đường chuyển đổi là nhấn mạnh tầm quan trọng của các thị trường, một bài học dường như bây giờ đã được học kĩ (mặc dù những người ủng hộ thị trường sẽ nói rằng đó là bài học không thể nhắc lại quá nhiều lần và, đơn giản như nó có vẻ, mà nội dung của nó dường như khó hấp thu - ngay cả ở các nền kinh tế quen với thị trường đã lâu). Thực vậy dường như có sự lôi cuốn tức thì giữa các nhà lí luận cũ của cánh tả và của cánh hữu. Cả hai đều bị lôi cuốn bởi sự hăng say sùng đạo, chứ không phải bởi phân tích duy lí. Do nhiều nhà lí luận đã từ chối hệ tư tưởng của Marx, họ chấp nhận hệ tư tưởng thị trường tự do. Có một chuyện đùa rằng Milton Friedman là nhà kinh tế học được kính trọng rộng rãi nhất ở Liên Xô - mặc dù sách và các bài viết của ông thì còn phải đọc. Ông là một biểu tượng của một hệ tư tưởng, và đó là một hệ thống niềm tin khả dĩ khác mà họ tìm kiếm. Tất nhiên có nhiều loại thuộc về bằng chứng giai thoại - sự thực là các nền kinh tế thị trường đã hoạt động tốt liên tục được thuật lại. Chứng cứ giai thoại – cho dù chắc chắn tốt hơn không có chứng cớ gì- chỉ là cọng rơm yếu ớt để đặt cơ sở cho sự lựa chọn một hệ thống kinh tế. Chứng cứ giai thoại của mười lăm năm trước đã đưa nhiều người viết sách giáo khoa (kể cả Paul Samuelson) gợi ý rằng có thể có sự đánh đổi nào đó giữa quyền tự do và tăng trưởng - rằng các nền kinh tế xã hội chủ nghĩa thực ra đã tăng trưởng nhanh hơn các nền kinh tế thị trường. Những thảo luận được ưa chuộng của thời đại đã gợi ý rằng dân chủ và quyền tự do có thể là những thứ xa xỉ mà chỉ nước giàu mới có thể đủ sức: Những nước đã cam kết cho tăng trưởng nhanh có lẽ phải chọn con đường xã hội chủ nghĩa, ngay cả nếu dường như có mối tương quan (tất yếu hoặc không) giữa con đường đó và sự mất quyền tự do. Ngay cả các nước không chấp nhận hoàn toàn mô hình Xô-viết hà khắc đã được thuyết phục rằng một số đặc tính của nó - kế hoạch hoá tập trung, công nghiệp hoá mạnh mẽ, sở hữu công cộng đối với các tư liệu sản xuất cơ bản, tỉ lệ tiết kiệm bắt buộc cao – đã là những thành tố quan trọng của bất kể chương trình phát triển thành công nào. Ngày nay – nhìn từ phối cảnh lịch sử hiếm có của vài năm muộn hơn - tất cả những xét đoán kinh nghiệm đó đều bị nghi ngờ. (Tất nhiên có nhiều nhà kinh tế học chẳng bao giờ nao núng trong niềm tin của họ với thị trường, bây giờ những người ấy nói “tôi đã bảo mà”. Nhưng một số trong số họ cũng giống như các nhà phân tích chứng khoán luôn tiên đoán các thị trường giá xuống hoặc thị trường giá lên. Ngày vàng son của họ cuối cùng đã đến, nhưng điều này không thể được cho là hoặc do sự nhạy bén của họ hoặc do tính nghiêm túc của phân tích của họ). Hơn nữa, chứng cứ giai thoại còn xa mới rõ ràng liên quan đến tiến trình hành động nào các nước này phải tiến hành: Một lí giải thường dùng cho sự thần kì Á Châu - sự tăng trưởng nhanh của Nhật bản, Hàn Quốc, Singapore, và Đài Loan- là chính phủ đã đóng một vai trò thiết yếu trong “chi phối thị trường”. [4] Khi tôi hỏi, “Liệu khoa học kinh tế có đóng góp nhiều cho những thảo luận này?” tôi muốn nhiều hơn việc thuật lại chứng cứ giai thoại và sự lặp đi lặp lại niềm tin của các nhà kinh tế học vào thị trường: Liệu có “các định lí” nào chỉ cho chúng ta rằng các nền kinh tế thị trường sẽ nhất thiết làm tốt hơn các nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, hoặc liệu tư nhân hoá sẽ cải thiện tính hiệu quả của các doanh nghiệp quốc doanh? Liệu có các kết quả giải tích nào cho chúng ta biết chút gì đó về sự cân đối và vai trò của chính phủ và khu vực tư nhân – vì hầu hết các trường hợp thành công liên quan đến các nền kinh tế hỗn hợp với các chính phủ lớn. Chuyển đổi sang một nền kinh tế thị trường không đòi hỏi làm héo tàn nhà nước mà là sự tái xác định vai trò của nó. Khoa học kinh tế phải cung cấp sự chỉ dẫn nào cho các chủ đề này? Trong suốt nửa thế kỉ qua một hệ thuyết đơn giản đã chi phối nghành kinh tế học - được nhắc đến một cách khác nhau như hệ thuyết cạnh tranh (competitive paradigm), hoặc tân cổ điển, hoặc mô hình Walras. Phát biểu chính xác nhất của hệ thuyết ấy được cung cấp bởi mô hình của Arrow và Debreu (1954; xem cả Arrow 1951b; Debreu 1959). Nó đưa ra định đề về số đông các xí nghiệp tối đa hoá lợi nhuận với các khách hàng duy lí, tối đa hoá thoả dụng trong một nền kinh tế trong đó có một tập đủ của các thị trường cạnh tranh hoàn hảo – cho mọi hàng hoá, trong mọi giai đoạn, trong mọi trạng thái tự nhiên (cho mọi rủi ro), ở mọi địa điểm. Hầu hết những người, cho rằng mô hình có nhiều điều nói về thế giới thực, đều tin rằng những kết luận của nó là vững chãi đối với việc giảm các giả thiết chính xác được Arrow và Debreu sử dụng (thí dụ, liên quan đến tính đầy đủ của các thị trường). Tôi muốn lập luận trong các bài giảng này rằng hệ thuyết cạnh tranh không những không cung cấp mấy chỉ dẫn cho vấn đề cốt tử về lựa chọn các hệ thống kinh tế, mà “lời khuyên” nó cung cấp thường là sai lạc. Các quan niệm về thị trường tạo cơ sở cho phân tích đã mô tả sai đặc điểm của nó; những phân tích chuẩn đánh giá thấp những điểm mạnh – và điểm yếu - của các nền kinh tế thị trường, và như thế cung cấp các tín hiệu sai cho sự thành công tiềm năng của các khả năng lựa chọn khác và cho việc thị trường có thể được cải thiện. Cũng như thế, không thể dựa vào hệ thuyết đó để đưa ra những chỉ dẫn cho các nền kinh tế nguyên xã hội chủ nghĩa khi họ tìm cách xây dựng các hệ thống kinh tế mới. Vấn đề cơ bản với mô hình tân cổ điển và mô hình tương ứng tạo cơ sở cho chủ nghĩa xã hội thị trường [5] là chúng không tính đến một loạt vấn đề nảy sinh do sự thiếu vắng thông tin hoàn hảo và chi phí để kiếm thông tin, cũng như sự thiếu vắng hoặc sự bất hoàn hảo trong những thị trường vốn và thị trường rủi ro [bảo hiểm] chủ yếu. Sự thiếu vắng hoặc bất hoàn hảo của các thị trường này, đến lượt chúng, đa phần lại có thể lí giải bởi các vấn đề thông tin. Trong mười lăm năm qua, một hệ thuyết mới, đôi khi được nhắc tới như cách tiếp cận lí thuyết thông tin đối với kinh tế học (hoặc, nói gọn, hệ thuyết thông tin), [6] đã được phát triển. Hệ thuyết này công khai quan tâm đến những vấn đề này. [7] Hệ thuyết này đã cho chúng ta cái nhìn thấu hiểu vào kinh tế học phát triển [8] và kinh tế học vĩ mô. [9] Nó cấp cho chúng ta một tân kinh tế học phúc lợi mới, [10] một lí thuyết mới về doanh nghiệp, [11] và một sự hiểu biết mới về vai trò và sự hoạt động của các thị trường vốn. Nó cho chúng ta sự thấu hiểu mới liên quan đến các vấn đề truyền thống, như thiết kế các cơ cấu khuyến khích. Những mối quan tâm lí thuyết thông tin này đã không chỉ làm giàu và thay đổi các câu trả lời cho các vấn đề kinh tế truyền thống; chúng cũng dẫn đến các vấn đề mới phải đặt ra. Đối với ba vấn đề cổ điển của kinh tế học - phải sản xuất cái gì, phải sản xuất ra sao, và phải sản xuất cho ai – bây giờ chúng ta đưa thêm vấn đề thứ tư – các quyết định này phải được tiến hành ra sao và ai phải ra các quyết định đó. Trong nền kinh tế của Joan Robinson (hoặc Arrow và Debreu), các nhà ra quyết định, và cơ cấu của việc ra quyết định, không đóng vai trò nào. Joan Robinson mô tả công việc của nhà quản lí của một doanh nghiệp chỉ đơn thuần là ngó vào cuốn sách kế hoạch ở trang thích hợp tương ứng với giá cả các yếu tố sản xuất hiện thời (và tương lai). Trang đó sẽ cho biết công nghệ nào tối thiểu hoá chi phí với các giá cả yếu tố ấy. Cuộc sống thật đơn giản! Tất nhiên, nếu giả như cuộc sống đơn giản thế, làm một nhà quản lí sẽ thực sự là một việc nhàm chán, đáng để nhà hàn lâm Anh khinh, và việc thiếu quan tâm của Lange, Lerner, và Taylor đến những khuyến khích quản lí sẽ chẳng mấy quan trọng: về cơ bản họ [nhà quản lí] có thể được thay bằng các automat [máy tự động]. Tóm lại, trong cuốn sách này tôi muốn chỉ ra những triển vọng của hệ thuyết thông tin mới này có thể cung cấp ít nhất một sự thấu hiểu hạn chế ra sao vào các vấn đề căn bản đối mặt các nền kinh tế nguyên xã hội chủ nghĩa. Ngoài ra tôi muốn đề cập một số vấn đề cơ bản, lâu dài trong lí thuyết về tổ chức kinh tế: tôi muốn chứng tỏ rằng phần lớn của cuộc tranh luận cũ đã qua về sự đáng khát khao của chủ nghĩa xã hội thị trường đã lầm lạc; nó đã dựa trên sự hiểu biết sai lầm về các thị trường cạnh tranh hoạt động ra sao, một sự hiểu lầm mà mô hình Walras có thể đã góp phần không nhỏ. (Những người Áo, tôi tin, đã cảm nhận điều này, và họ đã cố gắng tạo ra một viễn cảnh khả dĩ khác về nền kinh tế thị trường. Nhưng họ đã chẳng thành công trong diễn tả và hình thức hoá các quan điểm của họ ở dạng hoàn toàn thoả mãn với tư cách là một hệ thuyết nhất quán thay cho hệ thuyết Walras, và như thế, ngoài một số dẫn chiếu chú thích đôi khi, họ vẫn ở ngoài trào lưu chính, ít nhất ngoài trào lưu Mĩ/Tây Âu. Tôi sẽ có nhiều điều để nói về quan hệ giữa các ý tưởng trình bày ở đây và truyền thống Áo muộn hơn trong cuốn sách này. [12] ) Sau khi giải thích những hạn chế của các lí thuyết và tranh luận ban đầu, tôi sẽ cố gắng diễn đạt cái tôi xem là các vấn đề cơ bản, những sự thấu hiểu có thể lượm lặt được từ cái mà chúng ta đã học trong mười lăm năm qua, và các vấn đề vẫn còn phải giải quyết. Tôi sẽ kết thúc cuốn sách với một số nhận xét gắng thử áp dụng các bài học đã học được vào các vấn đề chuyển đổi đang đối mặt các nước Đông Âu. [13] Những kết quả truyền thống về các hệ thống kinh tế so sánh Khoảng chừng mười hoặc mười lăm năm trước khoa kọc kinh tế đã có ba nhóm kết quả để hướng dẫn những ai muốn lựa chọn các hệ thống kinh tế khả dĩ. Các định lí cơ bản của kinh tế học phúc lợi và bàn tay vô hình của Adam Smith Đầu tiên, đã có các định lí cơ bản của kinh tế học phúc lợi (Arrow 1951b; Debreu 1959), phát biểu lí lẽ nổi tiếng của Adam Smith về bàn tay vô hình. Smith lập luận rằng không chỉ các cá nhân được dẫn dắt bởi bàn tay vô hình thông qua chạy theo tư lợi để theo đuổi lợi ích quốc gia, mà chính sự chạy theo tư lợi này là cách cách tin cậy hơn nhiều để đảm bảo rằng lợi ích công cộng được phục vụ so với bất kể lựa chọn khả dĩ nào khác - chắc chắn tốt hơn việc dựa vào nhà lãnh đạo chính phủ nào đấy, dẫu cho nhà lãnh đạo ấy có ý định tốt đến đâu. Lí lẽ của Smith tạo ra nền tảng để dựa vào các nền kinh tế thị trường. Các định lí cơ bản của kinh tế học phúc lợi chính xác hoá ý nghĩa và các điều kiện theo đó các thị trường có hiệu quả. Định lí thường được nhắc tới như định lí cơ bản thứ nhất của kinh tế học phúc lợi chỉ ra rằng dưới những điều kiện nhất định mọi cân bằng cạnh tranh là có hiệu quả Pareto - tức là, một trạng thái tới hạn trong đó không ai có thể khá giả hơn mà không làm cho ai đó bị tệ hơn. Cái thường được nhắc tới như định lí thứ hai của kinh tế học phúc lợi đưa ra các điều kiện theo đó bất kể phân bổ nguồn lực có hiệu quả Pareto nào đều có thể được thực hiện thông qua các cơ chế thị trường. Các định lí cơ bản của kinh tế học phúc lợi tạo nền tảng của cách tiếp cận “khuyết tật thị trường” cho can thiệp của chính phủ. [14] Các thị trường không hoạt động hoàn hảo khi có những ảnh hưởng ngoại lai quan trọng, và vì thế có lí do căn bản cho các loại thuế ô nhiễm. Các thị trường không cung cấp các hàng hoá công cộng, và vì thế có lí do căn bản cho chi tiêu công cộng về đường sá, quốc phòng, và các công việc công cộng khác. Phân bổ thị trường của thu nhập có thể là không được như mong muốn về mặt xã hội, và vì thế có lí do căn bản cho các chương trình tái phân phối của chính phủ. Cách tiếp cận khuyết tật thị trường lập luận rằng thực sự có một vai trò cho chính phủ, nhưng chỉ là vai trò hạn chế: Chính phủ đơn giản chỉ cần sửa các khuyết tật thị trường được xác định rõ, việc nó có thể làm với các công cụ đơn giản có ảnh hưởng tối thiểu đến phương thức hoạt động của nền kinh tế thị trường. Thí dụ, các vấn đề về ảnh hưởng ngoại lai có thể được đề cập thông qua các khoản thuế hiệu chỉnh (thuế Pigouvian). Ngay cả khi chính phủ không chắc chắn về thuế suất nào sẽ đạt các mục tiêu kiểm soát ô nhiễm riêng biệt, cơ chế thị trường có thể được sử dụng: Chính phủ có thể cấp các giấy phép ô nhiễm có thể mua bán được. [15] Chắc chắn là, chính phủ có những trách nhiệm hạn chế khác nữa: nó phải cung cấp các hàng hoá công cộng và phải thu thuế để tài trợ chúng. Nó cũng có thể phải có những hành động để đảm bảo rằng các thị trường là thực sự cạnh tranh. Định lí cơ bản thứ hai của kinh tế học phúc lợi phác hoạ tiếp vai trò hạn chế của chính phủ: Ngay cả nếu tái phân phối thu nhập là không thoả mãn, chỉ cần đến can thiệp hạn chế của chính phủ. “Tất cả” cái mà chính phủ phải làm chỉ là tái phân phối các khoản trợ cấp theo phương thức trọn gói (không méo mó). Đằng sau cả hai định lí là quan niệm rằng hệ thống giá cả cung cấp một công cụ hùng hậu cho phân bổ nguồn lực. Những trình bày giáo khoa về năng lực của hệ thống giá thường đi quá các ý tưởng được phản ánh trong các định lí cơ bản của kinh tế học phúc lợi, để nói về “tính hiệu quả thông tin’ của nền kinh tế thị trường và hệ thống giá. Chẳng ai cần biết đầy đủ về sở thích của các cá nhân, các công nghệ sản xuất, và sự sẵn có của các nguồn lực. Chẳng ai thậm chí cần biết đến việc làm ra một mặt hàng đơn giản như chiếc bút chì thế nào. Giá cả truyền đạt thông tin về sự khan hiếm của các nguồn lực. Chúng truyền đạt thông tin từ các hộ gia đình đến các xí nghiệp liên quan đến người tiêu dùng muốn gì, và từ các xí nghiệp đến các gia đình về các chi phí nguồn lực liên quan đến tiêu thụ mỗi mặt hàng. Hệ thống giá đảm bảo rằng nền kinh tế sản xuất các mặt hàng mà các cá nhân mong muốn. Trong khi những người ủng hộ kinh tế thị trường thường thi vị hoá vẻ đẹp và quyền năng của nó, các định lí làm nền cho sự khoa trương thực ra chẳng nói mấy về “thông tin”. Các định lí, thí dụ, không thảo luận nền kinh tế xử lí thông tin mới tốt ra sao - thực ra trong các mô hình của chúng, không có dòng thông tin mới – cũng chẳng nói liệu nó có hiệu quả trong phân bổ nguồn lực để thu lượm thông tin thoả đáng cho việc phân bổ nguồn lực. Nó thậm chí không thừa nhận sự xung đột giữa tính hiệu quả, theo đó nền kinh tế truyền đạt thông tin và tri thức, và những khuyến khích hiện có cho thu thập thông tin và tri thức: Nếu, thí dụ, các giá thị trường cổ phiếu chuyển tải thông tin một cách hoàn hảo và tức thời, thì chẳng nhà đầu tư nào cần bất kể khuyến khích nào để kiếm thông tin. Các thị trường cổ phiếu phải được đặc trưng bởi thông tin không hoàn hảo, chừng nào thông tin là đắt đỏ. Có, như Grossman và Stiglitz (1976, 1980a) diễn đạt, “một lượng cân bằng của bất cân bằng”. Nhưng các định lí căn bản của kinh tế học phúc lợi tuyệt đối chẳng có gì để nói về lượng cân bằng của bất cân bằng là hiệu quả theo bất kể ý nghĩa nào. Thí dụ, liệu các chi phí cho thu thập và phân phát thông tin là quá ít, quá nhiều hay vừa đủ? Theo cách tương tự, đối với các nhà sáng chế hay đổi mới để nhận được khoản lợi trên các hoạt động sáng chế của họ, không thể có sự truyền bá tự do tri thức công nghệ. Như thảo luận dưới đây của tôi sẽ nhấn mạnh, các vấn đề thông tin mà nền kinh tế thị trường cạnh tranh giải quyết có hiệu quả là cực kì hạn chế. Định lí Lange-Lerner-Taylor Nhóm kết quả thứ hai đôi khi được nhắc tới như định lí Lange-Lerner-Taylor. Nó liên quan đến việc thiết lập sự tương đương giữa hai lựa chọn khả dĩ về sắp xếp định chế cho nền kinh tế; nó khẳng định sự tương đương giữa các nền kinh tế thị trường và “chủ nghĩa xã hội thị trường”. Chủ nghĩa xã hội thị trường là một dạng tổ chức kinh tế trong đó chính phủ sở hữu các tư liệu sản xuất (như dưới bất kể hệ thống xã hội chủ nghĩa nào) nhưng dùng giá cả theo cách như các nền kinh tế thị trường dùng để phân bổ nguồn lực. Dưới chủ nghĩa xã hội thị trường các nhà quản lí được chỉ thị để tối đa hoá lợi nhuận, như các nhà quản lí tối đa hoá lợi nhuận ở chủ nghĩa tư bản. Giá cả được định sao cho cầu bằng với cung. Những khác biệt chủ yếu giữa các nền kinh tế thị trường và chủ nghĩa xã hội thị trường là các cơ chế theo đó giá cả được định ra và chủ sở hữu vốn. Để định giá dưới chủ nghĩa xã hội thị trường, một cơ quan chính phủ lập kế hoạch thay thế việc đi đi lại lại ra thương trường hoặc thay nhà đấu giá kiểu Walras huyền thoại. [16] Sự thực là vốn được chính phủ sở hữu có nghĩa rằng thay vì các cổ đông nhận cổ tức (biểu hiện lợi nhuận của xí nghiệp), thì cổ tức được chuyển cho chính phủ. Một hệ quả của việc chính phủ sở hữu vốn là chính phủ phải gánh vác trách nhiệm phân bổ vốn. Trong hầu hết những thể hiện của chủ nghĩa xã hội thị trường chính phủ không làm điều này bằng một cân bằng cung và cầu (theo cách các mặt hàng khác được phân bổ) mà thay vào đó bằng một cơ chế phân bổ trực tiếp hơn. [17] Nhưng nếu chính phủ phân bổ vốn theo cách chính xác như các xí nghiệp tư nhân phân bổ, thì những phân bổ nguồn lực hiện ra từ hai hệ thống sẽ giống hệt nhau. Ý tưởng về chủ nghĩa xã hội thị trường đã là một ý tưởng mạnh mẽ. Nó gợi ý rằng có thể có tất cả những ưu điểm của các nền kinh tế thị trường mà không có những nhược điểm kèm theo của sở hữu tư nhân và những sự tập trung lớn của cải thường đi kèm. Chủ nghĩa xã hội thị trường, người ta đã nghĩ, có thể đồng thời loại trừ những cạm bẫy mà chủ nghĩa xã hội kiểu Xô-viết đối mặt. Điều này đòi hỏi rằng về cơ bản tất cả mọi thông tin về công nghệ [18] phải được truyền tới nhà lập kế hoạch trung ương, người tiến hành hàng triệu quyết định liên quan đến mặt hàng nào phải được sản xuất và sản xuất ra sao. Nhà lập kế hoạch trung ương sẽ phải quyết định mỗi nhà máy phải sản xuất những mặt hàng nào, và phải chuyên chở đầu ra của nó đi đâu. Hayek đã phê phán quan điểm này một cách đúng đắn, lập luận rằng nhà lập kế hoạch trung ương chẳng bao giờ có thông tin cần thiết. Chủ nghĩa xã hội thị trường dường như gợi ý rằng nhà lập kế hoạch trung ương chẳng cần có tất cả thông tin chi tiết – ngoài vai trò của mình trong phân bổ đầu tư, nhà lập kế hoạch trung ương chẳng làm gì hơn nhà đấu giá kiểu Walras, một tác nhân quan trọng trong diễn giải các nền kinh tế cạnh tranh. Các định lí của kinh tế học phúc lợi nâng cao năng lực của chủ nghĩa xã hội thị trường: định lí căn bản thứ hai đảm bảo rằng chính phủ có thể, thông qua chủ nghĩa xã hội thị trường, đạt bất kể kết quả có hiệu quả Pareto nào. Trong thập kỉ qua Hungary và một số nước khác đã cố gắng theo con đường chủ nghĩa xã hội thị trường (hoặc ít nhất theo cái mà họ coi là một sự thích nghi của mô hình ấy) với thành công khá hạn chế. [19] Những thất bại có vẻ này của cách tiếp cận đó dẫn tới hai phản ứng. Một số người, ít nhất trong chốc lát, đã có mong muốn quay lại với các hệ thống phi thị trường; trong khi đa số mong muốn tiến nhanh theo con đường dẫn tới thị trường. Hầu hết mọi người càng ngày càng nghi ngờ về khả năng tồn tại của loại con đường thứ ba đại diện bởi chủ nghĩa xã hội thị trường. Chúng ta phải quy thất bại của chủ nghĩa xã hội thị trường cho cái gì? Định lí Lange-Lerner-Taylor, khi kết hợp với các định lí căn bản của kinh tế học phúc lợi, gợi ý rằng nền kinh tế phải có khả năng đạt bất kể kết quả có hiệu quả Pareto nào. Ta còn chờ mong gì nhiều hơn từ cuộc sống, hoặc ít nhất từ nền kinh tế? Về các nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung và hệ thuyết tân cổ điển Suốt cuốn sách này tôi sẽ tập trung vào so sánh giữa các thị trường và chủ nghĩa xã hội thị trường, chứ không phải, thí dụ, vào so sánh giữa các thị trường và các nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, chắc phải rõ là nhiều vấn đề mà tôi nêu ra ở đây cũng áp dụng cho so sánh đó. Một trong những lập luận của tôi là, giả như mô hình tân cổ điển của nền kinh tế là đúng, thì chủ nghĩa xã hội thị trường hẳn sẽ thành công; bằng cách tương tự, nếu giả như mô hình tân cổ điển là đúng đắn, thì chủ nghĩa xã hội kế hoạch hoá tập trung đã vấp phải ít vấn đề hơn nó đã thực sự vấp phải. Samuelson đã mô tả nền kinh tế như lời giải cho bài toán tối đa hoá; định lí căn bản của kinh tế học phúc lợi chỉ ra rằng với các giả thiết mạnh thì sự thấu hiểu của ông là đúng. [20] Ngoài ra, các kĩ thuật toán học, như quy hoạch tuyến tính, kết hợp với các máy tính tốc độ cao, gợi ý rằng có khả năng “giải” trực tiếp ra các phân bổ nguồn lực hiệu quả. Như tôi đã nhắc tới ở trên, mô hình Arrow-Debreu gợi ý rằng các thị trường cạnh tranh là giải thuật hiệu quả để “giải” bài toán phân bổ nguồn lực của nền kinh tế, nhưng các kĩ thuật và công nghệ mới này đã gợi ý rằng chúng ta có thể không cần đến giải thuật đó – do đó bỏ qua mọi vấn đề gắn với cơ chế thị trường – mà vẫn nhận được lời giải cho vấn đề các nguồn lực của xã hội phải được phân bổ một cách có hiệu quả ra sao. [21] (Có lẽ đáng nhắc tới là trong khi những công trình ban đầu về các giải thuật để giải các bài toán tối đa hoá phức tạp gợi ý rằng những giải thuật dùng “giá cả” [sử dụng tính đối ngẫu] và “phân quyền” – có vẻ tương tự như cách các thị trường giải bài toán phân bổ nguồn lực – là những giải thuật hiệu quả, các công trình mới đây hơn đã tạo ra các giải thuật hiệu quả hơn những cái dường như không có bất kể cái tương tự thị trường nào. Điều này hỗ trợ cho quan điểm của tôi rằng, cái là vấn đề trong phân tích về nền kinh tế phân bổ nguồn lực của mình ra sao nhiều hơn là lời giải đơn thuần cho một bài toán tối đa hoá phức tạp: kinh tế học là phức tạp hơn nhiều, và lí thú hơn, so với cách tiếp cận kĩ thuật ứng dụng đã thịnh hành trong các thập niên theo sau Cơ sở của Phân tích Kinh tế [Foundations of Economic Analysis] của Samuelson). [22] Định lí (hoặc phỏng đoán) của Coase Nhóm cuối cùng của các ý tưởng thường được nhắc tới như định lí Coase (tuy chẳng bao giờ được phát biểu ở dạng đủ chính xác để đáng có tên gọi đó). Coase nhấn mạnh tầm quan trọng của các quyền tài sản. Theo Coase, nếu các quyền tài sản được phân rõ ràng, thì các cá nhân có khuyến khích để thực hiện những dàn xếp kinh tế hiệu quả. Không quan trọng lắm là ai nhận được các quyền tài sản (tất nhiên, điều này ảnh hưởng đến phân phối của cải) giống như người nào đó có. Những sự phi hiệu quả như "Thảm hoạ Đồng cỏ" - chăn thả gia súc ăn cỏ một cách quá đáng trên đồng cỏ chung, khoan nhanh quá thể các túi dầu chung, đánh bắt cá quá đáng ở vùng biển quốc tế - là kết quả của sự thất bại trong phân các quyền tài sản. Những sự phi hiệu quả khác nảy sinh từ hạn chế các quyền tài sản: Thất bại trong việc cho phép các quyền về nước được mang bán đã dẫn đến phân bổ sai về nước ở miền tây của Hoa Kì. Các nền kinh tế xã hội chủ nghĩa nghĩ mình đã phá huỷ nhiều quyền sở hữu tư nhân, và nhiều thất bại của chủ nghĩa xã hội được cho là vì điều đó: Những người ở trong các căn hộ đã không có những khuyến khích để bảo trì căn hộ của họ, bởi vì họ không thể chiếm được bất kể khoản lợi nào từ các hoạt động ấy khi bán căn hộ (hệt như các đô thị, với kiểm soát tiền thuê, đối mặt với các vấn đề tương tự). [23] Các nhà quản lí của các xí nghiệp quốc doanh có những khuyến khích không thoả đáng, họ không thể gặt hái được đầy đủ lợi ích của các nỗ lực của mình. Nhìn từ viễn cảnh hiện thời, các nền kinh tế xã hội chủ nghĩa đã ít thành công hơn trong việc huỷ bỏ các quyền sở hữu tư nhân như họ có thể nghĩ; bởi vì các nhà quản lí đã có quyền tự ý đáng kể trong phân bổ (thường với giá quá thấp) sản phẩm đầu ra (thường để đáp lại những ưu ái tương tự từ các nhà quản lí khác). Việc làm mà một cá nhân không thể bị sa thải có thể xem tương tự như "quyền sở hữu". Tất nhiên chúng là những quyền sở hữu hạn chế: Người công nhân, thí dụ, không thể bán việc làm của mình cho một người khác. Và bởi vì các quyền sở hữu là hạn chế, nên đã nảy sinh đủ loại méo mó. Viễn cảnh Coase có một đơn thuốc rõ ràng: Chủ nghĩa xã hội thị trường, giống như bất kể hình thức nào khác của chủ nghĩa xã hội, có số phận bi đát, đơn giản bởi vì các quyền sở hữu trong tài sản không được xác định rõ ràng. Khi tài sản được sở hữu bởi tất cả mọi người, thì thực ra chẳng ai sở hữu cả, không ai có khuyến khích thích đáng. Theo viễn cảnh này, thì, nhiệm vụ đầu tiên trong nền kinh tế chuyển đổi là tư nhân hoá tài sản nhà nước. Trong khi lập luận rằng sự thiếu vắng các quyền sở hữu tư nhân được xác định rõ ràng, hoặc bị hạn chế, thường gây ra những méo mó là lí lẽ đúng, còn những kết luận cơ bản khác thì không. Thứ nhất, sự phân rõ các quyền sở hữu không nhất thiết dẫn đến hiệu quả. Các vấn đề hàng hoá công cộng, thí dụ, [24] không được giải quyết bằng định lí Coase. Trong khi Coase và những người theo ông đã chỉ để ý lướt qua đến khả năng là các chi phí giao dịch có thể cản trở các bên "mặc cả" ra một kết quả hữu hiệu, với sự hiện diện của thông tin không hoàn hảo (gây ra cái có thể được coi như các chi phí giao dịch), kết quả không hiệu quả thường nảy sinh; thật vậy các thương vụ cùng có lợi có thể đơn giản không xảy ra, khi một bên cố thuyết phục bên kia rằng giá trị của mối quan hệ đối với anh ta là nhỏ, trong nỗ lực nhằm chiếm phần lớn hơn của giá trị thặng dư sinh ra từ mối quan hệ (xem, thí dụ, Farrell 1987). [25] Thứ hai, sự thiếu vắng các quyền sở hữu tư nhân được xác định rõ ràng không nhất thiết gây ra các vấn đề. Có nhiều tài liệu ngày càng tăng chứng tỏ rằng, trong các bối cảnh khác nhau, các cộng đồng địa phương đã tránh "Thảm hoạ Đồng cỏ" ra sao bằng các công cụ điều tiết đa dạng. Đại thể hơn, có một số nghi ngờ liệu sự thiếu vắng các quyền sở hữu được xác định rõ ràng có phải là vấn đề trọng tâm không. Có hai chứng cớ ủng hộ điều này. Thứ nhất là hầu hết các công ti lớn đều không được các ông chủ điều hành mà do các nhà quản lí được thuê điều hành. Câu hỏi liệu có sự khác biệt chăng khi nhà quản lí làm việc cho một nhóm tạp nham các cổ đông, hoặc làm cho nhà nước, là vấn đề mà tôi sẽ quay lại sau. [26] Thứ hai là sự tăng trưởng nhanh ở Nam Trung Quốc: sự thiếu vắng các quyền sở hữu được xác định rõ ràng đã không cản trở tốc độ tăng trưởng hai con số. Không chỉ là trường hợp rằng sự thiếu vắng các quyền sở hữu tư nhân có thể không là vấn đề trọng tâm; thậm chí còn không rõ là với tư nhân hoá chính phủ có thể đạt các mục tiêu của mình cũng hiệu quả như nó có thể nếu nó kiểm soát trực tiếp doanh nghiệp. Câu hỏi liệu tư nhân hoá áp đảo kiểm soát công cộng là một vấn đề trung tâm mà tôi sẽ quay lại ở Chương 9. Định lí cơ bản về tư nhân hoá được thảo luận ở đó gợi ý rằng không phải thế. Các chủ đề trung tâm của các bài giảng này Đến đây tôi đã chuẩn bị xong để có thể phát biểu đầy đủ sáu chủ đề chủ yếu của cuốn sách này: 1. Mô hình tân cổ điển chuẩn - diễn đạt hình thức hoá bàn tay vô hình của Adam Smith, luận điểm cho rằng các nền kinh tế thị trường sẽ đảm bảo hiệu quả kinh tế - cung cấp ít chỉ dẫn cho chọn lựa các hệ thống kinh tế, vì một khi sự bất hoàn hảo thông tin (và sự thực là các thị trường là không đầy đủ) được đưa vào phân tích, mà chắc chắn phải vậy, thì không có cơ sở cho giả định rằng các thị trường là hiệu quả. 2. Định lí Lange-Lerner-Taylor, khẳng định sự tương đương của thị trường và nền kinh tế xã hội chủ nghĩa thị trường, dựa trên một quan điểm sai lầm về thị trường, về các vấn đề cốt lõi của phân bổ nguồn lực, và (không ngạc nhiên khi cho trước hai khiếm khuyết đầu) về cách thị trường đề cập các vấn đề ấy ra sao. 3. Hệ thuyết tân cổ điển, thông qua sự đặc trưng sai lầm của nó về các nền kinh tế thị trường và các vấn đề chủ yếu của phân bổ nguồn lực, tạo một cảm giác sai về niềm tin trong khả năng của chủ nghĩa xã hội thị trường nhằm giải quyết các vấn đề phân bổ nguồn lực đó. Phát biểu theo cách khác, giả như hệ thuyết tân cổ điển đã cung cấp một mô tả tốt cho vấn đề phân bổ nguồn lực và cơ chế thị trường, thì chủ nghĩa xã hội thị trường chắc đã có thể thành công. Bản thân những phê phán chủ nghĩa xã hội thị trường, như thế về đại thể, là những phê phán hệ thuyết tân cổ điển. 4. Các vấn đề kinh tế chủ yếu vượt quá ba vấn đề truyền thống được đặt ra ở đầu của mọi văn bản dẫn nhập: Sản xuất cái gì? Sản xuất thế nào? Và sản xuất cho ai? Trong số các vấn đề rộng hơn gồm: Các quyết định phân bổ nguồn lực này phải được tiến hành ra sao? Những ai phải ra các quyết định này? Làm sao có thể khiến những người có trách nhiệm ra các quyết định này đưa ra các quyết định đúng đắn? Các quyết định tách rời nhau của hàng triệu con người -những người ra quyết định- trong nền kinh tế được điều phối ra sao? 5. Cốt lõi của các nền kinh tế thị trường thành công là cạnh tranh, các thị trường, và phân quyền (phi tập trung). Có thể có những điều này, và chính phủ vẫn đóng một vai trò lớn trong nền kinh tế; thực vậy có thể cần thiết là chính phủ phải đóng một vai trò lớn hơn nếu cạnh tranh cần phải được duy trì. Mới đây đã có nhiều lẫn lộn về sự thần kì Đông Á, sự tăng trưởng nhanh đáng kinh ngạc của các nước trong vùng này trong suốt một hai thập kỉ qua, phải được quy cho cái gì. Các nước như Hàn Quốc đã sử dụng thị trường; họ rất hướng về xuất khẩu. Và bởi vì các thị trường đã đóng một vai trò quan trọng như vậy, nên một số nhà quan sát đã kết luận rằng thành công của họ là chứng cứ thuyết phục về năng lực của riêng thị trường. Thế mà trong hầu hết các trường hợp, chính phủ đã đóng một vai trò to lớn trong các nền kinh tế này. Trong khi Wade có thể diễn đạt hơi quá khi ông đặt tên cho cuốn sách của mình về thành công của Đài Loan là Cai trị Thị trường [Governing the Market], không có mấy nghi ngờ rằng chính phủ đã can thiệp vào nền kinh tế thông qua thị trường. 6. Cốt lõi của sự thất bại của thí nghiệm xã hội chủ nghĩa không chỉ đơn thuần là thiếu các quyền sở hữu. Cũng quan trọng như thế là các vấn đề nảy sinh do thiếu khuyến khích và cạnh tranh, không chỉ trong lĩnh vực kinh tế mà cả trong chính trị. Thậm chí còn quan trọng hơn có lẽ là các vấn đề về thông tin. Hayek đã đúng, tất nhiên, trong nhấn mạnh rằng các vấn đề thông tin đối mặt với nhà lập kế hoạch trung ương là quá lớn. Tôi không chắc rằng Hayek đã đánh giá đủ tầm của các vấn đề thông tin. Nếu giả như chúng chỉ hạn chế ở loại vấn đề thông tin nằm ở trung tâm của mô hình Arrow-Debreu -những người tiêu dùng truyền đạt sở thích của họ cho các doanh nghiệp, và các giá trị khan hiếm được truyền đạt cho cả các doanh nghiệp và những người tiêu dùng - thì chủ nghĩa xã hội thị trường đã có thể hoạt động. Thì Lange đã là đúng vì bằng cách dùng giá cả, nền kinh tế xã hội chủ nghĩa đã có thể "giải" bài toán thông tin như thị trường có thể. Nhưng các vấn đề thông tin là rộng hơn. ________________________________________ [1]hàm khả vi là hàm số có thể lấy vi phân, tức là có đạo hàm. [2]Thậm chí có một số tranh cãi về mức độ mà chủ nghĩa xã hội thị trường thất bại, thí dụ như ở Hungary, nơi nó được thử làm cần mẫn nhất. Ở Hungary tỉ lệ tăng trưởng ngay sau những cải cách ban đầu 1968 là khá cao. Sự giảm sút tỉ lệ tăng trưởng trong các năm muộn hơn có thể một phần được cho là do suy giảm cam kết cải cách, và một phần do những điều kiện kinh tế toàn cầu gây ra sự sút giảm tăng trưởng trong hầu hết các nước. Thực vậy sự giảm sút ở Hungary là ít hơn so với ở nhiều nước khác, dù cho có phê phán rằng điều này xảy ra bởi vì Hungary đã không thích ứng với giá dầu thay đổi, và vay mượn quá nhiều từ nước ngoài. Sự mắc nợ quốc tế này là một trong những vấn đề chính mà Hungary phải đối mặt ngày nay. [3]Hoặc, liên quan đến chủ đề đó, là loại nghèo đói đặc trưng cho các khu người da đen ở Hoa Kì. Có lẽ đáng nhắc đến rằng, ít nhất theo các thước đo bất bình đẳng truyền thống, một số nước đang phát triển thành công nhất, như Hàn Quốc và Đài Loan, thể hiện một mức độ bất bỉnh đẳng cao. [4]Xem, thí dụ, Wade (1990) và Amsden (1989). [5]Tôi sẽ thảo luận muộn hơn về chủ nghĩa xã hội thị trường nghĩa là gì. [6]Trong nhấn mạnh hệ thuyết thông tin, tôi không có ý bỏ qua hay làm nhẹ những phê phán khác đối với hệ thuyết tân cổ điển đã được phát triển trong một phần tư thế kỉ qua. Một số trong số đó, như những phê phán nhấn mạnh tầm quan trọng của những bất hoàn hảo trong cạnh tranh, không những chỉ nhất quán với hệ thuyết thông tin; mà trong nhiều khía cạnh, được nhắc tới ở sau, chúng là bổ sung. [7]Về tổng quan, xem Stiglitz (1975a, 1985c, 1990a), hoặc Hirshleifer and Riley (1979). Báo cáo bao quát hơn về nhiều mô hình có thể thấy trong Laffont (1989) và Milgrom and Robert (1992). [8]Xem, thí dụ, Stiglitz (1985a, 1988a) và tuyển tập các bài báo trình bày lí thuyết mới nổi lên về các tổ chức nông thôn do Bardhan (1989) chủ biên và Hoff, Braverman, and Stiglitz (1993). [9]Xem, thí dụ, Greenwald and Stiglitz (1987). [10]Cho một tổng quan, xem Stiglitz (1987a). [11]Trong lí thuyết mới này, sự phân kì (khác nhau) giữa các lợi ích của các cổ đông và các nhà quản lí, và giữa các nhà quản lí và người lao động, được thừa nhận một cách tường minh. Những hạn chế về năng lực của các thị trường để tạo kỉ luật cho các nhà quản lí được giải thích, và các vấn đề mới được đề cập liên quan đến các doanh nghiệp phải được tổ chức ra sao, để tính đến cả các vấn đề khuyến khích lẫn các vấn đề nảy sinh từ sự thực là thông tin thì hạn chế và đắt đỏ trong thu nhận và chuyển tải. [12]Phê phán của tôi đối với các công trình Áo ban đầu vượt quá tranh luận rằng họ đã tạo ra một lí thuyết chưa đầy đủ; như tôi sẽ chỉ ra, một số ý tưởng cơ bản, như những ý tưởng liên quan đến các quá trình tiến hoá và tính hiệu quả thông tin của nền kinh tế, đã được quan niệm sai. [13]Khi tôi viết những bài giảng này, quá trình chuyển đổi mới vừa bắt đầu. Khi các bài giảng này đến nhà in, hơn hai năm sau, phần lớn những điều tôi trình bày có vẻ như vẫn thích đáng. Tranh luận về quá trình chuyển đổi còn là một cuộc tranh luận sống động. [14]Tài liệu tham khảo chuẩn cho điều này là bài báo của Francis Bator (1958). Cách tiếp cận này hiện nay tạo nền tảng cho việc trình bày của sách giáo khoa chuẩn về kinh tế học của khu vực công cộng. Xem, thí dụ, Stiglitz (1988b). [15]Chính phủ Hoa Kì mới đây đã làm điều này, và Sở Thương mại Chicago thực tế đã tạo các thị trường cho các giấy phép này, tạo thuận lợi không chỉ cho việc trao đổi mà cả việc đầu cơ về giá trị tương lai của các quyền này. [16]Văn khoa ban đầu về chủ nghĩa xã hội thị trường đã phát triển trước những tiến bộ trong tài chính công, trong đó đánh thuế tối ưu có thể dẫn đến những khác biệt giữa giá sản xuất và giá tiêu dùng. Nhưng định lí Lange-Lerner-Taylor có thể được mở rộng dễ dàng để bao hàm những khác biệt này. Xem, đặc biệt, Dasgupta and Stiglitz (1972). [17]Như chúng ta sẽ thấy muộn hơn, có lí do chính đáng cho sự khác biệt trong xử lí: các thị trường futures (kì hạn) và rủi ro cần thiết cho phân bổ vốn hiệu quả không tồn tại trong các nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, và có thể giả thiết rằng sẽ khó tạo những cái tương tự hoạt động trong chủ nghĩa xã hội thị trường. Thực vậy, các nền kinh tế tư bản chủ nghĩa dựa nhiều vào các cơ chế phân bổ trực tiếp, tuy là các cơ chế phân tán. [18]Trong mô hình Xô-viết, không nhấn mạnh lắm đến sở thích của người tiêu dùng, nhưng có thể giả thiết rằng, trong một nền kinh tế định hướng tiêu dùng hơn, thì thông tin về sở thích tiêu dùng cũng sẽ phải truyền đạt đến cho nhà lập kế hoạch trung ương. [19]Cần một lời thận trọng: Những cân nhắc chính trị, nhất là ở giữa và cuối các năm 1970, đặt ra các ràng buộc cho mức độ mà mô hình chủ nghĩa xã hội thị trường có thể được thực hiện, ngay cả ở Hungary. [20]Tức là, có một bài toán tối ưu hoá chính xác theo đó mọi phân bổ thị trường cạnh tranh thực tế là lời giải. [21]Lange, một nhà tiên phong của chủ nghĩa xã hội thị trường, đã có hi vọng lớn cho những công nghệ mới này, như được chứng tỏ trong cuốn sách của ông (Lange 1967). (Phải nhớ rằng, Lange trong một thời gian dài đã là một quan chức cao cấp trong chính phủ Cộng sản Ba Lan, và theo mọi đánh giá ông đã có ảnh hưởng lớn tới sự tiến triển của các chính sách kinh tế ở đó). [22]Có lẽ cũng đáng nhắc đến rằng ngay cả những phê phán mạnh mẽ của kinh tế học tân cổ điển, như Joan Robinson, cũng sa vào tâm tính đúng như vậy, khi bà mô tả vấn đề của nhà quản lí xí nghiệp lật đúng trang của cuốn sách kế hoạch phù hợp với giá của yếu tố hiện thời (và tương lai). [23]Nếu không có kiểm soát tiền thuê, thì người chủ có khuyến khích để duy tu nhà cửa bởi vì nó ảnh hưởng đến tiền thuê cái có thể được trích ra. [24]Và, như tôi lập luận ở sau, các vấn đề hàng hoá công cộng là tổng quát hơn so với những thảo luận truyền thống thường gợi ý: Thí dụ, chúng nảy sinh trong thu thập tri thức và trong giám sát các doanh nghiệp. [25]Đáng chú ý là các thí dụ về các thương vụ cùng có lợi không được hoàn tất, do một bên cố kiếm phần lớn hơn của giá trị thặng dư phát sinh từ bản thân mối quan hệ. Kết quả của mặc cả phụ thuộc một phần vào cảm nhận của mỗi bên về phía bên kia sẽ bị ảnh hưởng ra sao nếu không hoàn tất thương vụ (điểm đe doạ). Nếu một bên có thể thuyết phục bên kia rằng nó có các cơ hội bên ngoài tốt hơn, thì nó có thể kiếm được thương vụ có lợi hơn cho mình. Mỗi bên khi mặc cả cố chuyển thông tin như vậy, nhưng để có hiệu quả, các tín hiệu như thế phải là đắt (nói suông thì rẻ, và như thế các tuyên bố thường không được chấp nhận ở mệnh giá). Một cách để chuyển đạt thông tin như vậy là chứng tỏ rằng mình sẵn sàng kéo dài thời gian đạt thoả thuận, thậm chí (hoặc đặc biệt) khi việc làm chậm trễ như vậy là tốn kém. [26]Muộn hơn tôi sẽ thảo luận một định lí chứng tỏ rằng các cổ đông trong các hãng nhìn chung không thống nhất về các hành động mà hãng nên làm. 2. Tranh luận về chủ nghĩa xã hội thị trường: Cách tiếp cận cơ bản Tranh luận về chủ nghĩa xã hội nói chung, và về chủ nghĩa xã hội thị trường nói riêng, đã có một lịch sử dài, với những đóng góp đáng kể vào các năm 1930 của Lange, Lerner, và Taylor, ở một bên, và Hayek, ở bên kia. Đã có nhiều chủ đề cho cuộc tranh luận này. Một số đã mất đi trong những thảo luận gần đây, còn các chủ đề khác lại được nhấn mạnh hơn. Thí dụ, những thảo luận hiện đại nhấn mạnh tính hão huyền của chủ nghĩa xã hội thị trường nảy sinh từ thất bại của nó để tính đến các vấn đề kinh tế chính trị học: Liệu các nhà quan liêu có những khuyến khích để thực hiện các chỉ dẫn của những người chủ trương chủ nghĩa xã hội thị trường? Như vậy những phê phán chủ nghĩa xã hội thị trường lập luận rằng sự so sánh thích đáng không phải là giữa chính phủ lí tưởng hoá được các nhà xã hội chủ nghĩa mặc nhiên thừa nhận và nền kinh tế thị trường, mà là giữa nền kinh tế vận hành ra sao dưới sự kiểm soát thực tế của chính phủ và nền kinh tế thị trường. Nhưng những thảo luận cũ hơn nhấn mạnh tính hão huyền của mô hình cạnh tranh của nền kinh tế: Căn cứ vào sự phổ biến tràn lan của lợi tức tăng dần, so sánh thích đáng không phải là giữa chủ nghĩa xã hội thị trường và các thị trường cạnh tranh, mà là giữa chủ nghĩa xã hội thị trường và chủ nghĩa tư bản độc quyền. Nhiều điều đã xảy ra trên thế giới - và trong lí thuyết kinh tế - trong hơn năm mươi năm kể từ khi các cuộc tranh luận lớn đó xảy ra. Không chỉ có vốn từ và thuật ngữ được các nhà kinh tế học dùng đã thay đổi, mà đã có, tôi tin, những tiến bộ đáng kể trong khoa học kinh tế cho phép chúng ta xem xét lại những vấn đề cũ này nhìn từ các viễn cảnh mới. Nhìn lại các vấn đề này từ viễn cảnh của hệ thuyết thông tin mới, như tôi đã nói, là mục tiêu trọng yếu của cuốn sách này. Nhưng trước khi trình bày chi tiết các lập luận của mình, tôi muốn cung cấp một phác hoạ rộng lớn hơn về những tiến bộ mới đây trong kinh tế học tham gia vào các cuộc tranh luận cổ xưa ra sao. Mỉa mai thay một số trong những tiến bộ này đã tạo sinh khí mới cho lí lẽ ủng hộ chủ nghĩa xã hội thị trường - hệt như các nền kinh tế đã thử chủ nghĩa xã hội thị trường lại đang trong quá trình rời bỏ nó. Đồng thời một số tiến bộ này đã nêu ra những vấn đề mới liên quan đến cả tính cần thiết và khả năng tồn tại của xã hội chủ nghĩa thị trường. Vì sao lí thuyết hiện đại lại có thể gợi ý một vẻ hợp lí lớn hơn cho chủ nghĩa xã hội thị trường [1] Ít nhất hai trong những kết quả chính của lí thuyết kinh tế học hiện đại, có lẽ, đã củng cố niềm tin vào chủ nghĩa xã hội thị trường. Thiếu các thị trường kì hạn (Futures) và vai trò của chính phủ trong phân bổ đầu tư Hiển nhiên là, nếu các nền kinh tế thị trường hoạt động theo cách mà những người chủ trương cho là như thế, thì các thị trường trong đó các hàng hoá và dịch vụ có thể trao đổi phải tồn tại. Một trong những giả thiết cơ sở trong mô hình, hiện nay được coi là mô hình chuẩn của các nền kinh tế (cạnh tranh) - mô hình dường như tạo ra nền tảng trí tuệ của mọi thứ lòng tin mà ta có trong nền kinh tế thị trường - là, tồn tại một tập đủ của các thị trường. Đây là một giả thiết mạnh hơn là nó có vẻ khi nhìn thoáng qua. Chắc chắn là, có các thị trường cho sắt thép, lao động, đất đai, cổ phiếu, cho ngũ cốc; trong khi các thị trường này có thể không "hoàn hảo" - có thể không có nhiều người mua và người bán trong mỗi thị trường này như được hình dung bởi mô hình cạnh tranh - và hầu hết các thị trường này có thể không được tổ chức theo cách mà lí thuyết chuẩn hình dung - với một nhà đấu giá phát ra các giá cho đến khi đạt mức giá làm cân bằng thị trường (market clearing)- nhưng vẫn có một sự đồng thuận rằng mô hình cơ bản của các nhà kinh tế học cung cấp một phép gần đúng, một xấp xỉ tốt, ít nhất cho nhiều loại hàng hoá và dịch vụ này. Nhưng giả thiết rằng tồn tại một tập đầy đủ của các thị trường vượt quá điểm này. Phải tồn tại các thị trường trên đó không chỉ hàng hoá và dịch vụ của hôm nay được trao đổi mà trên đó các hàng hoá và dịch vụ tương lai được trao đổi. [2] Tất nhiên có một số thị trường kì hạn: Ta có thể mua ngô hay lúa mì cho giao hàng ba hoặc sáu tháng sau. Nhưng đối với hầu hết các hàng hoá và dịch vụ (ngoài một số ít mặt hàng nông sản, cho kì hạn vài tháng trong tương lai) không tồn tại các thị trường ở nơi ta có thể trao đổi hôm nay cho giao hàng trong tương lai. Các thị trường kì hạn này là thiết yếu cho việc tiến hành các phân bổ đầu tư đúng. Lo ngại về khả năng của nền kinh tế thị trường trong phân bổ và điều phối đầu tư theo cách hữu ích về mặt xã hội tất nhiên tạo cơ sở cho việc mời gọi chủ nghĩa xã hội trong cả thế kỉ này và thế kỉ trước. Không có đủ các thị trường cần thiết thì không có giá cả để thực hiện các vai trò điều phối/thông tin, những cái là thiết yếu nếu một nền kinh tế muốn có hiệu quả. Mỗi xí nghiệp phải hình thành những kì vọng liên quan đến giá cả trong tương lai sẽ ra sao, và những kì vọng đó lại, một phần, dựa trên niềm tin của nó về các xí nghiệp khác sẽ làm gì. Các xí nghiệp khác thì có nỗ lực lớn để giữ thông tin ấy bí mật. Như vậy, thay vì trở thành một cơ chế cho điều phối các quyết định đầu tư, các nền kinh tế thị trường dường như tạo khuyến khích để cản trở điều phối. Có nhiều sự thể hiện trong thế giới thực của khiếm khuyết này: Đôi khi có sự tham gia quá đáng vào một ngành công nghiệp, khi khác lại phát sinh thiếu hụt. Thực ra, ngay cả các nỗ lực can thiệp hạn chế của chính phủ nhằm cung cấp thông tin cần thiết thông qua kế hoạch hướng dẫn [indicative planning] [3] (như ở Pháp) xem ra đã thất bại, vì các xí nghiệp dường như thiếu khuyến khích để tiết lộ trung thực kế hoạch của họ (và trong nhiều trường hợp có thể có những khuyến khích chiến lược để cung cấp khác đi chứ không phải thông tin trung thực). Phải có các thị trường không chỉ cho các thời kì trong tương lai gần kề mà cho mọi thời kì kéo ra một cách vô tận vào tương lai xa. Không có một tập đầy đủ của các thị trường kì hạn kéo ra vô tận đến tương lai xa, thì nền kinh tế có thể đi theo một quĩ đạo hiệu quả cục bộ và nhất thời - giống hệt như một quĩ đạo kì vọng duy lí bình thường, với lợi tức thực tế (lãi vốn cộng tô) trên mọi tài sản là bằng nhau - và chỉ trong tương lai xa mới trở nên rõ ràng rằng nền kinh tế là phi hiệu quả. Dường như không có những khuyến khích tư nhân nào để hiệu chỉnh khả năng này đối với tính phi hiệu quả có vẻ ở tầm dài hạn. Trực giác nằm sau kết quả này là đơn giản. Hãy xét một xí nghiệp, trong năm 1990, dự tính xây một nhà máy, dự kiến sử dụng trong hai mươi năm, và sau đó sẽ bán cho xí nghiệp khác. Để lấy quyết định, nó phải lập một ước tính giá trị toà nhà ở cuối thời kì hai mươi năm, tức là, vào năm 2010. Nhưng giá trị của toà nhà ấy ở cuối hai mươi năm sẽ phụ thuộc, một phần, vào cung của các toà nhà khác được xây dựng trong khoảng từ nay và hai mươi năm nữa. Thậm chí các quyết định đó sẽ phụ thuộc vào những kì vọng liên quan đến cái gì sẽ xảy ra còn xa hơn nữa trong tương lai. Hãy xét, thí dụ, một toà nhà được cân nhắc xây cất trong mười năm nữa, tức là vào năm 2000. Các chủ của nó sẽ muốn biết liệu họ sẽ có thể bán toà nhà được bao nhiêu, thí dụ, hai mươi năm sau khi xây dựng, tức là trong năm 2020. Giá trị của một toà nhà trong năm 2020 sẽ phụ thuộc vào cung của các toà nhà tại thời điểm đó, cái đến lượt nó lại sẽ phụ thuộc vào mức xây dựng giữa hôm nay và năm 2020. Bây giờ hãy xét một toà nhà dự kiến xây vào năm 2010. Các chủ sở hữu của nó muốn biết giá trị của toà nhà vào năm 2030, và vân vân. Như vậy các quyết định hôm nay được liên kết một cách không thể tách ra khỏi cái sẽ xảy ra trong một mạng lưới liên kết mở ra mãi mãi. Trong thực tiễn, các xí nghiệp không theo quá trình suy diễn phức tạp này. Các nhà quản lí kinh doanh đặt cơ sở cho các quyết định của mình trên linh cảm và ước đoán. Điểm cốt yếu của lập luận lí thuyết chỉ là: Ngay cả dưới các điều kiện tốt nhất, với các nhà quản lí tiến hành các phân tích duy lí nhất, do sự thiếu vắng của các thị trường mở ra vô tận vào tương lai, thì chẳng có gì đảm bảo rằng các thị trường dẫn đến các kết quả hữu hiệu. Chắc chắn, nếu các nhà quản lí kinh doanh cắt ngắn việc này, bằng cách tiến hành những tính toán ít tinh vi hơn, thì niềm tin của chúng ta vào tính hiệu quả của các kết quả thị trường sẽ phải thậm chí yếu đi nữa. Động học dài hạn: Một đoạn lạc đề mang tính kĩ thuật Đã được nhận ra từ lâu rằng động học của các mô hình tối ưu hoá tạo ra các quĩ đạo điểm yên ngựa (thí dụ, Samuelson and Solow 1953); tức là, với các vấn đề "ứng xử-tốt", có một quĩ đạo duy nhất, bắt đầu từ bất kể tập nào của các điều kiện ban đầu, thoả mãn các điều kiện hiệu quả giữa kì (intertemporal) sẽ hội tụ đến trạng thái dừng. Tất cả các quĩ đạo khác thoả mãn các điều kiện hiệu quả giữa kì đều không hội tụ (phân kì). Mặc dù vậy đây không là một vấn đề kinh tế nghiêm trọng; luôn có một điều kiện nữa, điều kiện về tính ngang (transversality) phải được thoả mãn dọc theo quĩ đạo tối ưu, và điều kiện ngang này đảm bảo sự hội tụ đến trạng thái dừng. Hahn (1966) đã chỉ ra rằng các vấn đề tương tự nảy sinh nếu có nhiều hơn một tư liệu sản xuất trong mô hình mô tả của nền kinh tế. Nhưng, ông lập luận, với sự thiếu vắng các thị trường kì hạn kéo dài vô tận vào tương lai, thì không có đảm bảo nào cho sự hội tụ của nền kinh tế đến trạng thái dừng. Các công trình tiếp theo (Shell and Stiglitz 1967) đã chỉ ra rằng sự bất ổn định của nền kinh tế có thể được loại trừ nếu giả thiết về khả năng thấy trước hoàn hảo (các kì vọng duy lí) được thay thế bằng các giả thiết khác liên quan đến các kì vọng, như các kì vọng thích nghi, với tốc độ thích nghi chậm. Cũng đã được chỉ ra rằng những đặc điểm khác của nền kinh tế có thể tạo ra cân bằng là một nút ổn định; thí dụ, trong một mô hình về tiền tệ và tăng trưởng, Shell et al.(1969) đã chỉ ra rằng từ bất kể giá trị ban đầu nào của khoản vốn và cung tiền danh nghĩa, có nhiều quĩ đạo hội tụ cùng đến một trạng thái dừng. Các nghiên cứu khác (Stiglitz 1973a) đã chỉ ra rằng có những cân bằng kì vọng duy lí, tuy chúng không hội tụ đến một trạng thái dừng duy nhất, chúng cũng không "nổ tung". Thực ra ông chỉ ra rằng có vô số các quĩ đạo không hội tụ nhất quán với các kì vọng duy lí. Thật lạ kì, cùng các kết quả giải tích lại có thể được lí giải theo những cách khác nhau. Các công trình cũ hơn trong lĩnh vực này (Samuelson 1967; Hahn 1966, Shell, Sidrauski, and Stiglitz 1969) đã nghĩ rằng các cân bằng điểm yên ngựa là một vấn đề đối với nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, vì thiếu các thị trường kì hạn kéo vô tận vào tương lai, không có cách nào đảm bảo rằng nền kinh tế sẽ chọn quĩ đạo duy nhất hội tụ đến trạng thái dừng. Chắc chắn, sự tồn tại của vô số cân bằng (đại diện bởi trường hợp nhiều quĩ đạo hội tụ đến trạng thái dừng) gây ra vấn đề: Thứ nhất, nền kinh tế có thể không có khả năng tiên đoán quĩ đạo nào nó sẽ chọn; và thứ hai, một số trong số những quĩ đạo này có thể "tốt hơn", theo một nghĩa nào đó, so với các quĩ đạo khác, và chẳng có đảm bảo nào rằng nền kinh tế sẽ chọn ra quĩ đạo tốt hơn ấy. Nhưng các nhà kinh tế học này đã quan tâm nhiều hơn đến vấn đề bất ổn định kinh tế, và tính phi hiệu quả hiển nhiên có thể xảy ra (và có thể là rất lớn), so với có lẽ những khác biệt nhỏ trong phúc lợi liên quan đến sự lựa chọn một quĩ đạo hội tụ chứ không phải quĩ đạo khác. Ngược lại, trong văn khoa về các kì vọng duy lí mới đây, các điểm yên ngựa được coi là tốt, còn các nút là xấu. Những người trong trường phái kì vọng duy lí đã muốn chỉ ra rằng nền kinh tế thị trường là hiệu quả. Bằng cách chứng tỏ rằng tồn tại một quĩ đạo duy nhất thoả mãn các điều kiện kì vọng duy lí - nếu họ có thể chứng minh rằng (1) quĩ đạo duy nhất đó là quĩ đạo "tối ưu về mặt xã hội", và (2) nền kinh tế luôn luôn ứng xử nhất quán với các kì vọng duy lí - thì họ coi là họ đã chứng minh rằng nền kinh tế thị trường có hiệu quả. Ngược lại, với các nút, có nhiều quĩ đạo xuất phát từ bất kể điều kiện ban đầu nào. Làm sao có thể nói nền kinh tế sẽ theo quĩ đạo nào? Và do không phải tất cả các quĩ đạo này có hiệu quả Pareto, các nút gây ra khả năng là nền kinh tế sẽ không theo một quĩ đạo hiệu quả. Đáng lưu ý rằng mỗi trong những giả thuyết tạo cơ sở cho phân tích những kì vọng duy lí đều đáng ngờ. Như vậy không chỉ có thể là không có một cân bằng kì vọng duy lí, trừ với các điều kiện mạnh, mà cân bằng các kì vọng duy lí có thể không có hiệu quả Pareto, như tôi sẽ chỉ ra ở chương tiếp theo. Nhưng quan trọng nhất đối với mục đích hiện thời của chúng ta, là không có lí do để tin rằng - không có các thị trường kì hạn kéo dài vô tận vào tương lai, ngay cả nếu có một quĩ đạo duy nhất hội tụ đến trạng thái dừng nền kinh tế thị trường sẽ "chọn" quĩ đạo đó. Luận điệu của những người cố cho rằng nền kinh tế thị trường (với những kì vọng duy lí) là có hiệu quả, và sẽ chuyển động theo quĩ đạo (duy nhất) hội tụ đến trạng thái dừng, không dựa trên lời giải của các vấn đề mà Hahn và những người khác nêu ra. Các vấn đề này đơn giản bị bỏ qua. Người ta đã giả thiết rằng nền kinh tế hoạt động giả như nếu có một cá nhân duy nhất tối đa hoá sự thoả dụng của mình trong thời gian vô tận. Cá nhân này đảm bảo rằng điều kiện ngang sẽ được thoả mãn - và cũng vậy, người ta quả quyết rằng nền kinh tế cũng thế. Sự thực rằng các thị trường kì hạn kéo dài vô tận vào tương lai là cần thiết đơn giản đã bị bỏ qua. Tóm lại, dù có lí do hiển nhiên rằng do thiếu các thị trường kì hạn thì hệ thống giá không thực hiện vai trò điều phối thiết yếu của nó liên quan đến các hoạt động hướng tới tương lai, như đầu tư, hay có các lí do tinh tế hơn như vừa được thảo luận, rằng do thiếu các thị trường kì hạn mở ra vô tận vao tương lai xa, nền kinh tế thị trường chắc sẽ có những bất ổn định động học - chẳng có lí do gì để tin rằng ngay cả với các kì vọng duy lí nó sẽ hội tụ đến trạng thái dừng; chẳng có cơ sở nào để giả định rằng các thị trường, để tự chúng, sẽ là hiệu quả. Đối với những người chủ trương chủ nghĩa xã hội thị trường, hệ quả của phân tích này dường như rõ ràng: Cần có một loại kiểm soát của chính phủ đối với phân bổ đầu tư được hình dung trong chủ nghĩa xã hội thị trường. Vấn đề người uỷ thác-người đại lí và sự tách biệt của chủ sở hữu và kiểm soát Những thảo luận sớm hơn về chủ nghĩa xã hội thị trường đã ít chú ý đến vấn đề các khuyến khích. Các nhà quản lí tối đa hoá lợi nhuận, với giá do Ban định giá đưa cho họ, bởi vì họ được bảo làm vậy, và họ làm cái họ được bảo phải làm. Thiếu khả năng xem xét các khuyến khích đối với nhà quản lí là một trong những phê phán mạnh mẽ nhất đối với chủ nghĩa xã hội thị trường. Ngay cả trước cuộc tranh luận về chủ nghĩa xã hội thị trường của các năm 1930, các nhà quan sát chủ nghĩa tư bản hiện đại đã lưu ý rằng có sự tách biệt giữa quyền chủ sở hữu và kiểm soát (Knight 1921; Berle 1926; Berle and Means 1932). Nếu đã có sự tách biệt giữa quyền chủ sở hữu với kiểm soát, thì liệu có mấy khác biệt giữa hoặc các cổ phần được sở hữu trực tiếp bởi hàng triệu cá nhân hay bởi "tất cả" mọi người thông qua nhà nước? Những người chủ trương chủ nghĩa xã hội thị trường gợi ý rằng không có. Phân tích các hậu quả của sự tách biệt giữa quyền chủ sở hữu và quyền kiểm soát đã là một chủ đề chính của nghiên cứu trong kinh tế học thông tin. Phân ngành [4] có tên "lí thuyết người uỷ thác- người đại lí: principal-agent theory" có thể được coi là tạo nền móng cho văn khoa của các năm 1950 nhấn mạnh đến quyền tự ý của các nhà quản lí (thí dụ, March and Simon 1958; Marris 1964). Nó xác nhận rằng, với thông tin đắt đỏ, các cổ đông chỉ có thể có kiểm soát hạn chế đối với các nhà quản lí. Những nghiên cứu lí thuyết đương thời và sau đó về sát nhập và các cơ chế kiểm soát khác đã củng cố thêm kết luận liên quan đến sự tự trị (ít nhất có tính hạn chế) của các nhà quản lí. Những quan sát lí thuyết này, có lẽ, đã được xác nhận bởi những diễn biến sau đó trong thời kì đam mê sát nhập và thôn tính ở cuối các năm 1970 và các năm 1980. Đối với các công ti lớn, không có "người chủ duy nhất" nào tối đa hoá giá trị kì vọng chiết khấu hiện tại của lợi nhuận, hoặc thậm chí của thị giá dài hạn. [5] Liệu quyền sở hữu có thật sự quan trọng? Hãng BP có kém hiệu quả hơn Texaco không? [6] Hãng Đường sắt Quốc gia Canada có kém Canadian Pacific? [7] Liệu có sự cướp đoạt lợi ích công nào lớn hơn sự cướp đoạt của Ross Johnson và những bạn hữu của ông trong những cổ đông của RJR? [8] Vì sao lí thuyết hiện đại có thể gợi ý rằng chủ nghĩa xã hội thị trường là ít cần thiết hơn như trước đây đã tưởng Lí thuyết hiện đại, tuy vậy, đã vô tư hơn trong đánh giá tranh luận về chủ nghĩa xã hội thị trường so với thảo luận trước có thể gợi ý. Hai kết quả nữa của lí thuyết hiện đại có các hệ quả mơ hồ hơn. Cạnh tranh Như tôi đã lưu ý trước đây, ít nhất một số người chủ trương chủ nghĩa xã hội thị trường đã tin rằng sự lựa chọn thích đáng không phải là giữa các thị trường cạnh tranh và chủ nghĩa xã hội thị trường, mà là giữa chủ nghĩa tư bản độc quyền và chủ nghĩa xã hội thị trường. [9] Họ tin rằng trong các khu vực lớn của nền kinh tế, cạnh tranh đã là không thể được. Một giả thiết cốt yếu trong phân tích chứng minh tính hiệu quả của các nền kinh tế thị trường là, mọi xí nghiệp đều là người chấp nhận giá; xí nghiệp phải hành động giả như nó tin rằng nó không có ảnh hưởng gì lên giá nó nhận được từ bán hàng hoặc lên giá nó trả cho các yếu tố sản xuất phải mua. Sự tăng trưởng của các công ti lớn trong phần đầu của thế kỉ hai mươi đã dẫn nhiều nhà kinh tế học đến ngoại suy ra xu hướng và hình dung về một nền kinh tế trong đó mỗi khu vực lớn - sắt thép, dầu, ô tô, nhôm, v. v.- được chế ngự bởi một hoặc nhiều nhất vài công ti. Lí thuyết kinh tế ủng hộ các tiên đoán: Các công nghệ kéo theo những khoản chi phí cố định lớn. Những kĩ thuật tổ chức mới, như được Alfred Sloan đưa ra ở General Motors, có nghĩa rằng các chí phí ngày càng tăng gắn với các doanh nghiệp qui mô lớn, phát sinh từ thiếu kiểm soát tổ chức, có thể là hạn chế. Việc thiết lập các thị trường quốc gia, và các phương tiện truyền thông quốc gia để quảng cáo trong các thị trường quốc gia ấy, cung cấp thêm cơ sở cho lợi tức theo qui mô. Không có nguồn chính giảm lợi tức đối với xí nghiệp, và một số nguồn chủ yếu tăng lợi tức, có thể kì vọng rằng mỗi ngành công nghiệp được thống trị bởi một, hoặc nhiều nhất vài công ti. [10] Như thế sự lựa chọn đối mặt với các nền kinh tế đã là (1) cho phép chủ nghĩa tư bản độc quyền giữ vững, với những méo mó trong phân bổ nguồn lực (và hầu như không thể tránh khỏi sự tập trung quyền lực chính trị) phát sinh; (2) có kiểm soát trực tiếp của chính phủ với các khu vực này; hoặc (3) cố gắng điều tiết và kiểm soát sự thực hiện quyền lực độc quyền, hoặc bằng cách xé nhỏ các công ti độc quyền (với kết quả mất hiệu quả do không khai thác được tính kinh tế theo qui mô) hoặc bằng cách kiểm soát các thủ đoạn chống cạnh tranh. Ít chính phủ dân chủ nào thấy khả năng đầu tiên là có thể chấp nhận được. Hoa Kì có lẽ năng nổ nhất trong theo đuổi chiến lược thứ ba. Đến giữa thế kỉ, hơn năm mươi năm sau khi thông qua qui định chống trust mang tính bước ngoặt, nhiều ngành công nghiệp cốt lõi của Mĩ vẫn tập trung cao; ngay cả thành công trong xé nhỏ Standard Oil, đã có những tác động mơ hồ, vì đã có sự tin tưởng rằng Seven Sisters [bảy hãng nhỏ hơn được tách ra] đã hoạt động như một cartel, với sự câu kết và sự hiểu biết về quyền lợi chung trong hạn chế cạnh tranh thay cho thông đồng công khai. Các luật chống trust đã dẫn đến sự tinh vi hơn trong ứng xử chống cạnh tranh! Những sự kiện này đơn giản củng cố lòng tin vào chiến lược thứ hai - sở hữu và kiểm soát của chính phủ. [11] Đối chọi với xu hướng trí tuệ này, cái ta có thể nghĩ là tạo hỗ trợ lớn hơn cho chủ nghĩa xã hội thị trường, là sự quốc tế hoá nền kinh tế toàn cầu. Cạnh tranh bị hạn chế bởi qui mô của thị trường, và do qui mô của thị trường đã thay đổi, nên tính hiệu quả của cạnh tranh cũng vậy. Như thế, trong khi vào các năm 1960, GM, Ford, và Chrysler đã khống chế thị trường ô tô Mĩ, ngày nay quyền lực thị trường của chúng đã bị xói mòn, vì chúng phải đối mặt với cạnh tranh hiệu quả trong mọi phân khúc của thị trường từ các nhà sản xuất Nhật Bản và Châu Âu. Trong khi thị trường Mĩ có thể chỉ đủ lớn cho duy trì ba nhà sản xuất lớn, thị trường toàn cầu lại lớn đến mức để duy trì nhiều hơn nhiều. Kinh tế học Keynes Trong tất cả các khuyết tật thị trường thì một thất bại, mà tác động làm xói mòn lòng tin của công chúng vào các quá trình thị trường, lớn nhất, đã là Đại suy thoái, thí dụ tồi tệ nhất của những khủng hoảng có chu kì gây tai hoạ cho các nền kinh tế thị trường suốt các thế kỉ của chủ nghĩa tư bản. Sự tồn tại và kéo dài của nạn thất nghiệp có thể coi như một sự bác bỏ thuyết phục mô hình tân cổ điển: vì trong mô hình đó, mọi thị trường, bao gồm cả thị trường lao động, đều cân bằng (clear). Lạ kì là, cuộc tranh luận về chủ nghĩa xã hội thị trường đã không tập trung vào các công trạng tương đối của các hệ thống lựa chọn khả dĩ, và bằng chứng lịch sử có giá trị hạn chế: Mặc dù các nền kinh tế xã hội chủ nghĩa "đã giải quyết" vấn đề thất nghiệp, lời giải của họ có thể đã làm cho nó bị che đậy chứ không phải công khai. Các nền kinh tế xã hội chủ nghĩa đã dường như có thể hiện thăng giáng về tốc độ tăng trưởng, dấu hiệu của thăng giáng trong hoạt động kinh tế. Tuy nhiên vẫn còn có các lí do lí thuyết để nghĩ rằng chủ nghĩa xã hội thị trường sẽ giảm nhẹ vấn đề cơ bản. Một trong những chủ đề trung tâm trong các công trình kinh tế vĩ mô đã tìm dấu vết của các cuộc khủng hoảng trong những "khuyết tật điều phối". Nói toạc ra là, không có chỗ làm việc bởi vì không có cầu cho đầu ra của các xí nghiệp, và không có cầu cho đầu ra của các xí nghiệp bởi vì người dân không có việc làm. Nếu nền kinh tế được mô tả tốt bởi mô hình Arrow-Debreu, nếu giả như, thí dụ, có một tập đủ của các thị trường, thì các khuyết tật điều phối này có lẽ sẽ chẳng xuất hiện. Những người chủ trương chủ nghĩa xã hội thị trường lập luận rằng có thể khắc phục được vấn đề khuyết tật điều phối, và như thế loại bỏ sự tổn thất to lớn về hiệu quả kinh tế gắn với các cuộc khủng hoảng có chu kì đặc trưng của các nền kinh tế thị trường. Một chủ đề khác gần đây coi sự sa sút kinh tế như hậu quả của sự bất hoàn hảo của thị trường vốn cản trở khả năng của nền kinh tế để dàn trải và đa dạng hoá rủi ro. [12] Như vậy, nếu các xí nghiệp cảm thấy gia tăng rủi ro, chúng sẽ giảm mức đầu tư của mình. Sự giảm bớt dòng tiền mặt có thể buộc giảm đầu tư, nếu các xí nghiệp đối mặt với phân phối tín dụng và nếu có cản trở trong việc kêu gọi vốn dưới các hình thức khác (thí dụ, qua vốn cổ phần). Lại nữa, chủ nghĩa xã hội thị trường, với sự kiểm soát đầu tư trực tiếp, dường như sẽ làm giảm nhẹ những vấn đề này: nó có lẽ đặt đầu tư ở mức cần thiết để duy trì toàn dụng lao động. Trong các năm 1970 và đầu các năm 1980 đã có một tuyến công trình trong kinh tế học vĩ mô gợi ý rằng những mối lo ngại kinh tế vĩ mô này không quan trọng lắm. Các nền kinh tế điều chỉnh nhanh đối với những xáo động. Xu hướng trong các đại học Mĩ không đưa lịch sử kinh tế vào như một phần của môn học kinh tế đã tăng cường sự thiển cận của kí ức, dẫn nhiều học giả kinh tế học Mĩ đi đến kết luận rằng các cuộc suy thoái đã là vấn đề của quá khứ - nếu chúng đã là các vấn đề khi đó. Nhưng đáng tiếc, suy thoái lớn vào đầu các năm 1980, suy thoái của đầu các năm 1990, và sự thất nghiệp dai dẳng ở mức độ cao tại Châu Âu đưa ra một cảnh báo thô lỗ cho những người tin rằng thất nghiệp mang tính chu kì là chuyện của quá khứ. Những kinh nghiệm này đã chuyển một thông báo: Có cái sai căn bản nào đó với mô hình Arrow Debreu. Giả như mô hình đó đúng, thất nghiệp sẽ không tồn tại, và sẽ khó giải thích tính dễ biến động của nền kinh tế, căn cứ vào vai trò của giá cả trong hấp thu các cú sốc và căn cứ vào vai trò của kho hàng, tiết kiệm, và các thị trường bảo hiểm trong việc làm đệm cho cả các xí nghiệp riêng lẻ lẫn các hộ gia đình khỏi tác động của các cú sốc. Nhưng trong khi Keynes, cũng như những nghiên cứu sau đó theo trường phái Keynes mới, đã cung cấp sự giải thích cho cả thất nghiệp lẫn tính dễ biến động của nền kinh tế - trong khi nó cố thử nhận dạng chính xác cái gì là sai với mô hình Arrow-Debreu cái có thể tính đến những quan sát này - thì một thông điệp khác của Keynes càng thấy rõ ràng: Những căn bệnh kinh tế vĩ mô của chủ nghĩa tư bản là có thể chữa trị được. Không cần tiến hành những cải cách căn bản trong hệ thống kinh tế. Chỉ cần chính phủ can thiệp chọn lọc. Theo nghĩa này kinh tế học Keynes đã làm yếu đáng kể sự biện hộ cho chủ nghĩa xã hội thị trường. Dù cho các vấn đề này có quan trọng đến đâu, bàn luận sâu về nó sẽ đưa tôi ra khỏi phạm vi của cuốn sách này. Những nghi ngờ về tính thoả đáng của định lí Lange-Lerner-Taylor: Vài suy nghĩ sơ bộ Cân nhắc kĩ, tôi ngờ rằng những phát triển trong lí thuyết kinh tế hiện đại, mà tôi đã tóm tắt - sự thừa nhận về tầm quan trọng của (sự thiếu vắng trong nền kinh tế thị trường một tập đủ của) các thị trường kì hạn và rủi ro, sự tách biệt của quyền sở hữu và kiểm soát, sự bất hoàn hảo của cạnh tranh, và sự tái diễn của những thăng giáng kinh tế và thất nghiệp - phải dẫn tới sự nghi ngờ lớn hơn với tính hiệu quả của các quá trình thị trường. Thế mà hầu hết các nhà kinh tế học ngày nay lại biểu hiện một sự tin cậy lớn hơn, chứ không ít đi, vào các quá trình thị trường so với họ đã có thể có năm mươi năm trước. Họ, đặc biệt, nghi ngờ tính thoả đáng của định lí Lange-Lerner-Taylor. Nhận xét nhân quả gợi ý rằng các nền kinh tế xã hội chủ nghĩa không giống hệt các nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, còn xa mới thế. Mô hình chủ nghĩa xã hội thị trường đặt cơ sở cho định lí đó là sai lầm nghiêm trọng. Nhưng luận điểm của chúng tôi là, cũng quan trọng ngang như nhận xét rằng mô hình của nền kinh tế thị trường - tạo cơ sở không chỉ cho định lí đó mà cả các định lí căn bản của kinh tế học phúc lợi - là sai lầm nghiêm trọng. Với một mô hình tồi của nền kinh tế thị trường và một mô hình tồi của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, không ngạc nhiên rằng bất kể vẻ giống nhau bề ngoài của sự tương đương của hai, nhiều nhất, có thể chỉ là vấn đề ngẫu nhiên! Hayek đối lại với Stiglitz Phần lớn của chương tiếp theo liên quan tới việc giải thích vì sao các định lí của kinh tế học phúc lợi tân cổ điển chẳng nói được mấy cho những người tiến hành lựa chọn các hệ thống kinh tế khả dĩ. Kết luận này, và thậm chí nhấn mạnh của tôi về lí do cho kết luận này, sự bất hoàn hảo thông tin, có thể xem ra quen thuộc với nhiều bạn đọc thông thạo với truyền thống Áo. Hayek đã lập luận mạnh mẽ rằng mô hình thông tin hoàn hảo đơn giản không thâu tóm được vai trò cốt lõi của giá cả và thị trường trong truyền đạt và tổng hợp thông tin. Sự bất đồng của tôi không phải với khẳng định này, cũng chẳng với nhiều kết luận của ông, như tầm quan trọng của kế hoạch hoá của các xí nghiệp. Mối lo ngại của tôi là quan tâm kép: Thứ nhất, bởi vì Hayek (và những người theo ông) đã không phát triển được các mô hình hình thức của quá trình thị trường, không có khả năng đánh giá những đòi hỏi liên quan đến tính hiệu quả của quá trình đó, và thứ hai (và liên quan đến) sự thiếu vắng mô hình hoá như vậy, không có khả năng đề cập đến các vấn đề cốt yếu liên quan ở đây, sự kết hợp và thiết kế các hoạt động công và tư, bao gồm những hình thức khả dĩ của điều tiết ("những luật chơi" khả dĩ mà chính phủ có thể thiết lập) và những ưu điểm của các chính sách lựa chọn khả dĩ hướng tới tập trung hoá-phi tập trung hoá. Như Sanford Grossman và tôi đã viết khoảng mười lăm năm trước. Mặc dù cuộc tranh luận [giữa lange-Lerner-Taylor và Hayek] trước đây có lẽ về tính hiệu quả thông tin của các cấu trúc tổ chức khả dĩ, các mô hình trong đó các hệ thống phải hiệu chỉnh với thông tin mới đã không được thiết lập; thay vào đó đã tranh luận rằng nếu thị trường giả là như nhau, thì phân bổ sẽ hệt như nhau, và như thế, sự so sánh các tổ chức khả dĩ trở thành vấn đề giống như so sánh chi phí khác biệt phát sinh từ các hình mẫu khác nhau của luồng thông tin, hoặc tốc độ hội tụ khác nhau. (Grossman and Stiglitz 1976, 252). Chắc chắn, bất kể mô hình đơn giản nào đều không thể thâu tóm tính phức tạp của các vấn đề thông tin của nền kinh tế. Không mô hình đơn giản nào có thể thâu tóm các quá trình theo đó các định chế thích nghi với hoàn cảnh thay đổi. Chúng ta mắc rủi ro trong thiết lập một mô hình đơn giản, với một tập đơn giản các vấn đề thông tin phải khắc phục, quá trình thị trường có thể tỏ ra thực hiện khá tốt, khi trong thực tế, với một tập thực tiễn hơn của các vấn đề thông tin, hiệu suất của nó là kém hơn nhiều. (Điều ngược lại cũng có thể, tuy ít có khả năng hơn: thị trường thực hiện kém với những vấn đề đơn giản nhưng thực hiện tốt trong các vấn đề phức tạp hơn mà nó phải thích ứng). Những người chủ trương theo truyền thống Áo thường bảo vệ sự thiếu vắng mô hình hình thức - và sự thiếu vắng các định lí hiệu quả một cách hình thức tương ứng: Nền kinh tế là một quá trình hữu cơ, quá phức tạp để có thể rút gọn thành các mô hình hình thức đơn giản. Công việc của các nhà kinh tế học là mô tả quá trình hữu cơ này và để nhìn ra những loại chướng ngại nào mà sự thiếu vắng, một mặt, của kết cấu pháp lí hoặc, mặt khác, sự can thiệp thái quá của chính phủ, có thể gây ra. Nhưng trong khi họ có thể không phải, hoặc thậm chí không muốn, viện đến tiêu chuẩn phúc lợi chuẩn của tính tối ưu Pareto, thì lại có những ngụ ý mạnh mang tính chuẩn tắc trong thảo luận của họ. Darwin có thể đã nghĩ rằng ông chỉ đơn thuần mô tả quá trình tiến hoá khi ông khẳng định cái dẫn đến sự sống còn của cá thể thích hợp nhất, nhưng những khẳng định như vậy đòi hỏi một định nghĩa về "thích hợp nhất - the fittest" và về nghiên cứu cân bằng chung, và về các tính chất động học của hệ thống. Ngày nay chúng ta thừa nhận rằng quá trình tiến hoá, dưới những hoàn cảnh đa dạng rộng, có thể không có các tính chất "hiệu quả". [13] Và sự thực rằng thế giới là phức tạp hơn nhiều so với bất kể mô hình nào mà chúng ta có thể xây dựng không miễn cho chúng ta khỏi nhu cầu kiểm nghiệm các ý tưởng của mình bằng sử dụng các mô hình đơn giản và có thể hiểu được. Nếu các thị trường không hoạt động hiệu quả dưới các điều kiện lí tưởng hoá, thì làm sao chúng ta có thể tin được chúng sẽ hoạt động hiệu quả dưới những điều kiện phức tạp hơn? Chỉ có thể do lòng sùng đạo (và thực ra là vượt quá lòng tin)! Chương trình nghiên cứu mà tôi tham gia hơn hai mươi năm qua đã bắt đầu xây dựng một số mô hình đơn giản như vậy, đánh giá xem các quá trình thị trường hoạt động trong thu thập, chuyển tải, và xử lí các loại thông tin đa dạng thế nào, trong các bối cảnh thị trường đa dạng khác nhau. Trong năm chương tiếp theo, tôi sẽ trình bày một số kết quả nghiên cứu đó. ________________________________________ [1]Tôi sẽ quay lại chủ đề chung này trong cuốn sách. Ở đây đơn giản tôi muốn chuẩn bị trình bày: Có quá nhiều nhà kinh tế học ngày nay gạt bỏ chủ nghĩa xã hội thị trường ngay lập tức, nói rằng nó đã "hiển nhiên" sai. [2]Cũng phải tồn tại các thị trường cho mọi rủi ro. Trong Chương 3 tôi sẽ tiếp tục vấn đề vì sao các thị trường kì hạn và rủi ro không tồn tại, và sẽ thảo luận bao quát hơn những hệ quả của việc không có những thị trường như vậy. [3]Trong lập kế hoạch hướng dẫn, các xí nghiệp khác nhau trong nền kinh tế báo cho chính phủ biết họ sẽ có kế hoạch đầu tư và sản xuất bao nhiêu trong tương lai, và nhu cầu tương ứng của họ về đầu vào yếu tố là gì. Về nguyên tắc, sau đó, chính phủ có thể dùng thông tin này -thí dụ, để thông báo cho các xí nghiệp rằng sẽ có một sự mất cân bằng trong một số thị trường tương lai, hoặc, rằng căn cứ vào các kế hoạch hiện thời, cung về thép sẽ vượt cầu. Để cho kế hoạch hướng dẫn hoạt động, các xí nghiệp phải tiết lộ các đường cầu về yếu tố và cung về đầu ra của họ - tức là, họ "có kế hoạch" làm gì - tuỳ thuộc vào giá cả nào có thể xuất hiện trên thị trường. Hầu hết các xí nghiệp, tất nhiên, không có các kế hoạch vạch ra rõ ràng như vậy. Nhưng có lẽ lí do căn bản hơn cho thất bại của kế hoạch hướng dẫn đã là các xí nghiệp đơn giản không có khuyến khích để tiết lộ thông tin cần thiết, ngay cả nếu họ có. [4]Văn khoa này, nảy sinh từ các bài báo của Ross (1973) và Stiglitz (1974), đã có rất nhiều. Cho một tổng quan ngắn, xem Stiglitz (1989a). [5]Thực vậy, như tôi lưu ý trong bài giảng Tokyo (1972b) của tôi, do thiếu một tập đủ của các thị trường, nhìn chung sẽ không có sự nhất trí giữa các cổ đông liên quan đến mục tiêu mà công ti phải theo đuổi. [6]Cho đến gần đây, đa số cổ phần của BP (British Petroleum) do chính phủ Anh nắm giữ. Texaco, là một công ti dầu mỏ tư nhân ở Mĩ, nổi tiếng trong ngành dầu do kết hợp tính kiêu ngạo và bất tài quản lí; khi Texaco thua kiện hàng tỉ đôla mà Pennzoil đã kiện, do đưa ra hãng dầu Getty vi phạm hợp đồng bán công ti cho Pennzoil, Texaco chẳng mấy được ưa chuộng. [7]Bằng chứng, được Caves and Christensen (1980) cung cấp, cho thấy là không. (Đường sắt Quốc gia Canada do chính phủ sở hữu; Canadian Pacific là hãng tư nhân). [8]RJR-Nabisco đã là một conglomerate lớn ở Mĩ, được biết đến ban đầu bởi hai dòng sản phẩm - thuốc lá do R.J. Reynolds bán, và các loại bánh (mì) do Nabisco sản xuất (bao gồm cả những sản phẩm khác, như Dứa Dole) - nhưng càng ngày càng khét tiếng về phong cách sống của các nhà quản lí của nó, bao gồm một đội lớn các máy bay phản lực, các nhà nghỉ và các khu trượt tuyết của công ti. Xem Barbarians at the gate [Những kẻ thô lỗ ở cổng] của Bryan Burrough và John Helyar để biết một biến thể phổ biến về chuyện thôn tính này. Có nhiều tài liệu lí thuyết và kinh nghiệm ngày càng tăng thảo luận về xung đột lợi ích giữa các nhà quản lí và các cổ đông. Xem, thí dụ, Morck, Shleifer, and Vishny (1989, 1990), Shleifer and Vishny (1986, 1989), và Jensen (1986). [9]Xem, Persky (1989). [10]Văn khoa lí thuyết trong cuối các năm 1920 và đầu các năm 1930 phản ánh mối quan tâm tới lợi tức gia tăng và tầm quan trọng của các chi phí chung. Xem, thí dụ, Lewis (1928) và Clark (1923). Trong các mối quan tâm có bản chất của cân bằng. Xem, thí dụ, Young (1928). Từ những mối quan tâm này sinh ra lí thuyết cạnh tranh không hoàn hảo. Trong khía cạnh này, trong khi đóng góp của Chamberlins (1933) có thể là độc đáo hơn, còn của Robinson (1933) liên quan trực tiếp hơn đến những vấn đề cốt lõi. [11] Có lẽ tôi phải nhắc đến một thuyết minh lập luận rằng những bất hoàn hảo của cạnh tranh đã có ít hậu quả hơn như đã được hình dung trước đây - học thuyết khả năng tranh đoạt cho rằng cạnh tranh tiềm năng là tất cả cái cần để đảm bảo hiệu quả kinh tế; thậm chí với một xí nghiệp, các lợi ích của cạnh tranh sẽ được chuyển cho các khách hàng, bởi vì lợi nhuận sẽ được đẩy xuống bằng không. Nhưng khảo sát kĩ hơn về các thị trường hoạt động ra sao đã chỉ ra rằng cạnh tranh đã thậm chí ít vững chãi hơn là các nhà kinh tế học đã nghĩ trước đây: Có rất nhiều chiến lược mà các xí nghiệp đó có thể áp dụng (ngoài sự cấu kết công khai) để răn đe sự tham gia và hạn chế cạnh tranh giữa chúng. Cạnh tranh có thể bị hạn chế ngay cả với các chi phí cố định, chi phí lắng chìm rất nhỏ. Xem, thí dụ, Stiglitz (1987g). [12]Về tổng quan, xem Greenwald and Stiglitz (1993) hoặc Stiglitz (1992b). [13]Do thiếu một thị trường vốn hoàn hảo, thí dụ, các xí nghiệp thấy khó sống sót - nhưng ai biết rằng trong các hoàn cảnh tương lai họ sẽ thịnh vượng nếu họ chỉ có thể chịu đựng cho đến khi - không thể đi vay đối lại sự thịnh vượng tương lai của họ. Xem Stiglitz (1975a, 1992c). Về thảo luận các vấn đề "học hỏi", xem Bray and Kreps (1987). 3. Phê phán định lí cơ bản thứ nhất của kinh tế học phúc lợi Trong chương này và chương tiếp theo tôi quay lại các định lí cơ bản của kinh tế học phúc lợi. Trong chương này tôi lập luận rằng định lí cơ bản thứ nhất của kinh tế học phúc lợi - khẳng định tính hiệu quả của các nền kinh tế cạnh tranh - là sai về căn bản. Hoàn toàn ngược với định lí ấy, các nền kinh tế cạnh tranh hầu như không bao giờ hiệu quả (trong ý nghĩa chính xác được định nghĩa dưới đây). Chương tiếp theo trình bày một phân tích phê phán tương tự đối với định lí cơ bản thứ hai của kinh tế học phúc lợi. Trong cả hai chương tôi tập trung vào các vấn đề nảy sinh từ các giả thiết về thông tin hoàn hảo và tập đầy đủ của các thị trường. Các vấn đề khác, như các vấn đề liên đới tới các giả thiết khác của các định lí này như sự thiếu vắng của thay đổi công nghệ nội sinh, được bàn đến trong các chương sau. Định lí căn bản thứ nhất khẳng định rằng mọi nền kinh tế cạnh tranh đều có hiệu quả Pareto. Đây là sự thể hiện hiện đại của phỏng đoán về bàn tay vô hình của Adam Smith: Con người có nhu cầu hầu như liên tục đến sự giúp đỡ của đồng loại, và thật vô dụng đi kì vọng chỉ vào lòng nhân từ của họ. Anh ta chắc sẽ thành công hơn nếu có thể khêu gợi tính ích kỉ của họ để có lợi cho mình, và chỉ cho họ thấy rằng làm cho anh ta cái mà anh ta yêu cầu họ làm chính là vì mối lợi riêng của họ… Chúng ta có bữa ăn không phải là từ lòng nhân từ của người hàng thịt, người cất rượu bia, hoặc người làm bánh mì, mà là từ sự quan tâm của họ đến lợi ích riêng của mình. Chúng ta chăm chú, không phải vào lòng nhân đạo của họ mà vào tính ích kỉ của họ, và đừng bao giờ nói với họ về những nhu cầu riêng của chúng ta mà về các mối lợi của họ. Smith tiếp tục mô tả tư lợi dẫn tới lợi ích xã hội ra sao: Anh ta chỉ muốn lợi riêng của mình, và anh ta trong trường hợp này như trong bao nhiêu trường hợp khác, được dẫn dắt bởi một bàn tay vô hình để thúc đẩy một mục đích không phải là một phần chủ ý của anh ta. Cũng chẳng phải là tồi hơn với xã hội vì đó không phải là một phần của chủ ý. Bằng cách theo đuổi tư lợi riêng anh ta thường thúc đẩy lợi ích của xã hội hữu hiệu hơn so với khi anh ta chủ ý thúc đẩy nó. [1] Chính định lí phúc lợi thứ nhất tạo nền tảng cho lòng tin của chúng ta vào các nền kinh tế thị trường. Giống như bất kể định lí nào, những kết luận của nó phụ thuộc vào tính hiệu lực của các giả thiết. Khảo sát kĩ các giả thiết, tuy vậy, gợi ý rằng định lí đó có tính thoả đáng hạn chế đối với các nền kinh tế công nghiệp hiện đại. Các định lí Greenwald-Stiglitz về tính hiệu quả của các thị trường cạnh tranh [2] Thường lí thú khi lưu ý các giả thiết nào mà một tác giả nêu bật, bằng cách gán cho chúng các nhãn "giả thiết A.1 … A.10" và các giả thiết nào là ngầm định, bất luận cố ý hay không: các giả thiết ngầm định có trong mọi mô hình, đó là các giả thiết được đưa ra một cách tình cờ, dường như không hơn một sự nhắc nhở đến cách dùng thông thường, hoặc là các giả thiết được bao hàm trong các định nghĩa cơ bản nào đó. Ý niệm rằng cân bằng thị trường phải được đặc trưng bởi cầu bằng cung, thí dụ, được đưa ra như một phần của định nghĩa về cân bằng trong mô hình cạnh tranh chuẩn. Ngụ ý rằng phải là hiển nhiên nếu cầu không bằng cung, thì sẽ có các lực lượng thay đổi, sao cho tình trạng không phải là một cân bằng. [3] Công trình mới đây về các nền kinh tế với thông tin không hoàn hảo đã chỉ ra rằng kết luận đó là không đúng; cân bằng thị trường cạnh tranh [4] có thể được đặc trưng bởi cầu vượt cung (như trong các mô hình Stiglitz Weiss 1981 về phân phối tín dụng) hoặc bởi cung vượt cầu (như trong mô hình Shapiro-Stiglitz 1984 về thất nghiệp với lương hiệu quả). [5] Tương tự mô hình cạnh tranh chuẩn bắt đầu với giả thiết ngầm về một hệ thống giá tuyến tính (một giá cố định cho một đơn vị hàng được mua), trong khi bây giờ chúng ta biết rằng các thị trường cạnh tranh với thông tin không hoàn hảo được đặc trưng bởi hệ thống giá phi tuyến tính, trong đó, thí dụ, có giảm giá theo số lượng. [6] Giả thiết chuẩn rằng cân bằng cạnh tranh dẫn tới lợi nhuận bằng không cũng có thể được chỉ ra là không đúng đắn trong các mô hình với thông tin không hoàn hảo. [7] Tầm quan trọng của các giả thiết thông tin Sự thật, rằng có nhiều đến như vậy các kết quả chuẩn không còn đúng khi các giả thiết cực đoan về thông tin hoàn hảo được bỏ đi, nhấn mạnh đến tầm quan trọng chung -và cho đến tận mới đây, chưa được nhận ra một cách đầy đủ - của các giả thiết thông tin trong phân tích cân bằng cạnh tranh. Những lo ngại về các giả thiết ngầm định cũng có tầm quan trọng ngang thế đối với vấn đề ngay sau- đánh giá những cách khả dĩ khác nhau của tổ chức nền kinh tế. Định lí thứ nhất của kinh tế học phúc lợi dựa trên cơ sở giả thiết rằng có thông tin hoàn hảo, hoặc chính xác hơn, rằng thông tin là cố định - và đặc biệt không bị tác động bởi bất kể hành động của bất kể cá nhân nào, bất kể giá nào, hoặc bất kể biến số nào ảnh hướng bởi hành động tập thể của các cá nhân trong thị trường- và rằng có một tập đầy đủ của các thị trường rủi ro. Hễ khi nào các điều kiện này không thoả mãn thì thị trường là không hiệu quả Pareto hạn chế; tức là, có những can thiệp của chính phủ có thể cải thiện phúc lợi một cách rõ ràng. Những can thiệp này tôn trọng những hạn chế về các thị trường và chi phí thông tin (và marketing) hệt như những hạn chế ảnh hưởng đến kinh tế tư nhân. Thực vậy can thiệp của chính phủ có thể tỏ ra đáng mong mỏi, ngay cả nếu chính phủ có các công cụ rất hạn chế, thí dụ, chính phủ bị hạn chế đối với giá đơn giản (tuyến tính) và can thiệp trọn gói [8] đồng đều. Ngoài ra, bản chất (và thậm chí độ lớn) của những can thiệp đáng mong có thể có quan hệ với các tham số thị trường có thể quan sát được, như các nhóm dân cư khác nhau phản ứng với những thay đổi về lương và giá ra sao. [9] Theo một nghĩa, thành tự vĩ đại của Debreu và Arrow là đã tìm ra một tập hầu như duy nhất của các giả thiết theo đó dự đoán về bàn tay vô hình của Adam Smith là đúng. [10] Thực ra, có một vài trường hợp đặc biệt khác trong đó thị trường có thể có hiệu quả Pareto hạn chế. Thí dụ, thiếu các thị trường rủi ro sẽ không có hệ quả nào nếu mỗi người đều hệt như nhau và đối mặt với các cú sốc y hệt nhau, sao cho ngay cả nếu giả như có các thị trường rủi ro, thì sẽ chẳng có trao đổi nào trong đó; [11] hoặc nếu giả như mọi hàng hoá do mọi cá nhân tiêu dùng đều có thể quan sát được, thì các nền kinh tế trong đó có hiểm hoả đạo đức vẫn sẽ có hiệu quả Pareto hạn chế. [12] (Kinh tế học phúc lợi của các nền kinh tế với hiểm hoạ đạo đức được Prescott và Towsend khảo sát tỉ mỉ năm 1980. Những khác biệt trong kết luận giữa Greenwald-Stiglitz và Prescott-Towsend được cho là do những người sau tập trung vào trường hợp đặc biệt này mà Arnott và Stiglitz năm 1985 cũng như Greenwald và Stiglitz đã chứng minh là có hiệu quả). Những tác động ngoại lai trong sự hiện hữu của thông tin không hoàn hảo và các thị trường không đầy đủ Sự thấu hiểu cơ bản của Greenwald và Stiglitz là khi các thị trường không đầy đủ và thông tin không hoàn hảo, thì các hành động của các cá nhân có ảnh hưởng giống như ảnh hưởng ngoại lai lên những người khác, mà chúng không được tính đến. (Những tác động ngoại lai nhìn chung giống những tác động ngoại lai của "khí quyển" ở chỗ mức độ của chúng phụ thuộc vào hoạt động của tất cả mọi người cùng nhau). Một số thí dụ giúp minh hoạ vấn đề là gì: 1. Các thị trường rủi ro không đầy đủ. Giả sử rằng có nhiều trạng thái tự nhiên, nhưng chỉ có một tài sản rủi ro, các cây táo. Số cây táo được trồng xác định (một cách ngẫu nhiên) số quả táo sản xuất ra trong năm tiếp theo, và số này đến lượt nó lại xác định giá và tính sinh lời của việc sở hữu một cây táo, trong mỗi trạng thái tự nhiên. Khi các cá nhân trồng nhiều táo hơn, phân bố xác suất của lợi tức từ trồng táo thay đổi, và vì các cây táo là các khoản đầu tư có rủi ro duy nhất, theo giả thiết, cứ như là một tài sản (phân bố xác suất cũ) được thay thế bằng một cái mới. Mỗi nhà đầu tư tất nhiên coi phân bố xác suất lợi tức là cho trước, ngay cả tuy nó có thay đổi khi nhiều cây táo được trồng hơn. Tác động của hành động của từng cá nhân lên phân bố xác suất như thế có thể xem như một tác động ngoại lai. [13] 2. Chất lượng lao động thay đổi (chọn lọc có hại). Hãy xét vấn đề thông tin không hoàn hảo về chất lượng của người lao động. Các công ti có thể biết chất lượng trung bình của nhân công được chào trong một hội trường thuê nhân công. Họ cũng có thể biết chất lượng đó bị ảnh hưởng ra sao bởi lương được trả. [14] Cầu của họ về lao động, ở mỗi mức lương, sẽ phụ thuộc vào biến số chất lượng này. Mặt khác, mỗi người lao động, dù chất lượng cao hay thấp, lại không tính đến tác động của quyết định của mình liên quan đến lượng cung lao động lên chất lượng lao động trung bình (và một cách tương ứng lên cầu lao động). Thực ra, nếu những người lao động có chất lượng thấp quyết định cung cấp nhiều lao động hơn, ở bất kể mức lương cho trước nào, nó sẽ hạ thấp lợi nhuận của hãng. Các hành động của họ sẽ có ảnh hưởng ngoại lai đến các hãng. Theo cùng cách, là dễ đối với chính phủ để tác động đến hỗn hợp chất lượng, thí dụ, bằng cách đánh thuế hay bao cấp các hàng hoá có ảnh hưởng khác nhau lên cung lao động chất lượng thấp và các cá nhân có năng lực cao. [15] 3. Các vấn đề khuyến khích (hiểm hoạ đạo đức). Các cá nhân mua bảo hiểm bởi vì họ không ưa rủi ro. Nhưng bảo hiểm có nghĩa là họ không phải chịu đầy đủ các hậu quả của các hành động của họ: Các khuyến khích của họ để loại trừ sự kiện được bảo hiểm bị yếu đi. Mỗi cá nhân coi phí bảo hiểm là cho trước. Tất nhiên, nếu tất cả mọi người ít cẩn thận hơn, thì sự kiện được bảo hiểm sẽ xảy ra thường xuyên hơn, và phí sẽ tăng lên. Thí dụ này cũng chỉ ra chính phủ có thể đem lại một sự cải thiện Pareto ra sao. Bằng cách đánh thuế hay bao cấp các mặt hàng khác nhau, chính phủ có thể khuyến khích các cá nhân cẩn trọng hơn. Giả sử trường hợp được bảo hiểm là thiệt hại do cháy gây ra, và một nguyên nhân chính gây cháy là hút thuốc trên giường. Hút thuốc trên giường là đặc biệt nguy hiểm nếu người hút cũng uống quá nhiều. Có thể tưởng tượng, trên nguyên tắc, một hợp đồng bảo hiểm có điều kiện đòi hỏi người được bảo hiểm không được hút thuốc trên giường sau khi uống, nhưng điều này khó thực thi. (Công ti bảo hiểm có thể lắp các TV theo dõi trong mỗi phòng ngủ, nhưng một số người có thể coi điều này như xâm phạm riêng tư cá nhân). Nhưng bằng cách đánh thuế thuốc lá và rượu bia, chính phủ có thể ngăn bớt việc hút thuốc và uống rượu nói chung, và như kết quả phụ, cũng làm giảm bớt hút thuốc trên giường sau khi uống. Ít nhất với các khoản thuế nhỏ, phúc lợi tăng thêm từ giảm "hiểm hoạ đạo đức" có thể nhiều hơn khoản mất mát phúc lợi từ những méo mó (mất trắng) trong thói quen tiêu dùng do thuế gây ra. [16] Chắc phải rõ là các khoản thuế và bao cấp phải được định sao cho chúng khuyến khích sự cẩn trọng, thí dụ, trợ cấp các mặt hàng bổ sung cho chăm sóc cẩn thận, và đánh thuế những mặt hàng thay thế. Các thuế suất tối ưu được định ra sao cho tại biên, lợi ích do sự cẩn trọng mang lại cân bằng với khoản mất trắng biên. Cả hai đại lượng này có thể được tính ra từ các đại lượng có thể quan sát được (thí dụ, các độ co giãn giá [riêng và chéo] đã được bù trừ của cầu và các độ co giãn của "cẩn trọng" đối với các giá khác nhau). Như vậy, trong khi các hãng bảo hiểm nhà nước và tư nhân không có thông tin cần thiết để ngăn ngừa hiểm hoạ đạo đức - chúng không thể trực tiếp kiểm soát các hành động- thì chính phủ lại có các công cụ để giảm nhẹ tác động của hiểm hoạ đạo đức và có thông tin cần thiết để dùng các công cụ đó. [17] Sức mạnh của chính phủ Thí dụ này cũng minh hoạ cho những năng lực mà chính phủ có thể có, còn khu vực tư nhân thì không. Có một "định lí dân gian" [18] (hoặc cái có thể gọi là một định lí dân gian, giả như nó đúng) phát biểu rằng bất kể cái gì chính phủ có thể làm, thì khu vực tư nhân cũng có thể làm như thế hoặc tốt hơn: Những ưu thế được cho là của chính phủ chỉ nảy sinh từ những so sánh "không công bằng", thí dụ, một chính phủ với thông tin không mất chi phí có thể cải thiện phân bổ thị trường, trong khi các thị trường phải đối mặt với thông tin tốn chi phí. Để loại trừ phê phán này mà tôi tập trung vào khái niệm về tính hiệu quả Pareto hạn chế. Nhưng vấn đề vẫn cần được đề cập: Chính phủ khác các tổ chức kinh tế khác ra sao? Vì sao nó có thể làm những thứ mà các tổ chức khác không thể? Đây là vấn đề được trình bày trong cuốn sách của tôi, Vai trò kinh tế của Nhà nước - The Economic Role of the State, ở đó tôi lập luận rằng sức mạnh, năng lực cưỡng chế của chính phủ (kết hợp với tính chất thành viên phổ quát của nó) cho nó những ưu thế riêng biệt (và mối lo ngại về lạm dụng các quyền hạn đó gây ra những ràng buộc tạo thành những bất lợi riêng). Như vậy chính phủ có thể cấm sản xuất thuốc lá - không tư nhân nào hay nhóm cá nhân nào có thể làm điều này. (Tất nhiên, để thực thi việc cấm đoán này, chính phủ phải có năng lực để theo dõi sản xuất thuốc lá. Nếu giả như không có tính kinh tế theo qui mô trong sản xuất, thì có thể khó cho chính phủ để thực thi cấm đoán này. Nhưng với tính kinh tế theo qui mô đáng kể, nếu chính phủ không thể thực thi cấm đoán, nó có thể ít nhất tăng chi phí thuốc lá lên đáng kể). Tương tự, chính phủ có thể áp đặt thuế lên sản xuất mọi loại thuốc lá. Có thể có khả năng quan sát, và do đó có thể đánh thuế, sản xuất thuốc lá ngay cả khi không thể quan sát các mức tiêu thụ cá thể (không thể theo dõi trao đổi thứ cấp). Không hãng bảo hiểm tư nhân hoặc công ti thu hộ bảo hiểm nào có thể "buộc" tất cả các công ti thuốc lá trả thuế trên sản lượng của họ. Giả sử rằng chúng đút lót họ, bằng cách trả một khoản phụ thuộc vào khoản gia tăng giá của họ. Khi đó một công ti mới có thể tiến vào, đặt giá bớt một chút, chiếm hết khách hàng của họ, và kiếm lời. Đây chỉ là một minh hoạ cho sự thật rằng chính phủ quả thực có những năng lực mà khu vực tư nhân không có, những quyền lực mà trong một số trường hợp nhất định (nếu được dùng khéo) có thể tạo ra cải thiện Pareto. (Về các thí dụ khác, xem Stiglitz 1989f, 1991c). Vài lưu ý về diễn giải các định lí Greenwald-Stiglitz Các định lí Greenwald-Stiglitz và các định lí liên quan có ba diễn giải: Thứ nhất, như chúng ta đã thấy, trong các trường hợp nhất định chúng cung cấp những hình thức được nhận diện rõ về can thiệp của chính phủ mang lại cải thiện phúc lợi. Thứ hai, chúng gợi ý rằng có thể không có khả năng phi tập trung một cách có hiệu quả, theo cách như các định lí cơ bản của kinh tế học phúc lợi đã gợi ý. Tôi sẽ quay lại chủ đề này muộn hơn trong chương này. Thứ ba, và có lẽ quan trọng nhất, chúng loại bỏ điều phỏng đoán phổ biến rằng các thị trường nhất thiết là cách hữu hiệu nhất để phân bổ nguồn lực. Phải nhắc lại, chẳng có định lí chung nào làm cơ sở cho kết luận đó. (Tất nhiên có các cơ sở khác để đi đến kết luận đó, một điểm mà tôi sẽ đề cập ngay). Trong khía cạnh này các định lí Greenwald-Stiglitz trước hết không được coi là cơ sở cho việc vạch ra can thiệp của chính phủ. Một trong những lí do chúng không tạo cơ sở cho qui định can thiệp là, làm như vậy sẽ đòi hỏi một mô hình hình thức và chi tiết hơn về chính phủ. Khi định lí trung tâm của kinh tế học khẳng định rằng không chính phủ nào - bất kể nó nhân từ đến đâu, bất kể nó duy lí đến đâu - có thể làm tốt hơn chút nào so với thị trường, chúng ta ít cần đến một lí thuyết về chính phủ: nó chỉ có thể làm tồi tệ hơn. Nhưng các định lí Greenwald-Stiglitz khẳng định rằng có một vai trò tiềm năng cho chính phủ. Liệu chính phủ có nên can thiệp và can thiệp thế nào là một vấn đề tôi sẽ quay lại sau. (Có lẽ, do các chính phủ là các định chế chính trị, câu trả lời sẽ phụ thuộc một phần vào hình thức mà các định chế này có hoặc có thể có. Các định lí cho chúng ta biết, nếu chính phủ quyết định can thiệp thông qua, thí dụ, thuế và trợ cấp, các tham số chủ chốt dựa trên đó thuế suất và tỉ lệ trợ cấp phải phụ thuộc vào). Các lí do khác vì sao các nền kinh tế thị trường với thông tin không hoàn hảo có thể không có hiệu quả Pareto Trong khi các định lí Greenwald-Stiglitz đưa ra lập luận mạnh mẽ nhất bác bỏ định lí căn bản thứ nhất của kinh tế học phúc lợi, nhiều kết quả khác của hệ thuyết thông tin đưa ra những phê phán căn bản ngang như thế. Tôi muốn lưu ý chỉ đến ba kết quả, hai trong số đó liên quan đến cách thức những cân nhắc lí thuyết thông tin dẫn đến kết luận rằng các giả thiết khác của mô hình cạnh tranh chuẩn (mô hình tạo cơ sở cho định lí căn bản của kinh tế học phúc lợi) sẽ không được thoả mãn. Danh mục dưới đây không phải là toàn diện. Tôi cố tập trung vào cái tôi xem là các giả thiết kinh tế chủ yếu. [19] Tính không đầy đủ của các thị trường Chúng ta đã nhấn mạnh ở chương 2 đến tầm quan trọng trong hệ thuyết cạnh tranh chuẩn - và tính phi hiện thực- của giả thiết rằng có một tập đầy đủ của các thị trường, bao gồm một tập đủ của các thị trường rủi ro và kì hạn. Các chi phí giao dịch Tính đầy đủ của thị trường tự nó có thể được giải thích bằng các chi phí giao dịch, một thành phần quan trọng của chúng là các chi phí thông tin. Có các chi phí liên quan đến thiết lập thị trường. Giả như nếu có các thị trường cho mỗi trong hàng triệu hàng hoá, mỗi trong hàng tỉ các tình huống tuỳ thuộc, mỗi trong vô số các thời điểm tương lai, thì quá nhiều nguồn lực của xã hội bị hút vào việc tổ chức các giao dịch này đến mức chẳng còn mấy để mà mua và bán trên mỗi trong những thị trường này! Một khi chúng ta thừa nhận có vô số sự kiện ảnh hưởng đến chúng ta, chúng ta công nhận là không thể có thậm chí một tập đầy đủ của các thị trường rủi ro (bảo hiểm mọi tình huống rủi ro). Mỗi xí nghiệp bị ảnh hưởng không chỉ bởi các sự kiện tác động đến ngành mà cả bởi các sự kiện cá biệt - bệnh tật của giám đốc, sự hỏng hóc của một chiếc máy, việc bỏ đi của một người bán hàng chủ chốt. Bản thân xí nghiệp có thể mua bảo hiểm cho nhiều rủi ro mà nó đối mặt, như bảo hiểm khi xe tải của nó gặp tai nạn hoặc cho cháy nhà máy, nhưng hầu hết các rủi ro mà nó phải đối mặt không thể được bảo hiểm. Quan niệm rằng có các thị trường cho mỗi trong những rủi ro này là không thể tin được. Sự Không nhất quán giữa các giả thiết về "Các thị trường đầy đủ" và "các thị trường cạnh tranh" Hệt như số chiều rất lớn của "các trạng thái tự nhiên" làm cho hiển nhiên rằng một tập đầy đủ của các chứng khoán đơn giản là không thể tồn tại, cũng thế do số chiều rất lớn của không gian các sản phẩm làm cho rõ ràng rằng một tập đầy đủ của các thị trường cho các mặt hàng không thể tồn tại, một khi chúng ta nhớ lại rằng các sản phẩm được định nghĩa bởi một đặc tả đầy đủ của các đặc trưng của chúng: Các sản phẩm có chất lượng khác nhau được coi là các mặt hàng khác nhau, và các sản phẩm được giao ở các thời điểm và các địa điểm khác nhau được coi là các mặt hàng khác nhau. Ý tưởng của Arrow và Debreu coi các mặt hàng tại các thời điểm và các trạng thái tự nhiên khác nhau như các mặt hàng khác nhau xem ra giống như một thủ thuật toán học khéo léo, cho phép mở rộng mô hình chuẩn tới một dải mới, rộng hơn của các vấn đề, nhưng khi khảo sát kĩ hơn thì linh hồn cơ sở của mô hình mất hiệu lực: Hoặc đơn giản không thể tồn tại một tập đầy đủ của các thị trường (giả như thế thì phải có một thị trường cạnh tranh hoàn hảo cho việc giao một chiếc máy có đặc điểm kĩ thuật chi tiết đến một nhà máy tại một ngày nhất định vào một giờ cụ thể) hoặc, nếu giả như tồn tại một tập đủ các thị trường, thì khó có thể hình dung mỗi thị trường đó như một thị trường cạnh tranh "hoàn hảo" được (tức là có rất nhiều nhà buôn ở cả bên mua và bên bán sao cho mỗi thương gia tin rằng mình có ảnh hưởng không đáng kể lên giá). Tất yếu, các thị trường hẳn phải lèo tèo và cạnh tranh không hoàn hảo. [20] Hãy xét, thí dụ, thị trường lao động. Mỗi cá nhân là khác biệt, theo vô số cách. Một tập đầy đủ của các thị trường sẽ bắt phải có thị trường khác nhau cho mỗi loại lao động - một thị trường cho lao động của Joe Stiglitz, thị trường này khác với thị trường cho lao động của Paul Samuelson, cái đến lượt nó lại khác thị trường cho các thợ ống nước, cái đến lượt nó lại khác với thị trường cho lao động không có kĩ năng, vân vân. Nếu chúng ta thận trọng trong định nghĩa các thị trường cho các mặt hàng đồng đều (lao động của Joe Stiglitz được tiến hành tại một ngày, trong một trạng thái, ở tại một địa điểm cụ thể), thì chỉ có một thương gia duy nhất ở mỗi bên bán và bên mua (Joe Stiglitz). Nếu chúng ta mở rộng các thị trường để bao trùm tất cả các nhà kinh tế học lí thuyết, thì hiển nhiên có cạnh tranh hơn. Nhưng chúng ta phải từ bỏ các giả thiết rằng các mặt hàng là đồng đều và tập của các thị trường là không đầy đủ; không có một thị trường tách biệt cho mỗi mặt hàng đồng đều. Thông tin bất đối xứng và các thị trường đầy đủ Thông tin không hoàn hảo hiển nhiên đảm bảo rằng tập của các chứng khoán là không đầy đủ, vì các cá nhân chỉ có thể trao đổi trên các trạng thái cùng quan sát được. [21] Nếu tôi hứa giao cho anh cái gì đó trong một tập các trạng thái cụ thể, nó phải được quan sát với cả hai chúng ta rằng trạng thái ấy đã xảy ra; để dùng hệ thống pháp luật để thực thi một hợp đồng như vậy, nó phải là có thể xác minh được đối với một bên thứ ba, đứng ngoài. Sự bất lực để làm thế rõ ràng sẽ hạn chế tập của các chứng khoán. Nhưng vượt ra ngoài điều đó, tính bất đối xứng của thông tin hạn chế rất nhiều các cơ hội trao đổi, một ý niệm được thâu tóm trong một châm ngôn quen thuộc: Tôi không muốn mua thứ gì đó từ người muốn bán thứ đó cho tôi. Tất nhiên nguyên lí lâu đời về sự khác biệt sở thích và ưu thế cạnh tranh tạo động cơ cho trao đổi vẫn đúng, nhưng có động cơ khác cho trao đổi, có thể nói trắng ra là "lừa bịp". Trong khi trong các trao đổi truyền thống cả hai bên đều thắng, nếu tôi có thể khiến anh trả nhiều hơn cho cái gì đó hơn nó đáng - mua một xe cũ vô dụng - thì tôi thắng và anh thua thiệt. Những người nông dân có động cơ mạnh để bán thu hoạch mùa vụ của họ trên thị trường kì hạn, nhưng hầu hết không sử dụng cơ hội này, vì lí do chính đáng. Những thị trường đó bị khống chế bởi bốn-năm công ti thương mại lớn, những người có mọi khuyến khích để có nhiều thông tin hơn các nông dân nhỏ lẻ. Sự chênh lệch thông tin có nghĩa rằng người nông dân ở thế bất lợi; các công ti thương mại có thể kiếm lời từ sự kém hiểu biết tương đối của nông dân. Biết điều này, sự chọn lựa là chịu rủi ro hơn là trả giá. Bất đối xứng thông tin gây ra những bất hoàn hảo thị trường trong nhiều thị trường, khác so với thị trường bảo hiểm, thị trường kì hạn, và thị trường xe cũ. Hãy xét, thí dụ, thị trường cho "lao động đã dùng", tức là những người lao động đang có việc làm. Người sử dụng lao động hiện tại thường có nhiều thông tin liên quan đến năng lực của họ hơn là những người sử dụng lao động sắp tới. Một người sử dụng lao động sắp tới biết rằng nếu nó đưa ra lời chào mời để thu hút một nhân viên của một công ti khác, thì công ti đang sử dụng sẽ thoả mãn nhu cầu để giữ, nếu nhân viên đó xứng đáng, và sẽ không nếu nhân viên không xứng đáng. Như thế, lần nữa, người sử dụng lao động sắp tới ở tình trạng ngửa anh thắng, sấp tôi thua: Nó chỉ thành công trong thuê nhân viên mới nếu nó chào mức lương cao hơn mức người sử dụng hiện tại cho là xứng đáng. Chắc chắn, có các trường hợp khi năng suất của nhân viên đó ở hãng mới sẽ cao hơn ở hãng cũ - nhân viên hợp hơn với công việc - hoặc có các lí do khác (ngoài lương) mà cá nhân ấy muốn đổi chỗ làm (để được gần họ hàng hơn, hoặc để thoát khỏi họ). Kết quả là có một số trao đổi trong thị trường lao động đã được dùng, nhưng ngoài những lao động trẻ muốn cho hợp với một công ti nào đó, các thị trường này có xu hướng lèo tèo. Tương tự, vốn cổ phần tạo chia sẻ rủi ro hữu hiệu hơn giữa các nghiệp chủ và những người cung cấp vốn so với tín dụng; các nhà cung cấp vốn cổ phần chia sẻ rủi ro, trong khi với tín dụng (vay ngân hàng hay trái phiếu) thì các nghiệp chủ hay các cổ đông gốc của công ti phải chịu rủi ro còn lại. [22] Thế mà các thị trường vốn cổ phần khét tiếng không hoàn hảo; chỉ có một phần nhỏ của đầu tư mới được cung cấp bởi vốn cổ phần. [23] Một trong những lí do của điều này là những bất đối xứng thông tin: Những người bán cổ phần có thông tin tốt hơn những người mua; họ khao khát nhất để bán cổ phần trong công ti của họ khi thị trường định giá quá cao cổ phần của họ. Những người mua biết điều này. Như vậy sự sẵn lòng của các hãng để phát hành cổ phần gửi một tín hiệu cho thị trường, rằng những người bán nghĩ là cổ phần được định giá cao. Thị trường phản ứng, và giá cổ phần xuống. Chắc chắn, có các lí do khác - bên cạnh cổ phần của hãng được định giá cao - để một hãng phát hành cổ phần. Những người chủ của công ti có thể không ưa rủi ro, và, như chúng ta đã nhắc tới, vốn cổ phần tạo một phương pháp hữu hiệu hơn cho phân chia rủi ro so với các phương pháp tăng vốn khác. (Trong một số khu vực, như bảo hiểm, các qui chế đòi hỏi rằng hãng phải tăng vốn qua vốn cổ phần). Những người ngoài ("thị trường") tuy vậy không thể nói liệu lí do mà công ti bán cổ phần là do giá cổ phiếu cao, hay do các ngân hàng từ chối cho công ti vay, hoặc những người chủ của công ti nhận ra rằng vốn cổ phần là cách hữu hiệu hơn để phân chia rủi ro. Thật vậy, khi công ti phát hành cổ phần, tính trung bình, giá rớt (trung bình, mức giảm về giá trị của các cổ phần hiện hành là khoảng 30 phần trăm của khoản tăng vốn; [24] và trong một số trường hợp sự sụt giảm lớn hơn nhiều khoản vốn được tăng): Thị trường gắn một xác suất nào đó cho khả năng là công ti phát hành cổ phần bởi vì chúng được định giá cao. Nhìn từ triển vọng của công ti điều này làm cho việc phát hành cổ phần rất tốn kém. Và đây chính là cái (ít nhất một phần) lí giải vì sao người ta tương đối ít trông cậy vào vốn cổ phần như một công cụ để kêu gọi tăng vốn mới. Hiểm hoạ đạo đức Những bất đối xứng thông tin gây ra hai vấn đề, được nhắc tới như vấn đề chọn lọc có hại (adverse selection) [25] và vấn đề khuyến khích hoặc hiểm hoạ đạo đức (moral hazard). [26] Cả hai có thể thấy rõ nhất trong bối cảnh của các thị trường bảo hiểm, nhưng chúng cũng nảy sinh trong một loạt các hoàn cảnh khác nữa. Vấn đề thứ nhất dẫn đến các xí nghiệp không có khả năng nhận được bảo hiểm cho lợi nhuận của chúng: rõ ràng là xí nghiệp có nhiều thông tin hơn về triển vọng của mình so với hãng bảo hiểm, và hãng bảo hiểm lo rằng nếu xí nghiệp sẵn lòng trả phí bảo hiểm, thì xí nghiệp có thương vụ quá hời. Tức là, có xác suất cao là hãng bảo hiểm sẽ phải trả hết theo đơn bảo hiểm. Hiểm hoạ đạo đức cũng dẫn đến bảo hiểm bị hạn chế. Độ bao phủ của bảo hiểm càng đầy đủ, thì càng có ít khuyến khích để các cá nhân hay xí nghiệp hành động nhằm đảm bảo rằng sự cố được bảo hiểm sẽ không xảy ra. Bởi vì các hành động cần thiết để giảm khả năng xảy ra các sự cố được bảo hiểm thường không quan sát được (và/hoặc không thể xác minh được liệu người được bảo hiểm đã thực hiện các hành động cần thiết), cho nên khoản trả bảo hiểm không thể định ra tuỳ thuộc vào việc cá nhân hay xí nghiệp thực hiện các hành động đó. Như vậy các hãng bảo hiểm y tế mong muốn những người được họ bảo hiểm không hút thuốc hoặc không ở những nơi mà họ chịu hệ quả của "người hút thuốc gián tiếp", tức là của khói thuốc do người khác hút. Nhưng các hãng bảo hiểm không quan sát được các hành động này, và như thế không thể yêu cầu những người được họ bảo hiểm đừng hút thuốc. [27] Điều khoản bảo hiểm đầy đủ sẽ làm giảm đáng kể các khuyến khích, đến mức trong nhiều trường hợp để hãng bảo hiểm hoà vốn sẽ cần đòi phí bảo hiểm cao làm cho đơn bảo hiểm không hấp dẫn. Như thế, nhìn chung, khi có hiểm hoạ đạo đức, thì sẽ không có bảo hiểm đầy đủ. [28] Các vấn đề khuyến khích tương tự nảy sinh trong nhiều thị trường khác. Tiền lương của hầu hết các xí nghiệp không đơn thuần được trả trên thành tích. Đầu vào (nỗ lực) là khó có thể giám sát được. Có thể giám sát đầu ra, nhưng nếu tiền lương chỉ phụ thuộc vào đầu ra, thì sự đền bù sẽ thay đổi rất nhiều, bởi vì có nhiều yếu tố quyết định đầu ra, bên cạnh nỗ lực. Thực ra, để tiền lương chỉ phụ thuộc một phần vào thành tích, thì các xí nghiệp đã cung cấp một số bảo hiểm cho người lao động của mình, mặc dầu bảo hiểm là không đầy đủ. Nếu tiền lương không phụ thuộc gì vào thành tích, thì người làm không có khuyến khích để có bất kì nỗ lực nào. [29] Như thế cả hiểm hoạ đạo đức lẫn chọn lọc có hại tạo ra các lí do cho các thị trường là mong manh, lèo tèo (thin); trong một số trường hợp thị trường có thể thực tế bị đóng. Khi kết hợp với các chi phí giao dịch khác, chúng củng cố kết luận rằng các thị trường là không đầy đủ. Sự thiếu nhất quán giữa các giả thiết về thông tin hoàn hảo và các thị trường đầy đủ Một cách tinh tế hơn, số các thị trường tồn tại ảnh hưởng tới cơ cấu thông tin của các thương gia; tức là, giá ở các thị trường khác nhau truyền đạt thông tin. Nếu giá kì hạn của lúa mì là rất cao, có thể suy luận rằng những cá nhân am hiểu trên thị trường tin rằng hoặc cầu trong tương lai sẽ cao hoặc cung sẽ thấp. Các thương gia không am hiểu, như thế, có thể lượm một số thông tin từ các thương gia am hiểu bằng cách ngó vào giá; và lượng thông tin mà họ có thể lượm được phụ thuộc vào thị trường nào tồn tại. Trong một số trường hợp các thương gia không am hiểu có thể lượm được tất cả thông tin từ các thương gia am hiểu. (Thảo luận của các nhà kinh tế học hàn lâm đôi khi gợi lại các cuộc tranh luận tôn giáo Thời Trung cổ về liệu có bao nhiêu nàng tiên có thể nhảy múa trên đầu một chiếc kim: Đã có thảo luận dài về liệu có thể suy luận ra trạng thái tự nhiên của nền kinh tế từ giá cả thị trường. [30] Nếu, thí dụ, giả như có một biến số ngẫu nhiên duy nhất ảnh hưởng đến lợi tức của một chứng khoán nào đó, và nếu giả như có các cá nhân am tường biết giá trị của biến số ấy, thì giá sẽ tiết lộ hoàn toàn biến số đó. Nếu giả như điều đó đúng với mọi chứng khoán rủi ro, giá cả sẽ tiết lộ toàn bộ trạng thái tự nhiên. Nhưng không gian "sự kiện" là lớn hơn rất nhiều so với không gian giá - có hàng trăm biến số ảnh hưởng đến tính sinh lời của xí nghiệp - nên dường như ngớ ngẩn đi hi vọng rằng ai đó nhìn vào giá có thể suy ra trạng thái của tự nhiên). Phải rõ tất nhiên rằng, để cho các thương gia có khuyến khích thu thập thông tin thì nhất thiết thông tin không được phát tán hoàn hảo trong thị trường. Nếu, đơn thuần nhìn vào giá cả thị trường, những người không chi tiền để kiếm thông tin lại có thể lượm được mọi thông tin mà những người am tường đã phải bỏ tiền ra mới có được, thì các thương gia am tường sẽ chẳng có ưu thế nào về thông tin; họ sẽ chẳng có khả năng nhận được bất kể khoản lợi nào cho khoản chi phí kiếm thông tin của họ. Như thế, nếu giả như có tập đầy đủ của các thị trường, thông tin sẽ được truyền đạt tốt đến mức các nhà đầu tư không có khuyến khích nào để thu thập thông tin. (Tất nhiên với tất cả những người tham gia cùng có lượng thông tin bằng không [zero], thì các khuyến khích để trao đổi sẽ bị giảm đi đáng kể). Phát biểu một cách khác, giả thiết về các thị trường "am hiểu" [31] và giả thiết về "một tập đầy đủ của các thị trường" có thể loại trừ lẫn nhau. [32] Tính không thể về mặt ý niệm của tập đầy đủ của các thị trường Các vấn đề với giả thiết về một tập đầy đủ của các thị trường ăn sâu hơn. Muộn hơn trong các bài giảng này tôi sẽ nhấn mạnh tầm quan trọng của đổi mới sáng tạo, nhưng khó có thể hình dung là có các thị trường cho các tình huống (trạng thái) chưa được hình dung tới: Chắc chắn một sự kiện như phát minh ra các nguyên lí cơ sở cho năng lượng nguyên tử và sự phát triển tiếp theo của năng lượng nguyên tử thương mại là một sự kiện kinh tế cực kì quan trọng, đặc biệt đối với những người chủ sở hữu các nguồn năng lượng khác. Thế nhưng làm sao mà các thị trường về những rủi ro này - hoặc về những rủi ro gắn với laser hoặc transistor- lại có thể tồn tại trước khi các khái niệm cơ bản này được phát triển? Đây là sự không nhất quán căn bản giữa ý tưởng về một tập đầy đủ của các thị trường và quan niệm về đổi mới sáng tạo. [33] Tôi đã chi tiết hoá một số lí do căn bản vì sao các thị trường chắc là không đầy đủ. Cho nhiều mục đích không quan trọng vì sao chúng lại không đầy đủ. Cái chính là chúng không đầy đủ. Thiếu cạnh tranh Một phê phán khác của định lí căn bản của kinh tế học phúc lợi là nó giả thiết rằng có cạnh tranh hoàn hảo, rằng mọi xí nghiệp đều là một người chấp nhận giá. Hầu hết các thị trường thực ra là không cạnh tranh hoàn hảo. Một lí do là, khi thông tin là không hoàn hảo và tốn kém, thì các thị trường sẽ thường không là cạnh tranh hoàn hảo. Thông tin không hoàn hảo ban cho các xí nghiệp một mức độ quyền lực thị trường nhất định. Mặc dù có cạnh tranh, nó không là cạnh tranh hoàn hảo của các sách giáo khoa kinh tế học, với các xí nghiệp chấp nhận giá; nó hơi giống cạnh tranh độc quyền, loại được Chamberlin thảo luận nửa thế kỉ trước. [34] (Tôi sẽ quay lại điểm này muộn hơn; bây giờ tôi đơn thuần muốn nhấn mạnh rằng các kết quả phúc lợi phụ thuộc nhiều vào giả thiết về các xí nghiệp chấp nhận giá, tức là, về cạnh tranh hoàn hảo). Do thông tin không hoàn hảo, nếu một xí nghiệp tăng giá, không phải khách hàng của tất cả các xí nghiệp sẽ lập tức có khả năng tìm ra một xí nghiệp định giá thấp hơn cho cùng một mặt hàng; thực ra các khách hàng có thể suy luận rằng các xí nghiệp khác cũng đã tăng giá của họ. Cũng tương tự, nếu nó hạ giá, nó sẽ không lập tức hút được toàn bộ khách hàng từ các cửa hàng có giá cao hơn. Tìm kiếm là tốn kém, và như thế những người trên thị trường hiếm khi biết hết giá được định ra bởi mọi xí nghiệp bán mọi thứ hàng mà họ quan tâm. Tính không hoàn hảo của cạnh tranh nảy sinh, tuy vậy, không chỉ từ thông tin không hoàn hảo, mà cũng từ các chi phí cố định, nhiều loại chi phí này có liên quan đến thông tin. Có các chi phí cố định nảy sinh trực tiếp trong sản xuất - chi phí chung để vận hành một xí nghiệp- và các chi phí cố định gắn với thông tin về sản xuất thế nào. Điều này có nghĩa rằng không chắc là có rất nhiều xí nghiệp sản xuất mọi loại chất lượng của mỗi loại hàng hoá ở mỗi địa điểm tại mỗi thời gian trong mọi trạng thái tự nhiên. Như chúng ta đã nhắc tới trước đây, với thậm chí các chi phí cố định rất nhỏ, nhiều "thị trường" này sẽ chỉ có ít nhà cung cấp. Vì những lí do này và các lí do khác, các xí nghiệp đối mặt với các đường cầu dốc xuống. Các thị trường có thể rất cạnh tranh-nhưng không phải cạnh tranh hoàn hảo. Mỗi sự lệch khỏi cạnh tranh hoàn hảo có thể là nhỏ, như khi cộng lại, chúng có thể lên tới mức - vô số sự lệch nhỏ có thể dẫn tới một bức tranh về nền kinh tế khác xa bức tranh của hệ thuyết chuẩn. Đặc biệt, chỉ với các điều kiện ngặt nghèo thì nền kinh tế mới có hiệu quả Pareto (ràng buộc [hay hạn chế]). [35] Lí do cho việc này có thể trình bày đơn giản. Với các đường cầu dốc xuống, giá - đo lợi ích biên hoặc sự sẵn lòng trả tiền của người tiêu dùng - vượt chi phí biên. Lerner (1944) đã chỉ ra rằng nếu tất cả các xí nghiệp đối mặt với cùng một độ co giãn về cầu, giả như phát sinh từ riêng lao động, và độ co giãn của cung lao động giả như bằng không, thì ngay cả với các xí nghiệp độc quyền nền kinh tế vẫn có thể có hiệu quả Pareto. Nhưng đây là trường hợp cá biệt. Nhìn chung, cung lao động không phải không co giãn, như vậy độc quyền trong thị trường hàng hoá ảnh hưởng đến lương thực tế và, đến lượt nó, đến cung lao động; Cũng thế mức độ độc quyền (độ co giãn của cầu) là khác nhau giữa các sản phẩm. Lerner (và các nhà nghiên cứu khác) đã tập trung vào sản lượng tương đối của các mặt hàng khác nhau được sản xuất ra dưới cạnh tranh không hoàn hảo. Cũng đúng là tập các sản phẩm được sản xuất ra có thể không phải là tập đáng mong mỏi. Một xí nghiệp sản xuất một sản phẩm nếu thu nhập vượt quá chi phí. Trong ra quyết định, xí nghiệp chẳng để ý đến mức độ lợi nhuận nó thu được do làm tổn hại đến xí nghiệp khác. Nếu nó sản xuất một mặt hàng mới, nó sẽ di đường cầu của các xí nghiệp khác sang trái như ở hình 3.1. Nó có thể di đường cầu của một số xí nghiệp sang trái đến mức không còn lợi nhuận để sản xuất. Có sự mất mát thặng dư của người tiêu dùng (diện tích gạch sọc ABC). Sự mất mát thặng dư tiêu dùng có thể vượt thặng dư tiêu dùng nhận được từ sản xuất mặt hàng mới. Hình 3.1 Đưa ra một mặt hàng mới có thể không làm tăng phúc lợi xã hội. Mặt hàng mới dịch đường cầu sang trái, làm cho không còn có lợi nhuận để sản xuất. Sự mất mát về thặng dư tiêu dùng (diện tích kẻ sọc ABC) có thể lớn hơn thặng dư tiêu dùng gắn với sản phẩm mới. Các thị trường tạo ra nhiễu Cuối cùng, chúng ta nghĩ về một ưu điểm lớn của các nền kinh tế thị trường là khả năng của nó để "giải" các vấn đề thông tin một cách hiệu quả. Thế mà khi thông tin là tốn kém, thì các xí nghiệp hành động để kiếm lợi thế từ đó. Làm như vậy, chúng có thể tạo ra nhiễu [36] - chúng tạo ra, đôi khi cố ý, các vấn đề thông tin cho người tiêu dùng. Các đợt giảm giá tạm thời ("bán hạ giá") gây ra tán xạ giá, mặc dù chúng thường không được xem xét từ khía cạnh này. Việc tìm kiếm tốn kém tạo cho các xí nghiệp các lí do tốt để tính giá khác biệt, hoặc để giảm giá tạm thời. Các xí nghiệp hạ giá có thể thu hút lượng khách hàng lớn cho mình, nhưng các xí nghiệp giá cao vẫn có thể sống sót, phục vụ chỉ những người có chi phí tìm kiếm cao và người không có may mắn tìm được một xí nghiệp giá hạ. Các xí nghiệp giá cao bù cho qui mô bán hàng nhỏ hơn bằng lợi nhuận (giá bán) cao hơn trên mỗi đơn vị được bán. Hình 3.2 minh hoạ một trường hợp trong đó cân bằng duy nhất phải kéo theo sự tán xạ giá. Giả sử rằng mọi xí nghiệp đã tính giá như nhau. Mỗi xí nghiệp dự tính điều gì sẽ xảy ra nếu nó hạ (hay tăng) giá của mình. Nếu tăng giá, nó mất khách hàng cho các xí nghiệp khác. Nếu hạ giá, nó "lấy trộm" khách hàng từ các xí nghiệp khác. Nó "lấy trộm" những khách hàng có truy cập thông Hình 3.2 Điểm cân bằng duy nhất có thể kéo theo tán xạ giá. Với tìm kiếm tốn kém, tăng doanh thu bán hàng từ hạ giá có thể lớn hơn sự thiệt hại về doanh thu bán hàng từ tăng giá. Nếu tất cả các xí nghiệp đã tính giá như nhau, sẽ có một điểm kì dị (gãy khúc) trong đường cầu (d) tại mức giá đó. Khi ấy không thể tồn tại một cân bằng lợi nhuận bằng không, với giá duy nhất: Tại điểm tiếp tuyến giữa đường cầu và đường chi phí trung bình (AC), xí nghiệp được lợi để tính giá hoặc tăng lên hoặc giảm xuống. tin dễ nhất (những người tìm kiếm có chi phí thấp). Có thể chỉ có tương đối ít những người như vậy (với mức giảm giá nhẹ) tại bất kể xí nghiệp nào, nhưng lại có nhiều xí nghiệp mà từ đó nó có thể lấy trộm khách hàng. Tổng phần trăm tăng trong doanh thu do 1 phần trăm giảm giá có thể hoặc nhỏ hơn hoặc lớn hơn mức giảm doanh thu do tăng 1 phần trăm giá, tuỳ thuộc vào số các xí nghiệp khác mà từ đó nó có thể lấy trộm khách hàng, và số khách hàng nó lấy trộm từ mỗi xí nghiệp (cái đến lượt mình lại phụ thuộc vào số lượng các cá nhân có chi phí tìm kiếm thấp là bao nhiêu). Hình 3.2 mô tả trường hợp khi số phần trăm tăng doanh thu do giảm giá là khá lớn, so sánh với số phần trăm giảm về doanh thu do tăng giá: Đường cầu có một điểm gãy khúc. Nhưng rõ ràng là, nếu đúng là trường hợp này, thì không thể tồn tại một cân bằng với lợi nhuận bằng không, và giá duy nhất. Chúng tôi đã vẽ đường chi phí trung bình qua điểm giá duy nhất - điểm mà đường cầu gãy khúc. Rõ ràng là xí nghiệp được lợi để hoặc tăng hoặc giảm giá của mình. Trong cả hai trường hợp, nó kiếm được một khoản lời. Như thế, trong khi tán xạ giá làm cho việc tìm kiếm và các hoạt động khác nhằm làm giảm "nhiễu" của thị trường, và việc tìm kiếm hạn chế mức giá có thể chênh lệch trên thị trường, thì sự thực là sự tồn tại của thông tin không hoàn hảo- tìm kiếm là tốn kém- là nguyên nhân hàng đầu gây ra tán xạ giá. Tán xạ giá bản thân nó xuất hiện, một phần, không phải như phản ứng đối với những thay đổi ngoại sinh về các điều kiện kinh tế, hoặc những khác biệt về các điều kiện kinh tế đối mặt các xí nghiệp khác nhau, mà một cách nội sinh, như một phần của cân bằng thị trường trong đó mỗi xí nghiệp thừa nhận các hệ quả của sự thực rằng việc tìm kiếm là tốn kém. (Tức là, trong khi Grossman và Stiglitz 1976 và Lucas 1972 đã nhấn mạnh vai trò của thông tin tốn kém trong hạn chế mức độ kinh doanh chênh lệch giá, giảm tác động phân biệt của các cú sốc bên ngoài, trên thực tế thì các thị trường tạo ra nhiễu). Những khuyết tật thị trường mới và cũ Những kết quả này, kết hợp với định lí Greenwald-Stiglitz, giảm lòng tin mà chúng ta có về giả định rằng các thị trường có hiệu quả. Có hai sự khác biệt quan trọng giữa các khuyết tật thị trường mới, dựa trên cơ sở của thông tin không hoàn hảo và tốn kém cũng như các thị trường không đầy đủ, và các khuyết tật thị trường cũ liên quan đến, thí dụ, các hàng hoá công cộng và những ảnh hưởng ngoại lai của ô nhiễm môi trường: các khuyết tật thị trường cũ, hầu hết, đều dễ xác định và có phạm vi hạn chế, đòi hỏi những can thiệp được xác định rõ ràng của chính phủ. Bởi vì hầu như tất cả các thị trường đều là không đầy đủ và thông tin thì luôn luôn không hoàn hảo- các vấn đề hiểm hoạ đạo đức và chọn lọc có hại là phổ biến với mọi tình huống thị trường- các khuyết tật thị trường (mới) tràn lan trong nền kinh tế. Phân tích của Greenwald-Stiglitz về các khuyết tật thị trường này nhằm mục đích không chỉ để nhận diện sự tồn tại của khuyết tật thị trường mà cũng nhằm chỉ ra các loại can thiệp của chính phủ, những can thiệp sẽ mang lại cải thiện Pareto. Phân tích của họ còn đi xa hơn để nhận diện các tham số ứng xử (thí dụ, các độ co giãn cung và cầu) xác định các tỉ suất thuế hiệu chỉnh tối ưu. Thế nhưng một chính sách hiệu chỉnh đầy đủ sẽ kéo theo các loại thuế và trợ cấp cho hầu như mọi mặt hàng, dựa trên những ước lượng về độ co giãn cầu và cung cho tất cả các mặt hàng (bao gồm tất cả các độ co giãn chéo). Thông tin thực tiễn cần thiết để thực hiện việc đánh thuế hiệu chỉnh vượt quá xa mức sẵn có hiện thời, và chi phí quản lí loại thuế như vậy (chi phí này đã bị bỏ qua trong phân tích của Greenwald-Stiglitz) có thể vượt quá xa lợi ích thu được khi sự méo mó thị trường là nhỏ. Như vậy có lẽ là chính phủ phải tập trung chú ý vào những trường hợp mà khuyết tật thị trường là lớn và quan trọng- thí dụ, như trong các thị trường bảo hiểm chính (y tế, và có thể cả bảo hiểm xe hơi), những rủi ro gắn với an ninh việc làm, và những bất hoàn hảo của các thị trường vốn. Tôi sẽ quay lại những vấn đề thực tiễn này muộn hơn trong cuốn sách này. Hiện tại tôi đơn giản muốn nhấn mạnh đến sự khác biệt căn bản giữa các khuyết tật thị trường cũ và mới: tính phổ biến tràn lan của các vấn đề do thông tin không hoàn hảo và các thị trường không đầy đủ gây ra. Thông tin, giá cả, và tính hiệu quả của các nền kinh tế thị trường Đối với một số độc giả, khẳng định rằng các nền kinh tế thị trường là không hiệu quả khi thông tin không hoàn hảo có thể xem ra lạ lùng, và xung khắc với truyền thống Áo. Một trong những khẳng định thường được đưa ra về hệ thống giá cả là tính hiệu quả thông tin của nó. Như chúng ta giảng cho sinh viên trong các khoá nhập môn, chẳng xí nghiệp nào cần biết đến phải sản xuất thậm chí một chiếc bút chì ra sao; không xí nghiệp nào cần biết đến sự khan hiếm của bất kể đầu vào nào để sản xuất bút chì, hoặc những sở thích của người tiêu dùng. Tất cả cái mà mỗi người cần biết là giá nhận được của đầu ra và giá phải trả cho đầu vào. Tầm sâu thấu hiểu của định lí thứ nhất của kinh tế học công cộng, của bàn tay vô hình của Adam Smith, là ở chỗ ngay cả với thông tin cực kì hạn chế này thì các nền kinh tế thị trường vẫn có thể tạo ra các kết quả có hiệu quả Pareto. Chắc chắn, có tính hiệu quả thông tin to lớn: Dưới các điều kiện lí tưởng hoá của mô hình Arrow Debreu, giá cả truyền đạt thông tin một cách hiệu quả từ các nhà sản xuất đến những người tiêu dùng, và ngược lại. Thế nhưng đây là một vấn đề thông tin rất hạn chế. Khi các gánh nặng về thông tin được đặt lên thị trường- khi phải lựa chọn giữa những người lao động có năng lực khác nhau hoặc giữa các chứng khoán có chất lượng khác nhau, khi phải tạo các khuyến khích cho người lao động do giám sát không hoàn hảo, khi phải nhận và xử lí thông tin mới về một môi trường thay đổi - thì các thị trường không làm tốt như vậy, thậm chí tính với tiêu chuẩn phúc lợi hạn chế của tính hiệu quả Pareto ràng buộc. Chủ nghĩa xã hội thị trường và các khuyết tật thị trường Chương này đã giải thích tầm quan trọng của thông tin không hoàn hảo và các thị trường không đầy đủ như một lí giải vì sao các nền kinh tế thị trường lại không có hiệu quả Pareto ràng buộc, vì sao chúng không đạt các chuẩn mực về hiệu quả kinh tế mà hệ thuyết tân cổ điển đã tiên đoán. Chủ nghĩa xã hội, và chủ nghĩa xã hội thị trường, đã dự kiến để đạt tính hiệu quả kinh tế cao hơn mà không đi kèm các chi phí xã hội của chủ nghĩa tư bản. Nhưng chủ nghĩa xã hội thị trường, bằng cách trao cho chính phủ trách nhiệm điều hành các "thị trường" (hoặc "giả như" thị trường), khi các thị trường như vậy không hoạt động tốt trong khu vực tư nhân, thì nó đã chẳng giải quyết được các vấn đề này: Lí thuyết chủ nghĩa xã hội thị trường, hầu hết, đã không dựa trên phân tích về các khuyết tật thị trường này, và về lí do vì sao chính phủ có thể có khả năng giải quyết chúng, mà lại dựa vào sự so sánh ấu trĩ về thành tích thực tế của các nền kinh tế thị trường với thành tích được giả thiết của một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa thị trường với một cách nhìn lí tưởng hoá về chính phủ. Sự lí tưởng hoá này chẳng những không tính đến những thực tiễn chính trị, mà quan trọng hơn nhìn từ bối cảnh của chương này, đã không tính đến những thực tế kinh tế căn bản. Hệ thuyết thông tin mới đã khám phá ra rằng các "khuyết tật thị trường" thực ra là tràn lan trong nền kinh tế. Chúng xuất hiện trong hầu như mọi giao dịch giữa các bên tư nhân trong nền kinh tế, và trong khi chúng có thể là nhỏ trong mỗi trường hợp, tích luỹ lại chúng là quan trọng. Hơn thế nữa các khuyết tật thị trường không giống như những khuyết tật liên quan đến ô nhiễm không khí, mà để giải quyết chúng có thể dễ thiết kế một chính sách xác định và hiệu quả. Sự phổ biến tràn lan này của các khuyết tật, trong khi làm giảm lòng tin của chúng ta vào tính hiệu quả của các giải pháp thị trường, cũng làm giảm lòng tin của chúng ta vào năng lực của chính phủ đi hiệu chỉnh chúng. Nhìn từ khung cảnh của chúng ta điều quan trọng nhất là, cả lí thuyết lẫn thực tiễn của chủ nghĩa xã hội đã không chú ý đến các vấn đề này. [37] ________________________________________ [1]A. Smith, Wealth of Nations, bk. 1, ch.2. [2]Greenwald và Stiglitz (1986, 1988) phát triển một phương pháp luận chung cho phân tích những hậu quả phúc lợi của thông tin không hoàn hảo, các thị trường hạn chế, và những bất hoàn hảo thị trường khác. Họ áp dụng phương pháp luận của họ cho các nền kinh tế đối mặt với các vấn đề lựa chọn có hại, báo hiệu, các thị trường rủi ro không hoàn hảo, rủi ro đạo đức, các giao dịch tốn kém, tiền lương hiệu quả, và tìm kiếm. Công trình không được công bố cho thấy phân tích có thể được mở rộng một cách đơn giản cho các mô hình với những ràng buộc tương thích khuyến khích (tự-lựa chọn). (Xem Arnott, Greenwald, and Stiglitz 1992). [3]Có lẽ đáng chú ý là, trong những phát biểu cổ điển về mô hình cạnh tranh của mình, Debreu (1959) không chỉ không chú ý đến các giả thiết thông tin ngầm định, mà ông thậm chí dường như không nhận ra điều này như một hạn chế quan trọng của lí thuyết. Thí dụ, khi kết thúc phát biểu cơ bản của lí thuyết, ông liệt kê cái mà ông coi (có lẽ) là hai hạn chế quan trọng nhất của lí thuyết: sự thất bại trong việc tích hợp tiền vào lí thuyết giá trị và sự loại trừ các loại hàng hoá không thể chia nhỏ. Tầm quan trọng kinh tế của giả thiết về một tập đầy đủ của các thị trường kì hạn và rủi ro được lướt qua với phát biểu, "Giả thiết rằng tồn tại các thị trường cho mọi loại hàng hoá bất định … là một sự mở rộng tự nhiên của giả thiết thông thường rằng tồn tại các thị trường cho tất cả các loại mặt hàng xác định…" [4]Sử dụng thuật ngữ "cạnh tranh" theo cách thông thường, dẫn chiếu đến một thị trường trong đó có nhiều người tham gia ở cả hai phía. Tất nhiên một số nhà lí thuyết cân bằng coi như một định nghĩa của các thị trường cạnh tranh là có thông tin hoàn hảo. Điều khẳng định này có thể nghĩ như hoặc là một trò chơi chữ nghĩa hoặc là một sự thú nhận rằng, trừ khi có thể chỉ ra rằng các thị trường với thông tin không hoàn hảo ứng xử khá giống các thị trường với thông tin hoàn hảo, lí thuyết cân bằng cạnh tranh có tính thoả đáng hạn chế với tư cách là một mô tả của các nền kinh tế thực. [5]Trong các trường hợp này giá cả (lãi suất và lương) ảnh hưởng đến chất lượng của cái được trao đổi (rủi ro của người vay không trả được nợ, năng suất lao động). Chẳng lợi cho ngân hàng đi nâng lãi suất lên, ngay cả khi có dư cầu tín dụng (và nó có thể làm vậy, mà vẫn cho vay được hết như mong muốn); làm như vậy sẽ dẫn đến xác suất không trả nợ cao hơn, và như thế làm giảm lợi tức kì vọng. Chẳng lợi cho xí nghiệp đi hạ lương xuống, ngay cả khi có dư cung lao động; làm vậy sẽ dẫn đến lực lượng lao động có năng suất thấp hơn. Trong chương 4 tôi sẽ thảo luận chi tiết các vấn đề này. [6]Các công ti đưa ra giá phụ thuộc vào số lượng nhằm phân biệt các loại khách hàng khác nhau. Các công ti bảo hiểm sử dụng lượng bảo hiểm mua như một cơ sở để suy luận về khả năng xảy ra tai nạn. Tính trung bình, những người dễ bị tai nạn sẽ muốn có độ phủ (bảo hiểm) rộng hơn (Xem Rothschild and Stiglitz 1976; C. A. Wilson 1977). Trong các trường hợp khác các xí nghiệp thực hiện điều này đơn giản để tăng lợi nhuận của họ. Với thông tin hoàn hảo họ sẽ tiến hành phân biệt giá một cách hoàn hảo. Với thông tin không hoàn hảo họ có thể thu lượm thông tin về các cá nhân từ số lượng mà họ mua. Thí dụ, nếu những người mua số lượng lớn được hưởng một mức thặng dư tiêu dùng thấp hơn trên một đơn vị được mua so với những người mua số lượng ít hơn, tức là dùng hệ thống giá phi tuyến với phí trên đơn vị hàng được mua giảm dần theo số lượng hàng được mua, có thể tạo ra lợi nhuận độc quyền cao hơn so với dùng một hệ thống giá "tuyến tính". Vấn đề này được thảo luận chi tiết ở chương 4. Xem cả Stiglitz (1977b) và rất nhiều tài liệu tham khảo được viết sau đó. Lập luận hệt như vậy cũng áp dụng cho các trường hợp có cạnh tranh, nhưng không hoàn hảo. Xem, thí dụ, Salop (1977) hoặc Salop and Stiglitz (1982). [7]Trong các mô hình danh tiếng chuẩn (được thảo luận ở chương tiếp theo) lợi nhuận là cần thiết để khiến các xí nghiệp sản xuất hàng chất lượng cao (khác đi thì không có hình phạt cho sản xuất các mặt hàng xấu). Trong khung cảnh của chọn lọc có hại, lập luận tế nhị hơn. Các hợp đồng cân bằng, thí dụ, trong thị trường bảo hiểm với hai loại rủi ro, có thể được mô tả như sau: Cá nhân có rủi ro cao nhận bảo hiểm đầy đủ, ở khả năng công bằng về mặt kiểm kế của ông hoặc bà ta. Hợp đồng cho rủi ro thấp là đơn [hợp đồng] bảo hiểm tối đa hoá sự thoả dụng kì vọng của cá nhân có rủi ro thấp, tuỳ thuộc vào các cá nhân có rủi ro cao ưa thích các đơn bảo hiểm riêng của họ đối với đơn bảo hiểm này (ràng buộc tự-chọn lọc) và các khoản lời của đơn bảo hiểm là không âm. Nếu cá nhân có rủi ro thấp không ưa rủi ro hơn cá nhân có rủi ro cao, thì ràng buộc sau có thể không bắt buộc. Đơn bảo hiểm cân bằng chào cho cá nhân có rủi ro thấp tạo một khoản lợi nhuận, nhưng giả như công ti bảo hiểm giảm phí hoặc tăng ích lợi, thì tất cả những cá nhân có rủi ro cao sẽ yêu cầu đơn bảo hiểm, và với hỗn hợp đó của những người đệ đơn mua bảo hiểm (nhớ lại, giả thiết rằng hãng bảo hiểm không thể phân biệt giữa các cá nhân có rủi ro cao và thấp) lợi nhuận kì vọng của đơn bảo hiểm sụt đột ngột: Một sự giảm nhẹ về phí hay tăng nhẹ về lợi ích (của người được bảo hiểm) trong đơn bảo hiểm gây ra thua lỗ tuyệt đối. Cách lập luận chính xác như vậy áp dụng cho khung cảnh hiểm hoạ đạo đức. Giả sử rằng các cá nhân có lựa chọn về hai hoạt động khác biệt, một hoạt động "an toàn" và một hoạt động mạo hiểm. Hoạt động nào được người được bảo hiểm tiến hành phụ thuộc vào đơn bảo hiểm. Với bảo hiểm đầy đủ hơn, người được bảo hiểm tiến hành hoạt động mạo hiểm. Hợp đồng bảo hiểm cân bằng có thể được mô tả như một hợp đồng tối đa hoá tính thoả dụng của người được bảo hiểm, tuỳ thuộc vào người được bảo hiểm tiến hành hoạt động an toàn và với điều kiện lợi nhuận không âm. Lại một lần nữa bài toán tối ưu hoá này có thể đưa đến là ràng buộc sau không bắt buộc. Hợp đồng cân bằng tạo lợi nhuận, nhưng một sự tăng nhẹ lợi ích, thí dụ, sẽ gây ra kết quả là những người được bảo hiểm chuyển từ hoạt động an toàn sang hoạt động mạo hiểm, với lợi nhuận lao xuống đột ngột từ dương sang âm. Về một thảo luận đầy đủ hơn, bao gồm lập luận hình thức, và những trình bày đầy đủ hơn về các giả thiết, xem Arnott and Stiglitz (1988a). [8]Các khoản chuyển giao trọn gói hệt nhau đối với mọi cá nhân, bất chấp những khác biệt về các đặc trưng có thể quan sát được. [9]Phân tích tổng quát là của Greenwald và Stiglitz (1986, 1988). Bài báo đầu tiên chỉ ra tính phi hiệu quả Pareto hạn chế của các nền kinh tế thị trường trong đó các thị trường cân bằng [clear], và bài báo thứ hai (1988) chỉ ra tính hiệu quả lương, tìm kiếm, và các mô hình khác trong đó các thị trường không cân bằng [do not clear]. (Thảo luận bao quát hơn về cân bằng thị trường [market equilibrium] khi các thị trường không cân bằng [clear], xem Stiglitz 1987b). Bài báo thứ ba (Arnott, Greenwald, và Stiglitz 1992) mở rộng phân tích cho các mô hình với tự-chọn lọc [self-selection] và các ràng buộc tương thích khuyến khích. Những kết quả tổng quát hơn của Greenwald-Stiglitz được đoán trước bởi một số bài báo thảo luận các trường hợp đặc biệt. Các bài báo này cho sự thấu hiểu vào bản chất của khuyết tật thị trường trong mỗi trường hợp này. Phân tích về tính phi hiệu quả khi có hiểm hoạ đạo đức, xem Arnott and Stiglitz (1985, 1986, 1989, 1991); phân tích về tính phi hiệu quả trong các mô hình thị trường cổ phiếu, xem Stiglitz (1872b, 1982a); phân tích về tính phi hiệu quả trong các nền kinh tế thô sơ hơn, trong đó thậm chí không có thị trường cổ phiếu, xem Newbery and Stiglitz (1982, 1984); phân tích về tính phi hiệu quả trong các mô hình với các hợp đồng ngầm định, xem Newbery and Stiglitz (1987); phân tích về tính phi hiệu quả trong các mô hình tìm kiếm, xem Mortenson (1989); thảo luận về tính phi hiệu quả trong khuôn khổ các mô hình lương hiệu quả, xem Shapiro and Stiglitz (1984a). Thảo luận thấu đáo hơn về các vấn đề tổng quát của kinh tế học phúc lợi khi có bất đối xứng thông tin và thông tin không hoàn hảo có thể thấy trong các bài giảng Lindahl của tôi về "Kinh tế học phúc lợi với thông tin bất đối xứng - Welfare Economics with Asymmetric Information" (sắp xuất bản, Oxford University Press). [10]Xem ở dưới đây thảo luận tỉ mỉ hơn về nghĩa theo đó những lí giải phổ biến về sự thấu hiểu do mô hình Arrow-Debreu cung cấp là đúng và không đúng. [11]Như thế phân tích của Greenwald-Stiglitz giải thích vì sao các mô hình đại lí tiêu biểu đơn thuần chẳng có ích gì trong đánh giá tính hiệu quả của các nền kinh tế thị trường. (Tất nhiên một kết quả đưa ra các điều kiện theo đó các thị trường với những người đại lí tiêu biểu hoá ra là có hiệu quả sẽ nói cho chúng ta điều gì đó, nhưng các kết quả chứng tỏ rằng một mô hình đại lí tiêu biểu cụ thể nào đó có hiệu quả chẳng có mấy giá trị, nếu có). [12]Một thí dụ thứ ba nữa là nền kinh tế thị trường cổ phiếu không có phá sản và có một mặt hàng duy nhất được Diamond (1967) nghiên cứu. Stiglitz (1982a) chỉ ra rằng với chỉ hai mặt hàng, nền kinh tế thị trường cổ phiếu về căn bản chẳng bao giờ có hiệu quả Pareto hạn chế. Greenwald và Stiglitz chỉ ra bằng cách nào kết quả của Stiglitz (1982a) có thể được coi là trường hợp đặc biệt của định lí tổng quát hơn của họ. Các vấn đề khác, khá khác biệt, về tính hiệu quả của các nền kinh tế với một tập không đầy đủ của các thị trường rủi ro (thí dụ, khả năng có nhiều cân bằng, một trong số đó có thể bị vượt trội Pareto bởi cân bằng khác) được Stiglitz (1972b), Drèze (1974), và Hart (1975) nghiên cứu. [13]Thí dụ này giúp làm rõ kết bản chất đặc biệt của kết quả của Diamond, chỉ ra tính hiệu quả Pareto hạn chế của các nền kinh tế thị trường cổ phiếu với một mặt hàng duy nhất. Trong mô hình của ông các hành động của mỗi nhà đầu tư không có ảnh hưởng đến phân bố xác suất lợi tức, bởi vì giá tương đối của các hàng hoá khác nhau được giả thiết là cố định. [14]Đây là trường hợp trong mô hình chọn lọc có hại chuẩn. Xem Akerlof (1970). [15]Là việc tinh tế hơn một chút để chỉ ra rằng chính phủ có thể ảnh hưởng đến những thay đổi này theo cách để cho tất cả mọi người đều khá giả hơn - biết rằng chính phủ đối mặt với các hạn chế về thông tin hệt như những người sử dụng lao động đối mặt. Nhưng nếu có đủ nhiều loại mặt hàng khác nhau (mà các nhóm có năng lực khác nhau có sự ưa thích khác nhau), thì có thể chỉ ra rằng chính phủ quả thực có thể đạt một cải thiện Pareto. [16]Thảo luận này làm rõ vì sao các kết quả trước đây, như của Shavel (1979) khẳng định tính hiệu quả Pareto hạn chế của các nền kinh tế thị trường có hiểm hoạ đạo đước với một mặt hàng duy nhất là không tổng quát: Với một loại hàng hoá thì chính sách của chính phủ không có cơ hội ép cẩn trọng hơn thông qua các thuế suất khác biệt với các hàng hoá khác nhau. [17]Một cách đưa ra các suất thuế/trợ cấp tối ưu, xem Arnott and Stiglitz (1986). [18]Một định lí dân gian là một định lí được biết đến rộng rãi, mà nguồn gốc của nó không dễ tìm ra. Nó là một phần của truyền thống truyền miệng trong một lĩnh vực cụ thể. Định lí dân gian nổi tiếng nhất mới đây là định lí trong các trò chơi lặp lại, nó phát biểu rằng đối với bài toán thế lưỡng nan của các phạm nhân được lặp lại mãi mãi, thì chiến lược "hợp tác-hợp tác" là một cân bằng hoàn hảo trò chơi phụ của trò chơi chính. [19]Nhiều năm trước, khi tôi được phân nhiệm vụ lên chương trình thi tiến sĩ toàn diện về kinh tế học vĩ mô, tôi đã ngốc đến mức đi hỏi những giả thiết kinh tế chủ yếu nào của các định lí căn bản của kinh tế học phúc lợi có thể bị nghi ngờ. Ít nhất một phần ba sinh viên, được đào tạo tốt về toán liên quan đến các định lí này, đã trả lời với thảo luận kéo dài về vai trò của giả thiết không thoả mãn, hoàn toàn bỏ qua bất kể thảo luận nào về các vấn đề mà tôi quan tâm đến trong các bài giảng này. [20]Giả như không có tính không lồi (nonconvexity), như lí thuyết chuẩn giả thiết, thì có lẽ có thể có nhiều xí nghiệp sản xuất tại mỗi ngày, mỗi địa điểm, và mỗi trạng thái tự nhiên. Theo một nghĩa nào đó lí thuyết là nhất quán trong đưa ra một loạt các giả thiết vô lí, nhưng "chặt chẽ". Với các chi phí cố định nhỏ gắn với sản xuất của mỗi mặt hàng có trạng thái-địa điểm-thời gian cụ thể này (hoặc mỗi nhóm của các mặt hàng như vậy), không chỉ sẽ không có nhiều xí nghiệp sản xuất mỗi thứ, mà nhiều mặt hàng như vậy thậm chí sẽ không được sản xuất ra. [21]Điểm này được Radner (1968) đưa ra đầu tiên. [22]Điều này không hoàn toàn chính xác. Chừng nào có khả năng không trả được nợ, thì những người cho vay chịu một số rủi ro còn lại. [23]Xem Stiglitz (1992b). [24]Xem Asquith and Mullins (1986). [25]Điều này đôi khi được nhắc tới như vấn đề về "tri thức được che dấu", ngược lại với vấn đề hiểm hoạ đạo đức được nhắc đến như một vấn đề về "hành động che dấu", nhưng tôi nghĩ cách mô tả hơi lầm lạc. Vấn đề hiểm hoạ đạo đức nảy sinh bởi do một loại vấn đề tri thức bị che dấu - tri thức bị che dấu liên quan đến các hoạt động của cá nhân. Vì sao chúng tôi dùng thuật ngữ "vấn đề chọn lọc" hoặc "vấn đề sàng lọc" có thể thấy rõ ràng hơn trong khung cảnh của thị trường bảo hiểm hoặc thị trường lao động. Hãng bảo hiểm muốn chọn lọc hoặc sàng lọc để có rủi ro thấp nhất; người sử dụng lao động muốn chọn lọc (hoặc sàng lọc) lấy những người lao động có năng suất cao nhất. Trong thị trường sản phẩm ô tô cũ người mua muốn chọn ra xe ôtô được định giá thấp nhất, tức là, chiếc xe cũ có giá trị cao nhất. Tất cả các vấn đề này có điểm chung là có một đặc trưng của mặt hàng quan trọng đối với một bên (thí dụ, người mua) mà nó không quan sát được một cách không tốn kém hoặc trực tiếp đối với cá nhân ấy. Thuật ngữ chọn lọc có hại được dùng để chỉ sự thực là khi một điều khoản nào đấy của hợp đồng thay đổi, thì có một tác động có hại lên chất lượng của hỗn hợp của những người chào mình trên thị trường; thí dụ, tăng phí bảo hiểm có ảnh hưởng xấu đến hỗn hợp của những người muốn mua bảo hiểm, tăng lãi suất của khoản vay có ảnh hưởng xấu lên những người muốn vay, với một sự gia tăng tỉ lệ của những người có rủi ro xấu - những người có xác suất không trả được nợ cao. [26]Điều này đôi khi được nhắc tới như vấn đề hành động che dấu bởi vì một bên của hợp đồng không thể quan sát được các hành động do phía bên kia tiến hành, và tương ứng không thể làm cho các hợp đồng tuỳ thuộc vào các hành động ấy. Các hợp đồng chỉ có thể được lập tuỳ thuộc vào những kết quả có thể quan sát được, hoặc vào những hành động có thể quan sát được (cái có thể liên quan đến các hành động che dấu). [27]Lạ kì là một số hãng bảo hiểm cố phân biệt những người hút thuốc và những người không hút thuốc, tin rằng những người mua bảo hiểm sẽ thông báo một cách chân thật liệu họ có hút thuốc hay không. [28]Một trình bày chặt chẽ hơn về điểm này có thể thấy trong Arnott and Stiglitz (1988a, 1990), ở nơi được chỉ ra rằng không chỉ bảo hiểm, nhìn chung, là không đầy đủ, mà trong một số trường hợp không có bảo hiểm nào có thể được cung cấp. (Nói một cách kĩ thuật hơn, trong một số trường hợp không tồn tại cân bằng cạnh tranh. Lí do cân bằng không tồn tại là khá khác với lí do được nhắc tới trong Rothschild and Stiglitz 1976). [29]Các lí lẽ hiểm hoạ đạo đức cũng được dùng để giải thích tính mỏng mảnh, lèo tèo của thị trường vốn cổ phần: Những khoản nghĩa vụ cố định liên quan tới nợ tạo một khuyến khích cho các nhà quản lí làm việc siêng năng. [30]Thảo luận này có một lịch sử li kì. Grossman (1975) và Grossman and Stiglitz (1976), sau khi đã đưa ra một số mô hình đơn giản, trong đó giá cả tiết lộ mọi thông tin liên quan, đã coi các trường hợp này là các "trường hợp giới hạn" giúp chúng ta tập trung ý tưởng vào việc làm thế nào tạo ra các mô hình thoả đáng hơn về giá truyền đạt thông tin; và chúng tôi đã nhanh chóng đi lập các mô hình như vậy. Một bộ phận văn khoa tiếp theo (thí dụ, Radner 1979) dường như cứ khư khư bám vào cái chúng tôi coi là vấn đề sai: tìm những điều kiện theo đó giá cả truyền đạt tất cả các thông tin liên quan. Phải hiển nhiên từ phân tích của chúng tôi rằng không chỉ các giả thiết liên quan đến số chiều của trường chứng khoán được bán như hàng hoá là quan trọng mà các giả thiết liên quan đến hàm thoả dụng cũng vậy. Thí dụ, chúng tôi đã khai thác một mô hình trong đó những nông dân khác nhau có thông tin về mùa màng của họ. Điều này ảnh hưởng đến cầu kì hạn của họ, và với một hàm thoả dụng bất biến né rủi ro hoàn toàn, thì giá kì hạn truyền đạt mọi thông tin liên quan, tức là, cung cấp một bộ tiên đoán hoàn hảo của cung tương lai. Lí do là đơn giản: Cầu đối với kì hạn là tuyến tính theo độ lớn của vụ thu hoạch của mỗi nông dân, và do giá kì hạn cân bằng có thể được chỉ ra là hàm số chỉ của tổng thu hạch. Với hầu như bất kể hàm thoả dụng nào khác, cầu với kì hạn sẽ không còn tuyến tính theo độ lớn vụ thu hoạch, và như thế một giá thấp có thể có nghĩa là hoặc tổng cung cao hơn, hoặc có sự phân bố khác hẳn nhau trong độ lớn vụ thu hoạch (Xem Jordan 1983 hoặc Gale and Stiglitz 1985). [31]Tức là, các thị trường trong đó những người tham gia có thông tin khác với thông tin nhận được với chi phí bằng không. [32]Xem Grossman and Stiglitz (1980a). [33]Tất nhiên, về nguyên tắc, mô hình Arrow-Debreu bao hàm các trạng thái ngoại sinh, và không rõ là liệu chúng ta phải coi phát minh về năng lượng nguyên tử là "ngoại sinh" hoặc "nội sinh". Trong mức độ phụ thuộc vào phân bổ các nguồn lực cho nghiên cứu, nó là nội sinh. Nhưng kết quả phụ thuộc không chỉ vào sự phân bổ nguồn lực mà còn vào "trạng thái" cơ bản chưa được biết đến - thế giới mà nghiên cứu phải khám phá ra. Như thế có các chủ nghĩa hình thức có thể bao hàm các rủi ro này - nếu chúng đã được phát biểu - trong khuôn khổ hình thức hoá trạng thái tự nhiên. Tuy nhiên, nghiên cứu sẽ làm thay đổi xác suất chủ quan liên quan đến các trạng thái khác nhau của tự nhiên, và bản thân những sự thay đổi nội sinh này về các xác suất lại bị loại trừ khỏi lí thuyết. Như vậy các hình thức chủ nghĩa này không cứu nguy cho các kết quả chủ yếu của hệ thuyết cổ truyền. [34]Với sự áp đảo của kinh tế học theo Keynes trong kinh tế học vĩ mô và hệ thuyết cạnh tranh hoàn hảo trong kinh tế học vĩ mô, mô hình cạnh tranh độc quyền đã tương đối ít được khai phá cho đến tận lúc nó hồi sinh trở lại một cách hình thức bởi Spence (1976) và Dixit and Stiglitz (1977). Những sự tương đồng (và dị biệt) giữa các mô hình này và cạnh tranh không hoàn hảo gây ra bởi thông tin không hoàn hảo là hiển nhiên trong các nghiên cứu của Salop (1976), Salop and Stiglitz (1977, 1982, 1987), Stiglitz (1986a, 1989b), Wolinsky (1986), và Diamond (1971). Những kết quả này được đoán trước bởi Arrow (1988) và Scitovsky (1950). Về các tài liệu tham khảo khác xem Stiglitz (1989b). [35]Xem Dixit and Stiglitz (1977). [36]Xem Salop and Stiglitz (1977, 1982). [37]Trừ ở mức độ là chủ nghĩa xã hội thị trường nhấn mạnh đến khuyết tật thị trường trong phân bổ đầu tư một cách hiệu quả, một phần như kết quả của sự thiếu vắng các thị trường kì hạn và rủi ro cần thiết. 4. Phê phán định lí cơ bản thứ hai Định lí cơ bản thứ nhất của kinh tế học phúc lợi là quan trọng bởi vì nó nói rằng bằng cách sử dụng thị trường, chúng ta đảm bảo tính hiệu quả của nền kinh tế. Định lí Greenwald-Stiglitz (và những phát triển khác đã được nhắc tới) đã xoá bỏ bất cứ cơ sở lí thuyết nào cho điều giả định về sự đúng đắn của quan điểm đó. Cũng bằng cách tương tự, định đề thứ hai của kinh tế học phúc lợi khẳng định rằng mọi phân bổ có hiệu quả Pareto đều có thể đạt được thông qua sử dụng cơ chế thị trường. "Tất cả" cái cần là có một chính phủ tiến hành một số phân bổ trọn gói ban đầu. Định lí này được diễn dải một cách phổ biến như có nghĩa là chúng ta có thể tách li vấn đề hiệu quả khỏi phân bổ. Nó không phải là một lí lẽ chống thị trường tạo ra phân bố thu nhập không đáng mong mỏi. Nếu xã hội không thích phân bổ thu nhập này, thì ngành phân bổ của chính phủ (sử dụng thuật ngữ của Musgrave) đơn thuần chỉ thay đổi cấp phát ban đầu về nguồn lực, thông qua tái phân phối cả gói. Tân kinh tế học phúc lợi mới: Những hệ quả của thiếu thuế trọn gói Nhưng các chính phủ không tiến hành tái phân phối trọn gói- và có lí do chính đáng của nó. Họ không có thông tin cần thiết để thực hiện các loại thuế như vậy một cách công bằng. Các chính phủ rõ ràng tin rằng các cá nhân khác nhau phải đóng thuế khác nhau. Như một cơ sở của đánh thuế, họ buộc phải dựa vào các biến số có thể quan sát được, như thu nhập hay của cải, các biến số có thể thay đổi được. Vì thế thuế là méo mó. Một khi chúng ta thừa nhận rằng tái phân phối nhất thiết là méo mó, chúng ta cũng phải thừa nhận rằng phân phối các khoản cấp phát có một ảnh hưởng lên tính hiệu quả tổng thể của nền kinh tế. Điều này được minh hoạ trên hình 4.1 trong đó đường các khả năng thoả dụng được vẽ ra cho một nền kinh tế đơn giản gồm hai (nhóm) cá nhân; đường này biểu thị mức thoả dụng tối đa có thể đạt được bởi một (nhóm các) cá nhân, cho trước mức thoả dụng của (nhóm các) cá nhân kia. Đường liền mô tả các khả năng thoả dụng, với giả thiết rằng chính phủ có thông tin hoàn hảo về ai thuộc nhóm nào sao cho nó có thể thực hiện việc chuyển giao trọn gói. Đường đứt chỉ ra các ràng buộc thông tin đẩy đường các khả năng thoả dụng vào phía trong ra sao. [1] Bây giờ giả sử rằng chúng ta có thể phát biểu Hình 4.1 Với các ràng buộc thông tin, đường các khả năng thoả dụng nằm ở bên trong đường mà thuế trọn gói cho phép. thái độ của xã hội về bình đẳng bằng một đường bàng quan xã hội, như được mô tả trên hình vẽ. Chúng ta thấy rằng với đường bàng quan cho trước như mô tả, sẽ tối ưu khi có thuế méo mó. Những cân nhắc về tính hiệu quả và tính công bằng không thể tách khỏi nhau. Giả như nền kinh tế đã có cấp phát ban đầu khác về nguồn lực, thì độ lớn của đánh thuế tái phân phối cần thiết có thể đã ít hơn, và như vậy phúc lợi xã hội (của cả hai nhóm) đã có thể cao hơn. Sự thực rằng đánh thuế tái phân phối, nhìn chung, là méo mó đã làm nảy sinh ra "tân kinh tế học phúc lợi mới". [2] "Tân kinh tế học phúc lợi cũ" nhấn mạnh rằng so sánh độ thoả dụng giữa các cá nhân là không thể làm được: Tất cả cái mà nhà kinh tế học có thể làm là nêu đặc trưng của tập những phân bổ nguồn lực có hiệu quả Pareto. Nhưng "tân kinh tế học phúc lợi cũ" lại cho rằng tái phân phối cả gói là có thể thực hiện được. "Tân kinh tế học phúc lợi mới" thừa nhận những hạn chế về thông tin của chính phủ. Nó tập trung vào khái niệm [3] về "đánh thuế có hiệu quả Pareto"- cho phép chúng ta định nghĩa mức thoả dụng tối đa mà một nhóm có thể đạt cho trước mức thoả dụng của nhóm kia, cho trước những hạn chế về thông tin mà chính phủ có thể áp dụng trong quá trình tái phân phối. Như thế tân kinh tế học phúc lợi mới thừa nhận rằng tập cơ hội đối mặt với chính phủ không phải là đường liền trong hình 4.1, mà là đường đứt nằm dưới nó; nằm dưới bao nhiêu ở bất kể một điểm cụ thể nào phụ thuộc vào sự phân bổ ban đầu về của cải. Hiệu quả kinh tế và phân phối Đoạn trước đã giải thích một trong những lí do vì sao các mối quan tâm về phân phối và tính hiệu quả không thể tách rời nhau: Mức bất bình đẳng trong cấp phát ban đầu xác định chừng mực mà chính phủ phải dựa vào đánh thuế tái phân phối méo mó để đạt bất kể sự phân phối phúc lợi cuối cùng đáng mong đợi cho trước nào. Nhưng mức bất bình đẳng cũng như bản chất của các vấn đề thông tin ảnh hưởng đến mối quan hệ chính xác giữa sự bất bình đẳng và tính hiệu quả kinh tế. Trong một số trường hợp mức độ bất bình đẳng cao có thể làm giảm sút hiệu quả kinh tế (theo nghĩa tự nhiên, như sẽ rõ ra từ thảo luận tiếp theo), trong khi ở các trường hợp khác một mức bất bình đẳng nào đó có thể tăng cường hiệu quả kinh tế. Bây giờ ta xem xét kĩ hơn mối quan hệ giữa hiệu quả kinh tế và phân phối. Các vấn đề khuyến khích Các vấn đề khuyến khích nằm ở cốt lõi của kinh tế học: Một số nhà kinh tế học đã đi xa đến mức gợi ý rằng chúng là vấn đề kinh tế (duy nhất). Các vấn đề khuyến khích liên quan mật thiết với các vấn đề phân phối. Chia hoa lợi minh hoạ một khía cạnh của mối quan hệ. Trong nhiều nền kinh tế nông nghiệp có sự bất bình đẳng to lớn về của cải, tạo ra sự khác biệt giữa chủ đất và nhân công. Một kiểu dàn xếp hợp đồng phổ biến ở các nước kém phát triển dẫn đến các chủ đất và tá điền chia nhau thu nhập. Việc dàn xếp chia hoa lợi này đã bị phê phán rộng rãi, ít nhất kể từ Marshall, với lí do rằng nó làm giảm những khuyến khích của người lao động. Nếu chủ đất nhận 50 phần trăm đầu ra, nó có có tác động làm kiệt quệ nhân công hệt như một khoản thuế 50 phần trăm. Văn khoa gần đây hơn đã có cái nhìn tích cực hơn về các hợp đồng phân chia hoa lợi; chúng phản ánh sự đánh đổi của thị trường giữa các khuyến khích và việc gánh chịu rủi ro, như hình 4.2 minh hoạ. [4] Một hợp đồng thuê thuần khiết (tá điền thuê đất với một khoản tiền thuê cố định) sẽ tạo khuyến khích tốt [5] cho người lao động, vì người lao động được giữ lại toàn bộ đầu ra thêm mà bất kể sự nỗ lực thêm nào của người ấy có thể mang lại; tuy nhiên người lao động phải chịu mọi rủi ro. Một hợp đồng lấy tiền công thuần khiết sẽ dịch chuyển rủi ro sang cho chủ đất - còn thu nhập của người lao động sẽ không phụ thuộc, thí dụ, vào sự thất thường của thời tiết - chủ đất thường có khả năng gánh chịu rủi ro đó dễ dàng hơn (bởi vì tài sản của chủ đất lớn hơn), nhưng người lao động sẽ không có khuyến khích nào khác ngoài khuyến khích do giám sát trực tiếp (nên tốn kém) tạo ra. Hợp Hình 4.2 Trong đánh đổi giữa rủi ro và khuyến khích, một hợp đồng thuê thuần tuý tạo khuyến khích mạnh (nên đầu ra cao), nhưng người lao động phải gánh chịu mọi rủi ro. Một hợp đồng lấy tiền công (lương) thuần tuý tạo khuyến khích yếu, nhưng người lao động không chịu rủi ro. Hợp đồng phân chia hoa lợi là một sự thoả hiệp. đồng phân chia hoa lợi là một thoả hiệp. Nhiều bạn đọc đã bị phát biểu của tôi trước đây (1974) về cân bằng trong một nền kinh tế phân chia hoa lợi (như lời giải cho vấn đề tối đa hoá phúc lợi của, thí dụ, chủ đất khi cho trước độ thoả dụng kì vọng của tá điền và ràng buộc thông tin) dẫn lầm đến tin rằng các nền kinh tế như vậy có hiệu quả Pareto và rằng không có sự tổn thất đầu ra nào từ phân chia hoa lợi, ngược lại với quả quyết của Marshall. Đó là một cách hiểu không đúng. Tôi đã chỉ mô tả đặc điểm là cân bằng có hiệu quả hợp đồng, một dạng của tính hiệu quả cục bộ. Tính hiệu quả cân bằng tổng quát đòi hỏi nhiều hơn nhiều, và một hệ quả trực tiếp của các định lí Greenwald-Stiglitz, được nhắc tới trước đây, là các nền kinh tế phân chia hoa lợi với nhiều hơn một mặt hàng, nói chung, không có hiệu quả Pareto ràng buộc. Nhưng quan trọng hơn đối với các mục tiêu của chúng ta ở đây là nhận xét rằng ngay cả hợp đồng phân chia hoa lợi giả như có hiệu quả Pareto ràng buộc, thì đầu ra vẫn có thể là thấp hơn đáng kể so với khi thiếu phân chia hoa lợi: Một sự tái phân phối đất có thể có tác động to lớn đến đầu ra quốc gia. Tác động sẽ hệt như tác động của giảm 50 phần trăm thuế lương xuống bằng không: Hầu hết các nhà quan sát sẽ gợi ý rằng một sự thay đổi như thế về tiềm năng có thể có ảnh hưởng to lớn. [6] Vì sao bất bình đẳng quá đáng có thể là một vấn đề Lí do trực giác vì sao các vấn đề phân phối và hiệu quả không thể tách rời có thể thấy dễ dàng. Trong các nền kinh tế với giám sát tốn kém, và một sự tách bạch "vốn" khỏi "nhân công", những người chủ vốn phải tạo khuyến khích cho người lao động. Những khuyến khích này nhất thiết là không hoàn hảo và tốn kém. [7] Nếu mỗi nông dân sở hữu đất mà mình canh tác, hoặc nếu mỗi người lao động sở hữu các tư liệu sản xuất mà họ làm việc với, thì sẽ chẳng có vấn đề khuyến khích. Tổng quát hơn, sự phân phối của cải ban đầu có ảnh hưởng đến bản chất và độ lớn của các vấn đề khuyến khích đối mặt với xã hội. [8] Một cách, thí dụ, để các vấn đề khuyến khích có thể được cải thiện là những người lao động có bảo đảm. Sự bảo lãnh là hữu ích trong tạo đảm bảo cho những người sử dụng lao động không chỉ liên quan đến thành tích lao động mà cả luân chuyển nhân công; với những đảm bảo thoả đáng những người sử dụng lao động sẽ có khuyến khích lớn hơn để tiến hành huấn luyện, và điều này sẽ tăng cường hiệu quả kinh tế. Khả năng của những người lao động đặt bảo đảm cho thành tích tốt bị ảnh hưởng bởi của cải ban đầu của họ. Việc đi vay để bảo đảm không phải là cái thay thế. Như đã nhắc đến trong thảo luận về phân chia hoa lợi (xem chú thích 5 ở trên), vay để trả tiền thuê chẳng khác gì trả tiền thuê ở cuối kì; trong cả hai trường hợp các vấn đề khuyến khích (hiểm hoạ đạo đức) nảy sinh từ khả năng không trả được: Người đi vay có thể không có đủ khuyến khích để loại trừ phá sản, và để tối đa hoá doanh lợi (dồn về cho người cho vay) trong các hoàn cảnh sự phá sản xảy ra. Các vấn đề do thiếu tập trung của cải Sự bình đẳng lớn hơn tất nhiên không nhất thiết làm giảm các vấn đề khuyến khích. Sản xuất hiệu quả có thể đòi hỏi các doanh nghiệp qui mô lớn, kéo theo các khoản vốn lớn. Các vấn đề tách biệt của sở hữu và kiểm soát, mà tôi đã nhắc tới trước đây và sẽ quay lại muộn hơn, khi đó sẽ nảy sinh bởi vì bất bình đẳng "quá ít": Quả thực có một số bằng chứng rằng các xí nghiệp trong đó quyền sở hữu được tập trung (ngay cả khi những người chủ sở hữu lớn không điều hành trực tiếp) ứng xử "duy lí" hơn. Trong đoạn tiếp tôi sẽ thảo luận hai thí dụ loại này - trong hoạt động thôn tính và đánh thuế. Nhưng như tôi sẽ chỉ ra dưới đây, giải pháp cho các vấn đề này mà các nước Đông Âu có lẽ sẽ tìm sẽ không kéo theo sự gia tăng bất bình đẳng và tập trung quyền sở hữu, mà thay vào đó là phát triển các quá trình kiểm soát khả dĩ khác. Tôi nhấn mạnh mối liên hệ giữa các vấn đề phân phối và hiệu quả, bởi vì một số thảo luận gần đây về cải cách ở Đông Âu đã nhấn mạnh những quan tâm hiệu quả, mà ít chú ý đến các hậu quả đối với phân phối. Các năm sau đây sự thiếu quan tâm này đối với phân phối, tôi sẽ lập luận muộn hơn, có thể trở nên ám ảnh các nền kinh tế này, không đơn thuần ở dạng náo động xã hội, mà ở nghĩa hẹp hơn về hiệu quả kinh tế dài hạn. Chí ít, chẳng có cơ sở trí tuệ nào cho sự tách bạch của các mối quan tâm hiệu quả và phân phối. Các định lí bất khả phân tán cơ bản Một cách hiểu của định lí phúc lợi thứ hai là nó xác lập khả năng phi tập trung: Bất kể sự phân bổ nguồn lực có hiệu quả Pareto nào đều có thể đạt được thông qua cơ chế giá cả phân tán, với sự can thiệp cực kì hạn chế của chính phủ. Đặc biệt, chính phủ không phải can thiệp vào các quá trình cơ bản về phân bổ nguồn lực. Trong khi vấn đề phi tập trung hoá nằm ở tâm điểm của các cuộc tranh luận về các hệ thống kinh tế khả dĩ, khái niệm phi tập trung hoá có nhiều nghĩa khả dĩ có thể lựa chọn. Việc dùng thuật ngữ đó của tôi trong cuốn sách này sẽ phản ánh tính sử dụng đa dạng hiện hành trong kinh tế học, cũng như những sự mơ hồ gắn với các cách sử dụng ấy. Hầu như tất cả các khái niệm phi tập trung (phân quyền) đều bao hàm việc ra quyết định xảy ra tại vô số các đơn vị khác nhau trong nội bộ nền kinh tế. Các vấn đề trong định nghĩa phi tập trung hoá nảy sinh từ vô số dạng mà "những can thiệp" từ các cấp thẩm quyền cao hơn có thể có. Tính mơ hồ của khái niệm phi tập trung hoá có thể được minh hoạ bằng cách xem xét khả năng của các loại thuế phi tuyến. Các loại thuế phi tuyến có thể được thiết kế sao cho xí nghiệp hoặc cá nhân chẳng có "lựa chọn" nào ngoài việc thực hiện hành động mong mỏi bởi nhà lập kế hoạch tập trung. Theo một nghĩa cá nhân hoặc xí nghiệp có lựa chọn, nhưng các nhà chức trách trung ương đã giới hạn các lựa chọn đó, bằng cách định nghĩa khoản lợi đủ không hấp dẫn cho các lựa chọn khác với sự lựa chọn mà nhà chức trách trung ương mong muốn, sao cho thực tế không có lựa chọn. Hầu hết những can thiệp đều ràng buộc các sự lựa chọn ở mức độ nào đấy. Không có cách đơn giản nào để "xếp hạng" những can thiệp theo ý nghĩa "thật" của quyền tự ý được để lại cho các đơn vị đơn lẻ. [9] Một số kết quả mới đây trong kinh tế học thông tin đã gây nghi ngờ về tính đúng đắn của kết quả có khả năng phi tập trung hoá: Có những giới hạn mạnh đối với mức độ nền kinh tế có thể được phi tập trung hoá thông qua cơ chế giá cả. Các đoạn tiếp sau đưa ra năm khía cạnh của điều này. Định lí Greenwald-Stiglitz và phi tập trung hoá Các định lí Greenwald-Stiglitz xác lập rằng những phân bổ có hiệu quả Pareto ràng buộc nhìn chung không thể đạt được mà không có một dạng can thiệp nào đó của chính phủ, mặc dù trong một số trường hợp sự can thiệp đó có thể chỉ giới hạn ở việc áp đặt một tập các loại thuế tuyến tính (thuế với thuế suất cố định trên một đơn vị hàng được mua, tiêu dùng, hoặc sản xuất). Bởi vì phi tập trung hoá, nhìn chung, không phải là cách khả dĩ để đạt các kết quả có hiệu quả Pareto, đôi khi tôi dẫn chiếu đến định lí Greenwald-Stiglitz như "định lí bất khả phân tán cơ bản". Nếu những can thiệp khả thi duy nhất của chính phủ là các loại thuế tuyến tính, và/hoặc nếu chính phủ luôn luôn có thể thực hiện bất kể phân bổ có hiệu quả Pareto nào thông qua sử dụng thuế tuyến tính, thì "tinh thần" của các kết quả cũ hơn về phi tập trung hoá sẽ vẫn được thoả mãn. Can thiệp của chính phủ sẽ đòi hỏi tái phân phối của cải, thế nhưng, như tôi đã nhắc tới ở đoạn đầu của chương này, sự tái phân phối nhìn chung sẽ méo mó. Vẫn còn cần một số can thiệp của chính phủ vượt quá điểm này, nhưng can thiệp vẫn là hạn chế: "Tất cả" cái chính phủ phải làm là áp đặt một tập các loại thuế/trợ cấp lên các mặt hàng khác nhau. Nhưng các vấn đề phi tập trung hoá những phân bổ nguồn lực có hiệu quả Pareto thực ra là tồi hơn nhiều so với định lí Greenwald-Stiglitz gợi ý, và vì bốn lí do: trợ cấp chéo, sự phổ biến tràn lan của tính không lồi, những tác động goại lai, và tính phi tuyến. Trợ cấp-chéo Một kết quả trung tâm (mặc dù không được bình luận nhiều) của mô hình Arrow-Debreu là hiệu quả Pareto đạt được trong mô hình đó mà không cần bất kể trợ cấp-chéo nào. Có lẽ dùng cách nói Mĩ, thì mỗi xí nghiệp đều có thể đứng trên đôi chân của chính mình. Điều này không đúng khi thông tin là không hoàn hảo- thậm chí trong sự thiếu vắng dường như của bất kể lợi tức gia tăng nào. [10] Arnott và tôi (1989) đã phân tích tỉ mỉ kinh tế học về hiểm hoạ đạo đức - các vấn đề nảy sinh, thí dụ, trong các thị trường bảo hiểm khi điều khoản bảo hiểm ảnh hưởng đến những khuyến khích của người được bảo hiểm để tiến hành các hành động làm giảm thiểu khả năng xảy ra tai nạn. Chúng tôi chỉ ra rằng cân bằng cạnh tranh, trong đó các công ti bảo hiểm phủ mỗi rủi ro "tự đứng trên chân chính mình", là không có hiệu quả Pareto (ràng buộc); phúc lợi có thể được cải thiện, thí dụ, bằng đánh thuế một số ngành (có lẽ là bảo hiểm) để cung cấp trợ cấp cho một hoặc hơn một ngành bảo hiểm (khác). (Chúng tôi gọi sự phi hiệu quả phát sinh khi không có các loại trợ cấp chéo như vậy là khuyết tật thị trường trợ cấp chéo). Trực giác đằng sau kết quả này là các khoản thuế nhỏ lên các nghành, trong đó các vấn đề hiểm hoạ đạo đức không quan trọng, có tác động bậc hai (độ mất trắng tăng với bình phương của thuế suất). Mặt khác, sự tổn thất phúc lợi từ các vấn đề hiểm hoạ đạo đức/khuyến khích là bậc một; hoặc sát vấn đề hơn, kết quả được tăng của nỗ lực trợ cấp để bù cho nỗ lực có thể là bậc một và có tác động bậc một lên phúc lợi. Sự phổ biến tràn lan của tính không lồi (Nonconvexity) Vấn đề khác trong phi tập trung hoá xuất hiện khi có tính không lồi trong nền kinh tế. Điều này đã được làm rõ trong thảo luận trước đây về định lí căn bản thứ hai, ở nơi đã nhận ra rằng đối với các độc quyền tự nhiên thì một số dạng can thiệp của chính phủ là cần thiết. Nhưng ở đây tôi không quan tâm đến vấn đề đã được hiểu tương đối rõ với phi tập trung hoá. Thay vào đó, tôi quan tâm đến sự phổ biến tràn lan của tính không lồi gắn với thông tin không hoàn hảo. Ở mức trực giác, sự thực rằng có tính không lồi gắn với thông tin phải là dễ hiểu: Thông tin có thể coi là một chi phí cố định (xem chương 2). Nó là một chi phí phải chịu bất luận ta làm gì với nó, và một chi phí cố định gây ra tính không lồi. Tương tự giá trị đối với một hãng phát minh ra cách tốt hơn để sản xuất một dụng cụ nhỏ phụ thuộc vào số lượng dụng cụ được sản xuất. Lợi tức biên và toàn bộ đối với chi tiêu nghiên cứu phát triển (R&D) tăng với qui mô sản xuất. Radner và Stiglitz (1984) đã chỉ ra, trong phạm vi của lí thuyết quyết định thống kê, rằng giá trị của thông tin không bao giờ là (hàm) lõm toàn cục (xem hình 4.3). Lợi tức đối với một chút thông tin luôn luôn là bằng không, và nếu thông tin ấy có chi phí dương, thì lợi tức thuần là âm. "Nếu sự dốt nát không là điều hạnh phúc, thì ít nhất là một tối ưu cục bộ". [11] Nhưng tính không lồi thậm chí còn phổ biến tràn lan hơn nhiều so với các kết quả được thảo luận đến nay gợi ý: Hễ khi nào có các vấn đề hiểm hoạ đạo đức, các vấn đề khuyến khích, hoặc các vấn đề chọn lọc (kéo theo các ràng buộc tương thích khuyến khích hoặc các ràng buộc tự-lựa chọn) thì đều có (ở chỗ thích hợp) tính không lồi, bất luận dường như vấn đề tỏ ra có ứng xử bình thường đến thế nào. [12] (Một giải thích trực giác của điều này là các ràng buộc khuyến khích có thể được hình dung như bao hàm các điều kiện bậc một của vấn đề cực đại hoá của cá nhân hay của hãng. Như thế tính lõm của toàn bộ vế cần tối đa hoá (maximand), bao gồm cả các ràng buộc khuyến khích gắn liền, bao hàm các đạo hàm bậc ba của hàm thoả dụng hoặc hàm lợi nhuận, và không có các ràng buộc kinh tế tự nhiên nào lên các đạo hàm ấy). Arnott và Stiglitz (1988a) chỉ ra trong các mô hình hiểm hoạ đạo đức đơn giản nhất rằng các đường bàng quan giữa lợi ích và chi phí về bản chất chẳng bao giờ là tựa-lõm (quasi- Hình 4.3 Tính không lõm là đặc trưng của giá trị thông tin. "Nếu dốt nát không phải là hạnh phúc, thì ít nhất là một tối ưu cục bộ." concave) và rằng tập của các chính sách, mô tả bởi lợi ích và phí bảo hiểm của chúng, gây ra lợi nhuận âm là chẳng bao giờ lồi. Điều này được minh hoạ ở hình 4.4 cho trường hợp cá nhân có một sự lựa chọn giữa hai hoạt động, hút thuốc và không hút thuốc. Xác suất xảy ra hoả hoạn tăng lên với phần thời gian mà cá nhân hút thuốc. Không có bảo hiểm, cá nhân sẽ không hút thuốc; với bảo hiểm toàn bộ và miễn phí, khi không chịu hậu quả gì của việc hút thuốc, cá nhân sẽ hút thuốc. Với bất kể mức phí bảo hiểm nào, có một mức lợi ích cụ thể mà cá nhân bàng quan giữa việc hút hay không hút thuốc; ở các mức lợi ích cao cá nhân hút thuốc, ở các mức lợi ích thấp anh ta không hút. Và khi phí bảo hiểm tăng, lợi ích tại đó cá nhân bàng quan giữa hút và không hút thuốc giảm xuống. Quĩ tích của các tổ hợp {lợi ích, phí bảo hiểm} mà ở đó cá nhân bàng quan giữa hút thuốc và không hút thuốc là một đường dốc xuống và được gọi là "đường hoán chuyển". Như thế có hai chế độ, dưới đường hoán chuyển các cá nhân không hút thuốc, và trên nó các cá nhân hút thuốc. Trong mỗi chế độ các cá nhân có các đường bàng quan khác nhau, một đường trình bày sự đánh đổi giữa lợi ích và phí bảo hiểm khi cá nhân hút thuốc, và đường khác khi anh ta không hút thuốc. Hiển nhiên trong mỗi chế độ đường bàng quan dốc lên: Khi lợi ích tăng, thì phí bảo hiểm mà cá nhân sẵn sàng trả tăng lên. Đường bàng quan trở nên phẳng hơn khi lợi ích tăng, vì phần phí bảo hiểm thêm mà các cá nhân vui lòng trả cho một mức tăng cho trước về lợi ích giảm. Tại đường hoán chuyển, tuy vậy, đường bàng quan đột ngột dốc hơn, như được miêu tả; trong chế độ hút thuốc (trên đường hoán chuyển) giá trị gia tăng lợi ích lớn hơn nhiều, vì xác suất hoả hoạn cao hơn. Như vậy đường bàng quan thật, biểu diễn sự thay đổi hành động cũng như giá trị biên khi lợi ích tăng lên, có dạng vỏ sò mở, như được miêu tả: có tính không lồi căn bản trong các đường bàng quan. Hình 4.4 Với hiểm hoạ đạo đức, thậm chí các mô hình đơn giản nhất làm nảy sinh các đường bàng quan không lồi. Ở đây cá nhân có hai hoạt động, hút thuốc hoặc không hút. Đường hoán chuyển là kết hợp của {lợi ích, phí bảo hiểm}làm cho cá nhân bàng quan giữa hút và không hút thuốc. Đường bàng quan {lợi ích, phí bảo hiểm} có dạng vỏ sò mở như được vẽ. Trục α biểu thị lợi ích và trục β phí bảo hiểm (trả chỉ trong trường hợp không có tai nạn xảy ra). Chỉ số trên L biểu thị "hoạt động có nỗ lực thấp - xác suất tai nạn cao", chỉ số trên H biểu thị "hoạt động có nỗ lực cao- xác suất tai nạn thấp", như vậy VH là đường bàng quan của cá nhân thực hiện hành động có xác suất tai nạn thấp, VL có xác suất tai nạn cao. Qua bất kể điểm nào, có hai đường bàng quan, một biểu diễn hành động có xác suất tai nạn thấp và đường khác có xác suất tai nạn cao. Vì cá nhân là bàng quan giữa hai dọc theo quĩ tích hoán chuyển, rõ ràng là tại điểm (α* ,β*) cá nhân ưa nỗ lực cao (tai nạn thấp) so với nỗ lực thấp (tai nạn cao). (Độ thoả dụng tăng lên với phí bảo hiểm thấp hơn và lợi ích cao hơn). Có tính không lồi căn bản tương ứng trong tập khả thi, tập của các chính sách {lợi ích, phí bảo hiểm} ít nhất là hoà vốn. Dưới đường hoán chuyển, khi các cá nhân không hút thuốc, xác suất hoả hoạn là thấp. Để thuần tuý bảo đảm cho lợi ích, phí bảo hiểm phải tăng tuyến tính với lợi ích, như miêu tả trên hình 4.5. Tương tự, nếu các cá nhân hút thuốc, phí bảo hiểm phải tăng với lợi ích, nhưng phí cần thiết phải cao hơn nhiều, để bù cho xác suất hoả hoạn cao hơn. Tập khả thi phải tính rằng dưới đường hoán chuyển các cá nhân không hút thuốc, và trên đường đó họ hút: miêu tả bằng diện tích kẻ sọc trong hình 4.5. Rõ ràng tập đó không lồi. Thí dụ này minh hoạ tính không lồi phát sinh một cách tự nhiên ra sao khi có các vấn đề hiểm hoạ đạo đức/khuyến khích, với các giả thiết đơn giản nhất, với các hàm thoả dụng xem ra có ứng xử tử tế. Trong hoàn cảnh thực tiễn hơn, khi các cá nhân có sự lựa chọn hành động rộng rãi hơn, thì cả tập khả thi lẫn các đường bàng quan có thể thậm chí tỏ ra còn thất thường hơn. Một số hệ quả của tính không lồi này đã được nhận biết sớm hơn (thí dụ, các chính sách ngẫu nhiên có thể là đáng mong muốn). [13] Cho các mục đích của chúng ta, cái quan trọng là tính bất khả phân tán (không thể phi tập trung) của những phân bổ nguồn lực có hiệu quả Pareto ràng buộc. Không chỉ cần đến can thiệp của chính phủ, mà những can thiệp "tuyến tính" là không đủ. [14] Lí do trực giác vì sao tính không lồi dẫn đến các vấn đề được minh hoạ trên hình 4.6, trên đó chúng ta đã vẽ một đường khả năng sản xuất không lồi; điểm phân bổ tối ưu, điểm tiếp tuyến giữa đường bàng quan của "cá nhân đại diện" và đường khả năng sản xuất, là điểm E một điểm ở phía trong. Nếu các hãng tối đa hoá lợi nhuận, cho trước các giá tương đối (tỉ lệ thay thế biên) ở E, thì chúng sẽ chọn một điểm góc như điểm A. Bằng cách tương tự, trong mô hình bảo hiểm với hiểm hoạ đạo đức, với các đường bàng quan không lồi điểm tối ưu có thể tại điểm E trên hình 4.7. Với tập đó của các giá tương đối các cá nhân sẽ chọn mua nhiều bảo hiểm hơn so với E (họ chuyển sang E'). Khi họ làm vậy, tuy nhiên, mức chăm sóc giảm xuống, và kết quả là E không khả thi. Tôi nhấn mạnh các kết quả này vì nhiều lí do. Cấu trúc toán học nền tảng của kinh tế học, như được phát triển từ Nền tảng của Phân tích Kinh tế của Samuelson đến Lí thuyết về Giá trị của Debreu, nhấn mạnh tầm quan trọng của tính lồi, đối với các kết quả tồn tại cơ bản, đối với các kết quả phúc lợi của các thị trường cạnh tranh (đặc biệt, đối với định lí căn bản thứ hai của kinh tế học phúc lợi), và đối với dẫn xuất ra tĩnh học cạnh tranh. Ngoài ra, đã được hiểu rõ rằng với tính không lồi đủ mạnh thì các thị trường sẽ không còn là cạnh tranh. Các lí lẽ có vẻ hợp lí là "bình thường" các giả thiết về tính lồi này được thoả mãn bởi những người tiêu dùng và sản xuất, những ngoại lệ (không lồi) là hạn chế và cần đến can thiệp của chính phủ. Bình thường chúng ta kì vọng luật lợi tức giảm dần và tỉ lệ thay thế biên giảm dần thịnh hành. Hình 4.5 Tập của các chính sách ít nhất hoà vốn cũng không lồi. pL là xác suất của một tai nạn nếu cá nhân có nỗ lực thấp (hoạt động tai nạn cao). Như thế lợi nhuận là bằng không nếu cá nhân có nỗ lực thấp, và αpL = β(1- pL); tương tự đối với nỗ lực cao. Trong vùng nơi cá nhân có nỗ lực cao, lợi nhuận là dương ở phía trên đường lợi nhuận bằng không αpH = β(1- pH); tương tự trong vùng nơi cá nhân có nỗ lực thấp, lợi nhuận là dương ở phía trên quĩ tích lợi nhuận bằng không αpL = β(1- pL). Tập hợp của các điểm (chính sách) khả thi như vậy là miền được gạch sọc. Một khi những sự bất hoàn hảo và chi phí thông tin được tính đến, thì giả thiết về tính lồi không còn đáng tin cậy nữa; tính không lồi phổ biến tràn lan. Với tính không lồi phổ biến tràn lan, thì những can thiệp của chính phủ để đạt phân bổ có hiệu quả Pareto không còn bị giới hạn như định lí căn bản thứ hai gợi ý. Không chỉ những can thiệp cả gói là không khả thi, chúng không đủ, và thậm chí những can thiệp tuyến tính sẽ không đủ. Hình 4.6 Với các tập sản xuất không lồi, cân bằng hiệu quả Pareto có thể không có khả năng duy trì thông qua hệ thống giá. Hình 4.7 Cho trước tính không lồi của các đường bàng quan phát sinh ở nơi có hiểm hoạ đạo đức, có thể không có khả năng duy trì cân bằng hiệu quả thông qua hệ thống giá Các ảnh hưởng ngoại lai Sự hiểu thấu chủ yếu của phân tích Greenwald-Stiglitz đã là việc chỉ ra rằng khi các thị trường không đầy đủ và thông tin không hoàn hảo, thì các hành động của các cá nhân hoặc xí nghiệp gây ra những ảnh hưởng "giống như ngoại lai". Một công nhân không hiệu quả, trong quyết định làm thêm giờ, đã hạ thấp chất lượng trung bình của những người chào sức lao động của mình trên thị trường lao động và như thế tạo ra một ảnh hưởng ngoại lai tiêu cực lên những người khác. Những người hút thuốc, trong quyết định hút thuốc nhiều hơn, đã làm tăng xác suất hoả hoạn trung bình, và sự tăng phí bảo hiểm cần thiết để bù trừ, hoạt động như một ảnh hưởng ngoại lai tiêu cực lên tất cả những người mua bảo hiểm hoả hoạn. Những ảnh hưởng ngoại lai này đã, dưới những điều kiện nhất định, có thể bù trừ bằng các loại thuế hàng hoá được thiết kế phù hợp, như thế bảo toàn được "tinh thần" phi tập trung hoá. Nhưng có thể có nhiều loại ảnh hưởng ngoại lai không dễ bù trừ được. Hãy xem xét quan hệ tá điền chủ đất, nơi các vấn đề khuyến khích và chia sẻ rủi ro đã dẫn đến một hợp đồng phân chia hoa lợi tối ưu. Khi đó bất kể hành động nào của tá điền, hành động ảnh hưởng đến đầu ra của trang trại, có một ảnh hưởng giống như ngoại lai lên chủ đất. Lợi ích của chủ đất từ việc tá điền sử dụng phân bón, không chỉ một cách trực tiếp, thông qua tăng sản lượng, mà cả gián tiếp nếu phân bón làm tăng sản phẩm biên của tá điền, và do đó tá điền làm việc siêng năng hơn. Như vậy chủ đất có một khuyến khích để trợ cấp việc sử dụng phân bón. "Thị trường đầu vào" (phân bón), thị trường đất đai, và thị trường lao động như thế trở nên liên kết với nhau. Những can thiệp của chính phủ (thí dụ, một sự trợ cấp chung cho phân bón) có thể là không đủ, vì độ lớn của các đáp ứng cung (thí dụ nỗ lực đáp ứng của người lao động để tăng sử dụng phân bón, cái đến lượt nó có thể phụ thuộc vào độ lớn của sự gia tăng sản phẩm biên của lao động do tăng cung phân bón gây ra) có thể không đồng đều đối với tất cả các trang trại; chủ đất có thể ở địa vị tốt hơn (bởi vì có thông tin chi tiết liên quan đến cả đất đai lẫn tá điền) để tạo ra mức trợ cấp "đúng", mức chắc sẽ thay đổi đáng kể từ trang trại này sang trang trại khác. Như thế lập luận ủng hộ phi tập trung hoá (phân tán hoá) - tức là thông tin thoả đáng được khu biệt ở địa phương - bản thân nó giúp giải thích vì sao phi tập trung hoá hoàn toàn (các thị trường đất đai, lao động, và phân bón hoạt động hoàn toàn độc lập với nhau, chỉ với sự can thiệp hạn chế của chính phủ) sẽ không hoạt động. Đồng thời sự phi tập trung hoá một phần, với các thị trường được liên kết, có thể là không đủ để đảm bảo tính hiệu quả kinh tế mà không có can thiệp của chính phủ, đặc biệt nếu việc bán cấp hai, thí dụ phân bón, không thể ngăn chặn được. Thí dụ trên, minh hoạ những ưu điểm của "các thị trường được liên kết" với các mối quan hệ phức hợp giữa những người tham gia, có thể được áp dụng phổ biến hơn nhiều. Mạng lưới của các mối quan hệ quan sát được trong các thị trường sản phẩm (thí dụ, giữa các nhà sản xuất và những người bán hàng hoá của họ) và trong các thị trường tín dụng (các hãng thường cung cấp tín dụng cho cả các nhà cung cấp lẫn các khách hàng) là các thí dụ dễ nhớ khác. Các sơ đồ thanh toán phi tuyến Vấn đề cuối cùng với phi tập trung hoá loại đơn giản được hình dung bởi chủ nghĩa xã hội thị trường và được phản ánh trong hệ thuyết cạnh tranh chuẩn liên quan đến tính phi tuyến. Như đã nhắc tới trước đây, định lí Greenwald-Stiglitz phát biểu rằng nền kinh tế phi tập trung hoá, nhìn chung, không đạt hiệu quả Pareto ràng buộc. Nó đã chỉ ra sự tồn tại của các loại thuế và trợ cấp đơn giản có thể làm cho mọi người đều khấm khá hơn. Nhưng những thứ này là những can thiệp đơn giản. Nếu chính phủ can thiệp chỉ theo cách này, thì tinh thần của phi tập trung hoá sẽ, như tôi đã nhấn mạnh, được duy trì. Một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa thị trường có thể tự hoạt động hầu như Lange và Lerner đã hình dung, với một sự khác biệt chủ yếu là "nhà lập kế hoạch" sẽ phải chỉ thị các giá khác nhau cho các nhà sản xuất và những người tiêu dùng. (Đây là khung khổ được hình dung trong Stiglitz và Dasgupta 1971). Nhưng công trình mới đây về khuyến khích tối ưu/đánh thuế tối ưu đã xác lập rằng những can thiệp đơn giản như vậy sẽ đủ để khôi phục nền kinh tế tới hiệu quả Pareto chỉ dưới các điều kiện toán học khá hạn chế. Thí dụ, văn khoa về các cơ cấu thuế có hiệu quả Pareto được nhắc tới trước đây gợi ý rằng, nhìn chung, các chính phủ cần áp đặt các loại thuế phụ thuộc vào mức tiêu thụ của từng mặt hàng theo một cách rất phức tạp; thí dụ, lượng thuế áp lên tiêu thụ mặt hàng A có thể phụ thuộc vào mức tiêu thụ mặt hàng B. Chính xác các vấn đề song hành nổi lên trong khung cảnh của các hãng, những người lao động, và những người cho vay trong nội bộ thị trường. Các trường đại học cho phép nhân viên của mình tư vấn cho bên ngoài, thí dụ, một ngày trong một tuần. Điều này có thể được xem như một loại thuế (sơ đồ thanh toán) phi tuyến đơn giản: Không có khoản thuế nào được áp cho tám giờ đầu tiên, một khoản thuế ngăn cản được áp cho công việc làm ngoài tám giờ. Một hãng bia nói với nhà phân phối của mình rằng có lẽ nó bán nhiều bia của hãng khác, nhưng nếu nó bán quá nhiều bia của các hãng khác này, nó sẽ mất đặc quyền phân phối. Như vậy những can thiệp tối ưu của chính phủ trong thị trường, cũng như những dàn xếp hợp đồng tối ưu giữa các bên trong nội bộ thị trường, thường là rất phức tạp, phản ánh các ảnh hưởng ngoại lai do thông tin gây ra, những quan hệ phi tuyến và các ràng buộc số lượng, và áp dụng các ràng buộc thị trường-chéo và thông tin. Những kết quả này có các hệ quả sâu sắc, cả đối với lí thuyết kinh tế và đối với tính khả thi của loại phi tập trung hoá được hình dung trong mô hình (Arrow-Debreu) tân cổ điển chuẩn. Tính hiệu quả không đòi hỏi phi tập trung hoá hoàn toàn như hệ thuyết tân cổ điển gợi ý mà là phi tập trung hoá một phần - cái chúng ta quan sát được, trong nền kinh tế của chúng ta bao gồm nhiều hãng lớn có kinh nghiệm chỉ với phi tập trung hoá hạn chế. Những tương tác và các mối quan hệ kinh doanh do thông tin gây ra (hoặc sự kết cụm) có thể gây trở ngại cho tính hiệu quả của cạnh tranh - ít nhất dạng cạnh tranh giản lược được hình dung trong các mô hình chuẩn. Trong một số trường hợp tất cả cái bị tác động chính là "đơn vị" mà trên đó cạnh tranh diễn ra; thí dụ, nếu chủ đất cung cấp phân bón, đơn vị thoả đáng của cạnh tranh là chủ đất cộng người bán phân bón. Trong một số trường hợp mạng các mối liên kết (tác động ngoại lai) phức tạp đến mức các ảnh hưởng ngoại lai không thể được đề cập một cách hữu hiệu theo cách này (thí dụ, xem Arnott và Stiglitz 1985). Còn trong các trường hợp khác, nơi có những liên kết giữa kì quan trọng và cạnh tranh ex ante (từ trước) (cạnh tranh đối với các cá nhân hoặc hãng để kí hợp đồng), thì cạnh tranh có thể rất hạn chế một khi các hợp đồng đã được kí. Với các thị trường thấy trước không hoàn hảo và thị trường bảo hiểm không hoàn hảo, cạnh tranh ex ante còn xa mới là cái thay thế đầy đủ cho cạnh tranh ex post (từ sau). [15] Còn trong các trường hợp khác sự thực rằng nhiều hãng và cá nhân đến thế gắn bó với nhau trong một nhóm các mối liên hệ tạo ra một trở ngại quan trọng cho sự gia nhập cạnh tranh và cho tính cạnh tranh chung của thị trường. [16] Can thiệp của chính phủ có thể đòi hỏi nhiều thông tin hơn nhiều so với các trường hợp khi tất cả cái mà chính phủ cần làm là áp đặt một khoản thuế hay trợ cấp tuyến tính, và vì vậy loại phi tập trung hoá được Lange và Lerner, và các nhà xã hội chủ nghĩa thị trường khác hình dung, đơn thuần sẽ không hoạt động. Lòng tin vào hệ thống giá đơn giản (tuyến tính) là cái tạo nền tảng cho các lí thuyết của họ, và chính lòng tin này là cái các lí thuyết hiện đại dựa trên thông tin đặt dấu hỏi nghi vấn. Nhưng, lại một lần nữa, chúng ta thấy có vẻ nghịch lí: Trong khi các lí thuyết hiện đại này nghi ngờ khả năng tồn tại của chủ nghĩa xã hội thị trường, chúng đồng thời cũng làm yếu niềm tin của chúng ta vào (ít nhất quan niệm giản lược của chúng ta về) các nền kinh tế cạnh tranh , và các mô hình mà chúng ta đã xây dựng để mô tả chúng. Một mặt, các lí thuyết này tiên đoán đúng nhiều hình thức phức tạp của các mối quan hệ kinh doanh mà chúng ta quan sát được. Mặt khác, chúng gợi ý rằng chúng ta phải theo dõi các mối quan hệ phức tạp hơn thường xuyên hơn. Thí dụ, chỉ dưới các điều kiện rất hạn chế thì các hợp đồng khoán sản phẩm hoặc các hợp đồng phân chia hoa lợi mới tuyến tính. Các hình thức đơn giản của những dàn xếp hợp đồng như vậy quan sát được trong thực tiễn không phải là những dàn xếp mà hầu hết các mô hình lí thuyết thông tin tiên đoán, trừ với các giả thiết rằng bản thân chúng có thể bị bác bỏ vì các lí do khác. [17] Trong khi có "những giải thích" về sự thịnh hành của các hợp đồng "quá đơn giản" (nhìn từ khung cảnh lí thuyết) - chúng là dễ hiểu; những người làm công không nghĩ rằng người sử dụng lao động thử "chơi họ" bằng cách đưa ra một dàn xếp hợp đồng mà người sử dụng lao động hiểu còn toàn bộ hệ quả của nó thì người lao động chỉ hiểu lơ mơ [18] - tuy nhiên điểm này còn nguyên là hệ thuyết chuẩn vẫn để các khía cạnh quan trọng của các mối quan hệ kinh tế không được giải thích, gây ra những nghi ngờ về sự đúng đắn của mô hình nói chung và về những kết luận chính của nó, khả năng phi tập trung hoá thông qua hệ thống giá. Do vậy sự gợi ý rằng chủ nghĩa xã hội thị trường có thể hoạt động tốt như nền kinh tế thị trường bằng cách bắt chước, không phải nền kinh tế thị trường mà bắt chước mô hình của nền kinh tế thị trường - mô hình phi tập trung hoá sử dụng hệ thống giá để truyền mọi thông tin quan trọng - là, nói nhẹ bớt đi, đáng ngờ. Tóm tắt Chương này và chương trước đã xem lại một vài phát triển mới đây trong kinh tế học phúc lợi. Chương trước tập trung vào định lí thứ nhất của kinh tế học phúc lợi, khẳng định tính hiệu quả của các nền kinh tế thị trường cạnh tranh. Những phát triển mới đây đã làm giảm niềm tin của chúng ta trong sự thừa nhận rằng các thị trường là hiệu quả. Chúng đã tạo một vai trò tiềm năng tăng lên cho can thiệp của chính phủ, và làm như vậy, chúng đã, gián tiếp, ủng hộ lí lẽ cho chủ nghĩa xã hội thị trường. Chương này đã tập trung vào định lí thứ hai của kinh tế học phúc lợi, định lí có ba cách giải thích khả dĩ. Mỗi cách giải thích này đã được đặt thành vấn đề nghi ngờ. Cách thứ nhất tập trung vào vai trò hạn chế của chính phủ: Tất cả cái mà chính phủ cần làm để đạt bất kể sự phân bổ nguồn lực có hiệu quả Pareto nào là thực hiện tái phân phối trọn gói; thị trường sẽ lo những việc còn lại. Tôi đã lập luận, ngược lại, rằng với sự hiện diện của thông tin không hoàn hảo, tái phân phối trọn gói như được hình dung trong mô hình truyền thống đơn giản là không khả thi. Các chi phí can thiệp của chính phủ cần để hiệu chỉnh những thiếu sót trong phân phối của cải của thị trường là lớn hơn so với được hình dung bởi lí thuyết truyền thống. Định lí căn bản thứ hai của kinh tế học phúc lợi ngụ ý rằng các vấn đề về hiệu quả kinh tế và phân phối có thể tách bạch nhau. Sự tách rời này tỏ ra rất hữu ích cho các nhà kinh tế, những người muốn tập trung vào khái niệm "hiệu quả kinh tế" và xếp các vấn đề phân phối sang một bên. Tôi đã chỉ ra trong chương này rằng với sự hiện diện của thông tin không hoàn hảo, các vấn đề về hiệu quả kinh tế và phân phối không thể tách ra dễ như vậy. Thí dụ, liệu nền kinh tế có hoặc không có hiệu quả Pareto bản thân nó có thể phụ thuộc vào phân phối thu nhập. Cuối cùng, định lí căn bản thứ hai của kinh tế học phúc lợi thường được trình bày như thiết lập sự phi tập trung hoá của nền kinh tế. Ngược lại, tôi đã chỉ ra rằng có năm kết quả căn bản trong kinh tế học thông tin cho thấy những hạn chế mạnh về mức độ mà nền kinh tế có thể được phi tập trung hoá thông qua cơ chế giá: Định lí Greenwald-Stiglitz có thể được coi như xác lập tính bất khả phân tán của nền kinh tế, vì nó chỉ ra rằng các thị trường, để tự chúng, về cơ bản chẳng bao giờ đạt tối ưu Pareto khi các thị trường là không đầy đủ hoặc khi thông tin là không hoàn hảo. Trong các nền kinh tế mà các thị trường là không đầy đủ và thông tin là không hoàn hảo, các tác động giống như ảnh hưởng ngoại lai nảy sinh và phổ biến tràn lan. Định lí Arnott-Stiglitz xác lập rằng, nhìn chung, đáng mong mỏi có trợ cấp-chéo (ngay cả khi thiếu các tác động ngoại lai trực tiếp). Khả năng để phi tập trung hoá dùng hệ thống giá đòi hỏi rằng không có tính không lồi, mà tính không lồi thì phổ biến tràn lan. Các cơ cấu khuyến khích tối ưu, với sự hiện diện của thông tin không hoàn hảo, hầu như luôn luôn dẫn đến các sơ đồ thanh toán phi tuyến tính. Tôi đã chỉ ra rằng lí lẽ cho phi tập trung hoá dựa trên cơ sở định lí căn bản thứ hai của kinh tế học phúc lợi là sai cơ bản. Nhưng điều này không được phép diễn giải như ám chỉ rằng tôi lập luận chống lại kết luận là nền kinh tế có thể, hoặc phải, hoạt động một cách phi tập trung. Trong chương 9, tôi sẽ quay lại vấn đề phi tập trung hoá và cung cấp một số triển vọng khả dĩ. Chủ nghĩa xã hội thị trường ngầm sử dụng định lí căn bản thứ hai của kinh tế học phúc lợi như cơ sở tổ chức của nền kinh tế. Nó loại bỏ sự chỉ trích rằng những đòi hỏi thông tin của chủ nghĩa xã hội sử dụng một nhà lập kế hoạch trung ương đã là quá phiền toái và làm cho chủ nghĩa xã hội không khả thi. Nó lập luận rằng chủ nghĩa xã hội có thể dùng đúng loại phi tập trung hoá thông tin mà nền kinh tế thị trường sử dụng; giá cả có thể truyền đạt thông tin cũng hữu hiệu dưới chủ nghĩa xã hội như dưới nền kinh tế thị trường, và thông tin về công nghệ, thí dụ, tiếp tục có thể nằm trong tay của các hãng riêng lẻ. Các lí lẽ mà tôi trình bày chỉ ra những hạn chế của định lí căn bản thứ hai, nhưng chúng cũng gợi ý rằng viễn cảnh này là sai. Nhưng không chỉ là giá cả không truyền đạt tất cả các thông tin quan trọng cần để một nền kinh tế được phi tập trung hoá hoạt động có hiệu quả. Như tôi sẽ lập luận trong các chương sau, tập của các vấn đề thông tin mà nền kinh tế phải giải quyết là phong phú hơn nhiều so với các vấn đề được các mô hình chuẩn của nền kinh tế thị trường hoặc được các mô hình chủ nghĩa xã hội thị trường hình dung. Trong khi các nền kinh tế thị trường có thể giải quyết các vấn đề này một cách không hoàn hảo, còn chủ nghĩa xã hội thị trường thậm chí không đề cập đến các vấn đề này. Một trong những sự phân biệt cốt lõi giữa các thị trường và chủ nghĩa xã hội thị trường là quyền sở hữu, và phân bổ, về vốn. Mức độ can thiệp cần để đảm bảo rằng vốn được phân bổ một cách hiệu quả trong một nền kinh tế thị trường là rộng hơn nhiều so với được hình dung trong lí thuyết truyền thống. Những phân bổ của cải có thể chấp nhận được (hoặc đáng mong mỏi) về mặt xã hội hầu như kéo theo một cách không thể tránh khỏi sự tách biệt của quyền sở hữu và kiểm soát, dẫn đến các vấn đề khuyến khích cùng loại đối với các nền kinh tế thị trường cũng như gắn với các nền kinh tế phi thị trường. Đây là các vấn đề mà chúng ta sẽ bàn đến chi tiết hơn trong các chương tiếp theo. ________________________________________ [1]Những điểm này được trình bày chặt chẽ hơn trong Broto, Hamilton, Slutsky, and Stiglitz (1990). [2]Xem Stiglitz (1987a). [3]Đầu tiên được đưa ra trong Stiglitz (1982b), và trình bày toàn diện hơn trong Stiglitz (1987a). Văn khoa về đánh thuế tối ưu Pareto là một sự phát triển tự nhiên của văn khoa sớm hơn về đánh thuế tối ưu, do Mirrlees (1971) khởi xướng. [4]Xem Stiglitz (1974, 1987h). [5]Chúng không là những khuyến khích hoàn hảo, chừng nào người làm không có vốn để trả toàn bộ tiền thuê ngay ở đầu kì, và sự trừng phạt đối với việc không trả được tiền thuê là hạn chế. Với trả tiền thuê ở cuối kì, hợp đồng thuê có thể coi như một hỗn hợp của một khoản vay và một hợp đồng thuê, và các hợp đồng vay mượn với trách nhiệm hữu hạn gây ra các vấn đề khuyến khích nghiêm trọng, như Stiglitz and Weiss (1981) đã nhấn mạnh. [6]Cheung (1963) đưa ra một giải thích khả dĩ khác về các hợp đồng phân chia hoa lợi, về mặt hiệu quả chi phí giao dịch. Ông lập luận rằng nhân công được cung cấp một cách hiệu quả. Sự khác biệt giữa hai mô hình là, ông đã giả thiết rằng khối lượng nhân công mà người lao động cung cấp là có thể quan sát được (một cách tốn kém), và vì vậy hợp đồng qui định khối lượng nhân công: Đã không có vấn đề khuyến khích. [7]Đây là một trong các điểm chính của văn khoa người chủ-người đại lí. Về một tổng quan ngắn, xem Stiglitz (1989a). [8]Shapiro and Stiglitz (1984), thí dụ, cho thấy trong mô hình của họ về một nền kinh tế trong đó giám sát người lao động là tốn kém, liệu nền kinh tế có hiệu quả Pareto ràng buộc hay không phụ thuộc vào liệu của cải có được phân phối đều hay không. [9]Sah and Stiglitz (1991) cung cấp một phương pháp xếp hạng một phần các tổ chức/hệ thống kinh tế theo mức độ phi tập trung hoá trong ra quyết định. [10]Được biết khá rõ là trợ cấp chéo có thể là cần thiết trong trường hợp này. [11]Không có trực giác đơn giản đằng sau định lí Radner-Stiglitz. Khi thiếu thông tin thì cá nhân tối ưu hoá bằng cách đưa ra cùng hành động phản ứng lại với bất kể tín hiệu nào. Một lượng thông tin nhỏ dẫn cá nhân đến xem xét lại một chút hành động này trong phản ứng lại với các tín hiệu khác nhau. Nhưng do cá nhân đã tối ưu hoá hành động của mình, căn cứ vào thông tin, bằng định lí hình bao chuẩn, sự thay đổi về độ thoả dụng kì vọng (tuỳ thuộc vào quan sát tín hiệu cụ thể) là bằng không. Hơn thế nữa, độ thoả dụng kì vọng của cá nhân, tuỳ thuộc vào quan sát các tín hiệu khác nhau, là như nhau, cho nên không có sự thay đổi về độ thoả dụng gây ra bởi xem xét lại các xác suất gắn với các kết quả/tín hiệu khác nhau (do thông tin được cải thiện gây ra). [12]Về những thảo luận sớm hơn, xem Stiglitz (1982c). Trong phạm vi hiểm hoạ đạo đức, xem Arnott and Stiglitz(1988a, 1988b). [13]Xem Stiglitz (1982c) và Arnott and Stiglitz (1988b). [14]Xem Arnott and Stiglitz (1990). [15]Xem Stiglitz and Weiss (1983). [16]Xem, thí dụ, Stiglitz (1987g), ở nơi tôi chỉ ra rằng mặc dù có thể có rất nhiều người tiêu dùng và rất nhiều nhà sản xuất, số người tiêu dùng "tự do" là khá nhỏ nên các thị trường không ứng xử một cách cạnh tranh. [17]Thí dụ, nếu các cá nhân có các hàm thoả dụng không ưa rủi ro tuyệt đối bất biến, thì các hợp đồng tuyến tính sẽ là tối ưu (Milgrom and Robert 1988), nhưng hàm thoả dụng không ưa rủi ro tuyệt đối bất biến ngụ ý rằng khuynh hướng biên của các cá nhân để nắm giữ các tài sản an toàn, khi của cải của họ tăng, là bằng một. Khi người dân trở nên giầu có hơn, họ không sẵn lòng nắm giữ thêm các tài sản rủi ro. [18]Xem Stiglitz (1992a) để có thảo luận rộng hơn về những hệ quả của thông tin bất đối xứng và cơ cấu pháp lí đối với thay đổi trong các hình thức hợp đồng chuẩn. 5. Phê phán định lí Lange-Lerner-Taylor: Các khuyến khích Trong hai chương trước chúng ta hỏi ở mức độ nào các định lí cơ bản của kinh tế học phúc lợi cho chúng ta biết về sự lựa chọn giữa các hệ thống kinh tế khả dĩ, đặc biệt sự lựa chọn giữa các thị trường và chính phủ. Câu trả lời là phủ định: Chúng ta không có các định lí tổng quát đảm bảo tính hiệu quả (ngay cả hiệu quả bị ràng buộc) của các nền kinh tế thị trường; chúng ta có các định lí tổng quát khẳng định rằng, về nguyên lí, có những can thiệp cải thiện phúc lợi của chính phủ. Chúng ta cũng lưu ý rằng ở mức độ rộng lớn các định lí này không giải quyết các vấn đề cốt yếu được quan tâm - thí dụ, tính hiệu quả của thị trường trong xử lí thông tin hoặc trong lựa chọn đúng người lao động, đúng nhà quản lí hoặc đúng các khoản đầu tư. Khi chúng ta xem kĩ hơn các vấn đề đó, thị trường đã không cải thiện được điểm số của nó: Chúng ta đã nhận diện nhiều vấn đề chủ chốt cùng với cách các nền kinh tế thị trường thực hiện các chức năng đó. Nhưng tôi phải nhấn mạnh rằng những thảo luận này bỏ sót nhiều thuộc tính chủ yếu của các nền kinh tế thị trường. Các vấn đề quan trọng nhất liên quan đến đổi mới sáng tạo hoặc ra quyết định trong tình trạng bất trắc không được đề cập thoả đáng. Các cơ chế tiến hoá của các nền kinh tế thị trường không được đụng đến. Và quan điểm về cạnh tranh- ứng xử chấp nhận giá - thậm chí không tiến gần sự thâu tóm một số ưu điểm quan trọng nhất của quá trình cạnh tranh. Chúng ta sẽ quay lại các vấn đề này muộn hơn. Hiện tại tôi chỉ muốn cảnh cáo trước đừng vội xét đoán vấn đề mà tôi rút cuộc quan tâm tới ở đây, vai trò của thị trường, trên cơ sở các kết quả phủ định nhận được cho đến giờ. Bây giờ tôi muốn chuyển sự chú ý sang nền tảng thứ hai về sự so sánh truyền thống các hệ thống lựa chọn khả dĩ, định lí Lange-Lerner-Taylor về sự tương đương của các nền kinh tế thị trường (cạnh tranh) và chủ nghĩa xã hội thị trường. Như tôi đã gợi ý trước đây, kết quả rõ ràng là sai: nó dựa trên một mô hình không đầy đủ hoặc không chính xác của chủ nghĩa xã hội thị trường, và một mô hình không đầy đủ hoặc không chính xác của các thị trường. Như chúng ta sẽ thấy, hai khiếm khuyết đan xen mật thiết với nhau. Như trong phần lớn của cuốn sách này, tôi muốn tách ra khỏi các vấn đề của chính trị kinh tế học. Đấy, không nghi ngờ gì, là một sai lầm: Trong cố thử xác định sự cân đối giữa khu vực công cộng và tư nhân, các vấn đề chính trị kinh tế học trở thành rất quan trọng. Nhưng đủ để nói về những quan tâm hẹp của kinh tế học. Trong cuốn sách này tôi lập luận rằng mô hình chủ nghĩa xã hội thị trường (và mô hình Arrow-Debreu về nền kinh tế cạnh tranh, mà nó dựa vào) có năm sai lầm cốt yếu. Chủ nghĩa xã hội thị trường đã 1. đánh giá thấp tầm quan trọng của vấn đề khuyến khích, 2. đánh giá thấp khó khăn để đưa một hệ thống "định giá đầy đủ" vào hoạt động, và do đó đã đánh giá thấp vai trò của các cơ chế phân bổ phi giá cả trong nội bộ nền kinh tế, 3. đánh giá thấp khó khăn của phân bổ vốn, 4. đánh giá sai vai trò và chức năng của phi tập trung hoá và cạnh tranh, 5. đơn giản bỏ qua vai trò của đổi mới sáng tạo trong nền kinh tế. Không phải riêng chủ nghĩa xã hội thị trường mắc những sai lầm này, như tôi đã nhấn mạnh: Mỗi lời buộc tội này đều có thể được chĩa vào - theo phán xét thẳng thắn của tôi - mô hình tân cổ điển chuẩn của nền kinh tế, anh em sinh đôi của mô hình xã hội chủ nghĩa thị trường. Chương này được giành cho sai lầm đầu tiên, và các chương tiếp theo lần lượt đề cập đến các vấn đề còn lại. Các vấn đề khuyến khích Có lẽ lỗi lầm quan trọng nhất của chủ nghĩa xã hội thị trường là nó đã đánh giá thấp tầm quan trọng của các khuyến khích. Trong chủ nghĩa xã hội thị trường các nhà quản lí (giống như những người lao động khác trong nền kinh tế) đơn giản làm cái mà họ được cho là phải làm. Tất nhiên, trong mô hình của nền kinh tế như được trình bày, các nhà quản lí có việc làm khá tầm thường; họ - không có ý lăng mạ - chẳng hơn mấy so với các kĩ sư quèn. Họ thực hiện một số bài toán tối ưu, lệ thuộc vào một số ràng buộc. Đã chẳng có các nhân tố phán quyết và giải pháp sáng tạo nào mà các nhà quản lí lấy làm hãnh diện. Như chúng ta đã nhắc đến trước đây, những phê phán chủ nghĩa xã hội thị trường, ở mức độ rộng, cũng chính là những phê phán đối với hệ thuyết tân cổ điển. Điều này cũng đúng ở đây: Những khuyến khích (trừ trong ý nghĩa rất hạn chế sẽ được giải thích dưới đây) không đóng vai trò gì trong lí thuyết tân cổ điển. Một công nhân được trả tiền để làm công việc được hợp đồng; nếu không thực hiện công việc, không được nhận tiền. Không có vấn đề giám sát, để biết chắc liệu công nhân có hoặc không thực hiện công việc. Do đó những người sử dụng lao động không phải lo tạo động cơ thúc đẩy công nhân: Có một giá cho một công việc, và chấm hết. Thật ra, chúng ta nói về giá cả và lợi nhuận tạo khuyến khích cho các hãng để sản xuất, nhưng lớp rộng hơn của các vấn đề khuyến khích - về các hãng có khuyến khích để duy trì uy tín, để sản xuất các mặt hàng có chất lượng cao và thoả mãn khách hàng của mình - không nảy sinh. Có một giá cho mỗi chất lượng của mặt hàng. Giá cho xí nghiệp biết thị trường đánh giá mỗi chất lượng ra sao; những người mua không có vấn đề về xác định chất lượng, và các xí nghiệp tạo ra chất lượng mà họ đã thoả thuận để sản xuất. Rõ ràng là hệ thuyết này bỏ sót nhiều vấn đề kinh tế quan trọng và lí thú nhất. Các xí nghiệp phải tạo động cơ thúc đẩy công nhân của họ. Những người cho vay lo về việc trả nợ của người vay. Những người chủ lo về việc các nhà quản lí tiến hành những hành động đúng đắn. Điều đáng quan tâm không phải là mức độ cố gắng mà là việc chấp nhận rủi ro thích hợp. Những người chủ lo rằng liệu các nhà quản lí chấp nhận quá ít hoặc quá nhiều rủi ro; những người cho vay lo về những người vay tiền quá liều, lấy quá nhiều rủi ro, và như vậy làm cho ít có khả năng họ sẽ trả được khoản vay. Tầm quan trọng của việc sau phải được nhấn mạnh đặc biệt: Vì trong nhiều trường hợp chẳng khó hơn để ra một quyết định so với quyết định khác. Cái chính không phải là "nỗ lực" mà là "rủi ro", và những khó khăn của việc theo dõi, liệu rủi ro thích hợp có được chấp nhận hay không, là kinh khủng hơn nhiều so với theo dõi nỗ lực. Hệ thuyết chuẩn đi lạc lối ở ba điểm riêng biệt. Thứ nhất, nó giả thiết rằng các biến số đáng quan tâm có thể quan sát được một cách hoàn hảo và không tốn kém. Người sử dụng lao động không tốn kém mà có thể biết chắc mức cố gắng và trả tiền công tuỳ thuộc vào người lao động được hợp đồng cho mức cố gắng ấy. Thứ hai, việc ra quyết định chẳng đóng vai trò nào trong hệ thuyết chuẩn. Có thể chỉ thị cho nhân viên: Làm việc này tuỳ theo A, làm việc nọ tuỳ theo B, và người sử dụng lao động có thể theo dõi liệu điều ngẫu nhiên A xảy ra, và liệu nhân viên đã tuân theo hợp đồng. Ngược lại, trong thực tế nhân viên có thông tin mà người chủ không có, thông tin quan trọng để xác định phải tiến hành hoạt động nào, và thường rất khó đối với người sử dụng lao động để biết liệu nhân viên đã hành động "đúng". Thứ ba, việc thực thi hợp đồng thường tốn kém. Người vay tiền có thể không trả được nợ. Một xí nghiệp có thể đầu tư, trên cơ sở cam kết của xí nghiệp khác mua sản phẩm của nó, và xí nghiệp thứ hai có thể thất hứa. Từng vấn đề này gây ra những vấn đề khuyến khích. Các cá nhân có quyền tuỳ ý về mức nỗ lực mà họ thực hiện, về các hành động mà họ làm trong các điều kiện khác nhau, về liệu họ có "thực hiện" các điều khoản của một thoả thuận. Vấn đề của các khuyến khích kinh tế là thiết kế các cơ cấu giám sát và thưởng ra sao để "sắp xếp đúng" các khuyến khích. Đây là một vấn đề thậm chí chẳng bao giờ được đề cập trong khuôn khổ Arrow-Debreu nhưng trở thành một mối quan tâm chính của kinh tế học thông tin mới. Những khó khăn về giám sát trực tiếp, những khó khăn về thiết kế các sơ đồ đền bù dựa vào cái có thể quan sát được, và những khó khăn về thiết kế các hợp đồng tự thực thi hoặc có thể thực thi thông qua các hệ thống pháp lí với chi phí phải chăng, đều là những quan tâm chính của kinh tế học thông tin. Sự thiếu sót để tạo các khuyến khích thường được coi là lí do chính của sự thất bại của hệ thống Xô Viết, và là sai lầm căn bản của tư tưởng chủ nghĩa xã hội thị trường. Việc này đã đưa nhiều nhà bình luận đi đến gợi ý rằng tất cả cái cần là phục hồi lại hệ thống thị trường, với quyền sở hữu tư nhân; điều này sẽ lập tức phục hồi các khuyến khích, và phục hồi nền kinh tế lành mạnh. Tôi tin lập luận này là sai căn bản: Nó đánh giá quá vai trò của khuyến khích tài chính, và đánh giá thấp các vấn đề kiểm soát các doanh nghiệp lớn, mà cả các doanh nghiệp công cộng và tư nhân đều mắc phải. Phải công nhận rằng, các doanh nghiệp nhà nước đối mặt với các vấn đề khuyến khích ở cả mức tổ chức (dưới dạng ràng buộc ngân sách mềm) lẫn ở mức riêng lẻ (dưới dạng các ràng buộc về các sơ đồ đền bù có thể chấp nhận cũng như về an toàn việc làm, do những lo ngại về sự công bằng gây ra); các vấn đề này khác những cái mà xí nghiệp tư nhân đối mặt. Tuy vậy, ở mức quản lí - ở mức mà hầu hết các quyết định được đưa ra, và xem ra then chốt trong việc xác định thành tích tổ chức - các vấn đề khuyến khích nảy sinh trong các doanh nghiệp lớn và giải pháp (thí dụ, trả lương khích lệ) xem ra ít khác biệt giữa các doanh nghiệp lớn thuộc sở hữu công cộng hoặc tư nhân. Phần còn lại của chương chia ra năm đoạn: Đoạn thứ nhất lập luận rằng các cổ đông có sự kiểm soát hạn chế lên các nhà quản lí của họ, như thế các nhà quản lí có quyền tự trị đáng kể. Đoạn hai lập luận rằng các khuyến khích tài chính đóng một vai trò hạn chế hơn nhiều so với lí thuyết cổ truyền gợi ý. Đoạn ba lập luận rằng nhiều khía cạnh của ứng xử công ti có thể được hiểu tốt nhất như hệ quả của sự kiểm soát hạn chế của các cổ đông lên những người quản lí xí nghiệp mà các cổ đông được coi "là chủ". Đoạn bốn lập luận rằng các ngân hàng có thể đóng vai trò tích cực hơn nhiều trong cai quản so với lí thuyết truyền thống gợi ý. Đoạn thứ năm thử đưa ra một số gợi ý cho cải cách ở các nước xã hội chủ nghĩa trước kia. Quyền tuỳ ý quản lí và kiểm soát Trước đây, ở chương 2, tôi đã nhắc đến tầm quan trọng của các hậu quả của sự tách rời giữa chủ sở hữu và kiểm soát gắn với các công ti hiện đại. Văn khoa sớm hơn về quản lí tư bản chủ nghĩa, nảy sinh từ công trình trước đây của Knight (1921) và Berle và Means (1932) (xem cả Marris 1964; Baumol 1959; March và Simon 1958), bị gạt bỏ do được coi là không có nền tảng lí thuyết: Nếu các xí nghiệp không tối đa hoá thị giá cổ phiếu, thì đơn giản chúng bị thôn tính bởi kẻ khác. Như chúng ta đã nhắc tới trước đây, sự công nhận ở đầu các năm 1970 rằng thông tin là đắt đỏ, và các chi phí thông tin trao cho các nhà quả lí quyền tự ý đáng kể, tạo ra sự khởi đầu của các nền tảng lí thuyết bị thiếu. Bây giờ chúng ta hiểu kĩ hơn vì sao mỗi cơ chế kiểm soát được dẫn ra lại hoạt động kém thế: [1] 1. Quản lí như hàng hoá công cộng. Việc quản lí của bất kể doanh nghiệp nào giống như một hàng hoá công cộng. Tất cả những người nắm giữ một loại chứng khoán nào đó được lợi nếu lợi tức của chứng khoán đó tăng lên. Vì vậy không có khuyến khích đối với các chủ vốn cổ phần nhỏ để giám sát những người điều hành doanh nghiệp. Thậm chí các cổ đông lớn của một hãng điển hình cũng chỉ có tỉ lệ cổ phần nhỏ, và vì vậy có các khuyến khích không đủ - mặc dù tiền vốn của họ đủ lớn, sự khác biệt giữa mức giám sát "tối ưu" và mức giám sát thực tế có thể là tương đối nhỏ. 2. Bỏ phiếu như một hàng hoá công cộng. Cơ chế bỏ phiếu biểu quyết, theo cùng một cách, bị các vấn đề "ăn không" thông thường ("nghịch lí bỏ phiếu"): Bất kể cổ đông nhỏ nào không những không bõ để được thông tin, mà cũng chẳng bõ để bỏ phiếu (về các vấn đề cần uỷ quyền biểu quyết), nếu có bất kể chi phí nào cho việc biểu quyết. Trong khi chúng ta giải quyết nghịch lí bỏ phiếu này trong các cuộc bầu cử quốc gia bằng cách thử khắc sâu vào tâm trí con em chúng ta "trách nhiệm đạo đức" đi bỏ phiếu, ít nhất đến bây giờ, chẳng có mấy chú ý đến "trách nhiệm đạo đức" trong bỏ phiếu bầu các thành viên hội đồng quản trị. 3. Sự không thoả đáng của cơ chế thôn tính. Nổi bật nhất có lẽ là các kết quả về tính không thoả đáng của cơ chế thôn tính. Một mặt, các nhà đầu tư dường như có những khuyến khích hạn chế để có thông tin về các hãng được quản lí tồi, nhằm thôn tính chúng: Trong thực tiễn, các hãng đi thôn tính các hãng khác không có lợi ích đi làm như vậy (xem, thí dụ, Jarrell, Brickley, và Netter 1988), và trong các thị trường thôn tính cạnh tranh chúng ta không kì vọng thấy chúng được lợi. [2] Nếu có nhiều hơn một người đấu giá, giá hỏi mua sẽ được nâng lên "kịch" giá trị thị trường. Có thể cần chi phí lớn để tìm ra các hãng được định giá thấp, nhưng một khi đã biết chắc là một hãng được định giá thấp, thì việc xác định mức nó được định giá thấp có thể tương đối không tốn kém. Nếu bỏ thầu tiết lộ sự thực rằng người đấu thầu biết hãng được định giá thấp, thì bất kì ai bỏ tiền ra tìm các hãng được định giá thấp sẽ không có lời trên khoản đầu tư đó. Đây là một trường hợp cực đoan, thế nhưng nó minh hoạ nguyên lí chung rằng tiền lời riêng cho đầu tư vào thông tin loại này có thể thấp hơn nhiều so với khoản lời của xã hội. [3] Mặt khác, các cổ đông thiểu số của một hãng được định giá thấp (có lẽ được quản lí tồi) chẳng có khuyến khích để bán nó cho ai đấy, người, mà họ tin, sẽ làm tăng giá trị của nó: Bằng cách tiếp tục nắm giữ cổ phần của mình, họ sẽ cũng được hưởng lợi. Lí do duy nhất để họ phải bán là nếu họ tin rằng hãng đi thôn tính sẽ làm giảm giá trị thị trường của nó (đồng thời có lẽ nó tăng hiệu quả, vì nó chuyển của cải của hãng bị thôn tính sang túi riêng của họ). Đây lại đúng là một biểu hiện nữa của vấn đề ăn-không mà tôi nhắc tới trước đây (xem Grossman và Hart 1980, 1988). [4] Vai trò yếu ớt của các khuyến khích truyền thống Nếu "các ông chủ" không thể hoặc không giám sát các nhà quản lí của họ, lựa chọn khả dĩ tự nhiên là cung cấp cho họ sự đền bù tài chính được thiết kế để làm cho quyền lợi của họ trùng nhau. Một số tài liệu lí thuyết gần đây mô tả các cách theo đó các khuyến khích "năng lực cao" có thể được cung cấp cho người lao động, bằng cách để cho họ nhận toàn bộ giá trị đầu ra của hãng, đồng thời với các nhà quản lí nộp một khoản phí cố định lớn. [5] Thực tế những nhà quản trị trở thành các ông chủ ở khía cạnh họ nhận toàn bộ thu nhập thặng dư. Có các giả thiết chặt chẽ làm cơ sở cho những phân tích này, như mỗi cá nhân là bàng quan với rủi ro [6] và có đủ vốn để trả khoản phí cố định này. [7] Khi không ưa rủi ro, các hợp đồng tối ưu có thể cần đến những khuyến khích năng lực thấp, phụ thuộc vào độ lớn của rủi ro (xem, thí dụ, Stiglitz 1975b). Lương của hầu hết nhân viên không phụ thuộc nhiều vào thành tích. Một phần nhỏ nhân viên nhận được một phần đáng kể thu nhập của họ như kết quả của khoán sản phẩm. Có nhiều loại lí do cho điều này: Các chi phí về đo lường cố gắng và đầu ra, những khó khăn để biết chắc chất lượng của đầu ra và nỗ lực, các nhân tố ngẫu nhiên trong quan hệ giữa nỗ lực và đầu ra (đến mức thậm chí giả như đầu ra có thể đo lường được hoàn hảo, nó sẽ chỉ cung cấp một chỉ số không hoàn hảo về nỗ lực), và những khó khăn trong điều chỉnh mức lương khoán theo sự thay đổi công nghệ. Hơn thế nữa số lượng lớn các mục tiêu hoặc đầu ra (thí dụ, nhân viên huấn luyện và giám sát các nhân viên khác), và sự thực, là lương khoán hướng sự chú ý vào các hoạt động được thưởng và khỏi các hoạt động khác, ngụ ý rằng lương khoán có thể không có hiệu lực để bảo đảm các nhân viên ứng xử theo cách tối đa hoá lợi nhuận của hãng. [8] Tôi quan tâm, tuy vậy, đến việc ra quyết định quản lí nhiều hơn đến các nhân viên. Trong thực tiễn những khuyến khích tài chính của ban quản trị trong các doanh nghiệp lớn tỏ ra rất yếu: Ban quản trị điển hình nhận ít hơn 0,3% của sự gia tăng lợi nhuận mà hoạt động của nó thu được cho hãng (Jensen và Murphy 1990). Điều này dường như có thể gây ngạc nhiên, căn cứ vào vai trò quan trọng của các quyền chọn cổ phiếu (stock option) có vẻ như một phần của đền bù quản lí. Quyền chọn cổ phiếu được minh chứng là tạo các khuyến khích mạnh: Nếu hãng hoạt động tốt, nhà quản lí sẽ được thưởng. Nhưng trong khi quyền chọn cổ phiếu dành để thưởng ban quản trị vì thành tích tốt, điển hình khi hãng trải qua giai đoạn xấu, các dạng đền bù khác lại tăng, cho nên tổng đền bù vẫn tương đối không nhạy cảm với thành tích của hãng. Có các lí do khác để nghi ngờ luận điểm rằng quyền chọn được thiết kế để tạo khuyến khích cho ban quản trị. Các quyền chọn cổ phiếu trội hẳn như các phương tiện thưởng các nhà quản trị: Có các phương pháp lựa chọn khả dĩ có những ưu điểm rõ ràng về thuế và rủi ro. Trong một cuộc họp vài năm trước của các giám đốc nhân sự của các công ti lớn, ở đó vấn đề thiết kế các sơ đồ đền bù cho các nhà quản trị được thảo luận, tôi đã hỏi liệu họ áp dụng các quyền chọn cổ phiếu bởi vì (1) họ không biết các nhược điểm về thuế - một chê trách ngầm định nặng về năng lực của họ; hoặc (2) họ định lừa bịp các cổ đông, những người nghĩ rằng phát thưởng bằng cổ phần cũng giống như in tiền (chẳng tốn gì cho công ti): các cổ đông không nhận thức được các hậu quả của sự loãng giá (cổ phiếu). Trong khi việc sau có vẻ giống như tính bất lương, có thể vẽ cho nó một bộ mặt tốt hơn: Ban quản trị coi trách nhiệm của họ là tối đa hoá giá trị cổ phần, và nếu thị trường phản ánh sự dốt nát của cổ đông điển hình [9] , thì ban quản lí coi trách nhiệm của mình là lợi dụng sự dốt nát của thị trường. Câu trả lời mà tôi nhận được (trừ một trường hợp) là: (1) thực vậy họ đã không biết về các hệ quả thuế, (2) nhưng ngay cả bây giờ khi họ đã biết các hệ quả xấu về thuế, họ cũng không thay đổi sơ đồ đền bù của mình, vì họ tin là vẫn đáng lợi dụng các cổ đông không am hiểu. [10] Giải thích về vai trò yếu kém của các khuyến khích truyền thống Trong danh mục những giải thích về sự thất bại của việc dựa vào các sơ đồ khuyến khích truyền thống được nêu ở trên, tôi muốn nhấn mạnh một lí do - sự khó khăn để biết chắc cả đầu vào lẫn đầu ra của một cá nhân. Điều đó đặc biệt đúng với các nhà quản lí và những người khác dính đến ra quyết định. Quyết định quan trọng được tập thể đưa ra, vì các lí do hiển nhiên: mỗi cá nhân có thông tin hạn chế, và những sai sót của tổ chức chắc được giảm nếu nhiều hơn một người được kéo vào các quyết định quan trọng (xem chương 9). Khi tập thể lấy quyết định, sẽ rất khó, nếu không nói là không thể, phân trách nhiệm khi thất bại, hoặc thành công về nội dung đó. Thực vậy, nhiều, nếu không phải là hầu hết, cá nhân bỏ rất nhiều công sức để gây khó khăn cho việc qui lỗi. Họ sắp đặt để những người khác được hỏi ý kiến một cách phù hợp, và họ rất thận trọng trong hành văn trên giấy tờ. Truyền đạt bằng lời tuỳ thuộc rất nhiều vào sự diễn đạt lại - nếu lời khuyên tỏ ra sai, thì nói rằng lời khuyên đã không được hiểu đúng và không được tuân theo đầy đủ. Khi các cá nhân đặt bút lên giấy, để lại bút tích, họ thận trọng đến mức đọc lên nó khó hiểu như một lời sấm tiên tri Delphic. Các khuyến khích trong mô hình Arrow-Debreu và lí thuyết chung về khuyến khích Trong mô hình Arrow-Debreu các cá nhân đều nhận lương khoán sản phẩm, họ nhận một khoản cố định cho mỗi đơn vị họ làm ra. Lí thuyết về khuyến khích gợi ý rằng chỉ dưới các điều kiện rất hạn chế đây mới là dạng tối ưu của khuyến khích. Các sơ đồ đền bù thường phức tạp hơn, dẫn đến, thí dụ, phần thưởng phi tuyến. Hệ thuyết chuẩn không cung cấp giải thích về điều này, trong khi hệ thuyết thông tin mới thì có. Ngoài mối quan hệ giữa lương và thành tích, hợp đồng lao động thường bao gồm các điều khoản khác khá phức tạp. Thí dụ, thường xuyên có những hạn chế về nhân viên nhận làm việc ngoài. Nếu giả như phần mà các cá nhân nhận được cho mỗi đơn vị đầu ra đúng bằng giá trị (biên) của đầu ra, thì các hãng sẽ chẳng quan tâm đến số lượng đầu ra của bất kể ai là bao nhiêu. Các hãng vì thế không áp đặt những hạn chế như vậy, hệt như họ chẳng có lí do gì để lo về nỗ lực của cá nhân, và do đó không quan tâm đến tạo động cơ khuyến khích họ. Những quan sát này có hai hàm ý: (1) các cá nhân, tại biên, dường như không nhận khoản lợi biên xứng với giá trị biên mà họ đóng góp. (2) Các "hệ thống kiểm soát" mà nền kinh tế sử dụng là phức tạp hơn chỉ thuần tuý các hệ thống giá cả, và chắc chắn phức tạp hơn các hệ thống giá "tuyến tính". [11] Chúng kéo theo những hạn chế định lượng, được dùng như các cơ chế kiểm soát gián tiếp khi các cơ chế kiểm soát/khuyến khích trực tiếp là tốn kém hoặc khó thực hiện. [12] Có các thí dụ khác về cái có thể coi như những hạn chế định lượng: Hãy xét một tình huống ở nơi, vì tính kinh tế theo phạm vi, các cá nhân có nhiều nhiệm vụ phải hoàn thành, nhưng nhiễu gắn với đo thành tích trong các nhiệm vụ khác nhau là khác nhau. Lí thuyết chung về khuyến khích lập luận rằng với các nhân viên không ưa rủi ro, các khuyến khích mạnh hơn phải được đưa ra cho thành tích của các nhiệm vụ được đo chính xác hơn. Nhưng hệ quả là các nhân viên sẽ hướng chú ý tới các nhiệm vụ này. Như một kết quả, có thể nên hạn chế số nhiệm vụ phân cho mỗi cá nhân- bỏ các khoản lợi có được từ tính kinh tế theo phạm vi. [13] Các khuyến khích và cạnh tranh Theo một nghĩa nào đó mô hình Arrow-Debreu và định lí Lange-Lerner-Taylor không chỉ không đề cập đến các vấn đề khuyến khích chủ yếu đối mặt với nền kinh tế, chúng gây ấn tượng sai về mối quan hệ giữa cạnh tranh (ít nhất loại đặc biệt của cạnh tranh được gọi là "cạnh tranh hoàn hảo") và các khuyến khích, một điểm mà tôi sẽ quay lại ở chương 7. Cạnh tranh, ở dạng tranh đua - trong đó phần thưởng phụ thuộc vào thành tích tương đối - có thể và hi vọng đóng một vai trò quan trọng trong tạo các khuyến khích, nhưng đây là một triển vọng khá khác về cạnh tranh so với cái mà hệ thuyết truyền thống cung cấp. Chứng cớ về và các hệ quả của quyền tự trị quản lí Sự thực rằng các cuộc thôn tính và các "cơ chế kiểm soát" khác, như cổ đông biểu quyết chỉ tạo kiểm soát hạn chế lên các nhà quản lí, gây ra vấn đề bởi vì, như bây giờ chúng ta đã hiểu, quyền lợi của các nhà quản lí và các cổ đông có thể khác nhau - thí dụ, các nhà quản lí có thể dành hết năng lực của mình và nguồn lực của hãng cho việc nâng cao bản thân họ và cho việc thăng tiến sự nghiệp và thúc đẩy quyền lợi riêng [14] của họ (xem, thí dụ, Hannaway 1989; Milgrom và Robert 1988; Shleifer và Vishny 1989; Edlin và Stiglitz 1992). Như tôi đã chỉ ra, những sự khác biệt này không thể và không dễ hoặc chẳng bao giờ được hiệu chỉnh hoàn toàn bằng các sơ đồ đền bù. Có nhiều loại hậu quả của sự phân kì này. Sự thực rằng các nhà quản lí chiếm đoạt một phần nhỏ các khoản lời đối với nỗ lực của họ gợi ý rằng họ sẽ có quá ít nỗ lực. [15] Nhưng, như tôi đã nhắc tới trước đây, có lẽ quan trọng hơn nhiều là những méo mó trong ra quyết định. Trong những hoàn cảnh nào đó các nhà quản lí có thể có khuyến khích để lấy quá nhiều rủi ro, trong tiến hành nỗ lực khá mới nào đó. Xét cho cùng, họ đánh bạc bằng tiền của người khác. Nếu họ thành công, họ có thể được danh tiếng, và kiến thức đặc biệt thu được nhờ đó sẽ tạo cơ hội để họ mặc cả tiền công cao hơn. Nếu nỗ lực thất bại, ít nhất các chi phí tài chính chủ yếu do người khác chịu. Trong các hoàn cảnh khác (và có quan điểm chung rằng đây là trường hợp phổ biến hơn) các nhà quản lí có khuyến khích để lấy quá ít rủi ro. Trong khi các cổ đông có thể là rất đa dạng, và như thế là bàng quan với rủi ro, các nhà quản lí có khoản cược lớn trong hãng. Ngay cả nếu sơ đồ đền bù "chính thống" tạo một khoản thưởng lớn cho thành tích đặc biệt - tính phi tuyến trong sơ đồ trả lương, nếu đủ lớn, sẽ gây ra ứng xử liều - các nhà quản lí lo rằng nếu đề án thất bại, thì sự nghiệp của họ với hãng sẽ bị huỷ hoại, và tính hấp dẫn của họ đối với những người ngoài sẽ giảm sút. Nỗi lo âu này nhiều hơn sự bù đắp hứa hẹn về khoản trả cao hơn nếu đề án rất thành công. Trong nhiều trường hợp có thể khó để biết chắc liệu một nhà quản lí làm tốt công việc hay không. Những người đứng ngoài chắc sẽ xem thành tích tương đối (như được nhắc tới trước đây). Nếu một hãng làm tồi, nhưng tất cả các hãng khác trong cùng một ngành cũng làm tồi, thì nhà quản lí sẽ không bị trách. Điều này tạo một khuyến khích mạnh để các hãng tiến hành các hoạt động giống nhau: Làm cái mà các hãng khác làm đảm bảo rằng mình không thể làm quá tồi so với hãng khác. [16] Ngành ngân hàng cho một thí dụ cụ thể về điều này trong các năm 1970 và 1980. Trong các năm 1970 nhiều ngân hàng đã cho Mĩ Latin vay các khoản lớn, nhiều hơn mức thận trọng (dựa theo các lí thuyết về đa dạng hoá, và kinh nghiệm lịch sử liên quan đến vỡ nợ chính phủ). Khi vào đầu các năm 1980 các hậu quả đã hiển nhiên - khi nhiều nước mắc nợ lớn không có khả năng trả nợ - ít, nếu có, nhà quản lí ngân hàng nào bị "phạt". Sự thực rằng không riêng một ai đưa ra phân bổ đầu tư tồi đã làm cho nó dường như là một sai lầm "vừa phải", và vì vậy lỗi lầm không bị trừng phạt. Trong khi những méo mó này xem ra có vẻ hiển nhiên, có một dải rộng những méo mó tinh tế hơn. [17] Tiền công của các nhà quản lí phụ thuộc một phần vào vị thế mặc cả của họ đối với những người chủ: Họ có thể được thay thế dễ ra sao (thí dụ, bởi hội đồng quản trị). [18] Điều đó phụ thuộc vào cả mức độ kiến thức đặc thù cần để điều hành công ti lẫn mức độ có sự khác biệt trong thông tin về công ti giữa các nhà quản lí hiện thời và những người ngoài. Kiến thức đặc thù cần thiết càng lớn, và sự bất đối xứng thông tin càng lớn, thì ban quản lí càng bám chắc và vị thế mặc cả của nó càng mạnh. Nhưng những biến số này phần lớn nằm dưới sự kiểm soát của ban quản lí. Chúng tạo, thí dụ, động cơ cho hãng tiến hành các đề án (đầu tư) mà giá trị của chúng là khó phán xét đối với người ngoài. Vì vậy, do bản chất của chúng, rất khó định lượng mức mà các quyết định đầu tư bị méo mó. Những lập luận lí thuyết rằng các hãng với quyền sở hữu phân tán không được quản lí tốt - hoặc ít nhất được quản lí theo quyền lợi của các cổ đông - được ủng hộ bởi một số bằng chứng thực tiễn, mặc dù trong trường hợp của những méo mó được thảo luận ở đoạn trên, nhận được chứng cớ chi tiết tỏ ra rất khó. Tuy vậy, có hai loại ứng xử mà sự khác biệt dường như có tư liệu khá. Thôn tính Tôi đã lưu ý những quan sát về quyền tuỳ ý quản lí gắn với sự đam mê thôn tính của các năm 1980, Ross Johnson của RJR-Nabisco có lẽ cung cấp một thí dụ kinh điển. Bằng chứng vượt quá những giai thoại này: Bản thân phong trào thôn tính có vẻ hơi bí ẩn, vì các hãng đi thôn tính có vẻ chẳng kiếm được mấy, do họ phải cạnh tranh với các hãng khác, và quá trình đấu giá đẩy giá lên "kịch trần". Nghiên cứu của Morck, Shleifer và Vishny (1989), chứng tỏ rằng ảnh của nhà quản lí trong báo cáo thường niên càng lớn, thì khả năng thôn tính càng lớn, ủng hộ lí thuyết ngạo mạn: Không phải sự phán xét kinh doanh mà chính cái tôi của nhà quản lí là cái thúc đẩy phần nhiều hoạt động thôn tính. Có vẻ là khả năng của các cuộc thôn tính làm giảm giá trị sẽ giảm đi khi số cổ phần của hãng, được sở hữu bởi ban quản lí và các nhóm lợi ích có quyền kiểm soát lớn, tăng lên. Các nghịch lí thuế Trong các năm gần đây các nhà kinh tế học về thuế đã cung cấp thêm bằng chứng về các hệ quả của sự tách rời quyền sở hữu và kiểm soát, về tính phi hiệu quả gắn với quyền tự trị quản lí: Họ đã nhận diện một số lượng lớn các nghịch lí thuế, các trường hợp trong đó các hãng đóng thuế nhiều hơn nhiều mức họ phải đóng. Điều quan trọng về các nghịch lí thuế là, đánh thuế là một trong vài vũ đài trong đó chúng ta những nhà kinh tế học tầm thường có thể đánh giá tính hiệu quả của nền kinh tế thị trường. Ít người trong chúng ta có những khả năng kĩ thuật để biết liệu GM có thật sự hiệu quả trong sản xuất xe hơi không. Thực ra, thành tích tương đối của nó, thí dụ, so với Toyota và Nissan, gợi ý rằng không. Thế nhưng các nhà lãnh đạo của GM sẽ nêu những khác biệt về nhân công và vốn giữa hãng của họ và các hãng Nhật, lập luận rằng, căn cứ vào môi trường mà họ hoạt động, họ thật sự hoàn toàn có hiệu quả như họ có thể. Nhưng cơ cấu thuế là tương đối dễ đối với bất kể ai trong chúng ta để hiểu: Đó là một "công nghệ" được chứa đựng có lẽ trong ít hơn một trăm cuốn sách về các luật, các qui tắc, và qui định. Các nguyên tắc thậm chí còn dễ hiểu hơn. Chúng ta có thể giải thích thậm chí cho các sinh viên vì sao, cho đến 1986, ở Hoa Kì, đã chẳng bao giờ có lợi cho các hãng đi chia tiền của cho các cổ đông ở dạng cổ tức; luôn tốt hơn là đi mua lại cổ phần hoặc tiến hành các hoạt động khác để các cổ đông nhận được tiền từ công ti ở dạng lãi vốn. Sự thực rằng các hãng vẫn tiếp tục chia cổ tức được gọi là nghịch lí cổ tức (Stiglitz 1973b), và trong khi rất nhiều bài báo đã được viết ra thử thanh minh cho nghịch lí thuế, chẳng bài nào thoả mãn cả. Thực vậy điểm mà tôi muốn nhấn mạnh ở đây là, ít nhất trong thảo luận với các quan chức ở các công ti bị giữ chặt [19] , dường như có sự nhận biết những bất lợi của chia cổ tức, và họ tin cậy vào chúng ít hơn nhiều. Các công ti do công chúng nắm giữ quan tâm nhiều hơn đến cảm nhận lành mạnh mà việc chia cổ tức đều đặn dường như tạo ra, so với vấn đề căn bản hơn là tối thiểu hoá các nghĩa vụ thuế. Các thị trường không hoàn toàn ngu: Chúng học từ từ, và, như Shoven và Bagwell (1989) đã chỉ ra, đã có sự tăng lên rõ ràng về tỉ lệ ngân quĩ được chia từ khu vực công ti sang cho khu vực hộ gia đình theo các cách có lợi về thuế trong mười lăm năm sau khi biết đến nghịch lí cổ tức. Những dị thường khác về thuế ủng hộ quan điểm rằng các công ti do công chúng nắm thường đặt hình thức - vẻ ngoài của lợi nhuận- lên trên thực chất: Việc dùng phương pháp kế toán FIFO thay LIFO [20] , trong khi làm tăng giá trị chiết khấu hiện tại của các nghĩa vụ thuế, nó làm tăng thu nhập tiền mặt ngắn hạn của hãng. Như thế nhiều hãng do công chúng nắm tiếp tục dùng qui ước kế toán này, ngay cả khi các chi phí để làm vậy tăng lên rất nhiều khi tỉ lệ lạm phát tăng. Với cùng lí do, có lẽ, nhiều hãng do công chúng nắm không khấu hao nhanh, điều làm giảm giá trị chiết khấu hiện tại của các nghĩa vụ thuế, tuy nó làm giảm thu nhập được báo cáo trong ngắn hạn. Đáng chú ý về một số dị thường này là, hãng có thể "thành thật thú nhận" - nó có thể báo cáo cho các cổ đông về lợi nhuận "thực" sẽ là bao nhiêu theo các phương pháp kế toán khả dĩ khác nhau, và giải thích rằng nó dùng tập quán kế toán cụ thể chỉ để làm giảm các nghĩa vụ thuế. Một thí dụ khác là việc sử dụng quyền chọn cổ phiếu để thưởng các nhà quản trị. Như đã được nhắc tới, các hãng cho là họ sử dụng quyền chọn cổ phiếu bởi vì nó tạo các khuyến khích tốt: Nếu các nhà lãnh đạo thành công trong việc làm tăng giá trị của công ti, họ được hưởng lợi. Thế mà các sơ đồ này không được thiết kế tốt. Cái mà hãng muốn làm là thưởng các nhà điều hành do họ làm tốt hơn thị trường. Trong chừng mực khoản lợi chỉ thuần tuý phản ánh một đợt phồn thịnh bột phát trong thị trường cổ phiếu, thì nhà điều hành không được thưởng. Theo cùng lẽ như thế các sơ đồ này gây rủi ro lên nhà điều hành: Khi thị trường cổ phiếu xuống, các nhà điều hành bị phạt, ngay cả dẫu cho sự suy sụp là ngoài vòng kiểm soát của họ. Các nhà điều hành phải được thưởng trên cơ sở thành tích tương đối. [21] Những thảo luận phổ biến thường nhắc đến thuận lợi về thuế của quyền chọn cổ phiếu, vì khoản lợi bị đánh thuế với các điều kiện có lợi của lãi vốn. Thế nhưng những phân tích như vậy đã không tính đến nghĩa vụ thuế của công ti. Có thể đạt được các tác động khuyến khích của quyền chọn cổ phiếu (hoặc tốt hơn, các tác động khuyến khích của các khoản lợi tương đối về giá trị cổ phiếu) bằng cách gắn tiền lương với thành tích (tương đối), mà không dùng quyền chọn cổ phiếu một cách tường minh, đồng thời tiết kiệm về thuế, trên cơ sở kết hợp thuế cá nhân và thuế công ti. [22] Việc không nhận ra điều này một cách rộng rãi ở các công ti do công chúng nắm, phản ánh sự tách rời của quyền sở hữu và kiểm soát. Các nhà quản lí trong các công ti chỉ có các cổ đông nhỏ phân tán, rõ ràng, lừa gạt làm cho các cổ đông nghĩ rằng quyền chọn cổ phiếu là "rẻ hơn": Phát hành thêm cổ phiếu hầu như không tốn kém như in tiền vậy. Chỉ dần dần các cổ đông mới hiểu về chi phí to lớn do loãng giá trị vốn của họ trong công ti. Hình như tính phi hiệu quả về thuế, bất luận dạng của nó là gì, thường chắc xuất hiện hơn khi có sự tách rời của quyền sở hữu và kiểm soát. Các cơ chế kiểm soát khả dĩ khác Ba phân đoạn trước đã lập luận rằng các nhà quản lí có quyền tự trị đáng kể, rằng các sơ đồ đền bù chỉ cung cấp một công cụ hữu hiệu một phần để sắp xếp các khuyến khích, và rằng kết quả là các hãng thường có vẻ không hành động vì lợi ích của các cổ đông. Thực ra có các cấu trúc "cai quản" lựa chọn khả dĩ khác - bên cạnh những thứ được nhấn mạnh trong văn khoa truyền thống - những cơ cấu hạn chế quyền tự trị của ban quản lí và làm cho việc các nhà quản lí hành động khá hiệu quả có khả năng hơn, và có các cơ chế lựa chọn để khiến các nhân viên hành xử vì lợi ích của hãng. Các ngân hàng và cai quản công ti Trong khi các cơ chế truyền thống, nhằm đảm bảo rằng các nhà quản lí không chỉ hành động vì lợi ích riêng của họ, chỉ có hiệu quả hạn chế, một cơ chế kiểm soát khả dĩ khác -các ngân hàng- có thể có hiệu quả. Triển vọng này có vẻ đáng ngạc nhiên. Xét cho cùng, các ngân hàng không có sự kiểm soát "danh nghĩa". Ở Hoa Kì các ngân hàng thậm chí còn bị ngăn khỏi có các đại diện trong hội đồng quản trị, và nếu có vai trò quá tích cực trong các công ti, chúng có thể mất địa vị ưu tiên trong trường hợp phá sản. Nhưng các ngân hàng có một quyền lực mà các cổ đông không có: Chúng có quyền đòi lại tiền (ở cuối kì của khoản vay), và nếu công ti không trả được, chúng có các quyền (hạn chế) để tiếp quản công ti. Vì rủi ro hạn chế của ngân hàng, có ít đa dạng hoá hơn - trong khi một công ti có thể có hàng triệu cổ đông, nó chỉ có một số lượng hạn chế người cho vay. Tương đối ít người cho vay chính này hành động hợp tác với nhau. Chúng "lần lượt" làm ngân hàng đầu mối và chịu trách nhiệm giám sát khoản vay. Sự thực rằng có ít người cho vay đối với riêng một hãng có nghĩa rằng vấn đề ăn không giảm bớt, và sự thực rằng cũng số hạn chế các ngân hàng ấy tương tác lặp đi lặp lại nhiều lần trong các hoạt động cho vay có nghĩa rằng những dàn xếp hợp tác (có thể nói ứng xử thông đồng) có thể duy trì, càng làm giảm tầm quan trọng của vấn đề ăn không trong giám sát (Stiglitz 1985b). (Sự thực rằng nhiều ngân hàng lớn, với sự đa dạng rộng rãi về sở hữu, cho cùng một hãng vay thoạt nhìn có vẻ nghịch lí. Chẳng có lợi mấy từ sự đa dạng hoá này, và có cái gì đó bị mất - do các khuyến khích giám sát sút giảm, với các lợi ích nào đó của việc giám sát bởi bất kể một người cho vay nào dồn cho những người cho vay khác. Nhưng căn cứ vào ứng xử hợp tác, khoản tổn thất này là hạn chế. Một giải thích khả dĩ do lí thuyết giám sát đồng đẳng (ngang hàng) cung cấp [Arnott và Stiglitz 1991; Stiglitz 1990c]. Câu hỏi chuẩn trong lí thuyết giám sát là ai giám sát các giám sát viên. Một giải pháp hiển nhiên là giám sát đồng đẳng: Các giám sát viên hoặc các nhân viên hoặc những người cho vay, thí dụ, giám sát lẫn nhau. Những người ngang hàng thường có nhiều thông tin, đơn thuần như sản phẩm phụ của các hoạt động khác của họ; hệt như học hỏi có thể là một sản phẩm chung tương đối ít tốn kém của sản xuất, việc giám sát cũng có thể như vậy. Nhưng để cho giám sát ngang hàng có hiệu quả, những người ngang hàng phải có khuyến khích để giám sát. Khi nhiều ngân hàng bị "phơi ra" cho rủi ro cho vay, ngay cả khi một ngân hàng làm đầu mối, các ngân hàng khác có lợi ích thích đáng để "giám sát giám sát viên"). Triển vọng này - tầm quan trọng của các ngân hàng như một cơ chế kiểm soát - đầu tiên được Berle (1926) thảo luận. Nó được hồi sinh, trong khung cảnh lí thuyết thông tin, bởi Stiglitz (1985b) và đã nhận được sự chú ý ngày càng tăng khi các nhà kinh tế học xem xét kĩ hơn thành công của Nhật Bản nơi các ngân hàng dường như đóng một vai trò nổi bật. Vượt quá các khuyến khích tài chính Sự thực rằng các khuyến khích kinh tế trực tiếp dường như hạn chế đến như vậy đối với hầu hết các nhà điều hành đã dẫn Simon (1991) và Akerlof (1991) đến chỗ gợi ý rằng phải nhìn quá các khuyến khích kinh tế để hiểu ứng xử của nhà quản lí, rằng thành công của hãng đòi hỏi sự "đồng nhất hoá" các mục tiêu của cá nhân và của hãng, rằng các cá nhân chấp nhận thành công của hãng như mục tiêu của mình. Tầm quan trọng của những động cơ phi kinh tế này ra sao còn là một vấn đề tranh luận. Trong những ngày đầu của Liên Xô, có lẽ đúng là các khuyến khích phi kinh tế này đã đóng một vai trò quan trọng. Trong một số trường hợp chúng tỏ ra mạnh đến mức có thể về cơ bản thay thế các khuyến khích kinh tế. Tương tự, trong thời chiến, các động cơ phi kinh tế đóng vai trò quan trọng trong kêu gọi mức nỗ lực phi thường. Nhưng về dài hạn, các động cơ phi kinh tế, bản thân chúng, xem ra không đủ. Thế nhưng điều này không được dẫn chúng ta đến kết luận rằng chúng không thể đóng một vai trò quan trọng trong thúc đẩy nhân viên, như cái bổ sung, chứ không phải cái thay thế, cho các khuyến khích tài chính. Những gợi ý cho các nền kinh tế xã hội chủ nghĩa trước đây Tầm quan trọng của các vấn đề "kiểm soát" này trở thành tâm điểm thảo luận ở các nền kinh tế hậu xã hội chủ nghĩa về phải tổ chức các hệ thống tài chính của họ ra sao: Liệu họ nên theo mô hình Nhật, Đức hay Mĩ? Và họ phải tiến hành tư nhân hoá ra sao? Thiếu tập trung của cải hàm ý rằng vấn đề "quản lí như hàng hoá công cộng" chắc sẽ nảy sinh bất luận các nước này tiến hành tư nhân hoá ra sao. Nhưng một vài kiến nghị (được thảo luận trong một chương sau) bao hàm "chủ nghĩa tư bản nhân dân" - quyền sở hữu cổ phần tản mác, rộng rãi, trong đó các vấn đề về kiểm soát chắc sẽ đặc biệt gay gắt. Trong khi có lẽ có thể "giải" bài toán này bằng xổ số ngẫu nhiên, hiến mỗi hãng lớn cho một cá nhân riêng biệt, một "lời giải' như vậy sẽ khó có thể chấp nhận được về mặt chính trị. Căn cứ vào sự tách rời không thể tránh khỏi của quyền sở hữu và kiểm soát, câu hỏi cần đặt ra là, vấn đề "kiểm soát" có thể được đề cập ra sao? Ở đây việc thiết kế hệ thống tài chính chắc sẽ là quan trọng (xem chương 12). Thành công suốt mười hai năm qua của Trung Quốc, và đặc biệt ở các tỉnh phía nam, gợi ý rằng quyền sở hữu (tài sản tư nhân) là ít quan trọng, và rằng có các cơ cấu cai quản khác có thể có hiệu quả, ít nhất ở tầm ngắn hạn. Tăng trưởng đã dựa trên các doanh nghiệp được sở hữu bởi làng xã, hương trấn, các xí nghiệp nhà nước khác, các cơ quan nhà nước khác nhau, và vân vân. Có sự cai quản chia sẻ (shared governace). Các nhà quản lí có quyền rộng rãi, và việc giám sát được tiến hành bởi những người có quyền lợi (stakeholder) khác nhau, không chỉ bởi "những người chủ" danh nghĩa (mà bản thân chúng hầu hết là các tổ chức công cộng) mà bởi các bộ công nghiệp và các phòng tài chính địa phương những tổ chức phụ thuộc vào thành công của các doanh nghiệp này để có thu nhập. Những sự khác biệt giữa các doanh nghiệp công và tư Trong chương này, chúng ta đã đi luẩn quẩn: Chúng ta bắt đầu lập luận rằng một trong những lí do then chốt của sự thất bại của chủ nghĩa xã hội thị trường là nó đánh giá thấp tầm quan trọng của các khuyến khích. Sau đó chúng ta chỉ ra rằng mô hình Arrow-Debreu cũng thế. Nhưng sau đó chúng ta lại đi tiếp và lập luận rằng có lẽ, rốt cuộc, các khuyến khích là ít quan trọng hơn với tư cách là một phê phán của chủ nghĩa xã hội thị trường so với những thảo luận phổ biến gợi ý vì hai lí do: Thứ nhất, dưới chủ nghĩa tư bản, ở mức quản lí, các khuyến khích là yếu. Thứ hai, các doanh nghiệp công cộng có thể cung cấp cho các nhà quản lí các khuyến khích như nhau như các doanh nghiệp tư bản chủ nghĩa với sở hữu cổ phần tản mác cung cấp cho các nhà quản lí của họ. Cả hai hệ thống có thể gặp các vấn đề. Nhưng liệu các khuyến khích có cho cái nhìn thấu hiểu vào những sự khác biệt cốt yếu? Cuộc tranh luận về vấn đề này vẫn ở mức tương đối không thoả mãn. Các cuộc thảo luận tập trung vào hai vấn đề: Đầu tiên là vấn đề về khả năng của chủ nghĩa xã hội thị trường mô phỏng một nền kinh tế thị trường. Có một số người nhấn mạnh vai trò của thị trường cổ phiếu trong tạo các khuyến khích. Không phải là (như tôi đã giải thích) các nhà quản lí được trả bằng quyền chọn cổ phiếu, mà thay vào đó là thị trường cổ phiếu cung cấp thông tin mà bằng cách khác không có được để đánh giá thành tích quản lí. Thị trường nhìn ra phía trước và cung cấp sự đánh giá tốt nhất về sự thay đổi trong giá trị kì vọng chiết khấu hiện thời của công ti. Tôi thấy lí lẽ này không có sức thuyết phục vì ba lí do. Thứ nhất, đơn giản có quá nhiều nhiễu trên thị trường cổ phiếu. Giá thị trường của cổ phiếu bị tác động bởi một loạt những cân nhắc, chỉ một vài trong số đó có quan hệ trực tiếp với các hành động của nhà quản lí. Và vì sao chúng ta phải tin rằng những phán xét của các nhà đầu tư không am hiểu (nha sĩ ở Peoria, Illinois, hoặc người bán xe hơi đã về hưu ở Florida) là những phán xét tin cậy nhất liên quan đến triển vọng tương lai của các hãng? [23] Bằng chứng liên quan đến sự tin cậy thực tế tương đối thấp của các hãng tư bản vào giá trị thị trường cổ phiếu được nhắc tới ở trên, và sự thất bại của họ trong các nỗ lực thiết kế các sơ đồ đền bù nhằm chiết xuất nhiều "thông tin" hơn về những đóng góp của các nhà quản lí (bằng cách xem xét thành tích tương đối), gợi ý rằng trong các nền kinh tế thị trường thông tin này không thực nằm ở trung tâm của việc thiết kế các sơ đồ đền bù. Thứ hai, hầu hết các công ti không được niêm yết trên thị trường chứng khoán, và chẳng có bằng chứng nào là các công ti này bị thiệt hại lớn (ở khía cạnh thiết kế các sơ đồ khuyến khích quản lí) như một hệ quả. Thứ ba, nhiều nhất, thì thông tin cổ phiếu có thể là quan trọng đối với lương của các nhà quản trị chóp bu của các công ti lớn. Hầu hết các nhà quản trị quản lí các đơn vị con, mà giá trị của nó không được cung cấp bởi thị trường cổ phiếu. Có những cách khác, tin cậy hơn, để đánh giá đóng góp của các nhà quản lí. Vấn đề thứ hai tập trung vào động cơ của những người kiểm soát công ti để thực hiện các cơ cấu khuyến khích. Ở đây đôi khi được lập luận rằng những người điều hành các doanh nghiệp công cộng đơn giản không có động cơ để quan tâm đến hiệu quả kinh tế và như thế không có khuyến khích để thiết kế, thực hiện các cơ chế khuyến khích thích hợp. Lại một lần nữa, tôi thấy lí lẽ này không thuyết phục. Động cơ - và lòng mong muốn - của chủ tịch Petrofina, BP, hoặc Texaco để thực hiện các cơ cấu khuyến khích hình như không khác nhau nhiều. Một phần của lí do là các hãng này ở trong một môi trường cạnh tranh nơi tính hiệu quả của doanh nghiệp tương đối dễ đánh giá. Không phải sở hữu là cái cốt yếu lắm mà là sự tồn tại của cạnh tranh. Chắc hẳn, có mối quan hệ giữa hai cái: Nhiều doanh nghiệp nhà nước ở trong các lĩnh vực cạnh tranh hạn chế. Hãy xét những độc quyền tự nhiên như viễn thông. Có bằng chứng ở đây là cạnh tranh thúc đẩy hiệu quả. Mở cửa cạnh tranh trong những phần nhất định của ngành điện thoại Mĩ, mọi người tin rằng, đã có những tác động đáng kể lên tính hiệu quả của ngành công nghiệp này, tái khẳng định rằng cái có thể là quan trọng không phải là quyền sở hữu mà là cạnh tranh. Các doanh nghiệp nhà nước có thể đối mặt với các môi trường kinh tế khác với các doanh nghiệp tư nhân. Muộn hơn tôi sẽ thảo luận những hệ quả của các "ràng buộc ngân sách mềm". Các doanh nghiệp nhà nước có thể bị áp lực để theo đuổi các mục tiêu phi kinh tế, như công ăn việc làm địa phương. Các doanh nghiệp nhà nước có thể phải chịu các ràng buộc công chức trong các chính sách việc làm của họ. Tất cả những thứ này có thể có tác động xấu đến tính hiệu quả của các doanh nghiệp nhà nước. Có thể khó đối với chính phủ đi cam kết cho phép các doanh nghiệp nhà nước hoạt động giả như chúng là các doanh nghiệp tư nhân; tức là, có thể khó cam kết để cho phép cạnh tranh, để làm cứng ràng buộc ngân sách, để không bắt các doanh nghiệp chịu áp lực chính trị, để không bắt nó theo các đòi hỏi công chức. Những vấn đề cam kết này - những cái có thể được xem như các "vấn đề chính trị kinh tế học" hoặc các "vấn đề khuyến khích khu vực công cộng" - hình như gần hơn với cốt lõi của sự khác biệt giữa các thị trường và chủ nghĩa xã hội thị trường hơn là những khác biệt trong những khuyến khích quản lí. Có đôi chút mỉa mai trong tranh luận mới đây này. Thông điệp trung tâm của định lí Lange-Lerner Taylor là quyền sở hữu không quan trọng: Có thể có những ưu điểm của hệ thống giá mà không có những bất lợi gắn với quyền sở hữu tư nhân. Phê phán chủ nghĩa xã hội thị trường, qua việc chỉ ra sự thất bại của chủ nghĩa xã hội thị trường để nhận ra tầm quan trọng của các khuyến khích, đã không nhận ra sự sáng suốt cơ bản này. Các khuyến khích là quan trọng. Thiết kế các cơ cấu khuyến khích là khó. Nhưng câu hỏi vẫn nguyên đấy, liệu quyền sở hữu có quan trọng cho thiết kế các cơ cấu khuyến khích? ________________________________________ [1]Xem Stiglitz (1982d, 1985b). [2]Xem Stiglitz (1972a, 1975a). [3]Đặc biệt, phân tích kể trên giả thiết cạnh tranh "Bertrand" quyết liệt, với các nhà thầu giống hệt nhau bàng quan với thông tin và rủi ro. Dưới các điều kiện tổng quát hơn, với số nhà thầu hạn chế, các nhà thầu sẽ bỏ thầu ít hơn giá trị đầy đủ. Sự thực rằng chúng ta thấy các giá trị cao như vậy được hỏi mua có thể là một sự phản ánh nhiều hơn về tính phi lí của các nhà thầu, khi họ bị say mê trong quá trình đấu giá (bao gồm cả sự ngạo mạn của các chuyên gia thôn tính), hơn là về khả năng của cơ chế đấu thầu để bòn rút tiền thuê đầy đủ. Vấn đề tổng quát liên quan đến sự khác nhau giữa khoản lời riêng và khoản lời xã hội đối với việc thu thập thông tin được thảo luận, thí dụ, bởi Hirshleifer (1971) và Stiglitz (1975c, 1985c). [4]Về các vấn đề khác với cơ chế thôn tính, xem Stiglitz (1972a). Cho đến nay có một văn khoa lớn phân tích khi nào và dưới các điều kiện nào thì việc thôn tính có thể áp đặt kỉ luật một phần nào đó lên các nhà quản lí. Văn khoa là quá rộng để có thể đưa ra tổng quan ở đây. Là đủ để nói rằng cơ chế thôn tính áp đặt kỉ luật nào đó, song là hạn chế. Thí dụ gây ấn tượng nhất về các hãng được "định giá thấp" nhưng không bị thôn tính là các quĩ tương tế đóng (khép kín). Có thời gian, đặc biệt trong các năm 1970, các hãng này đã bán với một chiết khấu rõ ràng từ giá trị của các cổ phần cơ bản. Do đó đã có một chính sách đơn giản để tăng giá trị thị trường - mua hãng và phân chia cổ phần. Thế mà điều này đã không xảy ra. [5]Các sơ đồ như vậy có đặc tính là mỗi cá nhân nhận được đầy đủ giá trị biên của đóng góp của mình. [6]Như trong mọi hợp đồng thuê, "người thuê" chịu mọi rủi ro dư ra. [7]Việc đi vay không giải quyết được các vấn đề đại lí. Nhiều nhất, nó dịch chuyển chúng sang người cho vay. Xem, thí dụ, Stiglitz and Weiss (1981). [8]Xem, thí dụ, Stiglitz (1975b). [9]Các nghịch lí thuế khác, được thảo luận dưới đây, cung cấp thêm bằng chứng cho điều này. [10]Xem Stiglitz (1987e). [11]Thảo luận của tôi ở chương 3 đã gợi ý một khía cạnh của điều này, vượt quá tính phi tuyến của các sơ đồ đền bù. Ở đó tôi đã lưu ý rằng nỗ lực có thể được tăng cường bằng trợ cấp những bổ sung đối với nỗ lực và đánh thuế các khoản trợ cấp. Các hãng có thể có khả năng sùng các công cụ tương tự. Các chủ đất có thể tăng cường nỗ lực của các tá điền ăn chia hoa lợi của mình (làm tăng phần lời dự kiến của chủ đất) bằng cách cung cấp phân bón (cái có thể làm tăng lợi tức biên đối với nỗ lực) hoặc cung cấp tín dụng với lãi suất thấp hơn lãi suất thị trường (điều có thể dẫn tá điền đến mua nhiều đầu vào hơn, và đến lượt nó điều đó lại có thể tăng cường nỗ lực). Như thế các mối quan tâm đến các khuyến khích có thể dẫn đến sự "liên kết đan xen" giữa các thị trường. Mặc dù điểm này được đưa ra đầu tiên trong bối cảnh của các nước kém phát triển (Braverman and Stiglitz 1982, 1986), nó cung cấp một phần cơ sở hợp lí cho những sự kiềm chế dọc trong các nền kinh tế công nghiệp. [12]Đây là chủ đề chính của cuốn sách sắp tới của tôi với Richard Arnott. [13]Điểm chung rằng, lương khoán sản phẩm (ngay cả được chọn một cách tối ưu) hướng sự chú ý theo cách riêng, không nhất thiết phù hợp với lợi ích của hãng, được nhắc tới trong những thảo luận sớm hơn về lương khoán, cả ở mức lí thuyết (thí dụ, Stiglitz 1975b) lẫn mức thi hành thực tiễn. Các nhân viên sẽ không có khuyến khích để huấn luyện các nhân viên mới. Trừ khi chất lượng có thể được đo chính xác, và lương khoán phản ánh chính xác sự khác biệt chất lượng này, thì có thể có thiên lệch hướng tới sản xuất chất lượng thấp. Về những thảo luận gần đây hơn, xem Holmstrom and Milgrom (1991), và về một ứng dụng lí thú vào thiết kế các hệ thống giáo dục, xem Hanaway (1992). [14]Thực vậy, khi có một tập không đầy đủ của các thị trường rủi ro, sẽ không có sự thống nhất giữa các cổ đông liên quan đến các mục tiêu nào hãng phải theo đuổi (xem, thí dụ, Grossman àn Stiglitz 1980b). Khi có một tập đầy đủ của các thị trường kì hạn và rủi ro, không chỉ sẽ có sự nhất trí về mục tiêu nào hãng phải theo đuổi - tối đa hoá giá trị thị trường - mà cũng không có sự mơ hồ về điều đó đòi hỏi gì (xem Stiglitz 1970, 1972a, 1972b). Khi các điều kiện này không thoả mãn, phán xét của ban quản trị về hoạt động nào sẽ tối đa hoá "giá trị thị trường tầm dài hạn" là cần thiết, và điều này tạo phạm vi to lớn cho quyền tuỳ ý của ban quản trị, làm cho khó để biết chắc liệu các hoạt động đó được tiến hành vì các mục tiêu riêng hay của tổ chức. [15]Đây là điểm được đưa ra trong văn khoa sớm nhất về người chủ-người đại lí, thí dụ, Stiglitz (1974) ở nơi đã chỉ ra rằng một nhà quản lí giống một tá điền: Nhà quản lí chỉ nhận được một phần nhỏ của đầu ra do nỗ lực của mình. [16]Xem Nalebuff and Stiglitz (1983b). [17]Xem Edlin and Stiglitz (1992). [18]Các lập luận tương tự áp dụng cho các khuyến khích của các nhà quản lí để làm nản lòng việc thôn tính. [19]Đa số cổ phần của công ti bị giữ chặt (losely held) nằm trong tay một số ít cổ đông, ngược với các công ti do công chúng nắm (publicly held). [20]Phương pháp kế toán kho hàng FIFO (First In First Out = nhập trước xuất trước) và LIFO (Last In, First Out = nhập sau xuất trước). [21]Phần này của nghịch lí là ít - nhưng chỉ một chút ít- nghịch lí hơn như nó có vẻ: Trong một thị trường vốn hoàn hảo các nhà điều hành không ưa rủi ro có thể gạt bỏ rủi ro thị trường cổ phiếu, thí dụ, bằng cách bán non quĩ chỉ số S&P 500. Trong các thị trường thực tế các nhà điều hành có thể gạt bỏ không hoàn hảo một số rủi ro nào đó. Tuy vậy, vấn đề vẫn còn là vì sao các phương pháp lựa chọn khả dĩ làm giảm cả chi phí giao dịch (như chúng ta sẽ thấy ở dưới) lẫn gánh nặng thuế lại không được áp dụng. [22]Nếu một công ti trả lương 100 $ cho nhà quản lí, nó được trừ khỏi thuế thu nhập công ti. Trước 1986 chính phủ liên bang đã trả khoảng 50 phần trăm lương của nhà quản lí. Sự kết hợp thuế công ti và thuế cá nhân trên 100$ trả cho nhân viên (với cá nhân chịu thuế suất 50 phần trăm) sẽ bằng không (50$ giảm thuế thu nhập công ti bù bằng 50$ tăng thuế thu nhập cá nhân). Ngược lại, với quyền chọn cổ phiếu, số thuế thuần nộp là khoảng 25$, với lãi vốn bị đánh thuế ở mức 50 phần trăm của thuế suất bình thưòng. Với lãi vốn và thu nhập thường bị đánh thuế ở mức 28 phần trăm, thuế suất thu nhập bang, thí dụ, 6 phần trăm, và suất thuế thu nhập công ti 36 phần trăm, thì thuế thuần trả với lương theo thành tích tương đối là 2$ (nhân viên nộp 28$ thuế thu nhập và 6$ cho bang nhưng công ti được khấu trừ 36$ thuế thu nhập công ti), trong khi với quyền chọn cổ phiếu thì chúng không được khấu trừ vào thuế thu nhập công ti, thuế thuần phải trả là khoảng 34$ (28+6=34); mặc dù, bằng cách trì hoãn thực hiện, thuế thực tế có thể giảm, trừ trong các hoàn cảnh không bình thường vẫn bị thiệt về thuế. [23]Có hai phê phán của lí lẽ này. Thứ nhất là những cá nhân không am hiểu này chiếm một tỉ lệ đủ nhỏ của tất cả những nhà đầu tư nên họ không có ảnh hưởng gì lên giá thị trường. Trong hầu hết các thị trường cổ phiếu số lượng và tầm quan trọng của những người tỏ ra là các nhà giao dịch tương đối không am hiểu xem ra là khá lớn. Thứ hai là giá cả được xác định bởi các nhà đầu cơ am hiểu, chứ không phải những người không am hiểu. Lí lẽ rằng toàn bộ do vài cá nhân am hiểu đảm bảo rằng thị trường ứng xử giả như tất cả các cá nhân am hiểu đơn giản là không chính xác (xem Salop and Stiglitz 1977). Thật vậy, nếu thông tin là tốn kém, giá cả không thể phản ánh thông tin của người am hiểu nếu có bất kể khuyến khích nào để nhận thông tin (Grossman and Stiglitz 1976, 1980a). 6. Phân phối khẩu phần của thị trường và những phân bổ phi giá cả trong nội bộ các nền kinh tế thị trường Hệt như mô hình chủ nghĩa xã hội thị trường đã đánh giá thấp tầm quan trọng của các vấn đề khuyến khích, nó đánh giá quá đáng vai trò của giá cả và đánh giá thấp các khó khăn để làm cho hệ thống giá hoạt động. Tất nhiên, không ngạc nhiên là Lange, Lerner, và Taylor cũng nhấn mạnh vai trò của giá cả trong phân bổ nguồn lực. Họ đặt cơ sở cho những nghiên cứu của mình trên hệ thuyết truyền thống, lập luận cho vai trò hàng đầu của giá cả trong phân bổ nguồn lực, với giá xác định để cầu bằng cung. Họ khác với mô hình truyền thống chỉ ở quan điểm của họ về các quá trình theo đó giá cả được xác định. Thay cho dựa vào các lực lượng thị trường, hoặc một nhà đấu giá huyền thoại kiểu Walras, để làm cân bằng cầu với cung, họ đã muốn dựa vào bàn tay hữu hình của chính phủ. Nhưng giá cả trong hai lí thuyết thực hiện chính xác cùng một vai trò. Chương này chia ra làm năm đoạn. Trong đoạn một, tôi giải thích vì sao giá cả không chỉ không mà không thể hoạt động theo cách mà mô hình chuẩn giả định. Sau đó tôi tiếp tục lập luận rằng thực ra giá cả làm nhiều hơn (và ít hơn) hình dung của hệ thuyết truyền thống; tức là, mô hình chuẩn không những đánh giá quá đáng vai trò của giá trong tạo ra các tín hiệu liên quan đến sự khan hiếm kinh tế, mà còn đánh giá thấp vai trò của giá trong thực hiện một số chức năng quan trọng khác, những chức năng nảy sinh khi thông tin là không hoàn hảo. Điều này dẫn đến việc thảo luận rộng về vai trò của các cơ chế phi giá cả trong phân bổ nguồn lực. Các vấn đề gắn với phân bổ vốn cho một cơ hội tuyệt vời để hiểu những nguyên nhân và các hậu quả của những hạn chế của cơ chế giá, và vai trò của các cơ chế lựa chọn khả dĩ khác cho phân bổ nguồn lực. Như vậy trong nửa cuối của chương tôi quay sang thảo luận chi tiết về thị trường vốn. Tôi kết thúc bằng cách trở lại chủ đề trung tâm của mình: những ngụ ý của các bài học này cho chủ nghĩa xã hội thị trường. Vì sao giá không thể hoạt động theo cách mô hình chuẩn giả định Các vấn đề cơ bản với mô hình "giá" nảy sinh từ tính phức tạp của không gian hàng hoá và các chi phí quan sát vô số khác biệt giữa các mặt hàng. Tính phức tạp của không gian hàng hoá Trong các thí dụ mà chúng ta dạy sinh viên, chúng ta nói về táo, cam, và lúa mì. Nhưng bất kể nông dân nào có thể nói cho bạn rằng không có cái gọi là giá táo. Giá phụ thuộc vào loại táo, độ tươi của nó (và hàng loạt các đặc trưng chất lượng khác), vào địa điểm, và vào thời điểm trong năm. Các mặt hàng công nghiệp thậm chí còn phức tạp hơn, có số lượng lớn các thuộc tính liên quan. [1] Một thí dụ về tính phức tạp của không gian sản phẩm được Bộ Quốc phòng Mĩ cung cấp gần đây, khi nó đưa ra để đấu thầu áo thun trắng, ngắn tay, bình thường, loại mặt hàng có thể mua được ở bất kể hiệu áo quần nào với giá vài đôla. Đặc tả chi tiết kĩ thuật chiếm ba mươi trang in chữ nhỏ. Ngay cả khi đó tôi nghi là sản phẩm đã được mô tả chưa hoàn hảo. Tất nhiên hầu hết những người tiêu dùng không diễn tả hoàn toàn cái mà họ mua khi họ mua một áo ngắn tay - gợi ý rằng có sự khác biệt căn bản giữa cách mà các thị trường thực hoạt động và cách mà mô hình thị trường xã hội chủ nghĩa hình dung chúng phải hoạt động ra sao. Các nhà lập kế hoạch không thể định một tập đủ của các giá Tính phức tạp của không gian mặt hàng có hai hệ quả cơ bản. Thứ nhất, hầu như là không thể đối với nhà lập kế hoạch trung ương để định giá, hoặc để định giá theo cách phản ánh thoả đáng sự đa dạng này của các đặc trưng và để có kết quả là các sản phẩm có đúng các đặc trưng được sản xuất. Thí dụ, phải có giá cho mỗi mức chất lượng (một thang liên tục) và mỗi mức chất lượng lại phải được mô tả chính xác. Vì mỗi mặt hàng có nhiều chiều, ngay cả nếu chỉ có số lượng hạn chế các đặc tả trong mỗi chiều, toàn bộ số chiều của không gian hàng hoá là khổng lồ. (Nghĩ về một mặt hàng có mười đặc trưng, như màu, độ bền, chiều dài, độ rộng, v.v. Nếu mỗi chiều có thể lấy 10 giá trị, thì số chiều của không gian giá cho mặt hàng duy nhất này sẽ là 10 tỉ!) Những hậu quả của việc không mô tả đầy đủ các mặt hàng Các nền kinh tế xã hội chủ nghĩa thị trường (và các cơ quan mua sắm của chính phủ trong các nền kinh tế thị trường) đã học một cách nhọc nhằn về cái gì sẽ xảy ra khi sản phẩm không được mô tả đầy đủ. Nếu giá được đưa ra cho "đinh", đinh ngắn làm bằng vật liệu rẻ sẽ được sản xuất. Nếu độ dài của đinh được qui định, còn độ dày thì không, những chiếc đinh quá mảnh sẽ được sản xuất. Nếu độ dài và độ dày được qui định, nhà sản xuất vẫn có thể làm đinh từ vật liệu rẻ, làm cho đinh rất dễ gãy. Đối với các mặt hàng phức tạp hơn, dẫu cho có bao nhiêu đặc trưng được qui định, vẫn còn cơ hội cho sự tuỳ ý, và đặc biệt, việc cắt chi phí ảnh hưởng xấu đến việc mặt hàng thực hiện tốt nhiệm vụ được dự kiến ra sao. Các chi phí của mô tả đầy đủ các mặt hàng Nhưng các vấn đề vượt quá sự thực, là vô cùng tốn kém để cung cấp đặc tả đầy đủ của các mặt hàng rất phức tạp, như giai thoại về áo thun ngắn tay ở trên minh hoạ. Nếu tất cả đầu vào (vật liệu, v.v.) được mô tả đầy đủ - thí dụ, vật liệu nào mà đinh phải bao gồm - nó ngăn các cơ hội tìm các vật liệu khả dĩ khác thoả mãn nhu cầu của người dùng tốt như thế hoặc tốt hơn nhưng lại rẻ hơn. Nếu giả như chỉ có các tính năng của đinh được qui định, thì có thể là vấn đề phán xét liệu các "đặc trưng" ấy được thoả mãn. Ngay cả khi đó vẫn còn vấn đề đánh đổi: Một số vật liệu có thể vượt tiêu chuẩn ban đầu trong đặc trưng nào đó, và kém trong đặc trưng khác. Nhà sản xuất nhận được giá nào cho một sản phẩm như thế? Chủ nghĩa xã hội thị trường không cho câu trả lời nào khác, ngoài yêu cầu nhà lập kế hoạch cung cấp một tập đầy đủ của các giá (một nhiệm vụ không thể làm được). Mô hình xã hội chủ nghĩa thị trường - và mô hình tân cổ điển - cả hai đều không nhận ra tầm quan trọng của giao tiếp giữa các nhà sản xuất và những người sử dụng các sản phẩm được sản xuất. Thông điệp trung tâm của các mô hình đó, rằng truyền thông giữa các nhà sản xuất và những người tiêu dùng có thể giới hạn ở các tín hiệu giá, là sai căn bản. Quá trình sản xuất thường là một quá trình "đàm phán" hơn là "chấp nhận giá". Các hãng thương lượng thời gian giao hàng, các đặc trưng của sản phẩm, cũng như giá. Thông tin (về nhu cầu của những người mua, các khả năng công nghệ của những người bán) được truyền đạt trong quá trình này. Giá có đóng vai trò quan trọng trong sự tương tác này. Một phát biểu định tính, "sẽ khó sản xuất loại đinh làm cái việc mà anh muốn nó làm", sẽ trở thành một phát biểu định lượng, "tôi có thể làm loại đinh đó, nhưng giá của đinh sẽ là 1,23 đôla một chiếc". Cạnh tranh không hoàn hảo Một hậu quả khác nữa của tính phong phú và tính phức tạp của không gian sản phẩm, mà tôi đã lưu ý trong các chương trước, rằng các thị trường cạnh tranh thường xuyên - có lẽ tôi phải nói luôn luôn - là cạnh tranh không hoàn hảo. Các sản phẩm được sản xuất bởi một hãng thường khác đôi chút, trong một hoặc nhiều đặc trưng, với các sản phẩm tương tự được sản xuất bởi các hãng khác. Chắc hẳn, có cạnh tranh: Người mua sẽ kiểm tra với các nhà sản xuất khác, để xem nếu họ có làm ra sản phẩm thoả mãn tốt hơn nhu cầu của mình với chi phí thấp hơn. Nhưng đây không phải là cạnh tranh hoàn hảo; nó không phải là loại cạnh tranh được mô tả bởi mô hình Arrow-Debreu hoặc những mô hình mở rộng của nó. [2] Thông tin không hoàn hảo và tốn kém Tính phức tạp của không gian hàng hoá, bản thân nó là đủ để giải thích vì sao mô hình giá là không thoả đáng, không phải là lí do duy nhất cho sự thất bại của nó. Một giải thích thứ hai [3] liên quan đến các chi phí quan sát những sự khác biệt trong hàng hoá; tức là, ngay cả nếu giả như chúng ta có thể định rõ tất cả các đặc trưng quan trọng mà không tốn chi phí, xác định liệu một món có hoặc không có các đặc trưng ấy là tốn kém. Trong tình huống như vậy giá có thể phản ánh chất lượng trung bình của cái mà ta thực ra nhận được trong một giao dịch thị trường. Ở chỗ khác tôi đã giải thích chi tiết các nguyên nhân và những hậu quả của sự phụ thuộc của chất lượng vào giá (Stiglitz 1987b). Huỷ bỏ qui luật cung cầu Có lẽ hệ quả quan trọng nhất là "huỷ bỏ qui luật về cung và cầu". Khi chất lượng của lao động phụ thuộc vào tiền lương được trả, hoặc "chất lượng của món vay" (khả năng khoản vay sẽ được hoàn trả) phụ thuộc vào lãi suất được tính, thì cân bằng thị trường (cạnh tranh) có thể được đặc trưng bởi phân phối theo khẩu phần (rationing) - cầu không bằng cung. Điều này có thể cung cấp một phần giải thích về hiện tượng phổ biến của thất nghiệp trong thị trường lao động và phân phối tín dụng trong thị trường vốn. Mặc dù có dư cung lao động, các hãng không cắt giảm lương, vì làm thế có thể giảm chất lượng lao động, với kết quả giảm lợi nhuận. Cũng theo cách đó, có thể có phân phối tín dụng khi những người cho vay không tăng lãi suất bất chấp có dư cầu tín dụng, vì làm thế sẽ ảnh hưởng xấu đến xác suất không trả được nợ. Vai trò của giá cả Trong đoạn trước Tôi đã giải thích vì sao giá không thể hoạt động theo cách được giả định bởi mô hình chuẩn, vì sao, thực ra, không thể có tập đầy đủ của các giá được hình dung bởi mô hình Arrow-Debreu. Nhưng làm như vậy, tôi đã chứng tỏ rằng giá làm nhiều hơn -ít hơn- so với hình dung của hệ thuyết truyền thống. Điều này có bốn khía cạnh cần nhấn mạnh: Thứ nhất, có một tập quan trọng của các chức năng kinh tế, sàng lọc và cung cấp các khuyến khích, những cái hầu như bị bỏ qua hoàn toàn khỏi hệ thuyết truyền thống. Thứ hai, khi các thị trường không cân bằng (clear), hoặc tổng quát hơn, khi có các vấn đề chọn lọc, khuyến khích, và thông tin không hoàn hảo, các cơ chế phi giá cả thường được sử dụng để giúp phân bổ nguồn lực. Thứ ba, khi các thị trường không cân bằng (clear), giá cả không nhất thiết truyền đạt loại tín hiệu liên quan đến tính khan hiếm, điều được cho là điểm thâm thuý chính của mô hình Arrow-Debreu (và mô hình xã hội chủ nghĩa thị trường dựa trên những khái niệm giống hệt nhau). Với lương được định bởi tính hiệu quả của những cân nhắc lương (thí dụ, đảm bảo rằng các nhân viên không trốn việc), lương có thể cao hơn nhiều chi phí cơ hội của lao động. Thông tin về khan hiếm có thể được truyền đạt theo cách khác với cách thông qua giá cả; các hãng phản ứng lại các tín hiệu, thí dụ, như "các đơn hàng" và "thay đổi về kho hàng". Thứ tư, trong khi giá cả (lương, lãi suất) không còn thực hiện (ít nhất một cách hoàn hảo) vai trò của chúng trong truyền đạt thông tin về sự khan hiếm, chúng thực hiện các chức năng kinh tế khác: Chúng tác động đến chất lượng của cái được mua bán trên thị trường. Phải nhấn mạnh rằng một "nhà lập kế hoạch xã hội" định giá cả tối ưu sẽ không, nhìn chung, định chúng sao cho cầu bằng cung mà sẽ nhận thấy tác động lên chất lượng - cả các tác động chọn lọc và khuyến khích của giá cả. Tất nhiên, điều này có nghĩa rằng các yêu cầu thông tin đặt lên vai nhà lập kế hoạch trung ương là lớn hơn nhiều so với trong hệ thuyết xã hội chủ nghĩa thị trường chuẩn, nơi truyền thông giữa nhà lập kế hoạch, các hãng, và người tiêu dùng có thể là khá hạn chế: Các hãng đơn giản truyền đạt họ sẵn lòng sản xuất bao nhiêu ở mỗi mức giá mà nhà lập kế hoạch đưa ra, và những người tiêu dùng truyền đạt họ muốn mua bao nhiêu với mỗi mức giá. Bây giờ, nhà lập kế hoạch phải thu thập thông tin về chất lượng của các thứ cần sản xuất/bán ở các giá khác nhau và về đánh giá của người tiêu dùng về các phẩm chất ấy. Nhà lập kế hoạch có thể, nhìn chung, định các giá ở mức khác với mức làm cân bằng thị trường (market clearing), mặc dù không phải ở mức mà chúng được định trong một nền kinh tế thị trường. Các cơ chế phi giá cả trong phân bổ nguồn lực Tầm quan trọng của các cơ chế phi giá cả trong phân bổ nguồn lực có thể thấy theo hai cách khác nhau. Thứ nhất, một phần lớn của tất cả các sản phẩm xảy ra trong nội bộ các hãng, bên trong khung cảnh mà ở đó chỉ dựa vào giá một cách hạn chế. GM lớn hơn nhiều nước. Trong khi một thảo luận đầy đủ về cái gì xác định ranh giới của các hãng, sản xuất nào xảy ra bên trong các hãng, sẽ dẫn tôi vượt quá phạm vi của cuốn sách này, điểm quan trọng mà tôi muốn nhấn mạnh là nhiều hoạt động kinh tế không bị chi phối bởi các quan hệ giá cả, trừ một cách gián tiếp. Phân bổ vốn cung cấp thí dụ quan trọng thứ hai. Vốn không được phân bổ bởi một thị trường đấu giá, với những người muốn đặt giá cao nhất nhận được vốn. Lí do là hiển nhiên: Đấu thầu mua (vay) là một lời hứa trả lại một khoản tiền nhất định trong tương lai, và lời hứa có thể không được thực hiện. Trong phân bổ vốn, quan trọng là phải biết không chỉ cái mà người dùng "hứa" mà thực sự cái gì chắc sẽ được trả. Một dải rộng các định chế tài chính được sinh ra để làm chính điều đó. Các ngân hàng "phân bổ" vốn, nhưng họ không đơn thuần dựa vào cơ chế giá (lãi suất). Những người nói họ sẵn lòng trả lãi suất cao nhất có thể thực ra không phải là những người mà lãi kì vọng - tính đến xác suất rằng lời hứa không được thực hiện - là cao nhất. Các hợp đồng và danh tiếng Sự thực rằng hệ thống giá là hạn chế hàm ý rằng các mối quan hệ kinh tế thường xuyên được chi phối bởi cả các hợp đồng lẫn danh tiếng, các nhân tố hoàn toàn bị bỏ qua trong cả mô hình Arrow-Debreu lẫn trong các mô hình về chủ nghĩa xã hội thị trường, cả hai chỉ tập trung riêng vào giá cả. Tầm quan trọng của các hợp đồng và danh tiếng có thể thấy trong hầu như mọi thị trường mà chúng ta nhờ cậy. Những người tiêu dùng, thí dụ, dựa vào danh tiếng rất nhiều trong lựa chọn sản phẩm. Trong thí dụ trước đây của chúng ta về người tiêu dùng mua áo thun ngắn tay, chúng ta đã nhắc tới rằng người tiêu dùng điển hình chẳng cần trình bày đầy đủ cái được mua. Nếu không thích sản phẩm - nếu nó không bền như người bán nói - thì sản phẩm đơn giản không được mua một lần nữa. Người mua (và nhà sản xuất) dựa vào danh tiếng. Bằng cách hệt vậy, những người cho vay dựa nhiều vào danh tiếng của người đi vay. Các hợp đồng hầu như luôn luôn có các điều khoản phi giá cả. Các hợp đồng tín dụng, thí dụ, thường có các điều khoản thế chấp. Chúng thường có các điều khoản hạn chế số lượng mà người vay có thể vay từ các nguồn khác. Không chỉ chúng thường có các hạn chế về mục đích sử dụng tiền vay, mà chúng cũng có thể có các hạn chế về các hoạt động khác mà người vay có thể tiến hành. Văn khoa sớm nhất về người uỷ thác-đại lí (thảo luận của tôi về phân chia hoa lợi) nhấn mạnh tầm quan trọng của các điều khoản phi giá cả, như số lượng đất mà chủ đất cấp cho tá điền, và các điều khoản về các đầu vào khác. Các hợp đồng bảo hiểm và lao động thường có các điều khoản "độc nhất": Người được bảo hiểm đồng ý báo cáo mọi khoản mua bảo hiểm khác cho cùng rủi ro đó từ các hãng bảo hiểm khác; nhân viên đồng ý không làm việc cho những người sử dụng lao động khác. Các hợp đồng bảo hiểm thường có các điều khoản "số lượng" khác: Người được bảo hiểm đồng ý lắp đặt các thiết bị chữa cháy. Cần đến các hợp đồng bởi vì đơn giản không có "các thị trường" cho tất cả các mặt hàng khả dĩ (khi chúng ta phân biệt các mặt hàng ở các địa điểm, thời gian, trạng thái tự nhiên, chất lượng khác nhau, v.v.) trên thế giới, và danh tiếng là cần thiết đơn giản bởi vì chúng ta không thể liệt kê tất cả các đặc trưng mong muốn; thậm chí nếu chúng ta có thể làm vậy, sẽ không thể phân xử được thông qua hệ thống pháp lí tất cả các tranh chấp có thể phát sinh. [4] Và cả mô hình Arrow-Debreu, lẫn mô hình chủ nghĩa xã hội thị trường, đơn giản đều không tính đến mỗi trong những hình thức này của các tương tác kinh tế. Đặc lợi và cơ chế danh tiếng Không chỉ đúng là mô hình Arrow-Debreu và các mô hình chủ nghĩa xã hội thị trường không mô tả các khu vực của nền kinh tế trong đó các cơ chế danh tiếng là quan trọng - như chúng thường xuyên là - mà cũng đúng là cơ chế danh tiếng đòi hỏi một sự sửa đổi về cách chúng ta xem xét hệ thống giá hoạt động. Đặc biệt, nếu để duy trì danh tiếng cần đến khuyến khích, thì phải có giá cho việc đánh mất danh tiếng. Điều này có nghĩa rằng tại biên, những người bán hàng không thể bàng quan liệu họ có hoặc không bán được hàng (các nhân viên không thể bàng quan liệu họ có hoặc không làm việc). Các mối quan hệ kinh tế phải kéo theo đặc lợi (rents), tức là các khoản trả tiền dư ra ngoài mức tối thiểu cần thiết để khiến một cá nhân sẵn lòng tham gia vào giao dịch. Lợi nhuận, theo nghĩa thông thường, không thể bị kéo xuống bằng không; giá không thể bằng chi phí biên. Các quan hệ giá cả cơ bản làm nền cho "lí thuyết về giá trị" là sai, theo nghĩa đó, và mô hình tương ứng về chủ nghĩa xã hội thị trường, dựa vào lí thuyết giá trị chuẩn, vì lí do đó cũng phải không đúng. [5] Đánh giá thấp về những khó khăn của phân bổ vốn Theo quan điểm truyền thống của chủ nghĩa xã hội thị trường, các thị trường được dùng để phân bổ hàng hoá -cho trước tổng lượng vốn- nhưng vốn lại không được phân bổ bởi hệ thống thị trường. Thất bại của thị trường để phân bổ hiệu quả vốn, bao gồm khuyết tật của nó đối với các quyết định đầu tư, cung cấp một phần lí do căn bản để quay sang chủ nghĩa xã hội thị trường. Các nhà xã hội chủ nghĩa thị trường đã đúng ở đây trong nhận diện một khuyết tật thị trường: Trong khi, như tôi đã chỉ ra ở đoạn trước, họ đã không hiểu đầy đủ các vấn đề nảy sinh do thiếu một tập đủ của các giá, họ đã nghĩ rằng họ hiểu các hệ quả của sự thiếu vắng hiển nhiên hơn của một tập đầy đủ của các thị trường kì hạn và rủi ro. Họ đã nghĩ rằng nó chứng minh cho luận điểm của họ rằng chính phủ phải lĩnh trách nhiệm phân bổ vốn. Chúng ta lập luận rằng khuyết tật của mô hình Arrow-Debreu không thuần tuý là nó giả thiết rằng có một tập đầy đủ của các thị trường kì hạn và rủi ro. Những khuyết tật của nó sâu hơn: Nó không nhận ra các vấn đề thông tin cố hữu gắn với thị trường vốn. Nhưng trong khi (theo định nghĩa) mô hình Arrow-Debreu đơn giản bỏ qua các vấn đề nảy sinh do thiếu các thị trường kì hạn và rủi ro, các nhà xã hội chủ nghĩa thị trường lại ấu trĩ tin rằng chính phủ có thể sửa chữa dễ dàng khuyết tật thị trường này. Họ đã không điều tra sâu nguồn gốc của nó. Tổng quát hơn, chính các lí do -chủ yếu về thông tin- gây ra các vấn đề phân bổ vốn (mà tôi sẽ thảo luận dưới đây) đặt ra các vấn đề nghiêm túc cho các cơ chế phân bổ khả dĩ khác. Những hệ quả do thiếu các thị trường kì hạn Hãy xét, thí dụ, việc thiếu các thị trường kì hạn, điều có nghĩa rằng các hãng phải ước lượng giá cả tương lai, cả của cái họ bán lẫn của đầu vào họ mua. Nhưng chính phủ cũng phải ước lượng các giá ngầm của hàng hoá và dịch vụ. Có hai vấn đề then chốt, năng lực để hiệu chỉnh các tiên đoán và khuyến khích để làm vậy. Năng lực để giải quyết các vấn đề điều phối Những thảo luận truyền thống về chủ nghĩa xã hội thị trường tập trung vào việc thiếu một cơ chế điều phối (khi thiếu các thị trường kì hạn). Với các thị trường kì hạn, mỗi nhà sản xuất biết các giá sẽ thịnh hành, thí dụ, cho sắt thép mười năm kể từ nay, và điều chỉnh sản xuất của mình cho phù hợp. Cân bằng đòi hỏi rằng sản xuất theo kế hoạch của anh ta bằng với cầu tại các giá sẽ thịnh hành mười năm kể từ nay. Đây hiển nhiên là điều tưởng tượng, và những người phê phán thị trường nêu ra việc dư năng lực xảy ra trong các ngành nào đó ở thời điểm nào đó và những thiếu hụt xảy ra trong các nơi và thời điểm khác như chứng cớ rằng điều này chẳng thậm chí "như thể" một câu chuyện hay. Không có một tập đầy đủ của các thị trường, có thể có những khiếm khuyết điều phối to lớn. Nằm dưới khiếm khuyết điều phối này là một vấn đề thông tin: Mỗi nhà sản xuất thép không những không có khuyến khích để chia sẻ thông tin về sản xuất của mình cho các nhà sản xuất khác; anh ta có khuyến khích để che dấu thông tin, hoặc thậm chí cung cấp thông tin sai lệch. Một hãng có thể được lợi từ những sai lầm của những người khác. Vì chính phủ sở hữu tất cả các hãng dưới chủ nghĩa xã hội thị trường, không có khuyến khích như thế. Thực vậy, vì chính phủ lấy tất cả các quyết định đầu tư, nó có mọi thông tin cần thiết để đảm bảo rằng những khiếm khuyết điều phối không xảy ra. Nhưng những người phê phán chủ nghĩa xã hội thị trường lập luận rằng các khiếm khuyết thị trường là không lớn đến như vậy, và rằng chủ nghĩa xã hội thị trường thực ra không cung cấp một phương thuốc. Trong khi có thể có các khiếm khuyết điều phối, trong hầu hết các trường hợp, những tổn thất xã hội là tối thiểu. Ngay cả nếu có quá nhiều cửa hiệu pizza mở ra, như thế có dư thừa năng lực, dẫn đến một số cửa hàng rút lui, tổn thất xã hội chỉ là các chi phí lắng chìm, những khoản không thể thu hồi được, và những khoản này thường chỉ là một phần nhỏ của tổng chi phí. Những điều chỉnh có thể xảy ra khá nhanh. Chỉ trong trường hợp của các ngành công nghiệp nặng, như sắt thép và hoá chất, có nảy sinh các vấn đề điều phối đáng kể. Những người phê phán chủ nghĩa xã hội thị trường lập luận rằng các chính phủ không có năng lực cũng chẳng có khuyến khích để giải quyết tốt các vấn đề điều phối. Nhớ lại lí lẽ căn bản cho chủ nghĩa xã hội thị trường: Nó đã dựa vào tiền đề là không nhà lập kế hoạch tập trung nào có thể thu thập, xử lí, và phân phát thông tin cần thiết để kiểm soát nền kinh tế một cách hiệu quả. Chủ nghĩa xã hội thị trường nhấn mạnh rằng một nhà lập kế hoạch tập trung chỉ cần có thông tin hạn chế, thông tin chứa trong giá cả. Phi tập trung hoá cho phép điều này chính là cái làm cho chủ nghĩa xã hội hoạt động. Nhưng ở đây, những người chủ trương chủ nghĩa xã hội thị trường dường như cho rằng có thể không cần đến một tập chính của các thị trường, những thị trường đòi hỏi đầu tư (và, một cách ngầm định, các thị trường hàng hoá và dịch vụ ở mọi thời điểm tương lai), và rằng chính phủ thực sự có thể thu thập, xử lí, và phân phát mọi thông tin quan trọng. Đối với những người chỉ trích chủ nghĩa xã hội thị trường, tính phi hiệu quả trong phân bổ đầu tư phát sinh dưới mọi dạng của chủ nghĩa xã hội không đơn thuần là ngẫu nhiên mà là hệ quả không thể tránh khỏi của thiếu năng lực của bất kể tổ chức nào, bất luận có ý định tốt đến đâu, để giải quyết các vấn đề thông tin to lớn này. Thực ra, mô hình của các nền kinh tế thị trường - dựa trên một tập đầy đủ của các thị trường - không cho chúng ta bất kể sự biện hộ lí thuyết nào cho lòng tin rằng các thị trường hoạt động tốt. Thực vậy, có bằng chứng rằng các thị trường thường không thực hiện tốt các chức năng đó: không chỉ loại chứng cớ vi mô được dẫn ra trước đây, mà là chứng cớ vĩ mô, về các giai đoạn dư năng lực rộng lớn, thường được đổ cho các khuyết tật điều phối. [6] Và các định lí Greenwald-Stiglitz đảm bảo rằng nhìn chung, các phân bổ thị trường sẽ không có hiệu quả Pareto ràng buộc. Hơn nữa có các hãng lớn, như General Motors và Exxon, quản lí các luồng đầu tư hàng năm vượt quá các luồng đầu tư của nhiều nước nhỏ. Nếu các hãng tư nhân có năng lực này, thì tại sao các chính phủ của ít nhất các nền kinh tế nhỏ hơn lại không? Thực vậy ngay cả trong các nền kinh tế lớn hơn, như Đức và Anh, chỉ có ba hay bốn ngân hàng lớn, những ngân hàng kiểm soát trực tiếp hoặc gián tiếp một phần đáng kể của toàn bộ luồng vốn đầu tư. Những người chủ trương chủ nghĩa xã hội thị trường, tuy vậy, đã phạm một sai lầm cơ bản, không chú ý đúng mức tới các định chế (thí dụ, các ngân hàng) nảy sinh dước chủ nghĩa tư bản để giải quyết các vấn đề do thiếu các thị trường gây ra. Chúng không phải là những cái thay thế hoàn hảo. Nhưng chúng có thể tạo ra một phân bổ đầu tư tốt hơn nếu khác đi - và tốt hơn phân bổ dưới chủ nghĩa xã hội thị trường. (Như tôi chỉ ra ở chương 12, dưới chủ nghĩa xã hội, các ngân hàng không thực hiện các chức năng thông tin chính mà chúng thực hiện dưới chủ nghĩa tư bản). Có lẽ lí do chủ yếu, rằng các thị trường (bao gồn các định chế được phát triển để đáp ứng với sự thiếu vắng các thị trường kì hạn) thực hiện tốt hơn công việc phân bổ đầu tư, có liên quan đến các khuyến khích. Các khuyến khích để giải các vấn đề điều phối Các khuyến khích là gì với điều kiện những ước lượng của chính phủ về các giá ngầm là chính xác, và tất cả các nhân tố thích đáng được tính đến? Trên thị trường những người phạm sai lầm (theo lí thuyết) sẽ bị trừng phạt, và họ chịu phần lớn chi phí của những sai lầm ấy. Điều này không phải vậy trong trường hợp của các doanh nghiệp sở hữu công cộng, đặc biệt nếu chúng đối mặt với các ràng buộc ngân sách mềm. Thị trường cổ phiếu và chức năng phát hiện giá [7] Dù không có một tập đầy đủ của các thị trường kì hạn/rủi ro trong bất kể nền kinh tế tư bản chủ nghĩa nào, những người chỉ trích chủ nghĩa xã hội thị trường lập luận rằng có nhiều thị trường hơn dưới chủ nghĩa tư bản so với dưới chủ nghĩa xã hội thị trường. Đặc biệt, có các thị trường cổ phiếu. Theo định nghĩa, khi các hãng do nhà nước sở hữu hoàn toàn, thì không có thị trường trên đó giá trị của chúng có thể được đánh giá. Thông tin do giá trị thị trường cổ phiếu truyền đạt được coi là quan trọng vì ít nhất hai lí do: Nó cung cấp thông tin có thể làm cơ sở cho các hợp đồng khuyến khích, và nó cung cấp thông tin thích đáng cho phân bổ đầu tư. Luận điểm là thị trường cung cấp ước lượng tốt nhất của giá trị chiết tính hiện tại của dòng lợi tức do hãng tạo ra trong tương lai. Do đó được lập luận, thí dụ, rằng các tín hiệu sẵn có trong trường hợp các hãng có các quyết định đầu tư tồi - giá trị thị trường của hãng - là không sẵn có trong trường hợp của các doanh nghiệp sở hữu công cộng, và vì vậy là khó hơn đối với các doanh nghiệp sở hữu công cộng để "trừng phạt" các quyết định đầu tư tồi. Tôi cho rằng trong khi thị trường cổ phiếu có cung cấp một số thông tin, thông tin mà nó cung cấp có giá trị hạn chế, bất luận như cơ sở cho phân bổ đầu tư hay cho thiết kế một cơ cấu khuyến khích. Hoàn toàn trái ngược với luận điểm của hệ thuyết thị trường, việc dựa vào thị trường cổ phiếu có thể thực sự tạo ra một sự méo mó về phân bổ nguồn lực. Tôi lập luận rằng phần lớn chi tiêu cho thu thập thông tin liên quan đến thị trường cổ phiếu có ít lãi xã hội. Cuối cùng, tôi sẽ lập luận rằng ngay cả nếu giả như có những lợi thế đáng kể gắn với thông tin do thị trường cổ phiếu tiết lộ, thì những lợi thế ấy không bắt phải tư nhân hoá hoàn toàn các doanh nghiệp đã được quốc hữu hoá, một điểm có độ thích đáng đáng kể đối với các nền kinh tế hậu xã hội chủ nghĩa sắp tiến hành quá trình cải cách. Giá trị hạn chế của thông tin thị trường cổ phiếu Có nhiều lí do để thông tin do thị trường cổ phiếu tiết lộ có giá trị hạn chế trong thiết kế các cơ cấu khuyến khích hoặc trong phân bổ đầu tư. Thứ nhất là thông tin là quá "thô" đối với phân bổ đầu tư. Chẳng lợi mấy cho một hãng thép để biết rằng "thị trường" nghĩ rằng thép sẽ khá trong tương lai. Hãng cần biết phải sản xuất loại thép gì, với loại quá trình nào. Thị trường cổ phiếu đơn giản không thể cung cấp thông tin đó. Để quyết định đầu tư hãng thép phải tiến hành đánh giá dự án chi tiết. Vào lúc hãng đã tiến hành xong một đánh giá như vậy, thông tin chứa trong giá thị trường cổ phiếu về cơ bản là thừa. [8] Hơn nữa một trong những nhiệm vụ chính của các nhà quản lí của hãng là nhận thông tin chuyên biệt cần thiết để ra các quyết định đầu tư như vậy. Dường như có lí rằng những người đầu cơ trên thị trường cổ phiếu có nhiều để thêm vào thông tin của các nhà quản lí hãng. Thực ra các quyết định trong nội bộ các bộ phận của một hãng - cả khuyến khích và đầu tư- xảy ra mà không có trợ giúp của thông tin do thị trường cổ phiếu cung cấp. Sự khác biệt giữa các khoản lãi xã hội và tư nhân về thông tin Phần lớn thông tin được thu thập trên thị trường cổ phiếu không liên quan đến thành tích dài hạn của doanh nghiệp mà là một nỗ lực để tiên đoán biến động ngắn hạn trong giá cổ phiếu. Sự tương tự do Keynes dùng giữa thị trường cổ phiếu và một cuộc thi sắc đẹp là thích đáng: Vấn đề không phải là đoán ai là người đẹp nhất mà là ai được các giám khảo khác cho là đẹp nhất. Như thế các nguồn lực được phân bổ để nhận thông tin không phải về những cái căn bản, mà về những cảm nhận. Tổng quát hơn, phần lớn chi tiêu về thông tin được thu thập trên thị trường cổ phiếu có ít, nếu có, giá trị xã hội. Đối với các cổ phiếu đã được trao đổi rồi, thì trò chơi có tổng bằng không: Khoản lãi của một bên là khoản lỗ của bên kia. Cái đáng kiếm là tìm thông tin sẽ tác động lên giá thị trường trước những người khác một chút. Nếu tôi biết về một sự kiện nào đó - như sự thất thu của mùa vụ ở Nga - sự kiện sẽ tác động lên giá lúa mì, trước những người khác một chút, tôi có thể mua kì hạn lúa mì (hoặc các cổ phiếu mà giá của chúng tăng khi giá lúa mì tăng) và kiếm được một khoản lãi vốn. Biết thông tin đó vài phút, vài giờ, hoặc vài ngày sớm hơn so với thông tin đó được biết nếu khác đi, có thể có ít ảnh hưởng phân bổ, nếu có; nó không làm tăng tính hiệu quả của nền kinh tế. Hệ quả căn bản của nó là cấp đặc lợi tư nhân cho những người có thông tin sớm. Các hoạt động thu thập thông tin liên quan đến thị trường cổ phiếu về cơ bản là các hoạt động tìm kiếm đặc lợi (rent-seeking). [9] Một phép tương tự (dựa vào gợi ý của Larry Summers) có thể làm cho lí lẽ rõ hơn. [10] Giả sử chúng ta ở trong một phòng nghe giảng, như bài giảng này, và các tờ một trăm đôla rơi xuống sàn, giống như lộc trời cho, mỗi tờ sát chân của mỗi người. Có hai cách diễn ra: Mỗi người có thể ngay lập tức cúi xuống lấy tờ 100 $, gây gián đoạn hoạt động học tập quan trọng đang diễn ra. Hoặc theo cách khác, mỗi người có thể đợi đến khi bài giảng kết thúc, và sau đó cúi xuống. Rõ ràng là cách sau có hiệu quả xã hội hơn: Không có gián đoạn đối với hoạt động quan trọng đang diễn ra, và việc nhặt 100$ chậm hơn khoảng ba mươi phút hầu như không có hệ quả gì. Mặc dù có hiệu quả xã hội, đây không phải là một cân bằng Nash: Mỗi cá nhân, thấy những người khác trì hoãn, sẽ có khuyến khích để cúi xuống nhặt càng nhiều tờ 100$ càng tốt. Cân bằng Nash duy nhất bắt mọi người sử dụng nguồn lực để cố thử nhặt càng nhiều tiền càng tốt, càng nhanh càng tốt. Trong tình huống khi mọi người đều cân đối, họ mỗi người được một tờ, như họ sẽ có nếu họ đợi. Trong tình huống khi một số người nhanh hơn người khác, các khoản lợi của những người nhanh hơn là khoản mất của những người chậm hơn: Có đặc lợi tư, nhưng không có lợi tức xã hội. Phần lớn các hoạt động ở thị trường cổ phiếu không thể được giải thích thật sự bằng bất kể ứng xử duy lí nào. [11] Đó là cái tôi nhắc đến ở nơi khác như "đường đua ngựa của người giàu" hoặc sòng bạc của giới trung lưu. Vì buôn bán trên thị trường cổ phiếu về cơ bản là một trò chơi có tổng bằng không, nó làm tăng rủi ro mà không tăng lợi tức trung bình. Những người duy lí sẽ đạt khá hơn đơn giản bằng cách nắm thị trường như một tổng thể - và đây chính xác là cái họ ngày càng làm. Điều này đúng ngay cả nếu một số cá nhân am hiểu hơn những người khác (thực sự không tiêu tiền để kiếm thông tin). Những người ít am hiểu, nếu họ duy lí, sẽ nhận ra rằng họ ít am hiểu. Họ sẽ nhận ra rằng những người am hiểu sẽ chỉ mua cổ phiếu từ họ nếu nghĩ rằng giá trị của các cổ phiếu đó sẽ tăng nhiều hơn thị trường (điều chỉnh rủi ro), và họ sẽ chỉ bán cổ phiếu nếu nghĩ rằng giá trị của các cổ phiếu đó tăng ít hơn thị trường. Như vậy họ sẽ không muốn mua bán. Trường hợp duy nhất trong đó họ sẽ muốn buôn bán là nếu việc buôn bán được khuyến khích bởi những thay đổi hoàn cảnh, những thay đổi có ảnh hưởng khác nhau lên các nhóm khác nhau. Như vậy, nếu các cá nhân chọn danh mục đầu tư thị trường cổ phiếu của họ để bảo hiểm chống lại các rủi ro về vốn con người (thí dụ, các thợ mỏ bán non cổ phần ở các mỏ, như một cách để bảo hiểm chống các sự kiện có thể gây rủi ro cho việc làm của họ), thì các cú sốc đối với vốn con người sẽ tạo ra mong muốn tái phân bổ các danh mục (đầu tư) thị trường cổ phiếu. Nhưng có ít chứng cớ rằng hầu hết mọi người chọn các danh mục thị trường cổ phiếu để bảo hiểm chống các rủi ro vốn con người. Cũng theo cùng cách như vậy, nếu có những khác biệt lớn về không thích rủi ro giữa những người già hơn, đang bán đổ bán tháo các danh mục của họ, và những người trẻ hơn, những người đang đầu tư, thì sẽ có một động cơ chu kì sống cho điều chỉnh danh mục đầu tư. Lại một lần nữa điều này dường như không mô tả tốt cái xảy ra trên thị trường cổ phiếu. Vai trò gây méo mó của thị trường cổ phiếu Sự thực rằng thông tin thu thập được thường không phải là cái có giá trị xã hội lớn nhất, có nghĩa là, ở chừng mực các hãng quan tâm đến giá của cổ phần của chúng, ứng xử của chúng có thể bị méo mó. Như thế, nếu lương của các nhà quản lí của hãng dựa trên biến động ngắn hạn về giá cả cổ phiếu, các hãng chắc sẽ có các hành động có khả năng làm tăng giá trị thị trường cổ phiếu của chúng trong ngắn hạn. Chứng cớ của loại ứng xử thiển cận này là nhan nhản. Dẫu cho phần lớn chứng cứ này có tính giai thoại, xem xét kĩ ứng xử liên quan đến thuế cho một số chứng cứ không thể chối cãi được: các hãng có những hành động hình như làm tăng thu nhập sau thuế ngay cả khi những hành động đó đồng thời làm tăng giá trị chiết khấu hiện thời của các nghĩa vụ thuế. Vì thế nhiều năm trời các hãng đã dùng kế toán FIFO khi chuyển sang LIFO đã làm giảm các khoản thu nhập được báo cáo và làm giảm giá trị chiết khấu hiện thời của các nghĩa vụ thuế; nhiều hãng không khấu hao nhanh vì cùng lí do. [12] Có dải rộng của những méo mó có thể nảy sinh: Các nhà quản lí thử che dấu các kết quả tiêu cực, hi vọng rằng thông tin về các kết quả đó trở thành công khai sau khi họ đổi xong quyền chọn cổ phiếu của họ ra tiền mặt. (Trong các hoàn cảnh như vậy họ có thể gây nhiễu, làm cho thị trường khó diễn giải cái gì đang xảy ra. [13] Họ có thể, thí dụ, mua một hãng có dòng tiền mặt hiện thời mạnh để che lấp những tổn thất trong các phần kinh doanh khác). Thực ra, loại ứng xử này có thể xảy ra ở mức độ nào đó không đếm xỉa đến việc thiết kế cơ cấu đền bù. Nhưng dựa ít hơn vào thị trường cổ phiếu có thể khiến hội đồng quản trị dựa nhiều hơn vào quan sát trực tiếp, vào so sánh với các hãng khác trong nghành hoạt động ra sao (thí dụ, GM làm ăn ra sao so với Toyota). Tư nhân hoá không cần thiết Cuối cùng, chúng ta cần lưu ý rằng bất kể thông tin gì có thể kiếm được trên thị trường cổ phiếu có thể nhận được mà không cần tư nhân hoá hoàn toàn. Chính phủ có thể bán một số cổ phần trong các hãng sở hữu công cộng. Khó khăn là những đánh giá thị trường có thể phản ánh những phán xét liên quan đến các khoản trợ cấp của chính phủ trong tương lai ở mức như chúng phản ánh những cái liên quan đến giá trị của các tài sản hiện có. Điều này cũng đúng đối với giá trị thị trường của bất kể hãng nào mà lợi nhuận của nó phụ thuộc vào các hành động của chính phủ, bao gồm các hãng được điều tiết và các hãng được bảo vệ một phần bởi thuế quan và hạn ngạch. (Muộn hơn tôi sẽ giải thích vì sao có thể đưa ra một lí lẽ mạnh rằng được ưa thích hơn nhiều đối với chính phủ để giữ cổ phần sở hữu lớn chứ không phải đi phân phát tất cả cổ phần thông qua sơ đồ phiếu chứng chỉ [voucher]). Những phân bổ phi giá cả và giá cả trong các thị trường vốn Trước đây tôi đã chỉ ra rằng các thị trường vốn không thể được mô tả tốt như là các thị trường đấu giá. Vốn đơn giản không được giao cho người ra giá cao nhất. Có cái có thể coi như một cơ chế phân bổ trực tiếp hoạt động. Các ngân hàng sàng lọc những người có đơn vay tiền, hệt như nhà lập kế hoạch tập trung, về nguyên lí, sẽ sàng lọc những người nộp đề án. Có ngụ ý khác của bất hoàn hảo thông tin trong thị trường vốn mà tôi đã nhắc tới trước đây: Những người cho vay sử dụng một loạt các điều khoản phi giá cả trong hợp đồng cho vay như một nỗ lực để cả phân loại tốt hơn giữa những người có đơn vay và cung cấp các khuyến khích tốt hơn. Các hợp đồng cho vay không được mô tả thuần tuý bởi lãi suất; có hàng loạt điều khoản, bao gồm cả tài sản thế chấp, và các điều khoản liên quan đến không trả được nợ, những điều khoản có các hệ quả quan trọng đối với cả hai bên của hợp đồng. Những khác biệt giữa các thị trường và chủ nghĩa xã hội thị trường Sự thực là cả các thị trường lẫn chủ nghĩa xã hội thị trường thực hiện các cơ chế phân bổ trực tiếp không có nghĩa, tất nhiên, rằng chúng giống hệt nhau. Các khuyến khích của các ngân hàng và của các nhà lập kế hoạch có thể khác nhau. Những người chỉ trích chủ nghĩa xã hội thị trường nhấn mạnh sự thất bại của các khuyến khích để đảm bảo một phân bổ đầu tư hiệu quả, đặc biệt trong sự hiện diện của các ràng buộc ngân sách mềm. Nhưng sự sụp đổ tiết kiệm và cho vay gần đây ở Hoa Kì minh hoạ, có thể có những khác biệt rõ rệt giữa các khuyến khích tư nhân và lợi tức xã hội trong cả các nền kinh tế thị trường nữa. Các hiệp hội S&L (tiết kiệm & cho vay) đã lãng phí một phần đáng kể của toàn bộ tiết kiệm của Mĩ cho một năm. [14] Phải công nhận rằng, có thể đưa ra lời khiển trách các chương trình của chính phủ. Nhưng nhận xét tổng quát hơn về tiềm năng phi hiệu quả của các phân bổ thị trường của đầu tư vẫn còn đó. Đánh giá rủi ro Phân bổ vốn đòi hỏi các ước lượng không chỉ của các lợi tức kì vọng gắn với các khoản đầu tư khác nhau mà cả của rủi ro nữa. Mô hình tài sản vốn nhấn mạnh mạnh mẽ rằng số đo thích hợp của rủi ro "tương quan với thị trường". Nhưng không rõ là thiếu tập đầy đủ của các thị trường rủi ro, là cái các hãng trong các nền kinh tế tư bản chủ nghĩa tập trung vào. Có một vài mảnh bằng chứng ủng hộ kết luận này. Khi một hãng yêu cầu các nhà quản lí của mình đánh giá mức đáng ước ao của một khoản đầu tư, họ thường tính đến cả đánh giá rủi ro, và với đánh giá rủi ro họ không muốn nói là một phát biểu về tương quan của lợi tức của đề án (thí dụ thiết kế máy bay mới) với thị trường cổ phiếu. Thay vào đó, họ muốn nói tính biến thiên của lợi tức riêng. [15] Hãng tất nhiên không thể nhận bảo hiểm chống các kết quả tồi, ngay cả những cái do tư chất. Các mô hình định giá tài sản vốn chuẩn giả thiết rằng các cổ đông có thể đa dạng hoá hoàn toàn để chống các rủi ro tư chất. Như thế, ngay cả nếu hãng không thể mua bảo hiểm, thì các cổ đông với việc nắm giữ cổ phần được đa dạng hoá rộng hành động bàng quan với rủi ro đối với các rủi ro tư chất. Kết luận là các hãng - hành động vì lợi ích của các cổ đông - phải hành động theo cách bàng quan với rủi ro. Nhưng các mô hình này có vài sai sót chí tử. Thứ nhất, chúng bỏ qua vấn đề người uỷ thác-người đại lí: Các cổ đông không điều hành trực tiếp các hãng mà là các nhà quản lí. Các nhà quản lí phải có khuyến khích để quản lí tốt. Các khuyến khích của họ phải dựa vào thành tích thực tế của hãng. Nhìn chung, để cho các khuyến khích này có tác động đáng kể, chúng phải có nghĩa là một phần đáng kể của thu nhập/của cải của các nhà quản lí. Nhưng khi đó nhà quản lí chắc hành động theo cách không ưa rủi ro: Nếu, thí dụ, hãng phá sản, nhà quản lí chắc mất việc làm, và hãng phá sản chắc được coi là một tín hiệu tiêu cực, ảnh hưởng xấu đến các triển vọng việc làm tương lai. [16] Thứ hai, chúng bỏ qua sự thực rằng thường có đa dạng hoá không hoàn hảo giữa các cổ đông: Thường các cổ đông chính, những người sáng lập hãng, có một phần đáng kể của cải của họ gắn với hãng đó. Có lí do chính đáng cho việc này. Số lượng cổ phần mà các cổ đông ban đầu muốn giữ tạo một tín hiệu liên quan đến quan điểm của các cổ đông đó về các triển vọng tương lai của hãng. Nếu họ nghĩ hãng không chắc sẽ hoạt động tốt - nếu họ nghĩ thị trường đã định giá cao cổ phần của họ - thì họ khát khao hơn để bán cổ phần của mình. Một cam kết của các cổ đông ban đầu để nắm giữ đáng kể cổ phần như thế chắc sẽ tăng cường giá trị thị trường của cổ phần của hãng. Với các danh mục được đa dạng hoá không đầy đủ, các cổ đông chế ngự này (kiểm soát hữu hiệu có thể được thực hiện thậm chí khi họ sở hữu ít hơn 50 phần trăm cổ phần rất nhiều) chắc muốn hãng hoạt động theo cách không ưa rủi ro - và họ sẽ xem không chỉ tương quan với thị trường cổ phiếu trong đánh giá rủi ro mà cả phương sai riêng. Có một loạt lí thuyết khác giải thích vì sao, bất chấp những lợi thế chia sẻ rủi ro của vốn cổ phần, các hãng dường như hạn chế sử dụng vốn cổ phần. (Greenwald và tôi gọi điều này là phân phối vốn cổ phần, tuy, như tôi sẽ giải thích ngắn gọn, không phải là họ không thể phát hành vốn cổ phần, mà là chi phí để làm vậy là cao đến mức các hãng thấy ít hấp dẫn để phát hành vốn cổ phần). Cho đến nay có chứng cứ mạnh mẽ rằng các thị trường vốn cổ phiếu chỉ chiếm một phần tương đối nhỏ của vốn mới huy động ở hầu hết các nước (xem bảng 6.1). Chứng cứ kinh nghiệm mới đây gợi ý vì sao - khi các hãng phát hành vốn cổ phần mới - giá cổ phần lại giảm rõ rệt. Trung bình, tổng giá trị giảm trong giá cổ phần đang lưu hành (trong tay công chúng) đối với các hãng thời thượng là khoảng một phần ba của số vốn mới tăng (Asquith and Mullins 1986), và trong trường hợp của các hãng nhỏ, với danh tiếng được xác lập ít hơn, mức giảm giá thường lớn hơn nhiều. Nghiên cứu lí thuyêt thông tin đã cho những giải thích, trên cơ sở các ảnh hưởng khuyến khích và chọn lọc, vì sao những sự sụt giảm giá này lại khá đương nhiên. [17] Thí dụ, chúng tôi đã giải thích trước đây vì sao các cổ đông ban đầu có khả năng bán cổ phần của họ hơn nếu họ nghĩ rằng thị trường đã định giá cao chúng. Thị trường biết điều này. Như thế hành động bán cổ phần truyền đạt thông tin- sự thực là những người kiểm soát hãng, những người hầu như luôn luôn có cổ phần đáng kể trong hãng và vì thế có lợi nhiều nếu họ bán cổ phần được định giá cao, sẵn sàng làm như vậy dẫn thị trường đi đến kết luận rằng cổ phần chắc đã được đánh giá cao. Kết quả là giá rớt xuống. Bảng 6.1 Nguồn vốn thuần, 1970-1989 (bình quân gia quyền, chưa khấu hao, đã định giá lại) Pháp Đức Nhật Bản Anh Hoa Kì Nội bộ 66,3 80,6 71,7 98,0 91,3 Ngân hàng tài trợ 51,5 11,0 28,0 19,8 16,6 Trái phiếu 0,7 -0,6 4,0 2,0 17,1 Vốn cổ phần -0,4 0,9 2,7 -8,0 -8,8 Tín dụng thương mại -0,7 -1,9 -7,8 -1,6 -3,7 Chuyển vốn 2,6 8,5 2,1 Khác -14,9 1,5 1,3 -4,1 -3,8 Điều chỉnh thống kê -5,1 0,0 0,1 -8,2 -8,7 Ghi chú 1970-85 1970-89 1970-87 1970-89 1970-89 Nguồn: Luồng vốn không được công bố số liệu từ CEPR International Study of the Financeing of Industry. Dữ liệu nhờ Tim Jenkinson và Colin Mayer. Thực vậy trong một số trường hợp tác động mà tôi vừa mô tả có thể mạnh đến mức làm ngừng hoàn toàn thị trường. Tôi minh hoạ nguyên lí này cho các sinh viên của tôi bằng cách tiến hành đấu giá tiền trong ví ở túi sau của mình. Tôi biết số tiền trong ví. Tôi bán đấu giá 1 phần trăm cổ phần. Tôi giữ quyền đặt giá hỏi mua, hoặc tương đương là không bán cổ phần của mình. Giá "cân bằng" là bao nhiêu? Cuối cùng các sinh viên nắm được trò chơi: Họ luận ra rằng tôi sẽ chỉ bán 1 phần trăm cổ phần nếu khoản họ chào cho tôi là lớn hơn giá trị của 1 phần trăm cổ phần. Nếu tôi có 100$ trong túi, nếu họ chào cho tôi ít hơn 1$, tôi sẽ không bán, và nếu họ chào nhiều hơn một đôla, tôi sẽ bán. Họ ở thế, sấp họ thua, ngửa tôi thắng. Giá cân bằng duy nhất là bằng không. [18] Phép tương tự này có thể gợi ý rằng không có thị trường vốn cổ phần, nhưng nó bỏ qua các lí do cơ bản cho mua bán đầu tiên: Nếu tôi không ưa rủi ro, và tôi không biết có bao nhiêu tiền trong ví của mình (hoặc, hợp hơn, tôi không biết có bao nhiêu dầu trong giếng dầu nằm ở sau vườn nhà mình), thì tôi có thể muốn gạt bỏ rủi ro đó khỏi mình. Tất nhiên thị trường không thể nói liệu lí do tôi muốn bán cổ phần là vì tôi không ưa rủi ro - một lí do chính đáng - hay là vì thị trường đã định giá cao cổ phần của tôi. Bình quân, những người quan tâm nhất đến bán cổ phần là những người biết rằng cổ phần của họ được định giá cao, và thị trường tính đến điều này. Nhưng thị trường vẫn tồn tại bởi vì có một số người muốn bán cổ phần của họ ngay cả khi cổ phần được định giá thấp (tương đối với giá trị kì vọng), đơn giản để thoát khỏi rủi ro. Có một lí thuyết khác nhấn mạnh tác động của cơ cấu vốn (tỉ lệ nợ/vốn cổ phần) lên các khuyến khích quản lí. Điều này được nhìn nhận từ hai viễn cảnh. Với phần lớn tài trợ ở dạng vốn vay, các cổ đông ban đầu, bao gồm cả ban quản lí, chắc sở hữu một phần lớn vốn cổ phần; do đó họ chiếm một phần lớn lợi tức do nỗ lực của họ. [19] Viễn cảnh thứ hai nhấn mạnh kỉ luật do khoản nợ gây ra, với các nghĩa vụ cố định. Đồng nghiệp Robert Hall của tôi đôi khi nhắc đến điều này như "lí thuyết về tài trợ công ti bị dồn vào chân tường". Với nợ đủ cao các nhà quản lí phải làm việc cật lực, đơn giản để thoả mãn các nghĩa vụ nợ và loại trừ vỡ nợ. Đảo lại là nếu các nhà quản lí có dư tiền mặt (như các công ti dầu mỏ đã có sau đợt tăng giá dầu đột ngột trong các năm 1970), thì chắc có lẽ họ phung phí, hoặc ít nhất không chi tiêu nó một cách khôn ngoan: Kinh nghiệm của các công ti dầu chắc chắn phù hợp với nhận xét này. [20] Tính hạn chế trên các thị trường vốn cổ phần là quan trọng không chỉ vì nó có nghĩa rằng đa dạng hoá rủi ro là hạn chế mà cũng bởi vì nó ngụ ý rằng các hãng phải dàn xếp vốn qua vay mượn. Trong vay mượn, có khả năng là hãng sẽ không có năng lực để thoả mãn các nghĩa vụ của mình và nó sẽ phá sản. Sự thực rằng những thảo luận sớm hơn đã bỏ qua các chi phí phá sản tiêu biểu cho sai lầm quan trọng thứ ba đã phạm phải trong văn khoa đo rủi ro bằng phương sai với thị trường như một tổng thể. Đã có nhiều tranh cãi về các chi phí phá sản chính xác là những gì. Ở một mức điểm mấu chốt là các chi phí phá sản có các tác động xấu lên các nhà quản lí, và vì các nhà quản lí là những người ra quyết định, họ sẽ hành động để loại trừ phá sản và như thế hành động một cách bàng quan với rủi ro. Những người lập luận rằng phá sản không quan trọng, chỉ ra rằng các nguồn lực không biến mất trong sự kiện phá sản; quyền kiểm soát tài sản đơn giản được tái sắp xếp. Dẫu cho đúng là phần lớn báo chí phổ thông thường bỏ qua điểm này, tuy vậy đúng là có thể có các chi phí thực tế đáng kể gắn với phá sản. Các chi phí này bao gồm tổn thất về vốn tổ chức do tái tổ chức công ti. Hơn nữa phá sản thường gây rắc rối cho những dàn xếp hợp đồng. Trong khi tiến hành phá sản, hãng có thể thấy cả các nhà cung cấp đi tìm các khách hàng khác, lẫn các khách hàng tìm các nhà cung cấp khả dĩ khác. Các hãng khác do dự tham gia các dàn xếp hợp đồng mới, và hãng chắc khó kiếm nhân viên mới. Các cơ chế danh tiếng chắc sẽ cản trở, vì các cơ chế đó ngụ ý rằng hãng có tương lai. Với phá sản tương lai của hãng giỏi nhất là cực kì mờ mịt. Với các cơ chế danh tiếng không có khả năng tạo các khuyến khích hữu hiệu để thực thi các hợp đồng (thí dụ, đảm bảo chất lượng), có thể phải dùng các cơ chế khuyến khích tốn kém khả dĩ khác. [21] Tôi đã lập luận trong mục này rằng đánh giá của thị trường về rủi ro chắc khác đánh giá của "xã hội" - thị trường chắc tập trung hơn vào phương sai riêng. Lí tưởng ra, các nhà lập kế hoạch xã hội, trong ra các quyết định đầu tư của mình, tập trung vào các rủi ro xã hội. Nhưng kinh nghiệm gợi ý rằng vấn đề không đơn giản vậy. Một mặt, những người ra quyết định kế hoạch thường không chịu các chi phí của những sai lầm mà họ gây ra. Tuy vậy, họ có thể kiếm danh tiếng do bất kể thành tích nào dưới sự chỉ huy của họ. Điều này có thể dẫn đến thiên hướng quá liều. Như vậy các chính phủ hầu như chắc tiến hành các dự án đồ sộ, như các dự án SST [22] . Sự khác biệt giữa chính phủ và thiện ý của khu vực tư nhân để làm vậy ít liên quan đến khiếm khuyết của thị trường để nhận ra hiệu ứng lan toả, hoặc gán trọng số quá cho phương sai riêng, mà đúng hơn là sự thực rằng những người ra quyết định không bỏ tiền riêng của họ ra. Để chống lại điều này, về nguyên tắc, có thể cho những người liên quan đến việc ra quyết định cùng một loại cơ cấu khuyến khích mà các công ti tư bản chủ nghĩa cho các nhà quản lí của họ. Các nhà quản lí có thể bị phạt do sai lầm. Trong một số ngành của chính phủ, các nhà quản lí quả thật có vẻ như hành động theo cách quá không ưa rủi ro. Bởi vì khó đánh giá, cho trước thông tin có sẵn tại thời điểm đó, liệu một quyết định "tốt" được đưa ra, nên dựa nhiều vào các qui trình, gây ra tệ quan liêu thường rất đặc trưng cho khu vực công cộng. Mặc dù tôi không kiến nghị ở đây để đưa ra một lí thuyết chung xác định khi nào các nhà quản lí trong khu vực công cộng chú ý quá ít hoặc quá nhiều đến rủi ro (đến phương sai riêng), quan trọng là nhận ra rằng không hiển nhiên là chủ nghĩa xã hội thị trường cung cấp một cách điều trị dễ dàng các khuyết tật về đánh giá rủi ro trong các nền kinh tế tư bản chủ nghĩa. Rủi ro từ các quyết định đầu tư không được phối hợp Nhưng có thể có một nhân tố nữa của rủi ro trong các nền kinh tế thị trường: Do thiếu các thị trường kì hạn không có hệ thống giá để điều phối các quyết định đầu tư. Điều này, thỉnh thoảng, dẫn đến đầu tư quá trong các khu vực nào đấy (hoặc thậm chí tổng đầu tư dư thừa) và hụt đầu tư ở thời gian khác trong các khu vực khác. Lại một lần nữa, về nguyên tắc, điều phối dưới chủ nghĩa xã hội thị trường là dễ hơn nhiều. Thực ra, nếu giả như có một tập đầy đủ của các thị trường kì hạn và rủi ro, chúng sẽ thực hiện vai trò điều phối này. Nhưng các thị trường ấy không tồn tại (và "những kì vọng" chỉ là những cái thay thế không hoàn hảo). Pháp đã thử giải quyết các vấn đề điều phối đầu tư này bằng sử dụng kế hoạch hướng dẫn. Nhưng các hãng đã không có bất kể khuyến khích nào để tiết lộ thực các kế hoạch của họ. Ngược lại, họ đã có các khuyến khích nhất định để thử đánh lạc hướng các đối thủ của mình, như nêu rằng họ sẽ đầu tư mạnh, làm nản chí những hãng khác trong mở rộng năng lực của họ. Với sở hữu nhà nước dưới chủ nghĩa xã hội thị trường, ngay cả nếu đầu tư được tiến hành một cách phi tập trung, các khuyến khích không tiết lộ đúng các kế hoạch đầu tư có lẽ bị suy giảm. Các vấn đề điều phối này quan trọng ra sao, tuy vậy, vẫn là vấn đề tranh cãi, như tôi đã nhắc tới trước đây. Chúng chắc tương đối không quan trọng nếu qui mô dự án là nhỏ và nếu giai đoạn thai nghén dự án là ngắn. Mỗi năm dăm ba nhà máy được xây dựng, như thế dư năng lực có thể phát hiện ra ngay và những sai lầm được hiệu chỉnh. Có lẽ chỉ có ít ngành (thí dụ, các nhà máy hoá chất qui mô lớn) nơi vấn đề điều phối đầu tư là rất quan trọng. Đối với các ngành này, còn có vấn đề điều phối quốc tế, vấn đề không được giải quyết bởi chủ nghĩa xã hội thị trường trong nội bộ một nước. Các thị trường, chủ nghĩa xã hội thị trường, và các mô hình của nền kinh tế thị trường Chương này đã xem xét một số khía cạnh chính về mô hình Arrow-Debreu chuẩn (tân cổ điển) nhìn nền kinh tế ra sao. Mô hình Arrow-Debreu, trong khi đưa ra các giả thiết mạnh là có một tập đầy đủ của các thị trường, [23] nhấn mạnh vai trò của giá cả trong phân bổ nguồn lực. Chủ nghĩa xã hội thị trường vay mượn ý tưởng này, nhưng nhận ra là thiếu nhà đấu giá kiểu Walras đảm bảo rằng các thị trường được đặt ở các mức (giá) làm cân bằng thị trường và thiếu các thị trường kì hạn/rủi ro cho các quyết định điều phối đầu tư. Do đó, nó dùng giá cả như cơ chế then chốt cho phân bổ nguồn lực cho trước tổng nguồn vốn, nhưng dùng cơ chế phân bổ trực tiếp cho đầu tư. Tôi đã nhấn mạnh là cả hai quan điểm đều sai liên quan đến vai trò của giá cả: Giá cả (và các thị trường) đóng vai trò hạn chế hơn trong phân bổ nguồn lực, và các cơ chế phi giá đóng một vai trò quan trọng hơn. Trong khi chủ nghĩa xã hội thị trường đã đúng trong nhận diện các vấn đề của hệ thuyết chuẩn (và các thị trường thực tế) trong phân bổ đầu tư, nó đã không nhận diện chính xác về bản chất và nguồn gốc của các vấn đề đó là gì. Cho nên nó không thể đề cập thoả đáng vấn đề liệu một sự thay đổi trong quyền sở hữu - đối với sở hữu công cộng - sẽ sửa những thiếu sót quan sát được. Nhiều trong số các vấn đề thông tin mà thị trường không giải quyết thích đáng vẫn là các vấn đề mà chủ nghĩa xã hội thị trường không có phương thuốc rõ ràng. Tôi đã lưu ý, thí dụ, rằng mô hình tân cổ điển chú ý không đủ đến các vấn đề phân bổ vốn: Mô hình đấu giá cung cấp một mô tả không thoả đáng về cái thực sự (hoặc phải) xảy ra. Nhưng các vấn đề về phân bổ vốn, bao gồm các vấn đề về đánh giá rủi ro, chắc không ít khó khăn hơn đối với khu vực công cộng so với khu vực tư nhân. Tương tự cả mô hình thị trường truyền thống lẫn mô hình chủ nghĩa xã hội thị trường đã không chú ý thích đáng đến các khuyến khích: Tôi đã chứng tỏ rằng hệ thống giá chỉ giải quyết một tập con hạn chế của các vấn đề khuyến khích đối mặt với các nền kinh tế thực. Vấn đề trung tâm của các khuyến khích thường được thảo luận trong quan hệ với chủ nghĩa xã hội thị trường, các khuyến khích của các nhà quản lí, tỏ ra không ít vấn đề hơn dưới chủ nghĩa tư bản. Mô hình tân cổ điển thậm chí chẳng bao giờ thử chấp nhận sự thực này. Giải pháp thị trường chuẩn rằng "các nhà quản lí hãng tối đa hoá giá trị thị trường" là còn xa mục tiêu gần hệt như qui định xã hội chủ nghĩa thị trường rằng các nhà quản lí được bảo phải tối đa hoá giá trị thị trường. Tôi đã thảo luận không chỉ sự thực rằng có sự tách biệt của quyền sở hữu và kiểm soát mà cả những hạn chế của mọi cơ chế kiểm soát và các công cụ khuyến khích được thiết kế để đưa các hoạt động quản lí hài hoà với các lợi ích của các cổ đông. Vấn đề khuyến khích quản lí vẫn còn là một tình thế khó xử đối với các nền kinh tế tư bản chủ nghĩa - một tình thế khó xử mà các nước Đông Âu sẽ phải giải quyết khi họ tiến hành quá độ sang nền kinh tế thị trường. Hệ thuyết thị trường cạnh tranh đã có ảnh hưởng to lớn đến cách chúng ta nghĩ về nền kinh tế hoạt động ra sao. Một số những thấu hiểu mà nó cung cấp là cốt yếu để hiểu ứng xử kinh tế: tầm quan trọng của cạnh tranh, vai trò của giá cả, sự lệ thuộc lẫn nhau của các thị trường, tiềm năng cho phi tập trung hoá. Nhưng hầu hết những thấu hiểu này chưa đầy đủ, như tôi đã chứng tỏ và sẽ chứng tỏ trong suốt cuốn sách này: Mặc dù cạnh tranh là quan trọng, nó không được mô tả tốt bởi loại cạnh tranh giá của mô hình Arrow Debreu. Giá cả chỉ là một phần của cơ chế phân bổ nguồn lực thị trường. Sự phụ thuộc lẫn nhau của các thị trường không chỉ qua giá mà cũng còn qua các thị trường tín dụng, và phi tập trung hoá là hạn chế. ________________________________________ [1]Thảo luận của đoạn này giống với phân tích của các chương trước, khi chúng ta lập luận rằng giả thiết về tập đầy đủ của các thị trường là không có lí. Một trong những lí do chúng ta nêu ra là đơn giản có quá nhiều các mặt hàng khả dĩ để có một thị trường cạnh tranh cho mỗi mặt hàng. [2]Như đã lưu ý trước đây, sự thực rằng cạnh tranh là hạn chế phải được qui không chỉ cho số chiều lớn của không gian sản phẩm mà cả cho các chi phí cố định của sản xuất (không có các chi phí cố định như vậy, bất kể hãng nào cũng có thể sản xuất tất cả các mặt hàng), và cho các chi phí tìm kiếm/thương lượng nữa. (Cần thời gian để tìm ra các hãng sản xuất mặt hàng có tính năng đặc biệt mà ta quan tâm. Như thế, ngay cả nếu có nhiều hãng như vậy, thì tìm ra chúng có thể là khó). Có nhiều mở rộng của mô hình chuẩn Arrow-Debreu bao gồm dải liên tục của các mặt hàng. Những mở rộng toán học này có thể gợi ý rằng mô hình có thể xử lí các không gian sản phẩm khá phức tạp, nhưng chúng biểu lộ sự phân biệt quan trọng giữa "các giới hạn" kinh tế và toán học của mô hình chuẩn. Vấn đề với mô hình Arrow-Debreu không phải là nó giả thiết số lượng hữu hạn các mặt hàng. Tôi đã nhấn mạnh ở đây các vấn đề kinh tế về định nghĩa các mặt hàng, và về sự hiện diện của ngay cả các chi phí cố định nhỏ sẽ dẫn đến cạnh tranh không hoàn hảo ra sao, trong một thế giới phân biệt sản phẩm. [3]Có những giải thích khác, một trong số đó được thảo luận đầy đủ hơn ở sau. Như tôi đã chứng tỏ trong các chương trước, trong sự hiện diện của thông tin không hoàn hảo, các mối quan hệ kinh tế hiệu quả không thể được "trụ đỡ" bởi các mối quan hệ giá (tuyến tính). [4]Như đã lưu ý ở trước, chúng ta thường phân biệt giữa tính có thể quan sát được của một biến số bởi các bên tham gia hợp đồng (đòi hỏi cơ chế danh tiếng hoạt động) và tính có thể kiểm tra được của biến số, đòi hỏi là các tranh chấp được giải quyết bởi các bên thứ ba (toà án). Xem, thí dụ, Newbery and Stiglitz (1987) hoặc Hart and Holmstrom (1987). [5]Cái nhìn thấu cơ bản này được nhắc tới và được mô hình hoá một cách độc lập, trong các bối cảnh khác nhau, bởi Becker and Stigler (1974), Klein and Leffler (1981), Shapiro (1983), và Eaton and Gersovitz (1981). Về một mô hình phân tích các hệ luỵ đối với thị trường lao động, xem Shapiro and Stiglitz (1984), và về một thảo luận các hệ quả cho kinh tế học vĩ mô, xem Stiglitz (1992a). Về một thảo luận những phân tích lí thuyết trò chơi hình thức hơn, xem Kreps (1990). Những phân tích sớm hơn về danh tiếng trong các thị trường sản phẩm là không đầy đủ ở khía cạnh chúng bỏ qua việc thảo luận thoả đáng về các điều kiện gia nhập (các điều kiện cho cân bằng dài hạn). Trong khi lợi nhuận có thể là dương trong ngắn hạn, lợi nhuận dài hạn có thể là không. Về một phân tích quan hệ giữa lợi nhuận ngắn hạn và dài hạn, xem Stiglitz (1989b). [6]Những người tin vào thị trường thường thấy khó được khuyên ngăn khỏi lòng tin này bởi chứng cớ. Trong trường hợp của những cái được gọi là khuyết tật điều phối này, họ có thể chỉ ra rằng dư thừa năng lực ex post (từ sau) không phải là bản thân chứng cớ của phân bổ sai nguồn lực. Rốt cuộc, quyết định phải được lấy trong sự hiện diện của bất trắc. Với sự hiện diện của bất trắc, sẽ có các trạng thái tự nhiên nào đó trong đó có mức đầu tư có dư thừa năng lực. [7]Các điểm trong đoạn này được thảo luận kĩ hơn một chút trong Stiglitz (1989c). [8]Nếu nghĩ rằng cung cấp thông tin loại này là rất quan trọng, thì có lẽ các đơn vị khác nhau của các hãng lớn sẽ được niêm yết riêng biệt, nhưng có rất ít bằng chứng cho việc này. [9]Điểm này được Hirshleifer (1971) đưa ra lần đầu một cách mạnh mẽ. Mối quan hệ giữa các khoản lãi xã hội và tư nhân về thu thập thông tin được Stiglitz (1975c) thảo luận. [10]Về thảo luận hình thức hơn, xem Stiglitz and Weiss (1990). [11]Các điểm trong đoạn này được trình bày kĩ hơn trong Stiglitz (1982e). Các chứng minh hình thức của các kết quả liên quan có thể thấy trong Milgrom and Stockey (1982), và Tirole (1982). [12]Có một tập rộng hơn của các nghịch lí thuế, dẫn đến tương tác của cơ cấu thuế thu nhập công ti và cá nhân: Thí dụ, các hãng chi trả cổ tức chứ không mua lại cổ phần (nghịch lí cổ tức) (Stiglitz 1973b). Những nghịch lí này đôi khi được diễn giải như phản ánh sự tối đa hoá giá trị thị trường của cổ phần bởi các nhà quản lí, với các nhà đầu tư không hợp lí. Trong cả hai trường hợp quan điểm rằng các thị trường cổ phiếu dẫn đến ứng xử có hiệu quả (theo bất kể ý nghĩa hợp lí nào) là đáng ngờ. [13]Xem thảo luận của Edlin and Stiglitz (1992) về các nhà quản lí có thể quyết định thao túng thông tin sẵn có trên thị trường ra sao để làm tăng đặc lợi quản lí. [14]Tất nhiên có thể lập luận rằng vấn đề không phải là vấn đề khuyến khích mà là vấn đề năng lực. Đây cũng là một phê phán kết tội nặng nề: Không hiểu sao thị trường đã không làm tốt việc chọn những người đánh giá. [15]Theo cùng cách, một số kiểm định kinh tế lượng của mô hình định giá tài sản vốn dường như cho thấy rằng phương sai riêng có một tác động lên giá, ngược với các tiên đoán của mô hình đó. Tuy vậy, vẫn còn có tranh cãi đáng kể về những phát hiện này. [16]Về nguyên tắc, bằng cách trả lương khuyến khích tăng nhiều hơn tỉ lệ với thu nhập, hãng có thể khiến nhà quản lí hành động theo cách bàng quan với rủi ro. Nhưng các hãng dường như không làm điều này. [17]Xem Greenwald, Stiglitz, and Weiss (1984), Mayers and Majluf (1984), Jensen and Meckling (1976), giữa những công trình khác. [18]Lập luận về cơ bản là một ứng dụng của phân tích của Akerlof (1970) về thị trường xe cũ (chanh:lemons) sang cho thị trường vốn. [19]Có sự tương tự rõ ràng với một nông dân thuê đất (và nhận toàn bộ thu nhập biên của nỗ lực của anh ta) và việc tham gia một hợp đồng phân chia hoa lợi với chủ đất. Xem Stiglitz (1974). [20]Xem Jensen (1986). Danh sách các giải thích vì sao các hãng sử dụng hạn chế vốn cổ phần không phải là danh sách đầy đủ. Một lí thuyết khác được nhiều người ưa chuộng, chủ yếu tôi cho là vì tính giải tích đơn giản của nó, được gọi là lí thuyết tốn tiền xác minh trạng thái. Lí thuyết lấy một ý tưởng cũ, rằng thông tin cần thiết để thực hiện một hợp đồng vốn cổ phần là lớn hơn nhiều thông tin cần thiết để thực hiện một hợp đồng vay nợ. Với một hợp đồng vốn cổ phần, các khoản lợi nhuận của hãng phải quan sát được, trong khi với một hợp đồng vay nợ, chúng không phải. Chỉ khi hãng vỡ nợ thì chủ nợ mới có khả năng biết chắc lợi nhuận của hãng đi vay là bao nhiêu. Nếu việc xác minh trạng thái (lợi nhuận của hãng) là tốn kém, thì hợp đồng nợ rõ ràng có một lợi thế. Lí thuyết này bỏ qua sự thực là có hàng loạt lí do khác mà lợi nhuận của hãng phải được kiểm tra, xác minh, thí dụ hãng phải nộp thuế, và nó đã có rồi các cổ phần đang lưu hành. Như vậy chi phí xác minh biên gắn với phát hành thêm cổ phần có thể nhỏ, hoặc bằng không. Lí thuyết là nhất quán với nhấn mạnh được đưa ra cho phát triển các tiêu chuẩn kiểm toán và các luật chống gian lận (Greenwald and Stiglitz 1992) và với việc thiếu các thị trường vốn cổ phần cho nông dân và các công ti rất nhỏ. [21]Như một lựa chọn, cơ chế danh tiếng có thể hoạt động, nhưng lợi nhuận biên (giá) phải được tăng lên để làm cho chúng có hiệu quả. [22]Các dự án SST thường là các dự án đồ sộ đầy tham vọng thí dụ như Super-Sonic- Transport, Sea Surface-Tempreture, Sequence-Source-Taxa, Speech-Speech-Techonology, v.v. [23]Cần phải nhấn mạnh rằng đây không phải là giả thiết được đưa ra chỉ đơn thuần để đơn giản hoá phân tích; nó là thiết yếu đối với các kết luận liên quan đến tính hiệu quả của phân bổ nguồn lực thị trường, như tôi đã chỉ ra ở chương 2. Duyệt lại những phát hiện chính Chương này là chương thứ hai trong năm chương trong đó tôi thách thức định lí Lange-Lerner-Taylor, định lí tạo cơ sở trí tuệ của chủ nghĩa xã hội thị trường. Có thể hữu ích tại giao điểm này đi tóm tắt lại xem chúng ta đã, và sẽ đi đến đâu. Thông điệp chính của tôi đến đây phải là quen thuộc: mô hình tân cổ điển chuẩn (Arrow-Debreu) không cung cấp một mô tả thoả đáng về nền kinh tế hoạt động thế nào, và vì vậy nền kinh tế xã hội chủ nghĩa được xây dựng trên một mô hình thuần tuý bắt chước mô hình của nền kinh tế thị trường, chỉ thay đổi ai "sở hữu" các hãng, không thể mong đợi sẽ làm ăn tốt. Để công bằng, phê phán của tôi đối với mô hình xã hội chủ nghĩa thị trường là cân đối hơn: đối với một số phê phán được viện dẫn cũng chẳng kém phê phán nền kinh tế thị trường, và trong chừng mực điều đó là đúng, các nền kinh tế xã hội chủ nghĩa thị trường có thể làm ăn không tồi hơn các nền kinh tế thị trường. Đây là trường hợp, thí dụ, của vấn đề các khuyến khích quản lí, một trong những phê phán chính của mô hình xã hội chủ nghĩa thị trường. Trong chương trước, tôi đồng ý với nhận thức phổ biến rằng các khuyến khích là quan trọng. Nhưng chúng tiêu biểu không hơn một vấn đề cho nền kinh tế xã hội chủ nghĩa thị trường so với chúng là đối với nhiều công ti lớn. Chương này, tuy vậy, đi vào tâm điểm của mô hình xã hội chủ nghĩa thị trường: nó bắt chước nền kinh tế thị trường trong sử dụng hệ thống giá như cách chính để kiểm soát và điều phối hoạt động kinh tế, khác so với đầu tư. Luận điểm của tôi là hệ thống giá thực tế là phức tạp hơn nhiều, là hệ thống "kiểm soát/thông tin" của các nền kinh tế thật bao gồm nhiều hơn nhiều so với mô hình Arrow-Debreu gợi ý, và là chủ nghĩa xã hội thị trường đã lầm lạc nghiêm trọng do tập trung chỉ vào một khía cạnh của các quan hệ kinh tế - cơ chế giá như được đặc trưng bởi mô hình Arrow-Debreu/Walras. Arrow và Debreu đã có cái nhìn phê phán thấu đáo để nhận ra rằng để cho nền kinh tế cạnh tranh hoạt động theo cách các nhà kinh tế cổ điển hình dung, thì phải có một tập đầy đủ của các thị trường, mở rộng vô tận vào tương lai và phủ mọi rủi ro. Các ông đã không khảo sát tỉ mỉ tính hợp lí của giả thiết đó hoặc các hậu quả nếu nó không thoả mãn. Đó là nhiệm vụ dồn lên vai chúng ta. Tôi đã cung cấp một loạt các lí do vì sao không thể có một tập đầy đủ của các thị trường, có thể áp dụng cho cả các nền kinh tế thị trường và xã hội chủ nghĩa thị trường. Giữa các hệ quả tôi đã dẫn có: 1. Chất lượng của cái được buôn bán bị ảnh hưởng bởi giá của hàng hoá trong đó giá truyền đạt thông tin. 2. Ở nơi thông tin được truyền đạt bởi các cơ chế phi giá cả, giao diện trực tiếp giữa nhà sản xuất và người tiêu dùng trở nên quan trọng, và kho hàng và đơn hàng tồn đọng có các vai trò thông tin quan trọng. 3. Các hợp đồng và danh tiếng trở thành một phần trung tâm của các quan hệ kinh tế; các điều khoản phi giá cả trong các hợp đồng thường quan trọng như các điều khoản giá cả. 4. Sàng lọc trực tiếp có vai trò quan trọng: Vốn được phân bổ không chỉ cho người trả giá cao nhất; các thị trường vốn không ứng xử như các thị trường đấu giá. Những mô tả này về các thị trường hoạt động ra sao giúp làm sáng tỏ những khuyết tật của mô hình xã hội chủ nghĩa thị trường, mô hình đã không tìm cách áp dụng tập phong phú hơn này của các cơ chế dính líu trong các quan hệ kinh tế. Giữa những ngụ ý quan trọng trực tiếp cho các kết luận chuẩn của mô hình tân cổ điển (vượt quá cái bao gồm mà tôi đã nhấn mạnh ở chương 3 và chương 4 rằng các định lí căn bản của kinh tế học phúc lợi không còn áp dụng nữa) là ba ngụ ý sau: 1. Cân bằng cạnh tranh có thể không được đặc trưng bởi cung bằng cầu, các thị trường có thể không cân bằng; có thể có thất nghiệp (chẳng mấy mới đối với hàng triệu người thất nghiệp trên toàn thế giới), và có thể có phân phối tín dụng. 2. Vì cạnh tranh có khuynh hướng là không hoàn hảo, các mô hình cạnh tranh không hoàn hảo theo tư tưởng của Chamberlin có thể cung cấp một mô tả tốt hơn của nền kinh tế so với các mô hình cạnh tranh hoàn hảo. 3. Giá không được kéo xuống chi phí biên; đặc lợi phải còn nếu các cơ chế danh tiếng hoạt động Chủ nghĩa xã hội thị trường đã nhận ra các hạn chế của cơ chế giá thị trường trong phân bổ vốn, nhưng ở đây, nó đã không nhận ra những lí do của điều này, những lựa chọn khác mà các thị trường thực ra đã sử dụng, và những lợi thế (và có lẽ những bất lợi) của chúng. Tuy nhiên, như trong thảo luận của tôi về các khuyến khích, tôi phải nhấn mạnh rằng có các vấn đề chung trong cả hai cách tiếp cận. Những người ủng hộ ưu điểm của thị trường có xu hướng bỏ qua cái nhìn sâu sắc căn bản của Arrow và Debreu liên quan đến điều kiện cần thiết của một tập đầy đủ của các thị trường bằng cách nói rằng một thị trường cổ phiếu tốt - loại như chúng ta có- là tất cả cái chúng ta cần. [1] Trong chương này tôi đã thử lật tẩy chuyện hoang đường đó, bằng cách chứng tỏ rằng tuy thị trường cổ phiếu có cung cấp một số thông tin, nó không cung cấp thông tin cần thiết để đưa ra các quyết định đầu tư hợp lí, và tuy một số thông tin thu thập được trong thị trường cổ phiếu có thể có giá trị tư nhân, phần lớn thông tin đó ít có giá trị xã hội. Thị trường cổ phiếu chỉ có một vai trò hạn chế trong hướng dẫn đầu tư trong các nền kinh tế thị trường, và thực vậy nó có thể có một vai trò gây méo mó nhiều hơn một vai trò mang tính xây dựng. Ngay cả nếu các thị trường cổ phiếu có một vai trò mang tính xây dựng lớn, các nền kinh tế xã hội chủ nghĩa thị trường có thể tranh thủ được thông tin này trong khi vẫn giữ kiểm soát hầu hết cổ phần của công ti. Sau khi đã phỉ báng vai trò trung tâm của thị trường cổ phiếu, tôi vẫn còn bỏ lại vấn đề khó hơn về so sánh các thị trường và các hệ thống xã hội chủ nghĩa thị trường phân bổ đầu tư ra sao. Ở đây lại một lần nữa, lập luận của tôi đáp ứng chủ yếu cho vấn đề các quan điểm ấu trĩ của những người chủ trương của mỗi hệ thống. Vấn đề khó hiểu nhất liên quan đến rủi ro: Liệu các nhà quản lí trong một hệ thống hay trong hệ thống khác có quan tâm nhiều hơn đến các rủi ro không mang tính hệ thống (đôi khi được gọi là rủi ro đặc thù theo hãng)? Về nguyên tắc, cả các thị trường lẫn sở hữu của chính phủ có thể tạo sự phân tán hữu hiệu các rủi ro như vậy ra toàn bộ nền kinh tế, như thế các quyết định phải được đưa ra theo cách bàng quan với rủi ro. Tôi đã nghi ngờ rằng ở mỗi trong hai hệ thống, liệu đây có phải là cách mà quyết định thực sự được đưa ra, vì quyết định là do các nhà quản lí đưa ra và các nhà quản lí là không bàng quan với rủi ro đối với kết quả. Về nguyên tắc, các chính phủ có thể thực hiện một vai trò hữu hiệu hơn trong điều phối các khoản đầu tư qui mô lớn, tránh các vấn đề dư năng lực đôi khi xuất hiện trong các nền kinh tế thị trường, mặc dầu tôi nghi ngờ tầm quan trọng của điều này trong bối cảnh quốc tế hiện đại. Sự khác biệt mấu chốt hình như phần lớn không phải nằm ở mức ra quyết định quản lí mà ở trách nhiệm giải trình tổ chức: Ai chịu các chi phí khi một dự án như dự án SST thất bại? Những khác biệt này chuyển thành các khuyến khích đối với các nhà quản lí ra sao là một vấn đề mà tôi sẽ quay lại muộn hơn. Tính vững vàng của hệ thuyết cạnh tranh Tôi đã hoàn tất phần thứ nhất của lí lẽ của mình chống lại định lí tương đương Lange-Lerner-Taylor. Tôi đã lập luận rằng mô hình đặt cơ sở cho quan niệm về cả các thị trường lẫn chủ nghĩa xã hội thị trường cung cấp một mô tả không chính xác về các thị trường hoạt động ra sao hoặc về một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa thị trường có thể hoạt động ra sao. (Trong ba chương tiếp theo tôi sẽ tiếp tục thảo luận về các thành tố cơ bản đặt cơ sở cho hệ thuyết thị trường chuẩn, bao gồm vai trò của cạnh tranh và phi tập trung hoá). Tính xác đáng của các định lí phúc lợi căn bản, cũng như của định lí tương đương Lange-Lerner-Taylor phụ thuộc, như tôi đã nói, ít nhất một phần, vào liệu mô hình ám chỉ của nền kinh tế thị trường thậm chí có đúng đắn một cách gần đúng. Các định lí tất nhiên chỉ là chuyện của logic suy diễn: Các kết luận hoặc suy ra từ các giả thiết hoặc không. Vấn đề mà tôi quan tâm, tuy vậy, là vấn đề thiên về phán xét hơn: Tôi hỏi liệu một tập cụ thể nào đó của các giả thiết tạo cơ sở cho một mô tả "tốt" của nền kinh tế. Những điều này là, ở chừng mực lớn, các vấn đề kinh nghiệm - thế nhưng tôi có thể lập luận rằng những phán xét liên quan đến tính xác đáng của mô hình chuẩn hầu như chẳng cần đến một mức độ tinh vi cao. Tuy nhiên, các định lí hoặc các định đề giải tích có thể là hữu ích, theo nhiều cách. Thứ nhất, chúng ta có thể hỏi, liệu mô hình có vững vàng (robust)? Liệu những sự thay đổi nhẹ trong các giả thiết - đặc biệt các giả thiết mà chúng ta có thể có sự tin tưởng hạn chế - có gây ra những thay đổi rõ rệt trong những kết luận? Những khảo sát tỉ mỉ trong khuôn khổ kinh tế học thông tin trên mười lăm năm qua đã, tôi tin, cho một câu trả lời khá vang dội: Hệ thuyết cạnh tranh là không vững vàng. Không chỉ các định lí phúc lợi cơ bản là cực kì nhạy cảm với giả thiết về thông tin không hoàn hảo, [2] mà các định lí tồn tại và mô tả đặc điểm cũng vậy. Với một chút bất hoàn hảo về thông tin, cân bằng có thể không tồn tại, giá cả có thể không ở mức cân bằng, cân bằng thị trường cạnh tranh có thể được đặc trưng bởi lợi nhuận dương, các thị trường có thể không cân bằng (clear). Thứ hai, chúng ta có thể hỏi, có những sửa đổi (có thể khá quan trọng) của mô hình cần thiết để làm cho mô hình hợp lí hơn, để bao hàm những đặc điểm rõ ràng rất quan trọng của nền kinh tế, những cái có thể bắt phải có thay đổi lớn hoặc trong cấu trúc của mô hình hoặc trong các kết luận của nó? Trong câu hỏi thứ nhất, tôi đã chỉ quan tâm đến những xáo động nhỏ xung quanh mô hình "nhận được", thí dụ, cái gì sẽ xảy ra nếu có chỉ một chút chi phí tìm kiếm, hoặc chỉ có sự khác biệt đôi chút giữa những người lao động, mà người sử dụng lao động không quan sát được. Câu hỏi thứ hai liên quan đến những xáo động căn bản hơn, như khả năng của đổi mới sáng tạo (bị mô hình chuẩn loại bỏ hoàn toàn). Tôi sẽ quay lại vấn đề này trong chương 8. 7. Cạnh tranh [3] Ít nhất từ thời Adam Smith, cạnh tranh đã đóng một vai trò trung tâm trong kinh tế học. Chính vì cạnh tranh mà các cá nhân và các hãng, theo đuổi tư lợi riêng của mình, lại phục vụ lợi ích chung, cứ như chúng được dẫn dắt bởi một bàn tay vô hình. Thế mà, tuy hầu hết các nhà kinh tế đều hoan nghênh cạnh tranh, khái niệm cạnh tranh có nhiều nghĩa khác nhau. Sự nhiệt tình của các nhà kinh tế đối với cạnh tranh vả lại không được chia sẻ một cách phổ biến đến vậy. Các nhà kinh doanh nói về cạnh tranh huỷ hoại. Và một cách tự nhiên, khi một đối thủ bị thua trong cạnh tranh, anh ta kêu là cạnh tranh không công bằng. Tương tự các ngành thua cuộc trong cạnh tranh với các hãng nước ngoài tìm kiếm bảo hộ, luôn luôn ca thán rằng các đối thủ của họ có lợi thế không công bằng nào đó. Khi nhấn mạnh tầm quan trọng của cạnh tranh cho các sinh viên của mình, chúng ta có xu hướng dẫn chiếu đến một số các ý tưởng liên quan: đến các thị trường, những khuyến khích, và phi tập trung hoá. Các thị trường hoạt động một phần vì cạnh tranh, một phần vì những lợi thế có được từ phi tập trung hoá. Cạnh tranh là quan trọng bởi vì nó tạo các khuyến khích. Trong khi các khái niệm gắn mật thiết với nhau, chúng không được liên kết một cách không thể gỡ ra nổi: Một nhà độc quyền có thể tổ chức sản xuất theo cách phi tập trung, có thể có cạnh tranh ngay cả khi có tương đối ít hãng, và có những cách đa dạng để tạo khuyến khích. Chúng ta cần hiểu rõ hơn vai trò riêng biệt của mỗi trong những khái niệm này, và chương này và chương tiếp theo được dành cho các vấn đề này. Tôi quan tâm cả đến các vai trò mà cạnh tranh và phi tập trung hoá có và có thể đóng trong nền kinh tế, lẫn đến các mô hình mà chúng ta dùng để nghiên cứu cạnh tranh và phi tập trung hoá và để giúp định hình tư duy - và các khuyến nghị chính sách của chúng ta. Ở đây tôi lo ngại rằng mô hình tân cổ điển chuẩn - mô hình cạnh tranh được phản ánh trong hệ thuyết cạnh tranh hoàn hảo- không phản ánh thoả đáng bản chất của cạnh tranh và vai trò mà nó thực hiện trong nền kinh tế của chúng ta. Rộng hơn, tôi muốn thảo luận ba định đề: 1. Trong khi cạnh tranh có những ý nghĩa đa dạng, các nghĩa thông thường là khá khác với nghĩa được thâu tóm trong mô hình "cạnh tranh hoàn hảo" của lí thuyết tân cổ điển. 2. Cạnh tranh đóng một vai trò sống còn, nhưng là một vai trò khá khác so với vai trò được phản ánh trong mô hình Arrow-Debreu chuẩn. 3. Khi thông tin là không hoàn hảo - hoặc trong các khu vực của nền kinh tế nơi đổi mới sáng tạo là quan trọng - các thị trường về cơ bản sẽ luôn là cạnh tranh không hoàn hảo. (Chúng ta hoãn việc thảo luận về đổi mới sáng tạo và các hàm ý của nó đối với cuộc tranh luận về thị trường/chủ nghĩa xã hội thị trường cho đến chương tiếp theo). Tôi kết thúc chương với thảo luận về những ngụ ý của phân tích đối với tranh luận về chủ nghĩa xã hội thị trường và chính sách cạnh tranh, đặc biệt trong nội bộ các nền kinh tế xã hội chủ nghĩa trước đây. Tôi sẽ lập luận, một mặt, rằng chủ nghĩa xã hội thị trường không chỉ là phương thuốc duy nhất, hoặc tốt nhất, cho các vấn đề do cạnh tranh không hoàn hảo gây ra và, mặt khác, rằng các nền kinh tế xã hội chủ nghĩa trước đây phải làm việc gian khổ để thiết lập các chính sách cạnh tranh thích hợp. Những khái niệm và vai trò của cạnh tranh Trong nỗ lực của mình để hiểu các điều kiện mà với chúng phỏng đoán về bàn tay vô hình của Adam Smith là đúng, các nhà kinh tế học đã đưa ra một khái niệm chính xác về cạnh tranh -cạnh tranh hoàn hảo mà đặc tính quan trọng của nó (cho mục đích của chúng ta) là tất cả các hãng đối mặt với một đường cầu ngang. Có nhiều hãng đến mức mỗi hãng tin rằng, nếu nó tăng giá thậm chí chỉ một chút, nó sẽ mất hết khách hàng. Thật mỉa mai là trong trường hợp giới hạn này của cạnh tranh, các nhà kinh tế học đã hoang phí bao nhiêu tâm trí hơn một nửa thế kỉ qua, hầu hết các đặc điểm của cạnh tranh- như chúng xuất hiện trong cách sử dụng thông thường của thuật ngữ - đều vắng bóng. Trong mô hình Arrow-Debreu (mô hình hình thức hoá khái niệm cạnh tranh hoàn hảo) [4] không có cạnh tranh để tạo ra các mặt hàng rẻ hơn hoặc tạo ra các sản phẩm tốt hơn. Không có chính sách công ti để mưu mẹo hơn các đối thủ. Chắc hẳn, lợi nhuận được tối đa hoá nếu các hãng tối thiểu hoá các chi phí sản xuất. Nhưng để kiếm được khách hàng - đến mức nhiều như hãng có thể muốn - tất cả cái hãng cần là đòi giá thấp hơn "giá thị trường" một chút xíu. Ít có thị trường cạnh tranh hoàn hảo. Trong hầu hết các thị trường các hãng nhận thấy mình đối mặt với các đường cầu dốc xuống. Chắc chắn, thường thường có cạnh tranh nào đấy. Có tương đối ít thị trường trong đó có một hãng duy nhất, hãng độc quyền, hoặc trong đó các hãng thông đồng một cách hoàn toàn (một cartel). Như thế hầu hết các thị trường được đặc trưng bởi cạnh tranh không hoàn hảo, cái có thể có hình thức đa dạng: độc quyền nhóm, cạnh tranh kiểu Schumpeter - nhấn mạnh cạnh tranh vì các sản phẩm mới và vì R&D nói rộng hơn- và cạnh tranh độc quyền. Mỗi hình thức này đến lượt nó lại có thể có các hình thù đa dạng. Cạnh tranh độc quyền, thí dụ, có thể nảy sinh từ sự làm khác biệt sản phẩm thông thường (thí dụ, do các địa điểm khác nhau gây ra) hoặc từ thông tin không hoàn hảo và tìm kiếm tốn kém. Lí thuyết về các cuộc thi Một cách dùng khái niệm cạnh tranh khá gần với cách dùng thông thường của thuật ngữ được phản ánh trong lí thuyết về các cuộc thi mới được phát triển gần đây. Lí thuyết cuộc thi nhấn mạnh rằng trong nhiều tình huống kinh tế, phần thưởng dựa trên thành tích tương đối chứ không phải thành tích tuyệt đối. [5] Thí dụ hiển nhiên nhất của một cuộc thi là cuộc đua sáng chế (patent), nơi hãng đầu tiên tìm ra sản phẩm (nộp đơn) là hãng nhận được patent. Nhưng có nhiều thí dụ khác nữa: Những người bán hàng thường được thưởng trên cơ sở họ hoàn thành tốt ra sao so tương đối với những người khác; thường có cuộc thi ngầm định giữa các phó chủ tịch của một hãng xem ai sẽ được chọn làm chủ tịch. Thành tích liên tục dưới mức trung bình được thưởng bằng bị đuổi việc. Thật vậy cạnh tranh Bertrand đối với các mặt hàng, những mặt hàng thay thế nhau hoàn hảo, có lợi nhuận trên đơn vị của hãng phụ thuộc vào hiệu số giữa chi phí sản xuất biên của nhà sản xuất hiệu quả nhất và nhà sản xuất hiệu quả thứ nhì. Các cuộc thi và các khuyến khích Cạnh tranh ở dạng này có một vai trò kinh tế quan trọng. Có thể chứng tỏ là hữu hiệu để tạo khuyến khích: Lợi tức biên đối với nỗ lực có thể rất cao, mà khoản rủi ro phải chịu có thể là hạn chế. [6] (Tổng quát hơn, các cuộc thi cho phép thiết kế các sơ đồ khuyến khích cho phép tách các khuyến khích khỏi lợi tức còn lại - và theo nghĩa đó, giữa các khuyến khích và gánh chịu rủi ro). Các cuộc thi khi thông tin hạn chế Các cuộc thi có thể là đặc biệt quan trọng trong các tình huống khi thông tin là hạn chế, và do đó ở nơi hãng thấy khó điều chỉnh các khuyến khích theo cách thích hợp. Khi nhiệm vụ là dễ, phải giảm phần thưởng cho thực hiện nhiệm vụ một cách tương xứng, nhưng người sử dụng lao động thường thiếu thông tin về độ khó của nhiệm vụ. Xem cái gì xảy ra trong một cuộc thi đơn giản với hai người chơi nếu việc làm một dụng cụ hay bán một mặt hàng đột nhiên trở nên dễ hơn. Nếu một người chơi giữ nỗ lực không đổi, người khác có thể nhận ra rằng, với ít chi phí, anh ta có thể làm được nhiều hơn, và tăng khả năng thắng cuộc. Như thế người đó cố gắng hơn. Đối thủ nhận ra điều này và cũng nỗ lực hơn. Trong cân bằng cả hai đều cố gắng hơn. Ứng xử của họ đã được điều chỉnh một cách thích hợp với hoàn cảnh kinh tế thay đổi. [7] Không có cuộc thi chúng ta thường không biết liệu một hãng có hoạt động tốt hay không. Chính bằng chứng rằng các công ti ôtô Nhật có thể chế tạo ôtô (với chất lượng có thể so sánh được) tại Hoa Kì với giá thành thấp hơn nhiều là cái cuối cùng đã thuyết phục các cổ đông của GM rằng ban quản lí của công ti đã làm cái gì đó sai. Chính bằng chứng rằng MCI có thể tạo ra dịch vụ điện thoại đường dài với giá thấp hơn AT&T đã là lời buộc tội dẫn đến đánh giá lại dịch vụ điện thoại ở Hoa Kì. Thông tin do cạnh tranh cung cấp là thông tin quan trọng để phán xét một hãng làm tốt ra sao. Thông tin này hữu ích không chỉ cho người ngoài, mà cho bản thân hãng. Liệu hãng phải nỗ lực hơn? Nó có làm tốt như có thể không? Cần một sự so sánh chuẩn để trả lời các câu hỏi này. Cuối cùng, các cuộc thi tạo một cơ sở cho chọn lựa, cho việc biết chắc ai "giỏi hơn", và vì thế phải chọn ai để cất nhắc hoặc để giao cho nhiều nguồn lực hơn. Như thế các cuộc thi tạo thuận lợi cho hai chức năng kinh tế trung tâm- chọn lựa và khuyến khích. Trong khi cạnh tranh hoàn hảo có thể chỉ xuất hiện trong các thị trường có rất nhiều hãng, cuộc đua có thể xảy ra trong các thị trường có nhiều hoặc có vài người tham gia. Cuộc thi thâu tóm sát hơn tinh thần tranh đua xảy ra trong các thị trường được phân loại một cách truyền thống là cạnh tranh không hoàn hảo. Thường trong các thị trường với hai hoặc ba hãng, họ cạnh tranh mãnh liệt. Nhưng cạnh tranh không có dạng cạnh tranh giá, được nhấn mạnh bởi lí thuyết kinh tế chuẩn. Đúng hơn nó là dạng cạnh tranh vì thay đổi công nghệ và chất lượng, chế tạo các sản phẩm mới và tốt hơn, và kèm các dịch vụ mới và tốt hơn với các sản phẩm. Các cuộc thi và hiệu quả kinh tế Trong khi có sự đồng thuận rộng rãi giữa các nhà kinh tế học rằng cạnh tranh ở dạng này thúc đẩy hiệu quả kinh tế, hiện thời cơ sở giải tích vẫn chưa vững như trong trường hợp cạnh tranh hoàn hảo. Chúng ta biết rằng có những phi hiệu quả rõ rệt gắn với độc quyền. Nhưng không có các kết quả đơn giản cho cạnh tranh không hoàn hảo. Dưới những hoàn cảnh nhất định, thí dụ, các cuộc đua patent có thể gây ra chi tiêu quá cho R&D; các hãng có thể đua quá nhanh để giật giải. Lợi tức xã hội đơn thuần là tăng giá trị chiết khấu hiện tại của thặng dư do có sáng chế sớm hơn so với nếu khác đi; lợi tức tư nhân từ chi phí tăng là xác suất tăng của việc thắng cuộc đua patent, nhân với toàn bộ giá trị của patent. Các vai trò khác của cạnh tranh Các năm gần đây những lí lẽ cho cạnh tranh đã được mở rộng quá địa hạt của các mặt hàng qui ước sang các lĩnh vực mới, mạnh mẽ nhất sang giáo dục. Quan điểm ngày càng tăng là cạnh tranh giữa các trường tư và công sẽ tạo ra một nền giáo dục có chất lượng cao hơn với giá thành thấp hơn. Các trường công có lợi, khi chúng cố gắng cạnh tranh với các trường tư. Cách sử dụng khái niệm cạnh tranh này đã đi thật xa khỏi cái gắn với mô hình "cạnh tranh hoàn hảo". Các giả thiết chuẩn cần thiết cho mô hình đó không được thoả mãn tốt trong giáo dục. Mô hình chuẩn, thí dụ, giả thiết những người tiêu dùng am hiểu hoàn toàn mặt hàng mà họ mua. Với giáo dục, cha mẹ ra quyết định nhân danh con cái họ, và cha mẹ điển hình chỉ có thông tin hạn chế. Hiếm có số đông các nhà sản xuất (trường) trong một địa phương cho trước - chắc chắn không đủ để biện hộ cho giả thiết chấp nhận "giá". Sự phân biệt sản phẩm là mấu chốt - các trường khác nhau nhấn mạnh những thứ khác nhau. Nhưng mà có nhiều lí lẽ gợi ý rằng cạnh tranh có thể quan trọng chính xác vì các thị trường không hoạt động một cách hoàn hảo. Có nhiều chiều cho điều này, và tôi chỉ có thể đụng đến một vài chiều quan trọng hơn. Albert Hirschman (1970) đã nhấn mạnh vai trò về rút lui, tiếng nói, và sự trung thành như các cơ chế "kiểm soát"- những cách mà người tiêu dùng có thể liên lạc với các nhà sản xuất. Cạnh tranh làm cho rút lui là một lựa chọn khả dĩ, một cách hữu hiệu để truyền đạt sự bất mãn. Khi các cá nhân chọn một trường, họ cảm thấy hết lòng hơn với nó, và điều này làm cho họ chắc sẽ tham gia - thực thi lựa chọn "tiếng nói". Họ chắc sẽ cung cấp các hàng hoá công gắn với giám sát. (Có khía cạnh hàng hoá công của quản lí bất kể dịch vụ công nào). Điều này dẫn tôi đến biên giới của các khía cạnh phi kinh tế của cạnh tranh. Ở đây cạnh tranh có cả mặt tích cực lẫn tiêu cực. Cạnh tranh thường đóng vai trò tích cực trong tăng cường sự gắn bó nhóm. Sự gắn bó nhóm có các tác động khuyến khích tích cực và tạo thuận tiện cho hợp tác giữa các thành viên của nhóm. Tầm quan trọng của các khía cạnh cơ bản này của cạnh tranh là một trong những lí do chúng ta động viên con em tham gia vào các đội thể thao, và vì sao các hãng thường tổ chức các hoạt động sản xuất quanh các nhóm thi đua nhau. Những tác động tiêu cực của cạnh tranh Nhưng cạnh tranh đôi khi có hướng huỷ hoại Làm tăng chi phí của đối thủ Một loại phổ biến là các tình huống một bên khá hơn bằng cách làm cho bên kia hoạt động tồi hơn. Điều này được gọi là "làm tăng chi phí của đối thủ". Thí dụ điển hình là các sinh viên trường luật xé các trang chủ chốt của sách ở thư viện để cản trở việc học tập của các đối thủ. Trong các môi trường cạnh tranh không hoàn hảo các hãng thường tiến hành những tập quán làm tăng chi phí của các đối thủ: Lợi nhuận có thể được tăng cường bằng cách làm vậy hơn là giảm chi phí riêng của họ. [8] Tiêu tán đặc lợi Có các khung cảnh khác trong đó cạnh tranh không phục vụ cho các mục đích xã hội: Các nguồn lực bị tiêu tán trong cạnh tranh vì đặc lợi. Tuy đã có nhiều thảo luận về tìm kiếm đặc lợi trong khu vực công, khi các nhóm lợi ích đặc biệt cạnh tranh để kiếm lợi từ sự hào phóng công cộng, hoặc thông qua chi tiêu trực tiếp hoặc, giấu kín hơn, thông qua bảo hộ khỏi cạnh tranh, cạnh tranh vì đặc lợi cũng xảy ra trong khu vực tư nhân. Thường có sự mập mờ, thí dụ, liên quan đến mức độ mà cạnh tranh giữa các nhà quản lí để làm cho hãng trở thành một tổ chức hữu hiệu hơn, hay để tăng cường cơ hội chia đặc lợi của nhà quản lí, khoản thường dồn cho các nhà lãnh đạo chóp bu (đặc biệt trong các công ti lớn ở Mĩ). Sự mâu thuẫn giữa cạnh tranh và hợp tác Cuối cùng, thường có xung đột giữa cạnh tranh và hợp tác. Tất nhiên sự phân biệt giữa hợp tác và sự câu kết có thể thường là tế nhị: Sự câu kết, thông đồng chẳng hơn gì sự hợp tác để theo đuổi các lợi ích chung của các thành viên của một ngành làm tổn hại những người khác. Khi có các hiệu ứng lan toả (ngoại sinh) giữa các hoạt động của các hãng trong một ngành, thì có khả năng có lợi ích xã hội và tư nhân thật sự từ hợp tác. Điều này là hiển nhiên nhất, thí dụ, trong các liên doanh nghiên cứu (sẽ được thảo luận ngắn gọn muộn hơn). Vì các lợi ích của nghiên cứu hiếm khi được đánh giá đầy đủ bởi nhà phát minh, thường có lợi ích tích cực dồn cho các hãng khác trong nghành từ một phát minh của một hãng. Thiếu nghiên cứu hợp tác, có thể không đủ kinh phí. Song các chương trình và chính sách tạo thuận lợi cho ứng xử hợp tác này đồng thời luôn có rủi ro nguy hiểm tạo thuận lợi cho ứng xử câu kết ít xây dựng hơn. Nhận thức thay đổi về vai trò của cạnh tranh Như tôi đã lưu ý ở đầu chương này, các nhà kinh tế học từ lâu đã nhấn mạnh tầm quan trọng của cạnh tranh trong nền kinh tế. Phân tích của đoạn trước thống nhất với kết luận truyền thống: Cạnh tranh có đóng một số vai trò quan trọng trong nền kinh tế. Nhưng thảo luận của tôi gợi ý không chỉ là cách sử dụng thông thường của thuật ngữ cạnh tranh không được phản ánh tốt trong hệ thuyết kinh tế học truyền thống về "cạnh tranh hoàn hảo" mà là mô hình cạnh tranh hoàn hảo truyền thống có thể chỉ cho chúng ta những thấu hiểu hạn chế về các vai trò của cạnh tranh. Quan trọng là phải hiểu vai trò và bản chất của cạnh tranh trong các nền kinh tế hiện đại, cả để phát triển các chính sách thích hợp của chính phủ đối với cạnh tranh, lẫn để biết chắc các triển vọng của chủ nghĩa xã hội thị trường. Một trong những động cơ đứng sau chủ nghĩa xã hội thị trường đã là lòng tin rằng, trong các nền kinh tế công nghiệp hiện đại, chẳng gì có thể đạt tới lí tưởng cạnh tranh hoàn hảo cả. Một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa thị trường có thể mô phỏng ứng xử của nền kinh tế cạnh tranh hoàn hảo lí tưởng hoá - cái không thể đạt được dưới chủ nghĩa tư bản. Hiểu liệu điều này có thể đạt được, và rộng hơn, liệu đạt điều này sẽ là đủ để đạt tới những ưu việt của một nền kinh tế thị trường cạnh tranh, phụ thuộc vào sự hiểu biết thấu đáo bản chất và vai trò của cạnh tranh trong nền kinh tế. Chủ đề về vai trò của cạnh tranh đã là một trong những chủ đề tranh luận suốt hai mươi năm qua. Trong phần này của chương, tôi xem lại ngắn gọn cuộc tranh luận này, mà tôi chia làm ba giai đoạn. Lí do kinh tế căn bản ban đầu cho chính sách cạnh tranh Giai đoạn đầu này có thể được hình dung như khởi đầu bởi Adam Smith, người đã lập luận rằng cạnh tranh đảm bảo rằng mỗi hãng và mỗi cá nhân, theo đuổi tư lợi, lại thực sự thúc đẩy lợi ích công. Đã cần gần hai thế kỉ cho nghề kinh tế học để dịch cái nhìn thấu đáo của Adam Smith thành một định lí nghiêm ngặt. Định lí đó, định lí căn bản thứ nhất của kinh tế học phúc lợi mà chúng ta đã tập trung vào ở chương 3, chứng tỏ rằng dưới các thị trường cạnh tranh hoàn hảo, nền kinh tế có hiệu quả Pareto- tức là, không ai có thể khá giả hơn mà không làm ai đó kém đi. Tính hiệu quả kinh tế (theo nghĩa Pareto) đòi hỏi nhiều hơn một nghĩa lỏng lẻo về cạnh tranh: Nó đòi hỏi có nhiều hãng đến mức mỗi hãng tin rằng nó không có ảnh hưởng đến giá thị trường- nó đối mặt một đường cầu nằm ngang cho sản phẩm của nó. [9] Sau đó có lí do cho can thiệp của chính phủ: Nếu vì lí do này hay lí do khác, các thị trường không là cạnh tranh, chính phủ cần can thiệp để đảm bảo rằng chúng là. Không có can thiệp như vậy, thì có một "khuyết tật thị trường". Vai trò kinh tế của chính phủ là sửa các khuyết tật thị trường. Lí thuyết cung cấp một tập các điều kiện mà dưới nó chúng ta có thể không kì vọng thấy cạnh tranh: khi có tính kinh tế theo qui mô, với cường độ đủ lớn, thì cân bằng thị trường bắt phải có số hạn chế các hãng. Trong các hoàn cảnh trong đó cạnh tranh bị hạn chế bởi tính kinh tế theo qui mô, chính sách cạnh tranh không phải là cách để đạt hiệu quả kinh tế. Không có cách nào để có cả cạnh tranh lẫn tận dụng đầy đủ ưu điểm của kinh tế theo qui mô. Như thế cần một hình thức can thiệp khác nào đấy, như điều tiết hay sở hữu của chính phủ (như dưới chủ nghĩa xã hội thị trường). Theo một nghĩa, trong khi lí thuyết khuyết tật thị trường tạo lí do căn bản cho can thiệp chính phủ- để duy trì cạnh tranh- các hoàn cảnh duy nhất mà dưới nó lí thuyết gợi ý rằng sẽ có cạnh tranh hoàn hảo là hoàn cảnh trong đó chính sách cạnh tranh không phải là phương thuốc thích đáng. Dòng lập luận này dường như là một đòn chí tử cho cơ sở hợp lí của khuyết tật thị trường đối với chính sách cạnh tranh nhưng có vẻ đã củng cố việc sở hữu của chính phủ, như dưới chủ nghĩa xã hội thị trường. Vì sao chính sách cạnh tranh là không cần thiết Cơ sở trí tuệ hợp lí cho chính sách cạnh tranh đã lùi tiếp trong giai đoạn hai của tranh luận, đồng thời làm xói mòn lí lẽ cho chủ nghĩa xã hội thị trường, đã dựa trên thất bại của cạnh tranh như một cơ sở hợp lí cho chủ nghĩa xã hội thị trường. Trong giai đoạn hai của tranh luận, đã nêu hai điều. Thứ nhất, những tổn thất do độc quyền là nhỏ hơn nhiều so với hình dung trước kia, và thứ hai, không đòi hỏi cạnh tranh thực để đạt các kết quả cạnh tranh. Tam giác Harberger Điểm đầu được Arnold Harberger thuyết phục mạnh mẽ, người đã cố thử lượng hoá tổn thất phúc lợi do giá cao mà độc quyền gây ra. Ông đã chứng tỏ rằng hầu hết những tác động của thi hành độc quyền đơn thuần là chuyển giao thu nhập: Nhà độc quyền được lợi làm hại đến khách hàng. Tính phi hiệu quả kinh tế (được đo bằng khoản mất trắng, cái gọi là tam giác Harberger) [10] nhiều nhất lên không quá vài phần trăm GNP. Hàm ý là rõ ràng: Nếu về cơ bản tất cả chỉ là vấn đề tái phân phối, thì có cách khác để giải quyết. Không cần chính sách cạnh tranh, và chắc chắn không cần đến tái tổ chức ồ ạt nền kinh tế như chủ nghĩa xã hội thị trường bắt phải. Các thị trường có thể tranh đua Tuyến tấn công thứ hai gợi ý rằng có thể bản thân Harberger đã đánh giá quá các tổn thất từ độc quyền. Các nhà độc quyền có thể không có khả năng tăng giá trên mức cạnh tranh - họ có thể không được hưởng lợi nhuận độc quyền; nếu họ thử làm vậy, thì hãng khác nào đấy có thể nhảy vào để thử chiếm lấy lợi nhuận. Cái quan trọng theo cách nhìn này không phải là mức cạnh tranh thực mà là sự hiện diện của cạnh tranh tiềm tàng. Những ý tưởng này, trở nên phổ biến vào cuối các năm 1970 và đầu các năm 1980 dưới cái tên được nhắc đến như "học thuyết có thể tranh đua", [11] có thể lần vết ít nhất đến Demsetz (1968) và trường phái Chicago. Phân tích của họ dựa trên cơ sở rằng không có "cản trở tham gia" thực tế nào. Thiếu những rào cản như vậy, cạnh tranh, bất luận thực tế hay tiềm tàng, đảm bảo đẩy lợi nhuận xuống bằng không, ngay cả nếu chỉ có một hãng trong thị trường. Những người đề xướng học thuyết có thể tranh đua lập luận rằng cân bằng có thể xảy ra tại điểm cắt của đường cầu và đường giá thành trung bình, giá thấp nhất mà đầu ra có thể được sản xuất mà không có trợ cấp của chính phủ. Bất kể hãng nào muốn đòi giá cao hơn sẽ bị một hãng mới tham gia cắt cầu, bằng cách đòi giá thấp hơn, lấy hết khách hàng, và kiếm được một khoản lợi nhuận. [12] Nếu luận điểm này là đúng, thì nó sẽ có nghĩa rằng chúng ta có thể thôi khỏi phải lo về chủ nghĩa tư bản độc quyền. Có thể có các độc quyền, nhưng cạnh tranh tiềm tàng đảm bảo rằng các độc quyền này không thể hành sự độc quyền! Với "các thị trường có thể tranh đua" (như những thị trường nơi cạnh tranh tiềm tàng được dùng để đưa các hãng vào kỉ luật) chính sách cạnh tranh đơn thuần là không cần thiết. Hiển nhiên những lo ngại mang tính dân tuý, khởi đầu dẫn đến đòi hỏi chính sách kinh tế, biểu hiện sự hiểu sai về cách hoạt động của các nền kinh tế thị trường: Standard Oil đơn giản không thể tăng giá của nó quá mức chi phí trung bình, mà không hấp dẫn đủ người tham gia để buộc giá xuống. Cả hai mối lo về các hệ quả phân phối và hiệu quả của sức mạnh kinh tế, ở dạng các độc quyền, là lầm lẫn. Bộ mặt tốt nhất có thể phủ lên các biện pháp dân tuý là chúng phản ánh một mức quá nóng vội: Các lực lượng thị trường không hoạt động tức thời. Điều này có nghĩa là nhà độc quyền có thể hành sự độc quyền tạm thời, nhưng không dài hạn, và có lẽ giá trị chiết khấu hiện tại của tổn thất hiệu quả (hoặc thậm chí các tác động phân phối) phải có thể được bỏ qua. Cách cư xử Các chính sách cạnh tranh ở Hoa Kì đã tập trung cả vào cơ cấu lẫn cách cư xử, vào cả số lượng hãng (hoặc hãng tiềm năng) lẫn các tập quán cụ thể được thiết kế nhằm, hoặc có thể có ảnh hưởng, làm giảm cạnh tranh. Như vậy các tập quán như ấn định giá, định giá diệt nhau, đại lí độc quyền, địa hạt độc quyền, và những kiềm chế theo chiều dọc khác được xem với con mắt ngờ vực, nếu không nói toạc ra là bị cấm. Nhưng các lí thuyết nhấn mạnh sức mạnh của các lực lượng cạnh tranh trong nền kinh tế lập luận rằng các tập quán kiềm chế chỉ được sử dụng nếu gây ra lợi ích hiệu quả. Thiếu những lợi ích hiệu quả như vậy, thì hãng khác nào đấy, không sử dụng các tập quán phi hiệu quả này, sẽ gia nhập thị trường và hất các dàn xếp phi hiệu quả đi. Trong các vụ kiện đã trở thành tập quán chuẩn đối với các luật sư bào chữa và các nhà kinh tế học được họ thuê là đi dẫn chiếu, và tìm kiếm, những lợi ích hiệu quả này. Thí dụ, Anheuser Busch (người nấu bia Budweiser) đã bảo vệ tập quán sử dụng cái, thực ra là, các địa hạt độc quyền cho các nhà phân phối bằng cách viện dẫn ra những lợi ích của một hệ thống như vậy là để giữ cho bia lon được tươi. Nếu hai nhà phân phối cung cấp bia Budweiser cho cùng một cửa hàng bán lẻ, thì cả hai đều không có khuyến khích để cung cấp bia tươi. Có lẽ người bán lẻ bán bia cũ sẽ không có khả năng biết nhà phân phối nào đã giao bia cũ (không tươi). Hơn nữa, khi có một nhà phân phối duy nhất giao bia cho cửa hiệu, thì nhà phân phối có khuyến khích để giám sát cửa hiệu bán lẻ để đảm bảo rằng bia trên quầy được luân phiên sao cho không khách hàng nào mua phải bia cũ. Nhà phân phối duy nhất biết rằng nếu các khách hàng mua phải bia chua, họ sẽ mua ít hơn, và doanh thu giảm. Những người bán lẻ có khuyến khích không đủ, vì nếu khách hàng đã mua phải bia chua, thì một phần chi phí của mất doanh thu do nhà phân phối chịu. [13] Nhưng nếu với hai nhà phân phối, họ "chia nhau" tổn thất, và chẳng ai có khuyến khích đầy đủ cả. Tóm lại, có một vấn đề hàng hoá công cộng có thể được loại bỏ, hoặc chí ít làm giảm, nếu có một nhà phân phối duy nhất. Liệu độ ôi có là quan trọng đối với bia lon? Nếm mò [14] không cho thấy rằng khách hàng có thể cảm nhận sự khác biệt. Nhưng Anheuser Busch lập luận rằng nếm mò không phải là trắc nghiệm đúng. Chắc chắn, nếu độ tươi là quan trọng (như với sữa, hoặc thậm chí với phim chụp ảnh), thì có cách dễ dàng để đảm bảo độ tươi: Đơn giản in lên lon ngày sản xuất. Nhưng Anheuser Busch lí luận rằng điều này chỉ làm rối trí khách hàng. Những lí lẽ này xem ra có vẻ gượng gạo, nhưng cấp tiến, và toà án đã thấy chúng thuyết phục, và tôn trọng "phán xét kinh doanh" của hãng. Tôi không muốn nhấn sâu vào tính hợp lí hay phi lí của những lí lẽ như vậy; đúng hơn, tôi đơn giản chỉ nhấn mạnh rằng giả thuyết thị trường cạnh tranh lập luận rằng nếu chúng ta thấy các tập quán như vậy được duy trì, thì chúng phải phản ánh dạng nào đấy của lợi ích hiệu quả. Xét từ khía cạnh này, chính sách cạnh tranh - bất luận nhằm vào cơ cấu hay cách cư xử- là không cần thiết. Nếu giả như các lí lẽ này là đúng ngay cả với sự hiện diện của tính không lồi khi chỉ có một hãng sản xuất trong thị trường, cạnh tranh tiềm tàng đảm bảo kết quả có hiệu lực, và nếu các lí lẽ đó có thể được mở rộng cho loại tính không lồi đặc biệt gắn với thay đổi kĩ thuật (xem dưới đây), thì cuối cùng có thể chúng ta có một nền tảng trí tuệ cho lòng tin vào tính hiệu quả của các nền kinh tế công nghiệp tư bản chủ nghĩa (chí ít nếu chúng ta bỏ qua thông tin không hoàn hảo). Nhưng những phê bình chính sách cạnh tranh còn đi xa hơn: Những chính sách như vậy chẳng tốt lành gì, vì lo ngại rằng chúng sẽ bị khởi kiện chống trust (nhầm) có thể ngăn cấm các hãng tận dụng đầy đủ ưu điểm của kinh tế theo qui mô hoặc phạm vi hoặc thậm chí sử dụng các tập quán tăng hiệu quả những biện pháp có thể được diễn giải như kiềm chế. Những quyết định mang tính ngẫu nhiên của toà mở ra những cơ hội cho hoạt động tìm kiếm đặc lợi của các hãng nhỏ (hay luật sư của họ), yêu sách (sai) rằng họ bị thiệt hại bởi các tập quán chống cạnh tranh của những đối thủ lớn hơn của họ. Như thế chính sách cạnh tranh là tồi hơn không cần thiết - không tốt lành gì; đúng hơn, thực tế là có hại. [15] Điều này đã dẫn một số chuyên gia (thí dụ, Judge Posner) đến lí luận cho quy tắc bản chất chứ không phải quy tắc lí trí trong đánh giá các tập quán kiềm chế. Tức là, các tập quán như vậy phải, tự nó, là hợp pháp. Những ngụ ý căn bản Kết luận của giai đoạn hai của tranh luận về cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường là đáng chú ý: Không chỉ các chính sách cạnh tranh do thiếu cạnh tranh gây ra là không cần thiết, mà cả loại tái cơ cấu cơ bản của nền kinh tế được hình dung bởi các nhà xã hội chủ nghĩa thị trường cũng vậy. Quan điểm mới Suốt thập kỉ qua, một quan điểm mới nổi lên. Quan điểm mới này không chỉ cung cấp một phê phán học thuyết có thể tranh đua (hoặc rộng hơn, phê phán trường phái Chicago) [16] mà lần đầu tiên cung cấp một lí do căn bản nhất quán cho chính sách chống trust. Cách nhìn này tấn công cả những kết luận lẫn những lí lẽ của nó. Như Partha Dasgupta và tôi đã bày tỏ trong một bài báo trước đây (1988a), ám chỉ sự ủng hộ mạnh mẽ mà các lí thuyết như vậy nhận được từ những người muốn được giải phóng khỏi những ràng buộc do các luật chống trust đưa ra, Hi vọng rằng một lí thuyết về cạnh tranh tiềm tàng sẽ chí ít có khả năng mở rộng kinh tế học phúc lợi sang cho các nền kinh tế công nghiệp hiện đại, tuy có thể đã được tài trợ tốt, đã không được thiết lập tốt (tr. 570). Các giả thuyết cơ bản Quan điểm mới dựa trên ba giả thuyết: 1. Có đủ loại bất hoàn hảo thị trường gây ra các rào cản tham gia và cạnh tranh hạn chế. 2. Trong các môi trường cạnh tranh không hoàn hảo các hãng tiến hành đủ loại tập quán hoặc tạo thuận lợi cho cấu kết hoặc hạn chế cạnh tranh; những tập quán như vậy không những gây ra giá cao, mà cũng làm méo mó nền kinh tế và dẫn đến những phi hiệu quả kinh tế. 3. Những tổn thất gắn với độc quyền có thể lớn hơn nhiều so với gợi ý của các tam giác phúc lợi Harberger. Quan điểm này lập luận rằng không những Adam Smith đã đúng, khi ông viết rằng "Những người trong cùng một ngành kinh doanh hiếm khi gặp nhau, ngay cả để vui vẻ và giải trí, mà cuộc nói chuyện có kết cục là một âm mưu chống dân chúng, hoặc là thủ đoạn nâng giá nào đấy", [17] mà cả rằng những nỗ lực chống cạnh tranh này có những ảnh hưởng thực sự - chúng không đơn giản bị xoá bỏ bởi cạnh tranh thực sự hay tiềm tàng. Cạnh tranh bị hạn chế: Chứng cớ Quan điểm mới bắt đầu với quan sát rằng cạnh tranh ở khu vực công nghiệp là không hoàn hảo. Những mẩu bằng chứng để ủng hộ luận điểm này vượt quá sự trích dẫn thuần tuý đến mức độ tập trung trong các khu vực cá biệt của nền kinh tế. Robert Hall (1988), thí dụ, cung cấp chứng cớ kinh tế lượng rằng trong suy thoái, giá vượt quá chi phí biên một cách đáng kể, tình thế không thể duy trì nếu cạnh tranh là hoàn hảo. Hầu hết các hãng rõ ràng cảm thấy phải đối mặt với các đường cầu dốc xuống. Họ không tin rằng giả như họ hạ giá một chút, họ sẽ thấy cầu vô hạn cho sản phẩm của mình. Phê phán này đặc biệt được nói ra, bởi vì chính lòng tin rằng họ đối mặt với đường cầu nằm ngang là cái nằm ở tâm điểm của lí lẽ rằng các thị trường cạnh tranh có hiệu quả kinh tế. Những hạn chế về cạnh tranh: Lí thuyết Không ngạc nhiên, căn cứ vào cái chúng ta học được từ tiến bộ mới đây trong lí thuyết kinh tế, là các thị trường còn xa mới cạnh tranh hoàn hảo. Độc quyền nhóm tự nhiên: Tôi đã lưu ý rằng những thảo luận trước đây tập trung vào các ngành "độc quyền tự nhiên" trong đó hoặc các chi phí cố định lớn đến nỗi ở mức sản xuất xác đáng, chi phí trung bình vẫn giảm, hoặc các ngành trong đó thậm chí các biến phí cũng giảm với qui mô. Sự chú ý tập trung vào các dịch vụ công cộng, như điện chẳng hạn. Nhưng bây giờ chúng ta nhận ra rằng các định phí -tính không lồi- phổ biến tràn lan. Như thảo luận chương tiếp theo của tôi sẽ nhấn mạnh, các chi tiêu R&D về cơ bản là chi phí cố định (lắng chìm), và do đó, các ngành trong đó chi tiêu R&D lớn có thể là gần với độc quyền tự nhiên. Cũng thế học qua làm - nơi chi phí sản xuất biên giảm khi sản xuất tăng - gây ra tính không lồi. Những tính không lồi này và khác không nhất thiết làm nảy sinh ra độc quyền tự nhiên - ra các cơ cấu công nghiệp nơi chỉ có một hãng - mà gây ra độc quyền nhóm tự nhiên, khi có tương đối ít hãng, đủ ít để giả thiết về "cạnh tranh hoàn hảo" đơn giản không thể coi là nghiêm túc. Cạnh tranh độc quyền: Cạnh tranh sẽ cũng không hoàn hảo khi các cá nhân đánh giá sự đa dạng (hoặc các cá nhân khác nhau đánh giá các thuộc tính của một mặt hàng một cách khác nhau), sao cho thị trường như một tổng thể đánh giá sự đa dạng, và khi sản xuất các thứ đa dạng với một chi phí, bởi vì các chi phí cố định gắn với sản xuất mỗi thứ. Khi đó sẽ có chí ít một số, có lẽ nhiều, sản phẩm do một hãng hoặc nhiều nhất vài hãng sản xuất. Tất nhiên sẽ có sự thay thế gần nhưng không phải thay thế hoàn hảo; hãng sẽ đối mặt với một đường cầu dốc xuống cho sản phẩm của mình. Nó sẽ có quyền lực thị trường nào đấy. Một khi chúng ta tính đến sự khác biệt về vị trí, về thời gian giao hàng, về dịch vụ, thì có ít khu vực trong nền kinh tế hiện đại nơi sự phân biệt sản phẩm như vậy không quan trọng, nơi mỗi hãng không thấy mình đối mặt với đường cầu dốc xuống. May lắm, có cạnh tranh độc quyền, không có cạnh tranh hoàn hảo. [18] Thông tin không hoàn hảo Đường cầu ngang đối mặt bất kể hãng nào dựa trên giả thuyết rằng nếu hãng tăng giá, nó mất hết khách hàng của mình, và nếu nó hạ giá, nó túm được cả thị trường. Nhưng điều đó lại đòi hỏi rằng những người mua từ các hãng khác biết rằng nó hạ giá, hoặc rằng khách hàng của hãng có thể ngay lập tức tìm ra các hãng khác đang bán mặt hàng ấy với giá hạ hơn. Như kết quả của bất hoàn hảo thông tin, hãng có thể tăng giá mà không mất hết khách hàng và có thể hạ giá mà không chiếm được cả thị trường. Cái quan trọng tất nhiên không chỉ là bất hoàn hảo về thông tin liên quan đến giá mà cả chất lượng nữa. Nếu một hãng hạ giá, các khách hàng ở nơi khác có thể lo rằng sản phẩm thực ra không hoàn toàn như nhau; nó có thể (theo cách nào đấy không hiển nhiên) có chất lượng thấp hơn. Đôi khi được gợi ý rằng tất cả những cái cần để đảm bảo định giá cạnh tranh là có một số khách hàng hay người làm với chi phí tìm kiếm thấp những người có thể kinh doanh chênh lệch giá thị trường. Lí lẽ này là sai: Chừng nào còn có đủ các khách hàng không am hiểu, sẽ có các cửa hàng đòi giá cao hơn, với giá cao bù cho cơ sở khách hàng nhỏ hơn. [19] Các cá nhân có chi phí tìm kiếm thấp không đảm bảo rằng những cá nhân có chi phí tìm kiếm cao không bị "đòi giá quá đắt", tuy nhiên, chắc chắn, càng có nhiều người có chi phí tìm kiếm thấp thì giá trung bình mà những người có chi phí tìm kiếm cao phải trả càng thấp. Theo cùng cách, tuy vậy, càng có nhiều người có chi phí tìm kiếm cao, thì những người có chi phí tìm kiếm thấp phải tìm càng nhiều để tìm ra các cửa hàng có giá thấp. Những phân tích về các hệ quả của thông tin hạn chế và các chi phí giao dịch nhỏ của khách hàng đã chứng tỏ rằng thậm chí các chi phí nhỏ về tìm kiếm (giao dịch) có thể gây ra cái dường như là quyền lực độc quyền lớn. Diamond (1971), thí dụ, đã chứng tỏ rằng thậm chí các chi phí tìm kiếm nhỏ bất kì có thể làm cho giá cân bằng thành giá độc quyền. Dù là có thể có nhiều hãng trên thị trường, các chi phí tìm kiếm nhỏ này có các hệ quả hoàn toàn ngoài tỉ lệ với độ lớn của chúng. Lí lẽ đơn giản: Giả sử rằng mọi hãng đều đòi cùng một giá, thấp hơn giá độc quyền. Nếu bất kể hãng nào nâng giá của mình lên một chút - với mức nhỏ hơn chi phí tìm kiếm, chi phí đi sang cửa hàng khác- nó sẽ không mất bất kể khách hàng nào. Như thế đáng cho cửa hàng đó nâng giá với mức ấy. Nhưng điều này hàm ý rằng đáng cho tất cả các cửa hàng để nâng giá của họ. Quá trình tiếp tục cho đến khi đạt giá độc quyền. [20] Trong nhiều thị trường, như các thị trường vay nợ, các chi phí thông tin làm phân đoạn thị trường, làm cho số thực sự của các đối thủ cạnh tranh ít hơn nhiều so với chúng có vẻ như. Những người đi vay khác nhau ở khả năng trả nợ. Chức năng cốt yếu của các định chế tài chính là đánh giá khả năng trả nợ, và đòi lãi suất phản ánh thông tin đó. Đưa ra những phán xét như vậy cần đên thông tin, cái là đắt đỏ và tốn thời gian thu thập. Căn cứ vào đó, không ngạc nhiên, là những người đi vay thường có quan hệ ngân hàng với một, nhiều nhất vài, định chế cho vay; khi một người đi vay bị ngân hàng của mình từ chối, anh ta không thể đơn giản đến bất kể một ngân hàng khác nào trên thị trường. Đối với các ngân hàng khác này, người đi vay đó là khách hàng "chưa được biết" và sẽ bị đối xử như thế, sẽ bị lãi suất cao hơn để phản ánh rủi ro lớn hơn mà họ phải chịu. Như vậy, từ khía cạnh của người đi vay, số ngân hàng cạnh tranh có hiệu quả vì anh ta có thể là rất hạn chế. Như vậy có sự tương tự nào đó giữa các chi phí vận tải - những chi phí đã tạo một phần cơ sở cho lí thuyết truyền thống về cạnh tranh độc quyền- và các chi phí thông tin. Trong khi chi phí vận tải có thể là quan trọng để xác định mức độ mà các ngân hàng khác nhau cạnh tranh trong cung cấp dịch vụ tiền gửi cho, thí dụ, một khách hàng thương mại cho trước - bất kể ngân hàng nào đều sẵn lòng nhận tiền gửi của bất kể cá nhân nào và bán các dịch vụ đó với một giá cụ thể - chính chi phí thông tin là cái xác đáng để xác định cạnh tranh trong thị trường vay mượn. Những hạn chế về cạnh tranh tiềm năng Trong các đoạn trên tôi đã lập luận rằng có cả lí thuyết lẫn chứng cớ ủng hộ giả thuyết rằng các hãng, nói chung, đối mặt với các đường cầu dốc xuống. Như thảo luận trước đây của tôi đã chỉ ra, nếu giả như các thị trường thực sự là có thể tranh đua, thì sự thực rằng bất kể hãng nào đối mặt với một đường cầu dốc xuống sẽ chẳng liên quan gì - đối với cả hãng và nhà phân tích đánh giá các hệ quả chính sách của nó. Cái ngăn hãng khỏi tăng giá không phải là đường cầu cho sản phẩm của nó mà là sự hiểu biết nào đấy rằng giả như nó nâng giá lên trên chi phí trung bình, thì sẽ có người gia nhập hầu như ngay lập tức mời hết khách hàng của nó và đảm bảo rằng nó sẽ chẳng thực hiện được bất kể khoản lợi nhuận nào. Diễn giải theo cách khác, cạnh tranh tiềm tàng đảm bảo rằng bất kể hãng nào đều đối mặt với một đường cầu nằm ngang, ít nhất về phía "trái" của điểm nó tạo ra cân bằng, tại điểm đó giá bằng chi phí trung bình. Sự thực rằng các hãng dường như tin (hoặc hành động như thể họ tin) rằng họ có thể nâng giá mà không mất hết khách hàng gợi ý rằng cạnh tranh tiềm tàng, nếu có, chỉ có những tác động hạn chế. Những hạn chế về cạnh tranh chỉ là bước đầu của phân tích: Chúng ta cần biết vì sao cạnh tranh là hạn chế, nếu chúng ta phải phán xét về liệu chính sách cạnh tranh có thể cải thiện tình hình. Điễn đạt theo cách khác, chúng ta cần biết vì sao các hãng đối mặt với các đường cầu dốc xuống và vì sao có những cản trở cho việc tham gia (điều hạn chế khả năng của cạnh tranh tiềm tàng để ép các hãng đang tồn tại trên thị trường vào kỉ luật) để đảm bảo rằng họ không đòi giá cao hơn chi phí trung bình và rằng chúng có hiệu quả. Những rào cản đối với gia nhập Bain (1956) đã cho một phân loại các rào cản gia nhập; nhiều tiến bộ của quan điểm mới có thể được coi như cung cấp những diễn giải, bằng những phát triển mới đây trong lí thuyết kinh tế, của các rào cản này. Tôi chỉ có thời gian để nêu bật hai hay ba rào cản quan trọng hơn ở đây. Các chi phí lắng chìm: Một trong những điều sáng suốt chính của lí thuyết chiến lược hiện đại nhấn mạnh rằng cái quan trọng cho các quyết định liên quan đến gia nhập thị trường không phải là sự tồn tại lợi nhuận trong thị trường hôm nay mà là cái gì sẽ xảy ra sau khi gia nhập. [21] Những người tham gia tiềm năng đủ tài để biết rằng các hãng hiện tồn sẽ không giữ nguyên giá nếu họ tham gia. Những người tham gia phải tiên đoán cái gì sẽ diễn ra. Nhất thiết có nhiều điều không rõ về các tiên đoán như vậy. Một khía cạnh quan trọng của quyết định liên quan đến tham gia của hãng là, Cái gì sẽ xảy ra nếu các hãng hiện tồn giảm giá đến điểm mà hãng không có lợi nhuận nào? Có thể rút ra và thu hồi được chi phí? Nếu có các chi phí lắng chìm, thì (theo định nghĩa) hãng sẽ không thu hồi được chi phí. Như thế chi phí lắng chìm làm nản chí tham gia (Salop 1979). Có thậm chí một kết quả mạnh hơn: Nếu cạnh tranh sau khi tham gia là rất quyết liệt (thí dụ, có cạnh tranh Bertrand đẩy giá xuống chi phí biên của hãng có hiệu quả thứ nhì), thì ngay cả chi phí lắng chìm nhỏ bất kì có thể coi là rào cản tham gia hoàn hảo. [22] Một hãng hiện tồn có thể đòi giá độc quyền và hoàn toàn không hề gì bởi đe doạ tham gia. Lí do là đơn giản: Nếu các hãng đối mặt với, thí dụ, một công nghệ có lợi tức không đổi theo qui mô vượt quá chi phí lắng chìm, thì người tham gia biết rằng, sau khi vào, giá sẽ bị đẩy xuống chi phí biên (bằng biến phí trung bình). Khi hãng tiếp tục sản xuất, nó không có khả năng kiếm lợi tức trên đầu tư lắng chìm, còn nếu rút lui nó không thể thu hồi được các chi phí đó. Vì thế người tham gia biết rằng sự tồn tại của lợi nhuận lớn là một ảo ảnh: Nếu hãng tham gia thị trường, lợi nhuận lớn sẽ biến đi. Những người chủ trương học thuyết có thể tranh đua đã luôn luôn dẫn các hãng hàng không như hệ thuyết. Nếu bất kể hãng nào tính giá cao hơn chi phí trung bình ở một đường bay nào đó, hãng khác có thể điều ngay máy bay của họ sang tuyến đó chào giá thấp hơn. Nếu hãng cũ phản ứng, hãng mới vào chẳng có gì để mất. Nó đơn giản điều máy bay về như ban đầu. Lí lẽ liên quan đến tính có thể tranh đua của các ngành hàng không đã cung cấp phần chính cho lí do căn bản cho phi điều tiết hoá hàng không cuối các năm 1970. Thế giới đã không tỏ ra như những người chủ trương học thuyết khả năng tranh đua tiên đoán. Không chỉ là cạnh tranh là hạn chế - sau sự tham gia ùn ùn ban đầu là một sự xốc lại đến mức ở Hoa Kì hiện nay chỉ còn ba hãng hàng không chính vẫn chưa phá sản hoặc mới đây vẫn chưa qua quá trình phá sản, và cạnh tranh trên nhiều đường bay là rất hạn chế, giá của một số đường bay cao hơn nhiều so với chi phí trung bình. Ngay cả các chi phí lắng chìm nhỏ xem ra có ý nghĩa lớn. Để gia nhập một thị trường, các khách hàng cần biết là anh đã tham gia. Có các chi phí lắng chìm, thí dụ, gắn với quảng cáo. Một hệ thống giữ chỗ bằng máy tính đảm bảo rằng cạnh tranh ex post [23] có thể rất hiệu quả; có thể đối phó ngay lập tức với bất kể khoản giảm giá nào. Như thế châm ngôn phổ biến rằng cạnh tranh ex post càng mạnh thì cạnh tranh ex ante (tiềm năng) càng yếu xem ra đã được xác minh. Chi phí lắng chìm là quan trọng. Một hướng chính của các hãng trong hầu hết các ngành công nghiệp là nghiên cứu và triển khai, R&D. Những chi tiêu như vậy, phần lớn, là lắng chìm. Chúng không giống như mua một toà nhà. Ngay cả một toà nhà dở dang cũng có một giá trị thị trường xác định. Hãng có thể, ở bất kể giai đoạn nào, bán toà nhà và thu hồi phần lớn khoản đã chi. Chỉ có những chi phí cá biệt (như biểu tượng công ti sơn trên tường của mỗi phòng) là thực sự lắng chìm. Ngược lại, chi tiêu cho một dự án nghiên cứu dở dang là chi phí lắng chìm mà hãng không thể thu hồi nếu nó rút lui. Có thể chứng minh rằng các chi phí như vậy có thể gây ra những rào cản tham gia mạnh trong các cuộc đua patent, đảm bảo rằng một hãng có xuất phát trước một chút sẽ không đối mặt với những đe doạ cạnh tranh đáng kể (Dasgupta and Stiglitz 1988a). Các rào cản chiến lược đối với tham gia: Cả công nghệ lẫn ứng xử của hãng có thể gây ra các rào cản tham gia. Các hãng, thí dụ, có thể, và có tiến hành định giá diệt nhau, cả để răn đe những người tham gia tiềm năng khỏi tham gia thực lẫn để đuổi những kẻ ngu đần khi tham gia. Ngay cả khi thiếu các chính sách chiến lược, một nhà độc quyền hiện hành có ưu thế hơn những kẻ mới tham gia. Schumpeter đã có cái nhìn về sự kế tiếp nhau của các độc quyền ngắn hạn. Mỗi nhà độc quyền tạm thời bị một kẻ tham gia kế tiếp thách thức. Một loạt bài báo viết cuối các năm 1970 đầu các năm 1980, đã đánh đổ quan điểm này. [24] Xét vấn đề đơn giản về tạo năng lực mới trong một ngành với đầu tư "vón cục". Mối đe doạ của cạnh tranh tiềm tàng buộc nhà độc quyền tạo năng lực mới nhanh hơn so với nếu khác đi. Nhưng đáng cho nhà độc quyền dựng năng lực mới đủ sớm để không đáng cho bất kể kẻ tham gia nào đi đấu nhà độc quyền đến hoà. Như vậy có các lực bẩm sinh dẫn tới quyền lực độc quyền, một khi đã thiết lập, được duy trì. [25] Những lí lẽ này cho thấy rằng nhà độc quyền có một khuyến khích để chặn trước những kẻ tham gia tiềm năng. Cuối các năm 1980 lí lẽ này đã được tăng cường bằng cách chứng tỏ rằng để chặn trước các đối thủ, trong các hoàn cảnh nào đấy nhà độc quyền hiện hành chỉ cần có một hành động nhỏ. [26] Điều này được gọi là ε-chặn trước. Xét một cuộc đua patent. Nếu hãng hiện hành có khởi đầu trước các đối thủ một chút, và có cam kết đáng tin cậy để thắng, thì các đối thủ sẽ bị cản khỏi tham gia. Họ biết rằng bất kể khoản chi tiêu nào họ có thể và sẽ chi đều có thể được hãng hiện hành đối phó. Như thế, một khi hãng hiện hành đã xác lập một chút khởi đầu trước, nó có thể thong thả và tiến hành với nhịp độ của riêng mình, cứ như nó được miễn dịch với cạnh tranh tiềm tàng. Các lí lẽ này có lẽ thổi phồng các hạn chế về tính hiệu quả của cạnh tranh. Có nhiều câu chuyện về các hãng thoả mãn với vinh quang và đã bị qua mặt. IBM có lẽ cho thí dụ nổi bật nhất mới đây. Có các câu chuyện về những đổi mới sáng tạo đến từ các nguồn bất ngờ, hoặc tận dụng các lợi thế kĩ năng khác với các kĩ năng của nhà độc quyền hiện hành, để tạo ra sản phẩm cạnh tranh. Thành công của máy sao chụp Canon địch lại nhà tiên phong đã thành đạt, Xerox, minh hoạ cho điều này. Nhưng trong thiết kế chính sách cạnh tranh, vấn đề không phải là liệu cạnh tranh đôi khi, hoặc thường xuyên, hoạt động, mà đúng hơn là, có các hoàn cảnh mà nó không hoạt động, và nơi đó có thể cần can thiệp của chính phủ? Các lí thuyết về chặn trước và ε-chặn trước nhắc nhở chúng ta rằng ngay cả không có các chính sách chiến lược như giá diệt nhau, hiển nhiên nhằm cản trở tham gia, việc tham gia có thể là hạn chế và cạnh tranh tiềm tàng có thể chỉ cung cấp kỉ luật hạn chế. ________________________________________ [1]Diamond (1967) thậm chí đã có một nỗ lực để cung cấp một sự bào chữa lí thuyết cho kết luận này, ông đã thiết lập một mô hình của một nền kinh tế sản xuất duy nhất một mặt hàng với các điều kiện cực kì hạn chế (đầu ra trong mọi trạng thái tự nhiên tăng theo tỉ lệ khi các hãng tăng đầu tư, các hãng không thể thay đổi hình mẫu của đầu ra, và không có phá sản). Nhưng đã sớm được chứng minh rằng khi bỏ bất kể giả thiết nào của ông đi - thí dụ, nếu đơn thuần chỉ có hai mặt hàng, và các hãng tối đa hoá giá trị thị trường cổ phiếu- thì nền kinh tế, nhìn chung, không có hiệu quả Pareto ràng buộc. Xem Stiglitz (1972b, 1982a). [2]Tôi cần nêu nêu một lời cảnh báo phải thận trọng: Greenwald và Stiglitz không chứng minh rằng có một sự không liên tục trong phúc lợi với "độ" của bất hoàn hảo thông tin. Một sự không liên tục như vậy có nảy sinh trong bài toán tồn tại (Rothschild and Stiglitz 1975, 1976; C. A. Wilson 1977) và trong một số mô tả đặc trưng của cân bằng (Diamond 1971; Salop and Stiglitz 1982). [3]Chương này dựa nhiều vào Stiglitz (1992d). [4]Như chúng ta đã thấy ở các chương 1 và 3, hệ thuyết Arrow-Debreu là quan trọng bởi vì nó tạo cơ sở trí tuệ nghiêm túc của hầu hết niềm tin của chúng ta vào hệ thống thị trường: Với các thị trường cạnh tranh hoàn hảo (với sự thoả mãn của một số các điều kiện khác) các thị trường có hiệu quả Pareto. [5]Xem Lazear and Rosen (1983), Green and Stokey (1983), Nalebuff and Stiglitz (1983a, 1983b), và Holmstrom (1982). Các tác giả này nghiên cứu các hệ thống dựa trên khuyến khích trong đó các phần thưởng phụ thuộc vào thành tích tương đối. Trong một số trường hợp các phần thưởng dựa trên xếp hạng; tức là, người tạo ra nhiều nhất nhận một phần thưởng tài chính lớn hơn người tạo ra nhiều thứ hai. Nalebuff and Stiglitz (1983a) chỉ ra rằng dưới các điều kiện nhất định cơ cấu khuyến khích tối ưu bắt có một khoản phạt đối với người tạo ra đầu ra ít nhất, thay cho một phần thưởng cho người có đầu ra cao nhất. [6]Lợi tức biên trên nỗ lực trong một cuộc thi là xác suất được tăng lên về thắng giải nhân với độ lớn của giải. Độ lớn của rủi ro gắn với độ lớn của giải. Trong các cuộc thi, bằng cách điều chỉnh độ lớn của giải một cách thích hợp có thể tăng khuyến khích đến mức chúng có thể là khuyến khích "hoàn hảo", tức là, nếu nhân viên nhận được toàn bộ lợi tức biên từ nỗ lực của mình. Giải cần thiết sẽ kéo theo việc nhân viên gánh chịu một mức rủi ro thấp hơn so với nếu lương của nhân phụ thuộc vào đầu ra riêng của mình và tất cả lợi tức biên nhận được là từ nỗ lực của nhân viên. [7]Tính chất này được Nalebuff and Stiglitz (1983a) nhắc tới như tính uyển chuyển của khuyến khích. [8]Xem Salop and Scheffman (1983). [9]Các giả thiết chấp nhận giá đảm bảo tính hiệu quả trao đổi (hàng hoá được tiêu thụ bởi người đánh giá chúng cao nhất, theo cách sao cho tất cả các tỉ suất thay thế biên của các cá nhân giữa các mặt hàng là hệt như nhau), tính hiệu quả sản xuất (hàng hoá được sản xuất bởi những người có thể sản xuất chúng rẻ nhất, sao cho nền kinh tế hoạt động dọc theo đường khả năng sản xuất của nó), và tính hiệu quả hỗn hợp sản phẩm (tỉ suất biên chuyển đổi - một mặt hàng phải giảm bao nhiêu để sản xuất thêm một đơn vị của mặt hàng khác - bằng với tỉ suất thay thế biên- các cá nhân sẵn sàng bỏ bao nhiêu từ một mặt hàng để nhận được thêm một đơn vị của mặt hàng khác). [10]Các khách hàng mất nhiều hơn khoản nhà sản xuất được, song hiệu số là nhỏ. [11]Xem Baumol (1982) và Baumol, Panzar, and Willig (1982). Xem cả Grossman (1981b). [12]Lí lẽ của họ vượt quá điều này sang cho trường hợp hãng có nhiều sản phẩm, khi họ lập luận rằng cơ cấu giá cả sẽ trùng với cơ cấu của chính phủ cố tăng tiền để trả chi phí chung bằng đánh thuế hữu hiệu, tức là, theo cách sao cho để tối thiểu hoá khoản mất trắng. Họ lập luận rằng các hãng sẽ định giá vượt chi phí biên, phù hợp với đúng công thức mà Ramsey (1972) đã gợi ý các khoản thuế tối ưu phải có giá vượt chi phí biên. Tuy có sự tương tự bề ngoài giữa vấn đề Ramsey và vấn đề định giá tối ưu của các nhà độc quyền, có một số khác biệt quan trọng, thí dụ, nảy sinh từ bất lực của các nhà độc quyền để chặn trước sự gia nhập của các đối thủ cạnh tranh và sự cần thiết của định giá để tính đến điều đó. Xem Sappington and Stiglitz (1987a). [13]Có một chút không nhất quán ở đây: Tại biên, trong các thị trường cạnh tranh, giá bằng chi phí biên, như vậy tại biên nhà sản xuất và nhà phân phối không chịu tổn thất do mất doanh thu. Tất nhiên thực tế hơn là giá vượt chi phí biên, và cả hai thực có chịu tổn thất. [14]Blind tasting: người nếm không được biết trước mình nếm bia cũa hay bia tươi, kết luận chỉ được đưa ra sau khi đã nếm. [15]Chúng ta sẽ thảo luận những hạn chế về chính sách cạnh tranh chi tiết hơn ở sau. [16]Những tư tưởng mà tôi nhắc tới như "quan điểm mới" đôi khi được thảo luận dưới mục các quan điểm hậu-Chicago. [17]Wealth of Nations, bk. 1, ch. 10, pt. II [18]Tôi phân biệt giữa cạnh tranh độc quyền và độc quyền nhóm: Trong trường hợp trước có đủ đông các hãng mà mỗi hãng không tính đến bất kể tương tác chiến lược nào với hãng khác. Chamberlain cung cấp phân tích ban đầu về cạnh tranh độc quyền. Như chúng tôi đã lưu ý ở trên, lí thuyết được Spence (1976) và Dixit and Stiglitz (1977) xem xét lại. [19]Xem Salop and Stiglitz (1977, 1982), Stiglitz (1979, 1987c) để biết thêm tài liệu tham khảo. Về một tổng quan, xem Stiglitz (1989b). [20]Salop and Stiglitz (1982) đã chứng tỏ rằng, dưới các điều kiện mà Diamond áp dụng, nếu các hãng có thể dùng giá phi tuyến (thí dụ, đòi một phí cố định cộng với "giá" bằng chi phí biên) thì sẽ bõ công làm vậy. Nếu họ làm thế, và có chi phí cố định để tham gia kinh doanh, thì sẽ không tồn tại cân bằng nào. Trong nỗ lực thu hút hết thặng dư tiêu dùng từ các khách hàng, các cửa hiệu tham lam thực tế huỷ hoại thị trường. Cái ngăn điều này khỏi xảy ra là "nhiễu" trên thị trường- sự tồn tại của đa dạng sản phẩm và độ phân tán giá. Xem dưới đây và Stiglitz (1989b). [21]Các thí dụ ban đầu của cách tiếp cận này bao gồm Dixit (1980), Spence (1979), Salop (1979a) và Stiglitz (1981a). [22]Stiglitz (1987g) và Dasgupta and Stiglitz (1988a). [23]ex post: sau khi sự việc đã xảy ra; ex ante trước khi sự việc xảy ra [24]Xem Salop (1979), Dasgupta and Stiglitz (1980a), và Gilbert and Newbery (1982) giữa những công trình khác. [25]Trong một số trường hợp mối đe doạ của cạnh tranh tiềm năng- với phản ứng của hãng hiện hành nhằm ngăn cản gia nhập do nó gây ra - có thể làm giảm phúc lợi. Hãng hiện tồn có thể, thí dụ, tạo năng lực mới đủ sớm để cản trở những kẻ tham gia mới khỏi tham gia. Trong trường hợp thái quá, lợi nhuận có thể bị đẩy xuống bằng không, nhưng đây không phải là dấu hiệu của hiệu quả kinh tế: Các khoản đặc lợi đơn giản bị tiêu tán bởi năng lực dư thừa. Xem Stiglitz (1981a, 1987g). [26]Dasgupta and Stiglitz (1988a) và Stiglitz (1987g). Chính sách cạnh tranh Suốt thế kỉ qua đã có những thay đổi rõ rệt cả trong các chính sách mà chính phủ dùng để điều tiết và thúc đẩy cạnh tranh và trong các lí lẽ dùng để biện hộ cho các chính sách ấy. Những năm gần đây các nhà kinh tế học đã có ảnh hưởng to lớn đến tiến hoá của các chính sách đó. Có thể chúng ta không có vua-triết học Plato, nhưng chúng ta có luật sư-kinh tế gia: Ít nhất, ở Mĩ, các cá nhân như Thẩm phán (Giáo sư) Posner đã có ảnh hưởng to lớn đến diễn tiến của chính sách cạnh tranh hiện thời. Trong khi với tư cách các học giả chúng ta có thể khó tìm ra lỗi lầm trong cố gắng đưa tính hợp lí vào bất kể lĩnh vực đàm luận công nào, các vấn đề nảy sinh từ bản chất chưa ổn của lí thuyết kinh tế. Quá thường xuyên là sự chậm trễ trong phổ biến các ý tưởng đến mức chúng được áp dụng đúng khi chúng bị mất uy tín, hoặc ít nhất đang có sự nghi ngờ về tính hiệu lực chung của chúng. Điều này đúng với chính sách cạnh tranh: Nhiều nguyên lí làm cơ sở cho những thay đổi hay kiến nghị thay đổi gần đây về chính sách cạnh tranh dựa vào những giả thiết kinh tế hoặc các mô hình đáng nghi ngờ về tính thoả đáng cho các thị trường được đề cập. Các học thuyết có thể tranh đua/cạnh tranh tiềm tàng được củng cố trong các phiên toà, hệt như chúng mất lòng tin trên vũ đài học thuật. Mục tiêu của phần này của chương là tóm tắt (ở mức lí thuyết) một số vấn đề chính của cuộc tranh luận hiện thời về chính sách cạnh tranh ở Hoa Kì. Tôi hi vọng, và tin, rằng những viễn cảnh này sẽ có sự xác đáng với các nước khác những nước đang trong quá trình đánh giá lại chính sách cạnh tranh của mình. Tôi thấy hữu ích định khung khổ cho thảo luận về mặt lịch sử. Không chỉ là các cuộc tranh luận hiện thời phản ánh diễn tiến lịch sử của chính sách cạnh tranh, mà việc xem xét lại như vậy cũng để nêu bật một số viễn cảnh trái ngược về chính sách cạnh tranh. Những nguồn gốc dân tuý Chính hình ảnh của các vua tư bản kẻ cướp- các Rokefeller và Morgan - đã làm nảy sinh các chính sách chống trust ở Hoa Kì vào cuối thế kỉ thứ mười chín. Các độc quyền được hình thành trong những ngành quan trọng, như dầu và thép. Vài người đã trở nên cực kì giàu có. Nhưng mối lo ngại đã không chỉ là bất bình đẳng về của cải: Đã có sự lo ngại về các hậu quả của sự tích tụ quyền lực kinh tế. Không nghi ngờ gì mối lo ngại cũng nhiều về các hệ luỵ chính trị - và những hệ luỵ rộng hơn đối với bản chất xã hội - hơn là những lo ngại hẹp về kinh tế. Chắc hẳn, đã có sự nghi ngờ lan rộng rằng những người lập ra các độc quyền này có nhiều ý trong đầu hơn chỉ đơn thuần là "hợp lí hoá" ngành: Không chắc rằng quyền lực kinh tế, một khi đã hình thành, lại không được hành sự. Giá sẽ tăng. Điều đó xảy ra đã hơn ba phần tư thế kỉ trước khi Arnold Harberger tiến hành công trình tiên phong lượng hoá tổn thất phúc lợi của việc tăng giá như vậy. Giả như phân tích của ông, gợi ý rằng các tổn thất phúc lợi của độc quyền là hạn chế, bằng cách nào đó đã được những người tranh luận về Luật chống Trust của Sherman, luật gốc tạo nên chính sách cạnh tranh ở Hoa Kì, biết đến, thì liệu tình hình có thay đổi? Tôi nghĩ là không. Điểm mấu chốt lúc đó nhiều hơn sự tính toán tổn thất hiệu quả: Đó là một tầm nhìn về nền kinh tế hoạt động ra sao, về ý niệm nào đó (dùng từ hiện đại) về một sân chơi bình đẳng và một trò chơi công bằng. Những người chơi nhỏ đơn giản đã ở thế chơi bất lợi đối lại các đại gia hay ức hiếp. [1] Tranh luận kinh tế Các nhà kinh tế tham gia muộn hơn, nhưng với ảnh hưởng đáng kể. Chúng ta đã thấy trong các đoạn trước sự dao động trong tư duy của các nhà kinh tế -từ quan niệm khuyết tật thị trường ban đầu, nhấn mạnh sự cần thiết của cạnh tranh hoàn hảo nếu các nền kinh tế muốn có hiệu quả, nhưng chỉ chú ý đến các độc quyền tự nhiên; đến quan niệm rằng các tổn thất thậm chí từ độc quyền là hạn chế, và rằng cái cần không phải là cạnh tranh thực mà là cạnh tranh tiềm năng; đến quan niệm mới, chứng tỏ rằng những hạn chế về cạnh tranh chắc là phổ biến tràn lan hơn lí thuyết ban đầu về khuyết tật thị trường đã gợi ý. Tối thiểu quan niệm mới cho một phê phán mạnh đối với thuyết có thể tranh đua, với quan niệm ẩn rằng chính sách cạnh tranh là không cần thiết. Quan niệm mới chứng tỏ rằng các thị trường có thể không hiệu quả và lợi nhuận có thể không bằng không. Có cơ hội tiềm năng cho chính sách cạnh tranh cả để hạn chế lợi nhuận lẫn tăng hiệu quả. Quan niệm mới nhấn mạnh tầm quan trọng của cạnh tranh không hoàn hảo, đối lập với độc quyền, mối lo chính của cách tiếp cận trong lí thuyết khuyết tật thị trường cũ. Nó lập luận không chỉ rằng trong hầu hết thị trường ở các nước công nghiệp hiện đại, cạnh tranh là hạn chế mà rằng tổn thất phúc lợi từ cạnh tranh hạn chế có thể lớn hơn nhiều so với hình dung trước kia - và có thể khác đáng kể với tổn thất gắn với độc quyền. Những tổn thất phúc lợi từ cạnh tranh hạn chế Quan niệm mới chứng tỏ rằng tổn thất phúc lợi kinh tế gắn với bất hoàn hảo của cạnh tranh có thể lớn hơn nhiều so với tam giác Harberger gợi ý. Không chỉ là giá tăng tương đối với chi phí biên của sản xuất. Bản thân chi phí sản xuất có thể bị tác động xấu, khi các hãng tiến hành các hoạt động làm tăng chi phí của đối thủ hoặc để ngăn cản tham gia. [2] Thực vậy trong một số trường hợp tác động chính có thể lên chi phí sản xuất chứ không phải lên lợi nhuận. [3] Chúng ta có thể phân biệt hai loại ảnh hưởng, những cái ảnh hưởng trực tiếp đến ứng xử của các hãng và những cái ảnh hưởng đến ứng xử của các nhà quản lí (và như thế gián tiếp đến ứng xử của hãng). Trong các mô hình truyền thống, các hãng tăng lợi nhuận bằng cách tạo ra các sản phẩm mới được người tiêu dùng thích và sản xuất các mặt hàng đã có với chi phí thấp hơn. Họ duy trì lợi nhuận của mình bằng cách trội hơn các đối thủ cạnh tranh, liên tục đưa ra các sản phẩm tốt hơn và giảm chi phí sản xuất. Trong các lí thuyết về cạnh tranh không hoàn hảo, các hãng có thể tăng và duy trì lợi nhuận theo bốn cách nữa: kiếm đặc lợi, cản trở tham gia, làm giảm mức cạnh tranh, và làm tăng chi phí của các đối thủ. Tìm kiếm đặc lợi Khi có lợi nhuận hay đặc lợi, có thể có cạnh tranh để kiếm lợi nhuận hay đặc lợi đó. Các hãng có thể chi một khoản bằng lợi nhuận để kiếm chúng. Tổn thất phúc lợi từ đó (lãng phí nguồn lực) sẽ điển hình lớn hơn nhiều tổn thất phúc lợi gắn với tăng giá (mà phần lớn ảnh hưởng là sự chuyển giao nguồn lực, từ người tiêu dùng sang nhà sản xuất). Khái niệm kiếm đặc lợi đầu tiên được phát triển trong bối cảnh các mô hình kinh tế chính trị, nơi lợi nhuận (hay đặc lợi) nảy sinh từ các rào cản tham gia do chính phủ đặt ra. Như thế các hãng có thể dùng nguồn lực đáng kể để xui chính phủ tăng thuế quan hay áp hạn ngạch. Nguyên lí của kiếm đặc lợi, tuy vậy, cũng áp dụng tốt khi có các nguồn khác của hạn chế cạnh tranh. Như thế nghiên cứu nhằm giải quyết một patent hiện hành có thể coi như tìm kiếm đặc lợi. Cản trở tham gia Trước đây trong chương, tôi đã mô tả các rào cản tham gia chiến lược: Các hãng có thể tiến hành các tập quán cản trở các hãng khác tham gia vào thị trường, cho phép hãng hiện hành duy trì lợi nhuận. Nhiều tập quán này gây lãng phí. Hãng có thể, thí dụ, tạo năng lực thừa, chứng tỏ sự sẵn sàng và năng lực để phản ứng lại gia nhập bằng cách giảm giá và tăng sản xuất. (Trong trường hợp năng lực dư không có ảnh hưởng lên chi phí sản xuất biên, giá đòi người tiêu dùng không bị ảnh hưởng bởi năng lực dư; các chi phí cản trở là tiêu tán hoàn toàn). Hoạt động nghiên cứu có thể nhằm kiếm patent được thiết kế để ngăn phát triển sản phẩm đối địch. Các hoạt động nhằm thay đổi mức cạnh tranh Có sự khác biệt căn bản gữa các thị trường trong đó có một hãng (tức là, không có cạnh tranh) hoặc có cạnh tranh hoàn hảo, và các thị trường cạnh tranh không hoàn hảo. Trong các trường hợp trước, mức độ cạnh tranh, theo định nghĩa, là cố định, còn dưới cạnh tranh không hoàn hảo hành động của hãng có thể ảnh hưởng đến mức độ hay phạm vi cạnh tranh. Tập quán về địa hạt độc quyền cho một thí dụ về hành động kiềm chế có thể ảnh hưởng đến mức độ cạnh tranh. Giả sử rằng có hai hãng trong ngành. Có thể chứng tỏ rằng khi các nhà sản xuất kí các hợp đồng độc quyền địa hạt như vậy với các nhà phân phối, độ co dãn của đường cầu đối mặt mỗi hãng cho các sản phẩm của nó sẽ thấp hơn. Do đó, với mỗi giá do đối thủ của hãng đặt ra, tối ưu đối với hãng là đặt một giá cao hơn. Tác động thuần là hiển nhiên: Giá cân bằng sẽ cao hơn. Thật vậy giá cân bằng có thể cao hơn nhiều đến nỗi lợi nhuận của các nhà sản xuất là cao, dù là họ có khả năng thâu ít, nếu có, lợi nhuận của các nhà phân phối. (Trong cạnh tranh hoàn hảo giữa các nhà phân phối lợi nhuận của họ bằng không). Đây là thí dụ của một tập quán hạn chế cạnh tranh nhằm tăng giá. Trong môi trường cạnh tranh không hoàn hảo các hãng luôn đối mặt với mâu thuẫn liệu cạnh tranh hay câu kết. Chúng có thể tăng lợi nhuận bằng cách thử bán rẻ hơn đối thủ và hút khách hàng của họ, hoặc bằng cách thuyết phục các đối thủ cạnh tranh cấu kết với chúng để nâng giá. Ở Hoa Kì định giá câu kết tường minh là bất hợp pháp. Nhưng có thể có các tập quán tạo thuận lợi cho câu kết ngầm, hoặc có các tác động giống câu kết. Các tập quán khét tiếng như vậy và có lẽ nổi bất nhất, là chính sách "đáp ứng cạnh tranh". Một hãng công bố rằng nó sẽ "không bị bán rẻ". Nó sẽ đáp ứng mọi khoản cắt giảm giá của đối phương. Nghe có giống một hệ thuyết về ứng xử cạnh tranh? Sai: Nó thực tế là một tập quán gây tăng giá tiêu dùng. Mọi đối thủ đều biết rằng không bõ hạ giá. Cạnh tranh giá đơn giản không thể được dùng để kiếm khách hàng. Chính sách này cho phép một cân bằng trong đó giá cartel (độc quyền) có thể được duy trì. Làm tăng chi phí của đối thủ Trong môi trường cạnh tranh không hoàn hảo, lợi nhuận của một hãng phụ thuộc vào chi phí của nó so với của các hãng khác. Thí dụ, với cạnh tranh Bertrand lợi nhuận trên đơn vị của một hãng đơn giản bằng hiệu số giữa chi phí biên của nó và của đối thủ. Một hãng có thể tăng lợi nhuận như thế hoặc bằng cách giảm chi phí của mình, hoặc làm tăng chi phí của đối thủ. Rõ ràng là có cạnh tranh huỷ diệt -khi mỗi hãng cố làm tăng chi phí của các đối thủ của mình- cũng như có cạnh tranh xây dựng. [4] Chểnh mảng về quản lí Lí thuyết chuẩn cho rằng các hãng, bất luận trong các thị trường cạnh tranh hoặc độc quyền, sản xuất bất kể sản phẩm nào ở mức giá khả dĩ thấp nhất. Chúng có đầy đủ khuyến khích để giảm chi phí, cân đối chi tiêu ngày nay về giảm chi phí với lợi ích nhận được. (Thực ra, nếu đầu ra là thấp hơn dưới độc quyền, sẽ có ít khuyến khích để giảm chi phí, vì tổng tiết kiệm từ giảm chi phí trên đơn vị sản xuất sẽ nhỏ hơn). Thế mà có nhận thức rộng rãi rằng các hãng được giải phóng khỏi kỉ luật của thương trường thường là không hiệu quả. Trong văn khoa cũ hơn (Leibenstein 1966) điều này được nhắc đến như phi hiệu quả-χ. Lí thuyết gần đây đã đóng góp vào sự hiểu biết hiện tượng này của chúng ta theo hai cách. Thứ nhất, bởi vì thông tin không hoàn hảo thường khó cho các cổ đông để nói rằng hãng có hiệu quả, trừ bằng cách so sánh. Trong đoạn đầu của chương này, chúng ta đã chứng tỏ thông tin do thành tích tương đối cung cấp như thế là quan trọng sống còn ra sao, trong phán xét ban quản lí hãng làm việc tốt đến đâu; thông tin như vậy có thể và có đóng một vai trò xây dựng quan trọng trong thiết kế hệ thống khuyến khích cũng như trong lựa chọn các nhà quản lí để cất nhắc và trong phân bổ nguồn lực giữa các đơn vị tranh đua. Dưới độc quyền, với một nhà sản xuất duy nhất, thông tin này thiếu, với các hệ quả có thể tiên đoán được. Trong khi kinh tế học thông tin như thế đã giải thích tầm quan trọng của cạnh tranh để cung cấp cơ sở cho thiết kế cơ cấu khuyến khích và, rộng hơn, cho đánh giá thành tích quản lí, nó cũng cung cấp một giải """